source
stringlengths 3
14.5k
| summary keyword
stringlengths 3
90
| summary
stringlengths 265
1.86k
|
---|---|---|
Báo TG&VN trân trọng giới thiệu đến bạn đọc Thông điệp chúc mừng của Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Teodoro Locsin nhân kỷ niệm 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines (12/7/1976-12/7/2021). Hôm nay chúng ta vui mừng kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa nước Cộng hoà Philippines và nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Được hình thành từ sau cuộc xung đột nhiều tàn tích và kéo dài hàng thập kỷ, quan hệ song phương giữa hai nước chúng ta đã không ngừng phát triển trong vòng 45 năm qua. Tuy nhiên, mối quan hệ gần gũi này đã bắt nguồn từ hàng thế kỷ trước, trước khi có sự xuất hiện của thực dân phương Tây. Tương tác giữa hai bên chủ yếu là thông qua giao thương trên biển, do Việt Nam là nước láng giềng gần nhất của chúng tôi về phía Tây và nằm ở bờ bên kia của Biển Đông rộng lớn. Trước khi người châu Âu đặt chân đến khu vực của chúng ta, các tàu thuyền từ Luzon thường xuyên neo đậu ở Vịnh Bắc Bộ. Từ đó cho tới nay, sự gắn bó trên tiếp tục là điểm nhấn xuyên suốt trong quan hệ giữa hai nước. Trên tinh thần hữu nghị và thân thiện, hai nước đã giúp đỡ rất nhiều ngư dân Philippines và Việt Nam bị mắc cạn trong vùng biển của nhau. Sự phát triển nhanh chóng và năng động trong hợp tác kinh tế giữa hai bên trong nửa đầu thập kỷ đã góp phần đưa quan hệ giữa Philippines và Việt Nam thành mối quan hệ hữu nghị nhiều mặt đáng để chúng ta tôn vinh. Từ khi quan hệ song phương được nâng cấp thành Đối tác chiến lược năm 2015, hai nước đang phối hợp chặt chẽ trong những lĩnh vực mang lại lợi ích cho cả hai bên như quốc phòng, thương mại và đầu tư, an ninh biển, nông nghiệp, giáo dục, du lịch, môi trường, công nghệ thông tin và truyền thông, văn hoá và ngoại giao nhân dân. Sự tin cậy lẫn nhau mà chúng ta xây dựng trong những năm qua cũng tạo điều kiện giúp chúng ta cùng hợp tác và theo đuổi những lợi ích chung về hoà bình và an ninh cả trong khuôn khổ Liên hợp quốc và ASEAN. Tình bạn thực sự sẽ được kiểm chứng trong những thời khắc khó khăn. Năm ngoái, khi chúng ta phải đối mặt với giai đoạn đầy thách thức của đại dịch Covid-19, Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ Philippines thông qua việc tặng Chính phủ Philippines những bộ kit xét nghiệm Covid-19 và khẩu trang, dù những mặt hàng này đang khan hiếm trên thế giới. Ngoài ra, chúng ta cũng nhận được sự hỗ trợ hào phóng từ khu vực tư nhân của Việt Nam. Nhân dịp này, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất. Nhân dịp kỷ niệm dấu mốc quan trọng này - một minh chứng cho tình hữu nghị thực sự giữa hai nước chúng ta, tôi xin một lần nữa nhấn mạnh cam kết của Philippines tiếp tục vun đắp mối quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam trong thời gian tới. Chúc tình hữu nghị giữa hai nước chúng ta ngày càng được củng cố, trên nền tảng vững chắc của sự tin cậy lẫn nhau và hợp tác, không thể bị lay chuyển bởi những làn sóng mạnh mẽ của các vấn đề khu vực, cũng như sẽ trụ vững trước những thăng trầm của thời gian.
|
Quan hệ Philippines – Việt Nam
|
Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Philippines, được thiết lập vào ngày 12 tháng 7 năm 1976. Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, cùng với việc mở rộng chính sách đối ngoại của Việt Nam, quan hệ giữa hai nước đã ấm lên và phát triển không ngừng trên nhiều lĩnh vực. Trước thềm hội nghị APEC 2015 ở Manila, chính phủ hai nước đã ký kết thoả thuận nâng cấp mối quan hệ lên tầm đối tác chiến lược. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Philippines đã bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Có bằng chứng cho thấy trước khi người châu Âu đến xâm lược Đông Nam Á, cư dân của hai bên đã có nhiều hoạt động trao đổi buôn bán hàng hoá với nhau. Tàu buôn từ đảo Luzon đã nhiều lần cập cảng Vân Đồn tại Vịnh Bắc Bộ để giao thương. Mối quan hệ buôn bán này chỉ bị gián đoạn khi người Tây Ban Nha đến xâm lấn Philippines và người Pháp tiến hành cai trị Việt Nam từ các thế kỷ 16 và 19.
|
Sản xuất phản ứng nhanh (QRM) là một chiến lược để giảm thời gian thực hiện trên tất cả các chức năng của một tổ chức. Kết quả là những cải tiến về tốc độ và khả năng đáp ứng làm tăng sự nhanh nhẹn và phản ứng của tổ chức, dẫn đến lợi thế cạnh tranh. Nhiều công cụ Sản xuất tinh gọn nổi tiếng đã được phát triển cho môi trường sản xuất hàng loạt / khối lượng lớn / ít hoặc “sản xuất hàng loạt”. Hãy nghĩ đến các kỹ thuật như Hệ thống kéo, Kanban, Cân bằng dây chuyền và Heijunka, thường được áp dụng cho các dây chuyền sản xuất di chuyển nhanh. Tuy nhiên, các công cụ này thường không chuyển dịch tốt sang các môi trường có khối lượng thấp / nhiều, đòi hỏi chạy hàng loạt ngắn, mức độ tùy chỉnh cao hơn và phản ứng nhanh với những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng. Đối với các doanh nghiệp đang đối mặt với thách thức về việc đáp ứng tùy chỉnh và tốc độ gia tăng, QRM là một chiến lược không ngừng tập trung vào việc giảm thời gian thực hiện cả trên sàn cửa hàng và trong các hoạt động văn phòng. Nhiều chi phí tiềm ẩn trong một doanh nghiệp được thúc đẩy bởi thời gian dẫn đầu dài. Các triệu chứng điển hình bao gồm hàng tồn kho dư thừa, khó khăn trong việc lập kế hoạch, chi phí đẩy nhanh, làm thêm giờ, vấn đề chất lượng, v.v. Kết quả là khách hàng thường không hài lòng và lực lượng lao động căng thẳng. Bằng cách hình dung thời gian dẫn đầu một cách rõ ràng và sử dụng một biện pháp quan trọng để giảm nó xuống, tổ chức sẽ có sự rõ ràng về mục tiêu chiến lược của mình và tránh nhầm lẫn về các mục tiêu xung đột. Các biện pháp quan trọng là MCT – Sản xuất Đường dẫn quan trọng Thời gian; “Khoảng thời gian điển hình trên lịch từ khi khách hàng tạo đơn đặt hàng, thông qua đường dẫn quan trọng, cho đến khi các phần đầu tiên của đơn đặt hàng đó được giao cho khách hàng.”. Sự tập trung truyền thống vào Hiệu quả nguồn lực đã thúc đẩy mức độ chuyên môn hóa cao trong nhiều tổ chức. Do đó, thời gian dẫn đầu có thể bị kéo dài do tính không linh hoạt (ví dụ: thiết bị chuyên dụng có thời gian thay đổi lâu hoặc nhân viên chuyên môn chỉ có thể thực hiện một loạt nhiệm vụ – và thường phải xếp hàng dài trước mặt). Trong môi trường sản xuất chuyển động nhanh, quá trình ‘thắt cổ chai’ thường di chuyển, vì vậy các hệ thống sản xuất hàng loạt không linh hoạt không phải là câu trả lời ở đây. QRM Cell khắc phục điều này thông qua đào tạo chéo và tự chủ ở mức độ cao, thúc đẩy sự linh hoạt cho các nguồn lực để di chuyển đến nơi có khối lượng công việc hiện tại. QRM thúc đẩy hiệu quả Luồng được củng cố bởi năng lực bổ sung để duy trì công việc, thay vì giữ thêm hàng tồn kho và áp dụng hệ thống Kéo. Thời gian thực hiện liên quan đến việc sử dụng công suất, sự thay đổi nhu cầu và định cỡ lô hàng. Hiệu quả sử dụng cao là rất tốt cho Hiệu quả sử dụng tài nguyên, nhưng lại làm tổn hại đến Dòng chảy – hãy nghĩ về điều này bằng cách so sánh việc lái xe dọc theo đường cao tốc vào giờ cao điểm (mức độ sử dụng cao) với việc lái xe dọc theo con đường đó vào lúc nửa đêm! Đường cong Kingsman là một mô hình nổi tiếng minh họa hiện tượng này. QRM không chỉ là một cách tiếp cận tập trung vào tầng cửa hàng. Các chức năng như xử lý đơn hàng, giới thiệu sản phẩm mới, mua hàng và quản lý chuỗi cung ứng đều có thể có tác động đáng kể đến thời gian thực hiện tổng thể của khách hàng. Các tế bào QRM dựa trên văn phòng có thể áp dụng cùng một triết lý giảm thời gian thực hiện cho các quy trình của họ để góp phần giảm thời gian thực hiện tổng thể. Như với bất kỳ quy trình quản lý thay đổi nào, sự rõ ràng của mục tiêu và lợi ích của nó là điều cần thiết để giao tiếp. Hãy nhớ rằng QRM được thúc đẩy bởi mục tiêu giảm thời gian thực hiện mà tất cả các khía cạnh của doanh nghiệp đều có thể đóng góp.Sản xuất phản ứng nhanh áp dụng cho mọi khía cạnh của tổ chức, là trọng tâm của nó và đơn giản để hiểu – tạo ra lợi thế cạnh tranh thông qua việc giảm thời gian không ngừng.
|
Chiến lược thời gian thực
|
Chiến lược thời gian thực (tiếng Anh là Real-time strategy; gọi tắt là RTS) là một thể loại trò chơi điện tử chiến lược mà người chơi không phải đi theo lượt như các trò chơi chiến lược theo lượt . Brett Sperry được cho là người đã tạo ra thể loại này cho thị trường với Dune II . Trong một trò chơi RTS, như trong các trò chơi chiến tranh khác, các đơn vị và công trình sẽ tham gia vào một vị trí dưới sự kiểm soát của người chơi để bảo vệ các khu vực của bản đồ và/hoặc phá hủy tài sản của đối thủ. Trong một RTS điển hình, họ có thể tạo ra các đơn vị bổ sung và các công trình trong quá trình của trò chơi. Điều này thường được giới hạn bởi yêu cầu rộng nguồn lực tích lũy. Những tài nguyên này được giành bằng cách kiểm soát các điểm đặc biệt trên bản đồ và/hoặc sở hữu một số loại đơn vị và công trình dành cho mục đích này. Cụ thể hơn, các trò chơi điển hình của thể loại RTS có tính năng thu thập tài nguyên, xây dựng căn cứ, phát triển công nghệ trong trò chơi và kiểm soát gián tiếp các đơn vị .
|
Đặc điểm của trọng tài thương mại2.1. Là một tổ chức phi chính phủ2.2. Là sự kết hợp giữa thỏa thuận và tài phán2.3. Phán quyết Trọng tài là chung thẩm2.4. Các trung tâm trọng tài có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ. Theo Khoản 1, Điều 3 của Luật Trọng tài Thương mại năm 2010, khái niệm trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do thỏa thuận giữa các bên. Việc tiến hành xử lý các tranh chấp cần phải tuân thủ theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại 2010. Những tranh chấp ở đây phát sinh từ các hoạt động thương mại. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó phải có ít nhất một bên có hoạt động thương mại. Hoặc tranh chấp khác giữa các bên được quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đơn giản và linh hoạt. Nó tuân theo thỏa thuận giữa các bên giúp cho quá trình giải quyết những tranh chấp nhanh chóng. Trọng tài thương mại ở đây đóng vai trò như một cơ quan giải quyết các tranh chấp. Với cơ cấu tổ chức bao gồm: ban điều hành, ban thư ký cùng các trọng tài viên của trung tâm. Bộ máy của trung tâm trọng tài hoạt động đơn giản và gọn nhẹ. Trọng tài thương mại có thể được dùng để thay thế cho phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án truyền thống. Người thực hiện giải quyết tranh chấp giữa các bên được gọi là trọng tài viên. Họ có thể được người tham gia tranh chấp lựa chọn hoặc do Tòa án chỉ định. Với các đặc điểm cơ bản như sau:. Trọng tài thường trực cũng chính là trung tâm trọng tài đóng vai trò là tổ chức phi chính phủ. Tổ chức này có tư cách pháp nhân, có trụ sở, tài khoản và con dấu riêng. Mặc dù là một tổ chức phi chính phủ nhưng những tổ chức này vẫn được sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Tuy nhiên, trung tâm trọng tài được thành lập từ một trọng tài viên chứ không phải do nhà nước thành lập. Đặc biệt, trung tâm trọng tài vẫn chịu sự quản lý từ nhà nước. Tổ chức này được nhà nước hỗ trợ ban hành các văn bản pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động của trung tâm trọng tài. Các trung tâm trọng tài hoạt động độc lập và có tư cách pháp nhân. Tương ứng với mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân. Nó tồn tại độc lập và bình đẳng với những trung tâm trọng tài khác. Trọng tài vụ việc được hình thành dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Với mục đích giải quyết sự việc. Sau khi xảy ra tranh chấp được xử lý sẽ tự chấm dứt hợp đồng và không còn tồn tại nữa. Hơn nữa, phán quyết của trọng tài khách quan và có độ tin cậy cao. Vì vậy, các bên được toàn quyền chọn lựa trọng tài viên. Điều này giúp các bạn lựa chọn được trọng tài viên có kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng để tham gia giải quyết tranh chấp. Tổ chức và quản lý của trung tâm trọng tài hết sức gọn lẹ và đơn giản. Với sự góp mặt của ban điều hành, ban thư ký cùng các trọng tài viên. Trung tâm trọng tài hoạt động dựa theo sự điều hành của chủ tịch, phó chủ tịch và tổng thư ký. Để hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại diễn ra suôn sẻ thì không thể nào thiếu sự góp mặt của các trọng tài viên. Họ sẽ được các bên chỉ động hoặc do trung tâm trọng tài lựa chọn. Hiện nay, trọng tài thương mại tồn tại dưới 2 hình thức cơ bản đó chính là trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc được thành lập để giải quyết tranh chấp của một vấn đề nhất định nào đó. Đồng thời trọng tài vụ việc sẽ tồn tại cho tới khi các tranh chấp được giải quyết một cách ổn thỏa. Đó cũng là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất tại Việt Nam và được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới. Và đương nhiên quy định về hình thức trọng tài về pháp luật ở các nước khác nhau sẽ có mức độ không giống nhau. Trọng tài vụ việc có hoặc không nằm trong danh sách của trung tâm trọng tài. Đáng chú ý hơn cả là trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực và cũng không có bộ máy điều hành. Trọng tài này không có quy tắc về tố tụng riêng cho mình và thường chọn một quy tắt bất kỳ nào đó từ các trung tâm trọng tài nổi tiếng. Các bên tham gia cũng có quyền lựa chọn những quy tắc về tố tụng bất kỳ. Hình thức trọng tài này được tổ chức khá chặt chẽ. Trọng tài thường trực có bộ máy và trụ sở làm việc thường xuyên. Theo điều lệ và quy tắc tố tụng riêng, trọng tài thường trực thường có danh sách các trọng tài viên. Hầu hết các tổ chức trọng tài lớn và có tên tuổi trên thế giới đều được thành lập dựa vào mô hình này. Với những tên gọi như là: trung tâm trọng tài, viện trọng tài, ủy ban trọng tài,… Tuy nhiên chủ yếu và phổ biến nhất hiện nay vẫn là hình thức tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài. Mỗi trung tâm trọng tài đều được quyết định về lĩnh vực hoạt động của mình. Đặc biệt, họ cũng được quyền tự tạo ra những quy tắc tố tụng riêng khác biệt so với các trung tâm trọng tài khác. Điều này tạo nên thương hiệu cho trung tâm trọng tài đó. Trung tâm trọng tài thường trực dựa vào trình độ chuyên môn của các trọng tài viên để xác định lĩnh vực hoạt động phù hợp với khả năng của họ. Lưu ý lĩnh vực hoạt động của trung tâm trọng tài cần phải được ghi rõ trong điều lệ của trung tâm trọng tài. Để có thể giải quyết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì các hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài phải được thực hiện bởi các trọng tài viên. Tương ứng với mỗi trung tâm trọng tài sẽ có một danh sách trọng tài viên để giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Việc lựa chọn họa chỉ định trọng tài viên để giải quyết những vấn đề tranh chấp thì nằm trong danh sách trọng tài viên của trọng tài. Tùy vào từng trường hợp, các bên có thể thỏa thuận trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra khi sử dụng phương thức trọng tài thương mại. Thỏa thuận của trọng tài được thể hiện dưới dạng một điều khoản của hợp đồng hay hình thức thỏa thuận riêng. Tuy nhiên bắt buộc thỏa thuận cần phải lập thành văn bản. Những hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:. Thỏa thuận được xác lập thông qua việc trao đổi giữa các bên bằng thư điện tử, telegram, fax, telex, hay những hình thức khác đúng theo quy định mà pháp luật đề ra. Thỏa thuận được công chứng viên, luật sư hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại thành văn bản đúng theo yêu cầu của các bên. Trong giao dịch giữa các bên có dẫn chiếu tới 1 văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như là: điều lệ công ty, hợp đồng, chứng chứ và các tài liệu tương tự khác. Thông qua việc trao đổi về đơn khởi kiện và biên bản tự bảo vệ. Trong đó thể hiện rõ ràng sự tồn tại của thỏa thuận một bên đưa ra mà bên còn lại không phủ nhận. Thỏa thuận của trọng tài được xác lập để xử lý tranh chấp không thuộc lĩnh vực được quy định ở Điều 2 Luật trọng tài Thương mại năm 2010. Theo quy định của Pháp luật, đối tượng xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền. Người xác lập không phải là người đại diện theo pháp luật. Hoặc họ không phải là người được được ủy quyền hợp pháp hoặc người được ủy quyền hợp pháp nhưng lại vượt qua phạm vi ủy quyền. Người xác lập thỏa thuận trọng tài hoàn toàn không có năng lực hành vi dân sự theo đúng quy định của pháp luật dân sự. Hình thức thỏa thuận trọng tài không phù hợp với các quy định nêu trên. Một trong các bên bị đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài đồng thời có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu hóa. Thủ tục đơn giản và linh hoạt theo thỏa thuận giữa các bên xảy ra tranh chấp. Điều này giúp việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng hơn. Các bên sẽ không mất quá nhiều thời gian và chờ đợi nhiều khâu để giải quyết một vấn đề.
|
Điều khoản trọng tài
|
Điều khoản trọng tài là một điều khoản thông thường hay được sử dụng trong các hợp đồng, trong đó yêu cầu các bên giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ thông qua thủ tục trọng tài. Mặc dù điều khoản như thế có thể có (hoặc có thể không) chỉ rõ việc phân xử trọng tài được diễn ra trong một tài phán cụ thể nào, nó luôn luôn ràng buộc các bên với kiểu giải quyết ngoài tòa án, và vì thế có thể được coi là một dạng của điều khoản lựa chọn tòa án. Tại Hoa Kỳ, chính quyền liên bang thể hiện chính sách ủng hộ điều khoản trọng tài, do nó giảm nhẹ gánh nặng cho các hệ thống tòa án trong việc giải quyết tranh chấp. Sự ủng hộ này được tìm thấy trong Luật Trọng tài Liên bang, trong đó cho phép các quyết định trọng tài trở thành bắt buộc và ràng buộc, và theo đó thì các bên từ bỏ quyền kháng cáo các quyết định trọng tài ra tòa án. Ngoài ra, điều khoản trọng tài thông thường hay kết hợp với các điều khoản lựa chọn tòa án theo địa lý và điều khoản lựa chọn luật, cả hai điều khoản này đều có thể thi hành một cách trọn vẹn.
|
Chand Baori nằm ở ngôi làng Abhaneri tại miền Đông bang Rajasthan (Ấn Độ), là một trong những công trình độc đáo và là một nét đặc trưng của đất nước Ấn Độ. Đó cũng là một trong những công trình giếng bậc thang cổ kính nhất ở Rajasthan, và nó được xem là giếng bậc thang lớn nhất trên thế giới. Thực tế công trình Chand Baori không giống một cái giếng, cấu trúc của nó có hình vuông và có đến 13 tầng ngầm, 3 mặt của giếng có các đường đi dạng bậc thang nằm song song trên mép tường. Tổng cộng có 35000 bậc thang hẹp được bố trí một cách hoàn hảo từ trên mạnh giếng xuống đáy giếng. Giếng có chiều sâu 20 mét, dưới đáy giếng âm u là một vũng nước có màu xanh lá cây hơi sánh. Giếng được xây dựng vào khoảng thế kỷ 8 đến thế kỷ thứ 9 bởi Vua Chanda của triều đại Nikumbha. Giếng là công trình cung cấp nước cho khu vực dân cư sống quanh đó suốt nhiều thế kỷ liền trước khi hệ thống cung cấp nước hiện đại được xây dựng. Hiện nay, do nguồn nước có màu xanh sánh và không đảm bảo vệ sinh nên giếng không còn được sử dụng. Tuy nhiên, giếng lại trở thành một công trình kiến trúc ấn tượng của Ấn Độ với niên đại hơn 1000 năm tuổi. Bên cạnh giếng còn có một miếu thờ cho du khách đến tham quan và bái lễ. Giếng bậc thang ở Ấn Độ còn được gọi là ‘Bawdi hoặc Baori’ và là công trình độc nhất vô nhị chỉ có ở Ấn Độ. Giếng có nhiều bậc thang được xây dựng xung quanh thành cho phép mọi người có thể đi lên hoặc xuống giếng lấy nước một cách dễ dàng. Giếng bậc thang Chand Baori lớn hơn rất nhiều so với những giếng thông thường và nó có ý nghĩa rất lớn về mặt kiến trúc. Kiến trúc đường lên xuống bằng bậc thang cho phép người dân Rajput có thể lấy nước bất cứ lúc nào, từ bất cứ phía nào cũng như bất cứ thời gian nào trong năm. Những mục đích khác về việc xây dựng giếng bậc thang hiện vẫn chưa được làm rõ. Một số người tin rằng ngoài lý do cung cấp nước thì chắc hẳn nó còn phục vụ mục đích khác, có thể là tâm linh. Rajasthan là một vùng đất khô hạn, vì lý do đó mỗi giọt nước đều rất đáng giá. Diện tích rộng của giếng còn đảm nhận chức năng như một chiếc bể khổng lồ để giữ nước mưa. Ngoài chức năng giữ nước, công trình Chand baori cũng đã trở thành nơi tụ tập của người dân địa phương Abhaneri vào những ngày hè nóng bức. Giếng còn được xem như là một chiếc quạt mát khổng lồ, nhiệt độ đo được ở đáy giếng thấp hơn trên mặt đất từ 5 – 6 độ C. Công trình Chand Baori đã từng xuất hiện trong bộ phim “The Fall” (Mùa Thu), ngoài ra còn xuất hiện trong bộ phim bom tấn “The Dark Knight Rises” (Kỵ sĩ bóng đêm).
|
Giếng bậc thang
|
Giếng bậc thang là giếng hoặc ao trong đó chứa nước theo cách giảm dần từng bậc so với mực nước. Chúng có thể có nhiều tầng với một con bò kéo quay guồng nước để lấy nước giếng lên tầng một hoặc hai. Giếng phổ biến nhất ở miền tây Ấn Độ và cũng xuất hiện ở các khu vực khác khô cằn hơn của tiểu lục địa Ấn Độ, kéo dài đến Pakistan. Xây dựng các giếng bậc thang chủ yếu mang tính thiết thực, mặc dù chúng có thể bao gồm các phần trang trí có ý nghĩa kiến trúc và là bể chứa trong đền thờ. Giếng bậc thang là ví dụ về nhiều loại kho dự trữ và bể tưới đã được phát triển ở Ấn Độ, chủ yếu để đối phó với sự biến động nguồn nước sẵn có theo mùa. Một điểm khác biệt cơ bản giữa giếng bậc thang với các loại bể chứa và giếng khác là nó bậc giúp mọi người dễ dàng tiếp cận nguồn nước ngầm để duy trì và quản lý giếng. Người xây dựng đã đào những rãnh sâu trong lòng đất để có nguồn nước ngầm quanh năm đáng tin dùng.
|
Bất kỳ doanh nghiệp nào cần phát triển đều phải bán ít nhất một mặt hàng nất định. Tuy nhiên, việc bán hàng có thể rất dễ dàng nhưng đôi khi lại rất khó tùy vào từng doanh nghiệp. Ngoài ra, việc xây dựng quy trình bán hàng phù hợp chiếm tới 70% tỷ lệ thành công của chiến dịch đó. Vậy quy trình bán hàng là gì? Các bước xây dựng quy trình bán hàng?. “Quy trình bán hàng” là các bước mà đội ngũ nhân viên bán hàng phải thực hiện đối với khách hàng tiềm năng để biến họ thành khách hàng thật. Một quy trình bán hàng tốt sẽ giúp bạn tối ưu các contact mình nhận được và tăng trưởng doanh thu ổn định. Việc xây dựng một quy trình bán hàng chuẩn chỉnh không phải đơn giản. Không có bất cứ một đường tắt, hay phương pháp hoặc chuyên gia nào dám khẳng định 100% quy trình này sẽ hiệu quả. Vậy bạn nên bắt đầu từ đâu?. Phát hiện khách hàng tiềm năng là quá trình bạn tìm kiếm những thông tin liên lạc từ khách hàng mới. Khách hàng tiềm năng có thể xuất hiện từ việc tìm kiếm online, hoặc từ những buổi hội thảo, sự kiện về ngành nghề của bạn. Hoặc bạn có thể phát hiện khách hàng tiềm năng qua các kênh khách hàng hiện tại, đồng nghiệp, hay các cá nhân có hứng thú tới sản phẩm và dịch vụ. Phát hiện khách hàng tiềm năng là bước cơ bản trong quá trình bán hàng, là công việc mà mọi nhân viên sale đều phải làm hàng ngày hàng giờ. Bước tiếp theo, bạn cần kết nối hoặc liên hệ để thu thập thông tin và đánh giá triển vọng của khách hàng này trước khi chuyển qua bước sau. Người bán hàng sẽ phải tìm ra các “điểm yếu” của khách hàng. Từ đó mô tả chân dung của khách hàng về công việc, trình độ học vấn càng chi tiết cụ thể càng tốt. Omni Channel – Bán hàng đa kênh, là phương cách hiệu quả để bạn tiếp cận đối tượng khách hàng đa nền tảng, sử dụng sự kết nối của các kênh truyền thông để tăng trải nghiệm sử dụng dịch vụ của khách hàng. Bước 3 là bạn cần đào sâu hơn về công việc nghiên cứu và đánh giá khách hàng của mình. Ngoài những thông tin cơ bản như tên, tuổi để sử dụng phong cách nói chuyện hợp lý, nếu bạn hiểu được sở thích cũng như phán đoán được tính cách của khách hàng. Cơ hội chốt được đơn của bạn là rất lớn. Ngoài ra, cũng phải xác định mức độ nhu cầu về sản phẩm của khách hàng tới đâu. Đang giai đoạn tìm hiểu, hay là đã cần rất gấp để bạn đưa ra chiến lược bán hàng hợp lý. Phần giới thiệu sản phẩm ngoài những đặc điểm nổi bật của chúng, bạn cần tìm ra những insight đặc biệt để khiến khách hàng không thể từ chối lời chào của bạn. Bước cuối cùng trong xây dựng quy trình bán hàng là chốt đơn. Bước này có được sau khi bạn đã làm tốt các bước trên rồi, vậy điểm quan trọng ở đây là các mức giá, và dịch vụ sau mua, bảo hành hợp lý để khách hàng cảm thấy thỏa mãn, và đạt được nhiều lợi ích hơn so với số tiền họ phải bỏ ra. Quy trình bán hàng và phương pháp bán hàng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. “Quy trình bán hàng ” liên quan đến các hành động cụ thể mà đội ngũ bán hàng phải bám theo để chốt được khách hàng mới. “Phương pháp bán hàng” liên quan tới các cách thực hiện khác nhau trong các bước của quy trình bán hàng. Phương pháp bán hàng này đã trở nên nổi tiếng từ cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80. Bán giải pháp tập trung vào những vấn đề của khách hàng thay vì nói quá nhiều về sản phẩm. Giờ đây, các sản phẩm được coi như giải pháp và cách chúng giải quyết những khó khăn của khách hàng ra sao mà thôi. Một sự cải tiến của phương pháp bán giải pháp, bán tư vấn cũng trở nên nổi tiếng vào cuối thập niên 80. Phương pháp này tập trung vào biến người bán hàng trở thành một tư vấn viên chuyên nghiệp đối với khách hàng, đạt được sự tín nhiệm của khách hàng. Phương pháp bán hàng inbound là cách thu hút khách hàng bằng những bài viết, hình ảnh, video, nội dung chất lượng. Nó sẽ thay thế phương pháp cổ hủ, đưa những thông điệp không liên quan hoặc quảng cáo vô tôi vạ với hy vọng họ sẽ mua sản phẩm của mình. Với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, khách hàng ngày càng có nhiều sự lựa chọn hơn, do đó đội ngũ bán hàng cần phải đặt nhu cầu khách hàng lên ưu tiên số 1.
|
Xây dựng quá trình bán hàng
|
Xây dựng quá trình bán hàng là hoạt động xây dựng và thiết kế quá trình bán hàng sao cho tốt hơn. Mục đích của công việc này là tạo ra những cách tốt hơn để bán hàng, giúp cho những nỗ lực của nhân viên bán hàng trở nên hiệu quả hơn. Hoạt động này được mô tả là "việc ứng dụng một cách có hệ thống các nguyên tắc khoa học và toán học để đạt được mục tiêu thực tế của một quá trình bán hàng cụ thể". Selden, người thực hiện nghiên cứu, đã chỉ ra rằng theo định này, doanh số bán hàng chính là đầu ra của một quá trình liên quan đến nhiều bộ phận khác nhau trong một tổ chức chứ không phải chỉ công việc thuộc về "bộ phận bán hàng". Các lĩnh vực chính để mở rộng việc ứng dụng xây dựng quá trình bán hàng bao gồm bán hàng, tiếp thị và dịch vụ khách hàng. Hoạt động này còn được gọi là "kỹ thuật tạo phễu bán hàng". Ngay từ những năm 1900-1915, những người ủng hộ quản lý khoa học, như Frederick Winslow Taylor và Harlow Stafford Person, đã nhận ra rằng ý tưởng của họ có thể được áp dụng không chỉ với lao động thủ công hoặc những người làm công việc chuyên môn hóa, mà nó còn áp dụng được cả với người quản lý, chuyên gia và người bán hàng.
|
Văn xuôi là một hình thức hoặc kỹ thuật của ngôn ngữ thể hiện một dòng chảy tự nhiên của lời nói và cấu trúc ngữ pháp. Tiểu thuyết, sách giáo khoa và bài báo là tất cả các ví dụ về văn xuôi. Từ văn xuôi thường được sử dụng để đối lập với thơ truyền thống, đó là ngôn ngữ có cấu trúc thông thường và một đơn vị phổ biến của câu thơ dựa trên mét hoặc vần điệu. Tuy nhiên, như TS Eliot đã lưu ý, trong khi “sự phân biệt giữa câu thơ và văn xuôi là rõ ràng, sự phân biệt giữa thơ và văn xuôi là tối nghĩa”; sự phát triển trong văn học hiện đại, bao gồm thơ tự do và thơ văn xuôi, đã dẫn đến hai kỹ thuật chỉ ra hai kết thúc trên một phổ các cách để sáng tác ngôn ngữ, trái ngược với hai lựa chọn riêng biệt. Văn xuôi trong sự đơn giản và cấu trúc được xác định lỏng lẻo của nó có thể thích ứng rộng rãi với đối thoại nói, diễn ngôn thực tế, và văn bản chuyên đề và hư cấu. Nó được sản xuất và xuất bản một cách có hệ thống trong văn học, báo chí (bao gồm báo, tạp chí và phát thanh truyền hình), bách khoa toàn thư, phim ảnh, lịch sử, triết học, luật pháp, và trong hầu hết các hình thức và quy trình đòi hỏi giao tiếp của con người. Isaac Newton trong The Chronology of Ancient Kingdoms đã viết ” Cổ vật Hy Lạp chứa đầy những hư cấu về thơ ca, bởi vì người Hy Lạp không viết gì trong văn xuôi, trước cuộc chinh phạt châu Á của Cyrus người Ba Tư. Sau đó, Pherecydes Scyrius và Cadmus Milesius đã giới thiệu cách viết trong văn xuôi. Văn xuôi hoàn toàn không có cấu trúc vần mà hầu hết thơ ca đều có. Thơ ca bao giờ cũng có nhịp, vần và độ dài quy định. Ngược lại, văn xuôi chứa trọn bộ các câu đầy đủ và có ngữ pháp chặt chẽ, tạo ra các đoạn văn và bỏ qua tính mỹ thuật của thơ ca. Một số tác phẩm văn xuôi cũng chứa các đoạn văn mang tính đối xứng và có chất thơ, và việc kết hợp một cách có chủ ý giữa văn xuôi và thơ ca được gọi là văn xuôi có vần. Vần điệu được coi là mang tính hệ thống và công thức, trong khi văn xuôi được coi là mang tính ngôn ngữ nói hay giao tiếp nhiều hơn. Về mặt này, Samuel Taylor Coleridge nói đùa rằng những nhà thơ mới vào nghề nên biết những “định nghĩa về văn xuôi và thơ ca. Văn xuôi là các từ được sắp xếp hay nhất. Thơ ca là các từ hay nhất được sắp xếp theo cách hay nhất.” Trong tác phẩm Le Bourgeois gentilhomme của Molière, Monsieur Jourdain được yêu cầu viết một cái không phải là văn xuôi mà cũng không phải là thơ ca. Một bậc thầy triết học trả lời rằng “không có cách nào khác để thể hiện bản thân mình với văn xuôi hay thơ ca”, với lý do đơn giản rằng “tất cả mọi thứ không phải là văn xuôi là thơ ca, và tất cả mọi thứ không phải là thơ ca là văn xuôi”. Nhiều hình thức sáng tác hoặc văn học sử dụng văn xuôi, bao gồm tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhà văn Truman Capote nghĩ rằng truyện ngắn là “hình thức văn xuôi khó viết và có kỷ luật chặt chẽ nhất”.
|
Văn xuôi
|
Văn xuôi là một hình thức hoặc kỹ thuật của ngôn ngữ thể hiện một dòng chảy tự nhiên của lời nói và cấu trúc ngữ pháp. Tiểu thuyết, sách giáo khoa và bài báo là tất cả các ví dụ về văn xuôi. Từ văn xuôi thường được sử dụng để đối lập với thơ truyền thống, đó là ngôn ngữ có cấu trúc thông thường và một đơn vị phổ biến của câu thơ dựa trên mét hoặc vần điệu. Tuy nhiên, như TS Eliot đã lưu ý, trong khi "sự phân biệt giữa câu thơ và văn xuôi là rõ ràng, sự phân biệt giữa thơ và văn xuôi là tối nghĩa"; sự phát triển trong văn học hiện đại, bao gồm thơ tự do và thơ văn xuôi, đã dẫn đến hai kỹ thuật chỉ ra hai kết thúc trên một phổ các cách để sáng tác ngôn ngữ, trái ngược với hai lựa chọn riêng biệt. Isaac Newton trong The Chronology of Ancient Kingdoms đã viết " Cổ vật Hy Lạp chứa đầy những hư cấu về thơ ca, bởi vì người Hy Lạp không viết gì trong văn xuôi, trước cuộc chinh phạt châu Á của Cyrus người Ba Tư.
|
Câu mở đề: "Thơ là gì?" chắc nhiều người nghĩ ngay rằng thơ là những câu có vần có điệu, hợp lại thành từng bài hoặc vắn hoặc dài, mà nói những chuyện bóng bảy xa xôi. Cứ hình thức mà xét thời thơ là thế thật, nhưng ngoài cái hình thức ấy hay là ở trong cái hình thức ấy lại còn có một cái tinh thần nữa, muốn giải cho rõ, thật không phải dễ. Cho nên có nhiều người làm thơ mà vị tất đã hiểu cái tôn chỉ của thơ thế nào. Theo lí tưởng của văn học Tàu thời thơ là một nghề phong nhã, chủ diễn những tình ý cao thượng ra lời đẹp, có âm khoái trí. Lí tưởng ấy không phải là không chính đáng; nhưng tuy hợp với phương diện mĩ thuật mà chửa gồm được hết phương diện triết lý. Vì thơ nếu chỉ ở lời đẹp ý nhã, đủ cho người ta khoái trí vui tai, thời chẳng qua là một nghề tiêu khiển, có quan hệ gì đến những lẽ lớn ở đời cái nghĩa cả làm người?. Mà thật thế, phần nhiều các nhà thơ ở nước Tàu nước ta coi thơ là một nghề chơi phong nhã bình đẳng với ba nghề khác nữa là: cầm, kì, họa. Thảng hoặc cũng có người có lí tưởng cao, lấy thơ để mà tả cái khí khái cao thượng, giãi lòng hoài vọng xa xôi của mình, hay là bày những nỗi bất bình, tình oan uổng, nhưng mà không kể các hạng thi nhân ấy thường vẫn ít có, dẫu có thường cũng vượt ra ngoài nhân thân mình mà quan cả đến những lẽ cao xa về nhân sinh, về vũ trụ. Còn đại để là những tay ngâm hoa vịnh nguyệt cả. Nói tóm lại thời các nhà làm thơ ở Đông phương ta phần nhiều là những nhà mĩ thuật mà ít khi là nhà triết lý. Ở Thái Tây thời không thế: người Tây coi thơ vừa là mĩ thuật vừa là triết lý, có nhiều tính cách riêng khác với triết học thường. Bởi vậy nên thơ Âu Mĩ tuy cũng trọng ở lời nhiều, mà lại trọng ở ý nhiều hơn; mỗi bài thơ không những là một tác phẩm mĩ thuật, lại là một tác phẩm triết lý nữa. Cái tinh thần của thơ Tây và thơ ta có khác nhau ở đó. Kí giả nhân mới đọc bài diễn thuyết của một thi sĩ có tiếng bên nước Pháp giải nghĩa "Thơ là gì", xin lược dịch đại ý ra sau đây, để gọi là giới thiệu cho các nhà thơ ta biết cái tôn chỉ của thơ Tây thế nào. Bài diễn thuyết này là của ông Paul Géraldy diễn ở nhà "Nữ sĩ giảng tập viện" (Université des Annales) ở Paris ngày mồng 1 tháng 3 năm 1921. "Tôi thấy trong chương trình nhà Nữ sĩ giảng tập viện biên đề mục bài diễn thuyết hôm nay rằng: "Nói về thơ và giảng thơ nên thế nào là hay là phải". Đề mục đã biên ra như vậy thời chắc là tự tôi bảo biên như thế. Tôi nghĩ đi nghĩ lại mà càng rõ rằng tôi chọn cái đề mục ấy thật vụng quá, vì coi ra ý tự cao quá. Nhà làm thơ không có lẽ định phép tắc cho thơ được, chẳng qua là chịu phép tắc của thơ mà thôi. Vì thơ vốn có phép tắc tự nhiên, mình phải cố mà tìm cho được, mà theo cho đúng. Thơ ví như một vị thần, gồm hết cả những sự tất đẹp ở đời, khiến người đáng yêu đáng mến, mình phải ra sức mà phụng sự vị thần ấy cho thành tín, chứ lại muốn tự cao mà định phương châm, đặt phép tắc cho thơ, thời thật là điên cuồng ngông ngáo quá… Vậy tôi xin phép các phu nhân(1) (1 Nhà "Nữ sĩ giảng tập viện" (Universtité des Annales) là một hội học do bà Yvonne Sarcey sáng lập ra và làm giám đốc, để dạy học cho các bà các cô trong xã hội thượng lưu ở Paris, và dạy toàn bằng lối giảng thuyết, nhờ những bậc bác học văn sĩ có tiếng trứng nước đăng đàn diễn về các khoa văn chương, triết lý, lịch sử, sư phạm. Hội học này có tiếng là một nơi học tập cao thượng, giao thiệp phong nhã ở kinh đô Pháp.) cùng tôn ông cho tôi sửa lại đầu đề như sau này:. "Tôi đã nói thơ ví như một vị thần. Thần ấy có nhiều người tự xưng là đệ tử, ra công phụng sự. Nhưng mà người hay thì ít, người dở thật nhiều. Làm thế nào mà phân biệt được người dở với người hay? Lấy cái cảm giác tự nhiên của ta có thể biện biệt được không? Chắc cũng có khi phân biệt được. Nhưng nhiều khi thời các nhà làm thơ mỗi người lập một môn hộ riêng, mỗi người theo một tôn phái riêng, dẫu cảm giác của ta tinh nhuệ đến đâu cũng khó lòng cho khỏi lầm lẫn được. Cứ thực ra, ngày nay đối với thi học, chẳng là đương giữa buổi người ta không biết đâu là bờ bến, không lấy gì làm chỉ nam dư? Bọn ta đương đi tìm thơ mà chửa biết thơ ẩn vào chốn nào vậy. "Xưa kia, thơ đã có hình thức riêng, cái gì có vần có điệu là thơ, dễ nhận biết ngay. Cứ xem cái nghi lễ bề ngoài thời biết được vị thần ở đâu. Nhưng ngày nay thơ nhiều khi có hình thức bề ngoài mà không có tinh thần ở trong. Cái hình thức là cái người ta dễ bắt chước hơn cả: vần với điệu, trắc với bằng, hễ có tập thời dễ nhập điệu ngay. Cứ xem như những kẻ tài học rất tầm thường mà dụng công mô phỏng, cũng lên mặt thi ông thời đủ biết. Viết bằng lời thơ cũng là một nghề tiểu xảo, ai tập mà chẳng được. Nhưng viết cho nên thơ mới khó. Một anh học trò trung học, ra công gắng sức mà tập, cũng có thể viết được những câu thơ vần điệu nhịp nhàng êm ái, đọc lên âm hưởng linh lung như thơ Hugo, thơ Verlaine vậy,. duy có cái tinh thần trong thơ các ông ấy thời không có mà thôi. "Cũng như về đời Phục hưng, có vô số những danh họa xuất hiện, rồi sau kế đến phái Bologne (Ecole Bolonaise), những bọn như Carrache, Guide, kế thừa được người trước cái ngọn bút vẽ khéo, nhưng vẽ có khéo mà trong nét vẽ không có tinh thần gì cả, chỉ để lại được cho đời sau những bức tranh có đẹp mà trơ, không chút sinh hoạt gì. "Vậy thời ta phải biết phân biệt, đừng có lẫn cái hình thức thơ với chân thi vị. Nhiều bài thơ đọc lên rất êm tai, mà nghĩa lí thật tầm thường. Có lẽ câu thơ thường lại là cái vỏ rực rỡ để cho tư tưởng tầm thường, và càng trong thể thơ lại càng hay thấy những ý kiến thấp hẹp. Nhiều người làm thơ không có hứng, hoặc chỉ cần lấy cho đúng phép tắc, không thất niêm thất luật mà thôi, hoặc lại vụ phá hẳn quy củ, chẳng ra lối lăng gì. Dù theo phép tắc hay dù phá quy củ, câu thơ như vậy chẳng qua là cái áo, cái áo ấy không thể làm cho nên thơ được, cũng tức như thầy Nhân ngôn trong bài tuồng Bệnh tưởng tuy mặc áo y sĩ mà nghề thuốc vẫn dốt đặc. "Lại trong một bài tuồng khác của Molière có vai trưởng giả nọ (Jourdain) bàn về văn chương, nói rằng muốn phân biệt thơ với văn có khó gì, cái gì không phải là văn thời là thơ, mà cái gì không phải là thơ thời là văn. Lời ấy ngày nay vị tất đã là đúng, vì gần đây những nhà làm thơ mà không dùng thể thơ cũng nhiều. Nhưng giả sử lời ấy vẫn còn đúng cũng không nên vội tưởng rằng phàm cái gì không viết bằng thơ là không phải thơ đâu. Các vua chúa ngày nay đi chơi trong phố phường cũng ăn mặc như người thường. Thơ cũng vậy, thơ mà mặc áo tản văn không phải là không được, và có nhiều bài văn có thi vị hơn là lắm bài thơ nhiều. Như vậy thời làm thế nào mà nhận biết được thơ? Có khi mình tìm ở phương này mà thơ là ở chốn nọ, cũng có khi đứng gần thơ mà không biết rằng thơ; làm thế nào cho khỏi sai lầm? Như vậy thời thơ là cái gì, vì không phải rằng cứ có hình thể thơ mà là thơ?. Ừ, thơ là cái vật chi chi? Có lẽ ngày nay đã đến lúc thử nên giải kĩ xem thơ là chỉ vật gì. Bữa nay tôi xin cùng các ngài thử giải xem có được không?. "Các ngài chắc đã từng cảm giác rằng người ta ở đời có hai cách sinh hoạt, một là cách sinh hoạt tầm thường, phần nhiều người cũng cam chịu như vậy, nhưng ít ai lấy thế làm bằng lòng; hai là cách sinh hoạt khác thường, có phong phú, có thi vị, đặc biệt li kì, làm người ai cũng có lúc hoài vọng sống một cách phi thường như vậy. "Sự sinh hoạt tầm thường là sự sinh hoạt theo thói quen. Đứa con trẻ nó không có thói quen gì, tư chất còn mềm nõn như cái măng mới mọc, mỗi ngày mỗi thay đổi, vì mỗi ngày một lớn lên, chưa kịp tập nhiễm thành thói quen; cho nên cách sinh hoạt của nó có cái vẻ li kì; cách sinh hoạt của nó là cách sinh hoạt rất nên thơ, là cách sinh hoạt có thi vị vô cùng. Bởi thế nên tính khí con trẻ thường vui vẻ; tuổi đồng ấu chính là cái hình ảnh sự vui vẻ ở đời…. "Đến như những người đã thành niên như bọn ta, thời sau khi thu hoạch được những điều trí thức cần dùng để sinh hoạt ở đời, thường thường không còn có tấn tới thêm được nữa, muốn cho tấn tới, thời phải gắng sức lắm mới được. Theo cái luật "tối thiểu xuất lực" (la loi du moindre effort), người ta không ai muốn chịu khó, đủ biết đủ dùng thời thôi và hay có tính cứ theo việc cũ mà làm, cứ theo câu sáo mà nói. Bởi thế nên lâu ngày thành chán, sự chán nản là cái bệnh của người đời. Đã không tự mình xuất lực cho tinh thần mới mẻ ra, thời lâu dần thành như cái máy tự động, hễ vặn thời chạy, không có ý thức gì nữa và tư tưởng cảm giác mới ngày như mê ngủ dần đi, tư tưởng cảm giác đã không hoạt động nữa, thời người ta sống cũng như chết vậy. Vì sống cũng không biết cái hứng thú của sự sống nữa. Cho đến sự sung sướng cũng vậy: người ta dẫu được thập phần sung sướng, mà cứ sướng mãi, cứ sướng đều, không có thay đổi chút nào, thời dần dần cũng không biết răng sướng nữa, thấy như cái sướng của mình không có thú vị gì nữa. "Tuy nhiên những sự hành vi trong đời người đã nhất định, không thể cứ hằng ngày mà biến hóa vô cùng được. "Đã nhất định thời cứ y thế mà làm, hà tất phải thay đổi cho phiền. Vả lại công việc ở đời đã nhất định thời tinh thần người ta không phải bấn bíu vào đây cho lắm mà được thư thái hơn lên. Như vậy thời cái thói quen theo như các sách triết học đã dạy tức là kẻ nô lệ cho người ta sai khiến, người ta đã được cái thói quen nó hầu hạ, không phải bận nhọc về những công việc ở đời, tất các năng lực về tinh thần được thong dong thư thái, vậy phải tìm cách khác để lợi dụng, kẻo bỏ không thành ra hao mòn hư nhụt đi mất. Nếu nhân loại chỉ bằng ở thói quen mà không biết thường thường luyện tập các năng lực cho được tinh nhuệ hoạt bát thêm lên, thời có một ngày kia, cũng đến như loài ong nọ, đã mấy nghìn năm nay cứ sinh hoạt theo những phép tắc nhất định, không phải dùng đến trí khôn nữa, thành ra trí khôn tiêu mòn đi mất, đã bao nhiêu lâu nay không còn tấn tới được chút nào nữa. Người ta tuy là một giống có trí tinh tiến, nhưng có lẽ có một ngày tấn tới đã đến cực điểm, lấy thế làm mãn nguyện, không muốn bước cao hơn lên nữa. Hiện nay thời chưa đến bậc ấy, sự tiến hóa còn chưa tới cõi hoàn toàn. Vả lại người ta dẫu có căn tính lười biếng chỉ muốn theo thói quen mà làm cho xong chuyện, nhưng cũng còn có căn tính khác nữa, khiến cho càng ngày càng cầu muốn cho hay cho tốt hơn lên. Nhà triết học Đức Nietzche đã nói rằng "Người ta là một giống vật vốn có tính muốn càng ngày càng hơn mình". Thật thế, người ta có biết hằng ngày hằng đổi mới, nhật tân, nhật nhật tâ, hằng ngày hằng tấn tới mãi lên, thời mới giữ được cái vui vẻ như thuở đồng ấu. Ngày xưa người thợ nung nung được cái vò, tự nghĩ trong bụng rằng: "Ngày nay ta làm thế này, ngày mai chắc ta làm đẹp hơn". Có bụng phấn khởi như thế, cho nên vừa làm vừa hát, vui vẻ vô cùng. Người thợ nung ngày nay biết rằng cái vò ngày mai rồi cũng giống cái vò hôm nay, biết mình chẳng qua như một cái máy vô hồn, người vặn thời chạy, nên làm không có vui vẻ chi nữa, không những không có vui vẻ nữa, mà lại thành ra bực mình, sinh lòng oán phẫn. Là vì rằng người thợ, dẫu làm việc chân tay, mà cũng biết ham cái thi vị. Thơ chính là thế. Thơ là vượt qua ra ngoài thói quen, mà bước vào một cõi mới lạ, có hứng thú hơn. Cái phạm vi sinh hoạt của người ta khác nào như một cánh đồng đã trồng trọt cầy cấy, ngoài cánh đồng cỏn con ấy còn những rừng ruộng mênh mông bát ngát, bao bọc bốn bề. Cái “hồn thơ” (instinct poétique) tức là cái sức mạnh kia nó run rủi người ta ra ngoài phạm vi sinh hoạt của mình, phạm vi ấy dù to rộng đến đâu, chẳng qua cũng chỉ là một nơi giam hãm cho cái chí bay bổng của ta. “Hồn thơ” chính là sự yếu cần cho ta phải ra tay mà khai thác cái khoảng không vô tận ở quanh mình, để dần dần thu thập sát nhập thêm vào bờ cõi của mình, để lấy thêm tài liệu cho sự tư tưởng cảm giác của mình. Hễ khai thác được phần nào, sáp nhập ngay phần ấy, khiến cho cái vòng trí thức của người ta mỗi ngày một to rộng mãi ra, cái phạm vi của đời người mỗi ngày một khoáng trương thêm ra, và giống người mỗi ngày lại chinh phục được thêm một cõi đất trong cái vũ trụ mang nhiên vô cùng tận nó bao bọc ở quanh mình. "Nhưng mà khám phá cái cõi mang nhiên ấy, tấn tới ra ngoài phạm vi mình, bỏ những lề thói đã quen hằng ngày đi thám hiểm những nơi hãy còn xa lạ, ôi! Cái thói quen nó đàn áp mình, nặng như đá đè, có lúc gắng sức cũng nâng lên nổi, nhưng nhiều khi nâng lên rồi mà kiệt lực lại phải để rơi xuống; nhân thế mà sinh ra chán nản, mà đành chịu cam tâm. Như khi sắp đi chơi đâu xa hay là lúc định kết duyên người tri kỉ, tưởng nhân sinh còn lúc nào lòng thơ lai láng bằng những lúc ấy. Tàu vừa rời bến, mình đứng trên sàn, trông xa trước mắt, trời nước mênh mang, nghĩ đến những phương xa cõi lạ, mình sắp tới đây, mà trong lòng khoan khoái biết dường nào? Lại lúc đứng trước người yêu, trao lời gắn bó, thệ hải minh sơn, định cùng nhau đề huề dắt díu mà kết nghĩa trăm năm, tấm lòng hoan hỉ, tấc dạ bồi hồi biết bao nhiêu? Nhưng mà càng trông cảnh lạ mà kẻ du khách kia nhiều khi cũng chán mắt, nhìn lắm hóa nhàm, Cảnh có đổi mà lòng vẫn thế, không thấy thêm du khoái chút nào.
|
Thơ
|
Thơ là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Từ thơ thường được đi kèm với từ câu để chỉ một câu thơ, hay với từ bài để chỉ một bài thơ. Một câu thơ là một hình thức câu cô đọng, truyền đạt một hoặc nhiều hình ảnh, có ý nghĩa cho người đọc, và hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp. Một câu thơ có thể đứng nguyên một mình. Một bài thơ là tổ hợp của các câu thơ. Tính cô đọng trong số lượng từ, tính tượng hình và dư âm thanh nhạc trong thơ biến nó thành một hình thức nghệ thuật độc đáo, tách biệt hẳn khỏi các hình thức nghệ thuật khác. Thơ có lịch sử lâu dài. Định nghĩa sớm nhất ở châu Âu về thơ có thể bắt đầu từ nhà triết học người Hy-Lạp Aristotle (384–322 TCN). Ở Việt Nam, thơ có thể bắt nguồn từ tục ngữ, ca dao mà ra.
|
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa. Các nước phát triển (như tại Châu Âu, Hoa Kỳ hay Úc) thường có mức độ đô thị hóa cao (trên 87%) hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như Việt Nam) (khoảng ~35%). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển. Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đô thị so với kích thước (về dân số và diện tích) ban đầu của đô thị. Do đó, sự tăng trưởng của đô thị khác tốc độ đô thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự gia tăng theo các giai đoạn thời gian xác định như 1 năm hay 5 năm). Tỉ lệ dân đô thị ngày càng tăng và các siêu đô thị ngày càng nhiều. Theo khái niệm của ngành địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không gian hoặc mật độ dân cư hoặc thương mại hoặc các hoạt động khác trong khu vực theo thời gian. Các quá trình đô thị hóa có thể bao gồm:. Sự mở rộng tự nhiên của dân cư hiện có. Thông thường quá trình này không phải là tác nhân mạnh vì mức độ tăng trưởng dân cư tự nhiên của thành phố thường thấp hơn nông thôn. Sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị hoặc như là sự nhập cư đến đô thị. Ngoài ra còn có sự ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. (Do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao dẫn tới sự mở rộng các khu công nghiệp mới, khu đô thị mới). Đô thị hóa có các tác động không nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực. Đô thị học sinh thái cũng quan sát thấy dưới tác động đô thị hóa, tâm lý và lối sống của người dân thay đổi. Sự gia tăng quá mức của không gian đô thị so với thông thường được gọi là “sự bành trướng đô thị” (urban sprawl), thông thường để chỉ những khu đô thị rộng lớn mật độ thấp phát triển xung quanh thậm chí vượt ngoài ranh giới đô thị. Những người chống đối xu thế đô thị hóa cho rằng nó làm gia tăng khoảng cách giao thông, tăng chi phí đầu tư các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và có tác động xấu đến sự phân hóa xã hội do cư dân ngoại ô sẽ không quan tâm đến các khó khăn của khu vực trong đô thị. Đô thị hóa làm ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến số lượng, chất lượng dân số đô thị. Quá trình này còn làm thay đổi nhu cầu sử dụng đất đô thị và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của vùng và quốc gia. Đô thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư. Các đô thị không chỉ là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động mà còn là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài. Đô thị hóa làm sản xuất ở nông thôn bị đình trệ do lao động chuyển đến thành phố. Thành thị phải chịu áp lực thất nghiệp, quá tải cho cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường sống, an ninh xã hội không đảm bảo, các tệ nạn xã hội ví dụ như thiếu việc làm sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề như nghèo đói lạc hậu, mù chữ; tệ nạn như trộm cắp, ô nhiễm môi trường, phân chia giàu nghèo…. Tính đến ngày 10/09/2018 tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam đạt 34,75 %. Cả nước chỉ có 14 tỉnh thành có tỷ lệ đô thị hóa cao hơn cả nước. Nếu xét thêm top 14 tỉnh thành có dân số thành thị cao nhất nước thì sẽ xảy ra 2 điều kiện sau:. Tỉnh Đồng Nai có dân số thành thị đạt 945.780 người (xếp thứ 4) nhưng tốc độ đô thị hóa đạt 32,09 % (thấp hơn cả nước 0,99%). Tỉnh An Giang có dân số thành thị đạt 657.456 người (xếp thứ 9) nhưng tốc độ đô thị hóa đạt 68,43% (xếp thứ 2 sau TP.HCM). Tỉnh Kon Tum có dân số thành thị 161.101 người (xếp thứ 48) nhưng tốc độ đô thị hóa đạt 33,27 % (cao hơn nước 0,19%). Tỉnh Ninh Thuận có dân số thành thị 211.374 người (xếp thứ 35) nhưng tốc độ đô thị hóa đạt 35,54 % (cao hơn nước 2,46%). Viet Architect Group (VAG) được thành lập với mục tiêu cung cấp toàn diện các dịch vụ có liên quan đến lĩnh vực kiến trúc, xây dựng và nội thất. Liên hệ với chúng tôi Hotline: 0989 149 805. Việt Architect Group là thương hiệu kiến trúc uy tín gồm các đơn vị thành viên: Kiến trúc Kinh Bắc tại Hà Nội. Các kiến trúc sư có trình độ và chuyên môn và đạt các giải thưởng kiến trúc uy tín: Năm 2010 Kts Phan Đình Kha và các Kts Lưu Hướng Dương ,Trần Trung Vương, Nguyễn Thị Quỳnh Nga đoạt giải nhất giải thưởng kiến trúc quốc gia: Sân bay Liên Khương – Đà Lạt.
|
Đô thị hóa
|
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa. Đô thị hóa là quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống. Các nước phát triển (như tại Châu Âu, Hoa Kỳ hay Úc) thường có mức độ đô thị hóa cao (trên 87%) hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như Việt Nam) (khoảng ~35%). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển. Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đô thị so với kích thước (về dân số và diện tích) ban đầu của đô thị.
|
Khi chọn mua một chiếc màn hình máy tính mới, bạn cần phải cân nhắc nhiều yếu tố như kích thước, độ phân giải hay tỉ lệ màn hình… Trong đó, yếu tố về tốc độ làm tươi màn hình thường không được mọi người để ý. Vậy tốc độ làm tươi màn hình là gì và màn hình có tốc độ làm tươi cao sẽ giúp ích cho nhóm đối tượng nào nhất? Cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé. 1 giây và được đo bằng đơn vị Hertz (Hz). Thực tế, những gì chúng ta nhìn thấy trên. được truyền đến mắt của chúng ta trong cùng 1 thời điểm. Do đó, hình ảnh chuyển. dàng theo dõi các pha hành động tốc độ cao hơn. Đồng thời, cũng giúp họ ngắm. hiệu quả của các thao tác ấy xuất hiện trên màn hình. Nếu sử dụng màn hình có. game đối kháng, từng ấy thời gian đã đủ để tạo nên sự khác biệt. Nếu bạn chỉ có nhu cầu giải trí thì nên cân nhắc việc bỏ thêm 1 khoản
|
Tốc độ làm tươi
|
Tốc độ làm tươi (hay còn gọi là tốc độ làm mới hay tần số quét, tốc độ quét) là số lần mà hình ảnh trên màn hình máy tính được cập nhật trong 1 giây và được đo bằng đơn vị Hertz (Hz). Thực tế, những gì chúng ta nhìn thấy trên màn hình không phải là hình ảnh động thay đổi liên tục, mà gồm 1 chuỗi các hình ảnh tĩnh được hiện lên với tốc độ rất nhanh, mang lại cho mắt ta cảm giác như chúng là những hình ảnh chuyển động thực sự. Tốc độ làm tươi cao nghĩa là có nhiều hình ảnh được chiếu lên màn hình hơn trong cùng 1 đơn vị thời gian, hay có thể hiểu theo cách khác đó là có nhiều thông tin được truyền đến mắt của chúng ta trong cùng 1 thời điểm. Do đó, hình ảnh chuyển động trên màn hình trở nên mượt mà hơn. Các màn hình máy tính có tốc độ làm tươi với tiêu chuẩn cơ bản là 60 Hz, tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tìm mua những màn hình sở hữu tốc độ làm tươi lớn hơn trên thị trường từ 144 Hz hay 240 Hz.
|
Bất chấp những biến động của giá dầu và sự suy thoái kinh tế toàn cầu, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) vẫn duy trì một nền kinh tế ổn định. Có vị trí chiến lược giữa châu Á, châu Âu và châu Phi, UAE duy trì dự trữ tài chính mạnh và có một hệ thống ngân hàng an toàn cho các nhà đầu tư. Theo dự đoán của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), dự trữ của UAE là 76,8 tỷ USD năm 2015 sẽ tăng lên 118,4 tỷ USD vào năm 2020. Thặng dư tài khoản vãng lai sẽ tăng từ 17,6 tỷ USD năm 2015 lên 33,4 tỷ USD vào năm 2020. Standard & Poors đã xếp hạng Abu Dhabi với chỉ số AA, cho thấy khả năng đáp ứng các cam kết tài chính rất mạnh trong thời gian dài hạn. Theo số liệu vào tháng 6 năm 2016 của Quỹ Tài chính Ngân hàng Thế giới, Cơ quan Đầu tư Abu Dhabi là quỹ đầu tư có chủ quyền lớn nhất ở Trung Đông và đứng thứ 5 trên thế giới với 792 tỷ USD. Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) năm 2014, UAE đứng thứ 11 với tư cách là nhà đầu tư hứa hẹn nhất về kinh tế. Chính sách đa dạng hóa kinh tế đã dẫn tới sự phát triển ấn tượng trong các ngành then chốt như du lịch, vận tải hàng không, thương mại, dịch vụ tài chính, sản xuất và năng lượng thay thế. UAE đã có những tiến bộ trong việc chấm dứt sự phụ thuộc về kinh tế đối với hydrocarbon. Ngành dầu khí chiếm khoảng 30% GDP trong năm 2014, giảm từ 79% năm 1980. UAE có nhiều khu thương mại tự do đặc biệt đa dạng, có nhiều ưu đãi về kinh tế như miễn thuế doanh nghiệp và thuế xuất nhập khẩu. Có khoảng 35 khu thương mại tự do thuộc UAE. Theo báo cáo của Gulf News, các khu vực tự do đóng góp 33% lợi nhuận phi dầu mỏ của UAE vào năm 2014. Theo báo cáo kinh tế năm 2015, UAE thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 37,07 tỷ AED (10,1 tỷ USD) trong năm 2014 với tốc độ tăng trưởng trung bình 16,4% trong giai đoạn 2010-2014. UAE được xếp hạng nhất trong số các quốc gia hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực Trung Đông và châu Phi. Theo Báo cáo Năng suất Thế giới của IMD, UAE được xếp thứ nhất trong khu vực và đứng thứ 12 trên toàn cầu trong số 61 quốc gia được đánh giá về khả năng quản lý nguồn lực để tạo ra giá trị lâu dài. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới về đánh giá hiệu quả của 189 quốc gia trong việc “tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư”, UAE được xếp thứ nhất trong thế giới Ả Rập năm thứ 3 liên tiếp. UAE đã phát triển một số chiến lược để thúc đẩy vị trí kinh tế và xã hội, đa dạng hóa thu nhập quốc gia dựa trên nền kinh tế tri thức và bền vững. Chính phủ UAE đã nhận ra tầm quan trọng của khu vực kinh tế Hồi giáo do sự gia tăng dân số Hồi giáo trên toàn thế giới, ước tính khoảng 1,6 tỷ người. Theo Chỉ số Kinh tế Hồi giáo Toàn cầu (GIEI) gồm 73 quốc gia, UAE nằm trong số 3 quốc gia hàng đầu về môi trường kinh tế Hồi giáo lành mạnh nhất thế giới. Theo chương trình Tầm nhìn 2021 của UAE (UAE Vision 2021), UAE đang phấn đấu đa dạng hóa nguồn thu nhập mà không phụ thuộc vào dầu mỏ. Tháng 1 năm 2012, Phó Tổng thống - Thủ tướng Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) Sheikh Mohammed đã khởi xướng chương trình “Sáng kiến Kinh tế xanh” theo phương châm “Một nền kinh tế xanh cho phát triển bền vững”. UAE tìm cách trở thành trung tâm toàn cầu và là mô hình thành công của nền kinh tế xanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo tính bền vững và bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai. UAE muốn dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực này và được nhìn nhận là một trung tâm xuất khẩu và tái xuất các sản phẩm xanh về công nghệ, duy trì một môi trường bền vững để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế dài hạn. Sáng kiến bao gồm một loạt các chương trình và chính sách trong lĩnh vực năng lượng, nông nghiệp, đầu tư và vận tải bền vững cùng với các chính sách môi trường. Năm 2015, chính phủ UAE đã đầu tư 300 tỷ AED để thúc đẩy nền kinh tế tri thức nhằm chuẩn bị cho một nền kinh tế UAE không phụ thuộc vào dầu mỏ. Chính sách Khoa học, Công nghệ và Sáng kiến của UAE đã khởi động 100 sáng kiến với các khoản đầu tư lớn vào giáo dục, y tế, năng lượng, giao thông, các lĩnh vực như người máy, năng lượng mặt trời, phát triển sở hữu trí tuệ, nghiên cứu tế bào gốc và công nghệ sinh học. Hội nghị UAE ở giai đoạn hậu dầu mỏ được tổ chức vào ngày 30 và 31 tháng 1 năm 2016 tại Bab Al Shams ở Dubai. Các quan chức chính phủ liên bang và địa phương đã tham gia thảo luận các ý tưởng và sáng kiến góp phần đa dạng hóa nền kinh tế của UAE nhằm đảm bảo tính bền vững bằng cách nhấn mạnh vào nguồn lực con người, kiến thức và đổi mới. Hiện tại, UAE đang tiến hành lộ trình cho tương lai hậu dầu mỏ. Chiến lược sẽ bao gồm các ý tưởng và sáng kiến, tăng cường khả năng cạnh tranh của các khu vực kinh tế hiện tại và dần đưa vào các ngành mới, tạo sự đột phá về kinh tế của UAE theo tiêu chuẩn quốc tế cao nhất. Các nỗ lực của UAE nhằm đa dạng hóa nền kinh tế và giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ đang mang lại kết quả. Một loạt các ngành phi dầu mỏ tăng trưởng như phát triển cơ sở hạ tầng, du lịch, thương mại, hàng không, y tế, bảo hiểm, bất động sản và sản xuất. Động lực kinh tế này dự kiến sẽ cải thiện triển vọng nghề nghiệp và khả năng cạnh tranh của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán GDP thực sẽ tăng 3,4% trong năm 2018 (năm 2017 là 1,3%). GDP phi dầu mỏ có thể sẽ tăng lần lượt 3,3% năm 2017 và 3,4% năm 2018. Kinh tế dự kiến sẽ tăng dần trong những năm tới với giá dầu hồi phục khi tình hình chung toàn cầu được cải thiện. Các chính sách được cải cách đạt kết quả khả quan trong bảng xếp hạng toàn cầu, UAE hiện nằm trong số 10 nền kinh tế cạnh tranh nhất trên thế giới và đứng đầu trong khu vực. Các yếu tố đa dạng kinh tế đã bắt đầu đi vào thực tế và chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2017 đã chứng kiến sự cải thiện đáng kể nhờ sự gia tăng mạnh mẽ của cả đơn hàng và sản lượng. Tương tự, sân bay Dubai đã đón 43 triệu hành khách trong nửa đầu năm 2017, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2016. Theo Oxford Economics, nền kinh tế UAE đang hưởng lợi từ sự phục hồi của thương mại toàn cầu và tăng trưởng trong ngành du lịch với tốc độ cao hơn các nền kinh tế vùng Vịnh khác. Theo BNC Network, hiện có 7.488 dự án xây dựng trị giá 228 tỷ USD đang được thiết kế, đấu thầu, và thi công trong 6 tháng đầu năm 2017, phần lớn các dự án ở Dubai dự kiến sẽ hoàn thành trước Triển lãm Quốc tế World Expo 2020. Với sự đầu tư của chính phủ về cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế đẳng cấp quốc tế, UAE đã nổi lên như một điểm đến đáng tin cậy để điều trị y tế ở khu vực Trung Đông và châu Phi, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và tài chính sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng. Nền kinh tế đa dạng của UAE sẵn sàng phục hồi vào năm 2018 bất kể yếu tố giá dầu, UAE đã trở thành trung tâm toàn cầu cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp tìm kiếm một hệ sinh thái đầu tư an toàn và hiệu quả. UAE là một trong số những nước được tìm kiếm nhiều nhất bởi các nhà đầu tư trên thế giới. Sự phụ thuộc kinh tế của UAE vào dầu mỏ đang giảm xuống mỗi năm. Ngoài các khu vực truyền thống tập trung vào logistics, thương mại, du lịch…, UAE hiện đang tìm kiếm các lĩnh vực mới như tài chính, công nghệ thông tin và truyền thông., và cơ hội lớn phát sinh từ World Expo 2020. Nhìn chung, nền kinh tế đã sẵn sàng cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao. UAE đang tích cực tăng trưởng theo khuôn khổ của UAE Vision 2021 với một chương trình nghị sự quốc gia cụ thể, và mục tiêu là UAE trở thành một trong những quốc gia tốt nhất trên thế giới. Ngoài ra, nhiều sáng kiến và dự án đang triển khai dự kiến sẽ là động lực phát triển thị trường và mang lại nhiều cơ hội tốt cho nền kinh tế. Điều này có nghĩa là cơ hội việc làm được tạo ra nhiều hơn cho người dân UAE, và nhiều người nước ngoài sẽ vào UAE để tìm kiếm cơ hội việc làm. UAE luôn là một nền kinh tế thân thiện với người tiêu dùng và tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư. Bất cứ sự độc quyền nào từ các nhà đầu tư sẽ dẫn đến tăng giá, khuynh đảo thị trường…, chính phủ sẽ can thiệp để vô hiệu hóa những hành động này. Chi tiêu của chính phủ ngày càng tăng cho cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục, mang lại sự tự tin cho khu vực kinh tế tư nhân và cũng là cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài vào UAE. Ngành dịch vụ dự kiến sẽ phát triển tốt hơn so với các lĩnh vực khác trong kịch bản kinh tế vĩ mô hiện tại. Các chính sách về ngân hàng và quản lý sẽ chặt chẽ hơn trong lĩnh vực thuế (VAT) vào năm 2018. Trong số 300.000 công ty đăng ký, hiện ước tính khoảng 50% không có sổ sách kế toán thích hợp. Đây là một cơ hội việc làm rất lớn cho những người có chuyên môn về lĩnh vực này. Sự gia tăng hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) và một số lĩnh vực cốt lõi của nền kinh tế có dấu hiệu gia tăng cao dẫn tới sự tăng trưởng ổn định trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và tài chính. “UAE dự kiến sẽ đạt mức tăng trưởng GDP từ 3,5% đến 4% trong năm nay”, Bộ trưởng Kinh tế của nước này Sultan bin Saeed Al Mansoori cho biết.
|
Kinh tế Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
|
Kinh tế Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất là nền kinh tế công nghiệp phát triển. Nước này là một trong những nước phát triển nhất trên thế giới, dựa trên các số liệu về kinh tế xã hội khác nhau như GDP bình quân đầu người, năng lượng tiêu dùng trên đầu người và chỉ số phát triển con người (HDI). Với GDP đạt 168 tỉ USD vào năm 2006, UAE xếp thứ 2 ở trong CCASG (sau Ả Rập Xê Út), xếp thứ 3 ở vùng Trung Đông - Bắc Phi (MENA) (sau Ả Rập Xê Út và Iran), xếp thứ 38 trên thế giới. Có nhiều đánh giá chênh lệch nhau đối với tỉ lệ tăng trưởng thực GDP của đất nước, tuy nhiên tất cả các cách đều cho thấy UAE hiện nay là một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Theo một báo cáo gần đây của Bộ trưởng Tài chính và Công nghiệp, GDP danh nghĩa đã tăng 35% trong năm 2006 đạt 175 tỉ USD, so với 130 tỉ USD trong năm 2005. Mặc dù Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất ngày càng ít phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, tuy nhiên xuất khẩu dầu mỏ và khí gas tự nhiên vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là ở Abu Dhabi.
|
Đã tương đối nhiều năm trôi qua kể từ bộ phim truyện cuối cùng của Harry Potter cùng Bảo bối tử thần phần 2 ưng thuận lên sóng, các người theo dõi mến mộ vẫn cấp thiết quên được hình mẫu của thương hiệu “Chúa tể Hắc ám” đầu bẹp nlỗi rắn, khuôn khía cạnh không tồn tại mũi thuộc làn da xanh Trắng ởn. Cùng với đều phép màu hắc ám cùng mưu mô tàn độc, Voldemort đổi thay kẻ không nhiều người dám call tên, phải dùng từ bỏ “kẻ mà ai ai cũng biết là ai” Khi muốn nói đến. Và một Khi hắn quay lại, đã lại sở hữu ngày tiết của những phù tbỏ vô tội phải đổ xuống. Chúa tể Voldemort được có mặt bên dưới cái brand name Tom Marvolo Riddle Đêm ngày cuối năm 1926, nhỏ của Tom Riddle và Merope Riddle (gồm họ Gaunt trước lúc rước chồng). Tom Riddle thân phụ là “Muggle”, còn Merope là một trong đàn bà phù thủy chủ yếu cội, sở hữu cái ngày tiết của vị núm tổ Salazar Slytherin, cơ mà quyền năng phép màu của bà chỉ được phát huy tối đa Lúc không bị cha mình khủng tía. Tất cả các bé con cháu của Salazar Slytherin mọi không còn đề nghị Voldemort thay đổi bạn vượt kế sau cuối của ông ta. Trong thời hạn là học viên trên Hogwarts, Tom đã tương đối thành công vào vấn đề bít che động cơ tạo tội vạ của hắn với bằng phương pháp biến một học viên xuất nhan sắc ở đầy đủ môn, một huynh trưởng tất cả trách nhiệm và kỷ quy định. Mặc mặc dù Dumbledore không khi nào quên đầy đủ gì Riddle sẽ tự thú dấn cùng với ông, cần Dumbledore cũng không khi nào trọn vẹn tin cậy hắn. Cái thương hiệu Tom Marvolo Riddle sau thời điểm đảo các vần âm với sắp xếp lại thành “I am Lord Voldemort” (Ta là Chúa tể Voldemort). Sau khi bong khỏi Hogwarts, Tom sẽ trường đoản cú bỏ hẳn tên thật của chính bản thân mình và thực hiện thương hiệu từ bỏ đặt thoáng rộng hơn - Chúa tể Voldemort. Ngay tự lúc Tom còn sinh sống vào Hogwarts, hắn bao bọc bản thân bởi một đội nhóm bè phái cùng đơn vị Slytherin, những kẻ hắn điện thoại tư vấn là bạn bè, dẫu vậy thật sự là rất nhiều kẻ hắn không thể có lòng trắc ẩn. Rất nhiều kẻ trong số đó đang trở thành Tử Thần Thực Tử. Trong năm máy 6 của Tom trên Hogwarts, hắn sẽ mlàm việc Phòng đựng kín đáo, giải phóng con Tử xà (Basilisk) cùng thịt Myrtle, một học sinh bao gồm dòng ngày tiết Muggle. Chỉ gồm GS Dumbledore là nghi ngờ hắn (tập 2 Harry Potter cùng Phòng cất túng thiếu mật) cho dù Tom đã nhận được tương đối nhiều tình yêu quý với tin cậy từ bỏ đa số giáo viên khác, bao gồm cả thầy Độc dược, giáo sư Horace Slughorn (tập 6) và đổ tội cho 1 học viên năm đồ vật 3 là Rubeus Hagrid. Bởi vì chưng lúc kia chưa ai từng đặt chân vào Phòng đựng kín nhưng mà cũng trù trừ trong đó bao gồm gì nên cđọng nghĩ kẻ giết mổ Myrtle là nhỏ nhền nhện 8 đôi mắt vĩ đại mà Hagrid lén nuôi. Sau Khi hoàn thành lịch trình học tập của mình, Voldemort nộp đối chọi xin vươn lên là một GS tại ngôi trường Hogwarts. Dumbledore phán đân oán việc này nhằm mục tiêu mục đích để giành được các đồ vật trực thuộc về Godric Gryffindor hoặc Rowemãng cầu Ravenclaw. Voldemort bị phủ nhận vì chưng thầy hiệu trưởng hiện nay là Dippet, với nguyên do còn thừa trẻ. Txuất xắc vào đó, hắn tạm thời làm việc trên tiệm Borgin cùng Burkes, tuy nhiên lại bỏ đi sau thời điểm sở hữu được, bằng phương pháp trộm cắp cùng ám sát, mẫu mề đay của Slytherin và loại húi gồm huy hiệu hình con lửng của Hufflepuff, có nhiều năng lực là để dùng làm cho “Trường sinc Linh giá” (Horcrux). Sau kia hắn biến mất cùng không thể được nói tới trong vòng các năm. Mặc dù mang đến Harry Potter với Chiếc cốc lửa, Voldemort mới trở về ngulặng dạng hình dẫu vậy nhìn bao quát hắn có tầm tác động bự trong tất cả những tập truyện. Harry Potter cùng Hòn đá phù tdiệt, hắn vào lốt của Quirell và mở ra tức thì từ trên đầu vào cuộc thì thầm giữa Dumbledore với bà Minerva. Phần 6, nhân đồ vật này không đích thực lộ diện mà lại chỉ được miêu tả con gián tiếp qua một Trường sinch linch giá bán cơ mà thầy Dumbledore tìm kiếm được. Tại phần 7, hắn xuất hiện thêm vào số đông hồ hết lần Harry bị Tử Thần Thực Tử truy sát cùng cũng chấp thuận bị thịt bởi Harry Potter trong đoạn cuối của câu truyện. Cái chết của Voldemort đang hoàn thành 1 thời đại ám muội đang sẵn sàng bao trùm lên trái đất phù tbỏ. Không còn nghi ngại gì nữa, Chúa tể Hắc ám Voldemort đó là ác nhân gian nguy độc nhất trong cả ngoài trái đất điện ảnh của tác giả J.K.Rowling. Hắn cài đặt sức khỏe vô tuy nhiên cùng với sự tàn ác không có bất kì ai sánh nổi. Quyền lực đen tối cùng số đông cuộc tàn tiếp giáp mọi rợ của Voldemort từng phủ trơn Đen gớm hoàng lên quả đât phù tbỏ một thời hạn lâu năm cho tới Khi Harry Potter- “cậu bé xíu được chọn” cùng cũng chính là kẻ thù số trời của hắn lộ diện. Trong năng lượng điện ảnh, nhân trang bị Voldemort mang tính phản nghịch diện từ tính bí quyết mang đến hình thức bề ngoài này được đảm nhiệm vì chưng phái nam a ma tơ Ralph Fiennes, fan từng gấp đôi dìm đề cử Osoto. Dù nên cho tận phần Harry Potter và Chiếc Cốc Lửa, Ralph Fiennes mới xuất hiện, vào vai Voldemort nghỉ ngơi những thiết kế thành tín đồ dẫu vậy màn đóng vai xuất thần của anh sẽ ghi được dấu ấn khỏe mạnh. Sau 4 phần phyên ổn, Chúa tể Voldemort đang trở thành một trong số những vai diễn nhằm đời của Ralph Fiennes. Đồng thời chế tác hình của Fiennes cũng tạo nên sự một hình mẫu Voldemort bom tấn, cấp thiết thay thế. Bước chân vào nghiệp diễn bởi vai “nặng ký” Heathcliff vào Đồi Gió Hú, Ralph trình bày được năng lực diễn xuất và gây được để ý với khá nhiều đạo diễn nổi tiếng, trong các số ấy gồm Steven Spielberg. Chỉ 1 năm tiếp đến, vị đạo diễn nổi tiếng này đang mời anh tmê mệt gia vào dự án công trình phyên ổn White Đen đem chủ đề Thế chiến II mang tên Schindler’s List. Tuy chỉ diễn vai prúc dẫu vậy nó cũng đủ để giúp đỡ mang đến một đề cử Osoto trước tiên mang lại Ralph Fiennes. Từ đó, sự nghiệp của anh ý lên nlỗi “diều chạm mặt gió” cùng với 1 loạt các tác phẩm như Quiz Show, Sunshine, The English Patient với đề cử Oscar mang đến “Nam chính xuất sắc đẹp nhất”. Vào trong những năm 2000, Ralph dần trở về với câu hỏi vào vai prúc trong tương đối nhiều rất phẩm như The Reader, The Hurt Locker, Skyfall, đặc biệt là vai Voldemort vào series Harry Potter. Xuất hiện vào 5 phần phyên dưới lớp trang điểm của một ác nhân, tuy chỉ với nhân đồ vật prúc dẫu vậy Ralph Fiennes chính là đôi mắt xích đặc biệt quan trọng không thể không có, đẩy kịch tính vào phim lên cao trào. Vai diễn thành công cho nỗi người theo dõi chỉ lưu giữ về Voldemort nhưng mà quên luôn luôn cả người trình bày nó. Gương phương diện chi tiết đầy bí hiểm cùng phong cách điềm đạm đang phát triển thành Ralph Fiennes thành ngôi sao sáng số 1 của giới showbiz và là thần tượng của hàng ngàn cô nàng. Nhưng đời tư lại tương đối ồn ã. Sau cuộc hôn nhân gia đình vỡ vạc với Alex Kingston, anh cùng diễn viên to tuổi Francesca Annis đang sinh sống cùng cả nhà suốt 10 năm. Tuy Đấng mày râu kém nhẹm nữ 18 tuổi, quan hệ của mình vẫn được review là bền vững tốt nhất xã giải trí. Vậy nhưng, báo mạng từng báo tin, “Chúa tể Voldermort” vẫn lừa dối Francesca Annis để kiếm tìm thú vui mặt ca sĩ fan Rumania Cornelia Crisan. Ralph ve vãn cô nàng này trên một buổi tiệc năm 2004 và duy trì tình ái trong cả hai năm vào thời hạn vẫn hỗ tương cùng với Annis.
|
Chúa tể Voldemort
|
Voldemort (tiếng Anh: Lord Voldemort) là biệt hiệu của Tom Marvolo Riddle, một nhân vật hư cấu và là nhân vật phản diện chính trong loạt tiểu thuyết Harry Potter của nhà văn nữ người Anh, J. K. Rowling. Voldemort xuất hiện lần đầu trong Harry Potter và Hòn đá phù thủy, được xuất bản vào năm 1997. Voldemort xuất hiện trực tiếp hoặc trong các đoạn hồi tưởng trong mỗi cuốn sách và loạt phim chuyển thể cùng tên ngoại trừ phần ba, Harry Potter và tên tù nhân ngục Azkaban, trong đó hắn chỉ được nhắc đến chứ không lộ diện. Voldemort là kẻ thù không đội trời chung của Harry Potter, người mà theo lời tiên tri có "sức mạnh đánh bại Chúa tể Hắc ám". Hắn ta cố gắng giết cậu bé, nhưng thay vào đó lại giết cha mẹ của cậu, Lily và James Potter, và để lại cho Harry một vết sẹo trên đầu dưới hình dạng một tia chớp. Gần như mọi phù thủy hoặc pháp sư không dám thốt ra tên của hắn và thay vào đó gọi hắn bằng những biệt hiệu như "Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy", "Kẻ-chớ-gọi-tên-ra". Nỗi ám ảnh của Voldemort với sự thuần khiết của dòng máu cho thấy mục tiêu của hắn ta là loại bỏ dòng dõi Muggle (không có phép thuật) trong thế giới phù thủy và chinh phục cả hai thế giới, Muggle và phù thủy, để đạt được sự thống trị của dòng máu thuần chủng.
|
Liệu các bạn có ai đã tự hỏi, vì sao Mỹ có tổng thống, còn Anh thì có Thủ tướng và Pháp thì lại có cả hai. Sự khác biệt nằm ở đâu? Bài viết này sẽ giải thích cho các bạn một cách dễ hiểu nhất về ba chính thể phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Các quốc gia có một mức độ “tổng thống chế bán phần” được biểu thị bằng màu VÀNG. Màu TÍM là các nước “Quân chủ chuyên chế”. Màu NÂU là các nước đơn đảng. Lịch sử của các hệ thống chính trị không tồn tại duy nhất một cách thức về việc tổ chức quyền lực. Trên thực tế, tồn tại rất nhiều dạng tổ chức khác nhau với các cách thức hoạt động khác nhau, mặc dù một vài trong số chúng có nền tảng như nhau. Nguyên nhân trực tiếp của sự phong phú của các hệ thống này chính là bởi sự phụ thuốc vào lịch sử và các đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia, dân tộc. Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội, bao gồm các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị – xã hội, được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Nó cũng bao gồm các quy tắc định hướng các hoạt động chính trị, các nguyên tắc mà theo đó những cá nhân hay đảng phái chính trị phải tuân theo. (nôm na là tất cả những gì liên quan đến quyền lực chính trị). Tất cả điều trên tạo ra một quy trình và có chức năng cho phép Nhà nước đạt được mục tiêu chính trị, thông qua việc đưa ra các quyết định sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực. Những quyết định này ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến các thành viên sống trong đó, và đôi khi cũng ảnh hưởng đến chính hệ thống chính trị. Nói đến hệ thống chính trị thì chúng ta không thể không nói đến khái niệm Nhà nước, hai khái niệm này luôn đi song hành với nhau. Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, được lập ra bởi giai cấp thống trị. Theo đó Nhà nước mang tính chất giai cấp. Tuy các Nhà nước được ra đời theo các cách khác nhau nhưng nhìn chung tất cả chúng đều có những đặc điểm chung sau: sở hữu quyền lực công (cảnh sát, quân đội,…); có dân cư và lãnh thổ riêng; có chủ quyền quốc gia (sovereign – quyền tự quyết các vấn đề đội nội và đối ngoại mà không phụ thuộc vào nước khác); ban hành pháp luật; và thu thuế. Các chức năng chính của nhà nước được chia thành đối nội và đối ngoại. Để thực hiên được các chức năng trên, Nhà nước sử dụng ba hình thức hoạt động chính là: Xây dựng pháp luật (lập pháp), tổ chức thực hiện pháp luật (hành pháp) và bảo vệ pháp luật (tư pháp). Mỗi Nhà nước sẽ có cách thức khác nhau trong việc lập pháp, hành pháp và tư pháp, tùy thuộc vào hệ thống chính trị của nó. Vì vậy, dựa vào mối liên hệ này, các nhà lý thuyết đã đưa ra các khái niệm: hình thức chính thể (Form of government), hình thức cấu trúc nhà nước (Form of State) và chế độ chính trị (Political Regime). Hình thức chính thể là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà nước và xác lập những mỗi quan hệ cơ bản của các cơ quan đó. Hình thức cấu trúc nhà nước nói về sự cấu tạo của nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương. Gồm hai dạng chính là Nhà nước đơn nhất (Unitary) và Nhà nước liên bang (Federal). Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lưc nhà nước. Có thể nói rằng, với các Nhà nước hiện đại, họ luôn tự định nghĩa mình là nhà nước dân chủ (auto-define). Điều này tạo nên một mô hình phổ thông của hệ thống chính trịtoàn cầu – nền dân chủ, với nền tảng là các giá trị của Cách mạng Pháp, tự do (liberty), bình đẳng (equality), công lý (justice) và sự tham gia rộng rãi của toàn dân (participatory democracy). Sự xuất hiện cả các Nhà nước hiện đại không thể tách rời với những bản Hiến Pháp được viết đầu tiền của xã hội loài người. Thế kỉ XVIII, xuất hiện ở Pháp và Mĩ, những bản Hiến Pháp đã được tạo nên trên cơ sở học thuyết luật tự nhiên (lex naturalis), khế ước xã hội và chủ nghĩa tự do. Các bản Hiến pháp tự do đã giáng một đòn chí mạng vào hệ thống chính trị lúc bấy giờ – chủ nghĩa chuyên chế phong kiến (absolutism). Hai bản Hiến pháp tạo ra các quy tắc tổ chức xã hội chính trị và Nhà nước: bình đẳng giữa các công dân và tính tối cao của pháp luật (primacy of law). Hay nói một cách khác, ở Pháp cũng như ở Mĩ, thắng lợi của chủ nghĩa tự do (liberalism) đã cho phép tạo ra Nhà nước Pháp chế (State of Law), một nhà nước dựa trên tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, mà ở đó tất cả mọi người, cai trị và bị cai trị, đều phải tuân theo, cũng như sự xuất hiện của quyền con người (Human Rights) và các quy tắc tổ chức quyền lực Nhà nước. Quy tắc tổ chức quyền lực của các Nhà nước hiện đại dựa trên một cơ sở, một nền tảng nổi tiếng và kinh điển: Phân chia quyền lực – Tam quyền phân lập (Separation of Powers – trias política). Được nghiên cứu bởi John Locke, và sau đó với tác phẩm kinh điển ´Tinh thần pháp luật´ (1748) của nam tước Montesquieu, với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị đảm bảo tự do cho các công dân. Montesquieu cho rằng thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau. Trên thực tế, dựa trên cách thức phân chia quyền lực (nền tảng là học thuyết Tam quyền phân lập), các phạm trù của hệ thống chính trị hiện đại và nền dân chủ, hình thức chính thể của một quốc gia có thể phân loại thành hai loại chính: Tổng thống chế (Presidentialism) và Đại nghị chế (Parliamentarism). Sự khác nhau cơ bản có thể nói một cách dễ hiểu, ở Tổng thống chế, nhánh Hành pháp chiếm ưu thế hơn nhánh Lập pháp. Ngược lại ở Đại nghị chế, nhánh Lập pháp có ưu thế hơn hẳn nhánh hành pháp. Mỗi thể chế đều có những đặc điểm riêng, ưu điểm và khuyết điểm. Tồn tại những tranh luận xung quanh việc thể chế nào tốt hơn. Nhưng việc quốc gia nào nên áp dụng thể chế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong số đó chính là lịch sử, đặc điểm của quốc gia, dân tộc và văn hóa chính trị. Chính thể đại nghị, như tên gọi của nó, yếu tố cơ bản chính là Nghị viện (Parliament). Trên tất cả, ở đại nghị chế không có sự phân tách tổ chức và cứng nhắc giữa quyền lực của Chính phủ và Nghị viện (hiểu nôm na là tuy hai nhưng mà là một, tuy một nhưng mà là hai). Hệ thống đại nghị là một hình thức Chính thể đại diện (Representative form) mà trong đó Nghị viện nắm giữ vai trò chủ đạo trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến mọi mặt của quốc gia. Theo nghĩa này, trong đại nghị chế, sự hình thành Chính phủ phụ thuộc vào sự ưng thuận, cho phép (Consent) của phe đa số trong Nghị viện. Phe đa số này có thể đến trực tiếp từ bầu cử (Election), hoặc thông qua liên hiệp, liên minh (Coalition). Sẽ là không đầy đủ khi nói về Đại nghị chế thông qua việc Nghị viện chọn người đứng đầu chính phủ. Cần nói thêm về một đặc điểm khác, đó là Nghị viện sẽ. không chia sẻ quyền lực với bất kì cơ quan nào khác trong việc đưa ra các quyết định về các vấn đề của Nhà nước. Trong Thể chế này, có thể phân chia thành các yếu tố sau: Một nhánh Hành pháp, chia ra thành người đứng đầu Nhà nước (Quốc vương hoặc tổng thống) và người đứng đầu chính phủ (thủ tướng); và một nhánh Lập pháp – Nghị viện, được kết hợp từ hai viện, Thượng Viện và Hạ Viện. Trừ ở Anh Quốc, ở các nước khác, các Thượng nghị sĩ (Senate) của Thượng viện đều được chọn thông qua quá trình bầu cử (Nhánh tư pháp không có gì đặc biệt). Người đứng đầu Nhà nước (Head of State) nhìn chung chỉ mang hình thức biểu tượng, nhưng trong một số trường hợp khủng hoảng, có thể đóng vai trò quan trọng. Trên thực tế, người đứng đầu Nhà nước phải tôn trọng các quyết định của quá trình bầu cử và các quyết định của phe đa số trong Nghị viện. Quyền lực của nhánh Hành pháp được thực hiện thông qua một Nội các (Cabinet) xung quanh một thủ tướng (Prime Minister). Nội các chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nghị viện có quyền giải tán (Dismissal) nội các thông qua việc Bỏ phiếu bất tín nhiệm (Motion of censure) hoặc phản đối thông qua Bỏ phiếu không tín nhiệm (Motion of no confidence). Ở chiều ngược lại, Thủ tướng, nhân danh Người đứng đầu nhà nước (quốc vương hoặc tổng thống) có thể đưa ra quyết định giải thể Nghị viện (Dissolution of Parliament). Chính phủ cũng có thể yêu cầu bỏ phiếu không tín nhiệm như một cách thức để lấy sự ủng hộ của số đông, nhưng nếu không thông qua thì sẽ từ chức. Sự phát triển của Đại nghị chế đã chuyển một phần quyền lực từ tay Nghị viện sang Nội các thông qua các quyền lực này của Thủ tướng. Thủ tướng và nội các được đặt dưới sự kiểm soát chính trị (Political control), thông qua rất nhiều cơ chế bởi Nghị viện. Các cơ chế hay được sử dụng nhiều nhất là quyền điều tra, chất vấn, yêu cầu trình thông tin và yêu cầu trình diện. Điều này không có nghĩa là Chính phủ đặt ở dưới Nghị viện. Cả hai đều có sự tự chủ, mặc dù Chính phủ xuất phát từ phe đa số trong Nghị viện và chịu trách nhiệm trước nó. Lưu ý là chức danh ´´thủ tướng´´ không phải là tất cả các quốc gia thuộc Đại nghị chếđều gọi là thế. Ở Anh, gọi là Prime Minister. Nhưng đều sẽ được gọi là Thủ tướng trong tiếng Việt. Đảng phái chiếm phe đa số nắm giữ một vị trí quan trọng trong việc chuẩn bị và thực hiện các chính sách của Chính phủ, kết nối Hành pháp với Lập pháp. Đảng phái đối lập, nắm giữ nhiệm vụ theo dõi, kiểm soát và chỉ trích chính phủ. Hệ thống các đảng phái hợp lại thành một hệ thống Nghị viện. Nghị viện là kết quả của hệ thống đa đảng kết hợp với các cơ chế bầu cử. Hệ thống đảng phái có thể là lưỡng đảng (bipartisan) với hình thức bầu cử đa số như ở Anh, đa đảng (pluralism) với hình thức bầu cử hỗn hợp như ở Đức, hoặc đa đảng theo đại diện tỉ lệ (proportional representation) ở Tây Ban Nha và Ý. Ưu điểm của Đại nghị chế là rất linh động khi cai trị một xã hội bị ảnh hưởng bởi các xung đột sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ và ý thức hệ, bởi Nghị viện cho phép thảo luận, đối mặt ôn hòa, thương lượng, cam kết và phân chia quyền lực. Hệ thống này có nhiều hình thức khác nhau, có thể là Quân chủ lập hiến (Constitutional Monarchy) như ở Anh, Tây Ban Nha, Nhật Bản,…; hay Cộng hòa đại nghị (Parliamentary Republic) như Đức, Ý, Ấn Độ,… Mỗi nước đều sẽ mang các đặc điểm riêng trong thể chế Đại nghị của nó, vì đó là sự kết hợp giữa các yếu tố lịch sử, chính trịvà các thể chế riêng của từng quốc gia. Lý thuyết về Đại nghị chế ra đời ở Anh Quốc, nơi đầu tiên xuất hiện các quyền tự do, sự phân chia quyền lực và bầu cử người đứng đầu. Sau Thế chiến thứ hai, rất nhiều quốc gia khác đã áp dụng mô hình Đại nghị này trong việc tổ chức quyền lực chính trị. Như đã đề cập, các đặc điểm chính của thể chế này là: Thứ nhất, phân chia nhánh Hành pháp thành Người đứng đầu Nhà nước và Người đứng đầu chính phủ; Thứ hai, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện; và Thứ ba, khả năng giải tán Hạ viện của Chính phủ. Những đặc điểm này xuất hiện đầu tiên ở Anh Quốc vào thế kỉ XVIII, khi mà Chính phủ (gọi là Nội các) tách ra khỏi Quốc vương và chịu trách nhiệm chính trị trước Viện Thứ dân (House of Commons hay Hạ viện), mặc dù vẫn có trong mình khả năng yêu cầu nhà vua giải tán Hạ viện. Nhắc đến Nghị viện chúng ta không thể không nhắc đến một đặc điểm hết sức nổi bật của nó: phân thành lưỡng viện (Bicameralism). Lịch sử ra đời của Lưỡng viện gắn chặt với lịch sử của Anh Quốc, cha đẻ của thể chế Đại nghị. Ở thời kì đầu, chưa xuất hiện một Nghị viện đúng nghĩa, mà là một Đại hội đồng của Nhà vua (King´s Grand Council), nơi tập hợp những Quý tộc và các Tăng lữ cao cấp của nhà thờ. Trong thế kỉ XI và XII, Nhà vua được vây xung quanh bởi các cố vấn, được chính vua lựa chọn trong những Quý tộc và Tăng lữ cấp cao, hình thành nên một cơ quan duy nhất (một Viện duy nhất). Sang đến thế ki XIII, sau sự kiện Vua John chuẩn thuận Đại Hiến Chương vào năm 1215 (Magna Carta), khi mà bắt đầu xuất hiện các mầm mống tư sản, Viện đã kết nạp thêm những người đại diện cho các khu dân cư, bởi sự ưng thuận của họ rất cần thiết trong việc thiết lập các loại thuế. Với lời triệu tập của vua Edward I, Viện đã thêm đại diện của tầng lớp tư sản non trẻ và các Tăng lữ cấp thấp. Như vậy, bốn giai cấp trong xã hội Anh lúc bấy giờ tụ họp lại trong Viện: Quý tộc, Tư sản, Tăng lữ và Đại diện dân cư. Lưỡng viện ra đời trên cơ sở những mâu thuẫn không thể hàn gắn giữa đại diên của lực lượng sản xuất mới trong xã hội – Tư sản, và tầng lớp Quý tộc, Tăng lữ. Vào cuối thế kỉ XIV, Nghị viện cuối cùng đã phân chia thành hai: Tầng lớp Tư sản và các Đại diện dân cư tạo nên Viện Thứ dân (House of Commons), còn các Quý tộc và Tăng lữtạo thành viện Quý tộc (House of Lords)
|
Tổng thống chế
|
Tổng thống chế hay Hệ thống tổng thống (tiếng Anh: Presidential system) là một hệ thống chính phủ mà trong đó có một ngành hành pháp tồn tại và ngự trị (như tên gọi) tách biệt khỏi ngành lập pháp. Ngành hành pháp này không có trách nhiệm gì đối với ngành lập pháp và trong mọi hoàn cảnh bình thường ngành lập pháp không thể giải tán nó. Khái niệm về vùng ảnh hưởng riêng biệt giữa ngành hành pháp và lập pháp đã được nói rõ trong Hiến pháp Hoa Kỳ cùng với sự ra đời của chức vụ Tổng thống Hoa Kỳ được bầu lên riêng biệt không lệ thuộc vào quốc hội. Mặc dù đây không phải là hệ thống đặc trưng riêng của các nước cộng hòa vì hệ thống này vẫn có thể được áp dụng trong trường hợp của các nước quân chủ lập hiến bán phần mà trong đó nhà vua thực thi quyền lực của mình (cả trong tư cách nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu ngành hành pháp của chính phủ) bên cạnh một ngành lập pháp nhưng thuật từ này thường có liên hệ đến các hệ thống cộng hòa ở châu Mỹ.
|
Nội dung1 Gen là gì?2 Bộ gen là gì?2.1 Số lượng gen trong bộ gen của người3 TÀI LIỆU THAM KHẢO. Các gen được tạo thành từ ADN. Một số gen đóng vai trò là hướng dẫn để tạo ra các phân tử được gọi là protein. Tuy nhiên, nhiều gen không mã hóa protein. Ở người, gen có kích thước khác nhau từ vài trăm cho đến hơn 2 triệu base pairs. Dự án giải mã bộ gen người (Human Genome Project) ước tính rằng con người có từ 20.000 đến 25.000 gen. Mỗi người có hai bản sao của mỗi gen, một bản sao được di truyền từ cha và mẹ. Hầu hết các gen đều giống nhau ở tất cả mọi người, nhưng một số lượng nhỏ gen (ít hơn 1% tổng số) có chút khác biệt giữa mọi người. Các alen là các dạng của cùng một gen với sự khác biệt nhỏ trong trình tự các cơ sở ADN của chúng. Những khác biệt nhỏ này góp phần tạo nên tính năng vật lý độc đáo cho mỗi người. Các nhà khoa học theo dõi các gen bằng cách đặt cho chúng những cái tên độc đáo. Bởi vì tên gen có thể dài, các gen cũng được gán các ký hiệu, là sự kết hợp ngắn của các chữ cái (và đôi khi là số) đại diện cho một phiên bản rút gọn của tên gen. Ví dụ, một gen trên nhiễm sắc thể số 7 (chromosome 7) có liên quan đến bệnh xơ nang (Cystic fibrosis) được gọi là chất điều hòa dẫn truyền sợi xơ nang; biểu tượng của nó là CFTR. Từ định nghĩa về gen, chúng ta thấy rằng: gen có bản chất là ADN, trên một phân tử ADN chứa rất nhiều gen quy định các tính trạng khác nhau của cơ thể người. Ngoài ra, còn có các loại gen khác, bao gồm gen phân mảnh và gen không phân mảnh. Mỗi người sẽ có hai bản sao của một gen, một bản từ bố và bản còn lại từ mẹ. Hầu hết các gen là như nhau ở mọi người, nhưng có một số ít gen (ít hơn 1% tổng số) hơi khác nhau giữa mỗi người. Alen là các dạng của cùng một gen với những khác biệt nhỏ trong trình tự base DNA. Những khác biệt nhỏ này tạo nên nét đặc trưng của mỗi người. Bộ gen hay hệ gen, genome là tập hợp chứa đựng toàn bộ thông tin di truyền của một cơ thể sinh vật được mã hóa trong ADN (ở một số virus có thể là ARN). Bộ gen bao gồm những vùng chứa gen lẫn những đoạn không phiên mã. Mặc dù số lượng cặp base của ADN ở bộ gen người đã được biết đến từ thập niên 1960, ước tính số lượng gen có sự thay đổi theo thời gian khi định nghĩa về gen, và phương pháp xác định chúng liên tục được cập nhật và tinh chỉnh. Các dự đoán lý thuyết ban đầu về số lượng gen ở người cao tới mức 2.000.000 gen. Trong khi các kết quả đo thực nghiệm sơ bộ ban đầu cho thấy số lượng này trong khoảng 50.000–100.000 gen được phiên mã (bằng phương pháp đánh dấu trình tự biểu hiện). Sau đó, kết quả giải trình tự ở Dự án Bản đồ gen ở Người cho thấy nhiều trình tự được phiên mã là những biến thể khác của cùng một gen, và tổng số lượng gen mã hóa protein giảm xuống còn ~20.000 trong đó có 13 gen mã hóa nằm trong bộ gen ty thể. Nghiên cứu sâu hơn từ dự án GENCODE, tiếp tục cho ước lượng số gen giảm xuống còn ~19.900. Trong bộ gen ở người, chỉ 1–2% trong 3 tỷ cặp base ADN là đoạn mã hóa protein, những đoạn còn lại là các ADN ‘không mã hóa’ bao gồm intron, retrotransposon, các trình tự điều hòa ADN và các đoạn ADN phiên mã thành ARN không mã hóa. Tuy gen đóng một vai trò to lớn trong sự hình thành tính trạng và mọi hoạt động của sinh vật, trong đó có cả con người, nhưng tác động của môi trường bên ngoài và cả những gì sinh vật đã trải qua cũng có vai trò rất quan trọng, thậm chí tạo ra kết quả sau cùng của biểu hiện tính trạng. Chẳng hạn, nhiều gen cùng quy định chiều cao của một người, nhưng chế độ dinh dưỡng, luyện tập của người đó cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Những kiến thức cụ thể hơn về gen, ADN, công nghệ giải trình tự gen sẽ giúp các bạn có được bức tranh tổng thể về dịch vụ xét nghiệm ADN huyết thống Cha Con mà Trung tâm Xét nghiệm ADN NOVAGEN đang triển khai. VĂN PHÒNG HÀ NỘI: Tầng 5, tòa nhà An Phú, 24 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội.
|
Hệ gen học
|
Hệ gen học là một lĩnh vực khoa học liên ngành nghiên cứu về tất cả các gen thuộc bộ gen của cơ thể sinh vật, trong mối quan hệ của các gen này cũng như sản phẩm của chúng với nhau và trong mối tương tác với môi trường., , Tổ chức y tế Thê giới (WHO) đã định nghĩa ngắn gọn hơn: "Hệ gen học là khoa học nghiên cứu về gen cùng chức năng của chúng và các kỹ thuật liên quan".Thuật ngữ này dịch từ nguyên gốc tiếng Anh genomics (IPA: /jēˈnōmiks/) dùng để chỉ một nhánh của sinh học hiện đại mới hình thành tương đối gần đây, nhưng đã và đang phát triển nhanh chóng để phục vụ Y học, Tin sinh học, lập bản đồ gen, giải trình tự gen và các môn khác có liên quan. Sự khác biệt chính giữa hệ gen học (genomics) với di truyền học (genetics) là ở chỗ di truyền học nghiên cứu chủ yếu về một hoặc vài gen riêng biệt (đơn lẻ), còn hệ gen học nghiên cứu về tất cả các gen cùng mối quan hệ tương tác giữa chúng với nhau, giữa chúng với các sản phẩm của chính chúng và với môi trường., Ngoài ra, khoa học liên ngành này còn có những lĩnh vực riêng chuyên nghiên cứu một loài cụ thể, chẳng hạn như chỉ nghiên cứu về người (Homo sapiens) được gọi là "hệ gen học người" mà Human Genomics là một tạp chí cung cấp nhiều tin tức về sức khỏe, bệnh tật của con người, cũng như hiệu quả và an toàn của thuốc đối với bộ gen người.
|
Chính sách xã hội là một dạng chính sách được nhà nước ban hành nhằm cung cấp cho người dân những dịch vụ xã hội tốt nhất và các chính sách xã hội nhằm hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn của xã hội. Chính sách xã hội là biện pháp được đưa ra bởi đảng và nhà nước nhằm hỗ trợ cho các đối tượng chính sách của xã hội, và phục vụ cho lợi ích chung của xã hội. Bạn có thể định nghĩa chính sách xã hội là gì không? Chính sách xã hội được hiểu đơn giản nó là tổng hợp của các phương thức, các biện pháp được các tổ chức chính trị, Đảng và nhà nước đưa ra với mục đích nhằm thỏa mãn cho nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn bộ người dân và các chính sách đưa ra phải phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước, sử phát triển văn hóa và xã hội của đất nước. Thông qua việc đưa ra các pháp luật hay các quy định do nhà nước ban hành để người dân phải thực hiện theo những hướng chính sách đó của nhà nước giúp đất nước phát triển với hướng đi đúng đắn. + Chính sách xã hội được bạn hành cho những người lao động trong xã hội và nhóm đối tượng này thường được gọi là đối tượng chính sách và đối tượng xã hội. + Chính sách về giai cấp là chính sách cho các tầng lớp trong xã hội hiện nay, với các nhóm xã hội cụ thể như: Tầng lớp thanh niên, tang lớp tri thức, chính sách về dân tộc, chính sách tôn giáo. Chính sách xã hội là các chính sách được ban hành bởi nhà nước nhằm ổn định xã hội thông qua những tác động cụ thể đến các đối tượng khác nhau và được phân theo nhóm để hưởng các chính sách xã hội mà nhà nước ban hành. + Ổn định xã hội, thông qua các chính sách khác nhau cho các tầng lớp để giám bới hoặc rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. Đem đến cho người dân những điều kiện để cùng được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản của một con người được hưởng. + Đảm bảo sự an sinh xã hội khi các chính sách được bạn hành cho các nhóm đối tượng cụ thể. Thông qua việc xác định các nhóm đối tượng để đưa ra được chính sách xã hội phù hợp với nhóm đối tượng đó. Đảm bảo tất cả người dân có một cuộc sống tốt đẹp hơn trong sự phát triển chung của xã hội. + Thông qua việc nghiên cứu về chính sách xã hội giúp dực báo về tình hình xã hội cho các cấp quản lý và lãnh đạo, từ đó đưa ra được các chính sách thiết thực nhất với người dân, và hỗ trợ tốt nhất giúp an ninh xã hội. + Chính sách xã hội của một quốc gia càng hoàn thiện càng đánh giá được rằng quốc gia đó có sự phát triển đồng đều về kinh tế và xã hội. + Chính sách xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững xã hội qua từng giai đoạn cụ thể phát triển của đất nước. Chính sách xã hội đi song song với chính sách kinh tế để hỗ trợ tốt nhất cho con người và phát triển đồng bộ đất nước. Bạn có thấy hứng thú với ngành Quản lý nhà nước? Bạn cảm thấy tò mò về công việc của ngành này không? Cùng timviec365.vn khám phá ngành Quản lý nhà nước nhé. Bạn có biết vấn đề chính sách xã hội là gì và vấn đề nào cần được quan tâm và đưa ra các chính sách trong xã hội hiện nay? Vấn đề trong chính sách xã hội cần được quan tâm và đề cao. Thông qua việc đưa ra các vấn đề trong chính sách xã hội sẽ biết được là đối tượng nào cần được tác động và đối tượng nào cần có sự hỗ trợ của chính sách xã hội, và xã hội đang gặp vấn đề gì mà cần có sự giải quyết bởi các chính sách xã hội để đưa đất nước phát triển. Các vấn đề mà chính sách xã hội cần hướng đến hiện nay là:. + Đưa ra được các chính sách xã hội về an sinh xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của đất nước. + Nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của người dân trong xã hội, đặc biệt là người có công với đất nước. + Đa dạng hệ thống an sinh xã hội để thực hiện chức năng toàn diện nhất và đa dạng nhất. Đảm bảo sự phát triển đất nước bền vững của một quốc gia và sự công bằng của các tầng lớp trong xã hội. + Tạo điều kiện cho người dân có khả năng tự nâng cao khả năng tự đảm bảo an sinh xã hội cho mình và cho xã hội. Đối tượng chính sách là gì? Đối tượng chính sách bạn có thể hiểu đơn giản là các đối tượng thường thuộc nhóm những người lao động và có hoàn cảnh khó khăn có thể do kinh tế hoặc do các điều kiện tự nhiên bên ngoài, hoặc khó khăn từ chính bản thân họ. Những đối tượng này được hưởng chính sách xã hội từ nhà nước nằm hỗ trợ họ và giúp họ có được quyền lợi bình đẳng với các giai cấp xã hội khác trong xã hội, tăng khả năng tiếp cận với các thông tin, và dịch vụ xã hội tốt hơn. + Công dân ưu tú trong sản xuất trực tiếp với 5 năm lao động và nhận được liên tục và trong đó cần có 2 năm là chiến sĩ thi đưa được tỉnh, thành phố, bộ công nhận và có cấp bằng khen. + Thương binh, bệnh binh, quân nhân, công an nhân dân tại ngũ được cử đi học, hoặc đã hoàn thành nghĩa vụ từ 12 tháng trở lên và hiện đã xuất ngũ tại khu vực 1. + Con thương binh, liệt sĩ, con bệnh binh, con bà mẹ Việt Nam anh hùng, con của thương binh mất sức lao động trên 81%, con của anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động. + Quân nhân, công an nhân dân được cử đi học hoặc quan nhân, công an đã hoàn thành nghĩa vụ từ trên 24 tháng và hiện nay đã xuất ngũ. Nhiều người sẽ thắc mắc và nghe rất nhiều đến hộ chinh sách. Vậy hộ chính sách xã hội là gì bạn có thể định nghĩa không? Hộ chính sách là nói đến hộ gia đình thuộc diện được hưởng các chính sách xã hội hiện nay như:. Còn nhiều các họ gia đình trong xã hội thuộc vào diện được hưởng các chính sách xã hội của nhà nước nhằm giúp đỡ và hỗ trợ hộ phần nào đó về an sinh xã hội và có cơ hội để được tiếp cận thông tin và dịch vụ tốt hơn cho họ. + Chính sách với người có công, đưa ra các chính sách ưu đãi và phù hợp với họ nhằm giúp họ tiếp cận được các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục, đào tạo, và tạo điều kiện để phát triển kinh tế và việc làm cho họ. Qua đó giúp họ ổn định cuộc sống và phát triển hơn về kinh tế của hộ gia đình. + Cách chính sách về an ninh xã hội như: Các chính sách về việc làm, chính sách về thu nhập, chính sách giảm thiệu nghèo trên cả nước, chính sách về bảo hiểm xã hội, chính sách trợ giúp những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chính sách về các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân (đảm bảo giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nước sách, thông tin). Còn rất nhiều các chương trình cho vay để hỗ trợ người dân trong việc phát triển kinh tế và ổn định cuộc sống của mình. Qua những chia sẻ trên về “chính sách xã hội là gì?”, hy vọng qua những chia sẻ này sẽ giúp bạn hiểu và có thêm được phần nào đó kiến thức cho bản thân về chính sách xã hội hiện nay.
|
Chính sách công
|
Chính sách công là hướng dẫn nguyên tắc cho hành động được thực hiện bởi các cơ quan hành pháp của nhà nước liên quan đến một nhóm các vấn đề, theo cách phù hợp với pháp luật và thiết chế xã hội. Gần đây đã có một phong trào sử dụng bằng chứng nhiều hơn trong các quyết định chính sách hướng dẫn. Những người ủng hộ chính sách dựa trên bằng chứng cho rằng bằng chứng khoa học chất lượng cao, thay vì truyền thống, trực giác hoặc hệ tư tưởng chính trị, nên hướng dẫn các quyết định về chính sách. Nền tảng của chính sách công bao gồm các luật và quy định hiến pháp quốc gia. Các chất nền hơn nữa bao gồm cả các diễn giải và quy định tư pháp thường được pháp luật cho phép. Chính sách công được coi là mạnh mẽ khi giải quyết vấn đề hiệu quả và hiệu quả, phục vụ và hỗ trợ các thể chế và chính sách của chính phủ và khuyến khích sự tích cực của công dân. Trong cuốn sách Giới thiệu nâng cao về chính sách công , B. Guy Peters định nghĩa chính sách công là "tập hợp các hoạt động mà chính phủ tham gia với mục đích thay đổi nền kinh tế và xã hội", nói một cách hiệu quả rằng chính sách công là luật được đưa vào nhằm mục đích mang lại lợi ích hoặc tác động đến cử tri theo một cách nào đó.
|
“Yellow Flicker Beat” là bài hát của nữ ca sĩ thu âm người New Zealand Lorde. Được sáng tác bởi Lorde và Joel Little và sản xuất bởi Little và Paul Epworth, bài hát được phát hành vào ngày 29 tháng 9 năm 2014, trở thành đĩa đơn đầu tiên từ album nhạc phim cho bộ phim điện ảnh The Hunger Games: Húng nhại – Phần 1, phát hành bởi hãng thu âm Republic Records. “Yellow Flicker Beat”, với sự xuất hiện của một số âm thanh điện tử, được coi là một bài hát thuộc thể loại nhạc art pop và electropop. Phong cách âm nhạc của “Yellow Flicker Beat” được so sánh với các sản phẩm âm nhạc được phát hành trước đó của Lorde như bài hát “Biting Down” trong The Love Club EP (2013) và album phòng thu đầu tay của cô, Pure Heroine (2013). Phần lời của bài hát có liên quan tới sự nổi dậy của Katniss Everdeen, nhân vật nữ chính trong The Hunger Games. Bài hát được tiếp nhận khá tốt từ các nhà phê bình âm nhạc, họ đề cao phần lời nhạc đã trưởng thành hơn so với các sản phẩm trước đó của Lorde. Về mặt thương mại, “Yellow Flicker Beat” đạt ví trí cao nhất là ba mươi tư trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ và lọt vào các bảng xếp hạng âm nhạc của nhiều quốc gia, trong đó có Úc, Canada và New Zealand. Video âm nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Emily Kai Bock được phát hành vào ngày 7 tháng 11 năm 2014. Bốn ngày sau, một bản phối khác của bài hát có tựa đề “Flicker (Kanye West Rework)” đồng sản xuất bởi Lorde và Kanye West được phát hành. Lorde biểu diễn bài hát tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2014 vào ngày 23 tháng 11 năm 2014. Bài hát được đề cử cho hạng mục Ca khúc trong him hay nhất tại Giải Quả cầu vàng lần thứ 72, và Ca khúc trong phim hay nhất tại Giải chọn lựa của các nhà phê bình phim lần thứ 20. Ngày 31 tháng 7 năm 2014, Lorde được công bố sẽ thu âm một số bài hát cho album nhạc phim The Hunger Games: Húng nhại – Phần 1. Ngày 23 tháng 9 năm 2014, Lorde thông báo rằng bài hát có tựa đề “Yellow Flicker Beat” sẽ được phát hành vào ngày 29 tháng 9 năm 2014. Bài hát được sáng tác bởi Lorde và Joel Little và được sản xuất bởi Paul Epworth. “Yellow Flicker Beat” được thu âm tại Phòng thu Lakehouse Recording Studios tại New Jersey vào ngày 28 và 29 tháng 8 năm 2014. Bài hát được chỉnh sửa bởi Matt Wiggins và Erik Kase Romero. Vào ngày 29 tháng 9 năm 2014, “Yellow Flicker Beat” được phát hành kĩ thuật số trên cửa hàng trực tuyến iTunes Store trên toàn thế giới bởi Republic Records. Cùng ngày đó, bài hát được gửi tới đài phát thanh contemporary hit radio của Ý và đài adult album alternative (AAA) cùng với đài modern rock của Mỹ. Video âm nhạc cho “Yellow Flicker Beat” được đạo diễn bởi Emily Kai Bock và được phát hành vào ngày 7 tháng 11 năm 2014 lúc nửa đêm (giờ New Zealand), khi Lorde bước sang tuổi mười tám. Video mở đầu với cảnh Lorde hát trong một căn phòng trọ đèn mờ, với kiểu tóc hất ngược ra phía sau. Sau đó, video thể hiện Lorde ở nhiều ảnh quay và ở những địa điểm khác nhau: trong phòng bếp, trên đường cao tốc, trong một nhà chứa máy bay và trong một bữa tiệc cocktail mang phong cách thập niên 1920. Ở mỗi địa điểm, Lorde lại xuất hiện với những phong cách khác nhau, về cả trang phục lẫn cách trang điểm. Và cũng trong những cảnh quay này, Lorde “thể hiện những điệu nhảy giậm giật đầy mê hoặc của mình.”. Zach Dionne từ Billboard khen ngợi phong cách thời trang ở trong video và cho rằng nó thật “tuyệt vời”. Jon Blistein của Rolling Stone thì cho rằng video âm nhạc này hầu như chẳng liên quan gì đến The Hunger Games; tuy nhiên, nó lại bắt được cái “sự dễ bị ghét bỏ và tính bất chấp vốn là nguồn nhiên liệu cho Katniss.” Tương tự, Andrew Untergerger từ Spin viết rằng video này rất “đáng thất vọng nó không có bất kì một cảnh quay Hunger Games nào bên trong”, sau đó khen ngợi việc sản xuất tổng quan và gọi nó “mang chất điện ảnh.” Còn đại diện cho MTV News, Abby Devora viết rằng Lorde đang “thực sự chạm đến cái chất riêng của mình” và gọi nó là một sự thay đổi đáng mong đợi so với các video âm nhạc trước đó của Lorde. Cuối tháng đó, cô biểu diễn trực tiếp bài hát tại lễ hội âm nhạc ACL Music Festival. Lorde cũng biểu diễn “Yellow Flicker Beat” tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2014 vào ngày 23 tháng 11 năm 2014. Billboard mô tả buổi biểu diễn này “…thành thật mà nói, đây là chân dung không tì vết của cái chất riêng trong Lorde.”, và miêu tả nó “tốt một cách đáng sợ”.
|
The Hunger Games
|
Đấu Trường Sinh Tử: Húng nhại – Phần 1 (tựa gốc tiếng Anh: The Hunger Games: Mockingjay – Part 1) là một bộ phim chiến tranh khoa học viễn tưởng năm 2014 của đạo diễn Francis Lawrence với phần kịch bản được viết bởi Peter Craig và Danny Strong. Đây là phần đầu tiên trong hai phần phim dựa trên cuốn tiểu thuyết Húng nhại, cuốn sách cuối cùng trong bộ ba tiểu thuyết Đấu trường sinh tử, sáng tác bởi Suzanne Collins và là bộ phim thứ ba trong loạt phim The Hunger Games, sản xuất bởi Nina Jacobson, Jon Kilik và phát hành bởi hãng phim Lions Gate Entertainment. Bộ phim có sự tham gia của Jennifer Lawrence, Josh Hutcherson, Liam Hemsworth, Woody Harrelson, Elizabeth Banks, Julianne Moore, Philip Seymour Hoffman, Jeffrey Wright, Stanley Tucci, và Donald Sutherland. Đây là phần tiếp sau của The Hunger Games: Bắt lửa và được theo sau bởi phần cuối cùng, The Hunger Games: Húng nhại – Phần 2. Bộ phim tiếp tục với câu chuyện của Katniss Everdeen; đã sống sót qua hai kỳ Đấu trường Sinh tử, Katniss nhận ra rằng cô đang ở trong Quận 13. Dưới sự lãnh đạo của Thống đốc Coin cùng với những lời khuyên từ những người bạn mà cô tin tưởng, Katniss bất đắc dĩ trở thành biểu tượng của cuộc nổi dậy chống lại Capitol và chiến đấu để giải cứu cho Peeta.
|
Nhắc đến bộ sản phẩm chăm sóc da tối ưu từ bên ngoài lẫn bên trong của phái nữ nói chung và mọi người nói riêng thì sản phẩm đầu tiên loại bỏ các chất độc hại, bui bẩn, bả nhờn, làm sạch da, lỗ chân lông,. đó chính là sữa rửa mặt. Còn gì tuyệt vời hơn, khi sử dụng một loại sữa rửa mặt không chỉ phù hợp với da mà còn mang lại hiệu quả cực tốt, sở hữu ngay một làn da mịn màng, trắng sáng. Vì thế, đáp ứng nhu cầu hiện này, bài viết này giới thiệu 10 loại sản phẩm sữa rửa mặt Hàn Quốc tốt nhất, hiệu quả nhất xuất xứ từ Hàn Quốc - quốc gia sở hữu lượng mỹ phẩm chăm sóc da mặt cực kì hiệu quả. Vậy vì sao, không sở hữu ngay một sản phẩm như thế. Hi vọng các bạn có thể chọn được sản phẩm phù hợp nhé!. Sữa Rửa Mặt Làm Sạch Sâu Lỗ Chân Lông Laneige Mini Pore Double Clearing Cleansing Foam. Sữa rửa mặt thải độc rau củ Byvibes Wonder Bath Super Vegitoks Cleanser (Màu xanh). Sữa Rửa Mặt Ngăn Ngừa Mụn Sạch Nhờn Dịu Nhẹ Da Nhạy Cảm SNP Acsys Cleansing Foam. Sữa rửa mặt là một sản phẩm tẩy rửa da mặt được sử dụng để loại bỏ lớp trang điểm, tế bào da chết, dầu, bụi bẩn, và các loại chất ô nhiễm khác từ da trên mặt. Giúp rửa sạch lỗ chân lông và ngăn ngừa các tình trạng da như mụn trứng cá. Vậy sửa rửa mặt Hàn Quốc là dòng sản phẩm có nguồn gốc từ xứ sở kim chi - Hàn Quốc. Hàn Quốc có thể được xem là nơi cho ra nhiều loại sản phẩm chăm sóc mặt tương đối đa dạng và mang lại hiệu quả khá rõ rệt. Dòng sản phẩm sửa rủa mặt là nằm trong chuỗi dưỡng da, sửa rửa mặt - nước hoa hồng - toner - kem dưỡng da ban đêm - kem dưỡng da ban ngày. Chính là lỗ trình bảo vệ và chăm sóc da hiệu quả. Đặc biệt, bước đầu là sữa rửa mặt là bước cơ bản cũng như quan trọng nhất. Vì vậy, lựa chọn đúng dòng sản phẩm phù hợp với tình loại da là lựa chọn tốt và mang lại hiệu quả tốt nhất. Sữa Rửa Mặt Dạng Bọt Dưỡng Ẩm Da Klairs Rich Moist Foaming Cleanser chứa HA, Ceramide 3 & tinh dầu oliu cùng cùng các thành phần chiết xuất từ tinh dầu thực vật như bưởi, tràm trà, bơ hạt mỡ giúp tăng cường khả năng giữ ẩm cho làn da sau khi sử dụng. Công thức hoạt tính từ Amino Acid, là thành phần có trong Protein và đặc biệt không chứa chất tẩy rửa sẽ làm sạch sâu tận trong lỗ chân lông, cân bằng độ pH da mà không gây nên hiện tượng kích ứng, kể cả làn da nhạy cảm. Sản phẩm có kết cấu dạng bọt màu trắng, lớp bông tạo bọt lỏng mịn. Do chiết xuất từ thành phần thiên nhiên, lành tính nên độ tạo bọt khá ít. Loại da phù hợp: Sản phẩm thích hợp với mọi loại da, kể cả làn da nhạy cảm. Vitamin B1, B3 và B5 hoàn toàn tinh khiết sẽ giúp làm sáng và mịn da, đơn giản, an toàn mà hiệu quả. Giúp lấy sạch hoàn toàn bụi bẩn và bã nhờn sâu trong lỗ chân lông, đồng thời làm sáng da nhờ dẫn xuất tinh khiết từ nước gạo. Sản phẩm dễ dàng tạo bọt, tạo cảm giác trơn láng, mềm mịn sau khi rửa mặt. Thành phần từ nước ép lá trà xanh tươi Beauty Green Tea và chiết xuất rễ trà xanh. Sữa rửa mặt trà xanh thích hợp cho da bị kích ứng với ô nhiễm môi trường, da có mụn nhưng không quá khẩn cấp (khẩn cấp và nhiều mụn khuyên dùng bộ Jeju Bija). Có khả năng làm sạch sâu, tái tạo mới làn da, làm sáng da, chống oxy hóa và ngăn ngừa mụn, viêm hiệu quả. Chiết xuất rễ Trà Xanh chứa lượng Saponin dồi dào - đóng vai trò là chất tẩy rửa thiên nhiên. - Tinh túy của trà xanh và rễ trà xanh được chắt lọc và nghiên cứu thành dòng sản phẩm có khả năng:. Chiết xuất từ 100% trà xanh nguyên chất được nuôi dưỡng từ trong lòng đất có chứa các chất Linoleic Acid, Catechin, Vitamin E và các chất khoáng có tác dụng phục hồi độ đàn hồi và sự tươi trẻ cho da. Các Polyphenol trong trà xanh như EGCG có tác dụng chống ung thu da, chống tia cực tím, chống oxi hóa da và các ảnh hưởng xấu từ môi trường như khói thuốc lá, khói xe. Sữa rửa mặt Mini-pore double clearing cleansing Foam với bọt siêu mịn mang lại hiệu quả trong việc làm sạch sâu lỗ chân lông và dưỡng ẩm hiệu quả. Laneige Mini-pore –Dòng sản phẩm chăm sóc lỗ chân lông giúp dưỡng ẩm da không gây cảm giác khô căng. Dòng sản phẩm Laneige mini-pore với các bước giúp làm sạch sâu làn da của bạn. Với bọt siêu mịn mang lại hiệu quả trong việc làm sạch sâu lỗ chân lông và dưỡng ẩm hiệu quả. Bọt siêu mịn giúp hiệu quả trong việc làm sạch sâu lỗ chân lông, và là sản phẩm sữa rửa mặt tạo bọt hiệu quả. Các hạt dưỡng ẩm có chứa các thành phần chiết xuất từ nước trà xanh, sáp tre và hoa sen giúp làm ẩm làn da. Thành phần nước bạc hà với công thức dựa vào nước và chiết xuất bạc hà cung cấp độ ẩm cần thiết giúp làm dịu da và lỗ chân lông thu nhỏ hơn. Sản phẩm được bổ sung viên nang chứa nước trà xanh, nhựa của Phyllostachys bambusoides (1 loại tre của Nhật) và chiết xuất từ hoa sen giúp giữ da ẩm mượt, sạch nhờn dầu mà không cảm thấy khô căng. tẩy trang: loại bỏ lớp bụi cùng lớp mỹ phẩm trang điểm trên bề mặt da. Rửa sạch sâu: rửa sạch bụi bẩn ngay cả bã bẩn nằm sâu trong lớp biểu bì mà các loại sữa rửa mặt thông thường không có được, loại bỏ mụn đầu đen, giúp làm sạch da mà không bị khô căng, da sáng mịn dần. Mặt nạ thải độc: giúp loại bỏ các tạp chất và keratin cũ, các độc tố, chì, hóa chất tích tụ lâu ngày trên da, tăng khả năng tuần hoàn, lưu thông máu, dưỡng ẩm cho da, giúp da sạch mụn, mịn màng, trắng sáng, giảm thâm, nám da, kích thích sản sinh collagen và làm mềm da. Dưỡng da, cân bằng độ ẩm cho da. Chai màu xanh: Sữa rửa mặt Super Vegitoks được làm hoàn toàn 100% thành phần rau củ như: Bắp Cải, Su Hào, Cần Tây, Chanh, Súp Lơ, Lá Rau Diếp Cá, Cà Chua, Khoai Tây, Lá Bạc Hà, Mầm Lúa Mì….nên an toàn với ngay cả da nhạy cảm. Chiết xuất Chanh: chiếc xuất từ chanh có tác dụng loại bỏ vi khuẩn, làm sạch da, giảm mụn hiệu quả. Hơn nữa axit trong chanh còn giúp chống lão hóa da, đào thải các độ tố da, làm da trắng sáng hơn. Chiết xuất Cây cáy cánh, bơ, bắp cải, su hào: Cung cấp dưỡng da và cân bằng độ ẩm cho ạ. Có khả năng thải độc sâu và cung cấp thêm dưỡng chất để nuôi dưỡng làn da từ bên trong. Cực kỳ dịu nhẹ, không hề làm khô hay rát da sau khi dùng Phù hợp cho mọi loại da, kể cả da nhạy cảm, da kích ứngSản phẩm có kết cấu dạng gel lỏng màu xanh đặc trưng của rau củ. Dễ tạo bọt nhỏ li ti trên mặt giúp dễ dàng lấy đi bụi bẩn và thải độc cho da. Gel rửa mặt dịu nhẹ dành cho da nhạy cảm cao cấp Huxley Cleansing Gel ; Be Clean, Be Moist nhằm nâng niu làn da bạn mỗi ngày. Sản phẩm dạng Gel trong suốt làm sạch da nhẹ nhàng mà không làm khô da. Thành phần tối giản, có chứa tinh chất Aquacacteen từ cây xương rồng, giúp làm dịu làn da bị dị ứng, đặc tính dưỡng ẩm tuyệt vời do chứa hàm lượng cao các hợp chất giữ nước, đặc biệt phù hợp với làn da hay bị kích ứng, dị ứng, da nhạy cảm. Chức năng chính của em nó là sữa rửa mặt nhưng cũng le lói lấn sân sang tẩy trang. Với kết cấu dạng lỏng trong suốt, nhẹ nhàng cuốn trôi lớp cặn kem chống nắng, bụi bẩn đọng sâu lỗ chân lông đồng thời cấp ẩm tức thì vào từng lớp biểu bì của da Đặc biệt nhất của các sản phẩm Huxley vẫn là thành phần chủ chốt chiết xuất từ hạt cây xương rồng -> àm dịu làn da bị dị ứng mẩn đỏ, giảm viêm sưng do mụn và tổn thương. Giúp loại bỏ những chất có thải, tẩy sạch bã nhờn và làm thoáng lỗ chân lông làm da bạn sạch hơn. Cung cấp các dưỡng chất làm tăng sắc tố cho da, trẻ hóa các tế bào. Tác dụng giữ ẩm hiệu quả, duy trì sự đàn hồi cho làn da mịn màng tươi sáng và trắng hồng tự nhiên. Cung cấp lượng nước cần thiết để giữ độ ẩm cho da giúp da luôn mềm mại mà không thô ráp. Tạo lớp màng bảo vệ ngăn chặn những tác hại của môi trường lên da. Sữa Rửa Mặt Sâm Đỏ My Gold cung cấp lượng nước cần thiết để giữ độ ẩm cho da giúp da luôn mềm mại mà không thô ráp. Hỗ trợ giảm thiểu những chất có thải, tẩy sạch bã nhờn và làm thoáng lỗ chân lông làm da bạn sạch hơn. Cung cấp các dưỡng chất làm tăng sắc tố cho da, trẻ hoá các tế bào. Luôn luôn giữ ẩm tốt cho da, duy trì sự đàn hối cho làn da mịn màng tươi sáng và trắng hồng tự nhiên. Tạo lớp màng bảo vệ ngăn chặn những tác hại của môi trường lên da, ngăn ngừa mụn. Sữa rửa mặt Acsys mẫu mới được cải tiến hương liệu so với các mẫu trước đây giúp độ an toàn lành tính của sản phẩm càng thêm hoàn hảo cho những làn da nhạy cảm, da mụn, dễ kích ứng. Sữa rửa mặt làm sáng da chiết xuất Gạo TFS – Rice water bright cleansing foam là sản phẩm sữa rửa mặt nằm trong bộ sản phẩm làm sạch và chăm sóc da chiết xuất từ Gạo, hoàn toàn tự nhiên và lành tính với làn da của bạn. Có mùi thơm dễ chịu. Sử dụng sữa rửa mặt chiết xuất từ Gạo Rice Water Bright Cleansing Foam mỗi ngày để cảm nhận làn da sáng dần lên và thật khỏe mạnh, căng mượt. Rice Water Bright Cleansing Foam là sữa rửa mặt chiết xuất từ nước gạo và dầu thực vật Moringa, giúp lấy sạch hoàn toàn bụi bẩn và bã nhờn sâu trong lỗ chân lông cho làn sạch và sáng khỏe. Với kết cấu dạng kem mịn, dễ tạo bọt, tạo cảm giác trơn láng, mềm mịn sau khi rửa mặt. Ưu điểm của dòng sữa rửa mặt làm sáng da chiết xuất từ Gạo Rice Water Bright Cleansing Foam chính là: Làm trắng sáng da. Hiệu quả làm sạch bụi bẩn, bả nhờn sâu lỗ chân lông: hạn chế tình trạng bụi bẩn, bã nhờn gây bít tắc lỗ chân lông. Chứa thành phần tự nhiên có nguồn gốc như axit salicylid loại bỏ các tế bào da chết và bảo vệ, chăm sóc cho da. Dầu cây Bija giúp chăm sóc da dịu nhẹ đồng thời khánh khuẩn, cấp nước cho da mụn. Sữa Rửa Mặt Dành Cho Da Mụn Innisfree Bija Trouble Facial Foam 150ml - 131171093 chiết xuất từ dầu Bija Jeju giúp làm sạch hoàn hảo bụi bẩn từ sâu bên trong lỗ chân lông, đặc biệt phù hợp cho làn da đang gặp vấn đề về mụn. Chứa thành phần dầu bija Jeju với hiệu quả cải thiện làn da mụn vượt trội.
|
Sữa rửa mặt
|
Sữa rửa mặt là một sản phẩm tẩy rửa da mặt được sử dụng để loại bỏ lớp trang điểm, tế bào da chết, dầu, bụi bẩn, và các loại chất ô nhiễm khác từ da trên mặt. Giúp rửa sạch lỗ chân lông và ngăn ngừa các tình trạng da như mụn trứng cá. Sữa rửa mặt có thể được sử dụng như một phần của chế độ chăm sóc da cùng với nước cân bằng da và kem dưỡng ẩm. Xà phòng cục có độ pH cao (trong khoảng từ 9 đến 10), và độ pH bề mặt da đạt trung bình 4,7. Điều này có nghĩa xà phòng có thể thay đổi cân bằng bề mặt trong da khiến gia tăng sự phát triển một số loại vi khuẩn, tăng mụn trứng cá. Xà phòng rửa mặt có chất cô đặc cho phép chúng mang hình dạng thỏi cục. Những chất cô đặc này có thể làm tắc nghẽn lỗ chân lông, dẫn đến mụn trứng cá. Sử dụng xà phòng cục trên mặt có thể loại bỏ chất dầu tự nhiên khỏi da tạo thành rào cản chống lại sự mất nước. Điều này khiến tuyến bã nhờn sản sinh quá mức dầu, một tình trạng được gọi là phản ứng tiết nhiều bã nhờn, sẽ dẫn đến lỗ chân lông bị tắc nghẽn.
|
Nhân lực là một trong những nhân tố chủ chốt quyết định sự thành bại của cả một doanh nghiệp. Do đó, việc tìm hiểu nhân lực là gì? Cùng vai trò của nhân lực đối với doanh nghiệp, sẽ giúp bạn có chiến lược quản trị nguồn nhân lực đạt hiệu quả tối ưu. Tham khảo bài viết dưới đây, để hiểu rõ hơn về vấn đề nhân lực nhé!. Nhân lực chính là sức lực nằm trong mỗi con người, để con người có thể hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người. Cho đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động hay còn gọi là con người có sức lao động. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh:. Thứ nhất: Ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. Nguồn nhân lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác. Thứ hai: Nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn nhân lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. Chỉ tiêu trình độ văn hóa của nguồn nhân lực: Đây là chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ văn hóa cao sẽ tạo điều kiện và khả năng tiếp thu, vận dụng có hiệu quả những tiến bộ mới của khoa học công nghệ trong thực tiễn lao động sản xuất, cũng như trong các lĩnh vực khác của đời sống. Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn, kỹ thuật của nguồn nhân lực: Được thể hiện bằng tỉ lệ cán bộ, công nhân và người lao động nói chung có trình độ tay nghề, trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học so với nguồn nhân lực lao động chung của cả nước. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực còn được đo bằng chỉ số phát triển con người HDI – đây là thước đo tổng hợp sự phát triển con người trên 3 phương diện: sức khỏe, tri thức và thu nhập. Bên cạnh đó, còn có một số chỉ tiêu khác mang tính định tính về môi trường làm việc của người lao động như truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa, văn minh của dân tộc, phong tục, tập quán, lối sống…. Nguồn nhân lực đảm bảo tạo nên nguồn sáng tạo trong tổ chức, doanh nghiệp. Bởi, chỉ có con người mới sáng tạo ra các hàng hoá, dịch vụ và kiểm tra được quá trình sản xuất kinh doanh đó… Mặc dù trang thiết bị, tài sản, nguồn tài chính là những nguồn tài nguyên mà các tổ chức đều cần phải có, nhưng trong đó tài nguyên nhân lực – con người lại đặc biệt quan trọng. Không có nhân lực làm việc hiệu quả thì tổ chức đó không thể nào đạt tới mục tiêu và phát triển bền vững lâu dài. Trong điều kiện xã hội đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, thì các nhân tố công nghệ, vốn, nguyên vật liệu đang giảm dần vai trò của nó. Bên cạnh đó, nhân tố tri thức của con người ngày càng chiếm vị trí quan trọng. Bởi vì, nguồn nhân lực có tính năng động, sáng tạo và hoạt động trí óc của con người sẽ tạo nên được những giá trị hữu ích trong chiến lược phát triển của một doanh nghiệp. Xã hội ngày một đổi mới, tiến lên không ngừng, doanh nghiệp ngày càng phát triển và nguồn lực con người là vô tận. Nếu biết khai thác nguồn lực này đúng cách sẽ tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, từ đó giúp thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Nếu bạn nghĩ rằng, đến một ngày nào đó robot sẽ thống trị mọi thứ và các tổ chức, doanh nghiệp không đến nguồn nhân lực nữa. Thì bạn nên xem lại suy nghĩ của mình, bởi công nghệ dù có tiên tiến và phát triển vượt bậc đến đâu, thì trí óc con người vẫn là điều tuyệt vời mà không một cỗ máy nào có thể thay thế được. Con người là yếu tố quan trọng trong một tổ chức nhưng chúng ta vẫn cần đến sự hỗ trợ của công nghệ để có thể quản lý nguồn nhân lực một cách hiệu quả nhất. Giải pháp mà Tinh Hoa mang đến cho các doanh nghiệp chính là phần mềm quản lý nhân sự ezHR9 với đầy đủ chức năng Quản lý nhân sự: Hồ sơ nhân viên, Hợp đồng, Bảo Hiềm, Chấm công tính lương, Đánh giá KPI, Quản lý tuyển dụng và đào tạo, Portal nghỉ phép, xem phiếu lương . Phần mềm đáp ứng nhiều ngành nghề như Sản Xuất, May mặc, dày, bao bì, điện tử, cơ khí, Chuỗi F&B, Nhà hàng – Khách sạn, xây dựng, Bán lẻ, Banking, … với phiên bản đặc thù. Hiện phần mềm đã có phiên bản online cho phép các doanh nghiệp có thể trải nghiệm thử ngay lập tức
|
Nguồn nhân lực
|
Nguồn nhân lực là những người tạo nên lực lượng lao động của một tổ chức, lĩnh vực kinh doanh hoặc nền kinh tế. " Vốn con người " đôi khi được sử dụng đồng nghĩa với "nguồn nhân lực", mặc dù vốn con người thường đề cập đến hiệu ứng hẹp hơn (nghĩa là kiến thức mà các cá nhân thể hiện và tăng trưởng kinh tế). Tương tự, các thuật ngữ khác đôi khi được sử dụng bao gồm nhân lực, tài năng, lao động, nhân sự hoặc đơn giản là con người. Bộ phận nhân sự (phòng nhân sự) của một tổ chức thực hiện quản lý nguồn nhân lực, giám sát các khía cạnh khác nhau của việc làm, chẳng hạn như tuân thủ luật lao động và tiêu chuẩn việc làm, quản lý lợi ích của nhân viên và một số khía cạnh của tuyển dụng. Quản lý nguồn nhân lực từng được gọi là " quản trị nhân sự ". Trong những năm 1920, quản trị nhân sự tập trung chủ yếu vào các khía cạnh tuyển dụng, đánh giá, đào tạo và bồi thường cho nhân viên. Tuy nhiên, họ không tập trung vào bất kỳ mối quan hệ việc làm nào ở cấp độ hiệu suất của tổ chức hoặc vào các mối quan hệ có hệ thống trong bất kỳ bên nào.
|
Mổ hậu môn hay mổ lỗ hậu (Vent pecking) là một hành vi bất thường ở động vật ghi nhận trên các loài gia cầm được thực hiện chủ yếu bởi gà mái đẻ trứng thương phẩm, gà mái đẻ rất thích mổ hậu môn đồng loại. Đây là một trong những biểu hiện của hiện tượng và hội chứng cắn mổ nhau ở gia cầm (còn gọi là ăn thịt đồng loại xảy ra ở gia cầm). Nó được đặc trưng bởi vết mổ làm tổn thương đến cục máu đông, vùng da xung quanh và mô bên dưới khu vực phần hậu môn-phao câu-lỗ hậu hay lỗ huyệt chúng sẽ liên tục rỉa vào vết thương để khoét sâu vào, lôi phần nội tạng bên trong ra để ăn. Mổ hậu môn thông thường xảy ra ngay sau khi trứng được đẻ ra khi cục máu đông thường vẫn còn nguyên một phần để lộ niêm mạc có màu đỏ do chấn thương thực thể khi đẻ trứng hoặc chảy máu nếu mô bị rách do gà đẻ trứng. Việc mổ hậu môn rõ ràng gây đau đớn và xót xa cho con vật bị mổ. Rách da làm tăng tính nhạy cảm với bệnh tật và có thể dẫn đến cắn mổ lẫn nhau, và cuối cùng là tử vong. Khi trong đàn có một con có vết thương bị chảy máu, thì cả đàn nuôi sẽ bị kích thích đồng loại tập trung vào việc mổ cắn vào vết thương và chúng tập trung vào việc cắn mổ vết thương của con vật đó. Thậm chí khi mắc bệnh bị nặng thì gà sẽ cắn mổ thủng phao câu của các con khác. Nguyên nhân do gà cũng là động vật thích mùi tanh và máu cùng những vết thương hở cũng vậy, chúng có sức hấp dẫn rất đặc biệt đối với gà vốn, chúng cũng thích màu đỏ vì gà là loài động vật có tính tò mò, chúng luôn muốn tìm hiểu mọi thứ bằng cái mỏ của mình, nhất là những thứ nhỏ, di động hoặc những vật mà có màu đỏ thì chúng càng không thể cưỡng lại được. Chính vì thế, chỉ cần một con gà trong đàn bị chảy máu là cả đàn sẽ xúm lại mổ để khám phá. Chúng sẽ tập trung mổ, càng mổ lại càng thấy hương vị tanh ngon. Khi trong đàn gà có con bị lòi trĩ hay lòi đom là hiện tượng này thường xuất hiện ở gà đẻ, do đẻ nhiều, trứng to hoặc gặp vấn đề về sinh sản mà phần hậu môn lòi ra ngoài, phần lòi này có màu đỏ rất có tính kích thích cho những con gà bên cạnh. Trong chăn nuôi cần kiểm tra chất lượng thức ăn thường xuyên, đảm bảo cung cấp đủ dưỡng chất cho đàn gà, nhất là trong giai đoạn mọc lông, khi gà hậu bị đang thay lông và giai đoạn gà đẻ trứng cho năng suất cao, nên cắt mỏ gà đẻ nuôi công nghiệp trước thời gian đẻ từ 2 tới 3 tháng, nên cách ly đàn gà nhanh chóng, những con gà cắn mổ nhau phải được cách ly ra khỏi đàn, sau đó sử dụng thuốc Xanh Methylen để bôi vào trên vết thương của con gà nhằm phòng tránh trường hợp con gà tiếp tục bị mổ cho đến chết.
|
Cắn mổ nhau ở gia cầm
|
Cắn mổ nhau ở gia cầm (Cannibalism in poultry) là hiện tượng diễn ra ở gia cầm khi con vật mổ, cắn xé, ăn thịt, lông và cơ quan nội tạng của đồng loại. Hiện tượng này xảy ra ở tất cả các đàn gia cầm, từ gà, vịt nhà, gà tây nhà đến cút nhà, trĩ, hiện tượng này diễn ra ở cả đàn gà thịt và gà đẻ trứng và xảy ra ở tất cả các kiểu nuôi như nuôi trên sàn, trên lồng tầng cho đến nuôi chăn thả ngoài bãi hay trong vườn đồi. Hiện tượng này xem như là hành vi bất thường ở động vật trong điều kiện nuôi nhốt và có thể gây thiệt hại lớn về tỷ lệ chết, chất lượng thịt và hiệu quả kinh tế. Hiện tượng cắn mổ nhau ở gia cầm là hội chứng trên gà. Bệnh gà ăn trụi lông của nhau xảy ra ngay từ khi còn nhỏ. Giống gà đẻ thường mổ nhau hơn giống gà thịt. Để khắc phục hiện tượng này cần có phương pháp nuôi nhốt phù hợp và thực hiện việc cắt mỏ. Hiện tượng xảy ra thường bắt đầu từ việc một số con vật trong đàn mổ lông nhau, rồi mổ, mổ ngón chân, mổ mào, mổ đuôi và đặc biệt mổ hậu môn của nhau, cắn xé thậm chí là ăn thịt ở một số bộ phận như ngón chân, mào, đuôi hay hậu môn.
|
11 Điều trị bệnh động kinh thế nào? 11.1 Thuốc 11.2 Phẫu thuật 11.3 Các liệu pháp khác 11.4 Những liệu pháp tiềm năng trong tương lai. Động kinh là bệnh của hệ thần kinh trung ương trong đó hoạt động của tế bào thần kinh bị rối loạn, biểu hiện bởi những cơn co giật (cơn động kinh) với những hành vi, triệu chứng, và cảm giác bất thường, bao gồm cả mất ý thức khi lên cơn. Triệu chứng của cơn động kinh rất đa dạng. Một số bệnh nhân động kinh chỉ có triệu chứng là nhìn vô hồn trong vài giây, trong khi có những người khác lại có thể bị co giật tay hoặc chân lặp đi lặp lại. Động kinh là một bệnh phổ biến với tỉ lệ chiếm từ 0,5-1% dân số. Số trường hợp mới mắc bệnh trong mỗi năm trung bình là 50 trường hợp/ 100.000 dân. Tuổi mắc bệnh động kinh rất khác nhau, tuỳ thuộc vào nguyên nhân. Nói chung, tỉ lệ động kinh ở trẻ em rất cao: 50,5% xuất hiện trước 10 tuổi, 75% dưới 20 tuổi và có xu hướng tăng lên sau 60 tuổi. Tuy nhiên, một cơn co giật riêng rẽ không có nghĩa là bạn bị động kinh. Để chẩn đoán động kinh thường cần ít nhất hai cơn co giật không có lý do rõ ràng. Lưu ý thêm rằng có nhiều loại thuốc hoặc tình trạng bệnh có thể ảnh hưởng lên não và gây ra cơn co giật. Khi đó, co giật xảy ra không phải do bản thân tế bào não, và vì thế chúng không được xem là bệnh động kinh. Ngay cả những cơn co giật nhẹ cũng cần phải điều trị vì nó có thể nguy hiểm nếu xảy ra khi đang bơi, lái xe, hay các hoạt động khác. Việc điều trị thường bao gồm các loại thuốc hoặc đôi khi là phẫu thuật để chấm dứt hoặc làm giảm độ thường xuyên (tần suất) và độ mạnh (cường độ) của các cơn co giật. Một số trẻ em bị động kinh có thể khỏi bệnh khi lớn lên. Vì động kinh là do hoạt động bất thường của tế bào não nên cơn động kinh có thể ảnh hưởng bất kỳ quá trình nào mà não vận hành. Một cơn động kinh có thể gây ra các triệu chứng:. Các triệu chứng sẽ khác nhau tùy theo loại động kinh. Trong hầu hết trường hợp, một bệnh nhân động kinh thường có xu hướng lặp đi lặp lại cùng một kiểu động kinh, nên triệu chứng sẽ tương tự nhau ở những lần lên cơn . Bác sĩ thường phân loại cơn động kinh thành cơn cục bộ hay toàn thể hóa, dựa theo cách mà hoạt động bất thường của não bắt đầu. Khi cơn động kinh là biểu hiện của hoạt động bất thường xảy ra chỉ ở một vùng của não, nó được gọi là cơn động kinh cục bộ (hay khu trú). Những cơn động kinh dạng này bao gồm hai nhóm. Khi cơn động kinh là biểu hiện của hoạt động bất thường xảy ra trên tất cả các vùng của não được gọi là cơn động kinh toàn thể hóa. Những cơn động kinh dạng này bao gồm sáu nhóm. Khoảng phân nửa bệnh nhân động kinh không tìm được nguyên nhân. Trong một nửa kia, động kinh có thể liên quan đến nhiều yếu tố. Cơn động kinh xảy ra ở một số thời điểm nhất định có thể dẫn đến những tình huống nguy hiểm cho người bệnh cũng như những người xung quanh. Nhiều khả năng là bạn sẽ phải khám bác sĩ đa khoa hay bác sĩ gia đình trước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, ngay khi hẹn hay đến khám, bạn sẽ được chuyển hay giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa Nội thần kinh hay chuyên về điều trị động kinh. Vì thời gian khám thường ngắn, và vì có rất nhiều chuyện để nói, sẽ tốt hơn nếu bạn chuẩn bị kỹ cho buổi khám. Sau đây là một số thông tin có thể giúp bạn sẵn sàng cho buổi gặp, và những điều trông đợi từ bác sĩ. Hãy hỏi những người chứng kiến cơn động kinh của bạn, như người thân, bạn bè hay đồng nghiệp để biết thêm những chi tiết mà có thể bạn không biết. Chuẩn bị một bảng câu hỏi sẽ giúp buổi khám đạt hiệu quả nhất. Liệt kê những điều cần hỏi theo thứ tự quan trọng, phòng khi bạn hết thời gian khám mà chưa được giải đáp hết. Đối với bệnh động kinh, bạn có thể hỏi bác sĩ một số câu hỏi cơ bản như sau:. Tôi có những bệnh khác đi kèm. Vậy làm cách nào tốt nhất để điều trị chung với nhau?. Ngoài những câu hỏi đã chuẩn bị, đừng ngần ngại hỏi thêm khi bạn có điều không rõ trong buổi khám. Thêm vào đó, cũng không kém phần quan trọng là ghi lại chi tiết về những cơn động kinh trước khi đi khám bác sĩ. Để chẩn đoán bệnh của bạn, bác sĩ sẽ xem xét các triệu chứng và tiền sử bệnh. Bác sĩ có thể sẽ chỉ định một số xét nghiệm để chẩn đoán động kinh và nguyên nhân gây ra nó. Bác sĩ có thể yêu cầu bạn làm một số việc có thể gây động kinh, như ngủ ít trước khi đo điện não. Thông thường bác sĩ sẽ bắt đầu điều trị động kinh bằng thuốc. Nếu thuốc không kiểm soát được bệnh thì bác sĩ có thể sẽ đề nghị phẫu thuật hay các phương pháp khác. Hầu hết bệnh nhân động kinh có thể hết cơn chỉ với một loại thuốc, gọi là các thuốc chống động kinh. Một số khác có thể chỉ giảm số lần và cường độ cơn động kinh khi uống thuốc. Bác sĩ sẽ cho biết thời điểm an toàn để ngừng uống thuốc. Hơn nửa số trẻ bị động kinh sau một thời gian không biểu hiện triệu chứng có thể ngừng thuốc và sống cả đời không bị lại. Nhiều người lớn cũng có thể ngừng thuốc sau một đến hai năm không lên cơn. Tuy nhiên tìm đúng thuốc và liều là khá phức tạp. Bác sĩ sẽ phải đánh giá sức khỏe của bạn, tần số cơn, tuổi và các vấn đề khác khi chọn thuốc. Bác sĩ cũng sẽ phải kiểm qua tất cả thuốc bạn đang dùng để đảm bảo không có tương tác thuốc. Thông thường, bác sĩ sẽ kê cho bạn chỉ một loại thuốc với liều khá thấp và tăng liều dần cho đến khi động kinh được kiểm soát tốt. Các thuốc chống động kinh có thể có các tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ nhẹ có thể gặp:. Luôn hỏi ý kiến bác sĩ trước khi đổi sang các thương hiệu thuốc nhượng quyền (generic) khác hay khi uống kèm với các loại thuốc hoặc thảo dược khác. Báo cho bác sĩ nếu bạn có chứng đau nửa đầu (migraine). Bác sĩ có thể chọn trong các thuốc chống động kinh loại thuốc có thể để vừa trị động kinh vừa ngừa đau nửa đầu. Việc này cũng giúp tránh tương tác thuốc khi điều trị đau đầu. Có ít nhất phân nửa số bệnh nhân mới được chẩn đoán động kinh sẽ hết cơn với loại thuốc đầu tiên. Nếu thuốc chống động kinh không cho được kết quả như mong muốn, bác sĩ sẽ đề nghị phẫu thuật hay các liệu pháp khác.
|
Động kinh
|
Động kinh là một chứng bệnh hệ thần kinh do xáo trộn lặp đi lặp lại của một số nơron trong vỏ não tạo nhiều triệu chứng rối loạn hệ thần kinh (các cơn động kinh) như co giật của bắp thịt, cắn lưỡi, sùi bọt mép, mắt trợn ngược, bất tỉnh, mất kiểm soát tiểu tiện, hoặc gây cảm giác lạ. Cơn động kinh bao gồm các triệu chứng có thể thay đổi từ rất ngắn gọn và gần như không thể phát hiện đến các cơn động kinh thời gian dài với chấn động mạnh mẽ. Trong động kinh, co giật có xu hướng tái phát, và không có nguyên nhân tiềm ẩn ngay lập tức trong khi cơn co giật xảy ra do một nguyên nhân cụ thể không được coi là triệu chứng của bệnh động kinh. Các nguyên nhân của hầu hết các trường hợp động kinh chưa được biết rõ, mặc dù một số người coi bệnh động kinh như là kết quả của chấn thương não, đột quỵ, u não, và rối loạn sử dụng chất. Đột biến sinh học có liên quan đến một tỷ lệ nhỏ của bệnh này. Động kinh là kết quả của hoạt động tế bào thần kinh vỏ não quá mức và không bình thường trong não.
|
Thương mại quốc tế tức là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người (xem thêm Con đường Tơ lụa và Con đường Hổ phách), tầm quan trọng kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Việc tăng cường thương mại quốc tế thường được xem như ý nghĩa cơ bản của “toàn cầu hoá”. Thương mại quốc tế với tư cách là một khoa học cũng là một nhánh của kinh tế học. Thương mại quốc tế hợp cùng tài chính quốc tế tạo thành ngành kinh tế học quốc tế. Sự đa dạng hóa về giá cả, sở thích và nguồn cung cấp đầu vào giữa các quốc gia. Nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra những mô hình khác nhau để dự đoán cơ cấu trao đổi thương mại quốc tế và phân tích ảnh hưởng của các chính sách thương mại, chẳng hạn như chính sách thuế quan. Mô hình Ricardo tập trung nghiên cứu lợi thế so sánh, một khái niệm được coi là quan trọng nhất trong lý thuyết thương mại quốc tế. Trong mô hình Ricardo, các nước tập trung chuyên môn hóa sản xuất vào mặt hàng mà họ có thể sản xuất hiệu quả nhất. Không giống như các lý thuyết khác, mô hình của Ricardo dự đoán rằng các nước sẽ chuyên môn hóa hoàn toàn vào một loại hàng hóa thay vì sản xuất nhiều loại hàng hóa khác nhau. Thêm vào đó, mô hình Ricardo không xem xét trực tiếp đến các nguồn lực, chẳng hạn như quan hệ tương đối giữa lao động và vốn trong phạm vi một nước. Mô hình Heckscher-Ohlin được xây dựng thay thế cho mô hình cơ bản về lợi thế so sánh của Ricardo. Mặc dù nó phức tạp hơn và có khả năng dự đoán chính xác hơn, nó vẫn có sự lý tưởng hóa. Đó là việc bỏ qua lý thuyết giá trị lao động và việc gắn cơ chế giá tân cổ điển vào lý thuyết thương mại quốc tế. Mô hình Hechscher-Ohlin lập luận rằng cơ cấu thương mại quốc tế được quyết định bởi sự khác biệt giữa các yếu tố nguồn lực. Nó dự đoán rằng một nước sẽ xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố nguồn lực mà nước đó có thế mạnh, và nhập khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố nguồn lực mà nước đó khan hiếm. Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu nhằm kiểm nghiệm mô hình H-O lại đưa ra những kết quả mâu thuẫn, trong đó có công trình của Wassili Leontief, còn được biết đến với tên gọi Nghịch lý Leontief. Sử dụng mô hình bảng cân đối liên ngành IO (input-output) của mình với số liệu của Mỹ năm 1947, Leontief đã phát hiện Mỹ mặc dù là quốc gia với tỉ lệ vốn/lao động cao nhưng tỉ lệ vốn/lao động của các mặt hàng tương đương hàng nhập khẩu của Mỹ lại cao hơn tỉ lệ vốn/lao động của các mặt hàng xuất khẩu. So với các mô hình lý thuyết trên, mô hình lực hấp dẫn nghiêng về phân tích định lượng hơn. Ở dạng đơn giản, mô hình lực hấp dẫn dự đoán rằng trao đổi thương mại phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai nước và quy mô của hai nền kinh tế. Mô hình phỏng theo định luật vạn vật hấp dẫn của Newton trong đó nói rằng lực hút của hai vật thể phụ thuộc vào khoảng cách giữa chúng và khối lượng của mỗi vật. Mô hình đã được chứng minh rằng nó có tính định lượng tương đối mạnh thông qua các phân tích kinh tế lượng. Các dạng mở rộng của mô hình này xem xét đến nhiều yếu tố khác như mức thu nhập, quan hệ ngoại giao giữa hai nước, và chính sách thương mại của mỗi nước. Trước đây, thương mại quốc tế thường được điều chỉnh bằng các hiệp định thương mại song phương giữa hai nước. Trước thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa trọng thương còn chiếm ưu thế, đa số các nước áp đặt những mức thuế cao cùng nhiều hạn chế thương mại khác đối với hàng nhập khẩu. Kể từ thế kỷ XIX, tư tưởng về thương mại tự do dần dần nổi lên giữ vai trò chủ đạo ở các nước phương Tây, đặc biệt là ở Anh. Trong những năm kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, các hiệp định thương mại đa phương như GATT và WTO đã cố gắng xây dựng một cơ chế thương mại quốc tế có sự thống nhất điều chỉnh trên phạm vi toàn cầu. Hướng tới thương mại tự do, các hiệp định thương mại không chỉ đàm phán việc giảm thuế mà còn đàm phán cả các biện pháp phi thuế như hạn chế số lượng nhập khẩu, cấp phép nhập khẩu, vệ sinh kiểm dịch, đầu tư nước ngoài, mua sắm chính phủ và tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách đơn giản hóa các thủ tục hải quan. Trong quá khứ, thương mại tự do thường tập trung vào các mặt hàng nông sản, trong khi các mặt hàng chế tạo thường mong muốn được bảo hộ. Tình hình trong hiện tại lại ngược lại, đặc biệt là ở các nước phát triển. Ở Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản, những cuộc vận động hành lang đối với các lĩnh vực nông nghiệp là nguyên nhân chính khiến cho trong đa số các hiệp định thương mại quốc tế, lĩnh vực nông nghiệp có nhiều quy định mang tính chất bảo hộ hơn là những lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ khác. Thương mại quốc tế thường được điều chỉnh bởi các quy tắc có tính toàn cầu thông qua các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới, mặc dù cũng có một số thoả thuận thương mại khu vực như AFTA giữa các nước ASEAN; MERCOSUR giữa một số nước ở Nam Mỹ; NAFTA giữa Hoa Kỳ, Canada và México; Liên minh châu Âu giữa 25 quốc gia ở châu Âu. Có thể kể thêm một số thỏa thuận thương mại quốc tế thất bại như Khu vực Mậu dịch Tự do châu Mỹ (FTAA) hay Hiệp định Đa phương về Đầu tư (MAI). Là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa giữa trong nước với nước ngoài, chức năng cơ bản của ngoại thương là: Tổ chức chủ yếu quá trình lưu thông hàng hóa với bên ngoài, thông qua mua bán để nối liền một cách hữu cơ theo kế hoạch giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, thỏa mãn nhu cầu của sản xuất và của nhân dân về hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và thời gian phù hợp với chi phí ít nhất. Đây là nhiêm vụ quan trọng và bao quát của ngoại thương. Thông qua hoạt động xuất, nhập khẩu góp phần vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Ngày nay, ngoại thương thế giới có những đặc điểm mới: tốc độ tăng trưởng của ngoại thương thế giới tăng nhanh so với tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân.
|
Thương mại quốc tế
|
Thương mại quốc tế tức là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người (xem thêm Con đường Tơ lụa và Con đường Hổ phách), tầm quan trọng kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Việc tăng cường thương mại quốc tế thường được xem như ý nghĩa cơ bản của "toàn cầu hoá". Thương mại quốc tế với tư cách là một khoa học cũng là một nhánh của kinh tế học. Thương mại quốc tế hợp cùng tài chính quốc tế tạo thành ngành kinh tế học quốc tế.
|
Phêrô Nguyễn Soạn (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1936) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm nhận vai trò Giám mục chính tòa của Giáo phận Qui Nhơn trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến năm 2012. Khẩu hiệu giám mục là “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, giám mục Nguyễn Soạn từng giữ vai trò Tổng Thư ký Hội đồng trong hai khóa liên tiếp, kéo dài từ năm 2001 đến năm 2007. Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, ông còn có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Latinh. Giám mục Phêrô Nguyễn Soạn sinh ngày 15 tháng 12 năm 1936 tại Gò Thị, Qui Nhơn (nay thuộc xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Ngày 12 tháng 12 năm 1968, Phêrô Nguyễn Soạn được thụ phong linh mục. Ông đảm nhận công việc linh mục Giáo phận Qui Nhơn. Ông từng du học Italia, đậu Tiến sĩ Giáo luật tại Ðại Học Urbaniana ở Roma và có bằng về văn chương Anh tại Sài Gòn. Trước khi được bổ nhiệm làm giám mục thì ông là linh mục Chính xứ chính tòa Quy Nhơn kiêm Tổng Đại diện giáo phận này. Ngày 3 tháng 6 năm 1999, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Phêrô Nguyễn Soạn làm Tân giám mục chính tòa, kế vị Giám mục Phaolô Huỳnh Đông Các về hưu, cùng thông báo bổ nhiệm đợt này có Tân Giám mục Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng Giuse Ngô Quang Kiệt – người đến năm 2005 trở thành Tổng giám mục Hà Nội và Tân Giám mục Phó Giáo phận Long Xuyên Giuse Trần Xuân Tiếu. Lễ tấn phong cho Tân giám mục được cử hành sau đó vào ngày 12 tháng 8 cùng năm, với phần nghi thức chính yếu được cử hành cách trọng thể bởi Chủ phong là Tổng Giám mục đô thành Tổng giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể và hai vị phụ phong là Giám mục Phaolô Huỳnh Đông Các, nguyên Giám mục Qui Nhơn và Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nho, giám mục Phó Giáo phận Nha Trang. Năm 2001, Hội đồng Giám mục Việt Nam bầu chọn giám mục Nguyễn Soạn giữ chức Tổng Thư ký nhiệm kỳ 2001 đến năm 2004. Ông tái đắc cử chức vụ này và nắm vai trò Tổng Thư ký đến năm 2007. Ngày 30 tháng 06 năm 2012, Giáo hoàng Biển Đức XVI chấp nhận đơn từ nhiệm của Giám mục Nguyễn Soạn. Với việc chấp thuận này, Giám mục Phó Qui Nhơn Mátthêu Nguyễn Văn Khôi đương nhiên kế vị ông trở thành Giám mục chính tòa. Từ đây, ông nghỉ hưu tại tòa Giám mục Giáo phận Qui Nhơn, Việt Nam. Ngày 24 tháng 11 năm 2018, Bộ Truyền giáo gửi điện thư chúc mừng 50 năm thụ phong linh mục của Giám mục Phêrô Nguyễn Soạn. Chưa đầy một tuần sau đó, ngày 30 tháng 11, Giáo hoàng Phanxicô cũng gửi điện thư chúc mừng nhân dịp kỷ niệm này. Lễ đồng tế kỷ niệm 50 năm thụ phong linh mục của Giám mục Soạn được tổ chức vào chiều ngày 21 tháng 12 năm 2018. Năm 2000, giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân, hiện đang là cố Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long. Năm 2003, giám mục Micae Hoàng Đức Oanh, hiện đang là nguyên Giám mục chính tòa Giáo phận Kon Tum.
|
Tôma Nguyễn Văn Tân
|
Tôma Nguyễn Văn Tân (1940 – 2013) là một Giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long từ năm 2001 đến khi qua đời. Trước đó, ông đảm nhận vai trò giám mục phó giáo phận Vĩnh Long từ năm 2000. Khẩu hiệu Giám mục của Tôma Nguyễn Văn Tân là Hành trình trong Đức Ái. Nguyễn Văn Tân sinh ra ở Trà Vinh trong một gia đình nông dân. Con đường tu trì bắt đầu từ năm 13 tuổi, khi cậu bé Tân vào Tiểu chủng viện Vĩnh Long, sau đó học tại Giáo hoàng học viện Thánh Piô Đà Lạt và được thụ phong linh mục năm 1969. Sau khi được truyền chức, Nguyễn Văn Tân làm Giáo sư Tiểu Chủng viện Vĩnh Long trong thời gian ngắn và đến Rôma tu học tốt nghiệp Tiến sĩ Thần học và trở về nước năm 1974. Trong thời gian tại Việt Nam, ông lần lượt thực hiện việc mục vụ trong giáo phận Vĩnh Long: giáo sư môn Thần học Luân lý, phụ trách nhà thờ chủng viện, phụ trách các lớp Tiền Chủng viện của giáo phận Vĩnh Long.
|
Nguyên tử, phân tử là một trong số chương trình học quan trọng của hóa học 8. Mặc dù vậy, không phải ai cũng nắm chắc các kiến thức cũng như giải thích được khái niệm nguyên tử là gì? Vậy thì hãy theo dõi “ngay và luôn” nội dung bài viết dưới đây của chúng tôi, chắc chắn sẽ giúp ích bạn rất nhiều đó.Bạn đang xem: Phân tử lượng là gì. Nguyên tử là đơn vị đo cơ bản của vật chất, chứa một hạt nhân ở trung tâm, bao quanh bởi đám mây điện tích âm các electron. Hiểu một cách đơn giản, nguyên tử là đơn vị đo của vật chất, xác định bởi cấu trúc các nguyên tố. Nguyên tử được cấu thành từ 3 loại hạt: proton, neutron và electron. Proton và neutron nặng hơn electron và trú ngụ trong tâm của nguyên tử- được coi là hạt nhân. Electron thì cực kỳ nhẹ và tồn tại trong một đám mây vân xung quanh hạt nhân, đám mây đó có bán kính gấp 10.000 lần hạt nhân. Proton và neutron có khối lượng gần tương đương nhau. Thế nhưng, một proton thì năng hơn 1.8000 electron. Nguyên tử luôn luôn có lượng proton và electron bằng nhau, số proton và neutron cũng ngang nhau. Thêm một proton và nguyên tử sẽ biến nó thành nguyên tố mới, còn thêm 1 neutron vào nguyên tử nó sẽ biến thành đồng vị của nguyên tử đó. Phân tử là một nhóm trung hòa điện tích, có nhiều hơn 2 nguyên tử, được kết hợp với nhau bằng các liên kết hóa học. Các phân tử sẽ được phân biệt với các ion do thiếu điện tích. Thế nhưng, trong vật lý lượng tử, hóa học hữu có và hóa sinh, khái niệm phân tử được sử dụng nghiêm ngặt hơn, áp dụng cho các ion đa nguyên tử. Còn trong lý thuyết động học của chất khí, thuật ngữ phân tử được sử dụng cho bất kỳ hạt khí nào bất kể thành phần của nó. Theo định nghĩa này, các nguyên tử khí trơ được coi là phân tử vì chúng là các phân tử đơn phân tử. Nguyên tố hóa học là tập hợp các nguyên tử có cùng số proton có trong hạt nhân. Theo định nghĩa trên wikipedia, nguyên tố hóa học là một chất hóa học tinh khiết, bao gồm một kiểu nguyên tử, được phân biệt bởi số hiệu nguyên tử; chính là số lượng proton có trong mỗi hạt nhân. Nguyên tử khối là không lượng của nguyên tử tính bằng đơn vị cacbon (đvC). 1 đvC bằng 1/12 khối lượng của một nguyên tử cacbon. Khối lượng nguyên tử được tính bằng gam hoặc kilogam, có trị số vô cùng nhỏ. Khối lượng của 1 nguyên tử cacbon sẽ bằng (1,6605).10^(-24) g => 1đvC = (1/12). Phân tử khối là khối lượng của một nguyên tử được tính bằng đơn vị cacbon. Phân tử khối của một chất sẽ bằng tổng nguyên tử khối của các nguyên tử trong phân tử chất đó. Ví dụ như phân tử khối của nitơ (N2) bằng 14.2=28 đvC. Đơn vị khối lượng nguyên tử là đơn vị đo khối lượng cho khối lượng của các phân tử, nguyên tử. Nó được quy ước bằng một phần mười hai khối lượng của các nguyên tử cacbon 12. Được tạo ra bởi các nơtron và proton. Trong mỗi nguyên tử, số proton (p, +) bằng số electron (e, -). Nghĩa là số p= số e. Hạt proton và nơtron có khối lượng tương đương nhau, còn hạt electron có khối lượng rất bé, không đáng kể. Chính vì thế, khối lượng hạt nhân được coi là khối lượng nguyên tử. Số nguyên tử hoặc số hiệu nguyên tử, số proton của nguyên tố hóa học là số proton được tìm thấy trong hạt nhân của một nguyên tử. Nó giống với số điện tích của hạt nhân. Số nguyên tử xác định duy nhất bởi một nguyên tố hóa học. Trong một nguyên tử không tích điện, số lượng nguyên tử bằng với số electron. Công thức tính hóa học của đơn chất chính là ký hiệu hóa học của nguyên tố đó. Đơn chất kim loại và phi kim ở dạng rắn: Ax(x = 1). Trong đó A là nguyên tố, x là số nguyên tử có trong phân tử chất. Đơn chất phi kim ở dạng khí Ax( x=2). Công thức hóa học của nhiều hợp chất gồm hai hay nhiều kí hiệu hóa học kèm theo chỉ số AxByCz. Trong đó A, B, C là ký hiệu hóa học của các nguyên tố; x, y, z là số nguyên tố trong 1 phân tử. Phân tử khối của hợp chất bằng tổng khối lượng của nguyên tử trong phân thử, được tính bằng đơn vị cacbon (đvC). 1mol Oxi sẽ có khối lượng 16g=16(đvC) => 1 Nguyên tử oxi có khối lượng 16.1,6605.10^(-24) (g). Bài tập 1: Một nguyên tử nhôm (Al) có 13 proton, 13 electron và 14 notron. Xác định khối lượng của nguyên tử nhôm. Bài tập 2: Nguyên tử của nguyên tố X có tổng số hạt là 40. Tổng số hạt mang điện nhiều hơn tổng số hạt không mang điện 12 hạt. Nguyên tử X có số proton là:. Bài tập 4: Một nguyên tử có 9 electron ở lớp vỏ, hạt nhân của nó có 10 nơtron. Tính tổng các hạt proton, nơtron và electron có trong nguyên tử. Bài tập 5: Nguyên tử của nguyên tố X có tổng số hạt là 28. Trong đó số hạt không mang điện chiếm khoảng 35,71% tổng các loại hạt. Gọi số hạt proton, notron và electron trong nguyên tử X lần lượt là p, n và e. Vậy X là flo (F) vì nguyên tử flo (F) có 9 proton trong hạt nhân. Hy vọng, các nội dung thông tin trong bài viết “Nguyên tử, phân tử là gì – Tổng hợp các kiến thức liên quan” sẽ giúp ích bạn.
|
Đơn vị khối lượng nguyên tử
|
Đơn vị khối lượng nguyên tử hay dalton (ký hiệu SI: u hoặc Da), là một đơn vị đo khối lượng trong hóa học và vật lý, sử dụng đo khối lượng của các nguyên tử và phân tử. Nó được quy ước bằng một phần mười hai khối lượng của nguyên tử carbon đồng vị 12. Nguyên tử có khối lượng vô cùng nhỏ bé, nếu tính bằng gram thì số trị vô cùng nhỏ, không tiện dụng. Thí dụ, khối lượng của một nguyên tử Cacbon (C) là: 0,000 000 000 000 000 000 000 019 926 g (= 1,9926. Tại Việt Nam, người ta quy ước lấy 1/12 khối lượng của nguyên tử Cacbon làm đơn vị khối lượng cho nguyên tử, được gọi là Đơn vị Cacbon, viết tắt là đvC. Trong Hệ Đo lường Quốc tế (SI), nó được ký hiệu bằng chữ "u".
|
Bất ngờ nối tiếp nhau trong tác phẩm trinh thám của đạo diễn Rian Johnson, Kẻ Đâm Lén (Knives Out), với trung tâm là thám tử Benoit Blanc do “James Bond” Daniel Craig thủ vai. Sau thành công của Star Wars: The Last Jedi, đạo diễn Rian Johnson đã lựa chọn một dự án ít ồn ào hơn mang tên Knives Out (Kẻ Đâm Lén). Một lần nữa Rian Johnson lại chứng minh được cái tài lấy lòng đám đông khi đem đến một tác phẩm tròn trịa, hài hước vừa đủ đồng thời vẫn cài cắm thông điệp chính trị mang hơi thở thời đại.Bộ phim sở hữu câu chuyện không mới: một gia đình giàu có bỗng dưng một ngày phát hiện ông cụ Harlan Thrombey trong nhà chết bất đắc kỳ tử để lại khối gia sản kếch xù mà con cháu ai cũng thèm thuồng. Ông thám tử được mời đến, dù hiện trường chỉ ra không có dấu hiệu tấn công nhiều khả năng là một vụ tự tử, nhưng không ai tin điều đó. Thế rồi từng bước ván bài được lật ngửa, lộ ra những bí mật động trời mà người sống dằn vặt, người chết đem đi.Qua cuộc phỏng vấn với các thành viên, khán giả được biết vài điều về đám con cháu trong nhà. Bà con cả Linda (Jamie Lee Curtis) ba hoa về việc mình trở thành triệu phú tự thân, hai bàn tay trắng cùng khoản vay vài triệu đô từ ông bố để làm nên cơ nghiệp. Ông con trai Walter (Michael Shannon) rất chăm chỉ xuất bản sách… của bố mình. Cô con dâu Joni (Toni Collette) phông bạt trên Instagram nhưng hóa ra toàn xin đểu tiền học mà Harlan cho cháu gái để lấy tiền tiêu. Ngay cả mấy đứa cháu như Ransom (Chris Evans) hay Jacob (Jaeden Martell) cũng là bọn láo toét cãi bố mẹ như chém chả. Tất cả được gắn kết như một cộng đồng ký sinh trên ông già Harlan. Bộ phim Parasite (Ký sinh trùng) của đạo diễn Bong Joon-ho đã xuất sắc giành được giải thưởng Cành Cọ Vàng danh giá cùng kỷ lục màn pháo tay dài 8. Phim Kẻ Đâm Lén – Chủ đề trinh thám phá án quen thuộc kết hợp yếu tố thời đạiTự nhận mình là fan cuồng trinh thám lớn lên với các tác phẩm của Agatha Christie, Rian Johnson đã xây dựng bối cảnh của bộ phim Kẻ Đâm Lén mang màu sắc cổ điển có chút kệch cỡm. Ngôi dinh thự nằm giữa khu rừng của gia đình Thrombey được lấp đầy bằng những cổ vật, đồ nội thất cổ, tác phẩm nghệ thuật… Bản thân ông cụ Harlan Thrombey (Christopher Plummer) cũng giống như mọi chân dung nhà quý tộc giàu có nào đó cách đây 100 năm.Chất cổ điển của Kẻ Đâm Lén nằm trong cách thám tử Benoit Blanc phá án, thay vì sử dụng nghiệp vụ hiện đại với độ chính xác cao của thế kỷ 21 thì ông thích trò chuyện với nhân chứng, phán đoán và dùng kính lúp. Qua những lần gợi mở, khán giả liên tục được đặt câu hỏi cho các nhân vật và tha hồ đoán xem ai mới là kẻ chủ mưu. Đạo diễn của The Last Jedi đã đem tới cho người xem cảm giác như đang lật giở từng trang truyện kinh điển của Agatha Christie, trong khi thưởng thức dòng phim whodunit với nhiều cách tân thú vị.Một trong những yếu tố “tấu hài” mang hơi thở hiện đại của Kẻ Đâm Lén là việc đem chính trị ra để châm biếm, với mũi dùi không chĩa vào đâu khác ngoài tổng thống Mỹ. Những quyết sách về người nhập cư, các bè phái chính trị lẫn thói “chém gió” về việc mình là tỉ phú tự thân đều được đem ra châm chọc không thiếu gì. Trong các buổi phỏng vấn, Rian Johnson không che giấu điều này và coi đó là một thú tiêu khiển cho đời đạo diễn. Thêm vào đó, thông điệp về lòng tốt và trái tim nhân hậu của người nhập cư thông qua hình tượng nhân vật cô điều dưỡng Marta (Ana de Armas) và ẩn dụ về sự trừng phạt giới da trắng giàu có cũng đã đóng góp vào việc cách tân thể loại trinh thám cổ điển.Dàn diễn viên toàn sao với Daniel Craig “gánh team”Quy tụ dàn cast “ngoại hạng” bao gồm những cái tên sừng sỏ của thể loại kinh dị như Jamie Lee Curtis và Toni Collette, ngôi sao gạo cội Christopher Plummer và nhiều gương mặt trẻ, Kẻ Đâm Lén giống như một show diễn để các diễn viên thuộc đủ thế hệ phối hợp với nhau. “Cơ trưởng” của show là Daniel Craig trong vai Benoit Blanc – một tay thám tử trông có vẻ gà mơ nhưng thật ra lại rất tinh đời và có óc quan sát siêu phàm. Bộ phim đã chứng minh được một điều, hóa ra “James Bond” cũng biết diễn hài và diễn sâu là đằng khác. Tuy vậy một số chi tiết hài hước của Blanc vẫn không tránh khỏi độ “nhạt” nhất định.Một trong những màn trình diễn gây ấn tượng không kém đến từ người đẹp Cuba – Ana de Armas, khi hóa thân thành cô điều dưỡng tử tế đã chăm sóc cho ông cụ Harlan nhiều năm. Những cảnh quay cận soi chiếu gương mặt phúc hậu, đôi mắt to tròn thánh thiện của de Armas khiến nhiều khán giả phải chao đảo. Đây tiếp tục là một vai diễn thành công cho cô sau War Dogs và Blade Runner 2049. Nữ diễn viên Ana de Armas sẽ vào vai Bond Girl trong siêu phẩm phim hành động điệp viên 007 "Bond 25", dự kiến sẽ ra mắt vào tháng 4/2020. Bộ phim Kẻ Đâm Lén không phải là một tác phẩm hoàn hảo khi còn chứa nhiều lỗ hổng về nội dung (plot hole) lẫn cú twist không có gì bất ngờ. Dầu vậy, đây vẫn là một tác phẩm đáng xem về đề tài trinh thám, với cố gắng đến từ đội ngũ sản xuất cài cắm yếu tố hiện đại trong một vụ án đậm màu sắc cổ điển.—Tạp chí Phái mạnh ELLE ManBài: Phúc Nguyễn. Sau thành công của Star Wars: The Last Jedi, đạo diễn Rian Johnson đã lựa chọn một dự án ít ồn ào hơn mang tên Knives Out (Kẻ Đâm Lén). Một lần nữa Rian Johnson lại chứng minh được cái tài lấy lòng đám đông khi đem đến một tác phẩm tròn trịa, hài hước vừa đủ đồng thời vẫn cài cắm thông điệp chính trị mang hơi thở thời đại. Bộ phim sở hữu câu chuyện không mới: một gia đình giàu có bỗng dưng một ngày phát hiện ông cụ Harlan Thrombey trong nhà chết bất đắc kỳ tử để lại khối gia sản kếch xù mà con cháu ai cũng thèm thuồng. Ông thám tử được mời đến, dù hiện trường chỉ ra không có dấu hiệu tấn công nhiều khả năng là một vụ tự tử, nhưng không ai tin điều đó. Thế rồi từng bước ván bài được lật ngửa, lộ ra những bí mật động trời mà người sống dằn vặt, người chết đem đi. Qua cuộc phỏng vấn với các thành viên, khán giả được biết vài điều về đám con cháu trong nhà. Bà con cả Linda (Jamie Lee Curtis) ba hoa về việc mình trở thành triệu phú tự thân, hai bàn tay trắng cùng khoản vay vài triệu đô từ ông bố để làm nên cơ nghiệp. Ông con trai Walter (Michael Shannon) rất chăm chỉ xuất bản sách… của bố mình. Cô con dâu Joni (Toni Collette) phông bạt trên Instagram nhưng hóa ra toàn xin đểu tiền học mà Harlan cho cháu gái để lấy tiền tiêu. Ngay cả mấy đứa cháu như Ransom (Chris Evans) hay Jacob (Jaeden Martell) cũng là bọn láo toét cãi bố mẹ như chém chả. Tất cả được gắn kết như một cộng đồng ký sinh trên ông già Harlan. Bộ phim Parasite (Ký sinh trùng) của đạo diễn Bong Joon-ho đã xuất sắc giành được giải thưởng Cành Cọ Vàng danh giá cùng kỷ lục màn pháo tay dài 8. Tự nhận mình là fan cuồng trinh thám lớn lên với các tác phẩm của Agatha Christie, Rian Johnson đã xây dựng bối cảnh của bộ phim Kẻ Đâm Lén mang màu sắc cổ điển có chút kệch cỡm. Ngôi dinh thự nằm giữa khu rừng của gia đình Thrombey được lấp đầy bằng những cổ vật, đồ nội thất cổ, tác phẩm nghệ thuật… Bản thân ông cụ Harlan Thrombey (Christopher Plummer) cũng giống như mọi chân dung nhà quý tộc giàu có nào đó cách đây 100 năm. Chất cổ điển của Kẻ Đâm Lén nằm trong cách thám tử Benoit Blanc phá án, thay vì sử dụng nghiệp vụ hiện đại với độ chính xác cao của thế kỷ 21 thì ông thích trò chuyện với nhân chứng, phán đoán và dùng kính lúp. Qua những lần gợi mở, khán giả liên tục được đặt câu hỏi cho các nhân vật và tha hồ đoán xem ai mới là kẻ chủ mưu. Đạo diễn của The Last Jedi đã đem tới cho người xem cảm giác như đang lật giở từng trang truyện kinh điển của Agatha Christie, trong khi thưởng thức dòng phim whodunit với nhiều cách tân thú vị. Một trong những yếu tố “tấu hài” mang hơi thở hiện đại của Kẻ Đâm Lén là việc đem chính trị ra để châm biếm, với mũi dùi không chĩa vào đâu khác ngoài tổng thống Mỹ. Những quyết sách về người nhập cư, các bè phái chính trị lẫn thói “chém gió” về việc mình là tỉ phú tự thân đều được đem ra châm chọc không thiếu gì. Trong các buổi phỏng vấn, Rian Johnson không che giấu điều này và coi đó là một thú tiêu khiển cho đời đạo diễn. Thêm vào đó, thông điệp về lòng tốt và trái tim nhân hậu của người nhập cư thông qua hình tượng nhân vật cô điều dưỡng Marta (Ana de Armas) và ẩn dụ về sự trừng phạt giới da trắng giàu có cũng đã đóng góp vào việc cách tân thể loại trinh thám cổ điển. Quy tụ dàn cast “ngoại hạng” bao gồm những cái tên sừng sỏ của thể loại kinh dị như Jamie Lee Curtis và Toni Collette, ngôi sao gạo cội Christopher Plummer và nhiều gương mặt trẻ, Kẻ Đâm Lén giống như một show diễn để các diễn viên thuộc đủ thế hệ phối hợp với nhau. “Cơ trưởng” của show là Daniel Craig trong vai Benoit Blanc – một tay thám tử trông có vẻ gà mơ nhưng thật ra lại rất tinh đời và có óc quan sát siêu phàm. Bộ phim đã chứng minh được một điều, hóa ra “James Bond” cũng biết diễn hài và diễn sâu là đằng khác. Tuy vậy một số chi tiết hài hước của Blanc vẫn không tránh khỏi độ “nhạt” nhất định. Một trong những màn trình diễn gây ấn tượng không kém đến từ người đẹp Cuba – Ana de Armas, khi hóa thân thành cô điều dưỡng tử tế đã chăm sóc cho ông cụ Harlan nhiều năm. Những cảnh quay cận soi chiếu gương mặt phúc hậu, đôi mắt to tròn thánh thiện của de Armas khiến nhiều khán giả phải chao đảo. Đây tiếp tục là một vai diễn thành công cho cô sau War Dogs và Blade Runner 2049. Nữ diễn viên Ana de Armas sẽ vào vai Bond Girl trong siêu phẩm phim hành động điệp viên 007 "Bond 25", dự kiến sẽ ra mắt vào tháng 4/2020. Bộ phim Kẻ Đâm Lén không phải là một tác phẩm hoàn hảo khi còn chứa nhiều lỗ hổng về nội dung (plot hole) lẫn cú twist không có gì bất ngờ. Dầu vậy, đây vẫn là một tác phẩm đáng xem về đề tài trinh thám, với cố gắng đến từ đội ngũ sản xuất cài cắm yếu tố hiện đại trong một vụ án đậm màu sắc cổ điển.
|
Kẻ đâm lén
|
Kẻ đâm lén (tựa gốc tiếng Anh: Knives Out) là một bộ phim bí ẩn Mỹ năm 2019, đạo diễn kiêm biên kịch bởi Rian Johnson và do ông cùng Ram Bergman sản xuất. Bộ phim theo chân một vị thám tử tài ba điều tra về cái chết đột ngột của nhà văn trinh thám nổi tiếng trong chính bữa tiệc sinh nhật lần thứ 85 của ông, vốn tụ họp đông đủ các thành viên trong gia đình. Tác phẩm có sự tham gia của dàn diễn viên bao gồm Daniel Craig, Chris Evans, Ana de Armas, Jamie Lee Curtis, Michael Shannon, Don Johnson, Toni Collette, Lakeith Stanfield, Katherine Langford, Jaeden Martell và Christopher Plummer. Kẻ đâm lén công chiếu lần đầu tiên trên toàn thế giới vào ngày 7 tháng 9 năm 2019 tại Liên hoan phim quốc tế Toronto và được Lionsgate phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 11 cùng năm. Giới chuyên môn đánh giá cao bộ phim, đặc biệt là về kịch bản, khâu đạo diễn và diễn xuất. Tác phẩm cũng thành công ở rạp chiếu khi thu về 309,2 triệu USD trên toàn thế giới so với ngân sách 40 triệu USD.
|
“Mặc khải là Thiên Chúa tỏ bày mầu nhiệm của Người cho nhân loại qua trung gian loài người như ông Môsê, ông Êlia, nhất là qua Chúa Giê-su. Đến lượt mình, Chúa Giêsu lại tỏ cho các Tông Đồ biết mọi bí nhiệm, ý định của Thiên Chúa“<1>. Ở đây, vấn đề công ty chúng tôi muốn tìm hiểu là vì trong tiếng Việt, ngoài thuật từ “mặc khải” còn có “mạc khải” (cả hai đều dịch từ chữ La Tinh là revelatio, có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp là apocalypsis) để diễn tả việc “Thiên Chúa tỏ bày mầu nhiệm của Người cho nhân loại”. Mặc khải hay mạc khải dịch từ chữ La Tinh là revelatio, gốc từ chữ Hy Lạp là apocalypsis. Như vậy, apocalypsis nguyên nghĩa là vén màn che lên (lifting of the veil), tức là tỏ ra cho biết, chỉ ra rằng rằng. Từ đó có động từ velare nghĩa là: che phủ, che đậy, giấu kín (thế kỷ XIV: Pháp: voiler, couvrir; Anh: to veil, to cover) và revelare (với tiếp đầu ngữ re- hàm nghĩa là: phản nghĩa với) nghĩa là: bỏ mạng che mặt, cất màn; nghĩa rộng là: khánh thành; trình bày công khai; để lộ, tiết lộ (Pháp: dévoile, découvrir; Anh: unveil, uncover). Từ hậu bán thế kỷ XIV, revelare được dịch sang tiếng Pháp là reveler và tiếng Anh là reveal có nghĩa là: bộc lộ, tiết lộ (điều bí mật); phát hiện, khám phá (vật bị giấu…). Vào khoảng năm 1230, tựa đề quyển sách cuối cùng của Thánh Kinh được chuyển sang tiếng Anh là Apocalypse. Khoảng năm 1380, John Wiclif (Tin Lành) dịch tựa đề sách này là Revelation. Thời Trung Cổ, từ này có nghĩa là “insight, vision, hallucination” (thấu thị, thị kiến, ảo giác); ngày nay có nghĩa là “A cataclysmic event” (Một cuộc hồng thủy hay câu chuyện về ngày tận thế)<2>. Revelatio có nghĩa<3>: (1) Hành vi vén mở, tiết lộ. (2) Những việc trước đây không được biết đến, nay được biết đến. (3) (Về mặt thần học): (a) Chúa để lộ ra chính mình Chúa và thánh ý Chúa cho các loài thụ tạo. (b) Trường hợp truyền đạt hay tiết lộ. (c) Những việc được truyền đạt hay tiết lộ. (d) Những gì chứa đựng việc tiết lộ này, như Thánh Kinh. (4) Khi viết hoa, là chỉ cuốn Khải Huyền của Thánh Gioan. ở Viễn Đông, các nhà truyền giáo trong những thế kỷ đầu thường dùng những lý lẽ một cách tự nhiên và những chứng cứ thực tế, chi tiết và dễ hiểu để trình bày đức tin Kitô Giáo. Các ngài rất ít khi viện dẫn tới những ý niệm thuộc siêu hình học hay thần học kinh viện cao xa. Vì thế, ý niệm về revelatio vắng mặt trong các tác phẩm như Phép Giảng Tám Ngày<4> và Từ Điển Việt-Bồ-La<5> của cha Đắc Lộ (xuất bản năm 1651) cũng như các thuật từ khải huyền, mạc khải hay mặc khải đều không xuất hiện trong những tự điển, tự vị trước năm 1896 như Dictionarium Annamitico Latinum của Đức cha P.J. Có người cho rằng thừa sai Giêrônimô Majorica, S.J. là người đầu tiên đã dịch từ révélation sang chữ Nôm là khải mông<6> trong cuốn giáo lý Công Giáo đầu tiên của Việt Nam là “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông” (năm 1623). Điều này không đúng, vì cuốn này tuy là bản dịch ra chữ Nôm của cuốn Controverses<7> của Thánh Hồng Y Robert Bellaminô soạn năm 1581-1593, nhưng tựa đề của nó là do cha Majorica tự đặt ra và chính ngài giải nghĩa chữ khải mông là “lời tóm lại mọi sự Đức Chúa Giêsu truyền xưa” (x. đoạn I) còn nội dung bên trong thì không có chỗ nào dùng thuật từ révélation cả. Có lẽ Julien Thiriet là người đầu tiên ghi nhận ý nghĩa phổ thông của từ revelatio là “sự tỏ ra, bày tỏ ra” trong cuốn Tự vị Latinh-Annam<8> xuất bản năm 1868, tiếp theo là P.G. cùng lúc ấy gian này, Genibrel<10> ghi nhận révélation được dịch là mặc chiếu, mặc thị. Cha Cố Chính Linh trong bản dịch Thánh Kinh (1914-1916) cũng dịch từ này theo nghĩa phổ thông là “tỏ ra, tỏ hiện, hiện ra, hiện đến, soi sáng”. Trong Tân Ước (bản Vulgata) chữ apocalypsis xuất hiện 3 lần, cha Cố Chính Linh dịch là “tỏ sự kín nhiệm” (1 Cr 14,26) và “khải huyền” (tựa sách Kh và Kh 1,1), và ngài chú thích: “Apocalysis nghĩa là bày tỏ ra sự gì kín nhiệm hay là sự gì chưa biết: Revelatio, khải thị, khải huyền v.v…”. Bản dịch Thánh Kinh năm 1932 của cụ Phan Khôi cũng dùng chữ tỏ ra (revelation) và sự mặc thị, mặc thị lục (apocalypsis). công ty chúng tôi chưa tìm thấy chữ khải huyền trong tài liệu nào trước đó (1914) ở Việt Nam cũng như Trung Quốc. Chữ này do ba chữ cấu thành : (môn : cửa), (thủ : tay), (khẩu : miệng), mang nghĩa một bàn tay mở cửa ra, rồi thuyết giáo. Nghĩa gốc là ‘mở’, như Tả Truyện: “Môn khải nhi nhập: cửa mở cứ vào”. 不悱不發): Đối với học sinh, phải chờ đến khi chúng không nghĩ ra, mới gợi ý; chờ đến khi chúng không nói ra được mới giải thích”. Trong tiếng Hán hiện đại, mặc cũng có nghĩa là ‘trần thuật’, ‘thông báo’.<11>Khải啟 có các nghĩa: (đt.) (3) Mở trí, chỉ dạy: Khải đạo (hướng dẫn chỉ dạy). (4) Bày tỏ, giải bầy: Khải sự (giải bầy công việc). (5) (cũng đọc là khởi) Bắt đầu: Khải lễ (bắt đầu nghi thức), khải hành (bắt đầu đi). (6) Báo tin (cổ văn): Kính khải giả (Xin báo cáo). (7) Tờ viết (cổ văn): Tạ khải (thư cám ơn). (8) Từ ngữ viết thư, viết sau họ tên người nhận thư: XX đài khải (kính thư XX). Trong thuật từ mặc khải, mặc là chữ默. Chữ mặc (默) gồm bộ khuyển (犬) và chữ hắc (黑), 黑 cũng dùng làm hình thanh, chỉ tối tăm, trong bóng tối. Nên nghĩa gốc chỉ con chó lén lút tấn công người. Tấn công ngầm thường không có tiếng động, nên chữ mặc còn có nghĩa là ‘im lặng, không lên tiếng’; nghĩa rộng là ‘lặng lẽ, tĩnh mịch, đen tối, trong bóng tối’ <12>. (1) Im (im lìm, im lặng, không nói ra, làm thinh, không lên tiếng): Mặc đảo (cầu nguyện thầm), mặc niệm (đọc thầm trong bụng), mặc toạ (ngồi im), mặc tụng (đọc không ra tiếng, lầm rầm). (2) Thầm kín (âm thầm, kín đáo, ngấm ngầm): Mặc cải chính trị (cải cách chính trị cách âm thầm), mặc thị (ra hiệu lén = tỏ ý một cách kín đáo, signal), mặc nhận (thầm nhận = ưng thuận cách ngấm ngầm). (3) Nhớ (thuộc lòng, nằm lòng): Mặc ký (nhớ trong lòng), mặc tả (viết thuộc lòng), mặc thức (ghi nhớ trong lòng), mặc toán (tính rợ, tính trong bụng). (4) (dùng kết hợp): Mặc mặc (im im = dáng buồn so); u mặc (có tính hài hước nhẹ nhàng). Mặc默, chữ Nôm có nghĩa: Nín lặng, không thèm nói đến; để tuỳ tiện, không kể đến: mặc ai, mặc bay, mặc dầu, mặc ý, mặc lòng, mặc sức, mặc tình, mặc xác, mặc kệ = mặc đời, phó mặc. Mặc khải (révélation), có nghĩa : (1) Tỏ lộ những điều bí ấn, khó hiểu. (2) Chỉ những sách có công tác đó.<14>4. Rất tiếc là chúng ta không biết người tạo ra thuật từ mạc khải đã muốn dùng chữ mạc nào trong tiếng Hán. vì thế mà có người cho rằng chữ mạc trong mạc khải là 幕(mạc莫thêm chữ cân 巾, nghĩa là cái màn幕); người khác<18> thì cho chữ mạc là 漠(mạc莫thêm bộ thuỷ 氵, có nghĩa là yên lặng 漠); hoặc mạc cũng là chữ mặc 默 trong mặc khải?. Nếu mạc lấy chữ mạc bộ thuỷ (漠) hay chữ mặc (默)và lấy nghĩa im lặng, thì rõ ràng mạc và mặc đồng nghĩa: mạc khải = mặc khải, chúng ta sẽ không có gì để tranh cãi. Có điều là chỉ có mặc 墨 (chữ hắc 黑 thêm chữ thổ 土, nghĩa là mực, sắc đen) mới đọc trại là “mạc”; còn nói như Génibrel thì rất lạ, công ty chúng tôi chưa thấy tài liệu nào nói như vậy, phải chăng chỉ là phương pháp phát âm riêng của một địa phương nào đó ở Việt Nam hay chỉ là một trong số những sai sót của cuốn tự điển này?<19>Còn phiên thiết theo (1)Thuyết Văn Giải Tự說文解字là : 莫(mạc) + 北(bắc), 切(thiết) → mặc. Như vậy默chỉ có duy nhất một âm là mặc. Như số đông, công ty chúng tôi cho rằng trong thuật từ mạc khải, mạc lấy nghĩa là màn và viết là幕 (mạc phần dưới có chữ cân). Trong thuật từ mạc khải, mạc là chữ幕, nghĩa là: (dt.) (2) Trướng (lều bạt): Doanh trại của tướng lãnh (Cái màn che ở trên gọi là mạc. Trong quân phải giương màn lên để ở, nên, chỗ quan tướng ở gọi là mạc phủ – bộ tư lệnh quân đội. Người tham mưu bí thư ở trong quân gọi là mạc hữu; những người thư ký coi việc văn thư gọi là mạc liêu.). (3) Màn (sân khấu): Việc bắt đầu hay kết thúc (Đóng tuồng trước phải căng màn, đến lúc diễn trò mới mở, vì thế sự gì mới bắt đầu làm đều gọi là khai mạc (mở màn, dẫn đầu); khi hết tuồng thì kéo màn đóng lại, vì thế sự gì kết thúc cũng gọi là bế mạc (đóng màn, chấm dứt). (4) Màn (kịch): Hồi ở bản kịch: Đệ nhất mạc (Màn một). (5) (còn đọc là mạn hay mán): Mặt trái hay mặt sau của đồng tiền (Đồng tiền thời xưa, mặt phải hay mặt trước có chữ, mặt trái hay mặt sau thì trơn). (6) Có khi dùng như chữ mạc 漠, nghĩa là: Bể cát : sa mạc; yên lặng: đạm mạc (hờ hững, không thể lấy danh lợi làm động lòng được). (7) Bao phủ, che trùm: “Giải triều phục nhi mạc chi: cởi áo triều phục mà che lại” (Quốc Ngữ Hoạt Dụng Từ Điển) (8) (dùng kết hợp) nội mạc (chuyện thật bên trong), mạc yến (én làm tổ trên màn: tình cảnh nguy ngập, ‘trứng treo đầu gậy’). Mạc khải (révélation): tác động của Thiên Chúa bộc lộ những điều vượt tầm hiểu biết của con người. Ví dụ: Sự hiện hữu của Thiên Chúa vừa do lý trí khám phá vừa được chính Ngài mạc khải<20>. Mạc khải (幕啟) là từ ghép không xuất hiện trong tiếng Hoa, chỉ mới xuất hiện trong tiếng Việt gần 50 năm này<21>. Trong tiếng Hoa có những từ ghép như: thùy mạc (垂幕,dt. : vén màn, to unveil,)… Nhưng những cụm từ như: mạc khải (幕啟 kéo màn, the curtain rises), mạc lạc (幕落hạ màn, curtainfall), mạc thùy (幕垂 thả màn, the curtain dropped) là những cụm từ tự do. Trong tiếng Việt, dù các thành tố đều có gốc Hán, nhưng nếu xét theo quan hệ tình dục cú pháp tiếng Hán, ta có những từ ghép như: khai mạc, bế mạc… (thành tố chính sau – thành tố phụ trước), còn xét theo quan hệ tình dục cú pháp tiếng Việt, ta cũng có những từ ghép như: trưởng đoàn, viện hàn lâm… (thành tố chính trước – thành tố phụ sau). Đặc điểm này có người gọi là “văn phạm kép” của tiếng Việt. Theo Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn<23>, về nguyên tắc, từ ghép phụ nghĩa không thể có hiện tượng tự do về mặt trật tự; yếu tố nào phải đứng trước, yếu tố nào phải đứng sau, là một vấn đề do tập tính thông thường (ngữ ngôn) chứ không phải do chuẩn mực chi phối (ngữ pháp). Chính yếu tố ngữ ngôn này đã góp phần tạo nên bản sắc văn hoá các dân tộc. Chẳng hạn nếu nói khải mạc là mở màn, thì rất đúng ngữ pháp Hán Việt và tiếng Hoa, nhưng chúng ta lại không có “khải mạc” mà lại có thuật từ mạc khải – từ mà Trung Quốc không có! khả năng nêu ra ở đây một vài thí dụ để thấy rằng vị trí từ Hán Việt trong các từ ghép tiếng Việt đôi khi ngược với tiếng Hoa:. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã có khá nhiều tài liệu thống kê, phân tích và xếp loại về vấn đề từ ghép nghĩa. Việc phân loại căn cứ vào mặt từ loại, ví dụ phân loại thành kiểu kết cấu danh + danh, kiểu kết cấu động + động, kiểu kết cấu danh + động vv… cũng là một hướng thống kê còn đang bỏ ngõ.
|
Mặc khải
|
Mặc khải (chữ Hán: 默啟) có nghĩa là mở ra cho biết một điều thiêng liêng màu nhiệm trong sự tĩnh lặng mà lý trí con người không thể giải thích được. Mạc khải (chữ Hán: 漠啟) là sự tác động trong yên lặng của Thiên Chúa làm bộc lộ những điều vượt tầm hiểu biết của con người. Hai từ trên được dùng một cách tương đương. Trong các độc thần giáo, mặc khải là quá trình hoặc hành động nhận biết một thông tin thần thánh. Theo truyền thống, mặc khải được xem là điều mà Thiên Chúa, hay một vị thần, hay một thực thể siêu nhiên khác chẳng hạn thiên thần cho biết về các ý muốn, nguyên tắc, luật lệ và giáo lý thần thánh, v.v. Mặc khải là việc Thiên Chúa bày tỏ cho người biết Thiên Chúa là ai và Người muốn gì, nhờ vậy mà con người có thể tiếp cận với Thiên Chúa và hiệp thông với Người.
|
Tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới của nước ta là tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là, đồng thời thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức sử dụng trong các văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng; theo đó, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đây là bước đột phá dũng cảm nhưng hết sức khoa học về tư duy lý luận của Đảng ta. Từ góc độ lịch sử chúng ta thấy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, suốt một thời gian dài, cả về mặt lý luận và thực tiễn, người ta đã đem đối lập một cách tuyệt đối và siêu hình chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản; coi những gì có trong chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội phải xóa đi hết và ngược lại, trong đó có kinh tế thị trường vốn là thành quả phát triển của lịch sử loài người. Cần nhận thức rõ rằng, xã hội cộng sản với tính cách một hình thái kinh tế – xã hội không thể có sẵn mọi thứ trong lòng xã hội tư bản nhưng cũng đã có những tiền đề về nhiều mặt quan trọng cho sự ra đời của một hình thái kinh tế – xã hội mới. Một trong những tiền đề ấy là nền kinh tế thị trường đã rất phát triển nhờ sự phát triển hết sức cao và mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Chính V.I. Lê-nin cũng đã sớm nhận ra sai lầm nóng vội khi đề ra và thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến nên đã kịp thời sửa chữa sai lầm ấy bằng cách đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP) để nước Nga chấp nhận phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần và bước đầu đi vào nền kinh tế thị trường. Về điều này, V.I. Lê-nin đã khẳng định mạnh mẽ rằng, “chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được”. Việc dứt khoát từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính thức đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, độc lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới hiện đại. Chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một đất nước tất cả đều vì con người và do con người. Một nền kinh tế như vậy, một mặt, tôn trọng và tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường; nghĩa là sản xuất và kinh doanh phải thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh theo pháp luật để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn là nền kinh tế ấy phải tạo được một lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trong đó con người vừa phải là động lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển. Đồng thời, nền kinh tế thị trường mà chúng ta chủ trương xây dựng phải được hướng dẫn bởi các nguyên tắc thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội về quyền sở hữu, về cách thức tổ chức sản xuất và về phương thức phân phối thành quả lao động. Đảng và Nhà nước ta chủ trương và nhất quán vận hành nền kinh tế thị trường chủ yếu bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị trường nhưng coi trọng sự quản lý và sự điều tiết của Nhà nước, thực hiện phân phối công bằng, nhưng không cào bằng thành quả thu được cho mọi thành viên để không ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau. Đó chính là định hướng cực kỳ quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội quá độ tiến lên CNXH ở VN. Đặc trưng này hàm ý không có một nền kinh tế nào khác ngoài kinh tế thị trường có thể đảm nhiệm vai trò là cơ sở kinh tế để xây dựng CNXH ở nước ta. Đây là sự khẳng định trên thực tế VN nguyên lý kinh điển của C.Mác về vai trò của kinh tế thị trường trong tiến trình phát triển của loài người. Tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế – xã hội quy định phát triển kinh tế thị trường ở nước ta nhằm “xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Không thể làm cho “dân giàu, nước mạnh” nếu không có tăng trưởng kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh CNH, HĐH. Không thể có tăng trưởng kinh tế nếu không phát triển và quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường. Chỉ có sức mạnh của nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần mới là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng XHCN chứ không phải chỉ duy nhất kinh tế quốc doanh như có thời lầm tưởng. Trong điều kiện hiện đại, nền kinh tế XHCN phải có LLSX đạt trình độ cao hơn về chất so với tiêu chuẩn đặt ra trong quan niệm truyền thống về CNXH. Trình độ đó không chỉ đo bằng chuẩn “đại CN cơ khí” mà còn được đo bằng chuẩn công nghệ cao. Trong nền kinh tế này, yếu tố ngày càng có vai trò quyết định là khoa học – kỹ thuật và trí tuệ con người. Điều này đúng với dự đoán của C. Mác trước đây: sau giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, tức là sau CNTB, khoa học kỹ thuật sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do có sự thay đổi như vậy, quan niệm truyền thống về công nghiệp hoá XHCN, vốn gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bị nguyên lý tự cấp – tự túc chi phối, đã không còn thích hợp. Cần phải có một cách thức, một mô hình CNH mới phù hợp có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển mới này. Trong thời đại ngày nay, CNH không chỉ gắn với các mục tiêu, giải pháp truyền thống mà phải đạt tới mục tiêu hiện đại, được thực hiện dựa trên các công cụ và giải pháp hiện đại. Theo nghĩa đó, CNH cũng chính là và phải là quá trình HĐH. Khái niệm CNH, HĐH, vì vậy, được hiểu là quá trình CNH với các mục tiêu và giải pháp phù hợp với điều kiện và xu hướng phát triển hiện đại. Đây là một trong những nội dung – đặc điểm quan trọng bậc nhất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp, bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại trong một thể thống nhất, trong đó, chế độ công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Không thể có nền kinh tế định hướng XHCN nếu trong nó, chế độ công hữu không đóng vai trò nền tảng. Đây là một cấu trúc đặc thù của nền kinh tế thị trường theo nghĩa:. – Khu vực kinh tế nhà nước chứ không phải bất cứ lực lượng kinh tế nào khác đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Theo quan niệm của C. Mác, sở hữu công cộng (chế độ công hữu) là sở hữu được xã hội hoá và mang tính xã hội trực tiếp. Công hữu phải từng bước trở thành nền tảng vững chắc là vấn đề có tính nguyên tắc không chỉ đối với nền kinh tế XHCN mà còn đối với nền kinh tế định hướng XHCN. Tuy nhiên, vai trò nền tảng của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa thể đậm nét như trong nền kinh tế XHCN. Nhưng sự khác biệt ở đây không phải là về bản chất mà là về quy mô, mức độ và phạm vi tác động. Chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên hai hình thức cơ bản là sở hữu công cộng (công hữu) và sở hữu tư nhân (tư hữu). Còn sở hữu hỗn hợp được hình thành trên cơ sở đan xen, hỗn hợp giữa các hình thức sở hữu và là kết quả của sự hợp tác, liên doanh giữa các chủ sở hữu khác nhau là nhà nước, tập thể (nhóm) và tư nhân. Công hữu ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, các hình thức sở hữu khác cùng phát triển mạnh mẽ không hạn chế và đan xen, hỗn hợp với nhau theo luật định cần được xem là chế độ kinh tế cơ bản của giai đoạn phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta. Trước đây, theo quan niệm truyền thống, các hình thức sở hữu là đơn nhất: nhà nước, tập thể hoặc tư nhân. Trong gần 20 năm đổi mới, kinh tế hỗn hợp đang được hình thành và từng bước phát triển mạnh; chế độ cổ phần đang dần trở thành hình thức tổ chức chủ yếu của kinh tế công hữu. Vì thế, công hữu không chỉ bao gồm sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể đơn nhất mà còn bao gồm cả phần sở hữu của nhà nước và tập thể trong kinh tế hỗn hợp. Cũng như vậy, tư hữu không chỉ bao gồm sở hữu tư nhân đơn nhất mà còn bao gồm cả phần sở hữu của tư nhân trong kinh tế hỗn hợp. Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, hình thức đơn nhất của công hữu có xu hướng giảm nhưng ý nghĩa nền tảng của công hữu ngày càng được củng cố vững chắc và được tăng cường ở những lĩnh vực then chốt, thể hiện ở:. – Vốn của kinh tế công hữu (bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và phần công hữu trong kinh tế hỗn hợp) vẫn đóng vai trò quan trọng trong tổng vốn đầu tư XH. – Kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế. Một yêu cầu khách quan của thị trường và kinh tế thị trường là phải xác nhận và xác định quyền sở hữu dưới dạng tiền tệ những đóng góp tài sản, tiền vốn, trí tuệ, v.v. vào kinh doanh nhằm lượng hoá quyền sở hữu của từng chủ sở hữu. Không có quyền sở hữu chung chung, vô chủ, cũng không có quyền sở hữu như nhau cho tất cả mọi người trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt. Đó là những “đài chỉ huy”, là huyết mạch chính của nền kinh tế. Đây là điều kiện có tính nguyên tắc bảo đảm tính định hướng XHCN. Nó thể hiện sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN so với các mô hình kinh tế thị trường khác. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở sức mạnh định hướng, hỗ trợ phát triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải ở quy mô và sự hiện diện của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả hoặc hầu hết các ngành, các lĩnh vực. Đồng thời với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò điều tiết của Nhà nước, cần coi trọng vai trò của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần này gắn bó hữu cơ với nhau trong một thể thống nhất, không tách rời kinh tế nhà nước ở tất cả các giai đoạn phát triển và đều là những thực thể của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mọi DN đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật; quyền bình đẳng về cơ hội phát triển và lợi ích chính đáng được pháp luật bảo vệ.
|
Chủ nghĩa xã hội thị trường
|
Chủ nghĩa xã hội thị trường là một kiểu hệ thống kinh tế trong đó nền kinh tế thị trường được điều khiển bởi một bộ máy kế hoạch hóa tập trung nhằm nâng cao hiệu quả của thị trường. Chủ nghĩa xã hội thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba (để phân biệt với hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do (hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa) và kinh tế kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội thị trường ngụ ý nói về những hệ thống kinh tế trong đó tư liệu sản xuất (means of production) được sở hữu toàn dân hay là sở hữu bởi các hợp tác xã hoạt động vì lợi nhuận trong một nền kinh tế thị trường (market economy). Lợi nhuận của các doanh nghiệp tham gia thị trường sẽ được dùng để trả lương cho nhân viên hoặc được sung vào công quỹ. Về mặt lý thuyết, sự khác biệt cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội thị trường và chủ nghĩa xã hội truyền thống (tức là Kinh tế Kế hoạch hóa tập trung, còn gọi là kinh tế xã hội chủ nghĩa) là sự tồn tại của một thị trường điều phối phương tiện sản xuất và mọi máy móc thiết bị sản xuất.
|
Máy sấy tóc là một trong những vật dụng quen thuộc tại mỗi gia đình và cửa hàng chăm sóc tóc chuyên nghiệp. Bên cạnh các loại máy sấy tóc chỉ có chức năng sấy khô, trên thị trường hiện nay đã xuất hiện một dòng sản phẩm mới được đánh giá là ưu việt hơn - máy sấy tóc ion. Vậy máy sấy tóc ion là gì? Có nên sử dụng máy sấy tóc ion không? Bài viết của Quantrimang.com sẽ giúp bạn trả lời những câu hỏi này. Ngày nay, hầu như gia đình nào cũng có ít nhất 1 chiếc máy sấy tóc trong nhà. Tuy nhiên, đa số chúng đều là dòng sản phẩm thông thường, chỉ có chức năng sấy giúp làm khô tóc nhanh. Điều này cũng giải thích tại sao khi nghe đến cụm từ “máy sấy tóc ion” nhiều người lại tỏ ra khá lạ lẫm. Máy sấy tóc ion hay máy sấy tóc ion âm có kiểu dáng tương tự với các loại máy sấy tóc mà chúng ta vẫn hay sử dụng, nhưng ngoài chức năng làm khô tóc, nó còn có thể tạo ra những hạt ion âm để bảo vệ và giữ ẩm cho tóc. Ion âm được các nhà khoa học ví như “vitamin trong không khí”. Nhờ những tác dụng tuyệt vời dành cho sức khỏe, công nghệ ion âm được ứng dụng trong nhiều thiết bị chăm sóc sức khỏe và làm đẹp. Máy sấy tóc ion âm hoạt động theo nguyên lý khá đơn giản. Lúc vừa gội đầu xong, lượng nước đọng lại trên tóc của chúng ta là những hạt ion mang điện tích dương. Trong quá trình hoạt động, máy sấy tóc ion sẽ tạo ra các ion âm để phá vỡ cấu trúc phân tử nước, khiến quá trình bốc hơi diễn ra nhanh chóng. Nhờ vậy mà chúng ta có thể rút ngắn thời gian sấy tóc đồng thời giúp tóc tránh được hư tổn dưới tác động của nhiệt độ. Có nên sử dụng máy sấy tóc ion không? Câu trả lời của chúng tôi là có. Bởi vì thiết bị này có thể mang đến rất nhiều tác dụng, lợi ích, cái mà bạn khó có thể tìm thấy ở các dòng máy sấy tóc thông thường khác:. Bảo vệ và chăm sóc tóc: Máy sấy tóc ion làm khô tóc bằng cách dùng các hạt ion âm để phá vỡ phân tử nước. Nhờ vậy mà mái tóc của chúng ta ít phải chịu tác động từ nhiệt độ - một trong những nguyên nhân khiến tóc dễ bị khô, gãy rụng. Ngoài ra, các ion âm khi thổi vào sẽ thắt chặt các lớp biểu bì, giúp tóc giữ được độ ẩm tự nhiên và trở nên mềm mại, mượt mà hơn. Nhiều dòng máy sấy tóc ion cao cấp hiện nay còn được trang bị thêm tính năng tạo màng chắn nano, giúp cân bằng pH trên biểu bì và bảo vệ da đầu khỏi tác động của tia cực tím. Hỗ trợ làm sạch da đầu khi sấy: Các hạt ion âm tạo ra bởi máy sấy tóc ion có thể phá vỡ cấu trúc và làm mất cân bằng điện tích các hạt bụi bẩn, từ đó giúp da đầu được sạch hơn. Trên thị trường hiện nay có nhiều loại máy sấy tóc ion âm khác nhau nhưng không phải loại nào cũng tốt và có giá bán phải chăng. Nếu bạn vẫn chưa tìm được cho mình sản phẩm phù hợp, hãy tham khảo một số gợi ý dưới đây của chúng tôi:. Máy sấy tóc Panasonic EH-NE11-V645 sở hữu thiết kế nhỏ gọn, hiện đại với tông màu chủ đạo là trắng và tím. Sản phẩm hoạt động với công suất 1200W, có thể gập gọn để mang đi du lịch, công tác. Panasonic EH-NE11-V645 được trang bị đầu phun khí ion âm tách biệt so với đầu thổi khí, nhằm làm tăng tối đa hiệu quả giữ ẩm cho tóc, giúp tóc luôn khỏe mạnh, bóng mượt. Cách sử dụng máy sấy tóc ion Panasonic EH-NE11-V645 khá đơn giản. Trên thân máy có 1 công tắc đơn, cho phép bạn điều chỉnh theo 3 mức từ 1 đến 3, trong đó, mức 1 là sấy mát, phù hợp với tóc mỏng và yếu, mức 2 và 3 là sấy nóng, giúp sấy tóc nhanh khô hơn. Đặc biệt, thiết bị này còn có khả năng tự ngắt khi nhiệt độ tăng quá cao nhằm đảm bảo tuổi thọ cũng như an toàn cho người dùng. Tescom NTID45 gây ấn tượng nhờ kiểu dáng hiện đại, nhỏ gọn với trọng lượng chỉ khoảng 480g. Vỏ máy được làm bằng gốm Ceramic không chỉ mang đến tính thẩm mỹ cao mà còn có thể ngăn cản tác động nhiệt, bảo vệ động cơ máy. Ngoài ra, nó còn được trang bị móc treo bằng cao su thiên nhiên và có thể gập gọn một cách dễ dàng, rất tiện cho việc lưu trữ, bảo quản. Máy sấy tóc Tescom NTID45 hoạt động với công suất tối đa 2000W và có đến 3 chế độ sấy là sấy mát, sấy nóng và sấy ấm. Đặc biệt, máy sấy còn được tăng cường gấp đôi miệng thổi ion, giúp mái tóc bóng mượt, không bị xoăn rối. Máy sấy tóc Philips HP8232 hoạt động với công suất 2200W, là trợ thủ đắc lực giúp bạn làm khô tóc nhanh chóng và tạo kiểu dễ dàng hơn. Thiết bị có 2 tốc độ sấy mạnh/nhẹ và 2 mức nhiệt độ sấy ấm/mát, có thể sử dụng được cả mùa đông và mùa hè. Bên cạnh đó, máy còn có chức năng tạo ion âm, có tác dụng loại bỏ tĩnh điện, chăm sóc tóc và ép thẳng các biểu bì tóc, từ đó làm tăng vẻ bóng mượt cho mái tóc. Tay cầm của máy khá nhỏ gọn và còn được trang bị thêm móc treo để việc cất giữ tiện lợi hơn. Bộ lọc khí của máy có thể tháo rời để vệ sinh. Philips HP8232 có 2 đầu sấy chuyên dụng, 1 đầu sấy hẹp 14mm có tác dụng tập trung không khí nóng để sấy tóc và tạo kiểu hiệu quả, 1 đầu sấy lược chải hỗ trợ tạo kiểu tóc xoăn hoặc làm dày tóc. Sản phẩm rất an toàn khi sử dụng nhờ tính năng tự ngắt điện khi quá nóng. Philips HP8233 có kiểu dáng khá nhỏ gọn, tinh tế với các đường nét thiết kế mềm mại. Vỏ máy được làm bằng nhựa cao cấp, bền, chống bám bẩn và dễ vệ sinh. Tay cầm vừa vặn, có móc treo tiện lợi. Công suất hoạt động của máy lên đến 2200W, giúp bạn tiết kiệm thời gian sấy tóc. Philips HP8233 có 2 đầu sấy tạo kiểu tóc: 1 đầu sấy hẹp cực mỏng 11mm, giúp tập trung luồng khí làm khô tóc và tạo kiểu tóc chính xác hơn; 1 đầu sấy chải giúp làm tăng độ dày cho tóc, giảm xoăn rối đồng thời massage da đầu. Máy sấy tóc Philips HP8233 có tính năng tạo ion âm để làm bóng mượt tóc, hạn chế tình trạng xơ rối. Ngoài ra, thiết bị còn có cơ chế tự ngắt điện khi nhiệt độ vượt quá 55 độ C, vừa để bảo vệ tóc, vừa giúp nâng cao tuổi thọ. Máy sấy tóc Panasonic EH-NA45R-P645 có công suất 1600W, kích thước khá nhỏ gọn với trọng lượng chỉ 300g. Sản phẩm được trang bị 2 đầu phát Nanoe và Platinum ion, tạo ra những hạt ion Nanoe siêu mịn với kích thước nhỏ hơn hạt nước 1 tỷ lần và có khả năng tăng giữ ẩm gấp 1000 lần, từ đó giúp làm mượt lớp biểu bì, cân bằng độ pH của tóc đồng thời bảo vệ tóc khỏi tác hại của tia tử ngoại. Máy có 3 mức điều chỉnh nhiệt độ, mang đến cho bạn nhiều lựa chọn. Nút nguồn được đặt giữa thân máy với 2 tốc độ sấy, thích hợp với cả người thuận tay trái và phải. Phía dưới tay cầm có móc treo, giúp bạn có thể cất giữ và bảo quản máy một cách dễ dàng hơn. Mong rằng bài viết của chúng tôi đã giúp các bạn hiểu rõ máy sấy tóc ion là gì và có nên sử dụng máy sấy tóc ion không. Đừng quên lựa chọn cho mình một sản phẩm phù hợp để mái tóc luôn khỏe mạnh và bóng mượt bạn nhé!
|
Máy sấy tóc
|
Máy sấy tóc là một dụng cụ cơ điện dùng để thổi những luồng hơi nóng hoặc mát vào các mái tóc ẩm ướt với tác dụng đẩy mạnh quá trình bốc hơi phần nước bám trên tóc và giúp làm chóng khô tóc. Máy sấy tóc cũng là một công cụ giúp điều chỉnh một cách hiệu quả hình dạng và kiểu tóc bằng cách đẩy nhanh quá trình hình thành liên kết hiđrô trong mỗi sợi tóc. Những liên kết này rất mạnh - thậm chí còn giúp định hình kiểu tóc tốt hơn các liên kết lưu huỳnh trong việc uốn tóc cho làn sóng giữ được lâu - tuy nhiên chúng chỉ tồn tại tạm thời và rất dễ bị tổn hại do sự ẩm ướt. Tức là, những liên kết biến mất chỉ sau một lần dội nước lên tóc. Những kiểu tóc tạo ra sau khi sử dụng máy sấy tóc thường có nhiều làn nếp và rất khó bị mất nếp, điều này còn có thể được phát huy bằng cách dùng những sản phẩm tạo kiểu tóc và các bàn chải tóc trong quá trình sấy nhằm tạo lực căng, lực kéo và lực nâng.
|
Người trưởng thành cần 7-9 giờ ngủ mỗi ngày để đảm bảo sức khỏe và trí não được nghỉ ngơi, hoạt động tốt. Nhưng ở những người bị thiếu ngủ, họ không đạt đủ thời lượng này nên cả thể chất và tinh thần đều bị ảnh hưởng. Thiếu ngủ thực ra chưa được gọi là bệnh lý mà chỉ là từ được dùng để mô tả tình trạng xảy ra khi một người có thời gian ngủ ít hơn so với nhu cầu cơ thể thông thường. Dù không phải là bệnh lý nhưng nếu trạng thái này liên tiếp kéo dài thì đó hoàn toàn có thể là triệu chứng cảnh báo của một số căn bệnh nào đó, hoặc chính chứng thiếu ngủ cũng có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe tổng thể. Vào ban ngày buồn ngủ rất nhiều, ngủ gật liên tục, đặc biệt là khi chỉ hoạt động trí não, không có vận động thể chất (Ví dụ đọc sách, làm việc văn phòng, xem tivi…). Rất khó tập trung vào một việc gì đó, hay bị gián đoạn sự chú ý. Hay quên vặt và thường gặp khó khăn khi phải học một khái niệm mới. Vào ban đêm, mạch máu dưới da giãn nở dưới sự tác động của quá trình trao đổi chất sẽ giúp làn da trở nên hồng hào. Melatonin được tiết ra trong lúc ngủ cũng giúp chống oxy hóa, làm trắng da hiệu quả. Đồng thời, trong suốt giấc ngủ, cơ thể cũng thúc đẩy sản sinh collagen, elastin nhằm giúp da trẻ hóa. Trong lúc ngủ, quá trình trao đổi chất đốt cháy mỡ thừa sẽ diễn ra, các cơ bắp cũng trở nên săn chắc hơn vào ngày hôm sau do được nghỉ ngơi, đồng thời hoạt chất Leptin được sinh ra giúp cơ thể không cảm thấy đói. Chúng ta thường nói “ngủ cho quên đói” là vì lý do này. Khi ngủ, những thông tin mới mẻ được thu nạp trong ngày sẽ được liên tục phát đi phát lại trong não, hình thành nên trí nhớ. Ngoài ra, ngủ ngon còn giúp cải thiện khả năng sáng tạo, tăng tính logic trong tư duy. Trong lúc ngủ, các tế bào thần kinh đệm trong não bị co lại, mở rộng không gian khoảng trống giữa các tế bào não, hỗ trợ đẩy nhanh các chất lỏng và lọc bỏ những chất độc hại, giúp giảm stress, bảo dưỡng não và hệ thần kinh tốt hơn. Chính trong thời gian ngủ, những khu vực bị tổn thương trong và ngoài cơ thể sẽ được đẩy nhanh tốc độ chữa lành nhờ các loại hormone phục hồi tế bào được sản sinh mạnh mẽ trong những giấc ngủ ngon. Thiếu ngủ mãn tính sẽ kéo theo hàng loạt những tác hại, cơ thể phải chịu rất nhiều tổn thương từ nhẹ đến nguy hiểm. Béo phì: Ngủ đủ cũng được chứng minh là có tác dụng trong việc giảm cân tương tự tập gym và ăn rau quả. Trí nhớ ngắn hạn và Alzheimer: Ảnh hưởng trực tiếp đến công việc và cuộc sống. Tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch: Do nhịp tim, huyết áp, nồng độ protein phản ứng C cao nếu thiếu ngủ. Tăng nguy cơ mắc ung thư, đặc biệt là ung thư đại tràng và ung thư vú. Biến đổi gen: Nếu ngủ ít hơn 6 tiếng mỗi ngày, có đến hơn 700 gen được ghi nhận bất thường, đặc biệt là gen điều khiển hệ miễn dịch và gen phản hồi với sự căng thẳng (số liệu 2013). Tăng nguy cơ tử vong: Ngủ ít hơn 5 tiếng mỗi ngày làm tăng 15% nguy cơ tử vong, chủ yếu là do biến chứng tim mạch. Để có được phương án cải thiện tình trạng thiếu ngủ tốt nhất, trước hết mỗi người cần xác định được nguyên nhân khiến mình bị mất ngủ, thiếu ngủ là gì. Một số nguyên nhân phổ biến có thể kể đến như:. Do rối loạn nhịp thức ngủ (thay đổi chỗ ngủ, thay đổi múi giờ, công việc theo ca không cố định…). Bệnh tâm thần (trầm cảm, hưng cảm, nghiện, tâm thần phân liệt, rối loạn lo âu lan tỏa…). Bệnh liên quan giấc ngủ (ác mộng, mộng du, hội chứng ngưng thở khi ngủ…). Thông thường, ở những trường hợp mới khởi phát, thiếu ngủ thoáng qua không thường xuyên thì đơn giản chỉ cần thử thay đổi một vài thói quen trong sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi thì đa phần sẽ thấy cải thiện tốt. Một số phương pháp cải thiện tình trạng thiếu ngủ thể nhẹ không dùng thuốc có thể kể đến như:. Điều hòa công việc và cuộc sống để giảm bớt gánh nặng căng thẳng, stress. Hạn chế các chất kích thích, không ăn no hay uống nhiều nước trước khi ngủ. Thế nhưng có một sự thật là hầu hết chúng ta, nhất là người trẻ đều khá chủ quan về giấc ngủ của mình, nên thường để cho tình trạng thiếu ngủ diễn ra liên miên, kéo dài, cho đến khi nhìn thấy một số hệ quả. Thuốc gây ngủ: Cần có sự chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa trong quá trình sử dụng. Thuốc chống trầm cảm, giải lo âu, thuốc chống loạn thần: Cần chú ý các phản ứng phụ không mong muốn, không dùng kéo dài. Trong khi Tây y tập trung vào cắt triệu chứng thì Đông y lại chú trọng tác động vào nguyên nhân của vấn đề. Đối với tình trạng thiếu ngủ, Đông y xác định thuộc phạm trù chứng “bất mị”, “bất đắc miên”, “thất miên”. Nguyên nhân chính được xác định là tinh huyết lên não không đủ (còn gọi là thiếu máu lên não), ngoài ra thì còn có thể do ngũ tạng tâm, can, tỳ, phế, thận suy giảm chức năng (tức là các bệnh lý nền như hen suyễn, đau nhức cơ xương khớp…), và do tà khí bên ngoài nhiễu động làm cho thần bất yên (tứ là các bệnh về tâm thần). Tuy nhiên, không phải bất cứ sản phẩm Đông y là có thể tác động đúng căn nguyên này. Thị trường tràn lan những sản phẩm Đông y kém chất lượng, hàng giả.không chỉ “vô thưởng vô phạt” mà còn có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Chỉ những sản phẩm Đông y thế hệ 2 có tác dụng bổ khí, hoạt huyết, tăng cường mạnh mẽ máu lên não, từ đó ích não, dưỡng tâm, an thần và điều hòa lại nhịp giấc ngủ bình thường mới có thể giúp người sử dụng cảm thấy dễ ngủ và ngủ ngon hơn, trọn giấc đến sáng. Thuốc Đông y thế 2 là thuốc điều trị chủ đạo, dùng cho bệnh nặng, cạnh tranh hiệu quả với tân dược, nhất là trong điều trị, HẠN CHẾ TÁI PHÁT bệnh mạn tính (Theo Hội nghị Quốc tế về thảo dược năm 2013 tại Seoul). Bào chế theo các phương pháp đặc biệt trong Ngự y mật phương (bao gồm các bài thuốc từng được ngự y sử dụng để chữa bệnh mất ngủ cho vua chúa, quan lại Hoàng cung). Hiệu quả bài thuốc đã được chứng minh qua lịch sử nhiều thế kỷ. Chính vì vậy sản phẩm trị mất ngủ Đông y thế hệ 2 có hiệu quả tốt với cả những trường hợp thiếu ngủ, mất ngủ kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, đã “nhờn thuốc” với nhiều phương pháp chữa trị trước đó. Khi còn bé, chúng ta thường trốn ngủ trưa để vui chơi cùng bạn bè. Nhưng đến khi trưởng thành, ta lại thèm khát những giấc ngủ ngon trong yên bình. Trung bình, mỗi người sẽ dành hẳn 1/3 cuộc đời cho việc ngủ. Nghe thì có vẻ lãng phí nhưng chính những người thông minh và quan tâm, am hiểu về sức khỏe đều lựa chọn phương án này. Đừng để việc thiếu ngủ trở thành mối nguy hiểm tiềm tàng gây ảnh hưởng đến cả cuộc sống. Văn phòng công ty: Số 24, ngõ 22 phố Trung Kính, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Tp. Hà Nội
|
Thiếu ngủ
|
Thiếu ngủ là tình trạng không ngủ đủ giấc. Có thể là mãn tính hoặc cấp tính. Mức độ thiếu ngủ có thể thay đổi rất nhiều. Trạng thái hạn chế ngủ mãn tính có thể gây mệt mỏi, buồn ngủ ban ngày, sự vụng về và giảm cân hoặc tăng cân. Gây ảnh hưởng bất lợi đến não và chức năng nhận thức. Tuy nhiên, trong một nhóm nhỏ các trường hợp thiếu ngủ có thể, ngược lại, dẫn đến tăng năng lượng và sự tỉnh táo và tăng cường tâm trạng; mặc dù hậu quả lâu dài chưa bao giờ được đánh giá, thậm chí đã được sử dụng như một phương pháp điều trị trầm cảm. Vài nghiên cứu đã so sánh ảnh hưởng của việc thiếu ngủ toàn phần cấp tính và thiếu ngủ một phần mãn tính. Việc hoàn toàn không ngủ trong thời gian dài thường không thường xuyên ở người (trừ khi mắc hội chứng mất ngủ trong gia đình gây chết người hoặc các vấn đề cụ thể gây ra bởi phẫu thuật) có vẻ như không thể tránh khỏi những giấc ngủ cực ngắn. Việc thiếu ngủ lâu dài đã gây tử vong ở động vật thí nghiệm.
|
Chính sách môi trường ISO 14001 vạch ra những ý định tổng thể và định hướng cách thức công ty sẽ liên quan đến hiệu quả của nó đối với môi trường. Tuyên bố này cần đến từ ban quản lý cấp cao vì nó là chỉ thị chủ yếu để mọi cá nhân trong công ty thực hiện công việc của họ liên quan đến tác động môi trường như thế nào. Đây là nơi bạn thể hiện những cam kết mà công ty của bạn sẽ thực hiện để kiểm soát và cải thiện tác động môi trường mà bạn thực hiện. Chính sách môi trường có một số yếu tố cụ thể cần thiết để đáp ứng yêu cầu chứng nhận ISO 14001. Dưới đây là một số giải thích về những điều này, và một số ý tưởng về cách giải quyết chúng. Phù hợp với tổ chức – Đây không phải là một yếu tố cần phải được ghi trong chính sách; thay vào đó nó là điều cần phải được ghi nhớ trong suốt quá trình viết chính sách. Chính sách môi trường cần phải phù hợp với những tác động môi trường của các hoạt động của bạn. Nếu bạn là một công ty phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng và xử lý hóa chất, sau đó có một chính sách môi trường tập trung vào các chất thải tạo ra bởi quán cà phê của bạn sẽ không chính xác. Cải tiến liên tục – Một trong những lý do chính để thực hiện bất kỳ hệ thống quản lý nào là xác định các quy trình để cải tiến chúng. Chính sách môi trường dự kiến bao gồm một cam kết với khái niệm này liên tục cải tiến trong cách các quy trình của bạn ảnh hưởng đến môi trường. Bạn không cần phải tuyên bố như thế nào bạn sẽ làm điều này, chỉ cần rằng bạn đang cam kết làm điều đó. Ngăn ngừa ô nhiễm – Một cam kết khác cần được đưa vào như là một phần cơ bản của chính sách này là cho công ty của bạn để ngăn ngừa ô nhiễm. Một lần nữa, bạn không cần phải ghi lại cách thức trong chính sách, nhưng điều này nên là cái gì đó mà bạn có thể dễ dàng chỉ đạo ai đó trong quá trình đánh giá. Tuân thủ các yêu cầu pháp lý và các yêu cầu khác – Cam kết cuối cùng cần thiết trong chính sách này là tuân thủ tất cả các yêu cầu pháp lý và các yêu cầu khác liên quan đến các khía cạnh môi trường của bạn. Các khía cạnh môi trường là cách xác định cách bạn tương tác với môi trường (xem Xác định và phân loại khía cạnh môi trường để biết thêm chi tiết) và bạn cần phải đồng ý rằng bạn sẽ đáp ứng bất kỳ luật pháp hoặc các điều khoản khác có liên quan đến những điều này. Một số ví dụ có thể là hành động không khí sạch, lượng nước thải hoặc luật ô nhiễm tiếng ồn. Nền tảng cho mục tiêu và chỉ tiêu – Đây là nơi bạn nhận được thông tin chi tiết phù hợp với công ty của bạn. Bạn sẽ cần lập kế hoạch để đạt được một số mục tiêu và mục tiêu liên quan đến cải thiện tác động của bạn đối với môi trường, và những điều này cần phải phù hợp với chính sách môi trường của bạn. Nếu bạn đang thiết lập chính sách giám sát và giảm tác động môi trường liên quan đến việc loại bỏ các hóa chất độc hại được sử dụng trong việc tạo ra sản phẩm của bạn, thì mục tiêu và mục tiêu của bạn cuối cùng sẽ cần liên quan đến việc này. Đừng đặt điều gì vào chính sách của bạn mà bạn không thể thực hiện với kế hoạch cải tiến của bạn. Cùng với các yêu cầu nêu trên về những điều cần phải có trong chính sách, có những yêu cầu bổ sung về cách tạo ra chính sách và những gì cần phải làm với chính sách. Văn bản hóa, thực hiện và duy trì – Chính sách môi trường là một trong những mục trong hệ thống quản lý cần phải có văn bản. Đây có thể là văn bản giấy hoặc tiệp tin điện tử, nhưng nó không thể là truyền miệng. Nó cũng cần phải được thực hiện, có nghĩa là đã có kế hoạch thực hiện và các nguồn lực được giao để thực hiện các cam kết trong chính sách xảy ra. Theo thời gian, chính sách cũng cần được xem xét và cập nhật do bản chất của các tác động môi trường của công ty thay đổi, và đây là việc duy trì chính sách. Giao tiếp với tất cả nhân viên – Nhân viên cần phải hiểu chính sách của công ty là gì và hoạt động của họ ảnh hưởng như thế nào đến các tác động môi trường của công ty. Chính sách không cần phải ghi nhớ, nhưng nhân viên có thể hiểu được ý nghĩa của nó và cách họ tham gia vào việc đạt được mục tiêu. Có sẵn cho cộng đồng – Không giống nhiều hệ thống quản lý, chính sách môi trường được mong đợi sẽ được chia sẻ với bất cứ ai bên ngoài công ty yêu cầu. Điều này có thể được đăng trên trang web bên ngoài hoặc được cung cấp theo yêu cầu, nhưng nếu ai đó muốn biết chính sách của bạn là gì thì nên sẵn sàng. Đây là cách bạn đầu tư vào một hệ thống quản lý môi trường có thể trở thành một công cụ công khai cho công ty của bạn. Hãy nhớ rằng chính sách môi trường cần phải được điều chỉnh cho công ty của bạn và cách nó tương tác với môi trường. Làm cho chính sách càng đơn giản càng tốt để dễ hiểu, nhưng vẫn có ý nghĩa để giúp nhân viên của bạn và những người khác biết công ty của bạn dự định làm gì để cải thiện tác động môi trường.
|
Chính sách môi trường
|
Chính sách môi trường là cam kết của một tổ chức hoặc chính phủ đối với luật pháp, quy định và các cơ chế chính sách khác liên quan đến các vấn đề môi trường. Những vấn đề này thường bao gồm ô nhiễm không khí và nước, quản lý chất thải, quản lý hệ sinh thái, duy trì đa dạng sinh học, quản lý tài nguyên thiên nhiên, động vật hoang dã và các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Ví dụ, liên quan đến chính sách môi trường, việc thực hiện chính sách định hướng năng lượng sinh thái ở cấp độ toàn cầu để giải quyết các vấn đề về sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu có thể được giải quyết. Các chính sách liên quan đến năng lượng hoặc quy định các chất độc hại bao gồm thuốc trừ sâu và nhiều loại chất thải công nghiệp là một phần trong chủ đề của chính sách môi trường. Chính sách này có thể được thực hiện một cách có chủ đích để tác động đến các hoạt động của con người và do đó ngăn ngừa các tác động không mong muốn đến môi trường lý sinh và tài nguyên thiên nhiên, cũng như để đảm bảo rằng những thay đổi trong môi trường không gây ra những ảnh hưởng không thể chấp nhận được đối với con người.
|
Xuất hiện tại Thái Lan từ thế kỉ thứ 14, mèo mắt 2 màu (Khao manee) vốn là báu vật quốc gia của đất nước xinh đẹp này. Điều gì đã làm nên sự đặc biệt của chúng khiến người ta chấp nhận trả hàng trăm triệu để sở hữu một chú mèo mắt hai màu? Cùng tìm hiểu bài viết dưới đây để có câu trả lời chính xác!. Nơi sống của mèo mắt 2 màu2. Chế độ ăn uống của Mèo Khao Manee3. Vệ sinh, tắm rửa cho mèo lông trắng mắt xanh. Có lẽ nhiều người vẫn còn cảm thấy xa lạ với giống mèo độc đáo này. Mèo Mắt 2 Màu hay tên gọi chuẩn là Mèo Khao Manee hoặc Mèo Mắt Kim Cương. Đây là một giống mèo độc đáo có nguồn gốc từ xứ sở Chùa Vàng Thái Lan. Giống mèo này nổi tiếng bởi bộ lông trắng muốt mềm mịn kiêu sa và đôi mắt hình kim cương với hai màu độc đáo. Ở Thái Lan đây là giống mèo quý được Hoàng Gia ưa chuộng từ xa xưa, vì vậy việc tìm mua được một chú mèo mắt 2 màu khi bạn không ở Thái Lan quả thật rất khó khăn. Đặc điểm nổi bật của mèo mắt 2 màu chính là đôi mắt hai màu của chúng. Mắt mèo có viền sắc sảo, thường có các màu như màu nâu khói, xanh dương, hổ phách, vàng nâu. Các màu này kết hợp lại thành từng cặp màu tạo nên đôi mắt đặc biệt của mèo mắt hai màu. Việc đôi mắt của chúng có hai màu là do đặc trưng của bộ gen đã hình thành nên giống mèo đặc biệt này. Trong DNA của chúng, nhiễm sắc thể màu trắng vốn là màu trội (ở tất cả các loài mèo chứ không riêng gì mèo Khao Manee) chiếm ưu thế, lấn át tất cả các màu sắc khác. Điều này khiến sắc tố melanin không thể phát triển trong tròng mắt của mèo, điều này làm mắt chúng có những màu sắc khá đặc biệt và màu mắt sẽ phân thành hai màu riêng biệt. Khi mới sinh, sự khác biệt giữa màu của hai bên mắt khó nhận ra nhưng theo thời gian khi chúng càng lớn thì sự khác biệt này sẽ càng rõ ràng. Những loài mèo khác cũng có xảy ra hiện tượng mắt có 2 màu nếu sắc thể màu trắng trong bộ gen của chúng bị đột biến mà phát triển mạnh. Nhưng những trường hợp này khá hiếm và bộ gen không có tính ổn định để tạo nên một giống mèo riêng như Khao Manee. Bộ lông của mèo mắt 2 màu có màu trắng và chúng chỉ có 1 màu lông này mà thôi. Cân nặng của chúng khoảng từ 2kg đến 4kg, chúng khá thanh mảnh nên dáng đi rất nhẹ nhàng và nhanh nhẹn. Mõm chúng thường dài hơn và hơi hóp hai bên khác với các giống mèo cảnh từ châu Âu có mõm ngắn và đôi má phúng phính. Mèo mắt 2 màu Khao Manee thích gần gũi và chơi đùa cùng chủ nhân của chúng. Khác với những giống mèo khác thường có vẻ “lười nhác” và sang chảnh thì mèo mắt 2 màu lại thích chủ nhân chú ý đến chúng hơn. Chúng cũng là loài mèo lanh lợi và dễ hòa đồng, tính cách ôn hòa như một người bạn thân thiết của chúng ta. Thoạt nhìn qua hai giống mèo này thường gây nhầm lẫn cho người nuôi mèo bởi ngoại hình quá giống nhau. Nếu không nhìn thấy đôi mắt của chúng, chúng ta thực sự khó có thể phân biệt được hai giống mèo này với nhau. Điểm khác biệt đầu tiên chính là đôi mắt, Khao Manee sở hữu 2 màu mắt khác nhau ở 2 bên, còn các giống mèo khác thì chỉ có 1 màu mắt duy nhất. Lớp lông của mèo Khao Manee thưa và mỏng, các sợi lông có chiều dài không đều, việc này là do đặc trưng của chúng là mèo của vùng Đông Nam Á, nơi có thời tiết nóng ẩm hơn so với môi trường sống của của mèo lông ngắn. Ngoài ra, đôi tai của chúng vểnh cao, bo tròn lanh lợi, đỉnh tai mỏng và không có lông. Ưu điểm khi nuôi mèo Khao Manee là việc chúng dễ dàng thích nghi với môi trường sống của nước ta. Vì trên thực tế, xuất thân của chúng đến từ Thái Lan – Một quốc gia có khí hậu tương tự với Việt Nam. Nếu bạn bận rộn không có thời gian và muốn đảm bảo nguồn thức ăn của mèo sạch sẽ thì có thể lựa chọn các loại đồ ăn khô, thịt cá đóng hộp cho mèo. Bạn nên thường xuyên tắm cho mèo bằng những loại sữa tắm thích hợp dịu nhẹ và không gây kích ứng cho da của mèo. Bạn cũng nhớ lưu ý thường xuyên chải lông hoặc cạo lông cho mèo vào mùa nắng nóng để da của mèo được thông thoáng và hạn chế lông mèo trong nhà. Mèo Khao Manee là giống mèo quý và được Thái Lan quản lý nghiêm ngặt, vì vậy việc mua được một chú mèo này khá là khó khăn nếu bạn trót yêu thích chú mèo này. Mức giá của mèo 2 màu mắt Khao Manee cũng rất cao, tầm 20 triệu, cũng có thể có con lên tới cả trăm triệu. Hiện nay bạn có thể tìm mua mèo Khao Manee ở các shop cung cấp thú cưng. Một điều cần lưu ý là bạn nhớ kiểm tra giấy tờ nguồn gốc của chúng để chắc chắn mình đang mua được một chú mèo khỏe mạnh nhé. Có một chú mèo mắt 2 màu thật là một tài sản đáng quý với những người yêu thích thú cưng. Hy vọng những thông tin trên đã giúp ích được cho bạn. Giống mèo này nổi tiếng bởi bộ lông trắng muốt mềm mịn kiêu sa và đôi mắt hình kim cương với hai màu độc đáo. Ở Thái Lan đây là giống mèo quý được Hoàng Gia ưa chuộng từ xa xưa, vì vậy việc tìm mua được một chú mèo mắt 2 màu khi bạn không ở Thái Lan quả thật rất khó khăn. Đặc điểm nổi bật của mèo mắt 2 màu chính là đôi mắt hai màu của chúng. Mắt mèo có viền sắc sảo, thường có các màu như màu nâu khói, xanh dương, hổ phách, vàng nâu. Các màu này kết hợp lại thành từng cặp màu tạo nên đôi mắt đặc biệt của mèo mắt hai màu. Việc đôi mắt của chúng có hai màu là do đặc trưng của bộ gen đã hình thành nên giống mèo đặc biệt này. Trong DNA của chúng, nhiễm sắc thể màu trắng vốn là màu trội (ở tất cả các loài mèo chứ không riêng gì mèo Khao Manee) chiếm ưu thế, lấn át tất cả các màu sắc khác. Điều này khiến sắc tố melanin không thể phát triển trong tròng mắt của mèo, điều này làm mắt chúng có những màu sắc khá đặc biệt và màu mắt sẽ phân thành hai màu riêng biệt. Khi mới sinh, sự khác biệt giữa màu của hai bên mắt khó nhận ra nhưng theo thời gian khi chúng càng lớn thì sự khác biệt này sẽ càng rõ ràng. Những loài mèo khác cũng có xảy ra hiện tượng mắt có 2 màu nếu sắc thể màu trắng trong bộ gen của chúng bị đột biến mà phát triển mạnh. Nhưng những trường hợp này khá hiếm và bộ gen không có tính ổn định để tạo nên một giống mèo riêng như Khao Manee. Bộ lông của mèo mắt 2 màu có màu trắng và chúng chỉ có 1 màu lông này mà thôi.
|
Mèo hai màu mắt
|
Mèo hai màu mắt là một con mèo với một mắt màu xanh và một mắt màu xanh lục, vàng hoặc nâu. Đây là một dạng tật dị sắc ở mắt của mèo, và tình trạng này cũng xảy ra ở một số động vật khác. Tình trạng này thường ảnh hưởng đến mèo có bộ lông màu trắng, nhưng có thể xảy ra ở các con mèo có bộ lông có màu bất kỳ, miễn là nó có gen đốm trắng.
|
Hội Tam Điểm tự coi như là một dòng hệ kết nạp (Ordre Initiatique) các hội viên để huấn luyện nhau bằng những biểu tượng (symbole) và các nghi lễ (rites) một cách bí truyền (Esotérique), phi giáo điều (adogmatique), lũy tiến (Progressif) tới sự hoàn thiện của nhân loại. Phương tiện hoạt động của họ là làm việc phước thiện, khuynh hướng của họ lại thay đổi tùy theo thời đại và xứ sở. Tổ chức Tam Điểm có rải rác trên nhiều quốc gia trên thế giới, quy tụ những hội viên cấp tiến với mục đích tự cải thiện đời sống tinh thần và đạo đức. Hội Tam Điểm thường được coi như là một tổ chức đạo đức đặc biệt hình dung bằng những biểu tượng. Họ tự cho như là một công cụ huấn luyện ái hữu (outil fraternel) dùng những phương pháp đặc biệt để huấn luyện các khả năng nghe, suy nghĩ và đối thoại để có thể truyền đạt các giá trị đã thâu hoạch được cho các người chung quanh. Nói một cách đơn giản, hội Tam Điểm không phải là một đảng chính trị vì không chủ trương cướp chánh quyền, không phải là một tôn giáo vì không loại bỏ tôn giáo nào và không đi thuyết phục tín đồ, không phải là một giáo phái (secte) vì không theo một chủ thuyết nào (doctrine). Sự kết nạp vào hội Tam Điểm rất khắt khe, song sự ra hội lại rất tự do và thong thả. Mục tiêu chính của hội Tam Điểm là xây dựng. Họ làm việc để xây dựng Đền Nhân Loại (temple de l’humanité), nhiệm vụ của họ chỉ chấm dứt khi toàn thể nhân loại được phát triển. Dĩ nhiên với ngưỡng vọng một tương lai như vậy, lý tưởng Tam Điểm chỉ là một huyền thoại (mythe), nhưng người Tam Điểm vẫn tin tưởng vào ngày có rất nhiều hội viên Tam Điểm trên toàn cầu để kết thành một chuỗi người đoàn kết (chaine d’union) có khả năng cho nhu cầu cần nhất của trí tuệ loài người. Theo các bản viết tay (Manuscrit) gọi là Old charges (các trách vụ cũ) có tên là “Régius” vào thế kỷ thứ 14, thì ngành xây cất liên hệ tới khoa hình học (Géométrie) do đám con của Lamech viết trên các cột bằng đá. Sau cơn Đại hồng thuỷ (Deluge), một người cháu của Noé, tên Hermanis tìm ra những bí mật xây cất và hình học trên các cột đá này để đem dậy cho các người thợ xây tháp Babel. Sau đó Abraham sang Ai Cập dậy hình học cho Euclide để ông này đem về dạy ở Hi Lạp. Tiếp đó, các người xây cất trở về Jérusalem để xây đền Salomon. Theo bản Constitution d’Anderson (viết bên Anh năm 1723) thì nghề xây cất đã khởi sự từ thời ông Adam là người thợ xây cất đầu tiên đã được Thượng Đế dạy cho hình học. Sau đó, “nghệ thuật hoàng gia” (Art Royal) này mới truyền sang Hy Lạp, Ai Cập vào đế quốc La Mã và người ta cho rằng Vua Auguste (-14 cho tới 63 sau Công Nguyên) là Grand Maitre du Loge de Rome vì ông ta đã là người đỡ đầu cho kiến trúc sư Virtruve. Trong thời đế quốc La Mã, những nhóm ngành nghề tụ họp thành Collégium để lo các việc kinh tế và xã hội của hội như các collégium của các nhà buôn đứng ra điều đình với chính quyền để giữ độc quyền như ngành buôn bán ngũ cốc lại được miễn sưu thuế và miễn dịch vụ. Mỗi ngành đều có Thánh tổ và hàng năm họ lo sửa lễ để mừng Thánh tổ. Họ cũng mời những người có quyền thế (dĩ nhiên là có giầu có) để bảo trợ bằng tài chánh và thế lực và họ đền bù sự đóng góp này bằng cách tặng cho các ân nhân danh hiệu Patron (quan thầy). Sau đó, đế quốc La Mã bị các rợ Gothique và Germanique từ Đức sang tàn phá vào các thế kỷ từ VI tới thế kỷ IX thì không còn thợ. Lần lần các ngành nghề mới khôi phục lại thành các Guilde (gốc tiếng Đức Gelt là đồng tiền)Thánh tổ của ngành xây cất là thánh Jean d’Evangeliste và ngày vía là ngày 27 tháng 12, Khi được khai tên kết nạp (initier) người tập sự phải tuyên thệ giữ bí mật nhà nghề. Vì luôn luôn phải di chuyển từ công trường tỉnh này sang công trường tỉnh khác, nên họ có cách nhận nhau bằng những biểu tượng (symbole) và những mật mã (code). Một người thợ sang Pháp, được Charles Martel, ông của Vua Charlemagne thâu nhận; một người khác là Thánh Alban sang Anh và được Hoàng hậu Edwin con ông Vua Anglo Saxon Athelstan bảo trợ tích cực đến nỗi chính ông ta cũng thành maçon (thợ xây cất). Tới đây, cũng nên nói qua về Thập Tự quân với Hiệp sĩ dòng Temple de Salomon và nhóm Rose Croix vì có ảnh hưởng tới Hội Tam Điểm sau này. Prieurés de Sion Năm 1000, một lãnh chúa là Godefroi de Bouillon ở đất Thánh lập ra abbaye de Notre Dame du Mont Sion: khi thấy các tín đồ đi hành hương tại Jérusalem bị cướp bóc, các tu sĩ dòng này đã bí mật can dự vào việc thành lập ra dòng Hiệp sĩ Temple (1118) de Salomon là một dòng quân sự do Hugue de Payns chỉ huy, lấy tên là Pauvres Chevaliers du Christ (Bần Hiệp Sĩ Thiên Chúa) để bảo vệ khách hành hương. Họ đóng quân ở địa điểm đền Salomon do đó lấy tên là Chevaliers du Temple. Được Giáo Hoàng Innocent II tin cậy, dòng này trở nên quyền thế và giàu có, khiến cho Vua Philippe le Bel đố kỵ và ra lệnh tiêu diệt nhóm này vào ngày thứ sáu 13/10/1307 (do đó có tiếng là ngày xui xẻo). Thủ lãnh Jacques de Molay bị thiêu (1314), dư đảng trốn sang Ecosse, tài sản bị tịch thu cho nhà chung Hospitaliers. Nhóm Prieuré de Sion rút vào bí mật và lấy tên là Rose Croix (Rosae crucis) họ thành lập một hội thần bí nhưng không dính tới tôn giáo nào nữa. Họ có triết lý siêu hình và hữu hình (metaphysique et physique) mục đích để gợi những năng khiếu của con người. Hội nhắc các đoàn viên tầm quan trọng của các định luật vũ trụ và thiên nhiên và nên áp dụng các luật đó. Chữ Rose crucien từ gốc Latin có nghĩa là chữ thập và hoa hồng do ở biểu tượng chữ thập và hoa hồng của họ. Vài dòng về chữ Franc-Maconnerie. Năm 1015 sau Công nguyên, tại Strasbourg, một chi hội (loge hay atelier) đầu tiên của các người thờ đẽo đá nhà thờ Strasbourg được thành lập. Năm 1245, bắt đầu xuất hiện tại Strasbourg các tục lệ tiếp nhận hội viên và khuyến cáo các hội viên giữ tình huynh đệ và giữ bí mật. Cũng vào năm này có đại hội tụ họp 5 chi hội lớn, ấn định các điều lệ đạo đức, tôn giáo và nghề nghiệp. Năm 1315 tại Strasboug có đại hội các thợ đẽo đá và thợ xây dựng và các người xây dựng lại lấy năm này là năm khởi sự của Hội Tam Điểm mà ta gọi là franc-maconnerie opérative tạm gọi là xây cất đặc miễn đương hành. Vào năm 1356 tại Luân Đôn có sự tranh giành giữa những thợ đẽo đá (tailleurs de pierre) và người xây dựng (poseurs de pierre) do đó có luật lệ năm 1411 ấn định việc kiểm soát nghề nghiệp: người học việc học 7 năm trời, phải ra trước một uỷ ban để tuyên thệ trung thành với nghề, với thị xã, với vua và lúc đó họ mới trở thành người tự do hành nghề xây cất (free mason), có thể chữ này cũng rút ngắn từ chữ freestone mason tức là maçon de pierre franche là thợ xây cất đá mềm, dễ đẽo và dễ điêu khắc. Chữ “free mason” (franc macon) đã chính thức được dùng từ năm 1376 và năm 1390 người ta đã viết ra cuốn Thủ bút Régius hay Manucrist Royal nói về tổ chức ngành xây cất. Năm 1616 nhóm Rose Croix ra tuyên ngôn về đường lối và mục đích như đã nói ở trên (đoạn cuối về Prieuré de Sion). Ông trao cho William Shaw quản lý tiền bạc và xây các cung điện. Tuy lúc đó Ecosse đã ngả sang Tin Lành, nhưng William Shaw vẫn còn giữ Gia Tô Giáo và năm 1598 ông đặt ra một số luật lệ quản lý, sắp đặt ngôi thứ trong ngành xây cất trong đó có nói tới những cách để nhận nhau. Năm sau, Shaw lại còn định thêm là các bậc thầy trong ngành xây cất phải có nhiệm vụ huấn luyện người tập sự và dạy họ cách để nhớ được các kỹ thuật đó. Bắt chước người La Mã, họ cũng lựa một quan thày là William Sinclair là lãnh chúa Roselin, vì Sinclair là hậu duệ của vị hầu tước đã cho xây Chapel Roselyn. Tới năm 1801 William Sinclair cũng lấy tên là William, cho ra một cái charte cho franc maconnerie và các lãnh chúa được lãnh danh hiệu maçon từ đó. Cho tới đầu thế kỷ 17 dòng xây cất vẫn là những nghiệp đoàn gọi là Guilde (tiếng Đức mà ra Gelt: đồng tiền) trong đó chỉ có hai hạng thành viên, 1) tập nghề (apprenti) và 2) thợ bạn (compagnon) còn thầy nghề chưa có mà chỉ có người điều khiển công trường; khi vào nghề thì phải qua lễ kết nạp là phải biết giáo lý (catéchisme), sự truyền đạt các bí mật nghề nghiệp, các ngữ vựng (vocabulaire) về các biểu tượng dùng trong các nghi lễ và tập tục. Cho tới lúc này ngành xây cất vẫn hoàn toàn chỉ là opérative (xây cất đặc miễn đương hành) mà thôi. Dần dần từ bên Anh và Tô Cách Lan mới biến dạng thành spéculative (xây cất đặc miễn tự biện) (spéculare = réfléchir) theo tiến trình sau đây: Người xây cất cần sự giúp đỡ của các giới chức tôn giáo, các quý tộc, các chưởng khế là các người chủ trì các công tác xây cất lớn, nên đã mở cửa tiếp đón nhận các người này, ngược lại sau trận hoả hoạn lớn tại Luân Đôn, cả một đội binh xây dựng nhà thờ Gothique từ Pháp sang Anh, du nhập vào giới quý tộc và trí thức Anh những tư tưởng của Virtruve. Virtruve là kiến trúc sư thế kỷ I trước công nguyên viết cuốn De Architectura. Theo ông thì người kiến trúc sư lý tưởng phải là người vạn năng (universel), không những phải biết hình học, biết dùng các vật liệu xây cất mà còn phải biết thiên văn, khí tượng, âm nhạc, y học, quang học, triết học, sử học và pháp chế (jurisprudence). Vào thời đó những người ở giai cấp cao và trí thức có tư tưởng cấp tiến hay thần bí (mystique) tìm hiểu vũ trụ và thế giới cùng cắt nghĩa chỗ đứng của con người qua một thứ ngôn ngữ và biểu tượng (symbole). Trong thời kỳ từ 1550-1710 lại có nhiều người nghiên cứu hoá học và phép luyện giả kim (alchimie) ước mơ như Sir Issaac Newton có thể đổi đá thành vàng hay chì thành vàng. Ngay trong những sách báo của Rosae Crucis (chữ thập hoa hồng) từ Đức và Societé Royale d’Angleterre (sẽ nói sau) cũng có những hội viên bí mật bàn nhau về chuyện luyện giả kim. Họ vừa có tiền vừa có kiến thức vừa có thế lực nên được khai tâm kết nạp vào Franc Maconnerie, dùng các biểu tượng, dùng các tập tục (rituel) về phép luyện giả kim dùng thuyết tân Platon (néoplatonisme) để lập ra những loge đầu tiên cho họ mà ta gọi là franc maconnerie spéculative (xây cất đặc miễn tự biện) hay franc maconnerie philosophique (xây cất đặc miễn triết học). Từ năm 1640-1650 bên Anh có nội chiến, giết Vua Charles 1er nhà Stuart theo đạo Gia Tô và con là Charles II phải đi trốn. Dư đảng của ông là nhóm jacobite ở lại bên Anh phải rút vào bí mật. Họ vận động để khôi phục lại nhà Stuart trong đó có nhóm College Invisible là franc maçonnerie spéculative. Khi Charles II được khôi phục thì College Invisible đổi thành Royal Society (Societé Royale) và Franc Maconnerie lại thịnh hành từ năm 1660 tới 1668, gồm nhiều tu sĩ, quý tộc, luật gia, và thông thái. Nhưng từ năm 1669 thì Jacques II Stuart lại bị cháu và cũng là rể là Guillaume d’Orange lật đổ và Jacques II phải chạy sang St Germain-en-Laye ở Pháp và tới năm 1721 Jacques II lại phải dời đi Bar le Duc rồi đi Avignon, Cerlino và tới Rome. Năm 1714, triều đình Anh ở trong tay nhà Vua Hanovre (đối nghịch với nhà Stuart) thì nhóm Jacobite định một lần nữa khôi phục lại nhà Stuart với sự trợ giúp của Louis XIV, nhưng cuộc đổ bộ thất bại (năm 1715), nhất là khi chính phủ nhiếp chính (Gouvernement du Régent, kế tiếp Louis XIV, lại thân Hanovre. Năm 1731, Duc de Montaigne được bầu làm hội trưởng và cho ra một bản constitution mới là constitution d’Anderson do tu sĩ James Anderson soạn ra nói về lịch sử franc maconnerie bên Anh, từ thời Adam tới thời Jacques I, Charles I và Charles II được coi như là franc maçon. Như đã nói ở trên, những loge đầu tiên đều ở Ecosse và theo statut Shaw rất độc lập. Họ thi hành một trong hai tục lệ:. Nghi lễ nhập hội của các nghiệp đoàn xưa gọi là “Rite de anciens devoirs. Hoặc là một tục lệ kết nạp (rituel d’initiation) đơn giản hơn trong đó sẽ truyền những “bí mật” còn gọi là “Rite du mot de maçon”. Vào thế kỷ thứ mười bẩy, tại Anh có chừng 30 loges (chi hội) quy tụ những người thành thị, bình dân, thợ khéo và tiểu thương và từ năm 1676 với uy tín và những tập tục mới thu hút thêm các quý tộc và lớp trưởng giả. Mục đích của họ là làm phước thiện và tương trợ vì hồi đó chưa có an ninh xã hội để lo bệnh hoạn, thất nghiệp và phí tổn ma chay. Từ Grande Loge de Londres sau này sẽ truyền bá sang Âu, Mỹ, Úc, Phi và Á châu. Tới thời chiến tranh với Napoleon, thì hai loge lớn này đoàn kết lại thành một loge duy nhất gọi là United Grand Loge of England (1813) có khuynh hướng ancient, buộc các hội viên tin vào Thượng đế. Còn ở Pháp thì Napoléon lại buộc các franc maçon phải quy tụ vào trong Loge du Grand Orient một khuynh hướng modern, không buộc hội viên phải tin vào Thượng đế. Tại Pháp từ năm 1738 các Franc Maçon họp thành Grande Loge de France mới có một Grand Maitre đầu tiên người Pháp là Duc d’Antin. Tới 1771 thì tại Paris đã có 41 loges và dưới tỉnh có 96 loges, ở thuộc địa Pháp có 5 loges và trong quân đội có 31 loges.
|
Hội Tam Điểm
|
Thuật ngữ Hội Tam Điểm (tiếng Anh: Freemasonry; tiếng Pháp: Franc-maçonnerie, nghĩa là "Nền tảng tự do") dùng để chỉ một tập hợp những hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ một môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về người thợ xây đá. Tên gọi trong tiếng Việt của hội này là "Tam Điểm" được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Đại Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác vuông cân. Lịch sử về Hội chưa thật rõ ràng, người ta cho rằng Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là Anh, rồi lan ra các quốc gia khác. Thay đổi theo từng thời kỳ và theo từng lãnh thổ, Hội Tam điểm tự mô tả mình như một "hiệp hội những người thông thái và bác ái", một "hệ thống luân lý miêu tả bằng các biểu tượng" hay một "bí tích gia nhập".
|
Kong, quái vật khổng lồ được dân mạng đùa là quê ở Việt Nam, có màn thể hiện giàu tính người, dễ tổn thương nhưng cũng đầy quả cảm. Cũng thật tiếc cho Godzilla, vị vua quái vật hùng mạnh nhất trong vũ trụ điện ảnh MonsterVerse của Legendary. Trong Godzilla đại chiến Kong, Godzilla có thời lượng ít ỏi và không hề có tính cách, câu chuyện hay bất cứ tiếp xúc nào với con người. Kong mới thực sự là nhân vật chính khi được nhân cách hóa sống động với các thói quen sinh hoạt rất người, giao cảm bằng mắt và thủ ngữ với một bé gái. Đặc biệt, Kong có ước mơ tìm về nguồn cội và biết phân biệt thiện ác. Điều trái khoáy ở các bộ phim trong vũ trụ quái vật MonsterVerse là dù khán giả chán ngấy sự xuất hiện của con người trong đó, họ lại bị thu hút bởi những con quái vật có tính người. Ở lần lượt các phần phim Godzilla (2014), Kong: Skull Island (2017, quay ở Việt Nam) và Godzilla: King of the Monsters (2019), tuyến con người luôn rất nhàm chán với nội tâm mỏng như tờ giấy, dù các phim quy tụ nhiều diễn viên nổi tiếng. Godzilla Vs. Kong không phải ngoại lệ khi hầu hết con người chỉ mải chạy, hoảng sợ, toan tính, la hét và tấn công quái vật bằng súng một cách vô nghĩa. Nhân vật Madison (Millie Bobby Brown) được phát triển so với King of the Monsters nhưng không để lại ấn tượng gì. Tiến sĩ Lind (Alexander Skarsgård) chỉ được mỗi vẻ ngoài đẹp trai. Cô bé thổ dân (Kaylee Hottle), người có mối giao cảm đặc biệt với Kong, là nhân vật đáng nhớ nhất. Godzilla Vs. Kong chỉ dài 1 giờ 53 phút, may mắn là thời lượng dành cho quái vật khá nhiều và dày đặc. Về thời lượng khá ngắn so với một phim "bom tấn" quan trọng, đạo diễn Adam Wingard giải thích nếu phim dài hơn thì những cảnh được bổ sung cũng chỉ là cảnh "con người nói về quái vật" chứ không phải là cảnh "quái vật đánh nhau". Mà với dạng phim này, khán giả chỉ thích xem "quái vật đánh nhau". Đúng hơn, họ đang khát dạng phim "bom tấn" có kỹ xảo mãn nhãn, âm thanh sống động, quy mô hoành tráng hơn bao giờ hết. Nhìn lại điện ảnh một năm vừa qua, phòng vé hầu như vắng bóng "bom tấn", nếu có thì các pha kỹ xảo không đủ thỏa mãn (Wonder Woman 1984). Còn các bộ phim nghệ thuật hoặc tâm lý lại đòi hỏi người xem suy ngẫm. Godzilla Vs. Kong lại là lựa chọn vừa vặn, khi khán giả muốn giải trí đã đời tại rạp và không vướng bận khi ra về. Và nhà làm phim cũng khéo léo cho Godzilla và Kong giao đấu trong 3 màn ác liệt. Một lần náo động cả đại dương, lần hai và lần ba khuynh đảo đô thị Hong Kong. Mỗi lần đều phân định thắng thua rõ ràng. Nhà làm phim vô tình biến Godzilla thành phản diện, còn Kong chính diện. Không hề khó hiểu, Kong nhận được sự yêu mến và cổ vũ của người xem. Kong chẳng khác nào nhân vật chính trong các phim giả tưởng của Hollywood lâu nay, có một hành trình đi tìm nguồn cội, đi tìm bản ngã và được gia tăng sức mạnh nhờ một vũ khí truyền thống của tổ tiên, được số phận thúc đẩy trở thành người hùng. Đôi mắt long lanh và đượm buồn của Kong khi hoài nghi con người, ánh nhìn dịu dàng ân cần khi giao tiếp với cô bé Jia đều khiến nhân vật trở nên rất người. Trong khi đó, chính sức mạnh vượt trội và biểu hiện hung bạo của Godzilla lại khiến nhân vật xa lạ, kém gần gũi. Với câu chuyện rất mỏng và con người có vai trò mờ nhạt, các phần phim vừa qua - Godzilla, Kong: Skull Island và Godzilla: King of the Monsters - đều không phải là những cú nổ lớn về doanh thu. Godzilla và Kong: Skull Island thu 529 triệu và 566 triệu USD mỗi phim, vẫn có thể coi là thành công nhưng không đủ rung chuyển phòng vé. Còn King of the Monsters tệ hơn, chỉ thu 386 triệu USD. Điều đó chứng tỏ gì? Nếu các phim "bom tấn" chỉ dừng lại ở thỏa mãn về thị giác, âm thanh, chuẩn về cấu trúc mà không tạo dư âm lay động về câu chuyện và cảm xúc thì doanh thu vẫn không thể đột phá. Câu chuyện, nhân vật luôn phải mạnh và chạm hơn nữa mới thôi thúc khán giả xem và xem lại. Nếu doanh thu không đột phá, các phần phim tiếp theo khó có thể được sản xuất do kinh phí cho các phim "bom tấn" này đều từ 150 triệu đến 200 triệu USD và còn tính thêm 100 triệu USD kinh phí tiếp thị. Và Godzilla Vs. Kong đang ở bước ngoặt quan trọng này, nếu phim không thắng lớn thì có lẽ vũ trụ quái vật sẽ khó đi tiếp. Nếu vậy, đó là điều đáng tiếc đối với những thương hiệu quái vật lớn như Godzilla và Kong. Chúng không chỉ là nhân vật phim ảnh mà còn là biểu tượng văn hóa đại chúng, có sức ảnh hưởng qua nhiều thế hệ. Mỗi thế hệ xứng đáng có những phiên bản Godzilla và Kong riêng, ngày càng hoành tráng, chi tiết và choáng ngợp về tạo hình, kỹ xảo. Tính cả Godzilla Vs. Kong, Godzilla đã có 36 phim, trở thành thương hiệu phim dài nhất thế giới. Thương hiệu này gồm 32 phim do Hãng Toho của Nhật sản xuất và 4 phim trong vũ trụ quái vật của Legendary. Có một sự khác biệt rất lớn trong cách nhìn nhận của Nhật và Mỹ về quái vật Godzilla, phép ẩn dụ của vũ khí hạt nhân, lấy cảm hứng từ vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Khi phim đầu tiên Godzilla (1954) ra mắt, khán giả Nhật rời rạp phim trong nước mắt. Thế nhưng, trong mắt khán giả Mỹ và toàn cầu trong mấy chục năm qua, nhân vật trở thành một hình tượng giải trí hài hước, mãn nhãn. Đôi khi người ta quên mất ý nghĩa bi thương đằng sau Godzilla.
|
Godzilla đại chiến Kong
|
Godzilla đại chiến Kong (tên gốc tiếng Anh: Godzilla vs. Kong) là phim điện ảnh quái vật của Mỹ năm 2021 do Adam Wingard đạo diễn. Đây là phần tiếp theo của Chúa tể Godzilla (2019) và Kong: Đảo Đầu lâu (2017), đồng thời cũng là phim điện ảnh thứ tư trong vũ trụ điện ảnh MonsterVerse của hãng Legendary. Godzilla đại chiến Kong cũng là phim điện ảnh thứ thứ 36 trong loạt phim Godzilla, phim điện ảnh thứ 12 trong loạt phim King Kong và phim điện ảnh thứ tư về quái vật Godzilla do một hãng phim Hollywood chịu trách nhiệm sản xuất. Phim có sự tham gia diễn xuất của Alexander Skarsgård, Millie Bobby Brown, Rebecca Hall, Brian Tyree Henry, Shun Oguri, Eiza González, Julian Dennison, Kyle Chandler và Demián Bichir. Trong tác phẩm, hai quái vật Kong và Godzilla đã đụng độ nhau sau khi Kong bị con người dụ tiến vào Trái Đất rỗng để tìm kiếm nguồn năng lượng làm vũ khí ngăn chặn những cơn thịnh nộ bí ẩn của Godzilla. Dự án Godzilla đại chiến Kong được xác nhận vào tháng 10 năm 2015 khi hãng Legendary công bố kế hoạch về một vũ trụ điện ảnh chung giữa Godzilla và King Kong.
|
Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề (ông tổ của nghề). Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Xung quanh ngôi đình thường có những cây đa cổ thụ, hồ sen và một khoảng sân vẫy gọi chim về làm tổ. Kiến trúc đình làng cũng mang đậm dấu ấn văn hóa độc đáo và tiêu biểu cho điêu khắc truyền thống. Đình thường cao ráo, thoáng mát, nóc có tượng đôi rồng lượn tranh lấy quả châu, trên các thanh xà ngang là những bức hoành phi câu đối. Nơi thiêng liêng nhất để thờ thần là điện thờ. Thời xưa, đình làng là trụ sở hành chính của chính quyền tựu trung đủ mọi lề thói từ rước xách hội hè, khao vọng quan trên, đón người đỗ đạt, họp việc làng, xử kiện cùng những quy củ nhất định, có sự phân biệt chiếu trên, chiếu dưới. Đến thế kỷ 18, Việt Nam có khoảng 11.800 làng xã, mỗi làng có một cụm kiến trúc với tôn giáo đình đền chùa với hàng trăm pho tượng và những đồ thờ cúng trang trí khác nhau. Có thể nói thế kỷ 16 – 18 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của đình làng với những tên đình danh tiếng như: Thổ Hà, Trùng Thượng, Trùng Hà, Tây Đằng, Chu Quyến, Hoàng Sơn… Nhưng do tàn phá của chiến tranh, điều kiện môi trường, thiên nhiên, mưa nắng mà bóng dáng của những ngôi đình cổ truyền thống dần dần mai một. Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh… thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, chiêm bái, vãn cảnh, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ: miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa (nhân thần), ngày hiện hóa (thiên thần) làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu (tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam). Một số nơi thờ tự (ở Thanh Hóa) gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương (tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật). Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Lễ chay gồm hương hoa, trà, quả. dùng để dâng Phật, Bồ Tát. Lễ chay cũng được dùng để dâng ban Thánh Mẫu, tuy nhiên nếu dâng Thánh Mẫu thì cần chú ý sắm thêm đồ vàng mã như tiền vàng, nón, hài,. Lễ mặn gồm thịt gà, lợn, giò, chả. được làm cẩn thận, nấu chín. Nếu có lễ này thì đặt tại bàn thờ Ngũ vị Quan lớn, tức là ban Công đồng. Lễ đồ sống gồm có trứng, gạo, muối hoặc thịt mồi (1 miếng thịt lợn khoảng vài lạng). Đây là lễ dành riêng cho việc dâng cúng quan Ngũ hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công đồng Tứ Phủ. Theo lệ thì 5 quả trứng vịt sống đặt trong 1 đĩa muối gạo; hai quả trứng gà sống dặt trong 2 cốc nhỏ, 1 miếng thịt mồi được khía thành năm phần (ko đứt rời), không nấu chín (để sống). Kèm theo lễ vật này cũng có thêm tiền, vàng mã. Cỗ mặn sơn trang gồm những đồ như cua ốc, bún ớt, chanh quả. Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi, chè thì càng tốt (những đồ này sắm theo con số 15, mỗi loại 15 cái, tương ứng 15 vị được thờ tại ban Sơn Trang). Lễ ban thờ Cô, thờ Cậu thường gồm đồ oản, quả, hương hoa, đồ vàng mã như hia hài, nón áo, gương lược. và những đồ vật tượng trưng những đồ chơi người ta hay làm cho trẻ nhỏ (cành hoa, con chim, chiếc kèn, cái trống.). - Tiền giấy âm phủ và đồ vàng mã không được đặt ở ban thờ Phật, Bồ Tát. - Không nên đặt tiền thật lên hương án của chính điện mà nên bỏ vào hòm công đức. - Lễ vật không bắt buộc, không cần câu nệ nhưng đã sắm thì phải đúng, đủ, đặt đúng nơi nếu không sẽ phản tác dụng. Theo lệ thường, trước tiên phải lễ thần Thổ Địa (hay còn gọi là thủ đền) trước, gọi là Lễ Trình, cáo lễ với Thần linh cho phép được tiến hành lễ tại đền, chùa, miếu, phủ. Sau đó, bày lễ vật ra các mâm rồi đặt lên các ban. Khi dâng lễ phải kính cẩn dùng hai tay kính cẩn đặt lên các ban. Khi đặt lễ và hành lễ phải lễ từ ban thờ chính rồi mới ra tới ban ngoài cùng (thường lễ ban cuối cùng là ban thờ Cô, thờ Cậu). Chỉ sau khi đã đặt xong lễ vật lên các ban mới được thắp hương. Đức Ông (hay còn gọi là đức chúa ông, thủ hộ già lam chân tể.) là người đã bỏ vàng ra lát khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà nước Xá Vệ để nhằm mua được khu vườn xinh đẹp đó xây tịnh xá cúng dàng đức Phật đến thuyết pháp. Sau này hai người đã cùng dâng cúng khu vườn nổi tiếng đó lên đức Phật để làm một ngôi tịnh xá đó là Kỳ Viên Tịnh Xá. Do công đức lúc sinh thời làm nhiều việc phúc và ủng hộ Phật pháp nên ngài được làm Long Thần hộ pháp tại các chùa (miền bắc Việt Nam). Trong tiềm thức dân gian ngài là vị thần Chủ tể của Chùa, là thập bát long thần ủng hộ Phật pháp và là vị thần trong coi trong chùa, bảo hộ cho trẻ em. Lễ Đức Ông trước xuất phát từ tục Lễ Ông tiền chủ, Bà tiền chủ trước khi tiến hành các nghi lễ khác. Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang, thỉnh ba hồi chuông rồi làm lễ chư Phật, Bồ Tát. Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái đường. Khi thắp hương lên đều có ba hoặc năm lễ. Nếu chùa có điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện. Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tùy tâm công đức. Sau khi đợi hết một tuần nhang, vái ba vái trước mỗi ban thờ rồi hạ tiền vàng để đem đi hóa. Khi hóa tiền vàng cần hóa từng lễ một, từ lễ ở ban thờ chính cho tới lễ ở các ban khác, cuối cùng là lễ ở ban thờ Cô, thờ Cậu. Hóa tiền vàng xong mới hạ lễ dâng cúng. Khi đặt lễ thì đặt từ Ban chính ra ban ngoài, còn khi hạ lễ thì ngược lại, phải hạ ban ngoài cùng đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở ban thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược. thì để nguyên trên ban thờ. Dân gian quan niệm: "Lộc bất tận hưởng", có nghĩa là phải "tản lộc" đi càng nhiều càng tốt thì mới tiếp tục nhận được nhiều lộc của Thần, Phật. Người nào hưởng lộc một mình là vô phúc, sẽ bị cô quả, cô độc. Vì thế, mỗi khi đi chùa, lên đình về mà có lộc thì các cụ đều chia cho con cháu. Nhà nào con cháu đông, phải chia lộc càng nhiều thì càng có phúc. Sau buổi lễ, người đi lễ thường dành một phần lộc nhỏ đặt vào khay cúng với một số tiền tùy tâm để biếu người thủ đền, cũng coi như việc công đức cho nhà chùa, đền. Thăng Long Tứ trấn gồm bốn ngôi đền có truyền thuyết lâu đời không những xác định địa giới Thăng Long mà còn tạo nên . Thăng Long Tứ quán là bốn quán của Đạo giáo ở đất Thăng Long xưa gồm Trấn Vũ quán, Huyền Thiên quán, Đồng Thiên quán . Từ xưa đến nay, cứ vào ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng, mọi người thường làm lễ cúng Gia tiên và Gia thần . Tục cúng đầy tháng (cúng Mụ) là một trong nhiều nghi lễ, tập tục gắn liền với cuộc đời của mỗi con người và nó . Đi lễ đền chùa không chỉ để cầu bình an, sức khỏe mà rất nhiều người trong giới làm ăn còn cầu cho công thành . Chùa Hà, Am Mị Châu, Chùa Duyên Ninh,. là những nơi nhiều nam thanh, nữ tú hay đến để cầu tình duyên, hạnh phúc. Tục cúng Mụ là một trong những tín ngưỡng dân gian mang dấn ấn của tín ngưỡng thờ Mẫu, thường được tổ chức vào dịp . Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến là nơi hội tụ nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng . Vietnammoi.vn tổng hợp nguyên văn thông tin từ một số cơ quan thông tấn, báo chí trong nước theo quy định. Chúng tôi sẽ cập nhật thông tin ngay sau khi nhận thấy các thông tin gốc có thay đổi; đồng thời tuân thủ các quy định hiện hành về trách nhiệm phản hồi, đính chính, cải chính. Đề nghị người dùng tham khảo thông tin gốc đồng thời dẫn nguồn chính xác theo cơ quan báo chí phát hành thông tin trong trường hợp trích dẫn một phần hoặc nguyên bản các thông tin do Vietnammoi.vn tổng hợp. Người dùng tự chịu trách nhiệm, bao gồm nhưng không giới hạn trách nhiệm về bản quyền, trong trường hợp này.
|
Đền
|
Đền thờ và điện thờ là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc một danh nhân quá cố. Nhiều đền thờ dành cho các thần thánh trong tôn giáo hoặc tín ngưỡng địa phương. Chẳng hạn ở Trung Quốc có các đền thờ các vị thần tiên của Đạo giáo như Tam Thanh Huyền Đế, Linh quan, Lão Đăng lộc đình, Thần Vũ Bát sát, Lão tổ Thiền sư, Hắc hổ Huyền đàn và Sùng linh Địa kỳ. ; ở Ai Cập cổ đại có các đền thờ chư thần (như đền thần Isis ở Philae) hoặc đền thờ pharaon; còn ở Hy Lạp có các đền thờ các vị thần trong Thần thoại Hy Lạp như đền Delphi thờ thần Apollo. Nhiều đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của một anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương mà được dựng lên theo truyền thuyết dân gian. Ở Việt Nam có nhiều nhân vật có thực trong lịch sử được xây dựng đền thờ ở rất nhiều nơi là các vị vua: Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành; các nhân vật lịch sử: Lý Quốc Sư, Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Thánh Tam Giang, Trần Hưng Đạo và các vị thần thánh như Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh.
|
Bảo hiểm là hoạt động trong đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp bảo hiểm nhờ vào một khoản đóng góp của mình hoặc cho người khác trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp được chi trả này do một tổ chức có trách nhiệm chi trả toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. Bảo hiểm bắt buộc là bảo hiểm do pháp luật quy định về các điều kiện đóng bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm: Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm TNDS của người vận chuyển hàng không đối với hành khách, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm y tế bắt buộc. Bảo hiểm tự nguyện là bảo hiểm mà người tham gia đóng bảo hiểm có quyền lựa chọn công ty bảo hiểm, mức phí đóng bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm và các quyền lợi được hưởng khi tham gia bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm được triển khai hoặc bán thông qua các doanh nghiệp bảo hiểm hoặc cơ quan thuộc sự quản lý của Nhà nước. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm khác để cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc chính phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Quỹ bảo hiểm y tế là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng bảo hiểm y tế và các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí khác bệnh, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, chi phí quản lý bộ máy của tổ chức bảo hiểm y tế và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan đến bảo hiểm y tế. Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được hình thành từ đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ của nhà nước. Thời gian đóng bảo hiểm xã hội là thời gian được tính từ khi người lao động bắt đầu đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi ngừng đóng. Trườnh hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội không liên tục thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội là tổng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. Đại lý bảo hiểm là tổ cá nhân, tổ chức được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật liên quan. Hoạt động đại lý bảo hiểm là hoạt động giới thiệu, chào bán bảo hiểm, thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm và các công việc khác nhằm thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo uỷ quyền của doanh nghiệp bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng. Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người. Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là số tiền được doanh nghiệp được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận và được ghi trên hợp đồng bảo hiểm nhằm xác định các quyền lợi bảo hiểm theo quy định trên hợp đồng. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm. Thời hạn hợp đồng là khoản thời gian được xác định để các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khoảng thời gian này được tính từ thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực cho tới thời điểm xuất hiện các căn cứ dẫn đến chấm dứt hợp đồng. Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ. Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Thủ tục thành lập công ty đóng tàu biểnThủ tục thành lập công ty đóng tàu biển Với đường bờ biển chạy dọc . Xem chi tiết. Dịch vụ soạn thảo đơn khởi kiện ly hônSoạn thảo đơn khởi kiện ly hôn Khái niệm về đơn khởi kiện ly hôn . Xem chi tiết. Thủ tục mở công ty may mặcThủ tục mở công ty sản xuất hàng may mặc. Sản phẩm may mặc là hàng . Xem chi tiết. Ngành nghề bị cấm kinh doanh tại Việt Nam22/06/2021Phan TìnhXem: 1,078NGHÀNH NGHỀ CẤM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở VIỆT NAM Hiện nay nhà nước ngày càng khuyến khích các . Xem thêm. Ưu và nhược điểm của chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh27/05/2021Phan TìnhXem: 1,131Để mở rộng thị trường kinh doanh của doanh nghiệp thì các chủ sở hữu công ty thường chọn các . Xem thêm. Công ty con là gì, công ty mẹ là gì ?22/06/2021Phan TìnhXem: 1,008 CÔNG TY CON, CÔNG TY MẸ LÀ GÌ? Ngày nay người thuật ngữ công ty con, công ty . Xem thêm. Đăng ký miễn thuế xuất nhập khẩu15/08/2021Phan TìnhXem: 953ĐĂNG KÝ MIỄN THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Thuế xuất nhập khẩu là gì? – Thuế xuất nhập khẩu là loại . Xem thêm. LUẬT HỒNG PHÚC được thành lập với mục đích cung cấp các giải pháp về thành lập doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài và các dịch vụ khác cho doanh nghiệp một cách chuyên nghiệp – hiệu quả – tối ưu hóa chi phí.
|
Bảo hiểm
|
Bảo hiểm là phương thức bảo vệ trước những tổn thất tài chính. Đó là hình thức quản lý rủi ro, chủ yếu được sử dụng để bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên hoặc tổn thất có thể xảy ra. Một doanh nghiệp cung cấp bảo hiểm được gọi là nhà bảo hiểm, công ty bảo hiểm. Các phương pháp chuyển giao hoặc phân tán rủi ro đã được các thương nhân Babylonia, Trung Hoa và Ấn Độ thực hành từ rất lâu trước đây lần lượt từ thứ 3 và thứ 2 thiên niên kỷ trước Công nguyên. Các thương nhân Trung Quốc đi qua các ghềnh thác đầy nguy hiểm sẽ phân phối lại hàng hóa của họ cho nhiều tàu để hạn chế tổn thất do bất kỳ tàu nào bị lật. Luật Codex Hammurabi 238 (khoảng năm 1755–1750 TCN) quy định rằng thuyền trưởng tàu biển, quản lý tàu hoặc người thuê tàu đã cứu một con tàu khỏi tổn thất toàn bộ là chỉ được yêu cầu trả một nửa giá trị của con tàu cho chủ tàu. Trong Digesta seu Pandectae (533), tập 2 của mã hóa các luật theo lệnh của Justinian I (527–565) thuộc Đế chế Đông La Mã, một ý kiến pháp lý được viết bởi Luật gia La Mã Paulus vào đầu Cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba năm 235 sau Công nguyên đã được đưa vào về Lex Rhodia ("Luật Rhodia" ) nêu rõ nguyên tắc trung bình chung của bảo hiểm hàng hải được thành lập trên đảo Rhodes vào khoảng năm 1000 đến 800 trước Công nguyên với tư cách là thành viên của Doric Hexapolis, một cách chính đáng bởi Phoenicia trong cuộc xâm lược Doria được đề xuất và sự nổi lên của Dân tộc trên biển trong thời kỳ đen tối của Hy Lạp (khoảng 1100 – c. 750) dẫn đến sự gia tăng của phương ngữ tiếng Hy Lạp Doric.
|
Ngày Quốc tế Nam giới nhằm tập trung vào sức khỏe của nam giới và trẻ em, cải thiện mối quan hệ giữa hai giới, thúc đẩy bình đẳng giới và đề cao vai trò của nam giới. Đây là cơ hội để nam giới nêu bật sự phân biệt đối xử và tôn vinh những thành tích và đóng góp của họ, đặc biệt là những đóng góp của họ cho cộng đồng, gia đình, hôn nhân và chăm sóc trẻ em. Bạn có thể bày tỏ lòng biết ơn đến những người đàn ông xung quanh mình bằng cách gửi đến họ những lời chúc chân thành. Bạn sẽ tìm thấy hàng ngàn công thức nấu ăn ngon trong danh mục Vào bếp. Vzone là trang đánh giá sản phẩm và mẹo vặt hàng đầu tại Việt Nam.
|
Ngày Quốc tế Nam giới
|
Ngày Quốc tế Nam giới là một sự kiện quốc tế được tổ chức vào ngày 19 tháng 11 hàng năm. Ngày này được bắt đầu vào năm 1999 ở Trinidad và Tobago và được Liên Hợp Quốc ủng hộ, và nhận được sự ủng hộ của các nhóm nam giới ở Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi và vùng Caribe. Mục đích của Ngày quốc tế nam giới là tập trung vào sức khoẻ của nam giới và trẻ em nam, cải thiện quan hệ giữa các giới, thúc đẩy bình đẳng giới và làm nổi bật vai trò của nam giới. Đây là dịp để nam giới nêu bật sự phân biệt đối xử với họ và để kỷ niệm những thành tựu và đóng góp của mình, đặc biệt là đóng góp đối với cộng đồng, gia đình, hôn nhân và chăm sóc con cái. Ngày Quốc tế Nam giới được tổ chức tại trên 170 quốc gia, trong số đó có Trinidad và Tobago, Jamaica, Australia, Ấn Độ, Mỹ, Úc, Canada, Singapore, Vương quốc Anh, Áo, Đan Mạch, Nam Phi, Malta và Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 và nhận được sự ủng hộ trên toàn cầu.
|
Ra mắt vào năm 2014 với thời lượng 28 tập, bộ phim Thái Lan mang tên Bắt Lấy Thiên Thần đã chứng tỏ rằng phim truyền hình tại xứ Chùa Vàng luôn có chỗ đứng lớn trong làng phim châu Á với những ấn tượng cực tốt về sự đầu tư công phu trong cốt truyện, cảnh quay và đặc biệt là dàn diễn viên tham gia, nơi mà không có quá nhiều những ngôi sao sáng chói nhưng luôn biết cách để đóng góp cho thành công của mỗi bộ phim. Nội dung của phim Bắt Lấy Thiên Thần xoay quanh một cô gái tên là Lallalit, vốn là một người thừa kế hư hỏng, ngày ngày chỉ quan tâm tới sắc đẹp của mình, luôn nghĩ mình đẹp nhất và tệ hơn là sống rất ích kỷ chỉ biết nghĩ về mình. Những gì cô không biết chính là việc hai thiên thần từ trên cao đang nhìn cô và quyết định dạy cô một bài học. Hai thiên thần nguyền rủa cô vào một con chim vào ban đêm và con người vào ban ngày và cách duy nhất cô có thể phá vỡ nó đó là trao một nụ hôn cho tình yêu thật sự của mình và giúp đỡ người khác nhưng cô chỉ có thời hạn thực hiện điều đó trong 3 tháng, nếu sau thời gian đó cô không làm được để phá vỡ phép thuật thì cô sẽ mãi mãi là một con chim. Lallalit luôn nghĩ rằng mình sẽ làm được nó một cách dễ dàng bởi vì cô ấy đẹp và tất cả mọi người yêu cô ấy nhưng thực tế là sau lưng cô thì nghe mọi người luôn nói xấu cô. Ngoài ra, cô nghe lỏm được rằng công ty của cha cô đang bị đánh cắp từ cô và cô sẽ không còn gì cả. Lallalit sẽ làm gì? Liệu cô có thể phá vỡ phép thuật và cứu công ty của cha mình hay đưa ra? Sự lãng mạn vốn là điểm mạnh của phim Thái Lan tiếp tục được thực hiện rất tốt trong Angel Magic, nó không cảm thấy quá vội vã hoặc buộc phải có lẽ bởi vì 2 nhân vật chính của phim là Lallalit và Teepob đã có một câu chuyện tình yêu tuyệt vời. Ngoài chuyện tình yêu thì phim còn mang tới nhiều tiếng cười cho khán giả, đặc biệt là những cảnh dễ thương đến từ bộ đôi nam nữ chính.
|
Bắt lấy thiên thần
|
Bắt lấy thiên thần (Leh Nangfah / เล่ห์นางฟ้า) là một bộ phim truyền hình Thái Lan dài 28 tập. Nội dung phim kể về cuộc đời của một cô gái có lối sống kiêu ngạo và hay xem thường người khác bị lời nguyền biến thành chim vào buổi tối. Đây là bộ phim truyền hình đầu tiên mà nam diễn viên Put Puttichai đóng vai chính. Lallalit - "Beauty" (Vill) là một nữ thừa kế xinh đẹp nhưng đỏng đảnh và ích kỷ. Do ba mẹ mất sớm nên Beauty không được dạy dỗ tử tế mà chỉ quan tâm đến bản thân mình. Teepob (Put), một chàng trai trẻ tài năng, chững chạc, tốt bụng, hiện đang là CEO của công ty thời trang mà ba của Beauty đã sáng lập và gia đình Teepob cũng có cổ phần. Gia đình của Teepop và Beauty rất thân thiết nên họ chơi với nhau từ nhỏ nhưng với tính tình kênh kiệu Beauty đã làm Teepop không ưa cô. Trước những hành vi quá đáng của Beauty, mẹ của Beauty sau khi qua đời trở thành tiên và cùng một vị tiên khác đã quyết định dạy cho cô một bài học: Beauty sẽ bị biến thành chim sau khi mặt trời lặn mỗi ngày và trở lại thành người khi trời sáng cho đến khi có một người yêu cô thật lòng trao cho cô một nụ hôn.
|
Trong phim Cô Bạn Gái Kinh Dị, Dae-woo, một giảng viên đại học thông minh nhưng rất nhát gái và chưa bao giờ yêu ai, đã gặp một phụ nữ rất quyến rũ và bí ẩn tên Mina. Họ hẹn hò và yêu nhau. Tuy nhiên trong quá trình yêu nhau trong phim hay này, Daewoo phát hiện ra nhiều điều khác lạ ở Mina. Mina nói rằng cô là một nghệ sĩ và là một người trí thức nhưng cô chưa bao giờ nghe nói đến tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt hay biết đến họa sĩ Mondrian. Trong khi đó cô lại treo tranh của Mondrian trong phòng. Thật ra, Mina còn nhiều bí mật khủng khiếp nữa cô chính là một kẻ giết người không gớm tay. Xem phim Cô Bạn Gái Kinh Dị và bạn sẽ thật sự hài lòng về dịch vụ xem phim của chúng tôi!
|
Cô bạn gái kinh dị
|
Cô bạn gái kinh dị (달콤, 살벌한 연인, Dalkom, salbeorhan yeonin; tên tiếng Anh My Scary Girl) là bộ phim điện ảnh thuộc thể loại kinh dị hài do Hàn Quốc thực hiện năm 2006. Đây là dự án phim đầu tiên được quay bằng máy quay kỹ thuật số HD (high definition) của MBC và Sidus FNH (CJ Entertainment sản xuất). Kịch bản và đạo diễn bởi Son Jae-gon. Phim có sự tham gia của các diễn viên Park Yong-woo (vai Hwang Dae-woo), Choi Kang-hee (vai Mina). Hwang Dae-woo (Park Yong-woo thủ vai), một chàng trai 29 tuổi, tốt bụng và khá thành công với công việc giảng viên môn văn học Anh tại một trường đại học. Tuy nhiên, với tích cách vụng về và rụt rè trong giao tiếp với phụ nữ, Dae-woo vẫn chưa tìm cho mình một mối quan hệ lãng mạn nào, thậm chí anh còn chưa một lần nắm tay hay hôn người khác giới. Một ngày kia, Dae-woo tình cờ gặp Lee Mi-na (Choi Kang-hee thủ vai), người hàng xóm mới chuyển đến ở cùng chung cư với anh. Ngay lập tức Dae-woo phải lòng Mina, một cô gái có vẻ ngoài thông minh, quyến rũ, dịu dàng và yêu sét đánh đã đến với anh.
|
Tân tinh (hay sao mới) là một vụ nổ hạt nhân lớn xảy ra trên sao lùn trắng, khiến cho nó bất thình lình sáng lên. Không nên nhầm lẫn tân tinh với những hiện tượng sáng lên khác như siêu tân tinh hoặc tân tinh phát ra ánh sáng đỏ (luminous red novae). Tân tinh được cho là xảy ra tại bề mặt của một sao lùn trắng trong hệ sao đôi. Nếu hai sao trong hệ nằm gần nhau, vật chất từ một sao đồng hành có thể bị sao lùn trắng hút về. Hiện tượng tân tinh là do các khí plasma hiđro bồi tụ dần trên bề mặt sao lùn trắng đến một giới hạn xảy ra phản ứng tổng hợp hạt nhân không kiểm soát. Siêu tân tinh, hay sao siêu mới, là một số loại vụ nổ của sao tạo nên các vật thể rất sáng chủ yếu gồm plasma bùng lên trong một thời gian ngắn, cấp sao biểu kiến tăng lên đột ngột hàng tỉ lần, rồi giảm dần trong vài tuần hay vài tháng. Cấp sao tuyệt đối có thể đạt đến -20m. Bản chất của hiện tượng siêu tân tinh là điểm kết cục của một số loại sao của quá trình tiến hóa của chúng. Có hai kiểu nổ. Trong kiểu thứ nhất, các sao khổng lồ cháy hết nhiên liệu nhiệt hạch, mất áp suất ánh sáng, và sụp đổ vào tâm dưới trọng trường của chính nó, cho đến lúc mật độ và áp suất tăng cao gây nên bùng nổ. Trong kiểu thứ hai, các sao lùn trắng hút lấy vật chất từ một sao bay quanh nó, cho đến khi đạt được khối lượng Chandrasekhar và bùng nổ nhiệt hạch. Trong cả hai kiểu này, một lượng lớn vật chất của sao bị đẩy bật ra không gian xung quanh. Kiểu nổ thứ nhất kết thúc một quá trình sống của một ngôi sao, kết quả có thể là nhân ngôi sao trở thành sao lùn trắng, sao neutron (pulsar, sao từ, sao hyperon hay sao quark.) hay hố đen tùy thuộc chủ yếu vào khối lượng ngôi sao. Các vật chất lớp vỏ sao bị bắn vào khoảng không giữa các vì sao trở thành tàn tích siêu tân tinh. Tên gọi siêu tân tinh hay sao siêu mới xuất phát từ việc quan sát trong lịch sử những hiện tượng hiếm có, khi một ngôi sao đột ngột bùng sáng như thể vừa sinh ra. Dựa theo cường độ sáng chúng được ghi nhận là tân tinh hoặc siêu tân tinh. Tuy nhiên, bản chất của hiện tượng siêu tân tinh là điểm kết cục của một số loại sao của quá trình tiến hóa của chúng. Siêu tân tinh được phân làm hai loại dựa trên sự có mặt hay không của các vạch hydro trên biểu đồ ánh sáng. Siêu tân tinh không chứa các vạch hydro trong quang phổ thuộc siêu tân tinh loại I, ngược lại là siêu tân tinh loại II. Tên lửa 198.000km/h có thể tới sao Hỏa trong một tháng nhờ lò phản ứng hạt nhân
|
Siêu tân tinh
|
Siêu tân tinh (chữ Hán: 超新星) hay sao siêu mới (tiếng Latinh: supernova; viết tắt là SN hay SNe) là một sự kiện thiên văn học biến đổi tức thời xảy ra trong giai đoạn cuối của quá trình tiến hóa sao ở các sao khối lượng lớn, mà một vụ nổ khổng lồ cuối cùng đánh dấu sự hủy diệt của sao. Sự kiện bất thình lình này tạo ra một ngôi sao sáng "mới", trước khi dần phai mờ trong vòng vài tuần đến vài tháng. Siêu tân tinh là sự kiện mãnh liệt hơn sự kiện sao mới (nova). Trong tiếng Latinh, nova có nghĩa là "mới", mà trong thiên văn học đề cập đến sự xuất hiện tạm thời của một sao sáng mới. Tiền tố "super-siêu" phân biệt siêu tân tinh từ tân tinh thông thường, có độ sáng nhỏ hơn rất nhiều. Thuật ngữ supernova do Walter Baade và Fritz Zwicky đặt ra từ năm 1931. Chỉ có ba siêu tân tinh xảy ra trong Ngân Hà được quan sát bằng mắt thường trong 1000 năm qua, mặc dù rất nhiều sự kiện ở các thiên hà khác nhau đã được quan sát bằng kính thiên văn.
|
Cho vay ngang hàng trong tiếng Anh là Peer-to-peer Lending, viết tắt là P2P Lending hoặc là cho vay P2P. Thực chất, đây là mô hình cho vay ứng dụng nền tảng công nghệ số mà người đi vay và người cho vay sẽ được liên kết trực tiếp với nhau để tiến hành giao dịch cho vay tiền, mà không cần phải thông qua một tổ chức tín dụng hay bất cứ ngân hàng nào. Hình thức cho vay tiền ngang hàng sẽ giúp mọi người đa dạng hóa các khoản đầu tư với lãi suất cao hơn so với ngân hàng. Trên thế giới đã xuất hiện rất nhiều công ty hoạt động cho vay ngang hàng lớn. Thế nên các khoản vay ngang hàng vừa có có thể có tính đảm bảo lại vừa có thể không đảm bảo. Khoảng đầu thế kỉ 21 trở lại đây, hình thức cho vay tài chính này mới thực sự phát triển mạnh, dần trở thành xu thế của thị trường tín dụng hiện nay. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ 4.0 thì hoạt động vay vốn ngang hàng còn càng trở nên đơn giản hơn khi tất cả các công việc trên một cách tự động. Hình thức cho vay ngang hàng có những đặc điểm nổi trội như sau:. Nhà đầu tư có thể chọn ra đối tượng người vay tiềm năng nếu như có nền tảng P2P. Tạo mức lợi nhuận cao hơn so với việc giao dịch thông qua ngân hàng hay bất kỳ đơn vị tài chính nào. Công ty cho vay P2P sẽ đóng vai trò trung gian kết nối mọi người. Mọi giao dịch đều luôn được thực hiện trực tuyến nhanh chóng, tiện lợi chỉ với một vài thao tác rất đơn giản. Người cho vay và người đi vay không cần thiết phải có mối quan hệ quen biết trước đó. Hình thức vay tiền này phù hợp cho những khoản vay nhỏ và ngắn hạn giúp tầng lớp thu nhập thấp có mức vốn đầu tư nhỏ. Nhà đầu tư có thể dễ dàng theo dõi nguồn lợi nhuận ổn định của mình từ người đi vay và đặc biệt là các quy trình đều tuân thủ pháp luật. Xử lý thanh toán từ người đi vat vay và chuyển những khoản thanh toán cũng như lợi nhuận cho người đầu tư vào các khoản vay. Phát triển các mô hình cho vay tín dụng thế chấp, quản lý, đánh giá thông tin và xếp hạng tín nhiệm người đi vay dựa vào các hệ thống truyền thông, mạng xã hội đã được tích hợp trong phần mềm chuyên dụng. Các nhà đầu tư có nhiều cơ hội dedre đa dạng hóa và quản lý rủi ro tốt hơn vì có thể cho vay nhiều hình thức với thời hạn khác nhau. Hoàn toàn không có rủi ro về kỳ hạn bởi kỳ hạn cho vay và thời gian đi vay được đối chiếu khớp với nhau một cách tuyệt đối. Các nhà đầu tư sẽ được cung cấp những dịch vụ tư vấn đa dạng, trong nhiều trường hợp thì – các nhà cung cấp dịch vụ sẽ đóng vai trò cầu nối như một đơn vị ủy quyền thu nợ cho chính nhà đầu tư. Người vay vốn khi vay ngang hàng sẽ được giảm chi phí lãi suất. Lý do là vì các dịch vụ được cung cấp hoạt động trên nền tảng Fintech, giúp giảm thiểu các chi phí cho xây dựng mạng lưới phân phối và hoạt động so với các kênh truyền thống. Tính minh bạch và bảo mật thông tin về khoản vay cũng như là người đi vay ở mức độ cao. Người cho vay sẽ trực tiếp được tham chiếu những thông tin liên quan đến người đi vay. Hơn nữa, người cho vay còn có thể giám sát mục đích sử dụng khoản tiền vay của người đi vay. Nhờ có hình thức vay tiền tiện lợi này mà người đi vay có thể bù đắp khoản thiếu hụt tiền trong thời gian ngắn để đáp ứng được các nhu cầu chi tiêu của bản thân, giải quyết tình trạng khó khăn về tài chính để yên tâm làm việc, xây dựng tương lai. Rủi ro về mặt pháp lý: Nhà cung cấp dịch vụ gặp rủi ro bị cấm hoạt động hoặc hạn chế hoạt động vì hiện khá nhiều quốc gia chưa công nhận tính pháp lý của mô hình cho vay tiền ngang hàng. Rủi ro mất vốn hoặc chậm trả: Vì không được bảo hiểm an toàn như các kênh ngân hàng uy tín nên các khoản cho vay của nhà đầu tư có thể bị mất hoặc chậm trả nếu như người đi vay rơi vào tình trạng không thể trả tiền vay. Rủi ro về thanh khoản: Các khoản vay ngang hàng chỉ có thể được hoàn trả khi đến hạn chứ cả bên cho vay và bên đi vay đều không thể hủy ngang hợp đồng. Rủi ro khi vận hành hệ thống: Nền tảng hoạt động của hình thức cho vay ngang hàng là sự phát triển công nghệ, khi phần mềm bị sập hoặc ngừng hoạt động thì mức độ rủi ro sẽ rất cao. Nếu như thị trường không hoạt động trong khuôn khổ pháp lý thì nhà đầu tư còn có thể phải đối mặt với nguy cơ bị mất trắng vốn. Tại Việt Nam, sự bùng nổ của các công ty tài chính công nghệ cùng mô hình cho vay ngang hàng bắt đầu hình thành và phát triển từ khoảng năm 2014 với khoảng hơn 40 công ty đang vận hành. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì hệ thống pháp lý dành cho hình thức vay tiền online chưa được hoàn thiện và rõ ràng, từ đó kéo theo rất nhiều vấn đề phức tạp. Qua bài viết này, chắc hẳn các bạn cũng đã biết được những thông tin cần thiết về hình thức vay tiền ngang hàng. Nếu như bạn cần hỗ trợ kỹ hơn về các vấn đề tài chính thì hãy liên hệ với chúng tôi để được phục vụ chu đáo nhất. Founder Banktop với hơn 5 năm kinh nghiệm làm trong lĩnh vực Tài chính sẽ chia sẽ đến bạn những kiến thức, kinh nghiệm mà mình đã đúc kết được. Đúng vậy, rủi ro trả chậm. hoặc mất vón rất cao. coa khản nợ hơn 2 năm không nhận lại vồn và lãi, Lenbiz cũng không có câu trã lời về việc xự lý nợ xấu này như thế nào.
|
Cho vay ngang hàng
|
Cho vay ngang hàng (tên tiếng Anh: peer-to-peer lending, cũng viết tắt là cho vay P2P), là thực tế cho vay tiền cho cá nhân hoặc doanh nghiệp thông qua các dịch vụ trực tuyến phù hợp với người cho vay với người vay. Vì các công ty cho vay ngang hàng cung cấp các dịch vụ này thường hoạt động trực tuyến, chúng có thể hoạt động với chi phí thấp hơn và cung cấp dịch vụ rẻ hơn các tổ chức tài chính truyền thống. các sản phẩm được ngân hàng cung cấp, trong khi khách hàng vay có thể vay tiền với lãi suất thấp hơn, ngay cả sau khi công ty cho vay P2P đã tính phí để cung cấp nền tảng kết hợp và kiểm tra tín dụng của người vay. Có rủi ro của người vay mặc định trên các khoản vay được lấy từ các trang web cho vay ngang hàng. Còn được gọi là cho vay đám đông, nhiều khoản vay ngang hàng là các khoản vay cá nhân không được bảo đảm, mặc dù một số khoản vay lớn nhất được cho các doanh nghiệp mượn. Khoản vay được đảm bảo đôi khi được cung cấp bằng cách sử dụng tài sản sang trọng như đồ trang sức, đồng hồ, xe hơi cổ, mỹ thuật, tòa nhà, máy bay và các tài sản kinh doanh khác làm tài sản đảm bảo.
|
Trước đây, chúng ta đã biết đến 2 giới tính của con người đó là nam và nữ. Tuy nhiên, hiện nay xuất hiện thêm rất nhiều các loại giới tính khác rất phổ biến và được gọi là giới tính thứ 3. Khi nhắc đến các loại giới tính thứ 3, chúng ta không thể không nhắc đến Les. Vậy Les là gì, Les có mấy loại, Les có những đặc điểm gì, Les quan hệ như thế nào, sẽ cùng các bạn tìm hiểu ở ngay bài viết dưới đây. Đồng tính nữ hay còn gọi là Lesbian là sự thu hút của nữ với nữ. Quan hệ đồng tính nữ tức là sự quan hệ tình dục giữa hai người cùng giới tính nữ với nhau. Họ cũng có nhưng nhu cầu, ham muốn về tình dục giống như những cặp đôi nam nữ bình thường. Chỉ khác ở một điểm là những lần đạt khoái cảm của nữ vẫn có thể tiếp tục quan hệ tiếp chứ không giống ở nam giới. Nam giới sẽ xuất tinh và dương vật sẽ không thể căng cứng được nữa. Chính vì vậy sex đồng tính nữ giới sẽ có thể kéo dài lâu hơn so với bình thường. Cũng giống với mọi giới tính khác, đối với những người đồng tính nữ, nhu cầu sinh lý của họ cũng cần được giải quyết. Nó cũng rất mãnh liệt, không khác gì so với những người có giới tính bình thường khác. Cách thực hiện quan hệ của họ đối với nhau có thể có đôi chút sự khác biệt so với người bình thường nhưng những cảm xúc mà nó mang lại cho người thực hiện không hề có sự giảm đi. Điểm khác biệt của việc quan hệ ở người đồng tính nữ chính là việc không giới hạn thời gian quan hệ. Đơn giản là vì ở người đồng tính nữ đều có thể đạt được cực khoái nhiều lần. Vì vậy nên cảm xúc trong quan hệ đồng tính nữ là không giới hạn. Khác hoàn toàn với nam giới chỉ có thể đạt được sự cực khoái một lần duy nhất trong quá trình quan hệ. Cảm xúc đạt được trong quan hệ của những người đồng tính nữ đã được thể hiện rất rõ ràng thông qua các con số. Tỉ lệ les hài lòng với việc quan hệ tình dục rất cao, lên tới từ 50 đến 80%. Quan hệ tình dục ở les thực hiện dưới rất nhiều các tư thế đa dạng khác nhau: hôn, dùng ngón tay, lưỡi, dùng các dụng cụ hỗ trợ. Do là quan hệ đồng tính nên việc thực hiện quan hệ tình dục của đối tượng này cũng rất bình đẳng khi cả 2 người đều có vai trò tương tự như nhau. Xu hướng tình dục của từng cặp đôi là rất đa dạng. Vậy nên mỗi cặp đôi sẽ có những sở thích rất khác nhau trong thực hiện quan hệ tình dục cũng là điều hết sức bình thường. Tuy vậy, trên thực tế, có đến khoảng 90% những cặp đôi les thích việc quan hệ bằng miệng (sử dụng miệng kích thích vào bộ phận sinh dục của đối phương). Có nhiều kiểu Les khác nhau. Mỗi loại đều có những đặc điểm khác nhau, dễ dàng phân biệt. Để các bạn có thể hiểu rõ hơn, dưới đây là các loại Les và đặc điểm của chúng:. 1 người con gái nhưng là les có hình dáng, cử chỉ, tính cách bên ngoài của họ giống y như 1 cô gái bình thường. Nhìn vào bề ngoài khó có thể nhận ra đó là Les, nhưng về mặt tình cảm thì lại yêu 1 người con gái chứ không yêu con trai. Những cô gái FEM này thường là vợ của SB. SB mềm: LES có tính khí giống con trai, luôn nghĩ mình là con trai, cách cư xử, hành động, cử chỉ, phong cách hơi giống con trai, nhưng phong cách ăn mặc còn mềm, vẫn còn nữ tính. Khi bạn nhìn vào SB thì sẽ nhận ra ngay đó là con gái. SB mềm có thể làm chồng của FEM tùy theo cả 2 nếu muốn làm Les ngầm. SB cứng: có phong cách, ăn mặc cử chỉ giống hệt con trai . Nhìn bề ngoài khó có thể nhận ra đó là con gái. Tuy nhiên vẫn có thể nhận ra nếu để ý kĩ vòng 1 và giọng nói. SB cứng thường là chồng của FEM. Đây là dạng 1 người con gái có cá tính, ngoại hình, cử chỉ, hành động và cách ăn mặc giống con trai nhưng nhìn vào khó biết là con gái, giống SB cứng. Nhìn vào bạn vẫn có thể nhận ra đó là con gái. Nhưng tuy nhiên đừng cho rằng tomboy nghĩa là les. Nhiều người chỉ thích phong cách tomboy và thích ăn mặc cá tính như vậy thôi, Vì vậy, khi nhìn thấy 1 người có phong cách tomboy thì không nên ngộ nhận đó là les. Cần phải cẩn thận tránh gây ra nhầm lẫn. Đối với dạng người này, bề ngoài, tính cách ăn mặc còn mạnh mẽ hơn cả SB cứng. Nhìn bề ngoài sẽ không thể nhận ra đó là con gái. Trans guy thường có xu hướng giấu ngực nên không thể nhìn ngực để nhận biết. Một số người trong nhóm này có thể là người chuyển sang giới tính nam. Bisexual hay còn gọi là ái nam ái nữ, lưỡng tính. Những người thuốc nhóm này có thể thích cả nam, cả nữ không trừ 1 giới tính nào. Hứng thú của nhóm này thường thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh và cảm xúc. Vốn từ khi sinh ra mỗi chúng ta đều không có khả năng biết trước sẽ thích ai và bị thu hút bởi ai. Vậy nên để tránh bị ngộ nhận, tìm ra con người thật và nhất là nhận biết mình có phải les hay không thì hãy xem các điều sau đây nhé. Tìm kiếm và chấp nhận vẫn luôn khó khăn nhưng sẽ khó khăn hơn nếu bản chất con người bạn bị kìm hãm. Thông thường các cô gái sẽ dễ bị thu hút và rung động với phái nam, những người khác giới. Nhưng nếu bạn là les bạn sẽ không có cảm giác gì khi gặp họ hay tiếp xúc. Cho dù bạn nam kia có đối xử ngọt ngào, đẹp cỡ nào cũng vô ích với bạn. Ngược lại với điều mình vừa nói trên thì bạn sẽ bị các cô gái xinh đẹp, dịu dàng hay cá tính thu hút. Việc thi thoảng ngắm nhìn những cô nàng xinh đẹp là điều cho dù giới tính nào cũng đều hay làm. Nhưng tần suất bao nhiêu thì đó là phạm trù khác. Hàng ngày, thường xuyên thì bạn là đồng tính nữ rồi đó. Khi ở gần các bạn nữ, tiếp xúc nói chuyện bạn sẽ rung rinh bởi bạn thích gần các bạn nữ khác. Nhiều người chỉ biết đến việc quan hệ giữa nam và nữ là đưa bộ phận sinh dục nam vào trong bộ phận sinh dục nữ để tạo được sự thăng hoa cũng như khoái cảm. Chính vì vậy họ nghĩ quan hệ đồng tính nữ chỉ có thể dừng lại ở những cử chỉ âu yến, yêu thương bình thường. Nhưng không phải, họ cũng có những cách để quan hệ và đưa nhau đến các khoái cảm. Hầu hết họ thường quan hệ bằng miệng. Đây là kiểu quan hệ đồng tính khá biến. Đây là tư thế không còn xa lạ gì với các cặp đôi kể cả cặp đôi đồng tính hay các cặp đôi nam nữ. Ở tư thế này sẽ có một người nằm dưới một người nằm trên. Dùng tay kích thích xoa đầu ngực, hôn môi, tai hay dùng dưỡi để liếm, mút “hạt đậu”. Ngoài ra bạn còn có thể sử dụng các công cụ hỗ trợ kích thích như máy rung, dương vật giả để chăm sóc cô bé. Sau cùng có thể thay đổi vị trí, tư thế để hai cô bé chạm nhau như tư thế chữ X. Vì cả 2 cùng là nữ nên có thể dễ dàng đổi vị trí cho nhau linh hoạt để cả 2 cùng cảm thấy sung sướng. Tư thế Doggy tưởng chừng chỉ có thể sử dụng cho quan hệ nam nữ bình thường nhưng quan hệ cặp đôi nữ cũng có thể sử dụng được. Tư thế này được mọi người yêu thích vì nó có thể đem đến cảm xúc thăng hoa trên cả thăng hoa trong khi giao hợp. Một người sẽ quỳ gối, chống hai tay và đưa âm đọa ở trên cao. Người còn lại sẽ ở phía sau ôm lấy cơ thể của người bạn tình. Mơn man cơ thể từ nhũ hoa, bóp bầu ngực rồi dần dần mơn man xuống âm đạo để day điểm G của cô bé. Sau đó từ từ dùng lưỡi đưa đẩy, liếm và mút hột le của bạn tình một cách thành thục và nhẹ nhàng. Bạn nên sử dụng thêm các sextoy để có thể xâm nhập vào bên trong của bạn tình. Đây là tư thế dễ thực hiện và ít tốn sức nhất. Bạn sẽ không thể bỏ qua tư thế này nếu như bạn có quan hệ tình dục đồng giới nữ. Với tư thế này cùng lúc cả hai bạn đề có thể được kích thích, thỏa mãn và thăng hoa. Ở tư thế này cả hai sẽ cùng nằm nghiêng về một phía. Một bạn ở phía sau ôm trọn cơ thể bạn tình vào lòng có cảm giác như hòa quyện vào nhau. Kích thích và thể hiện ham muốn bằng cách hôn vai, hôn mang tai kết hợp cùng với tay mơn man bầu ngực, nhú hoa r kích thích xuống cô bé với điểm G nhạy cảm. Khuyến khích các bạn dùng các công cụ tình dục giả để tăng thêm kích thích. Người đằng trước lúc này đóng vai trò người hưởng thụ. Bạn chỉ cần nhắm mắt, quàng tay ra sau đưa đẩy, mơn man bạn tình của mình. Khép chân lại chút và thay đổi tư thế nhẹ nhàng sẽ giúp “đồ chơi” chạm đến điểm G và đưa bạn lên đỉnh nhé. Khi được hỏi les làm tình như thế nào cho hấp dẫn, “phê” nhất thì đây là tư thế đơn giản nhất cho câu trả lời nha. Trong tư thế này, một người sẽ ngồi cao hơn người còn lại như ngồi trên ghế, trên mép giường hay thay đổi ngoại cảnh như trên thành bếp. Người còn lại sẽ quỳ gối giữa hai chân bạn tình sao cho cả hai mặt đối mặt với nhau. Lúc này cặp đôi có thể kết hợp làm tình bằng tay, bằng lưỡi cùng với các công cụ hỗ trợ thêm “sex toy”. Đầu tiên bạn nên kích thích bạn tình của mình bằng một nụ hôn ướt át, cuồng nhiệt, đắm đuối từ môi đến cổ, vay, tai rồi đến ngực, sau cùng là “cô bé”. Trong quá trình quan hệ bạn có thể kích thích cơ thể thêm bằng cách dùng tay để mân mê cơ thể mềm mại để tăng hưng phấn cho cả hai. Để có thể quan hệ bằng tay an toàn hiệu quả , giúp bạn tình của mình dễ dàng lên đỉnh, chúng ta cần phải thực hiện đúng cách. Trong âm đạo có rất nhiều điểm G nhạy cảm nên chỉ cần một chút khéo léo cùng với sự tinh tế , chúng ta có thể giúp nàng “ thăng hoa “ một cách dễ dàng. Đầu tiên, khi vừa bước vào cuộc yêu hãy dùng tay nhẹ nhàng du lịch khắp nơi trên cơ thể nàng đặc biệt là những vùng nhạy cảm như bụng đùi, núm vú, nách, cổ ,…Cách tốt nhất là hãy để cô ấy ằm ngửa và kê thêm gối phía dưới lưng. Quỳ ở giữa 2 chân nàng, một tay mơn trớn xung quanh mép âm đạo đặc biệt là chỗ hột le, tay còn lại hãy xoa bóp bầu ngực ngọt ngào , xinh đẹp của nàng. Lưu ý cần phải thật khéo léo và nhẹ nhàng trong cách di chuyển đôi tay để tránh làm cho nàng bị đau do các hành động quá mạnh bạo, không nên hành động quá đột ngột và bất ngờ. Bước dạo đầu này khá quan trọng và sẽ càng hiệu quả hơn nếu bạn sử dụng thêm những lời âu yếm, lời khen sẽ giúp nàng thoải mái và dễ dàng lên đỉnh hơn. Để có thể đưa ngón tay vào âm đạo sâu và dễ dàng, bạn nên chọn tư thế doggy. Khi ở tư thế này , âm đạo sẽ mở rộng nhất và dễ dàng xâm nhập. Sử dụng hai ngón trỏ và ngón giữa khép lại thâm nhập vào sâu bên trong âm đạo, phải hết sức từ từ chậm rãi, không được nóng vội tăng dần tốc độ lên cho đến khi thấy cô ấy đạt được khoái cảm. Ngoài ra, bạn còn có thể có thể dùng ngón cái xoa và đút và trong hậu môn của nàng để tăng cảm xúc.Có một điểm cần phải lưu ý khi chọn cách quan hệ bằng tay đó chính là thâm nhập sâu là không nên day âm đạo với tốc độ quá nhanh. Điều này có thể dẫn đến âm đạo không kịp tiết ra dịch và chất nhờn để bôi trơn dẫn đến có thể gây ra cảm giác đau rát không mong muốn. Nên sử dụng thêm dầu bôi trơn trong các cuộc yêu để có thể tránh được các sự cố không mong muốn. Cần phải vệ sinh tay thật sạch sẽ và cắt móng tay thật cẩn thận để tránh gây ra các vết thương và lây lan các căn bệnh nguy hiểm. Hãy làm thật nhẹ nhàng , tránh mạnh bạo bất ngờ. Nên dùng thêm những lời nói , cử chỉ âu yếm , nhẹ nhàng, tránh sử dụng các từ ngữ tục tĩu , bậy bạ do điều này có thể làm giảm hứng thú, giảm ham muốn của đối phương. Như các bạn thấy cách quan hệ đồng tính nữ hầu hết quan hệ bằng tay, miệng và các đồ dùng quan hệ giả. Chính vì thế nếu các bạn quan hệ quá thô bạo hoặc không đúng cách bạn sẽ bị mắc các loại bệnh chúng tôi sẽ nói sau đây:. Nếu trong quá trình quan hệ bạn không vệ sinh đúng cách thì việc bạn nhiễm bệnh nấm âm đạo tỉ lệ rất cao. Việc này sẽ khiến bạn bị ngứa ngáy, khó chịu hơn nữa còn có hiện tượng chảy mủ hay có chất nhờn hôi trong quá trình quan hệ. Đây là bệnh hầu hết các cặp đôi les đều mắc khi quan hệ với nhau nếu sau khi quan hệ tình dục không vệ sinh “cô bé” thật sạch. Bạn sẽ thấy ngứa, đau khi đi tiểu, rát. Và còn có thể có nguy cơ bị viêm đường tiết niệu do vi khuẩn xâm nhập sâu bên trong mà bạn không điều trị. Đây là bệnh dễ phát sinh khi quan hệ bằng miệng, hậu môn hay âm đạo. Dấu hiệu của bệnh này chính là có dịch nhơn màu xanh, có mùi hôi và đau buốt khi đi tiểu,. Mụn rộp là các hạt li ti nổi lên bên trên cô bé. Những mụn rộp này như các bong bóng nước, có thể chứa mủ hoặc không và rất dễ bị vỡ ra khiến “cô bé” của bạn đau rát và khó chịu. Bệnh này là bệnh viêm nghiễm nặng ở nữ giới. Đây là tình trạng bệnh tình dục nặng khi người đồng tính nữ có dấu hiệu bị đau thắt lưng, bụng dưới, sốt, nôn, chảy máu giữa thai kỳ và đau âm đọa khi quan hệ tình dục.
|
Người đồng tính nữ
|
Đồng tính nữ (tiếng Anh: lesbian) là người một người phụ nữ bị thu hút bởi người cùng giới. Khái niệm này cũng được dùng để chỉ bản dạng tính dục hoặc hành vi tình dục mà không trong mối tương quan nào với xu hướng tính dục, hoặc như một tính từ để làm rõ đặc điểm hoặc liên kết các danh từ với đồng tính nữ hoặc sự thu hút với người cùng giới. Việc sử dụng khái niệm "đồng tính nữ" để làm rõ sự khác biệt ở những phụ nữ có xu hướng tính dục chung nảy nở vào thế kỷ XX. Xuyên suốt lịch sử, phụ nữ đã không có quyền tự do hay độc lập như đàn ông để theo đuổi những mối quan hệ đồng tính, nhưng họ cũng không phải đối mặt với những hình phạt tàn khốc như đồng tính nam ở một số xã hội. Thay vào đó, những mối quan hệ đồng tính nữ thường được coi như là vô hại, trừ khi một người trong đó có ý định đòi lấy những quyền lợi vốn thuộc về nam giới. Kết quả là, rất ít những tài liệu lịch sử có những miêu tả chính xác về cách mà đồng tính nữ được biểu lộ.
|
Chắc các bạn cũng biết, trong những năm gần đây nước ta đã bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Và sự thật chứng minh, nước ta đã phát triển hơn rất nhiều về mọi mặt, đời sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc hơn.Tuy nhiên, vấn đề nào cũng có 2 mặt và mặt thứ 2 của việc phát triển công nghiệp đó là Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG, sâu hơn nữa đó là ô nhiễm nguồn nước. Vậy ô nhiễm nguồn nước là gì? Nguyên nhân nào khiến nguồn nước bị ô nhiễm. Bài viết dưới đây Green sẽ giải đáp mọi vấn đề gặp phải. Nước là một trong những nguyên liệu không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, bất kể một sinh vật sống nào muốn tồn tại đều cần phải có nước. Tuy nhiên, thứ nguyên liệu tưởng chừng như không thể thay thế đó lại đang dần bị chính con người hủy hoại và tàn phá 1 cách nặng nề, biểu hiện của nó là việc nguồn nước đang ngày bị ô nhiễm nghiêm trọng. Ô nhiễm nguồn nước là gì? Ô nhiễm nguồn nước là hiện tượng nước ở các sông, hồ, ao, suối, mạch nước ngầm,. bị nhiễm các hóa chất độc hại do hoạt động sống của con người gây ra như: thuốc bảo vệ thực vật, chất thải từ công nghiệp, chất thải sinh hoạt,. Môi trường nước bị ô nhiễm có nghĩa là nó không còn đủ tiêu chuẩn để cho con người sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất. Nếu sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm sẽ khiến cơ thể mắc phải những bệnh rất nguy hiểm về hệ tiêu hóa, hô hấp và có thể dẫn đến những bệnh hiểm nghèo, bệnh mãn tính. Chỉ tiêu cảm quan là những yếu tố về màu sắc, mùi vị có thể cảm nhận được bằng các giác quan của con người.2. SMEWW là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh Standard Methods for the Examination of Water and Waste Water có nghĩa là Các phương pháp chuẩn xét nghiệm nước và nước thải.3. US EPA là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh United States Environmental Protection Agency có nghĩa là Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ.4. TCU là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh True Color Unit có nghĩa là đơn vị đo màu sắc.5. NTU là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh Nephelometric Turbidity Unit có nghĩa là đơn vị đo độ đục. Với sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp, một năm nước ta có khoảng hàng nghìn nhà máy, xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ ra đời. Tại một vài khu công nghiệp, xả hàng tấn nướ thải, rác thải chưa được xử lý ra ngoài môi trường. Hoặc xử lý qua loa rồi xả ra sông suối khiến các chất ô nhiễm hữu cơ, kim loại nặng ngấm vào nguồn nước và lòng đất. Ví dụ thực tế: Vụ việc ô nhiễm nước sạch ở Hà Nội vào tháng 10/ 2019. Nguyên nhân của vụ việc là do một vài đối tượng đã đổ dầu thải xuống sông, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước của nhà máy sông Đà. Điều này cũng làm xáo trộn cuộc sống của hàng triệu người dân Hà Nội. Tiếp đó là tốc độ đô thị hóa ở các thành phố ngày càng nhanh và kèm theo đó cũng là lượng rác thải cũng tăng lên rất nhiều. Hiện tượng người dân vô ý thức vứt rác lung lung, bừa bãi khiến cống bị tắc nên mỗi lần mưa là phải đi thông cống để thoát nước. Về đến nông thôn, nguồn nước bị ô nhiễm chủ yếu là do chất thải sinh hoạt, gia súc và việc lạm dụng phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật. Nhưng có một điều không thể ngờ diễn ra ở một số vùng đó là có những bãi rác khổng lồ. Nó cao ngất ngưởng, bốc mùi hôi thối, mà còn nằm ngay cạnh đường đi và gần với nhiều nhà dân.Hơn nữa, ở một số vùng nông thôn hiện nay còn xuất hiện nhiều công ty, nhà máy, xí nghiệp. Nếu đơn giản chỉ sản xuất thì không có chuyện gì nhưng một trong những xí nghiệp này đã xả nước thải, hóa chất, nước giặt công nghiệp chưa qua xử lý xuống sông khiến cá dưới sông chết hàng loạt, nước sông đen ngòm, bốc mùi khó chịu ảnh hưởng đến các vùng lân cận. Ngoài ra, có một số công ty lợi dụng đêm tối xả khí thải vào không khí khiến cả vùng chìm trong khói bụi (tưởng như sương mù). Nhất là khi đi qua các công ty này, người dân sẽ ngửi thấy mùi vô cùng khó chịu, dù đã có khẩu trang bịt kín. Vì thế mà hằng năm có đến 9000 chết vì ô nhiễm nguồn nước và phát hiện đến gần 100.000 trường hợp bị ung thư mà nguyên nhân chính là do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm. Với những biểu hiện trên, chắc bạn cũng hiểu tại sao nguồn nước, môi trường nước của chúng ta lại bị ô nhiễm nặng nề rồi phải không. Nhưng qua đây, chúng ta mới hiểu được nước có vai trò quan trọng như thế nào. Con người chắc chắn phải có nhu cầu ăn uống, sinh hoạt, vệ sinh. Nếu không có nhu cầu này, con người không thể tồn tại và phát triển, tiến bộ hơn được. Nhưng, lượng rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình, trường học, bệnh viện, các cơ sở kinh doanh ra môi trường là vô cùng lớn khiến quá trình xử lý rác thải không thể bắt kịp (đặc biệt là ở thành phố lớn). Trong khi đó, tỷ lệ gia tăng dân số của Việt Nam đang giảm từ 3.07% (1960) xuống còn 1.03% (2017). Bạn có thể tham khảo dân số Việt Nam ở đây. Dù tỷ lệ gia tăng dân số đang có xu hướng giảm nhưng lượng rác thải ra môi trường ngày càng nhiều. Biểu hiện rõ nhất cho vấn đề này là các bãi rác khổng lồ xuất hiện liên tục trên các tỉnh thành cả nước. Ví dụ: Các bãi rác khổng lồ ở Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn,. hoặc các vùng khác như Bắc Ninh, Hưng Yên. Nếu cách đây 20 năm, thì rác thải sinh hoạt chủ yếu là các chất hữu cơ dễ phân hủy như protein, mỡ, chất dinh dưỡng, giấy vụn,. Nhưng hiện nay, rác thải sinh hoạt còn bao gồm túi nilon, pin, các chất thải rắn độc hại,. Có thể bạn chưa biết: Ô nhiễm nguồn nước còn do Pin gây ra đó. Nghĩa là: 1 quả pin có thể làm ô nhiễm 500l nước và 1m2 đất đó. Nước ta thuộc trong TOP các nước xuất khẩu gạo ra thế giới, do đó các hoạt động nông nghiệp, nuôi trồng người dân đều sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật. Trong thực tế, nếu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng - đủ liều lượng thì không sao. Nhưng người Việt Nam chúng ta lại quá lạm dụng (tăng liều lượng 3 - 4 so với khuyến cáo) với mong muốn tăng hiệu suất cây trồng. Và hiệu suất tăng cao thật, sâu bệnh ít đi thật, ô nhiễm nguồn nước thật, nhiều người mắc bệnh do ăn phải nguồn nước bị ô nhiễm thật. Đó vẫn chưa là gì, nhiều nông dân còn sử dụng các loại thuốc trừ sâu đã bị cấm như Thiodol, Monitor,. để kích thích cây trồng tăng trưởng. Tiếp đó là ý thức của người nông dân. Nhiều người khi phun thuốc sâu xong sẽ vứt ngay bao bì, vỏ chai xuống ao, mương, máng mà không thu gom lại. Điều này cũng là nguyên nhân khiến nguồn nước bị ô nhiễm. Ngoài ra, nước thải từ các hoạt động chăn nuôi gia súc, động vật chưa qua xử lý cũng khiến ô nhiễm môi trường nước. Bạn nên đọc thêm thực trạng ô nhiễm nguồn nước ở nông thôn để hiểu hơn về ô nhiễm môi trường nước ở nông thôn nhé. Sản xuất công nghiệp là nguyên nhân chính khiến ô nhiễm môi trường nước. Tại sao lại như vậy?. - Thứ nhất: Nhiều nhà máy xí nghiệp đã xả nước thải, hóa chất, nước giặt công nghiệp chưa xử lý xuống dòng sông khiến cá dưới sông chết hàng hoạt, nước thì đen ngòm, bốc mùi khó chịu. Mặc dù ở Việt Nam không có tuyết, động đất, núi lửa nhưng các trận mưa, lũ lụt, hạn hán, bão, xâm nhập mặn cũng khiến ô nhiễm nguồn nước,. Khi các vấn đề trên xảy ra thì động vật, cây cối, sinh vật sẽ chết đi và phân hủy thành các chất hữu cơ gây ô nhiễm nguồn nước, nước ngầm, nước mặt. Ngoài 4 nguyên nhân trên, đáng chú ý là sự bất cập trong công tác quản lý bảo vệ môi trường của các nhà chức trách. Nhiều cơ quan chức năng thơ ơ bỏ mặc các hành vi xả thải chưa qua xử lý ra sông. Điều này nói rõ nhận thức của nhiều cơ quan quản lý, tổ chức là chưa sâu sắc, chưa đầy đủ, chưa hiểu rõ về mối nguy hại mà ô nhiễm môi trường nước gây ra. Tính tới hiện nay, tỉ lệ người mắc các bệnh cấp và mãn tính liên quan tới ô nhiễm nguồn nước như tiêu chảy, ung thư, viêm da, dị ứng, viêm màng kết,. ngày càng tăng. Điều này cho thấy, tác hại của ô nhiễm nguồn nước là vô cùng nghiêm trọng. người dân sinh sống quanh khu vực ô nhiễm sẽ ngày càng mắc nhiều loại bệnh có liên quan do dùng nước ô nhiễm, nước bẩn trong hoạt động hàng ngày. Có thể bạn chưa biết, nước thải từ các nhà máy xí nghiệp, các công ty hóa chất, giặt công nghiệp có chứa rất nhiều thành phần độc hại như: thủy ngân, Asen (thạch tín), BOD, COD,. đặc biệt còn chứa các mầm bệnh nguy hiểm. Các nghiên cứu khoa học cho rằng khi sử dụng nguồn nước nhiễm Asen hay các chất độc khác thì con người có thể bị mắc các bệnh mãn tính như ung thư da. Ngoài ra, khi bạn uống phải nguồn nước có Asen với nồng độ 0.1 mg/l thì rất có thể bạn sẽ bị nhiễm độc hệ thống tuần hoàn đó. Nguồn nước bị ô nhiễm không chỉ tồn tại Asen mà còn có chì. Theo WHO, nhiễm độc chì lâu ngày sẽ gây a những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, đặc biệt là trẻ nhỏ. Khi bị nhiễm chì, con người có thể bị giảm chỉ số IQ, các bệnh về thận, thần kinh, tim mạch, xương, răng,. thậm chí cả hệ sinh sản. - Nếu bị nhiễm Amoni, Natri, Nitrat thì có thể sẽ mắc bệnh xanh da, thiếu máu, có thể ung thư nếu bị nhiễm nặng. . Hoặc các chất trong thuốc sâu, thuốc bảo vệ thực vật sẽ gây ngộ độc, viêm gan, nôn mửa,. Tác hại thứ hai của ô nhiễm nguồn nước là giết chết các loài sinh vật sống dưới nước. Khi nước thải xả xuống biển, sông, suối,. các sinh vật dưới nước sẽ sử dụng nước thải để nuôi sống bản thân. Nhiều loài động vật không chịu được mà chết (hiện tượng cá chết hàng loạt), còn nếu chịu đựng được thì cũng không ai dám đánh bắt, dần dần rồi cũng chết,. thậm chí là biến đổi gens, gây hại cho các loài sinh vật khác. Hiện tượng cá chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung năm 2016 do nhiễm chất thải từ công ty Formasa. Điều này đã phá hủy hoàn toàn ngành du lịch của khu vực này tới 90%,. Mà ô nhiễm nguồn nước không chỉ đơn giản như vậy. Khi nguồn nước bị ô nhiễm, nó sẽ kéo theo môi trường đất, không khí cũng bị ô nhiễm. Từ đấy, con người lại mắc thêm nhiều bệnh tật khác nữa. Để giải quyết được vấn đề ô nhiễm nguồn nước cần phải có chủ trương, kế hoạch lâu dài, chi tiết, cần thận chứ không thể muốn là có thể xử lý được. Ngoài ra, xử lý ô nhiễm nguồn nước còn cần sự chung tay của các cơ quan và mỗi người dân sống ở đó. Cụ thể như là:. Đối với người dân, cần nâng cao ý thức không xả rác bừa bãi sau đó tuyên truyền, cổ động viên mọi người chung tay dọn dẹp rác thải, khi thông mương máng. Yêu cầu xây khu công nghiệp phải cách thật xa khu dân. Các nhà máy sản xuất trong khu công nghiệp phải có các hệ thống xử lý nước thải, rác thải trước khi xả ra bên ngoài. Đối với nguồn nước chưa được bảo đảm nên sử dụng vật liệu lọc nước: sỏi, cát, than hoạt tính, cát mangan,. để làm bể lọc thô sau đó sử dụng máy lọc nước công nghệ nano hoặc RO để loại bỏ các chất bẩn, chất độc hại, vi khuẩn, vi rút, ion kim loại nặng,.
|
Ô nhiễm nước
|
Ô nhiễm nước là hiện tượng các vùng nước như sông, hồ, biển, nước ngầm. bị các hoạt động của môi trường tự nhiên và con người làm nhiễm các chất độc hại như chất có trong thuốc bảo vệ thực vật, chất thải công nghiệp chưa được xử lý,. tất cả có thể gây hại cho con người và cuộc sống các sinh vật trong tự nhiên. Nước trong tự nhiên tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: nước cống, nước ở các sông hồ, tồn tại ở thể hơi trong không khí. Nước bị ô nhiễm nghĩa là thành phần của nó tồn tại các chất khác, mà các chất này có thể gây hại cho con người và cuộc sống các sinh vật trong tự nhiên. Nước ô nhiễm thường là khó khắc phục mà phải phòng tránh từ đầu. Trong quá trình sinh hoạt hàng ngày, dưới tốc độ phát triển như hiện nay con người vô tình làm ô nhiễm nguồn nước bằng các hóa chất, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp. Các đơn vị cá nhân sử dụng nước ngầm dưới hình thức khoan giếng, sau khi ngưng không sử dụng không bịt kín các lỗ khoan lại làm cho nước bẩn chảy lẫn vào làm ô nhiễm nguồn nước ngầm.
|
Bóng đá được xem là bộ môn thể thao vua nên mức đầu tư của các nước trên Thế giới cho bộ môn này là rất lớn. Không chỉ là đầu tư lớn về mặt thể chất và tập luyện cho cầu thủ mà còn đầu tư khủng về cả vật chất tập luyện mà điển hình trong đó là sân vận động bóng đá. Hôm nay Cabanearthurraymond sẽ cùng đưa bạn cùng đi chiêm ngưỡng cận cảnh top 10 sân vận động bóng đá lớn nhất thế giới. Gelora Bung Karno là sân vận động đã được lựa chọn làm nơi đăng cai tổ chức Đại hội thể thao Châu Á năm 1962 và Đại hội thể thao Châu Á năm 2018. Tên của sân vận động này được Indonesia đặt theo tên của vị tổng thống đầu tiên là ông Sukarno. Trước khi có tên gọi này thì nó vẫn được người dân Indo gọi với cái tên là “sân vận động chính Gelora Senayan”. Tổng số chỗ ngồi: Sân vận động này có sức chứa lên đến 101.821 chỗ ngồi cho các fan hâm mộ bóng đá. Cũng giống như sân vận động Gelora Bung Karno ở Indonesia thì sân vận động Denny cũng được đặt theo tên của một vị cựu tổng thống bang Alabama – ông George Hutchenson Denny. Đây là sự tôn kính mà người dân của bang này dành cho ông. Năm 1929, sân vận động này được mở cửa đi vào hoạt động và đến ngày nay nó vẫn nằm trong top những sân vận động lớn nhất thế giới. Tổng số chỗ ngồi: 104.079 chỗ ngồi là sức chứa mà sân vận động này đạt được sau nhiều lần tu bổ. Sân vận động Neyland được xây dựng từ năm 1921 và có sức chứa lên đến 104.079 cổ động viên. Tuy vậy nhưng sau 16 lần bang này quyết định mở rộng và nâng cấp thì con số này đã vượt lên thành 104.079 cổ động viên. Tuy nhiên tại đây cũng được tổ chức thêm rất nhiều buổi hòa nhạc hoặc các buổi hội nghị lớn. Tổng số chỗ ngồi: 104.900 người là con số mà SVĐ Ohio có thể chứa sau khi đã nâng cấp. Sân vận động Ohio là sân nhà của đội bóng bầu dục bang Ohio – Ohio State Buckeyes, nó được khởi công từ năm 1922. Ngoài tổ chức bóng đá thì sân vận động này còn được lựa chọn là nơi sẽ tổ chức các buổi biểu diễn ca nhạc quy mô lớn của bang hay cả của nước Mỹ. Tổng số chỗ ngồi: Sân vận động này có thể chứa tới 105.000 chỗ ngồi cho người hâm mộ. Sân vận động này được xem là thánh địa của đội tuyển bóng đá quốc gia Mexico và là sân nhà của CLB Club America. Với sức chứa khủng của nó thì vẫn chưa có sân vận động nào vượt qua để thay thế vị trí top 6 của sân vận động này. Lúc đầu sân vận động Beaver này chỉ có thể chứa 46.284 chỗ ngồi (năm 1960) và sau đó được nâng cấp và mở rộng lên con số khùng như hiện nay. Công trình này là do kiến trúc sư Michael Baker Jr./ Populous thiết kế và xây dựng. “The Big House” (Ngôi nhà lớn) là tên gọi khác của SVĐ Michigan. Khởi công xây dựng từ năm 1925 với sức chứa chỉ 72.000 người nhưng sau vài quyết định tu sửa đã có thể phục vụ 109.901 cổ động viên và nằm trong top các sân vận động bóng đá lớn nhất thế giới. Tổng số chỗ ngồi: 110.000 chỗ ngồi là con số khủng mà sân vận động này đạt được. Vị trí: Sân vận động Bukit Jalil tọa lạc trong khu liên hợp thể thao quốc gia của Malaysia (nằm ở miền nam Kuala Lumpur). Bukit Jalil được xem là sân đấu lớn nhất Đông Nam Á, nơi đây đã từng diễn ra trận chung kết FA Cup Malaysia, chung kết Cúp quốc gia Malaisia, AFF Suzuki Cup 2014. Các đội bóng lớn ở Châu Âu tham gia thi đấu cũng sẽ được đón tiếp tại sân vận động này. Tổng số chỗ ngồi: Sân vận động của Ấn Độ này có thể chứa tới 120.000 chỗ ngồi. Vị trí: Sân vận động Bukit Jalil tọa lạc trong khu liên hợp thể thao quốc gia của Malaysia (nằm ở miền nam Kuala Lumpur). Sân vận động Salt Lake được xây dựng từ những năm 1984 với lối kiến trúc tinh tế 3 tầng giúp khán giả có thể theo dõi các trận đấu một cách dễ nhất. Tổng số chỗ ngồi: Con số khủng vượt xa các sân vận động khác và leo lên đứng đầu bảng xếp hạng của Rungrado là 150.000 chỗ ngồi. Sân vận động Rungrado May Day được xây dựng và đưa vào hoạt động trong những năm 1989. Nếu nhìn từ trên cao xuống thì sân vận động này không khác gì một bông hoa đang nở. Trong những năm 80 của thế kỷ trước Rungrado được xem là sân vận động đẹp nhất thế giới. Trong top 10 sân vận động bóng đá lớn nhất thế giới trên thì Mỹ chiếm đến 4/10 bảng xếp hạng, đây quả thật là con số khá ấn tượng dù nó không nằm quá cao trong bảng xếp hạng. Với những sân vận động trên bạn ấn tượng với sân vận động nào nhất? Hãy để lại lời bình để chúng mình được biết nhé.
|
Sân vận động Gelora Bung Karno
|
Sân vận động Gelora Bung Karno (tiếng Indonesia: Stadion Utama Gelora Bung Karno; tên gốc "Bung Karno Sports Arena Main Stadium"), trước đây là Sân vận động chính Gelora Senayan, là một sân vận động đa năng nằm ở trung tâm của Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno ở Trung tâm Jakarta, Indonesia. Sân vận động được đặt theo tên của Sukarno, Tổng thống thứ 1 của Indonesia. Đây là sân vận động lớn nhất Indonesia. Sân chủ yếu được sử dụng cho các trận đấu bóng đá. Khi lần đầu tiên được khai trương vào năm 1962, sân vận động có sức chứa 110.000 chỗ ngồi. Sức chứa sân đã được giảm xuống hai lần: đầu tiên là 88.083 chỗ ngồi trong năm 2006 cho Cúp bóng đá châu Á 2007 và lần thứ hai là 77.193 chỗ ngồi như là một phần của việc cải tạo cho Đại hội Thể thao châu Á 2018 và Đại hội Thể thao Người khuyết tật châu Á, nơi tổ chức các buổi lễ và thi đấu điền kinh. Việc xây dựng bắt đầu vào ngày 8 tháng 2 năm 1960 và kết thúc vào ngày 21 tháng 7 năm 1962, để kịp tổ chức Đại hội Thể thao châu Á vào tháng sau.
|
Tứ thiền là 4 phương pháp thiền định được nội giáo và ngoại giáo thực hành. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể hiểu và vận dụng đúng 4 phương pháp này. Để hiểu rõ hơn về tứ thiền, bạn hãy theo dõi bài viết dưới đây. Tứ thiền là 4 cấp độ nhập thiền được dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng thực hành, được chia ra thành Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Bốn mức thiền này có nhập và xuất, có nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, người thực hành phải đảm bảo thời gian dụng công. Bên cạnh đó, 4 mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động. Khi định sâu hơn nữa, bạn hoàn toàn có thể vượt qua được cả an lạc, tâm hành giả có thể đi thẳng vào định không cần qua tầm, tứ hỷ, lạc, mà chỉ còn chi thiền nhất tâm. Nhất tâm ở đây sẽ kiên cố hơn nhất tâm trong các bậc thiền trước, vì vật tâm sẽ hoàn toàn bất động, vô cảm với thế giới bên ngoài. Chính vì điều này mà trong tâm tứ thiền luôn xuất hiện yếu tố xả bên cạnh nhất tâm. “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. “Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần”. Định nghĩa tứ thiền có nghĩa là nói đến “sự từ bỏ lạc và khổ”, hiểu một cách đơn giản là từ bỏ lạc, khổ của thân. Thuật ngữ “không khổ không lạc” được có thể hiểu rằng, không khổ vì vắng mặt thân khổ, không lạc vì vắng mặt thân lạc, loại cảm thọ thứ ba này còn được gọi là xả. Trong mức độ của thiền an chỉ, thì tứ thiền chính là cơ sở vững chãi để đạt được thiền thứ nhất. Điều này giống như việc người có mười loại oán thù đã từ bỏ được, lên núi cao ở một mình, không ai hay biết mình ở đâu, do đó không còn lý do nào để sợ hãi nữa. Những người có thể xa lìa được dục tình sẽ cảm thấy bên trong thanh tịnh và tâm yên ổn. Khi đã đạt được thiền thứ nhất rồi thì người hành thiền có thể bước thêm một bước nữa hướng về thiền thứ hai. Đến với thiền thứ hai, cũng như thiền thứ nhất, khi con người đã thoát được những oán thù, mặc dù đang ở trên thâm sơn nhưng vẫn còn có chút lo lắng là những kẻ kia còn có thể tìm tới, do đó họ lại còn muốn đi sâu hơn vào núi để ẩn mình. Với thiền thứ ba, hành giả cần phải duy trì chánh niệm của tâm ý một cách kiên cố, sao cho cả hai ý niệm thiện, ác không làm lay chuyển được mình. Người tập thiền cố gắng đạt đến cảnh giới tâm an như núi Tu Di, các điều thiện cũng không phát xuất từ bên ngoài. Chính vì vậy mà cả thiện và ác đều không thể xâm nhập được. Trong thiền thứ tư thì cả hai ý niệm thiện và ác đều đã hoàn toàn được loại bỏ. Lúc này, tâm không đề cập đến thiện và cũng không nhắc đến ác. Nội tâm sáng trong, không một tỳ vết. Nhờ vậy, người hành thiền sẽ đạt cảnh giới nội tâm thuần nhất, thanh tịnh thuần khiết. Như vậy, trong bài viết trên, chúng tôi đã giúp bạn hiểu rõ tứ thiền là gì. Hy vọng rằng, sau khi đọc xong bài viết này, các bạn đã “bỏ túi” được nhiều thông tin quý báu để việc hành thiền được hiệu quả nhất.
|
Tứ Thiền
|
Tứ Thiền nghĩa là bốn cấp độ nhập định được chia ra Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Xét về công phu tu thiền chúng ta có Tứ thiền. Còn để thành tựu những tính chất của Định, khi tu tập hành giả phải buông tâm không trú vào đâu cả, và như thế, tâm dễ mở rộng thênh thang. Năm mức định là Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng định, Diệt tận định hay Diệt thọ tưởng định. Tu theo Thiền có phần dễ nhiếp tâm hơn tu theo Định. Bốn mức thiền này đều có nhập và xuất, nghĩa là khi muốn an trú mức thiền nào, ta phải có thời gian dụng công chứ không phải đó là những trạng thái thường xuyên. Rồi khi muốn trở lại trạng thái như cũ, ta cũng phải mất công thoát ra chứ không phải tức thì được. Bình thường khi không nhập thiền, một thiền giả an trú trong nội tâm tỉnh giác vắng lặng nhưng không phải là bốn mức thiền này. Bốn mức thiền này chỉ được thực hiện trong tư thế bất động mà thôi.
|
Máy làm đá viên là gì ? – Là thiết bị công nghiệp nhập khẩu chuyên dùng để làm đá viên với nhiều loại kích thước lớn nhỏ khác nhau . Máy làm đá viên chia làm 2 loại chính là máy làm đá viên mini và máy làm đá viên công nghiệp . Các loại đá viên này là đá viên tinh khiết chuyên sử dụng để uống nước , pha chế , bảo quản đồ đông lạnh ,…. nhu cầu sử dụng của mình . Máy làm đá viên của Thái Bình được nhập khẩu từ Italia – là dòng sản phẩm chất. lượng cao , bền bỉ với thời gian và hiệu xuất làm việc cực kỳ tốt . – Là dòng máy tiết kiệm điện năng hơn rất nhiều so với các dòng máy làm đá thông thường khác . về chất lượng sản phẩm đã được kiểm chứng và đã được nhiều người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn . chính là một địa chỉ mua hàng đáng tin cậy cho bạn . Máy làm đá Thái Bình là hàng nhập khẩu chính hãng mới. 100% không qua trung gian nên về chất lượng và giá thành đều rất chuẩn . Bạn đang cần tìm mua máy làm đá
|
Máy làm đá
|
Máy làm đá, hoặc máy chế tạo đá là một thiết bị làm đá lạnh với số lượng lớn hơn nhiều so với tủ lạnh; một thiết bị hoạt động độc lập sản xuất nước đá, hoặc một máy công nghiệp tự động sản xuất nước đá trên quy mô lớn. Thuật ngữ "máy làm đá" thường dùng để chỉ những thiết bị độc lập. Trên thực tế các máy tạo băng là một phần của máy sản xuất đá. Máy này bao gồm các thiết bị bay hơi và bất kỳ thiết bị điều khiển khung giữ có liên quan trực tiếp với việc làm và đẩy đá đã đông vào một kho lưu trữ. Hầu hết mọi người nói tới máy làm đá, họ nói đến hệ thống phụ tự làm đá này. Một máy nước đá, đặc biệt nếu mô tả là đóng gói , thường sẽ là một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm cả tủ lạnh và bộ phận điều khiển, chỉ yêu cầu nối điện và cung cấp nguồn nước là hoạt động. Thuật ngữ làm đá khá là mơ hồ, với một số nhà sản xuất mô tả máy đóng gói nước đá của họ như là một máy làm đá, trong khi những người khác mô tả tủ lạnh của họ theo cách này.
|
Tìm hiểu về kiến thức thiên văn học đem lại cho chúng ra nhiều khám phá thú vị và bổ ích. Hãy đồng hành cùng chúng tôi để giải đáp: Hệ mặt trời là gì để có thêm những thông tin hữu ích nhé. Hệ Mặt Trời nằm trong dải Ngân Hà, một thiên hà xoắn ốc, với đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng và chứa khoảng 200 tỷ ngôi sao. Hệ Mặt Trời (hay còn gọi là Thái Dương Hệ) là 1 hệ hành tinh có Mặt Trời ở trung tâm và các thiên thể nằm trong phạm vi lực hấp dẫn của Mặt Trời, tất cả chúng được hình thành từ sự suy sụp của 1 đám mây phân tử khổng lồ cách đây gần 4,6 tỷ năm. Mặt trời đóng vai trò cung cấp năng lượng và ánh sáng cho các hành tinh xung quanh nó. Mặt trời hoạt động không ngừng với những phản ứng nhiệt, phản ứng hạt nhân sinh ra một nguồn nhiệt cực lớn, từ đó sinh ra lực hấp dẫn và năng lượng để các hành tinh khác quay quanh nó. Các hành tinh có quỹ đạo gần tròn và mặt phẳng quỹ đạo gần trùng khít với nhau gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Vùng bên ngoài hệ mặt trời là gì? Sao Hải Vương là hành tinh xa nhất hệ mặt trời, vùng bên ngoài sao Hải Vương chứa các vật thể nhỏ mà thành phần chính là băng và đá (vật thể lớn nhất chỉ có đường kính chỉ bằng 1/5 so với đường kính của Trái Đất và khối lượng nhỏ hơn nhiều so với Mặt Trăng). CÁc vùng ngoài là những vùng còn chưa được thám hiểm nhiều, còn rất nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá. Hệ mặt trời tiếng anh là gì? Tên tiếng anh của Hệ mặt trời là Solar system. Cùng tìm hiểu cụ thể hơn về các hành tinh trong hệ mặt trời. Là hành tinh nhỏ nhất và gần nhất với Mặt trời. Khối lượng bằng 0,055 lần khối lượng Trái Đất. Sao Thủy hầu như không có khí quyển do các nguyên tử trong bầu khí quyển của nó đã bị gió Mặt Trời thổi bay ra ngoài không gian đồng thời sao Thủy không có vệ tinh tự nhiên. Sao Kim có khối lượng gần với khối lượng Trái Đất, (với khối lượng bằng 0,815 lần khối lượng Trái Đất). Đứng vị trí thứ 2 trong hệ Mặt trời, nhưng được gọi là hành tinh nóng nhất với nhiệt độ của bầu khí quyển trên 400 °C, nguyên nhân chủ yếu là do hiệu ứng nhà kính của bầu khí quyển. Sao Kim khô hơn Trái Đất rất nhiều và mật độ bầu khí quyển của nó gấp 90 lần mật độ bầu khí quyển của Trái Đất. Sao Kim cũng không có vệ tinh tự nhiên. Là hành tinh thứ 3 trong Hệ Mặt Trời, hành tinh đẹp nhất và là hành tinh duy nhất cho đến nay được cho là có tồn tại sự sống. Trái Đất có 1 vệ tinh tự nhiên là Mặt Trăng, nó là vệ tinh tự nhiên lớn nhất trong số các vệ tinh của các hành tinh đá trong hệ Mặt Trời. Sao Hỏa là hành tinh có cấu tạo gần giống Trái Đất nhất. Sao Hỏa còn được gọi với cái tên khác là “hành tinh đỏ” (Red planet) bởi bề mặt được bao phủ bằng một màu đỏ của sắt oxit. Là hành hình có khối lượng lớn nhất, với khối lượng bằng 318 lần khối lượng Trái Đất và bằng 2,5 lần tổng khối lượng của 7 hành tinh còn lại. Sao Thổ có khối lượng bằng 1/3 Sao Mộc và gấp 95 lần khối lượng Trái Đất. Vành đai Sao Thổ chứa bụi cũng như các hạt băng và đá nhỏ. Sao Thổ có 62 vệ tinh tự nhiên được xác nhận, và là vệ tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có tồn tại 1 bầu khí quyển đáng kể. Demo – Trang tin tức về khoa học kỹ thuật & công nghệ. Cập nhật và tổng hợp tin mới trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, những ứng dụng trong cuộc sống, khám phá những bí ẩn vũ trụ, giải thích các hiện tượng siêu nhiên.
|
Mặt Trời
|
Mặt Trời (tiếng Anh: Sun; còn gọi là Thái Dương hoặc Nhật), là ngôi sao ở trung tâm Hệ Mặt Trời, chiếm khoảng 99,8% khối lượng của Hệ Mặt Trời. Trái Đất và các thiên thể khác như các hành tinh, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi, và bụi quay quanh Mặt Trời. Khoảng cách trung bình giữa Mặt Trời và Trái Đất xấp xỉ 149,6 triệu kilômét (1 Đơn vị thiên văn AU) nên ánh sáng Mặt Trời cần 8 phút 20 giây mới đến được Trái Đất. Trong một năm, khoảng cách này thay đổi từ 147,1 triệu kilômét (0,9833 AU) ở điểm cận nhật (khoảng ngày 3 tháng 1), tới xa nhất là 152,1 triệu kilômét (1,017 AU) ở điểm viễn nhật (khoảng ngày 4 tháng 7). Năng lượng Mặt Trời ở dạng ánh sáng hỗ trợ cho hầu hết sự sống trên Trái Đất thông qua quá trình quang hợp, và điều khiển khí hậu cũng như thời tiết trên Trái Đất. Thành phần của Mặt Trời gồm hydro (khoảng 74% khối lượng, hay 92% thể tích), heli (khoảng 24% khối lượng, 7% thể tích), và một lượng nhỏ các nguyên tố khác, gồm sắt, nickel, oxy, silic, lưu huỳnh, magiê, carbon, neon, calci, và crom.
|
Ngày nay, việc mua được nguyên vật liệu với giá cả chấp nhận được từ nhà cung ứng ngày càng trở nên khó khăn. Việc DN có thể giảm chi phí liên quan đến việc mua hàng và tăng lợi nhuận mà không phải tăng sản lượng bán hoặc giảm chất lượng của sản phẩm, thì quản trị mối quan hệ nhà cung ứng (SRM) là một cách tiếp cận toàn diện để quản lý các tương tác của DN với các tổ chức cung cấp hàng hóa và dịch vụ mà DN sử dụng. SRM được hiểu là “tập hợp các phương pháp và ứng dụng cần thiết đối với việc tương tác với nhà cung ứng sản phẩm dịch vụ nhằm mang lại lợi nhuận cho DN”. Theo đó, SRM cũng được mở rộng thêm là cách thức xây dựng mối quan hệ gần gũi hơn với nhà cung ứng chiến lược đã được lựa chọn nhằm tìm ra những đặc điểm có thể tăng cường mối quan hệ trong khi vẫn đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trên cơ sở đôi bên cùng có lợi và cùng nhau tăng cường khả năng tạo ra nguồn lợi nhuận mới. SRM cũng được hiểu như là một cách tiếp cận mang tính chiến lược, bao quát, dài hạn, đa chức năng, nhằm chọn lựa nhà cung ứng hàng hóa, dịch vụ và quản lý chúng. Việc sử dụng tất cả mạng lưới giá trị từ khâu nguyên vật liệu đến khách hàng cuối cùng để giảm bớt chi phí chủ sở hữu, xử lý rủi ro và cải thiện tình hình kinh doanh (chất lượng, phản ứng tích cực, sự tin cậy và độ linh hoạt). Mục tiêu của SRM là để sắp xếp và thực hiện hiệu quả hơn các quá trình giữa DN và các nhà cung cấp của nó cũng giống như quản lý quan hệ khách hàng (CRM) được thiết kế để sắp xếp và thực hiện hiệu quả hơn các quá trình giữa DN và khách hàng. SRM có 3 phương diện chính: hợp tác, liên kết và tín nhiệm. Hợp tác không chỉ có nghĩa là khách hàng và nhà cung ứng cùng nhau lên lịch trình hoạt động của mình mà phải cùng nhau hoạch định vì lợi ích lâu dài và đôi bên cùng có lợi. Với SRM, các DN đã liên kết những thông tin vô cùng quý giá. Trong khi việc chia sẻ thông tin với nhà cung ứng không còn là điều mới lạ, SRM đã đưa việc này lên một tầm cao mới vượt qua cả quản lý chuỗi cung ứng (SCM) về phương diện chiều sâu mối quan hệ và mức độ tự động áp dụng vào quy trình. Điều này cho phép các bên triển khai và áp dụng những khả năng tốt nhất vào mức độ tương tác giữa họ cũng như tuân thủ theo nhiều bộ phận và địa điểm. Việc tín nhiệm trong SRM nhằm tăng cường mối quan hệ cộng tác giữa nhà cung ứng và nhà phân phối, đôi bên cùng nhau chia sẻ tin, kỹ năng để cùng có lợi. SRM bao gồm cả các hoạt động kinh doanh và phần mềm và là một phần của các thành phần dòng chảy thông tin của quản lý chuỗi cung ứng. SRM đưa ra những căn cứ chung để đảm bảo hợp tác hiệu quả giữa DN và nhà cung ứng, những người có thể sử dụng các nguyên tắc kinh doanh khác nhau. Kết quả là, SRM làm tăng hiệu quả của các quá trình liên quan đến mua hàng hóa và dịch vụ, quản lý hàng tồn kho, và chế biến nguyên liệu. SRM giúp DN quản lý tốt hơn dây chuyền cung cấp và các quy trình tự động, kết nối với toàn bộ hệ thống cung cấp và cho phép DN nắm rõ chi phí ở phạm vi toàn cầu. Do đó, DN có thể cắt giảm chi phí trong việc mua hàng hóa và dịch vụ. Các nghiên cứu cho thấy các DN duy trì được mối quan hệ tốt với hệ thống cung cấp của DN sẽ hoạt động hiệu quả hơn các DN không thực hiện được việc này. Thay vì gây sức ép với từng nhà cung cấp để giảm chi phí, DN cần hợp tác với các nhà cung cấp và xây dựng các mối quan hệ tin cậy, cùng có lợi trong toàn bộ hệ thống cung cấp. Đối với các tổ chức cần sản phẩm hay dịch vụ, thì một nhà cung ứng tốt thật sự là một tài nguyên vô giá, bởi chính nhà cung ứng sẽ góp phần trực tiếp vào thành công của DN. Nhà cung ứng tốt không chỉ giao hàng đúng chất lượng, đủ số lượng, kịp thời gian, với giá cả hợp lý,… mà còn hỗ trợ khách hàng phát triển sản phẩm, phân tích giá trị, sẵn sàng hợp tác trong các chương trình giảm chi phí,. giúp người mua đạt được hiệu quả cao hơn. Lựa chọn nhà cung ứng tốt và quản lý được nhà cung ứng, là điều kiện tiên quyết giúp tổ chức có được sản phẩm, dịch vụ chất lượng như mong muốn với giá cả hợp lý, đủ sức cạnh tranh trên thương trường, bên cạnh đó còn luôn nhận được sự hỗ trợ của nhà cung cấp, để tiếp tục đạt được thành tích cao hơn. Vậy quan hệ hợp tác có thể được xem như là thành phần cần thiết trong quá trình trao đổi giữa các thành viên trong kênh phân phối, có tầm quan trọng cho phép những thành viên trong hệ thống phân phối đạt được những mục tiêu đặt ra và đáp ứng tốt nhất những mong đợi của người tiêu dùng cuối cùng. Thực tế, sự thiết lập một quan điểm về quan hệ hợp tác là một quyết định có tính chiến lược theo những mục tiêu chung. Theo Joffre et Koenig (1992), sự phối hợp trong quá trình phân phối là điều kiện tiên quyết phát triển giữa các DN về các nguồn lực cũng như những nỗ lực trong quan hệ. Những chủ thể trong quá trình quan hệ phối hợp nhau nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả của quá trình phân phối. Quan điểm hợp tác trong quan hệ trao đổi là một trong những phương tiện hiệu quả nhằm phát triển và kiểm soát hoặc giảm thiểu sự cạnh tranh giữa các chủ thể. Hơn thế, quan hệ hợp tác cung ứng cho các thành viên trong hệ thống phân phối các nỗ lực nhằm đạt được các mục tiêu bền vững, cải thiện về hiệu quả trong quan hệ và nâng cao khả năng cung cấp và phục vụ khách hàng. Những chủ thể sản xuất và phân phối hàng tiêu dùng thiết lập quan hệ hợp tác nhằm đảm bảo tính lâu dài, tính bền vững trong quan hệ và thúc đẩy sự phát triển lẫn nhau trong quá trình hợp tác. Đây là hoạt động đầu vào của bất kỳ DN bán lẻ nào và có ảnh hưởng lớn đến cấu trúc chi phí của DN cũng như phản ảnh khả năng đáp ứng sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Hầu hết các DN phân phối bán lẻ VN đều đã và đang xây dựng được mối liên hệ với các nhà cung cấp trong và ngoài nước với quan hệ ổn định và lâu dài. Một số DN phân phối bán lẻ như Saigon Co.opmart, Vissan, Vinatex mart, Big C… cũng thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với một số nhà cung cấp để tạo ra sản phẩm riêng của mình. Thông thường đó là các sản phẩm thực phẩm khô, đông lạnh và chế biến sẵn, tươi sống, sản phẩm may mặc hoặc có khả năng tham gia vào một số hoạt động hỗ trợ sản phẩm như đóng gói, dán nhãn, chế biến. Có thể kể đến như Big C có chương trình "Phát triển hợp tác với các DN vừa và nhỏ” để tăng cường tìm kiếm các nhà cung ứng (sản xuất) địa phương có khả năng cung cấp hàng hóa vào hệ thống siêu thị của Big C tại địa phương hoặc mở rộng khắp chuỗi siêu thị Big C trên cả nước. Tuy nhiên, đối với những sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, quan hệ mua hàng cũng chỉ là mối quan hệ đại lý phân phối nên nguồn cung cấp không mang tính ổn định và dễ dàng gặp rủi ro trong các vấn đề liên quan đến việc kiểm soát thời gian giao hàng, tỷ lệ hao hụt, chất lượng sản phẩm. Điều đó cho thấy hầu hết các DN phân phối bán lẻ lớn của VN đều đã có hệ thống các nhà cung cấp chiến lược. Tuy nhiên, phần lớn là những nhà sản xuất lớn trong nước hoặc chỉ là những công ty hay đại lý phân phối sản phẩm nước ngoài tại VN. Việc đảm bảo hàng hóa cho các DN phân phối bán lẻ là một vấn đề hết sức quan trọng và mang tính sống còn. Số lượng mặt hàng trong một trung tâm phân phối là hàng ngàn mặt hàng nhưng chỉ có vài đối tác chiến lược nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kinh doanh và vị thế cạnh tranh của DN bán lẻ. Hơn nữa, phải làm việc với hàng trăm thậm chí hàng ngàn nhà cung cấp khác nhau, DN phân phối bán lẻ mất nhiều thời gian, chi phí và nhiều vấn đề khác phát sinh. Trên thực tế, nhiều DN phân phối bán lẻ không thể kiểm soát hết chất lượng, nguồn gốc hàng hóa của các nhà cung cấp nên hàng hóa kém phẩm chất dễ dàng xâm nhập vào. Vì vậy DN phân phối dựa trên sự tin tưởng và tần suất quan hệ giao dịch để kiểm tra hoặc không đối với hàng hóa nhập. Tồn kho cũng là một yếu tố gắn chặt với kế hoạch xây dựng nguồn cung của các DN phân phối bán lẻ. Tuy nhiên, việc xây dựng lượng hàng tồn kho tối ưu làm sao để tối thiểu hóa chi phí trong khi việc đáp ứng được nhu cầu của khách hàng vẫn chưa được các DN phân phối bán lẻ VN thực hiện khoa học. Hầu hết, việc đặt hàng tồn kho được các DN dựa vào số liệu trong quá khứ và dự báo thủ công, mô hình tối ưu hóa lượng hàng tồn kho trong hoạt động bán lẻ dựa vào hệ thống thông tin cao cấp chưa được ứng dụng. Trong bối cảnh như vậy, để có thể quan hệ với nhà cung ứng trong chuỗi cung ứng và đặc biệt là hợp tác và phối hợp với nhà cung ứng thì các DN phân phối bán lẻ cần phải có những chiến lược quản trị phù hợp. Thời gian vừa qua, trong quá trình phát triển và duy trì quan hệ với nhà cung ứng của các DN phân phối bán lẻ còn chưa thực sự được quan tâm, nghiên cứu một cách rõ ràng và nghiêm túc. Do đó, việc các DN phân phối bán lẻ quan tâm đến quản trị quan hệ với các nhà cung ứng của mình là nhu cầu rất cần thiết và rất quan trọng bởi ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Trước những khó khăn, thách thức chưa từng có của đại dịch, ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - tin tưởng, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có thể đóng góp và là 1 trợ lực ý nghĩa cho doanh nghiệp nỗ lực vượt qua dịch bệnh để tiếp tục kinh doanh trong thời gian tới, nếu khai thác hiệu quả các khía cạnh thích hợp. Bộ Giao thông Vận tải vừa công bố mở cảng cạn Tân Cảng Quế Võ nằm tại địa phận các xã Đức Long và Châu Phong (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) do Công ty Cổ phần Tân Cảng Quế Võ chủ đầu tư. Một điều khá thú vị là thuật ngữ “logistics” được biết đến từ những năm 1950 nhưng thực tế khái niệm này đã có từ rất lâu, chẳng qua là thay tên gọi mà thôi. Nó bắt nguồn từ nhu cầu quân sự, từ các cuộc chiến tranh cổ đại của đế chế Hy Lạp và La Mã hay từ thời Tam Quốc. Logistics bắt nguồn từ Quân đội và giờ đây Quân đội đang tham gia làm logistics của chính mình để chiến đấu giành lại một Sài Gòn khỏe mạnh, nhộn nhịp, tất bật như vốn dĩ. Nhận được lời mời từ một người bạn, chúng tôi khăn gói về miền Tây Nam Bộ. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được ví là vùng đất trẻ, hiền hòa, quanh năm xum xuê cây trái. Nhìn từ bản đồ thấy chằng chịt, chia cắt bởi bao sông rạch trong vùng châu thổ sông Me kông, nơi có lượng phù sa lớn tạo nên hệ sinh thái xanh ngút ngát với 9 cửa sông đổ ra biển. Sau mấy giờ ngồi xe, chúng tôi đến quê anh - Hậu Giang, mảnh đất vời vợi xanh màu mây nước. Hơn một năm qua, diễn biến của dịch COVID-19 đã tác động đến hoạt động thường nhật, thói quen sinh hoạt của hàng triệu gia đình. Ở một góc nhìn nào đó, trong những ngày biến động, người ta có dịp nuôi dưỡng những điều ấm áp khi gia đình quây quần bên nhau gần như 24/24 giờ. Những ngày qua, sau khi một số địa phương áp dụng các biện pháp tăng cường, nâng cao phòng, chống dịch, nhưng khi triển khai không đồng bộ, thống nhất, có những quy định cá biệt, chưa đúng tinh thần chỉ đạo chung nên vận tải hàng hóa, nhất là nông sản bị ách tắc. Doanh nghiệp ở Khánh Hòa đề xuất đầu tư khu đô thị du lịch 4.000 tỷ đồng tại Hà Tĩnh
|
Quản lý mối quan hệ nhà cung cấp
|
Quản lý mối quan hệ nhà cung cấp (VRM) là một loại hoạt động kinh doanh được thực hiện bởi các công cụ phần mềm nhằm cung cấp cho khách hàng sự độc lập với các nhà cung cấp và phương tiện tốt hơn để gắn kết với các nhà cung cấp. Những công cụ tương tự cũng có thể áp dụng cho quan hệ của cá nhân với các tổ chức và tổ chức khác. Thuật ngữ này xuất hiện trên tạp chí ComputerWorld vào tháng 5 năm 2000, mặc dù trong bối cảnh một doanh nghiệp quản lý các nhà cung cấp CNTT của mình. Thuật ngữ này được Mike Vizard sử dụng lần đầu tiên trong bối cảnh ở đây trên podcast của Gillmor Gang vào ngày 1 tháng 9 năm 2006, trong một cuộc trò chuyện với Doc Searls về dự án Searls gần đây đã bắt đầu như một đồng nghiệp tại Trung tâm Internet & Xã hội Berkman tại Đại học Harvard. Vizard đã xem VRM như một đối tác tự nhiên của quản lý quan hệ khách hàng. Dự án của Searls sau đó được đặt tên là ProjectVRM, và từ đó đã làm việc để hướng dẫn phát triển các công cụ và dịch vụ VRM.
|
Người ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong hiểu biết về sinh lý bệnh màng trong và vai trò đặc biệt của surfactant trong các nguyên nhân của bệnh. Tuy nhiên, bệnh màng trong vẫn còn là vấn đề lâm sàng nổi bật của các trẻ đẻ non. Tiến triển của bệnh màng trong cải thiện phần lớn nhờ vào các loại thuốc giúp trưởng thành phổi nhanh và sự phát triển của liệu pháp thay thế surfactant. Ngày càng có nhiều trẻ đẻ non và bệnh nặng được cứu sống, tỷ lệ các biến chứng trong các trẻ đẻ non bị bệnh màng trong được cứu sống vẫn còn cao. Các biến chứng bao gồm xuất huyết nội sọ, còn ống động mạch, xuất huyết phổi, nhiễm trùng huyết và loạn sản phổi. Thường khó có thể xác định các rối loạn này là di chứng của bệnh màng trong, hoặc do điều trị hoặc do tình trạng non tháng. Trong bài này chúng ta bàn luận về các đặc điểm lâm sàng và đánh giá các trẻ bị bệnh màng trong và các tiếp cận điều trị. Bệnh màng trong là một trong những nguyên nhân bệnh tật phổ biến nhất của các trẻ sơ sinh non tháng. Chẩn đoán có thể được xác định về mặt bệnh học hoặc bằng các kết quả sinh hóa của tình trạng thiếu surfactant; tuy nhiên hầu hết các trường hợp chỉ nhờ vào sự kết hợp các đặc điểm lâm sàng và kết quả x quang. Khó chẩn đoán lâm sàng bệnh màng trong ở những trẻ có trọng lượng lúc sinh cực thấp nếu không có bằng chứng sinh hóa của tình trạng thiếu surfactant. Biểu hiện lâm sàng cổ điển của bệnh màng trong bao gồm thở rên, rút lõm, phập phồng cánh mũi, tím và tăng nhu cầu oxy cùng với các hình ảnh x quang chẩn đoán và khởi phát của các triệu chứng ngay sau sinh. Hình ảnh điển hình ở nhiều trẻ có trọng lượng lúc sinh thấp cải thiện nhờ chỉ định sớm surfactant ngoại sinh và thông khí hỗ trợ kịp thời. Bệnh màng trong xảy ra khắp thế giới và ưu thế ở trẻ nam. Những yếu tố nguy cơ lớn nhất là tuổi thai nhỏ và cân nặng lúc sinh thấp. Những yếu tố nguy cơ khác bao gồm mẹ đái tháo đường và ngạt chu sinh. Fanaroff và cộng sự đã báo cáo 42% trẻ cân nặng từ 501 và 1500 g bị bệnh màng trong, trong đó 71% từ 501 và 750 g, 54% từ 751 và 1000 g, 36% từ 1001 và 1250 g và 22% từ 1251 và 1500 g. Việc áp dụng các kỹ thuật sinh học phân tử, sự đóng góp của biến dị gen (đa hình thái (polymorphism), đột biến với sinh bệnh học của các rối loạn hô hấp ở sơ sinh ngày càng xuất hiện nhanh chóng. Trong những năm gần đây, đặc điểm của surfactant và các protein đặc hiệu của nó đã được phát hiện ở một số các trẻ gần đủ tháng bị các rối loạn di truyền gây ra thiếu surfactant và suy hô hấp nặng. Một ví dụ là thiếu surfactant protein B, một rối loạn di truyền lặn nhiễm sắc thể thường, dường như không đáp ứng với điều trị surfactant ngoại sinh. Thiếu surfactant protein C có nhiều biểu hiện, là di truyền trội nhiễm sắc thể thường và thường kết hợp với bệnh phổi mô kẻ. Đột biến gene ABCA3 dường như phổ biến hơn và đã được mô tả ở những trẻ bị thiếu surfactant nặng. Đầu những năm 1970, Liggins trong khi nghiên cứu hiệu quả của steroid trên sự đẻ non của cừu, đã ghi nhận giảm bệnh màng trong và tăng tỷ lệ sống của các con cừu sinh non trước đó có phơi nhiễm với steroid. Những hiệu quả của những catecholamine khác nhau cũng như aminophylline và hormone tuyến giáp cũng đã được nghiên cứu; tuy nhiên; phương pháp thành công nhất tăng trưởng thành phổi thai là chỉ định corticosteroid trước sinh. Nếu khả năng sinh non có thể xảy ra, cần phải thúc giục sự trưởng thành của phổi. Sự trưởng thành phổi tăng nhanh xảy ra với nồng độ corticosteroid ở mức stress sinh lý, qua trung gian của receptor của các protein điều hòa phát triển đặc hiệu. Steroid, khi được chỉ định cho bà mẹ ít nhất 24 đến 48 giờ trước sinh, giảm tỷ lệ mắc phải và sự trầm trọng của bệnh màng trong. Corticosteroid dường như có hiệu quả nhất trước 34 tuần tuổi thai và được chỉ định ít nhất 24 giờ và không kéo dài quá 7 ngày trước sinh. Tuy nhiên điều trị corticosteroid ít hơn 24 giờ cũng làm giảm đáng kể tử vong sơ sinh, bệnh màng trong và xuất huyết não thất, luôn luôn xem xét đến điều trị steroid trước sinh trừ trường hợp dự kiến việc sinh ngay lập tức. Người ta ít rõ về các ảnh hưởng của những liều liên tục của corticosteroid trước sinh đến hậu quả trước mắt và lâu dài đến trẻ đẻ non. Các nghiên cứu tiền cứu đã báo cáo sự phát triển thai giảm và phát triển thần kinh kém hơn. Do đó cần phải thận trọng khi sử dụng rộng rãi điều trị nhiều liều corticosteroid. Người ta đã chứng minh được vai trò sinh lý của các hormone tuyến giáp trong sự phát triển phổi và sự sản xuất surfactant trong việc nuôi cấy tế bào phổi của người và các động vật có vú khác. Chỉ định trước sinh hormone phóng thích thyrotropin (TRH) dường như có tác dụng hiệp lực với glucocorticoid trong việc gia tăng sự trưởng thành phổi (các hormone tuyến giáp và hormone kích thích tuyến giáp (TSH) không qua được nhau thai). Trong các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện tại Hoa Kỳ và New Zealand, sử dụng kết hợp steroid và TRH trước sinh ban đầu có liên quan đến giảm đáng kể tỷ lệ mắc phải bệnh màng trong và loạn sản phổi. Tuy nhiên, hai nghiên cứu đa trung tâm từ Hoa Kỳ và Australia đã không chứng minh được hiệu quả hiệp lực đáng kể của điều trị phối hợp so với corticosteroid đơn thuần. Hơn nữa, các dữ liệu theo dõi lâu dài của các thử nghiệm này chứng tỏ kết quả đáng lo ngại về hậu quả phát triển thần kinh của nhóm bệnh nhân được điều trị TRH. Do đó không khuyến cáo sử dụng thường quy TRH để thúc đầy sự trưởng thành phổi. Corticosteroid trước sinh dường như giảm tỷ lệ mắc phải xuất huyết não thất ở trẻ đẻ non. Tác dụng có lợi này không có liên quan trực tiếp đến bệnh phổi được cải thiện và có thể thứ phát do sự ổn định dòng máu não hoặc do steroid ảnh hưởng sự trưởng thành của mạch máu tích hợp trong vùng tế bào mầm (germinal matrix) hoặc cả hai. Người ta chưa tìm thấy khả năng tăng nhiễm trùng ở mẹ và con. Thật vậy, ngay cả khi sử dụng corticosteroid cho phụ nữ bị vỡ ối kéo dài, không có bằng chứng tăng nguy cơ nhiễm trùng, và tác dụng bảo vệ thần kinh của corticosteroid vẫn còn hiển nhiên. Sử dụng steroid ở mẹ có thể tăng toàn bộ bạch cầu và các neutrophil chưa trưởng thành ở trẻ em, cần xem xét vấn đề này nếu nghi ngờ nhiễm trùng sơ sinh. Đã có những lợi ích được chứng minh từ sự kết hợp sử dụng corticosteroid trước sinh và điều trị surfactant sau sinh ở những trẻ đẻ non. Các tác dụng phối hợp cải thiện chức năng phổi. Steroid trước sinh tăng trưởng thành phổi. Những thay đổi cấu trúc này cải thiện các đặc tính sinh lý của phổi như là tăng thể tích phổi, tăng sự đàn hồi của phổi và tăng đáp ứng với điều trị surfactant ngoại sinh. Phổi của những trẻ tử vong vì bệnh màng trong có màu đỏ đồng nhất đặc trưng, về mặt đại thể giống mô gan. Xét nghiệm vi thể, đặc điểm nổi bật là xẹp phổi lan tỏa, chỉ có ít phế nang giãn rộng dễ dàng phân biệt. Một màng gồm những tế bào ưa eosin lót các khoảng trống nhìn thấy được thường là những tiểu phế quản tận và các ống phế nang. Màng đặc trưng này (do đó có tên gọi “bệnh màng trong”) bao gồm lớp đệm fibrin có nguồn gốc từ máu và chứa các mảnh vỡ tế bào bong ra từ biểu mô bị tổn thương. Giai đoạn hồi phục được đặc trưng bằng sự tái sinh các tế bào phế nang, kể cả các tế bào type II, do tăng hoạt tính của surfactant. Sự tiến triển của bệnh màng trong do sự tổng hợp surfactant bị tổn thương hoặc bị chậm lại và các chất bài tiết do một loạt các phản ứng làm bệnh càng trầm trọng trong nhiều ngày. Tổng hợp surfactant là một quá trình phức tạp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như là pH, nhiệt độ và sự tưới máu và có thể bị tổn thương do stress vì lạnh, giảm thể tích máu, giảm oxy máu và toan máu. Các yếu tố bất lợi khác như thở oxy có nồng độ cao và do hậu quả của chấn thương áp lực và chấn thương thể tích vì thông khí hỗ trợ, có thể gây ra sự tiết của các cytokine và chemokine và làm tổn thương tiếp màng lót biểu mô phế nang, làm giảm chức năng và sự tổng hợp surfactant. Sự tiết của các protein như là fibrin vào trong khoảng phế nang làm trầm trọng thêm sự suy giảm surfactant do thúc đẩy sự bất hoạt surfactant. Suy giảm surfactant và các tình trạng kèm theo làm giảm độ đàn hồi của phổi dẫn đến giảm thông khí phế nang và mất cân bằng giữa thông khí và tưới máu. Giảm oxy máu nặng và giảm tưới máu toàn thân do giảm cung cấp oxy dẫn đến nhiễm toan lactic do chuyển hóa kỵ khí. Giảm oxy máu và tình trạng nhiễm toan cũng do giảm tưới máu phổi hậu quả của co mạch máu phổi và hậu quả của sự tiến triển trầm trọng thêm của shunt phải-trái qua ống động mạch và lỗ bầu dục và shunt chính tại phổi. Các vai trò tương đối của thiếu hụt surfactant và giảm tưới máu phổi trong bức tranh lâm sàng toàn cảnh thay đổi từng bệnh nhân. Hiện nay tiến triển của bệnh màng trong thay đổi nhờ sự kết hợp của liệu pháp surfactant ngoại sinh và thông khí hỗ trợ. Các bệnh nhân bị bệnh màng trong biểu hiện đặc trưng ngay sau khi sinh hoặc trong vòng vài giờ sau khi sinh gồm thở nhanh, phập phồng cánh mũi, rút lõm dưới sườn và gian sườn, tím và rên thì thở ra. Tần số thở thường là đều và tăng trong giới hạn bình thường từ 30 đến 60 lần mỗi phút. Các triệu chứng thường tiến triển và bệnh nhân cần oxy bổ sung. Sự xuất hiện các cơn ngưng thở trong giai đoạn sớm này là dấu hiệu nặng có thể do không ổn định về thân nhiệt hoặc nhiễm trùng huyết nhưng thường là dấu hiệu của giảm oxy máu và suy hô hấp. Rút lõm nổi bật do lồng ngực đàn hồi xẹp xuống khi hít vào vì trẻ tạo áp lực trong lồng ngực cao để làm giãn nở phổi kém đàn hồi. Tiếng rên thở ra điển hình là dấu hiếu sớm và biến mất sau đó. Người ta tin rằng do đóng một phần thanh môn trong kỳ thở ra và đây là cách để giữ lại không khí trong phế nang để duy trì dung tích cặn chức năng (FRC). Mặc dù những triệu chứng này là đặc trưng của bệnh màng trong sơ sinh, nhưng cũng có thể do nhiều nguyên nhân không phải từ phổi như là hạ thân nhiệt, hạ đường máu, thiếu máu hoặc đa hồng cầu, hơn nữa những nguyên nhân không phải từ phổi có thể làm phức tạp thêm diễn biến lâm sàng của bệnh màng trong. Các triệu chứng lâm sàng khác bao gồm xanh do thiếu máu hoặc co mạch ngoại vi. Thường không ổn định về tim mạch và cần phải theo dõi sát huyết áp ở bệnh nhân bị bệnh màng trong. Điều trị toan chuyển hóa và toan hô hấp bằng bicarbonate và thông khí hỗ trợ có thể gây tụt huyết áp cần phải điều trị bù dịch hoặc hỗ trợ thuốc vận mạch hoặc cả hai. Tím có thể bị che bởi triệu chứng xanh là hậu quả của shunt phải-trái trong bệnh màng trong và cải thiện điển hình nhờ oxy nồng độ cao và thông khí hỗ trợ. Tím đầu chi ở bàn tay và bàn chân thường thấy ở trẻ sơ sinh bình thường và không nên nhầm lẫn với tím trung tâm luôn luôn cần chẩn đoán và điều trị. Phù ngoại vi thường thấy trong bệnh màng trong không có ý nghĩa đặc hiệu trừ trường hợp kết hợp với phù thai. Khi nghe ngực, âm thở thường lan rộng và không thể dựa vào để phản ánh các tình trạng bệnh lý. Âm thở giảm một bên (trung thất di chuyển về phía đối diện) hoặc âm thở giảm hai bên có thể chứng tỏ tràn khí màng phổi và cần phải soi đèn (transillumination) ngay lập tức. Cũng cần chụp x quang ngực để xác định vị trí ống nội khí quản nếu không khí đi vào giảm bên trái. Tiếng thổi của còn ống động mạch thường nghe được trong giai đoạn hồi phục của bệnh màng trong, khi sự đề kháng mao mạch phổi giảm dưới mức hệ thống và có shunt trái-phải. Tiếng tim mờ, xa xăm thường báo hiệu tràn khí màng ngoài tim hiếm khi cần can thiệp cấp cứu. Gõ phổi không có giá trị chẩn đoán ở trẻ đẻ non. Một đặc tính hằng định của bệnh màng trong là khởi phát các dấu hiệu lâm sàng của bệnh sớm. Hầu hết các bệnh nhân biểu hiện các dấu hiệu và triệu chứng hoặc ở trong phòng sinh hoặc trong vòng 6 giờ đầu sau sinh. Quan sát không đầy đủ dễ dẫn đến cảm tưởng có giai đoạn không có triệu chứng trong nhiều giờ. Diễn biến lâm sàng không có biến chứng đặc trưng bởi sự tiến triển ngày càng xấu đi của các triệu chứng và nặng nhất vào ngày thừ 2 đến ngày thứ 3 và hồi phục sau 72 giờ. Điều trị bằng surfactant làm ngắn lại thời gian này. Khi quá trình của bệnh nặng cần thông khí hỗ trợ hoặc bị biến chứng dò khí (air leaks), shunt đáng kể qua còn ống động mạch hoặc các dấu hiệu sớm của bệnh loạn sản phổi, sự hồi phục có thể kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Hầu hết các bệnh nhân bị ảnh hưởng, giai đoạn chuyển tiếp từ giai đoạn hồi phục của bệnh màng trong sang loạn sản phổi không nhận biết được về mặt lâm sàng. Chẩn đoán bệnh màng trong dựa vào sự kết hợp các triệu chứng lâm sàng đã mô tả trước, bằng chứng của đẻ non, loại trừ các nguyên nhân khác gây suy hô hấp và biểu hiện x quang đặc trưng. Các biểu hiện x quang đặc trưng bao gồm dạng hạt lưới lan tỏa, dạng kính mờ cổ điển, ở cả hai phế trường cùng với hình ảnh cây phế quản chồng lên. Mặc dù biểu hiện x quang của bệnh màng trong đối xứng điển hình và đồng nhất, người ta cũng đã mô tả trường hợp bất đối xứng. Dạng hạt lưới chủ yếu do xẹp phế nang, có thể kèm theo tình trạng phù phổi. Hình ảnh cây phế quản nổi bật biểu hiện các tiểu phế quản chứa đầy khí chồng lên nền các phế nang không chứa khí. Một vùng cây phế quản khu trú có thể bình thường ở thùy dưới bên trái chồng lên bóng tim, nhưng trong bệnh màng trong chúng phân bố rộng hơn, đặc biệt ở các thùy trên. Trong những trường hợp nặng nhất có thể quan sát được trắng xóa cả hai bên phổi, mất toàn bộ bờ tim. Bóng tim bình thường hoặc hơi lớn. Bóng tim lớn nổi bật trong trường hợp ngạt lúc sinh ở những trẻ có bà mẹ bị đái tháo đường hoặc do suy tim sung huyết trong trường hợp còn ống động mạch.
|
Bệnh màng trong sơ sinh
|
Người ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong hiểu biết về sinh lý bệnh màng trong và vai trò đặc biệt của surfactant trong các nguyên nhân của bệnh. Tuy nhiên, bệnh màng trong vẫn còn là vấn đề lâm sàng nổi bật của các trẻ đẻ non. Tiến triển của bệnh màng trong cải thiện phần lớn nhờ vào các loại thuốc giúp trưởng thành phổi nhanh và sự phát triển của liệu pháp thay thế surfactant. Ngày càng có nhiều trẻ đẻ non và bệnh nặng được cứu sống, tỷ lệ các biến chứng trong các trẻ đẻ non bị bệnh màng trong được cứu sống vẫn còn cao. Các biến chứng bao gồm xuất huyết nội sọ, còn ống động mạch, xuất huyết phổi, nhiễm trùng huyết và loạn sản phổi. Thường khó có thể xác định các rối loạn này là di chứng của bệnh màng trong, hoặc do điều trị hoặc do tình trạng non tháng. Trong bài này chúng ta bàn luận về các đặc điểm lâm sàng và đánh giá các trẻ bị bệnh màng trong và các tiếp cận điều trị.
|
- Nhận bảng tin tổng hợp vé rẻ hàng tuần và các chương trình khuyến mại hấp dẫn từ AloTrip. Chắc hẳn các bạn đã nghe qua rất nhiều lần cụm từ “du lịch bụi” hoặc “phượt”. Cùng với những từ đồng nghĩa như du lịch ba lô, ta ba lô, đây là những thuật ngữ được giới trẻ sử dụng rất nhiều trong những năm gần đây. Vậy du lịch bụi hay phượt là gì, hãy tham khảo bài viết sau đây của AloTrip nhé. Du lịch “bụi” hay còn gọi là du lịch ba-lô là loại hình du lịch thường được các cá nhân hay một nhóm nhỏ áp dụng, hành lý thường là một cái ba lô lớn. Ngày nay, nhiều bạn trẻ lại thích loại hình du lịch này hơn so với Đi du lịch theo tour và khái niệm du lịch “bụi” ngày càng trở nên phổ biến hơn. Du lịch bụi là hình thức du lịch hoàn toàn khác biệt so với hình thức đi tour, đi du lịch theo tour du khách sẽ bị bó buộc trong một không gian và phải bị giới hạn thời gian lịch trình của chuyến tour. Còn với hình thức du lịch bụi, bạn có thể khám phá thiên nhiên và trải nghiệm thú vị về cuộc sống thường ngày của dân địa phương mà không bị bó buộc về thời gian. Đặc biệt, với du lịch “bụi”, bạn sẽ tiết kiệm khá nhiều chi phí. Phượt là từ lóng của từ “Lượt-Phượt”. Thật ra chưa có một khái niệm hay định nghĩa nào về từ Phượt. Nhưng các bạn có thể hiểu đơn giản: Phượt là một hình thức du lịch bụi. Lên kế hoạch: Nếu bạn đang tìm một hành trình độc đáo, nên thử cách du lịch ngẫu hứng. Tức là không có kế hoạch gì. Sẽ rất thú vị cho những du khách có máu mạo hiểm và không ưa lối mòn. Bạn sẽ có những trải nghiệm thật đáng nhớ. Không nên đọc quá nhiều lời bình luận: Bạn có thể tìm được nhiều lời khuyên về các nhà hàng, khách sạn trên các trang web. Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng mỗi người có một sở thích và nhu cầu khác nhau. Không nên quá phụ thuộc vào những lời bình luận mà hãy để tự mình khám phá và mở ra con đường trải nghiệm của riêng mình. Tìm ra những cung đường du lịch mới: Nhiều du khách thường chọn lưu trú tại khách sạn, nhưng bạn có thể làm ngược lại. Hãy tìm đến những nơi thật sự mang chất bản địa. Thay vì ở trong căn phòng máy lạnh hay khu nghỉ dưỡng đầy khách du lịch, hãy chọn cho mình một nhà dân. Đó là nơi bạn có thể khoác vai hay bắt tay người dân địa phương. Hỏi thăm người bản địa: Bạn vẫn chưa chắc nên làm gì? Đừng ngại ngần trò chuyện với các cư dân địa phương. Tìm ra những nơi họ thường lui đến, nhận những lời khuyên về điểm đến mà ít du khách biết tới. Nếu bạn không cảm thấy an toàn hay thoải mái khi nói chuyện với người ngoài đường, thì bạn hãy ghé một cửa hàng hay quán ăn nào đó, ngồi xuống thưởng thức các món ăn hoặc đơn giản là một ly bia để bắt đầu câu chuyện của mình. Bạn sẽ có thêm nhiều thông tin hay thậm chí một người bạn mới. Hy vọng, với bài viết trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về đi du lịch. AloTrip chúc các bạn có chuyến du lịch như mong muốn nhé. Mới đây, chuyến bay đi Singapore của Vietnam Airlines đã được khai tác tại nhà ga T2 mới ở Sân bay Nội Bài. Vietnam Airlines còn tiến hành khảo sát, nghiên cứu và lắp đặt hệ thống công nghệ thông tin để đáp ứng như cầu khai thác của các tàu bay hiện đại. Nhà ga T2 Nội Bài đã đi vào hoạt động được một tháng (khánh thành từ cuối tháng 12/2014). Để tiết kiệm thời gian di chuyển trong nhà ga tránh trường hợp trễ giờ làm thủ tục hay lên tàu bay, hành khách cần bỏ túi một số lưu ý hữu ích sau. Để phục vụ nhu cầu của hành khách, căn cứ vào công văn 194/TCTHK-TTBSP ngày 28/01/2015 về việc Quy định Vietnam Airlines vận chuyển đào mai dịp Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015 dưới dạng hành lý ký gửi, hãng có một số lưu ý như sau. Từ những ngày đầu Tháng 2/2015, Jetstar Pacific liên tục khai trương nhiều đường bay thẳng nội địa mới, nhằm phục vụ nhu cầu đi lại của khách nội địa và quốc tế. Gần đây nhất là chặng bay Thanh Hóa – Buôn Ma Thuột được hãng khai trương hôm 3/2. Tết là không chỉ khoảng thời gian đoàn tụ gia đình, du xuân trảy hội, mà còn là dịp cho các bạn trẻ đam mê du lịch, khám phá những điều mới lạ. Đặt vé máy bay Tết dịp này là khoảng thời gian rất lý tưởng để có được ưu đãi hấp dẫn từ các hãng hàng không. Hãng hàng không quốc gia Việt Nam thông báo bắt đầu triển khai chương trình giảm 20% giá vé cho các chuyến bay nội địa Vietnam Airlines nhân dịp chào đón Năm mới Ất Mùi 2015. Chương trình này kéo dài từ 19/2-21/2/2015. Những đồ vật như chất lỏng, mỹ phẩm, vật có thể gây sát thương, chất nguy hiểm, thức ăn nặng mùi thường bị cấm mang lên máy bay của Vietnam Airlines nói riêng và các hãng hàng không khác trên thế giới nói chung. Hành khách cần chú ý những lưu ý sau. Việc mang vật nuôi lên máy bay thường phải được xem xét kỹ càng, phù hợp với tiêu chuẩn đã đề ra của hãng hàng không vận chuyển đồng thời hành khách có thú cưng phải hoàn toàn chấp nhận mọi rủi ro xảy ra với hành khách đặc biệt này. Nhà ga T2 Nội Bài đã đi vào hoạt động được một tháng (khánh thành từ cuối tháng 12/2014). Để tiết kiệm thời gian di chuyển trong nhà ga tránh trường hợp trễ giờ làm thủ tục hay lên tàu bay, hành khách cần bỏ túi một số lưu ý hữu ích sau. Quy định hành lý của America Airlines được áp dụng trên tất cả các chuyến bay từ Việt Nam đi Mỹ trên chuyến bay của hãng. Một số thông tin về hành lý ký gửi, hành lý xách tay, hành lý đặc biệt hay hành lý quá cước sẽ được AloTrip gợi ý dưới đây. Khu phố cổ Hà Nội là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô thị này tập trung dân cư hoạt động tiểu thủ công nghiệp và buôn bán giao thương, hình thành lên những phố nghề đặc trưng,. Cùng đọc bài viết dưới đây và tìm hiểu cách đón người thân ở sân bay Nội Bài nhé. Cần Thơ đi Rạch Giá bao nhiêu km - nếu đi tự túc. Hôm nay, tôi xin chia sẻ với Quý Khách khoảng cách Cần Thơ đi Rạch Giá và Cách di chuyển từ Cần Thơ đến Rạch Giá. Trang phục luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu mỗi khi chúng ta bắt đầu một chuyến du lịch. Chúng ta thường bối rối khi bắt đầu việc lựa chọn trang phục. Dưới đây là một số kinh nghiệm trong lựa chọn trang phục. Các bạn cùng tham khảo nha. Theo nguồn thông tin của hãng hàng không quốc gia Việt Nam - VNA, tất cả các máy bay của Vietnam Airlines cả chặng nội địa và quốc tế sẽ được phủ sóng wifi vào tháng 5 tới. Đây thực sự là một bước tiến lớn về dịch vụ của hàng không Việt Nam. Chú ý: Đặt vé online tại AloTrip, quý khách sẽ nhận được “Mã đặt chỗ” thật từ hãng hàng không, đảm bảo giữ được chỗ và giá vé. Dịch vụ của chúng tôi sử dụng cookie cho mục đích kỹ thuật, phân tích và tiếp thị. Xem chính sách Cookie và Bảo mật của chúng tôi để biết thêm thông tin. Nếu quý khách đồng ý với điều này, chỉ cần tiếp tục trình duyệt.
|
Du lịch bụi
|
Du lịch "bụi", còn gọi là du lịch ba-lô hay đi phượt, là loại hình du lịch mà chuyến đi do bạn tự lên kế hoạch và tự thực hiện. Khác với hình thức du lịch theo tour ở chỗ du lịch theo tour do bên cung cấp dịch vụ giúp bạn thực hiện chuyến đi bằng cách lên chương trình, đặt khách sạn, đặt dịch vụ ăn uống, đặt chỗ tham quan v.v. Có lịch trình được vạch sẵn nhưng cũng có thể tùy hứng thay đổi trong chuyến đi. Thường có các bài phân tích, đánh giá, nhận xét về nơi đến, cảnh quan, con người, kinh nghiệm chuyến đi để làm tư liệu cho các người đi du lịch bụi sau đó tham khảo. Người đi du lịch bụi phải tự lên kế hoạch, đặt phòng khách sạn, đặt chỗ tham quan, tự lo về phương tiện đi lại, cách thức liên lạc, đổi tiền tệ phù hợp với nơi đến v.v. Mọi thứ có thể được tham khảo qua tài liệu và từ những người từng đi du lịch bụi trước đó. Xét về góc độ lịch sử, Giovanni Francesco Gemelli Careri (1651-1725) được xem là người khai sinh ra loại hình du lịch bụi.
|
Game ánh mắt sản phẩm công nghệ một là tiện một số loại game hơi thịnh hành hiện nay. Tiếp xúc nhiều cùng với nó, mặc dù vậy liệu các gamer vẫn nắm rõ game ánh mắt sản phẩm công nghệ một là gì chưa? Nếu không, hãy theo dõi bài viết tiếp sau đây của kinhdientamquoc.vn nhằm biết thêm đọc tin.Bạn đang xem: Top 12 game bắn súng góc nhìn thứ 3 (tps) trên pc nổi bật nhất. trò chơi mắt nhìn máy một là một thể một số loại game nhưng mà bạn đùa đang yêu cầu hành vi thông qua đôi mắt của nhân vật dụng vào game. Nghĩa là người đùa sẽ không còn thể nhận thấy cơ thể của nhân đồ nhưng bản thân tinh chỉnh và điều khiển. Người nghịch hay chỉ thấy khí giới hoặc nhị tay của nhân vật dụng. trò chơi góc nhìn thứ nhất hay thông dụng nghỉ ngơi những tựa game đột kích. Đã gồm hẳn một thuật ngữ riêng biệt cho tựa game bắn nhau mắt nhìn thứ nhất với tên gọi là FPS (First-person shooter). Các đơn vị cách tân và phát triển cũng tương đối thích cách tân và phát triển các thể loại game góc nhìn đầu tiên. Vì nó không cần phải phát hành chuyển động tinh vi mang lại nhân đồ gia dụng vào game. Cũng ko yêu cầu sử dụng vật dụng quay để sở hữu ánh mắt nhiều chiều như game góc nhìn đồ vật cha. Tuy nhiên, game góc nhìn thứ nhất lại khiến cho không ít người dân Cảm Xúc giận dữ đối với những thể một số loại game tất cả ánh mắt khác. Vì chuyển động của chính nó có thể khiến mỏi đôi mắt người nghịch. Thậm chí, có không ít tín đồ còn cấp thiết chơi được game mắt nhìn thứ nhất. Các công ty sản xuất game thường xây cất những một số loại game FPS nghịch bên trên nền tảng PC hoặc thiết bị di động. Sau đây kinhdientamquoc.vn đã giới thiệu cho bạn 5 tựa game đột kích mắt nhìn trước tiên đáng nghịch duy nhất hiện thời. Đây chắc chắn là là thể một số loại game FPS đáng nghịch tốt nhất hiện tại. Game CS:GO tất cả giao diện đẹp mắt, cân xứng với các lắp thêm bao gồm thông số kỹ thuật không thực sự khỏe khoắn. Ngoài ra, rất có thể nghịch được với tương đối nhiều tín đồ bởi đó là một game trực con đường. Chế độ nghịch trông rất nổi bật tuyệt nhất của game này sẽ là đặt bom. Đây cũng là cơ chế đùa được có thể chấp nhận được tranh tài nghỉ ngơi những giải quốc tế. Với game này, xung quanh bài toán đề nghị thông thạo kỹ năng bắn súng, fan chơi còn phải có những khả năng khác ví như phán đoán thù giỏi lập chiến lược. Đây là một Một trong những hãng sản xuất game nhiều năm nhất. Và từng gây phần lớn tựa game làm mưa làm gió vào làng game trước đây. Mặc mặc dù cơ chế ánh mắt thứ nhất lộ diện hơi muộn vào tựa game này. Thế nhưng nó vẫn được rượu cồn hòn đảo tín đồ đùa tiếp nhận. Và cho đến thời điểm này, hầu như các game thủ hầu hết chơi trò chơi này ngơi nghỉ ánh mắt thứ nhất. Đồ họa không thật đẹp mắt nhưng lại lại được thiết kế tương đối cụ thể. PUPG là tựa game sống sót ánh mắt thứ nhất đáng đùa tuyệt nhất nghỉ ngơi thời điểm hiện tại. Ngoài bài toán đùa ở ánh mắt đầu tiên mang đến cảm hứng game chân thực hơn. Thì phần đa chi tiết trong game nlỗi gió, đường đạn cũng hồ hết có tác dụng rất thật. Điều này đang để cho game PUBG thu hút rất nhiều bạn đùa. Đồ họa game chi tiết với chân thực cùng rất bạn dạng đồ dùng rộng lớn, là gần như sản phẩm mà Arma 3 thú vị không hề ít gamer. Bước vào trái đất của Arma 3, các bạn sẽ trực tiếp tđắm đuối gia vào một trong những chiến dịch với quy mô lên tới hàng trăm, hàng trăm tín đồ. Đây là 1 trong tựa game bắn nhau mắt nhìn trước tiên chúng ta cố định đề xuất demo qua. Tuy nhiên, bởi vì giao diện cụ thể cùng nhiều hoạt động. trò chơi đòi hỏi phải bao gồm một cỗ máy có thông số kỹ thuật đủ khỏe mạnh để hoàn toàn có thể đưa về kinh nghiệm đùa cực tốt. Mới lộ diện trên toàn nước gần đây, Valorant là một trong những tựa game FPS vì chưng chủ yếu Riot phát triển. Lối đùa của game tương tự như cùng với những tựa game đột kích đơn bây giờ nhỏng CS: GO. Điểm đặc biệt của game này chính là cùng với từng nhân vật dụng không giống nhau mà người nghịch lựa chọn, sẽ sở hữu được gần như bộ tài năng khác biệt. Những năng lực này rất có thể cung ứng mang đến đàn hoặc tấn công đối thủ vào game. Valorant đem lại một lối chơi trọn vẹn new đối với thể nhiều loại game FPS. trò chơi mắt nhìn thứ một là gì? Hy vọng trải qua bài viết này chúng ta cũng có thể nắm rõ. Ngoài ra, chúng ta có thể nghịch thử hầu hết game FPS được trình làng sống trên. Nếu chúng ta quan tâm cùng mong mỏi hiểu thêm tin tức về trò chơi máy tính, game mobile. Hãy theo dõi và quan sát với phát âm hồ hết nội dung bài viết không giống tại kinhdientamquoc.vn.
|
Bắn súng góc nhìn người thứ nhất
|
Bắn súng góc nhìn người thứ nhất (First-person shooter, viết tắt FPS) là một thể loại trò chơi điện tử tập trung xung quanh các loại súng và các cuộc chiến dựa trên vũ khí theo góc nhìn người thứ nhất; đó là góc nhìn của người chơi trải nghiệm hành động thông qua mắt của nhân vật chính. Thể loại này chia sẻ các đặc điểm chung với các trò chơi bắn súng khác, từ đó biến nó trở thành trò chơi hành động hàng đầu. Kể từ khi có khái niệm sơ khai của thể loại, đồ hoạ 3D và đồ hoạ giả 3D tiên tiến đã thách thức việc phát triển phần cứng và trò chơi nhiều người chơi đã trở nên bắt buộc. Thể loại game bắn súng góc nhìn thứ nhất đã được bắt nguồn từ Maze War, sự phát triển bắt đầu từ năm 1973 và Spasim năm 1974. Sau đó, và sau những tựa game vui nhộn hơn như MIDI Maze vào năm 1987, thể loại này bắt đầu kết hợp thành một hình thức bạo lực hơn với Wolfenstein 3D năm 1992, được cho là đã tạo ra kiểu mẫu cơ bản của thể loại dựa trên các tựa game tiếp theo.
|
Khi nhận thức được những mối nguy hại đang đến gần, bất kì một sinh vật nào cũng sẽ thực hiện những cơ chế phòng vệ theo phản xạ tự nhiên. Đây cũng là lời giải thích cho câu hỏi tại sao những người thuộc cộng đồng LGBT, hay rộng hơn là LGBTIQ+, lại không công khai, sống thật với bản thân mình. Khi lo ngại những định kiến, sự coi thường hay thái độ tiêu cực của mọi người xung quanh, chúng ta thường có xu hướng phòng vệ là che giấu con người thật của mình, sống “đúng” theo những tiêu chuẩn được hầu hết mọi người cho là “một con người bình thường” để lẩn tránh đi những vấn đề đó. Công khai (hay còn được các bạn gọi là “come out” đó) là một quá trình thấu hiểu, chấp nhận và trân trọng bản dạng giới/xu hướng tính dục của chính mình. Quá trình này vừa bao gồm việc khám phá bản dạng của mình và chia sẻ điều đó với những người khác. Công khai có thể tiến triển lâu dài, cũng có thể diễn ra đột ngột. Bước đầu tiên thường chính là bước tự công khai với chính mình. Bước này thường đi kèm với sự ngộ ra rằng: những cảm xúc bạn từ lâu đã trải qua là hợp lý, nếu bạn định nghĩa chúng là đồng tính, song tính, chuyển giới hoặc queer. Công khai là một việc khó đấy, khi xã hội chúng ta từ lâu đã đặt ra những “định nghĩa”, “tiêu chẩn” về xu hướng tính dục hay bản dạng giới và khiến cho mọi người trong xã hội nghĩ rằng họ phải hẹn hò với người khác giới và hành xử đúng với những tiêu chuẩn giới. Những cá nhân đồng tính, song tính, chuyển giới hoặc mang những xu hướng tính dục và giới khác thường cảm thấy nhục nhã, bị cô lập và lo sợ khi công khai bởi vì khi đó họ có thể phải đối mặt với thái độ và hành vi kỳ thị của xã hội. Việc công khai đôi khi gợi lên nhiều “sóng gió”, ví dụ như:. Một số người, đặc biệt là người trẻ, có thể bị đuổi khỏi nhà hay cắt nguồn tài chính. Tuy nhiên tuy nhiên tuy nhiên! Hành vi che giấu bản thân là con dao hai lưỡi, tuy nó có thể bảo vệ bạn khỏi những định kiến nhưng về lâu dài lại ăn mòn, phá huỷ tâm hồn bạn khi luôn phải mang trên người một chiếc mặt nạ mà sống trong giả dối. Công khai sẽ mang lại sự tự do và yên lòng không thể tả được. Bạn có thể sẽ cảm thấy như cuối cùng thì bạn cũng đã có thể thành thật với chính mình, không trốn chạy, và bạn còn có thể nhận được sự ủng hộ, động lực khi tìm thấy cộng đồng của mình. Ngoài ra, công khai giúp bạn:. Góp phần tạo ra một môi trường dễ chịu hơn cho những người LGBT trẻ tuổi đi sau. Đúng là việc được sống thật với bản thân sẽ mang lại rất nhiều lợi ích, tuy nhiên trong thực tế thì việc dám nói lên và dám sống đúng với con người thật của mình lại là một câu chuyện hoàn toàn khác, vì chính các bạn sẽ phải đối mặt, chiến đấu với chính bản thân mình cũng như mọi người xung quanh. Rủi ro trong việc công khai là điều luôn tồn tại và không thể tránh khỏi, vậy thì làm thế nào để có thể giảm thiểu chúng nhiều nhất có thể? Dưới đây là một số câu hỏi sẽ giúp bạn giải đáp về cách thức công khai cũng như lựa chọn “thời điểm vàng” để thực hiện điều này nhé:. Đừng ép bản thân làm việc này khi bạn không chắc rằng mình sẽ cảm thấy tốt hơn sau khi công khai – bất kể phản hồi của mọi người có ra sao. Đừng vội công khai ngay trừ khi bạn đã đủ khả năng và tự tin để trả lời câu hỏi “Cậu có chắc không?”. Việc bạn do dự, lưỡng lự sẽ làm tăng sự bối rối của mọi người và giảm sự tin tưởng của họ về nhận định của bạn. Nếu bạn đang phải ngày ngày vật lộn với cảm giác tội lỗi và thời kỳ trầm cảm, bạn tốt nhất nên chờ thời điểm thích hợp để nói với bố mẹ. Công khai giới với bậc phụ huynh có thể đòi hỏi rất nhiều nỗ lực từ phía bạn, vì vậy bạn cần phải chuẩn bị cho mình một hình ảnh tích cực về bản thân. Phần lớn những phản ứng tiêu cực của người khác về LGBT là do họ vốn có hiểu biết sai lệch từ rất lâu trước đó, hoặc do họ định kiến với các hình ảnh của LGBT bị phản ánh thiếu chính xác trên phương tiện truyền thông. Cho nên “hiểu biết đủ” ở đây có nghĩa là bạn không chỉ tìm hiểu thông tin, kiến thức đáng tin cậy về LGBT, mà còn chuẩn bị sẵn câu trả lời cho những câu hỏi hay hiểu lầm thường gặp về LGBT. Chỉ khi bạn có kiến thức đúng và đủ về LGBT thì mới có thể truyền đạt thông tin và giải thích thắc mắc, cải thiện được cách nhìn nhận về LGBT của mọi người xung quanh bạn. VYA hy vọng rằng đó là vì bạn yêu bố mẹ và cảm thấy khó chịu với sự xa cách mà bạn nhận thấy được. Đừng bao giờ công khai trong một cơn giận dữ hoặc giữa cuộc cãi vã và sử dụng tính dục của bạn làm vũ khí để chống đối. Thời gian đầu sau khi mới công khai, sẽ có những người chưa thực sự sẵn sàng tự giới thiệu mình là người đồng tính, người song tính, người chuyển giới hay xu hướng tính dục nào khác so với dị tính. Điều này hết sức bình thường. Có thể bạn chỉ cần công khai với người khác rằng bạn đang cảm thấy cuốn hút với người cùng giới, hay là bạn thấy khó chịu với việc người khác hỏi han về người yêu, về việc lập gia đình. Bạn cũng có thể công khai rằng bạn đang có tình cảm với một người cùng giới cụ thể nào đó. Những tên gọi hay nhãn (đồng tính nam/nữ, song tính, chuyển giới,…) không quan trọng bằng những những cảm xúc trong chính bạn. Hãy tập trung hơn đến cảm xúc của bạn, nói nhiều hơn về những cảm xúc và trải nghiệm của bạn thì tốt hơn là chỉ đơn giản nói rằng bạn là người đồng tính hay song tính. Bạn có thể thử viết, vẽ ra những ý mình muốn chia sẻ để từ đó sắp xếp ý và diễn đạt được rõ ràng hơn. Bạn có thể tự phán đoán xem những người mà bạn sắp công khai đang có quan điểm thế nào về LGBT thông qua những gì họ nói (hay không nói) khi xuất hiện chủ đề LGBT. Hoặc là bạn chủ động thăm dò thái độ của họ bằng cách hỏi những câu hỏi về chủ đề LGBT, hay đề cập với họ về những bộ phim, nhân vật, tin tức có liên quan đến LGBT. Nếu họ có những phản ứng tích cực thì khả năng cao là họ sẽ có thể thấu hiểu, cảm thông và thừa nhận con người của bạn. Bạn cũng cần tiếp tục thăm dò xem họ có đang hiểu lầm và hiểu sai về LGBT hay không, và cụ thể về những mặt nào (Ví dụ như cho rằng LGBT là “bệnh”, tưởng LGBT là những người nhìn thấy được ngay từ vẻ bề ngoài, lẫn lộn giữa người đồng tính và người chuyển giới,…). Nếu bạn từng công khai với ai trước đó và nhận được sự ủng hộ, bạn có thể nhờ người đó trợ giúp cho lần công khai này. Nếu bạn thấy căng thẳng và lo lắng quá mức trước khi công khai, hãy nhờ đến sự trợ giúp của chuyên gia tham vấn đáng tin cậy về LGBT để ổn định tâm lý trước. Lựa chọn thời điểm thích hợp là điều rất quan trọng. Hãy lưu ý xem người mà bạn định công khai đang có trạng thái tinh thần ra sao, đang ưu tiên những vấn đề gì, đang lo lắng điều gì không. Nếu họ đang phải lo toan những khó khăn riêng trong cuộc sống, họ khó lòng tiếp nhận câu chuyện của bạn một cách bình tĩnh được. Vậy nên tốt hơn hết hãy lựa chọn thời điểm mà tâm lý của bạn cảm thấy đã thật sự sẵn sàng và mọi người cũng đang có tâm trạng tốt. Khi bạn nhận diện và công khai với chính mình, bạn cần thời gian để dần làm quen với sự thật. Người khác cũng vậy, cũng cần thời gian để làm quen với chuyện bạn mới chia sẻ. Bạn công khai với người khác sự thật về mình chứng tỏ bạn còn quan tâm đến người đó. Nếu họ có phản ứng gì quá mạnh với bạn, hãy hiểu là có thể cũng vì họ quan tâm bạn mà thôi. Hãy giữ tâm ý đó trong quá trình bạn cố gắng tìm cách công khai với họ. Đừng mong đợi sự thông hiểu và thừa nhận ngay lập tức từ đối phương, thay vào đó mọi người nên cố gắng trò chuyện một cách kiên nhẫn và tôn trọng quan điểm của nhau, sau đó mới từ từ giải quyết khúc mắc. Việc công khai với người khác thường gắn liền với đối thoại khi các bên nói chuyện với nhau (hay có thể viết cho nhau). Đối thoại là điều cần thiết vì chỉ thông qua đối thoại thì các bên mới biết rõ nhất câu chuyện là gì, vấn đề là gì, cách giải quyết ra sao. Tự tin với bản thân: Trước khi mong chờ được người khác chấp nhận, bạn cần phải chấp nhận chính mình. Sẵn sàng đón nhận những khó khăn: Vì bạn cần nhận ra rằng về lâu dài thì bạn sẽ hạnh phúc hơn. Quyết định người đầu tiên sẽ công khai: Người đầu tiên luôn rất quan trọng. Chuẩn bị cho người nghe: Một cách trực tiếp hay gián tiếp cung cấp các thông tin, kiến thức về đồng tính cho họ. Tìm hiểu quan điểm của họ về đồng tính nói chung. Tự đoán trước những câu hỏi mà người kia có thể đặt ra: Đặc biệt những câu hỏi liên quan tới nhận dạng như “Làm sao con/anh/chị/em/bạn chắc chắn mình là đồng tính?” Hãy nghĩ tới phương án trong những tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Chọn thời điểm thích hợp: Nó phải là lúc bạn cảm thấy muốn được nói ra chứ không phải vì áp lực. Chọn không gian thích hợp, đủ riêng tư và thoải mái với cả hai: Chọn ra thời gian thích hợp, không bị ngắt đoạn. Gặp mặt trực tiếp thì luôn tốt hơn qua các phương tiện khác. Mở đầu câu chuyện một cách trực tiếp nhưng chậm rãi: Nhấn mạnh điều bạn sắp nói là điều quan trọng với bạn và với cả người kia, bạn đang rất nghiêm túc, và bạn mong chờ người kia có thể chia sẻ, thấu hiểu cùng bạn. Không có một “câu công khai” “chuẩn” nào, bạn sẽ biết cách chọn nói ra như thế nào là tốt nhất: Hãy nhớ, tập trung mô tả lại những cảm xúc và trải nghiệm mà bạn từng trải qua hơn là chỉ đơn giản nói bạn là người đồng tính. Sau khi nói ra câu nói quan trọng nhất, hãy để người kia được phản hồi lại. Nếu người kia cho rằng việc bạn đồng tính là lỗi của họ, hãy giúp họ tháo bỏ cảm giác mặc cảm đó. Đừng dùng từ “không” cho dù bạn muốn phản đối điều gì đó mà người kia nói: Ngược lại, hãy bày tỏ rằng bạn hiểu suy nghĩ của người kia, nhưng lặp lại suy nghĩ của bạn ngay sau đó. Nhấn mạnh và lặp lại nhiều lần về việc bạn hiểu cảm giác của người kia, và rất tôn trọng cảm giác đó. Đồng thời nhấn mạnh và lặp lại về việc đây là một sự thật và hoàn toàn tự nhiên, không ảnh hưởng gì tới mối quan hệ giữa hai người và bạn vẫn là chính bạn. Nếu có người mà bạn đã công khai và ủng hộ bạn, hãy nhắc đến việc đó. Có thể có những tiếp xúc như nắm tay, ôm để xóa đi sự xa cách. Một chút hài hước nhẹ nhàng và phù hợp cũng có thể sử dụng để giúp các bên thư giãn hơn. Đừng kết thúc một cách đột ngột cuộc nói chuyện như “chúng ta đừng nói về việc này nữa” mà nên để mở ra cơ hội cho những chia sẻ trong tương lai. (“Có lẽ chúng ta cần nói chuyện thêm, nhưng những gì hôm nay mà con/mình nói là rất nghiêm túc và con/mình mong ba mẹ/bạn hãy suy nghĩ và hiểu”). Công khai là một quá trình, chứ không đơn thuần là một lời được nói ra.
|
Công khai xu hướng tính dục
|
Công khai tính dục (coming out of the closet, thường được nói ngắn gọn là coming out), là một cụm ẩn dụ cho việc người thuộc cộng đồng LGBT tự tiết lộ về xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới của họ. Việc công khai tính dục đã được đóng khung và bàn luận như một vấn đề riêng tư, và được miêu tả và cảm nhận theo nhiều cách khác nhau: một quá trình hoặc hành trình tâm lý học; một sự quyết định hoặc mạo hiểm; một chiến thuật hoặc kế hoạch; một sự kiện đông người hoặc công khai; một hành động diễn thuyết và một vấn đề về danh tính cá nhân, một nghi thức công nhận; một sự giải phóng hoặc tự do khỏi sự áp bức; một thử thách; một cách thức hướng tới niềm tự hào đồng tính thay vì sự hổ thẹn hoặc kỳ thị xã hội; hoặc thậm chí một sự mạo hiểm đối với sự nghiệp. Tác giả Steven Seidman đã viết rằng: “Sự giấu kín xu hướng tính dục có sức mạnh thay đổi cốt lõi cuộc đời của một con người. Chính điều đó đã khiến cho đồng tính luyến ái trở thành một vấn đề nổi cộm về cá nhân, xã hội và chính trị tại nước Mỹ thế kỷ XX.”Cụm coming out of the closet là nguồn gốc của nhiều cụm từ lóng trong cộng đồng LGBT liên quan đến việc tồn tại hay thiếu đi sự công khai tự nguyện.
|
Khái niệm kinh tế học đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, được tìm thấy đầu tiên trong các tác phẩm của những triết gia cổ Hy Lạp nổi tiếng như: Aristote và Platon (khoảng thế kỷ thứ IV và V trước công nguyên). Nhưng chỉ từ khi xuất hiện tác phẩm kinh tế học nổi tiếng của A. Smith là: “Nghiên cứu về nguồn gốc và bản chất sự giàu có của các dân tộc” (năm 1776), kinh tế học mới thực sự phát triển. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học. Định nghĩa sau đây được nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận xem như là sự mô tả tương đối đầy đủ phạm vi và đối tượng nghiên cứu của kinh tế học:. Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu cách thức mà con người và xã hội sử dụng những nguồn tài nguyên khan hiếm (nguồn lực) vào việc sản xuất các hàng hóa, dịch vụ cần thiết và phân phối chúng giữa các thành viên của xã hội. Như vậy, đối tượng của kinh tế học là nghiên cứu các hành vi kinh tế trong sản xuất và phân phối của cải xã hội. Phạm vi mà kinh tế học đề cập liên quan tới các cá nhân và toàn xã hội. Kinh tế học có đối tượng nghiên cứu rộng lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều bộ môn khoa học xã hội khác như triết học, xã hội học, lịch sử, kinh tế chính trị, tâm lý học… là những môn học nghiên cứu về con người và quan hệ xã hội. Nó cho biết xã hội giải quyết vấn đề khan hiếm như thế nào. Chúng ta không thể có tất cả những gì mình muốn, cho dù đó là kỳ nghỉ kéo dài hoặc không khí hoàn toàn trong sạch. Chúng ta phải thực hiện sự lựa chọn. Kinh tế học là sự nghiên cứu cách thức xã hội đưa ra các lựa chọn. Kinh tế học không chỉ nghiên cứu về thu nhập, giá cả và tiền tệ. Đôi khi việc sử dụng thị trường là hợp lý, đôi khi chúng ta cần những cách giải quyết khác. Phương pháp phân tích kinh tế giúp chúng ta quyết định khi nào nên để việc lựa chọn cho thị trường giải quyết, khi nào bỏ qua thị trường. Tất cả các nhóm người đều phải giải quyết ba vấn đề cơ bản của cuộc sống hàng ngày: sản xuất hàng hóa, dịch vụ gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Dịch vụ là những hoạt động như massage hay các buổi hòa nhạc trên sân khấu, được tiêu dùng hay thưởng thức ngay khi chúng được tạo ra. Hiếm khi các vấn đề sản xuất cái gì, như thế nào và sản xuất cho ai được giải quyết sẵn. Thông thường xã hội phải giải đáp cả 3 vấn đề trên. Bằng việc nhấn mạnh đến vai trò của xã hội, định nghĩa của chúng ta đặt kinh tế học trong các môn khoa học xã hội, chuyên nghiên cứu và giải thích hành vi con người. Kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, trao đổi và sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Vấn đề kinh tế cốt yếu đối với xã hội là dung hòa mâu thuẫn giữa mong muốn vô hạn của con người đối với hàng hóa, dịch vụ, và sự khan hiếm của các nguồn lực (lao động, máy móc thiết bị và nguyên vật liệu) để sản xuất các hàng hóa, dịch vụ này. Trong việc giải quyết các vấn đề sản xuất cái gì, như thế nào và sản xuất cho ai, kinh tế học giải thích các nguồn lực khan hiếm được phân bổ như thế nào cho các mục đích sử dụng khác nhau. Mặc dù kinh tế học nghiên cứu hành vi con người, nhưng chúng ta mô tả nó như một môn khoa học. Điều này phản ánh phương pháp phân tích, chứ không phải chủ đề của kinh tế học. Kinh tế học phát triển các lý thuyết về hành vi con người và kiểm chứng với thực tế. Điều này không có nghĩa là kinh tế học bỏ qua con người như các cá nhân. Hơn nữa, kinh tế học còn mang yếu tố nghệ thuật. Chỉ khi có được cảm giác về việc con người thực tế hành động như thế nào, các nhà kinh tế mới có thể tập trung sự phân tích của mình vào các vấn đề cốt yếu. Kinh tế học thực chứng là môn khoa học nghiên cứu những mối liên hệ bên trong của nền kinh tế dựa trên sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan. Như vậy, kinh tế học thực chứng là khoa học lý luận phân tích định tính. Kinh tế học chuẩn tắc là khoa học phân tích và giải thích các vấn đề kinh tế dựa trên chuỗi những số liệu (hoặc dữ kiện), từ đó đưa ra những chỉ dẫn hoặc khuyến nghị về sự lựa chọn các phương án kinh tế. Kinh tế học chuẩn tắc là khoa học phân tích mang tính định lượng. Kinh tế học vi mô là khoa học nghiên cứu vấn đề kinh tế cụ thể của các tế bào kinh tế bao gồm hành vi và quyết định của chủ thể kinh tế trong các đơn vị kinh tế độc lập, riêng biệt. Kinh tế học vi mô đề cập đến các hoạt động kinh tế đơn lẻ của người tiêu dùng – household, hàng kinh doanh (hoặc người sản xuất) – firms, Chính phủ – goverment; và nghiên cứu các vấn đề: mục tiêu của đối tượng, giới hạn của các đối tượng, cách thức đạt được mục tiêu. Kinh tế học vĩ mô là khoa học nghiên cứu sự vận động, những mối liên hệ kinh tế và sự tác động qua lại của các đơn vị kinh tế trong một chỉnh thể nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế lớn như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp, việc làm và thu nhập, vấn đề giá cả… và những vấn đề xã hội khác. Kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô có đối tượng nghiên cứu khác biệt nhau song lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngày nay, kinh tế học còn bao gồm một số môn học khác như kinh tế học công cộng, kinh tế học phát triển, kinh tế học phúc lợi,… song chúng vẫn xuất phát từ kinh tế học và có thể xem như các nhánh của kinh tế học hiện đại.
|
Kinh tế học chuẩn tắc
|
Kinh tế học chuẩn tắc (hay còn gọi là Kinh tế học lý thuyết) (Tiếng Anh: Normative economics) là một nhánh kinh tế học chuyên phán xét xem nền kinh tế phải như thế nào hoặc phải có chính sách kinh tế gì để đạt được một mục tiêu đáng có. Kinh tế học chuẩn tắc chú ý tới sự đáng có của những mặt nhất định của nền kinh tế. Nó nhấn mạnh sự cần thiết có các chính sách kinh tế. Chú ý là kinh tế học chuẩn tắc (phải như thế nào) khác với kinh tế học thực chứng (như thế nào). Tuy nhiên, việc phán xét các giá trị chuẩn tắc đòi hỏi phải có những điều kiện (giả thiết), và khi điều kiện thay đổi thì giá trị cũng thay đổi.
|
Cryptocurrency hoặc Crypto là tên dùng để chỉ tất cả các đồng coin trên thị trường tiền điện tử. Có một số tên gọi khác nhau như tiền mã hóa, tiền điện tử, tiền mật mã, tiền kỹ thuật số, tiền số, Coin hay thậm chí là tiền ảo, nhưng theo mình thấy nếu xét về mặt kỹ thuật thì tên chính xác nhất của Cryptocurrency là “Tiền mã hóa”. Crypto được thiết kế để hoạt động như một phương tiện trao đổi, nó sử dụng các thuật toán mật mã để bảo mật thông tin và xác minh các giao dịch cũng như kiểm soát việc tạo ra các đơn vị mới của một đồng Cryptocurrency cụ thể. Do đó các đơn vị giá trị của Crypto được bảo vệ khỏi các hình thức giả mạo hay gian lận, đồng thời che giấu thông tin giao dịch của người dùng. Khá khó hiểu phải không nào, nhưng bạn chỉ cần hiểu đơn giản Cryptocurrency tương tự như tiền tệ thông thường USD, EUR, VNĐ,.nhưng nó được mã hóa để sử dụng hoàn toàn trên môi trường internet, không bị quản lý bởi bất cứ tổ chức, chính phủ nào, mọi thông tin giao dịch đều ẩn danh, chi phí giao dịch cực thấp, tốc độ giao dịch nhanh và đảm bảo an toàn, ta có thể gọi Crypto là “phiên bản mã hóa của tiền giấy”. Vào những năm của thập niên 90, đã nhiều nỗ lực trong việc tạo ra một đồng tiền kỹ thuật trong thời kỳ bùng nổ công nghệ, có thể kể đến như Flooz, Beenz hay DigiCash nhưng hầu hết đều thất bại. Có nhiều lý do dẫn đến thất bại của những hệ thống này, chẳng hạn như gian lận, các vấn đề tài chính hay thậm chí là các mâu thuẫn nội bộ của chính công ty đó. Sau đó, vào đầu năm 2009, một lập trình viên hoặc một nhóm lập trình viên ẩn danh dưới cái tên Satoshi Nakamoto đã giới thiệu Bitcoin (BTC) – đồng Cryptocurrency đầu tiên trên thế giới, Satoshi mô tả BTC như một hệ thống tiền mặt mã hóa ngang hàng, nó hoàn toàn phi tập trung, có nghĩa là không có bất cứ cơ quan, chính phủ nào kiểm soát nó. Để đảm bảo tính phi tập trung, trong một mạng lưới như Bitcoin, mỗi người tham gia vào mạng sẽ cần thực hiện một công việc, điều này được thực hiện thông qua Công nghệ Blockchain – số cái công khai của tất cả các giao dịch đã từng xảy ra trong mạng, tất cả mọi người có thể xem được, từ số dư, lịch sử chuyển, địa chỉ ví,. Xét theo khái niệm thì Bitcoin chính là nguồn gốc của Crypto tuy nhiên lại có hàng ngàn loại tiền này đang tồn tại trên thị trường. Tính đến thời điểm hiện tại thì Crypto đang tồn tại 3021 loại đồng tiền điện tử ở trên coinmarketcap. Chưa kể thì vẫn còn một số loại đồng tiền còn chưa được cập nhật lên. Những đồng tiền này vẫn phát triển hàng ngày để có thể chứng tỏ được bản thân và chúng thường có các mã hóa công nghệ hay. Các loại tiền điện tử thường chỉ tồn tại ở trên thiết bị điện tử mà không phải thuộc dạng tiền vật chất. Đặc điểm này có nghĩa là: Tiền điện tử sẽ không có máy tính hoặc máy chủ trung tâm. Chúng sẽ được phân phối trên một mạng lưới nhất định và thường là hàng ngàn máy tính. Mạng không có máy chủ trung tâm thì được gọi là mạng phi tập trung. Hầu hết, tiền điện tử cần được chuyển hoặc giao dịch từ người ngày sang người khác theo dạng trực tuyến. Và người dùng không được giao dịch với nhau thông qua ngân hàng, facebook hoặc paypal. Mà họ sẽ giao dịch trực tiếp với nhau mà không có bất kỳ bên thứ ba nào đảm bảo về giao dịch tiền điện tử của họ. Người dùng không cần cung cấp bất kỳ thông tin cá nhân nào để có thể sở hữu và sử dụng các khoản tiền điện tử. Hoặc cũng không có bất cứ quy tắc nào về người có thể sở hữu hoặc sử dụng tiền điện tử. Nếu như không có bất kỳ bên thứ 3 hoặc bên trung gian nào đứng ra đảm bảo cho giao dịch tiền điện tử thì có nghĩa là người dùng không cần phải tin tưởng vào hệ thống của bất kỳ bên thứ 3 nào khác về hoạt động của họ. Chính vì thế, người sử dụng có thể kiểm soát được tiền và thông tin của họ bất cứ lúc nào và họ cũng có thể chủ động được giao dịch cũng như kiểm soát giao dịch ở trên mạng lưới. Mỗi một người dùng sẽ có các mã đặc biệt để có thể ngăn chặn hiện tượng người lạ truy cập thông tin. Việc mã hóa này cũng là một trong những phần định nghĩa quan trọng của tiền điện tử. Mỗi một quốc gia sẽ được cung cấp loại tiền riêng và gọi là tiền tệ pháp định và việc gửi những loại tiền tệ pháp định này đến phạm vi toàn cầu tương đối khó khăn. Tuy nhiên, tiền điện tử có thể gửi đi đến khắp nơi trên thế giới khá dễ dàng và nó được xem là loại tiền tệ không có biên giới. Quá trình khai thác mỏ: Các thợ mỏ sẽ cố gắng để giải mọi bài toán phức tạp nhất có liên quan đến các khối blockchain và sẽ ghi lại nó ngay sau khi nhận được phần thưởng. Sàn giao dịch: Sàn giao dịch chính là nơi có trang web và bạn có thể mua/ bán cũng như thực hiện giao dịch tiền điện tử. Ví điện tử: Bộ phận ví này là những chương trình phần mềm có lưu trữ khóa công khai hoặc khóa riêng, nó sẽ cho phép người sử dụng có thể gửi/nhận tiền điện tử hoặc theo dõi các số dư của họ. Hiểu được khái niệm của Crypto là một chuyện nhưng để hoạt động sao cho hiệu quả nhất thì lại gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, để đầu tư Crypto được hiệu quả nhất thì cần tuân thủ các bước như sau:. Bởi vì Crypto hiện nay có vô số các đồng khác nhau tuy chỉ có bitcoin là một phần nhỏ trong số các động đó. Tuy nhiên, càng có nhiều lựa chọn thì việc đưa ra quyết định đương nhiên sẽ dễ hơn nhiều. Chính vì vậy, Trader hoàn toàn có thể tìm hiểu qua về những đặc tính căn bản, tính thanh khoản cũng như sàn giao dịch của các loại tiền mã này trước khi đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng vào loại nào sao cho hợp lý nhất. Có thể bạn chưa biết rằng, hiện nay chiến trường Crypto vô cùng khốc liệt và nó không dành cho những người lười biếng và không chịu tìm hiểu. Nếu như bạn có kiến thức không vững thì khi bước vào rồi sẽ dễ trở thành một “con mồi” cho thị trường. Cách nhanh nhất đó chính là bạn cần phải trau dồi kỹ năng, nâng cao các nguyên lý hàn lâm rồi tự tin thực hiện giao dịch thật nhiều để nâng cao trải nghiệm thực cho bản thân. Từ đó, có thể dễ dàng rút ra được nhiều kinh nghiệm cho bản thân trong thị trường này. Một trong những điều khiến bạn dễ thất bại nhất trong môi trường crypto đó chính là đem bản thân so sánh với các trader khác hoặc tự đặt ra mục tiêu viễn vông cho bản thân. Chỉ khi một trader có thể làm chủ được chính mình thì lúc ý bạn mới thực sự bước vào con đường crypto. Khi bạn là một Trader hiểu rõ tường tận về lý thuyết thì và làm chủ được bản thân thì hãy lập ra một kế hoạch thật chi tiết trước khi bước vào con đường này. Chú ý ghi lại mọi giao dịch, hành động giá và phản ứng đối với thị trường lưu trữ từ đó nghiền ngẫm để tiến hóa bản thân lên một tầm cao hơn. Cuối cùng, bạn cũng đừng nên suy nghĩ quá nhiều khi bước vào con đường crypto, hãy tự đặt lệnh đầu tiên cho bản thân và dù thắng hay thua thì chí ít bạn cũng đã thành công chạm tới rào cản thay đổi của chính mình.
|
Tiền mã hóa
|
Tiền mã hóa (cryptocurrency) là một dạng của tiền mật tính điện tử hoặc tiền kỹ thuật số, tiền ảo, là một tài sản kỹ thuật số được thiết kế để làm việc như là một trung gian trao đổi mà sử dụng mật mã để đảm bảo các giao dịch của nó, để kiểm soát việc tạo ra các đơn vị bổ sung và để xác minh việc chuyển giao tài sản. Mật tính (cryptographic computation) là từ được tạm dịch từ các thuật toán mã hóa tư liệu thông tin kỹ thuật số để bảo toàn nội dung và chữ ký của những tư liệu thông tin đó. Tiền mã hóa được phân loại như là một tập con của các loại tiền kỹ thuật số và cũng được phân loại là một tập con của các loại tiền tệ thay thế (Altcoin). Tuy nhiên danh từ tiền ảo không nên được sử dụng quá phổ biến vì nó chứa đựng một hàm ngữ mang tính chất phi thực tế và không có tính năng hoặc công dụng thật ngoài đời sống. Bitcoin, được tạo ra trong năm 2009, là tiền mã hoá đầu tiên. Kể từ đó, nhiều loại tiền mã hóa khác đã được tạo ra.
|
Nếu bạn đang có một bộ lọc không khí, bạn có thể đã bắt gặp thuật ngữ “True-HEPA”. Trên thực tế, bộ lọc True HEPA được nhiều người thừa nhận là bộ lọc không khí phổ biến nhất trong cả máy lọc không khí cổ điển và hiện đại. Bộ lọc này cũng là yếu tố then chốt quan trọng nhất để quyết định hiệu quả hoạt động của một máy lọc không khí. Tuy nhiên, trong thực tế sử dụng, bạn có thể bị đánh lừa bởi nhiều thương hiệu máy lọc không khí tuyên bố có bộ lọc True-HEPA. Vấn đề là bạn không biết liệu tất cả bộ lọc “True-HEPA” có giống nhau không hay có các thông số kỹ thuật để phân loại chúng theo giá trị. Các kết quả khác trên Internet không làm bạn hài lòng và bạn vẫn không thể tìm thấy một bộ lọc True HEPA phù hợp. Tại Levigroup, chúng tôi thấu hiểu tất cả các vấn đề của bạn về chất lượng không khí trong nhà và về máy lọc không khí. Chúng tôi biết rằng bạn cần một máy lọc không khí tốt nhất để nâng cao chất lượng cuộc sống. Chúng tôi là những chuyên gia trong lĩnh vực máy lọc không khí, nhưng hơn thế nữa, chúng tôi cũng giống như bạn, là một con người. Chúng tôi cũng có những vấn đề nghiêm trọng về dị ứng trong không khí và bệnh hen suyễn, và chúng tôi biết sự băn khoăn của bạn khi tìm hiểu máy lọc không khí nên chúng tôi sẽ chấm dứt tình trạng mệt mỏi đó của bạ. Hôm nay, bạn sẽ biết mọi thứ về bộ lọc True-Hepa trong hướng dẫn chuyên sâu của chúng tôi. Nếu bạn còn băn khoăn về các loại bộ lọc không khí khác, chúng tôi hy vọng rằng những hướng dẫn dưới đây có thể giúp bạn. Bộ lọc True-HEPA với HEPA (High Efficiency Particulate Air filter) là bộ lọc không khí hiệu suất cao, là tiêu chuẩn cao nhất cho việc lọc không khí vật lý được sử dụng bởi máy lọc không khí. Hơn nữa, các bộ lọc HEPA được sử dụng trong nhiều ứng dụng, như máy hút bụi, ô tô và thậm chí cả máy bay. Tuy nhiên, để được coi là bộ lọc True HEPA, một bộ lọc không khí HEPA phải được chứng nhận để loại bỏ 99,97% tất cả các hạt cực nhỏ có kích thước nhỏ nhất là 0,3 micron, đây là kích thước hạt nhỏ nhất đi vào phổi của bạn. Micromet, là một phần triệu mét, là cách các hạt được đo lường. Ngoài ra, kích thước của các hạt như bụi, vi khuẩn, phấn hoa, vi rút và nhiều loại khác được liệt kê như bên dưới:. Về cơ bản, bộ lọc HEPA là một chiếc lưới cấu tạo bởi các sợi thuỷ tinh hoặc sợ vải không dệt mật độ cao sắp xếp ngẫu nhiên có đường kính từ 0,5 đến 2 micromet. Bộ lọc này có thể giữ lại các chất gây ô nhiễm độc hại trong không khí như bụi, bào tử nấm mốc, phấn hoa, lông thú và khói, những loại hạt có khả năng gây hen suyễn và dị ứng hô hấp cho con người , nó cũng hữu ích trong việc lọc bụi mịn PM2.5. Với thiết kế thông minh, bộ lọc True HEPA có thể nhắm mục tiêu các hạt siêu mịn với sự kết hợp của ba cơ chế vật lý:. Tác động quán tính: Luồng không khí ô nhiễm đi qua bộ lọc True HEPA, nhưng các phần tử nặng hơn (hoặc các phần tử ô nhiễm lớn hơn) không thể đi theo dòng khí. Hãy tưởng tượng với quán tính của chúng có kích thước lớn, những hạt nặng hơn này di chuyển theo đường thẳng và sẽ sớm bị một trong những sợi này bắt giữ trong bộ lọc True HEPA. Đó là lý do tại sao các sợi phải được phân bố ngẫu nhiên. Vì vậy, các đối tượng càng lớn thì càng có nhiều cơ hội bị bắt giữ bởi cơ chế Tác động Quán tính của bộ lọc True HEPA. Đánh chặn: Cơ chế này liên quan đến các hạt có kích thước nhỏ hơn một chút, vì vậy nó có thể dễ dàng đi theo đường thẳng và sẽ không va chạm trực tiếp vào các sợi của bộ lọc True HEPA. Tuy nhiên, bán kính của các hạt này vẫn lớn hơn khoảng cách giữa đường thẳng và mép của sợi (thường là 0,3 đến 2 micron). Do đó, nó sẽ bị bắt tại rìa của các sợi. Khuếch tán: Cơ chế này là phần quan trọng nhất của bộ lọc True HEPA và có thể loại bỏ ngay cả những hạt nhỏ nhất. Một khi các hạt nhỏ đến 0,3 micron, chúng không tuân theo đúng quy trình và có thể di chuyển ngẫu nhiên do va chạm với các phân tử khí (chuyển động Brown). Vì vậy các hạt càng nhỏ thì khả năng tự do chuyển động của chúng càng cao, và do đó, xác suất chúng gặp sợi càng cao. Với kích thước hạt giảm dần, cơ chế khuếch tán trở nên quan trọng hơn. Vì vậy, để quyết định tổng hiệu suất của một bộ lọc True HEPA, bạn phải đo đếm kết quả của cả ba cơ chế lọc của nó. Không, không phải tất cả các bộ lọc HEPA đều giống nhau. Có sự khác biệt đáng kể trong các bộ lọc HEPA được sản xuất bởi nhiều thương hiệu máy lọc không khí khác nhau. Tùy thuộc vào chất lượng của vật liệu, cũng như mật độ các sợi của bộ lọc HEPA, một bộ lọc HEPA có thể khác nhau. Ví dụ, Blueair đang sử dụng một công nghệ độc đáo có tên HEPASilent, giúp cải thiện hiệu quả của bộ ion hóa. Bộ ion hóa tạo ra điện tích tích tụ các hạt trên sợi, giống như những gì xảy ra trên lông mèo. Rabbit Air sử dụng bộ lọc BioGS HEPA để ngăn chặn sự tích tụ của các phần tử trong không khí, cũng như sự phát triển của vi khuẩn và vi rút trên bề mặt, để cải thiện cả hiệu quả và kéo dài tuổi thọ. Hoặc, IQAir phát minh ra bộ lọc không khí HyperHEPA, với các sợi nano để giảm kích thước của các hạt trong không khí xuống chỉ còn 0,003 micron. Trên thị trường máy lọc không khí, có rất nhiều thuật ngữ như “HEPA-type” hoặc “ HEPA-like”, và chúng hoàn toàn kém chất lượng hơn so với bộ lọc “True HEPA”. Các bộ lọc này chỉ có thể bắt được các hạt có kích thước nhỏ từ 2-5 micrômét, điều này làm giảm hơn 600% hiệu quả của một bộ lọc True HEPA. Vì vậy, cách tốt nhất là luôn tìm kiếm máy lọc không khí với bộ lọc True HEPA. Nhưng làm thế nào để bạn biết một máy lọc không khí có bộ lọc True HEPA? Đầu tiên, nó phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt do Bộ Năng lượng Hoa Kỳ đặt ra. Bộ lọc True HEPA cần loại bỏ 99,97% tất cả các hạt có kích thước lớn hơn hoặc bằng 0,3 micron, theo định nghĩa của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE). Bạn nên tìm kiếm loại HEPA trong bộ lọc không khí của mình, loại này tuân theo Tiêu chuẩn Châu Âu hoặc xếp hạng MERV. Dưới đây là hiệu quả nhất định của các lớp HEPA này đối với các hạt trong không khí có kích thước xuống đến 0,3 micron, tuân theo Tiêu chuẩn Châu Âu:. Nếu bộ lọc HEPA của bạn không được gắn nhãn cụ thể là có thể rửa được, thì câu trả lời là không, bạn không thể rửa bộ lọc HEPA của mình mà không làm hỏng chúng. Nếu bộ lọc này có thể rửa được thì bạn nên tham khảo thêm bài viết “Cách vệ sinh màng lọc không khí” để nắm được cách vệ sinh bộ lọc HEPA nhé. Chúng ta đã tìm hiểu mọi thứ về bộ lọc True HEPA, nhưng bạn vẫn không biết liệu bộ lọc không khí này có hoàn hảo hay không. Dưới đây là ưu / nhược điểm của bộ lọc True HEPA. Công nghệ UV trên máy lọc không khí Sharp giúp thu hút muỗi và loại bỏ muỗi với số lượng lớn, tốc độ nhanh mà không sản sinh ra hóa chất gây hại. Đây cũng là một lợi thế lớn của Sharp khi ở Việt Nam thời tiết nhiệt đới ẩm, muỗi rất nhiều và hay có các dịch bệnh nguy hiểm bị gây ra bởi muỗi, đặc biệt là dịch sốt xuất huyết. Công nghệ Plasmacluster ion là một trong những phát minh độc quyền đến từ Sharp – thương hiệu uy tín và nổi tiếng của Nhật Bản với khả năng diệt vi khuẩn, vi rút, nấm mốc và các tác nhân gây mùi dựa trên nguyên lý hoạt động của ion. Máy lọc không khí Sharp thông thường được trang bị hệ thống 3 bộ lọc bao gồm: Màng lọc thô, Màng lọc Carbon và Màng lọc HEPA. Công nghệ Plasmacluster ion là một trong những phát minh độc quyền đến từ Sharp – thương hiệu uy tín và nổi tiếng của Nhật Bản với khả năng diệt vi khuẩn, vi rút, nấm mốc và các tác nhân gây mùi dựa trên nguyên lý hoạt động của ion. Được phát triển bởi Winix với sự hợp tác của các Đối tác Nghiên cứu của Viện Plasma Drexel, công nghệ PlasmaWave sử dụng một quy trình lọc tự nhiên tạo ra các ion âm và dương giúp phá vỡ cấu trúc an toàn của các chất ô nhiễm độc hại ở cấp độ phân tử mà không tạo ra bất kỳ phụ phẩm ozone có hại nào. Bộ lọc ánh sáng UV-C, với một trong bốn loại tia cực tím (UV-A, UV-B, UV-C và UV-V), thường được sử dụng trong máy lọc không khí như một chất khử trùng không khí độc lập để tiêu diệt vi trùng, bào tử nấm mốc, nấm mốc, vi khuẩn và thậm chí cả vi rút. Bộ lọc Than hoạt tính được sử dụng rộng rãi trong máy lọc không khí, vì bộ lọc này là giải pháp duy nhất để hấp thụ và loại bỏ khói và mùi, để bạn có thể tận hưởng không khí trong lành và sạch sẽ. Trong thực tế, bộ lọc không khí ion là một trong những bộ lọc không khí quan trọng được sử dụng trong máy lọc không khí. Tuy nhiên, liệu chất ion hóa có tốt cho bạn không? Máy ion hóa không khí có thực sự hoạt động, đặc biệt là chống khói, mùi và mùi hôi?. Đối với máy lọc không khí, hai trong số những điều chúng tôi đã nghe nhiều nhất là hệ số CADR và hệ số ACH. Vậy hệ số CADR là gì? hệ số ACH là gì?. Làm sạch bộ lọc không khí thường xuyên sẽ làm cho bộ lọc không khí của bạn bền lâu và nâng cao hiệu quả lọc không khí của bạn. Trong bài viết này, Levigroup sẽ hướng dẫn bạn cách vệ sinh bộ lọc khí đúng cách. Trong quá trình tìm kiếm một chiếc máy lọc không khí, bạn phát hiện ra có hàng tấn máy lọc không khí khác nhau, với hàng trăm loại bộ lọc không khí. Thông tin từ các nhà cung cấp như một ma trận với hàng loạt công nghệ nghe khiến bạn bấn loạn. Thật khó để làm việc hiệu quả trong một môi trường bao phủ bởi khói, mùi người, thậm chí cả bụi mà không được làm sạch hoàn toàn. Với một máy lọc không khí phù hợp cho văn phòng, cuộc sống của bạn tại nơi làm việc có thể tốt hơn hàng triệu lần.
|
Bộ lọc HEPA
|
Bộ lọc HEPA (tiếng Anh: High efficiency particulate air filter) là các bộ lọc khí đạt tiêu chuẩn HEPA, một tiêu chuẩn về tỷ lệ hiệu quả trong việc lọc khí. Các bộ lọc HEPA lọc được 99,95% theo chuẩn Châu Âu , hoặc 99,97% theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ , các hạt có kích thước lớn hơn hoặc bằng 0,3 micromét (µm). HEPA được thương mại hóa vào những năm 1950, và trở thành thuật ngữ cho các bộ lọc khí hiệu quả cao. Các bộ lọc HEPA được dùng để làm sạch khí ở các khu vực sản xuất ổ đĩa, sản xuất thiết bị y tế, sản xuất linh kiện bán dẫn, sản xuất thiết bị hạt nhân, sản xuất dược phẩm và thực phẩm, cũng như được sử dụng ở bệnh viện, trong gia đình và trong phương tiện giao thông. HEPA hữu ích trong việc lọc phấn hoa, bào tử nấm, lông thú và khói - những loại hạt có khả năng gây hen suyễn và dị ứng hô hấp cho con người - và cũng như hữu ích trong việc lọc bụi mịn PM2.5. Theo WebMD, các nhà nghiên cứu từ Đại học Công nghệ Queensland (Brisbane, Úc), bộ lọc HEPA được cho là loại bỏ 99,9% phấn hoa, lông động vật và thậm chí cả vi khuẩn từ không khí.
|
Hành động xã hội là một khái niệm cơ bản của xã hội học được nhiều tác giả đề cập tới như M. Weber, V. Pareto, T. Parsons,. Có thể hiểu hành động xã hội là hành động của con người, tuy nhiên, không phải hành động nào của con người cũng là hành động xã hội. Ví dụ: hành động một đứa trẻ khóc một mình khi buồn, hành động này chủ thể hành động thực hiện một mình, không có sự chứng kiến của người khác, cùng không định hướng vào người khác, hành động này không được gọi là hành động xã hội, nhưng nếu đứa trẻ khóc ăn vạ bố mẹ đòi mua đồ chơi mình thích, nhưng bố mẹ không đồng ý và nó đã dùng hành động khóc với mong muốn bố mẹ mua đồ chơi cho. Hành động này gọi là hành động xã hội vì định hướng tới bố mẹ, tác động tới bố mẹ bởi theo cách mà đứa trẻ nhận thức được nếu đòi bố mẹ không mua cứ khóc thật to, thật lâu là bổ mẹ sẽ mua cho. Hiện thực xã hội là khách thể chung của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn. Để tự xác định bản sắc của mình, mỗi ngành phải tìm thấy lát cắt đối tượng nghiên cứu của bản thân từ cái khách thể chung đó. Một trong những cách thức xác định lát cắt tiếp cận xã hội học là xem đối tượng nghiên cứu cơ bản của nó là hành động xã hội. Hành động xã hội là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân cũng như các khuôn mẫu quan hệ được cấu trúc hóa bên trên các nhóm, tổ chức, thiết chế và xã hội. Một thực tế có thể quan sát được trong mọi tình huống cá nhân và công cộng hàng ngày là hành động xã hội của con người diễn ra theo những quy tắc nhất định và trong những hình thái nhất định, những quy tắc và hình thái này có một sứ bất biến tương đối. Đối với các cá nhân, những điều trên là rõ ràng và hiển nhiên, dựa trên nhận thức và kinh nghiệm thực tiễn. Nhưng xã hội học vượt qua nhận thức hàng ngày đó, đặt ra câu hỏi về cơ sở và điều kiện của những hành động như vậy. Một là ý nghĩa do cá nhân hay một nhóm người gán cho hành động: hành động xã hội bao giờ cũng mang một ý nghĩa nhất định nào đấy mà người thực hiện hành động đó có thể ý thức với các mức độ khác nhau. Ý nghĩa của hành động có thể mang giá trị chung cho cả cộng đồng xã hội hoặc chỉ mang giá trị riêng của người thực hiện hành động xã hội. Hai là sự định hướng hành động vào người khác. Đối tượng của hành động là người khác, là những người xung quanh, là xã hội. Đặc trưng này làm cho hành động xã hội có khuôn mẫu nhất định bởi vì khi hướng tới người khác, các chủ thể của hành động phải hiểu biết và tuân thủ các quy tắc, các chuẩn mực nhất định. Tóm lại: hành động xã hội được thực hiện có định hướng tới người khác theo một cách nào đó, đây là hành động có chủ đích, có sự tính toán, suy nghĩ. Con người không tồn tại độc lập mà sống trong thế giới xã hội, do đó mọi hành động của con người đều lên quan đến người khác. - Cẩu trúc chức năng-, hành động gồm có nhiều thành phan tạo lên, mỗi thành phần này thực hiện một chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Tuy nhiên, các thành phần này có mối liên kết với nhau chặt chẽ để đạt được mục tiêu xác định. - Cấu trúc hệ thống: Mỗi hành động xã hội gồm nhiều bộ phận, một tiểu hệ thống và chúng tồn tại tương đối độc lập nhưng chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Do vậy, trong mỗi hành động xã hội có khi có sự thay đổi bất kỳ bộ phận nào cũng kéo theo sự thay đổi của cả hệ thống. Tóm lại: Hành động xã hội là một hệ thống xã hội có cấu trúc nhất định gồm các thành phần liên kết với nhau bằng những mối liên hệ chức năng. Thông qua hành động xã hội con người hoàn thiện và biến đổi bản thân và làm biển đổi xã hội. Hành động xã hội bao giờ cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức. Hành động xã hội là một bộ phận cấu thành hoạt động sống của cá nhân. Hành động xã hội có tên gọi nhất định, nhờ đó các chủ thể nhận biết được ý nghĩa của hành động, biết nên hành động đến đâu để điều khiển và kiểm soát hành động. Hành động xã hội diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống con người và thường được coi như một phương thức đặc biệt của quan hệ giữa con người với thế giới bên ngoài và hoạt động đó được tạo thành trong việc cải tạo thế giới cho phù hợp với các mục đích của con người. Hành động xã hội thường nâng các thành phần xã hội hướng đến sự thay đổi tư cách của những cá thể khác. Hành động xã hội bị quy định bởi môi trường xã hội cụ thể, nó liên quan chặt chẽ tới bối cảnh xã hội, chịu sự kiểm soát của bối cảnh xã hội và sự kiềm chế xã hội. Hành động xã hội luôn luôn phù hợp với vị thế xã hội. Chính vì vậy, khi hành động các chủ thể thường cân nhắc nên hành động như thế nào cho phù hợp với vị thế của mình. Hành động xã hội là hoạt động sổng của cá nhân cũng như của toàn bộ đời sống xã hội. Do đó hành động xã hội khá phong phú và đa dạng đứng dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau thì quan điểm về loại hành động xã hội cũng khác nhau. Các nhà xã hội học khi nghiên cứu về hành động xã hội thường phân loại hành động xã hội dựa trên tiêu chí sau:. + Hành động logic là những hành động hợp lý, có mục đích được ý thức một cách rõ ràng và cá nhân hành động hướng đến mục đích đó. + Hành động phi logic là những hành động không có ý thức, hành động này chịu sự chi phối của các giá trị, chuẩn mực. Hay nói cách khác, hành động phi logic bị thúc đẩy bởi các động cơ có tính bản năng như động cơ sáng tạo, hợp tác, giao tiếp,. Khi phân chia như vậy, theo Pareto trong mỗi chủ thể hành động đều có cả hành động lô gíc và hành động phi logic, nhưng theo ông hành động phi logic là cơ sở của mọi quá trình hành động. + Hành động duy lý - công cụ: (hành động theo mục đích) hành động dựa ưên sự phân tích điều kiện, hoàn cảnh cân nhắc, tính toán để lựa chọn phương tiện và công cụ hợp lý nhằm đạt được mục đích hiệu quả nhất. + Hành động theo giá trị (hành động duy giá trị): là loại hành động tuân theo nghĩa lý, chuẩn mực, cá nhân lựa chọn những gì con người cho là đúng, có ý nghĩa, có giá trị. + Hànỉi động theo truyền thống: (hành động duy lý - truyền thống): là loại hành động dựa trên sự bắt chước những mô hình hành động đã được củng cố, khẳng định trong truyền thống và đã được chấp nhận như những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa. + Hành động theo tình cảm (hành động duy cảm) là hành động được xác định dựa trên trạng thái cảm xúc nhất định của chủ thể. + Đạt tới - có sẵn: chủ thể hành động luôn đứng trước sự lựa chọn giữa những giá trị phải đạt tới và những giá trị có sẵn chỉ việc làm theo. + Cảm xúc - trung lập: chủ thể của hành động nhằm hướng đến việc thỏa mãn các nhu cầu trực tiếp cấp bách hoặc là sự hướng đến những nhu cầu xa vời nhung quan ưọng. + Cá nhân - nhóm: chủ thể hành động thực hiện vì lợi ích của bản thân hay là có tính đến những lợi ích của nhóm. Trong hành động, con người luôn có những động cơ thúc đẩy và có ý thức về kết quả diễn ra: đó là hành động có chủ định. Nhưng trong thực tế, nhiều khi chung đem đến những hậu quả không chủ định, không phù hợp với mong đợi của chủ thể, là vì khi đặt mục đích cho hành động người ta bị phụ thuộc nhiều vào sự nhận định chủ quan. Nhu cầu: là những mong muốn của chủ thể về các yếu tố vật chất và tinh thần nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người xã hội. Nhu cầu là khởi điểm của hành động, không có nhu cầu thì không có hành động. Chủ thể: trong các trường hợp cụ thể, chủ thể không phải là những con người chung chung mà phải là một đối tượng hay một tổ chức xã hội liên quan trực tiếp hay gián tiếp gây ra hành động. Hoàn cảnh: liên quan đến các yếu tố như không gian, thời gian, địa điểm diễn ra hành động. Các yếu tố này có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hành động đã, đang và sẽ diễn. Phương tiện: là những yếu tố mà chủ thể dùng để thực hiện hành động và đạt được mục đích. Trong xã hội hiện đại, khi hành động trở nên phúc tạp thi các phương tiện, công.
|
Hành động xã hội
|
Trong ngành xã hội học, hành động xã hội (tiếng Anh: Social actions) là một hình thức hoặc cách thức giải quyết các mâu thuẫn hay các vấn đề xã hội. Hành động xã hội được tạo ra bởi các phong trào xã hội, các tổ chức, các đảng phái chính trị, v.v. Thực chất, hành động xã hội là sự trao đổi trực tiếp giữa các cá nhân với nhau cũng như các khuôn mẫu quan hệ đã được cấu trúc hóa bên trên các nhóm, tổ chức, thiết chế và xã hội. Một thực tế có thể quan sát được trong mọi tình huống cá nhân và công cộng hàng ngày là hành động xã hội của con người diễn ra theo những quy tắc nhất định và trong những hình thái nhất định, những quy tắc và hình thái này có một sứ bất biến tương đối. Hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người với xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người. Hành động xã hội mang một ý nghĩa bao trùm tổng thể các mối quan hệ xã hội.
|
Nên tháo gỡ loài người ra khỏi cái gì đó và giúp họ mang vác nó, chẳng gì quý hơn thế đối với họ – F. Nietzsche. Định nghĩa cơ chế phòng vệ: Đó là tập hợp các hành động mà mục đích của nó là làm giảm, loại bỏ tất cả các thay đổi có thể dẫn tới việc đưa cá nhân (với tính toàn vẹn và ổn định về mặt tâm – sinh lý của nó) vào tình thế nguy hiểm. Một định nghĩa khác: một cơ chế phòng vệ là một tiến trình bảo vệ được xây dựng bởi cái Tôi, dưới sức ép của Siêu tôi và hiện thực bên ngoài, mục đích là chống lại lo hãi. Có nhiều cơ chế phòng vệ. Các cơ chế tâm trí bảo vệ cái tôi khỏi những đòi hỏi từ phía cái Nó. Nhưng cái mà cái Tôi tự bảo vệ mình chủ yếu, là khỏi nỗi lo hãi. (Lưu ý: Cái Nó, cái Tôi, và cái Siêu tôi là các hiện thể tâm trí). Chính Freud là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này. Ông định nghĩa các cơ chế phòng vệ như là các kiểu (hoạt động, thao tác) khác nhau trong đó, thể hiện sự phòng vệ. Người ta cũng nói rằng các cơ chế phòng vệ được sử dụng bởi cái Tôi. Anna Fread sử dụng lại thuật ngữ của người bố trong tác phẩm “Cái Tôi và các cơ chế phòng vệ” của bà (1936). Bà giới thiệu sự phòng vệ như là một hoạt động năng động, tích cực và độc lập của cái Tôi, hoạt động này được sinh ra để bảo vệ cái Tôi trong việc chống lại đòi hỏi mang tính xung năng. Đó là việc đẩy lại và giữ các xung năng bị cấm đoán và các biểu tượng, đại diện không được chấp nhận vào trong vô thức, không cho phép nổi lên bề mặt ý thức. Dồn nén có mối liên quan với công việc của cái Siêu tôi, cái Siêu tôi cũng ném trả vào vô thức bất kỳ một quan điểm nào mà xã hội không chấp nhận. Đó là một tiến trình hoàn toàn bình thường, và cần thiết cho sự cân bằng tâm lý. Đó là cơ chế thường được sử dụng nhiều nhất, và cơ chế này góp phần xây dựng vô thức. Nhưng khi nó vận hành theo cách quá cứng nhắc, chỉ để nhận ra những cấm đoán, thì lo hãi sẽ nẩy sinh và chủ thể sẽ rơi vào trạng thái nhiễu tâm, lo hãi này cũng giống như một sự thỏa mãn. Quên một giai đoạn tồi tệ trong cuộc sống, giai đoạn này được dồn nén trong vô thức. Triệu chứng chuyển hoán phân ly, thể hiện một sự thỏa hiệp, nhờ có sự thỏa hiệp mà các đại diện xung năng bị cản trở sẽ hoàn toàn được dồn nén. Đó là sự chuyển hóa một xung năng bị ngăn cấm sang hành động hữu ích và được chấp nhận về mặt xã hội (thường gặp ở chủ nghĩa vị tha và tôn giáo). Mục tiêu bị cấm đoán đã bị từ bỏ, nhằm đến một mục tiêu mới, được chấp nhận bởi cái Siêu tôi. Đó là một cơ chế có lợi nhất và có giá trị đối với nhân cách, bởi vì nó cho phép giải phóng các xung năng dưới dạng các hành vi có giá trị theo Siêu tôi và được cộng đồng tán thưởng. Thăng hoa là sản phẩm có điều kiện, bởi giáo dục xã hội và đạo đức. Nó đảm bảo tổ chức của cái Tôi. Nó giữ vài trò quan trọng trong việc hòa nhập xã hội của chủ thể với môi trường và tham gia vào sự phát triển xã hội của chủ thể đó. Trên thực tế, nó mang lại cho chủ thể cảm giác cân bằng và hài lòng. Chủ nghĩa lý trí ở một số trẻ vị thành niên, đó là sự thăng hoa của xung năng tính dục bị ngăn cấm. Đó là việc tiếp nhận, một phẩm chất hay một thái độ của một người khác. Đồng nhất giữ vai trò quan trọng sâu xa trong quá trình hình thành nhân cách và đặc biệt là của cái Siêu tôi, với việc đồng nhất với bố mẹ. Giải pháp thích đáng cho phức cảm ơ đip là đồng nhất với người bố. Diễn viên đồng nhất với nhân vật của kịch bản, các bạn trẻ đồng nhất với thần tượng của họ, v.vv. Đó là việc ném trả lên người khác, những cảm xúc hay những xung năng không chấp nhận được (mà chủ thể chối bỏ nó ở trong chính mình). Đó là một cơ chế phòng vệ hiệu quả để chống lại lo âu, bởi vì nó cho phép sự căng thẳng bên trong được chảy đi, được giải tỏa, nhưng nó làm méo mó mối quan hệ với người khác và có thể dẫn tới những khó khăn trong các mối quan hệ. Phóng chiếu rất thường được sử dụng, trong điều kiện không có vấn đề tâm bênh: mê tín, huyền thoại, tâm linh, v.v. Nó được sử dụng một cách hệ thống, theo cách cực đoan, trong hoang tưởng (các xung năng thù ghét được phóng chiếu lên người khác, do đó chủ thể cảm thấy mình bị hại, người khác là những kẻ truy hại). Người bị hoang tưởng, họ ghét một ai đó và họ cho rằng người đó muốn làm hại họ. Đó là khi chủ thể tìm kiếm cách để giải quyết xung đột bằng cách quay lại các hành vi, các suy nghĩ hay các kiểu mối quan hệ ở một giai đoạn đã vượt qua, trước đây của quá trình phát triển nhân cách. Nó cho phép tránh các căng thẳng và xung đột mà họ phải đối mặt trong hiện tại. Việc sử dụng nhiều quá cơ chế này chứng tỏ một sự chưa trưởng thành về nhân cách. Thoái lùi được sử dụng một cách tạm thời (ví dụ trong quá trình bị đau ốm, chủ thể ở trong tình huống giống như đứa bé) hoặc kéo dài (giống như trong nhân cách hysteri chẳng hạn). Trong các trường hợp kéo dài, thoái lùi là một cơ chế nền tảng cho việc hình thành các căn bệnh tâm thần: ở mỗi giai đoạn phát triển mà chủ thể thoái lùi về một cách có hệ thống sẽ tương ứng với một kiểu bệnh tâm thần. Đó là sự khước từ việc nhận ra một sự kiện thực tế nào đó (bằng cách phủ định thực tế của nhận thức). Cơ chế phủ nhận thực hiện sự phủ quyết hiện thực của tri giác về đối tượng. Thường đó là các sự kiện thực tế gây đau khổ. Cơ chế này có thể là hữu ích, khi nó đi theo ngay lập tức các sự kiện gây chấn thương, với điều kiện nó không kéo dài cũng không gây trở ngại cho việc gia nhập xã hội. Trong trường hợp cơ chế này kéo dài, người ta có thể bị khó khăn về loạn thần hoặc lệch lạc tính dục. Hiện tượng “chi ma” ở những người bị cụt, phủ nhận cái chết của ai đó trong giai đoạn tang, phủ nhận một căn bệnh nặng. Phủ nhận một cách có hệ thống về thực tế sẽ gây cản trở, ví dụ như ở những người mắc bệnh loạn thần. Một xung năng không được chấp nhận sẽ chuyển hóa sang điều ngược lại: chủ thể sẽ thể hiện hay tiếp nhận một hành vi có hướng hoàn toàn ngược lại với các xu hướng của bản năng. Sự sạch sẽ thái quá ở những người bị ám ảnh, có thể là cơ chế phòng vệ chống lại ham muốn vô thức về sự bẩn thỉu hay ham muốn chơi với những cái bẩn. Chủ nghĩa khổ hạnh ở một số trẻ vị thành niên, thể hiện sự hình thành phản ứng ngược để chống lại sự thúc đẩy của các xung năng tính dục ở tuổi dậy thì. Sự lịch sự thái quá và vị tha có thể thể hiện cơ chế hình thành phản ứng để chống lại sự hung tính vô thức. Sự ân cần thái quá cũng có thể là cơ chế phản ứng ngược để chống lại sự thù ghét. Cho phép chuyển những cảm xúc có liên quan đến những điều bị ngăn cấm đến những điều ít bị cấm đoán hơn, nhưng vẫn có liên quan đến những điều bị ngăn cấm ấy bằng một yếu tố có ý nghĩa tượng trưng. Nỗi sợ hãi về tình dục có thể dịch chuyển sang nỗi sợ ra ngoài đường phố. Mối quan hệ giữa hai điều này (vấn đề tình dục và đường phố) là, con phố là biểu hiện của mối liên quan với các cuộc gặp gỡ, mà các cuộc gặp gỡ thì có thể đẩy tới các mối quan hệ tình dục.
|
Cơ chế phòng vệ
|
Trong lý thuyết phân tâm học, các cơ chế phòng vệ mang bản chất vô thức. Đó là những "chiến thuật" tâm lý được bộc lộ dưới các dạng thức khác nhau, nhằm đương đầu với thực tế và để duy trì hình ảnh bản thân. Thường chúng ta vẫn sử dụng các cơ chế phòng vệ khác nhau trong đời sống hàng ngày. Một cơ chế phòng vệ chỉ mang tính bệnh lý khi nó bị lạm dụng, dẫn tới những hành vi kém thích nghi và sẽ gây ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe thể chất và tâm trí. Mục đích của các cơ chế phòng vệ này là nhằm bảo vệ tâm trí/cái Tự Mình/ cái Tôi khỏi lo âu và/ hoặc những hình phạt xã hội, và cung cấp một nơi trú ẩn cho cá nhân khi đang rơi vào tình huống hiện thời chưa thể đương đầu. Các cơ chế phòng vệ, hay chính xác hơn là những cơ chế phòng vệ của cái Tôi có thể xuất hiện khi mà xung năng cái Nó xung đột với các cấu phần nhân cách khác, như khi những xung năng này xung đột với các giá trị hay niềm tin nơi cái Siêu Tôi, hay khi một nguy cơ từ Ngoại Giới động chạm tới cái Tôi.
|
Đặc điểm của tinh trùng1. Cách tinh trùng được tạo ra2. Thời gian sống của tinh trùng5. Sốt cao ảnh hưởng tới việc sản xuất tinh trùng6. Khi nào tinh hoàn ngưng sản xuất tinh trùng?7. Màu sắc, mùi vị của tinh trùng. Các vấn đề liên quan đến tinh trùng bạn cần biết1. Sự sản xuất tinh trùng2. Các biện pháp giúp nâng cao sức khỏe tinh trùng. Tinh trùng là tế bào chứa các thông tin di truyền, do tinh hoàn của nam giới sản xuất. Đặc điểm của tinh trùng là được sản xuất liên tục và trọn đời. Tinh trùng tham gia trực tiếp vào quá trình thụ thai và sinh sản ở người (và các loài động vật có vú). Trong sinh sản hữu tính, cần phải có sự kết hợp giữa thông tin di truyền (DNA) của cá thể đực và cá thể cái để tạo ra một cá thể mới. Sinh sản hữu tính xảy ra ở một số loài thực vật và động vật. Con người là một sinh vật sinh sản hữu tính. Tinh trùng (Spermatozoon) là tế bào thực hiện chức năng mang thông tin di truyền của cá thể đực. Tinh trùng đóng góp một nửa thông tin di truyền trong hoạt động thụ thai và sinh sản ở các loài động vật. Ở người, tinh trùng là các tế bào đơn bội, được tạo ra từ tinh hoàn. Tinh trùng chỉ sống được trong môi trường chứa các chất dinh dưỡng nuôi dưỡng cho nó. Môi trường sống của tinh trùng là chất nhầy, được gọi là tinh dịch. Cần phân biệt rõ hai khái niệm “tinh trùng” và “tinh dịch”. Trong khi tinh trùng là các tế bào mang thông tin di truyền, có khả năng di chuyển và được tinh hoàn sản sinh ra liên tục khoảng 72.000 con/phút; thì tinh dịch là chất nhầy màu trắng đục, là môi trường sống của các tế bào tinh trùng. Các tế bào gốc sẽ liên tục phân chia và biến đổi để tạo ra tinh trùng. Quá trình này diễn ra trong ống sinh tinh ở trong tinh hoàn. Mất khoảng 10-12 tuần thì tinh trùng mới trưởng thành và di chuyển đến mào tinh hoàn. Tế bào tinh trùng ở người là có kích thước nhỏ, chỉ có thể quan sát thấy dưới kính hiển vi. Cấu trúc cơ thể tinh trùng của người có các phần sau: đầu, cổ, thân, đuôi. Phần đầu dài 5 µm được gọi là hạt nhân, mang 23 nhiễm sắc thể (một nửa sắc thể người, do đó được gọi là tế bào đơn bội). Đuôi của nó dài 50 µm có hình roi, giúp tinh trùng di chuyển với tốc độ 1-3mm/phút. Trong quá trình sinh sản, tinh trùng sẽ xâm nhập vào trứng (nữ giới/giống cái). Khi hai tế bào gặp nhau, hai nhân trong tế bào (đực và cái) sẽ kết hợp với nhau, tạo ra thai nhi. Khi ở trong tinh dịch vương trên quần áo, tay chân thì chúng sẽ chết khi tinh dịch khô. Ở trong nước ấm chúng sống lâu hơn trong nước lạnh vì tinh trùng thích nhiệt độ ấm. Nhưng khi đã vào đây, thì khả năng xâm nhập vào cơ thể nữ để thụ thai rất thấp. Khi bị đông lạnh với nhiệt độ từ -196°C trở xuống, tinh trùng sẽ ở dạng bất hoạt khiến mọi hoạt động bị ngưng lại. Nếu duy trì được nhiệt độ này, chúng có thể sống được rất lâu. Nếu bạn sốt từ 38.5°C trở lên, tinh trùng có thể bị ngưng sản xuất từ 5-6 tháng. Thực ra nó vẫn được sản xuất với số lượng ít, đồng thời sức khỏe tinh trùng kém, tỷ lệ tinh trùng dị dạng nhiều. Do đó, bạn không nên cố gắng có thai nếu vừa mới trải qua một đợt sốt cao xong. Không giống phụ nữ, tới thời kỳ mãn kinh sẽ hết rụng trứng. Đàn ông có thể sản xuất tinh trùng đến hết đời. Bình thường, tinh trùng của chúng ta sẽ có màu trắng đục hoặc màu xám. Tinh dịch chứa tinh trùng ở dạng lỏng, trông hơi đặc, nhớt nhớt, dính dính. Mùi đặc trưng của tinh trùng là hơi tanh. Nếu lâu ngày mới xuất tinh thì mùi tanh sẽ mạnh hơn. Sau khi xuất tinh thì tinh trùng đông lại như thạch, khoảng 4-5 phút sau thì trở về trạng thái lỏng bình thường. Điều này giúp cho việc tinh trùng di chuyển vào gặp trứng và thụ tinh dễ dàng hơn. Nếu tinh trùng của bạn có màu sắc lạ như vàng, xanh, đỏ hay bị vón cục hoặc có mùi hôi lạ … hãy đi thăm khám sớm để biết nguyên nhân. Như đã nhắc đến ở trên, tinh trùng được sản xuất ra tại cơ quan tinh hoàn. Theo các nghiên cứu, cứ mỗi phút, tinh hoàn sẽ sản xuất ra khoảng 72.000 đơn vị tinh trùng. Khi nam giới bước vào tuổi dậy thì, tinh trùng sẽ bắt đầu được sản xuất. Sự sản xuất tinh trùng này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, hormone Testosterone là yếu tố quan trọng, thúc đẩy sản xuất tinh trùng. Nếu như trứng ở nữ giới sẽ ngừng sản xuất từ độ tuổi mãn kinh thì tinh trùng ở nam giới hầu như luôn được sản xuất ra trọn đời. Chỉ cần hormone Testosterone trong cơ thể ở mức vừa đủ, tinh hoàn sẽ tạo ra tinh trùng. Đây chính là đặc trưng sinh sản căn bản giữa nam giới và nữ giới. Tinh trùng chính là “hạt giống” góp phần vào quá trình thụ thai và sinh sản. Do đó, nam giới cần phải có tinh trùng khỏe mạnh, đạt chất lượng thì việc thụ thai sẽ dễ dàng hơn và sức khỏe của thai nhi sẽ tốt hơn. Như thế nào là tinh trùng khỏe mạnh? Tinh trùng khỏe mạnh chính là tinh trùng có chất lượng cao. Có thể kiểm tra chất lượng của tinh trùng bằng cách xét nghiệm tinh dịch của đàn ông. Bên cạnh đó, tinh dịch cũng cần có màu trắng trong, ngả đục. Tinh trùng không có máu và màu lạ. Những tiêu chí trên giúp đánh giá người nam đang có sức khỏe tốt và tình trạng tinh trùng đạt chất lượng chuẩn. Nếu không đạt những tiêu chí trên, nam giới có thể đã mắc chứng tinh trùng yếu. Tinh trùng yếu là một bệnh lý liên quan đến tinh trùng. Khi bị tinh trùng yếu, chất lượng tinh trùng ở nam giới bị suy giảm. Một số dấu hiệu cho biết bạn đang bị mắc chứng tinh trùng yếu là:. Khi bị chứng tinh trùng yếu, khả năng thụ thai sẽ không cao. Bên cạnh đó, đây cũng là dấu hiệu cho biết nam giới có nguy cơ hiếm muộn, vô sinh. Để điều trị bệnh tinh trùng yếu, nam giới cần đến gặp bác sĩ để được kiểm tra, cho biết liệu trình điều trị và nhận được những hướng dẫn chăm sóc sức khỏe đúng cách. Như đã nói bên trên, tinh trùng sẽ được sản xuất trọn đời nếu cơ thể khỏe mạnh và nội tiết tố Testosterone luôn đầy đủ.
|
Tinh trùng thể hoạt động
|
Một tinh trùng thể hoạt động là một tế bào tinh trùng di động, hoặc là hình thức di chuyển của tế bào đơn bội là giao tử đực. Một tinh trùng tiến vào một noãn để tạo thành hợp tử. (Hợp tử là một tế bào đơn lẻ, với một bộ nhiễm sắc thể hoàn chỉnh, thường phát triển thành phôi. Các tế bào tinh trùng đóng góp khoảng một nửa thông tin di truyền hạt nhân cho con cái lưỡng bội (trong hầu hết các trường hợp không bao gồm DNA ty thể). Đối với động vật có vú, giới tính của con được xác định bởi tế bào tinh trùng: một tinh trùng mang nhiễm sắc thể X sẽ cho con là giống cái (XX), trong khi nếu tinh trùng mang một nhiễm sắc thể Y thì sẽ cho con là giống đực (XY). Các tế bào tinh trùng được quan sát lần đầu tiên trong phòng thí nghiệm của Antonie van Leeuwenhoek vào năm 1677. Năm 1677 nhà vi trùng học Antonie van Leeuwenhoek đã phát hiện ra tinh trùng. Năm 1841, nhà giải phẫu học người Thụy Sĩ Albert von Kölliker đã viết về tinh trùng trong tác phẩm của mình Untersuchungen über die Bedeutung der Samenfäden (Nghiên cứu về tầm quan trọng của tinh trùng).
|
Âm đạo là một bộ phận có hình ống kéo dài nối từ âm hộ đến cửa tử cung. Về vị trí, âm đạo nằm trong thành môi nhỏ, vị trí phía dưới lỗ niệu đạo và phía trên hậu môn. Cửa âm đạo được bảo vệ bởi màng trinh và các môi âm hộ. Cấu tạo của âm đạo bao gồm phần mô và ống của cơ quan sinh dục nữ kéo dài từ âm hộ đến tử cung. Về cơ bản âm đạo gồm 3 lớp:. Lớp thành âm đạo có hình lưới, trơn, bao gồm niêm mạc và các mô cơ sinh học chứa rất nhiều dây thần kinh. Lớp thứ hai gồm một lớp cơ tròn nội mô yếu và một lớp cơ chiều dọc bên ngoài mạnh mẽ hơn. Hệ thống lớp cơ này thường co bóp mạnh trong sinh hoạt tình dục hoặc khi sinh nở. Lớp thứ ba gồm một lớp mô liên kết bên ngoài kết hợp với các mô có chứa mạch máu liên kết yếu, các dây thần kinh và mạch bạch huyết. Sau này trở thành các cơ quan nằm trong vùng chậu. Về kích thước, do khả năng giãn nở của âm đạo rất tốt nên bộ phận này hầu như không có kích thước cố định. Ở trạng thái bình thường kích cỡ chiều dài âm đạo phụ nữ vào khoảng 7 - 8cm, nhưng khi bị kích thích có thể sâu tới 11cm. Tùy vào mức độ kích thích, các giai đoạn phát triển của người phụ nữ mà âm đạo có những kích thước khác nhau. Phụ nữ khi chưa quan hệ tình dục thì âm đạo thường nhỏ hơn 1,5cm, nhưng khi sinh nở âm đạo có thể giãn tới 10cm. Nói chung, để xác định kích cỡ chính xác của âm đạo khó hơn cả kích cỡ của dương vật. Chức năng của âm đạo rất đa dạng, có vai trò quan trọng đối với hoạt động sinh sản, sinh lý của nữ giới. Một số chức năng chính có thể kể đến:. Là một bộ phận quan trọng cho phép con người quan hệ tình dục và sinh sản. Âm đạo có tính đàn hồi cao, có khả năng co giãn gấp nhiều lần so với kích thước bình thường để hỗ trợ cho việc đón nhận dương vật, thụ tinh tự nhiên, mang thai và sinh nở. Trong quá trình sinh hoạt tình dục ,độ ẩm âm đạo được tăng lên khi được kích thích, thành niêm mạc giúp tiết ra chất nhờn tự nhiên để bôi trơn giảm ma sát và cho phép dương vật thâm nhập dễ dàng hoạt động tình dục. Đây cũng là chất có khả năng làm sạch âm đạo, ngăn chặn vi khuẩn xâm nhập gây viêm nhiễm, giúp bảo vệ âm đạo được sạch sẽ. Thông qua đường âm đạo, các bác sĩ phụ khoa có thể khám cơ quan sinh dục trong và ngoài của phụ nữ để đánh giá tình trạng sức khỏe phụ khoa, xác định cụ thể ngày rụng trứng. Đa phần các bệnh lý về âm đạo nói riêng và bệnh phụ khoa nói chung đều có nguyên nhân từ chế độ sinh hoạt, vệ sinh, dinh dưỡng nạp vào hàng ngày. Vì vậy cách phòng tránh bệnh hiệu quả nhất là chị em nên thay đổi điều chỉnh thói quen sinh hoạt cũ sang những hoạt động lành mạnh hơn:. Quan hệ tình dục an toàn, sử dụng các biện pháp phòng tránh bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Hạn chế tối đa nguy cơ tái phát bệnh phụ khoa (nếu có). Tăng cường chế độ ăn uống dinh dưỡng bổ sung đầy đủ dưỡng chất, đặc biệt là chất xơ và vitamin C. Thường xuyên tập luyện thể dục, thể thao để tăng sự dẻo dai, sức đề kháng cho cơ thể. Một số bộ môn như yoga, kegel sẽ rất tốt giúp thu hẹp cơ âm đạo của nữ giới. Vệ sinh vùng kín sạch sẽ, khô thoáng, tắm rửa và thay đồ lót thường xuyên. Sử dụng nước ấm rửa nhẹ nhàng vùng kín và tránh tuyệt đối các loại xà phòng, sữa tắm có chất tẩy rửa mạnh để làm sạch âm đạo, âm hộ. Khám phụ khoa định kỳ ít nhất 6 tháng/ lần tại các cơ sở y tế uy tín để kịp thời phát hiện và điều trị sớm các bệnh phụ khoa.
|
Âm đạo
|
Âm đạo (tiếng Latinh: vagina, tiếng Hy Lạp: kolpos) là phần mô cơ và ống của cơ quan sinh dục nữ, đối với con người kéo dài từ âm hộ đến cổ tử cung. Bên ngoài cửa âm đạo có thể được bao phủ một phần bởi một màng được gọi là màng trinh. Tận cùng bên trong là cổ tử cung nối vào âm đạo. Âm đạo cho phép con người quan hệ tình dục và sinh sản, để kinh nguyệt chảy ra định kỳ theo chu kỳ kinh nguyệt. Âm đạo ở người được nghiên cứu kỹ hơn so với các động vật khác. Vị trí và cấu trúc của âm đạo thay đổi giữa các loài, và có thể thay đổi kích thước trong cùng một loài. Không giống như động vật có vú giống đực với niệu đạo mở ra ngoài đảm nhiệm cả hai chức năng tiểu tiện và sinh sản, động vật có vú giống cái có lỗ niệu đạo để tiểu tiện riêng biệt và cửa âm đạo dành cho đường sinh dục. Đối với con người, cửa âm đạo lớn hơn nhiều so với lỗ niệu đạo gần đó, và cả hai đều được các môi âm hộ bảo vệ.
|
Vương quốc Kush (hay Cush) là một quốc gia cổ đại hùng mạnh đã tồn tại (hai lần) ở khu vực ngày nay là phía bắc của Sudan . Vương quốc thứ hai, kéo dài từ năm 1000 trước Công nguyên cho đến năm 400 sau Công nguyên, với các kim tự tháp giống như người Ai Cập, là Vương quốc được biết đến và nghiên cứu nhiều hơn về hai Vương quốc này, nhưng nó có tiền thân là Vương quốc trước đó từ năm 2000 đến 1500 trước Công nguyên là tâm điểm của thương mại và sự đổi mới. Vương quốc Kush đầu tiên, còn được gọi là Kerma, là một trong những quốc gia châu Phi lâu đời nhất bên ngoài Ai Cập. Nó phát triển xung quanh khu định cư của Kerma (ngay trên vết đục thủy tinh thể thứ ba trên sông Nile, ở Thượng Nubia). Kerma xuất hiện vào khoảng năm 2400 trước Công nguyên (trong thời Vương quốc Cổ Ai Cập), và đã trở thành thủ đô của Vương quốc Kush vào năm 2000 trước Công nguyên. Kerma-Kush đạt đến đỉnh cao giữa năm 1750 và 1500 trước Công nguyên — thời điểm được gọi là Kerma Cổ điển. Kush phát triển mạnh mẽ nhất khi Ai Cập suy yếu nhất, và 150 năm cuối cùng của thời kỳ Kerma Cổ điển trùng lặp với một thời gian biến động ở Ai Cập được gọi là Thời kỳ Trung gian thứ hai (1650 đến 1500 trước Công nguyên). Trong thời đại này, Kush đã tiếp cận các mỏ vàng và giao dịch rộng rãi với các nước láng giềng phía bắc, tạo ra của cải và quyền lực đáng kể. Sự hồi sinh của một Ai Cập thống nhất với Vương triều thứ 18 (1550 đến 1295 trước Công nguyên) đã đưa vương quốc Kush thời kỳ đồ đồng này kết thúc. Tân Vương quốc Ai Cập (1550 đến 1069 trước Công nguyên) đã thiết lập quyền kiểm soát xa về phía nam cho đến lần đục thủy tinh thể thứ tư và tạo ra vị trí Phó vương của Kush, cai quản Nubia như một khu vực riêng biệt (gồm hai phần: Wawat và Kush). Theo thời gian, quyền kiểm soát của Ai Cập đối với Nubia suy giảm, và đến thế kỷ 11 trước Công nguyên, các Viceroys của Kush đã trở thành những vị vua độc lập. Trong thời kỳ trung gian thứ ba của Ai Cập, một vương quốc Kushite mới xuất hiện, và đến năm 730 trước Công nguyên, Kush đã chinh phục Ai Cập ngay đến bờ Địa Trung Hải. Kushite Pharoah Piye (trị vì: khoảng 752-722 TCN) đã thành lập Vương triều thứ 25 ở Ai Cập. Tuy nhiên, việc chinh phục và tiếp xúc với Ai Cập đã định hình nền văn hóa Kush. Vương quốc Kush thứ hai này đã dựng lên các kim tự tháp, thờ nhiều vị thần Ai Cập và gọi những người cai trị nó là Pharaoh, mặc dù nghệ thuật và kiến trúc của Kush vẫn giữ những đặc điểm riêng biệt của người Nubia. Do sự pha trộn giữa sự khác biệt và tương đồng này, một số người đã gọi sự cai trị của Kushite ở Ai Cập là "Vương triều Ethiopia", nhưng nó không kéo dài. Năm 671 trước Công nguyên, Ai Cập bị người Assyria xâm lược, và đến năm 654 trước Công nguyên, họ đã đánh đuổi người Kush trở lại Nubia. Kush vẫn an toàn đằng sau khung cảnh hoang vắng phía nam Aswan , phát triển một ngôn ngữ và kiến trúc biến thể riêng biệt. Tuy nhiên, nó đã duy trì truyền thống pharaonic. Cuối cùng, thủ đô được chuyển từ Napata về phía nam đến Meroe, nơi Vương quốc Meroitic mới phát triển. Đến năm 100 SCN, nó suy tàn và bị Axum phá hủy vào năm 400 SCN. "Vương quốc Kush: Trung tâm châu Phi ở ngoại vi của hệ thống thế giới thời đại đồ đồng", Tạp chí Khảo cổ học Na Uy 42.1 (2009): 50-70. Các học giả Cuộc đua để Khôi phục Vương quốc Đã mất trên sông Nile ," New York Times, ngày 19 tháng 6 năm 2007. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
|
Vương quốc Kush
|
Vương quốc Kush hoặc Kush () là một vương quốc cổ đại ở châu Phi nằm trên khu vực hợp lưu của sông Nile Xanh, Nile Trắng và sông Atbara, ngày nay là cộng hòa Sudan. Được thành lập vào giai đoạn cuối thời kỳ đồ đồng cùng với thời điểm Tân Vương Quốc suy tàn ở Ai Cập, kinh đô của nó đặt tại Napata trong giai đoạn đầu. Sau khi vua Kashta ("người Kush") xâm chiếm Ai Cập vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên, các vị vua người Kush đã cai trị như là pharaoh của triều đại thứ 25 của Ai Cập suốt một thế kỷ, cho đến khi họ bị Psamtik I đánh đuổi vào năm 656 TCN. Trong thời đại cổ điển, kinh đô của Kush nằm tại Meroe. Trong những tác phẩm địa lý Hy Lạp thời kỳ đầu, vương quốc Meroe được biết đến với tên gọi Ethiopia. Vương quốc Kush với kinh đô là Meroe đã tồn tại cho đến tận thế kỷ thứ 4 CN, khi mà nó bị suy yếu và tan rã do các cuộc nội chiến. Sau cùng, kinh đô của người Kush đã bị vương quốc Axum đánh chiếm và thiêu trụi hoàn toàn.
|
VNTN – Ngày nay, công chúng nói chung và ngay cả nhiều người hoạt động chuyên nghiệp trong giới nghệ thuật như các nghệ sĩ, những người quản lý, những nhà kinh doanh nghệ thuật, v.v… vẫn thường lúng túng và nhầm lẫn khi đề cập đến các khái niệm “Nghệ thuật đương đại” (Contemporary Art) và “Nghệ thuật hiện đại” (Modern Art). Trong sự phát triển của lịch sử nghệ thuật, sự thay đổi về đặc điểm và bản chất của các trào lưu hay các trường phái trong nền văn hóa luôn báo trước sự kết thúc của những thứ đã lỗi thời, và kèm theo đó là sự xuất hiện của những “cái mới” phù hợp với hoàn cảnh mới, yêu cầu mới – đó vừa là kết quả của sự phát triển của thực tiễn khách quan đi cùng những thôi thúc chủ quan của những nghệ sĩ tiên phong luôn hướng đến những sáng tạo mới mẻ. Có một sự đồng thuận chung rằng Nghệ thuật Hiện đại bắt đầu vào giữa thế kỷ 19 ở Pháp. Các nghệ sĩ như Gustave Courbet (1819 – 1877), Edouard Manet (1832 – 1883) và các nhà Ấn tượng đã mạnh dạn thách thức truyền thống kinh viện hiện hành, phá bỏ lối mô tả thế giới được con mắt thu nhận một cách tự nhiên chủ nghĩa. Bức tranh mang tính cách mạng của Manet “Déjeuner sur l’herbe” (Bữa ăn trưa trên bãi cỏ), được trưng bày năm 1863 tại Salon des Refusés, đã bị chế giễu và nhận rất nhiều bình phẩm xúc phạm vào thời đó. Công chúng bị sốc bởi sự có mặt của một người phụ nữ trần truồng giữa hai người đàn ông mặc quần áo đầy đủ trong trang phục đương thời. Tính hiện đại của người phụ nữ, không đặc biệt biểu thị bất kỳ sự tương đồng nào với các bức tranh khỏa thân cổ điển, khiến cho sự khỏa thân của cô bị coi là “không đứng đắn”. Các nhà phê bình cũng cảm thấy bị xúc phạm bởi lối vẽ khu rừng và một cô gái khác đang tắm ở phía sau nền tranh rất phi thực tế. Mặc dù tác phẩm của Manet đã làm phiền những người chỉ trích, nó đã mở đường cho các nhà Hậu Ấn tượng. Họ tự tách ra khỏi truyền thống thông qua các lựa chọn riêng về chủ đề và từ chối cách nhìn phổ biến. Một nghệ sĩ Hậu Ấn tượng là Paul Cézanne (1839-1906), đã cố gắng thiết lập trật tự cho các đường/nét, diện và màu sắc – nghĩa là bao gồm sự mô tả toàn bộ thiên nhiên. Trong tác phẩm “Mont Sainte-Victoire Seen from Bibemus Quarry” (Đỉnh núi Sainte-Victore nhìn từ khu mỏ Bihemusz) (1897), Cézanne đã cố gắng kết hợp ý định trừu tượng hóa hình ảnh với sự quan sát trực tiếp thiên nhiên của mình thông qua việc sử dụng những mảng màu nhỏ ấm hơn và lạnh hơn. Lấy cảm hứng từ nỗ lực của Cézanne cố gắng trừu tượng hóa hình thức tinh khiết nhất của tự nhiên và giải phóng hội họa khỏi vai trò mô tả, Pablo Picasso (1881-1973) là người đầu tiên phát triển các ranh giới trừu tượng. Trong “Les Demoiselles d’Avignon” (Những cô nàng Avignon) (1907), miêu tả năm cô gái mại dâm khỏa thân trong một nhà chứa ở Barcelona, Picasso đã phân mảnh hình thể của họ, mô tả đồng thời các góc quan sát khác nhau, bố trí các khoảng trống đan cài với các nhân vật. Khái niệm truyền thống của một không gian hình ảnh thống nhất phản ánh thế giới lần đầu tiên đã bị phá vỡ hoàn toàn. Hình ảnh này đã đặt nền móng cho việc Picasso và Braque phát minh ra trường phái Lập thể (Cubist), trong đó các đối tượng bị phân mảnh thành những thành phần hình học khác nhau và thường được mô tả/biểu diễn từ nhiều góc độ cùng một lúc. Mặc dù những người theo chủ nghĩa Lập thể đã phân mảnh các đối tượng của họ, tác phẩm của họ không hoàn toàn trừu tượng. Họ luôn luôn duy trì những đầu mối để người xem có thể nhận diện được một nhân vật hoặc một vật thể thực nào đó – dù đó là một người đàn bà hay chiếc đàn ghi ta. Vũ Bạch Liên, “Trong cõi nhân gian”, tác phẩm trình diễn kết hợp với sắp đặt. Triển lãm “Cuộc đời”, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Hà Nội, tháng 3/2018. Vasily Kandinsky (1866-1944) là một trong những nghệ sĩ đầu tiên đã thực hiện những tác phẩm hoàn toàn phi khách quan (non-objective, trừu tượng), như trong bức “Composition VII” (Bố cục VII) (1913); thông qua sự lộn xộn của các hình khối, màu sắc và đường nét, và không mô tả các đối tượng theo lối dễ nhận biết – cho thấy họa sĩ đã khước từ truyền thống mô tả hiện thực khách quan theo lối “càng giống như thật càng tốt”. Dù ấp ủ những mục tiêu nghệ thuật riêng, tất cả các bức tranh nói trên của Manet, Gauguin, Picasso và Kandinsky đều là những tác phẩm hội họa Hiện đại. Mỗi người trong số họ đều đã cố gắng tạo nên những phản ứng thẩm mỹ hiện đại khác biệt: hoặc bóp méo những hình ảnh của tự nhiên khác hẳn với lối biểu hiện của hội họa thế kỷ 19, hoặc hoàn toàn khước từ việc bắt chước thế giới khách quan. Ngoài các đặc tính thẩm mỹ, Nghệ thuật Hiện đại còn được phân biệt bởi một loạt các phong trào, mà trong tên gọi có gắn đuôi “ism” (chủ nghĩa). Bên cạnh Chủ nghĩa Ấn tượng (Impressionism), Chủ nghĩa Hậu hiện đại (Post-Impressionism), Chủ nghĩa Lập thể (Cubism) như vừa đề cập, các phong trào nghệ thuật hiện đại còn bao gồm Chủ nghĩa Tượng trưng (Symbolism), Chủ nghĩa Dã thú (Fauvism), Chủ nghĩa Vị lai (Futurism), Chủ nghĩa Tối thượng (Suprematism), Chủ nghĩa Kiến tạo (Constructivism), Chủ nghĩa Dada (Dadaism), Chủ nghĩa Siêu thực (Surrealism). Mặc dù không có sự đồng thuận rõ ràng nào về việc Nghệ thuật Hiện đại kết thúc từ lúc nào và Nghệ thuật Đương đại thực sự bắt đầu từ đâu, phần lớn các nhà phê bình tin rằng đã xảy ra một bước ngoặt vào cuối những năm 1960. Nói chung, nghệ thuật ra đời sau thời điểm này có thể được coi là “Đương đại” (Contemporary art), ví dụ như nghệ thuật Ý niệm (Conceptual art), nghệ thuật Trình diễn (Performance art), nghệ thuật Tối giản (Minimalism), nghệ thuật Đại chúng (Pop-art), nghệ thuật Video (Video-art). Một trong những đặc tính chủ yếu nhất của Nghệ thuật Đương đại là quan tâm đến ý niệm cơ bản của tác phẩm (nghệ thuật Ý niệm và nghệ thuật Trình diễn) nhiều hơn là tập trung vào những phẩm chất thẩm mỹ của tác phẩm nghệ thuật. Ngoài ra, kết quả cuối cùng của tác phẩm Nghệ thuật Đương đại trở nên ít quan trọng hơn là tiến trình mà nghệ sĩ thực hiện và hoàn thành tác phẩm, đòi hỏi phải có sự tham gia và tương tác của khán giả với nghệ sĩ và/hoặc tác phẩm. Một ví dụ điển hình là tác phẩm ý niệm đầu tiên của Joseph Kosuth có nhan đề “Một và ba chiếc ghế” (1965), trong đó một chiếc ghế thật được bố trí kèm theo một bức ảnh chụp chiếc ghế và định nghĩa về “ghế” trong từ điển. Việc đặt cạnh nhau của bức ảnh chụp chiếc ghế và những chữ viết mô tả chiếc ghế có vẻ hơi bất bình thường, và vì hình ảnh và văn bản đều có giá trị tương đương – cùng chỉ “chiếc ghế”, do đó phá hủy những khác biệt truyền thống giữa ảnh và chữ. Bằng cách tạo ra sự nghi ngờ tình trạng của bức ảnh, Kosuth cũng làm cho các hình thức biểu hiện nghệ thuật khác (chiếc ghế thật và những chữ mô tả chiếc ghế) trở nên đáng ngờ. Tác phẩm “Một và ba chiếc ghế” đã đặt nền móng cho xu hướng đề cao ý tưởng hay khái niệm về một tác phẩm hơn chính bản thân đối tượng. Những đặc điểm được đề cập ở trên là không thể thiếu được đối với nghệ thuật đương đại. Tuy nhiên, trong thực tế có một số nghệ sĩ thực hành nhiều phong cách nghệ thuật. Chẳng hạn, nghệ sĩ gây tranh cãi Damien Hirst (1965) vừa vẽ tranh biểu hình và tranh trừu tượng, vừa làm điêu khắc. Một số họa sĩ Hà Lan, ví dụ như Henk Helmantel, lại rất nổi tiếng với dòng tranh tĩnh vật, thậm chí được vẽ theo phong cách cổ điển của thời Hoàng kim của nghệ thuật Hà Lan. Cuối cùng, Nghệ thuật Đương đại thường có ý thức xã hội nhiều hơn những tác phẩm của các thời kỳ trước. Rất nhiều tác phẩm nghệ thuật được sản xuất trong ba mươi năm qua đã có sự kết nối với các vấn đề xã hội và chính trị. Tác phẩm “Sirens of the Lambs” (Tiếng kêu của những con cừu, 2013) của nghệ sĩ đường phố Banksy thể hiện một loạt các con thú hình nộm thò đầu ra ngoài thùng xe tải, kêu thét lên vì sợ hãi. Tác phẩm nghệ thuật sắp đặt di động này có thể được coi như một lời phê phán sự tàn nhẫn thường ngày của ngành công nghiệp thực phẩm. Riêng ở Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử, dấu mốc ra đời của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội năm 1925 trong thời thuộc địa, thường được xem là thời điểm đánh dấu sự xuất hiện của một nền hội họa hiện đại của nước ta. Mặt khác, nghệ thuật đương đại ở Việt Nam cũng ra đời muộn hơn so với đa số các nước khác ở phương Tây – châu Âu và Bắc Mỹ. Phải sau thời kỳ Mở cửa, khoảng những năm 1986 – 1990, sau một thời gian dài mỹ thuật nước ta đi theo mô hình hiện thực xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã có cơ hội cọ xát với thế giới nghệ thuật bên ngoài, và từ đó manh nha xuất hiện những tác phẩm và nghệ sĩ có những sáng tác được coi là “đương đại” – không chỉ với các đặc điểm giàu tính ý niệm và (hoặc) coi trọng tiến trình sáng tác hơn là bản thân tác phẩm, mà còn bắt đầu xuất hiện các hình thức thể hiện đương đại khác nhau, ví dụ như trình diễn, sắp đặt, video-art, v.v…. Ngày hôm nay, có thể nói chúng ta đã dần dần bắt kịp các trào lưu nghệ thuật đương đại trên thế giới, cả về sự đa dạng cũng như các chất lượng của các tác phẩm nghệ thuật.
|
Nghệ thuật hiện đại
|
Nghệ thuật hiện đại (tiếng Anh: modern art) bao hàm các tác phẩm nghệ thuật được sáng tác trong giai đoạn khoảng từ thập niên 1860 đến thập niên 1970, biểu thị các phong cách và triết lý của nghệ thuật thời kỳ đó. Nghệ thuật hiện đại gạt sang một bên các truyền thống quá khứ với một tinh thần thể nghiệm. Các nghệ sĩ hiện đại thể nghiệm với những cách nhìn mới và với những ý tưởng mới về bản chất vật liệu và các chức năng của nghệ thuật. Nghệ thuật hiện đại có xu hướng xa rời tính tự sự (vốn dĩ là đặc trưng của nền nghệ thuật truyền thống) để hướng tới tính trừu tượng. Tác phẩm nghệ thuật ra đời trong các năm gần đây thường được gọi là nghệ thuật đương đại hoặc nghệ thuật hậu hiện đại. Nghệ thuật hiện đại bắt đầu với di sản hội họa của nhiều họa sĩ như Vincent van Gogh, Paul Cézanne, Paul Gauguin, Georges Seurat và Henri de Toulouse-Lautrec, tất cả mang tầm vóc quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của nghệ thuật hiện đại. Vào đầu thế kỷ 20, Henri Matisse và một số nghệ sĩ trẻ khác bao gồm các nghệ sĩ tiền lập thể như Georges Braque, André Derain, Raoul Dufy, Jean Metzinger và Maurice de Vlaminck đã cách mạng hóa thế giới nghệ thuật Paris với phong cách vẽ tranh phong cảnh "hoang dã", đa sắc màu, mang tính biểu cảm, cùng với những bức tranh thuộc trường phái dã thú.
|
Ngày nay, các thuật ngữ “cánh tả” và “cánh hữu” được sử dụng như các từ tượng trưng cho những người tự do và bảo thủ, nhưng ban đầu chúng được đặt ra để chỉ việc sắp xếp chỗ ngồi thực tế của các chính trị gia trong cuộc Cách mạng Pháp. Việc phân chia được bắt đầu từ mùa hè năm 1789, khi các thành viên của Quốc hội Pháp gặp gỡ để bắt đầu soạn thảo hiến pháp. Các đại biểu đã chia rẽ sâu sắc về vấn đề Vua Louis XVI nên có bao nhiêu quyền lực, và khi cuộc tranh luận nổ ra, mỗi bên trong hai phe phái chính đã chọn ra “lãnh địa” của mình trong hội trường. Các nhà cách mạng chống bảo hoàng ngồi về phía bên trái của chủ toạ, trong khi những người thuộc dòng dõi quý tộc, bảo thủ hơn và thể hiện thái độ ủng hộ chế độ quân chủ lại tập trung về phía bên phải. “Tôi đã cố gắng ngồi ở các vị trí khác nhau trong hội trường và không ngồi tại bất kì vị trí được đánh dấu nào, nhằm làm chủ quan điểm ban đầu của mình,” một vị nam tước cánh hữu viết, “nhưng tôi đã bị buộc phải hoàn toàn từ bỏ cánh tả, nếu không sẽ bị lên án vì luôn luôn phải lên bỏ phiếu một mình và do đó sẽ phải chịu những lời nhạo báng từ hội trường.”. Sự chia rẽ này được tiếp tục vào những năm 1790, khi báo chí bắt đầu nhắc đến những người “cánh tả” tiến bộ và những người “cánh hữu” bảo thủ của Quốc hội Pháp. Sự phân biệt này sau đó biến mất trong nhiều năm dưới thời trị vì của Napoleon Bonaparte, nhưng với sự kiện Bourbon Phục hoàng (Bourbon Restoration – khôi phục lại sự cai trị của nhà Bourbon) và sự bắt đầu một chế độ quân chủ lập hiến vào năm 1814, những người đại diện của các phe tự do và bảo thủ một lần nữa chiếm lấy vị trí của mình ở bên trái và bên phải của hội trường cơ quan lập pháp. Tới giữa thế kỷ 19, “cánh tả” và “cánh hữu” đã đi vào tiếng Pháp như là từ viết tắt cho những tư tưởng chính trị đối nghịch. Các đảng phái chính trị thậm chí đã bắt đầu tự nhận mình là “trung tả”, “trung hữu”, “cực tả” và “cực hữu”. Tư tưởng “cánh tả” và “cánh hữu” của Pháp đã ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới trong những năm 1800, nhưng những khái niệm này chưa trở nên phổ biến ở các nước nói tiếng Anh mãi cho đến đầu thế kỷ 20. Các thuật ngữ này hiện được sử dụng để mô tả các phe đối nghịch trên trường chính trị, nhưng nguồn gốc của chúng vẫn còn được thể hiện rõ trong việc sắp xếp chỗ ngồi của nhiều cơ quan lập pháp. Ví dụ, trong Quốc hội Hoa Kỳ, đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa có truyền thống ngồi ở các bên đối diện nhau trong các phòng họp của Hạ viện và Thượng viện. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
|
Chính trị cánh hữu
|
Chính trị cánh hữu đề cập tới các quan điểm hoặc lập trường có khuynh hướng chính trị-xã hội trái ngược với cánh tả trong hệ chính trị tả–hữu. Họ cho là một số trật tự xã hội và hệ thống phân cấp cũng như chủ nghĩa Quốc gia dân tộc và bảo thủ - tôn giáo tín ngưỡng và tâm linh là không thể tránh khỏi, tự nhiên, bình thường, hoặc được mong muốn bởi quần chúng nhân dân ở đâu đó, nhấn mạnh tôn ti trật tự, lòng yêu nước, sự gắn kết xã hội và trách nhiệm cá nhân với xã hội, tính kỷ luật, họ thường bảo vệ lập trường này trên cơ sở của luật tự nhiên, kinh tế học hay truyền thống. Hệ thống cấp bậc và bất bình đẳng theo quan điểm này có thể được xem như là kết quả tự nhiên của sự khác biệt truyền thống xã hội, hoặc sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Thuật ngữ cánh hữu ám chỉ số lượng hay sự khác nhau trong các quan điểm chính trị, nó được tạo ra trong cuộc cách mạng Pháp (1789-1799) và được sử dụng cho các chính trị gia ở Quốc hội Pháp; những người ngồi bên phải chiếc ghế của Chủ tịch Quốc hội và đòi thành lập chế độ quân chủ cũ trước đây (Ancien Régime).
|
Trong các phần mềm, trang web, thông thường phần vỏ của hệ thống có thể được tự động hóa thông qua các Ngôn ngữ Script.Các Ngôn ngữ Script như PHP, Javascript, Perl, VBScript, v.v. không cần phải biên dịch và có ít quyền truy cập vào các tính năng gốc của máy tính vì chúng chạy trên một tập hợp con của ngôn ngữ lập trình gốc.Một ví dụ có thể là Javascript sẽ không thể truy cập file hệ thống của bạn.Ngôn ngữ kịch bản thường được thông dịch. Trọng tâm chính của ngôn ngữ kịch bản không phải là xây dựng ứng dụng nhưng ngôn ngữ kịch bản có thể cung cấp hành vi cho ứng dụng hiện có.Nó cũng được sử dụng để mã hóa. Nó có thể tự động hóa một hoạt động trên một hệ thống phần mềm. Các tập lệnh được viết về cơ bản là một tập hợp các hướng dẫn để nhắm mục tiêu một hệ thống phần mềm.Ngày nay, Ngôn ngữ kịch bản đã phát triển để trở nên mạnh mẽ. Bây giờ chúng không bị giới hạn trong việc tạo các tập lệnh nhỏ để tự động hóa các hành vi trên một hệ thống phần mềm nữa.Chúng cũng có thể được sử dụng để xây dựng một ứng dụng đa năng với các ngôn ngữ kịch bản. Nó có thể thao tác, tùy chỉnh và tự động hóa các cơ sở của một hệ thống hiện có.Các chức năng hữu ích đã có sẵn thông qua một giao diện, các ngôn ngữ kịch bản cung cấp một cơ chế để hiển thị chức năng cho điều khiển chương trình. Ngôn ngữ lập trình được biên dịch thành mã máy và chạy trên phần cứng của Hệ điều hành bên dưới.Người ta phải sử dụng một IDE nhất định (Môi trường phát triển tích hợp) để sử dụng các ngôn ngữ lập trình.Các lập trình viên cung cấp một bộ hướng dẫn cho máy tính để đạt được một mục tiêu nhất định. Một số thuật toán cũng có thể được thực hiện bằng cách viết chương trình.Có nhiều ngôn ngữ lập trình trên thế giới với nhiều cách sử dụng khác nhau, cú pháp khác nhau, mục đích khác nhau.Ví dụNgôn ngữ lập trình C thường được sử dụng để lập trình bậc thấp, giao tiếp gần với ngôn ngữ máy và được sử dụng để tham khảo cho việc học tập các ngôn ngữ bậc cao.Trong khi đó, Java là ngôn ngữ lập trình bậc cao hay được sử dụng để lập trình ứng dụng, trang web. Giao tiếp gần hơn với con ngườiMột ngôn ngữ lập trình về cơ bản được sử dụng để biến đổi dữ liệu. Điều này thực sự xảy ra bằng cách tạo các lệnh CPU ghi dữ liệu đầu vào vào đầu ra.Ví dụ: Giải một tập hợp các phương trình từ một tập hợp các điều kiện.Các ngôn ngữ lập trình như Java, Scala, C, C ++, v.v … được coi là ngôn ngữ có mục đích chung. Đây là những ngôn ngữ lập trình được biên dịch. Người ta cần viết mã nguồn bằng cách thêm một số văn bản và sau đó chạy chúng thông qua trình biên dịch sẽ tạo ra các hướng dẫn nhị phân (Binary). Dưới đây là 10 điểm Khác biệt chính giữa Ngôn ngữ Kịch bản và Ngôn ngữ Lập trình để bạn hiểu rõ hơn. Sử dụng với ngôn ngữ lập trình mất nhiều thời gian hơn vì cần phải viết nhiều code hơn trong khi với Ngôn ngữ Kịch bản sẽ mất ít thời gian hơn để viết code vì vốn dĩ cú pháp, câu lệnh của Ngôn ngữ Kịch bản ngắn hơn.Ngôn ngữ Lập trình không yêu cầu máy chủ lưu trữ trong khi Ngôn ngữ kịch bản lại cần máy chủ để lưu trữ.Ngôn ngữ lập trình rất phức tạp và khó hiểu, khó để học trong khi Ngôn ngữ Kịch bản vì gần với ngôn ngữ tự nhiên hơn nên dễ học, dễ viết và dễ thành thạo hơn so với ngôn ngữ lập trình.Các ngôn ngữ lập trình thường được biên dịch và tạo một tệp thực thi trong khi các ngôn ngữ kịch bản được thông dịch và không tạo ra một tệp thực thi.Mã của ngôn ngữ lập trình được biên dịch và mã nhị phân và được chuyển đổi thành mã máy trong một lần. Trong khi, trong Ngôn ngữ kịch bản, các lệnh cấp cao được chuyển đổi thành ngôn ngữ máy ngay lập tức.Ngôn ngữ lập trình thường được sử dụng để xây dựng một sản phẩm từ đầu. Trong khi ngôn ngữ kịch bản có thể được sử dụng để kết hợp với các thành phần hoặc mô-đun hiện có.Ngôn ngữ lập trình được thiết kế theo cách mà lập trình viên có thể tận dụng tối đa các tính năng của ngôn ngữ. Trong khi ngôn ngữ kịch bản được thiết kế để giúp lập trình nhanh hơn và đơn giản hơn.Với ngôn ngữ lập trình, bạn sẽ cần nhiều dòng code hơn cho mỗi chức năng. Trong khi, Ngôn ngữ kịch bản chỉ cần ít dòng code mà vẫn tạo ra chức năng tương tự.Ngôn ngữ lập trình tốn nhiều chi phí bảo trì. Trong khi với Ngôn ngữ kịch bản, chi phí bảo trì giảm đáng kể.C, C ++, C , Java, VC ++, COBOL, Pascal, v.v. là những ví dụ về ngôn ngữ lập trình trong khi PHP, JavaScript, VB Script, Python, Ruby, v.v. là những ví dụ về ngôn ngữ kịch bản. BONUS 1: Về đặc tính thiết kế nên xem xét chung, ngôn ngữ Kịch bản tạo ra chương trình có hiệu suất chậm hơn so với Ngôn ngữ Lập trình. Tuy nhiên, hiệu suất cụ thể còn phải so sánh với từng trường hợp và từng bài toán đặt ra. Có những bài toán, ngôn ngữ kịch bản được tối ưu còn đem lại hiệu suất cao hơn ngôn ngữ lập trình nhiều lần. Ngày nay, điểm khác biệt hiệu suất giữa Ngôn ngữ Lập trình và Ngôn ngữ Kịch bản ngày càng trở nên mờ nhạt hơn vì quá trình biên dịch bởi các thiết bị, các kỹ thuật hiện đại diễn ra khá nhanh.Không có lý do gì mà người ta không thể viết trình thông dịch C và sử dụng nó làm ngôn ngữ kịch bản và tương tự, không có lý do gì mà người ta không thể biên dịch JavaScript thành mã máy và lưu trữ nó trong một tệp thực thi.Ngôn ngữ Script hoặc Script giống như lập trình trong một chương trình. Cách tiếp cận truyền thống với kịch bản là người ta sẽ viết các tập lệnh để tự động hóa chức năng nhất định trong một chương trình khác.Ngôn ngữ Script sẽ thực hiện một nhiệm vụ rất cụ thể như trích xuất số trong một văn bản cụ thể. Với ngôn ngữ lập trình, bạn đang viết phần mềm chạy độc lập với chương trình mẹ.Với ngôn ngữ lập trình, lập trình viên thường tham gia vào một dự án tạo ra nhiều chức năng hơn là chỉ là một tập lệnh truyền thống.Các kỹ thuật, thiết bị hiện đại ngày hôm nay, Ngôn ngữ Script trở nên rất mạnh và thực hiện tốt cả các nhiệm vụ từng chỉ được giải quyết bằng ngôn ngữ Lập trình.Ngôn ngữ Kịch bản hiểu đơn giản là một tập hợp con của Ngôn ngữ lập trình. Nhưng chúng ta chỉ nên quan tâm đến chính ngôn ngữ và mức độ phù hợp của nó đối với công việc được yêu cầu.Mỗi ngôn ngữ đều có điểm mạnh và điểm yếu. Và cuối cùng, việc của bạn là chọn 1 trong 2 để học tập và theo đuổi.
|
Ngôn ngữ lập trình bậc thấp
|
Trong khoa học máy tính, ngôn ngữ lập trình bậc thấp là một ngôn ngữ lập trình liên quan chặt chẽ đến phần cứng máy tính. Từ "thấp" không có nghĩa là ngôn ngữ này kém hơn các ngôn ngữ lập trình bậc cao mà điều này nghĩa là các lệnh của nó rất gần ngôn ngữ máy. Các từ "bậc cao" và "bậc thấp" còn sử dụng với ý nghĩa tương đối; một lập trình viên Java có thể xem ngôn ngữ C là ngôn ngữ lập trình bậc thấp. Các ngôn ngữ lập trình bậc thấp thường được chia thành hai loại: thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai.
|
Nhà thờ chính tòa Roskilde ở tại thành phố Roskilde trên đảo Zealand của Đan Mạch là nhà thờ kiểu kiến trúc Gothic được xây bằng gạch cổ xưa nhất ở Bắc Âu.Thành phố Roskilde đã trở thành thủ đô mới của Đan Mạch vào khoảng năm 960. Khi đó, một nhà thờ nhỏ bằng gỗ đã được dựng lên ở đây. Vào cuối thập niên 1070, Giám mục Svend Nordmand đã cho xây nhà thờ chính tòa mới bằng đá ong trên nền nhà thờ gỗ cũ. Công trình hoàn tất năm 1080.Sau đó, Giám mục Absalon (người lập ra thành phố Copenhagen) cho xây lại nhà thờ này bằng gạch đỏ. Người kế vị Giám mục Absalon là Peder Sunesen đã mở rộng nhà thờ chính tòa Roskilde vào năm 1200 theo mẫu của nhà thờ chính tòa Tournai ở Bỉ.Người ta ước tính xiệc xây nhà thờ lần đó tốn hết khoảng 3 triệu viên gạch lớn. Nhà thờ mới này theo kiểu kiến trúc Gothic, có chiều cao gấp đôi nhà thờ cũ.Ngày 14/5/1443, một trận hỏa hoạn thiêu hủy phần lớn thành phố, làm nhà thờ tổn hại nặng nề. Đến năm 1464 nhà thờ được xây lại. Vua Christian I cho tiền xây thêm một nhà nguyện dính vào nhà thờ mang tên Ba Vua.Từ năm 1635 - 1636, hai tháp chuông ở phía Tây được xây, chứa 6 quả chuông. Kiến trúc nhà thờ được duy trì từ đó cho đến nay.Về tổng quan, nhà thờ chính tòa Roskilde vừa theo kiểu kiến trúc Gothic vừa có nét kiến trúc Roman với điểm nhấn là hai chỏm tháp nhọn cao vượt lên nền trời thành phố. Đây là nhà thờ chính tòa duy nhất của đảo Zealand cho tới thế kỷ 20.Cùng với tu viện Sorø, nhà thờ chính tòa Roskilde là nguyên mẫu cho nhiều tu viện, nhà thờ, nhà thờ chính tòa và các tòa nhà công cộng khác được xây bằng gạch đỏ khắp vùng Scandinavia và cả Bắc Đức.Nhà thờ chính tòa Roskilde cũng là nơi an táng nhiều vua chúa Đan Mạch từ thế kỷ 15 trong các nhà nguyện được xây nối vào nhà thờ.Từ năm 1995, nhà thờ đã được UNESCO ghi vào danh sách Di sản văn hóa thế giới.
|
Nhà thờ chính tòa Roskilde
|
Nhà thờ chính tòa Roskilde (tiếng Đan Mạch: Roskilde Domkirke), tại thành phố Roskilde trên đảo Sjælland là 1 nhà thờ kiểu kiến trúc Gothic được xây bằng gạch đầu tiên ở Bắc Âu. Nhà thờ này được xây trong thế kỷ 12 và 13, vừa theo kiểu kiến trúc Gothic vừa có nét kiến trúc Roman và là nhà thờ chính tòa duy nhất của đảo Sjælland cho tới thế kỷ thứ 20. Hai chỏm tháp nhọn cao của nhà thờ vượt lên nền trời thành phố. Nhà thờ chính tòa Roskilde cũng là nơi an táng nhiều vua chúa Đan Mạch từ thế kỷ 15 trong các nhà nguyện được xây nối vào nhà thờ. Tới thời Cải cách (sang đạo Tin Lành) năm 1536, trụ sở của Giám mục được dời tới Copenhagen và Giám mục mang danh hiệu Giám mục Sjælland. Từ đây việc đăng quang của nhà vua diễn ra tại Nhà thờ Đức Bà Copenhagen hoặc tại nhà nguyện trong dinh Frederiksborg. Hàng năm có khoảng 125.000 du khách tới thăm nhà thờ này. Từ năm 1995, nhà thờ chính tòa Roskilde đã được UNESCO ghi vào danh sách Di sản thế giới. Từ năm 1987, nhà thờ này có một ca đoàn hơp xướng nam nổi tiếng .
|
Vòng quay hàng tồn kho là một trong những chỉ số tài chính quan trọng nhất, không thể thiếu trong các hoạt động đo lường số lần bán hàng tồn kho của doanh nghiệp. Cùng bePOS phân tích chỉ số này để tối ưu hoá quá trình quản lý kho hàng bạn nhé!. Vòng quay hàng tồn kho (inventory turnover ratio) là một trong những chỉ số tài chính quan trọng dùng để đo lường khả năng quản trị hàng tồn kho trong toàn bộ hoạt động của một doanh nghiệp. Trong báo cáo tài chính, trong mục hàng tồn kho, hệ số này chính là thước đo mức độ hiệu quả của một công ty, một chiến dịch tạo ra doanh số bán hàng từ hàng tồn kho của mình. Xác định khả năng quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp bằng chỉ số qua các năm. Hệ số càng lớn, tốc độ quay vòng của hàng hoá trong kho càng nhanh. Hệ số càng thấp, tốc độ quay vòng của hàng hoá trong kho càng chậm, biểu thị số lượng hàng hoá tồn kho lớn. Tỷ số vòng quay được xác định bằng cách lấy doanh thu (hoặc giá vốn hàng bán) trong một kỳ nhất định chia cho bình quân giá trị hàng tồn kho trong cùng kỳ. Đây là một cách tính vòng quay hàng tồn kho, trong đó, bình quân giá trị hàng tồn kho bằng trung bình cộng của giá trị đầu kỳ và giá trị cuối kỳ. Số vòng quay chính là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Số vòng quay càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt, vì doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao. Đây là cách tính vòng quay hàng tồn kho khá nhanh gọn hiện nay. Số ngày tồn kho (DSI) thể hiện thời gian bằng số ngày để hàng tồn kho chuyển thành doanh số. Chỉ số ngày được xác định bằng cách lấy nghịch đảo của tỷ lệ vòng quay nhân với 365. Đây là câu hỏi luôn được đặt ra sau khi bạn đã xác định được chỉ Inventory Turnover Ratio. Theo đó, chỉ số này càng cao thì doanh nghiệp bán hàng càng tốt. Tuy nhiên, có một số rủi ro xảy ra khi doanh nghiệp không đủ nguồn hàng cung cấp cho thị trường nếu nhu cầu của sản phẩm đó đột nhiên tăng mạnh. Khi đó đối thủ cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp sẽ nhân cơ hội để thu hút một lượng khách hàng lớn của doanh nghiệp. Sự hợp lý của chỉ số vòng quay dựa vào nhiều yếu tố khác như chủng loại hàng hóa, dòng tiền hay thị trường…vì vậy tùy từng doanh nghiệp mà chỉ số vòng hợp lý là khác nhau. Nhu cầu mua hàng là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất tới hệ số vòng quay. Số lượng hàng hoá bán ra là bao nhiêu, có bán được hay không phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải tiếp cận đúng tập khách hàng mục tiêu, lập kế hoạch marketing đúng insight khách hàng, tăng cường nhiều chương trình khuyến mãi để cải thiện và tăng vòng quay hàng tồn kho. Xu hướng mua hàng là nhu cầu thay đổi của khách hàng vào từng khoảng thời gian trong năm, chẳng hạn như các ngày lễ tết, nhu cầu thị trường sẽ tăng đột biến. Doanh nghiệp cần có các kế hoạch trước các khoảng thời gian này để tiến hành marketing hợp lý, thúc đẩy khách hàng mua sản phẩm. Ngay cả khi khách hàng đã biết đến sản phẩm của doanh nghiệp, bạn vẫn luôn cần nâng cao chỉ số bằng cách lên kế hoạch thu hút khách tăng giá trị đơn hàng mỗi lần mua sắm, đào tạo đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp để có thể tư vấn, bán chéo thêm nhiều sản phẩm khác để hàng hóa trong kho liên tục được làm mới. Gộp các nhóm sản phẩm có cùng tính chất tạo ra một hệ thống vòng chính xác, tỷ suất sinh lời cao không được đặt chung nhóm với các mặt hàng tỷ suất sinh lời thấp, nhằm tăng vòng quay hàng tồn kho. Trong giai đoạn mới bắt đầu, chúng ta nên sử dụng chu kỳ ngắn (tuần, tháng hoặc quý). Sau khi đã kinh doanh ổn định, bạn chỉ cần đo lường chỉ số này theo năm là đủ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho quá thấp sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới công việc kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp cần sử dụng các phần mềm quản lý kho hàng để kiểm soát, quản lý hàng hoá tồn kho một cách khoa học nhất, xác định tỷ lệ hàng tồn kho hợp lý, đây là một cách giải quyết hàng tồn kho hiệu quả. Hàng hoá tồn kho thường gặp vấn đề với thị hiếu và nhu cầu của khách hàng. Do đó, muốn xử lý hàng tồn kho hiệu quá, doanh nghiệp cần cân nhắc đến việc sử dụng nhiều hơn các chương trình khuyến mại, như sale off, flash sale,…. Không nên quá mải mê thực hiện chiến lược giảm giá, duy trì tỷ lệ hàng tồn kho hợp lý, tăng vòng quay hàng tồn kho mà không để ý tới thương hiệu của doanh nghiệp. Nếu áp dụng khuyến mãi quá nhiều, khách hàng sẽ có những suy nghĩ không tốt về sản phẩm của bạn. Ví dụ: “Giá sản phẩm đó quá cao, chắc do doanh nghiệp cố tình nâng giá, cứ đợi đến các chương trình giảm giá rồi mua cũng không muộn”. Lâu dần những điều này sẽ hình thành thói quen của khách hàng và ảnh hưởng đến doanh nghiệp rất nhiều, không phải một cách giải quyết hàng tồn kho hiệu quả. Như vậy, xác định hệ số vòng quay hàng tồn kho là rất quan trọng trọng việc đánh giá quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ các nhà quản lý trong việc đưa ra các chương trình và kế hoạch xử lý hàng tồn kho hiệu quả. Còn bạn, hệ số vòng quay doanh nghiệp của bạn là bao nhiêu?. Rất nhiều người thắc mắc vòng quay hàng tồn kho là gì? Đây là một hệ số tài chính quan trọng dùng để đo lường khả năng quản trị hàng tồn kho trong toàn bộ hoạt động của một doanh nghiệp. Trong báo cáo tài chính, trong mục hàng tồn kho, hệ số vòng quay hàng tồn kho chính là thước đo mức độ hiệu quả của một công ty, một chiến dịch tạo ra doanh số bán hàng từ hàng tồn kho của mình. Có nhiều ví dụ về vòng quay hàng tồn kho, bePOS xin gửi tới bạn một ví dụ về vòng quay hàng tồn kho như sau: Doanh thu cửa hàng của bạn trong năm 2020 là 900 triệu đồng, giá trị tồn kho trung bình là 30 triệu đồng. Như vậy trong năm 2020 cửa hàng của bạn đã quay vòng hàng tồn kho 30 lần. Tiếp theo, lấy 365 ngày / 30 lần = 12,17 ngày. Nghĩa là trung bình khoảng 12,17 ngày cửa hàng của bạn sẽ hết 1 vòng quay tồn kho. Các bài tập tính vòng quay hàng tồn kho thường có nhiều trong các trường học ngành kinh tế. Một ví dụ bài tập tính vòng quay hàng tồn kho như sau:. Công ty X có doanh thu thuần 2000, giá vốn hàng bán 1470, tài sản lưu động 700, hệ số thanh toán hiện hành 2,5; Hệ số thanh toán nhanh 1. Hệ số vòng quay là bao nhiêu?
|
Số vòng quay hàng tồn kho
|
Số vòng quay hàng tồn kho (hay Hệ số quay vòng của hàng tồn kho) là một trong những tỷ số tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ số này được tính ra bằng cách lấy doanh thu (hoặc giá vốn hàng bán) trong một kỳ nhất định chia cho bình quân giá trị hàng tồn kho trong cùng kỳ. Ở đây, bình quân giá trị hàng tồn kho bằng trung bình cộng của giá trị đầu kỳ và giá trị cuối kỳ. Tỷ số cho biết hàng tồn kho quay bao nhiêu vòng trong kỳ để tạo ra số doanh thu được ghi nhận trong kỳ đó. Tỷ số càng cao có thể là dấu hiệu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Chỉ số này thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho hiệu quả như thế nào. Chỉ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều trong doanh nghiệp. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít rủi ro hơn nếu nhìn thấy trong báo cáo tài chính, khoản mục hàng tồn kho có giá trị giảm qua các năm.
|
Những nội dung liên quan đến triết học vốn được cho là có phần trừu tượng và khá khó hiểu. Điển hình là những khái niệm về nhận thức và thực tiễn. Giữa chúng còn có mối quan hệ chặt chẽ tồn tại và liên quan trực tiếp đến nhau. Bạn đã hiểu đúng về nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Có thể đặt ví dụ minh họa cho những khái niệm này chưa? Đừng bỏ qua bài viết này của Lamsao để có câu trả lời nhé!. Hiện nay, khái niệm về nhận thức là gì được khá nhiều bài viết giải thích theo những cách hiểu khác nhau. Dễ hiểu hơn cả chúng ta có thể hiểu khái niệm về nhận thức như sau:. Nhận thức là một quá trình phản ánh được tính tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người dựa trên cơ sở thực tiễn. Qua đó nhằm mục đích sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan. Nhận thức lý luận: Được định nghĩa là dạng trình độ nhận thức qua gián tiếp, trừu tượng với tính hệ thống trong việc khái quát quy luật và bản chất các sự vật, hiện tượng. Nhận thức kinh nghiệm: Là trình độ nhận thức được hành thành bởi việc quan sát trực tiếp sự vật, sự việc, hiện tượng trong xã hội, tự nhiên hoặc thông qua các thí nghiệm phân tích khoa học. Nhận thức thông thường: Loại nhận thức này sẽ được hình thành một cách hoàn toàn tự phát và trực tiếp thông qua các hoạt động thường ngày của con người. Nhận thức khoa học: Là dạng nhận thức được hình thành một cách gián tiếp và tự giác từ sự phản ánh đặc điểm bản chất. Những quan hệ tất yếu của các đối tượng nghiên cứu. Khi một thanh sắt được nung nóng sẽ chuyển sang màu vàng rực. Thông qua quan sát con người kết luận rằng thanh sắt sẽ bị chuyển màu khi nung nóng. Trái đất vừa tự quay quanh mặt trời vừa chuyển động tịnh tiến xung quanh mặt trời. Con cá là một loài động vật sinh sống dưới nước, thở bằng mang và dùng vây để đẩy tới. Theo định nghĩa, thực tiễn là toàn bộ các hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch sử xã hội nhằm mục đích cải biến tự nhiên và xã hội. Một số đặc điểm của thực tiễn như sau:. Thực tiễn chính là những hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh thần của con người chính là hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động luôn có mục đích. Khác với các hoạt động bản năng của con vật. Thực tiễn có tính lịch sử và xã hội: Là những hoạt động con người trong xã hội và những giai đoạn lịch sử nhất định. Các nhà khoa học nghiên cứu, phân tích các thí nghiệm tìm ra vật liệu mới, các loại máy móc, thiết bị phục vụ nhu cầu con người. Giữa thực tiễn và nhận thức luôn có mối quan hệ chặt chẽ, không ngừng phát triển và tác động với nhau. Thực tiễn là cơ sở, nền tảng của nhận thức: Suy cho cùng mọi nhận thức đều nảy sinh trên cơ sở giải quyết nhu cầu vấn đề trong thực tiễn. Đồng thời qua thực tiễn cung cấp những căn cứ, hiện thực để nhận thức giải quyết vấn đề đó. Thực tiễn là động lực sự phát triển cho nhận thức: Sự phát triển nhận thức theo tốc độ nào cũng đều do sự thúc đẩy nhu cầu phát triển mức độ cấp bách của thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mọi nhận thức cho dù là gián tiếp hay trực tiếp đều nhằm mục đích sáng tạo tri thức để giải đáp các vấn đề trong thực tiễn. Bên cạnh đó, thực tiễn chính là tiêu chuẩn của chân lý. Bất kỳ một quá trình nhận thức nào thì đến cuối cùng cũng đều dẫn đến việc sáng tạo tri thức đảm bảo tính chính xác. Qua bài viết, Lamsao hy vọng đã giúp bạn đọc trả lời được câu hỏi nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Hãy đón chờ các bài viết thú vị tiếp theo của Lamsao nhé!. Lời bài hát Bài Hát Này Gần 3 Phút Lyrics & MP3 ca sĩ Hưng Cacao, K.U.S, Giang Phạm
|
Nhận thức
|
Nhận thức (tiếng Anh: cognition) là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các qui trình như là tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ. Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể. Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn. Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra tri thức mới. Các qui trình được phân tích theo các góc nhìn khác nhau ở tùy các lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ học, gây mê, thần kinh học, tâm thần học, tâm lý học, giáo dục, triết học, nhân loại học, sinh học, logic và khoa học máy tính.
|
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chính trường thế giới bị Chiến tranh Lạnh chi phối. Đến cuối năm 1949, hầu hết các quốc gia châu Âu đều gia nhập một trong hai liên minh thù địch với nhau, một bên là Mỹ với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và một bên là Liên Xô với khối Hiệp ước Vacsava. Trong những thập niên 60-70 của thế kỷ 20, hệ thống này có những khủng hoảng nhất định. Điển hình là sự kiện nổi dậy ở Ba Lan tháng 10/1956, biểu tình và bạo động ở Hungary tháng 10-11/1956 khiến Liên Xô phải đưa quan đội vào can thiệp, thành lập chính phủ mới. Đến sự kiện “Mùa xuân Praha” năm 1968, quân đội của khối Hiệp ước Vacsava tràn vào Tiệp Khắc và thay đổi ban lãnh đạo nước này. Trước xu thế đa nguyên của các nước thành viên, những quan điểm về “chủ quyền có giới hạn” của những quốc gia thành viên trong hệ thống chủ nghĩa xã hội và khái niệm về tính tối cao của “cộng đồng xã hội chủ nghĩa” đã được đưa ra. Vào tháng 11 năm 1968, những quan điểm này nhận được sự tán thành của Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev. Trong một bài diễn văn ở Đại hội lần thứ 5 của Đảng Cộng sản Ba Lan, Brezhnev đã khẳng định rằng “tòan thể cộng đồng xã hội chủ nghĩa” có quyền can thiệp vào lãnh thổ của bất cứ nước thành viên nào khi các thế lực thù địch của phe chủ nghĩa xã hội đe dọa. Đồng thuận về tư tưởng là nguyên tắc tối cao cho mọi sự can thiệp. Tuyên bố này về sau được coi như Học thuyết Brezhnev và là sự phê chuẩn chính thức lập trường của Đảng Cộng sản Liên Xô. Lập truờng ấy đã khẳng định “sự thống nhất về ý thức hệ của Đảng Cộng sản các nước trong khối xã hội chủ nghĩa chiếm vị trí tối cao, vượt trên quyền lực pháp lý của mỗi quốc gia. Quyền được can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước là hợp pháp khi có sự đe doạ nhằm bảo đảm chủ quyền cho mỗi nước và tạo sự cân bằng trong khối”. Sau khi Học thuyết Brezhnev được chính thức công bố, Liên Xô đã ký một loạt các hiệp ước với các nước Đông Âu nhằm tái khẳng định các nguyên tắc của Học thuyết và tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác giữa các quốc gia trong khối. Các nguyên tắc của Học thuyết cũng đã được mở rộng để biện minh cho sự can thiệp của Liên Xô ở các nước bên ngoài Khối Hiệp ước Vacsava, như trường hợp Liên Xô đưa quân vào Afghanistan tháng 12 năm 1979. Ka-man, lãnh tụ mới của Afghanistan, đã gọi chính sách của Liên Xô là “chủ nghĩa quốc tế vô sản trong hành động”. Như vậy thực ra Học thuyết Brezhnev đơn giản chỉ là sự biện minh cho sự can thiệp của Liên Xô vào các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa, là một công cụ đối ngoại giúp nước này duy trì an ninh, ảnh hưởng và vị thế quốc tế của mình. Dựa vào việc phân tích những tài liệu của Liên Xô trong một thời kì dài, các học giả quan hệ quốc tế nhận thấy rằng các nhà lãnh đạo chủ chốt của các Đảng cộng sản quyết tâm làm rõ sự khác nhau trong vấn đề liên kết giữa các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa với phần còn lại của thế giới. Họ làm vậy để thuyết phục rằng quan hệ quốc tế trong phạm vi của hai hệ thống (tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa) được cấu trúc một cách khác biệt. Hai minh chứng lịch sử của sự can thiệp đã cho chúng ta thấy rằng sự can thiệp chỉ xảy ra sau những cuộc tranh luận trong tập thể lãnh đạo chủ chốt. Nguyên tắc đồng thuận cao giữa các Đảng cộng sản thật sự là quyết định khôn ngoan. Nó đã thử thách tính thống nhất về ý thức hệ và từ đấy mới có thể thống nhất hành động một cách hiệu quả nhất. Học thuyết Brezhnev có hiệu lực cho tới cuộc khủng hoảng chính trị ở Ba Lan năm 1980-1981 khi Liên Xô quyết định không can thiệp. Sau đó, chính quyền Mikhail Gorbachev tiếp tục duy trì chính sách không can thiệp vào tình hình chính trị nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa khác, dẫn tới việc Công đoàn Đoàn Kết giành chiến thắng trước Đảng Cộng sản trong cuộc bầu cử ở Ba Lan năm 1989 và sự sụp đổ lần lượt của một loạt chính quyền cộng sản ở Đông Âu sau đó. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
|
Học thuyết Brezhnev
|
Học thuyết Brezhnev là một chính sách đối ngoại của Liên Xô, nói về việc giới hạn quyền chủ quyết tại các nước Xã hội chủ nghĩa và quyền can thiệp, nếu trong những nước này hệ thống chính trị Xã hội chủ nghĩa bị đe dọa. Học thuyết này được nêu ra rõ ràng lần đầu tiên bởi S. Kovalev trong một bài viết đăng ngày 26 tháng 9 1968 trên báo Pravda, Với tựa là "Chủ quyền và nghĩa vụ quốc tế của các nước Xã hội chủ nghĩa. Học thuyết này được tuyên bố để bào chữa chuyện trong quá khứ, việc Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc vào tháng 8 năm 1968 mà đã kết thúc Mùa xuân Praha, cũng như những can thiệp trước đó bởi quân đội Liên Xô, ví dụ như Cuộc nổi dậy Hungary năm 1956. Những cuộc can thiệp này có mục đích là để đập tan những nỗ lực tự do hóa và những cuộc nổi dậy mà có thể làm hại đến quyền bá chủ của Liên Xô trong khối phía Đông. Trên thực tế, chính sách này có nghĩa là nó cho phép giới hạn sự độc lập của các Đảng Cộng sản tại các nước vệ tinh của Liên Xô.
|
Đó là câu hỏi mà rất nhiều người đang thắc mắc. Lý do là cuộc thi chỉ dành cho các thí sinh Việt Nam, sao để phía trước Việt Nam là thế giới. Lý do thắc mắc Hoa hậu thế giới Việt Nam, khi liên quan đến một cuộc thi khác là Hoa hậu Thế giới người Việt. Bạn có thể thấy rõ là Hoa hậu Thế giới người Việt và Hoa hậu thế giới Việt Nam chỉ khác nhau đúng 1 từ. Hoa hậu Thế giới người Việt được hiểu là cuộc thi nhan sắc nhằm mục đích tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới. Trong khi đó, wiki trả lời cho câu hỏi Hoa hậu thế giới Việt Nam là gì: “Là một cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia dành cho thiếu nữ tại Việt Nam, được diễn ra lần đầu tiên vào năm 2019. Cuộc thi này được tổ chức theo sát bộ khung (format) của Hoa hậu Thế giới. Người đăng quang sẽ đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Thế giới 2019, Á hậu 1 tham dự Hoa hậu Quốc tế 2019 và Á hậu 2 tham dự Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2019. Trước đây, người đăng quang cuộc thi Hoa hậu Việt Nam mặc nhiên trở thành đại diện chính thức cho Việt Nam tham dự cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Tuy nhiên, kể từ khi có Hoa hậu Thế giới Việt Nam này, đại diện Việt Nam đi thi Miss World phải chia sẻ giữa Hoa hậu Việt Nam (năm chẵn) và Hoa hậu Thế giới Việt Nam (năm lẻ)”. Nếu từ giải thích trên wiki thì Hoa hậu thế giới Việt Nam và Hoa hậu Việt Nam gần như giống nhau, chỉ khác là năm chẵn - lẻ. Hoa hậu của hai cuộc thi này đều được tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Việt Nam có thể nói là “lạm phát” các cuộc thi nhan sắc. Tên gọi của các cuộc thi đến mức người hâm mộ đọc không hiểu được ý nghĩa và không rõ Việt Nam có bao nhiêu cuộc thi Hoa hậu, giống như số đông đang thắc mắc: Hoa hậu thế giới Việt Nam là gì?. Điều gì “lạm phát” thì phần lớn đều có tác dụng ngược, mất đi nhiều giá trị, ý nghĩa. Các cuộc thi Hoa hậu cũng thế, bây giờ cứ mặc định người giành vương miện là Hoa hậu Việt Nam. Bóng đá Việt Nam không giống như các cuộc thi Hoa hậu nhưng một điểm tương đồng là tên giải V.League gần như thay đổi liên tục, cứ mỗi lần có nhà tài trợ mới thì gắn vào nên người hâm mộ chẳng còn nhớ tên giải đấu, cứ mặc định là V.League. Năm nay, tên giải đấu của V.League khó đọc đến mức nhà tài trợ phải tổ chức các câu hỏi bên lề trước các trận đấu, người hâm mộ được hỏi xuyên suốt chủ đề tên giải bóng đá vô địch quốc gia năm 2019 là gì để nhận thưởng. Một trò chơi vui và có quà mang về nhưng ngẫm kỹ thì đúng bi hài cho bóng đá Việt Nam. Đến tên giải đấu phải được đi làm truyền thông ngay tại các khán đài, nhằm giúp tên nhà tài trợ đến với người hâm mộ. V.League có thể khẳng định là “lạm phát” tên giải đấu chẳng khác gì các cuộc thi Hoa hậu ở Việt Nam. Vấn đề của V.League thì éo le là do không có nhiều cách kiếm tiền nên phải gồng mình chịu cảnh “lạm phát” tên giải đấu. Thế nên, V.League lên tuổi 20 thì lãnh đạo cứ phải đau đầu đặt tên mỗi khi có nhà tài trợ, còn người hâm mộ cũng “lắc đầu”.
|
Hoa hậu Thế giới
|
Hoa hậu Thế giới (tiếng Anh: Miss World) là cuộc thi sắc đẹp toàn cầu lâu đời và lớn nhất hành tinh nếu xét về số lượng thí sinh . Cùng với Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Trái Đất được gọi chung là Tứ đại Hoa hậu. Cuộc thi được tổ chức lần đầu tiên bởi Eric Morley vào năm 1951. Năm 2000 khi ông qua đời thì vợ của ông là Julia Morley đã thay ông lên nắm quyền điều hành cuộc thi. Người đoạt vương miện Hoa hậu Thế giới sẽ đại diện cho Tổ chức Hoa hậu Thế giới (Miss World Orgnization - MWO) tham gia những hoạt động từ thiện quyên góp tiền trên khắp thế giới. Cuộc thi Hoa hậu Thế giới được bắt đầu từ cuộc thi áo tắm ở Anh vào năm 1951 chỉ với mục đích quảng bá các mốt áo tắm mới nhất lúc đó, nhưng được gọi là Hoa hậu Thế giới bởi các phương tiện truyền thông. Eric Morley, người khởi xướng cuộc thi áo tắm đó đã dự định sẽ chỉ tổ chức cuộc thi này một lần duy nhất nhưng khi nghe tin cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ sẽ được tổ chức tại Hoa Kỳ vào năm 1952, ông đã quyết định biến Hoa hậu Thế giới thành một cuộc thi sắc đẹp thường niên.
|
Giải vô địch bóng đá nữ thế giới hay FIFA Women’s World Cup được xem là một phiên bản FIFA World Cup dành cho nữ giới. Đây là giải đấu dành cho các cầu thủ nữ trên toàn thế giới tranh tài, thường thi đấu vào các năm lẻ và mỗi kỳ cách nhau 4 năm. Lần đầu tiên, giải đấu được tổ chức vào năm 1991 tại Trung Quốc. Cho đến giải đấu năm 2019, Mỹ là đội tuyển giàu thành tích nhất tại giải khi có 4 lần lên ngôi vô địch (1991, 1999, 2015 và 2019) và cũng là đương kim vô địch của giải. Có tổng cộng 6 quốc gia là nước chủ nhà của các kỳ World Cup nữ là Trung Quốc, Thụy Điển, Mỹ, Đức, Canada, Pháp. Ngoài ĐT nữ của Mỹ, các đội tuyển khác cũng từng vô địch giải đấu là Đức (2003, 2007), Na Uy (1995) và Nhật Bản (2011). Dù giải vô địch bóng đá nữ thế giới ra đời vào năm 1991, tuy nhiên giải bóng đá nữ đầu tiên trên thế giới ở cấp độ quốc tế diễn ra vào năm 1970 tại Italy. Tiếp theo sau đó là một giải bóng đá khác không chính thức diễn ra tại Mexico. Đến những năm 1980, giải có tên gọi là Mundialito được tổ chức tại Italy 4 lần, Anh và Italy mỗi đội giành 2 chức vô địch. Cũng vào những năm 1970, nhiều quốc gia đã gỡ bỏ lệnh cấm nữ giới chơi bóng đá. Từ đó dẫn đến việc nhiều đội bóng đá nữ được thành lập tại các nước châu Âu và Bắc Mỹ. Giải bóng đá nữ chính thức đầu tiên ở châu Á ra đời vào năm 1975 và tại châu Âu là năm 1984. Ellen Wille mong muốn có những nỗ lực tốt hơn để quảng bá cho hình ảnh bóng đá nữ thông qua Đại hội cấp cao của FIFA. Điều này đã được áp dụng vào năm 1988 khi một giải đấu được tổ chức tại Trung Quốc được xem như là phép thử để kiểm chứng xem khả năng tổ chức giải bóng đá nữ thế giới có thật sự khả thi hay không. Ở giải đấu thử nghiệm, có sự tham gia của 12 đội bóng bao gồm 4 đội UEFA, 3 đội AFC, 2 đội đến từ CONCACAF, và các khu vực khác như CONMEBOL, CAF và OFC cử một đội dự giải. Ngay sau trận khai mạc giữa Trung Quốc và Canada chứng kiến sự theo dõi của 45 nghìn khán giả, giải đấu được tổ chức thành công tốt đẹp khi mỗi trận có trung bình 20 nghìn khán giả theo dõi mỗi đấu. Na Uy trở thành nhà vô địch của giải khi đánh bại Thụy Điển trong trận chung kết. Sau thành công của giải thử nghiệm, FIFA chấp thuận việc tổ chức giải bóng đá nữ thế giới diễn ra vào năm 1991 cũng với số lượng đội tham dự tương tự như giải thử nghiệm. Tuy nhiên ở giải đấu chính thức đầu tiên, Mỹ là đội vô địch sau khi đánh bại Na Uy trong trận chung kết để lên ngôi vô địch. Ở giải đấu năm 1999, một trong những khoảnh khắc lịch sử giải đấu diễn ra là màn ăn mừng bàn thắng của hậu vệ Brandi Chastain sau khi ghi bàn vào lưới ĐT Trung Quốc bằng quả đá phạt đền. Điều đáng chú ý là cô đã cởi áo ăn mừng và vẫy chiếc áo đấu như các cầu thủ nam để lộ thân hình lực lưỡng cộng với áo lót chuyên dụng để chơi thể thao. Trận chung kết năm 1999 tại SVĐ Rose Bowl chứng kiến 90.185 đến sân theo dõi và thiết lập nên kỷ lục thế giới về lượng khán giả theo dõi sự kiện thể thao dành cho nữ giới. Năm 2003, giải đấu ban đầu được tổ chức tại Trung Quốc. Tuy nhiên do ảnh hưởng từ dịch SARS, FIFA Women’s World Cup được dời sang Mỹ. Kể từ giải đấu năm 2015, số lượng đội tham dự tăng lên từ 16 lên thành 24 đội. Đến giải đấu năm 2023 sắp tới, số lượng đội sẽ được nâng lên thành 32 đội. Thể thức thi đấu của FIFA Women’s World Cup không có nhiều khác biệt so với những giải đấu áp dụng thể thức 24 đội bóng ở các giải đấu khác. Kể từ giải đấu năm 2015 với sự tham gia của 24 đội được chia thành 6 bảng, mỗi bảng 4 đội, 2 đội nhất nhì mỗi bảng sẽ giành vé vào vòng loại trực tiếp cùng 4 đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất. Các tiêu chí cũng không có quá nhiều sự khác biệt khi trong trường hợp các đội có cùng điểm số, thành tích đối đầu sẽ là yếu tố được xem xét đầu tiên, sau đó là hiệu số phụ và tổng số bàn thắng. Kể từ năm 2023, giải đấu có sự tham gia của 32 đội bóng và thể thức thi đấu tương tự như giải bóng đá nam vô địch thế giới FIFA World Cup. Trong quá khứ, đã từng có 1 lần đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam suýt dự World Cup khi để thất bại trước chính đối thủ đầy duyên nợ Thái Lan trong trận đấu quyết định giành vé dự World Cup 2015. Trận play-off tranh vé dự World Cup 2015 diễn ra tại SVĐ Thống Nhất. Đây là trận đấu tranh hạng 5 của giải vô địch bóng đá nữ châu Á 2014 được tổ chức tại Việt Nam. ĐT nữ Việt Nam đánh bại nữ Jordan trong lượt trận đầu tiên ở vòng bảng trước khi để thất bại trước 2 đối thủ quá mạnh là nữ Nhật Bản và Australia ở 2 lượt trận sau đó. Qua đó ĐT nữ Việt Nam giành vị trí thứ 3 cộng với suất tranh vé thứ 5 dự World Cup 2015 gặp ĐT nữ Thái Lan. Kanjana Sungngoen là người lập cú đúp giúp nữ Thái Lan có lần đầu tiên giành vé dự World Cup bóng đá nữ trong lịch sử. Trong khi đó, ĐT nữ Việt Nam vẫn phải tiếp tục chờ đợi thêm cơ hội ở giải đấu tiếp theo. Ở giải đấu FIFA Women’s World Cup tiếp theo vào năm 2023, nếu muốn góp mặt tại World Cup, các cô gái của chúng ta ít nhất phải vượt qua vòng bảng của VCK giải bóng đá châu Á 2022. Qua đó sẽ lọt vào top 8 đội mạnh nhất giải. Với 5 suất được dự World Cup cộng thêm một trong hai đội đồng chủ nhà của World Cup 2023 là Australia, châu Á có ít nhất 6 đội góp mặt tại vòng chung kết FIFA Women’s World Cup trong giải đấu có sự tham gia của 32 đội tuyển. Ngoài ra, loạt trận play-off cũng sẽ mở ra thêm cơ hội cho các đội tuyển nữ khác của châu lục. Để đạt được những yếu tố trên, điều kiện cần đối với các cô gái vàng của chúng ta sẽ là vượt qua vòng loại giải châu Á để có mặt ở VCK có 12 đội. Sau đó sẽ thực hiện mục tiêu xa hơn là vượt qua vòng bảng giải châu Á và thi đấu tốt ở vòng play-off. Lợi thế cho các cô gái vàng là CHDCND Triều Tiên bị cấm thi đấu tại giải. Với những đội bóng quá mạnh (không tính chủ nhà World Cup Australia) như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc gần như chắc vé, thầy trò HLV Mai Đức Chung sẽ cạnh tranh cùng các đối thủ khác có cùng trình độ là Thái Lan, Đài Bắc Trung Hoa, Uzbekistan, Myanmar, Philippines, Jordan,… để tranh suất dự World Cup. Vừa rồi là một số thông tin về giải vô địch bóng đá nữ thế giới và cơ hội của đội tuyển bóng đá nữ Việt Nam. Hy vọng những thông tin trên sẽ mang lại những điều bổ ích với bạn, đồng thời cầu chúc cho các cô gái vàng của chúng ta làm nên kỳ tích để giành vé dự World Cup của bóng đá nữ.
|
Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011
|
Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 được tổ chức từ ngày 26 tháng 6 tới 17 tháng 7 năm 2011 tại Đức. Đây là giải vô địch bóng đá nữ thế giới lần thứ sáu, là lần thứ hai được tổ chức tại châu Âu và là lần đầu tiên tổ chức ở Đức, nước giành quyền đăng cai vào tháng 10 năm 2007. Nhật Bản giành chiến thắng trong trận chung kết trước Hoa Kỳ trong loạt luân lưu sau khi hòa 2–2 trong thời gianh thi đấu chính thức và hai hiệp phụ. Nhật Bản trở thành đội tuyển bóng đá châu Á đầu tiên từng giành chức vô địch World Cup bóng đá. Giải đấu diễn ra ở chín thánh phố trên khắp nước Đức, trong đó trận chung kết được diễn ra ở Commerzbank Arena thuộc thành phố Frankfurt. Để tới được với giải đấu này, mười sáu đội tuyển của sáu liên đoàn thành viên phải trải qua quá trình vòng loại khởi động từ năm 2009. Tại vòng bảng của vong chung kết, các đội thi đấu theo hình thức vòng tròn tính điểm, chọn ra hai đội đầu bảng vào vòng đấu loại trực tiếp.
|
Là sử dụng 4 màu chính trong hệ màu CMYK theo các tỉ lệ nhất định để tạo thành bảng màu đa dạng, khác nhau. Các màu này sẽ được hòa trộn để tạo thành màu sắc mong muốn giống trong bảng thiết kế. Được chia thành nhiều loại khác nhau, tùy theo sự đóng góp của 4 màu CMYK. Tùy theo loại ấn phẩm khác nhau mà có thể lựa chọn số màu in phù hợp. In có ứng dụng rất nhiều trong cuộc sống, kinh doanh hiện nay. In thường được in ấn các ấn phẩm như:. In để sản phẩm thu hút ấn tượng hơn, nhưng tùy theo chi phí cũng như loại giấy mà khách hàng có thể lựa chọn số màu in cho phù hợp. Kỹ thuật phổ biến là in bốn màu sử dụng hệ màu CMYK. Một kỹ thuật đang phát triển khác là , thêm màu gốc da cam và xanh lá cây vào hệ CMYK để tạo phổ màu rộng hơn. Trong bước này, hình ảnh màu ban đầu được số hóa (ví dụ như thu qua máy quét ảnh) và tách ra thành 3 phần đỏ, xanh lá cây, và xanh lam. Trước khi kỹ thuật ảnh số ra đời, phương pháp truyền thống là chụp ảnh hình ảnh màu 3 lần, sử dụng 3 kính lọc màu tương ứng. Khi thu được 3 thành phần ảnh này, mỗi bức ảnh riêng rẽ chỉ có độ sáng tối, thể hiện các mức độ đỏ, lục và lam trong ảnh ban đầu:. Bước tiếp theo là nghịch đảo các ảnh này để thu các âm bản. Âm bản của thành phần đỏ thể hiện mức độ màu hồ thủy của ảnh ban đầu. Tương tự âm bản của lục và lam tương ứng với thành phận màu cánh sen và màu vàng. Các màu hồ thủy, cánh sen và vàng tạo nên các màu gốc in ấn. Khi các màu này trộn với nhau trên bản in, hình ảnh sẽ có màu sắc giống như nguyên bản, theo nguyên lý của phối màu hấp thụ. Tuy nhiên, các mực màu có hạn chế là không tạo ra màu đen thực sự. Để tăng độ nét, người ta thêm quy trình tách thành phần màu đen, và in thêm mực đen lên bản cần in. Có nhiều cách để thu được thành phần màu đen từ nguyên bản như: kỹ thuật thay màu xám, kỹ thuật thay màu dưới, kỹ thuật cộng màu dưới. Kỹ thuật in này do vậy được gọi là in bốn màu hay in CMYK. Các mực màu hồ thủy, cánh sen, vàng và đen (CMYK) được in độc lập với nhau. Thực tế chúng sẽ lồng vào nhau để tạo hình in cuối cùng. Trên thực tế, mực in không thể trộn với nhau hoặc in đè lên nhau. Tại một điểm trên tờ giấy, chỉ có thể in một màu. Do đó các màu được in thành các điểm nhỏ nằm sát nhau, để khi nhìn, ta không trông rõ các điểm màu và ta cảm thấy như có màu sắc tự nhiên trên ảnh. Việc lồng các điểm màu như này gọi là kỹ thuật lồng màu hay lưới màu. Thông thường, trong các báo chí, người ta dùng độ phân giải cho các tấm lưới ca-rô là từ 60 đến 120 đường kẻ trên một inch (còn gọi là lpi). Độ phân giải này không cao, nhưng kinh tế và phù hợp với giấy báo, có độ thấm hút lớn và không thể in được các chấm màu nhỏ hơn thế. Theo từ chuyên môn, các giấy báo có cỡ điểm ?? Lưới có độ phân giải 133 đến 175 lpi được dùng cho họa báo và in ấn thương mại. Có thể nhìn rõ các chấm lưới màu khi dùng kính lúp để xem báo. Các tấm lưới trong kỹ thuật chụp âm bản khi tách màu đã được thay thế việc sử dụng laser để tạo lưới màu trực tiếp trên phim. Kỹ thuật gần đây nhất áp dụng xử lý ảnh kỹ thuật số, xếp chữ máy tính (CTP), cho phép bỏ qua giai đoạn chụp phim âm bản, và xếp chữ thẳng từ tín hiệu số của máy tính. Tín hiệu máy tính điều khiển laser chiếu các lưới màu trực tiếp lên bản xếp chữ. Phương pháp này kinh tế, tăng chất lượng (chất lượng ảnh không bị mất qua khâu trung gian), tiết kiệm thời gian, và giảm lượng chất thải hóa học độc hại ra môi trường do việc rửa phim gây nên. Xử lý ảnh kỹ thuật số cho phép lồng màu theo nhiều phân bố khác với lưới ca-rô. Phương pháp được biết đến nhiều nhất là lồng màu ngẫu nhiên. Các điểm màu lúc này đều có cùng đường kính, nhưng mật độ phân bố tăng giảm theo cường độ sáng của màu, và vị trí của từng điểm riêng biệt được rải ra ngẫu nhiên. Phương pháp này loại bỏ hiệu ứng moiré vốn gây khó chịu khi xem ảnh với lưới màu ca-rô truyền thống. Phương pháp cũng này cho độ phân giải tối ưu. Khi sử dụng thêm các màu gốc mới như da cam hay xanh lục, phổ màu sẽ được tăng thêm. Hầu hết các máy in phun hiện nay dùng phương pháp lồng màu ngẫu nhiên này. Dùng kính lúp, mọi người có thể quan sát các điểm màu ngẫu nhiên trên bản in của máy in phun ở nhà họ. Lồng màu ngẫu nhiên, đôi khi kết hợp với lồng màu ca-rô truyền thống, là tiêu chuẩn hiện nay cho nhiều in ấn bao bì sản phẩm. Dây rút nhựa là gì? Ứng dụng của chúng và sự đặc biệt của nó là gi.
|
In màu
|
In màu là một kiểu in ấn tạo ra hình ảnh và chữ có màu sắc (đối lập với in đen trắng). Kỹ thuật phổ biến là in bốn màu sử dụng hệ màu CMYK. Một kỹ thuật đang phát triển khác là in sáu màu, thêm màu gốc da cam và xanh lá cây vào hệ CMYK để tạo phổ màu rộng hơn. Các bước chính trong in bốn màu được miêu tả sau đây.
|
Bạch quả hay còn gọi là ngân hạnh, công tụ, nó có tên khoa học là Ginkgo biloba. Đây là loại cây có xuất xứ ở Châu Âu kể từ những năm 1730 và được đưa về trồng ở Trung Quốc từ khoảng những năm 1784. Trong nhiều thế kỷ, bạch quả có xu hướng tuyệt chủng, nhưng các nhà sư đã trồng và chăm sóc chúng tại các đến chùa ở Trung quốc, Nhật bản, Hàn Quốc. Do vậy, tại 3 quốc gia này có vẫn tồn tại những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Trong cuộc ném bom nguyên tử của Mỹ xuống 2 thành phố tại Nhật Bản trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II năm 1945, hầu hết các cây xanh, thảm thực vật bị tàn phá trong vòng 1 - 2km, người ta thấy có 6 cây bạch quả mặc dù bị đốt cháy nhưng sau đó chúng vẫn sống, tiếp tục đâm trồi trên gốc cũ thể hiện sức mạnh kỳ diệu nhờ đó chúng ta cũng thấy được tác dụng tuyệt vời mà nó đem lại cho sức khỏe con người. Với những công dụng kỳ diệu mà ngày nay bạch quả đã được trồng ở nhiều nơi trên Thế Giới trong đó có Việt Nam. Các nhà khoa học đã chỉ ra rất nhiều thành phần có lợi trong chiết xuất cây bạch quả. Sau đây là một số thành phần mang hoạt tính trong chiết xuất cây bạch quả:. Nhân bạch quả có chứa các thành phần như: Protein (5,3%), chất béo (1,5%), tinh bột (68%), đường (6%). Lá bạch quả chứa hai nhóm hoạt chất bao gồm các hợp chất Flavonoid và các hợp chất Terpen. Với các thành phần kể trên thì cây bạch quả thường được sử dụng với các mục đích chăm sóc sức khỏe. Hạt cây bạch quả thường dùng để nấu chè, có tác dụng giúp tăng trí nhớ, bổ thận tráng dương, trị phế lao kết hạch, trị hen đờm suyễn, bạch đới, tiểu dắt. Lá bạch quả làm tăng tuần hoàn động mạch ở chi và đầu, bình thường hóa tính thấm của mao mạch trong chứng phù nề tự phát, tăng lưu lượng máu đến não, tăng chuyển hóa năng lượng của tế bào và bình thường hóa sự tiêu thụ oxy ở não. Do đó lá bạch quả dùng làm thuốc giúp tăng trí nhớ, dùng điều trị bệnh Alzheimer cho người lớn tuổi. Ngoài tác dụng giúp trí nhớ, lá bạch quả còn là vị thuốc ngăn ngừa tác dụng lão hóa con người. Theo một số nghiên cứu, trong một vài trường hợp, bạch quả có thể cải thiện đáng kể sự tập trung ở các cá nhân mạnh khỏe. Tác dụng gần như là ngay tức thì và đạt tới đỉnh điểm trong vòng 2,5 h sau khi dùng. Ngăn chặn nhiều tác động của tác nhân hoạt hóa tiểu huyết cầu (tụ tập tiểu huyết cầu, vón cục máu) có liên quan tới sự phát triển của một loạt các rối loạn tim mạch, thận, hô hấp và hệ thần kinh trung ương. Bạch quả cũng có thể dùng để điều trị chứng tê liệt rời rạc. Qua bài viết trên, hy vọng bạn đã có những thông tin cơ bản về cao bạch quả và tác dụng của nó với sức khỏe con người. Thường xuyên truy cập META.vn để nhận thêm nhiều thông tin hữu ích khác nhé.
|
Bạch quả
|
Bạch quả (tên khoa học: Ginkgo biloba; 銀杏 trong tiếng Trung, tức là ngân hạnh hay 白果 là bạch quả), là loài cây thân gỗ duy nhất còn tồn tại trong chi Ginkgo, họ Ginkgoaceae. Bạch quả là ví dụ tốt nhất về hóa thạch sống, do bộ Ginkgoales đã không còn biết đến từ các hóa thạch kể từ sau thế Pliocen. Trong nhiều thế kỷ, người ta cho rằng nó đã tuyệt chủng trong tự nhiên, nhưng hiện nay người ta biết rằng nó còn mọc tại ít nhất là ở hai khu vực nhỏ trong tỉnh Chiết Giang ở miền đông Trung Quốc, trong khu vực bảo tồn Thiên Mẫu Sơn. Các cây bạch quả trong các khu vực này có thể đã được các nhà sư Trung Quốc chăm sóc và bảo tồn trong trên 1.000 năm. Vì thế, việc các quần thể bạch quả hoang dã bản địa có còn tồn tại hay không vẫn còn là điều chưa chắc chắn. Quan hệ giữa bạch quả với các nhóm thực vật khác vẫn chưa rõ ràng. Nó đã từng được đặt lỏng lẻo trong ngành Thực vật có hạt (Spermatophyta) và ngành Thông (Pinophyta), nhưng đã không có sự đồng thuận nào trong việc xếp đặt như thế.
|
Lịch sử Campuchia đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau, có những thời điểm đế chế Khmer là nỗi khiếp sợ của các nước trong khu vực Đông Nam Á, có lúc bị đô hộ, chiếm đóng bởi các thế lực nước ngoài. Ngày nay Campuchia đang từng bước chuyển mình, phát triển để sánh vai cùng với các nước trong khu vực và vươn ra thế giới. Theo những thư tịch cổ ghi lại thì lịch sử đất nước Campuchia có liên quan tới một vùng đất với tên gọi là Phù Nam. Đây là một quốc gia cổ với nền văn minh và văn hóa khá phát triển trong một thời gian dài. Tuy nhiên Phù Nam đã bị một vương quốc do người Khmer lập nên đánh bại, đó là vương quốc Chân Lạp. Chân Lạp được vua Bhavavarman sáng lập vào thế kỉ thứ VI, khi ông qua đời người con trai kế vị đã đưa quân đi đánh Phù Nam. Sau khi giành được chiến thắng, người Chân Lạp mở rộng lãnh thổ về phía Nam, xây dựng kinh đô Isanapura ở gần Kompong Thom. Năm 680 vua Jayavarman qua đời và hoàng hậu Jayadevi lên nắm quyền, tuy nhiên bà không được lòng mọi người và gây ra sự chia rẽ trong giới quý tộc và quan lại. Năm 713 Puskaraksa đã phế truất bà và lên ngôi lập kinh đô mới ở gần Sambaur. Với tình hình hỗn loạn của thời bấy giờ, nước Chân Lạp bị chia cắt thành hai nước nhỏ hơn là Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Trong khi đó ở miền Nam Puskaraksa đã không kiểm soát được tình hình, nội chiến xảy ra ở khắp nơi. Lợi dụng tình hình rối ren đó, vương triều Sailendra ở phía Đông đảo Java (Indonesia) đã tấn công Puskaraksa và chiếm được kinh đô Sambaur. Có thể nói đây là giai đoạn huy hoàng trong lịch sử đất nước Campuchia. Khi nhận thấy vương triều Sailendra suy yếu thì một tù nhân trong hoàng tộc Chân Lạp trốn thoát về lại đất nước mình. Ông tập hợp người dân đứng lên chống lại sự áp bức của Sailendra và thống nhất lại Campuchia. Từ đó mở ra một đế chế hùng mạnh ở khu vực Đông Nam Á – đế quốc Khmer. Người đó chính là Jayavarman II. Lịch sử đất nước Campuchia ghi nhận những công lao của vua Suryavarman II khi chinh phục được vùng đất trung và hạ của con sông Chao Phraya (Thái Lan ngày nay) và cao nguyên Korat. Ông đã chinh phục được Champa và 5 lần đem quân tấn công Đại Việt. Ông cho xây dựng Angkor Wat như một biểu tượng của sức mạnh vương triều. Sau khi Suryavarman II qua đời, đất nước Campuchia trải qua nhiều giai đoạn lầm than và bị nhiều đế quốc khác đánh chiếm, xâm lấn. Một chàng trai trẻ đã ẩn mình trong 16 năm ròng rã để tập hợp binh lính tấn công quân Champa và lên ngôi vua, đó chính là Jayavarman VII. Đây cũng là giai đoạn phát triển cực thịnh của đế quốc Khmer. Từ thế kỉ XV tới XIX đất nước Campuchia bị thu hẹp đất đai và rơi vào giai đoạn suy tàn. sự xâm lăng của vương quốc Ayutthaya làm cho Angkor liên tục bị chiếm đóng và tàn phá. Vua Ang Cha phải cho dời kinh đô về Lovek ở phía Đông Nam biển Hồ. Sang thế kỉ XVII, đất nước Campuchia có một thời gian ngắn đi vào ổn định dưới thời vua Chay Chetta II bằng việc thành lập kinh đô mới ở Oudong năm 1618. Ông mở rộng quan hệ với chúa Nguyễn ở Đàng Trong để cân bằng lực lượng với người Thái. Từ giữa thế kỉ 17 Campuchia rơi vào tình trạng suy thoái không phanh. Sự lớn mạnh của Xiêm và chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã làm cho lãnh thổ Campuchia bị thu hẹp đáng kể. Hai tỉnh Siem Riep và Battambang được sát nhập vào lãnh thổ Thái Lan cho tới khi người Pháp lấy lại vùng đất này. Cũng giống như hai quốc gia láng giềng Việt Nam và Lào, đất nước Campuchia cũng chịu sự đô hộ của thực dân Pháp bằng hiệp ước kí kết giữa vua Norodom và thực dân Pháp vào năm 1863 về việc thành lập một thành lập chính quyền bảo hộ. Người Pháp đã giúp Campuchia lấy lại một số đất đai ở phía Bắc như Siem Riep, Battambang, Oddar, Meanchay. Năm 1945 đất nước Campuchia hưởng được một giai đoạn ngắn trước khi quân đồng minh tái lập quyền kiểm soát của Pháp. Vua Sihanouk nổi lên như một vị anh hùng khi cố gắng đàm phán, thỏa hiệp với Pháp để giành lại độc lập cho đất nước mình. Đến năm 1953 Pháp đồng ý trao trả độc lập cho Campuchia. Sau này đất nước Campuchia còn trải qua nhiều giai đoạn khác nhau như cộng hòa Khmer, Campuchia dân chủ và nay là Cộng hòa nhân dân Campuchia. Khốc liệt nhất vẫn là giai đoạn Pol Pot lên nắm quyền và biến Campuchia như trở lại thời kì đồ đá. Năm 1991, Hội nghị Paris tái họp để ký kết thỏa ước tổng thể, trap cho Liên Hiệp Quốc quyền giám sát ngừng bắn, hồi hương cho người tị nạn Khmer, chuẩn bị tiến hành bầu cử tự do. Năm 1993, có hơn 4 triệu người bỏ phiếu trong cuộc bầu cử do Liên Hiệp Quốc tổ chức, mặc dù Khmer Đỏ không chịu hoàn giải, tìm cách đe dọa và ngăn chặn nhiều người tham gia bầu cử. Đảng FUNCINPEC của hoàng thân Ranariddh nhận được khoảng 45,5% số phiếu, tiếp theo là đảng Nhân dân của Hun Sen, rồi đến đảng Dân chủ Tự do Phật giáo. Đảng FUNCINPEC tiếp đó thành lập chính phủ liên minh với các đảng phái tham gia bầu cử, với quốc hội gồm 120 thành viên. Quốc hội thông qua hiến pháp mới ngày 24/ 9, Campuchia là một quốc gia quân chủ lập hiến, đa đảng, tự do, với cựu hoàng thân Sihanouk được đưa lên làm vua trở lại. Vào năm 1998, các lực lượng Khmer Đỏ cuối cùng phải đầu hàng, đồng thời trong năm này, giới lãnh đạo đảng FUNCINPEC quay trở lại Cambodia. Năm 2004, vua Sihanouk tuyên bố thoái vị do tình trạng sức khỏe và ở lại Bắc Kinh để chữa bệnh. Hoàng thân Sihanmoni được truyền ngôi và trở thành vua mới. Truy cập ngay địa chỉ topasiatravel.com.vn để có thêm những thông tin bổ ích về du lịch Campuchia cùng Top Asia Travel. Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *
|
Lịch sử Campuchia (1979–1993)
|
Giai đoạn này của lịch sử Campuchia bắt đầu từ ngày 7 tháng 1 năm 1979, khi chính quyền Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ bị lật đổ do Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam của Việt Nam. Tại hàng trăm ngôi làng Campuchia, quân đội Việt Nam được chào đón với sự mừng vui và khó tin là đã được cứu thoát. Khoảng 300 ngàn dân từ các tỉnh phía Tây và từ Phnom Penh bị buộc phải đi cùng quân Khmer Đỏ rút lui vào rừng. Đối với phần còn lại của Campuchia, người ta xem như đã được hồi sinh. Nhưng Campuchia giờ đây là một đất nước không có tiền tệ, thị trường, bưu điện hay trường học. Cả nước đầy rẫy những khu mộ tập thể và nhà chứa hài cốt. Những người dân yếu ớt còn sống sót đang đối mặt với nạn đói. Thay vì được hoan nghênh do đã lật đổ một chế độ mà cả thế giới lên án, Việt Nam phải chịu sự chỉ trích của quốc tế. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia chỉ được một số ít nước công nhận, trong khi Khmer Đỏ dù bị nhiều nước lên án nhưng vẫn được thừa nhận là thành viên hợp pháp của Liên Hợp Quốc.
|
Du học Đức: Đại học Georg – August Goettingen (Đại học Göttingen) được thành lập từ năm 1737 là một trong những trường có lịch sử lâu đời trên thế giới. Cho đến nay, đã có trên 40 nhà khoa học được nhận giải Nobel đã từng nghiên cứu, giảng dạy tại đây. Thành phố Goettingen thuộc bang Niedersachsen, được xem là trái tim của nước Đức vì ở vị trí trung tâm nước Đức. Goettingen cách Frankfurt – nơi có sân bay quốc tế lớn nhất nước Đức và châu Âu – khoảng 350 km về phía Bắc; ở phía Nam là Hannover, cách khoảng 100 km; còn so với thủ đô Berlin thì Goettingen ở phía Tây Nam, cách khoảng 350 km. Ngoài ra trong trường còn có nhiều trung tâm đa ngành, đa lĩnh vực và nhiều dự án quốc tế, tổng số sinh viên hiện nay là 23.953, trong đó có 2.865 sinh viên nước ngoài. Không nên cứng nhắc theo ngành học của Việt Nam, vì có thể họ sẽ không có ngành tương ứng. Khoa Nông nghiệp ở đây gồm cả nông học, chăn nuôi – thú y, chế biến, kinh tế… với 15 bộ môn (cơ sở của mỗi bộ môn tương đương với một trường nhỏ ở Việt Nam). Để liên hệ với giáo sư, bạn nên tìm hiểu về người đó trước (qua mạng) chuẩn bị đề cương theo hướng phù hợp. Vào năm 1903, trường có 1529 sinh viên cùng với 121 giáo sư. Năm 1904, Ludwig Prandtl về làm việc tại trường và đưa Göttingen trở lên nổi tiếng về cơ học chất lưu (fluid mechanics) và khí động lực học (aerodynamics) trong suốt hai thập kỷ. Ông được bổ nhiệm làm giám đốc viện nghiên cứu cơ học chất lỏng mang tên nhà vua Học viện Cơ học chất lưu Kaiser Wilhelm (Kaiser Wilhelm Institute for Fluid Mechanics). Nhiều sinh viên của ông đã có những đóng góp tạo nền tảng cho ngành khí động lực học. Cho đến nay, 45 cá nhân giành giải Nobel đã là sinh viên đại học, nghiên cứu sinh, giáo sư hay có đóng góp vào sự nghiệp khoa học của trường. Hầu hết các giải Nobel này đều được trao vào nửa trước thế kỷ 20 để hình thành nên “kỳ quan Nobel Götingen”. Các nhà khoa học Göttingen trong thời kỳ đó đã góp phần tạo “cảm giác” cho không ít người rằng giải Nobel là của người Đức và tiếng Đức một thời được coi là ngôn ngữ của khoa học. Đại học Göttingen là thành viên trong mạng lưới các trường đại học nghiên cứu của Châu Âu từ năm 1985. Xen kẽ với các viện nghiên cứu của trường là 4 viện nghiên cứu của Hiệp hội Max-Planck (một trong những hiệp hội nghiên cứu dẫn đầu thế giới) bao gồm Viện sử học, Viện hóa lý-sinh, Viện y học thực nghiệm, Viện động lực và cấu trúc. Viện thần kinh châu Âu, Trung tâm nghiên cứu các loài linh trưởng Đức, Trung tâm không gian Đức, hãng Satorius nổi tiếng cũng đặt trụ sở tại đây.
|
Đại học Göttingen
|
Viện Đại học Göttingen hay Đại học Göttingen (tiếng Đức: Georg-August-Universität Göttingen), thường được gọi với tên Georgia Augusta, là một viện đại học tại thành phố Göttingen nằm gần trung tâm nước Đức. Trường được vua George II của Anh (vua nước Anh đồng thời là tuyển hầu tước - elector - của Hannover lúc bấy giờ) thành lập năm 1734. Sau khi ra đời, Đại học Göttingen nhanh chóng trở thành một trong những đại học dẫn đầu tại Đức và châu Âu với 800 sinh viên và đến năm 1832 có 1547 sinh viên theo học tại 4 khoa của trường (con số mà không nhiều trường đại học lúc đó có được). Sự ra đời của trường là thay đổi lớn nhất trong lịch sử thành phố, giúp thành phố trở thành một trong những thành phố đại học của Đức (tương tự như Heidelberg, Freiburg, Tübingen) (nơi có các trường đại học không cổng, không tường bao). Cho đến ngày nay, dù không phải là thành phố lớn trực tiếp sản xuất ra nhiều của cải vật chất nhưng người dân thành phố vẫn hãnh diện về lịch sử phát triển gắn liền với khoa học và những cá nhân xuất sắc đã từng sống, học tập và làm việc đây với những đóng góp lớn của họ cho khoa học của Đức và của thế giới mặc dù Đại học Göttingen, cũng như các trường trong hệ thống đại học Đức, ít được đánh giá cao trong bảng xếp hạng các đại học trên thế giới.
|
Typography là một trong những yếu tố quan trọng nhất của thiết kế đồ họa. Vậy bạn đã biết về typography hay chưa? Bài viết dưới đây sẽ bật mí những điều bạn cần biết về typography nhé. Typography là bất cứ thứ gì bạn “đọc” được. Nó nằm trong những cuốn sách chúng ta đọc, trên các trang web chúng ta truy cập. Hay ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, đó là những dòng chữ trên bảng hiệu dọc các con phố. Là nhãn dán và bao bì sản phẩm. Nhưng chính xác thì typography là gì? Nói một cách đơn giản, typography là cách hiển thị của chữ cái. Typography còn được nâng tầm để trở thành nghệ thuật “chơi” với các con chữ. Không ít người nhầm lẫn typeface và font giống nhau, nhưng thật ra thì hai khái niệm này khác nhau hoàn toàn đấy nhé. Typeface là hệ thống bao gồm các kiểu chữ, mỗi kiểu chữ là một typeface riêng biệt. Trong Font là tập hợp hoàn chỉnh các chữ cái, các dấu câu, các con số, và các ký tự đặc biệt, theo một kiểu loại, định dạng (thường hoặc đậm nét), hình dáng (thẳng hoặc nghiêng) và kích cỡ phù hợp và có thể phân biệt khác nhau. Serif hay còn gọi là font chữ “có chân”, do có một nét được thêm vào phần bắt đầu hoặc phần cuối trong nét chính của chữ. Do kiểu cách khá cổ điển, nên chúng là lựa chọn tuyệt vời cho những dự án truyền thống. Serif cũng thường xuyên được sử dụng trong các ấn phẩm in ấn như tạp chí hoặc báo giấy. Modern SerifSerif dài và mỏngTrục gần như thẳng đứngTương phản mạnh và cả độ rộng của các chữ. Slab SerifChân hình khối chữ nhậtCác nét gần như bằng nhauX-height lớn.Chân hình vòng cungTương phản và độ rộng ngang nhau. Sans-serifTrong tiếng Pháp, sans có nghĩa phủ định, do đó "sans-serif – không có chân”, trái ngược với kiểu font Serif. Sans-Serif có phong cách hiện đại, sáng sủa và rõ ràng hơn so với font có chân. Do vậy, nó hiển thị trên các màn hình nhỏ như máy tính, điện thoại tốt hơn. Trong tiếng Pháp, sans có nghĩa phủ định, do đó "sans-serif – không có chân”, trái ngược với kiểu font Serif. Sans-Serif có phong cách hiện đại, sáng sủa và rõ ràng hơn so với font có chân. Do vậy, nó hiển thị trên các màn hình nhỏ như máy tính, điện thoại tốt hơn. GrotesqueÍt có sự tương phản giữa các nétĐường cong(aperture) lớn hoặc trung bình Thường có thiết kế hình học và có độ cong (bowl) lớn. Neo-GrotesqueThanh lịch và khó nhận biết, Ít tương phản giữa các nét Độ cong (aperture) nhỏChiều cao x-height lớn. Ascender (phần của con chữ nằm ở trên đường mean line, nó có trong các bộ chữ như (h,l,k,…) cao hơn chiều cao của các chữ hoa. Ascender (phần của con chữ nằm ở trên đường mean line, nó có trong các bộ chữ như (h,l,k,…) cao hơn chiều cao của các chữ hoa. Geometric Sans - Không chân dạng hình họcCó dạng hình học đơn giản - tròn, vuông, tam giácĐộ cong aperture lớn Không có sự tương phản giữa các nét. Humanist Sans - Chữ không chân nhân vănCấu trúc và tỉ lệ mang đặc tính của Old Style. Độ cong aperture lớn Có sự tương phản giữa các nét. Độ rộng của nét không đều. GlyphicSự kết hợp giữa đặc điểm của Sans và Serif.Các nét kết thúc có chân thon nhỏ. Được sử dụng để trang trí vì thiết kế đặc biệt và độc nhất của chúng. Những kiểu chữ này thường được sử dụng làm poster, tiêu đề phim, bìa sách,. Các thuật ngữ cơ bản trong TypographyHierachyHệ thống phân cấp được sử dụng để điều hướng mắt người đọc đến những thông tin quan trọng nhất. Nói cách khác, nó cho người đọc thấy điểm bắt đầu và điểm tiếp theo họ cần đọc, bằng cách sử dụng các mức độ nhấn mạnh khác nhau.Để tạo hệ thống phân cấp rất đơn giản: Bạn chỉ cần quyết định yếu tố mà bạn muốn người đọc chú ý trước tiên, sau đó làm chúng nổi bật lên. Các yếu tố quan trọng thường lớn, đậm hoặc khác biệt theo một cách nào đó. LeadingLeading là khoảng cách giữa các dòng. Mục đích của leading là giúp cho văn bản của bạn càng dễ đọc càng tốt. Giãn dòng quá lớn hoặc quá nhỏ đều khiến người đọc cảm thấy khó chịu.TrackingLà độ giãn cách các chữ cái với nhau. Có nhiều chương trình cho phép bạn làm dày hoặc giãn rộng yếu tố này, phụ thuộc vào nhu cầu của bạn. Với một số thiết kế, việc tùy chỉnh kỹ thuật tracking sẽ đem lại những yếu tố hiệu quả về mặt nghệ thuật nhất định. Nó cũng có thể giúp bạn sửa các font chữ có giãn cách không tốt.KerningKerning là khoảng cách giữa hai chữ cái (hoặc các ký tự khác như: số, dấu câu,…) và quá trình điều chỉnh khoảng cách để giảm khoảng trống không phù hợp giữa các chữ cái hay tăng khoảng trống giữa các kí tự khó đọc. Hệ thống phân cấp được sử dụng để điều hướng mắt người đọc đến những thông tin quan trọng nhất. Nói cách khác, nó cho người đọc thấy điểm bắt đầu và điểm tiếp theo họ cần đọc, bằng cách sử dụng các mức độ nhấn mạnh khác nhau. Để tạo hệ thống phân cấp rất đơn giản: Bạn chỉ cần quyết định yếu tố mà bạn muốn người đọc chú ý trước tiên, sau đó làm chúng nổi bật lên. Các yếu tố quan trọng thường lớn, đậm hoặc khác biệt theo một cách nào đó. Leading là khoảng cách giữa các dòng. Mục đích của leading là giúp cho văn bản của bạn càng dễ đọc càng tốt. Giãn dòng quá lớn hoặc quá nhỏ đều khiến người đọc cảm thấy khó chịu. Là độ giãn cách các chữ cái với nhau. Có nhiều chương trình cho phép bạn làm dày hoặc giãn rộng yếu tố này, phụ thuộc vào nhu cầu của bạn. Với một số thiết kế, việc tùy chỉnh kỹ thuật tracking sẽ đem lại những yếu tố hiệu quả về mặt nghệ thuật nhất định. Nó cũng có thể giúp bạn sửa các font chữ có giãn cách không tốt. Kerning là khoảng cách giữa hai chữ cái (hoặc các ký tự khác như: số, dấu câu,…) và quá trình điều chỉnh khoảng cách để giảm khoảng trống không phù hợp giữa các chữ cái hay tăng khoảng trống giữa các kí tự khó đọc. Typography được xem là một trong những công cụ hiệu quả trong việc truyền tải thông điệp của nhà thiết kế đến với người xem qua từng tác phẩm. Do đó, tầm quan trọng của typography hoàn toàn ngang bằng với yếu tốc màu sắc và hình khối trong thiết kế. Hi vọng bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về typography. Nếu bạn yêu thích và quan tâm đến thiết kế, tham khảo khóa Thiết kế chuyên sâu tại ColorME nhé. Khóa học digital painting phù hợp cho mọi đối tượng. Giúp bạn sử dụng Wacom để vẽ chân dung, concept art, vẽ nhân vật game, concept phim,… trong 16 buổi học. tài liệu và bài viết bổ ích, nhớ check email của colorME thường xuyên bạn nhé.
|
Biết chữ
|
Biết chữ được hiểu phổ biến là khả năng đọc, viết và sử dụng số trong ít nhất một phương pháp viết, một cách hiểu được phản ánh bởi các định nghĩa từ điển và sổ tay chính thống. Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1980, các nhà nghiên cứu xóa mù chữ đã duy trì việc xác định biết chữ là một khả năng ngoài bất kỳ sự kiện đọc và viết thực tế nào, bỏ qua những cách đọc và viết phức tạp luôn xảy ra trong một bối cảnh cụ thể và song song với các giá trị liên quan đến bối cảnh đó. Quan điểm cho rằng xóa mù chữ luôn liên quan đến các yếu tố văn hóa và xã hội được phản ánh trong quy định của UNESCO rằng biết chữ là "khả năng xác định, hiểu, giải thích, tạo, giao tiếp và tính toán, sử dụng các tài liệu được in và viết liên quan đến việc thay đổi bối cảnh. " Sự quan tâm hiện đại về xóa mù chữ như là một "tập hợp phụ thuộc vào bối cảnh của thực tiễn xã hội" phản ánh sự hiểu biết rằng các hoạt động đọc và viết của cá nhân phát triển và thay đổi theo tuổi thọ khi bối cảnh văn hóa, chính trị và lịch sử của họ thay đổi.
|
– Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản để mở rộng sản xuất, tăng thêm quy mô bóc lột. Tích lũy tư bản là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ bản, quy luật giá trị và cạnh tranh… của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư; thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất. – Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập (bộ phận giá trị thặng dư nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân). Nếu tỷ lệ phân chia không thay đổi, thì quy mô tích lũy phụ thuộc vào các nhân tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như:. + Tăng cường bóc lột sức lao động. Nhân tố này biểu hiện ở chỗ cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động đối với công nhân làm thuê. + Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (tức giá trị máy móc, thiết bị được sử dụng) và tư bản tiêu dùng (tức giá trị tiêu hao của máy móc, thiết bị đó qua mỗi chu kỳ sản xuất). + Quy mô tư bản ứng trước. Quy mô tư bản ứng trước càng lớn, càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích lũy ngày càng nhiều. Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa một phần giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Chẳng hạn, một tư bản 1.000 đôla cộng thêm 100 đôla giá trị thặng dư tư bản hóa thành một tư bản lớn hơn là 1.100 đôla. Tích tụ tư bản là một tất yếu. Trước hết đó là do yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, của cạnh tranh và của tiến bộ kỹ thuật. Đồng thời trình độ bóc lột và khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được ngày càng tăng trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản là điều kiện vật chất làm cho khả năng tư bản hóa giá trị thặng dư biến thành hiện thực tích tụ tư bản. Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản bằng cách kết hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Thí dụ: một tư bản 3.000 đôla hợp lại với một tư bản 2.000 đôla thành một tư bản lớn hơn là 5.000 đôla. Tập trung tư bản thường diễn ra bằng hai phương pháp. Phương pháp cưỡng bức và phương pháp tự nguyện. Phương pháp cưỡng bức thể hiện ở chỗ: trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản lớn thôn tính các nhà tư bản nhỏ phá sản. Ở phương pháp tự nguyện trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản không phân thắng bại, họ liên hiệp lại và tổ chức các công ty cổ phần để tránh khỏi sự phá sản và có đủ sức mạnh cần thiết cho cạnh tranh trên phạm vi mới. Nếu tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội và phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản thì tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư bản xã hội mà chỉ phân phối lại và tổ chức lại tư bản xã hội; nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt khiến cho cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến sự tập trung tư bản. Tập trung tư bản tạo ra điều kiện để tăng cường bóc lột giá trì thặng dư và đẩy mạnh tích tụ tư bản. – Trong quá trình tích lũy tư bản, cơ cấu tư bản dần dần thay đổi. Các bộ phận của tư bản có sự thay đổi không giống nhau. Cấu tạo của tư bản gồm có hai mặt: mặt vật chất và mặt giá trị. + Cấu tạo của tư bản về mặt vật chất gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản. + Cấu tạo của tư bản về mặt giá trị gồm có tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến gọi là cấu tạo giá trị của tư bản. + Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị có quan hệ chặt chẽ với nhau. Để chỉ mối quan hệ chặt chẽ đó, C.Mác dùng khái niệm cấu tạo hữu cơ của tư bản. Vậy cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quy định và phản ánh những thay đổi của cấu tạo kỹ thuật. Cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi tùy theo mức độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở giai đoạn công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, phát triển công nghiệp cơ khí, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên rất nhanh. Nhưng hiện nay có nhiều ngành công nghiệp sản xuất ra các máy móc, thiết bị kỹ thuật mới rẻ hơn so với các máy móc, thiết bị kỹ thuật cũ mà chính nó thay thế, hoặc đang phát triển ngành có cấu tạo hữu cơ thấp như lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, hiện nay xu hướng tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản không rõ rệt ở một số ngành. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn.
|
Tích lũy tư bản
|
Tích lũy tư bản, trong kinh tế chính trị Mác - Lênin là việc biến một bộ phận giá trị thặng dư trở lại thành tư bản, còn trong các lý luận kinh tế học khác, nó đơn giản là sự hình thành tư bản (tăng lượng vốn dưới hình thức tư bản cố định và lưu kho của chính phủ và tư nhân). Đặc trưng của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng. Muốn vậy, cần phát triển một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc biến giá trị thặng dư trở lại tư bản gọi là tích lũy tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư. Quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa, nhưng sự biến đổi đó không vi phạm quy luật giá trị. Động lực thúc đẩy tích luỹ tư bản là quy luật giá trị thặng dư và cạnh tranh.
|
77 năm trước, vào thời kỳ khốc liệt nhất của Thế chiến II, nước Anh rơi vào hỗn loạn. Vô số người bị mất nhà cửa vì chiến tranh và có những người lang bạt nay đây mai đó chỉ để tìm một nơi sinh sống an toàn. Vào tháng 4/1943, có 4 cậu bé đi tìm tổ chim ở rừng Hagley gần Stourbrige, 1 thị trấn trong khu vực West Midlands. Trên thực tế đây là địa điểm cấm nhưng chúng vẫn lẻn vào chỉ để thỏa mãn máu thám hiểm của mình. Trong khu rừng, chúng nhìn thấy 1 cây du lớn. Một trong những cậu bé quyết định trèo lên cây để tìm xem có tổ chim nào không. Nhưng rốt cuộc, thứ mà cậu tìm được lại là điều không ngờ. Ở giữa phần thân rỗng của cây, cậu bé nhìn thấy một thứ mà cậu nghĩ là hộp sọ động vật. Nhưng khi cúi xuống nhặt nó lên, cậu bé mới kinh hoàng nhận ra vật thể trên tay mình thực sự là hộp sọ của con người, lành lặn với răng và các mảng tóc. Cậu bé nhanh chóng ném trả lại hộp sọ vào hốc cây. Cả bốn thống nhất với nhau rằng, vì chúng đang lẻn vào khu vực cấm, nên mọi điều chúng thấy ở đây sẽ được giữ bí mật. Tuy nhiên, một trong những cậu bé đã không thể giấu kín được những gì mình vừa nghe kể trong chuyến thám hiểm kỳ lạ. Cậu nói với cha mẹ về việc tìm thấy hộp sọ người trong rừng và họ đã ngay lập tức báo với chính quyền địa phương. Cảnh sát tìm đến cây du theo chỉ dẫn của bọn trẻ. Các nhà điều tra tìm sâu hơn bên trong thân cây và tìm thấy 1 bộ xương đầy đủ (trừ 1 tay), 1 chiếc nhẫn cưới, 1 chiếc giày và miếng vải rách nhét trong miệng hộp sọ. Sau khi đào xung quanh gốc cây, bàn tay bị mất cũng được tìm thấy. Kết quả giám định pháp y cho biết, bộ xương thuộc về một phụ nữ khoảng 35 tuổi. Ước tính người này đã chết khoảng 18 tháng trước. Cơ thể nằm gọn vào trong gốc cây cho thấy người này đã bị thủ phạm nhét vào gốc cây khi còn sống hoặc vừa mới chết xong. Theo phân tích, thi thể sẽ không thể vừa với hốc cây nếu được đặt vào sau khi chết. Miếng vải trong miệng hộp sọ cho thấy khả năng cao người phụ nữ xấu số này đã chết vì ngạt. Vụ án diễn ra vào thời điểm làn sóng người di cư vì chiến tranh ở Anh lên cao, nên việc xác định danh tính nạn nhân là rất khó khăn. Người phụ nữ này có thể là người địa phương, nhưng cũng có thể chỉ là một người từ nơi khác đến. Số lượng phụ nữ mất tích trong thời kỳ này là rất lớn. Các nhà chức trách đã nỗ lực hết sức để tìm kiếm một cái tên khả dĩ và truy xét nguyên nhân cái chết. Vì đang trong thời chiến, có quan điểm cho rằng người phụ nữ này tham gia vào nhiệm vụ gián điệp cho người Đức và bị thủ tiêu do biết quá nhiều. Hoặc có thể, đây là 1 nữ gián điệp người Anh bị phát hiện và bắt buộc phải im lặng mãi mãi. Dù nghe có vẻ mơ hồ nhưng đó là một lời giải thích khá hợp lý vào thời điểm đó. Một trong những phỏng đoán đáng sợ hơn cho rằng, việc một cánh tay của người phụ nữ được tìm thấy tách ra khỏi phần còn lại của cơ thể cho thấy nạn nhân chết vì một nghi thức hiến tế nào đó. Truyền thuyết dân gian Anh từng nói về cái gọi là “Bàn tay Vinh quang” mang lại sức mạnh ma thuật. Thông thường bàn tay của một tên tội phạm bị xử tử sẽ được sấy khô và sử dụng cho các mục đích huyền bí. Tuy nhiên, các nhà chức trách đưa ra lời giải thích hợp lý hơn khi mô tả bàn tay ban đầu được đặt cùng với bộ xương nhưng bị động vật hoang dã trong khu vực tha đi. Vụ án tiếp diễn trong vài tháng sau đó mà không có kết quả, thậm chí còn trở nên bí ẩn hơn với một tình tiết ly kỳ mới. Kể từ tháng 12 năm đó, những dòng chữ nguệch ngoạc bí ẩn bắt đầu xuất hiện trên toàn khu vực. Ban đầu, dòng chữ được viết ngay gần nơi tìm ra thi thể với nội dung như một câu hỏi thảm thiết nhưng cũng ẩn ý giống như thể một lời trêu ngươi cảnh sát: “Ai đặt Lubbella vào trong cây du núi?”. Lubbella là một cái tên không bình thường và nó đã được cảnh sát gán cho bộ xương. Tuy nhiên, không có manh mối nào được phát hiện liên quan đến cái tên này. Mọi chuyện không dừng lại ở đó. Một dòng chữ khác với cùng nội dung nói trên, chỉ khác cái tên, đó là: “Ai đặt Bella vào trong cây du núi?” tiếp tục được viết trên một tượng đài bằng đá gần đó. Cuối cùng dòng chữ xuất hiện khắp nơi mà không rõ ai là người viết. Cảnh sát bắt đầu đặt ra câu hỏi về cái tên mới. Phải chăng có ai đó ở địa phương biết danh tính của người phụ nữ bị giết? Có phải người phụ nữ tên là Bella? Nhưng hướng điều tra mới tiếp tục đi vào ngõ cụt khi ở địa phương không có báo cáo nào về trường hợp mất tích có cái tên này. Những dòng chữ bí ẩn liên tiếp được viết trên tường và các tượng đài trong một thời gian khá lâu cho đến khi dừng lại hoàn toàn. Không ai biết lý do tại sao. Câu chuyện “Ai đặt Bella vào trong cây du núi” đã trở thành truyền thuyết địa phương và vẫn được kể cho đến ngày nay. Bí ẩn về vụ án người phụ nữ bất hạnh trong cây du núi sẽ còn tồn tại trong nhiều năm tới.
|
Ai đã đặt Bella vào trong cây du núi?
|
Ai đã đặt Bella vào trong cây du núi? (tiếng Anh: Who put Bella in the Wych Elm?) là một hình vẽ graffiti xuất hiện vào năm 1944 sau khi bốn đứa trẻ phát hiện ra bộ xương của một người phụ nữ bên trong cây du núi ở rừng Hagley (nằm trong khuôn viên của Hagley Hall), Worcestershire, Anh. Nạn nhân được cho là bị sát hại vào năm 1941 và danh tính về cô vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Không những thế, vị trí hiện tại của bộ xương và báo cáo khám nghiệm tử thi cũng là một ẩn số.
|
Order Fulfillment luôn là một quá trình quan trọng đối với mọi doanh nghiệp. Khái niệm này tuy không mới nhưng có thể gây ra hiểu lầm cho nhiều người, kể cả những người đã làm lâu năm trong lĩnh vực này. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra định nghĩa đơn giản nhất về order fulfillment để các bạn có thể hiểu hơn về khái niệm này. Order fulfillment được định nghĩa bao gồm các bước liên quan đến việc nhận, xử lý và vận chuyển đơn hàng đến khách hàng cuối cùng. Dịch vụ fulfillment được định nghĩa là một bên công ty thứ ba cung cấp các quy trình hoàn tất đơn hàng được ủy thác bởi một bên khác. Những định nghĩa chung này có thể áp dụng cho nhiều loại đơn đặt dưới nhiều hình thức từ doanh nghiệp đến doanh nghiệp (B2B) hay trực tiếp doanh nghiệp đến khách hàng (B2C). Để giúp bạn hiểu rõ hơn về order fulfillment, hãy cùng xem xét quy trình hoàn tất đơn hàng cơ bản dưới đây. Quy trình thực hiện order fulfillment có thể được chia ra làm 4 giai đoạn cơ bản, gồm: Thu nhận hàng, kiểm kê kho hàng, xử lý đơn hàng và vận chuyển. Ngoài ra, còn 1 bước phát sinh mà bạn cần phải chú ý đó là đổi trả hàng. Bất kể bạn thuê một công ty bên ngoài phụ trách thực hiện order fulfillment hay chính bạn phụ trách việc đó thì việc thu nhận hàng hóa từ nhà sản xuất/nhà cung cấp luôn là bước đầu tiên của quá trình. Kiểm tra số lượng hàng hóa để chắc chắn số nhập vào trùng khớp với số hàng hóa đã đặt từ nhà cung cấp. Thêm đơn vị lưu kho (SKU) vào phần mềm quản lý kho hàng để theo dõi về vị trí, số lượng nhập vào và số lượng bán ra của mỗi sản phẩm. Áp dụng đơn vị lưu kho SKU hoặc nhãn mã vạch nếu họ (người bán hoặc dịch vụ hoàn tất đơn hàng) chưa có chúng. Tuy nhiên, những bước đặc trưng này không phổ biến với những mặt hàng được đóng gói theo bộ. Một khi hàng hóa của bạn đã được nhận về kho, sau bước kiểm tra số lượng, chất lượng, dán nhãn và thêm vào phần mềm quản lý kho hàng, chúng sẽ được sắp xếp lên kệ. Để tối ưu hóa tốc độ và độ chính xác của các hoạt động order fulfillment, bạn cần lưu trữ hàng trong kho đúng cách. Mỗi đơn vị lưu kho SKU thường được chỉ định một thùng lưu trữ riêng để cho phép xử lý đơn hàng nhanh hơn và hiệu quả hơn. Thông thường, chỉ có một phần hàng trong kho được đặt trong các thùng, phần còn lại sẽ nằm trong một khu vực riêng của kho. Với các SKU hot được bán ra thường xuyên, vị trí đặt sẽ được sắp xếp gần hơn với các trạm đóng gói. Việc sắp xếp này có thể liên quan đến việc sắp xếp lại các thùng hàng, đôi khi sẽ được hỗ trợ bởi phần mềm. Bây giờ, hàng hóa của bạn đã được kiểm tra, sắp xếp và đặt trên kệ trong kho. Công việc tiếp theo cần làm là xử lý đơn hàng. Bước đầu tiên trong việc xử lý một đơn đặt hàng là nhận order. Khi một đơn đặt hàng được đặt trực tuyến bởi khách hàng, có rất nhiều cách để người bán hàng trên nền tảng thương mại điện tử nhận được đơn đặt hàng và chuyển thông tin về đơn đặt hàng đó đến kho hàng. Cách lý tưởng nhất là tích hợp phần mềm thực hiện với giỏ hàng của khách hàng để cho phép bên kho hàng tự động nhận các đơn hàng từ người mua. Khi kho đã nhận được đơn đặt hàng, các mặt hàng riêng lẻ tạo nên đơn hàng đó sẽ được nhân viên kho lấy ra khỏi kệ và vận chuyển đến trạm đóng gói đơn hàng. Tại trạm đóng gói, hàng hóa sẽ trải qua một loạt các kiểm tra, kiểm soát chất lượng, xác định các vật liệu đóng gói tốt nhất, quét các mặt hàng, thêm phiếu đóng gói, niêm phong hộp. Sau đó, gói hàng sẽ được di chuyển đến trạm vận chuyển. Có nhiều phương pháp và công nghệ liên quan đến việc đóng gói đơn đặt hàng. Tùy thuộc vào sản phẩm của bạn mà cách đóng gói của bạn sẽ có những thay đổi để phù hợp. Đây là một trong những lý do chính khiến người bán trên các nền tảng thương mại điện tử quyết định thuê dịch vụ để hoàn thành đơn hàng cho họ. Bởi vì, họ không có kinh nghiệm, chuyên môn hoặc công nghệ nội bộ để tối ưu hóa hiệu quả xử lý đơn hàng. Sau khi đơn hàng đã được lựa chọn và đóng gói, nó được chuyển đến cho trạm vận chuyển để chuẩn bị cho việc giao hàng cho khách hàng cuối cùng. Trách nhiệm của trạm vận chuyển là xác định khối lượng gói hàng và xác định phương thức vận chuyển tốt nhất cho đơn hàng. Bên cạnh một số người bán yêu cầu dịch vụ giao hàng trực tiếp từ một đơn vị vận chuyển cụ thể, cũng có rất nhiều người bán với các đơn hàng đa dạng về chủng loại, kích cỡ với các yêu cầu cụ thể khác nhau gửi đến khách hàng trong nước và quốc tế. Vì vậy, việc vận chuyển đơn hàng cũng trở nên rất phức tạp và khó kiểm soát. Bên cạnh vận chuyển đơn hàng, bên giao hàng cũng có trách nhiệm cập nhật trạng thái của một đơn đặt hàng với người bán lẫn người mua để họ tiện theo dõi tình trạng đơn hàng. Trong quá trình bán hàng, chắc hẳn ai cũng gặp phải trường hợp cần đổi trả sản phẩm. Và người làm dịch vụ order fulfillment cũng không là ngoại lệ. Đối với người mua trực tuyến, khả năng dễ dàng đổi trả sản phẩm là một yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định mua hàng. Đối với người bán hàng trực tuyến, hiệu quả xử lý yêu cầu đổi trả của khách hàng rất quan trọng, tạo nên sự tin tưởng dành cho doanh nghiệp. Người bán hàng trực tuyến nên thiết lập cả chính sách hoàn trả nội bộ và bên ngoài. Chính sách bên ngoài phải được liệt kê trên trang web của người bán và nói rõ cho khách hàng biết cách gửi và trả lại. Trong khi đó, chính sách nội bộ cần làm rõ cho nhân viên hoặc nhà cung cấp dịch vụ order fulfillment cách đổi trả hàng hóa. Tương tự tại Printub, sau khi khách hàng đặt hàng, dịch vụ order fulfillment của chúng tôi sẽ giúp bạn sẽ hoàn thiện đơn hàng. Điều đó có nghĩa là chúng tôi sẽ xác nhận đơn hàng với khách hàng, tiến hành sản xuất, giao hàng và đổi trả nếu đơn hàng gặp lỗi/sai sót. Printub là một nền tảng thương mại điện tử giúp bạn bán các sản phẩm thiết kế tùy chỉnh qua mô hình hoạt động đơn giản, dễ dàng. Đến với Printub, bạn chỉ cần thực hiện 3 bước đơn giản để có thể thực hiện công việc kinh doanh online của mình. Đầu tiên, bạn thiết kế mẫu sản phẩm, sau đó khởi tạo chiến dịch gắn thiết kế tương ứng trên hệ thống và cuối cùng là quảng bá sản phẩm. Printub sẽ giúp bạn xử lý các công đoạn còn lại như tiếp nhận đơn hàng, sản xuất và vận chuyển đến tay khách hàng. Trong trường hợp sản phẩm bị lỗi, Printub cũng sẽ giúp bạn đổi trả sản phẩm cho khách hàng. Nhìn chung, dịch vụ Order Fulfillment mang lại cho mọi người cơ hội để bắt đầu doanh nghiệp riêng của mình mà hạn chế nhiều khó khăn. Nếu bạn muốn kinh doanh nhưng không có đủ nguồn vốn hay lo sợ rủ ro về tồn hàng, đây sẽ là lựa chọn tốt nhất dành cho bạn. "text": "Order fulfillment được định nghĩa bao gồm các bước liên quan đến việc nhận, xử lý và vận chuyển đơn hàng đến khách hàng cuối cùng.". "text": "Dịch vụ fulfillment được định nghĩa là một bên công ty thứ ba cung cấp các quy trình hoàn tất đơn hàng được ủy thác bởi một bên khác, ví dụ là người bán hàng.". Order fulfillment được định nghĩa bao gồm các bước liên quan đến việc nhận, xử lý và vận chuyển đơn hàng đến khách hàng cuối cùng. Dịch vụ fulfillment được định nghĩa là một bên công ty thứ ba cung cấp các quy trình hoàn tất đơn hàng được ủy thác bởi một bên khác, ví dụ là người bán hàng. "text": "Order fulfillment được định nghĩa bao gồm các bước liên quan đến việc nhận, xử lý và vận chuyển đơn hàng đến khách hàng cuối cùng.". "text": "Dịch vụ fulfillment được định nghĩa là một bên công ty thứ ba cung cấp các quy trình hoàn tất đơn hàng được ủy thác bởi một bên khác, ví dụ là người bán hàng.". Quy trình thực hiện Order Fulfillment2.1 Thu nhận hàng2.2 Kiểm kê kho hàng2.3 Xử lý đơn hàng2.3.1 Nhận đơn đặt hàng2.3.2 Đóng gói đơn hàng2.4 Vận chuyển đơn hàng2.5 Đổi trả hàng
|
Xử lý đơn hàng
|
Xử lý đơn hàng là quy trình hoặc quy trình công việc liên quan đến việc chọn, đóng gói và giao các mặt hàng được đóng gói cho một hãng vận chuyển. Xử lý đơn hàng là một yếu tố quan trọng của việc thực hiện đơn hàng. Các hoạt động xử lý đơn hàng hoặc cơ sở thường được gọi là " trung tâm phân phối ".
|
Tối 28/8: Thêm 12.103 ca COVID-19; Miền Trung báo động bùng COVID-19 từ người hoàn thành cách ly. Hạt giống vàng (P.4): Những thanh niên Đài Loan đầu tiên tìm được Đại Pháp từ Internet. Được kỳ vọng là tác phẩm vực dậy loạt phim siêu anh hùng của DC, bộ phim “Aquaman” (Đế vương Atlantis) đã có một khởi đầu mỹ mãn. Không chỉ kỹ xảo, diễn xuất, tạo hình, âm nhạc hay kịch bản chất lượng, Aquaman đã truyền đi một thông điệp đáng suy ngẫm về anh hùng. Ngay sau khi bộ phim về siêu anh hùng không mấy nổi tiếng trong các anh hùng DC ra rạp, hàng loạt những đánh giá của người xem cho tới các chuyên gia đều ca ngợi đây là bộ phim hay nhất nhì của loạt phim anh hùng DC. Tất nhiên, phim siêu anh hùng sẽ luôn khiến khán giả ngộp thở trước các màn giao chiến siêu thực, kỹ xảo điện ảnh hoành tráng mãn nhãn, tạo hình nhân vật đẹp lung linh. Nhưng tất cả sẽ chỉ là nồi lẩu cao hương mỹ vị rời rạc nếu thiếu đi một kịch bản ‘chắc tay’ với những thông điệp nhân văn có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ở Aquaman, đó là một câu hỏi mà rất ít người trong chúng ta nghĩ đến hoặc được nghe tới trong cuộc đời của mình: “Điều gì có thể vĩ đại hơn một vị vua?” (What could be greater than a king?. Arthur – anh chàng to lớn, xù xì, phóng khoáng và biết nói chuyện với cá – đã hỏi công chúa Mera câu này: “Điều gì có thể vĩ đại hơn một vị vua?”. Trong cả phần đời trước của mình, Arthur không bao giờ nghĩ và cũng chẳng mong muốn trở thành vua của bảy vùng biển rộng lớn trên Trái Đất. Anh chỉ thích đi trừng phạt kẻ xấu, giúp đỡ người gặp nạn và uống bia. Nhưng khi thế giới của cha anh bị đe dọa bởi thế giới của mẹ anh, Arthur đã không thể đứng ngoài cuộc. Anh chàng nhiệt huyết, tính tình đơn giản và hơi tự mãn đã sớm thua cuộc, để rồi nhận ra rằng: Muốn cứu giúp người khác thì cũng phải chứng minh được bản thân mình. Đó không chỉ là chứng minh tài năng, mà còn cả tấm lòng. Arthur xuống Atlantis với suy nghĩ rằng: Tốt thôi tôi là kẻ mạnh, tôi có thể làm được, chỉ cần xuống đáy biển sâu cho ông anh cùng mẹ khác cha một trận rồi làm vua Atlantis, thế là giải quyết mọi vấn đề! Nhưng làm anh hùng nào có đơn giản như vậy? Chừng nào Arthur chưa nhận ra sứ mệnh và xuất ra được chân tâm muốn cứu vớt tất cả thần dân biển cả lẫn dân “bề mặt” (như cách người Atlantis gọi con người), thì anh chưa thể vận dụng được hết sức mạnh đã được ban cho. Và trong hành trình tìm kiếm cây đinh ba thần của vua Atlan, cũng là hình ảnh ẩn dụ về con đường đi tìm kiếm năng lực tiềm tàng của bản thân mỗi anh hùng, Arthur đã hiểu rằng vì sao mình là cầu nối giữa hai thế giới. Người Atlantis siêu việt hơn loài người, họ cũng tự nhận mình không có lòng khoan dung, thế nên vua Atlantis – bá vương Orm – muốn trừng phạt con người vì những gì họ đã gây ra cho biển cả. Những con sóng khổng lồ ném trả từng núi rác lên bờ mà con người thải ra biển là một trong những cách để nhắc nhở loài người. Nếu không tin rằng người Atlantis hay thế lực siêu nhiên nào đó có thể làm thế với chúng ta một ngày không xa, ít nhất con người cũng nên tin tưởng lời “các cụ” vẫn thường nói về luật Nhân Quả báo ứng. Có lẽ đứng từ lập trường của Orm, thì cũng chẳng có gì sai khi muốn “dọn dẹp” bề mặt và lập lại một thế giới tốt đẹp hơn, “sạch sẽ” hơn. Nhưng điểm hạn chế của Orm là anh không có một góc nhìn từ phía ngược lại. Mà điều này, Arthur lại có. Chính vì được sống trong thế giới của những người trên “bề mặt”, Arthur hiểu rằng con người cũng có những điều tốt đẹp khác nữa. Ban đầu, anh bắt đầu hành trình trở thành anh hùng chỉ bởi một lòng muốn cứu những người thuộc thế giới của cha anh, mà vẫn mang trong lòng sự căm ghét những người thuộc thế giới của mẹ anh, những kẻ mà anh cho rằng thiếu khoan dung và đã đẩy mẹ anh tới chỗ chết. Nhưng đó là một cái tâm chưa đủ chân thành và độ lượng, là cái tâm phân biệt và yêu có điều kiện. Chỉ tới khi Mera cho anh biết rằng người vĩ đại hơn cả một vị vua chính là bậc anh hùng, chính là người biết hy sinh bản thân vì người khác, dùng tấm lòng khoáng đạt không phân biệt để yêu thương hết thảy sinh mệnh mà dám dấn thân, Arthur mới càng thấy rõ hơn con đường mà mình phải đi. Anh phải yêu thương cả người bề mặt lẫn người Atlantis – Đó là sự từ bi cần phải có để khai phá sức mạnh vô song của người anh hùng. Arthur hơn Orm ở một góc nhìn, là vì anh được ở vào vị trí của người “bề mặt”. Lòng từ bi hóa ra đơn giản chỉ là như vậy: đặt mình vào vị trí của người khác, ở một góc nhìn khác để lý giải mọi điều, mọi người. Hoặc ngay cả khi không thể lý giải và thấy căm phẫn, ghét bỏ ai đó, ta đều có thể chừa lại một khoảng trống để suy nghĩ rằng có thể là ta chưa được nhìn thấy hết nguyên do và bản chất vấn đề mà thôi. Nếu không thể có được góc nhìn từ nhiều phía như Arthur, ta vẫn có thể tưởng tượng ra rằng có một góc nhìn nào đó mà mình chưa được trải nghiệm để không vội vàng phán xét. Orm với góc nhìn của bậc bề trên, của sinh mệnh siêu việt hơn loài người đã tự cho mình quyền trừng phạt con người và cứu rỗi thế giới của mình. Nhưng Arthur với tình yêu thương không phân biệt, bao khắp hết thảy mọi sinh mệnh trên đất và dưới biển, nên mới có được vị thế cao hơn hẳn Orm. Và nhờ đó, anh đã khai phá được sức mạnh tiềm ẩn của mình, sức mạnh được ban cho để gánh vác sứ mệnh. Sẽ là không thể so sánh và không có sự so sánh, nhưng hẳn nhân loại đều biết tới Cứu Thế Chủ Messiah hay Đức Chuyển Luân Thánh Vương từng được nhiều dự ngôn và kinh sách ca truyền rằng: Ngài sẽ tới cứu giúp loài người vào lúc con người sa đọa. Thần nhìn con người không khác gì con người nhìn sinh mệnh cấp thấp hơn, vậy nên nếu con người đã gây ra tội và hủy hoại thế giới thì phải bị trừng phạt. Nhưng vị Thần từ bi hơn hết thảy – “Thần của các vị Thần”, thì sẽ trải lòng từ bi tới cả những sinh mệnh nhỏ bé nhất, nên mới có thể hạ thế xuống nơi nhơ bẩn để cứu độ hết thảy chúng sinh. Quay trở lại với Arthur “đơn giản”, anh đã nhìn thấy ở trong Orm hình ảnh của chính bản thân mình trước đó, khi anh quyết định bỏ lại David Kane và cha hắn mắc kẹt trong tàu ngầm sắp nổ tung. Anh đã cho rằng cha con hắn xứng đáng chịu hậu quả vì đã gây hại cho người khác. Arthur cũng đã tự cho mình quyền phán xét và trừng phạt kẻ xấu, bất chấp đức hiếu sinh. Để sau này, Kane vì thế đã trở thành kẻ thù của Aquaman, một Black Manta đầy căm giận. Sự trừng phạt sẽ chỉ làm kẻ bị trừng phạt chất thêm uất hận và không thể quay đầu để thấy bờ. Chỉ có lòng từ bi, tấm chân tình mới có thể nung chảy mọi giáo gươm và hướng thiện mọi trái tim tăm tối nhất. Arthur đã hiểu ra điều đó và thể hiện thông qua phút giây lắng xuống khi kể về Kane ở đoạn sau phim. Arthur, một kẻ mang trong mình dòng máu hoàng tộc, hay chính là đã ở trên ngôi Vương từ trong bản chất của sinh mệnh, nhưng lại chưa bao giờ mong muốn một ngai vàng. Vì anh sinh ra đã là vua, điều anh cần làm là trở thành một anh hùng chân chính, một người vĩ đại hơn cả. Đó là người dám đối diện với những nỗi sợ hãi lớn lao nhất, với những nguy hiểm mà mình không thể hình dung và đo lường, với những điều đã làm nhiều người “đẳng cấp” hơn phải gục ngã. Tất cả chỉ vì để cứu giúp và bảo vệ người khác. Aquaman đã chiến thắng thủy quái hùng mạnh Karathen, như một hình ảnh về cuộc chiến vượt qua rào cản cuối cùng để trở thành anh hùng. Karathen là đại diện cho cái tôi ích kỷ, cho sự tự giới hạn bản thân, cho sự thiếu tin tưởng, cho quan niệm về sự “thuần khiết” trong dòng máu của các vị vua. Anh hùng quan trọng ở tấm lòng, sự kiên định và ý chí vượt lên chính mình, không phải ở việc ngay từ điểm xuất phát anh ta đã phải là người hoàn hảo không tỳ vết. Hay không cần phải là nhân chủng thuần huyết như đòi hỏi của Karathen lúc mới gặp Arthur. Cứu người và làm việc lớn hơn nhau là ở tâm nguyện, không phải ở hình thức. Aquaman, một anh hùng vui vẻ chứ không u ám như nhiều anh hùng DC khác, đã làm cho việc trở thành anh hùng cũng đầy cảm hứng đối với người xem. Bởi đó là việc làm không chen lẫn nỗi niềm riêng như Batman, không giằng xé như Superman. Aquaman trở thành anh hùng một cách trong sáng và đơn giản là vì tình yêu thương không phân biệt dù con đường cũng phải trải qua những khó khăn vì nhận thức hạn hẹp lúc đầu. Tối 28/8: Thêm 12.103 ca COVID-19; Miền Trung báo động bùng COVID-19 từ người hoàn thành cách ly
|
Aquaman
|
Aquaman: Đế vương Atlantis (tên gốc tiếng Anh: Aquaman) là phim điện ảnh siêu anh hùng của Mỹ dựa trên nhân vật Aquaman của DC Comics. Đây là phim thứ sáu của DC Extended Universe, do James Wan đảm nhiệm vai trò đạo diễn, David Leslie Johnson-McGoldrick và Will Beall thực hiện phần kịch bản từ phần cốt truyện của Wan, Beall và Geoff Johns. Phim có sự tham gia diễn xuất của Jason Momoa trong vai nhân vật chính, cùng với Amber Heard, Willem Dafoe, Patrick Wilson, Dolph Lundgren, Yahya Abdul-Mateen II và Nicole Kidman vào các vai phụ. Đây cũng là phim điện ảnh người đóng thứ 3 có sự xuất hiện của nhân vật Aquaman, sau Batman đại chiến Superman: Ánh sáng công lý (2016) và Liên minh Công lý (2017), và cũng là phim điện ảnh đầu tiên có nội dung xoay quanh nhân vật này. Trong phim, Arthur Curry, người thừa kế của vương quốc dưới đáy biển Atlantis, phải thực hiện nghĩa vụ trị vì vương quốc của mình và trở thành một siêu anh hùng của cả hai thế giới dưới nước và trên bờ trong khi Orm, người em trai cùng mẹ khác cha của Arthur đang cố gắng hợp nhất bảy vương quốc để chống lại thế giới mặt đất.
|
Kinh tế học ( tiếng Anh: Economics) là bộ môn khoa học xã hội giúp con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế. Phân tích kinh tế có thể được áp dụng trên toàn xã hội, trong kinh doanh , tài chính , chăm sóc sức khỏe và chính phủ. Phân tích kinh tế đôi khi cũng được áp dụng cho các đối tượng khác nhau như tội phạm, giáo dục, xã hội học, luật học và nhiều ngành khoa học khác. Nghiên cứu kinh tế học thường được chia thành hai loại. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô tập trung vào cách người tiêu dùng và nhà sản xuất cá nhân đưa ra quyết định của họ. Điều này bao gồm một người, một hộ gia đình, một doanh nghiệp hoặc một tổ chức chính phủ. Kinh tế vi mô bao gồm từ cách các cá nhân này giao dịch với nhau đến cách giá cả bị ảnh hưởng bởi cung và cầu hàng hóa. Cũng được nghiên cứu là hiệu quả và chi phí liên quan đến sản xuất hàng hóa và dịch vụ, cách phân chia và phân bổ lao động, tính không chắc chắn, rủi ro và lý thuyết trò chơi chiến lược . Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế tổng thể. Điều này có thể bao gồm một khu vực địa lý riêng biệt, một quốc gia, một lục địa hoặc thậm chí toàn thế giới. Các chủ đề được nghiên cứu bao gồm chính sách tài khóa và tiền tệ của chính phủ, tỷ lệ thất nghiệp, tăng trưởng được phản ánh bởi những thay đổi trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và chu kỳ kinh doanh dẫn đến mở rộng, bùng nổ, suy thoái và suy thoái. Ngoài ra còn có trường phái tư tưởng kinh tế. Hai trong số phổ biến nhất là C lassical và Keynesian . Quan điểm cổ điển tin rằng thị trường tự do là cách tốt nhất để phân bổ nguồn lực và vai trò của chính phủ nên được giới hạn trong vai trò của một trọng tài công bằng, nghiêm khắc. Ngược lại, cách tiếp cận của Keynes tin rằng thị trường không hoạt động tốt trong việc phân bổ nguồn lực một mình và chính phủ phải thỉnh thoảng bước vào và chủ động phân bổ lại nguồn lực một cách hiệu quả. Một số nhánh của tư tưởng kinh tế nhấn mạnh chủ nghĩa kinh nghiệm trong kinh tế học, thay vì logic hình thức – cụ thể là kinh tế vĩ mô hoặc kinh tế vi mô Marshall, cố gắng sử dụng các quan sát thủ tục và kiểm tra sai lệch liên quan đến khoa học tự nhiên. Vì các thí nghiệm thực sự không thể được tạo ra trong kinh tế học, các nhà kinh tế thực nghiệm dựa vào việc đơn giản hóa các giả định và phân tích dữ liệu hồi tố. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế cho rằng kinh tế học không phù hợp với thử nghiệm thực nghiệm và các phương pháp như vậy thường tạo ra câu trả lời không chính xác hoặc không nhất quán. Website tổng hợp thông tin kinh tế thị trường, tài chính chứng khoán, kết nối doanh nghiệp. Cơ hội đầu tư khởi nghiệp, hợp tác kinh doanh. VnBiz.com.vn - Website tổng hợp thông tin kinh tế thị trường, tài chính, chứng khoán, kết nối doanh nghiệp. Cơ hội đầu tư khởi nghiệp, hợp tác kinh doanh
|
Kinh tế học gia đình
|
Kinh tế học gia đình áp dụng các khái niệm kinh tế như sản xuất, phân công lao động, phân phối và ra quyết định cho nghiên cứu về gia đình. Nó cố gắng giải thích các kết quả duy nhất cho gia đình — chẳng hạn như kết hôn, quyết định sinh con, khả năng sinh sản, đa thê, thời gian dành cho sản xuất trong nước và thanh toán của hồi môn bằng phân tích kinh tế. Gia đình, mặc dù được Adam Smith trở đi công nhận là nền tảng, đã nhận được rất ít sự quan tâm có hệ thống trong kinh tế trước những năm 1960. Ngoại lệ quan trọng là Thomas Robert Malthus với mô hình tăng dân số và Friedrich Engels với các tác phẩm tiên phong bàn về các cấu trúc của gia đình, với nội dung của Elgels thường được đề cập trong chủ nghĩa Mác và kinh tế học nữ quyền. Từ những năm 1960, kinh tế gia đình đã phát triển trong nền kinh tế chính thống, được thúc đẩy bởi kinh tế học gia đình mới bắt đầu bởi Gary Becker, Jacob Mincer và các sinh viên của họ. Lòng vị tha trong gia đình, bao gồm cả định lý đứa trẻ hư.
|
Vừa qua, CyberKid Vietnam đã lên hàng loạt bài về những kỹ năng và kiến thức cần trang bị khi lướt web, hoạt động trên môi trường không gian mạng, qua đó có được sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho những cuộc tấn công mạng. Vậy thật sự tấn công mạng là gì? Làm sao để sử dụng internet an toàn, chống lại các cuộc tấn công? Bài viết dưới đây sẽ cung cấp một số kiến thức cơ bản về tấn công mạng. Tấn công mạng là gì?Khái niệm tấn công mạng (hoặc “tấn công không gian mạng“) trong tiếng Anh là Cyber attack (hoặc Cyberattack), được ghép bởi 2 từ: Cyber (thuộc không gian mạng internet) và attack (sự tấn công, phá hoại). Tấn công mạng là tất cả các hình thức xâm nhập trái phép vào một hệ thống máy tính, website, cơ sở dữ liệu, hạ tầng mạng, thiết bị của một cá nhân hoặc tổ chức thông qua mạng internet với những mục đích bất hợp pháp. Mục tiêu của một cuộc tấn công mạng rất đa dạng, có thể là vi phạm dữ liệu (đánh cắp, thay đổi, mã hóa, phá hủy), cũng có thể nhắm tới sự toàn vẹn của hệ thống (gây gián đoạn, cản trở dịch vụ), hoặc lợi dụng tài nguyên của nạn nhân (hiển thị quảng cáo, mã độc đào tiền ảo).Tấn công mạng khác với pentest (kiểm thử xâm nhập). Mặc dù cả 2 đều chỉ việc xâm nhập vào một hệ thống, tuy nhiên tấn công mạng là xâm nhập trái phép gây hại cho nạn nhân, còn pentest là xâm nhập với mục đích tìm ra điểm yếu bảo mật trong hệ thống để khắc phục. Đối tượng bị tấn côngCó thể là cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức chính phủ hoặc phi chính phủ, cơ quan nhà nước, thậm chí đối tượng có thể là cả một quốc gia. Tuy nhiên, đối tượng phổ biến nhất của các cuộc tấn công mạng là các doanh nghiệp. Đơn giản vì mục tiêu chính của những kẻ tấn công là vì lợi nhuận nhưng không vì thế mà các cá nhân lơ là nhé. Bên cạnh những mục đích phổ biến như trục lợi phi pháp, tống tiền doanh nghiệp, hiện thị quảng cáo kiếm tiền, thì còn tồn tại một số mục đích khác phức tạp và nguy hiểm hơn: cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tấn công an ninh hoặc kinh tế của một quốc gia, tấn công đánh sập một tổ chức tôn giáo, v.v.Ngoài ra, một số hacker tấn công mạng chỉ để mua vui, thử sức, hoặc tò mò muốn khám phá các vấn đề về an ninh mạng.Hy vọng qua bài viết sẽ giúp các bạn biết qua những khái niệm về tấn công mạng, trong bài viết sắp tới sẽ là những hình thức phổ biến của cyber-attack cũng như cách phòng tránh nhé.
|
Tấn công mạng
|
Một cuộc tấn công không gian mạng là bất kỳ hình thức tấn công nào của các quốc gia, cá nhân, nhóm hoặc tổ chức nhắm vào các hệ thống thông tin máy tính, cơ sở hạ tầng, mạng máy tính hoặc các thiết bị máy tính cá nhân bằng nhiều cách khác nhau của các hành vi độc hại thường có nguồn gốc từ một nguồn giấu tên, mà đánh cắp, thay đổi, hoặc hủy hoại một mục tiêu cụ thể bằng cách hack vào một hệ thống dễ bị tổn thương . Đây có thể là các chiến dịch không gian mạng, chiến tranh mạng hoặc khủng bố không gian mạng trong các ngữ cảnh khác nhau. Tấn công mạng có thể là từ việc cài đặt phần mềm gián điệp trên máy tính cá nhân để cố gắng để phá hủy cơ sở hạ tầng của cả quốc gia. Tấn công mạng ngày càng trở nên phức tạp và nguy hiểm như những con sâu Stuxnet gần đây đã chứng minh. Phân tích hành vi người sử dụng (User behavior analytics) và Quản lý các biến cố và thông tin an ninh (Security information and event management (SIEM)) được ứng dụng để ngăn chặn các cuộc tấn công.
|
1 Áp suất chân không là gì?1.1 Vì sao lại gọi là áp suất chân không?1.2 Ứng dụng của áp suất chân không:1.3 Các đơn vị đo áp suất chân không:1.4 Đồng hồ đo áp suất chân không:. Có rất nhiều ứng dụng của áp suất chân không trong công nghiệp hoặc trong đời sống hàng ngày mà có thể bạn không nhận ra. Theo như wikipedia: “áp suất là một đại lượng vật lý, được định nghĩa là lực trên một đơn vị diện tích tác dụng theo chiều vuông góc với bề mặt của vật thể. Trong hệ SI, đơn vị của áp suất bằng Newton trên mét vuông, nó được gọi là Pascal mang tên nhà toán học và vật lý người Pháp Blaise Pascal thế kỉ thứ 17”. Áp suất chân không chính là giá trị áp suất của lượng vật chất còn lại trong một khoảng không gian nhất định. Giá trị áp suất sẽ tỉ lệ nghịch với số lượng vật chất trong đó. Nghĩa là khi áp suất chân không càng cao thì lượng vật chất trong môi trường càng ít đi. Chân không, trong lý thuyết cổ điển, là không gian không chứa vật chất. Từ xuất phát từ từ Latin vacuus nghĩa là “trống” hoặc “khoảng trống”.Như vậy chân không có thể tích khác không và khối lượng (và do đó năng lượng) bằng không. Do không có vật chất bên trong, chân không là nơi không có áp suất. Vì thế, có thể nói là trong một môi trường chân không sẽ không còn bất kỳ một vật chất nào trong đó. Và áp suất chân không cũng được xem như là áp suất tuyệt đối. Có khá nhiều những ứng dụng của áp suất chân không mà ta có thể gặp. Trong đó ứng dụng thường ngày, ta có thể thấy dễ nhất chính là trong các máy hút chân không. Máy hút chân không là một loại máy hút khí. Người ta thường dùng để bảo quản thực phẩm. Hiện nay thì cũng có khá nhiều gia đình có trang bị loại máy hút chân không này. Tuy nhiên, trong công nghiệp thì áp suất chân không được dùng trong các máy bơm hút chân không. Đây là những loại máy hút chân không có công suất lớn. Mục đích là để thực hiện những tác vụ:. Trong các máy gia công CNC và máy chế tạo VAC, sử dụng lực hút chân không ở bề mặt tiếp xúc giữa các chi tiết gia công và mâm giữ. Điều này giúp cho các chi tiết được giữ chặt một cách an toàn trên mâm, giúp cho quá trình gia công chế tạo được diễn ra một cách an toàn và nhanh chóng. Còn trong các nhà máy chế biến thực phẩm, bột đá, chế biến nhựa, hóa học, ngành dược, sử dụng bơm hút chân không và máy thổi để vận chuyển các loại bột. Thực hiện kiểm tra phôi sản phẩm (chai ống), linh kiện (hút giữ sản phẩm bằng chân không) trong các dây chuyền sản xuất chai nhựa. Thổi bay và làm sạch hết nước(làm khô), và bụi ra khỏi sản phẩm, linh kiện trước khi đóng gói. Đây là các đơn vị chuẩn được dùng nhiều nhất, ngoài ra thì còn các đơn vị khác như psi, bar,…. Đây là loại đồng hồ áp suất chuyên dùng để đo áp suất chân không. Loại đồng hồ này có dải đo hơi …lạ hơn so với các loại đồng hồ áp suất thông thường. Bởi vì dải đo của đồng hồ sẽ đi từ giá trị nhỏ nhất là -1 (âm 1) và đạt giá trị lớn nhất là 1bar. Có thể tham khảo thêm thông tin về đồng hồ áp suất chân không tại địa chỉ:
|
Chân không
|
Chân không (tiếng Anh: vacuum), trong lý thuyết cổ điển, là không gian không chứa vật chất. Từ "vacuum" xuất phát từ một từ Latin vacuus có nghĩa là "trống" hoặc là "khoảng trống". Như vậy chân không có thể tích khác không và khối lượng (và do đó năng lượng) bằng không. Do không có vật chất bên trong, chân không là nơi không có áp suất. Một số lý thuyết lượng tử cho biết khái niệm chân không theo nghĩa cổ điển không tồn tại, do vi phạm nguyên lý bất định. Chân không, theo các lý thuyết này, luôn có sự dao động khối lượng (và do đó năng lượng) nhỏ. Điều này nghĩa là, ở một thời điểm nào đó, luôn có thể xuất hiện một cách ngẫu nhiên các hạt có năng lượng dương và một thời điểm khác hạt này biến mất. Các hạt ngẫu nhiên xuất hiện trong chân không tạo ra một áp suất gọi là áp suất lượng tử chân không. Các thí nghiệm đo đạc áp suất này sẽ giúp khẳng định độ chính xác của các lý thuyết lượng tử về chân không. Trong thực tế, không có nơi nào trong vũ trụ quan sát được tồn tại chân không hoàn hảo như lý thuyết.
|
Phó Tổng cục trưởng phụ trách Trần Đức Phấn đã có chuyến thăm và làm việc tại Bệnh viện Thể thao Việt Nam vào sáng ngày 11/9. Bệnh viện Thể thao Việt Nam là bệnh viện đa khoa hạng II phạm vi hẹp với quy mô 150 giường bệnh. Với 13 năm hình thành và phát triển, với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cống hiến hết mình của tập thể lãnh đạo, cán bộ công nhân viên, Bệnh viện Thể thao Việt Nam đã khẳng định được thương hiệu là đơn vị chuyên ngành đầu tiên và duy nhất hiện nay của nước ta, chuyên khám, chữa, điều trị cho vận động viên, trọng tài, huấn luyện viên chuyên nghiệp. Đồng thời, đây cũng là địa chỉ khám chữa bệnh tin cậy của nhân dân cả nước. Bệnh viện đã làm tốt công tác tuyển chọn, đánh giá trình độ tập luyện của VĐV, công tác y tế trong các giải thi đấu thể thao trong và ngoài nước; Tư vấn và tham gia các Tiểu ban Y tế, thực hiện tốt nhiệm vụ Y tế - kiểm tra doping phục vụ cho các đoàn Thể thao Việt Nam tham dự các giải thể thao đóng góp vào thành tích của các đội tuyển Việt Nam trong những năm qua; Tham gia giảng dạy tại một số lớp tập huấn về Y học thể thao ; Tăng cường hợp tác quốc tế về Y học thể thao với Hội đồng Y học thể thao các Tổ chức khu vực, châu lục và thế giới; Cử cán bộ tham gia giảng dạy Y học thể thao, phổ biến kiến thức Y học thể thao cho các huấn luyện viên, cán bộ quản lý thể thao đỉnh cao toàn quốc; Tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức Y học thể thao trong toàn quốc và đào tạo sơ cấp cứu chấn thương. Từ năm 2007 đến nay, có 03 cá nhân của Bệnh viện được tặng Huân chương lao động hạng Ba, 07 cá nhân được tặng Bẳng khen của Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm các cá nhân của Bệnh viện đạt từ mức hoàn thành nhiệm vụ trở lên. Tỷ lệ các cá nhân đạt tiêu chuẩn theo quy định của cấp trên đều cao hơn mức quy định chung.
|
Bệnh viện Thể thao Việt Nam
|
Bệnh viện Thể thao Việt Nam là bệnh viện chuyên về y học thể thao đầu tiên và duy nhất của nước ta, chuyên điều trị cho vận động viên, người dân bị chấn thương trong quá trình tham gia hoạt động thể thao. Bệnh viện có diện tích 15.000 m2, nằm trong Khu liên hợp thể thao quốc gia được coi như một tiền đề, một khâu đột phá cho sự phát triển của y học thể dục thể thao tại nước ta,góp phần quan trọng vào chu trình đào tạo vận động viên cấp cao Việt Nam. Với quá trình lịch sử lâu đời,cơ sở vật chất được đầu tư chuyên nghiệp cùng đội ngũ bác sĩ chuyên gia về y học thể thao, Bệnh viện Thể thao Việt Nam là lựa chọn hàng đầu dành cho những người bị chấn thương và các vấn đề khác liên qua đến thể thao. Bệnh viện Thể thao Việt Nam tiền thân là Ban Y sinh học của Viện Khoa học Thể dục Thể thao được thành lập theo Quyết định số 35/CP ngày 24/01/1979 ngày 24/01/1979 của Chủ tịch Hội đồng Chính phủ (nay là Thủ tướng Chính phủ)Năm 1998 theo Quyết định số: 1303/1998/QĐ-UBTDTT của Uỷ ban Thể dục thể thao, Trung tâm Y học Thể thao thuộc Viện Khoa học TDTT được thành lập trên cơ sở Ban Y sinh nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao phục vụ công tác Y học Thể thao trong toàn quốc.
|
Cung điện Westminster, cũng gọi là Tòa nhà Nghị viện, ở London, Anh là nơi Lưỡng viện Quốc hội (Viện Quý tộc và Viện Thứ dân) nhóm họp. Lâu đài nằm ở bờ Bắc sông Thames, thuộc Thành phố Westminster, gần các tòa nhà chính phủ ở Whitehall. Phần cổ nhất của tòa cung điện là Westminster Hall, vẫn còn tồn tại, có niên đại từ 1097. Cung điện ban đầu là nơi ở của vua nhưng không có vị vua nào ở đó từ thế kỷ 16. Phần lớn cấu trúc của cung điện này được xây từ thế kỷ 19 khi nó được xây lại sau một trận hỏa hoạn thiêu rụi hầu như hoàn toàn năm 1834. Kiến trúc sư chịu trách nhiệm xây lại cung điện là Sir Charles Barry và Augustus Welby Pugin. Phần nhà Hạ viện được xây lại vào thập niên 1940 vì đã bị đánh bom trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tòa nhà là một ví dụ của phong cách kiến trúc Gothic revival. Một trong những nét nổi bật của cung điện là tháp chuông đồng hồ Big Ben. Cung điện có 1100 phòng, các phòng quan trọng nhất là phòng của Hạ viện và Thượng viện. Cung điện cũng có phòng ủy ban, hành lang, phòng ăn, bar, phòng tập thể dục. Đây là nơi cử hành các đại lễ quốc gia, nổi bật nhất là lễ Khai mạc Quốc hội. Tòa nhà này gắn liền với lưỡng viện quốc hội, do đó, người ta dùng từ “Westminster” để chỉ Quốc hội. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
|
Cung điện Westminster
|
Cung điện Westminster là nơi nhóm họp của Lưỡng viện Quốc hội là Thượng viện và Hạ viện. Được biết đến với tên gọi không chính thức là Tòa nhà Nghị viện sau khi có người cư ngụ, cung điện nằm trên bờ bắc của sông Thames ở Thành phố Westminster, Trung tâm Luân Đôn, Anh, gần các tòa nhà chính phủ ở Whitehall. Tên của nó bắt nguồn từ tu viện Westminster lân cận, có thể đề cập đến một số công trình kiến trúc lịch sử nhưng thường gặp nhất là Cung điện cũ, một khu phức hợp xây dựng từ thời Trung Cổ nhưng đã bị phá hủy phần lớn sau trận hỏa hoạn năm 1834 hoặc là Cung điện mới thay thế như hiện tại. Cung điện thuộc sở hữu của nền quân chủ và được sử dụng cho các mục đích nghi lễ quốc gia, nổi bật nhất là lễ Khai mạc Quốc hội, nhưng vẫn giữ nguyên trạng như một nơi ở của hoàng gia. Ủy ban được chỉ định bởi lưỡng viện sẽ quản lý tòa nhà và báo cáo cho chủ tịch của hai viện. Cung điện hoàng gia đầu tiên được xây dựng trên địa điểm có niên đại từ thế kỷ 11, và Westminster trở thành nơi ở chính của các vị vua nước Anh cho đến khi hỏa hoạn thiêu rụi các căn hộ hoàng gia vào năm 1512, sau đó Cung điện Whitehall gần đó được thành lập để làm nơi ở mới.
|
Ở Mỹ, Hội phụ huynh (PTA) là một tổ chức phi lợi nhuận có lịch sử 120 năm hoạt động. PTA hoạt động rất quy củ từ các chi nhánh cấp trường cho tới cấp quốc gia. Mỗi trường sẽ có một Hội phụ huynh riêng, được điều hành bởi một nhóm phụ huynh là một phần của PTA quốc gia. Mỗi người tham gia vào hội phụ huynh cấp trường sẽ tự động trở thành thành viên của PTA cấp tiểu bang và quốc gia. Hội phụ huynh các trường tham gia vào PTA sẽ đóng các khoản phí cho tiểu bang và nhà nước. Đổi lại, họ nhận được những lợi ích khi trở thành thành viên và có tiếng nói hơn trong các hoạt động của tổ chức lớn. Hiện tại, mỗi thành viên của Hội phụ huynh quốc gia Mỹ sẽ phải đóng 10 USD/năm. Các tiểu bang sẽ tính phí bổ sung với mỗi thành viên, khoảng vài USD cho tới 12 USD. PTA đôi khi là một nhóm gây quỹ, nhưng không phải là trách nhiệm chính của nhóm. Tuy nhiên, ở một số tiểu bang mà các trường thường phải đối mặt với khó khăn về tài chính, hội phụ huynh địa phương có thể gây quỹ cho mọi thứ, từ thiết bị sân chơi đến tiền lương cho giáo viên âm nhạc ở tiểu học. Các cuộc họp của hội phụ huynh thường là nơi thảo luận về các vấn đề giáo dục. Tại đây, giáo viên có thể nói chuyện với phụ huynh về một số vấn đề. Các phụ huynh cũng có thể góp ý để cải cách trường học hoặc nêu quan ngại về bài tập về nhà hoặc thay đổi trong chương trình giảng dạy ở trường. PTA cũng được xem như một diễn đàn trung lập giúp giải quyết các bất đồng xảy ra về các vấn đề gây tranh cãi ở trường học. Ở Anh, hội phụ huynh được xây dựng nhằm tạo lập mối liên kết chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Gây quỹ là một phần chính trong các hoạt động của PTA. Hoạt động này trực tiếp đóng góp vào việc cải thiện các trường học. PTA tách biệt với trường học và chịu trách nhiệm quản lý số tiền mà họ gây quỹ. Số tiền gây quỹ thường được dành cho các dự án đặc biệt hoặc phục vụ cho việc tổ chức lễ hội, mua các vật dụng bổ sung mà các trường không cung cấp như máy tính, thiết bị sân chơi. Mỗi năm, PTA sẽ tổ chức một cuộc họp lớn tổ chức vào đầu năm học. Tại cuộc họp này, một ủy ban được lựa ra để điều hành PTA, bao gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch, một thủ quỹ, một thư ký và các ủy viên thường trực. Ngoài ra sẽ có các họp nhỏ, thường xuyên hơn - có thể là 2 tháng/lần hoặc tổ chức theo quý - để thảo luận về chương trình giảng dạy mà con em mình đang theo học, cũng như những gì các bậc cha mẹ có thể làm cho con em bên ngoài trường học. Ở Scotland, các trường đều có hội đồng phụ huynh được lựa chọn bởi tất cả các phụ huynh trong trường đại diện cho quan điểm của họ. Hội đồng không chịu sự quản lý của nhà trường hay chính quyền địa phương, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguyện vọng, ý kiến của phụ huynh luôn được xem xét. Nhiệm vụ chính của hội đồng này là hợp tác với các trường học để xác định các ưu tiên cần thực hiện, liên lạc với diễn đàn dành cho các phụ huynh để 2 bên lắng nghe ý kiến của nhau. Để giúp tổ chức này hoạt động hiệu quả, Scotland quy định chính quyền địa phương phải hỗ trợ hội đồng phụ huynh về một số mặt như tài chính cũng như đưa ra các tư vấn về các vấn đề liên quan. Từ năm 2006, Scotland ban hành Đạo luật trường học Scotland hay còn gọi là Đạo luật Phụ huynh tham gia. Luật này yêu cầu các trường học và hội đồng phụ huynh hỗ trợ các phụ huynh tham gia vào các hoạt động của trường học cũng như việc học tập của con cái mình. Nó cũng cung cấp cho các bậc phụ huynh cơ hội nhận được thông tin họ cần để hỗ trợ con cái và bày tỏ quan điểm cá nhân. Nhiều năm qua, chính phủ Scotland vẫn luôn cập nhật ý kiến của các phụ huynh cũng như nhà trường để đưa ra các hướng dẫn mới đối với đạo luật này nhằm bắt kịp các xu hướng giảng dạy mới. Mỗi trường học Nhật Bản lại có một hội phụ huynh riêng đặt dưới sự giám sát của ban điều hành gồm 1 chủ tịch và vài phó chủ tịch. Các Ủy ban giáo dục các địa phương giám sát hoạt động của ban điều hành này. Điểm đặc biệt ở Nhật Bản là không có hội phụ huynh nào hoạt động giống nhau. Tính chất và nhiệm vụ của từng hội phụ huynh sẽ phụ thuộc vào học khu từng vùng. Mỗi tháng, hội phụ huynh sẽ kêu gọi đóng góp khoản quỹ 350 yên (tương đương với 66 nghìn đồng). Nhiệm vụ chính của hội phụ huynh là sắp xếp các buổi gặp mặt phụ huynh, sản xuất các bản tin trong trường, tạo các bảng phân công giám sát an toàn trên đường học sinh tới trường, dọp dẹp vệ sinh trong các lễ hội thể thao. Các phụ huynh có thể đưa ra ý kiến đóng góp vào việc học tập của con em mình thông qua chủ tịch và phó Chủ tịch của ban điều hành. Nếu các ý kiến này vẫn chưa giải quyết thỏa đáng, chúng sẽ được đưa ra thảo thuận trong cuộc họp có tên "jonin iinkai" với sự tham gia của lãnh đạo trường. Jonin iinkai được tố chức một năm một lần. Ngoài ra, nếu có bất cứ ý kiến hay thắc mắc nào liên quan tới hoạt động của hội phụ huynh, các bậc cha mẹ có thể tiếp tục phản ánh trong các đại hội được tổ chức vào thời điểm đầu và cuối mỗi năm học.
|
Hội phụ huynh
|
Hội phụ huynh hay Hội phụ huynh học sinh hay Ban đại diện cha mẹ học sinh là một hội, ban, tập hợp một nhóm thành viên của những bậc cha mẹ có con em đang theo học tại các trường học ở bậc Tiểu học, Trung học, phổ thông. Hội phụ huynh học sinh trong các nhà trường phổ thông được lập ra với mục đích là cầu nối giữa nhà trường và phụ huynh học sinh để giải quyết các vấn đề ngoài quyền hạn của nhà trường. Ở Mỹ có thành lập tổ chức tương tự là Hội Phụ huynh và Giáo viên (Parent-Teacher Association). Ở Việt Nam, Hội phụ huynh là tổ chức phổ biến trong nhà trường.
|
Tiên đề ơ cờ lít là một trong những kiến thức cơ bản trong hình học đang được rất nhiều người quan tâm, đặc biệt là với các bạn học sinh trung học cơ sở. Nắm vững khái niệm và hiểu được tiên đề này sẽ giúp bạn có thêm lợi thế để hoàn thành xuất sắc bài kiểm tra, bài thi của mình. Vậy tiên đề euclid, tiên đề ơclit là gì? Câu trả lời sẽ có trong phần bài viết chi tiết dưới đây. Tiên đề trong toán học được hiểu theo cách đơn giản nhất là một mệnh đề được coi như luôn đúng và không cần phải chứng minh. Một hệ thống tiên đề chính là một tập hữu hạn các tiên đề thoả mãn điều kiện là các suy diễn logic trên hệ thống và tiên đề này không thể xảy ra mâu thuẫn. Tiên đề được xem là điều kiện cần thiết nhất để xây dựng bất cứ một lý thuyết nào. Bất kỳ một khẳng định hay đề xuất nào đã được đưa ra cần được giải thích hay xác minh bằng một khẳng định khác. Nếu như một khẳng định được giải thích hoặc được xác minh bằng chính nó thì khẳng định đó sẽ không còn giá trị, nên cần có một số vô hạn những khẳng định nhằm để giúp giải thích bất kì một khẳng định nào. Vì vậy, cần phải có một hoặc là một số khẳng định được công nhận là đúng để làm chỗ bắt đầu và đưa quá trình suy diễn từ vô hạn trở thành hữu hạn. Tương tự như vậy, bất cứ sự suy luận hay giao tiếp nào của con người trong cuộc sống cũng đều cần có điểm xuất phát chung. Tiên đề sẽ nằm trong nhóm những yếu tố đầu tiên này. Một số yếu tố khác có liên quan mật thiết nhất như: định nghĩa, quan hệ, …. Euclid đã nhận thấy sự cần thiết này khi tiến hành xây dựng hình học của mình, vì thế ông đưa ra hệ thống tiên đề hình học đầu tiên trong lịch sử, đó chính là hệ tiên đề Euclid hay còn gọi là tiên đề ơ cơ lít. Trong bộ “Cơ bản” của mình, ông đã nêu ra được 23 định nghĩa, với 5 tiên đề cũng như 5 định đề. Sau này, chúng được thống nhất chung một tên gọi là tiên đề. + Tâm bất kì và bán kính bất kì, ta luôn luôn có thể vẽ được một đường tròn. + Nếu như 2 đường thẳng tạo thành cùng với 1 đường thẳng thứ 3 hai góc trong cùng phía với tổng nhỏ hơn 180 độ thì chắc chắn chúng sẽ cắt nhau về phía đó. + Thêm những cái bằng nhau vào những cái bằng nhau thì sẽ được những cái bằng nhau. + Bớt đi những cái bằng nhau từ những cái bằng nhau thì sẽ được những cái bằng nhau. Với các định đề và tiên đề đó thì nhà toán học Euclid đã chứng minh được tất cả các tính chất hình học. Tiên đề cũng được sử dụng trong những ngành khoa học khác như: vật lý, hoá học, ngôn ngữ học,…. Tiền đề V quan trọng của Euclid với nội dung của tiên đề này là: Nếu hai đường thẳng tạo với một đường thẳng thứ ba hai góc trong cùng phía mà có tổng nhỏ hơn (180^) thì chúng sẽ được cắt nhau về phía đó. Khi qua một điểm nằm ngoài một đường thẳng thì ta vẽ được một và chỉ một đường thẳng song song với đường thẳng đã cho mà thôi. Ta có thể phát biểu tiên đề dưới các dạng như sau:. Nếu qua điểm M nằm bên ngoài đường thẳng a mà có 2 đường thẳng song song với a thì chúng sẽ bị trùng nhau. Cho điểm M ở bên ngoài đường thẳng a. Vì thế, đường thẳng đi qua M và song song với a luôn là duy nhất. Qua 1 điểm A ta chỉ có thể kẻ được duy nhất một đường thẳng vuông góc (song song) với một đường thẳng cho trước. Trường hợp 2: Để chứng minh (D,E,F) thẳng hàng, chúng ta đi chứng minh(DE, DF) song song với đường thẳng (d’). Đây là dạng toán yêu cầu người giải vẽ đường thẳng song song với một đường thẳng đã được cho trước. Bài toán: Vẽ hình sao cho hai góc so le trong bằng nhau, hoặc là hai góc đồng vị bằng nhau, hoặc hai góc trong cùng phía và bù nhau. Theo tiên đề ơ cơ lít, qua một điểm nằm ngoài đường thẳng a và chỉ có một đường thẳng a, mấy đường thẳng b, vì sao như vậy?. Phương pháp giải: Theo tiên đề ơ cơ lít, chúng ta chỉ vẽ được một đường thẳng qua A và song song với đường thẳng BC, chỉ vẽ được một đường thẳng B và song song với đường thẳng AC. Dạng toán này yêu cầu tính số đo góc tạo bởi một đường thẳng bị cắt hai đường thẳng song song. Phương pháp giải: Sử dụng tính chất nếu hai đường thẳng song song thì hai góc so le trong bằng nhau, hai góc đồng vị bằng nhau và hai góc trong cùng phía bù nhau. Liên hệ với các kiến thức lý thuyết tương ứng đã được ghi trong sách giáo khoa để để trả lời. Nếu như bạn đang gặp khó khăn với môn hình học thì chúng tôi sẽ giúp bạn đưa ra những hướng đi đúng đắn cho phân môn cơ bản này để bạn nhanh chóng thể tiến bộ hơn trong môn học này. Nhiều người có có suy nghĩ rằng lý thuyết chỉ là thứ trên sách vở và không cần học nhiều làm gì, chỉ cần thực hành nhiều cho tốt là có thể học tốt được môn toán thì đó quả là một sai lầm. Hình học không đơn giản như phần toán đại số chỉ việc thực hành bài tập rất nhiều, nếu như bạn muốn học tốt toán hình học không gian, khâu đầu tiên có tính chất cực kỳ quan trọng là bạn cần phải nắm thật chắc phần lý thuyết để hiểu và biết cách áp dụng vào bài. Dựa vào phần lý thuyết để bạn đã có thể biết cách vẽ hình và tưởng tượng. Trước hết, bạn nên học cách vẽ hình sao cho đúng, vì nếu hình sai thì đương nhiên là sẽ không thể làm được bài. Nhìn vào một hình, bạn cần phải biết tưởng tượng. Vậy tưởng tượng là như thế nào? Điều này không khó, bạn hãy thường xuyên rèn luyện các kĩ năng vẽ hình cơ bản như: vẽ đường nét đứt khi bị khuất và vẽ nét liền khi nhìn thấy. Một chú ý nhỏ là nên vẽ hình bằng bút chì, đến khi chắc chắn sau đó mới tô lại bằng bút mực bởi nó có thể xóa được đường khi bạn vẽ sai. Bạn không nên quá tạo áp lực cho mình khi nghĩ về môn học này với những suy nghĩ tiêu cực. Hình không gian thực chất là không đến nỗi khó như bạn nghĩ, chỉ cần làm nhiều bài tập và cố gắng ghi nhớ để dễ dàng đạt được mức điểm cao nhất. Bạn hãy học và làm theo các dạng bài tập khác nhau nhưng chú ý đừng nên học theo kiểu tràn lan, không rõ dạng. Lý do là vì như vậy sẽ rất khó cho bạn có thể nắm chắc kiến thức của phần toán học này.
|
Tiên đề
|
Tiên đề, định đề là một phát biểu được coi là đúng, để làm tiền đề hoặc điểm xuất phát cho các suy luận và lập luận tiếp theo. Các từ gốc tiếng Latin của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp axíōma (ἀξίωμα) điều đó được cho là xứng đáng hoặc phù hợp hoặc tự coi mình là hiển nhiên. Thuật ngữ này có sự khác biệt nhỏ về định nghĩa khi được sử dụng trong bối cảnh của các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Như được định nghĩa trong triết học cổ điển, tiên đề là một tuyên bố hiển nhiên hoặc có cơ sở rõ ràng, đến mức nó được chấp nhận mà không cần tranh cãi hay thắc mắc. Như được sử dụng trong lôgic học hiện đại, tiên đề là tiền đề hoặc điểm khởi đầu cho suy luận. Khi được sử dụng trong toán học, thuật ngữ tiên đề được sử dụng theo hai nghĩa liên quan nhưng có thể phân biệt được: "tiên đề lôgic" và "tiên đề phi lôgic". Tiên đề logic thường là những phát biểu được coi là đúng trong hệ thống logic mà chúng xác định và thường được thể hiện dưới dạng ký hiệu (ví dụ, (A và B) suy ra A), trong khi tiên đề phi logic (ví dụ: a + b = b + a) thực sự là những khẳng định cơ bản về các yếu tố thuộc miền của một lý thuyết toán học cụ thể (chẳng hạn như số học).
|
Lý thuyết về khế ước xã hội lần đầu tiên được Thomas Hobbes đưa ra khi ông cho rằng con người ban đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên, trong tình trạng vô chính phủ, khi chưa hề có sự cưỡng bức có tổ chức lên mỗi cá nhân. Khế ước xã hội là một cụm từ thường suốt hiện nhiều, nhưng lại hay bị nhầm lẫn cũng như hiểu không chính xác ý nghĩa của cụm từ này. Khế ước xã hội trong triết học và chính trị học là một học thuyết mô tả việc con người cùng thỏa thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng đồng. Về mặt luật pháp, khế ước xã hội thể hiện cụ thể là một tờ khế ước, một bản hợp đồng trên đó các thành viên xã hội thống nhất các nguyên tắc để cùng chung sống với nhau. – Lý thuyết về khế ước xã hội lần đầu tiên được Thomas Hobbes đưa ra khi ông cho rằng con người ban đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên, trong tình trạng vô chính phủ, khi chưa hề có sự cưỡng bức có tổ chức lên mỗi cá nhân. Con người qua khế ước xã hội từ bỏ những quyền tự do tự nhiên của mình để được hưởng sự an toàn và trật tự của xã hội văn minh. – Theo Thomas Hobbes, con người sơ khai sống thành bầy đàn để cùng chống lại các kẻ thù, nhưng không có gì ràng buộc giữa họ. Quyền sở hữu không tồn tại dẫn đến chuyện tất cả mọi người đều có thể sở hữu tất cả mọi vật. Leviathan là tên tác phẩm để đời của Hobbes, mô tả chính xác một sự hỗn độn vô chính phủ mà theo đó vì xã hội chưa công nhận rạch ròi thế nào là sở hữu cho nên mọi người có thể sẵn sàng gây chiến với người khác để giành lấy cái mình muốn. Ngoài việc giải thích khế ước xã hội là gì? chúng tôi chia sẻ thêm các thông tin hữu ích có liên quan trong các phần tiếp theo của bài viết. – Thuật ngữ Hiến pháp có gốc La tinh là “Constitution” có nghĩa là xác định, quy định. Nhà nước La Mã cổ đại dùng thuật ngữ này để gọi các văn bản quy định của Nhà nước. Nhưng với ý nghĩa là một đạo luật cơ bản, có giá trị giới hạn quyền lực Nhà nước thì Hiến pháp đã thực sự ra đời trong xã hội tư sản, trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản, nhân dân lao động chống lại giai cấp phong kiến đang suy tàn từ thế kỷ 13 và 14 đến thế kỷ 18 và 19. – Ở Trung Quốc cổ đại, thuật ngữ Hiến pháp được dùng với nghĩa là pháp lệnh (kỷ cương, phép nước). Trong sách cổ Trung Quốc, chữ “Hiến pháp” dùng để chỉ loại chế độ nói chung như “thưởng thiện, phạt gian, quốc chí Hiến pháp”, nghĩa là khen thưởng điều thiện, phạt điều gian là pháp lệnh của Nhà nước. – Trong xã hội phong kiến của một số quốc gia, nhất là ở phương Tây cũng tồn tại một số văn bản pháp luật kiểu Hiến pháp, thường được gọi là “Hiến chương”, thể hiện sự thỏa hiệp giữa các vương triều chuyên chế với một số lãnh địa, lãnh chúa, thừa nhận một số lãnh địa, lãnh chúa, thừa nhận một số quyền của một số lãnh địa, thành thị … nhưng bản thân từ “Hiến pháp” thì không sử dụng. – Hiến pháp được hiểu theo nghĩa như ngày nay, xuất hiện trong thời kỳ các mạng dân chủ tư sản. Văn bản có tính chất Hiến pháp đầu tiên ra đời trong cách mạng tư sản Anh (1640 – 1654) với tên “Hình thức cai quản nhà nước Anh, Xcotlen, Ai-len và những địa phận thuộc chúng”. Tiếp đó là bản Hiến pháp của nhà nước Mỹ, sau khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được thành lập năm 1787, có thể coi đây là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử được hiểu theo nghĩa phổ biến như ngày nay. – Dân số 90 triệu người, 54 dân tộc và nhiều tôn giáo và thành phần xã hội khác nhau. Lợi ích của chúng ta cũng có nhiều điểm chung và những điểm riêng. Chỉ một bản khế ước xã hội với sự tham gia xây dựng và thỏa thuận vủa tất cả mọi người giữa tất cả mọi người, cái chung và cái xây dựng và thỏa thuận của tất cả mọi người và giữa tất cả mọi người, cái chung và cái riêng của tất cả chúng ta mới được cân nhắc đủ thận trọng, đủ cân bằng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới củng cố được khối đại đoàn kết của mình và có được sự phát triển bền vững, hài hòa. Không có Hiến pháp tốt một cách chung chung, chỉ có Hiến pháp tốt theo nghĩa được tuyệt đại đa số người Việt chúng ta chấp nhận. – Với tư cách là một bản khế ước xã hội, Hiến pháp mới có thể tạo cho tất cả mọi người một vị thế bình đẳng – bình đẳng với nhau và bình đẳng với Nhà nước. Tất cả chúng ta đều có những quyền và nghĩa vụ như nhau. + Nhà nước được chúng ta phân chia quyền lực chỉ ở mức độ và trong phạm vi cần thiết để phụng sự cho công chúng. Nhà nước được chúng ta phân chia cho quyền lực và phải chịu trách nhiệm trước chúng ta, chứ không phải Nhà nước ban phát quyền cho chúng ta và chúng ta phải phục vụ Nhà nước. Đây là nguyên nhân tại sao Hiến pháp thường quy định cụ thể hơn chế tài đối với các cơ quan Nhà nước hơn là các công dân. + Về mặt kỹ thuật, Hiến pháp là một khế ước xã hội không có nghĩa là cả xã hội phải tham gia soạn thảo văn bản này. Việc soạn thảo Hiến pháp vẫn phải do giới tinh hoa của dân tộc đảm nhận. Vấn đề là những người này phải thể hiện bản hiến văn như một khế ước xã hội và người dân phải được tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến và phên chuẩn bản hiến văn đó. + Hiến pháp là hợp pháp ở mức cao nhất cơ sở tồn tại của một chế độ xã hội, chế độ Nhà nước, một trật tự các quan hệ xã hội. Hiến pháp nào cũng vậy, dù đó là Hiến pháp tốt hay xấu, dân chủ hay phi dân chủ, đều có vai trò bảo đảm tính hợp pháp cao nhất cho chế độ xã hội và chế độ Nhà nước, xác định địa vị pháp lý chung nhất của cá nhân, tập thể. + Hiến pháp có vai trò ổn định hóa cá quan hệ xã hội. Bản thân Hiến pháp là văn bản có tính ổn định cao, do vậy khả năng của nó trong việc bảo đảm sự ổn định của các quan hệ xã hội, các thiết chế chính trị và nhà nước cũng như các định chế xã hội và sự an toàn pháp lý cho cá nhân, chó xã hội là rất lớn. Như vậy, Khế ước xã hội là gì? Đã được chúng tôi phân tích chi tiết trong bài viết phía trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đi sâu vào phân tích những nội dung liên quan đến Hiến pháp – Khế ước xã hội của Việt Nam hiện nay.
|
Khế ước xã hội
|
Khế ước xã hội trong triết học và chính trị học là một học thuyết mô tả việc con người cùng thỏa thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng đồng. Về mặt luật pháp, khế ước xã hội thể hiện cụ thể là một tờ khế ước, một bản hợp đồng trên đó các thành viên xã hội thống nhất các nguyên tắc để cùng chung sống với nhau. Lý thuyết về khế ước xã hội lần đầu tiên được Thomas Hobbes đưa ra khi ông cho rằng con người ban đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên, trong tình trạng vô chính phủ, khi chưa hề có sự cưỡng bức có tổ chức lên mỗi cá nhân. Con người qua khế ước xã hội từ bỏ những quyền tự do tự nhiên của mình để được hưởng sự an toàn và trật tự của xã hội văn minh. Theo Hobbes, con người sơ khai sống thành bầy đàn để cùng chống lại các kẻ thù, nhưng không có gì ràng buộc giữa họ. Quyền sở hữu không tồn tại dẫn đến chuyện tất cả mọi người đều có thể sở hữu tất cả mọi vật.
|
Như chúng ta đã biết trong xây dựng thì bê tông và cốt thép là hai vật liệu không thể thiếu. Nó có vai trò quan trọng trong tất cả các công trình xây dựng hiện nay. Trong bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giải đáp cho các bạn biết rõ hơn về vấn đề này. Trong xây dựng thuật ngữ BTCT được hiểu là sự kết hợp giữa hai vật liệu xây dựng này với nhau. Chúng có tác dụng chịu lực tốt, có khả năng đảm bảo cho công trình xây dựng trở bên bền vững hơn. Để có thể tạo ra sản phẩm BTCT người ta sẽ sử dụng bê tông tươi đã được nhào trộn theo tỷ lệ. Việc nhào trộn đúng tỷ lệ cấp phối của cát, si, nước sẽ mang tới một hỗn hợp bê tông chắc chắn. Sau đó sử dụng bê tông tươi kết hợp với thép chịu lực để cho ra sản phẩm BTCT hoàn chỉnh. Nếu như tách biệt hai vật liệu này chúng ta có thể thấy bê tông có khả năng chịu nén khá nhưng chịu lực kéo lại rất yếu. Chính hai đặc điểm chính của hai loại vật liệu này khi kết hợp với nhau chúng có khả năng bổ sung cho nhau. Bê tông có vai trò gắn thép lại với nhau tạo thành khung chắc chắn, thép định vị bê tông tránh nứt, gãy, vỡ. Khi chúng ta gắn bê tông và cốt thép với nhau chúng sẽ tạo thành một khối chắc chắn. Lực dính của bê tông sẽ gắn thép lại với nhau khiến cho cường độ thép mới được khai thác. Bề kéo khiến bê tông bị nứt gãy sẽ hạn chế hơn. Chúng ta cần chú ý đầm bê tông với các chất phụ gia theo tỷ lệ tốt nhất, cần phải đầm thật kỹ. Giữa bê tông và cốt thép không xảy ra bất kỳ phản ứng hóa học nào. BTCT có khả năng chịu lực chịu nhiệt và chịu được sự tác động xâm lấn của môi trường. BTCT tạo cho công trình có độ cứng cao hơn nhiều lần so với chỉ sử dụng vật liệu thép hoặc bê tông. Giúp cho các công trình trở bên chắc chắn, bền hơn, ít chịu tác động của môi trường xung quanh. BTCT cũng có nhược điểm là khả năng chịu lực đập không quá cao, không có tính dẻo, là một khối liền chắc chắn nên khó di chuyển, thay đổi. Hy vọng những thông tin ở trên đã giúp các bạn hiểu hơn về BTCT là gì. Việc sử dụng BTCT trong xây dựng là một sản phẩm không thể thiếu. Tất cả các công trình dân dụng, công trình giao thông hiện nay đều cần đến sự kết hợp của hai loại vật liệu này.
|
Bê tông cốt thép
|
Bê tông cốt thép (BTCT) là một loại vật liệu composite kết hợp bởi bê tông và thép, trong đó bê tông và thép cùng tham gia chịu lực. Sự kết hợp giữa bê tông và cốt thép xuất phát từ thực tế bê tông là loại vật liệu có cường độ chịu kéo thấp (chỉ bằng từ 1/20 đến 1/10 cường độ chịu nén của bê tông ), do đó hạn chế khả năng sử dụng của bê tông và gây nên lãng phí trong sử dụng vật liệu. Đặc điểm này được khắc phục bằng cách thêm vào trong bê tông những thanh cốt, thường làm từ thép, có cường độ chịu kéo cao hơn nhiều so với bê tông. Cốt, do đó thường được đặt tại những vùng chịu kéo của cấu kiện. Ngày nay cốt có thể được làm từ những loại vật liệu khác ngoài thép như polyme, sợi thủy tinh, hay các vật liệu composite khác. Kết cấu bê tông cốt thép, với cốt là các thanh thép, là loại kết cấu bê tông có cốt lâu đời và được sử dụng rộng rãi nhất trong xây dựng với đặc điểm độc đáo là biến dạng do nhiệt độ của hai loại vật liệu bê tông và cốt thép là tương đương với nhau.
|
Hiến pháp là một hình thức văn bản quy phạm pháp luật do chính Quốc hội ban hành, mang giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quy định những vấn đề cơ bản nhất của Nhà nước như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; hình thức và bản chất nhà nước; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp được sử dụng rộng rãi ở mọi nước với nghĩa là luật cơ bản của một nhà nước. Hiến pháp là cơ sở để xây dựng những ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, được chi tiết hóa, cụ thể hóa bằng các văn bản pháp quy. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa khẳng định, ghi nhận và củng cố các quan hệ sản xuất mà nó có nhiệm vụ bảo vệ. Đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Ngoài ra, còn ghi nhận và củng cố những nguyên tắc cơ bản của đường lối đối ngoại hòa bình hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc; đường lối quốc phòng toàn dân bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thể hiện tính chất nhân đạo, tính nhân văn sâu sắc của chế độ mới. Đồng thời ghi nhận, khẳng định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, xác định một cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hiến pháp tư sản là hiến pháp do nhà nước tư sản ban hành, bảo vệ ý chí, quyền lợi giai cấp tư sản. Hiến pháp thừa nhận chế độ đa đảng, đa nguyên, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, các hiến pháp tư sản chủ yếu do pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hiến pháp thiết lập một hệ thống tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Đó là việc thiết lập 1 hệ thống các cơ quan nhà nước, quy định nguyên tắc hoạt động, thẩm quyền và các mối quan hệ qua lại giữa chúng. Chỉ có Hiến pháp mới có quyền quy định thành lập hay bãi bỏ các cơ quan này. Mọi văn bản pháp luật sau hiến pháp chỉ được cụ thể hóa hiến pháp chứ không được quy định mới các cơ quan nhà nước. Hiến pháp quy định một hệ thống chế độ xã hội của nhà nước (chế độ kinh tế, chính trị, quốc phòng, xã hội, an ninh, đối ngoại) làm cơ sở xã hội trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Với các quy định về chế độ xã hội khác nhau sẽ quyết định đến bản chất nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực khác nhau của nhà nước nhà nước. Hiến pháp không chỉ quy định các cơ quan ở Trung ương mà còn quy định các cơ quan ở địa phương, như ở Việt Nam không những quy định về Chính Phủ, Quốc Hội. Hay các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân với các cấp chính quyền ở địa phương. Quy định chính thể nhà nước, tùy theo cách tổ chức các cơ quan nhà nước ở Trung ương mà xác định chính thể nhà nước đó là quân chủ lập hiến hay cộng hòa. Việc lựa chọn hình thức chính thể có ý nghĩa rất lớn trong việc tổ chức quyền lực nhà nước của mỗi quốc gia. Xác định hình thức, cấu trúc của nhà nước; phân cấp quyền hạn giữa các bộ phận, các chủ thể trong cơ cấu đó. Khi đề cập đến Hiến pháp thì đây là văn bản pháp lý, quy định về quyền lực và tổ chức của nhà nước đó. Quyền con người, quyền công dân là khẩu hiệu, tư tưởng của giai cấp tư sản trong cuộc cách mạng tư sản. Khi giành chính quyền, giai cấp tư sản thường định chế vào Hiến pháp. Đối với những nước xã hội chủ nghĩa, con người là động lực và là mục tiêu của sự phát triển. Nên quyền công dân, quyền con người là chế định cơ bản của Hiến pháp. Hiến pháp là một thành quả của dân chủ. Ý nghĩa dân chủ của Hiến pháp thể hiện rõ nét ở chỗ là văn kiện chính trị – pháp lý ghi nhận và bảo vệ quyền con người. Hiến pháp quy định các quyền cơ bản nhất của công dân. Ghi nhận, mở rộng quyền công dân, quyền con người trong hiến pháp. Đây là xu hướng phát triển của các văn bản Hiến pháp, mỗi nhà nước sẽ có các biện pháp, cơ chế cụ thể. Khi quyền con người được pháp lý hóa quy định trong Hiến pháp và pháp luật ở mỗi nước thì mới được gọi là quyền công dân. Hiến pháp là 1 văn bản pháp lý nó quy định mục tiêu của mỗi nhà nước và quy định giá trị con người mà các công ước quốc tế (ví dụ: công ước quốc tế con người về chính trị dân sự năm 1966, công ước quốc tế quyền con người năm 1948, công ước quốc tế quyền con người về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội). Trên đây, là những chia sẻ về Hiến pháp là gì? Cũng như các đặc điểm của Hiến pháp. Hy vọng sau bài chia sẻ này, bạn đọc đã hiểu hơn về phần nội dung này.
|
Hiến pháp
|
Hiến pháp là một hệ thống cao nhất của pháp luật quy định những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm của một chính quyền. Nhiều hiến pháp cũng bảo đảm các quyền nhất định của nhân dân. Trong bài viết này, ngoài Hiến pháp được hiểu như hiến pháp chính quyền còn có một số hình thức khác mang nghĩa rộng hơn như là hiến chương, luật lệ, nguyên tắc giữa các tổ chức chính trị. Các thực thể phi chính trị, dù hợp thể hay không, cũng có hiến pháp. Các thực thể này gồm các đoàn thể và các hội tình nguyện. Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất của một nhà nước, nó thể hiện ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân tồn tại ở trong hoặc ngoài nhà nước đó, nhưng vẫn là nhân dân thuộc nhà nước đó.
|
Sân vận động Giuseppe Meazza (phát âm tiếng Ý: ) thường được gọi là San Siro, là một sân vận động bóng đá nằm ở San Siro, Milano, Ý. Nó là sân nhà của cả hai câu lạc bộ lừng danh A.C. Với sức chứa 80.018 chỗ ngồi, nó là sân vận động lớn nhất tại Ý và là một trong những sân vận động lớn nhất châu Âu. Sân vận động là một trong những địa điểm của FIFA World Cup 1990 và đã tổ chức sáu trận đấu. San Siro từng là địa điểm cho trận đấu quyền anh giữa Duilio Loi và Carlos Ortiz trong trận tranh danh hiệu vô địch hạng nhẹ năm 1960. Bên cạnh bóng đá, San Siro cũng có thể là nơi tổ chức nhiều sự kiện lớn, đặc biệt là các buổi hòa nhạc lớn. Buổi hòa nhạc đầu tiên tổ chức tại sân được thực hiện bởi Bob Marley vào ngày 27 tháng 6 năm 1980 trước số lượng khán giả kỷ lục là 120.000 tới sân. Đây cũng là số lượng khán giả kỷ lục cho một buổi hòa nhạc tại một địa điểm kín ở châu Âu vào thời điểm đó. Sau sự kiện này, ca sĩ thứ hai trình diễn tại San Siro là Bob Dylan vào ngày 24 tháng 6 năm 1984. Trong những năm 1980, một số ca sĩ và ban nhạc nổi tiếng quốc tế đã từng đến đây biểu diễn như là Genesis và Paul Young vào ngày 19 tháng 5 năm 1987 trong chuyến lưu diễn của họ có tên là Invisible Touch; Duran Duran trong chuyến lưu diễn Strange Behavior Tour vào ngày 5 tháng 6 cùng năm; David Bowie vào ngày 10 tháng 6 sau khi ông tới đây du lịch. Michael Jackson cũng đã biểu diễn trong chuyến lưu diễn HIStory World Tour vào ngày 18 tháng 6 năm 1997 trước 80.000 khán giả. Sân vận động nằm ở phía tây bắc Milan, và có thể tới đây bằng tàu điện ngầm qua nhà ga tàu điện ngầm San Siro (Tuyến tàu điện ngầm M5) nằm ngay trước sân vận động, hoặc bằng xe điện. Nhà ga Lotto của Tuyến tàu điện ngầm M1 (còn được gọi là Red Line) cách 15 phút đi bộ tới San Siro.
|
San Siro
|
San Siro, tên chính thức là Sân vận động Giuseppe Meazza (tiếng Ý: Stadio Giuseppe Meazza), là một sân vận động bóng đá ở quận San Siro của Milano, là sân nhà của AC Milan và FC Internazionale Milano. Sân có sức chứa 75.923 chỗ ngồi, trở thành một trong những sân vận động lớn nhất ở châu Âu và lớn nhất ở Ý. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1980, sân vận động được đặt tên để vinh danh Giuseppe Meazza, nhà vô địch World Cup hai lần (1934, 1938) đã chơi cho Inter và một thời gian ngắn cho Milan trong những năm 1920, 1930 và 1940 và đã phục vụ hai kỳ với tư cách là người quản lý của Inter. San Siro là sân vận động loại 4 của UEFA. Sân đã tổ chức ba trận đấu tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1934, sáu trận tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1990, ba trận tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1980 và bốn trận chung kết Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League, vào các năm 1965, 1970, 2001 và 2016. Sân vận động cũng sẽ tổ chức lễ khai mạc Thế vận hội Mùa đông 2026 của Milano và Cortina d Ampezzo.
|
Tính từ là gì trong tiếng anh ? Tình từ là gì trong tiếng anh ? Nắm được tính từ sẽ giúp ích rất nhiều cho bạn trong việc học anh ngữ tốt hơn. Tính từ trong tiếng anh được gọi là adjective hay viết tắt là adj. Chức năng chính của nó thường bổ trợ cho danh từ, đại từ hoặc là động từ liên kết để miêu tả rõ hơn vềsự vật hiện tượng. Tính từ thường thấy là những từ nói về về màu sắc, tính chất hay trạng thái,…. Tính từ miêu tả là loại tính từ để miêu tả về sự vật, hiện tượng hay là đặc trưng nào đó. Tính từ dạng miêu tả có thể là tính từ màu sắc, mức độ, hình dáng…. Lưu ý khi trong câu có từ hai tính từ trở lên thì cần sắp xếp cho đúng trình từ của nó trong câu. Bạn có thể áp dụng theo bí quyết :O-S-SH-A-C-O-M. Kiến thức cơ bản trong tiếng anh là điều cực kỳ quan trọng giúp cho quá trình học của bạn được hiệu quả. Thế nên, việc nắm vững những quy tắc là điều cần thiết để câu nói luôn liền mạch, rõ nghĩa. Nhất là khi kể 1 câu chuyện nào đó. Đừng bỏ qua cấu trúc câu tường thuật trong tiếng anh nhé.
|
Tính từ
|
Trong ngữ pháp, tính từ, riêng trong tiếng Việt cũng gọi là phụ danh từ là từ mà vai trò cú pháp chính của nó dùng để xác định một danh từ hoặc đại từ, đưa thêm thông tin về referent của danh từ hoặc đại từ (referent là đối tượng hoặc ý tưởng mà từ hay đoạn văn hướng đến). Đồng thời các tính từ tạo thành một trong tám bộ phận lời nói trong tiếng Anh truyền thống, mặc dù các nhà ngôn ngữ học ngày nay tách biệt các tính từ với các từ như từ hạn định (tiếng Anh: determiner - một từ, ví dụ như từ chỉ số đếm, mạo từ, tính từ sở hữu,. xác định/giới hạn nghĩa của một đoạn danh từ, ví dụ từ của trong "con mèo của tôi"). Từ hạn định cũng từng được coi là tính từ. Không phải tất cả các ngôn ngữ có tính từ nhưng phần lớn ngôn ngữ đều có, bao gồm tiếng Anh. Các tính từ tiếng Anh gồm có big (to), old (cũ), và tired (mệt),. Những ngôn ngữ không có tính từ, một cách điển hình, sử dụng các từ của các bộ phận khác trong câu, thường là động từ để phục vụ chức năng cú pháp; ví dụ một ngôn ngữ có thể có một động từ có nghĩa là "to be big", và sẽ sử dụng cấu trúc tương tự "big-being house" để biểu thị "big house" trong tiếng Anh.
|
Rửa tiền được coi là một hành vi vi phạm các nguyên tắc cả về đạo đức và pháp luật. Vậy rửa tiền là gì và những khía cạnh tiêu cực trong hoạt động rửa tiền là như thế nào? Cùng tham khảo bài viết sau để có câu trả lời. Khái niệm, lịch sử và các quy định về rửa tiền bắt nguồn từ thời cổ đại và gắn liền với sự phát triển của tiền tệ và ngân hàng. Rửa tiền xuất hiện lần đầu tiên khi những cá nhân giấu diếm tài sản trái phép để tránh bị nhà nước đánh thuế, bị tịch thu tài sản hoặc kết hợp cả hai tình huống trên. Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách chuyển đổi tài sản hoặc lợi nhuận có được từ hành vi phạm tội hoặc tham nhũng thành các tài sản được coi là "hợp pháp", biến thu nhập phi pháp thành tài sản mà các cơ quan công quyền không thể truy ra nguồn gốc phi pháp ấy. Sau khi tiền được "làm sạch" có thể được sử dụng trong nền kinh tế chủ đạo dưới các hình thức tích lũy tài sản, chẳng hạn như mua bán bất động sản, đầu tư dự án, công trình, đầu tư chứng khoán, tiết kiệm hoặc dùng cho chi tiêu khác. Các tổ chức tội phạm và cá nhân tham nhũng luôn muốn che giấu nguồn gốc của khoản tiền thu được từ những hoạt động bất hợp pháp dưới mọi hình thức để không gây nghi ngờ cho các cơ quan thực thi pháp luật. Do vậy các khoản tiền sau khi được rửa sẽ được cất dấu, phân chia thật cẩn thận và sử dụng theo các chiến lược “an toàn” sao cho không để bị phát giác. Những người muốn tránh thuế, các đối tượng muốn giữ kín thu nhập thật sự (dù là hợp pháp) của mình nói chung. Giai đoạn sắp xếp (placement): Tội phạm tìm cách đưa các khoản tiền có nguồn gốc từ hành vi phạm tội vào hệ thống tài chính để chuẩn bị thực hiện bước tiếp theo. Giai đoạn này là giai đoạn dễ bị phát hiện nhất trong quy trình rửa tiền. Giai đoạn phân tán (layering): Các khoản tiền đã được đưa vào hệ thống tài chính sẽ được chuyển đổi qua lại giữa các tài khoản ngân hàng, các quốc gia, đầu tư dự án, mua bán qua lại. nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản. Giai đoạn quy tụ (integration): Các khoản tiền chính thức nhập vào nền kinh tế hợp pháp và có thể sử dụng cho tất cả các mục đích. Hoạt động rửa tiền có thể diễn ra ngay tại các doanh nghiệp làm ăn công khai, khi họ chuyển tiền từ nước này sang nước khác để tránh thuế. Trong các nguồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh doanh là phản ánh tính toàn cầu hóa nhiều nhất, mà một trong những biểu hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer price) để tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia. Tất nhiên, ba nhóm tham nhũng, rửa tiền và kinh doanh bất chính không hoàn toàn biệt lập mà cũng có nhiều chỗ giống nhau, cấu kết với nhau và tiếp sức cho nhau. Ví dụ: Tham nhũng thì cần có người để rửa tiền hối lộ, người rửa tiền này có thể là tội phạm chuyên nghiệp hoặc công ty ma. Ngược lại, tội phạm và doanh nghiệp cũng thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ dịch vụ rửa tiền.
|
Rửa tiền
|
Rửa tiền (tiếng Anh: money laundering) là hành vi của cá nhân hay tổ chức tìm cách chuyển đổi các khoản lợi nhuận hoặc tài sản khác có được từ hành vi phạm tội hoặc tham nhũng trở thành các tài sản được coi là "hợp pháp".Các tổ chức tội phạm và cá nhân tham nhũng luôn có nhu cầu che giấu nguồn gốc của khoản tiền thu được từ những hoạt động bất hợp pháp mà không gây nghi ngờ cho các cơ quan thực thi pháp luật. Do vậy cần có thời gian và nỗ lực đáng kể để tạo ra những chiến lược cho phép sử dụng an toàn những khoản tiền thu được mà không bị nghi ngờ. Thực hiện các chiến lược như vậy thường được gọi là rửa tiền. Sau khi đã rửa tiền/"làm sạch" nó, tiền có thể được sử dụng trong nền kinh tế chủ đạo để tích lũy tài sản, chẳng hạn như mua lại bất động sản, hoặc dùng cho chi tiêu khác. Các cơ quan thực thi pháp luật của nhiều quốc gia đã thiết lập các hệ thống phức tạp để phát hiện các giao dịch hoặc hoạt động đáng ngờ và nhiều quốc gia đã thiết lập các tổ chức quốc tế để hỗ trợ lẫn nhau trong những nỗ lực này.
|
Kể từ khi được phát hiện cách đây một thế kỷ, cỗ máy Antikythera đã khiến các nhà khoa học phải "bối rối" khi nghiên cứu về chức năng của nó. Cỗ máy thủ công với niên đại 2.000 năm này đã từng dự đoán chuyển động của các hành tinh, chu kỳ của mặt trăng, mặt trời và nguyệt thực như thế nào?. Không dễ dàng để trả lời câu hỏi này, bởi chỉ có 1/3 cỗ máy cùng 82 mảnh vỡ riêng lẻ được phát hiện. Các nhà khoa học tin rằng, nếu có thể tái tạo lại cỗ máy cũng như tìm hiểu được cách thức hoạt động của cỗ máy, họ có thể giải đáp được bí ẩn của thế kỷ. Năm 2002, Michael Wright - cựu Giám đốc Kỹ thuật Cơ khí tại Bảo tàng Khoa học London - đã công bố nhiều hình ảnh về các bộ phận của máy sau khi chụp X-quang. Mặc dù đã quan sát được nhiều thành phần hơn bên trong máy, điều này vẫn chưa đủ để khôi phục hoàn toàn và xác định các thành phần còn thiếu. Hiện tại, các nhà khoa học tại Đại học London tin rằng đã giải mã được một phần bí ẩn của cỗ máy cổ đại này. Các nhà nghiên cứu công bố tài liệu mô tả và phương pháp tính toán để hình dung về phần còn lại của chiếc máy, sau khi kết hợp hình ảnh ông Wright thu được với các bài viết của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Parmenides. Dựa trên những tính toán này, nhóm nghiên cứu nhận ra cỗ máy có thể mô phỏng chuyển động của mặt trời, mặt trăng, sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc và sao Thổ trên vòng tròn đồng. Quan niệm của người xưa cho rằng mặt trời và các hành tinh khác quay quanh trái đất đã khiến các nhà khoa học khó tái tạo chính xác kích thước của các bánh răng. Dựa trên dự đoán, các nhà nghiên cứu đã dựng lại mô hình 3D mô phỏng cỗ máy và cách thức hoạt động. Kết quả thu được là mô hình cỗ máy với hệ thống bánh răng, được đặt nằm gọn trong một không gian có độ dày khoảng 25mm. Các nhà nghiên cứu cho rằng, công trình này đã giúp họ hiểu đúng hơn về nguyên lý hoạt động của thiết bị Antikythera. Tuy nhiên, họ vẫn không chắc chắn về độ chính xác của thiết kế cũng như cách thức hoạt động cụ thể. Các nhà khoa học cũng đặt ra nghi vấn về kỹ thuật chế tác cổ đại khi tạo ra cỗ máy tinh xảo vào thời điểm bấy giờ. Các vòng tròn đồng tâm hiển thị vị trí của mặt trời và các hành tinh quay trên các trục rỗng, lồng vào nhau. Trong điều kiện không có các máy tiện kim loại, chưa rõ người Hy Lạp cổ đại đã làm thế nào để chế tác nên những chi tiết này. Ngay cả khi mô hình này có hoạt động hiệu quả đi chăng nữa, vẫn còn nhiều điều bí ẩn khác cần được giải đáp. Giới khoa học hiện đại chưa rõ cỗ máy Antikythera thực tế là một món đồ chơi, một công cụ giảng dạy hay được sử dụng cho mục đích nào khác. Nếu người Hy Lạp cổ đại có thể tạo ra các cỗ máy như vậy, liệu họ có thể làm ra những thứ gì khác đặc biệt hơn hay không?
|
Cỗ máy Antikythera
|
Cỗ máy Antikythera (, ) là một máy tính analog và mô hình hệ mặt trời cơ học phát minh bởi người Hy Lạp cổ đại được sử dụng để dự đoán vị trí của các sự kiện thiên văn và nhật thực cho các mục đích về lịch và chiêm tinh trong nhiều thập niên trước. Nó cũng có thể được sử dụng để canh lịch việc đăng cai tổ chức Thế vận hội Olympic cổ đại 4 năm một lần. Cỗ máy được phát hiện vào ngày 17 tháng 5 năm 1902 bởi nhà khảo cổ học Valerios Stais, trong số những đống đổ nát được lấy từ xác một con tàu ngoài khơi bờ biển Hy Lạp Antikythera. Hộp số bí ẩn này được cho là do các nhà khoa học Hy Lạp thiết kế và xây dựng, có niên đại khoảng 87 TCN, hoặc từ 150 đến 100 TCN hoặc tới 205 TCN, hoặc trong một thế hệ trước con tàu đắm, vốn đã có niên đại khoảng 70-60 TCN.Thiết bị này được đặt trong phần còn lại của hộp gỗ 340 milimét (13 in) × 180 milimét (7,1 in) × 90 milimét (3,5 in), được tìm thấy dưới dạng một khối, sau đó được chia thành ba mảnh chính hiện nay chia thành 82 mảnh riêng biệt sau công trình bảo tồn.
|
Lợi ích của việc tái chế chất thải là gìNhững lợi ích của việc tái chế chất thải là gì. Tái chế chất thải là hoạt động sử dụng trực tiếp lại các chất thải. Hoặc qua một quá trình cải tiến, chế tạo lại chất thải để tạo thành nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh. Hoặc tái chế chất thải mới khác, được bán ra thị trường. Tái chế chất thải là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ. Kỹ thuật để thu lại các thành phần có giá trị từ chất thải. Hầu hết các chất thải được tái chế thường ở dạng chất thải rắn như: một số vật dụng làm bằng đồng, nhôm, nhựa, sắt, inox,…Dựa trên mức độ hư hại cũng như số lượng còn có thể sử dụng mà một số công ty thu mua phế liệu công nghiệp để tái chế. Mục tiêu của tái chế chất thải là gì? là nhằm làm giảm bớt sự nguy hại của chất thải đối với môi trường sống, nhằm bảo vệ sức khỏe cho tất cả mọi người. Với những việc tái chế chất thải, con người có thể giảm bớt được chi phí xử lý ô nhiễm môi trường. Không chỉ thế, nếu chất thải này có thể trở thành nguồn nguyên liệu mới thì có thể giảm bớt được chi phí trong kinh doanh. Mang lại lợi nhuận cao hơn từ việc tái chế chất thải cho doanh nghiệp. Ngoài ra, tái chế chất thải còn có thể hạn chế khả năng đốt, chôn chất thải ra ngoài môi trường, làm giảm hàm lượng khí thải nguy hiểm. Sự biến đổi các chất trong đất gây ảnh hưởng đến đời sống của con người. Với lượng hữu cơ lớn khoảng (50-70%), rác thải sinh hoạt là nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất phân vi sinh, một loại phân tốt cho cây trồng. Thân thiện với môi trường nhưng giá lại rẻ hơn so với phân hóa học. Tái chế chất thải không chỉ có ý nghĩa về mặt môi trường mà còn đem lại lợi ích về kinh tế. Chúng làm giảm sự phụ thuộc của con người vào việc khai thác. Sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt. Với lượng hữu cơ lớn trong chất thải sinh hoạt (50-70%). Thì đây sẽ là nguồn nguyên liệu dồi dào để sản xuất phân vi sinh. Một loại phân rất tốt cho cây trồng và thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó việc tái chế chất thải còn giúp chúng ta thu hồi các loại nguyên liệu như. chất thải nhựa, giấy, Tái chế chất thải kim loại. Tái chế chất thải tránh lãng phí tài nguyên, ngăn ngừa được sự ô nhiễm. Tái chế chất thải có nguồn gốc hữu cơ sẽ được dùng để chế biến phân vi sinh. Chất thải có nguồn gốc từ giấy, nhựa, kim loại… Sẽ được thu hồi, tái chế, tạo nguồn nguyên liệu cho ngành giấy, nhựa… Chất thải khó tái chế, hoặc hiệu quả tái chế chất thải không cao như cao su, da, vải vụn… Sẽ được đốt để thu hồi năng lượng. Như vậy, hầu hết các thành phần trong chất thải đều được tái chế. Chỉ còn lại một tỷ lệ chất thải rất nhỏ phải đem chôn lấp. Điều này sẽ tiết kiệm chi phí xử lý chất thải rất nhiều so với việc đem chôn lấp hoàn toàn. Vì tạo được nguồn lợi từ việc bán các sản phẩm tái chế chất thải. Hơn nữa, tỷ lệ chôn lấp chất thải rất ít nên cũng giảm được chi phí đáng kể cho việc vận hành, kiểm soát bãi chôn lấp. Tái chế chất thải là gì?, là giảm rác thải nhựa ra môi trường không chỉ mang lại lợi ích lớn về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa lâu dài cho môi trường. Khoảng vài năm trở lại đây, vấn đề liên quan đến rác nhựa thải ra môi trường gây ra sự nhức nhối trên toàn cầu. Từ tổ chức, đơn vị đến cá nhân đều đang dần có ý thức chung tay, kêu gọi phải tái chế, giảm thiểu chất thải. Nhưng có một câu hỏi đặt ra là vì sao chúng ta cần làm thế. ⇒ Tái chế rác thải là một trong những cách giúp hạn chế việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể, 135 tấn rác tái chế có thể tiết kiệm được 3,5 triệu lít nước, 1,9 triệu cây xanh, 500.000 KW/h, giảm 3 tấn chất làm ô nhiễm không khí và 1.300m3 đất để chôn lấp. ⇒ Tái chế rác thải giúp giảm ô nhiễm, huỷ hoại môi trường do khai thác tài nguyên thiên nhiên như: dầu mỏ, khoáng sản… Không phải ai cũng biết rằng, sử dụng giấy tái chế giảm được 74% ô nhiễm không khí, 35% ô nhiễm nguồn nước. Ảnh: Thế giới môi trường. ⇒ Tái chế, tận dụng rác thải nhựa để sử dụng vào các việc khác còn giúp chúng ta tiết kiệm tiền. ⇒ Tái chế rác thải nhựa là quá trình cần rất nhiều nhân lực để thu gom, phân loại và xử lý rác. Chính vì thế, nó góp phần tạo công ăn việc làm cho không ít người. ⇒ Một trong những lợi ích lớn nhất của tái chế rác thải nhựa là giúp tiết kiệm năng lượng. Cụ thể, sử dụng 30% rác tái chế mỗi năm đã tiết kiệm được gần 45 tỷ lít dầu và giảm được khí thải nhà kính tương đương như giảm 25 triệu ôtô chạy trên đường. ⇒ Giảm thiểu rác thải ra môi trường còn giúp bảo vệ cảnh quan đô thị. Mới đây nhất, dự án “Cho Bống xin rác” của một nhóm bạn trẻ Đà Nẵng trên bãi biển Mỹ Khê đã bắt đầu đi vào hoạt động. ⇒ Chôn lấp và đốt rác là các phương pháp thất bại về mặt kinh tế bởi các lò đốt cần sự đầu tư rất lớn về tài chính và đòi hỏi một lượng rác đủ lớn mới có thể vận hành. Điều này đi ngược lại với lợi ích của môi trường. ⇒ Không chỉ thất bại về mặt kinh tế, chôn lấp và đốt rác còn gây ô nhiễm môi trường không khí nặng nề. Chính vì thế, tái chế được coi là phương pháp hữu hiệu nhất. Ảnh: Báo Vĩnh Phúc. ⇒ Giảm chôn lấp chất thải rắn, thay vào đó là tái sử dụng chúng một cách hiệu quả còn giúp giảm lượng khí ảnh hưởng đến tầng ôzôn. ⇒ Tái chế, giảm thiệu rác thải nhựa góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là trẻ em. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét. Dịch vụ xử lý chất thải Thái An chuyên xử lý và vận chuyển các loại chất thải công nghiệp tại các nhà máy, xí nghiệp. Chúng tôi cam kết là đơn vị xử lý chất thải công nghiệp đúng theo hợp đồng và làm thật. Lợi ích của việc tái chế chất thải là gìNhững lợi ích của việc tái chế chất thải là gì
|
Tái chế chất dẻo
|
Tái chế chất dẻo là quá trình thu hồi phế liệu hoặc chất thải chất dẻo và tái chế vật liệu thành các sản phẩm hữu ích. Do phần lớn nhựa không phân huỷ sinh học, tái chế là một phần của nỗ lực toàn cầu nhằm giảm lượng nhựa trong dòng thải, đặc biệt là khoảng 8 triệu tấn chất thải nhựa nhập vào đại dương của Trái đất mỗi năm. Điều này giúp giảm tỷ lệ cao ô nhiễm chất dẻo. Tái chế nhựa bao gồm lấy bất kỳ loại nhựa, phân loại nó vào các polyme khác nhau và sau đó chipping nó và sau đó tan nó xuống viên. Sau giai đoạn này, nó có thể được sử dụng để làm các vật dụng thuộc bất kỳ loại nào như ghế và bàn bằng nhựa. Nhựa mềm cũng được tái chế như màng polyethylene và túi. Hoạt động vòng kín này đã diễn ra từ những năm 1970 và đã sản xuất một số sản phẩm nhựa trong số các hoạt động hiệu quả nhất hiện nay. So với việc tái chế kim loại có lãi, và tương tự như giá trị thấp của thủy tinh, việc tái chế chất dẻo nhựa thường có nhiều thách thức vì mật độ thấp và giá trị thấp.
|
Bạn đang thắc mắc khách sạn giá gì? các mô hình khách sạn phổ biến hiện nay một câu hỏi đơn giản mà nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều người. Cùng Khan Nam Phong tìm hiểu đẩy đủ các thông tin bên dưới nhé. Khách sạn là một loại hình doanh nghiệp, có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Khách sạn là cơ sở kinh doanh lưu trú, đầy đủ tiện nghi, đáp ứng các yêu cầu về nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi, giải trí và nhiều dịch vụ khác trong quá trình khách lưu trú tại khách sạn. Khách sạn là một công trình kiến trúc kiên cố, có nhiều phòng ngủ, nhiều tầng, được trang bị các thiết bị, đồ đạc chuyên dụng phục vụ cho mục đích kinh doanh dịch vụ lưu trú cùng với nhiều dịch vụ bổ sung khác. Có thể bạn chưa biết ở Việt Nam việc đánh giá xếp hạn sao khách sạn dựa vào các yếu tố chính sau: Vị trí, kiến trúc, trang thiết bị, tiện nghi phục vụ, dịch vụ, mức độ phục vụ, nhân viên phục vụ, vệ sinh. Và một lưu ý nữa các những khách sạn quy mô càng lớn, có nhiều dịch vụ đi kèm thì càng được xếp hạng cao. Khách sạn thương mại: khách thương nhân đi công tác, khách du lịch. Khách sạn dạng này chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Resort hotel: thường năm ở ven biển, hải đảo, cao nguyên, vịnh cho đối tượng khách đi nghỉ dưỡng dài hạn.…. Căn hộ khách sạn: được thiết kế với đầy đủ các phòng chức năng: phòng khách – bếp – phòng ngủ. Khách mua căn hộ khách sạn để phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng dài hạn hoặc hợp tác với đơn vị quản lý cho thuê lại trong thời gian không lưu trú. Khách sạn sân bay: thường nằm gần các sân bay quốc tế, phục vụ chính cho đối tượng khách chờ bay hoặc nhân viên phi hành đoàn, có thời gian lưu trú ngắn hạn. Khách sạn sòng bạc: thường được xây dựng rất xa hoa với nhiều trang thiết bị cao cấp, phục vụ cho đối tượng khách có nhu cầu giải trí, chơi cờ bạc các loại… với thời gian lưu trú ngắn. Khách sạn bình dân nằm gần các nhà ga, bến xe… với các trang thiết bị cơ bản, phục vụ chính cho đối tượng khách du lịch ba lô. Khách sạn ven đường (Motel): Đây là loại hình dịch vụ cung cấp chỗ ngủ nghỉ qua đêm tại ven đường dành cho đối tượng khách đi xe ô tô, mô tô… dừng chân trú qua đêm. Khách sạn nổi: Với các tàu thuyền có kiến trúc không thua gì một khách sạn trên đất liền và ngoài dịch vụ phòng ở, ăn uống thì còn có các dịch vụ vui chơi giải trí, làm đẹp. Các khách sạn nổi thường không cố định 1 nơi mà chúng di chuyển từ vùng này sang vùng khác hoặc đi lại giữa các nước. Trên là những chia sẽ của Khăn Nam Phong về khách sạn là gì và các loại hình khách sạn phổ biến hiện nay. Mong rằng qua bài viết này bạn sẽ hiểu & rõ hơn các hình thức kinh doanh hiện nay. Ngoài ra Khăn Nam Phong chuyên cung cấp khăn khách sạn giá sỉ nhất thị trường hiện nay. Nếu bạn có nhu cầu mua khăn thì có thể liên hệ với chúng tôi địa chỉ bên dưới. Khan Nam Phong là công ty chuyên sản xuất khăn cho khách sạn và spa , phân phối trên toàn quốc, nhận thêu, dệt logo trên khăn theo yêu cầu, từ đơn hàng nhỏ đến lớn, đặc biệt chúng tôi có nhà máy sản xuất khăn với số lượng lớn phân phối cả nước.
|
Khách sạn
|
Khách sạn là một công trình kiến trúc kiên cố, có nhiều tầng, nhiều phòng ngủ được trang bị các thiết bị, tiện nghi, đồ đạc chuyên dùng nhằm mục đích kinh doanh các dịch vụ lưu trú, phục vụ ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác. Tùy theo nội dung và đối tượng sử dụng mà phân loại khách sạn tạm trú, du lịch, nghỉ dưỡng, hội nghị, v.v. Theo mức độ tiện nghi phục vụ, khách sạn được phân hạng theo số lượng sao từ 1 đến 5 sao. Khách sạn là cơ sở kinh doanh lưu trú phổ biến trên Thế giới, đảm bảo chất lượng và tiện nghi cần thiết phục vụ kinh doanh lưu trú, đáp ứng một số yêu cầu về nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác trong suốt thời gian khách lưu trú tại khách sạn, phù hợp với động cơ, mục đích chuyến đi. Khách sạn được hiểu là một loại hình doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích sinh lời.
|
Những gì diễn ra tại châu Âu năm 2015 chứng tỏ một điều Liên minh châu Âu (EU) không miễn dịch với cuộc khủng hoảng người tị nạn toàn cầu, theo hãng tin Reuters. Dòng người tuyệt vọng vì chiến tranh và bạo lực ở Syria, Iraq, Afghanistan, vì đàn áp ở Eritrea đã và vẫn tiếp tục bất chấp hiểm nguy vượt Địa Trung Hải sang châu Âu. Làn sóng nhập cư năm 2015 đã làm 4.000 người mất mạng trên Địa Trung Hải, và ít nhất 250 người trong tháng 1-2016. Dù thế, thực tế 1 triệu người may mắn đến được châu Âu đã trực tiếp chỉ ra lo ngại rằng các biên giới châu Âu không còn khả năng ngăn người nhập cư vào châu lục này. Cuộc khủng hoảng nhập cư châu Âu hiện tại xuất phát từ đâu? Vấn đề ở đây là chính sự hỗn loạn mà dòng người nhập cư tạo ra đã gây nên căng thẳng. Thêm nữa, châu Âu đã nhận thấy mối đe dọa khủng bố xuất hiện nhiều hơn ở thế hệ người nhập cư thứ hai so với thế hệ người nhập cư đầu tiên ở châu Âu. Bên cạnh đó, các cuộc tấn công khủng bố ở Paris (Pháp) tháng 11-2015 dấy lên lo ngại các phần tử Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) có thể lợi dụng làn sóng nhập cư hỗn loạn mà trà trộn vào châu Âu thực hiện khủng bố. Vì căng thẳng, các nhà chính trị châu Âu đã viện dẫn các vụ tấn công tình dục ở Cologne (Đức) và một số nơi khác để chứng minh rằng cơn ác mộng nhập cư sẽ không bao giờ kết thúc và sẽ thay đổi nhanh chóng kinh tế, tôn giáo và văn hóa châu Âu. Thực ra 1 triệu người nhập cư mong kiếm tìm quyền tị nạn cũng chỉ tương đương 0,2% dân số toàn EU. Gánh nặng ở đây là phần lớn người nhập cư lại chỉ tập trung xin tị nạn ở một, hai nước trong EU. Đức là nặng gánh nhất. Nhưng nếu tỉnh táo đánh giá thì dù tất cả người nhập cư có tị nạn tại Đức đi chăng nữa thì cũng chỉ tương đương 1,25% dân số Đức, ít hơn nhiều so với người tị nạn Syria ở Thổ Nhĩ Kỳ (chiếm 3% dân số Thổ Nhĩ Kỳ) và ở Lebanon (chiếm 25% dân số Lebanon). Đó là chưa nói so với các nước trên, Đức hơn hẳn về tiềm lực, khả năng quản lý và hỗ trợ người tị nạn hòa nhập vào Đức. Giờ là lúc châu Âu cần nhận ra sự quản lý kém của mình và sự hỗn loạn của làn sóng người nhập cư chính là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng, chứ không phải nằm ở con số người tị nạn. Một khi đã nhận ra thì sẽ có cách giải quyết. Điều cần thiết là EU phải thống nhất được một chính sách tị nạn chung và phân phối trách nhiệm giải quyết tị nạn một cách công bằng cho các nước thành viên. Trước mắt cần tạo một lối tiếp cận an toàn và hợp pháp cho người nhập cư vào châu Âu. Đây là giải pháp hai bên cùng thắng. Người nhập cư sẽ không còn phải chịu nhiều rủi ro, còn EU thì có thể kiểm soát nhập cư tốt hơn. Nếu thỉnh cầu được tị nạn được lắng nghe và giải quyết ngay từ các nước họ đến đầu tiên như Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon thì chắc chắn sẽ có rất nhiều người nhập cư không phải liều mạng đặt cược cuộc sống của mình và người thân trên những con tàu thô sơ lênh đênh Địa Trung Hải tìm tới châu Âu. Nếu vậy thì có vẻ các nước ban đầu như Thổ Nhĩ Kỳ và Lebanon lại nặng gánh quá. Nhưng gánh này sẽ không còn nặng nếu các nước thành viên EU cùng chia sẻ trách nhiệm và hỗ trợ để các nước này có đủ tiềm lực, khả năng xử lý và tái định cư một số lượng lớn người nhập cư. Trong làn sóng nhập cư lần này, số người tìm kiếm tị nạn thật sự vì chiến tranh, vì đàn áp và mong muốn sẽ quay trở về nước khi tình hình nước nhà ổn định không phải là ít. Nên chăng EU nên hỗ trợ nhân đạo cho họ nhiều hơn nữa khi họ còn tị nạn ở những nước họ đến đầu tiên, như cung cấp việc làm cho họ, trường học cho con họ để họ không còn nghĩ nhiều đến việc vượt biển sang nước khác. EU có thể đưa ra các chương trình tái định cư và nhân đạo, thông qua đó đề nghị các nước trên thế giới chia sẻ gánh nặng một cách thiết thực, chứ không phải nghĩ một cách bàng quan đây là vấn đề của riêng châu Âu. Hiện tại chỉ mới có một số nước như Mỹ, Brazil, Nga, các nước vùng Vịnh có động thái chia sẻ gánh nặng xử lý làn sóng nhập cư của châu Âu. Để giải quyết nỗi lo phần tử khủng bố trà trộn vào dòng người nhập cư đến châu Âu - IS chắc chắn sẽ chưa từ bỏ điều này - thì EU cần thiết phải cải thiện các biện pháp giám sát tốt hơn nữa. Làm thế nào để giảm bớt sự hỗn loạn của làn sóng người nhập cư trên biển, để dòng người nhập cư vào châu Âu một cách trật tự hơn là một cách để hạn chế các phần tử khủng bố trà trộn. Một điều quan trọng nữa là EU cần xác định rõ tình trạng người nhập cư tìm đến châu Âu sẽ không bao giờ chấm dứt, từ lâu nay châu Âu vẫn luôn đối mặt với dòng người nhập cư tìm đến vì lý do kinh tế. Nên có một chính sách nhập cư chung, cùng hợp tác giải quyết là việc cần làm để EU vừa có thể kiểm soát được vấn đề người nhập cư và cũng giữ gìn được uy tín và giá trị của mình. (PLO)- Nếu bạn sở hữu một chiếc xe máy, chắc chắn bạn đã thay nhớt một vài lần trong suốt thời gian sở hữu của mình. Tuy nhiên, đã bao giờ bạn tự hỏi, liệu có thể sử dụng dầu xe hơi cho xe máy được không?. (PLO)- Mặc dù chúng ta đều biết được tầm quan trọng của việc uống nước, tuy nhiên mọi người vẫn khó đạt được mục tiêu khuyến nghị hàng ngày. (PLO)- Không còn cảnh tất bật người qua lại, đường phố Sài Gòn trở nên bình yên đến lạ. (PLO)- Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM Tô Thị Bích Châu cho biết sẽ trao đổi lại với Ban Thường vụ Thành ủy để kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho mô hình đi chợ giúp dân. nhà cung cấp không đảm bảo số lượng nhu yếu phẩm theo các combo đã thông báo. (PLO)- Không được cho qua chốt kiểm dịch vì không đeo khẩu trang và ra đường không chính đáng, nam thanh niên đã lao vào đấm cán bộ công an. Và trong lịch sử Premier League, thực tế có khá nhiều chiêu trò của những ngôi sao thất bại. (PLO)- Taliban phải thỏa hiệp với một số cựu thù để thành lập một chính phủ toàn diện và tránh các nguy cơ xảy ra nội chiến tại Afghanistan. (PLO)- Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Ngày truyền thống của ngành Tư pháp Việt Nam (28-8-1945 - 28-8-2021), Sở Tư pháp tỉnh Tuyên Quang đã dâng hương tri ân tại Khu di tích lịch sử Bộ Tư pháp.
|
Khủng hoảng người nhập cư châu Âu
|
Cuộc khủng hoảng người nhập cư vào châu Âu phát sinh do sự gia tăng số lượng người nhập cư đến châu Âu trong năm 2015 - một sự kết hợp của những người di cư và người tị nạn kinh tế - sang Liên minh châu Âu (EU) qua biển Địa Trung Hải và Đông Nam châu Âu từ các khu vực như châu Phi, Trung Đông và Balkan. Thuật ngữ này đã được sử dụng từ tháng 4 năm 2015, khi có ít nhất năm tàu chở gần hai ngàn người di cư đến châu Âu bị chìm ở biển Địa Trung Hải, với số người chết tổng cộng ước tính hơn 1.200 người. Các vụ đắm tàu đã diễn ra trong một bối cảnh xung đột đang diễn ra ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông cũng như việc một số chính phủ trong EU từ chối tài trợ cho tùy chọn cứu trợ được quản lý bởi Ý mang tên Chiến dịch Mare Nostrum (được thay thế bằng Chiến dịch Triton của Frontex vào tháng 11 năm 2014). Ngày 23 tháng 4 năm 2015, chính phủ các nước EU đã nhất trí tăng gấp ba lần kinh phí cho các hoạt động tuần tra biên giới ở Địa Trung Hải để chúng bằng với khả năng trước đây của chiến dịch Mare Nostrum.
|
Quản trị công ty trong tiếng Anh là Corporate governance, viết tắt là CG. Quản trị công ty (Corporate governance - CG) là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát toàn bộ doanh nghiệp. Quản trị công ty là một quá trình hay thủ tục về giám sát và kiểm soát được thực hiện để đảm bảo cho việc thực thi quản trị doanh nghiệp phù hợp với lợi ích của các cổ đông. - Trong nền kinh tế thị trường, một công ty có nhiều đối tượng hưởng lợi và những đối tượng này được phân chia thành các nhóm có lợi ích xung đột với nhau. - Quản trị công ty là việc cân bằng các ảnh hưởng đó một cách tối ưu cho doanh nghiệp nhằm phát huy được tính hiệu quả, công khai, minh bạch, góp phần bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện sức cạnh tranh cho chính bản thân doanh nghiệp. - Tuy nhiên, khái niệm quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay còn đương đối mới, nhiều người thường nhầm lẫn "quản trị công ty" và "quản lí", "quản trị doanh nghiệp". - Thứ nhất, quản trị công ty có một vai trò hết sức quan trọng đó là tăng tính hiêu quả của quản trị doanh nghiệp. - Thứ ba, quản trị công ty góp phần bảo vệ cổ đông thiểu số và tăng tính minh bạch trong doanh nghiệp và tăng tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Đặc biệt, khi bảo vệ được lợi ích của cổ đông, điều đó góp phần tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, ua đó thu hút được ngồn vốn và tạo tiền đề cho doanh nghiệp phát triển bền vững hơn. Với xu thế "quản trị công ty" mới, các doanh nghiệp Việt đang chịu sức ép phải cấu trúc lại, phải thu hút thêm nguồn lực mới, năng lực chuyên môn mới vào hệ thống của mình. Nhưng, quan hệ giữa Hội đồng quản trị với các cổ đông, cũng như các bên liên quan chỉ thành công khi hệ thống "quản trị công ty" được lành mạnh và minh bạch.
|
Quản trị công ty
|
Quản trị công ty cổ phần, gọi tắt là quản trị công ty, là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty cổ phần. Quản trị công ty cũng bao hàm mối quan hệ giữa nhiều bên, không chỉ trong nội bộ công ty cổ phần như các cổ đông, ban giám đốc điều hành, hội đồng quản trị mà còn những bên có lợi ích liên quan bên ngoài công ty: cơ quan quản lý Nhà nước, các đối tác kinh doanh và cả môi trường, cộng đồng, xã hội. Cơ chế này được xây dựng và liên tục cải tiến chính vì nhu cầu bức bách đối với sức khỏe của công ty cổ phần và sự lành mạnh của xã hội nói chung.
|
Cây con bên trái của một nút có khóa (key) nhỏ hơn hoặc bằng giá trị khóa của nút cha (của cây con này). Cây con bên phải của một nút có khóa lớn hơn hoặc bằng giá trị khóa của nút cha (của cây con này). Cây tìm kiếm nhị phân (BST) là một tập hợp bao gồm các nút được sắp xếp theo cách để chúng có thể duy trì hoặc tuân theo các đặc điểm của cây tìm kiếm nhị phân. Mỗi một nút thì đều có một khóa và giá trị liên kết với nó. Trong khi tìm kiếm, khóa cần tìm được so sánh với các khóa trong cây tìm kiếm nhị phân (BST) và nếu tìm thấy, giá trị liên kết sẽ được thu nhận. Từ hình ví dụ minh họa trên ta thấy rằng, khóa của nút gốc có giá trị 27 và tất cả khóa bên trái của cây con bên trái đều có giá trị nhỏ hơn 27 này và tất cả các khóa bên phải của cây con bên phải đều có giá trị lớn hơn 27. Hoạt động duyệt tiền thứ tự: duyệt một cây theo cách thức duyệt tiền thứ tự. Hoạt động duyệt trung thứ tự: duyệt một cây theo cách thứ duyệt trung thứ tự. Hoạt động duyệt hậu thứ tự: duyệt một cây theo cách thức duyệt hậu thứ tự. Một nút có một vài dữ liệu, tham chiếu tới các nút con bên trái và nút con bên phải của nó. Mỗi khi một phần tử được tìm kiếm: bắt đầu tìm kiếm từ nút gốc, sau đó nếu dữ liệu là nhỏ hơn giá trị khóa (key), thì sẽ tìm phần tử ở cây con bên trái; nếu lớn hơn thì sẽ tìm phần tử ở cây con bên phải. Dưới đây là giải thuật cho mỗi nút:. Mỗi khi một phần tử được chèn: đầu tiên chúng ta cần xác định vị trí chính xác của phần tử này. Bắt đầu tìm kiếm từ nút gốc, sau đó nếu dữ liệu là nhỏ hơn giá trị khóa (key), thì tìm kiếm vị trí còn trống ở cây con bên trái và chèn dữ liệu vào đó; nếu dữ liệu là nhỏ hơn thì tìm kiếm vị trí còn sống ở cây con bên phải và chèn dữ liệu vào đó.
|
Cây tìm kiếm nhị phân
|
Cây tìm kiếm nhị phân (viết tắt tiếng Anh: BST - Binary Search Tree) là một cấu trúc dữ liệu rất thuận lợi cho bài toán tìm kiếm. Mọi khóa trên cây con phải đều lớn hơn khóa trên nút kCây tìm kiếm nhị phân là một cấu trúc dữ liệu cơ bản được sử dụng để xây dựng các cấu trúc dữ liệu trừu tượng hơn như các tập hợp, đa tập hợp, các dãy kết hợp. Nếu một BST có chứa các giá trị giống nhau thì nó biểu diễn một đa tập hợp. Cây loại này sử dụng các bất đẳng thức không nghiêm ngặt. Mọi nút trong cây con trái có khóa nhỏ hơn khóa của nút cha, mọi nút trên cây con phải có nút lớn hơn hoặc bằng khóa của nút cha. Nếu một BST không chứa các giá trị giống nhau thì nó biểu diễn một tập hợp đơn trị như trong lý thuyết tập hợp. Cây loại này sử dụng các bất đẳng thức nghiêm ngặt. Mọi nút trong cây con trái có khóa nhỏ hơn khóa của nút cha, mọi nút trên cây con phải có khóa lớn hơn khóa của nút cha.
|
Cơ sở dữ liệu là hình thức tổ chức các dữ liệu theo một cấu trúc với mục đích dễ dàng trong việc đọc, thêm hay xóa dữ liệu. Cụ thể cơ sở dữ liệu là gì?. Với cách lưu trữ theo dạng file được sử dụng trên một máy tính thông thường sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu lưu trữ của tổ chức hay doanh nghiệp. Chính vì vậy hệ thống cơ sở dữ liệu đã được cho ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu này. Cùng tham khảo bài viết bên dưới để hiểu rõ hơn nhé. Cơ sở dữ liệu là hệ thống bao gồm rất nhiều thông tin, dữ liệu được xây dựng theo một cấu trúc nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng của nhiều người hay chạy nhiều chương trình ứng dụng cùng một lúc. Tăng cường khả năng chia sẻ dữ liệu đa dạng nhiều nơi. Chỉ cần có password bạn có thể dễ dàng truy cập vào cơ sở dữ liệu bất kỳ nơi đâu trên thế giới. Đây là dạng mô hình cơ sở dữ liệu được ra đời đầu tiên vào những năm 60. Cấu trúc của nó gồm nhiều nút, mỗi nút biểu diễn cho một thực thể nhất định. Giữa hai nút được liên kết với nhau theo những mối quan hệ. Ưu điểm của loại mô hình này là khá dễ xây dựng và thao tác, phù hợp với các tổ chức phân cấp như tổ chức nhân sự trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nó lại thường xảy ra tình trạng lặp lại các bản ghi dư thừa, không nhất quán. Được cho ra đời không lâu sau mô hình phân cấp. Mô hình dữ liệu mạng hay còn gọi là mô hình mạng có cấu trúc dữ liệu tổ chức thành một đồ thị hướng. Tại đây, các các đỉnh là các thực thể, các cung là quan hệ giữa hai đỉnh, một kiểu bản ghi có thể liên kết với nhiều kiểu bản ghi khác. Một thực thể con có thể có nhiều thực thể cha và có nhiều đường dẫn truy nhập đến một dữ liệu theo cấu trúc của mô hình dữ liệu mạng đã được định sẵn từ trước. Khi sử dụng mô hình này, người dùng sẽ có thể biểu diễn đa dạng các ngữ nghĩa theo kiểu bản ghi hay móc nối và truy vấn nhanh chóng thông qua phép duyệt đồ thị Navigation. Mặc dù vậy, trên mô hình dữ liệu mạng vẫn còn tồn tại những hạn chế như số lượng con trỏ lớn, hạn chế trong việc biểu diễn ngữ nghĩa và móc nối giữa các bản ghi với nhau. Đây là mô hình dựa trên lý thuyết tập hợp và đại số quan hệ. Nhờ áp dụng điều này mà mô hình dữ liệu quan hệ có tính chặt chẽ khá cao, mô tả dữ liệu một cách rõ ràng. Nó được đánh giá là mô hình với nhiều ưu điểm, được sử dụng thông dụng nhất hiện nay. Ưu điểm cần được nhắc đến của loại mô hình này là khả năng tối ưu hóa đa dạng các xử lý nhờ dựa trên lý thuyết tập hợp và đại số quan hệ. Còn về phần nhược điểm thì cấu trúc này vẫn chưa linh hoạt và hạn chế trong việc biểu diễn ngữ nghĩa phức tạp của các quan hệ thực tế. Mô hình dữ liệu hướng đối tượng được cho ra đời muộn hơn các mô hình kể trên. Nó ra đời vào khoảng đầu những năm 90, trong đó các thuộc tính dữ liệu và các phương thức thao tác trên các thuộc tính đó đều được đóng gói trong các cấu trúc nhất định. Mô hình này cho phép định nghĩa được các kiểu đối tượng phức tạp. Có nhiều tính chất khác nhau như: bao đóng (encapsulation), kế thừa (heritage), đa hình (polymorphism). Nhược điểm còn tồn tại là cấu trúc lưu trữ còn phức tạp, có thể cần sử dụng đến nhiều con trỏ. Khả năng tối ưu hóa chưa tốt, còn bị hạn chế trong một vài trường hợp. Vậy là chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu về khái niệm Cơ sở dữ liệu là gì? và Các mô hình cơ sở dữ liệu thông dụng. Mong rằng trong khuôn khổ bài viết có thể giúp bạn phần nào về những khái niệm này.
|
Cơ sở dữ liệu
|
Cơ sở dữ liệu (Database) là một tập hợp các dữ liệu có tổ chức, thường được lưu trữ và truy cập điện tử từ hệ thống máy tính. Khi cơ sở dữ liệu phức tạp hơn, chúng thường được phát triển bằng cách sử dụng các kỹ thuật thiết kế và mô hình hóa chính thức. Hệ quản lý cơ sở dữ liệu (Database Management System - DBMS) là phần mềm tương tác với người dùng cuối, ứng dụng và chính cơ sở dữ liệu để thu thập và phân tích dữ liệu. Phần mềm DBMS bao gồm các tiện ích cốt lõi được cung cấp để quản trị cơ sở dữ liệu. Tổng cộng của cơ sở dữ liệu, DBMS và các ứng dụng liên quan có thể được gọi là "hệ thống cơ sở dữ liệu". Thông thường thuật ngữ "cơ sở dữ liệu" cũng được sử dụng để nói đến bất kỳ DBMS, hệ thống cơ sở dữ liệu hoặc ứng dụng nào được liên kết với cơ sở dữ liệu. Các nhà khoa học máy tính có thể phân loại các hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu theo các mô hình cơ sở dữ liệu mà họ hỗ trợ.
|
Dài gần 3 tiếng đồng hồ và được thực hiện trong giai đoạn quân đội Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm” có tầm vóc của một thiên sử thi đồ sộ. Bộ phim kể về cuộc đối đầu giữa nhân dân làng cát của một xã ven biển Gio Linh, do chị Dịu (Trà Giang) lãnh đạo, chống lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa, do tên chỉ huy Trần Sùng (Lâm Tới) cầm đầu, ở bờ Nam của sông Bến Hải, ngay giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền đất nước. Vĩ tuyến 17 ngày và đêm đã tô đậm thêm bản anh hùng ca của dân tộc bằng ngôn ngữ điện ảnh với những đại cảnh hoành tráng lẫn số phận của những con người nhỏ bé, ở cả hai phía chính diện và phản diện. Sau 45 năm, bộ phim vẫn gây kinh ngạc về nghệ thuật dàn dựng công phu của đạo diễn Hải Ninh lẫn màn hóa thân tuyệt vời của 2 diễn viên, hai tượng đài của điện ảnh cách mạng Việt Nam. Đó là Trà Giang và Lâm Tới. Nhiều tài liệu ghi lại rằng kịch bản của bộ phim được nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ và đạo diễn Hải Ninh viết trong suốt 5 năm, dựa theo một nguyên mẫu có thật ở làng cát Gio Linh, Bến Hải của tỉnh Quảng Trị. Hai ông đã nhiều lần đạp xe đạp từ Hà Nội vào Quảng Trị để gặp gỡ các nhân vật có thật, chỉnh sửa kịch bản để tái hiện một cách chân thật nhất không khí của cuộc kháng chiến chống lại sự đàn áp của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Mỹ ở đây. Nghệ sĩ Trà Giang cũng vào đất thép Vĩnh Linh để gặp nguyên mẫu nhân vật chị Dịu mà bà đóng trong phim, lắng nghe và khóc cùng những mất mát hi sinh của chị, để rồi tái hiện một cách sinh động và xuất sắc hình tượng người phụ nữ có thật này trong phim. Từ Chị Tư Hậu (1963) đến Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972), Trà Giang đã có một bước tiến dài về diễn xuất và trở thành tượng đài của điện ảnh cách mạng Việt Nam trong thời chống Mỹ. Bà cũng là diễn viên đầu tiên của Việt Nam đoạt giải thưởng quốc tế danh giá về diễn xuất khi được Liên hoan phim quốc tế Moscow (Nga) năm 1973 trao giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhờ vai diễn trong bộ phim này. Do thời lượng, bố cục và chất liệu đặc sắc, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm được chia làm 2 tập. Tập đầu, bộ phim chủ yếu mô tả cuộc sống của bà con làng cát ở bờ Nam của con sông Bến Hải, phía bên kia của giới tuyến tạm thời. Chị Dịu có chồng tập kết ra Bắc, đang mang thai đứa con đầu lòng nhưng vẫn đi theo cách mạng, vận động bà con tham gia kháng chiến. Ở vùng vĩ tuyến chỉ cách nhau một con sông mà đi theo hai chiến tuyến đó, hầu hết các gia đình trong làng chị đều có người thân đi theo hai chế độ khác nhau. Trần Sùng từng là một đứa trẻ mồ côi khi mới sinh ra, được những người mẹ trong làng cho sữa nuôi nấng khôn lớn thành người. Nhưng lớn lên, hắn lại trở thành sĩ quan Cộng Hòa và trở về làng để bắt bớ, đàn áp những người theo cộng sản. Chị Dịu và Trần Sùng, từ hai người bạn thời thơ ấu, trở thành hai kẻ đối đầu ở hai chiến tuyến, hai kẻ thù của nhau, mặc dù Trần Sùng đem lòng yêu chị Dịu. Thuyết phục không được chị Dịu và những bà con trong làng theo cách mạng, Trần Sùng, với chức vụ đồn trưởng đồn cảnh sát Cộng Hòa đã thẳng tay đàn áp, bố ráp dân làng, thậm chí cả những người mẹ nghèo đã từng nuôi hắn khôn lớn. Không chỉ đốt những ngôi nhà tranh vách đất, Trần Sùng còn ra lệnh thiêu sống Ba Thuận, bí thư chi bộ của xã. Chị Dịu đã đứng lên thay thế chức vụ đó, tập hợp chị em phụ nữ, bà con trong làng làm cách mạng. Không thuyết phục lẫn đe dọa được chị Dịu, Trần Sùng ra lệnh nhốt chị vào tù và tra tấn dã man, trong lúc chị đang mang thai đứa con đầu lòng. 90 phút của tập 1 Vĩ tuyến 17 ngày và đêm tái hiện không khí sục sôi của một làng cát nghèo ven biển trước sự đàn áp dã man của Trần Sùng và quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Đạo diễn Hải Ninh đặc biệt thành công trong việc tạo dựng không khí và cảm xúc trong từng phân cảnh cũng như từng câu thoại thể hiện tinh thần quật khởi của những người dân nghèo đi theo cách mạng. Ba Thuận, bí thư chi bộ của xã, trước sự đe dọa của Trần Sùng, đã trả lời đanh thép rằng: “Tao quỳ nửa đời người rồi, đã đứng lên được là không quỳ xuống nữa.” Ngay cả khi bị thiêu sống, ông vẫn hét lên động viên bà con: “Đừng kêu khóc trước mắt kẻ thù. Trong chiến tranh, việc sinh tử là lẽ thường tình”. Bà mẹ nuôi của Trần Sùng, người mà hắn vẫn còn một chút tình thương vì công dưỡng dục, trước sự đàn áp tàn bạo của hắn đối với đồng bào trong làng, đã đứng trước mặt hắn, xé toang tấm áo rách của một người phụ nữ nghèo, để lộ hai bầu vú nhăn nheo. Bà nói với hắn: “Mẹ mày chết đi khi vừa mới sinh ra mày. Không có sữa của những bà mẹ nghèo trong cái làng này, mày sống và lớn lên bằng gì?”. Đó là một vài phân cảnh gây ấn tượng mạnh mẽ trong suốt bộ phim với nhịp điệu căng thẳng, sự dồn nén của cảm xúc và những cao trào chực chờ được phá vỡ. Tập 2 của bộ phim tiếp tục mạch phim sôi sục của phần 1. Chị Dịu ra tù, đưa con cho một người phụ nữ trong làng nuôi để chuyên tâm vào phong trào cách mạng. Trần Sùng, sau vết thương bị một người lính cộng sản chém vào mặt, trở lại làng cát một lần nữa, với nhiệm vụ cao hơn. Đó là tiêu diệt đến tận gốc những kẻ đi theo cộng sản và phong trào cách mạng trong dân chúng. Cuộc đối đầu giữa chị Dịu và Trần Sùng ngày một khốc liệt và dữ dội hơn. Trà Giang với vai chị Dịu là người có nhiều phân cảnh đặc sắc nhất, đặc biệt là những cảnh chị bị tra tấn trong tù mà vẫn cúi gập người để bảo vệ cho bào thai trong bụng, cảnh chị phải sinh con giữa nền đất lạnh không một manh chiếu hay mảnh vải lót. Hay ở tập 2, khi đứa con của chị bị bắn và được giải cứu, chị ôm con chạy trong đêm, bơi qua sông Bến Hải để giao con cho chồng rồi tiếp tục quay trở lại làm cách mạng. Những sắc thái đòi hỏi phải thể hiện cảm xúc mãnh liệt nhưng không được bi lụy đó đã được Trà Giang hóa thân trọn vẹn, đặc biệt là khả năng tiết chế cảm xúc và đôi mắt như có lửa. Trong khi đó, Trần Sùng của Lâm Tới gây ấn tượng về một nhân vật phản diện đặc sắc, một kẻ vừa tàn ác vừa có học. Hắn phụng sự cho lý tưởng của mình, thẳng tay đàn áp đồng bào của mình và tìm mọi cách để tiêu diệt phong trào cộng sản trong dân chúng. Hắn vừa là một kẻ tàn ác, không run sợ trước tội ác. Kẻ luôn tâm niệm “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, không để thêm một tên cộng sản con ra đời” lại là người thích lý luận, theo đuổi hiện sinh chủ nghĩa, thể hiện trong cuộc đối đầu giữa hắn với đồn trưởng Công an Nhân dân Việt Nam: “Tổ quốc chỉ là một tấm bản đồ trừu tượng. Thắng hay thua chỉ là công việc của bọn lái súng hay bọn đánh thuê kia”. Vĩ tuyến 17 ngày và đêm phần nào giống Chung một dòng sông, bộ phim đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam. Cả hai đều chọn con sông Bến Hải và bà con nhân dân ở hai bờ giới tuyến bị ngăn cách Nam Bắc sau hiệp định Geneve 1954 làm đề tài xuyên suốt. Nhưng nếu Chung một dòng sông (1959) vẫn còn nhiều sự sơ khai, non nớt của điện ảnh cách mạng buổi đầu thì Vĩ tuyến 17 ngày và đêm đã biến đề tài này thành một tác phẩm điện ảnh vừa khốc liệt vừa bi tráng, mang dáng dấp của một thiên sử thi của nghệ thuật thứ 7. Giải thưởng: Nữ diễn viên chính xuất sắc tại LHP Moscow năm 1973 cho Trà Giang. Giải đặc biệt của Hội đồng Hòa bình Thế giới tại LHP Moscow cùng năm. Là tác phẩm duy nhất của điện ảnh Việt Nam giành giải thưởng cao nhất ở một LHP quốc tế, sau gần 40 năm "Cánh đồng hoang" (1979) vẫn là một trong những bộ phim kinh điển nhất. "Bao giờ cho đến tháng Mười" trở thành một kiệt tác kinh điển của điện ảnh Việt Nam sau chiến tranh và giành nhiều giải thưởng quốc tế.
|
Vĩ tuyến 17 ngày và đêm
|
Vĩ tuyến 17 ngày và đêm là một bộ phim của đạo diễn Hải Ninh năm 1972. Đây là một bộ phim tiêu biểu của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Kịch bản Vĩ tuyến 17 ngày và đêm được Hải Ninh và Hoàng Tích Chỉ viết trong 5 năm. Đây cũng là kịch bản hai tập đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam. Sau hiệp định Genève 1954, sông Bến Hải trở thành giới tuyến quân sự tạm thời ngăn cách Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự. Cuộc sống của người dân hai bên bờ sông bị ảnh hưởng nặng nề. Hầu hết các gia đình đều có người thân sống dưới hai chế độ khác nhau. Sau khi chồng tập kết ra Bắc, chị Dịu ở lại bờ Nam của sông Bến Hải. Bí thư chi bộ Thuận bị phe Việt Nam Cộng hòa giết chết, chị Dịu lên thay chức vụ đó. Vì lý do này mà chị đã nhiều lần bị Trần Sùng đưa vào tù.
|
Virus có nhiều cách lây lan và tất nhiên cũng có nhiều cách phá hoại, nhưng bạn chỉ cần nhớ rằng đó là một đoạn chương trình và đoạn chương trình đó thường dùng để phục vụ những mục đích không tốt. Virus máy tính là do con người tạo ra. Quả thực cho đến ngày nay, chúng ta có thể coi virus máy tính như mầm mống gây dịch bệnh cho những chiếc máy tính, chúng ta là những người bác sĩ phải luôn chiến đấu với bệnh dịch và tìm ra những phương pháp mới để hạn chế và tiêu diệt chúng. Đây chắc chắn sẽ là điều băn khoăn của tất cả những người sử dụng máy tính nếu chẳng may máy tính bị nhiễm virus. Bởi chúng ta đã biết, dù ít hay nhiều virus cũng được dùng để phục vụ những mục đích không tốt. Virus là những phần mềm và do con người tạo ra, vì thế chúng cũng phá hoại theo những gì mà chủ nhân của chúng nhắm tới. Virus có thể tàn phá nặng nề dữ liệu, ổ đĩa và hệ thống, hoặc đơn giản hơn chỉ là một câu đùa vui hay nghịch ngợm đôi chút với màn hình, hay thậm chí chỉ đơn giản là nhân bản thật nhiều để ghi điểm. Chúng cũng có thể lợi dụng máy tính của nạn nhân để phát tán thư quảng cáo, thu thập địa chỉ email, hay biến nó thành “trợ thủ” để tấn công vào hệ thống khác hoặc tấn công ngay vào hệ thống mạng bạn đang sử dụng. Nguy hiểm hơn, chúng có thể ăn cắp các thông tin như mật khẩu hòm thư, thông tin thẻ tín dụng hay các thông tin quan trọng khác. Đôi khi chúng ta là nạn nhân thực sự mà virus nhắm vào, đôi khi chúng ta vô tình trở thành “trợ thủ” cho chúng tấn công vào hệ thống khác. Có rất nhiều con đường mà virus có thể lợi dụng để xâm nhập vào máy tính. Virus có thể lây qua mạng nội bộ (mạng LAN), qua email, qua các file tải về từ Internet hay từ các ổ đĩa USB. Tinh vi hơn, chúng có thể lợi dụng các lỗ hổng phần mềm, kể cả hệ điều hành để xâm nhập, lây nhiễm lên máy tính thông qua mạng. Email là một trong những con đường lây lan virus chủ yếu và phổ biến nhất trên Internet hiện nay. Từ một máy tính, virus thu thập các địa chỉ email trong máy và gửi email giả mạo có nội dung hấp dẫn kèm theo file virus để lừa người nhận mở các file này. Các email virus gửi đều có nội dung khá “hấp dẫn”. Một số virus còn trích dẫn nội dung của một email trong hộp thư của nạn nhân để tạo ra phần nội dung của email giả mạo, điều đó giúp cho email giả mạo có vẻ “thật” hơn và người nhận dễ bị mắc lừa hơn. Với cách thức tương tự như vậy trên những máy nạn nhân khác, virus có thể nhanh chóng lây lan trên toàn cầu theo cấp số nhân. Những thiết bị lưu trữ USB cũng là một nguồn lây lan virus đáng kể, nhất là tại Việt Nam hiện nay, khi USB đang là phương tiện trao đổi dữ liệu của phần lớn người sử dụng máy tính. Từ máy tính bị nhiễm, virus sẽ copy chính nó vào tất cả các ổ USB mà người sử dụng đưa vào máy tính. Lúc này, những ổ đĩa USB đã trở thành những “mầm bệnh” thực sự và khi chúng được đưa sang sử dụng trên máy tính khác, virus sẽ lại lây nhiễm từ USB ra máy tính đó. Máy tính cũng có thể bị nhiễm virus nếu chúng ta chạy một chương trình không rõ nguồn gốc tải từ Internet hay copy chương trình từ một máy tính bị nhiễm virus khác. Lý do là chương trình này có thể đã bị lây nhiễm virus từ trước hoặc bản thân là một virus giả dạng, khi chúng ta chạy nó cũng là lúc chúng ta đã tự mở cửa cho virus lây vào máy của mình. Bên cạnh đó, phải kể tới một tỉ lệ không nhỏ các virus xâm nhập xuống máy tính của người sử dụng thông qua các đoạn mã nguy hiểm được treo trên các website độc hại. Chủ nhân những website này thường tìm cách để lừa nạn nhân ghé thăm trang web của chúng, ngay khi đó, những đoạn mã lệnh nguy hiểm đã chuẩn bị sẵn sẽ được thực thi và máy tính của người sử dụng sẽ bị nhiễm virus. Điển hình cho kiểu này là những virus lây lan qua các chương trình chat như Yahoo!. Các phần mềm (kể cả hệ điều hành) luôn chứa đựng những lỗi tiềm tàng mà không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng phát hiện ra. Các lỗi này khi được phát hiện có thể gây ra những sự cố không lớn, nhưng cũng có thể là những lỗi rất nghiêm trọng và không lâu sau đó sẽ có hàng loạt virus mới ra đời khai thác lỗi này để lây lan. Đây là một con đường lây lan virus đáng sợ vì người dùng không thể phòng chống chỉ bằng biện pháp cảnh giác. Bởi vì ngay cả khi bạn rất cảnh giác, không mở file đính kèm trong các email lạ, không vào web lạ hay chạy bất cứ file chương trình khả nghi nào, máy tính của bạn vẫn có thể bị nhiễm virus do chúng “chui” qua lỗ hổng các phần mềm (kể cả hệ điều hành) bạn đang sử dụng. Cách phòng chống và diệt virus hiệu quả nhất !? Vi tính Bình Dương khuyên bạn thực hiện đúng những điều sau đây. Virus là tác nhân gây hại đặc biệt nghiêm trọng và vô cùng nguy hiểm đối với dữ liệu của các công ty và người dùng cá nhân. Nếu chúng ta sơ ý và không có biện pháp phòng chống virus kịp thời thì phải hứng chịu thiệt to lớn do chúng gây ra. Hãy đọc và làm theo các bước của vi tính Bình Dương chia sẻ, sẽ giúp bạn ngăn ngừa và diệt virus có hiệu quả bảo vệ được dữ liệu cá nhân và của công ty được an toàn. Virus lây bằng đường USB, thẻ nhớ, ổ cứng di động và bao gồm các thiết lưu trữ liệu bên ngoài khác khi chúng ta cắm vào máy tính thì phải chú ý cẩn thận là phải quét virus trước xong rồi mới mở dữ liệu lên để tránh virus xâm nhập vào máy tính, nếu chúng cẩn thận hơn không nên click đúp vào file mà chọn click phải tại file đó chọn open để mở file để tránh virus autorun. Khi chúng ta vào trang web không có nguồn gốc rõ ràng những phần mền tải về chưa được kiểm duyệt nên bị đính kèm virus gây hại mà chúng ta không dễ phát hiện được. Không click vào những đường dẫn đính kèm trên web với những tên hấp dẫn như websex, hotgirl….để kích thích tính tò mò của người sử dụng, người sử dụng không ngờ đó là bẫy giăng của người tạo ra virus, vô tình click vào đường dẫn đó virus sẽ phát tán đến máy tính của bạn, vi tính Bình Dương khẳng định với bạn một điều rằng bất kì một trang wed không rõ nguồn gốc điều có đính kèm link nhiễm virus. Hiện nay công việc của chúng phải thường xuyên phải liên lạc qua mail để trao đổi thông tin, làm việc giao dịch với khách hàng mà không phải mất nhiều thời gian đi lại. Cũng chính vì vậy mà virus chuyển hướng sang lây nhiễm qua thư điện tử thay cho cách lây nhiễm truyền thống. Virus được đính kèm theo mail hoặc đường dẫn trên tập tin đính kèm, chúng ta vô tình click vào file đó virus sẽ phát tán vào máy tính của bạn, tự động đánh cắp thông tin trên mail gởi đi hàng loạt đến những người trong danh bạ của bạn. Con số đó không dừng lại ở đó mà được nhân lên cấp bội khi chúng ta không thể kiểm soát được chúng. 1.Dùng phần mền diệt virus bản quyền: hiện nay thế giới đã cho ra đời nhiều phần mềm diệt virus bản quyền nổi tiếng như kapersky, norton….và virus bây giờ chỉ còn là quá khứ….!. Chúng ta nên quét virus thường xuyên 2, 3 ngày một lần hoặc ít nhất 1 tuần 1 lần để quét sạch những virus thường trú trên máy tính. ví dụ một cách dễ hiểu là khi dùng phần mền virus để quét như một nhân viên bảo vệ phải đi tuần tra thường xuyên những nơi khó phát hiện tìm ra những kẻ phá hoại để tiêu diệt chúng kịp thời. khi cắm các thiết bị ngoại vi vào máy tính thì phải nhớ quét trước khi mở file lên sử dụng. Không click vào đường dẫn hay tập tin đính kèm trong thư điện tử mà không phải của người khác gởi cho mình. Sao lưu dữ liệu theo chu kì: sao lưu dữ sang một ổ dữ liệu khác để đề phòng virus làm mất dữ liệu hoặc ổ cứng có vấn đề. cài đặt những phần mền mà mình cần sử dụng, không nên cài đặt phần mền mà mình không biết đến. Nhờ sự hướng dẫn của người khác: chúng ta có thể tham khảo ý kiến của bạn bè hoặc những người hiểu biết về máy tính. Các bạn sẽ yên tâm hơn hãy liên hệ ngay với vi tính Bình Dương để được hỗ trợ kịp thời, giải quyết sự cố cho bạn một cách nhanh chóng và hiệu quả tại công ty, hoặc nhà riêng của bạn mà không cần phải mang máy tính đi đâu cả.
|
Virus (máy tính)
|
Tự xen vào hoạt động hiện hành của máy tính một cách hợp lệ, để thực hiện tự nhân bản và những công việc theo chủ ý của lập trình viên. Sau khi kết thúc thực thi mã virus thì điều khiển được trả cho trình đang thực thi mà máy không bị "treo", trừ trường hợp virus cố ý treo máy. Tự sao chép chính nó, tức tự nhân bản, một cách hợp lệ lây nhiễm vào những tập tin (file) hay các vùng xác định (boot, FAT sector) ở các thiết bị lưu trữ như đĩa cứng, đĩa mềm, thiết bị nhớ flash (phổ biến là USB),. thậm chí cả EPROM chính của máy. Trước đây, virus thường được viết bởi một số người am hiểu về lập trình muốn chứng tỏ khả năng của mình nên thường virus có các hành động như: cho 1 chương trình không hoạt động đúng, xóa dữ liệu, làm hỏng ổ cứng,. hoặc gây ra những trò đùa khó chịu. Những virus mới được viết trong thời gian gần đây không còn thực hiện các trò đùa hay sự phá hoại đối với máy tính của nạn nhân bị lây nhiễm nữa, mà đa phần hướng đến việc lấy cắp các thông tin cá nhân nhạy cảm (các mã số thẻ tín dụng) mở cửa sau cho tin tặc đột nhập chiếm quyền điều khiển hoặc các hành động khác nhằm có lợi cho người phát tán virus.
|
Thăm dò Điện Phân cực kích thích, viết tắt là PKKT, (tiếng Anh: Induced Polarization, IP) hay Phân cực cảm ứng là một phương pháp của địa vật lý thăm dò, trong đó bố trí hệ điện cực đo như trong thăm dò điện trở, nhưng phát dòng điện vào đất đá và đo hiệu điện thế theo cách thức thích hợp, để thu được thông tin về phân bố độ nạp (Chargeability) hay độ phân cực của môi trường đất đá. Có hai cách thức đo là:. Đo trong miền thời gian (Time Domain IP): Phát dòng một chiều và đo suy giảm hiệu điện thế trên đôi cực thu sau khi cắt dòng phát. Đo trong miền tần số (Frequency Domain IP): Phát dòng dạng sin, đo giá trị và độ lệch pha của hiệu điện thế trên đôi cực thu. Thông thường thì đo với dãy tần số có chủ đích. Nếu quét phổ tần từ cỡ 0,01 đến 10000 Hz thì gọi là Đo phổ phân cực cảm ứng (Spectral Induced Polarisation, SIP). Trong thạch quyển chỉ một số đất đá hay khoáng vật quặng có khả năng nạp điện. Đo được độ nạp sẽ xác định sự có mặt và phân bố của chúng trong tầng đất đá. Phương pháp được sử dụng cho lập bản đồ địa chất, tìm kiếm khoáng sản, tìm nước ngầm, khảo sát địa chất công trình, địa chất môi trường và tai biến tự nhiên,… trên đất liền và trên biển gần bờ. Tại Việt Nam phương pháp được nhập vào những năm 1970, với tên gọi PCKT dịch từ tiếng Nga вызванная поляризация. Tuy nhiên một số văn liệu Nga đã chuyển sang dùng thuật ngữ Индуцированная поляризация (phân cực cảm ứng). Năm 1920 khi thực hiện thăm dò điện trở Schlumberger đã phát hiện ra hiện tượng sau khi cắt dòng phát thì trên điện cực thu còn tồn tại điện thế dư, nó suy giảm dần, và gọi là phân cực cảm ứng. Hiệu ứng này rất nhỏ trong phần lớn các loại đất đá, tuy nhiên nó đặc biệt lớn ở nơi có thân quặng sulfide hay graphite. Sau đó nó được ứng dụng cho tìm kiếm quặng này. Từ 1959 đến 1980, các nghiên cứu ứng dụng phương pháp phát triển. Các thảo luận đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân của hiện tượng, song vẫn chưa thỏa đáng, mà mới nhất trí được hai quan niệm quan trọng:. Phân cực điện cực (Electrode Polarization), tức là sự thay đổi về cơ chế dẫn điện giữa các khối trong đất đá (dẫn điện ion – điện tử, giống như cắm thanh kim loại vào đất ẩm), thường xảy ra ở thân quặng như pyrite, pyrrhotit, chalcopyrit, graphit, galena, bornit, magnetit, pyrolusit,… Hiệu ứng càng lớn nếu hạt quặng càng mịn và phân bố đều trong khối đá. Phân cực điện giải (Electrolytic Polarization) hay thấm lọc màng (Membrane Polarization), do sự khác nhau về độ linh động của các ion trong các hợp phần của đất đá. Khi có dòng điện hay nước chảy thì các ion di chuyển khác nhau dẫn đến sự tích điện. Nó thường liên quan đến khoáng vật sét, và trong tìm kiếm nước ngầm thì là dấu hiệu không chứa nước. Dòng điện kích thích làm phân bố lại các ion, và là quá trình nạp điện. Khi dòng điện này cắt, giảm hay đổi hướng thì điện tích được xả ra. Đo đạc thực địa khó mà phân tách được các hiện tượng nói trên. Điểm quan trọng nằm ở chỗ, một số nhà địa vật lý đưa ra khái niệm về độ dẫn phức và điện trở phức (Complex Conductivity / Resistivity), tính đến sự có mặt của độ nạp trong phần ảo của độ dẫn, và nó thuận lợi cho việc xây dựng thuật giải ngược ra ảnh 2D hay 3D của điện trở phức từ các quan sát đa cực. Dạng đo đầu tiên của PCKT là đo trong miền thời gian. Nội dung của nó là phát dòng ITx với độ dài TOn vào cực phát. Trên đôi cực thu tiếp nhận được tín hiệu URx, thực hiện đo hiệu điện thế điện trở suất V0. Sau khi cắt dòng phát, thì đo đường suy giảm V(t) tại các trễ (Delay) t1, t2,… tN. Độ dài TOn chọn theo độ sâu khảo sát cần có. Cường độ dòng ITx thì chọn sao cho trên vùng chờ đợi có dị thường phân cực thì các V(t) đầu phải cỡ vài mV. Điều này dẫn đến dòng phát khi đo PCKT lớn hơn dòng khi đo điện trở suất cỡ vài chục đến trăm lần. Ngày nay xung phát có dạng đảo chiều tuần hoàn với chu kỳ bằng 4 lần TOn, nhằm loại trừ các nhiễu và tăng độ chính xác. Khi đo trong miền tần số thì phát dòng I dạng sin, đo giá trị và độ lệch pha của hiệu điện thế U trên đôi cực thu. Đo đạc thực hiện với dòng phát lớn có công suất cỡ 2 – 4 KVA, việc đóng chùm cực phát dòng khá rắc rối, nên đã thực hiện với hệ cực gradient trung gian. Điện cực thu là điện cực không phân cực. Định thời cho kỳ phát dòng và các thời điểm đo điện thế bằng đồng hồ bấm giây. Người đo máy dùng chân đóng/cắt công tắc phát dòng rồi đo bằng MiliVolt kế thăm dò thông thường. Các hướng dẫn đo đạc thì khuyến cáo rằng cần dòng phát lớn để mật độ dòng đủ tác động quá trình nạp, và thời gian phát TOn đủ dài (2 đến 16 sec) để nạp điện đủ no. Từ khoảng 1985 các máy tự động và hiện số ra đời, như Terrameter SAS 4000 Resistivity, IP & SP (Thụy Điển), DWJ-2 (Trung Quốc),… phát xung đảo cực, đo đồng thời điện trở suất và độ nạp với nhiều thời điểm sau cắt dòng, và dùng kỹ thuật tích lũy để nâng cao chất lượng đo. Mức dòng phát cho đo đạc cũng giảm về cỡ 1 – 3 Amp. Hiện nay các máy đều đo đồng thời điện trở suất và độ nạp, tự động điều hành bằng máy tính PC, làm việc với hệ thống đa cực. Chương trình điều hành đo sẽ căn theo chỉ định hệ điện cực đo, chọn ra số cực phù hợp, đo quét dọc chặng và từ “kích thước thiết bị” nhỏ đến lớn nhất có thể. Cách thức đo của các máy trong miền thời gian cũng có chút khác nhau, trong đó một số máy đo trị tích phân (Integral) trong khoảng thời gian định trước. Vì điện cực không phân cực không dùng được cho phát dòng, nên trong hệ thống đa cực phải dùng điện cực bạch kim, là loại có điện thế tự phân cực thấp nhất trong nhóm kim loại. Đo PCKT cần tỷ mỷ và lâu hơn chỉ đo điện trở, vì phải dùng dòng phát lớn hơn và thời gian đo dài hơn. Trong Đo điện phân cực kích thích hố khoan (Induced polarization log) thì hệ điện cực bố trí cố định trong đầu thu ở hố khoan. Kết quả thu được là phản ánh thông tin độ nạp (Chargeability) của đất đá trong các đới hình trụ quanh hố khoan, được dùng cho đánh giá bản chất và mức độ triển vọng của đối tượng tìm kiếm các tầng đất đá quan tâm. Nó được ứng dụng cho hố khoan không quá sâu. Tìm kiếm khoáng sản có tính ôxy hóa cao như pyrit, graphit, galena, bornit, magnetit, đồng chì kẽm,… trong đó dị thường mạnh là dấu hiệu tốt. Tìm kiếm nước ngầm, khảo sát địa chất thủy văn, địa chất công trình, trong đó dị thường mạnh là dấu hiệu chứa sét và không có khả năng chứa nước. Ví dụ đầu đo QL40-IP Induced Polarization. Đầu này đo đồng thời điện trở suất theo phân bố cực 8-16-32-64”, độ nạp tại cực 16” và 64” với 10 cửa sổ, điện trường thiên nhiên (SP) và trở tiếp địa (SPR) tại cực phát A. Trước đây tài liệu đo PCKT được phân tích định tính là chính. Dựa trên đường cong độ phân cực ηK xác định ra vị trí đới chứa quặng. Khoảng cách từ cực phát đến lưỡng cực thu, tức kích thước thiết bị, cho ra độ sâu áng chừng mà độ phân cực phản ánh. Việc gắn độ lớn của độ phân cực với hàm lượng quặng gây phân cực được ước lượng theo kinh nghiệm trong đối chiếu với các đoạn có thông tin về vỉa quặng, ví dụ tài liệu khoan hay hố đào. Ngày nay, đo PCKT thực hiện đồng thời với đo điện trở suất, nên chúng được phân tích cùng nhau, ví dụ bằng phần mềm IX1D của hãng Interpex (Mỹ) Các phần mềm như vậy có yêu cầu chỉ định kiểu tài liệu là đo điện trở suất (DC Resistivity) hay đo điện trở suất cùng PCKT (DC Resistivity/IP). Thực ra, không có phân tích PCKT chính thức, mà là xác định độ phân cực dựa theo phân tích lớp của đo điện trở suất.
|
Thăm dò điện phân cực kích thích
|
Thăm dò Điện Phân cực kích thích, viết tắt là PKKT, (tiếng Anh: Induced Polarization, IP) hay Phân cực cảm ứng là một phương pháp của địa vật lý thăm dò, trong đó bố trí hệ điện cực đo như trong thăm dò điện trở, nhưng phát dòng điện vào đất đá và đo hiệu điện thế theo cách thức thích hợp, để thu được thông tin về phân bố độ nạp (Chargeability) hay độ phân cực của môi trường đất đá. Đo trong miền thời gian (Time Domain IP): Phát dòng một chiều và đo suy giảm hiệu điện thế trên đôi cực thu sau khi cắt dòng phát. Đo trong miền tần số (Frequency Domain IP): Phát dòng dạng sin, đo giá trị và độ lệch pha của hiệu điện thế trên đôi cực thu. Thông thường thì đo với dãy tần số có chủ đích. Nếu quét phổ tần từ cỡ 0,01 đến 10000 Hz thì gọi là Đo phổ phân cực cảm ứng (Spectral Induced Polarisation, SIP).Trong thạch quyển chỉ một số đất đá hay khoáng vật quặng có khả năng nạp điện. Đo được độ nạp sẽ xác định sự có mặt và phân bố của chúng trong tầng đất đá.
|
Khái niệm thất nghiệp là gì tại mỗi quốc gia là khác nhau, tuy nhiên các hệ lụy của nó đều là vấn đề nhức nhối tại mỗi quốc gia, đặc biệt tại các quốc gia có tỉ lệ thất nghiệp cao là độ tuổi lực lượng lao động chính. Khái niệm thất nghiệp được bàn đến trên thế giới trong suốt thế kỷ XX. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO):” thất nghiệp là việc ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được một việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”. Và ba mươi năm sauILO lại đưa ra khái niệm về”người thất nghiệp” và khái niệm này đón nhận rộng rãi ở cộng đồng quốc tế:”Người thất nghiệp bao gồm toàn bộ số người ở độ tuổi làm việc theo quy định trong thời gian điều tra, có khả năng làm việc, nhưng không có việc làm và vẫn đang đi tìm kiếm việc làm”. Từ hai khái niệm trên về khái niệm thất nghiệp và người thất nghiệp của ILO.chúng ta thấy rõ bố tiêu chí cơ bản để xác định được “người thất nghiệp” đó là:. Đây là các tiêu chí chung, mang tính khái quát cao, đã được nhiều chính phủ tán thành ủng hộ và lấy làm cơ sở để vận dụng xem xét khái niệm “người thất nghiệp” và tính tỉ lệ thất nghiệp tại quốc gia của mình. Ở Trung Quốc, người thất nghiệp được coi là “người trong độ tuổi lao động, có sức lao động, mong muốn tìm việc nhưng không có việc”. Người lao động có thể đi làm nhưng hết hạn hợp đồng hoặc bị tạm ngừng hợp đồng, đang không có việc làm và đang tìm việc làm. Người lao động có thể đi làm trong một thời gian xác định và đang tìm việc làm có lương mà trước đó chưa hề có việc làm, hoặc vị trishanhf nghề cuối cùng trước đó không phải là người làm công ăn lương (ví dụ người sử dụng lao động chẳng hạn) hoặc đã thôi việc. Người không có việc làm, có thể đi lmaf ngay và đã có sự chuẩn bị cuối cùng để làm một công việc mới vào một ngày nhất định sau một thời kỳ đã được xác định. Các định nghĩa tuy có khác nhau về mức độ, giới hạn (tuổi, thời gian mất việc) nhưng đều thống nhất người thất nghiệp ít nhất cần phải có 3 đặc trưng sau: Có khả năng lao động; đang không có việc làm; đang đi tìm việc. Ở Việt Nam chúng ta, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Bộ Lao Động – Thương Binh và xã hội đã có các nghị định, thông tư hướng dẫn việc thực hiện triệt để một số điều của Luật bảo hiểm xã hội liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ tháng 01/01/2009. Tỷ lệ thất nghiệp cao gây tổn hại cho nền kinh tế, khi tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp và nguồn lực về con người không được sử dụng. Đặc biệt, thất nghiệp ở thanh niên gia tăng có nghĩa là một lực lượng lao động xã hội tiềm năng nhất không được huy động vào hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế đi lên. Đây chính là sự lãng phí lao động xã hội ghê gớm, trong khi ngân sách nhà nước nói chung và nguồn tài chính của các gia đình nói riêng còn đang rất eo hẹp. Từ tính toán thực tế của các chuyên gia xã hội học cho thấy, ngay cả khi xem xét các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, chỉ cần mỗi doanh nghiệp có từ 5-10 lao động, khi vài trăm ngàn doanh nghiệp đóng cửa như ở nước ta, thì số người mất việc làm có thể lên đến cả triệu người. Nếu thu nhập bình quân tại các doanh nghiệp ở mức 3 triệu đồng/ người/ tháng thì số thu nhập của người lao động mất đi của 01 triệu lao động sẽ là 3.000 tỉ đồng/ tháng. Đặc biệt thanh niên là nhóm dân số đóng vai trò quan trọng xét về góc độ kinh tế: Họ vừa là động lực cho sản xuất, vừa là động lực cho tiêu dùng. Điều đó có nghĩa là thất nghiệp ở thanh niên sẽ gắn liền với khủng hoảng ở cả hai chiều sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế. Thanh niên luôn có nhu cầu tiêu dùng cao trong khi không có việc làm, tức là không có nguồn thu nhập ắt sẽ dẫn đến những căng thẳng trong cuộc sống. Thanh niên là những người năng động, luôn tìm tòi và luôn có khát vọng được thể hiện và cống hiến, nếu bị “khống chế” bởi những chính sách việc làm chưa phù hợp thì có thể gây ra xung đột xã hội. Thất nghiệp gây ra hậu quả cho chính cá nhân bên cạnh hệ lụy cho xã hội. Về mặt cá nhân, thất nghiệp gây ra nhiều thiệt thòi cho chính cá nhân đó, thanh niên sẽ giảm nguồn thu cho cá nhân, cho gia đình, và cho xã hội. Khi nguồn thu nhập của gia đình bị giảm sút sẽ gây ra các hậu quả nặng nề về kinh tế, xã hội. Các nguồn thu nhập để chi trả cho học hành của con cái sẽ bị ảnh hưởng. Nếu tình trạng này kéo dài, con cái sẽ không được học hành đầy đủ, thất học, lêu lổng, chơi bời… tiếp tục gây nên những hệ lụy cho xã hội. Thất nghiệp cũng dễ dẫn đến vợ chồng xô xát, cãi cọ, gia đình mất hòa khí. Đàn ông thiếu thốn về kinh tế dẫn đến thiếu tự tin, dễ nổi cáu và dễ sinh ra nạn bạo hành. Còn với phụ nữ thì thất nghiệp ngoài gánh nặng về kinh tế gia đình, con cái còn có thể có xu hướng làm những công việc vi phạm pháp luật, trái đạo đức để mưu sinh. Thanh niên thất nghiệp kéo dài, thất nghiệp triền miên ngoiaf việc không tích lũy được tài chính, sẽ không tích lũy được cho chính bản thân mình về trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm để trở nên thành thục một nghề nào đó, nuôi sống bản thân. Nếu các bạn trẻ tiếp tục không có công ăn việc làm thì cơ hội để trau dồi những kiến thức mình đã học được ngày càng ít đi và mai một. Các bạn sẽ tự đẩy mình vào tình trạng lạc hậu, lỗi thời do không bắt nhịp với thời cuộc, đặc biệt ở thời kỳ công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay. Khi khả năng và trình độ mai một theo thời gian, kỹ năng, kinh nghiệm lại yêu thì khả năng tái tham gia lực lượng lao động là rất khó. Khi thanh niên phải chịu đựng thời gian thất nghiệp kéo dài như vậy hoặc phải rời thị trường lao động ở giai đoạn đầu sự nghiệp, cả tương lai lâu dài của họ cũng bị ảnh hưởng. Điều đó làm xói mòn những kỹ năng nghề nghiệp và xã hội của họ, và họ không có cơ hội tiếp nhận những kinh nghiệm làm việc thực tế. Thất nghiệp, thanh niên sẽ mất niềm tin vào chính mình. Khi mất niềm tin vào chính mình sẽ sinh ra nhiều vấn đề về tâm lý. Với tấm bằng đỏ đại học, thạc sỹ ngày nay vẫn thất nghiệp, các bạn trẻ mất đi niềm tin vào bằng cấp của mình và đã có thanh niên bỏ bằng cấp đó để đi học nghề để làm những công việc thấp hơn. Việc chuyển đổi công việc như vậy là sự lãng phí về thời gian, tiền của của gia đình, xã hội và bản thân thanh niên đó. Bên cạnh đó, một thực trạng khác hiện nay là nhiều bạn trẻ quá ảo tưởng vào tấm bằng đại học của mình, đặc biệt là tình trạng bằng khá, bằng giỏi hiện nay quá phổ biến mà năng lực của người sở hữu tấm bằng này thực sự không tương xứng với nó. Vì quá ảo tưởng như vậy nên các bạn luôn luôn kén chọn công việc nhàn hạ, lương cao, ngồi văn phòng điều hòa mát lạnh mà quên đi năng lực thực sự của mình. Điều quan trọng hơn cả với sinh viên mới ra trường là cơ hội được làm việc, được học hỏi và được trải nghiệm. Chính sự ảo tưởng này cũng góp phần làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp hàng năm và chưa có dấu hiệu suy giảm. Tôi là Nguyễn Văn Thịnh người sáng lập ra thương hiệu ISAAC và ISAAC GROUP là đội ngũ đầu tiên đưa nền tảng giáo dục kinh doanh siêu thị, với những khóa học quản lý siêu thị và cung cấp dịch vụ setup siêu thị mini đầu tiên tại Việt Nam. Với nhiều năm kinh nghiệm cung cấp dịch vụ cho khách hàng ISAAC tự tin đáp ứng được mọi yêu cầu của bạn. Phương châm làm việc của chúng tôi là: “cung cấp khoá học và dịch vụ tốt nhất cho bất kỳ ai”. Nằm trong gói dịch vụ setup siêu thị trọn gói cho khách hàng tại Hà Giang. Chuyên gia Nguyễn Văn Thịnh đã triển khai khóa đào tạo kinh doanh siêu thị tại Hà Giang cho siêu thị Tuấn Sơn mart. Isaac tổ chức khóa học đào tạo kinh doanh siêu thị 1000m2 cho nhóm đối tượng học viên tại Thanh Hóa. Để giúp cho học viên có thể quản lý siêu thị quy mô lớn một cách đơn giản và. Trong 3 ngày 01, 02, 03/03/ 2019 Học Viện đào tạo ISaac Education đã tổ chức khóa học đào tạo setup và kinh doanh siêu thị mini cho nhiều học viên. Đây là khóa học đào tạo kinh doanh siêu. Trong gói dịch vụ setup siêu thị mini, mô hình dạng Shop cho cửa hàng tại Thành Phố Thanh Hóa, ISaac Education triển khai đào tạo kiến thức kinh doanh, kỹ năng bán hàng cho đối tác khách hàng. Tôn sư trọng đạo từ lâu đã là một trong những truyền thống tốt đẹp của Việt Nam. Vào các dịp lễ Tết, những người học trò sẽ đến thăm và tặng cho thầy cô những món quà ý nghĩa. Với sự phát triển của công nghệ, việc đưa ra chiến lược bán hàng trong kinh doanh nhờ các mô hình, kỹ thuật qua việc nghiên cứu, phân tích dữ liệu. Phân tích giỏ hàng là một kỹ thuật quan. Internet vẫn đang trên đà xâm chiếm cả thế giới. Với tốc độ phát triển Internet như vũ bão hiện nay, con người cũng không ngừng thay đổi để tận dụng hết những lợi ích mà mạng xã hội mang. “AOP” là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Góp phần mang lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất và duy trì được sự phát triển của doanh nghiệp đó. Ví ngân lượng là một cổng thanh toán trực tuyến có 3 nhiệm vụ chính. Đó là chuyển tiền, nhận tiền và thanh toán hóa đơn online. Trong bối cảnh của thời đại Social Media, phương thức mua sắm và. Quảng cáo ngoài trời hiện nay là cách tiếp cận với khách hàng được rất nhiều nhãn hàng, công ty lựa chọn. Loại hình này là một trong những kênh truyền thông có mặt sớm nhất tại Việt Nam. Mô hình C2C là 1 loại mô hình giao dịch, buôn bán rất phổ biến trên toàn thế giới. Và nếu bạn chưa biết về mô hình C2C thì hãy cùng mình tìm hiểu về mô hình C2C, đặc điểm,. USP là một yếu tố không thể thiếu để doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các đối thủ khác và chiếm lĩnh được thị trường. Vậy câu hỏi USP là gì? Là người làm Marketing hay người quản trị. PO hay Purchase Order là một khái niệm không hề xa lạ đối với các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại. Vậy thực tế PO là gì và nó có ý nghĩa như thế. Bảo hiểm hàng hóa là một trong những loại bảo hiểm phổ biến và vô cùng cần thiết trong ngành vận chuyển, vận tải của nước ta . Bởi trong quá trình vận chuyển, có thể có rất nhiều rủi. Việc đối soát vận chuyển là vấn đề quan trọng với các chủ cửa hàng kinh doanh online. Để có thể đảm bảo là hàng hoá đã được xác nhận giao hàng thành công. Và sau đó thu tiền hàng. Khi chúng ta đi mua sắm các sản phẩm từ siêu thị hay tiệm tạp hóa, ta thường nhìn thấy biểu tượng những dòng kẻ màu đen được xếp song song với nhau; ở phía dưới có một dãy số. Doanh số là những yếu tố quan trọng của việc kinh doanh. Bởi nó không chỉ phản ánh thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp; mà còn định hướng cho việc kinh doanh trong tương lai của khách hàng. Tìm được nguồn hàng quần áo trẻ em là một trong những câu hởi được các chủ kinh doanh đặt ra. Đây là yếu tố đầu tiên quyết định đến sự thành công của hoạt động kinh doanh thời trang. Bạn tốt nghiệp ngành quản trị kinh doanh và bạn vẫn đang tìm kiếm một công việc? Một vị trí công việc phù hợp với tấm bằng giá trị ấy? Và vị trí cửa hàng trưởng của một cửa hàng. Quần áo trẻ em luôn là một trong những mặt hàng bán chạy và thu hút nhiều nhà kinh doanh. Bởi với số vốn không cần quá lớn cộng với việc tìm nguồn hàng khá dễ; giúp cho việc kinh. Nhắc đến nước giặt Surf, người dùng chắc chắn sẽ nhớ ngay đến hương thơm của dòng nước giặt này. Surf đã không còn xa lạ với mọi người. Bởi nước giặt Surf có mùi hương dễ chịu nhưng đem. Xúc xích ăn liền từ lâu đã là món ăn quen thuộc với người dân Việt Nam , được yêu thích và sử dụng hàng ngày. Bởi xúc xích ăn liền đem lại sự tiện lợi cho người sử dụng.
|
Thất nghiệp
|
Thất nghiệp trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm hoặc không được tổ chức, công ty và cộng đồng nhận vào làm. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội. Thất nghiệp có mối liên hệ với lạm phát được biểu hiện bằng đường cong Phillips. Lịch sử của tình trạng thất nghiệp chính là lịch sử của công cuộc công nghiệp hóa. Ở nông thôn, mặc dù có tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp một phần, làm việc ít thời gian ở nông thôn, nhưng thất nghiệp không bị coi là vấn đề nghiêm trọng.
|
Bài viết được tham vấn chuyên môn với Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Hoàng Đăng Mịch - Trưởng khoa Khám bệnh & Nội khoa - Khoa khám bệnh và Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long. Để giảm bớt những triệu chứng như rối loạn giấc ngủ, nóng nảy, loãng xương. ở tuổi mãn kinh, nhiều phụ nữ lựa chọn sử dụng liệu pháp thay thế hormone như một phương pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề. Việc cân nhắc lợi - hại của liệu pháp thay thế hormone là rất quan trọng, giúp chúng ta đưa ra những quyết định đúng đắn trong quá trình điều trị. Liệu pháp thay thế hormone (HRT) hay còn gọi là liệu pháp hormone mãn kinh (MHT), là một liệu pháp hormone được sử dụng để điều trị các triệu chứng xảy ra ở phụ nữ thời kỳ mãn kinh bao gồm: teo và khô âm đạo, trào huyết, loãng xương, rối loạn giấc ngủ. Một số loại thuốc hormone thay thế để điều trị các triệu chứng mãn kinh là estrogen và progestogen. Năm 2002, nghiên cứu của Tổ chức Hành động vì sức khỏe phụ nữ (The Womens Health Initiative) của Viện Sức khỏe quốc gia Mỹ (National Institute of Health) đã cho ra kết quả khác nhau về tất cả những nguyên nhân gây tử vong liên kết với liệu pháp thay thế hormon, ở những bệnh nhân lớn tuổi, tỷ lệ mắc ung thư vú, đột quỵ và đau tim gia tăng, tỷ lệ mắc bệnh ung thư đại trực tràng và gãy xương giảm. Trong một nghiên cứu khác tại Anh, kết quả cho thấy, số lượng phụ nữ dùng liệu pháp thay thế hormone giảm mạnh và khuyến cáo rằng phụ nữ điều trị mãn kinh không xâm lấn nên dùng liều hormone thay thế sau mãn kinh nhất trong thời gian ngắn nhất để giúp giảm thiểu những nguy cơ liên quan. Trên thực thế, liệu pháp thay thế hormone không thể cung cấp và đáp ứng đầy đủ lượng estrogen cho những người phụ nữ như khi chưa mãn kinh vì nó chỉ đưa một lượng nhỏ estrogen vào cơ thể. Lợi ích của liệu pháp hormone thay thế sau mãn kinh chính là bổ sung estrogen để làm giảm các triệu chứng vận mạch của cơ thể, đẩy lùi lão hóa da và giảm thiểu các triệu chứng teo khô ở sinh dục của phụ nữ, đồng thời mang lại lợi ích cho hệ thống xương, hạn chế và giảm tỷ lệ gãy xương hiệu quả. Ngoài ra, sự bổ sung estrogen kịp thời cũng rất có lợi đến hệ tim mạch và tình trạng xơ vữa mạch máu, làm tăng ham muốn tình dục, tăng trí nhớ, tăng tưới máu não và giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. cho phụ nữ thời kỳ mãn kinh. Những lợi ích từ việc sử dụng thuốc hormone thay thế là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chỉ vì mong muốn níu kéo tuổi thanh xuân mà một số bộ phận chị em phụ nữ lạm dụng loại hormone thay thế này trong nhiều năm liền với những mục đích như để cải thiện khả năng sinh dục, ham muốn tình dục, trị bệnh trầm cảm hay bệnh Alzheimer và phòng ngừa một số bệnh mạn tính. Tuy nhiên, đây là việc làm hoàn toàn sai lầm, lợi bất cập hại. Phụ nữ khi bước vào độ tuổi mãn kinh thì rất dễ mắc phải các bệnh lý tim mạch hay huyết áp. Chính vì thế, việc sử dụng liệu pháp thay thế hormone quá mức khiến cơ thể bổ sung quá nhiều estrogen sẽ làm giảm cholesterol nhưng lại tăng triglyceride và tăng đông máu. Do đó, những trường hợp đang mắc bệnh lý tim mạch hay tăng cân, tăng huyết áp thì nên tránh sử dụng liệu pháp này. Ngoài ra, khi sử dụng thuốc hormone thay thế không đúng chỉ định từ bác sĩ, theo dõi không tốt và sử dụng kéo dài sẽ gây ra những tác hại như làm quá sản nội mạc tử cung, tăng nguy cơ ung thư nội tử cung và các bệnh ở vú, tăng huyết áp và tăng các bệnh huyết khối. Tác hại của thuốc hormone thay thế gây ra cho cơ thể sẽ càng nặng nề hơn trong các trường hợp gia đình có người bị ung thư vú hoặc ung thư cổ tử cung, những người bị ra huyết âm đạo không rõ nguyên nhân, có khối u ở cổ tử cung, buồng trứng hoặc mắc các bệnh về gan mật, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, tăng huyết áp, tiểu đường, bệnh lupus ban đỏ. và đặc biệt là phụ nữ đang mang thai. Ngoài việc sử dụng hormone thay thế sau mãn kinh đúng theo chỉ dẫn từ bác sĩ thì chị em cần lựa chọn thuốc cho phù hợp bởi trên thị trường hiện nay có rất nhiều các dạng thuốc chứa estrogen. Mỗi cơ thể sẽ có một liều đáp ứng với estrogen riêng, vì thế hãy sử dụng dưới sự tư vấn của bác sĩ chuyên khoa và đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng. Các trường hợp bổ sung thuốc hormone thay thế cần tuân thủ nghiêm ngặt đơn điều trị của bác sĩ và theo dõi thường xuyên, tuyệt đối không dùng chung đơn thuốc hormone thay thế với người khác để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Trước khi sử dụng liệu pháp Hormone thay thế cần khám sức khỏe tổng quát, xét nghiệm nội tiết tố nữ, xét nghiệm Marker ung thư vú, buồng trứng, cổ tử cung. Tiến sĩ Hoàng Đăng Mịch có trên 42 năm làm nghề y, có thế mạnh trong các lĩnh vực chuyên khoa về Gan - Thận - Bệnh lý miễn dịch. Hiện tại, bác sĩ đang là Cố vấn chuyên môn Nội tổng quát khoa Khám bệnh & Nội khoa, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long. Nếu gần đây bạn được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt, bạn có thể có rất nhiều câu hỏi. Triển vọng nói chuyện với bác sĩ của bạn về các lựa chọn điều trị có vẻ quá . Jevantique Lo là thuốc kết hợp giữa hormone estrogen và progestin, có tác dụng giúp giảm các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh ở phụ nữ như khô âm đạo, bốc hỏa.Ngoài ra, Jevantique cũng có thể được sử . Giai đoạn hoặc mức độ tiến triển của bệnh ung thư vú được xem là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc quyết định về các phương án điều trị cho người bệnh. Nói chung, ung thư vú càng . Các Gene kiểm soát hệ thống miễn dịch của cơ thể do đó đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát sự phát triển của các tế bào khối u đặc. Biến đổi tại các Gene này có .
|
Liệu pháp hormone thay thế
|
Liệu pháp hormone thay thế (HRT), còn được biết đến là liệu pháp hormon mãn kinh (MHT) hoặc liệu pháp hormon sau mãn kinh (PHT, PMHT), là một liệu pháp hormon được sử dụng để điều trị các triệu chứng xảy ra trong thời kỳ mãn kinh ở phụ nữ. Những triệu chứng này bao gồm trào huyết, teo và khô âm đạo, và mất xương, những triệu chứng khác, và gây ra do giảm nồng độ nội tiết tố sinh dục trong thời kỳ mãn kinh. Các loại thuốc nội tiết tố chính được sử dụng trong HRT điều trị các triệu chứng mãn kinh là estrogen và progestogen. Progestogen thường được sử dụng phối hợp với estrogen ở phụ nữ có tử cung còn nguyên bởi vì liệu pháp estrogen đơn độc (không có progesterone) có mối liên kết đến tăng sản nội mạc tử cung, ung thư và progestogens giúp ngăn ngừa những nguy cơ này. Androgens, như testosterone, đôi khi cũng được sử dụng trong HRT. Các loại thuốc HRT hiện có sẵn bằng nhiều con đường khác nhau và cũng như được sử dụng bởi nhiều tuyến quản lý khác nhau. Tổ chức Hành động vì sức khỏe phụ nữ (The Women s Health Initiative), của Viện Sức khỏe quốc gia Mỹ (National Institute of Health) năm 2002 đã cho ra kết quả khác nhau về tất cả những nguyên nhân gây tử vong liên kết với HRT, cho thấy thấp hơn khi HRT bắt đầu sớm hơn, từ 50 đến 59 tuổi, cao hơn sau tuổi 60.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.