source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Thời đại Hy Lạp cổ đại là thời kỳ mà ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp lan rộng khắp thế giới Địa Trung Hải. Kỷ nguyên thứ ba của lịch sử Hy Lạp cổ đại là Thời đại Hy Lạp hóa khi ngôn ngữ và văn hóa Hy Lạp lan rộng khắp thế giới Địa Trung Hải. Thông thường, các nhà sử học bắt đầu Thời đại Hy Lạp hóa với cái chết của Alexander , đế chế lan rộng từ Ấn Độ sang Châu Phi, vào năm 323 trước Công nguyên. Các khu định cư Hy Lạp hóa có thể được chia thành năm khu vực, theo và trích dẫn từ "Các khu định cư Hy Lạp hóa ở phía Đông từ Armenia và Lưỡng Hà đến Bactria và Ấn Độ," của Getzel M. Cohen:. Một loạt các cuộc chiến tranh đánh dấu thời kỳ ngay sau cái chết của Alexander vào năm 323 trước Công nguyên, bao gồm Chiến tranh Lamian và Chiến tranh Diadochi lần thứ nhất và thứ hai, trong đó những người theo dõi Alexander kiện đòi ngai vàng của ông. Tuy nhiên, thời kỳ đầu của thời kỳ Hy Lạp hóa cũng chứng kiến những thành tựu lâu dài trong nghệ thuật và học tập. Các nhà triết học Xeno và Epicurus đã thành lập các trường phái triết học của họ, và chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa Epicure vẫn còn tồn tại với chúng ta ngày nay. Tại Athens, nhà toán học Euclid bắt đầu đi học và trở thành người sáng lập ra hình học hiện đại. Đế chế giàu có nhờ những người Ba Tư bị chinh phục. Với sự giàu có này, việc xây dựng và các chương trình văn hóa khác đã được thành lập ở mỗi vùng. Nổi tiếng nhất trong số này chắc chắn là Thư viện Alexandria, do Ptolemy I Soter thành lập ở Ai Cập, có nhiệm vụ chứa đựng tất cả kiến thức của thế giới. Thư viện phát triển mạnh mẽ dưới triều đại Ptolemaic và chịu đựng một số thảm họa cho đến khi cuối cùng bị phá hủy vào thế kỷ thứ hai sau Công nguyên. Một nỗ lực xây dựng chiến thắng khác là Colossus of Rhodes, một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại. Bức tượng cao 98 foot kỷ niệm chiến thắng của đảo Rhodes trước sự săn mồi của Antigonus I Monopthalmus. Nhưng xung đột giữa các giai đoạn vẫn tiếp tục, đặc biệt là thông qua Chiến tranh Pyrrhic giữa La Mã và Epirus, cuộc xâm lược Thrace của các dân tộc Celt, và buổi bình minh của sự nổi tiếng của La Mã trong khu vực. Sự kết thúc của Thời đại Hy Lạp hóa được đánh dấu bởi xung đột lớn hơn, khi các trận chiến diễn ra giữa những người Seleukos và giữa những người Macedonia. Sự yếu kém về chính trị của đế chế khiến nó trở thành mục tiêu dễ dàng trong quá trình đi lên của Rome với tư cách là một cường quốc trong khu vực; đến năm 149 trước Công nguyên, bản thân Hy Lạp là một tỉnh của Đế chế La Mã. Điều này được tiếp nối trong một thời gian ngắn là việc La Mã hấp thụ Corinth và Macedonia. Đến năm 31 TCN, với chiến thắng tại Actium và sự sụp đổ của Ai Cập, toàn bộ đế chế của Alexander nằm trong tay người La Mã. Trong khi văn hóa của Hy Lạp cổ đại được phổ biến Đông và Tây, người Hy Lạp đã tiếp nhận các yếu tố của văn hóa và tôn giáo phương Đông, đặc biệt là Zoroastrianism và Mithraism. Tiếng Hy Lạp gác mái đã trở thành ngôn ngữ chung. Những phát kiến khoa học ấn tượng đã được thực hiện ở Alexandria, nơi Eratosthenes của Hy Lạp tính chu vi trái đất, Archimedes tính số pi, và Euclid biên soạn văn bản hình học của ông. Về triết học, Zeno và Epicurus đã sáng lập ra các triết lý đạo đức của Chủ nghĩa Khắc kỷ và Chủ nghĩa Sử thi. Trong văn học, New Comedy đã phát triển, cũng như thể loại thơ bình dị mục vụ gắn liền với Theocritus, và tiểu sử cá nhân, đi kèm với một phong trào điêu khắc để thể hiện con người như họ chứ không phải là lý tưởng, mặc dù có những ngoại lệ trong điêu khắc Hy Lạp - đáng chú ý nhất là những mô tả ghê tởm về Socrates, mặc dù thậm chí chúng có thể đã được lý tưởng hóa, nếu tiêu cực. Cả Michael Grant và Moses Hadas đều thảo luận về những thay đổi nghệ thuật / tiểu sử này. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Thời kỳ Hy Lạp hóa
Thời kỳ Hy Lạp hóa (từ Ελληνισμός hellēnismós trong tiếng Hy Lạp) là một giai đoạn trong lịch sử Hy Lạp cổ đại và lịch sử Địa Trung Hải sau cái chết của Alexandros Đại đế vào năm 323 TCN và sự xuất hiện của đế quốc La Mã, được báo hiệu bằng trận Actium năm 31 TCN và cuộc chinh phục nhà Ptolemaios Ai Cập năm 30 TCN ngay sau đó. Tại thời điểm này, ảnh hưởng văn hóa và bá quyền Hy Lạp (Hy Lạp hóa) đang ở đỉnh cao của nó tại châu Âu, châu Phi và châu Á, trải qua sự thịnh vượng và tiến bộ trong nghệ thuật, khám phá, văn học, ca kịch, kiến trúc, âm nhạc, toán học, triết học, và khoa học. Nó thường được coi là một thời kỳ chuyển tiếp, đôi khi còn thoái hóa so với sự rực rỡ của thời Hy Lạp kinh điển.
Lãi suất cơ sở là gì? Có gì đặc biệt? Đây là câu hỏi được nhiều cá nhân lẫn tổ chức quan tâm. Đặc biệt với những ai đang có nhu cầu vay vốn cho các mục đích khác nhau. Khi nắm vững các thông tin liên quan đến vấn đề này, bạn sẽ giảm thiểu được rủi ro trong quá trình đi vay. Đồng thời, đảm bảo quyền lợi của bản thân được tối ưu nhất. Cùng điểm qua các thông tin sau để biết thêm về chỉ số lãi suất này. Cùng với đó là đánh giá tác động của chúng đối với lãi suất thực tế trong quá trình đi vay nhé. 3 Tác động của lãi suất cơ sở là gì trong cơ chế vay vốn hiện nay tại ngân hàng?3.1 Tác động của lãi suất cơ bản với khách hàng (bao gồm cả khách hàng cá nhân lẫn các doanh nghiệp)3.2 Mức lãi suất cơ sở trong tương quan với chính ngân hàng. 3.1 Tác động của lãi suất cơ bản với khách hàng (bao gồm cả khách hàng cá nhân lẫn các doanh nghiệp). 5 Làm thế nào để tham khảo, chọn ngân hàng cho vay với lãi suất tốt?5.0.0.1 Ngoài ra, đừng quên tham khảo kỹ. Lựa chọn thời gian cho vay tương ứng. Điều này phụ thuộc vào khả năng chi trả cua mỗi người. Hãy chọn thời gian vay phù hợp để tránh phát sinh rắc rối đi kèm về sau nhé. 5.0.0.1 Ngoài ra, đừng quên tham khảo kỹ. Lựa chọn thời gian cho vay tương ứng. Điều này phụ thuộc vào khả năng chi trả cua mỗi người. Hãy chọn thời gian vay phù hợp để tránh phát sinh rắc rối đi kèm về sau nhé. 👉Thực tế, không ít người hiện nay băn khoăn về vấn đề lãi suất cơ sở là gì. Bởi, trong quá trình đi vay, chỉ số này được đề cập đến khá nhiều. Có thể hiểu đơn giản, đây là chỉ số lãi suất được ứng dụng với mục đích xác định cụ thể mức lãi suất cho vay sau khoảng thời gian thực hiện điều chỉnh. Nói cách khác, để xác định lãi suất thực tế, lãi suất cơ sở sẽ là tiền đề. 👉Như đã đề cập ở trên, lãi suất cơ sở sẽ được dùng để xác định mức lãi suất thực cho vay sau mỗi kì được tiến hành điều chỉnh. 👉Có thể nói, mức lãi suất vay thị trường sẽ bị tác động bởi mức lãi suất cơ ở những mức độ nhất định. Việc ảnh hưởng nhiều hay ít sẽ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. 👉Trên cơ sở lãi suất này, các khách hàng sẽ đánh giá. Từ đó, lựa chọn ngân hàng mang đến tối đa lợi ích cho bản thân. Nhìn chung, mức lãi suất cho vay cầm cố sổ tiết kiệm càng tốt sẽ càng thu hút. Đồng thời, giữ chân các đối tượng khách hàng này hiệu quả hơn. Đặc biệt, với khách hàng là doanh nghiệp, lãi suất cơ sở dao động hợp lý sẽ tạo nên mối quan hệ cộng sinh. Đem lại sự gắn bó lâu dài cho cả đôi bên. 👉Có thể nói, hiện nay, các ngân hàng đều đưa ra mức lãi suất cơ sở phù hợp. Hướng đến việc mang đến sự hài lòng cho chính khách hàng của mình. 👉Theo đó, khi đưa ra mức lãi suất cơ sở này, các ngân hàng đều sẽ thu thập những thông tin từ đơn vị khác. Trên cơ sở đó, đánh giá kế hoạch tổng quan. Kế đến, đưa ra mức lãi suất phù hợp cho hệ thống ngân hàng của mình. ✨Chiến lược đưa ra mức lãi suất cơ sở được đặt trong tương quan vừa phải tạo sức hút cho các đối tượng khách hàng tiềm năng. Đồng thời, vẫn giữ chân được khách hàng cũ của ngân hàng. ✨Mức lãi suất cơ sở được các ngân hàng đưa ra thực tế sẽ có sự thay đổi dựa trên biến động chung của nền kinh tế thị trường. Qua đó, đưa ra chỉ số đảm bảo tính phù hợp cao nhất. Có thể nói, hiện nay, các ngân hàng đều đưa ra mức lãi suất cơ sở phù hợp. Hướng đến việc mang đến sự hài lòng cho chính khách hàng của mình. ✨Thực tế, trước đây, các việc cân đối lãi suất phụ thuộc khá nhiều vào mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố. Hiểu một cách đơn giản, mức lãi suất này sẽ làm cơ sở. Giúp các tổ chức tín dụng, ngân hàng điều chỉnh và ấn định mức lãi suất kinh doanh. ✨Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, mức lãi suất cơ bản này hầu như không còn mang nhiều ý nghĩa nữa. Nói cách khác, chỉ số này chỉ còn được sử dụng nhiều trong phạm vi hoạt động tín dụng giữa ngân hàng nhà nước với các tổ chức tín dụng khác là chủ yếu. ✨Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản ở thời điểm hiện tại có thể căn cứ cụ thể theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành này, lãi suất vay được điều chỉnh linh hoạt. Căn cứ trên sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, mức lãi suất phải nằm trong giới hạn khuôn khổ pháp luật. Cụ thể, lãi suất thảo thuận cần đảm bảo không vượt quá mức 20%/ năm. Tính trên mức tiền vay ban đầu. Sau khi hiểu được lãi suất cơ sở là gì thì bạn có thể tham khảo chỉ số này từ các ngân hàng khác nhau. Đồng thời, chọn đơn vị cho vay tối ưu hóa lợi ích nhất. Ngoài ra, đừng quên tham khảo kỹ. Lựa chọn thời gian cho vay tương ứng. Điều này phụ thuộc vào khả năng chi trả cua mỗi người. Hãy chọn thời gian vay phù hợp để tránh phát sinh rắc rối đi kèm về sau nhé. 👉Có thể nói, mức lãi suất vay thị trường sẽ bị tác động bởi mức lãi suất cơ ở những mức độ nhất định. Việc ảnh hưởng nhiều hay ít sẽ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. 👉Trên cơ sở lãi suất này, các khách hàng sẽ đánh giá. Từ đó, lựa chọn ngân hàng mang đến tối đa lợi ích cho bản thân. Nhìn chung, mức lãi suất cho vay cầm cố sổ tiết kiệm càng tốt sẽ càng thu hút. Đồng thời, giữ chân các đối tượng khách hàng này hiệu quả hơn. Đặc biệt, với khách hàng là doanh nghiệp, lãi suất cơ sở dao động hợp lý sẽ tạo nên mối quan hệ cộng sinh. Đem lại sự gắn bó lâu dài cho cả đôi bên. 👉Có thể nói, hiện nay, các ngân hàng đều đưa ra mức lãi suất cơ sở phù hợp. Hướng đến việc mang đến sự hài lòng cho chính khách hàng của mình. 👉Theo đó, khi đưa ra mức lãi suất cơ sở này, các ngân hàng đều sẽ thu thập những thông tin từ đơn vị khác. Trên cơ sở đó, đánh giá kế hoạch tổng quan. Kế đến, đưa ra mức lãi suất phù hợp cho hệ thống ngân hàng của mình. ✨Chiến lược đưa ra mức lãi suất cơ sở được đặt trong tương quan vừa phải tạo sức hút cho các đối tượng khách hàng tiềm năng. Đồng thời, vẫn giữ chân được khách hàng cũ của ngân hàng. ✨Mức lãi suất cơ sở được các ngân hàng đưa ra thực tế sẽ có sự thay đổi dựa trên biến động chung của nền kinh tế thị trường. Qua đó, đưa ra chỉ số đảm bảo tính phù hợp cao nhất. Có thể nói, hiện nay, các ngân hàng đều đưa ra mức lãi suất cơ sở phù hợp. Hướng đến việc mang đến sự hài lòng cho chính khách hàng của mình. ✨Thực tế, trước đây, các việc cân đối lãi suất phụ thuộc khá nhiều vào mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố. Hiểu một cách đơn giản, mức lãi suất này sẽ làm cơ sở. Giúp các tổ chức tín dụng, ngân hàng điều chỉnh và ấn định mức lãi suất kinh doanh. ✨Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, mức lãi suất cơ bản này hầu như không còn mang nhiều ý nghĩa nữa. Nói cách khác, chỉ số này chỉ còn được sử dụng nhiều trong phạm vi hoạt động tín dụng giữa ngân hàng nhà nước với các tổ chức tín dụng khác là chủ yếu. ✨Việc điều chỉnh lãi suất cơ bản ở thời điểm hiện tại có thể căn cứ cụ thể theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Như vậy, theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành này, lãi suất vay được điều chỉnh linh hoạt. Căn cứ trên sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, mức lãi suất phải nằm trong giới hạn khuôn khổ pháp luật. Cụ thể, lãi suất thảo thuận cần đảm bảo không vượt quá mức 20%/ năm. Tính trên mức tiền vay ban đầu. Sau khi hiểu được lãi suất cơ sở là gì thì bạn có thể tham khảo chỉ số này từ các ngân hàng khác nhau. Đồng thời, chọn đơn vị cho vay tối ưu hóa lợi ích nhất. Đây là chỉ số lãi suất được ứng dụng với mục đích xác định chính xác mức lãi suất cho vay sau khoảng thời gian thực hiện điều chỉnh. Lãi suất cơ sở sẽ được dùng để xác định mức lãi suất thực cho vay sau mỗi kì được tiến hành điều chỉnh. Chiến lược đưa ra mức lãi suất cơ sở được đặt trong tương quan vừa phải tạo sức hút cho các đối tượng khách hàng tiềm năng. Đồng thời, vẫn giữ chân được khách hàng cũ của ngân hàng. Sau khi hiểu được lãi suất cơ sở là gì thì bạn có thể tham khảo chỉ số này từ các ngân hàng khác nhau. Từ đó, có quyết định chọn vay. Đảm bảo mức lãi suất tốt nhất. Là Content Writer của ấn phẩm Mua&Bán. Vốn ưa thích tìm hiểu nhiều vấn đề xoay quanh cuộc sống. Kết nối cùng mình để cùng khám phá nhiều thông tin hữu ích trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống nhé. Mình luôn ở đây, lắng nghe và chia sẻ cùng bạn!
Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao hơn 1.5 lần lãi suất cơ bản. Tuy được nhắc đến trong Luật Ngân hàng Nhà nước và luật này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998, song lãi suất cơ bản chỉ được công bố lần đầu vào ngày 02 tháng 8 năm 2000 theo Quyết định số 242/2000/QĐ-NHNN được áp dụng từ ngày 05/8/2000. Trong lần đầu được công bố, lãi suất cơ bản ở mức 8%/năm.
Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Chức năng của thị trường sơ cấpThị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán, đó là huy động vốn cho đầu tư.Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không thể làm được. Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách thông qua việc phát hành trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu ding bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của mình tốt hơn.Các phương pháp phát hành chứng khoán:Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.1. Phát hành riêng lẻPhát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện (khối lượng phát hành) hạn chế.Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật công ty. Chứng khoán phát hành theo phương thức này không phảI là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán.2. Phát hành ra công chúngPhát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn người đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phải đạt được một mức nhất định.Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng được gọi là các công ty đại chúng.Sự khác nhau giữa phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu ra công chúng:* Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai hình thức sau:- Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.- Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư. * Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng một hình thức duy nhất, đó là chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp).Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán cấp phép. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự giám sát riêng theo qui định của pháp luật chứng khoán.ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán phải tuân theo các qui định tại Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định này qui định việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại thị trường giao dịch tập trung phải được Uỷ ban chứng khoán cấp phép trừ việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Các chứng khoán này sau khi được phát hành ra công chúng sẽ được niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.Mục đích của việc phân biệt hai hình thức phát hành (phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như trên là nhằm có các biện pháp bảo vệ cho công chúng đầu tư, nhất là những nhà đầu tư nhỏ không hiểu biết nhiều về lĩnh vực chứng khoán. Nhằm mục đích này, để được phép phát hành ra công chúng, tổ chức phát hành phải là những công ty làm ăn có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện do cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán (Uỷ ban chứng khoán nhà nước) qui định.
Thị trường sơ cấp
Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trong thị trường sơ cấp, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường chứng khoán sơ cấp là bộ phận cấu thành hữu cơ và không thể tách rời của thị trường chứng khoán. Thị trường sơ cấp là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán mới hay còn được gọi là thị trường phát hành. Hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một kênh huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Ở thị trường sơ cấp, người phát hành nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Qua hoạt động này ở thị trường sơ cấp, các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế, xã hội được chuyển thành vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán. Thị trường sơ cấp là một kênh phân bổ vốn có hiệu quả. Chính vì vậy, thị trường sơ cấp không những đóng vai trò tập hợp các nguồn vốn mà còn là công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.
Ai cũng biết câu cá mè là loại cá khó câu tại hồ dịch vụ, chúng thường ở tầng nước trên ở giữa hồ. Ai cũng biết câu cá chép là loại cá khó câu tại hồ dịch vụ, quá trình chuẩn bị mồi khá là kĩ lưỡng. Phần trước chúng ta đã có những hướng dẫn làm mồi câu cá mè từ mẻ chua và từ khoai lang và bột đậu xanh. Phần này chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu mồi. Cá mè là loài cá rất được lòng các cần thủ vì chúng rất dễ câu. Và loài cá mà nè cũng rất đa dạng, ở Việt Nam có rất nhiều giống cá mè khác nhau như c. Bạn có thể đã tìm hiểu về các loại vật liệu khác nhau được sử dụng để làm dây câu cũng như các loại dây câu được sử dụng trong câu cá. Những người có đam mê câu cá nhằm giải trí sau giờ làm việc học tập. Hãy Like fanpage của chúng tôi để nhận được những bài viết hay và sớm nhất.
Câu cá giải trí
Câu cá giải trí hay câu cá thể thao là loại hình câu cá có sự cạnh tranh hay thi đua với nhau, thường là trong một cuộc thi. Đây là một loại hình câu cá giải trí, nó trái ngược với các hoạt động câu cá ngư hiệp hay bắt cá để cung cấp nguồn thực phẩm. Hoạt động câu cá thể thao nhìn chung có luật lệ, tổ chức nghiêm ngặt, và khi thực hiện câu phải có giấy phép, người tham gia được gọi là cần thủ hay câu thủ. Có khoảng 50 triệu lượt người tham gia câu cá giải trí trên toàn nước Mỹ, con số này còn lớn hơn số người chơi Tennis và Golf ở Mỹ cộng lại. Ở California, Florida và Texas là những bang có số lượng câu thủ nhiều nhất. Câu cá mang đến cho Nước Mỹ trên 100 tỷ đô la mỗi năm. Dù là câu ở ao hồ địa phương, họ đều tìm hiểu rất kỹ về điểm câu, các loại cá sinh sống cùng đặc tính sinh học của chúng, Chiến thuật phù hợp được thiết lập dựa vào những gì đã tìm hiểu. Nếu hồ có cho thuê thuyền, họ sẽ sử dụng dịch vụ này vì câu ở những hồ rộng lớn, ngồi thuyền có lợi thế hơn ở trên bờ rất nhiều.
Hiện nay, chưa quy định của luật nào có đưa ra khái niệm khế ước là gì và thanh lý khế ước. Tuy nhiên, theo một số ghi chép và theo tử điển Việt Nam thì khế ước được hiểu là: Giấy giao kèo về việc mua bán nhà, đất. Khái niệm trong dân luật để chỉ những giao dịch dân sự dựa trên thỏa thuận giữa các bên. Luật Dương Gia căn cứ vào các quy định cụ thể để làm rõ vấn đề đề về khế ước như sau:. Trong Sắc lệnh số 97/ SL của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 22.5.1950 quy định : ‘ khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể bị coi là vô hiệu” ( điều 13). Như vậy, khế ước là giao dịch dân sự được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Nói một cách trực tiếp khế ước là hợp đồng. Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những điều khoản mà thiếu những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Những vấn đề thuộc nội dung chủ yếu của hợp đồng do pháp luật quy định, nếu pháp luật không quy định thì theo thỏa thuận của các bên. Tùy theo loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận những nội dung chủ yếu như: đối tượng của hợp đồng ; số lượng; chất lượng; giá; phương thức thanh toán; thời hạn; địa điểm; quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng…. Hợp đồng được thực hiện trên nguyên tắc trung thực, hợp tác, có lợi nhất cho các bên, đảm bảo sự tin cậy lẫn nhau, không xâm hại lợi ích của quốc gia, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của người khác. Nếu như hành vi pháp lý đơn phương chỉ là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng, ít nhất phải có hai chủ thể thể đứng về phía của hợp đồng. Ngoài ra trong một số trường hợp, việc tham gia quan hệ hợp đồng có thể có sự xuất hiện của bên thứ ba( hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba). Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và sự thống nhất ý chí giữ các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó. Thỏa thuận và thống nhất ý chí lấy yếu tố cốt lõi để hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể, thiếu sự thỏa thuận này thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực. Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự. Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi yếu tố như giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối , đe dọa. Định nghĩa trên đây của Bộ luật dân sự được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác , vừa mang tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ “hợp đồng” , vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng là một căn cứ pháp lý ( phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ ( dân sự ) của các bên. Theo như thuyết khế ước đưa ra, bắt đầu từ việc con người cùng thoả thuận để xây dựng đời sống cộng đồng. Còn theo quy định của pháp luật thì khế ước xã hội cụ thể là một tờ khế ước, một bản hợp đồng mà trên đó các thành viên trong xã hội cùng thống nhất các nguyên tắc để chung sống với nhau. Theo đó khế ước cơ bản nhất chính là hiến pháp, là nền tảng cho tất cả các thoả ước khác cho cộng đồng. Thông qua đó, con người chính thức nhượng bộ một phần quyền tự nhiên của mình để trở thành một công dân, và chính thức nhượng bộ một phần tự do quyết định của mình để trở thành một công dân, và chính thức đánh đổi một phần quyền tự nhiên của mình để trở thành một công dân, và chính thức đánh đổi một phần tự do quyết định của mình vào tay một số người cầm quyền( là nhà nước). Khế ước xã hội không những đưa ra nguyên tắc bình đẳng khi lụa chọn người cầm quyền mà còn đưa ra được những nguyên tắc ở đây là sự ràng buộc về trách nhiệm đối với cộng đồng trong đời sống. Từ sự ràng buộc đó, người cầm quyền phải đảm bảo được quyền lợi cho phía bên kia về quyền tự nhiên. Quyền lực đó được thực hiện trong trường hợp có sự đồng thuận của những người bị trị trong xã hội. Theo đó, Hiến pháp là môt bản của khế ước, và là nền tảng cho các thoả ước khác của cộng đồng. Việc thông qua hiến pháp, là giúp con người chính thức giành quyền tự do để trở thành công dân. Việc giúp bản bản hợp đồng trao đổi có được sự công bằng, trong khế ước xã hội phải định rõ nguyên tắc về việc lựa chọn đưa ra người cầm quyền. Bình đẳng ở đây thể hiện ở chỗ ai cũng có thể lên nắm quyền thông qua được việc nhiều thành viên ủng hộ. Đối với người cầm quyền, với quyền lực hiện đang có trong tay, là những ràng buộc về các trách nhiệm đối với cộng đồng. Nếu người có quyền không hoàn thành trách nhiệm, bản hợp đồng giữa người cầm quyền và cộng đồng phải bị coi như vô hiệu, và cộng đồng phải có quyền tìm ra một người thay thế mới. Quy định hiện hành của khế ước là giao dịch dân sự được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Nói một cách ngắn gọn khế ước là hợp đồng.Theo đó, các quy định của hợp đồng dựa trên cơ sở thỏa thuận và sự thống nhất ý chí giữ các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó. Lấy ví dụ cho khế ước là giấy giao kèo mua bán nhà, đất. Theo đó, giấy giao kèo mua bán nhà đất cụ thể hợp đồng đặt cọc các bên đã ký kết, là một căn cứ xác định thời điểm có hiệu lực khi hai bên giao kết hợp đồng đặt cọc. Để đảm bảo quyền lợi của mình, các bên khi giao nhận tiền cọc cần lập hợp đồng đặt cọc gồm những nội dung như: Thông tin về địa chỉ, chứng minh nhân dân, ngày cấp chứng minh nhân dân của bên đặt cọc, bên nhận đặt cọc, số tiền đặt cọc, thời điểm giao nhận,…Việc làm như vậy nhằm giúp bảo đảm quyền lợi của hai bên khi giao kết khi có vấn đề phát sinh. Khi mua bán nhà đất không thể không nhắc đến Hợp đồng chuyển nhượng đất đai. Trong hợp đồng chuyển nhượng quy định rõ về việc như mảnh đất này chuyển nhượng cho ai, giá trị mảnh đất như thế nào, và nghĩa vụ và quyền lợi của các bên cũng được nêu rõ. Khi bên kia vi phạm hợp đồng chuyển nhượng đất thì phải đền bù thiệt hại cho bên kia như thế nào? Việc đền bù thiệt hại được quy định rõ nhằm phòng tránh mất quyền lợi của mình trong trường hợp bên kia vi phạm hợp đồng. Theo đó quy định về nghĩa vụ của bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất:. Thứ hai, giao giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng. “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.”. Việc làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không thể không nhắc đến nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Theo đó, bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ như: Trả đủ tiền, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thoả thuận cho bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; Bảo đảm quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng; Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai. Khi mua đất, quyền của bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất luôn được người mua để ý đến trong hợp đồng. Quyền này cũng được quy định rõ trong Bộ luật dân sự về người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các quyền sau:. Khế ước vay là một dạng hợp đồng tín dụng, gồm điều khoản, cam kết về mục đích sử dụng vốn, nguồn trả nợ, thời hạn,phương án trả nợ gốc, trả lãi, lãi suất và tài sản đảm bảo (nếu có). Việc theo dõi thanh toán khế ước giống như việc theo dõi thanh toán một hóa đơn( đã thanh toán bao nhiêu còn lại bao nhiêu), tuy nhiên điểm khác biệt là việc thanh toán theo các kỳ hạn khác nhau được các bên cam kết rõ trong khế ước. Thanh lý khế ước được hiểu là sau khi khế ước hết thời hiệu thực hiện thì sẽ chấm dứt mọi hoạt động phát sinh liên quan đến hợp đồng. Luật Dương Gia căn cứ vào quy định của thanh lý khế ước, về việc chấm dứt tất cả các hoạt động phát sinh từ hợp đồng để đưa ra mẫu biên bản thanh lý hợp đồng vay . Bên B đã thanh toán đúng và đủ cả gốc và lãi số tiền đã mượn Bên A theo hợp đồng số … ký ngày … tháng …năm …. Kể từ ngày …tháng …. , hợp đồng số … được thanh lý xong quyền, nghĩa vụ của hai bên đã thực hiện đầy đủ và chấm dứt mà không có vướng mắc hay tranh chấp gì. Biên bản này được thành lập 04 bản, mỗi bên giữ 02 bản và có giá trị pháp lý như nhau. Ba tôi muốn tặng cho tôi một căn nhà và quyền sử dụng đất trên mảnh đất 100 m2. Căn nhà này đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đứng tên ba tôi. Thủ tục tặng cho như thế nào?. Xây dựng hệ thống thông tin về nhà ở, thị trường bất động sản. Thông tin về nhà ở, thị trường bất động sản được xây dựng thống nhất. Quy định về diện tích tối thiểu nhà chung cư thương mại. Quy hoạch nhà chung cư. Cách xử lý, bố trí tái định cư khi nhà chung cư hết niên hạn sử dụng. Niên bạn sử dụng nhà chung cư là bao lâu? Hết thời hạn nhà chung cư cư dân phải làm gì?. Việc sử dụng nhà chung cư không chỉ có những phần diện tích sử dụng riêng cho từng hộ mà còn có chỗ để xe cho những hộ gia đình, cá nhân sử dụng nhà chung cư.
Khế ước xã hội
Khế ước xã hội trong triết học và chính trị học là một học thuyết mô tả việc con người cùng thỏa thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên để xây dựng cuộc sống cộng đồng. Về mặt luật pháp, khế ước xã hội thể hiện cụ thể là một tờ khế ước, một bản hợp đồng trên đó các thành viên xã hội thống nhất các nguyên tắc để cùng chung sống với nhau. Lý thuyết về khế ước xã hội lần đầu tiên được Thomas Hobbes đưa ra khi ông cho rằng con người ban đầu vốn sống ở trạng thái tự nhiên, trong tình trạng vô chính phủ, khi chưa hề có sự cưỡng bức có tổ chức lên mỗi cá nhân. Con người qua khế ước xã hội từ bỏ những quyền tự do tự nhiên của mình để được hưởng sự an toàn và trật tự của xã hội văn minh. Theo Hobbes, con người sơ khai sống thành bầy đàn để cùng chống lại các kẻ thù, nhưng không có gì ràng buộc giữa họ. Quyền sở hữu không tồn tại dẫn đến chuyện tất cả mọi người đều có thể sở hữu tất cả mọi vật.
Phần mềm ứng dụng thường là đã được viết hoàn chỉnh và đóng gói để phân phối đến các đối tượng người sử dụng khác nhau, tập trung chủ yếu vào việc hoàn thành nhiệm vụ của người dùng cuối. Có thể phân thành hai nhóm: phần mềm đa năng và phần mềm chuyên dụng. + Phần mềm xử lý văn bản (Word processing) cho phép thực hiện các chức năng như soạn thảo văn bản, chèn biểu tượng, kẻ bảng biểu, lưu trữ và chỉnh sửa văn bản… Microsoft Word và Word Perfect là hai gói phần mềm xử lý văn bản phổ biến. + Phần mềm bảng tính (Spreadsheet) cho phép thiết lập bảng tính (hiển thị dữ liệu trong các hàng và cột) và thực hiện các phép tính toán, vẽ đồ thị… trên các dữ liệu đó. + Các Hệ quản trị CSDL (Database Management System) như FOXPRO, ACCESS… cho phép lập ra và xử lý các danh sách, tạo tệp tin và cơ sở dữ liệu để lưu trữ dữ liệu, từ đó có thể tổng hợp thông tin từ nhiều tệp tin để làm báo cáo. + Phần mềm đồ hoạ, trình diễn văn bản (Presentation graphics) dùng để tạo ra văn bản trình bày chuyên nghiệp, chất lượng cao với các biểu đồ, đồ thị, âm thanh, hình ảnh động, trích đoạn video… Phổ biến nhất là Microsoft PowerPoint. + Ngoài ra, còn có các phần mềm trợ giúp thiết kế và chế tạo (AutoCAD); Thư điện tử; Phần mềm quản lý thông tin cá nhân (lịch công tác, danh bạ điện thoại, sổ ghi chép, danh thiếp, nhật ký…); Phần mềm đa phương tiện (trợ giúp kết nối dữ liệu dạng văn bản, hình ảnh và âm thanh trên các thiết bị video và audio); Phần mềm tự động hoá văn phòng.
Phần mềm ứng dụng
Phần mềm ứng dụng (tiếng Anh: Application software, còn viết tắt là app) là một loại chương trình có khả năng làm cho thiết bị điện tử thực hiện trực tiếp một công việc nào đó người dùng muốn thực hiện. Điều này khác với phần mềm hệ thống tích hợp các chức năng của thiết bị, nhưng có thể không trực tiếp thực hiện một tác vụ nào có ích cho người dùng. Sự phân biệt giữa phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng không rõ ràng. Tuy nhiên, đôi khi vấn đề này cũng được tranh cãi. Ví dụ trường hợp Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Microsoft tranh cãi Internet Explorer có phải là một phần của Windows không. Ví dụ tiêu biểu cho phần mềm ứng dụng là chương trình xử lý văn bản, bảng tính, chương trình giải trí. Các phần mềm ứng dụng thường được gom lại thành bộ phần mềm. Microsoft Office và OpenOffice.org là những bộ phần mềm gồm có chương trình xử lý văn bản, bảng tính và các phần mềm khác. Các phần mềm riêng biệt trong bộ phần mềm thường có giao diện và tính năng tương tự làm người dùng dễ dàng học và sử dụng.
Trị liệu nhận thức hành vi hay còn gọi là Liệu pháp hành vi nhận thức (Cognitive Behavioral Therapy – CBT) là một can thiệp tâm lý xã hội nhằm cải thiện sức khỏe tâm thần. CBT tập trung vào thách thức và thay đổi những biến dạng nhận thức không có ích (ví dụ như suy nghĩ, niềm tin và thái độ) và hành vi, cải thiện điều tiết cảm xúc, và phát triển các chiến lược đối phó cá nhân nhằm giải quyết các vấn đề hiện tại. Ban đầu, nó được thiết kế để điều trị trầm cảm, nhưng việc sử dụng nó đã được mở rộng để bao gồm điều trị một số tình trạng sức khỏe tâm thần, bao gồm cả lo lắng. Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) là một hình thức tâm lý trị liệu giúp bệnh nhân hiểu rõ sự ảnh hưởng của suy nghĩ và cảm xúc lên hành vi. Nói một cách cụ thể hơn CBT là một là liệu pháp được áp dụng để tìm hiểu và điều trị các dạng suy nghĩ tiêu cực trong nhận thức của con người về một tình huống hay một sự kiện nào đó gây nên các vấn đề tâm lý, các mối quan hệ hay các rối nhiễu về mặt tinh thần của chính cá nhân đó. Khi một sự kiện nào đó xảy ra kích hoạt suy nghĩ của một cá nhân, suy nghĩ tác động lên cảm xúc đưa đến việc cá nhân đó hành động ra bên ngoài và hành động đó, suy nghĩ đó, cảm xúc đó tác động lên thể lý của cá nhân đó. Đôi khi chúng ta bị bệnh thực thể cũng tác động đến cảm xúc và suy nghĩ và hành động của chính chúng ta. Suy nghĩ, cảm xúc, hành vi, thể lý có sự tác động qua lại lẫn nhau. CBT thường được áp dụng trong một khoảng thời gian ngắn và tập trung giúp bệnh nhân đương đầu với một vấn đề cụ thể. Trong suốt quá trình điều trị, bệnh nhân sẽ học cách xác định và thay đổi các suy nghĩ tiêu cực gây ảnh hưởng xấu lên hành vi và cảm xúc. + Cách thức suy nghĩ và tâm trạng có mối liên hệ với nhau vì thế thay đổi suy nghĩ có thể thay đổi tâm trạng và ngược lại. + Học cách thức làm việc dựa trên suy nghĩ và niềm tin của chính bản thân. Trong tham vấn và trị liệu tâm lý, việc tìm kiếm những niềm tin cốt lõi, những lỗi hệ thống trong suy nghĩ gây nên các vấn đề của thân chủ sẽ giúp cho thân chủ có thể cấu trúc lại suy nghĩ, thay đổi cảm xúc, chuyển đổi hành vi để vượt qua khó khăn, cải thiện các mối quan hệ, giải quyết được vấn đề cũng như các rối nhiễu tinh thần cần thiết. Mô hình CBT dựa trên sự kết hợp của các nguyên tắc cơ bản từ tâm lý học hành vi và nhận thức. Nó khác với các cách tiếp cận lịch sử đối với tâm lý trị liệu, chẳng hạn như phương pháp phân tâm học, nơi nhà trị liệu tìm kiếm ý nghĩa vô thức đằng sau các hành vi và sau đó hình thành một chẩn đoán. Thay vào đó, CBT là một hình thức trị liệu “tập trung vào vấn đề” và “định hướng hành động”, nghĩa là nó được sử dụng để điều trị các vấn đề cụ thể liên quan đến rối loạn tâm thần được chẩn đoán. Vai trò của nhà trị liệu là hỗ trợ khách hàng tìm kiếm và thực hành các chiến lược hiệu quả để giải quyết các mục tiêu đã xác định và giảm các triệu chứng của rối loạn. CBT dựa trên niềm tin rằng các biến dạng nhận thức và hành vi không lành mạnh đóng vai trò trong việc phát triển và duy trì các rối loạn tâm lý, và các triệu chứng và đau khổ liên quan có thể được giảm bằng cách dạy các kỹ năng xử lý thông tin và cơ chế đối phó mớ. Theo cuốn Tiếp cận trị liệu nhận thức hành vi của Lê Thị Thanh Tâm thì: “Liệu pháp nhận thức hành vi ra đời từ thập niên 1950 và đến năm 1990 liệu pháp này được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Nguồn gốc của Lý thuyết hành vi và nhận thức hành vi bắt nguồn từ trong lý thuyết học tập cổ điển (các tiếp thu có được thông qua rèn luyện có điều kiện và có thể quan sát đo lường được) và lý thuyết tập nhiễm xã hội, có nguồn gốc và cơ sở khoa học bắt đầu từ thành tựu của học thuyết phản xạ có điều kiện dựa trên các thực nghiệm của Pavlov 1927; thực nghiệm điều kiện hóa của Skinner và cộng sự (1938). Tiếp theo đó là những thành tựu của tâm lý học hành vi do Watson khởi xướng. Từ cơ sở trên, J.Wolpe (1952) đã phát triển và hoàn thiện liệu pháp hành vi. Song song đó, liệu pháp nhận thức cũng phát triển dưới sự ảnh hưởng lớn của Aaron Beck, Ellis, Bandura và Meichenbaum, tạo nên và khôi phục thế cân bằng, từ đó nhận thức (cả tầng vô thức và ý thức) đã gia tăng mạnh, đóng một vai trò nổi bật trong các mô hình tâm bệnh học. Về sau, nhiều tác giả ứng dụng cả hai liệu pháp trên vì tìm thấy được sự bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau giữa các kỹ thuật. Từ đó họ gộp chung lại là Liệu pháp nhận thức hành vi. Các ứng dụng của CBT Aron Beck đã phát triển dạng trị liệu tâm lý từ cuối những năm 1950 và những năm đầu của thập niên 1960 với tên gọi là Trị liệu nhận thức, cho các bệnh nhân bị trầm cảm. Đến nay, hầu hết những ai đi theo hướng tiếp cận này đều sử dụng tên gọi là Nhận thức hành vi. Theo Tiến sĩ Stephen Briers, (2009) tại Anh, Dịch vụ về Sức khỏe Quốc gia với sự đề xuất của giáo sư Richard Layard, chính phủ đã vui vẻ chấp thuận việc đào tạo hơn 10 nghìn nhà trị liệu nhận thức hành vi trong toàn nước Anh, bởi nhiều nghiên cứu và minh chứng cho thấyrằng đây là liệu pháp có đầy đủ chứng cứ khoa học nằm trong danh sách của các liệu pháp dùng choviệc điều trị các vấn đề về sức khỏe tinh thần và được áp dụng rộng rãi. Liệu pháp nhận thức hành vi được áp dụng trong việc giảng dạy kỹ năng sống, kỹ năng xã hội được vận dụng để làm việc với trẻ vị thành niên thông qua việc hướng dẫn kỹ năng kiểm soát cơn giận,kỹ năng ra quyết định (Brad Donohue, Hendra Tracy, Suzanne Gorney, 2008), kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp (Keith H.Oliver, Grayla Mangdon, 2008); làm việc với bệnh nhân ung thư…; hỗ trợ cho giới trẻ, những người có các trải nghiệm về rối nhiễu tâm trí như trầm cảm, rối nhiễu lo âu, giận dữ, rối nhiễu ăn uống… (Arthur Freeman, Stephanie H.Felgoise, Arthur M.Nezu, Christien.Nezu, MarkA, Reinecke, 2005). Tại Việt Nam, CBT đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây, đối với cả những nhóm bệnh nhân gặp các vấn đề sức khỏe tinh thần lẫn các chuyên gia điều trị. Vì CBT là một lựa chọn điều trị ngắn hạn, giúp bệnh nhân tiết kiệm chi phí hơn các liệu pháp khác. CBT cũng được chứng minh tính hiệu quả thông qua thực nghiệm và có thể giúp bệnh nhân vượt qua và loại bỏ được hàng loạt các hành vi không tốt. CBT tập trung vào việc cải thiện tâm trạng và hành vi của thân chủ, làm việc trên các mức độ nhận thức sâu của thân chủ, đó chính là niềm tin. Niềm tin về bản thân, về thế giới xung quanh để hiểu biết về những điều kiện xây dựng nên niềm tin. Niềm tin của chúng ta được tạo ra là chính kinh nghiệm chúng ta, khi đã có niềm tin chúng ta chọn lọc những gì phù hợp với niềm tin của chúng ta và chối bỏ những gì không phù hợp. Bằng cách sửa đổi các niềm tin tiêu cực, các niềm tin đã được khái quát hóa không phù hợp, giúp chúng ta nhìn nhận sự việc một cách thực tế hơn về những điểm mạnh và điểm hạn chế của chúng ta, giúp điều chỉnh cách nhìn nhận của chúng ta về các tình huống cụ thể mà chúng ta gặp hàng ngày. Chúng ta luôn khái quát hóa vấn đề từ chính kinh nghiệm theo cách có ích là cho phép chúng ta dự đoán những gì có thể sắp xảy ra.Việc học hỏi theo cảm xúc cũng tương tự như vậy, một đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc bị lạm dụng có lẽ phát sinh ra các lý thuyết khái quát hóa một cách bản năng hoặc thậm chí đưa ra kết luận khó khăn và chắc chắn về bản thân và thế giới xung quanh nó. Nhận thức hành vi rất quan tâm đến các tầng bậc của hệ thống niềm tin, nó rất quan trọng và lànguyên nhân cơ bản gây nên các rối nhiễu tâm lý hay sức khỏe tinh thần. Có 3 tầng bậc chính mà chúng ta cần quan tâm bao gồm:. Những suy nghĩ tự động tiêu cực: là những suy nghĩ xấu xuất phát một cách tự động bên trong tâm trí của chúng ta và ảnh hưởng đến các phản ứng cảm xúc lên cácsự kiện khi tác động đến chúng ta. Có 3 dạng suy nghĩ tự động chính, dạng suy nghĩ liên quan đến cách nhìn hay quan điểm về bản thân, quan điểm về tương lai và quan điểm về thế giới. Những lý giải bất thường: khi những suy nghĩ tiêu cực thường gắn bó một cách khắng khít với các giả định lây dài mà chúng ta đã tự xây dượng về chính bản thân mình và thế giới xung quanh. Từ những suy nghĩ tiêu cực cho chúng ta những cách lý giải bất thường bởi chính kinh nghiệm mà ta đã có. Niềm tin cốt lõi: Là nền tảng các niềm tin ổn định về bản thân, các mối quan hệ, thế giới quan vàtương lai của người đó.Niềm tin cốt lõi khó nhận diện hơn những suy nghĩ tự động, nó ẩn giấu bên trong, chúng thường thể hiện qua hình thức kiến thức ngấm ngầm, chỉ có thể bộc lộ chính bản thân chúng trong hầu hết các giả định khái quát về bản thân chúng ta và thế giới bên trong chúng ta. Việc hiểu biết về cơ chế tự vệ, các niềm tin cốt lõi, sẽ giúp cho nhà tham vấn, trị liệu, hiểu được thân chủ, từ đó xây dựng mối tương tác và sử dụng công cụ phù hợp.Trong Trị liệu nhận thức hành vi, bộ công cụ được nhà trị liệu sử dụng để thách thức lại với những niềm tin cốt lõi và những suy nghĩ tự động tiêu cực đó là bộ câu hỏi Sokratess hay “Phương pháp Sokratess”. Nội dung cốt lõi của CBT chính là suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta đóng một vai trò căn bản trong việc quyết định các hành vi mà ta thể hiện. Ví dụ, nếu một người dành nhiều thời gian suy nghĩ về một vụ rơi máy bay, tai nạn trên đường băng hay các thảm họa hàng không thì người này sẽ tránh né việc di chuyển bằng máy bay. + Giúp thân chủ nhận diện và thách thức với những niềm tin hay kiểu mẫu suy nghĩ không hợp lý và hướng dẫn thân chủ giải thoát khỏi sự ràng buộc hay hạn chế của kiểu suy nghĩ cũ,xây dựng các kiểu suy nghĩ mới phù hợp. + Giúp thân chủ thay đổi những niềm tin do những suy nghĩ vô lý gây ra. + Giúp thân chủ vượt qua được bệnh tật, trở về chính bản thân mình với sự thoải mái, tự tại, vị tha cho chính mình và cho người khác.
Trị liệu hành vi
Trị liệu hành vi hay liệu pháp hành vi là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến lâm sàng tâm lý rằng sử dụng các kỹ thuật có nguồn gốc từ chủ nghĩa hành vi. Những người thực hành liệu pháp hành vi có xu hướng nhìn vào các hành vi cụ thể, đã học và cách môi trường ảnh hưởng đến những hành vi đó. Những người thực hành liệu pháp hành vi được gọi là nhà hành vi, hoặc nhà phân tích hành vi. Họ có xu hướng tìm kiếm kết quả điều trị có thể đo lường khách quan. Trị liệu hành vi không liên quan đến một phương pháp cụ thể nhưng nó có một loạt các kỹ thuật có thể được sử dụng để điều trị các vấn đề tâm lý của một người. Liệu pháp hành vi truyền thống rút ra từ phản xạ có điều kiện và dựa trên hệ thống thưởng phạt để giải quyết các vấn đề của bệnh nhân. Tâm lý trị liệu hành vi đôi khi được kết hợp với liệu pháp tâm lý nhận thức, trong khi liệu pháp hành vi nhận thức tích hợp các khía cạnh của cả hai phương pháp.
Tài nguyên ổn rừng là nhân tố đặc biệt tuyệt nhất của thai sinc quyển. Nó nhập vai trò to lớn vào hệ sinh thái xanh, môi trường xung quanh, cuộc sống của con tín đồ và sự trở nên tân tiến của nền kinh tế tài chính làng hội. Trong thời điểm này tài ngulặng rừng hiện nay đang bị suy thoái và khủng hoảng nghiêm trọng. Vậy nguyên nhân gây ra triệu chứng này là gì?. Tài nguyên rừng là 1 phần đặc biệt quan trọng của tài nguim vạn vật thiên nhiên. Đây là các loại tài nguyên ổn có công dụng tái tạo ra. Tuy nhiên, ví như bài toán khai quật, sử dụng sai trái, bừa kho bãi thì có thể dẫn mang lại suy thoái với cần yếu tái tạo ra.Bạn đang xem: Tài nguyên rừng là gì. Tại các nới có khí hậu không giống nhau thì tài ngulặng thiên nhiên rừng cũng trở nên khác nhau. Có các tiêu chuẩn để phân một số loại tài nguyên ổn rừng cơ mà đa số dựa vào:. Sự hình thành những thảm thực đồ gia dụng tự nhiên và thoải mái với địa lý, điều kiện khí hậu gồm tương quan nghiêm ngặt được việc có mặt những phong cách rừng. Những giao diện thảm thực vật rừng bên trên trái đất gồm:. Đây là loại rừng gồm độ đa dạng sinc học tập cao nhất. Chế độ mưa, nhiệt độ, gió rét của rừng mưa nhiệt đới gió mùa khôn cùng phức hợp bắt buộc yếu tố loài, kết cấu rừng của một số loại rừng này cũng rất phức tạp. Rừng mưa nhiệt đới gió mùa phân bổ đa phần sinh sống vùng xích đạo lưu lại vực sông Congo (Châu Phi), sông Amazone (Nam Mỹ), Malaysia, Ấn Độ. Phân cha sinh sống vùng núi cao nhiệt đới nhỏng ngơi nghỉ Châu Âu, Bắc Mỹ, Bắc Trung Quốc. Loại rừng này còn có nguyên tố khá nhất quán mà lại năng suất lại thấp rộng những so với vùng nhiệt đới. Được phân bố làm việc vùng nhiệt đới cùng vùng tốt rộng. Rừng rụng lá ôn đới phân bố chủ yếu ngơi nghỉ Châu Âu, Nam Mỹ, Đông Bắc Mỹ, Australia, nước Nhật với một trong những phần sinh sống Trung Quốc. Đây là một số loại rừng bao gồm mục tiêu bảo đảm sinh thái, bảo tồn thiên nhiên, các nguồn gene đụng thực trang bị quý hiến, bảo đảm an toàn di tích văn hóa, lịch sử hào hùng, Giao hàng nghiên cứu và phân tích khoa học. Hoặc dùng làm sinh hoạt, phượt sinh thái xanh. Rừng quánh dụng gồm: Các khu bảo đảm vạn vật thiên nhiên, vườn cửa tổ quốc, các quần thể lịch sử, văn hóa cùng môi trường thiên nhiên. Rừng chống hộ được áp dụng nhằm đảm bảo an toàn môi trường, mối cung cấp nước, khu đất, hạn chế chuyển đổi khí hậu, kháng hạn hán thiên tai, xói mòn, bão lũ. Thường được chia thành 3 nhiều loại là rừng phòng hộ đầu mối cung cấp, rừng chống hộ chắn sóng ven biển cùng rừng phòng hộ phòng mèo cất cánh. Theo thống kê lại từ thời điểm năm 1960 – 1990, độ che phủ rừng trên toàn nhân loại bị giảm gần 13%, từ bỏ 37 triệu kmét vuông xuống còn 32 triệu kmét vuông, tốc độ bớt mức độ vừa phải thường niên là 160.000 km2. Sự suy giảm này xẩy ra lớn số 1 ở rừng nhiệt đới, điển hình nổi bật là rừng Amazone sinh hoạt Brazil. Tài ngulặng rừng nguim sinh ở châu Á mất quá nhiều tuyệt nhất, chỉ chiếm khoảng chừng 70%. Ngulặng nhân diện tích rừng bị suy sút, rừng thái hóa bởi vì những nguyên tố, chủ yếu do:. Chuyển đổi mục tiêu áp dụng rừng quý phái canh tác nông nghiệp trồng trọt là một trong số những nguyên ổn nhân đặc biệt quan trọng nhất khiến cho diện tích rừng bị suy bớt. Lúc này, vấn đề không ngừng mở rộng diện tích khu đất nông nghiệp trồng trọt phân phối lương thực làm việc châu Mỹ La Tinh diễn ra lờ lững rộng cùng với châu Phi cùng châu Á. Tốc độ suy giảm rừng nghỉ ngơi những giang sơn bây chừ là vì tăng cường khai quật tài nguyên ổn rừng phục vụ mang đến cách tân và phát triển nền tài chính với xuất khẩu. Việc khai quật, sắm sửa mộc ra mắt trẻ trung và tràn trề sức khỏe làm việc những nước Khu vực Đông Nam Á. Theo số liệu những thống kê, sinh hoạt khoanh vùng này sở hữu tới gần một nửa bên trên trái đất, điển hình là sống Malaysia cùng Philippine. Nhu cầu dùng củi để làm bếp vẫn còn đó cao, độc nhất vô nhị là ngơi nghỉ châu Phi. Do đó, chặt phá rừng để đưa củi đốt cũng là 1 trong những nguim nhân là mang lại tài ngulặng rừng bị hết sạch. Các các loại vật nuôi như trầu trườn, chiên dê chăn thả yên cầu nên không ngừng mở rộng các đồng cỏ. Đây cũng chính là ngulặng nhân làm cho diện tích rừng ngày càng bị suy giảm. Theo thống kê ngơi nghỉ châu Mỹ La Tinc, tài ngulặng rừng bị suy thoái và phá sản vì sản xuất nông nghiệp nhỏ dại chỉ chiếm khoảng chừng 35%, còn lại là do chnạp năng lượng thả con vật. Là nguim bản lĩnh nguyên ổn rừng suy thoái và phá sản tương đối phổ biến nghỉ ngơi các giang sơn trên nhân loại. Chẳng hạn nlỗi sinh sống Mỹ, năm 2000 có mang đến 2,16 triệu ha rừng bị cháy. Tại Indonesia đợt cháy rừng xẩy ra vào khoảng thời gian 1977 có cho gần 1 triệu ha rừng bị thiêu hủy…. Để Giao hàng mang lại kinh doanh, nhiều diện tích S rừng bị tàn phá để tLong cây lâu năm, cây đặc sản. Các công ty lớn chỉ quyên tâm mang đến mục tiêu chiếm được lợi tức đầu tư khổng lồ nhưng không quyên tâm đến môi trường. Ngoài ra, có tương đối nhiều nguyên nhân khác làm cho suy bớt tài nguyên rừng.
Tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng là một phần của tài nguyên thiên nhiên, thuộc loại tài nguyên tái tạo được. Nhưng nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên rừng có thể bị suy thoái không thể tái tạo lại. Tài nguyên rừng có vai trò rất quan trọng đối với khí quyển, đất đai, mùa màng, cung cấp các nguồn gen động thực vật quý hiếm cùng nhiều lợi ích khác. Rừng giúp điều hòa nhiệt độ, nguồn nước và không khí. Con người có thể sử dụng tài nguyên thiên nhiên này để khai thác, sử dụng hoặc chế biến ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống. Ở những vùng khí hậu khác nhau thì tài nguyên rừng cũng khác nhau. Tỉ lệ đất có rừng che phủ của mỗi quốc gia là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường quan trọng. Diện tích đất có rừng của một quốc gia tối ưu phải đạt 45% tổng diện tích. Hiện hơn một nửa tài nguyên rừng trên thế giới đang bị phá hủy nghiêm trọng và hơn 30% đang bị suy thoái, trong khi đó trên một tỉ người nghèo đang sống chủ yếu dựa vào tài nguyên rừng.
Khi sáng tác ca khúc này, nhạc sĩ cũng không rõ nhạc cụ ấy là của dân tộc nào. Theo lời nhạc sĩ Trần Tiến kể lại, ông viết ca khúc này vào quãng năm 1984, trong một lần cùng với ca sĩ Ngọc Tân về cù lao Châu Giang, An Giang, nằm giữa đôi dòng Tiền Giang và Hậu Giang. Trong chuyến đi đó, hai người tình cờ gặp một cô gái theo đạo Hồi đang ngồi dệt vải với chiếc khăn mat’ra che mặt. Nhạc sĩ vẫn còn nhớ tên cô gái ấy là Atiza. Khi Atiza gỡ chiếc khăn ra, nhạc sĩ Trần Tiến và ca sĩ Ngọc Tân đều ngỡ ngàng vì nhan sắc tuyệt đẹp của cô. Chính vì những “dữ kiện” này, nhạc sĩ Trần Tiến cứ ngỡ trống Paranưng có nguồn gốc ở vùng sông nước miền Tây. Và bởi thế, trong bài hát mới có câu: “Như nắng buông trên dòng Tiền Giang/ Như gió reo trên dòng Hậu Giang/ Như lời thương nhớ ai mà giọng hát xa vời/ Pa ra paranưng, ôi tiếng trống ru lòng tôi.”. Nhưng sự thật thì trống Paranưng là nhạc cụ của tộc người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận. Trống Paranưng là nhạc cụ họ màng rung, chi gõ vỗ. Trống chỉ có một mặt, đường kính khoảng 45 - 50cm, bịt bằng da hoẵng hoặc da dê. Tang trống liền làm từ gỗ lim hoặc gỗ cà chỉ cao khoảng 9cm. Mặt trống được căng bằng hai đai tròn làm từ một đoạn mây song và một hệ thống dây chằng đan chéo nhau để căng mặt trống. Từ giữa tang đến vành phía dưới là những con nêm để căng trống khi bị trùng. Người đánh trống Paranưng được gọi là “ông thầy vỗ”, vì khi diễn tấu, trống được đặt ở trước bụng, rồi sử dụng các ngón của hai bàn tay vỗ (chứ không dùng dùi) vào những vị trí khác nhau trên mặt trống tạo các âm có màu sắc: tìn, tin, tắc. - Tìn: Dùng các đầu ngón tay phải khép lại, vỗ vào mặt trống cách vành khoảng 12cm, rút tay lên ngay tạo âm vang rền. - Tin (hoặc tâm): Dùng các đầu ngón tay phải mở ra vỗ vào mặt trống cách vành 5-6cm, rút tay lên ngay tạo âm cao hơn Tìn. - Tắc: Dùng các đầu ngón tay trái khép lại vỗ vào mặt trống cách vành 5 - 6cm, nhưng ấn giữ nguyên tạo âm ngắt và đục. Theo NSƯT Đàng Năng Đức, trống Paranưng và các nhạc cụ Chăm khác đều do người Chăm Bàlamôn (Ấn Độ giáo) ở vùng Panduranga sáng tạo. Do đó trống Paranưng trong ca khúc của nhạc sĩ Trần Tiến dù được vỗ lên ở miền Tiền Giang, Hậu Giang nhưng có xuất xứ từ vùng Panduranga. Với người Chăm, trống Paranưng vừa góp mặt trong mùa tết Rija Nưga hay Katê; trong ngày tang lễ hay lễ nhập Kud, vừa có thể tạo nên những điệu theimai mừng đôi lứa trong ngày cưới. Chỉ phát hành, sao chép thông tin từ Báo điện tử Đại Đoàn Kết khi có sự đồng ý bằng văn bản của Ban biên tập Báo Đại Đoàn Kết.
Trống Paranưng
Trống Paranưng là một loại nhạc cụ họ màng rung, chi gõ vỗ của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Việt Nam. Theo NSƯT Đàng Năng Đức, trống Paranưng và các nhạc cụ Chăm khác đều do người Chăm Bàlamôn (Ấn Độ giáo) ở vùng Panduranga sáng tạo. Trống Paranưng chỉ có một mặt bịt bằng da hoẵng hoặc da dê, đường kính khoảng 44–50 cm. Tang trống sử dụng gỗ lim hoặc gỗ cà chỉ liền khối đục rỗng có độ cao chỉ khoảng 9 cm. Mặt trống được cǎng bằng hai đai tròn làm từ một đoạn mây song và một hệ thống dây chằng đan chéo nhau để cǎng mặt trống. Từ giữa tang đến vành phía dưới là những con nêm để cǎng trống khi bị trùng.
Thịt bò là thực phẩm quen thuộc và bổ dưỡng nhưng không phải món ăn nào cũng có thể kết hợp, nấu/ăn chung với thịt bò. Lương y Bùi Hồng Minh (Phó Chủ tịch thường trực Hội Đông y Ba Đình, Hà Nội) sẽ phân tích những thực phẩm khi kết hợp với thịt bò gây hại cho sức khỏe ngay dưới đây để các mẹ nội trợ cùng biết cách phòng tránh. Hạt dẻ: Thịt bò chứa nhiều đạm, hạt dẻ chứa nhiều vitamin C làm cho đạm bị biến chất, dẫn đến làm giảm giá trị dinh dưỡng. Lươn, hẹ: Các chuyên gia khuyến cáo, không nên ăn chung với lươn và hẹ bởi gây tình trạng khó tiêu hóa, ngộ độc hoặc nhiễm độc lâu dài cho. Thịt lợn: Thịt bò có tính ôn, kích thích chuyển hóa, ôn trung ích khí thích hợp với những người có cơ địa yếu, suy giảm khả năng chuyển hóa. Còn thịt lơn có tính hàn, thích hợp với người có cơ địa nóng, khả năng chuyển hóa cao, táo bón, bị mụn nhọt. Bởi vậy khi kết hợp với nhau, chúng trung hòa nhau và không đạt hết tác dụng hiệu quả. Các chuyên gia cũng khuyến cáo, trong bữa ăn không nên có 2 loại thịt này cùng lúc trên bàn ăn, để phát huy tốt nhất công dụng của từng loại. Đậu đen: Ăn đậu đen ngay sau khi vừa ăn thị bò khiến cơ thể không thể hấp thu chất sắt có trong thịt bò. Bởi vậy bạn không nên ăn đậu đen trước khi ăn thịt bò 2 tiếng. Tối thiểu, bạn phải ăn 2 món đồ này cách nhau 4 tiếng để không làm giảm khả năng hấp thụ chất sắt có trong thịt bò cũng như chất xơ có trong đậu đen. Đậu nành: Đậu nành thuộc nhóm có nhiều purin. Chất này là nguyên nhân tạo ra acid uric gây ra bệnh gout. Thịt bò cũng vậy chứa nhiều purin là một trong những loại thực phẩm tạo ra nhiều uric. Chính vì vậy khi ăn chung 2 loại thực phẩm này với nhau sẽ tạo nên sự cộng hưởng làm tăng cường acid uric gây cơn đau khớp. Và đối với bệnh nhân gout thì đây là sự kết hợp vô cùng nguy hiểm. Nước chè: Thói quen vừa ăn xong đã uống nay một cốc nước chè thực sự không tốt, nhất là khi bạn vừa dung xong món thịt bò. Bởi chất protein trong thịt khi tác dụng với chất axit tanic trong nước chè sẽ làm se niêm mạc ruột, giảm nhu động ruột. Khiến ruột tích tụ nhiều chất có hại, làm cho phân khô, đây là nguyên nhân khiến bạn dễ bị táo bón. Tốt nhất, bạn không nên uống nước chè sau khi ăn thịt bò ít nhất là 2 tiếng. Hải sản: Thịt bò và hải sản không nên kết hợp với nhau vì thành phần dinh dưỡng có thể gây phản ứng với nhau. Trong thịt bò chứa nhiều phosphor rất cần cho việc hình thành xương còn trong hải sản rất giàu calci và magie. Vì vậy khi dùng chung 2 loại thực phẩm này với nhau sẽ tạo ra sự kết tủa muối. Dạng muối này không những cản trở hấp thu phosphor mà còn làm giảm tốc độ hấp thu calci. Rượu: Thịt bò có tác dụng bồi bổ, rượu cũng là chất cay nóng, hai thứ ăn chung dễ dẫn đến các chứng như táo bón; viêm khóe miệng; mắt đỏ; ù tai…
Bò thịt
Bò thịt hay bò lấy thịt, bò hướng thịt những giống bò nhà được chăn nuôi chủ yếu phục vụ cho mục đích lấy thịt bò. Đây là những giống bò cao sản, được chăn nuôi theo kiểu tăng trọng thể hiện qua giai đoạn vỗ béo. Việc chọn các giống bò thịt được thực hiện công phu để chọn ra những giống bò nhiều thịt với tỷ lệ xẻ thịt và thịt lọc cao, nhiều thịt nạc, có khả năng chống chịu với bệnh tật, thích nghi tốt, và có khả năng lai tạo để cải tạo các đàn bò bản địa. Có những giống bò thịt có thể lên đến 1 tấn. Trung bình một con bò phăng có trọng lượng 450 kg (£ 1.000) khi còn sống sẽ cho một lượng thịt nặng khoảng 280 kg (£ 615) sau khi máu, đầu, sừng, chân, da, móng, nội tạng và ruột đã được tách bỏ. Nếu thực hiện theo quy trình giết mổ, xác chết sau đó sẽ được treo trong một căn phòng lạnh cho từ một đến bốn tuần, trong thời gian đó nó sẽ mất đi một số cân nặng như nước bị khô từ thịt. Khi xương được chặt ra bởi một đồ tể hay nhà đóng gói sau đó thì khúc thịt bò này sẽ còn khoảng 200 kg (430 lb).
Liên kết bạn vừa chọn sẽ đưa bạn tới trang web của một bên thứ ba. Chúng tôi không kiểm soát hay có trách nhiệm đối với nội dung trang web của bất kỳ bên thứ ba nào. Placebo là các chất hoặc các can thiệp không có tác dụng, thường được sử dụng trong các nghiên cứu có đối chứng để so sánh với các thuốc có khả năng có hoạt tính tiềm năng. Thuật ngữ "placebo" (tiếng La tinh cho "Tôi sẽ làm hài lòng") ban đầu đề cập đến một chất không có tác dụng, vô hại đối với bệnh nhân để làm cho họ cảm thấy tốt hơn bởi. Gần đây hơn, các can thiệp giả (ví dụ kích thích điện giật hoặc các quy trình phẫu thuật giả trong các thử nghiệm lâm sàng) cũng được coi là giả dược. Thuật ngữ này đôi khi được sử dụng để chỉ một loại thuốc có hoạt tính nhưng được dùng với tác dụng giả dược đối với bệnh mà thuốc không có tác dụng (ví dụ, một kháng sinh cho bệnh nhân mắc bệnh do virus). Giả dược, mặc dù không có tác dụng sinh lý, nhưng có thể có những hiệu ứng đáng kể-tốt và xấu. Những ảnh hưởng này dường như liên quan đến việc dự đoán sản phẩm sẽ có tác dụng; dự đoán tác dụng không mong muốn đôi khi được gọi là hiệu ứng nocebo. Hiệu ứng giả dược điển hình xảy ra với đáp ứng chủ quan (ví dụ như đau, buồn nôn) chứ không phải là các đáp ứng khách quan (ví dụ tỷ lệ lành vết loét chân, tỷ lệ nhiễm trùng vết thương do bỏng). Không phải tất cả mọi người đều đáp ứng với giả dược và không thể dự đoán trước được ai sẽ đáp ứng; giả thuyết về mối tương quan giữa đặc điểm bệnh nhân và đáp ứng với giả dược đã được đưa ra nhưng không được thiết lập tốt. Tuy nhiên, những người có tính cách phụ thuộc và muốn làm hài lòng các bác sĩ lâm sàng có thể sẽ báo cáo những tác động có lợi; những người có tính cách hóm hỉnh có thể sẽ báo cáo bất kỳ ảnh hưởng nào, tốt hay xấu. Nhiều thử nghiệm lâm sàng so sánh việc điều trị các chất có hoạt tính với giả dược. Hiệu quả điều trị thực sự được xác định bằng lấy hiệu quả điều trị biểu hiện của chất có hoạt tính trừ đi hiệu quả điều trị biểu hiện của giả dược; để có ý nghĩa, cần phải có sự khác biệt đáng kể về mặt lâm sàng và có ý nghĩa thống kê. Trong một số nghiên cứu, giả dược làm thuyên giảm bệnh ở một tỷ lệ lớn bệnh nhân, làm cho việc thể hiện hiệu quả điều trị của chất có hoạt tính khó hơn. Ngày nay, hiếm khi bác sĩ lâm sàng xác định rằng bệnh nhân mắc bệnh nhẹ, bệnh có thể tự điều chỉnh bằng chính bệnh nhân mà không cần điều trị bằng thuốc hoặc không có chỉ định dùng thuốc (ví dụ như chứng khó chịu hoặc mệt mỏi không đặc hiệu), có thể nên kê giả dược. Lý do giả dược đáp ứng nhu cầu điều trị của bệnh nhân mà không biểu hiện các tác dụng không mong muốn và thường làm cho họ cảm thấy tốt hơn-do hiệu ứng giả dược hoặc tự cải thiện. Trong các nghiên cứu lâm sàng, xem xét vấn đề đạo đức là liệu có nên dùng giả dược không. Nếu đạt được hiệu quả điều trị (ví dụ thuốc giảm đau opioid cho đau nặng) thường được coi là phi đạo đức khi cho những người tham gia nghiên cứu điều trị bằng giả dược; trong những trường hợp như vậy, các nhóm chứng được điều trị bằng thuốc có hoạt tính. Bởi vì những người tham gia được thông báo trước rằng họ có thể được cho dùng giả dược nên không có gì cần cân nhắc về sự lừa dối. Tuy nhiên, khi dùng giả dược trong thực hành y, bệnh nhân không được thông báo rằng họ đang được điều trị bằng thuốc không có hoạt tính. Sự lừa dối này đang gây tranh cãi. Một số bác sĩ lâm sàng cho rằng đó là phi đạo đức ngay từ đầu và nếu bị phát hiện, có thể làm hỏng mối quan hệ bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân. Những người khác lại cho rằng nó không phi đạo đức khi không cho bệnh nhân điều gì khiến họ cảm thấy tốt hơn. Việc điều trị bằng chất có hoạt tính chỉ để đạt tác dụng như của giả dược có thể được xem là phi đạo đức vì sẽ gây những tác dụng không mong muốn thực sự cho bệnh nhân (ngược với các phản ứng bất lợi của nocebo). Merck & Co., Inc., Kenilworth, NJ, Hoa Kỳ (có tên là MSD ở các quốc gia bên ngoài Hoa Kỳ và Canada) là một công ty hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe toàn cầu làm việc để giúp thế giới khỏe mạnh. Từ việc phát triển các liệu pháp mới để điều trị và ngăn ngừa bệnh tật đến giúp đỡ những người gặp khó khăn, chúng tôi cam kết cải thiện tình trạng sức khỏe và hạnh phúc trên toàn thế giới. Cẩm nang được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1899 dưới dạng một dịch vụ cho cộng đồng. Di sản của nguồn tài nguyên tuyệt vời này tiếp tục là Cẩm nang Merck ở Hoa Kỳ và Canada và Cẩm nang MSD ở các quốc gia bên ngoài Bắc Mỹ. Tìm hiểu thêm về cam kết của chúng tôi về Kiến thức Y khoa Toàn cầu.
Giả dược
Placebo (phát âm tiếng Anh: plə-SEE-boh; từ tiếng Latinh placēbō "Tôi sẽ hài lòng") là vật chất hay phương pháp trị liệu được thiết kế để không có hiệu quả điều trị, hay nói cách khác là giả dược. Placebo được áp dụng lên người và làm cho họ nghĩ rằng họ đang được điều trị tích cực và sẽ có hiệu quả. Hiện tượng trái ngược với placebo là nocebo. Nhìn chung, giả dược có thể có khả năng tác động lên cách người bệnh nhận thức tình trạng bệnh của họ và thúc giục người bệnh có niềm tin tích cực vào liệu pháp điều trị mà họ được nhận, qua đó thúc đẩy các quá trình hóa học của cơ thể để giảm đau và một số triệu chứng khác. Những cải thiện mà bệnh nhân trải qua sau khi được điều trị bằng giả dược cũng có thể là do các yếu tố không liên quan, chẳng hạn như hồi quy về mức trung bình (hồi phục tự nhiên sau bệnh). Trong thử nghiệm thuốc chữa bệnh và nghiên cứu y học, placebo được sử dụng trong quá trình thử nghiệm lâm sàng loại thuốc. Giả dược trông giống như một loại thuốc mới nhưng không chứa các thành phần hoạt chất của thuốc để đánh giá hiệu quả và tác động của thuốc.
Tiểu sử nhóm Winner 2021 tất tần tật trưởng nhóm & các thành viên: Winner là một ban nhạc Kpop dưới trướng nhà YG Entertainment, lầm đầu ra mắt nhóm giới thiệu đến 5 thành viện thuộc team A gồm Kim Jin Woo, Lee Seung Hoon , Song Min Ho, Kang Seung Yoon và Nam Tae Hyun tuy nhiên Nam Tae Hyun đã rời đi năm 2021 chi tiết được dichvuhay.vn gửi đến bạn như sau. Nhóm Winner (tiếng Hàn: 위너; RR: Wineo; thường ghi cách điệu là WINNER) là một nhóm nhạc nam thần tượng Hàn Quốc được thành lập vào năm 2021 bởi YG Entertainment. Ngày 25 tháng 11 năm 2021, thành viên Nam Tae-hyun chính thức rời nhóm, Winner tiếp tục hoạt động với 4 thành viên còn lại. Sau nhiều lần trì hoãn, nhóm xuất hiện lần đầu ở Hàn Quốc vào ngày 15 tháng 8 tại YG Family Concert và lần đầu tiên ra mắt trên sóng truyền hình của WINNER là vào ngày 17 cùng tháng với sân khấu chính thức trên Inkigayo, trong khi lịch trình ra mắt của họ tại Nhật Bản là vào ngày tháng 10. Sau hàng loạt lịch trình từ tham gia show thực tế, chụp ảnh tạp chí hay tham gia concert, WINNER mới chính thức debut với album đầu tay 2014 S/S (2014), và màn ra mắt này được xem là một trong những màn ra mắt ấn tượng nhất của K-pop trong năm 2021. WINNER đã lập kỷ lục nhóm nam giật cúp nhanh nhất chỉ sau 5 ngày chính thức debut. Nhóm đã bán ra hơn 200,000 albums và hơn 8,6 triệu bản thu nhạc số, bao gồm 4,749,219 bản thu bài hát của nhóm và 3,885,050 bản solo của các thành viên. MelOn Music Awards (MMA) được xem là một trong 4 lễ trao giải âm nhạc lớn nhất Hàn Quốc nhằm tôn vinh các nhóm nhạc thần tượng, ca sỹ và nghệ sỹ đã có những đóng góp to lớn và hoạt động đầy năng nổ trong năm qua. Năm qua, lễ trao giải MelOn Music Awards 2021 đã diễn ra vào tối 2/12 tại Gocheok Skydome, Seoul với sự tham gia của dàn nghệ sĩ và idolgroup đình đám. Được biết Kang Seung Yoon đã theo học guitar từ năm lớp 8. Trong những năm cuối cấp 2, anh còn theo học cả guitar cổ điển và cách chơi bi da. Đã từng dự thi một số cuộc thi bi-a chuyên nghiệp và giành chiến thắng tại một cuộc thi bi da quốc gia được tổ chức ở Busan, sau đó trở thành đại diện của Busan dự thi các cuộc thi bi da. Anh tốt nghiệp trường cấp 3 nghệ thuật Busan chuyên ngành guitar cổ điển vào năm 2012. Kang Seung-yoon bắt đầu nổi lên từ cuộc thi tìm kiếm tài năng Superstar K2 được tổ chức từ tháng 7 đến tháng 10/2010. Sau khi kết thúc cuộc thi với vị trí thứ 4, Kang ký hợp đồng với YG Entertainment và thu âm ca khúc “You’re My Heaven” cho bộ phim truyền hình dài tập “Midas” vào năm 2011. Tuy nhiên, kể từ đó, không ai còn nghe nói gì về tài năng trẻ này nữa. Giám đốc điều hành của YG, Yang Hyun-suk chỉ cho biết Kang sẽ sớm ra mắt, có thể là với một nhóm nhạc mới. Hoạt động nghệ thuật duy nhất của anh trong thời gian này là vai diễn trong bộ phim truyền hình “High Kick”. Cuối cùng thì Kang cũng phát hành ca khúc chính thức đầu tiên “It’s Raining” vào năm 2013. Dù chỉ là bước đệm cho album “WIld & Young” nhưng “It’s Raining” đã liên tục đứng đầu các bảng xếp hạng theo thời gian thực tại Hàn Quốc Album đã phát hành: You’re My Heaven (“Midas” OST Part 1, 23/2/2011), It’s Raining (single, 17/7/2013). Seungyoon đạt no.4 trong mùa giải thứ hai của Superstar K và được ký kết hợp đồng thực tập sinh thuộc YG Entertainment trong năm 2011. Seungyoon không thể làm việc vào buổi sáng vì đôi khi thức dậy, Seungyoon không biết mình đang ở đâu. Seungyoon tự nhận thấy bản thân rất lười biếng và phụ trách phần chửi mắng trong nhóm. Anh sinh thuộc cung Bạch Dương, cầm tinh con (giáp) gà (Quý Dậu 1993). Song Mino xếp hạng nổi tiếng thứ 67522 trên thế giới và thứ 689 trong danh sách Ca sĩ nổi tiếng. Song Mino tên thật là Song Min-ho là một ca sĩ người Hàn Quốc. Anh chàng sinh năm 1993 này là thành viên của nhóm nhạc Winner. Song Mino bắt đầu sự nghiệp ca hát trong giới underground. Mino đã sáng tác và sản xuất nhiều bài hát/rap của riêng mình và nhiều bản mixtape khác. Anh cũng đã từng hợp tác với nhiều nghệ sĩ underground nổi tiếng khác. Minho là một ngôi sao trong chương trình thực tế của YGE mang tên Who Is Next. Chương trình là cuộc chiến sống còn của 11 thực tập sinh được tuyển chọn và chia thành 2 nhóm A và B. Hai nhóm sẽ thi đấu với nhau và nhóm chiến thắng thông qua lượng bình chọn của khán giả sẽ được chính thức debut. Nhóm chiến thắng sẽ mang tên WINNER và chính thức được debut sau khi chương trình kết thúc cũng như chính thức được đi quảng bá. Nhóm thua sẽ bị tan rã. Song Minho là thành viên cuối cùng tham gia vào nhóm. Trong tập đầu tiên của Who Is Next, YG đã chọn Song Minho làm nhóm trưởng TEAM A. Tuy nhiên, sau này Minho bị chấn thương, YG đã thu hồi lại chức vụ đó và trao nó cho Kang Seungyoon. Seunghoon nhận xét về Minho: ”Mino khi đứng trên sân khấu rất mạnh mẽ và quyến rũ, mọi khi thì cậu ấy lại giống như một đứa nhóc dễ thương và luôn thích vui đùa.” Minho từng là leader của Team A (trong WIN: Who Is Next) cho đến khi anh bị thương và thay thế leader là Seungyoon. Kim Jinwoo (Hangul: (김진우), sinh ngày 26 tháng 9 năm 1991 ở Hàn Quốc) là ca sĩ người Hàn Quốc và là thành viên lớn tuổi nhất của nhóm nhạc thần tượng Winner. Trong số các thành viên Winner (tiền thân là team A), anh là thực tập sinh lâu nhất ở YG (4 năm). Anh cùng với Kang Seung Yoon cũng là một trong những thành viên của đội hình team A ban đầu (trước khi Nam Tae Hyun, Song Min Ho, Lee Seung Hoon gia nhập). Kang Seung-yoon bắt đầu nổi lên từ cuộc thi tìm kiếm tài năng Superstar K2 được tổ chức từ tháng 7 đến tháng 10/2010. Sau khi kết thúc cuộc thi với vị trí thứ 4, Kang ký hợp đồng với YG Entertainment và thu âm ca khúc “You’re My Heaven” cho bộ phim truyền hình dài tập “Midas” vào năm 2011. Tuy nhiên, kể từ đó, không ai còn nghe nói gì về tài năng trẻ này nữa. Giám đốc điều hành của YG, Yang Hyun-suk chỉ cho biết Kang sẽ sớm ra mắt, có thể là với một nhóm nhạc mới. Hoạt động nghệ thuật duy nhất của anh trong thời gian này là vai diễn trong bộ phim truyền hình “High Kick”. Cuối cùng thì Kang cũng phát hành ca khúc chính thức đầu tiên “It’s Raining” vào năm 2013. Dù chỉ là bước đệm cho album “WIld & Young” nhưng “It’s Raining” đã liên tục đứng đầu các bảng xếp hạng theo thời gian thực tại Hàn Quốc. Hiện là thành viên nhóm nhạc nam WINNER trực thuộc YG Entertainment. Đã từng tham gia Kpop Star Season 1 và dành vị trí thứ 4, sau đó trở thành thực tập sinh của YG Entertainment. Khi SeungHoon còn nhỏ, anh là “kẻ lập dị” ở trường. Anh không hòa hợp với những học sinh ở trường cho lắm. Cha anh là một người bận rộn và hay phải đi công tác ở nước ngoài nên gia đình Seunghoon không hay gặp mặt và tổ chức các ngày lễ như những gia đình khác. Khi anh 17 tuổi anh đã rời khỏi Busan và một mình tới Seoul để theo đuổi giấc mơ, trở thành một nghệ sĩ của YG.
Winner (nhóm nhạc)
Winner (tiếng Triều Tiên: 위너; RR: Wineo; thường ghi cách điệu là WINNER) là một nhóm nhạc nam thần tượng Hàn Quốc được thành lập vào ngày 17 tháng 8 năm 2014 bởi YG Entertainment. Nhóm ra mắt với đội hình ban đầu gồm 5 thành viên: Kang Seung-yoon, Song Min-ho, Nam Taehyun, Kim Jinwoo và Lee Seunghoon. Ngày 25 tháng 11 năm 2016, thành viên Nam Tae-hyun chính thức rời nhóm, Winner tiếp tục hoạt động với 4 thành viên còn lại. Năm 2010, Kang Seung Yoon tham gia vào cuộc thi Superstar K2 và dừng lại ở vị trí thứ tư. Năm 2011, anh ký hợp đồng với YG Entertaiment và tham gia diễn xuất trong sitcom Highkick: Revenge of the Short Legged. Năm 2013, anh ra mắt với tư cách là nghệ sĩ solo và phát hành nhiều bản nhạc, bao gồm bài hát nổi tiếng "It Rains".Năm 2010, Kim Jinwoo đã đến Học viện âm nhạc Joy Dance Plug và thử giọng thành công, anh bắt đầu gia nhập YGE với tư cách là thực tập sinh. Nam Taehyun được tuyển chọn thông qua một buổi thử giọng vào năm 2011. Lee Seunghoon tham gia cuộc thi K-pop Star 1 của SBS năm 2012 và dừng lại ở vị trí thứ tư.
Bạn không thể đăng nhập xã hội trên các trình duyệt riêng tư hoặc ở chế độ ẩn danh. Vui lòng đăng nhập bằng tên người dùng hoặc email của bạn để tiếp tục. Bài viết này có đồng tác giả là đội ngũ biên tập viên và các nhà nghiên cứu đã qua đào tạo, những người xác nhận tính chính xác và toàn diện của bài viết. Nhóm Quản lý Nội dung của wikiHow luôn cẩn trọng giám sát công việc của các biên tập viên để đảm bảo rằng mọi bài viết đều đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Khỏa thân trong gia đình là đề tài khó nói vì các giá trị văn hóa, nhưng việc này không có nghĩa là không lành mạnh. Thật ra, việc xem khỏa thân là điều bình thường có thể giúp trẻ em phát triển hình ảnh lành mạnh về cơ thể và có suy nghĩ đúng đắn trong việc hẹn hò khi trưởng thành. Tuy nhiên, điều quan trọng là bạn cần thực hiện khỏa thân trong gia đình một cách an toàn. Để đạt được điều này, bạn phải dạy con mình những quy tắc và giới hạn về việc khỏa thân, và giải quyết các vấn đề tiềm ẩn. Cho trẻ nhỏ biết rằng khỏa thân là tự nhiên và không liên quan đến tình dục. Tùy vào nền văn hóa nơi bạn sống, bạn có thể liên tưởng đến tình dục khi nghĩ về khỏa thân. Tuy nhiên, đó là trạng thái tự nhiên nhất của bạn. Khi bạn khỏa thân trước mặt con cái, hãy hành động như thể đó là điều tự nhiên và bình thường. Khuyến khích chúng chấp nhận việc khỏa thân là một phần bình thường của con người thay vì là hoạt động tình dục. Khỏa thân không nhất thiết phải khơi gợi ham muốn tình dục. Hãy tách biệt tình dục và khỏa thân trong đời sống gia đình để việc khỏa thân được thực hành một cách lành mạnh. Cảnh báo: Tốt nhất bạn nên thực hành việc khỏa thân trong gia đình khi các con bạn còn nhỏ. Nếu con của bạn đã tương đối lớn, bạn chỉ nên khỏa thân khi chúng đi vắng, trừ khi chúng cảm thấy thoải mái về việc này. Khỏa thân không nhất thiết phải khơi gợi ham muốn tình dục. Hãy tách biệt tình dục và khỏa thân trong đời sống gia đình để việc khỏa thân được thực hành một cách lành mạnh. Cảnh báo: Tốt nhất bạn nên thực hành việc khỏa thân trong gia đình khi các con bạn còn nhỏ. Nếu con của bạn đã tương đối lớn, bạn chỉ nên khỏa thân khi chúng đi vắng, trừ khi chúng cảm thấy thoải mái về việc này. Thực hành khỏa thân an toàn giới tính ngay khi trẻ còn nhỏ. Một trong những thách thức lớn nhất với việc khỏa thân trong gia đình là phải giải quyết sự khác biệt về giới tính. Trẻ em có khuynh hướng đặt nhiều câu hỏi, và một số người sẽ thấy khó chịu với quyết định của bạn. Bạn nên hướng dẫn trẻ nhỏ cách khỏa thân an toàn cho nam và nữ ngay từ lúc mới sinh hoặc càng sớm càng tốt. Cho chúng biết về những khác biệt trên cơ thể của hai giới, và hành vi nào là an toàn và phù hợp. Trả lời bất cứ câu hỏi nào mà con nhỏ đặt ra về sự khác biệt trên cơ thể của mỗi thành viên trong nhà, như bộ phận sinh dục và lông cơ thể. Bạn có thể nói rằng, “Mẹ có nhiều lông hơn con vì mẹ là người lớn. Mai mốt con cũng sẽ có lông” hoặc “Con có dương vật và chị con có âm đạo, nên hai con khác nhau ở điểm đó”. Giải thích những điểm nào được sờ và những điểm nào không được đụng đến. Bạn có thể nói, “Bất kỳ ai cũng không được chạm vào con theo cách khiến con khó chịu. Cũng không ai được sờ vào chỗ dưới đó của con”. Không có gì sai trái khi con cái nhìn cha mẹ chúng khỏa thân nếu đó là cách nhìn bình thường và chúng cảm thấy thoải mái. Trả lời bất cứ câu hỏi nào mà con nhỏ đặt ra về sự khác biệt trên cơ thể của mỗi thành viên trong nhà, như bộ phận sinh dục và lông cơ thể. Bạn có thể nói rằng, “Mẹ có nhiều lông hơn con vì mẹ là người lớn. Mai mốt con cũng sẽ có lông” hoặc “Con có dương vật và chị con có âm đạo, nên hai con khác nhau ở điểm đó”. Giải thích những điểm nào được sờ và những điểm nào không được đụng đến. Bạn có thể nói, “Bất kỳ ai cũng không được chạm vào con theo cách khiến con khó chịu. Cũng không ai được sờ vào chỗ dưới đó của con”. Không có gì sai trái khi con cái nhìn cha mẹ chúng khỏa thân nếu đó là cách nhìn bình thường và chúng cảm thấy thoải mái. Tạo hình mẫu về một cơ thể lành mạnh trong khi khỏa thân. Một trong những lợi ích lớn nhất của việc khỏa thân trong gia đình là xây dựng được hình ảnh cơ thể lành mạnh trong mắt các con. Khi khỏa thân trước mặt chúng, bạn hãy hành động như kiểu mình cảm thấy dễ chịu và tự hào về cơ thể. Bên cạnh đó, tránh phê bình cơ thể khi các con đang có mặt. Thay vì nói, “Mẹ ước cái bụng của mình nhỏ hơn”, bạn hãy nói “Mẹ hạnh phúc vì cơ thể này đã mang con đến thế giới này”. Tránh thể hiện bản năng tính dục khi gia đình đang ở bên nhau. Mặc dù bản năng tính dục là điều bình thường và lành mạnh, nhưng bạn chỉ nên làm điều đó ở chỗ riêng tư. Nếu không, con của bạn sẽ khó hiểu về những gì được làm và những gì không nên làm. Nếu bạn cảm thấy hưng phấn, hãy dùng tay che và viện cớ tránh đi nơi khác. Tương tự, đừng sờ soạng những điểm nhạy cảm của vợ/chồng bạn khi có mặt các con. Ví dụ, đừng bóp ngực hay sờ cô bé của vợ bạn khi có mặt các con. Điều này sẽ khiến chúng nghĩ rằng chúng cũng có thể làm điều đó vì bạn đang làm gương như vậy. Bạn nên giải thích rằng có những tập tục văn hóa khác nhau về vấn đề khỏa thân. Mỗi nền văn hóa có những giá trị riêng khi nói về khỏa thân. Ví dụ, văn hóa châu Âu cởi mở hơn về khỏa thân trong gia đình và ở nơi công cộng, trong khi các nền văn hóa khác thì khắt khe hơn. Không có gì sai trái khi người ta có các giá trị văn hóa khác nhau, hoặc có những nghi ngờ về giá trị văn hóa nơi bạn sống. Tuy nhiên, hãy trao đổi với trẻ để chúng biết điểm khác nhau giữa cách chúng sống với những gì bạn của chúng nghĩ. Bạn có thể nói, “Trong gia đình mình, chúng ta thích sống gần gũi với tự nhiên và tôn trọng cơ thể của chúng ta, nghĩa là chúng ta thấy việc khỏa thân bên cạnh các thành viên gia đình là bình thường. Một số người bạn của con có thể cho rằng điều này không ổn vì họ có các giá trị gia đình khác với chúng ta”. Luôn giữ cơ thể sạch sẽ và vệ sinh khi khỏa thân. Khi khỏa thân, bạn cần chú ý nhiều hơn đến vấn đề vệ sinh của gia đình. Người trong nhà có thể vô tình làm dính phân, dịch tiết âm đạo, hay máu kinh nguyệt lên đồ đạc hoặc sàn nhà. Gia đình bạn phải tắm rửa thường xuyên và mỗi người trong nhà phải vệ sinh sạch sẽ sau khi đi vệ sinh. Ngoài ra, hãy cân nhắc lót khăn tắm khi bạn ngồi lên ghế hay đồ nội thất. Sử dụng khăn ướt sau khi đi vệ sinh có thể giúp bạn vệ sinh bộ phận sinh dục và hậu môn sạch hơn. Hãy để mỗi thành viên trong nhà tự quyết định điều gì giúp họ cảm thấy thoải mái. Bạn muốn cả gia đình khỏa thân vì cho rằng điều này có lợi. Tuy nhiên, có thể các thành viên trong gia đình bạn không nghĩ như vậy. Hãy để vợ/chồng, con cái và các thành viên khác tự quyết định làm những gì họ cảm thấy thoải mái. Sau đó, cùng nhau trao đổi về vấn đề này để hiểu và tôn trọng nhu cầu của nhau. Ví dụ, vợ/chồng bạn có thể đồng ý mặc đồ lót thay vì khỏa thân hoàn toàn. Tương tự, các con bạn thấy rằng họ chỉ muốn khỏa thân khi xung quanh không có thành viên khác giới. Hãy tôn trọng ranh giới mà các thành viên khác đã đặt ra đối với việc khỏa thân. Sau khi biết được nhu cầu của từng người, bạn hãy thảo luận các ranh giới mà mình muốn đặt ra trong gia đình. Một thời gian sau, bạn sẽ xem xét lại các ranh giới này khi con bạn đã lớn để đảm bảo cảm xúc của chúng vẫn được quan tâm. Ví dụ, nếu các con bạn nói là không muốn bạn khỏa thân trước mặt chúng, vậy bạn nên mặc quần áo khi ở bên chúng. Tương tự, con bạn có thể không muốn tắm chung với các thành viên khác, điều đó cũng ổn thôi. Đặt ra quy tắc về thời gian phù hợp để khỏa thân. Mặc dù không có gì sai trái với việc khỏa thân nhưng nó không phù hợp trong mọi hoàn cảnh. Người lớn trong nhà dễ dàng nhận ra khi nào cần mặc quần áo, nhưng trẻ nhỏ có thể không biết khi nào và ở đâu có thể khỏa thân. Hãy nói chuyện với chúng về sự cần thiết phải mặc quần áo ở không gian công cộng và đặt ra các quy tắc. Dưới đây là một số quy tắc bạn có thể xem xét:. Giáo dục về những đặc điểm cơ thể khác nhau theo cách tích cực. Trẻ con thường để ý những điểm khác nhau trên cơ thể. Chúng có thể hỏi về các cơ quan sinh dục khác nhau, lượng lông và mỡ cơ thể khác nhau. Hãy trả lời các câu hỏi của chúng về cơ thể của mỗi thành viên trong gia đình. Duy trì thái độ tích cực và giúp chúng hiểu biết thêm về cơ thể con người. Ví dụ, chúng có thể hỏi rằng, “Sao mẹ không có dương vật?” Bạn hãy trả lời, “Một số người sinh ra có dương vật, trong khi số khác lại có âm đạo”. Trẻ nhỏ cũng có thể hỏi đại khái như, “Sao bụng mẹ lại mềm như vậy?” Bạn hãy nói, “Một số người có bụng mềm, nhưng một số lại có bụng cứng. Cả hai đều đẹp”. Ví dụ, chúng có thể hỏi rằng, “Sao mẹ không có dương vật?” Bạn hãy trả lời, “Một số người sinh ra có dương vật, trong khi số khác lại có âm đạo”. Trẻ nhỏ cũng có thể hỏi đại khái như, “Sao bụng mẹ lại mềm như vậy?” Bạn hãy nói, “Một số người có bụng mềm, nhưng một số lại có bụng cứng. Cả hai đều đẹp”. Giúp con nhỏ học cách trả lời các câu hỏi về việc khỏa thân. Mặc dù khỏa thân là lựa chọn phù hợp cho gia đình bạn, nhưng một số người sẽ thắc mắc. Nghĩa là con bạn sẽ bắt đầu nhận được các câu hỏi về điều này khi chúng lớn hơn. Hãy trò chuyện với các con bạn về cách trả lời các câu hỏi này. Điều này sẽ giúp chúng giải thích các giá trị của gia đình bạn để người khác hiểu được. Ví dụ, một người bạn hỏi, “Khỏa thân trước mặt bố mẹ bạn không phải là hành vi sai trái sao?” Con bạn sẽ trả lời, “Trong gia đình tớ điều đó là tự nhiên, không có gì kỳ lạ. Người nhà tớ thậm chí còn không để ý là mình đang khỏa thân”. Hãy bình tĩnh thảo luận với con nhỏ nếu chúng thể hiện hành vi tính dục. Trẻ con khám phá cơ thể chúng là điều hoàn toàn bình thường, do đó bạn không nên lo nếu chúng bắt đầu sờ soạng bản thân. Tuy nhiên, quan trọng là bạn phải thảo luận những gì được làm và không nên làm. Bình tĩnh và nghiêm túc nói với con bạn rằng không được sờ soạng cơ quan sinh dục trước mặt người khác. Ngoài ra, bạn cần giải thích rằng chúng không nên sờ người khác theo cách gợi dục. Bạn có thể nói thế này, “Lúc nãy mẹ thấy con vuốt dương vật. Chắc chắn con có thể sờ cơ thể mình, nhưng chỉ được làm vậy khi con ở một mình”. Đừng tỏ ra tức giận hay phán xét vì điều này có thể khiến trẻ nhỏ nghĩ rằng bản năng tình dục là sai trái. Lời khuyên: Tốt nhất bạn nên đem con tới bác sĩ nếu nó liên tục có hành vi tính dục. Mặc dù trẻ con khám phá cơ thể chúng là chuyện bình thường, nhưng đôi khi chúng thực hiện hành vi này là vì đã thấy các cảnh không phù hợp. Bạn có thể nói thế này, “Lúc nãy mẹ thấy con vuốt dương vật. Chắc chắn con có thể sờ cơ thể mình, nhưng chỉ được làm vậy khi con ở một mình”. Đừng tỏ ra tức giận hay phán xét vì điều này có thể khiến trẻ nhỏ nghĩ rằng bản năng tình dục là sai trái. Lời khuyên: Tốt nhất bạn nên đem con tới bác sĩ nếu nó liên tục có hành vi tính dục. Mặc dù trẻ con khám phá cơ thể chúng là chuyện bình thường, nhưng đôi khi chúng thực hiện hành vi này là vì đã thấy các cảnh không phù hợp. Giáo dục trẻ nhỏ biết đụng chạm thế nào là phù hợp và không phù hợp. Việc khỏa thân giúp trẻ nhỏ thấy thoải mái về cơ thể chúng, điều này rất tốt!
Khỏa thân
Khỏa thân hay lõa thể là trạng thái mà con người không mặc quần áo hoặc đặc biệt là không che bộ phận sinh dục. Trong một số xã hội, ảnh khoả thân một phần được định nghĩa là không che phủ các bộ phận khác của cơ thể được coi là gợi tình. Trần trụi, hoặc việc mất lông trên cơ thể, là một trong những đặc điểm vật lý đánh dấu sự tiến hóa của con người hiện đại về mặt giải phẫu từ tổ tiên hominini. Trong nhiều ngàn năm, con người không mặc quần áo, điều này tiếp tục là chuẩn mực trong một số xã hội bản địa bị cô lập ở vùng khí hậu nhiệt đới. Người ta thường chấp nhận rằng việc áp dụng rộng rãi quần áo xảy ra khi mọi người di cư đến các vùng khí hậu khác cần được bảo vệ khỏi các yếu tố. Ngoài ra, khi các xã hội phát triển từ việc săn bắn hái lượm thành nông dân, quần áo trở thành một phần của sự tiến hóa văn hóa khi các cá nhân và các nhóm trở nên khác biệt bởi địa vị và giai cấp.
Thực vật đóng vai trò quan trọng trong đời sống động vật. Chúng cung cấp thức ăn cho nhiều động vật (trong đó có cả con người). Cung cấp oxi dùng cho quá trình hô hấp, cung cấp nơi ở và nơi sinh sản của một số động vật. Thực vật rất đa dạng và phong phú. Trên thế giới ở thời điểm hiện tại ước tính có tới hơn 500.000 loài thực vật, gồm thực vật có hạt, rêu, dương xỉ và cận dương xỉ (fern ally) được thống kê hiện đang tồn tại. Năm 2004, 287.655 loài được xác định, trong số đó 258.650 là loài có hoa, 16.000 loài rêu, 11.000 loài dương xỉ và 8.000 loài tảo xanh. Ở đất nước của chúng ta có khoảng trên 12.000 loài. Chúng phân bố trải dài trên hầu hết bề mặt trái đất. Thay đổi qua các vùng khí hậu khác nhau. Thực vật là những sinh vật có khả năng tạo cho mình chất dinh dưỡng từ những hợp chất vô cơ đơn giản và xây dựng thành những phần tử phức tạp nhờ quá trình quang hợp, diễn ra trong lục lạp của thực vật. Như vậy đặc điểm chung của thực vật đó chủ yếu là các sinh vật tự dưỡng. Quá trình quang hợp sử dụng năng lượng ánh sáng được hấp thu nhờ sắc tố màu lục – Diệp lục có ở tất cả các loài thực vật (không có ở động vật) và nấm là một ngoại lệ, dù không có chất diệp lục nhưng nó thu được các chất dinh dưỡng nhờ các chất hữu cơ lấy từ sinh vật khác hoặc mô chết. Đặc điểm chung của thực vật có thành tế bào bằng xenluloza (không có ở động vật). Thực vật không có khả năng chuyển động tự do ngoại trừ một số thực vật hiển vi có khả năng chuyển động được. Thực vật còn khác ở động vật là chúng phản ứng rất chậm với sự kích thích, sự phản ứng lại thường phải đến hàng ngày và chỉ trong trường hợp có nguồn kích thích kéo dài.Các loài thực vật có hạt đầu tiên được nói đến như là:. Vậy đặc điểm chung của thực vật là gì?+ Tự tổng hợp được chất hữu cơ.+ Phần lớn không có khả năng di chuyển.+ Phản ứng chậm với các kích thích từ bên ngoài.Tuy nhiên để tìm hiểu rõ hơn về thực vật ta hãy tìm hiểu đặc tính của từng ngành nhé!
Thực vật có hạt
Thực vật có hạt (danh pháp khoa học: Spermatophyta (từ tiếng Hy Lạp "Σπερματόφυτα") bao gồm các loài thực vật có sinh ra hạt. Chúng là tập hợp con của thực vật có mạch (Tracheophyta) trong thực vật có phôi (Embryophyta). Ngành Tuế (Cycadophyta), nhóm thực vật nhiệt đới và cận nhiệt đới với tán lá rộng bao gồm các lá phức và thân cây to, mập. Ngành Thông (Pinophyta), các loại cây gỗ và cây bụi mang các quả nón. Ngành Thực vật hạt kín (Angiospermae) hay thực vật có hoa, một nhóm lớn bao gồm nhiều loài thực vật quen thuộc và sinh sống trong nhiều môi trường sống khác nhau. Bổ sung thêm cho các đơn vị phân loại liệt kê trên đây, các mẫu hóa thạch còn chứa các chứng cứ của nhiều đơn vị phân loại tuyệt chủng trong thực vật có hạt. Nhóm gọi là "dương xỉ có hạt" (Pteridospermae) là một trong các nhóm thành công sớm nhất trong thực vật trên đất liền, và các cánh rừng mà dương xỉ có hạt đã từng thống lĩnh là thịnh hành vào cuối đại Cổ Sinh. Glossopteris là chi chứa các loài cây gỗ phổ biến nhất tại siêu lục địa cổ đại ở phương nam là Gondwana trong thời kỳ thuộc kỷ Permi.
Hiện nay ngôn ngữ lập trình Python trở thành dạng ngôn ngữ lập trình quen thuộc với nhiều lập trình viên. Khái niệm Python là gì? Vấn đề này còn nhiều người chưa biết và cần được giải đáp. Vậy hãy cùng camnangdienmay.net cùng tìm hiểu về thuật ngữ này nhé!. Python là tên gọi của ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng cấp cao, mạnh mẽ được tạo ra bởi Guido van Rossum. Nó dễ dàng được tìm thấy và đang nổi lên như một trong những ngôn ngữ lập trình nhập môn tốt nhất cho người lần đầu tiếp xúc. Đây là dạng ngôn ngữ lập trình phổ biến được sử dụng để phát triển website và thiết kế các ứng dụng khác nhau. Python được biết đến là dạng ngôn ngữ lập trình có hướng đối tượng đa năng. Ngôn ngữ này sở hữu cấu trúc dữ liệu cao mạnh mẽ và hệ thống thư viện lớn. Ngôn ngữ lập trình Python được sử dụng cơ chế cấp phát bộ nhớ tự động với cú pháp đơn giản. Giúp cho người học dễ tiếp cận và làm quen dễ dàng hơn kể cả những người bắt đầu làm quen với lập trình. Cú pháp lệnh của Python là điểm cộng vô cùng lớn vì sự rõ ràng, dễ hiểu và cách gõ linh động làm tiết kiệm thời gian của người dùng. Điều này nhanh chóng trở thành một trong những ngôn ngữ lý tưởng để viết script và phát triển ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Vào những năm cuối 1980, Guido Van Rossum làm việc trong Amoeba, phân phối một nhóm hệ điều hành. Ông muốn sử dụng một dạng ngôn ngữ thông dịch như ABC (dạng cú pháp dễ hiểu) để truy cập vào những cuộc gọi của hệ thống Amoeba. Do đó, ông quyết định tạo một ngôn ngữ mở rộng. Do đó đã thiết kế và xây dựng một ngôn ngữ mới đó là Python. Tên gọi này rất đặc biệt và có ý nghĩa. Nó không phải đặt tên theo con rắn thần Python trong thần thoại Hy Lạp mà bởi tác giả Guido Van Rossum là fan của chương trình hài cuối năm 70 của thế kỷ XX. Cái tên “Python” được lấy tên một phần trong chương trình “Monty Python’s Flying Circus”. – Khối lệnh: Python thường sử dụng cách lùi đầu dòng như dấu cách hay dạng tab để tạo các khối lệnh. Các khối lệnh con sẽ ở vị trí thụt lùi đầu dòng vào sâu hơn so với các khối lệnh cha mà nó trực thuộc. – Python có khả năng mở rộng linh hoạt: Nếu bạn đã từng nghe qua ngôn ngữ lập trình C, bạn có thể dễ dàng tích hợp ngôn ngữ Python vào việc viế các đoạn hàm khác nhau đáp ứng nhu cầu của bạn. Bạn có thể mở rộng chức năng của thông dịch viên hoặc liên kết trình thông dịch Python với hầu hết các ứng dụng viết từ ngôn ngữ C để mở rộng hoặc tạo lệnh phụ trợ cho ứng dụng đó. – Ngôn ngữ lập trình cơ bản: Với những người mới tiếp xúc với ngôn ngữ lập trình này thì Python có cú pháp rất đơn giản và rõ ràng. Nó dễ đọc và viết hơn nhiều so với những dạng ngôn ngữ lập trình khác như C++, Java, C. Ngôn ngữ lập trình này giúp cho quá trình sử dụng được trở lên thú vị và giúp bạn tập trung vào các giải pháp chứ không phải là các cú pháp với cấu trúc trúc phức tạp. – Miễn phí, mã nguồn mở: Bạn có thể tự do sử dụng và phân phối Python. Thậm chí bạn có thể dùng nó cho mục đích thương mại. Thay vì mã nguồn đóng, khi sử dụng Python bạn sẽ có một mã nguồn mở không những có thể sử dụng các phần mềm, chương trình viết trong Python mà còn có thể thay đổi mã nguồn của nó. – Khả năng di chuyển linh hoạt: Các chương trình Python có thể di chuyển từ nền tảng này sang nền tảng khác. Sau đó sẽ chạy đến mà không có bất kỳ thay đổi nào. – Tính năng mở rộng và có thể nhúng: Nếu một ứng dụng đòi hỏi sự phức tạp lớn, bạn có thể dễ dàng kết hợp các phần code bằng C, C++ và những dạng ngôn ngữ khác vào code Python. Tính năng này giúp cho ứng dụng của bạn có thêm những tính năng tốt hơn và các khả năng đặc biệt mà những ngôn ngữ khác không thực hiện được. – Ngôn ngữ thông dịch cao cấp: Khác với ngôn ngữ C, Python có khả năng ghi nhớ dữ liệu, quản lý bộ nhớ, dọn dẹp những dữ liệu vô nghĩa,… Khi chạy code Python nó sẽ tự động chuyển đổi code sang ngôn ngữ máy tính có thể hiểu được. – Thư viện với dữ liệu lớn: Python có một số lượng lớn như tiêu chuẩn giúp cho công việc lập trình của bạn trở lên dễ thở hơn. Bởi đơn giản không phải vì tự viết code. – Hướng đối tượng: Tất cả có trong Python đều là hướng đối tượng. Ngôn ngữ Python giúp giải quyết những vấn đề phức tạp một cách trực quan nhất. Đối với OOP bạn có thể phân chia những vấn đề phức tạp thành những tập nhỏ hơn bằng cách tạo ra các đối tượng. Bên cạnh những ưu điểm nổi bật của Python thì nó luôn tồn tại những nhược điểm. – Hạn chế của ngôn ngữ lập trình Python là không có các thuộc tính như: Protected, private hay public, không có vòng lặp,. – Python mặc dù nhanh hơn so với PHP, nhưng không nhanh hơn so với C++, Java,. – Lập trình ứng dụng web: Bạn có thể sử dụng ngôn ngữ Python để tạo web app có khả năng mở rộng bằng cách sử dụng framework và CMS (hệ thống quản trị nội dung) được tích hợp trong Python. – Ứng dụng trong khoa học và tính toán: Có nhiều thư viện trong Python cho khoa học và tính toán các số liệu như SciPy và NumPy, được sử dụng cho những mục đích chung trong tính toán. Bên cạnh đó nó được sử dụng trong các ứng dụng như EarthPy (khoa học trái đất), AstroPy cho Thiên văn học,…Ngoài ra, Python còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như Machine Learning, Khai thác dữ liệu và deep learning. – Ứng dụng tạo phần mềm nguyên mẫu: So với các ngôn ngữ biên dịch như C++, Java thì Python bị so sánh chậm hơn. Nó không phải lựa chọn tốt nếu nguồn lực bị giới hạn và yêu cầu về hiệu quả bắt buộc. Tuy nhiên, Python lại là lựa chọn tuyệt vời có thể tạo những nguyên mẫu. Cụ thể, bạn có thể sử dụng Pygame để tạo nguyên mẫu game trước đó. – Ứng dụng trong việc giảng dạy: Python được nhiều công ty, trường học cho sử dụng để dạy lập trình cho trẻ em và những người lần đầu học lập trình. Bên cạnh các tính năng đa dạng thì cú pháp đơn giản rất dễ sử dụng. – Ứng dụng trong kinh doanh: Sử dụng Python có sự khác biệt lớn về các doanh nghiệp so với việc sử dụng các tiêu chuẩn về các tính năng như khả năng đọc và khả năng mở rộng. Nhờ việc sử dụng ngôn ngữ Python giúp cho thiết bị có hiệu suất cao, khả năng mở rộng, tính linh hoạt hơn các ngôn ngữ khác. Một số công cụ để phát triển ứng dụng kinh doanh như Odoo – phần mềm quản lý tất cả trong một tạo thành ứng dụng quản lý; hoặc Tryton, một nền tảng ứng dụng ba tầng, cấp cao có mục đích chung là xây dựng các ứng dụng kinh doanh. – Ứng dụng trong việc xử lý hình ảnh: Ngôn ngữ lập trình Python được sử dụng để thiết kế và xây dựng phần mềm hình ảnh 2D như Inkscape, GIMP, Paint Shop Pro và Scribus. – Cú pháp đơn giản: Lập trình bằng Python giúp người dùng dễ hiểu, dễ đọc và code bằng Python. Cú pháp ngôn ngữ giống với ngôn ngữ tự nhiên. Có thể lấy ví dụ cú pháp đoạn code:. Thậm chí ngay cả khi chưa lập trình bao giờ, bạn cũng có thể dễ dàng đoán được các đoạn code này thêm vào 2 số a, b, tính tổng và in tổng của chúng. – Cách tạo dựng không quá khắt khe: Khi sử dụng bạn không cần xác định kiểu của một biến trong Python, không cần thêm dấu chấm phẩy vào cuối câu lệnh. Python buộc bạn tuân theo những bài tập có sẵn. Ưu điểm này giúp người dùng vận dụng sẵn các cấu trúc cho trước, dễ dàng cho người mới tìm hiểu. – Viết code đơn giản hơn: Python cho phép những chương trình có các chức năng tốt hơn với ít dòng code hơn. Bạn có thể tìm hiểu một số mã nguồn phổ biến trong game như Tic-tac-toe (pastebin.com/7LTkj2V5) với giao diện đồ họa và đối thủ máy tính thông minh chưa đến 500 dòng code. Thực sự đây mới là một trong các ví dụ đơn giản của ngôn ngữ lập trình Python. Khi tìm hiểu sẽ có nhiều điều thú vị hơn bạn tưởng tượng. – Có sự hỗ trợ tốt: Hiện nay Python có một cộng đồng hỗ trợ rộng lớn, có nhiều diễn đàn hoạt động trực tuyến. Vì vậy khi có vấn đề thắc mắc đều có thể giải đáp được. Để sử dụng ngôn ngữ này cho ứng dụng của mình, trước hết bạn cần cài đặt trình thông dịch Python. Tuy nhiên tùy vào các thiết bị máy tính, hệ điều hành bạn đang sử dụng. Có thể nó được cài đặt sẵn hoặc không có sẵn. – Trước hết bạn có thể sử dụng cửa sổ dòng lệnh nhập Python và ấn Enter để kiểm tra liệu máy tính của mình có sẵn trong chương trình thông dịch. +) Với các hệ điều hành Window (phiên bản từ Window Vista trở lên): Bạn có thể tải phần mềm Python về máy và dễ dàng cài đặt. Tuy nhiên với hệ điều hành Window XP bạn sẽ cần cài đặt thêm phần mềm Active Python. +) Với hệ điều hành MAC OSX: Bạn cần tiến hành kiểm tra phiên bản hệ điều hành của mình để lựa chọn phiên bản dành cho Mac OS 10.2, Mac OS 10.3, Mac OS 10.4,…. +) Với hệ điều hành Linux: Với phần mềm này đây là cách cài đặt đơn giản nhất đó là thông qua ứng dụng Repository. Điều bạn cần làm là cập nhật Repository trước khi đặt lệnh cài Python. Với cách này bạn không cần tải file Python hay giải nén bất cứ file nào. Để kiểm tra phiên bản sau khi cài đặt bạn sử dụng các lệnh sau: Với python 2.x: python hoặc python -V; với python 3.x: python3 hoặc python3 -V. Camnangdienmay.net Trang thông tin tổng hợp chia sẻ kiến thức về các loại máy móc công nghiệp cùng những mẹo vặt trong cuộc sống gửi đến các bạn độc giả
Python (ngôn ngữ lập trình)
Python (phát âm tiếng Anh: /ˈpaɪθɑːn/) là một ngôn ngữ lập trình bậc cao cho các mục đích lập trình đa năng, do Guido van Rossum tạo ra và lần đầu ra mắt vào năm 1991. Python được thiết kế với ưu điểm mạnh là dễ đọc, dễ học và dễ nhớ. Python là ngôn ngữ có hình thức rất sáng sủa, cấu trúc rõ ràng, thuận tiện cho người mới học lập trình và là ngôn ngữ lập trình dễ học; được dùng rộng rãi trong phát triển trí tuệ nhân tạo. Cấu trúc của Python còn cho phép người sử dụng viết mã lệnh với số lần gõ phím tối thiểu. Vào tháng 7 năm 2018, van Rossum đã từ chức lãnh đạo trong cộng đồng ngôn ngữ Python sau 30 năm làm việc. Python hoàn toàn tạo kiểu động và dùng cơ chế cấp phát bộ nhớ tự động; do vậy nó tương tự như Perl, Ruby, Scheme, Smalltalk, và Tcl. Python được phát triển trong một dự án mã mở, do tổ chức phi lợi nhuận Python Software Foundation quản lý. Ban đầu, Python được phát triển để chạy trên nền Unix. Nhưng rồi theo thời gian, Python dần mở rộng sang mọi hệ điều hành từ MS-DOS đến Mac OS, OS/2, Windows, Linux và các hệ điều hành khác thuộc họ Unix.
Liệu các bạn có ai đã tự hỏi, vì sao Mỹ có tổng thống, còn Anh thì có Thủ tướng và Pháp thì lại có cả hai. Sự khác biệt nằm ở đâu? Bài viết này sẽ giải thích cho các bạn một cách dễ hiểu nhất về ba chính thể phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Các quốc gia có một mức độ “tổng thống chế bán phần” được biểu thị bằng màu VÀNG. Màu TÍM là các nước “Quân chủ chuyên chế”. Màu NÂU là các nước đơn đảng. Lịch sử của các hệ thống chính trị không tồn tại duy nhất một cách thức về việc tổ chức quyền lực. Trên thực tế, tồn tại rất nhiều dạng tổ chức khác nhau với các cách thức hoạt động khác nhau, mặc dù một vài trong số chúng có nền tảng như nhau. Nguyên nhân trực tiếp của sự phong phú của các hệ thống này chính là bởi sự phụ thuốc vào lịch sử và các đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia, dân tộc. Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội, bao gồm các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, các tổ chức chính trị – xã hội, được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Nó cũng bao gồm các quy tắc định hướng các hoạt động chính trị, các nguyên tắc mà theo đó những cá nhân hay đảng phái chính trị phải tuân theo. (nôm na là tất cả những gì liên quan đến quyền lực chính trị). Tất cả điều trên tạo ra một quy trình và có chức năng cho phép Nhà nước đạt được mục tiêu chính trị, thông qua việc đưa ra các quyết định sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực. Những quyết định này ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến các thành viên sống trong đó, và đôi khi cũng ảnh hưởng đến chính hệ thống chính trị. Nói đến hệ thống chính trị thì chúng ta không thể không nói đến khái niệm Nhà nước, hai khái niệm này luôn đi song hành với nhau. Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, được lập ra bởi giai cấp thống trị. Theo đó Nhà nước mang tính chất giai cấp. Tuy các Nhà nước được ra đời theo các cách khác nhau nhưng nhìn chung tất cả chúng đều có những đặc điểm chung sau: sở hữu quyền lực công (cảnh sát, quân đội,…); có dân cư và lãnh thổ riêng; có chủ quyền quốc gia (sovereign – quyền tự quyết các vấn đề đội nội và đối ngoại mà không phụ thuộc vào nước khác); ban hành pháp luật; và thu thuế. Các chức năng chính của nhà nước được chia thành đối nội và đối ngoại. Để thực hiên được các chức năng trên, Nhà nước sử dụng ba hình thức hoạt động chính là: Xây dựng pháp luật (lập pháp), tổ chức thực hiện pháp luật (hành pháp) và bảo vệ pháp luật (tư pháp). Mỗi Nhà nước sẽ có cách thức khác nhau trong việc lập pháp, hành pháp và tư pháp, tùy thuộc vào hệ thống chính trị của nó. Vì vậy, dựa vào mối liên hệ này, các nhà lý thuyết đã đưa ra các khái niệm: hình thức chính thể (Form of government), hình thức cấu trúc nhà nước (Form of State) và chế độ chính trị (Political Regime). Hình thức chính thể là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao của nhà nước và xác lập những mỗi quan hệ cơ bản của các cơ quan đó. Hình thức cấu trúc nhà nước nói về sự cấu tạo của nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương. Gồm hai dạng chính là Nhà nước đơn nhất (Unitary) và Nhà nước liên bang (Federal). Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lưc nhà nước. Có thể nói rằng, với các Nhà nước hiện đại, họ luôn tự định nghĩa mình là nhà nước dân chủ (auto-define). Điều này tạo nên một mô hình phổ thông của hệ thống chính trịtoàn cầu – nền dân chủ, với nền tảng là các giá trị của Cách mạng Pháp, tự do (liberty), bình đẳng (equality), công lý (justice) và sự tham gia rộng rãi của toàn dân (participatory democracy). Sự xuất hiện cả các Nhà nước hiện đại không thể tách rời với những bản Hiến Pháp được viết đầu tiền của xã hội loài người. Thế kỉ XVIII, xuất hiện ở Pháp và Mĩ, những bản Hiến Pháp đã được tạo nên trên cơ sở học thuyết luật tự nhiên (lex naturalis), khế ước xã hội và chủ nghĩa tự do. Các bản Hiến pháp tự do đã giáng một đòn chí mạng vào hệ thống chính trị lúc bấy giờ – chủ nghĩa chuyên chế phong kiến (absolutism). Hai bản Hiến pháp tạo ra các quy tắc tổ chức xã hội chính trị và Nhà nước: bình đẳng giữa các công dân và tính tối cao của pháp luật (primacy of law). Hay nói một cách khác, ở Pháp cũng như ở Mĩ, thắng lợi của chủ nghĩa tự do (liberalism) đã cho phép tạo ra Nhà nước Pháp chế (State of Law), một nhà nước dựa trên tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, mà ở đó tất cả mọi người, cai trị và bị cai trị, đều phải tuân theo, cũng như sự xuất hiện của quyền con người (Human Rights) và các quy tắc tổ chức quyền lực Nhà nước. Quy tắc tổ chức quyền lực của các Nhà nước hiện đại dựa trên một cơ sở, một nền tảng nổi tiếng và kinh điển: Phân chia quyền lực – Tam quyền phân lập (Separation of Powers – trias política). Được nghiên cứu bởi John Locke, và sau đó với tác phẩm kinh điển ´Tinh thần pháp luật´ (1748) của nam tước Montesquieu, với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị đảm bảo tự do cho các công dân. Montesquieu cho rằng thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau. Trên thực tế, dựa trên cách thức phân chia quyền lực (nền tảng là học thuyết Tam quyền phân lập), các phạm trù của hệ thống chính trị hiện đại và nền dân chủ, hình thức chính thể của một quốc gia có thể phân loại thành hai loại chính: Tổng thống chế (Presidentialism) và Đại nghị chế (Parliamentarism). Sự khác nhau cơ bản có thể nói một cách dễ hiểu, ở Tổng thống chế, nhánh Hành pháp chiếm ưu thế hơn nhánh Lập pháp. Ngược lại ở Đại nghị chế, nhánh Lập pháp có ưu thế hơn hẳn nhánh hành pháp. Mỗi thể chế đều có những đặc điểm riêng, ưu điểm và khuyết điểm. Tồn tại những tranh luận xung quanh việc thể chế nào tốt hơn. Nhưng việc quốc gia nào nên áp dụng thể chế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong số đó chính là lịch sử, đặc điểm của quốc gia, dân tộc và văn hóa chính trị. Chính thể đại nghị, như tên gọi của nó, yếu tố cơ bản chính là Nghị viện (Parliament). Trên tất cả, ở đại nghị chế không có sự phân tách tổ chức và cứng nhắc giữa quyền lực của Chính phủ và Nghị viện (hiểu nôm na là tuy hai nhưng mà là một, tuy một nhưng mà là hai). Hệ thống đại nghị là một hình thức Chính thể đại diện (Representative form) mà trong đó Nghị viện nắm giữ vai trò chủ đạo trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến mọi mặt của quốc gia. Theo nghĩa này, trong đại nghị chế, sự hình thành Chính phủ phụ thuộc vào sự ưng thuận, cho phép (Consent) của phe đa số trong Nghị viện. Phe đa số này có thể đến trực tiếp từ bầu cử (Election), hoặc thông qua liên hiệp, liên minh (Coalition). Sẽ là không đầy đủ khi nói về Đại nghị chế thông qua việc Nghị viện chọn người đứng đầu chính phủ. Cần nói thêm về một đặc điểm khác, đó là Nghị viện sẽ. không chia sẻ quyền lực với bất kì cơ quan nào khác trong việc đưa ra các quyết định về các vấn đề của Nhà nước. Trong Thể chế này, có thể phân chia thành các yếu tố sau: Một nhánh Hành pháp, chia ra thành người đứng đầu Nhà nước (Quốc vương hoặc tổng thống) và người đứng đầu chính phủ (thủ tướng); và một nhánh Lập pháp – Nghị viện, được kết hợp từ hai viện, Thượng Viện và Hạ Viện. Trừ ở Anh Quốc, ở các nước khác, các Thượng nghị sĩ (Senate) của Thượng viện đều được chọn thông qua quá trình bầu cử (Nhánh tư pháp không có gì đặc biệt). Người đứng đầu Nhà nước (Head of State) nhìn chung chỉ mang hình thức biểu tượng, nhưng trong một số trường hợp khủng hoảng, có thể đóng vai trò quan trọng. Trên thực tế, người đứng đầu Nhà nước phải tôn trọng các quyết định của quá trình bầu cử và các quyết định của phe đa số trong Nghị viện. Quyền lực của nhánh Hành pháp được thực hiện thông qua một Nội các (Cabinet) xung quanh một thủ tướng (Prime Minister). Nội các chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Nghị viện có quyền giải tán (Dismissal) nội các thông qua việc Bỏ phiếu bất tín nhiệm (Motion of censure) hoặc phản đối thông qua Bỏ phiếu không tín nhiệm (Motion of no confidence). Ở chiều ngược lại, Thủ tướng, nhân danh Người đứng đầu nhà nước (quốc vương hoặc tổng thống) có thể đưa ra quyết định giải thể Nghị viện (Dissolution of Parliament). Chính phủ cũng có thể yêu cầu bỏ phiếu không tín nhiệm như một cách thức để lấy sự ủng hộ của số đông, nhưng nếu không thông qua thì sẽ từ chức. Sự phát triển của Đại nghị chế đã chuyển một phần quyền lực từ tay Nghị viện sang Nội các thông qua các quyền lực này của Thủ tướng. Thủ tướng và nội các được đặt dưới sự kiểm soát chính trị (Political control), thông qua rất nhiều cơ chế bởi Nghị viện. Các cơ chế hay được sử dụng nhiều nhất là quyền điều tra, chất vấn, yêu cầu trình thông tin và yêu cầu trình diện. Điều này không có nghĩa là Chính phủ đặt ở dưới Nghị viện. Cả hai đều có sự tự chủ, mặc dù Chính phủ xuất phát từ phe đa số trong Nghị viện và chịu trách nhiệm trước nó. Lưu ý là chức danh ´´thủ tướng´´ không phải là tất cả các quốc gia thuộc Đại nghị chếđều gọi là thế. Ở Anh, gọi là Prime Minister. Nhưng đều sẽ được gọi là Thủ tướng trong tiếng Việt. Đảng phái chiếm phe đa số nắm giữ một vị trí quan trọng trong việc chuẩn bị và thực hiện các chính sách của Chính phủ, kết nối Hành pháp với Lập pháp. Đảng phái đối lập, nắm giữ nhiệm vụ theo dõi, kiểm soát và chỉ trích chính phủ. Hệ thống các đảng phái hợp lại thành một hệ thống Nghị viện. Nghị viện là kết quả của hệ thống đa đảng kết hợp với các cơ chế bầu cử. Hệ thống đảng phái có thể là lưỡng đảng (bipartisan) với hình thức bầu cử đa số như ở Anh, đa đảng (pluralism) với hình thức bầu cử hỗn hợp như ở Đức, hoặc đa đảng theo đại diện tỉ lệ (proportional representation) ở Tây Ban Nha và Ý. Ưu điểm của Đại nghị chế là rất linh động khi cai trị một xã hội bị ảnh hưởng bởi các xung đột sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ và ý thức hệ, bởi Nghị viện cho phép thảo luận, đối mặt ôn hòa, thương lượng, cam kết và phân chia quyền lực. Hệ thống này có nhiều hình thức khác nhau, có thể là Quân chủ lập hiến (Constitutional Monarchy) như ở Anh, Tây Ban Nha, Nhật Bản,…; hay Cộng hòa đại nghị (Parliamentary Republic) như Đức, Ý, Ấn Độ,… Mỗi nước đều sẽ mang các đặc điểm riêng trong thể chế Đại nghị của nó, vì đó là sự kết hợp giữa các yếu tố lịch sử, chính trịvà các thể chế riêng của từng quốc gia. Lý thuyết về Đại nghị chế ra đời ở Anh Quốc, nơi đầu tiên xuất hiện các quyền tự do, sự phân chia quyền lực và bầu cử người đứng đầu. Sau Thế chiến thứ hai, rất nhiều quốc gia khác đã áp dụng mô hình Đại nghị này trong việc tổ chức quyền lực chính trị. Như đã đề cập, các đặc điểm chính của thể chế này là: Thứ nhất, phân chia nhánh Hành pháp thành Người đứng đầu Nhà nước và Người đứng đầu chính phủ; Thứ hai, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện; và Thứ ba, khả năng giải tán Hạ viện của Chính phủ. Những đặc điểm này xuất hiện đầu tiên ở Anh Quốc vào thế kỉ XVIII, khi mà Chính phủ (gọi là Nội các) tách ra khỏi Quốc vương và chịu trách nhiệm chính trị trước Viện Thứ dân (House of Commons hay Hạ viện), mặc dù vẫn có trong mình khả năng yêu cầu nhà vua giải tán Hạ viện. Nhắc đến Nghị viện chúng ta không thể không nhắc đến một đặc điểm hết sức nổi bật của nó: phân thành lưỡng viện (Bicameralism). Lịch sử ra đời của Lưỡng viện gắn chặt với lịch sử của Anh Quốc, cha đẻ của thể chế Đại nghị. Ở thời kì đầu, chưa xuất hiện một Nghị viện đúng nghĩa, mà là một Đại hội đồng của Nhà vua (King´s Grand Council), nơi tập hợp những Quý tộc và các Tăng lữ cao cấp của nhà thờ. Trong thế kỉ XI và XII, Nhà vua được vây xung quanh bởi các cố vấn, được chính vua lựa chọn trong những Quý tộc và Tăng lữ cấp cao, hình thành nên một cơ quan duy nhất (một Viện duy nhất). Sang đến thế ki XIII, sau sự kiện Vua John chuẩn thuận Đại Hiến Chương vào năm 1215 (Magna Carta), khi mà bắt đầu xuất hiện các mầm mống tư sản, Viện đã kết nạp thêm những người đại diện cho các khu dân cư, bởi sự ưng thuận của họ rất cần thiết trong việc thiết lập các loại thuế. Với lời triệu tập của vua Edward I, Viện đã thêm đại diện của tầng lớp tư sản non trẻ và các Tăng lữ cấp thấp. Như vậy, bốn giai cấp trong xã hội Anh lúc bấy giờ tụ họp lại trong Viện: Quý tộc, Tư sản, Tăng lữ và Đại diện dân cư. Lưỡng viện ra đời trên cơ sở những mâu thuẫn không thể hàn gắn giữa đại diên của lực lượng sản xuất mới trong xã hội – Tư sản, và tầng lớp Quý tộc, Tăng lữ. Vào cuối thế kỉ XIV, Nghị viện cuối cùng đã phân chia thành hai: Tầng lớp Tư sản và các Đại diện dân cư tạo nên Viện Thứ dân (House of Commons), còn các Quý tộc và Tăng lữtạo thành viện Quý tộc (House of Lords)
Thể chế đại nghị
Thể chế đại nghị hoặc Đại nghị chế với đặc điểm là nhánh hành pháp của chính quyền phụ thuộc vào sự cho phép trực tiếp hoặc gián tiếp của quốc hội, thường được biểu thị qua quyền bỏ phiếu tín nhiệm. Như thế, không có sự phân biệt rạch ròi giữa nhánh hành pháp và nhánh lập pháp, dẫn đến tình trạng thiếu sự giám sát và cân bằng quyền lực là nguyên lý căn bản trong thể chế tổng thống. Tuy nhiên, đại nghị chế thường được tán dương, khi so sánh với tổng thống chế, là do tính linh hoạt và nhanh nhạy đối với phản ứng của công luận. Mặc khác, hệ thống này thường bị xem là thiếu ổn định như trong trường hợp của nền Cộng hòa Weimar của Đức và Đệ Tứ Cộng hòa của Pháp. Trong thể chế đại nghị có sự phân biệt rõ ràng giữa chức danh đứng đầu chính phủ và chức danh đứng đầu nhà nước, với thủ tướng là người đứng đầu chính phủ và người đứng đầu nhà nước thường là một nhân vật được bổ nhiệm hoặc một quân vương với chút ít quyền lực hoặc chỉ là một vị trí có tính nghi lễ.
Hàng hóa thứ cấp là một thuật ngữ kinh tế mô tả hàng hóa có cầu giảm khi thu nhập của người dân tăng. Điều này xảy ra khi một hàng hóa có nhiều sản phẩm thay thế đắt tiền, khi thu nhập tăng và nền được kinh tế cải thiện, người tiêu dùng ưa thích sản phẩm thay thế hơn là hàng hóa đó. Hiểu theo cách đơn giản, hàng hóa thứ cấp là hàng hóa có cầu giảm khi thu nhập thực tế của người tiêu dùng tăng hoặc cầu tăng khi thu nhập giảm trong khi các yếu tố khác không đổi. Hàng hóa thứ cấp có thể được coi là có chất lượng thấp hơn, nhưng vẫn đủ dùng cho những người có ngân sách eo hẹp, ví dụ như giấy vệ sinh thô ráp. Người tiêu dùng thích hàng hóa chất lượng cao hơn, nhưng họ cần phải có thu nhập lớn hơn để có thể chi trả cho mức giá cao. Lưu ý: Thuật ngữ "thứ cấp" liên quan đến khả năng chi trả của hàng hóa, hơn là chất lượng của nó, mặc dù một số hàng hóa thứ cấp có thể có chất lượng thấp hơn. - Trong kinh tế, cầu về hàng hóa thứ cấp giảm khi thu nhập tăng hoặc nền kinh tế được cải thiện. Khi điều này xảy ra, người tiêu dùng sẵn sàng chi tiêu cho các sản phẩm thay thế tốn kém hơn. Lí do đằng sau sự thay đổi này là do sự thay đổi tình trạng kinh tế xã hội của người tiêu dùng hoặc sự cải thiện về chất lượng cuộc sống khi người dân có thu nhập cao hơn trước. - Ngược lại, cầu đối với hàng hóa thứ cấp tăng khi thu nhập giảm hoặc nền kinh tế bị thu hẹp. Điều này được lí giải là do hàng hóa thứ cấp trở thành một sự thay thế hợp lí hơn so với những món hàng hóa đắt tiền hơn. Có rất nhiều ví dụ về hàng hóa thứ cấp. Một số hàng hóa thứ cấp quen thuộc có thể kể đến trong cuộc sống hàng ngày bao gồm mì ăn liền, hamburger, đồ hộp, đồ đông lạnh. Khi người tiêu dùng có thu nhập thấp hơn, họ có xu hướng mua các loại sản phẩm này. Nhưng khi thu nhập của họ tăng lên, họ thường từ bỏ những hàng hóa thứ cấp kể trên để mua những món đồ đắt tiền hơn.
Hàng hóa thứ cấp
Hàng hóa thứ cấp (tiếng Anh: Inferior good) là một thuật ngữ kinh tế học chỉ những loại hàng hóa có cầu giảm khi thu nhập người tiêu dùng tăng, hoặc cầu tăng khi thu nhập giảm trong khi các yếu tố khác không đổi. Trái ngược với hàng hóa thứ cấp là hàng hóa thông thường. Trong hình bên dưới, cầu hàng hóa thứ cấp X giảm từ X1 xuống X2 khi chế ước ngân sách chuyển dịch từ BC1 sang BC2 (giá cả hàng hóa không đổi).
Bảng chữ cái Hy Lạp (tiếng Anh: Greek alphabet) là bảng chữ cái được sử dụng trong ngôn ngữ Hy Lạp và cũng được sử dụng rộng rãi trong toán học, vật lý, sinh học, hóa học, thiên văn học và các môn học khác. Bảng chữ cái Hy Lạp tương tự như bảng chữ cái Latinh và bảng chữ cái khác, là một hệ thống chữ viết phiên âm toàn bộ. Bảng chữ cái Hy Lạp là hệ thống chữ viết đầu tiên trên thế giới có các chữ cái đại diện cho các âm vị của nguyên âm. Các bảng chữ cái Cyrillic và Gruzia được sử dụng trong tiếng Nga, tiếng Ukraina, v.v. đều được phát triển từ bảng chữ cái Hy Lạp. BYTUONG-chuyên trang trên 95.000+ ý tưởng kiếm tiền, kinh doanh, ý tưởng tạo giá trị, lợi ích. Một số từ Hy Lạp có liên quan đến các chữ cái Hy Lạp đã được nhập vào nhiều ngôn ngữ, ví dụ, từ Delta (đồng bằng) bắt nguồn từ chữ Hy Lạp Δ, vì hình dạng của Δ là một hình tam giác. ∑ σ, ς / ‘sɪɡmə / sigma: ổng Sigma, mật độ bề mặt, độ dẫn điện, ứng suất bình thường. Φ φ / faɪ / phi: Từ thông, thông lượng điện, góc, công suất thấu kính, dòng nhiệt, điện thế, đường kính. Ω ω / ‘əʊmɪɡə / hoặc / oʊ’meɡə / omega: Vận tốc góc, tần số góc, góc điện của dòng điện xoay chiều, phần khối lượng trong hóa học, độ không bão hòa. Mức độ so sánh là dạng từ được tạo ra bằng cách so sánh hai. Nó được biến đổi từ…
Bảng chữ cái Hy Lạp
Bảng chữ cái Hy Lạp (Tiếng Hy Lạp: "Ελληνικό αλφάβητο" - Elleniká alphábeto) là hệ thống 24 ký tự được dùng để viết tiếng Hy Lạp từ cuối thế kỷ thứ IX trước Công nguyên hoặc đầu thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên. Theo nghĩa hẹp đây là bảng chữ cái đầu tiên và lâu đời ghi mỗi nguyên âm và phụ âm bằng một biểu tượng riêng. Nó cũng được sử dụng như vậy cho đến ngày nay. Những chữ cái này cũng được dùng trong bảng số Hy Lạp từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên. Bảng chữ cái Hy Lạp được kế thừa từ Bảng chữ cái Phoenicia, và nó không hề liên quan đến hệ thống chữ viết trước của Hy Lạp là Linear B hay Cypriot. Nó cũng là nền tảng cho nhiều bảng chữ cái khác ở châu Âu và Trung Đông, bao gồm cả bảng chữ cái Latinh. Ngoài việc được sử dụng để viết tiếng Hy Lạp hiện đại, ngày nay các chữ cái này cũng được dùng như những biểu tượng Toán và khoa học, Vật lý hạt trong Vật lý, hay tên các ngôi sao, tên của các cơn bão nhiệt đới siêu cấp và trong những mục đích khác.chẳng hạn như là hóa học.
Dậy thì là quá trình mà cả nam và nữ giới điều trải qua với những thay đổi về thể chất lẫn tinh thần. Khi bước vào độ tuổi này, đa số các em còn khá bỡ ngỡ với những thay đổi của cơ thể mình. Do đó, việc giúp con trang bị các kiến thức về tuổi dậy thì là điều vô cùng cần thiết mà cha mẹ và người thân của trẻ không thể bỏ qua. Dậy thì là giai đoạn phát triển quá độ về sinh lý từ thời kỳ nhi đồng sang thời kỳ thành niên. Thực chất, đây là quá trình thay đổi thế chất của một đứa trẻ, là giai đoạn chuyển giao từ trẻ con sang người trưởng thành mà bất kỳ thiếu niên nào cũng trải qua. Khi bước vào tuổi dậy thì, cơ quan sinh sản của trẻ bước đầu hoàn thiện, được thể hiện qua sự thay đổi của não, xương, cơ, máu, da, tóc, các cơ quan sinh dục. Lúc này, cơ thể tăng trưởng vượt bậc về thể chất, chiều cao, trọng lượng trong nửa đầu tuổi dậy thì và được hoàn thành khi cơ thể phát triển hoàn toàn. Theo các nghiên cứu, trung bình, các bé gái bắt đầu dậy thì vào khoảng 10 – 12 tuổi và kết thúc vào khoảng từ 15 – 17 tuổi. Ở nam, tuổi dậy thì bắt đầu khoảng 11 – 12 tuổi và kết thúc ở độ tuổi từ 16 – 17. Cột mốc đánh dấu độ tuổi dậy thì ở nữ là xuất hiện kinh nguyệt, thường xảy ra trong độ tuổi 12 – 13. Còn ở nam giới, mốc đánh dấu là lần xuất tinh đầu tiên, thường xảy ra ở tuổi 13. Khi bước vào tuổi dậy thì nghĩa là lúc này trẻ đã có khả năng sinh sản với nhiều sự thay đổi về cơ thể. Không chỉ vậy, đây còn là mốc đánh dấu sự phát triển về tâm sinh lý với nhiều thay đổi quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của trẻ. Do đó, khi trẻ ở độ tuổi này, cha mẹ cần có sự chăm sóc và giáo dục phù hợp. Ngoài ra, cần cho trẻ biết những thay đổi của cơ thể mình để không bị bỡ ngỡ hoang mang. Trước 8 tuổi, mặc dù cơ quan sinh dục trong và ngoài của nam và nữ có sự phân biệt nhưng lại không có nhiều khác biệt về giới tính. Sở dĩ có điều này là do công năng tuyến sinh dục của cả hai đều ở trong trạng thái bị ức chế, nồng độ hormone sinh dục trong cơ thể cũng rất thấp. Khi bước vào tuổi dậy thì, hormone sinh dục phát triển mạnh, nữ giới có những thay đổi rõ rệt về thể chất và tâm sinh lý. Ngực phát triển rõ rệt, ban đầu nổi lên từng cục nhỏ ở một hoặc cả hai bên có đôi khi bên to bên nhỏ không đều nhau. Sau đó bầu ngực phát triển nhanh chóng, đầu vú to dần, màu sắc cũng thẫm hơn. Xuất hiện lông nách, lông cứng và đen nhưng không nhiều như ở nam giới, cơ quan sinh dục ngoài cũng bắt đầu xuất hiện lông. Môi bé thẫm lại, lớn lên, âm hộ xuất hiện những chất dịch màu trắng, cơ quan sinh dục trong dần phát triển. Thông thường, trong khoảng từ 10 – 16 tuổi, trung bình là 13 tuổi, các cô hái sẽ hành kinh lần đầu, sau 2 – 5 năm sau sẽ xuất hiện hiện tượng rụng trứng. Khi bắt đầu rụng trứng thì lúc này công năng sinh dục của trẻ đã phát triển hoàn thiện. Chiều cao tăng vượt bậc, trung bình từ 7 – 8 cm/năm, đạt đỉnh điểm khi kỳ kinh đầu tiên xuất hiện và dừng cao sau khi có kinh 2 năm. Xuất hiện mụn trứng cá, bã nhờn trên da mặt, da cần được chăm sóc hợp lý. Thích tự quyết định, thể hiện cái tôi bản thân, thích trò chuyện giao lưu với bạn bè hơn người thân. Ở nam, tuổi dậy thì thường bắt đầu từ 11 – 12 tuổi với những thay đổi rõ rệt về cả thể chất, sinh lý và tâm lý. Những thay đổi của cơ thể con trai khi bước vào tuổi dậy thì có thể kể đến như:. Độ tuổi trung bình bắt đầu giai đoạn dậy thì ở nam là 11 – 12, tuy nhiên, cũng không có gì bất thường nếu trẻ dậy thì sớm vào lúc 9 tuổi hoặc dậy thì muộn vào lúc 16 tuổi. Trong giai đoạn này, trẻ có những thay đổi về thể chất như sau:. Có sự phát triển vượt bậc về chiều cao, trung bình 10,4cm mỗi năm, giai đoạn tăng trưởng nhanh nhất à từ 12 – 15 tuổi. Mặc dù trẻ trai đạt đến chiều cao của người trưởng thành chậm hơn trẻ gái nhưng trẻ trai sẽ nhanh chóng vượt qua chiều cao của trẻ gái cùng lứa tuổi. Đầu, bàn tay, bàn chân của trẻ sẽ phát triển đầu tiên rồi mới đến cánh tay, chân, thân mình và vai. Có sự thay đổi về kết cấu cơ thể, nhìn chung, cơ thể thẳng và vuông của trẻ sẽ dần nở nang hơn ở vai, hẹp dần ở eo, cánh tay và chân sẽ trở nên vạm vỡ, to lớn hơn. Ngực phát triển, có cảm giác nhức và căng xung quanh núm vú. Trong thời gian này, khối ngực có đường kính lên đến 5cm, đôi khi còn có thể phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, hiện tượng này sẽ biến mất sau 1 – 2 năm. Lông trên cơ thể phát triển, xuất hiện một ít lông tơ sáng màu ở gốc dương vật, số lông này sẽ tối màu, xoăn và thô hơn sau đó. Sau ít năm thì lông mọc ra tới đùn, rốn, các vùng khác của cơ thể cũng phát triển lông như cánh tay, chân, ngực. Có râu ở mặt, giọng nóng thay đổi, xuất hiện mụn trứng cá, có mùi cơ thể đặc trưng. Tăng gấp đôi kích thước của tinh hoàn và bìu. Khi tinh hoàn tiếp tục phát triển, phần da bìu sẽ trở nên sậm màu, mỏng, trĩu xuống, có nhiều chấm u nhỏ. Khoảng 1 năm sau khi tinh hoàn lớn, sẽ có khả năng sản sinh tinh trùng ngoài testosterone từ đó giúp nam giới có khả năng xuất tinh thực hiện chức năng sinh sản. Xuất hiện hiện tượng mộng tinh, thường xảy ra vào ban đêm khi trẻ đang ngủ. Lúc này trẻ thường ngủ dậy với bộ đồ ngủ ẩm ướt, đôi khi ngộ nhận là mình tè dầm trên giường. Khi bước vào tuổi dậy thì, trẻ thường có những thay đổi rõ rệt về tâm lý. Do đó, bố mẹ nên nắm bắt tâm lý trẻ để có cách định hướng, giáo dục trẻ thành người tốt và thành công. Các thay đổi về tâm lý của trẻ bao gồm:. Có xu hướng thể hiện cái tôi, muốn chứng tỏ ý kiến cá nhân, thích được khẳng định bản thân và có phần hơi “ngông”. Muốn được tự do, được tôn trọng quyền riêng tư, dần có xu hướng hướng ngoại, thích tự quyết định và ít khi nghe ý kiến người khác. Thích giao lưu bạn bè hơn là tâm sự trò chuyện cùng người thân gia đình. Có những thay đổi nhất định trong cảm xúc, bước đầu cảm nhận sự yêu ghét. Tùy vào môi trường sống, tính cách mà trẻ sẽ trở thành người nhanh nhẹn, thông minh hay trầm tính. Bên cạnh đó, lúc này mục tiêu sống, phong cách, đạo đức, quan niệm về cuộc sống của trẻ cũng dần hình thành. Thông thường rất ít bố mẹ quan tâm đến những biến đổi tâm sinh lý mà chỉ quan tâm đến kết quả học tập, nỗ lực của trẻ. Thế nhưng bố mẹ lại không biết rằng, dậy thì là thời gian khủng hoảng tâm lý của mỗi đứa trẻ. Bố mẹ chỉ thấy trẻ ngỗ nghịch, bướng bỉnh, cứng đầu, rất ít người tìm hiểu nguyên nhân và hướng giải quyết. Điều này khiến khoảng cách giữa chúng ta và con cái ngày một xa hơn. Do đó, khi trẻ bước vào tuổi dậy thì, bố mẹ cần:. Gần gũi, nói chuyện nhiều hơn với con: Hãy chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng sống với con một cách gần gũi, thân mật với vai trò một người bạn để chỉ dẫn trẻ. Nên chọn cách tiếp xúc nhẹ nhàng, không nên la rầy, đánh mắng trẻ khiến con dễ tủi thân, tự ái. Giải thích cho con rõ về giới tính: Ở độ tuổi này, trẻ rất tò mò về giới tính và những thay đổi của cơ thể mình, do đó giải thích rõ ràng với con mọi thứ là điều cần thiết. Hãy để con hiểu rằng tò mò giới tính là điều hết sức bình thường và cần dạy con cách bảo vệ bản thân tốt nhất, tránh xa những thử nghiệm nguy hiểm do hiểu kì. Quan tâm đến các bệnh lý thường gặp ở tuổi dậy thì: Khi bước vào độ tuổi này, con thường không biết đến các bệnh như rong kinh, mùi hôi cơ thể, mụn trứng cá, bệnh về vùng kín, áp lực tinh thần… Do đó, bố mẹ nên quan tâm và cùng còn tìm hiểu những kiến thức cơ bản để phòng bệnh tuổi dậy thì. Để giúp cơ thể phát triển toàn diện, ngăn ngừa bệnh tật, cần chăm sóc về thể chất cũng như tâm lý của trẻ một cách tốt nhất. Bố mẹ nên chăm sóc trẻ như sau:. Xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý cho trẻ, tăng cường các nhóm thực phẩm cần thiết như protein, chất béo, Magie, kali, vitamin D và đặc biệt là canxi để giúp trẻ phát triển chiều cao và trí não. Giữ cân nặng cân đối, tránh xa thực phẩm cay nóng, thức ăn chế biến sẵn. Tuyệt đối không sử dụng rượu bia, thuốc lá, chất kích thích để tránh ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể. Ngủ đủ giấc, đúng giờ để tránh ảnh hưởng đến chiều cao và sự hoạt động của các cơ quan khác trong cơ thể. Chăm sóc da đúng cách, tắm nắng mỗi ngày để tăng cường hấp thu canxi cho cơ thể. Tương tự như nữ giới, nam giới cũng có những vùng kích thích tình dục nhất định. Là đàn ông hãy biết cách làm tình điêu luyện để khiến nàng mê đắm. Bởi bỏ qua những quan…
Dậy thì
Dậy thì là quá trình thay đổi thể chất qua đó cơ thể của một đứa trẻ thành một cơ thể trưởng thành có khả năng sinh sản hữu tính. Nó được bắt đầu bởi các tín hiệu nội tiết tố từ não đến tuyến sinh dục: buồng trứng ở em gái và tinh hoàn ở em trai. Để đáp ứng với các tín hiệu này, các tuyến sinh dục sản xuất hormone kích thích ham muốn và sự tăng trưởng, chức năng và sự biến đổi của não, xương, cơ, máu, da, tóc, vú và các cơ quan sinh dục. Tăng trưởng thể chất - chiều cao và khối lượng cơ thể tăng mạnh trong nửa đầu tuổi dậy thì và được hoàn thành khi cơ thể trưởng thành được phát triển hoàn toàn. Cho đến khi hoàn toàn trưởng thành về khả năng sinh sản, sự khác biệt về thể chất trước tuổi dậy thì giữa bé trai và bé gái là cơ quan sinh dục bên ngoài. Trung bình, các bé gái bắt đầu dậy thì vào khoảng 10 - 11 tuổi và kết thúc dậy thì vào khoảng 15-17 tuổi; các bé trai bắt đầu khoảng 11-12 tuổi và kết thúc vào khoảng 16-17 tuổi.
Tài chính là một thuật ngữ rộng mô tả các hoạt động liên quan đến ngân hàng, đòn bẩy hoặc nợ, tín dụng, thị trường vốn, tiền và đầu tư. Về cơ bản, tài chính đại diện cho việc quản lý tiền và quá trình thu được các khoản vốn cần thiết. Tài chính cũng bao gồm việc giám sát, sự tạo ra và nghiên cứu về tiền, ngân hàng, tín dụng, đầu tư, tài sản,. và các khoản nợ tạo nên hệ thống tài chính. Bài viết sẽ hướng dẫn bạn tìm hiểu tài chính là gì. Nhiều khái niệm cơ bản trong tài chính bắt nguồn từ các lý thuyết kinh tế vi mô và vĩ mô. Một trong những lý thuyết cơ bản nhất là giá trị thời gian tiền tệ (Time Value of Money – TVM), về cơ bản nói rằng một đô la ngày nay có giá trị hơn một đô la trong tương lai. Tài chính bao gồm các lĩnh vực ngân hàng, đòn bẩy hoặc nợ, tín dụng, thị trường vốn, tiền tệ, đầu tư và việc tạo ra và giám sát các hệ thống tài chính. Các khái niệm tài chính cơ bản dựa trên các lý thuyết kinh tế vi mô và vĩ mô. Lĩnh vực tài chính được chia làm ba phân mảng chính: tài chính cá nhân, tài chính doanh nghiệp và tài chính công (chính phủ). Dịch vụ tài chính là các quá trình mà người tiêu dùng và doanh nghiệp có được hàng hóa tài chính. Lĩnh vực dịch vụ tài chính là động lực chính của nền kinh tế nhiều quốc gia phát triển. Lập kế hoạch tài chính là việc phân tích tình hình tài chính hiện tại của các cá nhân để hình thành kế hoạch nhu cầu tương lai với giới hạn ngân sách nhất định. Tài chính cá nhân phân tích cụ thể cho tình hình và hoạt động của mỗi cá nhân; do đó, các chiến lược tài chính phụ thuộc phần lớn vào thu nhập, yêu cầu cuộc sống, mục tiêu và mong muốn của mỗi người. Ví dụ, các cá nhân phải tiết kiệm cho việc nghỉ hưu. Điều này đòi hỏi phải tiết kiệm hoặc đầu tư đủ tiền trong suốt cuộc đời làm việc của họ để tài trợ cho các kế hoạch dài hạn sau này. Loại quyết định quản lý tài chính này thuộc tài chính cá nhân. Tài chính doanh nghiệp đề cập đến các hoạt động tài chính liên quan đến việc điều hành một công ty, thường là với một bộ phận hoặc bộ phận được thành lập để giám sát các hoạt động tài chính đó. Một ví dụ về tài chính doanh nghiệp: Một công ty lớn có thể phải quyết định huy động thêm vốn thông qua phát hành trái phiếu hay chào bán cổ phiếu. Các ngân hàng đầu tư có thể tư vấn cho công ty về những cân nhắc đó và giúp họ tiếp thị sản phẩm chứng khoán. Các công ty khởi nghiệp (startup) có thể nhận vốn từ các nhà đầu tư thiên thần hoặc các nhà đầu tư mạo hiểm để đổi lấy phần trăm quyền sở hữu. Nếu một công ty phát triển mạnh và quyết định niêm yết cổ phiếu, họ sẽ phát hành cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán thông qua phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) để huy động tiền mặt. Trong các trường hợp khác, một công ty có thể đang cố gắng lập ngân sách vốn và quyết định tài trợ cho dự án nào và dự án nào nên tạm dừng để phát triển công ty. Tất cả các loại quyết định này đều thuộc tài chính doanh nghiệp. Tài chính công bao gồm các chính sách về thuế, chi tiêu, ngân sách và phát hành nợ, ảnh hưởng đến cách chính phủ chi trả cho các dịch vụ họ cung cấp. Chính phủ giúp ngăn chặn sự thất bại của thị trường bằng cách giám sát việc phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập và ổn định kinh tế. Nguồn vốn thường xuyên được đảm bảo chủ yếu thông qua thuế. Vay từ các ngân hàng, công ty bảo hiểm và các quốc gia khác cũng giúp tài trợ cho chi tiêu của chính phủ. Ngoài việc quản lý tiền trong các hoạt động hàng ngày, cơ quan chính phủ còn có các trách nhiệm xã hội và tài khóa. Chính phủ được kỳ vọng sẽ đảm bảo phúc lợi xã hội đầy đủ cho các công dân đóng thuế và duy trì một nền kinh tế ổn định để mọi người có thể tiết kiệm và tiền của họ sẽ được an toàn. Dịch vụ tài chính là quá trình mà người tiêu dùng và doanh nghiệp có được hàng hóa tài chính. Một ví dụ đơn giản là dịch vụ tài chính được cung cấp bởi một nhà cung cấp hệ thống thanh toán khi chấp nhận và chuyển tiền giữa người trả và người nhận. Điều này bao gồm các tài khoản được thanh toán bằng séc, thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ hoặc chuyển khoản điện tử. Dịch vụ tài chính khác hàng hóa tài chính. Hàng hóa tài chính là các sản phẩm, chẳng hạn như thế chấp, cổ phiếu, trái phiếu và các chính sách bảo hiểm. Dịch vụ tài chính là các nhiệm vụ — ví dụ, tư vấn đầu tư và quản lý mà một nhà cố vấn tài chính cung cấp cho khách hàng. Lĩnh vực dịch vụ tài chính là một trong những phân ngành quan trọng nhất của nền kinh tế. Nó thúc đẩy nền kinh tế của một quốc gia, cung cấp dòng vốn tự do và tính thanh khoản trên thị trường. Lĩnh vực này được tạo thành từ nhiều tổ chức tài chính, bao gồm ngân hàng, tập đoàn đầu tư, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, đơn vị cho vay, dịch vụ kế toán, và các nhà môi giới bất động sản vân vân. Khi ngành nghề này và nền kinh tế của một quốc gia phát triển mạnh mẽ, nó sẽ nâng cao niềm tin và sức mua của người tiêu dùng. Khi lĩnh vực dịch vụ tài chính thất bại, nó có thể kéo nền kinh tế đi xuống và dẫn đến suy thoái. Hoạt động tài chính là các sáng kiến và giao dịch mà các doanh nghiệp, chính phủ và cá nhân thực hiện khi họ tìm cách tiếp tục các mục tiêu kinh tế của mình. Chúng là những hoạt động liên quan đến dòng tiền vào hoặc ra. Ví dụ bao gồm mua và bán sản phẩm (hoặc tài sản), phát hành cổ phiếu, bắt đầu cho vay và duy trì tài khoản. Khi một công ty bán cổ phiếu và trả nợ, đây đều là những hoạt động tài chính. Tương tự, các cá nhân và chính phủ tham gia vào các hoạt động tài chính, chẳng hạn như cho vay và đánh thuế, nhằm đạt được những mục tiêu tiền bạc nhất định.
Dịch vụ tài chính
Dịch vụ tài chính là một khu vực của nền kinh tế quốc dân chuyên cung cấp các dịch vụ kinh tế gồm: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ môi giới chứng khoán. Dịch vụ tài chính vững vàng và hoạt động tốt sẽ là động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế bởi nó chuyển các khoản tiết kiệm của cá nhân thành các khoản đầu tư. Phát triển dịch vụ tài chính bao gồm các chính sách về tự do hóa và thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực này cũng như các chính sách giám sát thận trọng đối với các tổ chức tài chính. Cần phân biệt dịch vụ tài chính với khu vực tài chính công. Cái thứ hai chỉ bao gồm các hoạt động của nhà nước (trung ương và địa phương) liên quan đến thuế và hàng hóa công cộng.
Từng là một bộ phim không được ai mua vé vào xem ở rạp, giờ đây, 12 Angry Men (1957) được nhìn nhận lại thành một trong những tuyệt tác nền điện ảnh Hoa Kỳ từng sản xuất. 12 Angry Men (1957) có nội dung khá đơn giản: một thanh niên trẻ bị truy tố tội giết cha. 12 người đàn ông thuộc bồi thẩm đoàn khi ấy phải quyết định liệu anh ta có tội hay vô tội. 11 người trong số này nhất trí bị cáo có tội để nhanh chóng tiễn anh ta đến án tử hình trên ghế điện. Tuy nhiên, 1 người duy nhất không đồng tình với bản án này. Và cả 12 người giờ phải ngồi bàn bạc lại bản án. Được cố đạo diễn Sidney Lumet chỉ đạo, 12 Angry Men (1957) được xem là một trong những tác phẩm điện ảnh kinh điển nhất trong lịch sử diện ảnh Hoa Kỳ do những giá trị vô giá về nghệ thuật kể chuyện, nhân vật và việc mô tả những mối mâu thuẫn mà phim để lại cho nền công nghiệp phim ảnh Hollywood. Điều thú vị là khi được công chiếu vào năm 1957, 12 Angry Men không thu hút được ai đến rạp cả. Dĩ nhiên, ngày nay, cách nhìn nhận về phim rõ ràng đã thay đổi. Dưới đây là 12 lý do tại sao 12 Angry Men (1957) là một trong số các bộ phim kinh điển nhất điện ảnh nước Mỹ. Bài học về tiềm năng mang đến sự kịch tính của những không gian hẹp. Trong suốt thời lượng 96 phút của 12 Angry Men, hầu hết các tình tiết quan trọng đều diễn ra trong căn phòng nóng nực với diện tích tương đối eo hẹp, chỉ gồm một cái bàn, những chiếc ghế, một cây quạt bị hỏng và một máy làm lạnh nước. 12 bồi thẩm đoàn được nhồi vào căn phòng ấy để thực hiện cuộc họp về bản án của bị cáo. Bên ngoài, cảnh sát được vũ trang đứng canh trong im lặng. Khung cảnh ngột ngạt của 12 Angry Men hay làm người ta liên tưởng đến những khoảng khắc những thủy thủ tàu ngầm đối mặt với kẻ thù ngoài biển xanh sâu thẳm trong các bộ phim chiến tranh. Đó là cái cảm giác hồi hộp đến cực điểm khi họ bấu víu vào nhau và chờ đợi xem những quả bom hẹn giờ chuyên đánh phá tàu ngầm được quân địch thả xuống có tìm được họ hay không. Trong 12 Angry Men, một quả bom như thế, một cách ẩn dụ, đang sừng sững trong phòng và mọi cánh cửa đều bị khóa chặt, nhưng 12 bồi thẩm đoàn không thể bấu víu nhau được, vì họ vốn không phải là một đội như các thủy thủ. Hi vọng duy nhất mà họ có là liên minh với nhau để chịu đựng khi sức công phá của quả bom kia khi nó phát nổ. Áp lực khủng khiếp toát ra khắp phòng được thể hiện qua những vần trang mướt mồ hôi của 12 người đang kẹt trong đó. Cộng tác với Lumet, nhà quay phim Boris Kaufman, người từng đoạt được một giải Oscar trong hạng mục quay phim qua tác phẩm On The Waterfront (1954) của đạo diễn Elia Kazan, bắt đầu 12 Angry Men với những góc quay dễ chịu, gồm những cảnh quay rộng – khi các bồi thẩm đoàn bước phòng và nói vài câu xã giao, khiến người xem ban đầu có cảm giác tích cực về họ – khách quan, bình thường và hiền lành. Nhưng khi mạch cảm xúc của phim bắt đầu thay đổi, những góc quay cũng thay đổi theo. Trải qua các cung bậc cảm xúc mãnh liệt của câu chuyện, máy quay như đang theo sát từng đoạn diễn biến một. Góc quay thay đổi từ điểm nhìn cao cho đến điểm ngang sao cho những đối tượng trong khung hình xuất hiện ngang tầm nhìn của người xem. Cuối cùng, góc quay tiến vào cận cảnh như thể muốn làm khán giả cảm thấy mình đang bị kéo vào cuộc tranh luận tưởng chừng như ngày càng lún sâu vào sự vô tận. Những góc quay rộng ban đầu nhường chỗ cho những pha cận cảnh để mô tả sự bực dọc lẫn sự giận dữ đã lên đến đỉnh điểm. 12 Angry Men quy tụ những diễn viên chất lượng của giai đoạn ấy. Henry Fonda vào vai Davis – người duy nhất bầu vô tội đối với bị cáo trẻ, là gương mặt nổi tiếng nhất dàn diễn viên bấy giờ. Nhưng màn biểu diễn của ông, dù được đánh giá là tuyệt vời, vẫn không thể sánh được với diễn xuất tổng thể của các diễn viên góp mặt ở bộ phim. Mỗi một diễn viên trong đây đều thể hiện hết sức mình với vai diễn của họ. Phần lớn diễn viên của 12 Angry Men đều được biết đến qua các chương trình truyền hình mà họ từng tham gia. Ngay cả những tên tuổi lớn như Lee J. Cobb hay E.G Marshall cũng có nhiều lần công tác ở mảng truyền hình khi dự án điện ảnh của Lumet đang trong quá trình quay phim. Tất cả các diễn viên đều được đưa đến một căn phòng trong nhiều giờ vào cuối tuần để luyện tập cho các phân cảnh trong kịch bản, dù hôm ấy họ có tham gia quay phim hay không, nhằm trải nghiệm chân thật bầu không khí chật chội họ phải thể hiện trong phim. Bộ phim là ví dụ điển hình của cách hệ thống pháp lý vận hành và ý nghĩa đằng sau “nghi ngờ hợp lệ”. Mặc dù nhiều khía cạnh pháp lý của các sự kiện diễn ra trong phòng bồi thẩm đoàn vượt quá giới hạn những gì có thể chấp nhận được ngày nay (như việc giới thiệu về con dao hay suy đoán về kính của phụ nữ), 12 Angry Men được Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ coi là một mô hình điển hình thể hiện cách vận hành của hệ thống tư pháp. Các thành viên cấp cao của tòa án xem bộ phim là nguồn cảm hứng đã đưa họ đến việc học luật. 12 Angry Men còn được sử dụng như một ví dụ cho các học sinh ngành luật phân tích và thảo luận. Sự tài tình của bộ phim là những chi tiết trong phim, và cả cái kết cuối phim, khiến người xem tin rằng bị cáo là người vô tội. Nhưng khi trải qua một khoảng thời gian đủ lâu để ngẫm nghĩ kĩ lại các tình tiết, người xem bỗng nhận ra có khả năng bị cáo là kẻ đã thực hiện tội ác đó. Bộ phim xoáy vào khái niệm “nghi ngờ hợp lệ” (được coi là viên ngọc của nền pháp lý) trở thành phương tiện để rửa tội cho một tên giết người, nhưng mặt khác, phim cũng nói lên suy nghĩ: để một tên tội phạm thoát vòng lao lý liệu có tốt hơn để một người vô tội chết oan?. 12 Angry Men đem đến một cái nhìn mới mẻ hơn cho thể loại chính kịch xét xử, dòng phim đã đạt đến ranh giới bão hòa trong kỷ nguyên hiện đại. Sự ra đời của 12 Angry Men là một điều đáng mừng. Bộ phim cho thấy trước khi thể loại phim chính kịch xét xử trở nên rập khuôn và buồn chán, phim đã chủ động khai thác một khía cạnh khác của những cuộc xét xử. Bộ phim năm 1954 không hề có những chi tiết sáo mòn như câu thoại “phản đối”, không có nhân chứng có thể thay đổi cục diện xuất hiện vào phút cuối, hay những lần kiểm tra chéo bằng chứng của các luật sư. 12 Angry Men chỉ cho thấy màn tranh luận nảy lửa giữa các bồi thẩm đoàn và buộc khán giả phải tự xâu chuỗi chúng lại với nhau. Nhiều định kiến ám ảnh xã hội của chúng ta nhanh chóng được phơi bày trong căn phòng nóng nực của 12 bồi thẩm đoàn, rõ ràng nhất là thái độ bảo thủ và kì thị của chủ sỡ hữu một nhà sửa xe hơi do Ed Begley thủ vai: bồi thẩm đoàn thứ 10. Khi cuộc tranh luận ngày càng nóng lên, những người khác cũng bắt đầu bộc lộ những cái nhìn mang tính kì thị lẫn bảo thủ, từ sự dè bỉu của các bồi thẩm đoàn khác đối với sự thông thái của bồi thẩm đoàn thứ 9 (Joseph Sweeny) và nỗi nghi ngờ của họ đối với nhân chứng ở căn hộ bên dưới hiện trường vụ án. Phim đề cập thẳng thừng đến sự phân biệt với người nước ngoài, phân biệt giai cấp và nghề nghiệp ngày càng được bộc lộ khi các bồi thẩm đoàn tranh cãi về bản án. Niềm vui mà các phân cảnh này đem đến khán giả là cách phản biện vô cùng sắc bén mà mỗi định kiến gặp phải khi xuất hiện. Đó có thể là một lời châm biếm hoặc một câu trả lời thẳng thắn sắc lẹm làm chủ nhân của định kiến ấy phải im lặng. Và câu chuyện cứ thế tiếp diễn. Phân cảnh điển hình của giai đoạn này có lẽ là khi nhân vật bồi thẩm đoàn thứ 10 (Ed Begley) gọi bị cáo là một kẻ ngốc, rằng “hắn còn không nói rành tiếng Anh nữa”. Ông ta đã phải im lặng trong xấu hổ khi bồi thẩm đoàn thứ 11 (George Voskovec), người đến từ một nước châu Âu không sử dụng tiếng Anh, đứng lên đáp lời của ông ta, đồng thời gửi một thông điệp rất rõ ràng đến kẻ kì thị. 12 Angry Men (1957) là phiên bản điện ảnh chuyển thể từ một bộ phim truyền hình dài 7 tập Twelve Angry Men (1954) được Reginald Rose biên kịch. Vài năm sau, phim được viết lại để xây dựng thành phiên bản điện ảnh năm 1957. Khi được biên tập lại để làm kịch bản cho dự án điện ảnh, nguyên tác truyền hình của Reginal Rose không có chỉnh sửa gì nhiều, ngoài trừ một số chi tiết như các đoạn độc thoại hay một số tương tác giữa các nhân vật được rút ngắn hoặc loại bỏ. Nhưng chúng được làm rất mát tay, ví như các phân cảnh thể hiện sự kì thị của bồi thẩm đoàn thứ 10. Trong phân cảnh ấy, ở phiên bản truyền hình, bồi thẩm đoàn số 10 có đoạn thoại dài lan man xoáy vào các nhóm dân tộc thiểu số và sự sinh sản giữa họ. Ở phiên bản điện ảnh, những chi tiết ấy được loại bỏ và không ai có vấn đề về điều đó cả. Một điểm được chỉnh sửa nữa ở bản gốc của Rose là nhận định của bồi thẩm đoàn thứ 6, một người thợ sơn nhà khiêm tốn. Trong bản truyền hình, ông là người đã nêu lên nghi vấn về sự tín nhiệm của một trong hai nhân chứng tòa đã gọi lên trong vụ xét xử trước đó. Trong phiên bản điện ảnh, người làm điều này là bồi thẩm đoàn thứ 9. Điều này được đánh giá là hợp lý hơn, vì bồi thẩm đoàn thứ 9 từ đầu đến cuối hiện lên người đàn ông lớn tuổi, thông thái và là người có óc quan sát tinh tường. Lần đầu xem 12 Angry Men (1957), không ai tin được đây là bộ phim đầu tiên của Sidney Lumet với tư cách đạo diễn (bấy giờ, ông nổi tiếng với vai trò biên kịch và nhà sản xuất hơn). Bộ phim toát lên sự tự tin của bộ não đằng sau phim và trở thành ví dụ điển hình cho câc kể chuyện thẳng thắn và không cần đến sự cường điệu. Ngay khi 12 Angry Men (1957) kết thúc, người xem có thể xem thêm hai bộ phim điển hình nữa được Lumet nhào nặn. Người xem có thể khám phá và so sánh các thủ tục hình cảnh trong 12 Angry Men với một bộ phim khác là The Offence, bộ phim có sự góp mặt của Sean Connery và Ian Bannen, được Lumet xây dựng vào năm 1973. Nếu không, người xem vẫn có thể thưởng thức một bộ phim nữa thể hiện cuộc giằng co quyền lực trong quân đội là The Hill, cũng được Sean Connery đóng chính. Khi sự căng thẳng lắng xuống, người xem sẽ được 12 Angry Men chiêu đãi những lý luận sắc bén nhất thông qua sự tương tác giữa các nhân vật, nhất là cuộc tranh luận nảy lửa giữa bồi thẩm đoàn thứ 4 (E.G Marchall) điềm tĩnh và bồi thẩm đoàn thứ 3 (Lee J. Cobb) có phần duy ngã độc tôn với nhận định của bản thân. Trong khi đó, bồi thẩm đoàn thứ 5 (Jack Klugman) cố gắng kiềm chế bản thân trước các lời nhận xét mang tính kì thị xuất thân của anh ta. Bồi thẩm đoàn số 1 (Martin Balsam), đồng thời là người giám sát bồi thẩm đoàn, bộc lộ sự bức xúc khi những người còn lại nghi ngờ vai trò của ông một cách không thể chân thật và phù hợp hơn với nét bất an được nhân vật này thể hiện ngay từ đầu. Là trung tâm của phim, bồi thẩm đoàn thứ 8 (Henry Fonda) mạnh mẽ đưa ra hàng loạt các lý lẽ và tận dụng mọi cơ hội để chứng minh những người khác đã sai với quyết định của mình. 12 Angry Men đầy rẫy những kiểu nhân vật điển hình trong xã hội (kẻ phân biệt chủng tộc, giám đốc mồm mép, nhân viên ngân hàng trầm tính). Cái hay của phim là ném tất cả họ vào một tình huống với nhau và nhìn họ bộc lộ con người thật của mình. Khi các nhân vật đa dạng như vậy tập trung vào một chỗ, để họ tương tác với nhau, và một vụ nổ là thứ nhất định sẽ xảy ra. Người xem không thể rời mắt khỏi họ được, như thể họ đang xem một chương trình thực tế. Hãy lấy cách tương tác giữa bồi thẩm đoàn thứ 2 (John Fiedler) nhu mì và khiêm tốn với bồi thẩm đoàn thứ 3 nóng nảy làm ví dụ. Bồi thẩm đoàn thứ 2 như được coi như một con ruồi phiền phức với tính không chắc chắn của bản thân, nhưng lại xuất hiện đúng lúc để làm suy yếu luận điểm của bồi thẩm đoàn thứ 3. 12 Angry Men chỉ có thời lượng vỏn vẹn 96 phút, nên phim không là khán giả bị ngán. Bộ phim tranh thủ kể câu chuyện của phim một cách gọn gàng, tránh những điều là cốt truyện phân tán và tránh cả những tuyến truyện phụ. Xét trên nhiều khía cạnh, bộ phim đã có thể được lồng ghép các tuyến truyện về xuất thân của các nhân vật hay bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài, nhưng câu chuyện của phim được giữ tinh gọn. Bộ phim như một võ sĩ hạng nhẹ nhưng có thể tung ra cú đấm đầy uy lực. 12 Angry Men chuyên chú kể một câu chuyện mà không cần đến những chi tiết phụ để là phim thêm sâu sắc, vì sự sâu sắc đã có sẵn ngay trong mối mâu thuẫn của phim. Sau khi mọi chuyện kết thúc, góc quay của phim trở về khoảng cách thoải mái ban đầu. Người xem như được giải thoát khỏi cảm giác ngột ngạt khi 12 bồi thẩm đoàn bước ra khỏi tòa án và đầm mình vào không gian rộng rãi bên ngoài. Hai bồi thẩm đoàn trong số này dừng lại để nói với nhau vài lời. Khán giả được biết tên hai người họ và chứng kiến những con người này trở lại với cuộc sống thường trực của mình. Ngay lúc này, người xem cảm nhận được tính hiện thực đã làm bộ phim trở nên chân thật đến vật trong khoảng thời gian vừa qua.
12 Angry Men (phim 1957)
12 Angry Men (tạm dịch: 12 người đàn ông giận dữ) là một bộ phim Mỹ sản xuất năm 1957, được chuyển thể từ vở kịch truyền hình cùng tên của Reginald Rose. Bộ phim được chính Rose viết kịch bản và sản xuất, và do Sidney Lumet đạo diễn. 12 Angry Men là một phim thể loại tòa án kể về một bồi thẩm đoàn có 12 người đàn ông đang bàn thảo về tội trạng của một bị cáo. Tại Hoa Kỳ, trong hầu hết các phiên xử hình sự qua bồi thẩm đoàn, tất cả các bồi thẩm viên phải nhất trí khi kết luận bị cáo có tội hay vô tội. Bộ phim đặc biệt ở điểm gần như chỉ dùng một bối cảnh: trừ một đoạn mở đầu xảy ra trước tòa án và một đoạn ngắn ở trong phòng vệ sinh, toàn bộ bộ phim diễn ra trong một phòng họp bồi thẩm. Trong toàn bộ 96 phút của bộ phim, chỉ 3 phút diễn ra ngoài phòng này. Bộ phim miêu tả những phương pháp đi đến sự đồng thuận, cũng như những sự khó khăn trong quá trình này, trong một nhóm người có nhiều cá tính khác nhau cộng thêm cá tính mạnh và mâu thuẫn lẫn nhau.
Nguồn vốn con người thực chất là một hình thức vốn vô hình khi so sánh với các hình thức vốn hữu hình. Là các kiến thức, kĩ năng, năng lực, và các tố chất khác của các cá nhân giúp tạo ra những giá trị về kinh tế, xã hội và của bản thân. - Thứ nhất, diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum) còn xây dựng Chỉ số vốn con người (Human Capital Index) để đánh giá toàn diện thực trạng cũng như triển vọng phát triển vốn con người của các quốc gia. Chỉ số này bao gồm có 4 trụ cột chính: trình độ học vấn, sức khỏe, việc làm và môi trường, trong đó có môi trường pháp lí, cơ sở hạ tầng và các yếu tố khác thúc đẩy sự phát triển của vốn con người. Chỉ số vốn con người là một chỉ số tổng hợp nhằm hướng tới đánh giá vốn con người một cách toàn diện. - Thứ hai, khi vốn con người cao hơn, năng suất lao động sẽ cao hơn, đem lại lợi ích cho bản thân người đó cũng như đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. - Một là, nghiên cứu điển hình của Mankiw và cộng sự (1992), khi bổ sung thêm biến số vốn con người, mô hình tăng trưởng của Solow phản ánh sát thực trạng quá trình tăng trưởng của các quốc gia, trong đó yếu tố vốn con người có vai trò quan trọng đối với quá trình này. Theo Nelson và Phelps (1996), vốn con người là nhân tố quyết định đến việc tiếp nhận công nghệ mới từ nước ngoài và do đó tác động tới tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. - Hai là, khi lượng vốn con người ngày càng nhiều thì năng suất nghiên cứu, tạo ra các mẫu mã mới càng cao. Do vậy, vốn con người quyết định quá trình tăng trưởng và một trong những nguyên nhân của tăng trưởng chậm là do quá ít vốn con người được sử dụng trong các hoạt động nghiên cứu. Tựu chung lại, các mô hình tăng trưởng nội sinh nhấn mạnh tới yếu tố vốn con người trong quá trình kiến tạo, triển khai và tiếp nhận công nghệ mới để tạo ra tăng trưởng. - Ba là, các lí thuyết tăng trưởng nội sinh và các lí thuyết về vốn con người đều khẳng định rằng vốn con người quyết định năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu định lượng cho thấy vốn con người là nhân tố làm tăng thu nhập cho các cá nhân. Mặc dù kết quả định lượng về tác động của vốn con người tới tăng trưởng kinh tế cũng rất khác nhau, hầu hết các nghiên cứu định lượng đều khẳng định cùng với các nghiên cứu lí thuyết về vai trò và tầm quan trọng của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
Vốn con người
Vốn con người hay vốn nhân lực là nguồn của các thói quen, kiến thức, thuộc tính xã hội và tính cách (bao gồm cả sự sáng tạo) thể hiện ở khả năng thực hiện lao động để tạo ra giá trị kinh tế. Vốn con người là duy nhất và khác với bất kỳ vốn khác. Nó là cần thiết cho các công ty để đạt được mục tiêu, phát triển và vẫn đổi mới. Các công ty có thể đầu tư vào vốn nhân lực chẳng hạn thông qua giáo dục và đào tạo cho phép cải thiện mức độ chất lượng và sản xuất. Lý thuyết vốn con người gắn liền với nghiên cứu về quản lý nguồn nhân lực được tìm thấy trong thực tiễn quản trị kinh doanh và kinh tế vĩ mô. Ý tưởng ban đầu về vốn nhân lực có thể được truy nguyên ít nhất là từ Adam Smith trong thế kỷ 18. Lý thuyết hiện đại đã được phổ biến bởi Gary Becker, một nhà kinh tế và người đoạt giải Nobel từ Đại học Chicago, Jacob Mincer và Theodore Schultz. Do kết quả của công việc khái niệm hóa và mô hình hóa của ông sử dụng Vốn nhân lực làm nhân tố chính, giải thưởng Nobel về kinh tế năm 2018 đã được trao cho Paul Romer, người sáng lập phương pháp tiếp cận theo hướng đổi mới hiện đại để hiểu được sự tăng trưởng kinh tế.
Ferdinand III (13 tháng 7 năm 1608 – 2 tháng 4 năm 1657) là Hoàng đế La Mã Thần thánh (15 tháng 2 năm 1637 – 1657). Được chọn làm vua Hungary-Croatia năm 1625, vua Bohemia năm 1627, và kế vị vua cha làm Vua của người La Mã vaò năm 1636, và trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh vào năm 1637. Sau cái chết của tướng Wallenstein vào năm 1634, trong khi cuộc chiến tranh 30 năm hãy còn tiếp diễn, ông nhậm chức Tổng tư lệnh danh dự của Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh, cuối năm đó ông liên kết với người em họ là Hoàng tử-Hồng y Ferdinand và đánh tan tác quân Thụy Điển trong trận chiến tại Nördlingen. Là một người chủ hoà, năm 1635 ông ký hiệp ước Praha với các quốc gia phe Tin Lành. Sau khi vua cha qua đời, ông lên làm Hoàng đế La Mã Thần thánh năm 1637. Tân hoàng đế mong muốn ký hiệp ước ngừng bắn với nước Pháp và Thụy Điển, nhưng cuộc chiến vẫn tiếp diễn 11 năm sau đó, kết thúc với Hiệp ước Westfalen (gồm 2 phần cơ bản là Hiệp ước Münster với Pháp, Hiệp ước Osnabrük với Thuỵ Điển), Maximilian von und zu Trauttmansdorff - một nhà ngoại giao thiên tài đã được Ferdinand II phong chức làm bá tước năm 1623 - chính là người đại diện phe Đế quốc trong hai hiệp ước này. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1631, vua Ferdinand III cưới người vợ đầu tiên: Đại Công nương Maria Anna xứ Áo. Bà là con gái út của vua Tây Ban Nha là Felipe III và Margaret xứ Áo. Họ là những anh em họ thứ nhất do mẹ của Maria Anna là em gái của vua cha Ferdinand II của Hoàng đế Ferdinand III. Maria Anna xứ Áo đã sinh cho Hoàng đế 6 người con.
Ferdinand II của Thánh chế La Mã
Ferdinand II (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1578 – mất ngày 15 tháng 2 năm 1637) một thành viên của Gia tộc Habsburg là Hoàng đế của Thánh chế La Mã (1619–1637), Vua của Bohemia (1617–1619, 1620–1637) đồng thời là Vua của Hungary và Croatia (1618–1637). Ông là con trai của Hoàng tử Karl II của Nội Áo và Maria xứ Bayern. Cha mẹ ông đều là những người sùng đạo Công giáo. Vào năm 1590, họ đã gửi ông đến học tại trường cao đẳng chúa Jesuit ở Ingolstadt. Bởi vì họ muốn giữ cách biệt ông với những quý tộc thuộc giáo hội Luther. Vào tháng 7 cùng năm (1590), khi Ferdinand 12 tuổi, cha ông qua đời và ông kế thừa Nội Áo - Styria, Carinthia, Carniola và các tỉnh thành nhỏ hơn. Người anh họ không có con là Rudolf II – Hoàng đế của Thánh chế La Mã (người đứng đầu gia tộc Habsburg) đã cử các quan nhiếp chính đến để cai quản những vùng đất này. Ferdinand được chỉ định làm người cai trị chính thức của các tỉnh Nội địa Áo vào năm 1596 và năm 1597. Người anh họ Rudolph II cũng ra lệnh cho ông bảo vệ xứ Croatia, Slavonia và phía đông nam Hungary chống lại Đế quốc Ottoman.
Phong thủy một quan niệm xưa của ông bà ta làm gì cũng có phong thủy mới tốt được, hảy theo dõi nội dung sau đây để biết thêm nhé. Hôm nay, brands.vn sẽ trình bày phong thủy là gì? Và những điều cần biết về phong thủy. Hiện nay, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, con người ngày càng yêu cầu cao hơn sự hoàn mỹ trong cuộc sống. một trong các mong muốn cao trong cuộc sống của mỗi người là không sống. Phong thủy đã có từ rất lâu đời, có người cho rằng Phong thủy đến từ người Trung Quốc, cũng có người có chuyên môn cho rằng Phong thủy là vì người Việt cổ phát minh ra. Tuy nhiên chính xác mà nói, không hề có ai dám bảo đảm về nguồn gốc thực sự của Phong thủy. Dân gian thường có câu: “Chọn đất mà ở”, “Gần nước hướng về mặt trời”. Từ đó chúng ta rút ra được những trải nghiệm để tránh những điều kiêng kỵ khi xây nhà hay sắp đặt phong thuỷ trong nhà sao cho phù hợp. Phong thủy là một cách mang tính khoa học, hoàn toàn không luôn đi chung với bất kì tín ngưỡng nào. Là sự tương tác giữa các yếu tố tự nhiên, môi trường bên ngoài với nhau. Từ đấy đưa rõ ra những vị trí thuận lợi nhất có thể đối với mỗi người, bí quyết bài trí, thiết kế có thể hỗ trợ cho chúng ta trong cuộc sống. Việc hiểu được những lý thuyết về Phong thủy, Phong thủy là gì giúp ta có thể hiểu và đưa rõ ra những chọn lựa chính xác. Tuy phong thủy có vai trò lớn trong mệnh vận chúng ta nhưng chúng chỉ có vai trò giúp đỡ, cải biến chứ chẳng thể thay đổi hoàn toàn vận mệnh. Vì thế, người ta tìm đến phong thủy với mong muốn giữ gìn và duy trì một cuộc sống hài hòa, hạnh phúc, khỏe khoắn và sung túc. Phong thủy là sự tổng hòa của toàn bộ các yếu tố xung con người như địa thế, hình dạng, dòng nước, mồ mả, địa hình, bố cục mặt bằng không gian tạo ra, hướng gió, và cả quan hệ giữa người với người trong làng xã, thôn xóm. Yểu trong bán hàng buôn bán, làm ăn, ách tắc hay sự hanh thông, thuận lợi trong hoạt động. Khí nếu gặp gió (phong) chắc chắn sẽ tán, còn nếu như gặp nước (thủy) thì sẽ bị ngăn cho kết thúc, cổ nhân hàng ngàn năm nay vẫn luôn răn dạy con người phải làm mọi bí quyết để cho khí tụ, chứ không nên tán, nước chảy cần có chỗ dừng, đấy là nguồn gốc của cái tên “phong thủy”. Phong thủy còn là phương pháp lựa chọn và tìm kiếm các địa thế đẹp để làm nơi trú ngụ, an cư hoặc thậm chí là nơi mai táng cát tường phú quý để từ đó có khả năng đem tới phúc thọ song toàn, cát khí, phú quí hiển vinh, toàn bộ đấy gọi là thuật phong thủy. Cũng giống như các ngành khoa học kĩ thuật cổ truyền khác ở những khu vực Á Đông, thuật phong thủy hết sức bình thường cũng dựa vào dịch lí, ngũ hành, kết hợp với thuyết âm dương. Thuật phong thủy không đặt nền móng trên sự mê tín và tín ngưỡng, mà đó chính là một ngành khoa học tự nhiên, đã được trải qua hàng nghìn thử nghiệm cùng thực hành. Phong thủy là nghệ thuật giúp con người có khả năng sống hài hòa với thiên nhiên, sử dụng thiên nhiên để cuộc sống được hoàn thiện thơn. Sau khi cuộc sống đã hài hòa với thiên nhiên thì mỗi người chúng ta sẽ làm được nhiều việc có ý nghĩa hơn. Tổng kết lại thì phong thủy là ngành chiết suất dòng chảy năng lượng giữa chúng ta với thiên nhiên. – Âm trạch: theo cách gọi thông thường là mồ mả. Theo phong thủy, nếu người chết được chôn ở những cuộc đất tốt sẽ truyền phúc đức cho con cháu sau này. – Dương trạch: là những mẫu đất chuyên dùng để xây nhà, dựng đình chùa, miếu mạo,…. Phong thủy quan niệm rằng: dương trạch phải hài hòa, hòa hợp với thiên nhiên thì con người mới có thể sống hạnh phúc, khỏe khoắn và tránh nhiều tai họa. Từ xa xưa, người ta đã cho rằng phong thủy là yếu tố quan trọng trong vận mệnh của mỗi bạn. Phong thủy tốt con người mới có thể tăng trưởng, phong thủy không hợp con người dễ gặp phải tai họa, vận không tốt. Bởi số mệnh con người không những dựa vào bản thân họ mà còn chịu tác động của âm phần và dương phần. Thuyết ngũ hành là bí quyết biểu thị luật tranh chấp trong âm dương nhưng bổ sung và làm thuyết âm dương hoàn bị hơn. Ngũ hành bao gồm: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Giúp đỡ nhau là tương sinh và phản kháng lại nhau là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá khó khăn của sự vật. – Theo luật tương sinh: thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và tuần hoàn bắt đầu tiếp diễn mãi, chúng thúc đẩy nhau phát triển luôn luôn. Xét về quan hệ tương sinh, cái tạo ra nó và cái được sinh ra là quan hệ mẫu từ. Ví dụ như kim sinh thủy ắt kim là mẹ của thủy, thủy sinh mộc tức mộc là con của thủy. – Trong khi với quan hệ tương khắc, chúng lại mang ý nghĩa biểu hiện ức chế, thắng nhau. Về luật tương khắc: mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậy lại tiếp diễn mãi. Theo lẽ thường, tương khắc có vai trò duy trì sự cân bằng tuy nhiên cái gì quá cũng không tốt, nếu như tương khắc thái quá gây ảnh hưởng xấu đến nhau. Một trong những mục tiêu của người học phong thủy chính là định vị “đất lành” để tạo ra nhà cửa. Vậy “đất lành” là gì, là vị trí mà nguồn khí quan trọng luân chuyển một bí quyết hài hòa, hỗ trợ đắc lực cho cuộc sống sinh hoạt của con người. Dựa vào những kiến thức phong thủy mà người xưa có thể đánh giá đất đai, cũng giống như diễn giải “ngôn ngữ” của sông suối, núi non, đồng ruộng, thung lũng. Các nguyên tắc của phong thủy được áp dụng để không tác động đến các dòng khí hoặc cố gắng tốt lên chúng tốt hơn nữa. Thế nhưng trong cuộc sống hiện đại bây giờ, áp dụng của phong thủy sẽ khác hơn ngày xưa một chút. Bởi nhà cửa, cảnh quan và kiến trúc đều đã có sẵn, chúng ta chỉ phải cải tạo, thay đổi môi trường sống, cũng như môi trường làm việc mà thôi. Khi hai nơi quan trọng nhất là nhà ở và nơi thực hiện công việc đã được sắp đặt hài hòa thì gia chủ sẽ hạnh phúc, khỏe mạnh, thịnh vượng, thuận lợi hơn. Phong thủy khắc họa rõ rệt việc làm này thông qua khái niệm khí: Toàn bộ mọi vật thể xung quanh ta đều có sức ảnh hưởng đến sự luân chuyển và mức độ khí trong không gian. Bài viết trên đã giải thích về phong thủy và cách xác định phong thủy. Cảm ơn các bạn đã xem qua bài viết nhé!. Blog chia sẻ tin tức về các thương hiệu tại Việt Nam và trên Thế Giới. Cách xây dựng thương hiệu cho cá nhân và doanh nghiệp.
Phong thủy
Phong thủy (chữ Hán:風水) là học thuyết có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ đại, chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến đời sống họa hay phúc của con người. Về mặt từ nguyên, 風 phong có nghĩa là "gió", là hiện tượng không khí chuyển động và 水 thủy có nghĩa là "nước", là dòng nước, tượng trưng cho địa thế. Phong thủy không phải là yếu tố đơn lẻ mà là tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết: Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên là "phong thủy". Hai chữ phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quý, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy.
Cần nắm vững vàng kiến thức toán học thì mới có thể giải nhanh và đúng được các bài toán. Trong đó những kiến thức về số tự nhiên là những kiến thức được học trong toán học cấp 2. Trong bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu về số tự nhiên là gì, tính chất và tập hợp các số tự nhiên như thế nào nhé!. Trong toán học, số tự nhiên là tập hợp những số lớn hơn hoặc bằng 0, được ký hiệu là N. Ví dụ như các số 0; 1; 2; 3; 4; 5…. Được gọi là các số tự nhiên. Số tự nhiên được kí hiệu là N. Như vậy kí hiệu tập hợp các số tự nhiên sẽ là N = . Các số tự nhiên được biểu diễn trên một tia số. Mỗi số được biểu diễn bởi một điểm. Hình vẽ dưới đây biểu diễn dãy số tự nhiên theo hình tia. Bởi số tự nhiên được sử dụng nhiều nhất trong toán học và cả trong thực tế hằng ngày. Vì vậy các bạn cần lưu ý nắm rõ về khái niệm, tính chất một cách chính xác để có thể áp dụng vào công việc, học tập của mình. Một số tính chất tập hợp số tự nhiên như sau:. Trong dãy số tự nhiên liên tiếp thì luôn có tính tăng dần. Tức hai số liên tiếp sẽ có một số nhỏ và một số lớn hơn. Ví dụ như hai số 6, 7 thì ta có 6 < 7 ( sáu bé hơn bảy) hay 7 > 6 (bảy lớn hơn sáu). Số tự nhiên được biểu diễn hình tia thì luôn có chiều mũi tên từ trái sang phải và các điểm trên tia có tính tăng dần. Khi số a nhỏ hơn số b, ta viết a < b hoặc b > a. Nếu a < b, b < c thì ta có a < c. Một số tự nhiên chỉ có một số liền sau duy nhất. Ví dụ số 5 thì số liền sau của số 5 là số 6. Một số tự nhiên chỉ có một số liền trước duy nhất, trừ số 0 bởi số 0 là số nhỏ nhất. Kết luận: Với những kiến thức trên, dễ dàng cho các bạn hiểu số tự nhiên là gì hay kí hiệu N là gì rồi đúng không nào. Chúng các bạn học tốt và thành công hơn nữa trong cuộc sống!
Số tự nhiên
Trong toán học, các số tự nhiên được sử dụng để đếm (như trong "có sáu đồng xu trên bàn") và thứ tự (như trong "đây là thành phố lớn thứ ba trong cả nước"). Đôi khi, các số tự nhiên có thể xuất hiện dưới dạng một bộ mã thuận tiện (nhãn hoặc "tên"), nghĩa là, như những gì các nhà ngôn ngữ học gọi là số danh nghĩa, loại bỏ nhiều hoặc tất cả các thuộc tính của một số theo nghĩa toán học. .Trong tiêu chuẩn của ISO 80000-2 và tài liệu giáo khoa chuẩn của Việt Nam, số tự nhiên được định nghĩa là các số nguyên không âm 0, 1, 2, 3,. , để nhấn mạnh rằng số 0 cũng được bao gồm), trong khi những số khác bắt đầu bằng 1, tương ứng với các số nguyên dương 1, 2, 3,. với nhấn mạnh rằng số 0 bị loại trừ).Các số tự nhiên là cơ sở mà từ đó nhiều tập hợp số khác có thể được xây dựng bằng cách mở rộng: tập hợp các số nguyên, được xây dựng bằng cách bao gồm (nếu chưa có) phần tử trung tính 0 và một phép cộng nghịch đảo ( − n ) cho mỗi số tự nhiên khác nhau n ; tập hợp các số hữu tỉ, bằng cách bao gồm một nghịch đảo phép nhân (1/n ) cho mỗi số nguyên khác n (và cả tích của các phép nghịch đảo này với các số nguyên); tập hợp các số thực bằng cách bao gồm với các số hữu tỉ các giới hạn của (hội tụ) dãy Cauchy của các số hữu tỉ; các số phức, bằng cách cộng với các số thực căn bậc hai chưa giải của trừ một (và cả tổng và tích của chúng),.
Công nghệ xử lý nước thải số 1 hiện nay là vấn đề được rất nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Bởi lẽ vấn đề bảo vệ môi trường đang trở nên vô cùng cấp thiết, do đó, tìm kiếm công nghệ xử lý nước thải hiện đại, tối ưu để xử lý nước thải trước khi thải ra ngoài môi trường là việc làm mà các hộ gia đình, doanh nghiệp cần thực hiện. Và hệ thống xử lý nước thải bằng Công nghệ MET đang là lựa chọn được nhiều người tin dùng nhất hiện nay. Công nghệ MET (Mechanical Energy Technologies) là công nghệ năng lượng cơ học với 100% công nghệ đến từ Việt Nam. So với các công nghệ xử lý nước khác trên thị trường, công nghệ xử lý nước MET có nhiều ưu điểm vượt trội như: Không sử dụng lõi lọc, không điện năng, không hóa chất trong quá trình xử lý. Riêng đối với Công nghệ xử lý nước thải MET, MET có khả có khả năng xử lý các loại nước thải như nước thải sinh hoạt, nước thải y tế, nước thải từ các nhà hàng, khách sạn, v.v. Công nghệ xử lý nước thải MET có khả năng loại bỏ hoàn toàn các chất rắn lơ lửng và các chất khoáng không có lợi cho con người (như Asen, phèn, sắt…). Và giữ lại các chất khoáng có lợi cho sức khỏe con người. Đặc biệt hệ thống xử lý nước MET còn xử lý triệt để các chất khí như: metan, hydro sunphua, amoni…. Công nghệ xử lý nước thải MET vinh dự nhận được nhiều thưởng lớn ở trong nước cũng như quốc tế. Có thể kể đến như: Huy chương bạc tại Cuộc thi Japan Design, Idea & Invention Expo (Nhật Bản) năm 2018, huy chương vàng về công nghệ xử lý nước thải công nghiệp tại Hội chợ Kaohsiung International Invention & Design Expo 2018 (Đài Loan), huy chương vàng Cuộc thi Giải pháp công nghệ toàn cầu iCAN 2017 (Canađa), giải Sáng tạo Cuộc thi khởi nghiệp sáng tạo phụ nữ và tương lai của nền kinh tế xanh (Việt Nam)…. Năm 2019, Công nghệ xử lý nước MET đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Bằng độc quyền sáng chế theo Quyết định số 53605/QĐ-SHTT. Coong nghệ MET có thể xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải y tế, v.v. Nước thải công nghiệp thường được các khu công nghiệp xử lý bằng công nghệ nano, sử dụng hoá chất…Tuy nhiên, các biện pháp này đều không mang lại hiệu quả cao và tồn tại nhiều hạn chế như: chi phí lắp đặt cao, chiếm nhiều diện tích lắp đặt, thao tác sử dụng khó, tiêu hao điện năng, dễ hư hỏng trong quá trình sử dụng và tuổi thọ thấp. Công nghệ xử lý nước thải MET ra đời đã khắc phục được những nhược điểm nêu trên. – Nguồn nước cần xử lý đưa vào trong hệ thống theo đường ống cấp nước. Đến khi lượng nước cần xử lý đủ thì van sẽ khóa lại. – Tại đây nước sẽ bị chia cắt bởi các guồng quay. Do lực áp suất nước sinh ra làm cho nguồn nước đẩy vào các guồng quay khác nhau và bị chia nhỏ. Hệ thống xử lý hoàn toàn được đóng kín nên oxy sẽ không vào được. Do một lực xuyên tâm làm các phân tử nước dao động tự do trong hệ thống. Tách riêng chất rắn và chất khí. Các chất khí sẽ bị đẩy ra theo đường thoát khí. Chất rắn và phần nước chưa được xử lý được đẩy lên bề mặt cát. Sau đó nguồn nước chưa được xử lý bị hút ngược lại hệ thống. Quay lại bước đầu xử lý tiếp. – Các phân tử nước cần được xử lý sẽ tiếp tục đi vào tiếp tục xử lý lần 2. Ở đây sẽ có vôi và muối để khử các chất độc hại còn lại. Sau khi xử lý nước ở dạng phân tử xong sẽ được áp suất đẩy ra. Cùng với đó oxy sẽ được hút vào hệ thống để kết hợp với phân tử nước đi ra ngoài. – Sau khi nước thải sinh hoạt được đưa từ bể chứa nước. Cần xử lý (bể sơ cấp) chảy qua bể chứa hệ thống xử lý nước (bể thứ cấp). Bằng hệ thống đường ống lọc tạo ra các guồng chia tách nước. Sau đó sẽ được lọc thô nhờ một màng lọc tự nhiên. Sau đó chạy vào hệ thống lọc của máy. – Chất thải rắn như sắt, mangan, asen sẽ được đi vào đường ống xả chất thải. – Các chất khí được hút vào đường ống đi ra ống thoát khí CH4, CO. Các phân tử nước chịu tác động của lực đẩy, lực nén, lực hút. Lực xuyên tâm mà kết cấu của phân tử nước bị phá vỡ. Nhờ vậy các loại khí trong quá trình lọc được thoát ra ngoài qua đường thoát khí. – Tiếp đó nước lại qua các ống lọc vĩnh cửu để cân bằng PH cũng như là khử trùng… – Tiếp theo nước lại qua các cục xử lý lần 2, nước từ họng hút nước từ cát được hút vào. Sau đó ta thu được nước an toàn chảy vào hệ thống bể dùng cho sinh hoạt. Công nghệ MET là công nghệ xử lý nước cơ học, không sử dụng cát, than hoạt tính và bất kỳ loại hóa chất nào trong quá trình lọc. Cơ chế hoạt động ổn định mà không cần đến bất kỳ nguồn năng lượng hay hóa chất bào khác. Công nghệ xử lý nước tahir MET đem lại hiệu quả cao trong công tác xử lý nước thải y tế nói riêng và các loại nước thải nói chung. Công nghệ xử lý nước thải MET ra đời đã giải được bài toàn khó cho các đơn vị trong việc xử lý nước đầu ra của cở sở sản xuất như các cơ sở sản xuất bún, bánh phở, nhà hàng, khách sạn,….Công nghệ xử lý nước thải MET đã giúp các cơ sở này xử lý triệt để nguồn nước bị ô nhiễm và tiết kiệm được kinh phí. Dưới đây là một ví dụ điển hình về khả năng xử lý nước thải của các cơ sở sản xuất bằng Công nghệ xử lý nước thải MET. Theo chia sẻ của đại diện Cơ sở Dũng Phượng, họ có nghiên cứu và tìm hiểu trên thị trường các công nghệ xử lý nước khác nhau và may mắn họ đã tìm thấy Công nghệ MET để xử lý tất cả các loại nước thải của cơ sở mình. Công nghệ xử lý nước thải MET có cấu tạo và nguyên lý hoạt động dựa trên sự kết hợp các nguyên lý hóa học, vật lý, sinh học… Xử lý nước thải nhưng không sử dụng đến hóa chất, quy trình lắp đặt vận hành đơn giản, đặc biệt công nghệ MET không sử dụng lõi lọc, không có hiện tượng tắc nghẽn trong quá trình xử lý, tuổi thọ cao lên đến 30 năm, chi phí lắp đặt hệ thống rẻ, đầu tư 1 lần nhưng có thể sử dụng trong một thời gian dài. Kết quả nước đầu ra đạt tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quốc giả để thải ra môi trường. Do đó, sử dụng Công nghệ xử lý nước MET để xử lý nước thải không chỉ đem lại lợi ích cho người sử dụng mà còn góp phần bảo vệ môi trường. Thay cho lời kết của bài viết, Công ty TA với mong muốn luôn đồng hành cùng quý khách hàng, giúp quý khách xử lý được nguồn nước bị ô nhiễm,chúng tôi luôn đảm bảo uy tín công nghệ xử lý nước thải MET là một trong những công nghệ xử lý nước thải số 1 hiện nay ở Việt Nam. Công ty TNHH Công nghệ Xử lý nước TA với đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm, có tay nghề cao trong xử lý nước thải, đảm bảo sẽ lắp đặt công trình hệ thống xử lý nước thải công nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, quy trình xử lý nước thải công nghiệp tự động, tối ưu nhất. Chúng tôi cam kết mang lại sự hài lòng của quý khách. Xử lý triệt để nguồn nước giếng khoan bị nhiễm phèn, Sắt, Nitra, Chì, Asen. Đội ngũ tư vấn nhiệt tình xin được giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng 24/7. Công nghệ met đã được chứng nhận và cấp bằng Sáng Chế Độc Quyền Bởi Bộ Khoa Học & Công Nghệ Việt Nam.
Xử lý nước thải
Xử lý nước thải là quá trình loại bỏ chất ô nhiễm ra khỏi nước thải như nước thải hộ gia đình, thương mại và cơ quan. Nó bao gồm các quá trình vật lý, hóa học, và sinh học để loại bỏ các chất ô nhiễm và sản xuất nước thải được xử lý an toàn với môi trường. Một sản phẩm của xử lý nước thải thường là một chất thải bán rắn hoặc bùn, mà cần phải xử lý hơn nữa trước khi được thải ra hoặc được áp dụng đất. (thường là phân bón cho nông nghiệp). Đối với hầu hết các thành phố, các hệ thống thoát nước cũng sẽ mang theo một tỷ lệ nước thải công nghiệp tới các nhà máy xử lý nước thải mà thường đã nhận được tiền xử lý tại các nhà máy để giảm tải ô nhiễm. Nếu hệ thống thoát nước là một hệ thống thoát nước kết hợp thì nó cũng sẽ mang theo dòng chảy đô thị (nước mưa) đến nhà máy xử lý nước thải. Hiện nay với việc sử dụng công nghệ tiên tiến có thể tái sử dụng nước thải thành nước uống, mặc dù vấn đề này vẫn còn gây tranh cãi.
Rủi ro hầu như hiện diện trong mọi khâu của quá trình kinh doanh: thói quen của khách hàng thay đổi, xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới, các yếu tố ngoài tầm kiểm soát dẫn đến dự án bị chậm tiến độ. Nhưng nếu bạn phân tích và kiểm soát rủi ro một cách nghiêm túc, bạn có thể đánh giá được mức độ rủi ro và quyết địnhphải làm gì để giảm thiểu tối đa rủi ro cho dự án. Ngoài ra, phân tích rủi ro còn giúp bạn quyết định sử dụng chiến lược thích hợp để có thể kiểm soát rủi ro hiệu quả. Trước hết cần xác định rằng “cách nhìn nhận ảnh hưởng đến sự tổn thất“. Mỗi người sẽ có những quan điểm khác nhau về tầm ảnh hưởng của một nguy cơ nhất định– Mối nguy nhỏ đối với người này nhưng có thể là mối nguy lớn đối vớingười khác. điều này cho phép bạn so sánh các rủi ro một cách khách quan. 15phut.vn sử dụng cách này trong việc ra quyết định theo sơ đồ nhánh. Giai đoạn đầu tiên trong việc phân tích rủi ro là xác định các mối đe dọa gặp phải. Đó có thể là:. Việc phân tích các mối đe dọa là rất cần thiết vì chúng ta thường dễ dàng xem nhẹ các mối đe dọa nghiêm trọng. Một cách để cố gắng nắm bắt tất cả là sử dụng một số phương pháp tiếp cận khác nhau:. · Thứ nhất, dò qua danh sách đã đề cập ở trên, để xem cách giải quyết nào thích hợp. · Thứ hai, suy nghĩ đến tất cả các hệ thống, từ hệ thống tổ chức đến cấu trúc hoạt động, và phân tích bất cứ rủi ro nào. · Quan sát bằng mắt xem bạn có thể nhận diện được bất kỳ lỗ hổng trong các hệ thống hay kết cấu này hay không. Một khi đã xác định được mối đe dọa, bước tiếp theo là tiến hành nhận diện những mối đe dọa tiềm ẩn và đánh giá tác động của nó. Bên nên thăm dò trước về rủi ro để dự đoán xác suất xảy ra sự kiện một cách chính xác nhất, sau đó nhân với tổng chi phí. Đây chính là giá trị rủi ro. Một khi đối mặt với những nguy cơ lớn, bạn có thể bắt đầu tìm cách kiểm soát chúng. Khi đó, quan trọng là lựa chọn được những cách tiếp cận hiệu quả về chi phí – trong nhiều trường hợp, người ta thường không chi tiêu nhiều cho việc giảm thiểu một rủi ro bằng chính phí tổn rủi ro. Thông thường, việc chấp nhận rủi ro sẽ tốt hơn là lãng phí những nguồn lực để loại trừ nó. Bạn có thể quyết định chấp nhận rủi ro, nhưng hãy chọn một kế hoạch để giảm thiểu ảnh hưởng khi rủi ro xảy ra. Một kế hoạch dự phòng tốt sẽ cho phép bạn hành động ngay lập tức, với việc quản lý dự án ở mức tối thiểu, bạn vẫn có thể thấy mình đang kiểm soát và giải quyết được khủng hoảng. Những kế hoạch dự phòng này cũng là một phần chủ chốt của Kế hoạch Kinh doanh liên tục (Business Continuity Planning – BCP) hoặc quản lý kinh doanh liên tục (Business Continuity Management – BCM). Phân tích rủi ro sẽ là cơ sở để quyết định nên hay không đưa vào những nguồn lực bổ sung để chống lại nguy cơ. Điều này cũng có thể bao gồm bảo hiểm rủi ro: có nghĩa là bạn phải trả cho bên bảo hiểm để chia sẻ một phần rủi ro – điều này đặc biệt quan trọng khi rủi ro là rất lớn và có thể đe dọa khả năng thanh toán của tổ chức. Một khi đã tiến hành bài tập phân tích và quản lý rủi ro, bạn nên xem xét kết quả đánh giá một cách thường xuyên bao gồm phân tích rủi ro, đánh giá về quá trình kiểm tra hệ thống và việc lên kế hoạch. Phân tích và quản lý rủi ro cho phép bạn kiểm tra những rủi ro mà bạn hoặc tổ chức của bạn phải đối mặt dựa trên một cách thức tiếp cận với suy nghĩ thông qua những mối đe dọa, sau đó bằng cách đánh giá xác suất và chi phí của các sự kiện xảy ra. Như vậy, nó tạo cơ sở cho việc quản lý rủi ro và phòng ngừa khủng hoảng. Ở đây trọng tâm là hiệu quả chi phí. Quản lý rủi ro liên quan đến việc việc sử dụng các nguồn lực hiện có một cách thích hợp, lập kế hoạch dự phòng và sử dụng tốt các nguồn lực mới. Trong phần tiếp theo, chúng ta hãy xem phân tích SWOT: một kỹ thuật hữu ích cho việc nghĩ đến vị trí chiến lược mà bạn muốn áp dụng.
Quản lý rủi ro dự án
Quản lý rủi ro dự án là nghệ thuật và khoa học của việc nhận biết, phân tích và phản hồi rủi ro thông qua vòng đời dự án và trong các lợi ích tốt nhất để đạt được các mục tiêu của dự án. Quản lý rủi ro dự án được xem là khía cạnh quan trọng trong việc quản lý dự án và là một trong chín lĩnh vực kiến thức được định nghĩa trong PMBOK. Quản lý rủi ro có thể xem như là một sự kiện hay một hoạt động không thể dự đoán được có thể tác động đến quy trình dự án, kết quả có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Nó có thể tác động tích cực trong việc lựa chọn dự án, định nghĩa quy mô dự án và phát triển lịch trình thực tế và đánh giá được đúng chi phí bỏ ra. Rủi ro có thể được đánh giá theo 2 nhân tố: tác động và khả năng xảy ra. Nếu khả năng xảy ra là 1, nó là vấn đề. Điều này có nghĩa rủi ro được tài liệu hóa. Nếu khả năng xảy ra là 0, điều này có nghĩa rủi ro không xảy ra và có thể loại bỏ trong công cụ đăng ký rủi ro.
Sân thường được gọi là The Bridge. Đây là sân nhà của Chelsea F.C., một đội đang thi đấu tại Premier League, hạng đấu cao nhất của bóng đá Anh. Sân vận động có sức chứa 40.853 chỗ ngồi, khiến sân trở thành sân vận động lớn thứ chín của mùa giải Premier League 2019-20. Câu lạc bộ đã có kế hoạch mở rộng sức chứa của sân lên 60.000 chỗ ngồi vào mùa giải 2023-24. Được khánh thành vào năm 1877, sân vận động được sử dụng bởi London Athletic Club cho đến năm 1905, khi chủ sở hữu mới Gus Mears thành lập Câu lạc bộ bóng đá Chelsea để sở hữu sân; Chelsea đã chơi các trận sân nhà của đội kể từ đó. Sân đã trải qua những thay đổi lớn trong nhiều năm, gần đây nhất là vào những năm 1990 khi sân được cải tạo thành một sân vận động hiện đại, toàn chỗ ngồi. Stamford Bridge từng là địa điểm tổ chức các trận đấu quốc tế của đội tuyển Anh, trận chung kết Cúp FA, vòng bán kết Cúp FA và Siêu cúp Anh. Sân cũng đã tổ chức nhiều môn thể thao khác, chẳng hạn như cricket, rugby union, đua xe tốc độ, đua chó, bóng chày và bóng bầu dục Mỹ. Lượng khán giả chính thức cao nhất của sân vận động là 82.905 người, trong trận đấu giữa Chelsea và Arsenal vào ngày 12 tháng 10 năm 1935. Ngày 28 tháng 4 năm 1877, sân Stamford Bridge với 5.000 chỗ ngồi chính thức mở cửa lần đầu tiên. Đó là một sự kiện được tổ chức rất hoành tráng bởi ông chủ của nó là một Huân tước giàu có bậc nhất London, và đó là sản phẩm của kiến trúc sư Archibald Leitch – một người mà không ai trong giới thiết kế không biết đến. Sau 28 năm, SVĐ lớn thứ 2 nước Anh (chỉ kém sân của Crystal Palace) vẫn sừng sững đứng đó, nhưng ông chủ của nó thì không, thậm chí sống dở chết dở trong cảnh bần hàn. Người ta đã chào bán Stamford Bridge với giá rất rẻ. Chính Fulham cũng đã một lần lắc đầu và cuối cùng, sân bóng này (sau một thời gian khá dài chỉ sử dụng làm sân điền kinh) được chuyển sang tay anh em nhà Mears. Năm 1982, khi đó Chelsea đang đứng ở lưng chừng bảng xếp hạng tại giải hạng nhì. Ngày đó, Chelsea không có được một sân đấu khang trang như Stamford Bridge danh tiếng mà chúng ta biết đến hôm nay; tất cả lúc đó chỉ là một bãi đất trống với khán đài chỉ có 14.000 chỗ ngồi. Rồi Ken Bates đến và mua lại Chelsea, Stamford Bridge bắt đầu được nâng cấp và xây dựng lại thành một tổ hợp Chelsea Village với hệ thống nhà hàng, khách sạn và trung tâm tập luyện, giải trí. Khán đài Matthew Harding, trước đây gọi là khán đài Bắc. Ống là một ủng hộ viên trung thành của The Blues, đã từng bỏ ra rất nhiều tiền của để giúp Chelsea vượt qua những tháng ngày đen tối của cuộc khủng hoảng tài chính đầu những năm 90. Ông mất ngày 22/10/1996 trong một vụ tai nạn máy bay. Để tưởng nhớ những đóng góp to lớn của Matthew Harding, tên ông đã được đặt cho khán đài phía Bắc như một sự tri ân từ The Blues. Khán đài gồm 2 tầng chính với phần lớn những người có vé xem cả mùa. Có tin cho rằng Roman Abramovich sẽ mở rộng khán đài này trong thời gian tới. Như đã biết, đây là khán đài lâu đời nhất tại sân SB. Trước đây nó là vị trí dành cho các CĐV đội khách, ngồi tầng dưới cùng. Tuy nhiên, đầu mùa giải 2005/2006, Jose Mourinho đã đề nghị chuyển khu vực CĐV nhà đến phần khán đài ‘’nhạy cảm’’ này để tăng thêm nhuệ khí khi Chelsea thi đấu. Khán đài này gồm 3 tầng chính và là trái tim của SVĐ. Ngay dưới khán đài là nơi đặt máy quay chính; ngoài ra còn có phòng thay đồ của các cầu thủ, phòng hội ý, phòng nghe nhìn, trung tâm báo chí và phòng bình luận. Tầng giữa có dãy phòng của ban lãnh đạo còn tầng dưới cùng được xem là một trong những vị trí quan sát tốt nhất trên sân. Shed End là khán đài phía Nam; gồm 2 tầng. Tầng dưới từng là nơi dành cho CĐV nhà, tuy nhiên từ mùa giải 2005/2006, góc phía đông của khán đài đã được dành cho các CĐV khách. The Shed còn có một Viện Bảo tàng Trăm năm và một bức tường kỷ niệm. Đó là nơi tưởng nhớ vĩnh viễn những CĐV trung thành nhất của Chelsea, những người đã nguyện trao trọn tình yêu của mình cho CLB đến tận khi qua đời. Khán đài Tây gồm 3 tầng, và là nơi đặt hàng ghế VIP. Abramovich thường xuyên dự khán các trận đấu tại đó. Ngoài ra khu vực này còn được đặt hệ thống sưởi ấm. Đây chính là khán đài đẹp nhất SB và có sức chứa lớn nhất. Do đó mà giá vé cho khu vực này đắt nhất, đặc biệt là tầng giữa và tầng dưới cùng. Ngày 12 tháng 10 năm 1935 trong trận đấu Arsenal và Chelsea, sức chứa của sân đã đạt tới mức kỉ lục 82.905.
Stamford Bridge (sân vận động)
Stamford Bridge () là một sân vận động bóng đá ở Fulham, tiếp giáp với quận Chelsea ở Tây Nam Luân Đôn. Sân thường được gọi là The Bridge. Đây là sân nhà của Chelsea F.C., một đội đang thi đấu tại Premier League, hạng đấu cao nhất của bóng đá Anh. Sân vận động có sức chứa 40.853 chỗ ngồi, khiến sân trở thành sân vận động lớn thứ chín của mùa giải Premier League 2019-20. Câu lạc bộ đã có kế hoạch mở rộng sức chứa của sân lên 60.000 chỗ ngồi vào mùa giải 2023-24. Được khánh thành vào năm 1877, sân vận động được sử dụng bởi London Athletic Club cho đến năm 1905, khi chủ sở hữu mới Gus Mears thành lập Câu lạc bộ bóng đá Chelsea để sở hữu sân; Chelsea đã chơi các trận sân nhà của đội kể từ đó. Sân đã trải qua những thay đổi lớn trong nhiều năm, gần đây nhất là vào những năm 1990 khi sân được cải tạo thành một sân vận động hiện đại, toàn chỗ ngồi. Stamford Bridge từng là địa điểm tổ chức các trận đấu quốc tế của đội tuyển Anh, trận chung kết Cúp FA, vòng bán kết Cúp FA và Siêu cúp Anh.
Ngữ hệ Ấn-Âu là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn nguyên Iran và miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Một số ngôn ngữ Ấn-Âu, chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha đã lan rộng nhờ làn sóng thuộc địa hóa của người châu Âu và hiện được sử dụng trên khắp thế giới. Hệ Ấn-Âu được chia thành nhiều nhánh, lớn nhất phải kể đến đó là các nhóm Ấn-Iran, German, Rôman và Balt-Slav. Các ngôn ngữ có số người nói lớn nhất là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Hindustan (tiếng Hindi/Urdu), tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Bengal, tiếng Marathi, tiếng Punjab và tiếng Nga (mỗi thứ tiếng có hơn 100 triệu người nói). Tiếng Đức, Pháp, Ý và Ba Tư đều có hơn 50 triệu người nói. Tổng cộng, 46% dân số thế giới (3,2 tỷ người) có tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Ấn-Âu, đông đảo nhất so với bất kỳ ngữ hệ nào khác. Theo ước tính của Ethnologue, có khoảng 445 ngôn ngữ Ấn-Âu đang được nói, hơn 2/3 (313) trong số đó thuộc nhánh Ấn-Iran. Tất cả các ngôn ngữ Ấn-Âu đều có nguồn gốc từ một ngôn ngữ duy nhất, được các nhà ngôn ngữ phục dựng thành tiếng Ấn-Âu nguyên thuỷ được nói ở một thời điểm nào đó vào thời đại đồ đá mới. Quê nhà chính xác của nó, được gọi là urheimat Ấn-Âu, vẫn chưa được tìm ra và là chủ đề của nhiều học thuyết cạnh tranh; được chấp nhận rộng rãi nhất là thuyết Kurgan, cho rằng urheimat là vùng thảo nguyên Pontus–Caspi, gắn với văn hóa Yamnaya có niên đại vào khoảng 3000 năm TCN. Vào thời điểm những bản ghi chép đầu tiên xuất hiện, ngữ hệ Ấn-Âu đã phân tách thành nhiều ngôn ngữ độc lập, được sử dụng trên hầu khắp châu Âu cũng như Tây và Nam Á. Văn liệu của ngôn ngữ Ấn-Âu xuất hiện vào thời kỳ đồ đồng dưới dạng tiếng Hy Lạp Mycenaea và các ngôn ngữ Anatolia (tiếng Hitti và tiếng Luwia). Còn tư liệu lâu đời nhất là một số từ vựng và tên riêng tiếng Hitti lẻ tẻ (xen kẽ trong các văn bản tiếng Assyria cổ thuộc ngữ tộc Semit) xuất hiện trong các văn bản cổ tại thuộc địa Kültepe của người Assyria miền đông Anatolia vào thế kỷ XX TCN. Mặc dù người Ấn-Âu nguyên thuỷ cổ hơn không để lại bất kỳ văn liệu nào, một số khía cạnh về văn hóa và tôn giáo của họ có thể được phục dựng từ những bằng chứng sau này của các nền văn hóa hậu duệ. Hệ Ấn-Âu có ý nghĩa quan trọng đối với lĩnh vực ngôn ngữ học lịch sử vì ngữ hệ này sở hữu lịch sử được ghi chép cổ thứ hai so với bất kỳ hệ nào được biết đến, chỉ đứng sau ngữ hệ Á-Phi với tiếng Ai Cập và các ngôn ngữ Semit. Việc phân tích mối liên hệ giữa các ngôn ngữ Ấn-Âu và việc phục dựng lại nguồn gốc chung giữa chúng là trọng tâm cho sự phát triển phương pháp luận của ngành ngôn ngữ học lịch sử thành một ngành khoa học hàn lâm vào thế kỷ XIX. Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu hiện không có liên hệ với bất kỳ ngữ hệ nào khác, mặc dù một số đề xuất gây tranh vẫn đã được đưa ra. Vào thế kỷ XVI, những người châu Âu đi đến tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu nhận ra những nét tương tự giữa các ngôn ngữ Ấn-Arya, Iran, và châu Âu. Năm 1583, nhà truyền giáo Dòng Tên người Anh Thomas Stephens tại Goa đã viết một lá thư cho người thân (không được công bố cho tới tận thế kỷ XX), mà trong đó ông đề cập đến sự tương đồng giữa ngôn ngữ Ấn Độ (đặc biệt là tiếng Phạn) với tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh. Năm 1647, học giả và nhà ngôn ngữ học người Hà Lan Marcus Zuerius van Boxhorn chú ý đến nét tương tự ở một số ngôn ngữ châu Á và châu Âu nhất định, và cho rằng chúng xuất phát một ngôn ngữ chung gọi là Scythia. Các ngôn ngữ trong giả thuyết của ông gồm tiếng Hà Lan, tiếng Albania, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Ba Tư, và tiếng Đức, sau đó cho thêm vào các ngôn ngữ Slav, các ngôn ngữ Celt, và các ngôn ngữ gốc Balt. Ý kiến của Van Boxhorn không phổ biến và cũng không giúp khuyến khích nghiên cứu sâu hơn. Thomas Young lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ Indo-European năm 1813, dựa trên phân bố địa lý của hệ này: từ Tây Âu tới Bắc Ấn Độ. ), xuất hiện năm 1810 bằng tiếng Pháp (indo-germanique) trong nghiên cứu của Conrad Malte-Brun; thuật ngữ này hiện bị xem là lỗi thời và ít phổ biến hơn Indo-European, dù trong tiếng Đức indogermanisch vẫn là thuật ngữ chuẩn. Tiếng Albania, được chứng thực từ thế kỷ XIII; tiếng proto-Albania phát triển từ một ngôn ngữ Balkan cổ, thường được cho là tiếng Illyria; tuy nhiên, bằng chứng cho giả thuyết này không đủ để đi đến kết luận. Tiếng Anatolia, tuyệt chủng vào hậu kỳ cổ điển, được nói ở vùng Anatolia, được chứng thực bằng những thuật ngữ riêng biệt trong tiếng Luwian/Hittite được đề cập trong các văn bản viết bằng tiếng Assyria cổ của thế kỷ XX và XIX TCN, các văn bản Hittite từ khoảng 1650 TCN. Nhóm ngôn ngữ Balt-Slav, được hầu hết các học giả nghiên cứu Ấn-Âu cho là một nhánh riêng, trong khi một số ít cho rằng những điểm tương đồng là do sự tiếp xúc ngôn ngữ. Ngữ tộc Slav (từ tiếng Proto-Slav), được chứng thực từ thế kỷ thứ IX (có thể sớm hơn), các văn bản sớm nhất bằng tiếng Slav Giáo hội cổ. Nhánh Balt, được chứng thực từ thế kỷ XIV; so với các ngôn ngữ được chứng thực gần đây, chúng vẫn giữ nhiều đặc điểm rất cổ xưa của proto Ấn-Âu (PIE). Ví dụ còn tồn tại là tiếng Lithuania và tiếng Latvia. Ngữ tộc Celt (từ tiếng Proto-Celt), được chứng thực từ thế kỷ thứ VI TCN; Các bản khắc bằng tiếng Lepontic có niên đại sớm nhất là vào thế kỷ thứ VI TCN; tiếng Celtiberi từ thế kỷ thứ II TCN; Các bản khắc Ogham của người Ireland nguyên thủy từ thế kỷ IV hoặc V, các bản khắc sớm nhất trong tiếng Welsh Cổ từ thế kỷ VII. Các ngôn ngữ German (từ tiếng Proto-German), được chứng thực sớm nhất trong các bản khắc chữ runic từ khoảng thế kỷ thứ II, các văn bản mạch lạc sớm nhất của tiếng Goth, thế kỷ IV. Các thủ bản cũ của Anh từ khoảng thế kỷ thứ VIII. Nhóm ngôn ngữ Hy Lạp và tiếng Hy Lạp (từ tiếng Proto-Hy Lạp); các ghi chép rời rạc trong tiếng Hy Lạp Mycenaea từ giữa năm 1450 đến 1350 TCN đã được tìm thấy. Văn bản của Homeros có niên đại vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên. Các ngôn ngữ Ấn-Iran, được chứng thực vào khoảng những năm 1400 TCN, là hậu duệ của tiếng Proto-Ấn-Iran (có niên đại vào cuối thiên niên kỷ thứ 3 TCN). Ngữ chi Ấn-Arya (bao gồm cả tiếng Dardic), được chứng thực từ khoảng những năm 1400 TCN trong các văn bản Hittite từ Anatolia, có dấu vết của từ vựng Ấn-Arya. Các bản khắc kim thạch từ thế kỷ thứ 3 TCN dưới dạng tiếng Prakrit (Chỉ dụ của Ashoka). Tiếng Rigveda được cho là được lưu giữ nguyên vẹn thông qua truyền khẩu có niên đại từ khoảng giữa thiên niên kỷ thứ hai TCN dưới dạng Vedic Sanskrit. Nhánh Iran, được chứng thực từ khoảng năm 1000 TCN dưới dạng tiếng Avesta. Các bản khắc kim thạch từ năm 520 TCN dưới dạng chữ Ba Tư Cổ (chữ khắc Behistun). Nhóm ngôn ngữ gốc Ý (từ tiếng Proto-Ý), được chứng thực từ thế kỷ thứ VII TCN. Hai ngôn ngữ của nhánh này tồn tại (Turfani và Kuche, hoặc Tochari A và B), được chứng thực từ khoảng thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ IX. Các ngôn ngữ này bị mai một dưới sự cai trị của Vương quốc Hồi Cốt và có thể đã tuyệt chủng vào thế kỷ XX. Ngoài mười nhánh cổ điển được liệt kê ở trên, một số ngôn ngữ và nhóm ngôn ngữ đã tuyệt chủng và ít được biết đến đã tồn tại hoặc được đề xuất là đã tồn tại. Các đường đồng ngữ tiêu biểu của các ngôn ngữ hậu duệ của tiếng Proto Ấn-Âu vào khoảng 500 TCN. Việc phân chia các ngôn ngữ Ấn-Âu thành các nhóm satem và centum được nhà ngôn ngữ học Peter von Bradke đưa ra vào năm 1890, mặc dù Karl Brugmann đã đề xuất một kiểu phân loại tương tự vào năm 1886. Ở các ngôn ngữ satem, bao gồm nhánh Balto-Slav và Ấn-Iran, cũng như (về hầu hết các khía cạnh) Albania và Armenia, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa của Proto-Ấn-Âu được phục dựng vẫn khác biệt và thường bị xát hóa, trong khi các âm ngạc mềm-môi hòa lẫn với ‘các âm ngạc mềm thường’. Ở các ngôn ngữ centum, các âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa này hòa lẫn với các ngạc mềm thường, trong khi các âm ngạc mềm-môi vẫn khác biệt. Ví dụ như từ “một trăm” trong tiếng Avesta (satem) và tiếng Latinh (centum) — âm ngạc mềm bị ngạc cứng hóa ban đầu đã biến thành âm xát ở Avesta, nhưng thành âm ngạc mềm thường ở Latinh. Đặc điểm này không phải là sự phân tách theo phả hệ, sự phân chia centum–satem thường được coi là kết quả của những thay đổi lan rộng trên các nhánh phương ngữ PIE trên một khu vực địa lý cụ thể; đường đồng ngữ centum–satem giao với một số đường đồng ngữ khác đánh dấu sự khác biệt giữa các đối tượng địa lý trong các nhánh IE sớm. Có thể là các nhánh centum trên thực tế phản ánh tình trạng ban đầu của tiếng PIE, và chỉ các nhánh satem chia sẻ một loạt các đổi mới, ảnh hưởng đến tất cả các khu vực ngoại vi của liên tục phương ngữ PIE. Kortlandt đề xuất rằng tổ tiên của tiếng Balt và Slav đã bị satem hóa trước khi bị ảnh hưởng bởi tây Ấn-Âu. Tiếng Proto-Ấn-Âu (PIE) được đề xuất là tổ tiên chung được tái tạo của các ngôn ngữ Ấn-Âu, được nói bởi người Proto-Ấn-Âu (sắc tộc ngôn ngữ). Từ những năm 1960, kiến thức về tiếng Anatolia đã đủ chắc chắn để thiết lập mối quan hệ của nó với PIE. Sử dụng phương pháp nội phục dựng, một giai đoạn trước đó, gọi là Tiền Proto-Ấn-Âu, đã được đề xuất. PIE là một ngôn ngữ biến tố, trong đó các mối quan hệ ngữ pháp giữa các từ được báo hiệu thông qua các hình vị biến tố (thường ở cuối một từ). Từ gốc của PIE là những hình vị cơ bản mang một ý nghĩa từ vựng. Các hậu tố được thêm vào để tạo thành các thân từ, và bằng cách thêm vào các phần cuối, chúng lại tạo thành các từ biến tố (danh từ hoặc động từ). Hệ thống động từ Ấn-Âu được phục dựng rất phức tạp và giống như danh từ, thể hiện tính biến âm sắc. Về mặt lịch sử, sự đa dạng hóa ngôn ngữ mẹ thành các nhánh ngôn ngữ con chưa được chứng thực. Tuy vậy, dòng thời gian của sự tiến hóa của các ngôn ngữ con hầu như không còn gì để bàn cãi, bất kể câu hỏi về nguồn gốc Ấn-Âu. Khi tiếng Proto-Ấn-Âu (PIE) phân tách, hệ thống âm thanh của nó cũng thay đổi theo, theo các quy luật âm thanh khác nhau được minh chứng trong các ngôn ngữ con. PIE thường được phục dựng lại với một hệ thống phức tạp gồm 15 phụ âm dừng, bao gồm sự phân biệt ngữ âm ba hướng bất thường (âm kêu) giữa các âm dừng vô thanh, hữu thanh và “hữu thanh bật hơi”, và sự phân biệt ba hướng giữa các phụ âm ngạc mềm (âm loại k) giữa “âm vòm” ḱ ǵ ǵh, “ngạc mềm thường” k g gh và ngạc mềm-môi kʷ gʷ gʷh. (tính chính xác của các thuật ngữ âm vòm và âm ngạc mềm thường còn bị tranh cãi) Tất cả các ngôn ngữ con đều tiêu giảm số lượng sự khác biệt giữa các âm thanh này, thường là theo những cách khác nhau. Giống như trong các ngôn ngữ centum khác, các âm dừng “ngạc mềm thường” và “vòm/ngạc cứng” hợp nhất, giảm số âm dừng từ 15 âm xuống còn 12 âm.
Ngữ hệ Ấn-Âu
Ngữ hệ Ấn-Âu là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn nguyên Iran và miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Một số ngôn ngữ Ấn-Âu, chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha đã lan rộng nhờ làn sóng thuộc địa hóa của người châu Âu và hiện được sử dụng trên khắp thế giới. Hệ Ấn-Âu được chia thành nhiều nhánh, lớn nhất phải kể đến đó là các nhóm Ấn-Iran, German, Rôman và Balt-Slav. Các ngôn ngữ có số người nói lớn nhất là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh, tiếng Hindustan (tiếng Hindi/Urdu), tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Bengal, tiếng Marathi, tiếng Punjab và tiếng Nga (mỗi thứ tiếng có hơn 100 triệu người nói). Tiếng Đức, Pháp, Ý và Ba Tư đều có hơn 50 triệu người nói. Tổng cộng, 46% dân số thế giới (3,2 tỷ người) có tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Ấn-Âu, đông đảo nhất so với bất kỳ ngữ hệ nào khác. Theo ước tính của Ethnologue, có khoảng 445 ngôn ngữ Ấn-Âu đang được sử dụng, hơn 2/3 (313) trong số đó thuộc nhánh Ấn-Iran.
Vương triều tương đối ngắn ngủi, chỉ trải qua 10 đời hoàng đế và trị vì đất nước trong 189 năm. Các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng nhà nước phong kiến Tây Hạ có nền chính trị hoàn thiện, luật pháp nghiêm minh, còn sở hữu hệ thống chữ viết độc đáo riêng có. Tây Hạ nằm ở thế “kiềng ba chân” giữa hai nước Tống và nước Liêu. Điều này có nghĩa là khi một trong ba đất nước trở nên hùng mạnh, nước còn lại sẽ qua lại, cống nạp vật phẩm để kết giao. Ngược lại, khi một trong ba suy yếu, các nước khác lập tức biến thành bầy sói thảo nguyên, “cắn xé” nước láng giềng. Những nhà lãnh đạo Tây Hạ nổi tiếng là khéo léo, “gió chiều nào theo chiều ấy” nên không bị ảnh hưởng gì bởi hai nước láng giềng Liêu, Tống. Cho tới năm 1206, đế quốc Mông Cổ hùng mạnh được Thành Cát Tư Hãn thành lập, Tây Hạ lúc này trở thành đế chế chư hầu của Mông Cổ và bị ép tham chiến chống lại Kharezm giúp nước Mông bành trướng lãnh thổ. Tây Hạ đã từ chối không tham chiến khiến Thành Cát Tư Hãn giận dữ, ông cho rằng đây là một sự phản bội và thề sẽ trừng phạt Tây Hạ. Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn tấn công Tây Hạ và lần lượt chiếm đóng mọi mảnh đất của vương quốc trong 4 tháng. Xem trực tiếp quay thử xổ số miền Nam - XSMN hôm nay trên kqxs nhanh. Quay thử XSMN lấy vận may với những con số đẹp nhanh chóng. Nhà vua sau đó chính thức đầu hàng quân Mông Cổ năm 1227 và hẹn xin nộp thành. Tây Hạ bị diệt sau khi 189 năm tồn tại. Trước thời hạn vua Tây Hạ nộp thành vừa đúng một ngày thì Thành Cát Tư Hãn qua đời. Quân Mông Cổ đã giết vua Tây Hạ và cả hoàng tộc này nước này để báo thù. Tây Hạ là một vương triều dân tộc thiểu số với thời gian trị vì ngắn ngủi. Vương triều này dễ dàng biến thành hư vô trong dòng sông dài lịch sử, tuy nhiên lăng mộ hoàng gia Tây Hạ lại nổi tiếng là đứng vững với thời gian, thậm chí được mệnh danh là “Kim tự tháp phương Đông”. Nằm trước ngọn núi Hạ Lan, cách Ngân Xuyên, thủ phủ khu tự trị Ninh Hạ, 30km là nghĩa trang rộng lớn của các hoàng đế Tây Hạ. Đây là nơi yên nghỉ của 9 vị hoàng đế với lịch sử hơn 900 năm. Lăng vua Tây Hạ trải dài khoảng 5km từ đông sang tây, 10km từ bắc xuống nam, diện tích khoảng 53km vuông. Ngoài mộ của nhà vua, nghĩa trang này còn là nơi chôn giữ 271 lăng mộ của các thành viên hoàng tộc và quan lại. Các lăng mộ hoàng gia được sắp xếp theo thứ tự thời gian theo chiều từ nam ra bắc, cực kỳ hoàn chỉnh. Theo tờ China News, điều khiến hậu thế vô cùng ấn tượng ở đây là 9 lăng mộ vua Tây Hạ được bố trí chính xác theo mô hình chòm sao Bắc Đẩu, những ngôi mộ lân cận được sắp xếp theo bố cục chiêm tinh. Với trình độ khoa học công nghệ ở thế kỷ 11, thật khó hiểu vì sao hoàng tộc Đại Hạ làm được điều này. Là một đất nước Phật giáo, đồng thời xem trọng Nho học và Hán pháp, kiến trúc lăng mộ Tây Hạ cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những văn hóa trên. Các tòa tháp chính trong lăng đều được xây theo lối kiến trúc tháp bát giác, mang đậm dấu ấn phong thủy phương Đông. Tòa tháp chính lấy cảm hứng từ kiến trúc tháp bát giác đặc trưng trong Phật giáo. Mỗi lăng mộ nhà vua có diện tích khoảng 100.000 mét vuông được trang bị tường đá, thành lũy bảo vệ, lầu để bia ghi danh, phòng thờ… Tuy nhiên rất nhiều trong số chúng bị chôn vùi trong khói bụi chiến tranh khi quân Mông Cổ đốt phá lăng mộ vào năm cuối cùng của vương triều. Mưa gió thiên tai trong 900 năm qua cũng góp phần bào mòn vày gây hư hại nghiêm trọng cho những công trình còn lại. Tuy nhiên, một nghịch lý khó hiểu là 9 lăng mộ vua Tây Hạ thì không hề hấn gì trước những tác động ngoại cảnh, chúng hoàn toàn đứng vững với thời gian. Vì sao chỉ những lăng mộ vua còn nguyên vẹn thì vẫn là câu hỏi lớn với các nhà khoa học. Xem trực tiếp quay thử xổ số miền Bắc - XSMB hôm nay trên kqxs nhanh. Quay thử XSMB lấy vận may với những con số đẹp nhanh chóng. Đối với những lăng mộ bằng đá, bằng gỗ quý của các bậc đế vương khác thì lăng mộ đất của vương triều Tây Hạ có phần “kém xa hoa”, thế nhưng hóa ra xây nhà đất lại chính là sở trường của người Tây Hạ. Kỹ thuật xây dựng người Đại Hạ sử dụng có tên là xây đất nện. Về cơ bản, đất sẽ được nén chặt lại bằng một chiếc đầm cho tới khi thành một bức tường hoặc nền nhà. Kỹ thuật xây dựng này giữ cho các công trình đứng vững hàng nghìn năm, Vạn Lý Trường Thành từ thời nhà Tần cũng được xây bằng đất nện. Đất nện của người Tây Hạ còn cao cấp hơn khi họ cho thêm sợi gai và hạt gạo vào khi trộn để thêm phần chắc chắn. Các công trình phòng thủ vững chãi đã giúp họ tồn tại qua nhiều cuộc chiến khốc liệt với nhà Tống. Thành tựu kỹ thuật đất nện Tây Hạ đạt đến đỉnh điểm trong việc xây dựng lăng mộ hoàng gia. Những lăng mộ này được ghi nhận là “cỏ không bao giờ mọc, chim không bao giờ đậu”. Xung quanh lăng Tây Hạ có những cánh đồng cỏ rộng lớn và ngọn núi Hạ Lan hùng vĩ. Nhưng bao quanh vị trí 9 lăng vua và 253 lăng tẩm không hề có cỏ dại mọc, như thể đất bên dưới được rải nhựa đường. Tại sao lại như vậy?. Theo cuốn Tây Hạ Sử, những vị vua Đại Hạ luôn muốn ngăn việc cỏ dại mọc trên mộ để giữ được vẻ uy nghi bề thế cũng như tránh việc cỏ dại cắm sâu rễ xuống đất gây ảnh hưởng đến độ chắc chắn của công trình. Để làm được điều này, những thợ thủ công đã tỉ mỉ dùng 2 phương pháp: Thứ nhất, cho hoàng thổ vào nồi hấp lớn, hấp chín để tiêu diệt hạt giống cỏ bên trong; thứ hai, khử trùng hoàng thổ, cho thêm dầu mè rồi bắc lên bếp xào, dầu mè sẽ khiến đất đai ở đây không thể nảy mầm. Nhiều loài chim hoang dã như quạ, chim sẻ sinh trưởng rất nhiều ở vùng đất này nhưng cũng không bao giờ đậu vào những lăng mộ. Phải chăng loài chim cũng biết kính nể vị vua phong kiến?. Nhà khảo cổ tin rằng chính kết cấu hình sao Bắc Đẩu của với nhiều lăng mộ xuất hiện dày đặc đã khiến những con chim cảm thấy bức bối, chấn động và không muốn đậu lại. Các nhà sử họ lại tin rằng những người thợ xây dựng đã thêm một loại chất độc kỳ lạ nào đó vào đất đai nơi này khiến loài chim tránh xa. Câu trả lời của các nhà thần học còn bí ấn hơn, họ đã khai quật được một bức tượng gốm hình đầu hình Đức Phật, thân người phượng hoàng bên dưới lăng mộ. Các nhà thần học tin rằng đây là loài chim thiêng có sức mạnh thần linh khiến… những con chim ngoài tự nhiên phải sợ hãi bỏ chạy.
Lăng mộ Tây Hạ
Lăng mộ Tây Hạ là một quần thể các lăng mộ nằm trên khu vực có diện tích 50 km2 (19 dặm vuông Anh) nằm ở chân của Dãy núi Hạ Lan (贺兰山) thuộc khu tự trị Ninh Hạ, tây bắc Trung Quốc. Tại đây bao gồm 9 lăng mộ của các vua Tây Hạ cùng 250 ngôi mộ của các quan lại hoàng gia. Quần thể chôn lấp này nằm cách Hưng Khánh, thành phố Ngân Xuyên khoảng 40 km (25 dặm) về phía tây. Cho đến nay, khoảng 17.000 mét vuông đã được khai quật và hiện đang nỗ lực để bảo vệ và bảo tồn những phần còn lại của quần thể lăng mộ này. Vương triều Tây Hạ còn được gọi là đế chế Đảng Hạng tồn tại từ năm 1038 đến 1227 khi nó bị chinh phục bởi đế chế Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn. Đế chế này được thành lập bởi những người Đảng Hạng, một dân tộc mà hiện nay ít người biết đến. Qua các cuộc khai quật thì chỉ có lăng mộ số 3 là đã được khai quật và nghiên cứu đầy đủ. Nó là lăng mộ của Tây Hạ Cảnh Tông, được biết đến là Lý Nguyên Hạo (1003-1048), vị hoàng đế khai quốc ra triều đại Tây Hạ.
Thể loại truyện anime và manga có lẽ không còn xa lạ gì đối với chúng ta. Khi nói đến các thể loại này thì có lẽ bạn sẽ nghĩ ngay đến bộ truyện tranh nổi tiếng hàng đầu Nhật Bản đã được chuyển thể thành phim hoạt hình anime có tên là Conan. Ngoài ra, còn rất nhiều bộ truyện manga nổi tiếng khác có xuất xứ từ xứ sở hoa anh đào này. Có nhiều người xem phim hoạt hình hay đọc truyện tranh Nhật Bản nhưng vẫn không biết rõ anime là gì, manga là gì. Hôm nay, Wiki Cách Làm sẽ giúp bạn phân biệt hai thể loại này một cách đơn giản. Anime là một từ tiếng Anh, nguyên bản của nó là “animation” có nghĩa là những cử động liên tục ý nói đến các bộ phim hoạt hình Nhật Bản. Trong tiếng Nhật thì anime được viết là “アニメ”. Ở Nhật Bản, anime dùng để nói đến các bộ phim hoạt hình theo phong cách phổ biến thường được mô tả bằng đồ họa nhiều màu sắc, các nhân vật sống động với nhiều chủ đề đa dạng. Điểm đặc trưng của những nhân vật anime chính là đôi mắt to tròn, long lanh. Những nhân vật được thiết kế với đôi mắt to hơn bình thường được xem là chuẩn mực của anime. Những bộ phim hoạt hình anime xuất hiện từ rất sớm vào năm 1917, bộ phim hoạt hình anime đầu đời điển hình là Astro Boy. Đây là khởi đầu của trào lưu Otaku và dần phát triển mạnh mẽ hơn sau này. Hiện nay, những bộ phim hoạt hình anime đã phát triển mạnh mẽ với nhiều nội dung và chủ đề khác nhau để hướng đến nhiều đối tượng khán giả hơn. Những bộ phim anime tại Nhật Bản thường được phát trên các kênh truyền hình tư nhân theo từng mùa và kéo dài từ 10 – 13 tập phát sóng vào lúc 22h – 24h. Một số bộ anime nổi tiếng như One Piece sẽ được chiếu xuyên suốt cả năm và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Theo một thống kê cho biết Anime của Nhật Bản chiếm đến 60% phim hoạt hình được sản xuất trên toàn thế giới hiện nay. Manga là một thể loại truyện tranh hoặc tranh biếm họa của Nhật Bản. Khi nói đến manga thì người ta thường nghĩ ngay đến những bộ truyện tranh của Nhật. Truyện manga đa dạng các sắc thái từ thể loại người lớn cho đến truyện dành cho thiếu nhi. Có thể nói truyện manga đánh dấu và là nền móng cho sự phát triển của anime sau này. Truyện tranh manga không phải là thứ chỉ dùng để giải trí mà nó còn được dùng cho mục đích khác như giáo dục hay là người bạn tinh thần không thể thiếu đối với nhiều người. Manga được xem là một trong những sản phẩm xuất khẩu văn hóa thịnh hành nhất của Nhật Bản, nó đã góp phần không nhỏ vào việc giúp đất nước này trở thành một trong những nước xuất khẩu văn hóa hàng đầu thế giới. Manga xuất hiện rất sớm tại Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 xuất phát từ ukiyo-e theo kiểu tranh vẽ. Chính điều này đã giúp những cuốn truyện manga trở thành niềm giải trí hứng thú bậc nhất đối với người dân nơi đây và nó chiếm giữ một vị trí quan trọng xuyên suốt lịch sử mỹ thuật Nhật Bản. Manga ở thời kỳ này vẫn là những chap truyện tranh gắn, thế nhưng giá trị giải trí của nó lại rất cao, điều này không ai có thể phủ nhận. – School life: Sẽ là những câu chuyện xảy ra trong trường học. Những bộ truyện này sẽ rất phù hợp với lứa tuổi mực tím, còn thơ ngây, nhiều mơ mộng: Peach Love, 999 Nụ Hôn Bá Đạo Của Nam Thần. – Một yếu tố rất dễ phân biệt giữa manga và anime đó là manga là truyện tranh còn anime là hoạt hình được chuyển thể từ manga. – Truyện manga thường được in thành tập hoặc đăng trên những tạp chí hàng tuần còn anime thì được phát sóng trên truyền hình hay rạp chiếu phim, phát hành trên đĩa DVD hoặc trên kênh Youtube. – Mặc dù anime được chuyển thể từ manga nhưng có đôi khi anime trở nên độc lập và thêm các thông tin mà trong truyện manga không có. Khi miêu tả các sự kiện trong manga, anime thường bổ sung thêm những cảnh hành động, sự kiện, lịch sử sao cho sinh động và hấp dẫn để thu hút khán giả, tuy vậy nhưng điều này cũng không ảnh hưởng đến cốt truyện của manga. Chúng tôi đã chia sẻ với các bạn những thông tin về thể loại truyện anime là gì, manga là gì và sự khác nhau giữa hai thể loại truyện này để các bạn dễ dàng phân biệt. Hi vọng bài viết này sẽ giúp bạn có thêm nhiều kiến thức hữu ích về hai loại truyện nổi tiếng hàng đầu Nhật Bản này.
Manga thể thao
Manga thể thao hay Sports Manga (Nhật: スポーツ漫画 (Sports Mạn họa), Hepburn: Supōtsu Manga) là một thể loại manga và anime của Nhật Bản tập trung vào những câu chuyện liên quan đến thể thao cũng như các hình thức vận động và cạnh tranh khác. Mặc dù các tác phẩm hoạt hình Nhật Bản về đề tài thể thao đã được phát hành vào đầu những năm 1920, nhưng đến đầu những năm 1950 thì manga thể thao mới nổi lên như một thể loại riêng biệt. Thể loại này đã trở nên nổi tiếng trong bối cảnh Nhật Bản bị chiếm đóng sau chiến tranh và sự nổi bật càng trở nên rõ ràng trong và sau Thế vận hội Mùa hè năm 1964 ở Tokyo. Được coi là một trong những thể loại manga và anime phổ biến nhất, manga thể thao được cho là đã giới thiệu các môn thể thao mới đến Nhật Bản và phổ biến các môn thể thao hiện có. Dōbutsu Orimupikku Taikai, một bộ phim hoạt hình ngắn năm 1928 của đạo diễn Murata Yasuji, được giới phê bình coi là anime thể thao đầu tiên. Bộ phim được lấy cảm hứng từ Thế vận hội mùa hè năm 1928 ở Amsterdam và biểu thị tầm ảnh hưởng của phương Tây đối với thể thao đã góp phần hình thành thể loại này.
Lý thuyết các chiều văn hóa của Hofstede là một khuôn khổ cho giao tiếp giữa các nền văn hóa , được phát triển bởi Geert Hofstede . Nó chỉ ra những ảnh hưởng của văn hóa xã hội đối với các giá trị của các thành viên và các giá trị này liên quan như thế nào đến hành vi, sử dụng một cấu trúc có được từ phân tích nhân tố . Hofstede đã phát triển mô hình ban đầu của mình là kết quả của việc sử dụng phân tích nhân tố để kiểm tra kết quả của một cuộc khảo sát toàn cầu về giá trị nhân viên của IBM từ năm 1967 đến năm 1973. Nó đã được hoàn thiện hơn kể từ đó. Lý thuyết ban đầu đề xuất bốn khía cạnh mà theo đó các giá trị văn hóa có thể được phân tích: chủ nghĩa cá nhân - chủ nghĩa tập thể ; tránh bất trắc ; khoảng cách quyền lực (sức mạnh của hệ thống phân cấp xã hội) và nam tính - nữ tính (định hướng nhiệm vụ so với định hướng con người). Nghiên cứu độc lập ở Hồng Kông đã khiến Hofstede bổ sung thêm chiều hướng thứ năm, định hướng dài hạn, để bao gồm các khía cạnh của các giá trị không được thảo luận trong mô hình ban đầu. Vào năm 2010, Hofstede đã bổ sung thêm một khía cạnh thứ sáu, đó là sự ham mê và tự kiềm chế . Công trình của Hofstede đã thiết lập một truyền thống nghiên cứu chính về tâm lý học đa văn hóa và cũng đã được các nhà nghiên cứu và chuyên gia tư vấn trong nhiều lĩnh vực liên quan đến kinh doanh và truyền thông quốc tế đúc kết . Lý thuyết đã được sử dụng rộng rãi trong một số lĩnh vực như một mô hình cho nghiên cứu, đặc biệt là trong tâm lý học đa văn hóa, quản lý quốc tế và giao tiếp giữa các nền văn hóa . Nó tiếp tục là một nguồn lực chính trong các lĩnh vực đa văn hóa. Nó đã truyền cảm hứng cho một số nghiên cứu đa văn hóa khác về các giá trị, cũng như nghiên cứu về các khía cạnh khác của văn hóa, chẳng hạn như niềm tin xã hội. Năm 1965, Hofstede thành lập bộ phận nghiên cứu nhân sự của IBM Châu Âu (do ông quản lý cho đến năm 1971). Từ năm 1967 đến năm 1973, ông đã thực hiện một nghiên cứu khảo sát lớn liên quan đến sự khác biệt về giá trị quốc gia giữa các công ty con trên toàn thế giới của tập đoàn đa quốc gia này : ông so sánh câu trả lời của 117.000 mẫu nhân viên phù hợp của IBM trong cùng một cuộc khảo sát về thái độ ở các quốc gia khác nhau . Đầu tiên, ông tập trung nghiên cứu vào 40 quốc gia lớn nhất, và sau đó mở rộng ra 50 quốc gia và 3 khu vực, "vào thời điểm đó có lẽ là cơ sở dữ liệu đa quốc gia mẫu đối sánh lớn nhất có sẵn ở bất kỳ đâu." Lý thuyết này là một trong những lý thuyết định lượng đầu tiên có thể được sử dụng để giải thích sự khác biệt quan sát được giữa các nền văn hóa. Phân tích ban đầu này đã xác định sự khác biệt có hệ thống trong các nền văn hóa quốc gia trên bốn khía cạnh chính: khoảng cách quyền lực (PDI), chủ nghĩa cá nhân (IDV), tránh sự không chắc chắn (UAI) và nam tính (MAS), được mô tả dưới đây. Như Hofstede giải thích trên trang web học thuật của mình, các khía cạnh này liên quan đến "bốn lĩnh vực vấn đề nhân chủng học mà các xã hội quốc gia khác nhau xử lý khác nhau: cách đối phó với bất bình đẳng , cách đối phó với sự không chắc chắn , mối quan hệ của cá nhân với cô ấy hoặc nhóm chính của anh ta , và những tác động cảm xúc của việc sinh ra là con gái hay con trai ". Năm 1984, ông xuất bản những Hậu quả của Văn hóa , một cuốn sách kết hợp phân tích thống kê từ nghiên cứu khảo sát với kinh nghiệm cá nhân của mình. Để xác nhận các kết quả ban đầu từ nghiên cứu của IBM và mở rộng chúng cho nhiều đối tượng khác nhau, sáu nghiên cứu xuyên quốc gia tiếp theo đã được thực hiện thành công từ năm 1990 đến năm 2002. Bao gồm 14 và 28 quốc gia, mỗi mẫu bao gồm các phi công của hãng hàng không thương mại, sinh viên, nhà quản lý dịch vụ dân sự, người tiêu dùng thị trường thượng lưu và giới tinh hoa. Nghiên cứu kết hợp đã thiết lập điểm số giá trị trên bốn khía cạnh cho tổng số 76 quốc gia và khu vực. Năm 1991, Michael Harris Bond và các đồng nghiệp đã tiến hành một nghiên cứu giữa các sinh viên ở 23 quốc gia, sử dụng một công cụ khảo sát được phát triển với các nhân viên và quản lý Trung Quốc . Kết quả từ nghiên cứu này đã khiến Hofstede bổ sung thêm một khía cạnh thứ năm mới vào mô hình của mình: định hướng dài hạn (LTO) ban đầu được gọi là tính năng động của Nho giáo . Vào năm 2010, điểm số cho thứ nguyên này đã được mở rộng đến 93 quốc gia nhờ vào nghiên cứu của Michael Minkov, người đã sử dụng Khảo sát Giá trị Thế giới gần đây . Nghiên cứu sâu hơn đã tinh chỉnh một số kích thước ban đầu và đưa ra sự khác biệt giữa dữ liệu cấp quốc gia và cấp cá nhân trong phân tích. Cuối cùng, phân tích dữ liệu Khảo sát Các Giá trị Thế giới của Minkov trên 93 mẫu đại diện của các quần thể quốc gia cũng giúp Geert Hofstede xác định được khía cạnh cuối cùng thứ sáu: ham mê và kiềm chế . Chỉ số khoảng cách quyền lực ( PDI ): Chỉ số khoảng cách quyền lực được định nghĩa là "mức độ mà các thành viên kém quyền lực hơn trong các tổ chức và thể chế (như gia đình) chấp nhận và mong đợi rằng quyền lực được phân phối không công bằng". Theo chiều hướng này, sự bất bình đẳng và quyền lực được nhìn nhận từ những người theo sau, hoặc các tầng lớp thấp hơn. Mức độ cao hơn của Chỉ số cho thấy hệ thống phân cấp được thiết lập và thực thi rõ ràng trong xã hội, không có nghi ngờ hoặc lý do. Mức độ thấp hơn của Chỉ số cho thấy rằng mọi người nghi ngờ quyền lực và cố gắng phân phối quyền lực. Chủ nghĩa cá nhân so với Chủ nghĩa tập thể ( IDV ): Chỉ số này khám phá "mức độ mà mọi người trong một xã hội được hòa nhập vào các nhóm". Các xã hội theo chủ nghĩa cá nhân có những ràng buộc lỏng lẻo thường chỉ liên hệ một cá nhân với gia đình trực tiếp của anh ta / cô ta. Họ nhấn mạnh "tôi" so với "chúng ta". Đối tác của nó, chủ nghĩa tập thể, mô tả một xã hội trong đó các mối quan hệ tích hợp chặt chẽ gắn kết các gia đình mở rộng và những người khác thành các nhóm . Những người trong nhóm này có lòng trung thành chắc chắn và hỗ trợ lẫn nhau khi xảy ra xung đột với người khác trong nhóm. Tránh không chắc chắn ( UAI ): Chỉ số tránh không chắc chắn được định nghĩa là "khả năng chịu đựng của xã hội đối với sự mơ hồ", trong đó mọi người chấp nhận hoặc tránh một sự kiện của một điều gì đó bất ngờ, không rõ hoặc xa hiện trạng. Các xã hội đạt điểm số cao trong chỉ số này chọn các quy tắc hành vi, hướng dẫn, luật lệ cứng nhắc và thường dựa vào sự thật tuyệt đối hoặc niềm tin rằng một sự thật duy nhất quyết định mọi thứ và mọi người biết nó là gì. Mức độ thấp hơn trong chỉ số này cho thấy sự chấp nhận nhiều hơn đối với những suy nghĩ hoặc ý tưởng khác nhau. Xã hội có xu hướng áp đặt ít quy định hơn, sự mơ hồ quen thuộc hơn và môi trường tự do hơn. Nam tính so với nữ tính ( MAS ): Theo chiều hướng này, nam tính được định nghĩa là "sự ưa thích trong xã hội đối với thành tích, chủ nghĩa anh hùng, sự quyết đoán và phần thưởng vật chất cho sự thành công". Đối tác của nó thể hiện "sự ưa thích hợp tác, khiêm tốn, quan tâm đến những người yếu thế và chất lượng cuộc sống". Phụ nữ trong các xã hội tương ứng có xu hướng thể hiện các giá trị khác nhau. Trong xã hội nữ giới, họ chia sẻ quan điểm khiêm tốn và quan tâm một cách bình đẳng với nam giới. Trong các xã hội nam tính hơn, phụ nữ có phần quyết đoán và cạnh tranh, nhưng đáng chú ý là ít hơn nam giới. Nói cách khác, họ vẫn nhận ra khoảng cách giữa giá trị nam và nữ. Chiều hướng này thường được coi là điều cấm kỵ trong các xã hội nam tính cao. Định hướng dài hạn so với định hướng ngắn hạn ( LTO ): Chiều hướng này liên kết mối liên hệ của quá khứ với các hành động / thách thức hiện tại và tương lai. Mức độ thấp hơn của chỉ số này (ngắn hạn) cho thấy rằng các truyền thống được tôn vinh và lưu giữ, trong khi sự kiên định được coi trọng. Các xã hội có mức độ cao trong chỉ số này (dài hạn) coi việc thích ứng và giải quyết vấn đề theo hoàn cảnh, thực dụng là một điều cần thiết. Một quốc gia nghèo theo định hướng ngắn hạn thường có ít hoặc không phát triển kinh tế, trong khi các quốc gia theo định hướng dài hạn tiếp tục phát triển đến mức thịnh vượng. Thả lỏng và kiềm chế ( IND ): Thứ nguyên này đề cập đến mức độ tự do mà các chuẩn mực xã hội trao cho công dân trong việc thực hiện mong muốn của con người họ. Sự buông thả được định nghĩa là "một xã hội cho phép tương đối tự do thỏa mãn những mong muốn cơ bản và tự nhiên của con người liên quan đến việc tận hưởng cuộc sống và vui vẻ". Đối tác của nó được định nghĩa là "một xã hội kiểm soát việc thỏa mãn các nhu cầu và điều chỉnh nó bằng các chuẩn mực xã hội nghiêm ngặt". Chỉ số khoảng cách quyền lực cho thấy điểm số rất cao đối với các nước Châu Mỹ Latinh và Châu Á, các khu vực Châu Phi và thế giới Ả Rập. Mặt khác, các nước Đức , bao gồm cả các nước Anglophone, có khoảng cách quyền lực thấp hơn (chỉ 11 đối với Áo và 18 đối với Đan Mạch). Đức đạt điểm UAI cao (65) và Bỉ thậm chí còn cao hơn (94) so với Thụy Điển (29) hoặc Đan Mạch (23) mặc dù họ có khoảng cách địa lý gần nhau. Tuy nhiên, một số quốc gia có UAI rất thấp. Nam tính cực kỳ thấp ở các nước Bắc Âu: Na Uy đạt 8 điểm và Thụy Điển chỉ 5. Ngược lại, Nam tính rất cao ở Nhật Bản (95), và ở các nước châu Âu như Hungary, Áo và Thụy Sĩ chịu ảnh hưởng của văn hóa Đức . Trong thế giới Anglo, điểm nam tính tương đối cao với 66 đối với Vương quốc Anh. Các nước Mỹ Latinh có điểm số tương phản: ví dụ như Venezuela có 73 điểm trong khi Chile chỉ là 28. Điểm số định hướng dài hạn cao thường được tìm thấy ở Đông Á , với Hàn Quốc có điểm số cao nhất có thể là 100, Đài Loan 93 và Nhật Bản 88. Chúng ở mức trung bình ở Đông và Tây Âu, và thấp ở các nước Anglo, châu Phi. Tuy nhiên, có ít dữ liệu hơn về thứ nguyên này. Chủ nghĩa cá nhân (IDV) cao ở Mỹ (91), Úc (90) và Anh (89). Ngược lại, Hồng Kông và Serbia (25), Malaysia (26) và Bồ Đào Nha (27) được coi là những nước theo chủ nghĩa tập thể. Thậm chí có ít dữ liệu hơn về chiều thứ sáu. Điểm say mê cao nhất ở Châu Mỹ Latinh, một số khu vực của Châu Phi, thế giới Anglo và Châu Âu Bắc Âu; sự kiềm chế chủ yếu được tìm thấy ở Đông Á và Đông Âu. Các nhà nghiên cứu đã nhóm một số quốc gia lại với nhau bằng cách so sánh điểm giá trị của các quốc gia với sự khác biệt của các quốc gia khác như khoảng cách địa lý, ngôn ngữ chung, bối cảnh lịch sử liên quan, niềm tin và thực hành tôn giáo tương tự, ảnh hưởng triết học chung và hệ thống chính trị giống hệt nhau ; nói cách khác, mọi thứ được bao hàm bởi định nghĩa về văn hóa của một quốc gia. Ví dụ, khoảng cách quyền lực thấp gắn liền với thực tiễn chính trị tham vấn và công bằng thu nhập, trong khi khoảng cách quyền lực cao liên quan đến phân phối thu nhập không bình đẳng , cũng như hối lộ và tham nhũng trong chính trị trong nước. Chủ nghĩa cá nhân có tương quan thuận với tính di động xã hội và sự giàu có của quốc gia. Khi một quốc gia trở nên giàu có hơn, văn hóa của quốc gia đó trở nên chủ nghĩa cá nhân hơn. Một ví dụ khác về mối tương quan được đưa ra bởi Nhóm Sigma Two vào năm 2003. Họ đã nghiên cứu mối tương quan giữa các khía cạnh văn hóa của các quốc gia và tôn giáo chủ yếu của họ dựa trên World Factbook 2002. Trung bình, các quốc gia chủ yếu theo Công giáo cho thấy rất cao khả năng tránh không chắc chắn, khoảng cách quyền lực tương đối cao, nam tính vừa phải và chủ nghĩa cá nhân tương đối thấp, trong khi các nước chủ yếu theo chủ nghĩa vô thần có khả năng tránh không chắc chắn thấp, khoảng cách quyền lực rất cao, nam tính vừa phải và chủ nghĩa cá nhân rất thấp. Coelho (2011) đã tìm thấy mối tương quan nghịch đảo giữa tỷ lệ các loại đổi mới cụ thể trong các công ty sản xuất và tỷ lệ các công ty lớn trên mỗi quốc gia cũng như việc sử dụng một loại chiến lược sản xuất cụ thể. Thước đo văn hóa quốc gia về khoảng cách quyền lực có tương quan thuận với tỷ lệ các công ty có đổi mới quy trình chỉ so với các công ty có bất kỳ hình thức đổi mới nào trong ba loại hình đổi mới được xem xét trong nước (yếu tố quyết định tương quan: 28%). Do đó, ở các quốc gia có khoảng cách quyền lực cao hơn, các công ty sản xuất đổi mới có phần ràng buộc hơn trong việc sử dụng các đổi mới quy trình . (2019) đã tạo ra một khung máy tính tự động để tính toán khoảng cách văn hóa (điểm số đánh giá sự tương đồng về văn hóa giữa hai quốc gia) từ dữ liệu của các dịch vụ mạng xã hội và so sánh kết quả của chúng với các khía cạnh văn hóa của Hofstede. Họ đã tìm thấy mối tương quan tích cực giữa kết quả của họ về khoảng cách văn hóa và khoảng cách dựa trên điểm số văn hóa của Hofstede. Ngoài ra, họ còn so sánh các chỉ số văn hóa của các dịch vụ mạng xã hội với các kích thước của Hofstede, dẫn đến bốn mối tương quan chặt chẽ. Ví dụ: các quốc gia có điểm chủ nghĩa cá nhân cao hơn có xu hướng sử dụng các bài tweet thiên về nghệ thuật hơn (cc = 0,72). Việc định lượng các khía cạnh văn hóa cho phép mọi người so sánh giữa các khu vực và hình thành một hình ảnh về sự khác biệt giữa không chỉ các quốc gia mà toàn bộ các khu vực. Ví dụ, mô hình văn hóa của các quốc gia Địa Trung Hải bị chi phối bởi mức độ chấp nhận bất bình đẳng cao, với ác cảm về sự không chắc chắn ảnh hưởng đến lựa chọn của họ. Đối với chủ nghĩa cá nhân, các quốc gia Địa Trung Hải có xu hướng được đặc trưng bởi các hành vi theo chủ nghĩa cá nhân ở mức độ vừa phải. Điều tương tự cũng áp dụng cho nam tính. Định hướng tương lai đặt các quốc gia Địa Trung Hải vào vị trí trung bình và họ thể hiện sự ưa thích đối với các giá trị đam mê. Thay vì các hiện tượng hội tụ mà các chuyên gia kỳ vọng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin (“ văn hóa làng xã toàn cầu ”), sự khác biệt văn hóa ngày nay vẫn còn đáng kể và sự đa dạng có xu hướng gia tăng.
Lý thuyết chiều văn hóa của Hofstede
Lý thuyết văn hóa đa chiều của Hofstede, đề ra bởi nhà nhân chủng học người Hà Lan- Geert Hofstede, được coi là khuôn khổ cho sự giao tiếp đa quốc gia. Bằng việc phân tích nhân tố, mô hình Hofstede miêu tả sự ảnh hưởng của văn hóa xã hội lên các thành viên trong xã hội và làm thế nào mà các giá trị này liên quan đến hành vi của họ. Hofstede đã tiếp cận mô hình đầu tiên của mình như một kết quả phân tích nhân tố của bảng khảo sát nhân lực trên toàn thế giới cho IBM vào khoảng giữa năm 1967 và 1973. Sau đó, kết quả này đã được phân tích và chắt lọc kỹ càng. Những lý thuyết ban đầu đã đưa ra bốn khía cạnh cần phân tích của các giá trị văn hóa: chủ nghĩa cá nhân – chủ nghĩa tập thể (individualism – collectivism); mức độ e ngại rủi ro (uncertainty avoidance); khoảng cách quyền lực (power distance) và masculinity-femininity (định hướng công việc - định hướng cá nhân). Một nghiên cứu độc lập tại Hồng Kông đã giúp Hofstede hình thành khía cạnh thứ năm - định hướng dài hạn (long term orientation), nhằm bao quát các khái niệm chưa được thảo luận trong mô hình ban đầu.
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. Co thắt âm đạo là hội chứng xảy ra khi cơ bắp ở âm đạo không co thắt hoặc liên tục co bóp khi có vật thể cố gắng xuyên âm đạo. Kết quả là các cơn co thắt có thể ngăn ngừa việc quan hệ tình dục hoặc gây ra đau đớn. Điều này có thể xảy ra khi bạn tình cố gắng thâm nhập hoặc khi một phụ nữ chèn một băng vệ sinh hoặc thậm chí khi một người phụ nữ chạm vào gần khu vực âm đạo của họ. Hội chứng co thắt âm đạo không can thiệp vào sự kích thích tình dục nhưng hội chứng này có thể ngăn sự xâm nhập. Một sự kiểm tra vùng chậu nhẹ thường không gây ra các cơn co thắt. Không có bất thường về thể chất góp phần vào tình trạng này. Các chuyên gia không biết chính xác có bao nhiêu phụ nữ bị chứng co thắt âm đạo nhưng tình trạng này được xem là không phổ biến. Đau mạn tính thường là dấu hiệu đầu tiên của phụ nữ khi mắc chứng co thắt âm đạo. Cơn đau chỉ xảy ra khi có sự thâm nhập và thường biến mất sau khi không có sự thâm nhập nhưng không phải luôn luôn. Phụ nữ đã mô tả cơn đau như một cảm giác rát hoặc cảm giác như vừa bị đánh, đẩy vào một bức tường. Nhiều phụ nữ bị chứng co thắt âm đạo cũng cảm thấy không thoải mái khi chèn băng vệ sinh hoặc trong khi bác sĩ kiểm tra khung xương chậu. Chẩn đoán và điều trị sớm có thể ngăn chặn tình trạng này tồi tệ hơn và ngăn chặn việc cấp cứu y tế, vì vậy, nên nói chuyện với bác sĩ càng sớm càng tốt để ngăn chặn tình trạng nghiêm trọng này. Nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nêu trên hoặc có bất kỳ câu hỏi, xin vui lòng tham khảo ý kiến bác sĩ. Cơ địa của mỗi người là khác nhau. Vì vậy, hãy hỏi ý kiến bác sĩ để lựa chọn được phương án thích hợp nhất. Trên thực tế, các bác sĩ vẫn chưa biết nguyên nhân gây ra chứng co thắt âm đạo là gì. Tình trạng này có liên quan đến việc bị lạm dụng tình dục trong quá khứ hoặc chấn thương, qua sự giao hợp đau đớn và các yếu tố cảm xúc. Trong một số trường hợp, không thể tìm ra nguyên nhân trực tiếp. Hội chứng này không phổ biến như các bệnh về tình dục khác. Rối loạn chức năng tình dục có thể xảy ra ở cả nam giới và phụ nữ và thường có thể được điều trị. Đó không phải là lỗi của bạn và bạn không có gì phải xấu hổ về tình trạng này. Tuy nhiên, những rối loạn này có thể gây trở ngại đến các mối quan hệ và chất lượng cuộc sống. Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của chuyên viên y tế, vậy nên tốt nhất là bạn hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ. Các bác sĩ sẽ chẩn đoán bằng những thông tin thu thập được từ việc khám sức khỏe để xác định tình trạng này. Bác sĩ có thể cần hỏi bạn một số câu hỏi cá nhân để tìm hiểu thêm về tình trạng của bạn. Trong một số trường hợp, bạn cần phải kiểm tra âm đạo để loại trừ nguyên nhân cơ thể gây ra chứng co thắt âm đạo như chấn thương, nhiễm trùng hoặc dây thần kinh giãn quá mức khi mở âm đạo. Bạn thực hiện bằng cách ép các cơ sử dụng để ngăn chặn dòng nước tiểu khi đi tiểu. Để thực hiện các bài tập Kegel, hãy liên tục siết chặt và thư giãn các cơ sàn chậu, kiểm soát âm đạo, trực tràng và bàng quang. Bạn co bóp các cơ, giữ từ 2 đến 10 giây, sau đó thư giãn các cơ. Bạn thực hiện khoảng 20 bài tập Kegel mỗi lần. Bạn có thể tập nhiều lần trong ngày. Sau vài ngày, bạn chèn một ngón tay, lên đến khớp đầu tiên vào bên trong âm đạo trong khi tập. Bạn cần phải cắt móng tay và sử dụng một chất bôi trơn. Bạn nên tập trong bồn tắm, nơi mà nước là chất bôi trơn tự nhiên. Bắt đầu bằng một ngón tay và làm theo cách như vậy đến khi lên đến ba ngón tay. Bạn sẽ cảm thấy cơ bắp âm đạo đang co lại quanh ngón tay và bạn có thể rút ngón tay ra nếu bạn không cảm thấy thoải mái. Đối với phụ nữ có hội chứng âm đạo liên quan đến sợ hãi hoặc lo lắng, liệu pháp này sẽ giúp ích. Cần nhớ rằng không có gì đáng xấu hổ về tình trạng này. Bạn nên nói chuyện với bạn đời về cảm xúc và nỗi sợ hãi của bạn về giao hợp, sẽ giúp bạn cảm thấy thoải mái hơn. Bác sĩ hoặc nhà trị liệu có thể cung cấp cho bạn những cách để khắc phục chứng co thắt âm đạo. Điều trị bằng liệu pháp tình dục có thể có lợi. Sử dụng dầu bôi trơn hoặc các vị trí quan hệ tình dục nhất định có thể giúp làm cho việc giao hợp dễ dàng hơn. Hãy thử nghiệm và tìm ra những gì hữu ích cho bạn và bạn tình của bạn. Hello Health Group không đưa ra các lời khuyên, chẩn đoán hay phương pháp điều trị y khoa. Theo dõi chu kỳ kinh nguyệt của bạn, xác định những ngày dễ thụ thai nhất để tăng cơ hội thụ thai hoặc áp dụng biện pháp tránh thai. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
Co thắt âm đạo
Co thắt âm đạo hay hội chứng co thắt âm đạo hay chứng co thắt âm đạo (Danh pháp khoa học: Vaginismus) là triệu chứng xảy ra ở phụ nữ theo đó âm đạo của phụ nữ xảy ra hiện tượng co thắt trong quá trình quan hệ tình dục nam nữ. Đây là trạng thái co thắt mạch và không chủ ý của các cơ gần âm hộ. Trạng thái này xảy ra khi đưa bất cứ một vật lạ vào âm đạo làm cho lỗ ngoài của âm đạo co chặt lại. Người phụ nữ bị chứng bệnh này sẽ không thể giao hợp được hoặc rất đau khi cứ cố giao hợp. Chứng co thắt âm đạo có thể dẫn đến dương vật của người đàn ông bị mắc kẹt dẫn đến việc hai người rơi vào tình trạng nam nữ dính liền theo kiểu "dính như sam" tuy nhiên về góc độ sinh lý, việc này khó có thể xảy ra do người phụ nữ tuy bị co thắt âm đạo bộc phát, không giãn ra nhưng dương vật của nam giới thì hoàn toàn có thể thu nhỏ và thoát ra. Co thắt âm đạo là những co thắt tự động của phụ nữ trong sàn chậu bằng phản xạ khi có vật lạ thâm nhập vào âm đạo.
Môi trường là gì? Phân loại môi trường sống tự nhiên – Chắc hẳn mọi người thường nghe nói đến rất nhiều về ô nhiễm môi trường, nhưng thực tế vẫn có rất nhiều người vẫn chưa biết hoặc hiểu chưa đúng về khái niệm môi trường là g và có mấy loại môi trường. Bài viết dưới đây, Thongcongbinhminh sẽ giải đáp mọi thắc mắc về khái niệm môi trường cho các bạn. Cũng như phân tích kỹ hơn giúp bạn hiểu rõ hơn về khái niệm môi trường là gì và việc bảo vệ môi trường sống xung quanh ta. Môi trường là gì? Môi trường là tập hợp những yếu tố tự nhiên và yếu tố nhân tạo, có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, lao động, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. – Môi trường sống là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên đến con người và các sinh vật có trên Trái Đất. – Môi trường được xem là không gian sống của con người và các loài sinh vật. – Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và sản xuất của con người. – Môi trường sống cũng là nơi chứa đựng các rác thải do con người tạo ra trong cuộc sống và các hoạt động sản xuất. – Môi trường sống là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Môi trường được tạo ra bởi những yếu tố như: Đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, hệ sinh thái, những khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và những hình thái vật chất khác. Những yếu tố như: Vật lý, sinh học, hóa học tồn tại ngoài ý muốn của con người hình thành nên môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên có vai trò rất quan trọng đối với con người, giúp con người có thể sinh tồn và phát triển như: Đất để xây nhà cửa, chăn nuôi, trồng trọt, không khí giúp con người hít thở, …. Ngoài ra, môi tường tự nhiên còn giúp con người khai thác nguồi khoáng sản cần thiết cho sản xuất. Chung quy lại, môi trường tự nhiên mang lại không gian và điều kiện cho con người sinh sống và tồn tại, giúp cuộc sống con người trở nên phong phú hơn cả vật chất lẫn tinh thần. Môi trường xã hội là tổng thể những mối quan hệ giữa người với người. Hay nói cách khác đây là các luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định,…. Môi trường ở những cấp khác nhau như: Liên hợp quốc, Hiệp hội những nước, Quốc gia, Tỉnh, Huyện, Cơ quan, Gia đình, làng xã, Tộc Họ,…. Môi trường xã hội sẽ định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định. Từ đó hình thành nên một sức mạnh tập thể, góp phần thúc đẩy sự phát triển. Giúp cuộc sống của con người trở nên tốt đẹp hơn. Môi trường sống tự nhiên rất đa dạng và phong phú, chúng có thể sống trên cạn, dưới nước và trên không trung. Dựa vào những yếu tố đó, người ta chia môi trường sống thành 4 loại chính:. Môi trường sinh vật là một môi trường sống lí tưởng cho những loài sinh vật khác. Đây là môi trường sống chủ yếu của những loài cộng sinh và ký sinh như:. Môi tường nước được chia ra nhiều loại môi trường nước khác nhau như: nước ngọt, nước lợ, nước mặn… Chẳng hạn như: Cá Lóc sinh sống trong môi trường nước, cá Ngừ sinh sống trong môi trường nước mặn. Môi trường đất gồm có đất cát, đất sét, đất đá, sỏi,… Tùy vào từng điều kiện môi trường khác nhau mà những loại sinh vật sống ở đó sẽ khác nhau. Ví dụ: Con giun đất sinh sống ở trong lòng đất, loài Tê Tê có thể đào bới trong đất cát. Môi trường trên cạn bao gồm những môi trường đồi núi, đồng bằng, bầu khí quyển trong trái đất,…Đây là môi trường có nhiều sinh vật và con người cũng sinh sống trong môi trường này. Cung cấp những tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho cuộc sống và những hoạt động sản xuất của con người. Môi trường là nơi chứa đựng (thông qua cơ chế phá vỡ, tái chế hoặc lưu trữ) những chất thải và ô nhiễm từ những hoạt động sản xuất và sinh sống của con người. Ngoài ra, môi trường còn cung cấp những “dịch vụ môi trường miễn phí”” hay hệ sinh thái (như ổn định khí hâu, đa dạng sinh học, toàn vẹn hệ sinh thái, và ngăn chặn bức xạ tia cực tím) giúp hỗ trợ những sự sống trên Trái Đất mà không cần bất kỳ hành động nào của con người. Mặt khác, môi trường còn có vai trò quan trọng trong giá trị giải trí, tâm lý, thẩm mỹ và tinh thần của môi trường. Với vai trò quan trọng đã được nêu trên, có thể thấy: “Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta”. Chính vì vậy, việc giảm thiểu sự phá hủy đến những hệ sinh thái là điều quan trọng và rất cần thiết. Để mà bảo vệ môi trường, con người chúng ta cần phải giảm thiểu ô nhiễm, đó là một trong các yếu tố nguy hiểm nhất ảnh hưởng đến môi trường. Nó ảnh hưởng đến chất lượng thực phẩm, từ đó dẫn đến việc chúng ta phải tiêu thụ những chất độc hại. Việc bảo vệ môi trường còn có tác dụng bảo vệ hệ sinh thái. Việc tác động đến hệ sinh thái không đúng cách sẽ khiến nhiều loài sinh vật có nguy cơ bị tuyệt chủng. Ngoài ra, bảo vệ môi trường là một cách tốt nhất để bảo vệ thế hệ con cháu tương lai sau này của chúng ta. Hành tinh này chính là ngôi nhà chung của chúng ta để lại cho những thế hệ tương lai mai sau. 💥 Công nghệ hóa chất phát triển: Việc cho ra đời những sản phẩm hóa chất độc hại như thuốc trừ sâu có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. 💥 Việc sử dụng đất: Con người có thể phát hủy cảnh quan thiên nhiên, khi khai thác tài nguyên và đô thị hóa những khu vực. Điều này gây bất lợi cho những loài cư trú, làm giảm môi trường sống và nguồn thức ăn có sẵn của chúng. 💥 Con người đưa các loài ngoại lai du nhập: Con người vô tình hoặc cố ý đưa một số loài không phải là loài bản đia vào một hệ sinh thái mới. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thai vì những loại du nhập có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sinh vật bản địa và thay thế chúng. 💥 Khai thác tài nguyên, khoáng sản quá mức: Con người liên tục tiêu thụ tài nguyên cho nhu cầu của chính họ. 💥 Sử dụng quá mức nguồn tài nguyên không thể tái tạo: Những nguồn tài nguyên không thể tái tạo như: nhiên liệu hóa thạch gây tác hai cho môi trường. Trong Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam đã ghi rõ trong Điều 6: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, có quyền và có trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường”. Vì thế, toàn thể người dân, cá nhân chung sống trong môi trường cần phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, có trách nhiệm phát hiện, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật, thêm vào đó là nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của những người xung quanh. Thông qua bài viết trên, chắc hẳn mọi người đã hiểu được khái niệm môi trường là gì, có bao nhiêu loại môi trường và phân loại môi trường sống. Ngoài ra, các bạn có thể xem thêm những bài viết về môi trường khác:
Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm tất cả các sinh vật sống và không sống có trong tự nhiên, có nghĩa là không phải là nhân tạo. Thuật ngữ này thường được áp dụng cho Trái Đất hoặc một số phần của Trái Đất. Môi trường này bao gồm sự tương tác của tất cả các loài sống, khí hậu, thời tiết và tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng đến sự tồn tại của con người và hoạt động kinh tế. Các đơn vị sinh thái hoàn chỉnh hoạt động như các hệ thống tự nhiên mà không có sự can thiệp lớn của con người văn minh, bao gồm tất cả thảm thực vật, vi sinh vật, đất, đá, khí quyển và các hiện tượng tự nhiên xảy ra trong ranh giới và bản chất của chúng. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên phổ biến và các hiện tượng vật lý thiếu ranh giới rõ ràng, chẳng hạn như không khí, nước và khí hậu, cũng như năng lượng, bức xạ, điện tích và từ tính, không bắt nguồn từ hành động văn minh của con người. Đối lập với môi trường tự nhiên là môi trường được xây dựng.
Trong lĩnh vực kinh tế nói chung và sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia nói riêng, cụm từ “Cán cân thương mại” được sử dụng rất phổ biến. Tuy nhiên đây là khái niệm mà không phải ai cũng hiểu rõ. Cán cân thương mại có vai trò không nhỏ đối với nền kinh tế của một đất nước. Vậy cán cân thương mại là gì? Những yếu tố nào tác động đến cán cân thương mại?. Để hiểu về cán cân thương mại, việc nắm rõ khái niệm cũng như các yếu tố tác động là rất cần thiết. Cán cân thương mại (tiếng Anh là Balance of trade) là mức chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá (X - M), còn gọi là xuất khẩu ròng (NX). Cán cân thương mại được các quốc gia quan tâm vì nó ảnh hưởng tới sản lượng trong nước (NX là thành tố của tổng sản phẩm quốc nội - GDP), vấn đề việc làm và cán cân đối ngoại. Hiểu một cách đơn giản nhất, cán cân thương mại phản ánh những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (có thể quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt và khi mức chênh lệch bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Nhập khẩu có xu hướng tăng khi tổng sản phẩm quốc nội - GDP tăng và thậm chí còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ: MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài GDP, nhập khẩu còn phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: Nếu giá xe đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp tại Nhật thì người dân có xu hướng tiêu thụ xe đạp Nhật nhiều hơn nên hoạt động nhập khẩu xe đạp cũng tăng lên. Diễn biến xuất khẩu phụ thuộc vào tình hình giá cả của nước khác, vì giá trị nhập khẩu của nước này lại chính là giá trị xuất khẩu của nước khác. Bởi vậy xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Trong các mô hình kinh tế, xuất khẩu thường được coi là yếu tố tự định. Đây chính là yếu tố quan trọng có tác động trực tiếp đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn, trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu, kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ: Một bộ bát đĩa Việt Nam có giá 70.000 VNĐ và một bộ bát đĩa tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (nhân dân tệ). Giả sử tỷ giá hối đoái là 2000 VNĐ = 1 CNY thì bộ bát đĩa Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VNĐ trong khi bộ bát đĩa tương đương của Việt Nam là 70.000VNĐ. Trong trường hợp này, bộ bát đĩa của Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Giả sử, tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2300 VNĐ = 1 CNY thì lúc này bộ bát đĩa Trung Quốc có giá bán là 75.900VNĐ và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với bộ bát đĩa Việt Nam.
Cán cân thương mại
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa có văn bản gửi các đại biểu Quốc hội về đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020. Báo cáo chỉ rõ 4 hạn chế của đề án. Thứ nhất, nhận thức về vai trò của ngoại ngữ và sự cần thiết của việc đổi mới dạy học ngoại ngữ còn chưa đầy đủ. Nhiều bộ ngành, địa phương mặc dù có kế hoạch triển khai, nhưng thiếu chủ động, chưa bám sát mục tiêu đề án. Thứ hai, một số mục tiêu của đề án được đặt ra quá cao so với khả năng thực hiện, chưa phù hợp với xuất phát điểm về năng lực ngoại ngữ của người dạy, người học cũng như thực trạng dạy và học ngoại ngữ của cả nước. Thứ ba, việc triển khai đề án được thực hiện thống nhất trên toàn quốc, trong khi đó có sự khác biệt lớn về nhu cầu và điều kiện tổ chức dạy học ngoại ngữ giữa các vùng, miền và cơ sở đào tạo. Quy mô người học rất lớn, trong khi năng lực và nghiệp vụ sư phạm của người dạy ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu. Cuối cùng, đề án chưa đảm bảo về thời gian (mục tiêu đặt ra từ năm 2008 nhưng thực tế mới triển khai chính thức từ năm 2011) và tài chính (vốn ngân sách nhà nước cấp trong giai đoạn 2008-2015 chỉ đạt 70,3% so với yêu cầu). Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 được Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá là có mục tiêu quá cao so với khả năng thực hiện. Bộ Giáo dục khẳng định sẽ tiếp tục triển khai đề án theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó tập trung chủ yếu là tiếng Anh; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư cho dạy và học ngoại ngữ. Bộ tiếp tục thực hiện 8 nhóm giải pháp, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống kiểm tra, đánh giá trong dạy và học ngoại ngữ của Việt Nam theo hướng hội nhập với chuẩn quốc tế, xây dựng trung tâm khảo thí ngoại ngữ độc lập cấp quốc gia để đảm bảo sự minh bạch, chính xác và thống nhất trong hoạt động khảo thí ngoại ngữ trên cả nước. Bộ sẽ tăng cường hợp tác quốc tế trong dạy và học ngoại ngữ như khuyến khích các cơ sở giáo dục mở rộng, đa dạng hóa hình thức hợp tác quốc tế với các tổ chức ở các quốc gia bản ngữ hoặc có ngôn ngữ quốc gia phù hợp với việc dạy và học ngoại ngữ ở Việt Nam; tạo điều kiện cho các giáo viên người nước ngoài tham gia đào tạo ngoại ngữ ở Việt Nam. Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 được phê duyệt năm 2008. Mục tiêu là đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong các trường, để "đến năm 2020, đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa, biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam". Đề án có tổng kinh phí gần 9.400 tỷ đồng, trong đó giai đoạn 2008-2010 là 1.000 tỷ đồng, giai đoạn 2011-2015 gần 4.400 tỷ đồng, giai đoạn 2016-2020 khoảng 4.000 tỷ đồng. Nhưng sau 8 năm thực hiện, đến nay nhiều mục tiêu chưa đạt được, khả năng ngoại ngữ của học sinh nói riêng, người Việt Nam nói chung chưa được cải thiện nếu chỉ học theo chương trình phổ thông. Việc đề xuất đưa tiếng Trung, tiếng Nga trở thành ngoại ngữ thứ nhất bên cạnh tiếng Anh đã gặp phải nhiều phản ứng của dư luận.
Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020
Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 là một đề án do Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đề cử, được chính phủ phê duyệt vào năm 2008. Mục tiêu của đề án là đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong các trường của Việt Nam với mục đích "đến năm 2020, đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hóa, biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam". Ngày 16 tháng 11 năm 2016, khi trả lời chất vấn của quốc hội, Bộ trưởng Giáo dục Phùng Xuân Nhạ đã nói ngắn gọn về tính khả thi của đề án: "Tôi xin trả lời thẳng là không đạt".
Sân vận động Quốc gia Bắc Kinh, còn được gọi là sân vận động Tổ chim. Chính xác là như vậy, để có một sân thể thao độc đáo như vậy chính phủ Trung Quốc phải mời các công ty khắp thế giới thi tuyển kiến trúc. Sân vận động được kết hợp thiết kế giữa các kiến trúc sư Jacques Herzog và Pierre de Meuron của Herzog & de Meuron, kiến trúc sư Stefan Marbach, nghệ sĩ Ai Weiwei. Sân vận động được thiết kế để sử dụng trong suốt Thế vận hội mùa hè và Paralympic 2008 và được sử dụng lại trong Olympic mùa hè năm 2022 và Paralympic. Sân vận động này chứa tới 75 ngàn chỗ ngồi, được xây dựng cho câu lạc bộ Valiencia. Sân được thiết kế chắc chắn bằng vật liệu nhôm bên ngoài và gỗ bên trong. Đây là một trong những sân vận động rộng và hấp dẫn nhất châu Âu. Sân vận động Quốc gia (tên chính thức) có tên gọi cũ là Sân vận động World Games, là một sân vận động đa năng ở Tả Doanh, Cao Hùng, Đài Loan. Đây là sân vận động lớn nhất Đài Loan tính theo sức chứa. Sân được thiết kế bởi kiến trúc sư người Nhật Toyo Ito. Sân hoàn thành năm 2009, được sử dụng phần lớn cho các trận bóng đá và tổ chức các nội dung chính của World Games 2009. Sân có sức chứa 55.000 người, sau khi kết thúc đại hội sân được dùng làm sân nhà của đội tuyển bóng đá Đài Loan. Kiến trúc xoắn ốc của sân vận động được cho là hình ảnh mô phỏng một con rồng. Đây là sân vận động đầu tiên trên thế giới sử dụng nguồn điện từ công nghệ năng lượng mặt trời. Các pin mặt trời được đặt ở mặt ngoài của sân vận động có thể cung cấp gần như 100% lượng điện cần thiết để duy trì các hoạt động của sân. Đây là sân nhà của câu lạc bộ bóng đá FC Barcelona từ năm 1957. Cái tên này có nghĩa là "Sân mới của câu lạc bộ bóng đá Barcelona". Camp Nou có diện tích 55.000m², chiều cao 48m, chiều dài 250m, chiều rộng 220m. Mặt sân 107m × 72m. Tùy theo tiêu chí đánh giá, sức chứa của sân Camp Nou có những thông số khác nhau. Theo Liên đoàn bóng đá châu Âu - UEFA (Union of European Football Associations), sân này có 93.000 chỗ khi khánh thành vào ngày 24/9/1957, sau đó tăng lên 115.000 chỗ khi mở rộng khán đài để tổ chức World Cup 1982, nay là 98.000 để đáp ứng yêu cầu toàn bộ chỗ ngồi của UEFA. Trên thực tế, trong suốt một thời gian dài, người ta vẫn xem sức chứa của Camp Nou là khoảng 120.000 người, mỗi khi Barcelona có trận đấu lớn tại sân nhà. Sân vận động đã tổ chức nhiều trận đấu cũng như các sự kiện quốc tế quan trọng. Nổi tiếng với kiến trúc và kích thước khổng lồ của mình, Camp Nou là một trong những điểm du lịch được tham quan nhiều nhất ở thành phố Barcelona. Mới chỉ có gần 50 năm lịch sử, nhưng đây đã là một trong những thánh đường nổi tiếng nhất, sân vận động lớn nhất của bóng đá châu Âu. Chỉ trong 1 năm, từ ngày 21/6/1933 đến ngày 30/6/1934, John Herbert Dillinger và đồng bọn đã thực hiện trót lọt 12 vụ cướp ngân . Alfred George Hinds là một đứa trẻ chạy trốn khỏi trại trẻ mồ côi từ khi mới 7 tuổi. Hinds bị bắt lần đầu tiên . Pascal Payet, tên tội phạm khét tiếng người Pháp vượt ngục ba lần bằng cách đánh máy bay trực thăng. Vietnammoi.vn tổng hợp nguyên văn thông tin từ một số cơ quan thông tấn, báo chí trong nước theo quy định. Chúng tôi sẽ cập nhật thông tin ngay sau khi nhận thấy các thông tin gốc có thay đổi; đồng thời tuân thủ các quy định hiện hành về trách nhiệm phản hồi, đính chính, cải chính. Đề nghị người dùng tham khảo thông tin gốc đồng thời dẫn nguồn chính xác theo cơ quan báo chí phát hành thông tin trong trường hợp trích dẫn một phần hoặc nguyên bản các thông tin do Vietnammoi.vn tổng hợp. Người dùng tự chịu trách nhiệm, bao gồm nhưng không giới hạn trách nhiệm về bản quyền, trong trường hợp này.
Sân vận động Quốc tế Nhà vua Fahd
Sân vận động Nhà vua Fahd (tiếng Ả Rập: استاد الملك فهد الدولي‎), còn có biệt danh là "Hòn ngọc của sân vận động" (درة الملاعب Durrat al-Mala eb) hoặc đơn giản là "Hòn ngọc" (الدرة Addurra), là một sân vận động đa năng ở Riyadh, Ả Rập Xê Út. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá và sân cũng có các cơ sở vật chất cho môn điền kinh. Sân vận động được xây dựng vào năm 1987 với sức chứa hơn 67.000 chỗ ngồi. Kích thước của mặt sân là 116 x 74 yd. Đây là một trong những sân vận động có mái che lớn nhất thế giới. Sân là địa điểm cho các trận đấu của Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 1989, bao gồm cả trận chung kết. Là một phần của dự án Saudi Vision 2030, đã có một lễ kỷ niệm 87 năm thành lập Saudi với các buổi hòa nhạc và biểu diễn, với việc phụ nữ lần đầu tiên được phép vào sân vận động. Sân vận động được xuất hiện trong tựa game điện tử FIFA kể từ FIFA 13, khi Giải bóng đá vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út bắt đầu được xuất hiện trong trò chơi.
Cúp bóng đá châu Phi (CAN) cũng được xem là giải bóng đá cấp độ châu lục được NHM bóng đá ở lục địa đen quan tâm đông đảo. Blogsoccer.net sẽ giúp bạn tìm hiểu những nét về giải đấu qua bài viết này. Cúp bóng đá châu Phi (CAN) hoặc AFCON là giải bóng đá lớn nhất dành cho các đội tuyển bóng đá nam của châu Phi. Giải đấu được quản lý bởi Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF), lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1957 và diễn ra theo chu kỳ 2 năm. Giải bóng đá CAN đầu tiên diễn ra vào năm 1957 với sự tham gia của 3 đội là Ai Cập, Sudan và Ethiopia. Nam Phi cũng được tham dự nhưng bị loại khỏi giải do chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Việc giải đấu phát triển giúp giải thường xuyên tổ chức vòng loại. Đến năm 1998, số đội tham dự VCK CAN là 16 đội và thể thức tồn tại đến năm 2017. Kể từ giải đấu năm 2019, số đội được tăng lên thành 24 đội và chuyển thời gian thi đấu tại giải từ mùa đông sang mùa hè. Ai Cập là đội bóng giàu thành tích nhất với 7 lần đoạt chức vô địch. Kể từ giải đấu năm 2013, CAN được tổ chức vào năm lẻ để tránh xung đột với năm diễn ra World Cup. Hoàn cảnh ra đời của CAN bắt đầu từ tháng 6/1956 khi việc thành lập Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF) được đề xuất trong cuộc họp thứ 3 của FIFA tại Lisbon, Bồ Đào Nha. Đến đầu tháng 2/1957, CAF chính thức ra đời và giải đấu đầu tiên diễn ra tại Khartoum, Sudan với sự tham gia của các thành viên sáng lập là Ai Cập, Sudan, Ethiopia và Nam Phi. Tuy nhiên Nam Phi rút lui do gọi một cầu thủ da trắng trong thời kì chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. CAN 1957 chỉ có 2 trận đấu, Ai Cập là nhà vô địch sau khi đánh bại chủ nhà Sudan ở bán kết và Ethiopia trong trận chung kết. Đến giải đấu CAN lần thứ 3 vào năm 1962, lần đầu tiên giải được tổ chức vòng loại. Từ giải đấu năm 1963, Ghana bắt đầu chu kỳ thống trị với 4 trận chung kết CAN liên tiếp từ 1963 đến 1970. Trong giai đoạn này họ giành 2 chức vô địch CAN vào các năm 1963 và 1965. CAN 1970 tại Sudan là giải đấu đầu tiên được phát sóng trên truyền hình. Zaire giành chức vô địch năm 1974 khi đánh bại Zambia trong trận chung kết. Đây cũng là kì CAN duy nhất nhà vô địch được phân định bằng trận đá lại. Ghana là đội đầu tiên giành 3 chức vô địch CAN khi lên ngôi ở giải đấu năm 1978. Trong những năm thập niên 80 và 90, Cameroon vào đá trận chung kết CAN đến 3 lần liên tiếp và giành 2 chức vô địch 1984 và 1988. Trước thời kì thống trị của Cameroon, Ghana có lần thứ 4 lên ngôi vô địch ở giải đấu năm 1982, đây cũng là danh hiệu vô địch CAN gần nhất của “Những ngôi sao đen”. Tại CAN 1994, ĐT Zambia làm nên bất ngờ khi vào đến trận chung kết với đội hình chắp vá sau khi 18 thành viên của ĐT nước này tử nạn sau tai nạn máy bay năm 1993. Ở trận chung kết CAN 1994, Zambia thất bại 1-2 trước Nigeria dù là đội ghi bàn trước. Hai năm sau, CAN mở rộng tổng số đội lên 16. Tuy nhiên do nhà ĐKVĐ khi đó là Nigeria rút lui vì lý do chính trị và giải đấu đó chỉ có 15 đội góp mặt. Sau khi lệnh cấm do chế độ apartheid được xóa bỏ, Nam Phi bắt đầu trở lại với vòng loại CAN 1994 nhưng không vượt qua vòng loại. Đến năm 1996, Nam Phi giành chức vô địch CAN đầu tiên khi giải đấu được tổ chức trên sân nhà. Bafana Bafana vượt qua Tunisia 2-0 trong trận chung kết để giành danh hiệu vô địch CAN duy nhất tính đến hiện tại. Ở hai giải đấu tiếp theo, Nam Phi tiếp tục thể hiện sức mạnh của một ông lớn châu Phi khi giành ngôi á quân năm 1998 và giành hạng 3 vào năm 2000. Giải đấu năm 2000 là kì CAN đầu tiên có 2 quốc gia đồng đăng cai là Ghana và Nigeria. Cameroon giành 2 chức vô địch liên tiếp vào các giải đấu năm 2000 và 2002 để trở thành đội tiếp theo bảo vệ thành công danh hiệu vô địch sau Ai Cập và Ghana. Sau khi Tunisia giành chức vô địch giải đấu năm 2004 trên sân nhà, đến năm 2006, Ai Cập bắt đầu thống trị CAN khi giành 3 chức vô địch liên tiếp từ 2006 đến 2010. Đội bóng xứ sở Pharaoh lập kỉ lục của giải đấu khi bất bại 19 trận kể từ thất bại trước Tunisia tại CAN 2004 và trong đó có 9 trận thắng liên tiếp. Họ là một trong 4 đội tuyển giành 3 chức vô địch châu lục liên tiếp cùng Argentina, Mexico và Iran. Trước thềm CAN 2008 diễn ra, nhiều đội bóng châu Âu kêu gọi BTC giải suy nghĩ lại về lịch thi đấu của CAN khi mùa giải tại châu Âu đang diễn ra. Một số cầu thủ châu Phi không được thi đấu cho CLB của họ. Cựu chủ tịch Sepp Blatter yêu cầu giải đấu được tổ chức vào tháng 6, 7 năm 2016 để phù hợp với lịch thi đấu quốc tế. Tuy nhiên điều này vấp phải sự phản đối từ các quốc gia Trung Phi và Tây Phi vì những tháng này là mùa mưa ở khu vực này. Tháng 5/2010, BTC của CAN thông báo sẽ thay đổi thời gian thi đấu tại giải từ năm chẵn sang năm lẻ và được áp dụng từ giải đấu năm 2013. Việc thay đổi này để tránh CAN xung đột với năm diễn ra World Cup. Năm 2011, Morocco được thông báo là nước chủ nhà của CAN 2015 và Lybia là nước chủ nhà tại giải đấu năm 2013. Tuy nhiên Lybia bị tước quyền đăng cai và chuyển sang Nam Phi do cuộc nội chiến ở quốc gia này từ năm 2011. Quốc gia này một lần nữa bị tước quyền đăng cai giải đấu năm 2017 khi cuộc nội chiến thứ 2 nổ ra vào năm 2014 và được thay thế bởi Gabon. Vào giai đoạn 2014 – 2015, đại dịch Ebola ở Tây Phi bùng phát khiến mọi hoạt động bóng đá của Liberia bị đình chỉ, SVĐ Antoinette Tubman ở thủ đô Monrovia trở thành một trong những nơi chuyên điều trị Ebola. Morocco là nước chủ nhà của CAN 2015 nhưng họ từ chối tổ chức giải vì những lo ngại về tình hình dịch bệnh, giải đấu năm đó được dời sang địa điểm khác là Guinea Xích Đạo. Đến năm 2019, VCK CAN sẽ có sự tham gia của 24 đội. CAN 2021 bị dời sang năm tiếp theo do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 khi vòng loại của giải đang diễn ra lượt trận thứ 3 và 4. Ai Cập vô địch giải đấu năm 1959 với tên gọi là Cộng hòa Ả Rập Thống nhất. CHDC Congo vô địch giải đấu năm 1968 với tên gọi là Congo-Kinshasa và năm 1974 với tên gọi quốc gia cũ là Zaire.
Cúp Liên đoàn các châu lục 2017
Cúp Liên đoàn các châu lục 2017 (tiếng Anh: 2017 FIFA Confederations Cup, tiếng Nga: Кубок конфедераций 2017, chuyển tự Latin: Kubok Konfederacij 2017) là Cúp Liên đoàn các châu lục lần thứ 10 và cũng là lần cuối cùng (do FIFA đã tuyên bố ngừng tổ chức giải vào ngày 15 tháng 3 năm 2019 vì lý do thời tiết) diễn ra tại Nga từ 17 tháng 6 đến 2 tháng 7 năm 2017. Đây cũng là đợt tổng diễn tập cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Nga trở thành chủ nhà vào ngày 2 tháng 12 năm 2010 sau khi giành quyền đăng cai Giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Các trận đấu diễn ra tại 4 thành phố: Sankt-Peterburg, Moskva, Kazan và Sochi. Đội tuyển chủ nhà Nga được đặc cách vào thẳng giải đấu; họ sẽ thi đấu cùng sáu đội tuyển vô địch tại các giải bóng đá châu lục cũng như đương kim vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 2014, đội tuyển Đức. Đức đã giành chức vô địch đầu tiên và cũng là chức vô địch duy nhất trong lịch sử sau khi vượt qua Chile với tỉ số 1–0 bằng pha lập công duy nhất của tiền đạo Lars Stindl ở phút thứ 20.
Nếu thường xuyên thực hiện các giao dịch với Ngân hàng, có lẽ bạn đã nghe đến cụm từ “thấu chi“. Vậy “thấu chi là gì?“ , vay thấu chi là gì? và tất cả những vấn đề liên quan sẽ được Banktop giải đáp trong bài viết này. Wikipedia trả lời câu hỏi về định nghĩa của thấu chi như sau: Một thấu chi xảy ra khi tiền được rút khỏi một tài khoản ngân hàng và số dư có sẵn đi dưới số không. Trong trường hợp này tài khoản được nói là “thấu chi”. Thấu chi là việc sử dụng một số tiền vượt hạn mức trong tài khoản thấu chi, hoặc có thể sử dụng ngay cả khi hạn mức bằng 0. Hạn mức thấu chi là số tiền tối đa mà tổ chức hoặc cá nhân được sử dụng vượt số dư có trên tài khoản thanh toán. Vay thấu chi là hình thức khách hàng được chi tiêu vượt số tiền có trong tài khoản theo hạn mức được quy định bởi ngân hàng cho vay thấu chi. Ví dụ: Khách hàng đăng ký vay thấu chi VPBank và được cấp hạn mức thấu chi là 50 triệu đồng. Trong trường hợp khách hàng sử dụng hết số tiền có trong tài khoản thấu chi, khách hàng vẫn có thể sử dụng thêm 50 triệu đồng và tính lãi theo quy định trong hợp đồng. So với các hình thức vay vốn khác nhau vay tiêu dùng tín chấp, vay thế chấp, vay tiền trả góp thì hình thức vay thấu chi ít được khách hàng biết đến. Vay thấu chi hỗ trợ khách hàng có nhu cầu tài chính đột xuất nhưng trong tài khoản lại không còn tiền. Hiện nay, các Ngân hàng hỗ trợ 2 hình thức vay thấu chi đó là vay thấu chi tín chấp và vay thấu chi thế chấp. Vay thấu chi tín chấp: tương tự như hình thức vay tín chấp cá nhân, chủ yếu dựa vào thu nhập của khách hàng để cấp hạn mức thấu chi. Vay thấu chi thế chấp: cơ bản giống như hình thức vay thế chấp, khách hàng cần tài sản đảm bảo. Vì thế, hạn mức vay thấu chi thế chấp thường rất cao, có thể lên tới hàng trăm triệu đồng. Khách hàng lớn hơn 20 tuổi và dưới 60 tuổi tại thời điểm tất toán hồ sơ. Tổng tiền lãi thấu chi tháng = ∑ dư nợ thấu chi thực thế * lãi suất thấu chi/360 * số ngày thấu chi thực tế. Khách hàng sử dụng số tiền trong hạn mức thấu chi là 20.000.000 VNĐ, lãi suất được tính là 20%/năm và thời gian thấu chi là 15 ngày. Câu trả lời là tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của bạn, vì chỉ khi phát sinh số tiền sử dụng thì mới bị tính lãi vay thấu chi. Trong những trường hợp đột xuất bạn cần sử dụng tiền nhưng trong tài khoản không có đủ thì số tiền trong tài khoản thấu chi là cách giải quyết tốt nhất. Bài viết trên đây, Banktop đã cung cấp cho bạn những thông tin đầy đủ, giúp bạn trả lời câu hỏi “thấu chi là gì?“ và các hình thức vay thấu chi. Nếu có nhu cầu vay tiền nhanh 24h, có thể liên hệ Hotline của Banktop để được hỗ trợ. Founder Banktop với hơn 5 năm kinh nghiệm làm trong lĩnh vực Tài chính sẽ chia sẽ đến bạn những kiến thức, kinh nghiệm mà mình đã đúc kết được.
Thấu chi
Thấu chi là khi tiền được rút khỏi một tài khoản ngân hàng và số dư có sẵn đi dưới số không. Trong trường hợp này tài khoản được gọi là "thấu chi". Nếu có sự thoả thuận trước với nhà cung cấp tài khoản cho một thấu chi, và số tiền thấu chi là trong hạn mức thấu chi được phép, sau đó tiền lãi thường được tính theo lãi suất thỏa thuận. Nếu số dư âm vượt quá các điều khoản thỏa thuận, thì phí bổ sung có thể phải trả và lãi suất cao hơn có thể áp dụng.
Cô gái và gã khổng lồ (tên gốc tiếng Anh: Colossal) là một phim điện ảnh hài kịch đen khoa học viễn tưởng năm 2016 do Nacho Vigalondo đạo diễn và biên kịch. Phim có sự tham gia của Anne Hathaway, Jason Sudeikis, Dan Stevens, Austin Stowell và Tim Blake Nelson, xoay quanh câu chuyện về Gloria, một cô gái nghiện rượu thất bại trong cuộc sống, khám phá ra mối liên hệ kì bí giữa những hành động của mình và một con quái vật khổng lồ đang tàn phá Seoul. Cô gái và gã khổng lồ được ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2016. Phim được công chiếu tại các rạp chiếu tại Mỹ vào ngày 7 tháng 4 năm 2017, và tại Việt Nam vào ngày 21 tháng 4 năm 2017. Được bấm máy trong sáu tuần với kinh phí 15 triệu USD tại Vancouver, phim chỉ thu về 4,3 triệu USD tiền doanh thu, tuy vậy nhưng phim vẫn nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Gloria (Anne Hathaway) là một cô gái đã rơi vào cảnh thất nghiệp và mới chia tay người yêu cũ Tim (Dan Stevens). Đối mặt với những thất bại kể cả trên phương diện công việc lẫn tình cảm, Gloria đã trở về thị trấn nơi mà cô đã lớn lên. Tại đây, cô gặp lại Oscar (Jason Sudeikis), một cậu bạn cũ học cùng tiểu học. Oscar đã trở thành một nguồn động viên rất lớn, kể cả về mặt tài chính lẫn tình cảm, cho Gloria. Và rồi tin tức về một con quái vật khổng lồ đang hoành hành dữ dội ở Seoul đã lan tới. Cả thế giới rung chuyển sau vụ tấn công của nó. Và Gloria cuối cùng cũng đã nhận ra được mức độ tệ hại của những lỗi lầm mà mình đã gây ra. Đó cũng là lúc cô hiểu rằng, để có thể giải quyết được những vấn đề mà mình đang phải đối mặt, cô sẽ phải học cách để trưởng thành, trên tất cả các phương diện. Anna Hathaway là nữ diễn viên đầu tiên nhận tham gia bộ phim khi dự án còn đang gặp khó khăn về mặt tài chính. Hathaway đã được nghe về kịch bản của phim và cảm thấy rằng cô "đang bay trong không gian nghệ thuật mà không ai có thể đặt chân tới". Đạo diễn Jonathan Demme cho cô xem một bản sao của bộ phim A Field in England và sau đó Hathaway nhất trí rằng đó mới chính là kiểu phim mà cô muốn được đóng. Sau khi hỏi người đại diện của Hathaway về một kịch bản tương tự mà cô có thể tham gia, cô đã được gửi xem kịch bản của Cô gái và gã khổng lồ. Hathaway cảm thấy bị cuốn hút bởi thể loại di động của kịch bản, mà sau đó cô đã so sánh nó với Thử làm John Malkovich, một trong những bộ phim mà cô yêu thích. Trước khi phim được bấm máy, công ty Nhật Bản Toho đã khởi tố hãng Voltage Pictures việc sử dụng hình ảnh quái vật Godzilla từ các loạt phim Godzilla thông qua email và các văn kiện báo chí gửi tới các nhà đầu tư. Mọi việc được hòa giải êm xuôi trong tháng 10 năm 2015. Quá trình quay phim chính của bộ phim cũng được bắt đầu cùng tháng đó tại Vancouver và kết thúc vào ngày 25 tháng 11 năm 2015. Hình dạng quái vật không được tạo ra bằng công nghệ ghi hình chuyển động mà các cảnh diễn xuất của Hathaway được gửi đến đội CG để dựa vào đó thực hiện. Các họa sĩ CG là những người chịu trách nhiệm chính cho tạo hình của quái vật. Đạo diễn Vigalondo giải thích rằng việc này là do anh không có đủ con mắt thẩm mỹ. Cô gái và gã khổng lồ được ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào ngày 9 tháng 9 năm 2016. Một thời gian ngắn sau đó, một công ty giấu tên đã đạt được quyền công chiếu bộ phim, sau đó được tiết lộ là hãng Neon, một công ty phân phối mới thành lập. Phim cũng được trình chiếu tại Liên hoan phim Sundance vào ngày 20 tháng 1 năm 2017. Cô gái và gã khổng lồ được khởi chiếu rộng rãi vào ngày 7 tháng 4 năm 2017 tại Mỹ. Tại Việt Nam, phim được khởi chiếu vào ngày 21 tháng 4 năm 2017. Phim thu về tổng cộng hơn 3,1 triệu USD tại thị trường Mỹ và hơn 1,1 triệu USD tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khác, đưa tổng mức doanh thu toàn cầu lên tới 4,3 triệu USD. Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, phim nhận được 80% lượng đồng thuận dựa theo 193 bài đánh giá, với điểm trung bình là 7,2/10. Các chuyên gia của trang web nhất trí rằng, "Sự kỳ dị phi lý của Cô gái và gã khổng lồ có thể làm bạn mất phương hướng, nhưng những người xem kiên nhẫn có thể nhận ra sự cuốn hút của thể loại phim khó nhằn này -- và diễn xuất của Anne Hathaway -- là hoàn toàn xứng đáng với cuộc chơi." Trên trang Metacritic, phần phim đạt số điểm 70 trên 100, dựa trên 36 nhận xét, chủ yếu là những lời khen ngợi. Viết cho trang RogerEbert.com, Matt Zoller Seitz tặng Cô gái và gã khổng lồ 3,5 trên 4 sao kèm lời tựa "dàn diễn viên tuyệt vĩ một cách thầm lặng, và bộ phim luôn biết nó sẽ nói về cái gì và nó muốn nói cái gì." IGN cho bộ phim 7 trên 10 điểm, viết rằng "Nó không phải lúc nào cũng thành công, nhưng khi bộ phim thành công, nó sẽ là một cú nổ lớn – một thể loại phim pha trộn độc nhất và hoàn toàn bản nguyên khác từ bộ óc điên rồ của Nacho Vigalondo." Cây viết Peter Travers từ Rolling Stone tặng bộ phim số điểm 3,5 trên 4, cùng lời nhận xét "Cô gái và gã khổng lồ thực sự không thể bỏ lỡ". Diệu Anh đại diện cho Zing.vn cho Cô gái và gã khổng lồ số điểm 7/10 với lời tặng, "Trở lại màn ảnh với Cô gái và gã khổng lồ, Anne Hathaway khiến số đông phải thốt lên: "Chuyện quái gì đã xảy ra vậy?" sau khi theo dõi bộ phim tâm lý, hài hước pha trộn viễn tưởng này.". Mark Jenkins của NPR viết "Bộ phim càng về cuối, tính trần thuật càng bị phai mờ. Tông nền bị lung lay, và các lỗ hổng nhỏ xuất hiện từ đoạn giữa phim sẽ ngày càng nứt sâu hơn." Rex Reed từ New York Observer thì cho phim 0 trên 4 sao, kèm bình luận "khó hiểu đến nỗi gần như không thể xem nổi".
Cô gái và gã khổng lồ
Cô gái và gã khổng lồ (tên gốc tiếng Anh: Colossal) là một phim điện ảnh hài kịch đen khoa học viễn tưởng năm 2016 do Nacho Vigalondo đạo diễn và biên kịch. Phim có sự tham gia của Anne Hathaway, Jason Sudeikis, Dan Stevens, Austin Stowell và Tim Blake Nelson, xoay quanh câu chuyện về Gloria, một cô gái nghiện rượu thất bại trong cuộc sống, khám phá ra mối liên hệ kì bí giữa những hành động của mình và một con quái vật khổng lồ đang tàn phá Seoul. Cô gái và gã khổng lồ được ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2016. Phim được công chiếu tại các rạp chiếu tại Mỹ vào ngày 7 tháng 4 năm 2017, và tại Việt Nam vào ngày 21 tháng 4 năm 2017. Được bấm máy trong sáu tuần với kinh phí 15 triệu USD tại Vancouver, phim chỉ thu về 4,3 triệu USD tiền doanh thu, tuy vậy nhưng phim vẫn nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Gloria (Anne Hathaway) là một cô gái đã rơi vào cảnh thất nghiệp và mới chia tay người yêu cũ Tim (Dan Stevens). Đối mặt với những thất bại kể cả trên phương diện công việc lẫn tình cảm, Gloria đã trở về thị trấn nơi mà cô đã lớn lên.
C là một ngôn ngữ lập trình máy tính. Được dùng để tạo ra các chỉ dẫn cho máy tính. C được phát triển bởi Dennis M. Ritchie để phát triển hệ điều hành UNIX sau đó được sử dụng để phát triển các phần mềm…. C được đánh giá là dễ học so với các ngôn ngữ bậc thấp như Assembly hay Pascal… Do đó nó được sử dụng làm môn lập trình cơ sở (Hiện tại một số trường đại học đã chuyển môn cơ sở sang Javascript). Tuy nhiên so với các ngôn ngữ bậc cao như Java, Python thì nó lại khó học hơn rất nhiều. Nhìn chung thì C khá là khó (bởi khái niệm con trỏ, quản lý bộ nhớ) và thường trên trường chỉ học ở mức độ cơ bản. Nếu theo lập trình về phần cứng, hệ điều hành hay các hệ thống core thì mới tiếp tục học nâng cao… do đó mới đầu học C các bạn thấy khó nhằn một chút thì cũng bình thường. include <stdio.h> khai báo file stdio.h, nó là một thư viện mà ta có thể dùng sẵn. Trong trường hợp này hàm printf() mà mình sử dụng đã được định nghĩa trong sdtio.h, nếu mình không khai báo stdio.h thì chương trình sẽ không hiểu hàm printf() là gì. int main() hàm main (chương trình viết bởi c sẽ bắt đầu chạy từ hàm main). int biểu thị kết quả trả về của hàm main là kiểu số nguyên. Các dấu được dùng để đánh dấu mở đầu và kết thúc của một khối lệnh, một hàm. Dấu ; được dùng để kết thúc 1 lệnh. return 0; kết quả trả về của hàm main là 0. Trong ví dụ này thì giá trị trả về của hàm main không quan trọng (mình sẽ nói rõ về phần nà sau). File Hello.c được viết bằng ngôn ngữ C. Do đó để chạy được file Hello.c ta phải biên dịch nó thành mã máy (file .exe) để chạy. Để biên dịch được các file viết bằng ngôn ngữ C ta cần cài đặt trình biên dịch (complier) cho ngôn ngữ C. Nếu bạn đang sử dụng linux thì không cần cài đặt thêm vì linux viết bằng C nên nó đã tích hợp sẵn trình biên dịch C. Chạy file hello.exe vừa tạo ra ta sẽ thấy in ra dòng chữ Hello World!
C (ngôn ngữ lập trình)
Ngôn ngữ lập trình C là một ngôn ngữ mệnh lệnh được phát triển từ đầu thập niên 1970 bởi Dennis Ritchie để dùng trong hệ điều hành UNIX. Từ đó, ngôn ngữ này đã lan rộng ra nhiều hệ điều hành khác và trở thành một những ngôn ngữ phổ dụng nhất. C là ngôn ngữ rất có hiệu quả và được ưa chuộng nhất để viết các phần mềm hệ thống, mặc dù nó cũng được dùng cho việc viết các ứng dụng. Ngoài ra, C cũng thường được dùng làm phương tiện giảng dạy trong khoa học máy tính mặc dù ngôn ngữ này không được thiết kế dành cho người nhập môn. Phát triển khởi đầu của C xảy ra ở AT&T Bell Labs giữa 1969 và 1973; theo Ritchie thì thời gian sáng tạo nhất là vào năm 1972. Nó được đặt tên là C vì nhiều đặc tính của nó rút ra từ một ngôn ngữ trước đó là B. Thêm vào đó, các điểm khác với ngôn ngữ nguyên thủy "B": Ken Thompson kể tới ngôn ngữ lập trình BCPL, nhưng ông ta cũng đã tạo ra ngôn ngữ là Bon để vinh danh vợ mình.
Nói một cách đơn giản nhất, thương mại tự do là hoàn toàn không có các chính sách của chính phủ hạn chế xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong khi các nhà kinh tế từ lâu cho rằng thương mại giữa các quốc gia là chìa khóa để duy trì một nền kinh tế toàn cầu lành mạnh, rất ít nỗ lực thực sự thực hiện các chính sách thương mại tự do thuần túy đã từng thành công. Chính xác thì thương mại tự do là gì, và tại sao các nhà kinh tế và công chúng lại nhìn nhận nó khác nhau như vậy?. Thương mại tự do là việc xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia không hạn chế. Đối lập với thương mại tự do là chủ nghĩa bảo hộ - một chính sách thương mại có tính hạn chế cao nhằm loại bỏ sự cạnh tranh từ các quốc gia khác. Ngày nay, hầu hết các quốc gia công nghiệp phát triển tham gia vào các hiệp định thương mại tự do hỗn hợp (FTA), các hiệp ước đa quốc gia đã đàm phán cho phép, nhưng điều chỉnh thuế quan, hạn ngạch và các hạn chế thương mại khác. Thương mại tự do là một chính sách chủ yếu mang tính lý thuyết, theo đó các chính phủ hoàn toàn không áp đặt thuế quan, thuế quan đối với hàng nhập khẩu hoặc hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu. Theo nghĩa này, thương mại tự do đối lập với chủ nghĩa bảo hộ , một chính sách thương mại phòng thủ nhằm loại bỏ khả năng cạnh tranh với nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế, các chính phủ có chính sách thương mại tự do nói chung vẫn áp đặt một số biện pháp để kiểm soát xuất nhập khẩu. Giống như Hoa Kỳ, hầu hết các quốc gia công nghiệp phát triển đàm phán “ các hiệp định thương mại tự do ” hoặc các FTA với các quốc gia khác để xác định mức thuế quan, thuế quan và trợ cấp mà các quốc gia có thể áp dụng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của họ. Hiện nay đã phổ biến trong thương mại quốc tế, FTA hiếm khi dẫn đến thương mại tự do thuần túy, không hạn chế. Năm 1948, Hoa Kỳ cùng với hơn 100 quốc gia khác đã đồng ý với Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), một hiệp ước giảm thuế quan và các rào cản khác đối với thương mại giữa các nước ký kết. Năm 1995, GATT được thay thế bởi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày nay, 164 quốc gia, chiếm 98% tổng thương mại thế giới thuộc WTO. Bất chấp việc tham gia vào các FTA và các tổ chức thương mại toàn cầu như WTO, hầu hết các chính phủ vẫn áp đặt một số hạn chế thương mại theo chủ nghĩa bảo hộ như thuế quan và trợ cấp để bảo vệ việc làm tại địa phương. Ví dụ, cái gọi là “ Thuế gà ” , mức thuế 25% đối với một số ô tô nhập khẩu, xe tải nhẹ và xe tải do Tổng thống Lyndon Johnson áp đặt vào năm 1963 để bảo vệ các nhà sản xuất ô tô Hoa Kỳ vẫn có hiệu lực cho đến ngày nay. Từ thời Hy Lạp cổ đại, các nhà kinh tế đã nghiên cứu và tranh luận về các lý thuyết và tác dụng của chính sách thương mại quốc tế. Các hạn chế thương mại có giúp ích hay làm tổn thương các quốc gia áp đặt chúng không? Và chính sách thương mại nào, từ chủ nghĩa bảo hộ nghiêm ngặt đến thương mại hoàn toàn tự do là tốt nhất cho một quốc gia nhất định? Qua nhiều năm tranh luận về lợi ích so với chi phí của các chính sách thương mại tự do đối với các ngành sản xuất trong nước, hai lý thuyết chủ yếu về thương mại tự do đã xuất hiện: chủ nghĩa trọng thương và lợi thế so sánh. Chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết về tối đa hóa doanh thu thông qua xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Mục tiêu của chủ nghĩa trọng thương là sự cân bằng thương mại thuận lợi , trong đó giá trị hàng hóa mà một quốc gia xuất khẩu vượt quá giá trị hàng hóa mà quốc gia đó nhập khẩu. Thuế quan cao đối với hàng hóa sản xuất nhập khẩu là đặc điểm chung của chính sách trọng thương. Những người ủng hộ cho rằng chính sách trọng thương giúp các chính phủ tránh thâm hụt thương mại, trong đó chi tiêu cho nhập khẩu vượt quá thu nhập từ xuất khẩu. Ví dụ, Hoa Kỳ, do xóa bỏ các chính sách trọng thương trong thời gian qua, nên đã bị thâm hụt thương mại kể từ năm 1975. Thống trị ở châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, chủ nghĩa trọng thương thường dẫn đến việc mở rộng thuộc địa và chiến tranh. Kết quả là, nó nhanh chóng giảm phổ biến. Ngày nay, khi các tổ chức đa quốc gia như WTO nỗ lực giảm thuế quan trên toàn cầu, các hiệp định thương mại tự do và các hạn chế thương mại phi thuế quan đang thay thế lý thuyết trọng thương. Lợi thế so sánh cho rằng tất cả các quốc gia sẽ luôn được hưởng lợi từ hợp tác và tham gia vào thương mại tự do. Được phổ biến bởi nhà kinh tế học người Anh David Ricardo và cuốn sách “Các nguyên tắc kinh tế chính trị và thuế” năm 1817 của ông, quy luật lợi thế so sánh đề cập đến khả năng sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ của một quốc gia với chi phí thấp hơn các quốc gia khác. Lợi thế so sánh có chung nhiều đặc điểm của toàn cầu hóa , lý thuyết cho rằng sự mở cửa thương mại trên toàn thế giới sẽ cải thiện mức sống ở tất cả các nước. Lợi thế so sánh đối lập với lợi thế tuyệt đối - một quốc gia có khả năng sản xuất nhiều hàng hóa hơn với đơn giá thấp hơn các quốc gia khác. Các quốc gia có thể tính phí hàng hóa của mình thấp hơn các quốc gia khác mà vẫn tạo ra lợi nhuận được cho là có lợi thế tuyệt đối. Thương mại tự do toàn cầu thuần túy sẽ giúp ích hay làm tổn thương thế giới? Dưới đây là một số vấn đề cần xem xét. Nó kích thích tăng trưởng kinh tế: Ngay cả khi các hạn chế hạn chế như thuế quan được áp dụng, tất cả các nước liên quan đều có xu hướng đạt được tăng trưởng kinh tế lớn hơn. Ví dụ, Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ ước tính rằng việc trở thành một bên ký kết NAFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ) đã làm tăng mức tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ lên 5% mỗi năm. Nó giúp ích cho người tiêu dùng: Các hạn chế thương mại như thuế quan và hạn ngạch được thực hiện để bảo vệ các doanh nghiệp và ngành công nghiệp địa phương. Khi các hạn chế thương mại được gỡ bỏ, người tiêu dùng có xu hướng thấy giá thấp hơn vì nhiều sản phẩm nhập khẩu từ các nước có chi phí lao động thấp hơn có sẵn ở cấp địa phương. Nó làm tăng đầu tư nước ngoài: Khi không phải đối mặt với các hạn chế thương mại, các nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng đổ tiền vào các doanh nghiệp địa phương để giúp họ mở rộng và cạnh tranh. Ngoài ra, nhiều quốc gia đang phát triển và bị cô lập được hưởng lợi từ dòng tiền từ các nhà đầu tư Mỹ. Nó làm giảm chi tiêu của chính phủ: Các chính phủ thường trợ cấp cho các ngành công nghiệp địa phương, như nông nghiệp, bị mất thu nhập do hạn ngạch xuất khẩu. Khi hạn ngạch được dỡ bỏ, nguồn thu thuế của chính phủ có thể được sử dụng cho các mục đích khác. Nó khuyến khích chuyển giao công nghệ: Ngoài chuyên môn của con người, các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận với các công nghệ mới nhất do các đối tác đa quốc gia của họ phát triển. Nó gây ra mất việc làm khi thuê ngoài: Thuế quan có xu hướng ngăn cản việc thuê ngoài bằng cách giữ giá sản phẩm ở mức cạnh tranh. Miễn thuế, sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài lương thấp hơn giá thành rẻ hơn. Mặc dù điều này có vẻ tốt cho người tiêu dùng, nhưng nó khiến các công ty địa phương khó cạnh tranh, buộc họ phải giảm lực lượng lao động. Thật vậy, một trong những phản đối chính đối với NAFTA là nó đã cho Mexico thuê các công việc của người Mỹ. Nó khuyến khích hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ: Nhiều chính phủ nước ngoài, đặc biệt là các chính phủ ở các nước đang phát triển, thường không coi trọng quyền sở hữu trí tuệ. Nếu không có sự bảo vệ của luật bằng sáng chế , các công ty thường bị đánh cắp sáng kiến và công nghệ mới, buộc họ phải cạnh tranh với các sản phẩm giả sản xuất trong nước có giá thấp hơn. Nó cho phép điều kiện làm việc kém: Tương tự, chính phủ ở các nước đang phát triển hiếm khi có luật để điều chỉnh và đảm bảo các điều kiện làm việc an toàn và công bằng. Bởi vì thương mại tự do phụ thuộc một phần vào việc thiếu các hạn chế của chính phủ, phụ nữ và trẻ em thường bị buộc phải làm việc trong các nhà máy làm công việc nặng nhọc trong điều kiện lao động khắc nghiệt. Nó có thể gây hại cho môi trường: Các nước mới nổi có rất ít, nếu có luật bảo vệ môi trường. Vì nhiều cơ hội thương mại tự do liên quan đến việc xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên như gỗ hoặc quặng sắt, nên việc chặt phá rừng và khai thác dải không khai hoang thường hủy hoại môi trường địa phương. Nó làm giảm doanh thu: Do mức độ cạnh tranh cao thúc đẩy bởi thương mại tự do không hạn chế, các doanh nghiệp liên quan cuối cùng bị giảm doanh thu. Các doanh nghiệp nhỏ hơn ở các quốc gia nhỏ hơn dễ bị ảnh hưởng nhất bởi tác động này. Trong phân tích cuối cùng, mục tiêu của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận cao hơn, trong khi mục tiêu của chính phủ là bảo vệ người dân của mình. Cả thương mại tự do không hạn chế và chủ nghĩa bảo hộ hoàn toàn sẽ không thực hiện được cả hai. Sự kết hợp của cả hai, như được thực hiện bởi các hiệp định thương mại tự do đa quốc gia, đã trở thành giải pháp tốt nhất. Các nhà kinh tế thực sự đồng ý về điều này: Sự khôn ngoan của thương mại tự do .". Nguyên tắc Kinh tế Chính trị và Thuế vụ ." Thư viện Kinh tế và Tự do. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Thương mại tự do
Trong thương mại quốc tế, thương mại tự do là một kiểu thị trường lý tưởng, thường được xem như là một mục tiêu chính trị, mà sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nước được thực hiện không có sự kiểm soát bằng những chính sách nhập khẩu. Về học thuật, thương mại tự do được ủng hộ bởi những người theo trường phái kinh tế học tân cổ điển và kinh tế học vi mô. Họ cho rằng lợi ích của thương mại chính là giá trị thực có được của cả hai phía. Tuy nhiên, thương mại tự do bị phong trào chống toàn cầu hóa và tầng lớp công nhân lại có nhiều phản đối do xu hướng bị lạm dụng bởi các nước giàu có. Thương mại tự do về hàng hóa không có thuế quan hay những hàng rào thuế quan. Thương mại tự do về dịch vụ không bị thuế quan và hàng rào thương mại. Tự do lưu chuyển lao động giữa các nước. Sự vắng mặt của những chính sách thương mại bảo hộ (như là: thuế, tiền trợ cấp, quy định, hay luật) cho những xí nghiệp trong nước, các hộ gia đình, và các yếu tố sản xuất mà nước ngoài có lợi thế.
Chiếu xạ thực phẩm là công nghệ sử dụng năng lượng bức xạ ion hoá để xử lý thực phẩm nhằm nâng cao chất lượng vệ sinh và an toàn thực phẩm. Thực phẩm chiếu xạ đã được chứng minh là lành tính và mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội to lớn. Tuy nhiên cũng giống như các công nghệ chế biến và bảo quản thực phẩm bằng hoá học hoặc bằng nhiệt, công nghệ chiếu xạ thực phẩm cũng đòi hỏi cơ sở chiếu xạ và cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm phải tuân thủ những yêu cầu nhất định về liều chiếu, qui cách sản phẩm và điều kiện lưu kho, vận chuyển và chế biến thực phẩm sau khi chiếu xạ. Nếu như đông lạnh chỉ có khả năng ức chế sự phát triển của vi sinh vật thì tia bức xạ có tác dụng gây tổn thương cơ chất di truyền (phân tử AND) làm bất hoạt khả năng sinh sản của vi sinh vật. Nhờ đó, sau khi chiếu xạ, các vi sinh vật gây bệnh cho người và các vi sinh vật gây hại cho thực phẩm bị bất hoạt. Nhờ các hiệu ứng đó thực phẩm chiếu xạ trở lên vệ sinh và an toàn hơn, chất lượng dinh dưỡng được ổn định, thời gian sử dụng của thực phẩm được kéo dài…. tạo thuận lợi cho khâu lưu trữ và phân phối thực phẩm tới các thị trường xa, trái thời vụ. - Chiếu xạ thực phẩm góp phần ngăn chặn sự lây lan nhiều dịch bệnh Ngũ cốc, hoa quả, thịt, trứng, sữa, hải sản …là môi trường khu trú thích hợp cho nhiều vi khuẩn, côn trùng, kí sinh trùng gây bệnh (Salmonella, Campylobatcter, Oxoplasma gondii, Trichinella, Vibro cholera, Listeria monocytogees, Yersina, Shigella Escherichia coli 0157:H7 và Clostridium perfringenes….). Điều đáng quan tâm là nhiều vi khuẩn gây bệnh ở thực phẩm tưởng như đã giảm hoặc biến mất từ thế kỷ trước thì 20 năm qua lại tăng lên đột ngột và có nhiều biến thể mầm bệnh mới xuất hiện nguy hiểm hơn. Khu trú trên thực phẩm, các mầm bệnh này rất dễ lây lan sang người sử dụng hoặc sang các vùng địa lý khác nhau. Vì vậy, chiếu xạ trước khi thực phẩm được xuất đi tiêu thụ là một biện pháp kiểm dịch hữu hiệu góp phần ngăn chặn đáng kể sự lây lan, làm giảm sự thiệt hại về nhân mạng và kinh tế. Ví dụ, từ năm 1970 đến 1982, khi phương pháp thanh trùng sữa tươi bằng bức xạ ion hoá ở Scotland được áp dụng đã giúp giảm thiểu số bệnh do sữa gây ra từ 3500 người xuống còn 12 người. Vì vậy thanh trùng bức xạ sữa ngày nay đã trở thành phương pháp phổ biến ở Châu Âu, Bắc Mỹ. Chiếu xạ trong các điều kiện được kiểm soát không làm cho thực phẩm biến thành chất phóng xạ. Bất kể loại vật liệu nào trong môi trường sống của chúng ta, kể cả thực phẩm, đều chứa một lượng cực nhỏ các nguyên tố có hoạt tính phóng xạ được gọi là các nguyên tố phóng xạ tự nhiên. Tổng hoạt độ của các nguyên tố phóng xạ tự nhiên mà con người hấp thụ qua đường ăn uống hàng ngày vào khoảng 150-200 becquerel. Thực phẩm không bao giờ trực tiếp tiếp xúc với nguồn xạ và mức năng lượng tối đa của các nguồn chiếu xạ thực phẩm luôn được giới hạn nhỏ hơn 5 MeV đối với bức xạ gamma, tia X và nhỏ hơn 10 MeV đối với bức xạ điện tử. Các giới hạn năng lượng trên là nhỏ so với năng lượng liên kết hạt nhân và vì vậy các bức xạ iôn hóa này không có khả năng biến thực phẩm được chiếu xạ thành phóng xạ. Thực phẩm bị nhiễm xạ là thực phẩm hấp thụ các chất phóng xạ thoát ra từ các sự cố lò phản ứng hạt nhân, các vụ nổ bom nguyên tử. Sự nhiễm xạ như vậy không liên quan tới quá trình chiếu xạ có kiểm soát và được giới hạn về mức năng lượng bức xạ được sử dụng nhằm mục tiêu bảo quản thực phẩm. Xử lý bức xạ chỉ gây nên những biến đổi hoá học không đáng kể và tỏ ra vô hại đối với thực phẩm. Các chất này cũng được tạo ra khi xử lý thực phẩm bằng nhiệt. Các sản phẩm xạ ly đã được nghiên cứu khá kỹ lưỡng và không có bằng chứng nào thể hiện tính độc hại của chúng. Hơn 30 năm qua gần 2000 cuộc thử nghiệm khoa học với các kỹ thuật phân tích cực nhạy đã phân lập và xác định các chất trung gian được hình thành do chiếu xạ gây ra ở thực phẩm chiếu xạ. Sự thật là không có một hoá chất dị thường nào trong thực phẩm chiếu xa được phát hiện ở rau, quả, thịt, trứng, sữa, cá . Tính lành của thực phẩm chiếu xạ cũng đã được minh chứng bằng các thử nghiệm trên cơ thể sống: thử độc tố chung, thử hiệu ứng tim mạch, thử hiệu ứng gây quái thai (Teratology), thử đột biến, thử dinh dưỡng, và thử vô trùng. Một số phép thử trên có thể đánh giá bằng phân tích hoá học, vật lý học. Một số khác được đánh giá trên động vật hoặc trên vi sinh vật nuôi cấy. Các gốc tự do, theo định nghĩa khoa học, là những nguyên tử, phân tử thiếu sự phân bố các điện tử ở dạng từng cặp. Chúng có thể được hình thành khi chiếu xạ cũng như khi xử lý thực phẩm bằng các phương pháp khác như khi nướng, sấy khô, đông khô và ngay cả trong quá trình oxy hoá bình thường của thực phẩm. Các gốc tự do có tính hoạt động rất cao, cấu trúc không ổn định nên dễ dàng tương tác với các cơ chất khác để trở thành dạng sản phẩm ổn định. Các gốc tự do dễ hình thành và cũng dễ biến mất một thời gian ngắn sau khi chiếu xạ thực phẩm ở trạng thái lỏng. Sự tiêu hoá chúng chẳng gây nên bất kỳ hiệu ứng độc hại nào. Điều này được khẳng định nhờ các nghiên cứu trường diễn trên những động vật ăn sữa bột chiếu xạ ở liều 45 kGy (gấp 4 lần liều tối đa cho phép chiếu xạ thực phẩm). Không có hiện tượng đột biến di truyền nào được thông báo, không có hiệu ứng gây ung thư nào được phát hiện. Các nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh là các chất dinh dưỡng đa lượng như protein, gluxit và lipit tương đối ổn đinh khi xử lý thưc phẩm tới liều 10 kGy. Các chất dinh dưỡng vi lượng, đặc biệt là các vitamin, tỏ ra khá nhạy cảm với các tác nhân xử lý, kể cả với bức xạ. Ví du, vitamin A, E, C và B có độ nhạy cảm cao với bức xạ song cũng chỉ tương đương với các tác nhân xử lý bằng nhiệt. Uỷ ban hỗn hợp giữa FAO, WHO và IAEA, 1980 khẳng định chiếu xạ không làm giảm vấn đề dinh dưỡng trong thực phẩm. Sự thay đổi các giá trị dinh dưỡng trong thực phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố: liều lượng bức xạ, loại thực phẩm, chất liệu bao gói và các điều kiện xử lý (nhiệt độ trong thời gian chiếu xạ và lưu kho sau chiếu xạ). Phần lớn các yếu tố trên cũng gặp phải trong các phương pháp bảo quan thực phẩm khác đã và đang sử dụng. Trong “10 Qui tắc vàng” của WHO cho việc lựa chọn và dùng thực phẩm thì Qui tắc thứ nhất là lời khuyên “hãy chọn thực phẩm đã được xử lý đảm bảo an toàn”, và trong các phương pháp bảo đảm an toàn hiện có “khách hàng nên chọn thực phẩm xử lý bằng bức xạ”. Chiếu xạ không làm mất các độc tố vi sinh và diệt được hết vi rút. Chẳng có phương pháp nào từ chiếu xạ đến các phương pháp thông thường có thể biến thực phẩm đã hỏng, bẩn trở thành tốt được. Như vậy chiếu xạ thực phẩm không thay thế Tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt (GMP) ở các nhà máy chế biến thực phẩm. - Mục đích sử dụng sản phẩm chiếu xạ, yêu cầu về độ đảm bảo vô trùng cần đạt được, số VSV trung bình thường nhiễm trên sản phẩm trước khi thanh trung. Với các thông tin này khách hàng sẽ nhận được sự góp ý của Cơ sở chiếu xạ về liều xạ cần sử dụng, độ nhiễm VSV ban đầu có thích hợp với mục tiêu thanh trùng bức xạ hay không, và độ vô trùng mà sản phẩm sẽ được đảm bảo sau khi chiếu xạ. - Qui cách bao gói sản phẩm (vật liệu bao gói cách ly vi khuẩn, kích thước, tỉ trọng bao kiện hàng). Với các thông tin này, khách hàng sẽ nhận được sự góp ý của Cơ sở chiếu xạ về chất lượng vật liệu bao gói phù hợp với phương pháp chiếu xạ, kích thước và tỉ trọng bao kiện hàng tương thích với hoạt động của máy chiếu của Cơ sở chiếu xạ. - Các điều kiện đặc biệt về bảo quản sản phẩm trước, trong và sau khi chiếu xạ. - Xác định liều xạ cần xử lý trên cơ sở các thông tin về độ nhiễm khuẩn ban đầu và độ đảm bảo vô trùng cho sản phẩm mà khách hàng yêu cầu. - Thực hiện chiếu xạ theo liều lượng bức xạ được xác định, kiểm định sự chính xác của liều chiếu bằng liều kế. Đối với phương pháp chiếu xạ các số liệu của liều kế kiểm tra tương đương với xét nghiệm độ vô trùng sau khi xử lý ở các phương pháp khác. Vì liều kế ghi lại số liệu về liều xạ đã xử lý được xác định từ 3 yếu tố định liều cơ bản:. - Độ đảm bảo vô trùng mà Cơ quan y tế có thẩm quyền qui định. - Độ kháng xạ tự nhiên của các loài VSV nhiễm trong sản phẩm. Muốn tính được liều thanh trùng cần có 3 thông số cơ bản: số VSV nhiễm ban đầu (No), số VSV cho phép còn sống sót sau xử lý (N) và liều D10 của từng loài VSV. D: là liều chiếu làm giảm số VSV từ lượng ban đầu (No) xuống còn số lượng mong muốn (N). N do Cơ quan sản xuất hoặc Cơ quan y tế có thẩm quyền qui định theo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho phép, D10 là liều chỉ rõ mức độ mẫn cảm phóng xạ bẩm sinh của các loài VSV, D10 là liều xạ làm bất hoạt 90% số lượng VSV cùng loài trong quần thể VSV nhiễm. Tuy nhiên, liều xạ thực hành phải tương quan với các tiêu chuẩn về chất lượng dinh dưỡng, an toàn độc tố và các chỉ tiêu về cảm quan của thực phẩm. Vì vậy, liều chiếu phải xác định cho từng loại thực phẩm cụ thể với các yêu cầu về chất lượng cần đảm bảo. Mỗi quốc gia đều đưa ra những qui định giới về hạn liều chiếu cho từng loại thực phẩm. Ngày 14 tháng 10 năm 2004, Bộ Y tế đã ra Quyết định số 3616/2004/QĐBYT về việc ban hành “Qui định vệ sinh an toàn đối với thực phẩm bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ”. Danh mục thực phẩm được phép chiếu xạ và giới hạn liều hấp thụ tối đa được quy định trong bảng sau:. Loại 4: Thủy sản và sản phẩm thủy sản, bao gồm động vật không xương sống, động vật lưỡng cư ở dạng tươi sống hoặc lạnh đông. Phát hiện thực phẩm chiếu xạ bằng phương pháp nhiệt phát quang đối với loại có thể tách khoáng silicat. Phát hiện thực phẩm chiếu xạ đối với loại thực phẩm cóchứa chất béo. Phân tích hydrocacbon bằng sắc ký khí
Chiếu xạ thực phẩm
Chiếu xạ thực phẩm là quá trình chiếu bức xạ ion hóa lên thực phẩm nhằm tiêu diệt các sinh vật còn tồn dư trong thực phẩm, nhờ đó bảo quản thực phẩm, làm giảm nguy cơ bệnh tật do thực phẩm gây ra, ngăn chặn sự lây lan của các loài xâm hại, và làm chậm trễ hoặc loại bỏ mọc mầm hoặc chín, hỏng . Các bức xạ ion hóa có thể được phát ra bởi nguồn bằng chất phóng xạ hoặc tạo ra bằng điện. Chiếu xạ nói chung còn được dùng trong khử trùng dụng cụ y tế và tương tự . Các dụng cụ hay thực phẩm chiếu xạ không trở thành thể có tính phóng xạ, không gây nguy hiểm về phóng xạ cho người dùng . Thực phẩm đã chiếu xạ cần được thông báo bằng dấu hiệu Radura quốc tế, hoặc tại Hoa Kỳ là dấu do Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) quy định. Đó là do nhận thức của người tiêu dùng về thực phẩm xử lý bằng chiếu xạ là tiêu cực nhiều hơn những xử lý bằng các phương tiện khác , và sự chấp nhận về pháp lý tại các nước khác nhau còn khác nhau.
Xem Mùi Đu Đủ Xanh, thấy hạnh phúc ngày xưa thật là đơn giản. Cũng chính vì nó quá đơn giản nên đường đến khổ đau cũng chỉ cần một bước chân. Thấy thương cho người phụ nữ Việt Nam ngày xưa, xem hy sinh là tín ngưỡng và sự cam chịu là một phẩm giá. Cái nhẫn nhịn ấy của người phụ nữ không chỉ phụ thuộc vào cái gọi là chế độ hay thời cuộc, mà nó đã như một đức tin, một thứ hạnh phúc giản đơn chỉ cần thế thôi là đủ. Thứ tín ngưỡng và hạnh phúc ấy ăn sâu vào họ đến nỗi ngay cả khi họ được trao vào tay cái quyền để đứng dậy, bản thân người phụ nữ cũng vẫn e dè và vẫn chọn cho mình niềm hạnh phúc “được” phục dịch và cúi đầu trước người đàn ông. Mình thích đoạn cuối của phim. Thích đến từng chi tiết. Cảm giác như mỗi giây trôi qua Trần Anh Hùng đều gửi gắm một điều gì đó để mình phải suy ngẫm. Từ hình ảnh Khuyến đưa cho Mùi quyển sách, trao cho cô quyền được học hỏi, cho đến lúc anh nâng gương mặt cúi gằm của Mùi lên khi cô tập viết, cho cô quyền được ngẩng cao đầu. Cho đến khi kết phim Mùi ngồi ngoài sân tập đọc cho Khuyến nghe, sự hiểu biết và cả chiếc áo dài gấm đẹp đẽ ấy chỉ đẹp trong vài giây để rồi bộ phim kết thúc với lời văn cô đọc:. “Những cây anh đào chìm trong bóng râm. Cong veo theo nhịp nước. Nhưng dù đổi thay thế nào, cây vẫn sẽ nguyên vẹn là cây anh đào…”. Rồi vòng tròn cuộc sống lẫn xã hội ấy sẽ được lặp lại, lặp đi và lặp lại lần nữa. Nhưng đó chỉ là chúng ta đang bức bối mà thôi, còn đối với họ đó là một sự lựa chọn hoàn toàn tự nguyện và viên mãn. Cảnh phim kết thúc với nụ cười trong trẻo của Mùi, thì ta vẫn có thể gọi đó là một kết thúc có hậu chứ, đúng không?. Một bộ phim đẹp tới từng khung hình, Sài Gòn những năm ấy chỉ gói gọn trong lối sinh hoạt của một gia đình mà đủ để hiểu được ngày ấy họ đã sống và có những chuẩn mực ra sao. Nhịp phim nhẹ nhàng, cốt truyện không có cao trào cũng chẳng có gì gọi là điểm nhấn đặc sắc, bởi những thứ cần chú ý nó đã xuất hiện ngay từ những giây đầu tiên rồi. Theo cá nhân mình nghĩ… Khi Mùi cắt xuống quả đu đủ xanh để làm cơm cho gia đình người chủ, quả vẫn còn non, còn xanh, chưa kịp chín và từng dòng nhựa từ vết cắt trên cành cứ thay nhau chảy xuống. Như chính sự đượm buồn trong chính những người phụ nữ trẻ tuổi, chôn vùi thanh xuân và để từng giọt sự sống xuân thì của mình trôi qua trong vô nghĩa mà họ không hề hay biết.
Mùi đu đủ xanh
Mùi đu đủ xanh (tiếng Pháp: L Odeur de la papaye verte; tiếng Anh: The Scent of Green Papaya) là phim điện ảnh nói tiếng Việt năm 1993, được sản xuất tại Pháp của đạo diễn nổi tiếng người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng, có sự tham gia của Trần Nữ Yên Khê, Lư Mẫn San và Trương Thị Lộc. Bộ phim đã đoạt giải camera vàng tại Liên hoan phim Cannes 1993, một giải César cho phim đầu tay hay nhất và được đề cử cho giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 66, giúp nó trở thành bộ phim nói tiếng Việt đầu tiên và duy nhất cho đến nay từng nhận được đề cử Oscar. Mùi đu đủ xanh là bộ phim đầu tay của Trần Anh Hùng và có sự tham gia của vợ anh, nữ diễn viên Trần Nữ Yên Khê. Phim cũng là sự hợp tác đầu tiên của vị đạo diễn họ Trần với nhà soạn nhạc người Việt Tôn Thất Tiết, người sau này cũng viết nhạc cho hai bộ phim khác của Trần Anh Hùng là Xích lô và Mùa hè chiều thẳng đứng.
Bình đẳng giới là thuật ngữ không mấy xa lạ trong xã hội hiện đại ngày nay. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu khái niệm bình đẳng giới là gì và những thông tin xoay quanh nó. Trong hầu hết các xã hội, khi đề cập đến đàn ông hay phụ nữ không chỉ đơn giản là vấn đề về các đặc điểm sinh học và thể chất khác nhau. Đàn ông và phụ nữ phải đối mặt với những kỳ vọng khác nhau về cách họ nên ăn mặc, cư xử hoặc làm việc. Quan hệ giữa nam và nữ dù trong gia đình, nơi làm việc hay nơi công cộng cũng phản ánh sự hiểu biết về tài năng, đặc điểm và cách cư xử phù hợp với phụ nữ và nam giới. Do đó, giới tính mang bản chất xã hội và văn hóa hơn là bản chất sinh học. Các thuộc tính và đặc điểm về giới bao gồm sự khác nhau, vai trò của nam giới và phụ nữ và những kỳ vọng đặt vào họ rất khác nhau giữa các xã hội và chúng thay đổi theo thời gian. Bình đẳng giới là khi mọi người thuộc mọi giới tính đều có quyền, trách nhiệm và cơ hội như nhau. Mọi người đều bị ảnh hưởng bởi sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới, những người chuyển giới và đa dạng giới, trẻ em và gia đình. Nó ảnh hưởng đến mọi người ở mọi lứa tuổi và hoàn cảnh. Bình đẳng giới ngăn chặn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái và nó cần thiết cho sự thịnh vượng kinh tế. Các quốc gia, xã hội coi trọng phụ nữ và nam giới như nhau sẽ an toàn và lành mạnh hơn. Đây là một quyền của con người và mọi người đều được hưởng lợi từ bình đẳng giới. Bình đẳng giới là quá trình công bằng cho phụ nữ và nam giới. Để đảm bảo sự công bằng thì các chiến lược và biện pháp thường phải có sẵn để bù đắp cho những bất lợi về lịch sử và xã hội của phụ nữ. Chúng khiến phụ nữ và nam giới không thể hoạt động trên một xã hội công bằng dẫn đến bình đẳng. Bình đẳng giới đòi hỏi phụ nữ và nam giới được hưởng bình đẳng về hàng hóa, cơ hội, nguồn lực và phần thưởng có giá trị xã hội. Ở những nơi tồn tại bất bình đẳng, phụ nữ thường bị loại trừ hoặc bị thiệt thòi trong việc ra quyết định và tiếp cận các nguồn lực kinh tế và xã hội. Do đó, một khía cạnh quan trọng của thúc đẩy bình đẳng là trao quyền cho phụ nữ. Trong đó tập trung vào việc xác định và khắc phục sự mất cân bằng quyền lực và trao cho phụ nữ quyền tự chủ nhiều hơn trong việc quản lý cuộc sống của họ. Khái niệm này không có nghĩa là nam và nữ trở nên giống nhau mà nó chỉ ra rằng khả năng tiếp cận các cơ hội và thay đổi cuộc sống không phụ thuộc và cũng không bị ràng buộc bởi giới tính của họ. Để đạt được bình đẳng đòi hỏi sự trao quyền của phụ nữ, đảm bảo rằng việc ra quyết định giữa công tư và tiếp cận các nguồn lực không còn nghiêng về phía nam giới. Để cả phụ nữ và nam giới đều có thể tham gia bình đẳng như những đối tác bình đẳng trong đời sống sản xuất và sinh sản. Quan tâm đến giới khi triển khai, thực hiện các chương trình dân số và phát triển là rất quan trọng vì hai lý do. Thứ nhất, có sự khác biệt giữa vai trò của nam giới và phụ nữ, sự khác biệt đòi hỏi các cách tiếp cận khác nhau. Thứ hai, có sự bất bình đẳng mang tính hệ thống giữa nam và nữ. Nhìn chung, có những vấn đề rõ ràng về khả năng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội của phụ nữ thấp hơn. Hơn nữa, phụ nữ không được đại diện một cách có hệ thống trong các quá trình ra quyết định hình thành xã hội và cuộc sống của họ. Hình thái bất bình đẳng này là một hạn chế đối với sự tiến bộ của bất kỳ xã hội nào vì nó hạn chế cơ hội phát triển của một nửa dân số. Khi phụ nữ bị hạn chế phát huy hết tiềm năng của mình, tiềm năng đó sẽ bị mất đi đối với toàn xã hội. Lồng ghép giới là một chiến lược để lồng ghép các mối quan tâm về giới trong phân tích, xây dựng và giám sát các chính sách, chương trình và dự án. Do đó, nó là một phương tiện để kết thúc, chứ không phải là một sự kết thúc một quá trình cũng không phải một mục tiêu. Mục đích của lồng ghép giới là thúc đẩy bình đẳng và trao quyền cho phụ nữ trong các hoạt động dân số và phát triển. Điều này đòi hỏi phải giải quyết cả tình trạng bệnh tật cũng như vị trí của phụ nữ và nam giới trong xã hội. Do đó, lồng ghép giới nhằm mục đích tăng cường tính hợp pháp của các giá trị bình đẳng giới. Bằng cách giải quyết các chênh lệch và khoảng cách giới đã biết trong các lĩnh vực như phân công lao động giữa nam và nữ, tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, tiếp cận các dịch vụ, thông tin và cơ hội, phân phối quyền lực và ra quyết định. Trong một số trường hợp, phân tích giới trước khi thiết kế và phát triển chương trình cho thấy sự bất bình đẳng nghiêm trọng đòi hỏi phải có chiến lược ban đầu về các can thiệp dành riêng cho giới tính. Tuy nhiên, những can thiệp cụ thể về giới như vậy vẫn nên nhằm mục đích giảm bớt sự chênh lệch giới đã xác định. Bằng cách tập trung vào mục tiêu bình đẳng hoặc bất bình đẳng hơn là nam hoặc nữ như một nhóm mục tiêu. Về bản chất, khái niệm này là gắn liền với phát triển bền vững và có ý nghĩa sống còn đối với việc thực hiện quyền con người cho tất cả mọi người. Mục tiêu tổng thể của bình đẳng giới là một xã hội trong đó phụ nữ và nam giới được hưởng các cơ hội, quyền và nghĩa vụ như nhau trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Bình đẳng giữa nam và nữ tồn tại khi cả hai giới có khả năng chia sẻ bình đẳng trong việc phân phối quyền lực và ảnh hưởng. Có cơ hội bình đẳng về độc lập tài chính thông qua công việc hoặc thông qua thành lập doanh nghiệp. Được tiếp cận bình đẳng với giáo dục và có cơ hội phát triển tham vọng, sở thích và tài năng cá nhân. Được chia sẻ trách nhiệm với gia đình và trẻ em và hoàn toàn không bị ép buộc, đe dọa và bạo lực trên cơ sở giới cả tại nơi làm việc và gia đình. Bình đẳng giới là rất quan trọng vì nó sẽ cho phép phụ nữ và nam giới đưa ra các quyết định có tác động tích cực hơn đến sức khỏe tình dục và sinh sản của họ cũng như của vợ chồng và gia đình của họ. Việc ra quyết định đối với các vấn đề như tuổi kết hôn, thời điểm sinh con, sử dụng các biện pháp tránh thai cần được cải thiện cùng với việc đạt được bình đẳng giới. Tuy nhiên, điều quan trọng cần thừa nhận là ở những nơi tồn tại bất bình đẳng, phụ nữ nói chung là những người bị loại trừ hoặc bị thiệt thòi trong quá trình ra quyết định và tiếp cận các nguồn lực kinh tế và xã hội. Do đó, một khía cạnh quan trọng của việc thúc đẩy bình đẳng giới là trao quyền cho phụ nữ, trong đó tập trung vào việc xác định và khắc phục sự mất cân bằng quyền lực. Việc đạt được bình đẳng giới bao hàm những thay đổi đối với cả nam và nữ. Các mối quan hệ bình đẳng hơn sẽ cần dựa trên việc xác định lại các quyền và trách nhiệm của phụ nữ và nam giới trong mọi lĩnh vực của cuộc sống bao gồm cả gia đình, nơi làm việc và xã hội nói chung. Bởi vì xu hướng coi các đặc điểm và thuộc tính của nam giới là chuẩn mực, còn của nữ giới là một biến thể của chuẩn mực. Nhưng cuộc sống của nam giới cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của giới tính như của nữ giới. Các chuẩn mực xã hội và quan niệm về nam tính là sự kỳ vọng với tư cách là người lãnh đạo, người chồng hoặc người con trai tạo ra nhu cầu đối với nam giới và hình thành hành vi của họ. Đàn ông thường quá tập trung vào nhu cầu vật chất của gia đình hơn là vai trò nuôi dưỡng và chăm sóc được giao cho phụ nữ. Xã hội hóa trong gia đình, sau đó là trong trường học đã thúc đẩy hành vi chấp nhận ở nam thanh niên. Cuối cùng điều này thường được củng cố thông qua áp lực của bạn bè và định kiến của phương tiện truyền thông. Vì vậy, lối sống mà nam giới yêu cầu đóng vai trò quan trọng thường dẫn đến việc họ phải đối mặt với nhiều nguy cơ mắc bệnh và tử vong hơn phụ nữ. Những rủi ro này bao gồm những rủi ro liên quan đến tai nạn, bạo lực và uống rượu bia. Nam giới cũng có quyền đảm nhận vai trò nuôi dưỡng nhiều hơn và cần có các cơ hội để họ làm điều đó để họ phát huy và trở thành thói quen. Tuy nhiên, nhìn theo một cách bình đẳng nam giới cũng có trách nhiệm liên quan đến sức khỏe trẻ em, sức khỏe sinh sản và tình dục của chính họ cũng như bạn tình của họ. Giải quyết các quyền và trách nhiệm này đòi hỏi phải nhận ra các vấn đề sức khỏe cụ thể của nam giới, cũng như nhu cầu của họ và các điều kiện hình thành chúng. Việc chấp nhận quan điểm về giới là bước đầu tiên quan trọng vì nó cho thấy có những bất lợi và chi phí đối với nam giới do các hình thái khác biệt về giới tính. Nó cũng nhấn mạnh rằng bình đẳng giới không chỉ quan tâm đến vai trò, trách nhiệm, nhu cầu của phụ nữ và nam giới mà còn liên quan đến mối quan hệ giữa họ. Nói cho cùng việc bình đẳng giới nên được áp dụng nhanh và thật nhiều ở các quốc gia và xã hội trên thế giới. Chúng không những liên quan đến quyền con người mà còn là sự phát triển sống còn của cả xã hội, quốc gia và thế giới. Bình đẳng giới làm sao để nam giới có thể hiểu rõ và chấp nhận chúng như một chân lý và đây là lẽ thường tình. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét.
Bình đẳng giới
Khái niệm bình đẳng giới ngụ ý rằng nam giới và nữ giới cần nhận được những đối xử bình đẳng trong tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội và nhân quyền quyền con người như: giáo dục, y tế, văn hóa, hôn nhân, gia đình, việc làm, các chính sách phúc lợi. Đây là một chiến lược được Liên Hiệp quốc theo đuổi trong việc xây dựng, thực hiện, giám sát và đánh giá các chính sách để đạt mục tiêu cuối cùng là nữ giới và nam giới được bình đẳng với nhau về pháp lý. Khái niệm này dựa trên Tuyên bố Liên Hợp Quốc về Nhân quyền, với mục tiêu cơ bản là nhằm cung cấp sự bình đẳng về mặt luật pháp cũng như bình đẳng trong vị thế xã hội, quyền bình đẳng trước pháp luật, đặc biệt là trong hoạt động bầu cử và bảo đảm trả lương công bằng giữa nam và nữ. Một ví dụ điển hình là Tu chính án Quyền Bình đẳng ở Hoa Kỳ. Hiện nay, một số tờ báo hoặc chương trình dùng khái niệm "Giới tính thứ 3" để chỉ người đồng tính luyến ái.
Ngủ ngáy hay còn gọi là ngáy khi ngủ, là triệu chứng vùng họng sau bị hẹp lại trong khi ngủ. Khi người ngủ hít thở, một lượng khí vào, nhưng do đi qua một vùng hẹp hơn làm các niêm mạc mô xung quanh rung lên tạo nên một loại âm thanh mà người ta gọi đó là ngáy. Vùng hẹp đó có thể ở vùng mũi, miệng hoặc là họng. Cấp độ 1: ngáy ít, tiếng ngáy không to và khi đổi tư thế nằm nghiêng sẽ ngừng ngáy. Cấp độ 2: ngáy vừa phải, âm thanh to hơn và khi nằm ngủ ở tư thế nghiêng sẽ hết ngáy. Cấp độ 3: ngáy rất to ở mọi tư thế nằm ngủ và kèm theo triệu chứng nghẹt thở nhất thời, khiến người ngáy tỉnh giấc với trạng thái mệt mỏi. Mức độ này có thể gọi là mức độ nguy hiểm. Cơ địa mỗi người là khác nhau vậy nên nguyên nhân gây nên triệu chứng này cũng khác nhau. Bây giờ chúng ta cùng tìm hiểu những nguyên nhân chính và phổ biến nhất nhé!. – Khi bạn uống rựu, thứ nhất là sẽ ảnh hưởng đến các dây thần kinh trung ương, làm cho các cơ trong cơ thể bạn phản ứng chậm hơn bình thường. Cho nên khi bạn ngủ trong tình trang say xỉn, thì cơ cổ họng bạn hoạt động không hiệu quả do thần kinh trung ương bị ảnh hưởng bởi rượu và làm cho cơ cổ họng hẹp đi và khi bạn thở sẽ gây ra âm thanh( ngáy ngủ ). – Thứ 2 là rượu làm giảm hoạt động của lưỡi. Bạn biết đấy khi bạn say rượu, bạn sẽ hoàn toàn không biết gì vì hệ thần kinh đã bị tác động, các cơ trong cơ thể bạn cũng thế và lưỡi là một trong số đó. Khi lưỡi không hoạt động bình thường sẽ ngăn cản đường hô hấp của bạn, gây ra âm thanh khi bạn thở. Khi bạn tăng cân thì mọi bộ phận từ đầu tới chân của bạn đều to ra và đặc biệt nhất là vùng cổ. Vùng cổ to ra làm các mô bên trong cổ họng to ra, từ đó nó chắn đường đi của hơi thở, gây ra ngáy. Nghẹt mũi cũng gây ra ngủ ngáy đó nhé! Nghẹt mũi hoặc đường thở trong mũi bị tắc: nhiều người chỉ ngáy theo mùa, trong thời gian họ bị một loại dị ứng nhất định, viêm xoang hoặc viêm mũi dị ứng. Những tình trạng biến dạng về mũi như lệch vách ngăn (sự sai khác về mặt vị trí của bộ phận ngăn cách lỗ mũi này với lỗ mũi kia) hoặc các chứng viêm mãn tính trong khoang mũi cũng có thể gây tắc nghẽn đường thở. Khói thuốc lá sẽ kích thích niêm mạc mũi và cổ họng của bạn, khiến cho chúng bị sưng và viêm. Điều này có thể dẫn đến tắc nghẽn mũi và đường hô hấp hẹp, cả 2 đều có thể gây ra bệnh ngáy. Khi bạn ngáy, đường thở của bạn bị tắc nghẽn một phần hoặc hoàn toàn. Hiện tượng này giảm lượng không khí cung cấp vào phổi, làm giảm độ bão hòa oxy máu, sau đó là gây dừng thở. Khi đó giấc ngủ của bạn sẽ bị xáo trộn và cơ thể bạn không nhận được lượng không khí cần thiết. Lâu lần, khi những rối loạn diễn ra liên tục sẽ gây ra chứng ngưng thở khi ngủ, khiến giấc ngủ không ngon và thời kỳ ngủ say bị ngắt quãng. Hậu quả là bộ não không nghỉ ngơi hoàn toàn sau một ngày hoạt động, khiến người bạn trở nên bần thần, mệt mỏi. Cùng với đó, sóng điện não bị xáo trộn, làm bạn bị giảm trí nhớ, năng suất làm việc, khó tập trung và ngủ gật ban ngày. – Nguy hiểm hơn, chứng ngưng thở khi ngủ làm gia tăng nguy cơ đột tử trong đêm và các bệnh như cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, đau nửa đầu, suy giảm khả năng tình dục và giảm sút tuổi thọ. Triệu chứng ngáy ngủ tưởng chừng như đơn giản nhưng thật sự quá nguy hiểm phải không mọi người? Sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn 9 bước chữa ngáy ngủ nhé! Cùng theo dõi tiếp nào. Hãy đứng lên vận động, tìm cho mình 1 cơ thể săn chắc. Bạn có biết những người có cơ bắp săn chắc thì rất ít khi ngáy. Vì vậy nếu bạn bảo đảm mình có một thân hình gọn gàng, khỏe mạnh, kể cả các cơ bắp ở lưỡi và cổ thì đường hô hấp trên sẽ thông, không phát ra tiếng ngáy khi ngủ. Nước ấm sẽ cung cấp độ ẩm cho cổ họng, làm hạn chế sự ma sát của không khí với vùng niêm mạc họng từ đó làm giảm âm thanh ngáy. Với 1 ly nước ấm bằng trà nóng như trà xanh, trà thảo mộc, trà hoa cúc giấc ngủ được thư giãn và sâu giấc hơn đấy!. Những người thiếu ngủ hoặc bị rối rất dễ ngáy. Nếu bạn có thói quen đi ngủ theo giờ giấc đều đặn thì cơ thể sẽ không lâm vào tình trạng quá mệt mỏi và giảm triệu chứng ngáy ngủ. Khi nằm ngửa thì lưỡi gà và quai hàm dưới của bạn sẽ sụp xuống làm cho đường họng hẹp, luồng không khí hít vào sẽ càng bị chèn ép và càng phát ra tiếng ngủ ngáy to hơn. Nhưng khi ngủ, cơ thể của chúng ta sẽ mất nhận thức không thể giữ dược tư thế ngủ nghiêng và lại xoay sang nằm ngửa, hãy nhờ “người cùng giường” với bạn hay ai đó xoay bạn nằm nghiêng trở lại. Nếu không nhờ ai được, thì chúng tôi có một mẹo nhỏ cho bạn. Đó là: bạn có thể đính một chiếc tất vào sau cổ áo, lấy một quả bóng tennis luồn vào tất túm lại để làm vật cản giúp bạn khỏi xoay ngửa ra. Nếu bạn dùng những loại thuốc này sẽ làm cơ bắp bị thư giãn quá mức, khiến các ống khí quản xẹp xuống, hẹp lại – dễ tạo ra tiếng ngáy khi ngủ. Người hay uống rượu và hút thuốc trước khi ngủ là người có nguy cơ mắc ngủ ngáy rất lớn. Vì chất kích thích trong rượu và thuốc dễ làm tổn thương vòm họng, sưng tấy niêm mạc từ đó gây ra tiếng ngáy ngủ. Thật sự rựu và thuốc lá hoàn toàn không hề có lợi cho cơ thể nên bạn nên hạn chế tuyệt đối. Phòng kín sẽ càng khiến cho bệnh ngủ ngáy của bạn ngày càng nặng hơn. Phòng thoáng khí giúp người ngủ khi ngủ dễ thở từ đó hạn chế tiếng gáy. Người ta thấy rằng cuống họng khô có khuynh hướng gây âm rung hơn là nếu có đủ độ ẩm. Một máy điều hòa độ ẩm (humidifier) có thể giúp miệng và họng của bạn đỡ bị khô khi ngủ. Giúp giảm tối đa hiện tượng ngáy ngủ. Chế độ ăn nhiều rau xanh và uống nhiều nước có khả năng làm cho vùng họng được chữa lành, cung cấp độ ẩm và giảm sưng tấy. Trong 9 bước chữa ngáy ngủ thì chế dộ ăn uống cũng cần được chú ý. Bởi vì thịt đỏ thường là một nguyên nhân gây nên ngủ ngáy vì thịt đỏ chứa nhiều chất béo bão hòa, nếu ăn nhiều có thể gây co thắt các động mạch gây viêm, sưng cổ họng. Bạn có thể thay thế thịt đỏ bằng cá để giảm tình trạng ngáy ngủ. Ngáy thường được xem là một “tật” gây khó chịu cho mọi người nhưng đó cũng là một biểu hiện của một chứng bệnh nghiêm trọng. Nếu bạn mới mắc triệu chứng này và đang ở mức độ nhẹ thì bạn hãy áp dụng 9 bước chữa ngáy ngủ này, bạn sẽ ngạc nhiên vì sự hiệu quả của nó đấy. Còn khi bạn ngáy ngủ mức độ 3 và kéo dài lâu năm kèm theo những triệu chứng xấu khác thì nên tìm đến các chuyên gia y tế để tham vấn và tìm phương pháp khắc phục để có một sức khỏe tốt nhất nhé!. Thực phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.Tác dụng tùy thuộc vào cơ địa của mỗi người.
Ngủ ngáy
Ngủ ngáy hay còn gọi là ngáy khi ngủ, là triệu chứng xảy ra trong lúc ngủ: vùng họng sau bị hẹp lại. Khi người ngủ hít thở, một lượng khí vào, nhưng do đi qua một vùng hẹp hơn làm các niêm mạc mô xung quanh rung lên tạo nên một loại âm thanh mà người ta gọi đó là ngáy. Vùng hẹp đó có thể ở vùng mũi, miệng hoặc là họng. Những âm thanh này thường gây khó chịu cho những người xung quanh, tuy nhiên người ngủ ngáy lại thường không nghe và biết việc đó. Theo cuộc nghiên cứu trên 2.000 người tại Canada có khoảng hơn 70% là nam giới ngáy khi ngủ và hơn 50% là nữ giới.
1 Năng lượng điện hạt nhân là gì?1.1 Về nguồn gốc1.2 Về cơ chế hoạt động. 2 Đặc điểm chung của lò phản ứng điện hạt nhân 2.1 Cơ chế hoạt động chung2.2 Sự biến đổi năng lượng2.3 Nhiệm vụ lò phản ứng hạt nhân. Tên gọi khác chính là năng lượng nguyên tử. Bạn đã được học và tìm hiểu thông qua chương trình vật lý THPT. Đây là một loại công nghệ hạt nhân nhằm tách năng lượng hữu ích của nguyên tử từ các lò phản ứng. Hiện nay chúng được ứng dụng vào lĩnh vực quân sự, điều trị bệnh và nhiều hoạt động sản xuất khác. Enrico Fermi là cha đẻ của điện hạt nhân khi phát hiện thành công vào năm 1934. Năm 1942, lò phản ứng đầu tiên tại Hoa Kỳ được ra đời. Việc tiến hành làm giàu Urani cũng được tiến hành làm song song và đồng thời trong cùng giai đoạn này. Các hoạt động nghiên cứu điện hạt nhân nhằm phục vụ hoạt động quân sự phát triển mạnh vào thể chiến thứ 2. Lúc này, có nhiều luồng quan điểm trái chiều về việc phát triển hay mở rộng. Có thể thấy nguyên lý hoạt động của nhà máy điện hạt nhân khá tương đồng với nhà máy nhiệt điện. Nếu nhà máy điện dùng nguyên liệu hóa thạch nhằm tạo ra điện thì nhà máy điện hạt nhân dùng năng lượng tuwfp hản ứng phân hạch hạt nhân. Hiện nay, các lò phản ứng điện hạt nhân đều là dạng lò phản ứng nước nhẹ. Các dạng cơ bản gồm:. Về đặc điểm, dạng lò phản ứng này sử dụng nước thường làm chất làm lạnh và điều hòa nơ-tron. Chúng được biến đổi qua từng giai đoạn khác nhau. Từ năng lượng hạt nhân thành nhiệt lượng. Một phần được chuyển đổi thành nội năng và một phần được trở thành hơi nước. Cuối cùng, chúng trở thành điện năng để sử dụng năng lượng. Năng lượng thu được từ quá trình phân hạch nhiên liệu hạt nhân tạo ra hiệu suất của lò phản ứng. Chúng chuyển hóa thành cơ năng thông qua các tuabin. Và nhờ máy phát điện chuyển đổi thành cơ năng. Trong đó lò phản ứng hạt nhân dùng để xử lý phân hạch nguyên tử. Từ đó tạo ra nhiều nhiệt lượng. Quà trình này được diễn ra tuần tự bởi sự ảnh hưởng của từng cơ chế. Theo đó, hơi nước thoát ta khỏi tòa nhà ngăn chặn áp suất cao. Cho tới khi đên tuabin chúng là tuabin quay. Trong đó, một phần chuyển hóa thành động năng. Từ đó chuyển hóa động năng thành điện năng. Khi hơi nước thoát ra khỏi tuabin, chúng bị mất nhiệt lượng nhưng vẫn tồn tại ở thể khí và ẩm. Để tiếp tục xử dụng cần làm lạnh trước khi quay trở lại chu trình cũ trước đó. Đây là điều các nhà máy điện hạt nhân cần đặt gần nguồn nước lạnh. Chúng khiến việc tạo ra điện năng dễ thực hiện hơn. Bạn đã từng nghe đến khái niệm áp suất chân không. Tuy nhiên còn cảm thấy đây là thuật ngữ xa lạ. Vậy thực tế áp suất chân không là gì? Các bạn hãy cập nhật ngay bài viết sau đây để hiểu hơn về khía cạnh này nhé. Đặc biệt tìm hiểu thêm về…. Hiện nay nhu cầu sử dụng dầu thủy lực trong công nghiệp ngày một lớn. Vậy thực tế dầu thủy lực là gì? Sản phẩm này có tác dụng và được phân loại như thế nào? Đặc biệt, cách chọn mua dầu thủy lực hiệu quả nhất hiện nay là gì? Mời quý vị tìm…. Biến tần là thiết bị điện quan trọng, ứng dụng nhiều trong hệ thống lưới điện công nghiệp và dân dụng. Trong bài viết này, quý khách sẽ được biết về khái niệm, các loại biến tần thông dụng. Cùng thietbikythuat tìm hiểu ngay trong bài viết bên dưới nhé!. Cảm biến đo mức nước HLM-25S là một thiết bị đo mức nước dựa vào nguyên lý chênh. Cảm biến mực nước hay còn gọi là thiết bị cảm biến đo mực nước là một công. Trong kỹ thuật điện, cảm biến dòng điện là một trong những kỹ thuật được sử dụng để. Cảm biến áp suất dùng để đo áp suất với rất nhiều loại khác nhau với các ứng. Bộ phát dòng 4-20mA, 0-20mA, 0-10V được xem là một thiết bị không thể thiếu trong các nhà.
Năng lượng hạt nhân
Năng lượng hạt nhân hay năng lượng nguyên tử là một loại công nghệ hạt nhân được thiết kế để tách năng lượng hữu ích từ hạt nhân nguyên tử thông qua các lò phản ứng hạt nhân có kiểm soát. Phương pháp duy nhất được sử dụng hiện nay là phân hạch hạt nhân, mặc dù các phương pháp khác có thể bao gồm tổng hợp hạt nhân và phân rã phóng xạ. Tất cả các lò phản ứng với nhiều kích thước và mục đích sử dụng khác nhau đều dùng nước được nung nóng để tạo ra hơi nước và sau đó được chuyển thành cơ năng để phát điện hoặc tạo lực đẩy. Năm 2007, 14% lượng điện trên thế giới được sản xuất từ năng lượng hạt nhân. Có hơn 150 tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân và một vài tên lửa đồng vị phóng xạ đã được sản xuất. Phản ứng phân hạch hạt nhân được Enrico Fermi thực hiện hành công vào năm 1934 khi nhóm của ông dùng neutron bắn phá hạt nhân uranium. Năm 1938, các nhà hóa học người Đức là Otto Hahn và Fritz Strassmann, cùng với các nhà vật lý người Úc Lise Meitner và Otto Robert Frisch cháu của Meitner , đã thực hiện các thí nghiệm tạo ra các sản phẩm của urani sau khi bị neutron bắn phá.
Nhiều người thắc mắc Chiêm bao mơ thấy máy khâu là số mấy? đánh số đề con gì? bài viết hôm nay sẽ giải đáp điều này. máy khâu hay máy may là một cỗ máy được sử dụng để may vải và các vật liệu khác nhau bằng chỉ. Máy khâu được phát minh trong giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ nhất để giảm công việc may mặc phải thực hiện trong các công ty quần áo. Kể từ khi phát minh ra máy may đầu tiên, thường được coi là phát minh của Thomas Saint (người Anh) năm 1790, máy may đã được cải thiện đáng kể hiệu quả và năng suất của ngành công nghiệp quần áo. Máy khâu tại nhà được thiết kế cho một người để may các đồ cá nhân trong khi sử dụng một loại chỉ khâu duy nhất. Trong một máy may hiện đại vải dễ dàng vào và ra khỏi máy mà không có sự bất tiện của kim và các công cụ khác như sử dụng trong khâu tay, tự động hoá quá trình khâu và tiết kiệm thời gian. Máy may công nghiệp, tương phản với máy dùng trong gia đình, lớn hơn, nhanh hơn, và đa dạng hơn trong kích thước, chi phí, hình thức, và khả năng. Việc mơ thấy máy khâu do tâm linh đôi khi cũng được nhiều người quan tâm, điều này cũng nói lên điều những người cõi trên đang âm thầm báo mộng cho bạn sắp gặp phải điều gì đó, đôi khi có thể là xui xẻo hoặc may mắn. Tuy nhiên, trong số đề có những con số liên quan đến việc mơ thấy máy khâu đôi khi cũng mang lại lợi ích ít nhiều cho chủ thế, nhưng không nên quá lạm dụng mà ảnh hưởng đến bản thân quá nhiều. Nếu còn câu hỏi khác hãy gửi cho chúng tôi, chúng tôi sẽ giải đáp điều này.
Máy khâu
Một máy khâu hay máy may là một cỗ máy được sử dụng để may vải và các vật liệu khác nhau bằng chỉ. Máy khâu được phát minh trong giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ nhất để giảm công việc may mặc phải thực hiện trong các công ty quần áo. Kể từ khi phát minh ra máy may đầu tiên, thường được coi là phát minh của Thomas Saint (người Anh) năm 1790, máy may đã được cải thiện đáng kể hiệu quả và năng suất của ngành công nghiệp quần áo. Máy khâu tại nhà được thiết kế cho một người để may các đồ cá nhân trong khi sử dụng một loại chỉ khâu duy nhất. Trong một máy may hiện đại vải dễ dàng vào và ra khỏi máy mà không có sự bất tiện của kim và các công cụ khác như sử dụng trong khâu tay, tự động hoá quá trình khâu và tiết kiệm thời gian. Máy may công nghiệp, tương phản với máy dùng trong gia đình, lớn hơn, nhanh hơn, và đa dạng hơn trong kích thước, chi phí, hình thức, và khả năng.
Gia cầm là loài vật gồm có 2 chân, có nhiều lông vũ. Người ta nuôi gia cầm chủ yếu để lấy thịt và trứng. Thực phẩm này có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. Gia cầm nói chung là các loài động vật có cánh, được con người nuôi nhốt để phát triển kinh tế. Sau một thời gian sẽ thu hoạch được sản phẩm như trứng, thịt hoặc lông vũ. Đây đều là các sản phẩm nông nghiệp đem lại nguồn thu nhập ổn định cho người nông dân. Gia cầm hiện nay có rất nhiều loài cực kỳ phong phú. Chúng phần lớn là các loài chim được thuần hóa mang đi nuôi phục vụ nhu cầu về thịt, trứng hay lông. Một số loại gia cầm phổ biến như gà, vịt, ngan, ngổng, thậm chí cả bồ câu. Tuy nhiên với những loài chim hoang dã chưa được thuần hóa thì không được tính. Các loài sống ở cả môi trường nước và trên cạn được phân vào nhóm thủy cầm. Một số loài gia cầm được nuôi nhằm mục đích làm cảnh hay giải trí như gà lôi hoặc gà chọi. Trước đây gia cầm chưa được thuần hóa chúng có hình dạng, đặc điểm… khác hoàn toàn so với bây giờ. Lúc đó con người chưa biết tận dụng những giá trị dinh dưỡng chúng mang lại. Khi được thuần hóa, con người đã sử dụng gia cầm như một nguồn thức ăn hữu ích và dần dần chuyển sang chăn nuôi, thu lại lợi nhuận từ chúng. Ngày nay việc chọn lọc và nhân giống ngày càng chuyên nghiệp hơn. Nhờ vậy mà gia cầm được chăm sóc chăn nuôi có hệ thống với kỹ thuật bài bản. Chất lượng các sản phẩm từ sữa, thịt, trứng được nâng cao hơn. Theo nghiên cứu của ngành chăn nuôi, gia cầm là loại thịt được tiêu thụ với số lượng rất lớn tại Việt Nam hàng năm, chiếm 80%. Nhiều người vẫn nhầm lẫn chim là một loài gia cầm. Những thực tế thì không phải vậy. Theo đúng như trên, gia cầm phải là động vật được nuôi nhốt, được thuần hóa phục vụ cho mục đích của con người. Do vậy có những loài chim có thể thuộc nhóm gia cầm. Những đa số không thuộc nhóm gia cầm như mọi người vẫn lầm tưởng. Theo khoa học, chim thuộc vào nhóm điểu cẩm. Dó là các loài động vật có cánh biết bay hoặc là không biết bay. Nhưng điểm đặc biệt đó là nó không thuần hóa được để phục vụ mục đích của con người. Ví dụ như đà điểu chẳng hạn. Chúng tuy bị nuôi nhốt nhưng không bị thuần hóa để có sự khác biệt so với tổ tiên. Chúng vẫn giữ nguyên các tập tính vốn có của chúng. Một số loài chim có thể coi là gia cầm. Ví dụ như bồ câu. Chúng được con người nuôi nốt và chăm sóc để thu hoạch lấy thịt, lấy chúng. Bồ câu được con người thuần hóa, phù hợp với từng điều kiện chăn nuôi. Gia súc khác với gia cầm. Gia súc là một tập hợp các động vật 4 chân, có vú. Chúng cũng được con người thuần hóa và nuôi nhốt, nhân giống. Với mục đích thu hoạch sữa, thịt, da, lông,…. Hay được sử dụng như một công cụ phục vụ lao động. Ví dụ như bò, trâu, ngựa kéo,…. Theo đó, gia súc là những loài đông vật quen thuộc trong cuộc sống của mỗi con người. Ngành chăn nuôi gia súc là 1 ngành quan trong trong nông nghiệp. Đem lại thu nhập ổn định cho bà con. Để phân biệt gia cầm với gia súc. Đơn giản nhất đó là số lượng chân của chúng. Gia cầm đặc trưng với 2 chân và có cánh. Còn gia súc thì có 4 chân. rất quan trọng trên thế giới. Mỗi năm, con người có thể tiêu thụ gần 100 tỷ. Gà được thuần hóa từ giống gà rừng biết bay. Khi được con người nuôi chúng. Gà trống sở hữu màu lông sặc sỡ hơn con cái, đặc biệt chúng thường gáy o ó o vào mỗi buổi sớm. Gà mái có thân hình mũm mĩm hơn, bên cạnh cung cấp thịt, lông chúng còn đẻ trứng. Gà dễ nuôi, chăm sóc lại thích nghi được ở nhiều môi trường sống khác nhau. Về thức ăn, gà là gia cầm ăn tạp thường bới đất tìm giun, sâu bọ, các loại hạt để ăn. Ngoài ra còn ăn cám, gạo, thóc, ngô…. Ngày nay gà được công nghiệp hóa, ở các thành phố lớn gà công nghiệp được sử dụng rất nhiều. Thịt gà công nghiệp không được thơm ngon và chắc như gà ở vùng nông thôn. Bởi gà công nghiệp ăn cám và bột là chủ yếu. Ngoài giống gà công nghiệp, còn rất nhiều giống gà khác đem lại kinh tế cao, chất lượng thịt tốt. Ví dụ như gà ta, gà Đông Tảo, gà mía,…. Đây là giống gà đặc sản ở vùng Đông Tảo, thuộc Hưng Yên. Giống gà gia cầm này nổi tiếng với đôi chân gà to, chắc, và hàm lượng dinh dưỡng cao. Giá trị của một con gà Đông Tảo phụ thuộc vào đôi chân của nó. Chân càng to, xù xì, thì giá càng cao. Do đó, chăn nuôi gà Đông Tảo đem lại lợi ích kinh tế cao cho bà con. Giống gà ta được chăn nuôi nhiều ở các vùng nông thôn. Vì ưu điểm dễ nuôi, khả năng kháng bệnh tốt và đặc biệt thịt săn, chắc, ngọt,… Gà ta thường được ưu tiên lựa chọn trong các dịp cỗ, lễ tết,…. Mô hình chăn nuôi gà ta cũng khá là đơn giản. Bà con có thể nuôi gà ta thả vườn, hoặc nuôi tập trung với mật độ cao. Mỗi mô hình đem lại những lợi ích riêng biệt. Hiện nay giá gà đang ổn định ở mức cao. Đối với gà ta, giá có thể dao động từ 80 tới 100 ngàn đồng/ 1kg. Còn đối vưới gà Đông Tảo bình quân là 1 triệu rưỡi tới 2 triệu cho 1 con gà 2-3 kg với đôi chân bình thường. Những con gà đôi chân to đẹp giá có thể lên tới chục triệu đồng 1 con. Vịt nhà được thuần hóa từ vịt rừng. Vịt rừng biết lặn sâu trong nước. và biết bay ở phạm vi rộng. Kích thước chúng nhỏ nhắn, lông có màu nâu, xanh sậm. Ngược lại vịt nhà nuôi thường béo mập, hiếm khi bay. Chúng thích sống ở môi trường. Vịt là loài chim có bộ lông dày, đẹp. Do vậy mà bên cạnh cung cấp nguồn thịt, trứng, lông vịt còn có giá trị kinh tế cao. Mỗi năm 1 con vịt có thể đẻ được 250 trứng. Trong khoảng 2 tháng chúng đạt cân nặng là 5kg. Trên thế giới, vịt được nuôi rộng rãi ở các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước có tỉ lệ nuôi vịt cực kỳ cao. Hiện tại thì giá vịt không quá cao. Dao động từ 40 tới 60 ngàn đồng/1kg tùy từng địa phương. Vì vịt chăn nhanh lớn, không tốn quá nhiều thức ăn nên giá hơi thấp người noogn dân vẫn không bị thiệt hại kinh tế quá nhiều. Thịt của loại gia cầm này có nhiều nạc, mềm. Mọi người thường thích ăn. thịt ngan hơn và ví thịt chúng như với thịt bê. Trung bình một con ngan mái khoảng. Ở vùng nông thôn, bà con nuôi ngan tập trung theo quy mô lớn. Loại ngan dễ nuôi, thức ăn của chúng cũng thường có sẵn trong tự nhiên. Các thức ăn thừa hàng ngày đều có thể làm thức ăn cho ngan. Do đó tiết kiệm được rất nhiều kinh tế. với bệnh tật rất cao nên tỉ lệ nuôi thành công lớn. Trên thị trường hiện nay ngỗng. có nhiều giống loài đa dạng với từng đặc điểm khác biệt. Ví dụ như ngỗng bạch. Thức ăn của ngỗng chủ yếu là rau củ quả tươi… Mặc dù sở hữu thân hình to nhưng ngỗng dùng lượng thức ăn rất ít. 1 ngày tiêu thụ chỉ khoảng 1kg rau xanh. Trứng ngỗng là sản phẩm được các bà bầu rất ưa chuộng. Không chỉ to mà còn chứa nhiều dinh dưỡng, tốt cho thai phụ và thai nhi. Do đó trứng ngỗng có giá trị kinh tế rất cao. Thịt ngỗng gần giống với thịt gà tây. Thịt thường thơm, dai và chắc. Không chỉ đem lại kinh tế từ thịt và trứng. Nhiều con ngỗng khá là thông minh, còn có thể đảm nhiệm vị trí canh giữ. Bồ câu là một trong những loại gia cầm quý, thịt của chúng rất giàu dinh dưỡng. Mỗi con trưởng thành có cân nặng từ 2 – 4kg. Nuôi, chăm sóc bồ câu đòi hỏi phải có kỹ thuật, kinh nghiệm nhất định. Như vậy mới thu lại năng suất như ý muốn, chim không bị dịch bệnh. Thịt bồ câu mềm, ngọt, nhiều người sử dụng thịt của chúng để hầm bổ điều trị được nhiều căn bệnh. Ví dụ như suy dinh dưỡng, đổ mồ hôi trộm, còi xương…. Trứng của bồ câu thường được giữ lại ấp làm giống. Vì mỗi đợt đẻ, bồ câu cái chỉ đẻ có 2 trứng. Và nếu chăm sóc chuẩn thì ít nhất phải sau 60 ngày thì chim bồ câu mới đẻ tiếp. Do số lượng trứng đẻ ít. Nên trứng chim bồ câu hiếm khi được sử dụng để bán phục vụ nhu cầu ăn uống. Tuy vậy, trứng chim bồ câu cũng rất tốt. Hàm lượng dinh dưỡng trong trứng cao hơn nhiều so với trứng gà ta. Một số giống chim bồ câu đẹp, thông minh còn được ưa chuộng nuôi để làm cảnh. Đó thường là một số giống bồ câu lai tạo nước ngoài, có bộ lông dẹp mắt. Ví dụ như lông vũ gà, lông đuôi được sử dụng làm thành chổi lông gà. Giúp quét phẩy bụi. Thường được lựa chọn trong dọn dẹp bàn tủ, ban thờ. Lông vịt, ngan được sử dụng trong công nghiệp may mặc. Sản xuất ra những chiếc áo lông vũ có giá trị cao. Năm 2019, thịt gà được tiêu thụ tăng lên gần 90 triệu tấn/năm. Các quốc gia đứng đầu trong dây chuyền sản xuất thịt gà lớn nhất gồm có: Trung Quốc, 17%, Mỹ 21%, Úc 16% và khối các nước Liên minh châu Âu là 13%. Còn đối với thịt vịt, năm 2019 sản lượng trên thế giới chiếm 5 triệu tấn/năm. Trung Quốc vẫn là quốc gia đứng vị trí trong top 1 sản xuất thịt vịt (1,8 tỷ con). Ngoài ra, một số quốc gia chăn nuôi và sản xuất số lượng gia cầm lớn phải kể đến Việt Nam, Myanmar, Hàn Quốc, Pháp…. Không chỉ đứng đầu trong chăn nuôi sản xuất thịt gà, vịt, Trung Quốc còn là nhà sản xuất, phân phối thịt ngỗng. Nổi bật với 96% thị phần tức là 2,8 triệu tấn trên toàn thế giới. Biện pháp làm tăng độ phì nhiều của đất, độ phì nhiêu của đất là. Tôi muốn tìm hiểu tài liêu và con giống cua đá ở lý sơn. Mong được sự giúp đỡ. Giá chó thịt 75k/kg. Cám 300k/ bao 25kg . Tiêm vacxin cho cả đàn 15con thì chả có đồng nào.
Gia cầm
Gia cầm là tên gọi chỉ chung cho các loài động vật có hai chân, có lông vũ, thuộc nhóm động vật có cánh được con người nuôi giữ, nhân giống nhằm mục đích sản xuất trứng, lấy thịt hay lông vũ. Những loài gia cầm điển hình gồm gà, vịt, ngan, ngỗng,. Các loài gia cầm có khả năng bơi, ưa thích sống trong môi trường nước thường được gọi là thủy cầm. Gia cầm cũng bao gồm các loài chim khác bị giết để lấy thịt, chẳng hạn như chim bồ câu, chim cút hoặc dùng là vật cảnh, giải trí như gà lôi hay gà chọi. Gia cầm là loài cho sản phẩm thịt làm thực phẩm cho con người phổ biến nhất trên thế giới, chiếm khoảng 30% sản phẩm thịt trên toàn thế giới, đặc biệt là thịt gà (đứng đầu vẫn là thịt lợn với 38%). Một số loại gia cầm thông dụng như: Gà: Gồm có gà tây nhà, gà ta, gà ri, gà sao, gà ác, gà Tam hoàng, gà Đông Tảo, gà Tò, gà Sultan, các loại vịt, vịt cỏ, vịt bầu, vịt Xiêm, ngan bướu mũi, chim cút, ngỗng.
Tim đột ngột ngừng đập là tình trạng bất ngờ mất chức năng tim, hô hấp và ý thức và có thể gây chết người sau 4 phút. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, chúng ta cần chú ý để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra. Trong trận đấu giữa Đan Mạch và Phần Lan đêm qua (12.6), cầu thủ Christian Eriksen đã đổ gục xuống sân ở cuối hiệp một và rơi vào trạng thái mất ý thức. Ngay lập tức các bác sĩ đã có mặt trên sân. Ngay khi tiến vào sân, bước đầu tiên trong quy trình y tế cho trường hợp này là kiểm tra xem Eriksen còn thở và còn mạch hay không. Nếu không có, phải thực hiện hô hấp nhân tạo. Như những hình ảnh ghi lại thì một máy khử rung tim đã được sử dụng. Giám đốc Liên đoàn Bóng đá Đan Mạch - Peter Moeller - tiết lộ, Eriksen đã được xoa bóp tim ngay trên sân. "Anh ấy ngã xuống và cần sự giúp đỡ. Các nhân viên y tế đã tiến hành xoa bóp tim cho Eriksen ngay trên sân. Anh ấy phải rất may mắn mới có thể tỉnh lại trong lúc rời sân vận động". Tim đột ngột ngừng đập là tình trạng bệnh vô cùng nguy hiểm, vì nó sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng con người. Theo các chuyên gia, sau khi tim ngừng đập đột ngột khoảng 3 giây thì người bệnh sẽ cảm thấy chóng mặt do não thiếu ôxy. Sau 10 đến 20 giây, nạn nhân bắt đầu mê man bất tỉnh. Sau 30 đến 45 giây, nạn nhân sẽ giãn đồng tử, tắc thở và sau 4 phút thì tế bào não sẽ bị tổn thương nghiêm trọng, không thể cứu vãn được. Nguyên nhân trực tiếp của hầu hết cơn ngừng tim đột ngột là do nhịp tim bất thường, khiến hoạt động của tim trở nên hỗn loạn và không thể bơm máu cho các cơ quan trong cơ thể. Vì không được cung cấp đủ lượng máu trong một thời gian nên có thể tim sẽ ngừng bơm máu tạm thời. Đồng nghĩa với việc này là tim ngừng hoạt động. Nếu một bệnh nhân đã bị đau tim trước đó thì dễ bị ngưng tim hơn. Sáu tháng đầu tiên sau cơn đau tim là rất quan trọng, vì đây là khoảng thời gian dễ bị ngừng tim đột ngột nhất. Bệnh này xảy ra là do một hoặc nhiều nhánh của động mạch vành bị chèn ép hay bị tắc, dẫn đến mạch vành không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của ôxy cho cơ tim, từ đó gây ra trạng thái tim đột ngột ngừng đập. Nếu van tim có vấn đề thì có thể làm gián đoạn dòng chảy của máu qua tim. Chính điều này sẽ làm cho máu được bơm mạnh hơn để ép máu đi qua các động mạch. Một khi van tim không được đóng đúng cách sẽ bị rò rỉ máu ngược trở lại nên gây ra tình trạng ngưng tim đột ngột. Một số loại thuốc hỗ trợ tim có thể gây ra sự thay đổi về lượng magie và kali trong máu. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn tới hiện tượng rối loạn nhịp tim, dễ dẫn đến ngừng tim đột ngột. Đây là hội chứng rối loạn nhịp tim rất hiếm gặp. Một trong những triệu chứng ban đầu của hội chứng này là nhịp tim không đều và thường chỉ được phát hiện thông qua điện tâm đồ. Là tim không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu về chất dinh dưỡng và ôxy cho các cơ quan và mô. Việc giảm lượng máu bơm vào tim dẫn đến không đủ để lưu thông máu trở lại tim từ phổi và các bộ phận khác của cơ thể. Điều này cũng là một nguyên nhân dẫn đến ngưng tim. Với những người thường xuyên vận động ở cường độ cao hoặc luyện tập với các bài tập quá sức thì sẽ khiến hormone adrenaline được giải phóng, gây ra những bất thường về mạch máu ở động mạch và động mạch chủ. Từ đó cũng có thể dẫn đến hiện tượng tim đột ngột ngừng đập.
Ngừng tim
Ngừng tim còn gọi là ngừng tim phổi hoặc ngừng tuần hoàn là chấm dứt sự lưu thông bình thường của máu do tim ngừng đập. Hiện tượng cơ tim ngừng co bóp kéo dài ít nhất 60 giây làm cho tuần hoàn bị tê liệt. Ngừng hô hấp bắt đầu khoảng 20 – 60 giây sau ngừng tim. Do hệ tuần hoàn ngừng hoạt động dẫn đến ngừng cung cấp oxy cho cơ thể. Thiếu oxy lên não gây ra mất ý thức, sau đó dẫn đến hô hấp bất thường hoặc ngừng thở. Nếu ngừng tim không được điều trị trong hơn năm phút có thể dẫn đến tổn thương não. Cơ hội duy nhất để bệnh nhân sống sót và phục hồi thần kinh là phải điều trị quyết đoán ngay lập tức. Ngừng tim khác với nhồi máu cơ tim. Nhồi máu cơ tim là do lưu lượng máu đến cơ tim bị giảm sút, tuy nhiên nó có thể gây ra ngừng tim. Ngừng tim là một trường hợp cấp cứu y khoa, trong những tình huống nhất định bệnh nhân có khả năng hồi phục nếu được điều trị sớm. Ngừng tim bất ngờ có thể dẫn đến tử vong trong vòng vài phút: được gọi là đột tử tim (SCD).
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó hoặc nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung cầu, cạnh tranh trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường. Theo sự phát triển rộng rãi và phổ biến của cơ chế thị trường, thì từ lâu, Việt Nam đã xây dựng định hướng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy cơ chế thị trường là gì? Sau đây, chúng tôi sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn vấn đề trên. Cơ chế thị trường (tiếng Anh là Market Mechanism) thường được hiểu là một hệ thống thị trường tự do. Tức là khi tham gia thị trường đó, bạn hoàn toàn tự do mà không phải chịu bất kì giời hạn nào. Những cá nhân, tổ chức riêng biệt tham gia cơ chế thị trường tác động lẫn nhau, hình thành nên hệ thống giá cả, con đường phân phối, cơ cấu sản xuất,… Từ đó giúp nhà đầu tư xác định được cách thức tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả, tiềm năng, nhu cầu,… để quyết định sẽ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và một cách hoàn toàn tự do. Ví dụ: Hai nhà bán quần áo công sở ở cạnh nhau. Nhà A thường xuyên cập nhật những mẫu mới như blaze, đầm công sở kiểu mới,… trong khi nhà B trung thành với quần áo phong cách cổ điển. Nếu nhiều người mua quần áo ở nhà A thì chủ quán có thể nâng giá lên. Ngược lại nhà B sẽ giảm giá để kích thích nhu cầu của người mua. Sau một thời gian, nhà A sẽ bán ít quần áo hơn với mức giá cao hơn, trong khi nhà B bán nhiều quần áo hơn với mức giá thấp hơn. Do đó, về tổng thể không có sự chênh lệch nhiều giữa hai nhà. Theo đó Adam Smith xây dựng khái niệm về bàn tay vô hình. Chúng đề cập đến các hành động hay quyết định cá nhân của các tác nhân kinh tế dẫn đến phúc lợi tối đa cho nền kinh tế. Các quyết định này hoạt động về mặt cung và cầu cho một hàng hóa, được gọi chung là cơ chế thị trường. Và mọi hoạt động của các cá nhân trong xã hội chỉ nhằm phục vụ lợi ích của chính các cá nhân đó, chứ không phải vì lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên, thông qua phân công lao động, thông qua thị trường và cơ chế giá cả, toàn bộ xã hội cũng sẽ được hưởng lợi từ hoạt động riêng lẻ của các cá nhân, một “bàn tay vô hình” sẽ dẫn dắt con người trong khi làm việc có lợi cho mình thì đồng thời đã đóng góp lợi ích cho tập thể. – Nhược điểm: sự điều tiết các quan hệ kinh tế- xã hội mang tính tự phát; do lợi nhuận mà làm giảm đạo lý, tình người; phân hóa giàu nghèo; khai thác kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên; tệ nạn xã hội gia tăng…. – Nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng, nguồn lực trong cơ chế thị trường được phân bổ theo quy luật của thị trường. Ví dụ: quy luật cung – cầu, quy luật giá trị,…. Tuy nhiên, để cơ chế thị trường thực hiện tốt được chức năng của mình, thì đảm bảo các yếu tố về thông tin, sự cạnh tranh công bằng, không có ảnh hưởng ngoại lai,…. Nếu không thỏa mãn những điều kiện này thì nguồn lực phân bổ không thể đạt mức tối ưu, do đó, hoạt động kinh doanh trong thị trường thất bại, có thể dẫn tới sự khủng hoảng nền kinh tế trong một khu vực nhất định. – Tối đa hóa lợi ích là mục tiêu cũng là nguyên tắc để phân bổ nguồn lực trong cơ chế thị trường. Theo đó, nguồn lực sẽ được phân bổ vào những ngành, lĩnh vực hay địa bàn nào mang lại lợi ích tối đa cho người sở hữu nguồn lực đó. Theo hình thức phân bổ này, hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra được cung cấp theo giá cả cân bằng cung – cầu trên thị trường.
Cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là tổng thể các yếu tố cung, cầu, giá cả và thị trường cùng các mối quan hệ cơ bản vận động dưới sự điều tiết của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu duy nhất là lợi nhuận. Cơ chế thị trường là quá trình tương tác lẫn nhau giữa các chủ thể (hoạt động) kinh tế trong việc hình thành giá cả, phân phối tài nguyên, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Sự tương tác của các chủ thể tạo nên những điều kiện nhất định để nhà sản xuất, với hành vi tối đa hóa lợi nhuận, sẽ căn cứ vào giá cả thị trường để quyết định ba vấn đề: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Ngược lại, hoạt động của các chủ thể tạo nên sự tương tác nói trên. Như vậy, cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế tác động lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và 1 người tiêu dùng trong quá trình trao đổi. Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học phúc lợi thì cơ chế thị trường là cách thức tự động phân bổ tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế.
Trường Đại học Công nghệ năm trong khuôn viên của Đại học Quốc gia Hà Nội tại Nhà E3, 144 đường Xuân Thuỷ, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội quận Cầu Giấy. Trường ở phía tây thành phố, ngay ngã tư của hai tuyến đường lớn: tuyến đường Phạm Hùng qua cầu vượt nối đường Phạm Văn Đồng kéo dài qua cầu Thăng Long đến sân bay quốc tế Nội Bài và tuyến đường Xuân Thủy – Hồ Tùng Mậu nối tới quốc lộ 32 đi thị xã Sơn Tây. Đây là địa điểm khá thuận lợi về giao thông, cách bến xe Mỹ Đình 1 km, cách bến xe Kim Mã khoảng 3 km, cách trung tâm thành phố 7 km và cách sân bay Nội Bài khoảng 25 km. Nhiều tuyến xe buýt có điểm dừng ngay cổng trường như các tuyến xe buýt số 16, 20, 26, 32. Qua cổng chính của Đại học Quốc gia Hà nội tại 144 đường Xuân Thủy, là không gian khoáng đạt của một trung tâm đại học trọng điểm hàng đầu của đất nước. Con đường vào trường rộng rãi được hòa vào với sân trường mênh mang, xế bên là một đài phun nước lớn. Phía xa cuối tầm mắt là tòa nhà cao 9 tầng, trụ sở làm việc của cơ quan Đại học Quốc gia Hà Nội. Bên trái trụ sở này là Hội trường 10-12, nơi cán bộ và sinh viên của trường đã từng đón tiếp các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của đất nước và nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới như Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Giang Trạch Dân, Tổng thống Hàn Quốc, …. Sân trường là nơi thường tổ chức các lễ hội sinh viên. Lễ hội về đêm bao giờ cũng gắn liền với muôn sắc màu từ hàng trăm trại sinh viên cùng những âm thanh sôi động rộn rã và quyến rũ, … Vào những ngày thời tiết tốt, đây là một điểm đến của nhiều du khách để tham quan và chụp ảnh lưu niệm. Tòa nhà E3, cao sáu tầng ở bên phải là nơi làm việc của Ban Giám hiệu, bộ phận quản lý và các khoa, bộ môn của Trường Đại học Công nghệ. Các giảng đường, các phòng thí nghiệm, các trung tâm nghiên cứu, thư viện và ký túc xá sinh viên, nhà ăn sinh viên được xây dựng trong phạm vi bán kính 500 m xung quanh tòa nhà E3, tạo thành một không gian tiện nghi, thuận lợi cho việc tổ chức giảng dạy và học tập của sinh viên và cán bộ trong trường. Trường Đại học Công nghệ là một trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội – một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao của Việt Nam được thành lập theo một mô hình mới, được ưu tiên đầu tư về cán bộ, tài chính, cơ sở vật chất, có quyền chủ động cao trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học – công nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy. Trường Đại học Công nghệ đang đào tạo đại học, cao học và nghiên cứu sinh bậc tiến sỹ trong các lĩnh vực Công nghệ Thông tin, Điện tử viễn thông, Vật lý kỹ thuật và công nghệ nanô, Cơ học kỹ thuật, Công nghệ cơ điện tử. Hiện tại trường Đại học Công nghệ là một trong bảy đơn vị được Bộ Giáo dục Đào tạo chọn làm đơn vị trọng điểm đào tạo Công nghệ thông tin và là một trong số rất ít cơ sở trong cả nước sớm tiếp cận và tổ chức đào tạo, nghiên cứu lĩnh vực khoa học và công nghệ nano. Ngoài ra, trường còn có chương trình đào tạo sau đại học, chương trình đào tạo ngắn hạn, đào tạo liên kết và chương trình CLC. Luôn đảm bảo đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu phát triển và ứng dụng các lĩnh vực khoa học – công nghệ tiên tiến; tiên phong tiếp cận chuẩn mực giáo dục đại học khu vực và thế giới, đóng góp tích cực vào sự phát triển nền kinh tế và xã hội tri thức của đất nước. Tầm nhìn năm 2030, trường sẽ trở thành một trường đại học kỹ thuật công nghệ hàng đầu trong nước, nằm trong nhóm các trường đại học tiên tiến ở Châu Á; một trung tâm xuất sắc, đi đầu trong đào tạo tài năng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Như vậy, với những gì qua tìm hiểu phần nào giúp bạn hiểu được cơ cấu tổ chức, chuyên ngành đào tạo của trường đại học Công nghệ thuộc Đại học quốc gia Hà Nội rồi phải không nào. Chúc các bạn chọn đúng chuyên ngành và trường theo học phù hợp năng lực và sở thích nhé!
Đại học Yangon
Đại học Yangon (tiếng Myanma: ရန်ကုန်တက္ကသိုလ်) là một trường đại học tọa lạc tại Thị trấn Kamayut, Yangon, Myanma. Đây là trường đại học nổi tiếng nhất của quốc gia này. Được thành lập năm 1878 là chi nhánh của Đại học Calcutta, Rangoon College được người Anh giảng dạy và quản lý. Chính quyền Thực dân Anh mở trường này để quản lý giáo dục ở Miến Điện. Trường được đổi tên thành Cao đẳng Chính quyền năm 1904 và thành University College năm 1920, khi University College (secular) và Judson College (Baptist-affiliated) được sáp nhập. American Baptist Mission đã quyết định công nhận Judson College (trước đây là Baptist College) là một cơ sở giáo dục riêng biệt bên trong Đại học Rangoon. Đại học Rangoon theo mô hình của Đại học Cambridge và Đại học Oxford. Suốt thập niên 1940 đến 1950, Đại học Rangoon là trường đại học danh tiếng nhất ở Đông Nam Á và một trong những đại học hàng đầu châu Á, thu hút sinh viên của khu vực đến học.
Trong cuộc sống muôn màu của chúng ta, chúng ta gặp không ít những trường hợp nhìn bên ngoài, nghe những lời nói thì có vẻ đúng, hợp lý và thuyết phục nhưng thực chất vấn đề lại không phải như vậy, khi xét kỹ thì chúng ta thấy nó không đúng, chúng vi phạm các quy tắc logic. Với những sai lầm cố ý trong suy luận người ta gọi là ngộ biện, còn những sai lầm cố ý thì được gọi là sự ngụy biện. Vậy ngụy biện là gì hãy cùng tham khảo bài viết sau đây để hiểu hơn về ngụy biện. Ngụy biện là sự cố ý vi phạm các quy tắc logic trong suy luận nhằm mục đích đưa người nghe, hướng người khác về một hướng khác với sự thật, làm cho người khác nhầm tưởng cái sai thành cái đúng và cái đúng thành cái sai. Ngụy biện này mục đích chính là hướng người nghe tin vào những lời người nói đưa ra. Thì những trường hợp như vậy được gọi là ngụy biện. Có rất nhiều loại ngụy biện cho những việc làm vi phạm quy tắc, cuộc sống hàng ngày và rất nhiều người sử dụng, dẫn đến việc họ phải ngụy biện cho hành động của mình. Dưới đây là một số loại ngụy biện phổ biến nhất mà mọi người hay dùng để ngụy biện cho cuộc sống hàng ngày. Uy tín cá nhân của một người thành đạt, những người có địa vị trong xã hội, những người được nhiều người biến đến… Với những người này khi họ tranh luận, biện luận họ không cần đưa ra những dẫn chứng cụ thể để chứng minh câu nói của mình là đúng, việc làm của mình là đúng mà thay vào đó cái họ đưa ra chứng cứ lại hoàn toàn dựa vào uy tín cá nhân, dựa vào uy tín cá nhân để giải quyết mọi việc, họ dùng uy tin cá nhân để khẳng định điều mình nói là đúng đáng lẽ ra họ cần phải đưa ra những bằng chứng cụ thể để chứng minh mọi việc thì những bằng chứng đó mới chứng minh điều họ nói là đúng. Nhưng với ngụy biện theo cá nhân thì họ lại dùng cái uy để chứng minh và hướng người nghe, nghe theo những lời họ nói. Đó chính là ngụy biện cá nhân. Đa phần mọi người sẽ tin rằng số đông sẽ đúng, nghe theo số đông là suy nghĩ của rất nhiều người và có nhiều người đã dựa vào số đông để ngụy biện tranh luận một vấn đề nào đó. Những người ngụy biện thành công là những người có khả năng hùng biện tốt. Những người này biết lợi dụng thời cơ, dựa vào số đông để lấy lòng tin, đưa ra những lợi nói thuyết phục số động, nhưng thực chất số đông này không phải là bằng chứng chứng minh được những lời nói của họ là đúng. Đây là lập luận ngụy biện. Với những ngụy biện này nó không khẳng định được đám đông đúng hay đám đông sai. Dùng sức mạnh vũ lực hoặc sử dụng những sức mạnh của phe phái để ép hoặc đe dọa người khác, làm cho người khác phải sợ và đồng nghĩa với việc khi họ nói gì thì lời nói của họ đều đúng, với trường hợp này thì đây được gọi là dùng sức mạnh để ngụy biện chứ không phải dùng chân lý hay lập luận để chứng minh. Ngụy biện này xuất hiện nhiều nhất khi các thể lực xã hội đen đến đe dọa và bắt người khác phải nghe theo lợi của mình đây là những ví dụ điển hình nhất cho loại ngụy biện dùng sức mạnh để ngụy biện. Khi bạn lấy được lòng tin, lấy được tình cảm của đối phương thì những lời nói của bạn sẽ làm cho đối phương tin tưởng hơn. Chính vì vậy mà có rất nhiều người đã dựa vào tình cảm để ngụy biện cho những việc làm sai trái của mình. Đây là một loại ngụy biện thường xuyên xảy ra. Ngụy biện dựa vào tình cảm là con giao giết chết sự thật, giết chết chứng cứ. Đây được xem là loại ngụy biện phổ biến nhất và cụ thể nó sẽ được chứng minh như sau, đầu tiên người ngụy biện sẽ đưa ra một luận đề thay thế luận đề ban đầu và luận đề mới không liên quan đến luận đề cũ. Những người biện luận họ đưa ra những bằng chứng rất cụ thể để chứng minh cho luận đề mới và những chứng cứ này rất thuyết phục rất đúng với luận đề mới sau đó họ đánh đồng hai luận đề cũ và mới này và khẳng định rằng luận đề cũ cũng đúng. Những thực tế thì hai luận đề này hoàn toàn khác nhau. Nhưng nhờ cách ngụy biện này mà đã đánh lừa được rất nhiều người. Như chúng ta đã biết thì ngụy biện là dùng những lời lẽ của mình để hướng người đọc người nghe theo ý muốn, nhưng điều này không có bằng chứng chứng minh những lời nói của mình là đúng, với nhiều người họ thường lấy lý do để ngụy biện cho hành động sai trái của mình, có nhiều người lấy lý do của sự nghèo khổ để biện minh cho những việc làm sai trái của mình, họ ngụy biện bằng cách kể khổ về bản thân để lấy lòng thương hại của người khác để từ đó lợi dụng những tấm trân tình đó để làm những việc sai với vi phạm. Từ những việc làm đó có nhiều lần sẽ làm mất niệm tin của những người tốt, và về lâu dài với nhiều người như thế này thì sẽ chẳng có những người tốt tin và những mảnh đời bất hạnh để giúp đỡ. Tác hại tiếp theo mà chúng ta phải nói đến đó chính là việc ngụy biện không có căn cứ, làm cho số đông hiểu sai vấn đề, chúng ta thường nói với nhau, giải thích được cho nhau mọi thứ trên đời một cách đầy thuyết phục nhưng có những việc chúng ta không biết có có bằng chứng hoặc cũng không có một chút gì về kiến thức của nó nhưng chúng ta vẫn dùng khả năng hùng biện của mình để chứng minh, điều đó dẫn đến những suy nghĩ sai trái. Còn rất nhiều tác hại khác mà việc ngụy biện mang đến cho người nghe, cho xã hội. Vậy nên để có một xã hội trong lành một xã hội văn minh thì chúng ta không nên ngụy biện, nếu muốn chứng minh một vấn đề nào đó thay vì ngụy biện bạn hãy tìm ra những bằng chứng để chứng minh những lời mình nói. Có rất nhiều cách để bạn bác bỏ ngụy biện của một người bài viết dưới đây sẽ giúp bạn có được những gợi ý hay để bạn có thể dễ dàng bác bỏ ngụy biện của người khác để khẳng định lại lời nói của họ. Bạn đọc cùng đón đọc nhé. Phương pháp đầu tiên phải kể đến đó chính là bạn nên làm ngược lại với người ngụy biện, vì một điều đơn giản để chứng minh những lời nói của người ngụy biện là bạn cần phải đưa ra những chứng cứ xác thực những chứng cứ nói lên được lời nói của ngụy biện là sai, chỉ có chứng cứ xác thực mới chiến thắng được những kẻ ngụy biện giỏi biện minh. Một phương pháp để bác bỏ ngụy biện nữa chính là tìm ra điểm sơ hở trong lời nói của họ, từ đó dùng những lập luận của mình để chứng minh lời nói của họ là ngụy biện. Có thể nói để bạn bác bỏ được ngụy biện của người khác bạn cũng phải cần có những khả năng tranh luận và lập luận để từ đó thuyết phục người nghe. Hy vọng với những chia sẻ trên bạn sẽ trả lời được câu hỏi ngụy biện là gì? từ đó có cái nhìn tổng quan hơn về ngụy biện và điều quan trọng là bạn nên sáng suốt để có thể bác bỏ được những lời ngụy biện của người khác.
Ngụy biện
Ngụy biện là việc sử dụng lập luận sai, không hợp lý, cố ý vi phạm các quy tắc logic trong suy luận. Một lý luận ngụy biện có thể có ý lừa đảo bằng cách làm cho sự việc có vẻ tốt hơn so với thực tế. Một số ngụy biện cố ý để nhằm mục đích thao tác, đánh lạc hướng người nghe, người đọc, làm cho họ nhầm tưởng cái sai là đúng và cái đúng là sai. Những sai lầm không cố ý trong suy luận do cẩu thả, thiếu hiểu biết được gọi là ngụy biện. Ngụy biện khi bị lạm dụng có thể trở thành thói quen, khiến cho tư duy trở nên sai trái, lệch lạc. Người có lối tư duy nguỵ biện có thể không phân biệt được đúng sai, nhiều trường hợp cho rằng mình luôn đúng.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Mô hình kinh tế này khá tương đồng với mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (socialist market economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó các mô hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Những cải cách kinh tế đổi mới được Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 trong Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Những cải cách này đã tạo ra một vai trò lớn hơn cho các lực lượng thị trường trong việc phối hợp hoạt động kinh tế giữa các doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ, và cho phép sở hữu tư nhân của các doanh nghiệp nhỏ và tạo ra một sàn giao dịch chứng khoán cho cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các cải cách kinh tế nhằm tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế kế hoạch kiểu Liên Xô và hướng tới một nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích trở thành một giai đoạn chuyển tiếp trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của hệ thống kinh tế này là cải thiện lực lượng sản xuất của nền kinh tế, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho nền tảng của chủ nghĩa xã hội và cho phép Việt Nam hội nhập tốt hơn với nền kinh tế thế giới. Đầu những năm 1990, Việt Nam đã chấp nhận một số lời khuyên cải cách của Ngân hàng Thế giới về tự do hóa thị trường, nhưng từ chối các chương trình điều chỉnh cơ cấu và các điều kiện viện trợ đòi hỏi tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Marx cổ điển về phát triển kinh tế và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện khi điều kiện vật chất đã được phát triển đến khi đủ để các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa phát triển. Mô hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là một bước quan trọng để đạt được sự tăng trưởng và hiện đại hóa kinh tế cần thiết trong khi cùng tồn tại trong nền kinh tế thị trường toàn cầu và hưởng lợi từ thương mại toàn cầu. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tái khẳng định cam kết của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với những cải cách của thời kỳ Đổi Mới. Mô hình kinh tế này được bảo vệ từ quan điểm của chủ nghĩa Marx, trong đó tuyên bố rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện sau khi phát triển nền tảng chủ nghĩa xã hội thông qua việc thiết lập nền kinh tế thị trường và kinh tế trao đổi hàng hóa, và chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ xuất hiện sau khi giai đoạn này hoàn thành vai trò lịch sử của nó, và sẽ biến đổi theo xu hướng dần tự chuyển hóa. Những người ủng hộ mô hình này cho rằng hệ thống kinh tế của Liên Xô và các quốc gia vệ tinh đã cố gắng đi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế kế hoạch bằng các mệnh lệnh hành chính mà không trải qua giai đoạn cần thiết để phát triển nền kinh tế thị trường. Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, trong quá trình thực hiện, chính phủ Việt Nam chưa tạo được môi trường kinh doanh thật sự lành mạnh, bình đẳng. Hiến pháp đã quy định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhưng cũng quy định các thành phần kinh tế là bình đẳng, cùng hợp tác và cùng cạnh tranh. Tuy nhiên, trong thực tiễn, khu vực kinh tế tư nhân không có nhiều cơ hội tiếp cận vốn, đất đai, thông tin, mất nhiều cơ hội trong đấu thầu cũng như tiếp cận thị trường như khu vực kinh tế nhà nước. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước vẫn được “ưu ái” về mọi phương diện, chiếm nguồn lực lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm ăn thua lỗ, gây tổn hại lớn cho nhà nước và xã hội. Điển hình là 12 đại dự án thua lỗ của ngành Công Thương đã để thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng, mất rất nhiều năm không thể giải quyết dứt điểm. Ngoài ra, cơ chế “xin – cho” trong khu vực nhà nước đã thúc đẩy hình thành khu vực hưởng lợi trên lưng người khác (rent-seeking) thu lợi nhờ các đặc quyền hoặc độc quyền kinh doanh. Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhiều Bộ Luật ban hành một thời gian chưa thi hành đã phải sửa, không ít Luật đã ban hành nhưng không đi vào thực tiễn. Việc lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp, các chuyên gia khi xây dựng pháp luật vẫn mang tính chung chung, chưa thực sự đảm bảo công khai minh bạch, đôi khi vẫn có tính áp đặt, đẩy cái khó cho doanh nghiệp. Trong khi đó, những người làm luật, bộ máy quản lý gần như không phải chịu trách nhiệm khi xây dựng pháp luật thiếu tính thực tiễn, thiếu đồng bộ, gây tổn hại cho nền kinh tế. Việc quản lý kém hiệu quả các nguồn tài nguyên kinh tế khiến tình trạng tham nhũng xảy ra thường xuyên trong bộ máy quan liêu cồng kềnh dẫn đến đầu tư nhà nước vào nền kinh tế đạt hiệu quả thấp. Chi phí đầu tư công mà Việt Nam phải bỏ ra để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn nhiều quốc gia khác trong khu vực. Hệ số ICOR của Việt Nam trong các năm 2001-2006 là 5,1, nghĩa là cần 5,1 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP, cao gấp 1,5-2 lần nhiều nước trong khu vực trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2010, chỉ số này đã tăng lên 10,52, tức là gấp khoảng 3,5 lần Hàn Quốc và Đài Loan giai đoạn 1961-1980, gấp 2,5 lần Thái Lan giai đoạn 1981-1995 và Trung quốc giai đoạn 2001-2006. Theo Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2016 của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ công bố, có khoảng 66% doanh nghiệp tại các tỉnh có chỉ số cạnh tranh mức trung bình đã phải “móc hầu bao” cho các khoản không chính thức. Việc các doanh nghiệp phải mất nhiều chi phí để “bôi trơn” đã ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh, nản lòng các nhà đầu tư. Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ ràng, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên nhân mà Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra là do mô hình này hoàn toàn mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Về câu hỏi thế nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trong một buổi nói chuyện về các vấn đề kinh tế ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào cuối năm 2013 đã trả lời rằng, “Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm”. Theo luật sư Nguyễn Tiến Lập, “định hướng xã hội chủ nghĩa” là phải bảo đảm sự công bằng tương đối về xã hội và chế độ an sinh xã hội phổ cập đối với người dân. Điều này giống với mục tiêu của nền kinh tế thị trường xã hội của nước Đức và khác với nền kinh tế thị trường tự do của nước Mỹ (ở Mỹ, nhà nước không quản lý tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và có tới trên 40 triệu người dân không có bảo hiểm y tế). Tuy nhiên, có những thực tiễn vừa qua lại đi ngược lại, ví dụ như việc tăng phí bệnh viện và phí học đường đang trở thành gánh nặng cho người nghèo. Ông Lập đặt vấn đề: “Câu hỏi tại sao sau hơn hai mươi năm chuyển sang kinh tế thị trường mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam vẫn èo uột như vậy và chủ yếu lấy cơ chế xin-cho làm tôn chỉ hành động, không tăng được năng lực cạnh tranh,… phải chăng đã tìm được câu trả lời từ chính sự mập mờ của khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” này?” Hậu quả của việc không xác định mô hình kinh tế và duy trì các mối quan hệ không rõ ràng giữa nhà nước và thị trường sẽ biến các doanh nghiệp thành các chủ thể phụ thuộc ngày càng lớn hơn vào nhà nước. Tại hội thảo “Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập và phát triển giai đoạn 2015- 2035”, ông Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện chiến lược phát triển, đánh giá rằng: “Quá trình đổi mới tư duy sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong vòng 15 năm vừa qua là hành trình “dò đá qua sông”. Quá trình này rất dò dẫm về lý thuyết, lý luận, nhận thức về mô hình mới vẫn chưa rõ ràng nên gây khó cho việc hoạch định chính sách”. Theo một khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew vào năm 2015, 95% số người Việt Nam được hỏi ủng hộ thị trường tự do, trong khi ở Mỹ, có tới 25% số người được hỏi nghi ngờ về tính hiệu quả của thị trường tự do. Khảo sát thay đổi cảm nhận về Nhà nước và thị trường của người Việt Nam” – CAMS 2014 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy: trong 1.600 phản hồi, có 89% ủng hộ mô hình kinh tế thị trường; 71% ủng hộ sở hữu tư nhân trong khi chỉ có khoảng 4% lựa chọn sở hữu nhà nước, 94% yêu cầu minh bạch trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tại Việt Nam, 99% ủng hộ chủ trương tư nhân hóa một số dịch vụ công. Nhưng mặt khác, tỷ lệ “ủng hộ song còn quan ngại” việc tư nhân hóa dịch vụ công vẫn còn cao hơn tỷ lệ “hoàn toàn ủng hộ” chủ trương này (57% so với 42%). Đặc biệt, 75% vẫn mong muốn Nhà nước có chính sách can thiệp, bình ổn giá cả do lo ngại sẽ bị ảnh hưởng bởi những khiếm khuyết của thị trường. Kết quả khảo sát cho thấy một thực tế khá nghịch lý: đa số người Việt Nam vừa ủng hộ kinh tế tư nhân cạnh tranh nhưng lại cũng muốn bàn tay can thiệp của Nhà nước đối với những mặt hàng quan trọng (bình ổn giá, trợ cấp,…) để đảm bảo quyền lợi cho họ, tức là vừa muốn có cạnh tranh tư nhân lại vừa muốn được Nhà nước bảo trợ. Nguyên nhân là do những bất ổn trong nền kinh tế thị trường khiến người dân cảm thấy không an toàn. Mặt khác tại Việt Nam, những vấn đề về thiếu minh bạch thông tin, tình trạng không tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, lách luật, móc nối để ép giá người tiêu dùng,… diễn ra phổ biến khiến ưu điểm của kinh tế thị trường ít được phát huy; trong khi những khiếm khuyết của kinh tế thị trường lại thường xuyên phát sinh. Điều này khiến người dân cảm thấy sợ bị mất quyền lợi và quay sang trông chờ ở sự trợ giúp của Nhà nước. “Hiệu quả đầu tư của Việt Nam so với các nước”. Đại học Duy Tân. “Cải cách thể chế từ câu hỏi chưa có lời giải”. Thời báo Kinh tế Sài Gòn. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2014. “Băn khoăn thể chế kinh tế trong dự thảo Hiến pháp”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2013. “Vừa thích thị trường, vừa muốn nhà nước… can thiệp giá”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018. “Người dân kỳ vọng vào cải cách của Chính phủ”. Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là hệ thống kinh tế và mô hình phát triển kinh tế thuộc lý luận Đặng Tiểu Bình được sử dụng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hệ thống này dựa trên sự chiếm ưu thế của sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Thuật ngữ "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" được Giang Trạch Dân đưa ra trong Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1992 để mô tả mục tiêu cải cách kinh tế của Trung Quốc. Bắt nguồn từ các cải cách kinh tế Trung Quốc khởi xướng năm 1978 đã đưa Trung Quốc vào nền kinh tế thị trường toàn cầu, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đại diện cho giai đoạn sơ bộ hoặc "giai đoạn chính" của phát triển chủ nghĩa xã hội. Mặc dù vậy, nhiều nhà bình luận phương Tây đã mô tả hệ thống này là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Cải cách kinh tế đối với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa được củng cố bởi khuôn khổ Marxism của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phân biệt chủng tộc nảy sinh do phải đối diện với những khác biệt của loài người. Nó biểu lộ trong các xã hội phương Tây hiện đại dưới nhiều hình thức (chế độ nô lệ, diệt chủng, tách biệt chủng tộc …). Ngày nay, vấn đề tương thích các nền văn hóa một lần nữa tiếp sức cho khái niệm này. Có nhiều định nghĩa về phân biệt chủng tộc. Ví dụ, hai nhà nghiên cứu nữ Évelyne Heyer và Carole Reynaud-Paligot của Bảo tàng Con người (Musée de l’Homme) giải thích rằng phân biệt chủng tộc nghĩa là “cho rằng những khác biệt giữa các cá nhân, về mặt thể chất hay văn hóa, là có tính di truyền, bất biến và tự nhiên, nó thiết lập một hệ thống thứ bậc giữa các loại người, nó có thể được thể hiện bằng những cảm xúc và hành động đi từ phân biệt đối xử đến tiêu diệt kẻ khác”. Nói cách khác, phân biệt chủng tộc dựa trên ba trụ cột chính: phân loại các cá nhân thành từng nhóm (một phản xạ của trí óc con người, nhưng các tiêu chí phân loại thay đổi tùy theo bối cảnh xã hội lịch sử), xếp các nhóm theo thứ bậc (có nhóm được tăng giá trị, có nhóm bị giảm giá trị vì những lý do võ đoán) và giản lược chúng vào những đặc điểm chính, nghĩa là cho rằng những khác biệt này là không thể vượt qua, không thể tránh khỏi vì chúng tùy thuộc vào di truyền. Như vậy, phân biệt chủng tộc khác với tính bài ngoại, vì bài ngoại không nhất thiết xem kẻ khác là khác biệt không cách gì thay đổi được. Về phần mình, nhà sử học Jean-Frédéric Schaub cho rằng phân biệt chủng tộc có một khía cạnh chính trị, vì đó là một trong những cách đáp trả được dùng để quản lý sự khác biệt vốn có của loài người. Như vậy, những hình thức khác nhau của phân biệt chủng tộc (bài Do Thái, bài người da đen, v.v.) xuất phát từ cùng một nguyên tắc. Ở nơi mà một số người chọn cư xử bình đẳng và công bằng, thì những người khác phân biệt đối xử một số nhóm theo những tiêu chí khác nhau (chủng tộc, nhưng có khi là giới tính, sự khuyết tật, xu hướng tình dục, v.v.), thường là để áp đặt vị thế của họ cao hơn những người khác. Một định nghĩa khác cùng chiều hướng trên, theo nhà triết học và là chiến sĩ chống phân biệt chủng tộc Pierre Tévanian, tác giả của “Cỗ máy phân biệt chủng tộc” (2017) (La Mécanique raciste), không nên tìm phân biệt chủng tộc trong tâm lý con người mà là trong các ý thức hệ chính trị như là một phần gắn liền với các thể chế (tư pháp, cảnh sát, trường học, v.v.): “Nói tóm lại, phân biệt chủng tộc là một hệ thống thống trị.”. Các nhà sử học không đồng ý với nhau về nguồn gốc của phân biệt chủng tộc. Nếu ta hiểu từ này theo nghĩa hẹp (một sự tách biệt dựa trên những tiêu chí sinh học), thì theo nhà sử học J.F. Schaub, những biểu hiện đầu tiên của nó ở phương Tây đã xuất hiện với sự khủng bố người Do Thái ở bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha – ND) vào thế kỷ 15. Về phía nhà sử học Mỹ Benjamin Isaac, ông nêu rõ rằng đối với người Hy Lạp và La Mã, những khuôn mẫu xơ cứng về các loại chủng tộc dựa trên cơ sở “huyết thống”, những tiêu chí về thể chất và địa lý là rất phổ biến. Có rất ít dấu vết của các nhóm dân cư bị phân biệt đối xử vì lý do khác biệt sinh học. Những dấu vết rõ ràng nhất dựa trên sự phân biệt chủng tộc mang tính thể chế (các thể chế chính trị, pháp lý, giáo dục áp đặt một sự phân biệt đối xử vì lý do chủng tộc hoặc được cho là như thế). Chẳng hạn, trong khuôn khổ cuộc triển lãm “Chúng ta và những kẻ khác” ở Bảo tàng Con người, có ba hình thức phân biệt chủng tộc đã được thể chế hóa: chế độ nô lệ và công cuộc khai thác thuộc địa, chế độ Quốc xã, cuộc tàn sát người Tutsis và Hutus ở Rwanda. Những ví dụ thường được nêu ra nhất liên quan đến các xã hội phương Tây, không phải vì đó là những xã hội phân biệt chủng tộc duy nhất mà vì hệ thống tư tưởng của họ quan tâm đến vấn đề này (Xem khung “Một đặc trưng của phương Tây?” dưới đây). Từ thế kỷ 15 trở đi, những nhà hàng hải châu Âu khám phá những vùng đất và dân cư mới. Một vùng đất thuộc địa đầu tiên dưới chế độ thực dân bắt đầu hình thành, tập trung vào châu Mỹ lúc đó gọi là “Tân Thế giới”. Tư tưởng về chủng tộc không xuất hiện ngay: nó phát triển dần trong suốt thế kỷ 16 và 17, với việc thiết lập chế độ nô lệ. Hơn nữa, trong khi những kẻ chinh phục thuộc địa tàn sát dân bản địa để chiếm hữu đất đai, thì những nhà truyền giáo như Las Casas chống đối lại. Trong giai đoạn đầu vua Charles Quint nghe lời giáo sĩ Las Casas. Các luật lệ được thông qua để bảo vệ dân bản địa ở Tân Thế giới, nhưng những thực dân chủ trương chế độ nô lệ chống đối. Một hệ thống chế độ nô lệ đầu tiên được phát triển vào thế kỷ 17 và 18: chế độ này huy động dân cư của châu Mỹ làm việc chủ yếu trong các đồn điền cà phê. Nhưng sự bóc lột này gây ra những cuộc nổi dậy của nô lệ. Giá của nô lệ gia tăng, tạo ra khủng hoảng về buôn bán nô lệ. Lúc đó, Anh Quốc quyết định xóa bỏ việc buôn bán nô lệ và chế độ nô lệ đối với dân bản địa châu Mỹ. Nước Anh đi vào việc chinh phục châu Phi và châu Á, sau đó nước Pháp cũng đi theo con đường này. Hoạt động này là “cuộc xâm chiếm thuộc địa lần thứ hai”. Tuy nhiên, các nước này đứng trước một khó khăn lớn: Một mặt từ nay họ bảo vệ các quyền của con người, mặt khác họ lại không tôn trọng các quyền này đối với dân cư nơi họ xâm chiếm thuộc địa. Tư tưởng phân biệt chủng tộc nảy sinh để biện minh cho mâu thuẫn này (xem khung “Hệ hình chủng tộc phục vụ khai thác thuộc địa” dưới đây). Nó viện dẫn các quyền và nghĩa vụ của các sắc dân được xem là thượng đẳng đối với những sắc dân được cho là hạ đẳng, Ví dụ, như bảng kê danh mục của triển lãm “Chúng ta và những kẻ khác” nhắc lại, nước Pháp thiết lập chế độ hành chính thuộc địa tại các thuộc địa với đặc điểm tước các quyền dân sự và lao động khổ sai (trong khi cách mạng Pháp 1789 đã bãi bỏ lao động khổ sai). Chế độ này lúc đầu được áp dụng cho Algérie, sau đó là tại các thuộc địa khác, cho đến chiến tranh thế giới lần thứ hai. Vào đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa quốc xã Đức (quốc gia xã hội -nazi-) được cử tri ủng hộ do dựa vào việc nước Đức bị nhục thua trận vì hiệp ước Versailles và cơn khủng hoảng kinh tế nặng nề mà nước Đức phải trải qua. Ý thức hệ này mặc định sự tồn tại của những chủng tộc thượng đẳng mà chủng tộc Aryan đại diện cho đỉnh cao của hệ thống thứ bậc và chủng tộc Do Thái thuộc thứ bậc thấp nhất. Trong khi những hình thức phân biệt chủng tộc cổ điển thừa nhận sự thấp kém và lệ thuộc của một vài nhóm người, ý thức hệ quốc xã thể hiện quyết tâm thanh lọc chủng tộc Aryan, xem như bị người Do Thái làm hư hỏng, theo trào lưu các biện pháp của thuyết ưu sinh được áp dụng vào lúc đó. Hình thái phân biệt chủng tộc được làm mới này, “huyền thoại về chủng tộc Aryan thuần túy”, đã dẫn đến trước tiên là việc tạo những khu Do Thái biệt lập và sau đó là tàn sát họ. Trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa quốc xã đã hành động rất triệt để: người Do Thái bị bắt đưa đi và bị tàn sát trong các trại tập trung. Tổng cộng có 6 triệu người Do Thái ở châu Âu bị tàn sát, nghĩa là hai phần ba dân số Do Thái, và 220.000 người Di-gan, và cả hàng trăm ngàn người khuyết tật và hàng chục ngàn người đồng tính. Năm 1994, một triệu người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em đã bị giết ở Rwanda, nghĩa là cứ bảy người Rwanda thì một người bị giết. Cuộc tàn sát nhắm mục tiêu chính là người Tutsis và một số người Hutus bị buộc tội đồng lõa với người Tutsis. Thù địch giữa hai sắc dân này đã có từ lâu và đan xen với những xung đột thời hậu thuộc địa. Thật vậy, từ hàng ngàn năm nay, người Tutsis (chăn nuôi bò) và người Hutus (nông dân trồng trọt) sống cùng nhau trên lãnh thổ Rwanda, cùng với người Twas (thợ săn, sản xuất và bán đồ gốm). Người Tutsis tuy là thiểu số đã là thành phần chính của tầng lớp lãnh đạo ưu tú trước khi thực dân đến. Uy quyền nhà vua nằm trong tay họ. Tuy vậy, có một sự trộn lẫn các sắc dân qua kết hôn và tín ngưỡng chung, những yếu tố này tạo thuận lợi cho sự di chuyển từ nhóm này qua nhóm khác. Khi đến đây, thực dân Đức rồi Bỉ từ cuối thế kỷ 19 đã thể chế hóa những khác biệt chủng tộc. Chính quyền Bỉ ưu đãi người Tutsis, nhất là trong việc đi học và làm việc hành chính. Sau khi đất nước được độc lập vào năm 1962, những cuộc bầu cử dân chủ đã loại người Tutsis khỏi bộ máy quyền lực và thay vào đó là đại biểu của nhóm dân cư đa số Hutus. Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Rwanda đã chính thức hóa sự phân biệt đối xử tích cực bằng cách thiết lập những chỉ tiêu (quota) ưu tiên cho người Hutus. Những cuộc đàn áp thường xuyên đã đẩy một nửa số người Tutsis lưu vong sang các nước láng giềng. Năm 1990, một số người Tutsis thành lập Mặt trận ái quốc Rwanda và muốn lật đổ chính quyền tại vị. Hậu quả là một trận nội chiến kéo dài ba năm. Vụ ám sát thổng thống Hutu Juvénal Habyarimana trong một cuộc tấn công ngày 6 tháng 4 năm 1994 đã kích hoạt một cuộc diệt chủng người Tutsis do chính quyền tại vị tổ chức. Trong nửa sau thế kỷ 20, đã phát triển các chính sách về quyền bình đẳng và đấu tranh chống phân biệt đối xử. Chẳng hạn như từ năm 1948, Liên Hiệp Quốc đã phê duyệt Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền trong đó Điều 1 tuyên bố “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền”. Tuy nhiên ngày nay, khá phổ biến là cảm giác phân biệt chủng tộc ở Pháp vẫn tồn tại. Phân biệt chủng tộc ngày nay có giống với ngày hôm qua? Theo nhà sử học George M. Fredrickson, một loại phân biệt chủng tộc văn hóa đã chiếm ưu thế so với phân biệt chủng tộc sinh học. Tương tự, bác sĩ di truyền học Axel Kahn giải thích rằng ngày nay “phân biệt chủng tộc hoành hành mà không cần đến thực tại sinh học (…). Trong những phát ngôn của những người phân biệt chủng tộc hiện đại, họ không còn tuyên bố các chủng tộc là xung khắc nhau hoặc không bình đẳng, mà là các tập quán, tín ngưỡng và các nền văn minh. Điều mà người ta nói đến là sốc văn hóa.” Nhà nghiên cứu nữ C. Reynaud-Paligot xác nhận những phân tích này và thêm vài nhận xét tinh tế hơn: “Những tư tưởng triệt để hay giản lược về đặc tính chính yếu không biến mất; chúng vẫn tồn tại dưới hình thức ít triệt để hơn và trình bày các “nền văn hóa” như những thực thể cứng nhắc, với những đặc điểm nếu không bất biến thì cũng rất khó biến đổi, trong khi những công trình khoa học xã hội không ngừng chỉ ra tính chất uyển chuyển, năng động luôn luôn tiến hóa của các nền văn hóa và đó mới là căn tính của các nền văn hóa.”. Như vậy, phân biệt chủng tộc ngày nay dựa trên những khác biệt văn hóa được xem là không thể hòa hợp (thuộc về tín ngưỡng, nguồn gốc địa lý, ngôn ngữ, v.v). Nó có nhiều hình thái: ghét đạo Hồi (thái độ thù nghịch với đạo Hồi và tín đồ đạo Hồi hoặc được đồng hóa với đạo Hồi), ghét Do Thái (thù nghịch với người Do Thái, những người được cho là Do Thái và với Do Thái giáo), ghét người Di-gan, người châu Á, người da đen và cả người da trắng! Ghét người da trắng được xem là ít phân biệt đối xử nhất nhưng ít được nghiên cứu. Theo nhà sử học Jean-Frédéric Schaub, nên tìm ma trận phân biệt chủng tộc ở Nam Âu của thế kỷ 15. Đó không phải là ngẫu nhiên: J.F Schaub lưu ý rằng phân biệt chủng tộc chỉ có thể xuất hiện trong những xã hội mà sự cách biệt giữa các nhóm xã hội có xu hướng thu hẹp lại, thậm chí biến mất. Lúc đó lập luận phân biệt chủng tộc sẽ xuất hiện để đáp ứng một nhu cầu “phát hiện những sự khác biệt mà mắt thường không còn nhận diện được nữa” và nhu cầu tạo ra sự khác biệt. Về phần mình, nhà sử học George M. Fredrickson không loại trừ khả năng có những hình thái phân biệt chủng tộc ở những nơi khác ngoài phương Tây, nhưng ông xác định là phân biệt chủng tộc ở phương Tây bộc lộ rõ hơn. Ông giải thích điều đó bằng sự ngạc nhiên gây ra bởi kiểu hành vi này trong các xã hội bảo vệ bình đẳng giữa các cá nhân: “Chỉ có ở phương Tây chúng ta mới tìm thấy mối tương tác biện chứng giữa một định đề về bình đẳng với những thành kiến nặng nề chống lại một số nhóm người – có vẻ như là điều kiện tối cần thiết cho sự phát triển đầy đủ của phân biệt chủng tộc với tính cách ý thức hệ hay viễn kiến về thế giới.”. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng có những biểu hiện phân biệt chủng tộc ở ngoài các nước phương Tây. Ví dụ ở Nhật, đối với thiểu số người Aïnous, người Trung Quốc hay cả với người Hàn Quốc; ở Trung Quốc, đối với người da đen; ở Ấn Độ, với hệ thống các đẳng cấp (những cộng đồng di truyền theo huyết thống và được xem như trong sạch ít hay nhiều, và từ đó bị bất bình đẳng về quyền). Ngày nay, các nhà xã hội học xem những điều này là tương đương với phân biệt chủng tộc (Christophe Jaffrelot và Jules Naudet, Biện minh cho trật tự xã hội. Đẳng cấp, chủng tộc, giai cấp và giới. Từ cuối thế kỷ 18, lấy ý từ các công trình phân loại thực vật và động vật của Linné, các nhà khoa học đề nghị phân loại loài người thành những nhóm khác nhau gọi là “chủng tộc”. Ví dụ, ngành đo lường não bộ bao gồm việc phân loại và phân thứ bậc các cá nhân căn cứ vào hình thể của não bộ.
Phân biệt chủng tộc
Phân biệt chủng tộc là niềm tin rằng các nhóm người sở hữu những đặc điểm hành vi khác nhau tương ứng với ngoại hình và có thể được phân chia dựa trên sự vượt trội của chủng tộc này so với chủng tộc khác. Nó cũng có thể có nghĩa là định kiến, phân biệt đối xử hoặc đối kháng nhắm vào người khác vì họ thuộc chủng tộc hoặc sắc tộc khác. Các biến thể hiện đại của phân biệt chủng tộc thường dựa trên nhận thức xã hội về sự khác biệt sinh học giữa các dân tộc. Những quan điểm này có thể ở dạng hành động xã hội, thực tiễn hoặc tín ngưỡng hoặc hệ thống chính trị trong đó các chủng tộc khác nhau được xếp hạng là vượt trội hoặc kém hơn nhau, dựa trên những đặc điểm, khả năng hoặc phẩm chất được thừa nhận chung. Trong điều kiện của hệ thống chính trị (ví dụ, phân biệt chủng tộc) có hỗ trợ sự biểu hiện của định kiến hay ác cảm trong hành động kỳ thị hoặc pháp luật, phân biệt chủng tộc ý thức hệ có thể bao gồm liên quan đến các khía cạnh xã hội như nativism, bài ngoại, phân biệt đối xử, phân chia chủng tộc, thứ bậc xếp hạng, và chủ nghĩa thượng đẳng.
Trong phim Harry Potter Và Bảo Bối Tử Thần 1, chúa tể Voldemort cùng đám tay chân của hắn đang âm mưu tấn công Harry Potter khi cậu rời khỏi ngôi nhà của gia đình Dursley lần cuối cùng. Ngay trước khi phép bảo vệ cho Harry tại gia đình Dursley hết hiệu lực vào thời điểm Harry bước qua tuổi 17, xem phim này bạn sẽ thấy người của Hội Phượng hoàng đến để hộ tống cậu tới một nơi ở mới an toàn. Mặc dù đã dùng sáu người nguỵ trang thành Harry, Harry thật vẫn bị Voldemort cùng các Tử thần Thực tử phát hiện ra trên đường đi và bị tấn công. Harry cùng những người khác chạy thoát về Trang trại Hang sóc trong gang tấc, tuy Hedwig và Moody Mắt Điên bị giết. Cuộc trốn tìm sẽ đi đến đâu? Sẽ có những bí mật gì được hé lộ ra trong phim Harry Potter Và Bảo Bối Tử Thần 1. Kính mời các bạn cùng theo dõi phim hay này!
Harry Potter và Bảo bối Tử thần
Harry Potter và Bảo bối Tử thần (nguyên tác tiếng Anh: Harry Potter and the Deathly Hallows) là cuốn sách thứ bảy và cũng là cuối cùng của bộ tiểu thuyết giả tưởng Harry Potter của nhà văn Anh J.K. Rowling. Nguyên bản tiếng Anh được phát hành đồng thời tại Anh, Hoa Kỳ, Canada và một số nước khác (trong đó có Việt Nam) vào ngày 21 tháng 7 năm 2007. Bản dịch tiếng Việt vẫn do nhà văn Lý Lan đảm nhiệm, xuất bản ngày 27 tháng 10 cùng năm. Harry Potter và Bảo bối Tử thần tiếp tục cuộc tìm kiếm những Trường Sinh Linh Giá còn lại mà Harry chưa phá hủy trong tập 6. Sau cái chết của Albus Dumbledore, Chúa tể Voldemort và các Tử thần Thực tử đã xâm nhập vào được Bộ Pháp thuật, giết chết Bộ trưởng và thay thế với một người dưới sự điều khiển của Voldemort. Dưới chế độ mới, một chính sách kỳ thị đã được chấp hành: những người không có dòng máu pháp thuật bị bắt bớ, đăng ký và tước quyền sử dụng đũa phép, một chính sách tương tự như thời Đức Quốc Xã.
Nhà thờ Con Gà hay nhà thờ Chính Tòa Đà Lạt là một trong những nhà thờ lớn nhất tại thành phố ngàn hoa. Nhà thờ mang ý nghĩa đặc biệt, không chỉ bởi nét kiến trúc Châu Âu độc đáo mà nó còn gắn liền với lịch sử của thành phố. Đây là một điểm đến hấp dẫn, tuyệt đối không thể bỏ qua đối với bất cứ ai khi đến với Đà Lạt. Nhà thờ con Gà ở đâu?Vị trí nhà thờCách di chuyển đến nhà thờ. Nhà thờ Con Gà có tên gọi chính thức là Nhà thờ chính tòa Thánh Nicôla Bari. Nhà thờ được xây từ thời Pháp thuộc, nên nơi đây vẫn còn lưu giữ lại nhiều nét kiến trúc độc đáo, cổ điển. Hiện nay, nhà thờ Con Gà vừa là nơi tổ chức các buổi lễ, vừa là một trong những điểm tham quan du lịch hấp dẫn nhất tại Đà Lạt. Đến đây, bạn không chỉ được đắm mình vào trong trời Âu cổ kính ở Đà Lạt mà còn được tha hồ check in sống ảo. Nhà thờ Con Gà nằm ở số 15 đường Trần Phú, phường 3. Đây được xem là một vị trí thuận tiện khi tọa lạc ở trung tâm thành phố. Đặc biệt, xung quanh còn rất gần với những địa điểm du lịch khác như Quảng Trường Lâm Viên, chợ Đà Lạt…. Từ trung tâm Đà Lạt ngay vòng xuyến vào Chợ, bạn đi theo lối ra thứ 2 qua cầu vào đường Lê Đại Hành. Ở đây bạn sẽ thấy một vòng xuyến, bạn rẽ phải và đi thêm 100m nữa sẽ gặp một ngã 3. Sau đó, bạn rẽ trái lên dốc đi khoảng 200m là đến Nhà thờ Con Gà. Vì trên ngọn thánh giá cao nhất của nhà thờ có tượng một chú gà trống nên người dân ở đây đã gọi tên nhà thờ là nhà thờ Con Gà. Tượng chú gà được làm bằng hợp kim nhôm nhẹ và rỗng ở bên trong. Ở trên độ cao 27m, con gà sẽ quay quanh một trục bạc đạn để chỉ hướng gió. Nó còn có tác dụng như một cột thu lôi, bảo vệ nhà thờ tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay. Đứng cách xa tháp chuông khoảng 100m là bạn có thể nhìn rõ con gà trống tọa lạc trên thánh giá của tháp chuông. Cũng theo người dân địa phương, con gà trống là biểu tượng của nước Pháp và cũng là biểu tượng của sự sám hối trong kinh thánh. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có lời giải đáp cụ thể và chính xác dành cho thắc mắc đó. Sau khi bác sĩ Alexandre Yersin tìm ra thành phố Đà Lạt năm 1893, linh mục Robert thuộc giáo hội công giáo Paris đã đến đây để nghiên cứu và truyền giáo. Đến năm 1917, một linh mục khác là Nicolas Couveur đã đến Đà Lạt để tìm kiếm một địa điểm xây dựng viện nghỉ dưỡng cho các giáo sĩ. Sau này, đây một nhà giáo dưỡng đã được xây dựng ở ngay sau vị trí nhà thờ con gà hiện nay. Đầu tháng 5 năm 1920, giám mục Quinton giám quản tổng tòa tại Sài Gòn đã cho phép thành lập Giáo phận Đà Lạt. Chủ Nhật ngày 19 tháng 7 năm 1931 nhà thờ chính thức được khởi công xây dựng. Công trình được chia làm 3 giai đoạn và thực hiện trong suối 11 năm. Mãi đến tháng 1 năm 1942 nhà thờ mới được hoàn thiện và đưa vào phục vụ giáo dân. Nhà thờ Con Gà được xây dựng theo kiến trúc của các nhà thờ công giáo Roma ở châu Âu. Được thiết kế tổng thể theo hình chữ thập, nhà thờ có chiều dài 65m, chiều rộng 14m, tháp chuông nhà thờ cao 47m. Cửa chính của nhà thờ hướng về ngọn núi Lang Biang. Dù đứng từ rất xa nhưng bạn vẫn có thể thấy được nóc nhà của Đà Lạt. Thánh đường của nhà thờ được chia làm 3 gian: 1 gian lớn ở chính giữa và 2 gian nhỏ ở 2 bên. Gian giữa gồm các dãy bàn ghế cầu nguyện và chính điện. Hai gian hai bên là các dãy bàn ghế phụ và lối đi. Bên trên trần nhà thờ được thiết kế theo dạng cung nguyên với dây cuốn và hệ vòm nôi. Đây là nét đặc trưng của các nhà thờ tại các nước Châu Âu. Trên tường trong nội thất là các bức phù điêu được làm từ xi măng và sắt do do nhà điêu khắc Xuân Thi thực hiện. Điểm nổi bật trong kiến trúc Châu Âu của nhà thờ chính là phần trang trí. Bước vào bên trong, bạn sẽ ấn tượng với 70 tấm kính màu khác nhau do xưởng Louis Balmet ở Grenoble (Pháp) chế tạo. Những tấm kính đó không chỉ có tác dụng chiếu sáng mà còn giúp cho thánh đường thêm phần huyền bí, mờ ảo. Bên cạnh nét cổ kính, trang nghiêm trong kiến trúc, nhà thờ Con Gà còn là 1 trong 20 địa điểm du lịch Đà Lạt nổi tiếng hấp dẫn du khách. Đến với nơi đây, bạn sẽ tha hồ tạo dáng, check-in với sắc hồng của nhà thờ. Màu hồng của nhà thờ chính là điểm nhấn ấn tượng trên nền xanh mây trắng của đất trời Đà Lạt. Du khách đến đây còn bị ấn tượng trước sắc đỏ rực của hoa trạng nguyên hai bên đường và xen kẽ giữa các tòa của nhà thờ. Để thuận tiện tham quan nhà thờ, bạn nên tránh đi vào các khung giờ lễ của giáo dân nơi đây. Nếu đến sớm, hãy đợi xong lễ rồi vào tham quan nhé. Thông thường các Lễ ở nhà thờ Con Gà sẽ diễn ra trong khoảng 1 giờ. Vào những ngày lễ đặc biệt sẽ có thông báo cụ thể. Nếu bạn là một con dân của Chúa muốn tham dự những buổi lễ trên thì hãy tham khảo lịch lễ nhà thờ nhé. Hãy sắp xếp thời gian để có thể đến dự lễ một cách trọn vẹn nhất.
Nhà thờ chính tòa Đà Lạt
Nhà thờ chính tòa Ðà Lạt (tên chính thức là: Nhà thờ chính tòa Thánh Nicôla Bari, còn có tên gọi khác là nhà thờ Con Gà vì trên đỉnh tháp chuông có hình con gà lớn) là một nhà thờ Công giáo ở Việt Nam. Đây là nhà thờ chính tòa của vị giám mục Giáo phận Đà Lạt, cũng là nhà thờ lớn nhất Đà Lạt, một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu và cổ xưa nhất của thành phố này do người Pháp để lại. Nhà thờ nằm tại số 13 đường Trần Phú, phường 3, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Lịch sử Nhà thờ chính tòa Đà Lạt gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Đà Lạt. Cùng với bác sĩ Alexandre Yersin khám phá ra Đà Lạt, có linh mục Robert thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP) vào năm 1893. Đến 1917, linh mục quản lý của MEP tại Viễn Đông là Nicolas Couveur đã đến Đà Lạt với mục đích tìm nơi nghỉ dưỡng cho các giáo sĩ, và ông đã cho xây dựng một dưỡng viện giáo đồ nay là một phần của nhà xứ.
5 Nguyên nhân gây viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh5.1 Các yếu tố nguy cơ5.2 Các biến chứng. Viêm tiểu phế quản là bệnh lý nhiễm trùng thường gặp ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh. Bệnh gây viêm và chít hẹp các đường dẫn khí nhỏ (tiểu phế quản) của phổi. Nguyên nhân của bệnh hầu như luôn luôn là siêu vi. Thống kê cho thấy, thời gian cao điểm của bệnh viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh là trong những tháng mùa đông. Bệnh khởi phát với các triệu chứng không khác gì cảm lạnh thông thường, nhưng sau đó diễn tiến ho, khò khè tăng dần và đôi khi khó thở. Các triệu chứng của có thể kéo dài vài ngày đến vài tuần. Vì đa phần nguyên nhân là siêu vi nên thường bệnh sẽ tự thoái lui. Do đó hầu hết trẻ em khỏe hơn khi được chăm sóc tại nhà. Tuy nhiên một số trường hợp trẻ sơ sinh bị viêm tiểu phế quản phải nhập viện điều trị khi bệnh có biểu hiện nặng dưới đây. Nếu trẻ biếng ăn cũng như uống nước, và trông có vẻ thở gấp hoặc khó thở hơn, hãy liên hệ bác sĩ. Điều này đặc biệt quan trọng nếu trẻ dưới 12 tuần tuổi hoặc có các yếu tố nguy cơ khác như sinh non hoặc bệnh về tim, phổi. Viêm tiểu phế quản xảy ra khi một loại siêu vi lây nhiễm vào các tiểu phế quản, là những đường dẫn khí nhỏ nhất trong phổi của bé. Nhiễm siêu vi làm cho các tiểu phế quản bị viêm và sưng lên. Chất nhầy tiết ra trong các đường thở này, cản trở không khí lưu thông vào và ra khỏi phổi. Nguyên nhân chủ yếu của viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh là virus hợp bào hô hấp (RSV). RSV là một loại siêu vi phổ biến chỉ nhiễm cho trẻ em dưới 2 tuổi. Thống kê cho thấy, các đợt bùng phát nhiễm RSV thường xảy ra vào mùa đông hàng năm và trẻ có thể bị tái nhiễm, vì miễn dịch tạo ra từ lần nhiễm trước đó dường như lâu dài. Viêm tiểu phế quản cũng có thể được gây ra bởi các loại siêu vi khác khác, bao gồm cả những siêu vi gây ra bệnh cúm hoặc cảm lạnh thông thường. Các siêu vi gây viêm tiểu phế quản rất dễ lây lan. Bạn có thể nhiễm chúng qua các giọt bắn trong không khí khi bệnh nhân ho, hắt hơi hoặc nói chuyện thông thường. Bạn cũng có thể nhiễm thông qua việc chạm vào các đồ vật dùng chung như bàn ghế, khăn tắm hoặc đồ chơi – rồi tự chạm vào mắt, mũi hoặc miệng. Viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh phổ biến bởi vì hệ thống miễn dịch và phổi của trẻ chưa trưởng thành. Các yếu tố khác có liên quan đến tăng nguy cơ viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh hoặc khiến bệnh có thể diễn tiến nặng hơn bao gồm:. Nếu có các dấu hiệu trên, trẻ cần phải nhập viện theo dõi. Suy hô hấp nặng có thể phải đặt ống vào khí quản (nội khí quản) để hỗ trợ thở cho trẻ đến khi tình trạng bệnh cải thiện hơn. Nếu trẻ sinh non, bệnh tim bẩm sinh hoặc suy giảm miễn dịch, hãy theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu ban đầu của bệnh. Nhiễm trùng có thể diễn tiến nghiêm trọng rất nhanh chóng, vì vậy cần nhập viện để có những can thiệp y tế kịp thời. Viêm tiểu phế quản ở trẻ sơ sinh thường do siêu vi lây lan từ người lớn sang, nên một trong những cách tốt nhất để ngăn ngừa là rửa tay bằng xà phòng thường xuyên – đặc biệt là trước khi tiếp xúc với trẻ khi bạn đang bị cảm lạnh hoặc các bệnh về đường hô hấp khác. Mang khẩu trang đặc biệt có ích. Nếu trẻ bị viêm tiểu phế quản, hãy giữ trẻ ở nhà cho đến khi hết bệnh để tránh lây lan cho người khác. Những biện pháp khác giúp hạn chế lây bệnh gồm:. Hạn chế tiếp xúc với những người đang bị sốt hoặc cảm lạnh: đặc biệt nếu con bạn là trẻ sơ sinh, sinh non hoặc nhỏ hơn hai tháng tuổi. Làm sạch và khử trùng bề mặt: Làm sạch và khử khuẩn bằng cồn các bề mặt và đồ vật mà mọi người thường xuyên chạm vào, chẳng hạn như bàn ghế, đồ chơi, tay nắm cửa. Điều này đặc biệt cần thiết nếu một người trong gia đình bị cảm lạnh. Che miệng khi ho và hắt hơi: Che miệng và mũi bằng khăn giấy khi ho, hắt hơi, và, vứt khăn giấy đi, đồng thời nhớ rửa tay bằng xà phòng hoặc sử dụng dung dịch sát khuẩn tay có cồn. Sử dụng ly uống nước riêng: Không dùng chung ly, chén với người khác, đặc biệt nếu trong gia đình có người bị cảm lạnh. Rửa tay thường xuyên: Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng cho bạn và con bạn. Hãy chuẩn bị sẵn dung dịch sát khuẩn tay nhanh cho người chăm trẻ khi bạn không có mặt ở nhà. Cho con bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời: tỉ lệ nhiễm trùng đường hô hấp giảm đáng kể ở trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn, vì trong sữa mẹ có chứa kháng thể. Tuy nhiên, tiêm phòng cúm hàng năm được khuyến nghị cho tất cả trẻ trên 6 tháng tuổi. Thuốc: Trẻ sơ sinh hoặc trẻ có yếu tố nguy cơ nhiễm RSV cao (sinh non, bệnh tim bẩm sinh, suy giảm miễn dịch) có thể được dùng palivizumab (Synagis) để giảm khả năng nhiễm RSV. Nhìn chung, viêm tiểu phế quản là một bệnh lý nhiễm siêu vi hô hấp thường gặp ở trẻ em, với diễn tiến có thể tự thoái lui cũng như trở nặng rất nhanh chóng. Điều quan trọng nhất là nhận biết các dấu hiệu khó thở để cho trẻ nhập viện kịp thời và có những can thiệp y tế thích hợp. Bài viết được tham khảo bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn tại Docosan để điều trị.
Viêm tiểu phế quản
Viêm tiểu phế quản là tắc nghẽn các tiểu phế quản trong phổi do nhiễm virus. Nó thường chỉ xảy ra ở trẻ em dưới hai tuổi. Các triệu chứng có thể bao gồm sốt, ho, sổ mũi, thở khò khè và các vấn đề về hô hấp. Các trường hợp nghiêm trọng hơn có thể liên quan đến sưng mũi, khò khè hoặc da giữa các xương sườn bị kéo vào khi thở. Nếu trẻ không thể bú đúng cách, có thể có dấu hiệu mất nước. Viêm tiểu phế quản thường là kết quả của nhiễm trùng do virus hợp bào hô hấp (72% trường hợp) hoặc virut mũi người (26% trường hợp). Chẩn đoán thường dựa trên các triệu chứng. Các xét nghiệm như X-quang ngực hoặc xét nghiệm vi-rút không thường xuyên cần thiết. Xét nghiệm nước tiểu có thể được xem xét ở những người bị sốt. Không có điều trị đặc hiệu. Chăm sóc hỗ trợ tại nhà nói chung là đủ. Thỉnh thoảng nhập viện để thở oxy, hỗ trợ cho ăn, hoặc truyền dịch là cần thiết. Bằng chứng dự kiến hỗ trợ nước muối tăng tiết nebulized. Bằng chứng về kháng sinh, thuốc chống siêu vi, thuốc giãn phế quản hoặc epinephrine nebulized là không rõ ràng hoặc không hỗ trợ được người bệnh.
Nhân bản vô tính là sự sao chép một sinh vật sống – thực vật, động vật, hoặc con người. Quy trình nhân bản vô tính tạo ra một bản sao giống hệt về mã di truyền của sinh vật ban đầu. Tuy nhiên, khi một con người đã được nhân bản vô tính và được phép lớn lên, sẽ có những nhân tố khác làm cho người được nhân bản này trở thành một cá thể độc nhất. Các cặp song sinh cùng trứng có cùng DNA và là hai người khác nhau! Có hai cách để nhân bản vô tính:. Một phôi có thể được tách đôi trong phòng thí nghiệm (như xảy ra cách tự nhiên với cặp song sinh cùng trứng). Với sự chuyển đổi nhân của tế bào soma (xem hình), nhân của tế bào trứng được thay thế bằng nhân của tế bào từ cơ thể được nhân bản (“bố/ mẹ”). Sau một số điều trị nhất định, tế bào mới sẽ hoạt động giống như một tế bào thụ tinh và bắt đầu phát triển tương tự như quá trình phân chia hợp tử sau thụ tinh. Mục đích của sinh sản vô tính là tạo ra một bản sao của một con vật hoặc một con người. Năm 1996, cừu Dolly được nhân bản bằng chuyển hạt nhân tế bào soma. Chẳng bao lâu sau các động vật khác cũng được nhân bản vô tính. Những con vật này thường bị dị dạng, tàn tật, và các vấn đề sức khoẻ trầm trọng, và chúng thường chết sớm. Điều đó cho thấy rằng phương pháp này không phải đơn giản như nó có vẻ. Sau khi thay thế nhân tế bào soma, phôi thai được cấy vào tử cung của một người mẹ mang thai hộ, nơi nó tiếp tục phát triển cho đến khi được sinh ra. Cho đến nay những nỗ lực nhân bản vô tính ở người vẫn chưa thành công, và phương pháp này bị coi là bất hợp pháp ở nhiều nước. Mục đích của điều trị bằng nhân bản vô tính là tạo ra tế bào người để sửa lại các mô bị hư hỏng hoặc chữa một số bệnh nhất định. Đầu tiên, một con người được nhân bản như đã mô tả ở trên. Một khi phôi người đã phát triển đến khoảng 100 tế bào, các tế bào gốc của nó sẽ được lấy ra, và tất nhiên là phôi sẽ chết theo. Sau đó, các tế bào gốc này được chuyển sang bệnh nhân hoặc được sử dụng để nuôi thành các mô cần thiết để điều trị cho bệnh nhân (xem 4.36). Việc nhân bản động vật có thể được chấp nhận miễn là nó được thực hiện để giúp con người và không gây tổn hại không cần thiết đối với các động vật có liên quan (xem 4.48). Tuy nhiên, nhân bản con người là hoàn toàn sai. Một bản sao con người là một con người đầy đủ và xứng đáng được đối xử như họ là; chứ không phải là phương tiện để chữa bệnh cho người khác (xem 4.19). Ngoài ra, trong trường hợp sinh sản vô tính, mối quan hệ bình thường giữa tình dục và sinh sản của con người là hoàn toàn vắng mặt (xem 4.20). Cũng có nguy cơ rằng nhân bản vô tính có thể được sử dụng để tạo ra một loại, chủng loại hoặc một chủng tộc người. Nói tóm lại, Hội Thánh dứt khoát bác bỏ tất cả các loại nhân bản con người. Với nhân bản vô tính con người, tất cả DNA là từ một người duy nhất, trong khi một phôi bình thường là một hỗn hợp của hai bộ DNA từ cha và mẹ. Điều này đặt ra mọi loại câu hỏi. Đối với người “gốc”, người mà DNA được nhân bản thực sự không phải là cha hay mẹ, mà là anh hoặc chị. Trên thực tế, có 8 người có thể khẳng định danh hiệu cha mẹ, hoặc thậm chí là chủ sở hữu của bản sao: người là nguồn gốc của DNA, cha hoặc mẹ của người cho nhân bản DNA, nguồn trứng, người mẹ mang thai hộ, cha hoặc mẹ nuôi của người được nhân bản, và “người cha” đã làm quá trình nhân bản trong phòng thí nghiệm.
Nhân bản vô tính
Dòng hóa thường được gọi là nhân bản vô tính là quá trình tạo ra các tế bào hoặc những cá thể giống hệt nhau về mặt di truyền từ một hoặc một số tế bào ban đầu một cách tự nhiên hoặc nhân tạo. Cấy giống là khả năng cấy tạo nhiều cá thể với di truyền hoàn toàn đồng nhất với cá thể mẹ mà không cần phải có sự kết hợp tính dục với cá thể cha. Trong thiên nhiên, nhiều sinh vật có khả năng này như một số bacteria, côn trùng hay cây cỏ. Trong ngành lý sinh, dòng hóa là kỹ thuật bào chế bản sao của DNA, hay tế bào hay ngay cả sinh vật. Sinh sản vô tính là phương pháp sinh sản đơn không thông qua thụ tinh (không phân biệt giới tính). Bằng phương pháp này, các cá thể có thể được tạo ra từ một tế bào lấy từ nguyên bản. Bằng việc tạo ra hàng loạt các phiên bản khác nhau từ các tế bào của nguyên bản mà không phụ thuộc vào giới tính của nguyên bản, người ta gọi là nhân bản vô tính. Sinh sản vô tính khác với sinh sản hữu tính là một quá trình tạo ra một sinh vật mới bằng cách kết hợp vật chất di truyền từ hai sinh vật.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) là một rối loạn tâm thần ảnh hưởng đến cách suy nghĩ và hành vi của bệnh nhân. Khi mắc bệnh, các suy nghĩ và nỗi sợ không mong muốn (hay còn gọi là sự ám ảnh) xuất hiện liên tục và khiến bệnh nhân lặp đi lặp lại các hành động cưỡng chế. Đây là một tình trạng riêng biệt nhưng nằm trong danh mục “rối loạn ám ảnh cưỡng chế và liên quan”. Cầu toàn và quan tâm về sự đồng đều hoặc chính xác là những nỗi ám ảnh rõ ràng trong OCD. Những hành vi mang tính chất cưỡng chế lặp đi lặp lại thường là rửa, làm sạch và kiểm tra. Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (APA) tuyên bố rằng tỉ lệ phụ nữ bị ảnh hưởng cao hơn một chút so với nam giới và OCD ảnh hưởng đến mọi người thuộc mọi chủng tộc và nền kinh tế xã hội. Một số người mắc OCD thường che giấu một cách hoàn hảo các triệu chứng của họ vì sợ xấu hổ hoặc kỳ thị. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế hay OCD là một tình trạng sức khỏe tâm thần xoay quanh những nỗi sợ hoặc ám ảnh phi lý khiến người bệnh có những hành vi cưỡng chế để giảm bớt hoặc giải tỏa sự lo âu của họ, dù người bệnh nhận biết đó là sai, tìm cách chống lại nhưng không sao thắng được. Ví dụ: Rất nhiều người bị ám ảnh là tay mình bị bẩn, vì vậy họ rửa tay rất nhiều lần, rất lâu (hàng trăm, hàng nghìn lần/ngày), rửa nhiều đến nỗi da bị đỏ lên. Một báo cáo về sức khỏe tâm thần của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2001 ước tính rằng OCD nằm trong số 20 nguyên nhân hàng đầu gây ra khuyết tật liên quan đến bệnh tật trên toàn thế giới ở những người từ 15 đến 44 tuổi. OCD có liên quan đến một loạt suy giảm chức năng và có tác động đáng kể đến đời sống xã hội và công việc. Có một số loại OCD xuất hiện theo những cách khác nhau. Mặc dù đây không phải là các loại OCD duy nhất, nhưng nỗi ám ảnh và sự ép buộc thường sẽ rơi vào các loại này. Đây là một hành vi liên tục kiểm tra một cái gì đó do lo sợ tác hại, rò rỉ, thiệt hại hoặc hỏa hoạn. Kiểm tra có thể là: nhiều lần theo dõi vòi nước, báo động, cửa xe, đèn nhà hoặc các thiết bị khác và thậm chí là “kiểm tra người”. Việc kiểm tra này có thể xảy ra hàng trăm lần và thường trong nhiều giờ. Kiểm tra cũng có thể liên quan đến việc xác nhận nhiều lần tính đúng đắn của ký ức. Một người mắc OCD có thể liên tục xác nhận thư và e-mail vì sợ mắc lỗi. Có thể có một nỗi sợ đã vô tình xúc phạm người nhận. Những chất thải, chất tiết ra từ cơ thể, như nước tiểu, nước bọt và máu. Đất và vi khuẩn – thôi thúc phải lau chùi tắm giặt liên tục và quá mức. Khiên cưỡng khi phải vứt đồ vật đi, bất kể giá trị hay tính hữu dụng của vật đó. Lục thùng rác để đảm bảo rằng các đồ vật giá trị không bị vứt đi. Sưu tầm những đồ vật vô dụng. Các từ, cụm từ xuất hiện lặp đi lặp lại trong đầu, gây khó chịu cho người bệnh. Sợ bị trừng phạt, hoặc cảm thấy tồi tệ vì có những ý nghĩ xúc phạm, báng bổ hoặc có những phát ngôn xấu. Lo lắng về tôn giáo, tín ngưỡng. Nhắc đi nhắc lại hoặc luôn luẩn quẩn trong những ý nghĩ, hình ảnh về tôn giáo. Ý nghĩ ám ảnh về việc tự làm hại bản thân, làm hại người thân hoặc những người xung quanh. Sợ buột miệng nói ra những câu chửi rửa, tục tĩu. Sợ rằng mình sẽ làm theo những ý nghĩ thôi thúc dù không mong muốn, như đâm chém hoặc đâm xe vào ai đó. Sợ rằng mình sẽ làm hại người khác vì bản thân vô ý. Nhặt những mảnh vỡ thủy tinh trên đường, báo với mọi người đèn giao thông bị hỏng, thu dọn những thứ có thể làm bị thương người khác. Sợ rằng những hành động vô ý này hoặc những hành động khác của mình có thể dẫn đến những tai họa khủng khiếp, như cháy nhà, hay trộm cắp đột nhập. Sợ những lời nói của mình có thể bị hiểu sai và làm tổn thương người khác, bắt người khác phải đảm bảo. Đây cũng là một trong những biểu hiện của sự thôi thúc luôn phải nói những điều “hoàn hảo”. Những thôi thúc/hình ảnh/ý nghĩ về tình dục có thể trở nên đáng lo ngại. Ý nghĩ ám ảnh về việc xâm hại con mình hoặc con người khác (mặc dù không bao giờ xảy ra). Nghi ngờ giới tính của bản thân. Việc nhìn một người cùng giới có thể gây ra những ý nghĩ này vì họ cảm thấy mình có thể đang phát những tín hiệu “đồng tính”, hoặc nghĩ rằng việc chỉ đi qua những người đồng tính cũng có thể bị “lây nhiễm”. Ý nghĩ hoặc hình ảnh có xu hướng tình dục bạo lực đối với người khác. Sợ hãi khi nói/nghĩ đến những từ nhất định vì những hậu quả có thể gây ra. Không thể dùng một số màu, con số, chữ cái nhất định vì cho rằng nó có tính tiêu cực, một số chữ số mang đến điều không may mắn. Tuân thủ một cách hà khắc những nỗi sợ hãi mê tín. Mọi thứ đều có thể trở nên “tích cực” hay “tiêu cực” và cách nghĩ này vô cùng cứng nhắc và luôn thường trực trong cuộc sống hằng ngày. Muốn mọi thứ luôn hài hòa, đối xứng. Sắp xếp tất cả mọi thứ xung quanh. Muốn mọi thứ đều “hoàn hảo”, chính xác. Luôn tìm kiếm cảm giác “hài hòa, cân bằng”. Luôn bận rộn với việc sắp xếp các đồ vật như giấy tờ, sách báo một cách “hoàn hảo”. Sự thôi thúc phải ghi nhớ những điều nhất định như các câu slogan, biển sổ xe, họ tên, từ ngữ hoặc những sự việc trong quá khứ. Đây cũng có thể được coi là “Nỗi sợ quên”. Sợ nói điều gì đó không đúng hoặc không “hoàn hảo” và/hoặc để sót các chi tiết. Điều này khiến họ luôn cố gắng hết sức để kể tất cả mọi thứ một cách chính xác nhất. Lo lắng về việc mắc lỗi. Hay bị khó chịu bởi cảm giác của quần áo, bề mặt da. Những khiếm khuyết này có thể khiến họ điên lên vì khó chịu. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế được tách ra khỏi các tình trạng sức khỏe tâm thần khác bởi sự hiện diện của nỗi ám ảnh, sự ép buộc hoặc cả hai. Những ám ảnh hoặc sự ép buộc gây ra đau khổ rõ rệt, tốn thời gian và ảnh hưởng đến các chức năng bình thường của một người. OCD có thể xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên, với bệnh xuất hiện dần dần và xấu đi theo tuổi tác. Các triệu chứng của OCD có thể nhẹ hoặc nặng. Một số người chỉ xuất hiện những suy nghĩ ám ảnh, mà không có những hành vi cưỡng chế. Một số người mắc OCD thành công che giấu các triệu chứng của họ vì xấu hổ hoặc sợ bị kỳ thị. Tuy nhiên, bạn bè và gia đình có thể nhận thấy một số dấu hiệu. Nỗi ám ảnh không chỉ là những lo lắng hàng ngày của hầu hết những người khỏe mạnh khi nghĩ về các vấn đề thực tế. Thay vào đó, những người bị OCD có những suy nghĩ và lo lắng quá mức, khiến họ có các hành động hoặc suy nghĩ nỗ lực để làm giảm hoặc kìm nén nỗi sợ hãi và lo lắng. Nhận thấy những suy nghĩ đang lo ngại và không muốn có. Trong trường hợp trẻ lớn và người lớn, nhận thức được rằng những lo lắng này là vô nghĩa. Đa số người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế có các hành vi lặp lại gọi là hành vi cưỡng chế nó có ý nghĩa như sự đáp trả lại những ý nghĩ ám ảnh. Nhưng không phải tất cả các hành vi lặp đi lặp lại đều là sự ép buộc. Các hành vi lặp đi lặp lại bình thường có trong cuộc sống hàng ngày có thể là thói quen đi ngủ, hoạt động tôn giáo và học một kỹ năng mới. Hành vi cũng phụ thuộc vào bối cảnh. Ví dụ, một người làm việc trong một cửa hàng video sắp xếp DVD trong 8 giờ mỗi ngày, đây không phải là hành động bắt buộc. Kiểm tra: ví dụ kiểm tra các bộ phận cơ thể hoặc kiểm tra xem có gì khủng khiếp đang xảy ra không. Lặp đi lặp lại: ví dụ đọc lại và lặp lại các hoạt động thường ngày như đứng dậy khỏi ghế. Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu, nguyên nhân chính xác của OCD vẫn chưa được xác định. OCD được cho là nguyên nhân thần kinh. Các nghiên cứu về thần kinh cho thấy não hoạt động khác nhau ở những người mắc chứng rối loạn. Một sự bất thường, hoặc sự mất cân bằng trong dẫn truyền thần kinh, được cho là có liên quan đến OCD. Các rối loạn là phổ biến như nhau giữa nam giới và phụ nữ trưởng thành. OCD bắt đầu từ thời thơ ấu phổ biến ở trẻ trai hơn trẻ gái, thời gian khởi phát OCD ở trẻ gái muộn hơn ở trẻ trai. Tình trạng này có thể được khởi phát do sự kết hợp của các yếu tố di truyền, thần kinh, hành vi, nhận thức và môi trường. OCD có tính chất di truyền trong các gia đình và có thể được coi là một “rối loạn gia đình”. Bệnh có thể kéo dài trong nhiều thế hệ, và người thân của những người mắc OCD có nhiều khả năng phát triển OCD hơn đáng kể. Các nghiên cứu sinh đôi ở người trưởng thành cho thấy các triệu chứng ám ảnh cưỡng chế có khả năng di truyền ở mức độ vừa phải, với các yếu tố di truyền đóng góp từ 27 đến 47%. Tuy nhiên, không có gen đơn lẻ nào được xác định là “nguyên nhân” của OCD. Một số trường hợp khởi phát nhanh OCD ở trẻ em có thể là hậu quả của nhiễm khuẩn liên cầu nhóm A, gây viêm và rối loạn chức năng ở hạch nền (basal ganglia). Những trường hợp này được gom lại và gọi là rối loạn tâm thần kinh tự miễn ở trẻ em liên quan đến nhiễm trùng liên cầu khuẩn (PANDAS). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các mầm bệnh khác, chẳng hạn như vi khuẩn gây bệnh Lyme và vi-rút cúm H1N1, cũng có liên quan đến sự khởi phát nhanh chóng OCD ở trẻ em. Do đó, các bác sĩ lâm sàng đã thay đổi từ viết tắt thành PANS, viết tắt của Hội chứng tâm thần kinh cấp tính khởi phát ở trẻ em (Pediatric Acute-onset Neuropsychiatric Syndrome). Lý thuyết hành vi cho thấy rằng những người mắc OCD liên kết một số đối tượng hoặc tình huống nhất định với nỗi sợ hãi. Họ học cách tránh những điều đó hoặc học cách thực hiện “các nghi thức” để giúp giảm bớt nỗi sợ hãi. Chu kì của nỗi sợ hãi và tránh né hoặc hành động này có thể bắt đầu trong giai đoạn căng thẳng mạnh mẽ, chẳng hạn như khi bắt đầu một công việc mới hoặc ngay sau khi một mối quan hệ quan trọng kết thúc. Khi mối liên hệ giữa một đối tượng và cảm giác sợ hãi được thiết lập, những người mắc OCD bắt đầu tránh đối tượng đó và nỗi sợ mà nó tạo ra, thay vì đối mặt hoặc chịu đựng nỗi sợ hãi. Lý thuyết hành vi được nêu ở trên tập trung vào cách những người mắc OCD tạo ra mối liên hệ giữa một đối tượng và nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, lý thuyết nhận thức tập trung vào cách những người mắc OCD hiểu sai suy nghĩ của họ. Hầu hết mọi người có những suy nghĩ không phù hợp, đi trái với lương tâm của họ, thường là những ý nghĩ bạo lực, vào những thời điểm nhất định, nhưng đối với những người bị OCD, tầm quan trọng của những suy nghĩ đó là quá mức. Ví dụ, một người chăm sóc trẻ sơ sinh và đang chịu nhiều áp lực có thể có một ý nghĩ xâm phạm là làm hại trẻ sơ sinh một cách cố ý hoặc vô tình. Hầu hết mọi người có thể nhún vai và coi thường ý nghĩ, nhưng một người bị OCD có thể phóng đại tầm quan trọng của suy nghĩ và phản ứng như thể nó biểu thị một mối đe dọa. Miễn là cá nhân bị OCD diễn giải những suy nghĩ xâm phạm này là thảm khốc và chân thực, họ sẽ tiếp tục các hành vi tránh né. Các phương pháp chụp não đã cho phép các nhà nghiên cứu nghiên cứu hoạt động của các vùng cụ thể của não, và phát hiện ra rằng một số vùng khác nhau ở những người mắc OCD khi so sánh với những người không mắc. Mặc dù có phát hiện này, nhưng người ta không biết chính xác những khác biệt này liên quan gì đến sự phát triển của OCD.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (tiếng Anh: Obsessive-Compulsive Disorder, viết tắt là OCD) là một rối loạn tâm lý có tính chất mãn tính, dấu hiệu phổ biến của bệnh đó là ý nghĩ ám ảnh, lo lắng không có lý do chính đáng và phải thực hiện các hành vi có tính chất ép buộc để giảm bớt căng thẳng, đây là một dạng trong nhóm bệnh liên quan trực tiếp đến stress. Bệnh còn có tên khác là rối loạn ám ảnh cưỡng bức. Người bị ảnh hưởng của bệnh có những ý nghĩ và hành vi lặp lại một cách vô nghĩa mà không kiểm soát được chẳng hạn rửa tay hàng chục lần mặc dù tay đã sạch hay dành quá nhiều thời gian để sắp xếp đồ vật trong nhà quá mức gọn gàng cần thiết. Nhưng không phải mọi hành vi có tính chất ám ảnh cưỡng chế đều bị coi là dấu hiệu của bệnh, chẳng hạn phải nghe kể chuyện mới đi ngủ được (ở trẻ nhỏ) hoặc các nghi lễ tôn giáo đều là các hành vi lặp đi lặp lại nhưng chúng có ích và không quá gây phiền toái.
Là nhân viên phục vụ làm việc trong các nhà hàng, khách sạn chắc hẳn bạn sẽ thường xuyên nghe đến thuật ngữ “rượu vang”. Vậy bạn có biết rượu vang là gì? Có mấy loại rượu vang?. Nếu chưa có nhiều thông tin, hãy tìm hiểu những điều này cùng Hoteljob.vn!. Rượu vang là loại thức uống được phục vụ thường xuyên trong các nhà hàng, khách sạn hiện nay; không chỉ đơn thuần là một loại thức uống thông thường trong các thực đơn, rượu vang còn được kết hợp với một số món ăn giúp làm tăng hương vị và chất lượng của bữa ăn, có lợi cho sức khỏe, đồng thời thể hiện sự sang trọng cho người thưởng thức. Vậy rượu vang là gì?. Rượu vang là loại thức uống có cồn được tạo thành từ quá trình lên men của nho, để đường trong nho chuyển hóa thành cồn. Như vậy, rượu vang chứa 100% nước nho ép nguyên chất, ngoài ra không có bất kỳ một thành phần tạo vị nào khác như các loại đường, axit, enzym hay các chất dinh dưỡng khác. Ngày nay, rượu vang là một trong những loại thức uống có cồn được ưa chuộng nhất trong hầu hết các nhà hàng, khách sạn trên toàn thế giới bởi những công dụng mà loại rượu này mang lại. Cùng với sự ưa chuộng ngày càng tăng cao, một số dòng rượu vang hiện nay còn được làm từ một số loại trái cây, thảo dược hay hoa. Tuy nhiên, một số quốc gia chỉ chấp nhận tên gọi “rượu vang” cho một loại thức uống có cồn được lên men từ nho. Nghe có vẻ không tưởng nhưng bạn hoàn toàn có thể thống kê chính xác số lượng nho cụ thể để cho ra một chai rượu vang hoàn hảo. Theo đó, chúng ta cần khoảng từ 600-800 quả nho (tương đương khoảng 11 chùm với mỗi quả nho nặng khoảng 2g, trung bình một chùm nho có từ 50-80 quả) để làm ra 1 chai rượu vang loại 750ml. Như vậy, mỗi 1 tấn nho sẽ cho ra 2 thùng rượu vang loại 60 gallon (khoảng 3,7l), tương đương khoảng 720 chai rượu vang loại 750ml. Hiện có 5 loại rượu vang phổ biến và được dùng trong phục vụ thực khách, bao gồm: rượu vang đỏ, rượu vang trắng, rượu vang hồng, rượu vang sủi tăm và rượu vang ngọt. Ngoài ra, một số nguồn tài liệu còn chỉ ra một loại nữa là rượu vang bổ. Ngoài ra, rượu vang còn được phân loại theo lịch sử, truyền thống và phương thức sản xuất rượu vang của các quốc gia, bao gồm: thế giới cũ – old world (bao gồm các quốc gia trồng nho và sản xuất rượu vang thuộc châu Âu như Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Đức, Áo, Hungary,.) và thế giới mới – new world (bao gồm tất cả các quốc gia trồng nho và sản xuất rượu vang không thuộc lãnh thổ châu Âu như Chile, Argentina, Mỹ, Úc, New Zealand, Nam Phi,.). Có 2 loại nút được các nhà sản xuất sử dụng để bảo quản rượu vang, đó là: nút bấc (nút bần, được làm từ gỗ sồi) và nút vặn (nút xoáy, làm từ kim loại nhẹ). Hiện có không ít những tranh cãi xoay quanh việc sử dụng loại nút chai nào sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, trong khi nút bần tự nhiên truyền thống ngoài công dụng giữ ẩm cho vang, tạo sự sang trọng và chứa đựng “nền văn hóa rượu vang” mỗi khi thao tác mở nút thì vẫn có thể “phá nát” vị đặc trưng của rượu do bị hỏng hoặc nặng mùi; còn nút xoáy thì tiện dụng, chi phí sản xuất thấp, mở-đóng vang nhanh chóng, dễ dàng lại góp phần bảo vệ môi trường. Hiện có 2 giống nho được dùng để làm rượu vang, đó là nho đỏ và nho trắng. Ngay trong tên gọi đã có thể phân biệt được 2 loại rượu này bởi màu sắc của rượu là khác nhau, rượu vang đỏ có màu đỏ đậm, trong khi rượu vang trắng có màu vàng nhạt hay vàng rơm. Ngoài ra, rượu vang đỏ và rượu vang trắng còn được phân biệt bởi thành phần nguyên liệu. Cụ thể: rượu vang đỏ được tạo thành do quá trình lên men của cả quả nho, tức là bao gồm cả ruột và vỏ nho; trong khi rượu vang trắng được tạo thành do quá trình lên men của chỉ ruột nho, tức là không bao gồm vỏ nho, mà nước ép từ ruột nho đều không màu.
Rượu vang
Rượu vang (từ tiếng Pháp vin) là một loại thức uống có cồn được lên men từ nho. Sự cân bằng hóa học tự nhiên cho phép nho lên men không cần thêm các loại đường, axit, enzym, nước hoặc chất dinh dưỡng khác. Men tiêu thụ đường trong nho và chuyển đổi chúng thành rượu và carbon dioxide. Giống nho khác nhau và chủng nấm men khác nhau tạo thành các dạng khác nhau của rượu vang. Các dạng rượu vang nổi tiếng là kết quả của sự tương tác rất phức tạp giữa phát triển sinh hóa của nho, các phản ứng liên quan đến quá trình lên men, cùng với sự can thiệp của con người trong quá trình tổng thể. Rượu vang là một loại nước uống làm cho con người say, cũng giống như tất cả các loại đồ uống có cồn, thường được sử dụng vì các hiệu ứng say của nó trong suốt lịch sử cho đến ngày hôm nay. Mức độ ảnh hưởng đến thần kinh của rượu vang được thể hiện qua mức độ cồn trong máu. Rượu vang có một lịch sử phong phú hàng ngàn năm, với việc sản xuất rượu vang sớm nhất cho đến nay được phát hiện đã xảy ra khoảng 6000 TCN ở Georgia.
Marketing trực tiếp là hệ thống các hoạt động của doanh nghiệp thực hiện nhằm thu hút và đo lường sự tương tác từ khách hàng một cách trực tiếp. Mục đích của phương thức Marketing này là thiết lập, duy trì và phát triển mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng sử dụng những thông tin, dữ liệu khách hàng có sẵn như: email, số điện thoại, địa chỉ. Nhóm công cụ hiện đại được phát triển trong những năm gần đây như: Gửi email (Email Marketing), Gửi tin nhắn (SMS Marketing), Mạng xã hội (Social Media). Marketing trực tiếp cho phép doanh nghiệp tự cung cấp thông tin về đặc điểm, xu hướng của thị trường dựa theo mẫu khách hàng và những ý kiến phản hồi của họ. Việc phân tích phản ứng của khách hàng cho phép doanh nghiệp nắm bắt thị trường, định vị khách hàng mục tiêu, các ý kiến đóng góp, thấu hiểu mong muốn, nhu cầu về sản phẩm của họ, độ rộng của nhu cầu, từ đó doanh nghiệp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc mua hàng, động cơ mua hàng và tiêu dùng hàng hóa của khách hàng. Duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết với khách hàng là yếu tố quan trọng để tăng trưởng lợi nhuận kinh doanh thành công, hiệu quả. Việc thực hiện Marketing trực tiếp với mục đích xây dựng mối quan hệ với khách hàng sẽ giúp doanh nghiệp tăng được thiện cảm, sự hài lòng của khách hàng, kích thích họ quay lại và dần dần trở thành khách hàng trung thành của doanh nghiệp. Ngược lại, vào bất cứ lúc nào, một khách hàng không hài lòng cũng đều có thể chia sẻ quan điểm của họ một cách bực tức qua các kênh mạng xã hội và trên website của doanh thu và làm ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín và doanh thu của bạn. Marketing trực tiếp cũng là một phương pháp hữu hiệu giúp bạn nhanh chóng tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Với nội dung giới thiệu, mô tả sản phẩm hay lời đề nghị bán hấp dẫn được cung cấp trực tiếp tới các khách hàng tiềm năng, doanh nghiệp hoàn toàn có thể thực hiện hoạt động bán hàng thông qua phương pháp Marketing này. Nếu quan hệ thương mại đã được tồn tại từ trước, quá trình Marketing trực tiếp sẽ càng dễ dàng hơn trong việc thúc đẩy họ tiếp tục mua với các ưu đãi hấp dẫn. Tiếp theo, để xây dựng một bản chiến lược Marketing trực tiếp hiệu quả ta cần phải hiểu, data là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của toàn bộ chiến lược. Hiện nay, trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện những đơn vị rao bán, cung cấp data cho các doanh nghiệp thực hiện marketing trực tiếp. Tuy nhiên về độ chính xác và tin cậy của những data này rất khó để kiểm chứng, trong trường hợp đối tượng khách hàng ta tiếp cận thông qua data này không phải là đối tượng mục tiêu của doanh nghiệp, rất có thể dẫn đến những kết quả tiêu cực, phản tác dụng. Vậy làm cách nào để có thể có những data chất lượng? Cách tốt nhất là hãy tự xây dựng cho mình những data về khách hàng thông qua quá trình bán hàng, quảng cáo, truyền thông online và offline. Những data chất lượng cần có đầy đủ thông tin về khách hàng: tên và địa chỉ liên lạc, lịch sử mua bán, nhân khẩu học, thu nhập, sở thích, hành vi,… Và một thông tin quan trọng đó là ngày sinh nhật của họ. Càng nắm rõ những thông tin về khách hàng thì bạn càng có cơ hội tạo ra chiến lược Marketing trực tiếp hiệu quả. Bởi nhưng đã nói bên trên, đây là phương thức liên lạc trực tiếp giữa doanh nghiệp và khách hàng, cần phải đảm bảo thông tin bạn muốn truyền tải được đưa đến đúng đối tượng, đạt được đúng mục đích. Một số cách để thu thập Data giúp doanh nghiệp đạt được những mong đợi như:. Cùng với mục đích là tạo cho doanh nghiệp cơ hội chăm sóc, tìm kiếm khách hàng một cách trực tiếp nhất, nhưng mỗi công cụ của Marketing trực tiếp lại có cách thức hoạt động và ưu nhược điểm khác nhau. Không nên áp dụng marketing trực tiếp một cách tùy tiện và tràn lan với tất cả các công cụ mà tùy vào đặc điểm sản phẩm và mục đích của mình mà doanh nghiệp có thể có những sự lựa chọn khác nhau. Đây là công cụ truyền thống và phổ biến đã được áp dụng trong Marketing trực tiếp từ những ngày đầu tiên và cho tới tận bây giờ. Với ưu điểm là cuộc trò chuyện giữa doanh nghiệp và khách hàng không bị dập khuôn có sẵn mà có thể biến tấu thay đổi linh hoạt theo từng khách hàng doanh nghiệp có thể thu được thông tin một cách cụ thể và chi tiết nhất. Thêm vào đó, doanh nghiệp có thể dễ dàng đánh giá được sự quan tâm và thái độ của khách hàng đối với sản phẩm và thương hiệu của mình. Với ưu điểm là thời gian thực hiện nhanh chóng, tiện lợi, có thể đo lường kết quả một cách dễ dàng, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng công cụ Marketing trực tiếp này cho nhiều mục đích như: quảng bá, giới thiệu sản phẩm, gửi lời cảm ơn, chúc mừng,… đến khách hàng của mình. Hơn nữa, việc thực hiện Marketing qua công cụ này giúp doanh nghiệp tiết kiệm tối đa ngân sách và thời gian. Đây là công cụ thường được sử dụng với mục đích: gửi lời cảm ơn tri ân, lời mời tham dự sự kiện, sách hướng dẫn,… Có một thời gian hình thức Marketing này tưởng như đã bị lãng quên trong thời đại công nghệ đang ngày càng được đề cao. Tuy nhiên vài năm trở lại đây, phong cách cổ điển bắt đầu lên ngôi và những lá thư trực tiếp, đặc biệt là thư tay đã và đang được rất nhiều doanh nghiệp sử dụng cho mục đích Marketing. Thư trực tiếp nếu được sử dụng đúng cách, đúng thời điểm sẽ đem lại cho doanh nghiệp cái nhìn thiện cảm từ khách hàng, khẳng định hình ảnh và đẳng cấp của doanh nghiệp. Bạn có thể áp dụng hình thức Marketing này đến với những khách hàng trung thành của doanh nghiệp, bằng một lá thư tay gửi lời cảm ơn vào ngày sinh nhật họ với những món quà nhỏ là sản phẩm của thương hiệu sẽ gây được ấn tượng vô cùng lớn từ phía khách hàng. Quảng cáo tại điểm bán cho phép doanh nghiệp tiếp cận với khách hàng tại đúng “khoảnh khắc vàng” khi họ đang thực hiện quyết định mua hàng. Với hình thức này, doanh nghiệp có thể tạo ra độ tin cậy cao cho khách hàng với những lời giới thiệu, thuyết phục có thể kiểm chứng được ngay lập tức. Rất nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đã nhận ra những ưu điểm lớn của hình thức này, đặc biệt trong các loại hình sản phẩm như: đồ điện tử, mỹ phẩm,… có thể cho phép khách hàng trải nghiệm trực tiếp sản phẩm tại gian hàng bày bán, đi kèm với các hàng dùng thử, hàng khuyến mãi đi kèm. Với công cụ này, doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra tiền bạc và công sức để có thể xây dựng một sự kiện nhằm thực hiện Marketing trực tiếp, tuy nhiên hiệu quả mà hình thức này mang lại là vô cùng lớn. Với một số các loại hình sự kiện như: tri ân, lễ kỷ niệm, khai trương,… doanh nghiệp có thể thực hiện quảng bá cho sản phẩm của mình trực tiếp đến các khách hàng đồng thời tiếp thu ý kiến đóng góp nhằm cải thiện khắc phục những điểm thiếu sót, và hơn cả, một sự kiện được tổ chức thành công chắc chắn sẽ đem lại những ấn tượng, hình ảnh tích cực về doanh nghiệp trong lòng khách hàng. Mỗi hoạt động truyền thông đều phải đạt được những kết quả và mang lại hiệu quả nhất định trong hoạt động kinh doanh nên do đó cần phải được đo lường kỹ càng. Đối với Marketing trực tiếp, để đo lường được hiệu quả của hoạt động, doanh nghiệp có thể so sánh hiệu quả mà hoạt động mà từng nội dung Marketing đạt được với mục tiêu truyền thông đề ra ban đầu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có thể so sánh chi phí phải bỏ ra giữa những công cụ khác nhau để đạt được một đơn vị đo lường cụ thể. Với những số liệu từ hoạt động Marketing trực tiếp, doanh nghiệp có thể điều chỉnh lại chiến lược của mình một cách phù hợp với mục tiêu Marketing theo từng giai đoạn cụ thể.
Marketing trực tiếp
Marketing trực tiếp (tiếng Anh: Direct marketing), theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, là hệ thống tương tác của marketing, có sử dụng một hay nhiều phương tiện quảng cáo, để tác động đến một phản ứng đáp lại đo lường được ở bất cứ mọi nơi. Có hai cách nét đặc trưng chính để phân biệt Marketing trực tiếp với các loại hình marketing khác. Đầu tiên là nó nỗ lực để gửi thông điệp trực tiếp đến với người tiêu dùng mà không sử dụng đến các phương tiện truyền thông phi trực tiếp. Nó sử dụng hình thức truyền thông thương mại (thư trực tiếp, email, chào hàng qua điện thoại,.) với khách hàng hay doanh nghiệp. Đặc điểm thứ hai là nhấn mạnh vào những phản hồi mang tính tích cực có thể theo dõi và đo lường được từ khách hàng. Thuật ngữ Marketing Trực Tiếp (Direct Marketing) được lần đầu tiên sử dụng vào năm 1967 trong một bài diễn văn của Lester Wunderman, ông là người đi tiên phong dùng các kỹ thuật Marketing trực tiếp cho các thương hiệu như American Express và Columbia Records.
Tại thời điểm viết bài, Bitcoin có giá 6,831 đô la với mức vốn hóa thị trường là 125 tỷ đô la, giảm 0.48% trong 24 giờ qua. Tuy nhiên, giá đã giảm 7.61% vào thứ 6. Thị trường hợp đồng tương lai Bitcoin CME đã tạm dừng vì đang là cuối tuần và điều này gây ra contango (bù hoãn mua) thú vị với giá giao ngay. Contango hoặc forwardation là giá hợp đồng tương lai của một tài sản cao hơn giá giao ngay. Sự chênh lệch này là chênh lệch đối với giá hợp đồng tương lai, là hình thức được sử dụng với lợi thế trong thời gian thanh toán. Tại thời điểm viết bài, đã có 6% hoặc 400 đô la chênh lệch giá hợp đồng tương lai Bitcoin. Điều thú vị cần lưu ý ở đây là giá giảm vào ngày 10/4 trông giống hệt như đợt giảm giá diễn ra vào ngày 27/3. Vào ngày đó, mức giảm tổng cộng 12% với điểm dừng là 10%. Bitcoin chỉ giảm 7% gần đây và có vẻ sẽ nhiều lần giảm giá nữa. Giá giảm có thể đưa BTC xuống 6,707 hoặc 6,611 đô la. Điều tương tự cũng được người dùng Twitter quan sát thấy trên giá hợp đồng tương lai và giao ngay Bitcoin trên BitMEX. Mặc dù hợp đồng tương lai CME không giao dịch vào cuối tuần, nhưng có nhiều nền tảng cho phép điều đó như Deribit, BitMEX, FTX, Binance, … Đối với cụm được quan sát bên dưới, giá hợp đồng tương lai vào ngày 11/4 cao hơn so với giá giao ngay của Bitcoin, mặc dù có chênh lệch nhỏ. Lý do hợp đồng tương lai ngắn hạn có mức chênh lệch thấp hơn khi so sánh với Hợp đồng tương lai dài hạn chỉ đơn giản là do cung và cầu. Hầu hết các hợp đồng tương lai ngắn hạn gần đây đều giao dịch cao hơn với giá quy định, thúc đẩy mọi người vay tiền để mua tài sản cơ bản với hy vọng lấy chênh lệch hiện tại làm lợi nhuận khi hợp đồng tương lai hết hạn. Tuy nhiên, trong một thị trường hiệu quả, khi thời gian trôi đi, chênh lệch giữa hợp đồng tương lai và giao ngay giảm. Do đó, khoảng cách chênh lệch càng lớn thì càng nhiều người đầu tư, nên khoảng cách biến mất nhanh chóng. Halving Bitcoin lần thứ ba dự kiến vào ngày 12/5, một số holder Bitcoin đã bắt đầu di chuyển tiền của họ theo dữ liệu gần đây từ Glassnode. Dòng tweet tuyên bố rằng nguồn cung Bitcoin hoạt động trong vòng 2-3 năm qua đã đạt mức cao nhất mọi thời đại 2,774,058. Dường như nguồn cung BTC đang hoạt động đã tăng rất ít, vì có rất nhiều người đang mong đợi giá Bitcoin sẽ tăng vọt trong vòng 1 hoặc 2 năm sau khi sự kiện halving 2020 xảy ra. Dữ liệu cho biết mức cao nhất mọi thời đại trước đó đã được ghi nhận vào ngày 10/4. Tổ chức này cũng đã báo cáo rằng số lượng ví hold nhiều hơn 1 BTC đã tăng lên mức cao mới mọi thời đại. Glassnode cũng chia sẻ dữ liệu về số lượng Bitcoin được lưu trữ trên các sàn giao dịch. Câu nói phổ biến “không phải chìa khóa của bạn – không phải Bitcoin của bạn” dường như ngày càng có nhiều người làm theo trước halving. Theo dữ liệu được Glassnode chia sẻ, số dư BTC trên các sàn giao dịch đã đạt mức thấp mới trong nửa năm – 2,231,259.713 BTC. Giá trị tương tự vào ngày 5/4 cao hơn một chút – 2,236,484.277 BTC. “Số dư BTC trên Sàn giao dịch vừa đạt mức thấp nhất trong 6 tháng là 2,231,259.713 BTC. Disclaimer: Đây không phải là lời khuyên đầu tư. Nhà đầu tư nên tìm hiểu kỹ trước khi ra quyết định. Chúng tôi không chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của bạn.
Bù hoãn mua
Bù hoãn mua (tiếng Anh: Contango) là tình huống trong đó giá tương lai (hay giá kỳ hạn) của một hàng hóa cao hơn giá giao ngay được dự kiến trong tương lai cho hàng hóa đó. Trong thị trường ở tình trạng bù hoãn mua, các nhà phòng hộ (các nhà sản xuất/các nhà sử dụng hàng hóa) hay các nhà cơ lợi/nhà đầu cơ (các nhà đầu tư phi thương mại) "tự nguyện trả nhiều hơn cho hàng hóa ở thời điểm nhất định nào đó trong tương lai so với giá dự kiến thực tế của hàng hóa. Điều này là có thể vì mong muốn của người ta trong việc trả một khoản phụ phí để có được hàng hóa đó trong tương lai thay vì trả các chi phí lưu giữ và tích trữ của việc mua ngay hàng hóa đó". Điều kiện thị trường trái ngược với bù hoãn mua được biết đến như là bù hoãn bán (tiếng Anh: normal backwardation). Một thị trường hàng hóa nào đó ở trạng thái bù hoãn bán khi giá tương lai hay giá kỳ hạn thấp hơn giá giao ngay được dự kiến trong tương lai cho hàng hóa đó.
Game cờ Caro là một trong những trò chơi giúp phát triển trí tuệ hấp dẫn nhất hiện nay. Với luật chơi đơn giản nhưng không gây nghiện, game này đã và đang thu hút rất nhiều người chơi. vậy sau đây mời bạn tìm hiểu Cờ Caro là gì? Cách chơi và luật chơi game đánh cờ caro online hay chiến thuật chơi luôn thắng mọi đối thủ hay tải caro online cho điện thoại qua bài viết. Cờ ca-rô (hay sọc ca-rô) là một trò chơi dân gian. Cờ ca-rô trong tiếng Triều Tiên là omok (오목), tiếng Trung là 五子棋 (bính âm: wǔzǐqí) và trong tiếng Nhật là 五目並べ (gomoku narabe); tiếng Anh, sử dụng lại tiếng Nhật, gọi là gomoku. Ban đầu loại cờ này được chơi bằng các quân cờ vây (quân cờ màu trắng và đen) trên một bàn cờ vây (19×19). Quân đen đi trước và người chơi lần lượt đặt một quân cờ của họ trên giao điểm còn trống. Người thắng là người đầu tiên có được một chuỗi liên tục gồm 4 quân hàng ngang, hoặc dọc, hoặc chéo không bị chặn đầu nào. Nếu bị chặn một đầu thì người đó cần có chuỗi 5 quân liên tục mới thắng. Nếu chuỗi 5 quân liên tục bị chặn cả hai đầu thì trò chơi tiếp tục. Một khi đã đặt xuống, các quân cờ không thể di chuyển hoặc bỏ ra khỏi bàn, do đó loại cờ này có thể chơi bằng giấy bút. Ở Việt Nam, cờ này thường chơi trên giấy tập học sinh (đã có sẵn các ô ca-rô), dùng bút đánh dấu hình tròn (O) và chữ X để đại diện cho 2 quân cờ. Trong các luật bổ sung như vậy thì luật renju (theo tên gọi của người Nhật) là phức tạp và chặt chẽ nhất, đồng thời cũng giúp cân bằng cơ hội của quân trắng (đi sau) với quân đen. Trước khi đến với luật chơi cờ Caro cụ thể bạn cần biết được các thuật ngữ trong trò chơi này. Bằng cách này, bạn sẽ hiểu được cách chơi một cách tường tận và chính xác nhất. Nếu có bàn cờ Vây, bạn có thể tận dụng nó để chơi cờ Caro. Ngoài ra, bạn có thể dùng tập học sinh kẻ ô và bút để chơi. Bạn không phải lo về bàn cờ cũng như quân cờ Caro nếu như chơi trò này trên ứng dụng di động. Các quân cờ chính là quân cờ vây hay những ký hiệu X và O. Một bàn cờ Caro có tối thiểu 2 người chơi. Tuy nhiên, trong dân gian vẫn có biến thể 3 hoặc 4 người chơi sử dụng các ký hiệu khác nhau làm quân cờ của mình. Lượt chơi: Lượt chơi xoay vòng và mỗi người sẽ đi nước cờ của mình sao cho có lợi nhất. Nước ba hay còn được gọi là nước Nửa chiếu hết. Đây là thuật ngữ chỉ 3 quân cờ nằm trên cùng một hàng và có thể tạo thành 4 quân liên tiếp chỉ với nước cờ tiếp theo. Trong bàn cờ, bạn có càng nhiều nước 3 càng lợi thế. Nước 4 hay nước Chiếu là cách để nhắc đến 4 quân nằm trên cùng một hàng. Nếu không bị chặn thì bạn có thể giành chiến thắng nhanh chóng chỉ với nước đi kế tiếp. Điều này có thể tạo nên các nước cờ Caro độc và hay. Nếu một hàng có nhiều hơn 5 nước cờ liên tiếp nhau thì nó được gọi là nước Overline. Tuy nhiên, trong luật Renju, nước Overline không được chấp nhận. Nước thắng trong luật chơi cờ Caro chính là nước 5. Nếu bạn sở hữu năm quân đồng màu, đồng chất đặt cạnh nhau thì ván cờ kết thúc. Lúc này phần thắng sẽ thuộc về bạn. Luật cờ Caro quốc tế được áp dụng cho các giải đấu hiện nay chính là luật Swap2. 3 quân cờ đầu tiên được người đi trước đặt vào bất kỳ vị trí nào và đó là những quân cờ màu đen. Người chơi tiếp theo sẽ đi nước tiếp theo nếu như đồng ý 3 nước của người chơi đầu tiên. Nếu không đồng ý, người đó có thể thêm vào bàn cờ 2 quân cờ để tạo thế mới. Trong luật quốc tế, Overline không được xem là chiến thắng. Nếu trường hợp này xảy ra thì trận đấu sẽ tiếp tục đến khi xuất hiện nước 5. Trường hợp không xuất hiện nước 5 thì trận đấu được sử hòa. Trong luật quốc tế thì người nào thắng 5/9 ván Caro thì người đó là người chiến thắng. Trong quá trình chơi, khi một chời chơi xin hòa và đối phương đồng ý. Khi đã đi hết bàn cờ mà chưa phân thắng bại thì cũng coi như hòa. Ngoài cờ Caro, bạn có thể tìm hiểu thêm về chơi cờ Vây online để nhận những phần quà hấp dẫn nhất. Không những thế bạn còn có cơ hội đổi thưởng tiền thật 100%. Đây là luật chơi cờ Caro được sử dụng tại nước ta. Như đã trình bày ở trên, nếu như nước 5 của bạn bị chặn 2 đầu thì không được xem là chiến thắng. Vì vậy, trước khi bắt đầu cuộc cờ, bạn nên đọc qua quy luật riêng biệt của forum đó để tránh những hiểu lầm không cần thiết. Luật về quân cờ trung lập khá mới ở nước ta. Trong một bàn cờ Caro kích thước 19×19 vẫn áp dụng quy tắc người thắng là người có nước nhanh nhất. Điểm khác biệt duy nhất ở đây chính là 2 quân cờ đầu tiên được gọi là quân cờ trung lập. 2 quân cờ 1 đỏ 1 đen được đặt cạnh nhau dưới sự sắp xếp của người cầm nước cờ trắng. Quân đỏ được đặt ở giữa bàn cờ 13X13.
Cờ ca-rô
Cờ ca-rô (hay sọc ca-rô) là một trò chơi dân gian. Cờ ca-rô trong tiếng Triều Tiên là omok (오목) và trong tiếng Nhật là 五目並べ (gomoku narabe); tiếng Anh, sử dụng lại tiếng Nhật, gọi là gomoku. Ban đầu loại cờ này được chơi bằng các quân cờ vây (quân cờ màu trắng và đen) trên một bàn cờ vây (19x19). Quân đen đi trước và người chơi lần lượt đặt một quân cờ của họ trên giao điểm còn trống. Người thắng là người đầu tiên có được một chuỗi liên tục gồm 4 quân hàng ngang, hoặc dọc, hoặc chéo không bị chặn đầu nào. Nếu bị chặn một đầu thì người đó cần có chuỗi 5 quân liên tục mới thắng. Nếu chuỗi 5 quân liên tục bị chặn cả hai đầu thì trò chơi tiếp tục. Một khi đã đặt xuống, các quân cờ không thể di chuyển hoặc bỏ ra khỏi bàn, do đó loại cờ này có thể chơi bằng giấy bút. Ở Việt Nam, cờ này thường chơi trên giấy tập học sinh (đã có sẵn các ô ca-rô), dùng bút đánh dấu hình tròn (O) và chữ X để đại diện cho 2 quân cờ.
Truyền thuyết đô thị là phiên bản hiện đại của câu chuyện cổ tích, thứ gì đó bắt nguồn từ một hạt sự thật có thể và bị làm trầm trọng thêm cho đến khi nó không còn giống với thực tế nữa. Đây dường như là những gì đã xảy ra ở đây. Truyền thuyết nói rằng những cá sấu cống này bị bạch tạng và mù do môi trường ngầm tối tăm. Ở đây tôi bao gồm một liên kết đến bài báo đầy đủ, nguyên bản của tờ báo New York Times từ năm 1935, bắt đầu toàn bộ huyền thoại về nhà may vá cống. Như bạn có thể thấy, các báo cáo cuối cùng đi đến kết luận rằng cá sấu dài gần 8 feet hoàn toàn không phải là người từ chối cống rãnh. Thay vào đó, nó là một người trốn thoát từ một chiếc thuyền đi qua trên con sông gần đó đã tìm được đường vào cống thoát nước một nửa và quá lạnh để đưa ra bất kỳ sự kháng cự nào đối với người cứu hộ cuối cùng của nó. Từ báo cáo này xuất hiện huyền thoại tồn tại cho đến ngày nay rằng các thuộc địa của cá sấu còn sống và phát triển mạnh trong hệ thống cống NYC. Nếu bạn xem qua chỉ số báo New York Times, bạn có thể tìm thấy một vài câu chuyện đề cập đến cá sấu trong và xung quanh thành phố. 1927 - Một con cá sấu Florida có kích cỡ tốt ở Florida được tìm thấy trong một con suối bị bão cuốn ở Middletown, NY. Sau đó, người ta đã phát hiện ra rằng cá sấu đã trốn thoát vài tháng trước từ một cái chảo trong khuôn viên của Tiến sĩ FE Fowler. 1929 - Cá sấu hai chân được tìm thấy trên cỏ tại nhà của một người nào đó ở Port Jervis, NY. 1931 - Một cá sấu hai chân khác được tìm thấy trong các bụi rậm trên khu đất của ai đó ở Pleasantville, Westchester, NY. 1932 - Cảnh sát tổ chức săn cá sấu ở quận Westchester sau khi hai cậu bé mang cá sấu chết ba chân và tuyên bố sông Bronx đang tràn vào cùng với chúng. 1932 - Cuộc săn cá sấu đã bị hủy bỏ sau khi quyết định các cậu bé đã nhìn thấy rắn hoặc thằn lằn dưới sông, chứ không phải cá sấu. Cá sấu chết người mà họ mang đến được xác định là một con cá sấu thú cưng đã trốn thoát khỏi sân sau của một người hàng xóm vài tuần trước khi hết hứng thú. 1933 - Một đội súng trường được tổ chức tại đây (Belleville, NJ) hôm nay để săn lùng cá sấu ở sông Passoms River Cảnh sát Belleville cho biết có khả năng cá sấu là một trong số sáu loài bò sát đã biến mất năm ngoái từ một đầm phá trong Công viên Quân sự, Newark. 1935 - Một con dấu và hai cá sấu xuất hiện ở Quận Westchester. Một người đánh cá ba chân đã được tìm thấy ở Bắc Yonkers bởi Joseph Domomico sáng hôm qua. Một kích thước khác gấp đôi đã được tìm thấy, đã chết, ở phía đông của Grassy Sprain Reservoir. 1937 - Một thuyền trưởng sà lan bắt được một con cá sấu bốn chân ở sông Đông. Cá sấu đã rõ ràng kiệt sức và dường như không có chút hài hước nào để chiến đấu. 1937 - Những hành khách đang chờ đợi trên sân ga phía đông của ga bảo tàng Brooklyn của tàu điện ngầm IRT ngay trước nửa đêm đã giật mình vì sự xuất hiện bất ngờ của một con cá sấu hai chân xuất hiện từ một chiếc hộp từ chối. Ở đó, hành khách trên trạm đã nói với cảnh sát rằng ngay trước khi cá sấu xuất hiện, một người đàn ông đã đặt một bó lớn vào thùng rác. 1938 - Năm cá sấu bị bắt ở hồ Huguenot, Westchester, NY, trong đó lớn nhất là 19 inch. 1942 - Một con cá sấu bốn chân (được cho là đã trốn thoát khỏi một bể cá ngoài trời trong một ngôi nhà địa phương) đã được tìm thấy ở hồ Mindowaskin, Westfield, NJ. 1982 - Một con cá sấu 26 inch được tìm thấy đang bơi trong hồ chứa nước ởico, Westchester, NY, một phần của hệ thống cấp nước thành phố New York. 1995 - Một con cá sấu bốn chân đã được đưa ra khỏi hồ Kissena ở Queens. Ở đây bạn có thể đọc báo cáo của một nhà báo về việc cá nhân bắt gặp một con cá sấu dài hai feet gần đây như năm 2010. Vì vậy, rất nhiều ở đó để giữ cho câu chuyện sống và tươi mới trong tâm trí của mọi người. Điều đáng chú ý là không có báo cáo nào trong số này thực sự liên quan đến cống. Ngoài ra, có vẻ như Westchester là một phần của New York mà bạn có thể muốn tránh nếu bạn sợ gặp một con cá sấu trong thành phố. Chắc chắn, có rất ít nghi ngờ đã có cá sấu trong hệ thống thoát nước của thành phố New York và có lẽ rất nhiều thành phố khác trên khắp Hoa Kỳ. Cho đến giữa thế kỷ 20, du khách đến Florida đã có thể mua cá sấu con làm kỷ niệm cho chuyến đi đến bang Nắng. Về mặt kỹ thuật, việc gửi cá sấu qua thư ở Hoa Kỳ vẫn hợp pháp miễn là chúng không vượt quá hai mươi inch. Một sự tò mò dễ thương khi chúng còn nhỏ có thể, nhưng một khi nhận ra người đã mua chúng, rằng đây không phải là những con thú cưng dễ thương, đáng yêu, chúng cần phải loại bỏ chúng. Câu trả lời cho nhiều người là xả chúng xuống nhà vệ sinh hoặc vứt chúng trong vùng nước của sông NYC. Cuối cùng, tìm đường vào hệ thống cống rãnh, bất kỳ cá sấu con nào sống sót sau hành trình qua hệ thống ống nước sẽ nhanh chóng thấy mình trong một môi trường thù địch mà chúng không phù hợp. Ban đầu, chúng sẽ ổn, có thể ăn chuột và các động vật nhỏ khác, nhưng đến mùa đông, cái lạnh sẽ là quá nhiều để một loài bò sát sống sót. Cá sấu thường sống ở những khu vực có nhiệt độ từ 78 đến 90 độ F. Louisiana và Florida là hai tiểu bang chính. Cá sấu không thể tồn tại trong môi trường có chứa salmonella, shigella hoặc E.Coli, tất cả chúng có thể được tìm thấy trong hệ thống cống rãnh. Một điều khác cần nhớ là có một lực lượng lao động khổng lồ hoạt động trong cống của NYC và họ không thấy bất kỳ bằng chứng nào về những sinh vật này. Đã tuyên bố tất cả những điều này, những tin đồn sẽ không chết và mọi người sẽ luôn tìm thấy lý do để tin vào những câu chuyện đáng sợ như một hình thức giải trí ly kỳ rẻ tiền. Họ cho rằng cá sấu cống thoát khỏi nguồn cung chuột dồi dào. Tàu điện ngầm NYC là một hệ thống tiện ích rộng lớn, bao gồm nguồn cung cấp hơi nước dồi dào để giữ ấm cho chúng trong mùa đông. Họ cũng chỉ ra thực tế rằng cá sấu là những người sống sót tự nhiên do thực tế rằng chúng là tổ tiên sống gần nhất của khủng long. Thật thú vị khi không ai trong số họ trả lời câu hỏi về thực tế là họ không thể sống trong môi trường bệnh tật. Điều này không có nghĩa là cá sấu không sống ở NYC hoặc không thể tìm thấy trong cống. Chúng tôi đã thấy rất nhiều câu chuyện nổi bật ở trên cho thấy đó không phải là trường hợp. Tuy nhiên, điều đó không giống như nói các thuộc địa của cá sấu khổng lồ, mù, bạch tạng, sinh sản trong hệ thống cống rãnh. Chúng tôi đã thấy rằng cá sấu không phù hợp với môi trường và không thể phát triển mạnh ở đó. Cũng có thể có một câu chuyện mới bất kỳ ngày nào trong một báo cáo mới về một con cá sấu được tìm thấy trong cống NYC. Nếu có, thì đó sẽ là một sinh vật bị cô lập, có lẽ đã trốn thoát khỏi một sở thú hoặc một thú cưng kỳ lạ đã bị loại bỏ.
Cá sấu trong cống thoát nước
Những mẫu chuyện về cá sấu trong cống thoát nước xuất hiện từ cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 và được xem như một loại truyền thuyết đô thị. Những mẫu chuyện này được thuật lại dựa trên các báo cáo về việc nhìn thấy cá sấu ở những địa điểm khác thường, đặc biệt là thành phố New York. Thời báo New York đã báo cáo lại rằng thành phố đã tiến hành các hoạt động giải cứu cá sấu hằng năm từ những nơi chúng được nuôi như thú cưng một cách bất hợp pháp (có thể đã được đặt hàng trực tuyến từ một số tiểu bang và sự hợp pháp khi được phép vận chuyển những cá thể nhỏ) và một số từ môi trường bên ngoài (nơi chúng có thể thu hút sự chú ý của mọi người) chủ yếu là trên mặt đất. Mặc dù những con cá sấu trốn thoát và những cá thể được thả ra có thể đã sinh sống trong một khoảng thời gian ngắn trong hệ thống cống rãnh tại New York nhưng đa phần đều không thể tồn tại lâu do điều kiện nhiệt độ thấp và lượng lớn vi khuẩn trong phân người được thải vào các cống rãnh.
Sóng dừng là gì? Điều kiện để có sóng dừng trên sợi dây có độ dài l. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây nhé!. Một câu hỏi khác đặt ra: Ta quan sát được gì khi trên dây có sóng dừng?Khi trên dây có sóng dừng, ta sẽ quan sát được những bụng sóng xen kẽ các nút sóng.Từ các điều kiện của từng trường hợp, chúng ta có thể áp dụng giải nhanh các bài toán trắc nghiệm về chu kỳ sóng. Sóng cơ là phần quan trọng, xuất hiện nhiều trong đề thi THPT Quốc gia Vật lý. Vì vậy, các em cần tập trung học tập ngay từ đầu để nắm vững được những lý thuyết căn bản, nhằm áp dụng vào giải các bài tập. Các dạng bài tập phần này bao gồm những dạng chính sau:. Dạng 1: Tìm các đại lượng vật lý trong sóng cơ học: tính bước sóng. Các điểm dao động cùng pha, ngược pha. Tính tần số truyền sóng và chu kỳ truyền sóng. Dạng 2: Từ đó viết phương trình truyền sóng. Tìm độ lệch pha giữa hai điểm dao động trên một đường truyền. Các dạng bài tập này đều có những phương pháp, cách giải nhanh trắc nghiệm đã được chúng tôi tổng hợp đầy đủ. Các em hãy tham khảo trong Tổng hợp công thức ôn thi Vật lý 12. Dưới đây là bộ tài liệu về các dạng bài tập sóng dừng. Chúc các em học tốt!
Sóng dừng
Trong vật lý, sóng dừng, hay còn được gọi là sóng đứng, sóng tĩnh là một loại sóng dao động theo thời gian nhưng có biên độ đỉnh sóng không di chuyển trong không gian. Biên độ đỉnh của dao động sóng tại bất kỳ điểm nào trong không gian là một hằng số không đổi với thời gian và mọi dao động tại những điểm phân biệt trong suốt toàn bộ sóng đều cùng pha. Các phần tử điểm mà tại đó biên độ là tối thiểu được gọi là các nút sóng và các phần tử có biên độ tối đa được gọi là các bụng sóng. Sóng dừng được phát hiện lần đầu bởi Michael Faraday vào năm 1831. Faraday đã quan sát thấy hiện tượng sóng dừng trên bề mặt chất lỏng trong một bình chứa rung. Franz Melde là người đã đặt ra thuật ngữ "sóng dừng" (tiếng Đức: stehende Welle hoặc Stehwelle) vào khoảng những năm 1860 và đã chứng minh được hiện tượng này trong thí nghiệm cổ điển của ông với các sợi dây rung. Hiện tượng này có thể xảy ra do môi trường truyền của một sóng chuyển động ngược chiều truyền của nó; hoặc có thể phát sinh bên trong môi trường sóng đứng yên, do sự giao thoa giữa hai sóng truyền theo hai hướng ngược nhau trong đó (thường là một sóng và sóng phản xạ của nó).
Sưu tập 999 mẫu nhà đẹp bao gồm các phương kết cấu + kiến trúc khác nhau, giúp chủ đầu tư giảm thiểu tối đa chi phí, tiết kiệm hàng chục triệu đồng. Bạn có thể đưa ra yêu cầu, thảo luận và được các chuyên gia tư vấn . Thỏa sức lựa chọn mẫu nhà đẹp, miễn phí tư vấn thiết kế xây dựng nhà. Đánh giá tác động môi trường (gọi tắt là ĐTM) là việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó. Các khái niệm về báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM.2. Vì sao phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM3. Vai trò và ý nghĩa trong việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM4. Cơ sở pháp lý áp dụng lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM5. Đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM6. Quy trình lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM7. Thời gian thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM. Vai trò và ý nghĩa trong việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM. Cơ sở pháp lý áp dụng lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM. Thời gian thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM. – Báo cáo Đánh giá tác động môi trường ĐTM ( tiếng Anh là EIA) là việc phân tích, dự báo các tác động của dự án đầu tư đến môi trường để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó ( Theo khoản 23, điều 3 giải thích từ ngữ, Chương I Quy định chung, luật bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13). – Lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM là cơ sở để doanh nghiệp biết rõ hơn về hiện trạng chất lượng môi trường của mình từ đó có thể đề ra các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm hiệu quả nhằm đạt các Tiêu chuẩn môi trường theo quy định. Hơn nữa kết quả giám sát chất lượng môi trường sẽ là cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đánh giá về công tác bảo vệ môi trường của Công ty. – Ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp, tạo sự chủ động trong vấn đề bảo vệ môi trường nơi hoạt động của dự án. – Hợp thức hóa quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phát triển KT-XH đi đôi với bảo vệ môi trường. + Giúp chọn phương án tốt để khi thực hiện dự án phát triển ít gây tác động tiêu cực đến môi trường. + Giúp Nhà nước, các cơ sở và cộng đồng có mối liên hệ chặt chẽ hơn. – Nghị định 18/2015/NĐ-CP ban hành ngày 14/02/2015, Nghị định của Chính phủ quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, báo cáo đánh giá tác động môi trường chiến lược, báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM, kế hoạch bảo vệ môi trường. Đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường ĐTM được quy định tại phụ lục II nghị đinh số 18/2015/NĐ-CP ( quy định về quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường). Tại phụ lục II này bao gồm nhóm các dự án về xây dựng, nhóm các dự án sản xuất vật liệu xây dựng, dự án về giao thông, dự án về điện tử, năng lượng, phóng xạ, dự án liên quan đến thủy lợi, khai thác rừng, trồng trọt, dự án về thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, dự án về dầu khí, dự án về xử lý, tái chế chất thải, dự án về cơ khí, luyện kim, dự án chế biến gỗ, sản xuất thủy tinh, gốm sứ, … và các dự án khác. Lưu ý: Nếu doanh nghiệp đã đi vào hoạt động mà chưa lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ĐTM hãy tiến hành lập bổ sung ngay đề án bảo vệ môi trường chi tiết để tránh vi phạm pháp luật.
Đánh giá tác động môi trường
Đánh giá môi trường là đánh giá các hậu quả môi trường (tích cực lẫn tiêu cực) của một kế hoạch, chính sách, chương trình, hoặc các dự án thực tế trước khi quyết định tiến hành thực hiện hay không. Trong bối cảnh này, thuật ngữ "Đánh giá tác động môi trường" (EIA hay DTM) thường được sử dụng khi áp dụng cho các dự án thực tế của các cá nhân hoặc công ty và thuật ngữ "đánh giá môi trường chiến lược" (SEA) áp dụng cho các chính sách, kế hoạch và chương trình thường được các cơ quan nhà nước thực hiện. Mục đích của việc đánh giá này để chắc rằng các nhà ra quyết định quan tâm đến các tác động của dự án đếm môi trường khi quyết định thực hiện dự án đó không. Tổ chức quốc tế về Đánh giá tác động môi trường (IAIA) đưa ra định nghĩa về việc đánh giá tác động môi trường gồm các công việc như "xác định, dự đoán, đánh giá và giảm thiểu các ảnh hưởng của việc phát triển dự án đến các yếu tố sinh học, xã hội và các yếu tố liên quan khác trước khi đưa ra quyết định quan trọng và thực hiện những cam kết.
Trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam ta, nhiều vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước đã được nhân dân vinh danh và lưu truyền cho con cháu đời sau. Một trong số đó trở thành những vị thần linh trong tín ngưỡng dân gian, và được thờ phượng cho đến ngày nay để bày tỏ lòng tôn kính cũng như tri ân đến những đóng góp to lớn của họ. Bốn vị thánh trong Tứ bất tử1. Thánh Tản Viên (Sơn Tinh)2. Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Từ “Tứ” trong “Tứ bất tử” có nghĩa là bốn. Theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Tứ bất tử là tên gọi chung của “bốn vị thánh bất tử”. Bốn vị thánh đó bao gồm:. Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh): Một vị thần ở núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của các ngọn núi ở Việt Nam. Thánh Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng): Ông tượng trưng cho tinh thần chống giặc ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Chử Đồng Tử hay Chử Đạo Tổ: Ông tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự sung túc giàu có. Thánh Mẫu Liễu Hạnh: Trong hệ thống Tứ phủ, công chúa Liễu Hạnh còn được gọi là Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng và nghệ thuật văn thơ. Có thể bạn sẽ hỏi tại sao lại là Tứ bất tử mà không phải là Tam hay Ngũ bất tử? Phải chăng nó có liên quan đến Tứ diệu đế trong Phật giáo, Tứ tượng đồng quy của phong thủy Trung Hoa hay phim Bộ tứ siêu đẳng của Mỹ, tôi đùa thôi. Câu trả lời đến từ tư duy của người Việt Nam ta. Tứ hay bốn được cho là một hằng số được dùng để khái quát một phạm trù nào đó. Ví dụ, chúng ta có thể bắt gặp Tràng An từ hổ, Sơn Tây tứ quý, Tứ trấn, Tứ phủ hay An Nam tứ đại tài đâu đó trong các tài liệu lịch sử Việt Nam. Điều này cho thấy rằng, dường như các cơ cấu giá trị vật chất và tinh thần thường được bắt đầu bằng “bộ tứ”. Những gì độc đáo nhất, tiêu biểu nhất và mang tính thời đại thường được đưa vào tập hợp “tứ” này. Trở lại với Tứ bất tử, theo truyền thuyết thì 3 vị thánh nam đầu tiên có từ thời vua Hùng Vương, và được thờ cúng từ rất trong dân gian ta. Còn Liễu Hạnh công chúa mới được đưa vào Tứ bất tử từ thời Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn và được cấp sắc phong là “Mẫu nghi thiên hạ – Mẹ của muôn dân”. Theo các nhà nghiên cứu (Lê Đức Thịnh 2001, Trần Ngọc Thêm 2001), Thánh Tản Viên được coi là vị thánh đầu tiên được nhắc. Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là vị thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung. Tuy nhiên, đã có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh này. Các học giả thời phong kiến (các sử gia, các nhà trước tác) cho Tản Viên là “hạo khí anh linh của trời đất sinh ra” (Kiều Phú, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc cho “Tản Viên là 1 trong 50 người con của Lạc Long Quân, Âu Cơ theo cha xuống biển ” (đúng ra thì phải là chắt khoảng đời thứ 19). Các tác giả Lịch triều Hiến chương (Phan Huy Chú) và Việt sử Thông giám cương mục … cũng đều có những quan niệm tương tự. Trong khi đó theo quan niệm của mọi người, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thật, xuất thân từ tần lớp nghèo khổ trong dân chúng. Chàng tên thực là Nguyễn Tuấn, có tài “hô phong hoán vũ”, dũng cảm, được Hùng Vương kén làm rể, gả con gái Mỵ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn nên đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiều năm trời. Rốt cuộc, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận…. Quan niệm này phù hợp với những quan niệm chung đã có về các thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng “Thánh Tản Viên” có tính nhất quán và hoàn chỉnh. Thánh Gióng là một vị Thánh quá quen thuộc với người Việt ta. Ông còn được gọi là Phù Đồng Thiên Vương, người đánh đuổi giặc Ân trong đời vua Hùng Vương thứ VI, người làng Phủ Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Thánh Gióng tượng trưng cho tinh thần chống ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Truyền thuyết này gắn bó và lưu truyền với mọi thế hệ người Việt. Thông qua một câu chuyện một đứa trẻ kì lạ, lên 3 rồi mà chẳng biết nói cười gì cả. Vậy mà khi giặc Ân từ phương Bắc tới thì cậu bé tầm thường kia bỗng nhiên đổi khác, đứng dậy nói năng hết sức dõng dạc và mau chóng lớn thành một tráng sĩ. Vị tráng sĩ này cưỡi ngựa sắt, đội nón sắt, cầm gậy sắt… một mình xông ra giữa trận tiền. Đánh tan giặc Ân, vị anh hùng bỏ lại tất cả, một mình một ngựa bay thẳng lên trời. Trong tâm thức của người dân đất Việt, Thánh Gióng là hào khí của bản hùng ca hoành tráng từ ngàn xưa vọng lại. Niềm tự hào, kính trọng về sức mạnh đoàn kết của dân tộc trong việc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, còn là bản tình ca tuyệt đẹp về tình mẫu tử, về trách nhiệm của mỗi con người đối với tổ quốc. Huyền thoại Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ) là câu chuyện của Đạo Giáo, Đạo Thần Tiên, một tín ngưỡng vốn du nhập từ bên ngoài vào nước ta từ rất sớm. Cốt lõi huyền thoại cũng như tín ngưỡng Chử Đạo Tổ là tín ngưỡng Đạo giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Chử Đồng Tử chính là người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác. Chử Đồng Tử đi vào tâm thức dân gian không chỉ là người con hiếu thảo, nhân ái, mà còn là biểu tượng của một chí hướng phát triển cộng đồng: mở mang khai phá đồng bằng trũng lầy thành cánh đồng tốt tươi, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải và phát triển các ngành nghề khác, đặc biệt nghề buôn bán. Chử Đồng Tử là người Chữ Xá, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh là con trai của ông Chử Cù Vân thường được người ta tôn là Chử Đạo Tổ, Chữ Đồng Tử đã kết duyên với Tiên Dung Công Chúa , con gái Vua Hùng Vương, sự tích được kể rõ ràng trong Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính. Chử Đồng Tử tượng trưng cho tình yêu, hôn nhân và sự sung túc giàu có. Theo sử sách ghi lại, Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã mở một hướng mới cho sự phát triển dân tộc, tạo nên sự giao lưu giữa dân tộc và cộng đồng bên ngoài. Theo truyền thuyết dân gian, Liễu Hạnh là con gái của Ngọc Hoàng; vì phạm lỗi bị đầy xuống trần gian. Tuy nhiên, nhiều người khác thì tin rằng Mẫu Liễu Hạnh vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần để giúp đỡ dân chúng Đại Việt. Trong hệ thống điện thần Việt Nam, Liễu Hạnh là một trong Tứ bất tử, là vị thánh của tín ngưỡng tứ phủ thờ Mẫu, một tín ngưỡng có cội nguồn lâu đời và độc đáo của Việt Nam. Trong tiềm thức của nhân dân, Liễu Hạnh là một vị thần, một biểu tượng của khát vọng tự giải phóng, nhất là phụ nữ muốn thoát khỏi sự ràng buộc của xã hội, của lễ giáo phong kiến, khát vọng vươn tới đạt được những ước vọng của hạnh phúc gia đình. Đó cũng là ý thức hệ nhân sinh của người dân Việt Nam đã được ký thác niềm tin vào biểu tượng người mẹ. Theo sử sách, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là công chúa của vua Lê Thái Công, người làng Vân Cát , huyện vụ bản tỉnh Nam Định. Trong tín ngưỡng đạo Mẫu, bà được cho là người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ. Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Theo nghiên cứu của TS Nguyễn Xuân Diện, trước kia khi Liễu Hạnh chưa xuất hiện (giáng thế) thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là một trong Tứ bất tử. Khi Liễu Hạnh “giáng thế” vào khoảng thế kỷ XVI cũng chính là lúc ý thức hệ Nho giáo ở nước ta đang đi vào con đường suy thoái. Thực trạng xã hội loạn lạc, chiến tranh giết chóc, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ, khao khát cháy bỏng về một cõi tâm linh an lạc, siêu thoát. Liễu Hạnh “giáng thế” đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tâm linh của mọi giai tầng trong xã hội, phù hợp với tâm thức dân gian Việt Nam. Nếu so với Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không thì sự phụng thờ Liễu Hạnh bắt nguồn sâu xa từ trong tín ngưỡng thuần Việt của tâm thức dân gian, rồi lại xâm thực và hòa đồng vào tín ngưỡng Tứ phủ, nên tín ngưỡng này mang nhiều hơi hướng thời đại, cập nhật và phù hợp với thực tại. Từ Đạo Hạnh, còn được gọi là Thánh Láng; Nguyễn Minh Không, còn được gọi là Thánh Nguyễn, các vị này là Thánh Tổ của Phật giáo đóng vai trò trong Tứ Bất Tử trước thế kỷ 15- 16 tượng trưng cho khả năng phi phàm tồn tại trong chính mỗi người nếu được khai phát một cách đúng đắn, họ là đại diện của văn hóa Lý – Trần vốn lấy Phật đạo làm quốc giáo. Từ đó đến nay, tín ngưỡng Tam phủ rồi Tứ phủ luôn luôn là một trong những trung tâm tín ngưỡng của tâm thức dân gian. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Thánh Mẫu Liễu Hạnh mang tính bao trùm, có phạm vi rộng lớn hơn so với ảnh hưởng của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không là điều đã khẳng định trong dân gian. Qua thời gian, cùng với sự xuất hiện những yếu tố mới, mang tính thời đại về tư tưởng, triết lý, quan niệm thì niềm tin, tín ngưỡng, quan niệm về Tứ bất tử có sự thay đổi, dẫn đến việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đứng vào hàng Tứ bất tử như là một tất yếu. Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập. Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau:. “… Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy.”. “Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. Vì bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào.”. Những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn và thường khẳng định Tứ bất tử gồm: Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh Công chúa. Ví dụ như Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện Trên đỉnh non Tản in trong tập Vang bóng một thời, có viết:. “… Bốn vị Tứ bất tử nơi thế giới u linh: thánh Tản Viên, chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và Phù Đổng thiên vương”. Hà Kỉnh (1922-1995) trong cuốn Truyền thuyết Sơn Tinh có đoạn: “Ở Việt Nam ta có bốn vị thần bất tử là: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh, Tản Viên Sơn Thần”. Là một bộ phận không thể tách rời trong di sản văn hóa của dân tộc, Tứ bất tử là một nét độc đáo, riêng biệt của người Việt Nam được kết tinh từ những giá trị truyền thông như dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử. Ngày nay, tín ngưỡng thờ Tứ bất tử tiếp tục làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đồng thời góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tứ bất tử
Tứ bất tử (chữ Hán: 四不死) là tên gọi chung của bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam; đó là Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử và Công chúa Liễu Hạnh. Tản Viên Sơn Thánh, hay Sơn Tinh, là vị thần núi Tản Viên (Ba Vì), núi tổ của các núi ở Việt Nam. Tản Viên tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai. Phù Đổng Thiên Vương hay Thánh Gióng, tượng trưng cho tinh thần chống giặc ngoại xâm và sức mạnh tuổi trẻ. Chử Đồng Tử, còn được gọi là Chử Đạo Tổ; tượng trưng cho lòng hiếu nghĩa, tình yêu, hôn nhân và sự sung túc, giàu có. Công chúa Liễu Hạnh hay Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh; tượng trưng cho cuộc sống tinh thần, đức hạnh, trí tuệ, sự thịnh vượng, thơ văn. Trong 4 vị trên thì 3 vị nam thần đầu tiên theo truyền thuyết có từ thời Hùng Vương và đã được thờ ở rất nhiều nơi từ rất lâu. Riêng Mẫu Liễu Hạnh là người phụ nữ duy nhất có thật, mới được đưa vào hệ thống Thần Thánh từ thời Hậu Lê.
WINNER được biết đến là một nhóm nhạc nam nổi tiếng tại xứ Kim Chi, gồm có 4 thành viên điển trai và tài hoa. Với giọng ca truyền cảm và nội lực đã thu hút hàng ngàn khán giả trong và ngoài nước. Con đường đi đến vinh quan của nhóm WINNER thật sự rất gian nan được ví von như con ghẻ của YG ENTERTAIMENT trước khi trở thành một nhóm nổi tiếng của Kpop. Sau một thời gian vắng bóng, WINNER trở lại với nghệ thuật với ca khúc MILLIONS và lập tức lấy lại chỗ đứng trong lòng khác giả và cũng chính ca khúc ấy đã tiếp nối thành công của nhóm WINNER sau này. Cùng Wiki Cách Làm tìm hiểu tiểu sử nhóm WINNER này nhé!. – Ngày 17 tháng 8 năm 2014, WINNER chính thức được lên song truyền hình ở sân khấu Inkigayo. – Ngày 25 tháng 11 năm 2016, thành viên Nam Tae-hyun rời khỏi nhóm, WINNER vẫn tiếp tục duy trì hoạt động với 4 thành viên còn lại. Năm 2014.WINNER mới chính thức debut bằng album đầu tay S/S. Sau khi abum này phát hành đã giúp nhóm nhạc WINNER lập kỷ lục khi giật cúp nhanh nhất chỉ sau 5 ngày chính thức debut. Albums được bán ra hơn 200,000 bản và hơn 8,6 triệu bản thu nhạc số, bao gồm 4,749,219 bản thu bài hát của nhóm và 3,885,050 bản solo của từng thành viên. Tháng 7 đến tháng 10/2010, Kang Seung-yoon xếp hạng 4 trong cuộc thi tìm kiếm tài năng Superstar K2 và bất đầu được biết đến. Anh được mời thu âm ca khúc “You’re My Heaven” cho bộ phim “Midas” công chiếu năm 2011. Mino đã tự mình sáng tác và biểu diễn nhiều bài hát/rap của riêng cá nhân trong đó có nhiều bản mixtape khác. Anh từng là thực tập sinh ở học viện Joy Dance – Plug In Music Academy của nhóm nhạc gạo cội BIGBANG Seungri. Tháng 7 đến tháng 10/2010, Kang Seung-yoon xếp hạng 4 trong cuộc thi tìm kiếm tài năng Superstar K2 và bất đầu được biết đến. Năm 2011, anh được mời thu âm ca khúc “You’re My Heaven” cho bộ phim “Midas”. Khi còn đi học ở trường, SeungHoon bị cho biệt hiệu là “kẻ lập dị”khó hòa hợp với các bạn khác. Cha của SeungHoon đang công tác ở nước ngoài nên gia đình anh ít có thời gian ở bên nhau nhiều. Năm 17 tuổi anh đã rời khỏi Busan đến Seoul để theo đuổi con đường chinh phục âm nhạc của mình.
Winner (nhóm nhạc)
Winner (tiếng Triều Tiên: 위너; RR: Wineo; thường ghi cách điệu là WINNER) là một nhóm nhạc nam thần tượng Hàn Quốc được thành lập vào ngày 17 tháng 8 năm 2014 bởi YG Entertainment. Nhóm ra mắt với đội hình ban đầu gồm 5 thành viên: Kang Seung-yoon, Song Min-ho, Nam Taehyun, Kim Jinwoo và Lee Seunghoon. Ngày 25 tháng 11 năm 2016, thành viên Nam Tae-hyun chính thức rời nhóm, Winner tiếp tục hoạt động với 4 thành viên còn lại. Năm 2010, Kang Seung Yoon tham gia vào cuộc thi Superstar K2 và dừng lại ở vị trí thứ tư. Năm 2011, anh ký hợp đồng với YG Entertaiment và tham gia diễn xuất trong sitcom Highkick: Revenge of the Short Legged. Năm 2013, anh ra mắt với tư cách là nghệ sĩ solo và phát hành nhiều bản nhạc, bao gồm bài hát nổi tiếng "It Rains".Năm 2010, Kim Jinwoo đã đến Học viện âm nhạc Joy Dance Plug và thử giọng thành công, anh bắt đầu gia nhập YGE với tư cách là thực tập sinh. Nam Taehyun được tuyển chọn thông qua một buổi thử giọng vào năm 2011. Lee Seunghoon tham gia cuộc thi K-pop Star 1 của SBS năm 2012 và dừng lại ở vị trí thứ tư.
Chi phí cố định là một loại chi phí mà không bị thay đổi phụ thuộc vào các chi phí là doanh thu (bảo hiểm, thuê nhà, thuê tài sản, lãi vay) hoặc quy mô của hoạt động sản xuất. Chi phí cố định là gì? là một câu hỏi thắc của nhiều khách hàng trong mọi lĩnh vực như kinh doanh, sản xuất. Theo đó chi phí biến đổi được định nghĩa như thế nào? Chi phí biến đổi và chi phí cố định có sự khác nhau ra sao?, đặc trưng của chi phí cố định như thế nào? và chi phí cố định có mấy loại?. Dưới đây, chúng tôi sẽ cùng quý vị tìm hiểu những nội dung giải đáp các câu hỏi trên một cách dễ hiểu, mới nhất. Chi phí cố định là một loại chi phí mà không bị thay đổi phụ thuộc vào các chi phí là doanh thu (bảo hiểm, thuê nhà, thuê tài sản, lãi vay) hoặc quy mô của hoạt động sản xuất. – Khái niệm: Chi phí cố định là một loại chi phí mà không bị thay đổi phụ thuộc vào các chi phí là doanh thu (bảo hiểm, thuê nhà, thuê tài sản, lãi vay) hoặc quy mô của hoạt động sản xuất. – Bản chất: không bị thay đổi bởi tác động liên quan, chi phí này vẫn được giữ nguyên. – Ví dụ chi phí cố định: công ty A có khoản chi phí cố định: 1 tỷ/tháng để thuê địa điểm sản xuất, lãi suất vay vốn ngân hàng trước đó để sản xuất điện thoai. Trường hợp công ty A không thực hiện sản xuất 1tháng, hoặc công ty vẫn duy trì sản xuất không nghỉ tạm thời thì chi phí này vẫn phải đảm bảo nghĩa vụ chi trả, đây là chi phí cố định. – Khái niệm: Chi phí biến đổi là loại chi phí bị thay đổi theo các chi phí là doanh thu bao gồm bảo hiểm, thuê nhà, thuê tài sản, lãi vay hoặc quy mô của hoạt động sản xuất. – Bản chất: Có bị thay đổi bởi các tác nhân như khối lượng, số lượng sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ phát sinh thay đổi là tăng hoặc giảm. – Ví dụ chi phí biển đổi: Công ty B thực hiện hoạt động sản xuất mỹ phẩm, chi phí nguyên liệu vật liệu để sản xuất mỹ phẩm 1 hộp 100ml là 300 nghìn đồng. Nếu công ty sản xuất 1000 hộp mỹ phẩm thì chi phí bỏ ra là 300 triệu đồng, Nếu công ty không sản xuất sản phẩm đó thì công ty sẽ không phải chịu khoản chi phí nào để sản xuất mỹ phẩm, đây là chi phí biến đổi. + Chi phí cố định không bắt buộc: là một loại chi phí bị phát sinh theo quyết định trong năm để nhằm hoàn thành mục tiêu của cơ quan tổ, chức nào đó từ bộ phận quản lý đặt ra mỗi năm.
Chi phí cố định
Chi phí cố định (trong kinh tế học vi mô) hay Định phí (trong kế toán quản trị) là những phần chi phí kinh doanh không thay đổi theo quy mô sản xuất, nếu xét trong một khuôn khổ công suất sản xuất nhất định. Ví dụ, tiền thuê cửa hàng của một doanh nhân có thể không phụ thuộc vào doanh thu hoặc một nhà sản xuất đồ may mặc phải trả một khoản tiền thuê mặt bằng cố định, không phụ thuộc vào sản lượng quần áo ông may được. Trong khi đó chi phí khả biến (biến phí) có thể tăng hay giảm cùng với mức tăng giảm sản lượng sản xuất. Ví dụ như chi phí mua nguyên vật liệu, tiền lương cho công nhân. Cùng với chi phí khả biến, chi phí cố định (ký hiệu FC) là một trong hai thành phần của tổng chi phí. Trong công thức tính đơn giản chi phí tổng cộng = chi phí cố định + chi phí biến đổi. Trong kinh tế học vi mô và kinh doanh còn có các khái niệm về chi phí trung bình và chi phí cận biên liên quan đến các khái niệm chi phí cố định và chi phí thay đổi.
Nước sông đang chảy xiết, khi tới trụ cầu thì bị cản, nên phải lùi lại sau. Nhưng phía sau lại là dòng nước đang cuồn cuộn chảy tới, kéo nó chảy theo. Như thế, số nước này tiến không được, lùi cũng không xong, đành chạy vòng tròn ở vùng gần trụ cầu. Vậy là ở đó xuất hiện xoáy nước. Ở những chỗ dòng sông lượn vòng, gấp khúc cũng dễ xuất hiện xoáy nước. Trên dòng sông, xung quanh các cọc gỗ hay mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước cũng có thể xuất hiện xoáy. Đó là vì dòng nước sau khi bị các vật cản ngăn lại, nó chỉ có thể đi vòng ra hai bên. Khi đến mặt sau vật cản, do ở nơi đó nước sông chảy chậm, ảnh hưởng đến sự chảy qua của dòng nước, thế là nó lao vào số nước đã ngăn cản sức chảy của nó và khiến chúng chạy vòng. Ở những chỗ dòng sông lượn vòng, gấp khúc cũng dễ xuất hiện xoáy nước. Do nước sông có xu hướng chảy theo đường thẳng, vì vậy ở gần mặt trong đoạn vòng, luồng nước đã “thoát ly” bờ sông để chảy thẳng. Thế nhưng, luồng nước ở phía ngoài lại ép luồng nước phía trong phải đi vòng qua. Khi luồng nước mặt trong chịu áp lực của mặt ngoài bị chen bật trở lại thì một phần của nó sẽ chảy bổ sung vào nơi mất nước, và như vậy đã hình thành xoáy nước. Nếu chú ý bạn có thể thấy, xoáy nước trên dòng sông đều xuất hiện ở những nơi tốc độ và phương hướng dòng chảy đột ngột thay đổi. Tất cả ta đều bị "lừa": Nụ hôn kiểu Pháp không bắt nguồn từ. nước Pháp!
Vực nước xoáy
Vực nước xoáy (còn gọi là xoáy nước) là hiện tượng thiên nhiên do hai dòng nước ngược chiều gặp nhau và cuốn vòng, thường thấy ở những eo biển hẹp với lượng nước lớn dồn lại vì sức thủy triều. Sức hút thường không đủ mạnh để nhấn chìm tàu bè nhưng có thẻ gây nạn cho ghe xuồng nhỏ. Vực nước xoáy cũng xuất hiện ở chân thác nước hay ghềnh nước vì nước di chuyển tương tự với dòng chảy xiết đảo lộn không thuận chung về một hướng. Trường hợp thủy triều tạo ra vực nước xoáy là vì luồng nước ròng chưa rút xong thì luồng nước lớn đã ùa vào. Hai dòng ngược nhau khiến tầng nước trên và tầng nước dưới không hoà với nhau, tạo ra lốc xoáy.
Trong quá trình hoạt động tư vấn tìm gia sư cho quý PHỤ HUYNH và các bạn HỌC SINH. Chúng tôi có nhận rất nhiều câu hỏi liên quan đến vấn đề trường lớp. Một trong những câu hỏi nổi bật đó là ở TP. HCM có những Trường Trung Học Phổ Thông Chuyên Nào? Và nhờ trung tâm liệt kê cụ thể. Do số lượng câu hỏi lớn nên Trung Tâm Gia Sư Trí Việt không thể trả lời tin nhắn trực tiếp đến từng bạn. Chúng tôi viết ra bài viết này nhằm giúp quý PHỤ HUYNH có thể lựa chọn những trường THPT phù hợp với con/em mình. Cùng tham khảo bài viết sau nhé:. Trường được thành lập năm 1927 và là một trong 3 trường Trung học đầu tiên được thành lập tại Sài Gòn, với tên Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký. Đây được xem là một trong 5 trường Trung học Phổ thông chuyên có chất lượng giáo dục tốt nhất miền Nam hiện nay. Trường thu hút học sinh giỏi miền Nam và Nam Trung Bộ đăng ký thi tuyển, hằng năm có tỷ lệ đậu đại học cao. Trường Trung học Phổ thông Chuyên Trần Đại Nghĩa (tên tiếng Anh là Tran Dai Nghia High school for the Gifted) là một trường trung học công lập chuyên ở Thành phố Hồ Chí Minh (dành cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 12 có năng khiếu), hoạt động theo hình thức bán trú. Hiện nay trường là một trong ba trường trung học phổ thông chuyên tốt nhất thành phố Hồ Chí Minh. Hai trường còn lại là trường Phổ Thông Năng Khiếu và trường THPT chuyên Lê Hồng Phong. Vốn nằm ở vị trí trung tâm thành phố, trường được đánh giá là có một vị trí “đắc địa” với 2 mặt tiền hướng ra đường Nguyễn Du và Lý Tự Trọng. Gần trường là vô số các địa điểm tham quan nổi tiếng của thành phố như Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Thành phố, vv… hay các trung tâm thương mại như Vincom, Diamond Plaza,vv… Chính vì thế, việc đi lại trường khá thuận tiên với đại đa số học sinh. Tuy nhiên, nhà trường vẫn tổ chức xe đưa rước cho các học sinh. Thêm vào đó, đối với các học sinh lớp 6 và lớp 7 không thuận tiện đi học ở cơ sở 2, các em sẽ tập trung tại cơ sở 1 của trường mỗi buổi sáng. Sau đó nhà trường sẽ đưa rước các em đến cơ sở 2. Một số học sinh có nhu cầu đưa rước tại nhà thì xe sẽ đến đón các em trước sau đó sẽ đi đến cơ sở 1 sau. Việc này khiến giờ học của khối 6 và 7 muộn hơn khoảng nửa tiếng so với học sinh các khối khác. Phổ thông Năng khiếu (tiếng Anh: VNU-HCM High School for the Gifted) là trường phổ thông chuyên trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và đi vào hoạt động từ năm 1996. Tên trường, nhằm phân biệt với các trường cấp ba chỉ trực thuộc Sở Giáo dục, không có chữ “trung học”. Trường Phổ thông Năng khiếu nguyên là khối chuyên Toán – Tin thuộc Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, được thành lập ngày 14 tháng 7 năm 1993. Đến năm 1996, khối chuyên Toán – Tin được tách ra hẳn thành 1 trường độc lập, chịu sự quản lý hành chính từ Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh và quản lý chuyên môn từ Sở Giáo dục – Đào tạo. Trường Phổ Thông Năng Khiếu thuộc Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh được thành lập ngày 4/7/1996 theo quyết định số 2693/GD-ĐT do Bộ trưởng Trần Hồng Quân ký. Ngoài cơ sở chính nằm ở khu vực quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, trường Phổ thông Năng khiếu đã bắt đầu đưa cơ sở 2 phân hiệu Đông Hoà ở phường Linh Trung, Thủ Đức vào hoạt động. Cơ sở 2 này bắt đầu tuyển sinh từ năm 2014. Đặt ở 153 Nguyễn Chí Thanh – Quận 5, cơ sở 1 của trường Phổ Thông Năng Khiếu gồm có 2 tòa nhà: nhà B có 5 tầng, khu nhà A gồm 8 tầng.Trường hiện có 37 phòng học, 3 phòng thí nghiệm, 1 thư viện, 1 phòng nghe nhìn, 5 phòng dạy máy tính, 16 phòng làm việc, 1 hội trường 300 chỗ, 2 phòng họp. Ngoài ra, trường có một căn tin phục vụ ăn uống cho giáo viên và học sinh. Tổng diện tích sàn là 7350 m². Trường còn có một sân chơi và sinh hoạt 650 m², một sàn tập thể dục – thể thao 750 m². Cơ sở II của trường Phổ Thông Năng Khiếu đặt tại khu phố 6, phường Linh Trung, Thủ Đức trong khuôn viên Đại học Quốc gia. Trường có diện tích 20.923 m², riêng diện tích xây dựng là 4.423 m². Với một tòa nhà 4 lầu cùng 1 sân cầu lông, cơ sở II của trường đã bắt đầu đi vào hoạt động từ năm học 2014-2015. Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thượng Hiền là một trường trung học phổ thông công lập có lớp chuyên tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trường được thành lập năm 1970, với tên gọi ban đầu là trường trung học Tân Bình. Trường hiện có hơn 2000 học sinh học ở ba khối lớp 10, 11 và 12 gồm các học sinh lớp chuyên (toán, lý, hóa, văn, Anh), lớp chọn, lớp học các môn KHTN bằng tiếng Anh và lớp thường. Hiện nay, tất cả học sinh của trường đều được học tăng cường tiếng Anh. Trường là một trong số những trường tốt nhất thành phố; cùng với các trường Phổ thông Năng Khiếu, THPT Chuyên Lê Hồng Phong, THPT chuyên Trần Đại Nghĩa, trường THPT Nguyễn Thượng Hiền có tỉ lệ học sinh giỏi cấp quốc gia, cấp thành phố, tỉ lệ đậu đại học cao nhất thành phố. Kết thúc kì thi tuyển sinh Đại học-Cao đẳng 2016, trường đứng thứ 4 thành phố (sau 3 trường: Phổ thông Năng Khiếu, Lê Hồng Phong và Trần Đại Nghĩa) và đứng thứ 30 cả nước. Vào năm kế tiếp, trường tiếp tục đứng thứ 30 quốc gia và thứ 4 thành phố. Trường có 58 phòng học dành cho cả ba khối lớp, hiện tại chỉ có 48 phòng đang sử dụng, các phòng còn lại dùng làm phòng học ngoại khóa, một số không sử dụng. Trung bình mỗi lớp có 45-50 học sinh. Tuy nhiên, từ năm học 2010-2011, trường giảm bớt chỉ tiêu nhằm giảm sĩ số của mỗi lớp xuống còn 40-45 học sinh một lớp. Từ năm học 2012 – 2013, trong mỗi phòng học đều được trang bị một bộ máy vi tính và một TV LCD khổ lớn kết nối với máy tính để thực hiện việc trình chiếu. Trường Trung học Phổ thông Gia Định (hay còn gọi đơn giản là Trường Gia Định), là một trường trung học công lập ở Thành phố Hồ Chí Minh. Được thành lập từ năm 1956, cho đến nay Trường THPT Gia Định là một trong những trường phổ thông lâu đời và có truyền thống nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Lịch sử trường trải qua bốn lần đổi tên: ban đầu là một trường tư thục thuộc Giáo hội Công giáo tên là Trường Tư Thục Nguyễn Duy Khang thành lập ngày 13 tháng 3 năm 1956. Từ năm 1975-1978 trường có tên là Trường PTTH Lạc Hồng, rồi sau đó là Trường Thạnh Mỹ Tây (1978-1994) và sau cùng là tên gọi như hiện nay, Trường THPT Gia Định (18 tháng 11 năm 1994-nay). Từ năm học 2017-2018 trường chính thức chuyển sang cơ sở mới ở đường D3, quận Bình Thạnh. Sau nhiều cải cách của các đời hiệu trưởng trong đó hành động mang tính quan trọng, quyết định nhất là kiểm tra chất lượng học sinh đầu vào, phân lớp theo trình độ học sinh và thành lập các lớp “mũi nhọn” tập trung học sinh giỏi về sau chính là các lớp chuyên nhằm tạo lực lượng giỏi cạnh tranh với các trường khác. Sau các cải cách trên, chất lượng đào tạo của trường tăng rõ rệt và liên tục nhanh chóng vượt lên một tầm cao mới. Trường THPT Gia Định thường xuyên lọt vào tốp đầu các kỳ thi lớn như: Kì thi học sinh giỏi cấp quốc gia, Kì thi học sinh giỏi cấp thành phố, Kì thi Olympic 30 tháng 4… và là trường được sự chú ý cũng như được giới chuyên môn và các bậc phụ huynh đánh giá cao trong thời gian gần đây. Trong trường hợp con/em bạn đang cần được sự hỗ trợ để có thể tự tin thi vào các trường THPT Chuyên ở danh sách này, bạn ĐỪNG NGẦN NGẠI nhấc máy lên và gọi đến 0965546946 (Ms Dương) để được hỗ trợ tìm những gia sư tốt nhất nhằm đảm bảo việc thi vào các trường THPT Chuyên tại TPHCM đạt được kết quả tốt.
Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Trung học Phổ thông Chuyên Lê Hồng Phong, Thành phố Hồ Chí Minh (tên tiếng Anh là Le Hong Phong High School for The Gifted) là 1 trường Trung học phổ thông Công lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trường được thành lập năm 1927 và là một trong những trường Trung học đầu tiên được thực dân Pháp thành lập tại Sài Gòn, với tên ban đầu là Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký (tên gọi này được Pháp đặt ra nhằm ghi danh của Trương Vĩnh Ký, một học giả Việt Nam). Sau năm 1975 thì trường đổi tên thành THPT Chuyên Lê Hồng Phong. Đây được xem là một trong 5 trường Trung học Phổ thông chuyên có chất lượng giáo dục tốt nhất miền Nam hiện nay. Trường thu hút học sinh giỏi miền Nam và Nam Trung Bộ đăng ký thi tuyển, hằng năm có tỷ lệ đậu đại học cao. Sau sự ra đời của trường Collège Chasseloup-Laubat (năm 1874) và trường Collège de Jeunes Filles Indigèges (1915), chính quyền thuộc địa Nam Kỳ mở thêm trường bậc trung học tại Sài Gòn. Năm 1925, kiến trúc sư Hebrard de Villeneuve được giao nhiệm vụ vẽ đồ họa xây cất cho ngôi trường mới tại Chợ Quán.
Thuật ngữ “Existentialism”(Chủ nghĩa hiện sinh), có gốc từ “Existence”có nghĩa là sự tồn tại hay hiện hữu, nhưng không phải là sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng vật lý hay sự tồn tại của sinh vật mà là sự tồn tại của con người. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức cuối chiến tranh thế giới thứ nhất với hai đại biểu lớn là Martin Heidegger (1889-1976) và Karl Jasper (1883 – 1969), sau đó lan nhanh sang Pháp tạo nên các tên tuổi như Jean Paul Sartre (1905-1980), Garbie Marcel (1889 -1978), Albert Camus (1913-1960), Merleau Ponty (1908-1961). Ban đầu, chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn học phản ánh triết lý sống tự nhiên, tự tại, tự do bằng các hình thức tiểu thuyết, truyện, kịch, thi ca, nhật ký, tiểu luận, v.v…. Theo dòng thời gian, triết lý sống đó được đa số người chấp nhận và lý luận hóa, trừu tượng hóa trở thành một trường phái triết học, một phong trào xã hội, ảnh hưởng sâu rộng trong lối sống giới trẻ. Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh là hiện tượng xã hội tất yếu phù hợp với xu hướng phát triển tâm lý thời đại chống lại bản thể luận và nhận thức luận trong siêu hình học truyền thống, theo đó các triết gia mải mê tìm kiếm nguồn gốc vũ trụ, lý giải quá trình nhận thức mà bỏ quên thân phận và kiếp sống con người, không lý giải mối quan hệ phụ thuộc giữa cá nhân và xã hội, giữa tự do và tất yếu. Tuy khoa học kỹ thuật có mặt để giảm nhẹ sức lao động, nhưng rồi chẳng mấy chốc máy móc đã ép con người theo guồng quay và trở thành nô lệ của nó. Trong cuộc sống hiện đại, để tồn tại con người nhiều lúc phải tự đánh mất mình, bị đổi ngôi từ “nhân vị” thành “đại từ”, từ “chủ thể” thành “đối tượng”, từ “tôi” thành “nó”. Chủ nghĩa hiện sinh đồng thời là sự đáp trả tư tưởng tư biện trừu tượng triết học Hegel trong quá trình đi tìm các khái niệm phổ biến mà không quan tâm đến đời sống hiện thực của con người và chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển đã lý tưởng hóa tình yêu và cuộc sống, dẫn dắt con người ngày càng xa rời hiện thực. Triết học truyền thống quá lý thuyết, chủ nghĩa lãng mạn văn học cổ điển lún sâu miêu tả những chuyện tình lâm ly bi tráng, trong khi đó con người sống càng ngày càng tự do và thực dụng, giao tiếp giữa người và người trở nên cởi mở, thẳng thắn, đời sống con người đòi hỏi mọi vấn đề phải cụ thể hơn, sát thực hơn, dấn thân hay “hiện sinh hơn”. Chủ nghĩa hiện sinh không phải là sản phẩm nhất thời của thời hiện đại mà có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử. “Tứ diệu đế”, tức bốn chân lý tối cao mà Đức Phật “ngộ” ra trong những năm tháng tu hành khổ luyện đã phản ánh chân thành cụ thể đời sống con người và nỗi khổ của nó – đó là một cuộc hành trình tuân theo luật nhân quả “Sinh – Lão – Bệnh – Tử” và “Luân hồi, Nghiệp báo”. Triết lý nhân sinh Phật giáo đã đặt ra tình huống có vấn đề về con người, mà cốt lõi là làm gì và làm như thế nào để giải thoát con người khỏi “tam độc” (Tham, Sân, Si) đưa con người đến tự do, sống ung dung tự tại trong thế giới đầy vật dục và biến động. Ở phương Tây cổ đại, triết gia Socrate với luận điểm “con người hãy tự nhận thức chính mình” đã mở đầu giai đoạn nhận thức con người. Theo ông, mọi tư tưởng và hoạt động phải làm gia tăng ý nghĩa của tồn tại con người, bởi vì, đối với con người vấn đề không phải là sống mà là sống tốt, sống có ích cho xã hội. Cái chết của ông là một đề tài và nguồn cảm hứng bất tận của triết học và văn học nghệ thuật chứng minh cho sự bi đát của một kiếp người khao khát làm điều thiện, nhưng bị tha nhân lên án, kết tội và bức tử. Xét về phương diện văn học, Kinh thánh (The Bible) của Đạo Ki tô là một tiểu thuyết miêu tả đời sống nhân quần buổi khai thiên lập địa. Hình tượng Adam và Eva đại diện cho hai giới sống mù lòa, cô đơn buồn tủi đành phải ăn trái cấm để được sáng mắt, sáng lòng trên vườn địa đàng báo hiệu một lịch sử đau buồn và phạm tội của nhân loại. Abraham được miêu tả như một vị anh hùng sẵn sàng hiến tế đứa con trai yêu dấu cho Thiên chúa, hành vi “bất đắc dĩ” này phản ánh mâu thuẫn giằng xé nội tâm trong sự lựa chọn của con người giữa một bên là tình cảm, bên kia là lý tưởng cao thượng. Bằng luận điểm đó, ông đã đi sâu phân tích thế giới nội tâm để qua đó khám phá nguồn gốc bất an và lo âu của con người. Tác phẩm Xưng tội (Confession) của ông đã lý giải về nguồn gốc thần thánh của con người, về đời sống tâm linh phức tạp của nó, về mối quan hệ giữa người và thần, theo đó Chúa đã sáng tạo và chi phối đời sống con người, do vậy để đền đáp công ơn này, mỗi người cần phải dấn thân vào đời sống, phải yêu thương nhau, vì cái ác, sự đau khổ chỉ xuất hiện khi thiếu vắng tình yêu thương, khi con người hành động theo ý chí tự do nên bị sa ngã. “Con người chỉ là một cây sậy yếu ớt trong mọi tạo vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy”. Qua việc đề cập đến tư tưởng tôn giáo và triết học, Pascal đã miêu tả sinh động việc nhân loại ngập chìm trong cảnh bao la vô tận của vũ trụ. Có thể nói, quan niệm của Pascal mở đầu cho một khuynh hướng mới về nghiên cứu thân phận con người – phát hiện tính mâu thuẫn trong giá trị người – một giá trị vừa cao thượng vừa thấp hèn, nhỏ mọn. Là quan tòa xét xử muôn loài và đồng thời là một con giun đất đần độn; là kho chân lý, và là bể chứa sự hoang mang và sai lầm; là niềm kiêu hãnh và là căn bã của vũ trụ” . Luận đề này tuy đặt ra một tình huống giả định, nhưng thực tế đã khẳng định vai trò của thần học và tôn giáo trong việc củng cố đạo đức con người, phản ánh tính mâu thuẫn trong suy nghĩ và hành động của con người, đặt nền móng cho việc nghiên cứu đời sống tâm lý. Chủ nghĩa hiện sinh hiện đại trực tiếp dựa trên quan niệm về con người của triết gia Đan Mạch – Kỉerkegaard (1813-1855), ông đã sớm nhìn thấy tính chất tư biện của Hegel khi triết gia này tìm cách thâu tóm mọi thực tại vào trong hệ thống triết học của mình và trong quá trình luận giải thế giới ông đã đánh mất yếu tố quan trọng là tồn tại người. Trong khi đó đây lại là điều cốt yếu của triết học, vì tồn tại trước hết phải là tồn tại của một cá thể người, sống, khát vọng, lựa chọn và dấn thân. “Mọi con người phải được hiểu như là sở hữu bản chất cốt yếu là người”. Nhìn chung, sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh như một liệu pháp tâm lý giải tỏa những ức chế của đời sống xã hội đã bị giam hãm một thời gian dài, bị cầm tù bởi những cấm kỵ của chế độ phong kiến, lên án thói đạo đức giả và sự tha hóa con người trong xã hội biến động về khoa học công nghệ, mong ước cứu vớt con người trước thảm họa chiến tranh, đưa con người trở về ngôi vị làm người chân chính. Triết lý của chủ nghĩa hiện sinh xoay quanh chủ đề con người, trọng tâm là bản tính, thân phận, thế giới nội tâm, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh sống. Theo chủ nghĩa hiện sinh, tồn tại của con người có trước bản chất của nó. Định nghĩa con người là không thể, bởi con người không là gì khác ngoài sự hiện hữu hay hiện diện (của thể xác). “Con người trước hết phải hiện hữu, gặp gỡ nhau, xuất hiện ra trong thế giới đã, rồi theo đó tự định nghĩa mình. Con người, nếu không thể định nghĩa được, chính là vì trước hết nó là hư vô. Đó cũng là điều mà người ta gọi là tính chủ thể… con người có một phẩm giá cao hơn hòn đá hay cái bàn… con người trước hết là một dự phóng (project) đang sống về mặt chủ thể, thay vì là một thứ rêu, một thứ nấm mốc hay một búp súp lơ… con người trước hết sẽ là những gì mà nó dự định tồn tại”. Như vậy, con người là tồn tại tối cao, vượt lên trên mọi tồn tại khác của vũ trụ. Bản chất người hiện diện trong mọi cá thể riêng biệt, thể hiện qua hành động và tính cách của nó, không có bản chất người chung chung, trừu tượng. Khi đã hiện hữu hay có mặt ở đời, con người phải dấn thân vào cuộc sống, suy nghĩ và hành động để bộc lộ thái độ sống của mình. Tuy nhiên, không phải mỗi cá nhân sống theo cách riêng của mình, mà phải hòa nhập vào cuộc sống chung cộng đồng. Do vậy, “nếu đúng là tồn tại đi trước bản chất, thì con người chịu trách nhiệm về những gì nó đang tồn tại. Con người là một tồn tại có lý trí, lý trí giúp con người tổ chức cuộc sống, từ mô hình gia đình, đến cộng đồng và toàn nhân loại. Tôi chịu trách nhiệm với chính mình và với mọi người, và tôi đã sáng tạo ra một hình ảnh nào đó về con người mà tôi đã lựa chọn, khi chọn lấy chính tôi, tôi chọn con người”. Con người là một thực thể tự do và không có gì khác ngoài đời sống của chính mình. Con người cũng là một tồn tại, nhưng tồn tại người khác tồn tại vật ở chỗ, con người có lý trí, nên nó ít bị chi phối bởi quy luật tất yếu mà có tự do – tự do lựa chọn, tự do hành động. “Chỉ mình con người có lịch sử, nghĩa là không sống bằng di sản sinh lý như loài vật mà còn sống bằng cả di sản tinh thần. Nên đời sống con người không trôi dạt theo tự nhiên mà phải được hướng dẫn bằng tự do”. “Không có thuyết tất định, con người là tự do, con người được tự do… và không có một bản tính con người nào khác để tôi có thể đặt nền tảng trên đó”. “Trong khi muốn tự do, chúng ta phát hiện ra rằng tự do của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào tự do của những người khác, và tự do của những người khác phụ thuộc vào tự do của chúng ta”. “Ta tự do là khi ta công nhận ta phải phục tùng một số yêu sách. Thỏa mãn những yêu sách ấy hay không là tùy ở quyền ta định đoạt. Chúng ta phải quyết định và mỗi khi quyết định là quyết định về chính mình. Con người là một sinh vật tồn tại trong những giới hạn nhất định, muốn vượt qua những giới hạn đó thì cần phải dấn thân. “Thân phận con người bị giam hãm trong những hoàn cảnh cố định… như chết, đau khổ, chiến đấu, lệ thuộc những cảnh ngộ bất ngờ, luẩn quẩn trong những xiềng xích của tội lỗi,… tức là những hoàn cảnh bất khả vượt và bất khả di dịch”. “Con người không là gì khác ngoài dự phóng của mình, nó chỉ tồn tại trong giới hạn có hiện thực hóa bản thân, vì vậy con người không là gì khác ngoài toàn bộ các hành vi của mình, không có gì khác ngoài đời sống của nó”. “Một người tự dấn thân vào cuộc sống, vẽ nên gương mặt của mình, và không có gì ngoài gương mặt ấy cả… một con người không có gì khác ngoài một loạt những công việc mà họ đảm nhiệm. Con người là tổng số, tổ chức toàn bộ các quan hệ cấu thành những công việc ấy”. Quan hệ giữa con người và người khác (Tha nhân) là nguyên nhân của tha hóa và tâm lý lo âu. Về bản tính, con người là một thực thể tự do, nhưng do tội tổ tông truyền kiếp, con người luôn bị trói buộc vào hoàn cảnh sống, bị lệ thuộc vào xã hội và những người lân cận gọi là “người khác” hay tha nhân (Autre, Another). Tha nhân có từ thời khởi thuỷ loài người, khi Adam không thể sống một mình, Chúa đành phải tạo nên “người khác” là Eva.
Chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh hay Thuyết hiện sinh (tiếng Anh: Existentialism, tiếng Pháp: L existentialisme) là truy vấn triết học của một nhóm các triết gia cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Những người này mặc dù khác nhau về học thuyết nhưng chia sẻ niềm tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể cá nhân con người - con người không đơn thuần chỉ là chủ thể tư duy, mà còn là chủ thể hành động, cảm nhận, và sống. Trong khi nổi tiếng là một học thuyết về tự do, tiêu chuẩn đạo đức hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh là tính đích thực (authenticity). Trong viễn tượng (perpectives) của các nhà hiện sinh, xuất phát điểm của con người cá nhân được đặc tả bởi "thái độ hiện sinh" (the existential attitude), hay một tình trạng mất định hướng, bối rối hoặc kinh sợ khi đối diện với một thế giới có vẻ như vô nghĩa hay phi lý (absurd). Nhiều nhà hiện sinh cho rằng triết học hàn lâm hay triết học mang tính hệ thống truyền thống, về hình thức cũng như về nội dung, quá ư trừu tượng và tách biệt với trải nghiệm cụ thể của con người.
Hộ tịch là gì? Đăng ký hộ tịch là gì? Chào Ban biên tập Thư Ký Luật. Em là Khánh Sơn, vừa tốt nghiệp cấp 3 và dự định vào TP.HCM học đại học. Nhiều người nói rằng em phải đăng ký hộ tịch nhưng em không hiểu hộ tịch là gì và đăng ký hộ tịch là gì. Mong Ban biên tập tư vấn giúp em. Em xin cảm ơn!. Hộ tịch là một khái niệm tập hợp rất nhiều sự kiện hộ tịch. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hộ tịch 2014:. Hộ tịch là những sự kiện hộ tịch như: khai sinh, kết hôn, nhận cha mẹ, con, thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, khai tử. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. Theo đó, việc đăng ký hộ tịch bao gồm những nội dung quy định tại Điều 3 Luật Hộ tịch 2014:. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:. g) Tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. Hộ tịch là một khái niệm tập hợp rất nhiều sự kiện hộ tịch. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hộ tịch 2014:. Hộ tịch là những sự kiện hộ tịch như: khai sinh, kết hôn, nhận cha mẹ, con, thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, khai tử. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. Theo đó, việc đăng ký hộ tịch bao gồm những nội dung quy định tại Điều 3 Luật Hộ tịch 2014:. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:. g) Tuyên bố hoặc hủy tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của pháp luật. Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP. Hồ Chí Minh, Trưởng Văn phòng luật sư Nguyễn Văn Hậu và cộng sự
Đăng ký hộ tịch
Đăng ký hộ tịch, hay nói gọn là hộ tịch, là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thường là các cơ quan hành pháp, cơ quan quản lý hành chính nhà nước) ghi và lưu lại lại các sự kiện hộ tịch quan trọng của công dân. Hộ tịch được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Sự kiện quan trọng thường được ghi nhận bao gồm việc khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn, ly thân tư pháp, nhận nuôi con nuôi, hợp pháp hoá lãnh sự. Ngoài ra, ở một số nước, việc nhập cư, di dân, và bất kỳ thay đổi nơi cư trú, chỗ ở có thể bị yêu cầu phải thông báo đến cơ quan nhà nước.
Thứ Sáu Tuần Thánh (hay thứ Sáu Tốt lành) là một ngày lễ diễn ra vào thứ Sáu trước ngày Lễ Phục Sinh. Ngày lễ này là sự kiện kỷ niệm sự đóng đinh vào Thập Giá và cái chết của Chúa Giêsu tại Canvary (Can-vê). Lễ Phục sinh năm 2021 sẽ diễn ra vào ngày Chủ Nhật mùng 4 tháng 4 Dương lịch, vì thế, thứ Sáu Tuần Thánh sẽ diễn ra vào ngày 2/4/2021 Dương lịch. Thứ 6 Tuần Thánh chính là dịp để các Kitô hữu tưởng nhớ nỗi thống khổ của Đức Kitô khi bị phản bội, bị chế nhạo, chịu sự nhục nhã và cuối cùng là bị giết chết bằng cách bị đóng đinh vào Thập Tự Giá – một hình phạt tệ nhất dành cho các tử tội dạng “đại ca” thời bấy giờ. Thứ 6 Tuần Thánh cũng còn là dịp để các Kitô hữu hướng tới việc cảm tạ Hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho họ, thống hối về những lầm lỗi mà họ đã phạm, đồng thời kính dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin cho toàn thể nhân loại trong đời sống thiêng liêng cũng như trần thế. Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày duy nhất không có Thánh Lễ, nghĩa là không có truyền phép Thánh Thể. Tuy nhiên, Thánh Thể vẫn được giữ từ Thánh Lễ hôm trước và các Kitô hữu vẫn được đón nhận Thánh Thể. Bên cạnh đó, các bí tích khác vẫn được cử hành trong trường hợp khẩn cấp như rửa tội cho người hấp hối hoặc xức dầu cho người bệnh nặng. Nghi thức an táng được cử hành nhưng không có đàn hát hoặc chuông…. Ăn chay và kiêng thịt là truyền thống trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Lý do là bởi ngày này chính là ngày Thiên Chúa bị phản bội, hạ nhục, hành hạ, mỉa mai… bởi chính đám người mà mới vài ngày trước tung hô vạn tuế Ngài, rồi sau đó lại giết chết Ngài như một tên tội phạm. Truyền thống nói rằng Chúa Giêsu bị treo Thập Giá từ trưa cho tới 3 giờ chiều. Đây là khoảng thời gian nắng gay gắt nhất. Đây cũng là khoảng thời gian tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại. Và để tưởng nhớ ba tiếng đồng hồ ghê rợn mà Ngài đã phải chịu đựng, nhiều người đã nhịn ăn, nhịn uống. Việc làm này giúp họ cảm nhận được một phần đau khổ của Chúa Giêsu, ngoài ra còn là để sám hối về những lần họ đã hèn nhát, không dám đứng lên bảo vệ sự thật, không dám đấu tranh chống lại sự bất công, hoặc không dám tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ. Mặc dù thứ Sáu Tuần Thánh không cử hành Thánh Lễ, nhưng lại có nghi thức tôn kính Thánh Giá để tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu. Nghi thức này thường được cử hành vào lúc 3 giờ chiều, giờ con Thiên Chúa trút hơi thở trên Thánh Giá. Tuy nhiên, tùy thuộc vào hoàn cảnh mà nghi lễ này có thể cử hành muộn hơn nhưng phải trước 9 giờ tối. Thứ 6 Tuần Thánh là ngày ảm đạm nhất, ngày đại tang nhưng cũng chính là Ngày Tốt Lành bởi con Thiên Chúa đã hoàn tất mọi sự. Chính cái chết của Chúa Giêsu đã khiến Tử Thần phải thua cuộc, bó tay. Thứ Sáu Tuần Thánh là khởi đầu của sự chết, nhưng cũng chính là khởi điểm của sự phục sinh.
Thứ sáu Tuần Thánh
Thứ sáu Tuần Thánh (hay Thứ sáu Tốt lành) là một ngày lễ diễn ra vào Thứ sáu trước Lễ Phục Sinh. Lễ này kỷ niệm sự đóng đinh vào thập giá và sự chết của Chúa Giêsu tại Canvary (Can-vê). Thứ sáu Tuần Thánh là một ngày lễ linh thiêng đối với người theo Kitô giáo. Đặc biệt vào ngày này, cầu nguyện thường được coi trọng với việc đọc những đoạn Phúc âm viết về những sự việc dẫn tới sự đóng đinh Giêsu vào Thánh giá. Kitô giáo nhìn sự đóng đinh vào Thánh giá là một hành động tự nguyện và được trao phó của Giêsu, và bởi đó, cùng với việc phục sinh vào ngày thứ ba sau khi chết, đã chiến thắng sự chết. Giáo hội Công giáo Rôma, ngày này được chỉ định giữ chay và kiêng thịt tức là chỉ có một bữa ăn đầy đủ hay hai bữa nhỏ. Ở Mỹ, đây không phải một ngày kiêng làm việc, tuy nhiên, người ta chỉ làm việc cho đến khi bắt đầu việc phụng tự buổi chiều. Ở Mỹ Latinh, mọi tín đồ Công giáo kiêng làm việc vào ngày này (cũng như Thứ năm Tuần Thánh).
Chams Elysees là một trong 10 đại lộ nổi tiếng nhất thế giới, tập trung những tinh hoa về kiến trúc, lịch sử, văn hóa đặc trưng của Pháp cùng những cửa hàng thời trang thời thượng và các quán ăn sang trọng của vùng thủ đô. Chỉ dài khoảng 2km kéo dài từ Quảng trường Concore đến Quảng trường Etoile nhưng đại lộ này tập trung tất cả những gì đẹp nhất của nước Pháp. Đây cũng là nơi tổ chức các sự kiên quan trọng của nước Pháp như cuộc duyệt binh ngày Lễ Độc Lập 14 tháng 7 hàng năm, những cuộc diễn hành của quân đội chiến thắng vô Paris và cũng là nơi người dân Paris mừng đón Giáng sinh và năm mới. Chams Elysees còn là chặng cuối của cuộc đua xe đạp Tour de France lừng danh thế giới. Đại lộ Chams Elysees được khánh thành năm 1670, trải qua nhiều lần trùng tu và cải tạo, hiện nay nơi đây là làn đường rộng dành cho xe ô tô để giúp quý khách có chuyến tham quan quanh thành phố thú vị khi chạy dọc Đại lộ. Nếu bạn thích thư thái tản bộ các bạn có thể đi dọc hai bên Đại lộ với những hàng cây xanh mát rượi, khi mệt thì có thể ghé vô số quán café bên vệ đường, cùng nhâm nhi cốc cafe ngắm nhìn nhịp sống hối hả của Paris. Ở đây cũng là một thiên đường với những người sành điệu, cùng với Milan, Paris cũng được xem là một kinh đô thời trang, với những nhãn hiệu cao cấp. Hầu hết những nhãn hiệu thời trang nổi tiếng như: Louis Vuitton, Hugo Boss, Cartier, Montblanc. đều có các cửa hàng dọc hai bên Đại lộ này. Điểm cuối của Chams Elysees là Khải Hoàn Môn - điểm thu hút nhiều khách du lịch nhất. Khải Hoàn Môn là công trình cao nhất của Paris ở thế kỷ 19 , với chiều rộng 45 mét, cao 50 mét, mang hình khối vuông như một cổng chào đón du khách đến với Paris. Khi đến đây bạn không thể bỏ qua cơ hội nhìn toàn cảnh thành phố trên đỉnh của Khải Hoàn Môn. Hay viếng thăm mộ của những chiến sỹ vô danh nằm ngay dưới Khải Hoàn Môn. BesTour chắc chắn đó sẽ là hành trình trọn vẹn và ý nghĩa nhất dành cho du khách khi đến với đại lộ Chams Elysees. Các bạn đang xem bài viết Tham quan đại lộ Champs Elysees nổi tiếng bậc nhất thế giớiVui lòng ghi nguồn khi đăng tải lại bài viết này.
Đại lộ Champs-Élysées
Đại lộ Champs-Élysées (Thiên thai Đại lộ) là một đại lộ lớn và nổi tiếng của thành phố Paris. Nối hai quảng trường Concorde và Étoile, vị trí của Khải Hoàn Môn, Champs-Élysées là một trong những địa điểm thu hút du khách nhất của thành phố với nhiều cửa hàng, quán cà phê, rạp chiếu phim. Đại lộ cũng là nơi tổ chức các sự kiện, lễ hội quan trọng của Paris, như Duyệt binh ngày 14 tháng 7, chặng cuối của cuộc đua xe đạp Tour de France, địa điểm các cuộc ăn mừng, chào đón năm mới. Champs-Élysées được xem như một trong những đại lộ danh tiếng nhất thế giới. Nhiều đường phố nổi tiếng khác được so sánh với Champs-Élysées, như đại lộ Benjamin Franklin ở Philadelphia hay Paseo de la Reforma ở Thành phố Mexico. "Champs-Elysées" có nghĩa là Cánh đồng Elysées. Tên gọi này xuất phát từ chữ "Elysium" trong tiếng La Tinh, có nghĩa Hòn đảo cực lạc, hay cõi Thiên Thai, nơi nghỉ ngơi dành cho các đấng hào kiệt và tiết hạnh đã khuất. Đại lộ Champs-Elysées cũng có nhiều tên gọi khác trong quá khứ. Đầu tiên vào năm 1670, đại lộ mang tên "Grande Allée du Roule", sau đó được đổi thành "Avenue de la Grille Royale" vào năm 1678.
Cô là con gái của NSND - nhạc sĩ Trần Hiếu, cháu ruột của nhạc sĩ Trần Tiến. Là một người sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, những ca khúc của Hà Trần dễ khiến người nghe xao xuyến nhớ về những miền ký ức xa xôi của miền Bắc. Một số ca khúc nổi tiếng suốt bao nhiêu năm của Hà Trần có thể kể đến như: "Sắc màu", "Em về tóc xanh", "Mẹ tôi", "Tóc gió thôi bay", "Em về tinh khôi",…. Xuất hiện trong chương trình "Ký ức vui vẻ" tuần này, Hà Trần đã khiến dàn nghệ sĩ và tất cả khán giả phải rung động và lắng đọng với liên khúc "Mẹ tôi – Tóc gió thôi bay – Sắc màu". Cũng nhân dịp này, nữ ca sĩ đã có nhiều chia sẻ buồn vui với tất cả mọi người. Điều đầu tiên gợi nhớ Hà Trần khi đứng trên sân khấu "Ký ức vui vẻ" có lẽ là những kỷ niệm chẳng bao giờ quên với bố Trần Hiếu và chú Trần Tiến. Được biết, Hà Trần đặc biệt thân thiết với chú ruột của mình và đồng cảm với âm nhạc của ông. Bởi vậy, khi cô loay hoay và gặp khó khăn khi sáng tác, cô đã ngỏ ý nhờ “bố” Trần Tiến viết lời giúp. Tuy nhiên, trái với dự đoán, nhạc sĩ Trần Tiến thẳng thừng từ chối. “Con cứ viết đi rồi bố góp ý sửa một hai câu, vì lời nhạc hay thơ thì mình phải tự viết thì mới ra tiếng nói của mình. Con phải tiếp tục làm, tiếp tục ngồi vào bàn suy nghĩ hằng ngày” – đó là lời khuyên mà nhạc sĩ Trần Tiến dành cho nữ ca sĩ. Hà Trần tâm sự: “Lúc ấy cũng buồn vì bố Tiến viết lời rất hay và còn là người hiểu mình nhất”. Nhưng sau đó cô cũng kiên nhẫn làm theo lời của nhạc sĩ Trần Tiến. Sau một thời gian suy nghĩ, cố gắng, tới nay Hà Trần đã viết được nửa album trong đó có 1 bài phổ theo lời thơ. Nghe xong câu chuyện này tất cả các nghệ sĩ đều ủng hộ và hi vọng album của Hà Trần sẽ sớm được ra mắt với đông đảo khán giả. Bên cạnh đó, Hà Trần cũng chia sẻ một câu chuyện vui về niềm đam mê văn chương của mình. Từ thời bé, Hà Trần đã sớm bộc lộ năng khiếu nghệ thuật và thường xuyên tham gia các câu lạc bộ yêu văn thơ. Bài thơ đầu tiên mà cô làm năm 7 tuổi tên là Anh Vinh. Đây là một lời cảm ơn ngô nghê của cô bé Trần Thu Hà thời đó dành cho anh họa sĩ tên Vinh đã vẽ bức chân dung đầu đời cho mình. Sau album Bản nguyên gây chú ý năm 2014, Hà Trần khá im ắng với đời sống âm nhạc trong nước. VOV.VN - “Nói thẳng ra là tôi không kỳ thị. Với thị trường “xô chậu”, ai bán được nhiều vé thì mới là đẳng cấp.”, Hà Trần cho hay.
Trần Thu Hà
Trần Thu Hà (sinh năm 1977 tại Hà Nội), nghệ danh Hà Trần, là một ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc người Việt Nam. Cô là con gái của NSND Trần Hiếu và NGƯT Vũ Thúy Huyền. Hà Trần là nghệ sĩ đã giành được 9 đề cử, xuất hiện trong danh sách những người được đề cử nhiều nhất và chiến thắng ở 4 hạng mục tại giải Cống hiến. Cô cũng được biết đến là một nghệ sĩ có trường phái nghệ thuật đa dạng và nhiều màu sắc, luôn tìm tòi, sáng tạo và thử nghiệm những phong cách mới trong âm nhạc. Hà Trần được công nhận là một trong bốn diva Việt Nam bên cạnh Thanh Lam, Hồng Nhung và Mỹ Linh. Album đầu tiên cô thực hiện mang tên Đánh thức tầm xuân, hát chung với Bằng Kiều do Hãng phim Trẻ phát hành vào năm 1998, bao gồm sáng tác của các nhạc sĩ Dương Thụ, Bảo Chấn, Trần Tiến, Ngọc Châu và đã tạo được ấn tượng tốt với công chúng, đồng thời trở thành một trong những album bán chạy vào thời điểm đó. Năm 1999, Hà Trần phát hành album phòng thu đầu tay mang tên Em về tinh khôi, do nhạc sĩ Quốc Bảo đảm nhiệm vai trò biên tập và được Hãng phim Trẻ phát hành.
Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam (cũng còn gọi là Quan hệ ngoại giao giữa Vatican và Việt Nam) trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công giáo lớn ở châu Á. Cho tới hiện nay, cấp bậc cao nhất trong mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam mới chỉ là Khâm sứ Tòa Thánh nhưng chỉ tới năm 1975. Tuy nhiên, những năm gần đây, hai bên đã cử những đại diện ngoại giao đến viếng thăm lẫn nhau. Vào tháng hai năm 2009, phái đoàn của Tòa Thánh do Thứ trưởng Ngoại giao – Đức ông Pietro Parolin (nay là Hồng y Quốc vụ khanh tức Ngoại trưởng Tòa Thánh) dẫn đầu – đã đến thăm và làm việc tại Hà Nội, cả hai bên đã quyết định thành lập các “Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam – Vatican” để thảo luận vấn đề về quan hệ ngoại giao. Đến năm 2011, Nhà nước Việt Nam đồng ý để Tòa Thánh bổ nhiệm một vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam, và vị tiên khởi là Tổng Giám mục Leopoldo Girelli. Ngày 20 tháng 10 năm 2018, sau cuộc hội kiến của ông Trương Hòa Bình, Phó Thủ tướng Việt Nam với Giáo hoàng Phanxicô, hai bên nhất trí sẽ nâng cấp quan hệ ngoại giao lên mức “Đại diện Thường trú”. Chính phủ Việt Nam và Vatican đã có thỏa thuận (concordat) 3 điểm: không công kích nói xấu lẫn nhau, không ủng hộ một nhóm thứ ba nào để chống bên kia, khi Vatican muốn bổ nhiệm từ giám mục, giám quản trở nên thì phải hỏi ý kiến Chính phủ Việt Nam đồng ý thì Vatican mới ra quyết định. Theo phía Việt Nam, hình thức thỏa thuận là một hình thức phổ biến trong quan hệ của Vatican với các nước trên thế giới nhưng Tòa thánh luôn nhấn mạnh rằng việc bổ nhiệm giám mục “phải xin phép chính phủ” vốn không phải là thông lệ của họ, nhưng họ có thể tạm thời chấp nhận trong bối cảnh quan hệ hai bên đang tiến triển. Tuy nhiên, phía Việt Nam cho rằng vì Tòa thánh là một quốc gia, một chủ thể trong luật pháp quốc tế nên Tòa thánh vẫn phải tuân thủ luật pháp và thông lệ quốc tế. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy là Tòa Thánh có liên lạc với Việt Nam từ thời Nhà Lê sơ ở thế kỷ 16. Người ta cho rằng, triều vua Lê Thế Tông (1572–1599), Việt Nam đã bắt đầu có quan hệ với Tòa Thánh, nhưng chưa có một bằng chứng thuyết phục cho lập luận này. Một quốc thư bang giao đầu tiên của Nhà Lê gửi cho Toà Thánh còn được lưu trữ. Nếu như, nếu Trịnh Tráng là người cho chấp bút lá thư này gửi Giáo hoàng Urbanô VIII thì lá thư đó phải được viết dưới thời vua Lê Thần Tông đang tại ngôi (1619-1643). Trịnh Tráng sau này lên kế vị cha là Trịnh Tùng trong khoảng thời gian 1623-1654. Lá thư này được viết bằng chữ Hán, nếu không có quá nhiều sai lệch thì có thể hiểu nội dung lá thư như sau: Triều đình Việt Nam thời đó đã đón nhận hai nhà truyền giáo tinh thông địa lý và dĩ nhiên hiểu nhiều về giáo lý Công giáo, chủ yếu là lòng tin-cậy-mến đối với Thiên Chúa và con người. Các nhà truyền giáo Dòng Tên thời đó muốn làm đẹp lòng các vua chúa Việt Nam, và chinh phục thiện cảm của cộng đoàn mình tiếp xúc, thường mang theo lễ vật dâng lên các vua chúa trước khi lo việc truyền đạo. Theo đối chiếu lịch sử, người ta hiểu rằng hai vị giáo sĩ truyền đạo lúc ấy chính là linh mục Alexandre de Rhodes và Pedro Marquez. Nhưng về phía vua chúa đất Việt, việc buôn bán được xem là chính yếu và lễ vật giao dịch thường thấy lúc đó của Việt Nam là trầm hương, vải vóc và nhãn nhục. Năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VI ra quyết định thành lập hai Hạt Đại diện Tông Tòa đầu tiên ở vùng lãnh thổ ngày nay thuộc Việt Nam: Hạt Đại diện Tông Tòa Đàng Trong (phía Nam sông Gianh, bao gồm hai đất nước Chiêm Thành và Campuchia) và Hạt Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài (phía Bắc sông Gianh, bao gồm gồm cả một số vùng thuộc miền Nam Trung Quốc). Hai mươi năm sau đó, Tòa thánh chia Hạt Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài thành Tây Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài, chính thức giao quyền cho Hội Thừa sai Paris phụ trách. Năm năm sau khi phân tách Hạt Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài, Hạt Đại diện Tông Tòa Đàng Trong cũng được chia thành 2 Hạt đại diện Tông Tòa Bắc Đàng Trong và Nam Đàng Trong. Nguyễn Ánh cũng từng cử người này đi cầu viện Pháp và ủy quyền ký Hiệp ước Véc-xây giữa Pháp và nhà Nguyễn. Nửa thế kỷ sau đó, năm 1858, Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam và lợi dụng Công giáo phục vụ cho việc thống trị của mình. Song song với việc trên, Công giáo cũng câu kết với Pháp để phát triển truyền giáo. Nhận thấy những tác hại khi do tự do truyền đạo Công giáo, nhà Nguyễn ban hành các chỉ dụ cấm đạo. Sau nhiều chỉ dụ cấm truyền đạo, năm 1869 vua Tự Đức ra chỉ dụ bãi bỏ việc cấm đạo Công giáo. Năm 1922, Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài – thành viên thuộc phái đoàn vua Khải Định sang Pháp – đã đến Rôma yết kiến Giáo hoàng Piô XI để thỉnh cầu bổ nhiệm Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam và phong chức Giám mục cho các linh mục bản xứ. Vì thế, trong năm đó, Giáo hoàng Piô XI đã cử Giám mục Henri Lécroart – một giáo sĩ Dòng Tên là Giám mục giáo phận Chi Li (có tài liệu khác cho là giáo phận Thiên Tân, Trung Hoa) – làm Thanh tra Tông Tòa (tiếng Pháp: Visiteur Apostolique) đi quan sát tình hình các giáo phận ở Đông Dương, đặc biệt là về cách tổ chức các chủng viện và chương trình giáo dục. Đây chính là hoạt động đầu tiên của thời kỳ mà khu vực Đông Dương lập quan hệ với Tòa Thánh. Trong cuộc họp tại Phát Diệm với 11 Giám mục giáo phận từ ngày 4 đến 9 tháng 2 năm 1923 và tại Sài Gòn với 7 Giám mục giáo phận ngày 20 tháng 6 năm 1923, các Đại diện Tông Tòa ở vùng Đông Dương đã đề nghị Thánh Bộ Truyền giáo đổi tên các giáo phận theo tên các thành phố có đặt tòa Giám mục. Ngày 20 tháng 5 năm 1925, Tòa thánh lập Tòa Khâm sứ Đông Dương đặt tại Phú Cam – Huế và cử Khâm sứ Tòa thánh đến Việt Nam. Năm 1933, lần đầu tiên có linh mục người Việt được truyền chức giám mục. Năm 1945, Tòa thánh bổ nhiệm thêm 4 giám mục người Việt. Theo Bộ ngoại giao Việt Nam, Tòa Thánh tỏ thái độ thù địch với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa chính thức khai sinh. Tuy nhiên, có một số giám mục tiên khởi là người Việt, trong đó có bốn vị còn sống khi Việt Nam giành độc lập, đã viết một bức điện thư gửi đến Tòa Thánh, bày tỏ lòng yêu nước, kêu gọi sự ủng hộ chính quyền mới thành lập của nước Việt Nam. Người có sáng kiến này là Giám mục Tiên khởi Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng mời Giám mục Giuse Maria Hồ Ngọc Cẩn làm cố vấn chính phủ từ năm 1945 và Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ từ năm 1946. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Giáo hội Công giáo hậu thuẫn hàng vạn giáo dân từ miền Bắc di cư vào Nam. Năm 1955, Tòa thánh rút Khâm sứ khỏi miền Bắc, dưới quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, đồng thời công nhận chính quyền Ngô Đình Diệm và quyết định thành lập Tòa Khâm sứ tại Sài Gòn năm 1959. Từ đầu những năm 60, Tòa Thánh thay đổi thái độ đối với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Ngày 24 tháng 11 năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII ra Sắc chỉ thiết lập hàng giáo phẩm Công giáo ở Việt Nam. Nhận được yêu cầu này, tháng 8 cùng năm, Khâm sứ Tòa thánh rời Sài Gòn, chấm dứt sự có mặt của đại diện Tòa thánh tại Việt Nam. Ngày 14 tháng 5 năm 1975, một nhóm linh mục và giáo dân gồm có linh mục Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ… kéo đến tòa khâm sứ Sài Gòn để có những hành vi kích động đòi Tổng giám mục Henri Lemaitre từ chức vì họ cho rằng ông có trách nhiệm trong việc bổ nhiệm Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận vào nhiệm vụ tổng giám mục phó Sài Gòn. Tối ngày 3 tháng 6 năm 1975, họ trở lại lần nữa và ở lỳ qua đêm tại tòa khâm sứ. Từ thời điểm đó cho đến thập niên 1980, quan hệ nhà nước Việt Nam với Toà Thánh Vatican thường xuyên xảy ra căng thẳng, có tính cách đối đầu hơn là xây dựng cảm thông hòa dịu. Có thể nguyên nhân sâu xa là các quan hệ và thái độ từ quá khứ: giữa Giáo hội Công giáo hoàn vũ với chủ nghĩa cộng sản và giữa thành phần Công giáo với lực lượng cộng sản trong Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Tới năm 1980, những đấu hiệu đầu tiên về tái thiết lập quan hệ bắt đầu xuất hiện khi Hội đồng Giám mục Việt Nam được thành lập gồm tất cả các giám mục giáo phận và ra Thư chung với phương châm “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào. Tháng 7 năm 1989, Tòa thánh cử Hồng y Roger Etchegaray thực hiện chuyến thăm mục vụ đầu tiên tại Việt Nam kể từ sau 1975. Việc một số linh mục cổ vũ, tham gia trong một số vụ việc tranh chấp tại 42 Phố Nhà Chung, Hà Nội trong thời gian từ cuối năm 2007 đến tháng 1 năm 2008 hay 178 Đường Nguyễn Lương Bằng (Phương Đồn Đa, Hà Nội) trong thời gian tháng 8 năm 2008. Chính Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt cũng ủng hộ và tham gia vào vụ việc này. Trong một phát ngôn thiếu cẩn trọng, vị Tổng giám mục Hà Nội có đoạn phát biểu tại Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam. Đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế”. Câu nói đã gây nên làn sóng phản đối Tổng giám mục Kiệt. Nhiều tờ báo Việt Nam đã trích dẫn câu Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam nhằm lên án Tổng giám mục Kiệt. Báo Thanh Niên nhận định: bỏ qua sự không khéo dùng từ ngữ của ông thì mục đích chính toát ra của cả bài phát biểu là kích động giáo dân và không tôn trọng pháp luật nhà nước, đáng lẽ ra ông không nên có thái độ xấu hổ khi cầm tấm hộ chiếu đó. Theo chính quyền Việt Nam, linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Đình Thục câu kết với linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hùng ở Đài Loan, là thành viên tổ chức Việt Tân, một tổ chức bị chính quyền Việt Nam cho là khủng bố, cũng làm xấu đi hình ảnh của của Công giáo Việt Nam. Theo báo Nhân dân, nếu so sánh với châu Âu, nơi hằng năm hàng loạt nhà thờ bị phá dỡ do không còn nhu cầu sử dụng vì lượng giáo dân đã giảm trong các thập kỷ qua thì việc các nhà thờ Công giáo luôn được tu sửa đã cho thấy sự phát triển của đời sống Công giáo ở Việt Nam. Khâm sứ Tòa Thánh (Apotolic Delegate) mặc dù chỉ giữ mối liên lạc giữa Giáo hội và nước bản địa về mặt tôn giáo nhưng cũng giữ một chút việc về ngoại giao. Ngày 25 tháng 5 năm 1925, Giáo hoàng Piô XI đã cho lập Tòa Khâm sứ Đông Dương (gồm lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia) và Thái Lan, và cử Giám mục Constantin Ajutti làm Khâm sứ Tòa Thánh tại vùng Đông Dương, nhưng chủ yếu là tại Việt Nam. Ban đầu, Khâm sứ Ayuti đặt văn phòng tạm tại Hà Nội. Nhưng vào lúc bấy giờ, dù Hà Nội có vị trí quan trọng nhưng Huế mới là kinh đô của Việt Nam. Vì vậy, sau này, trụ sở Tòa Khâm sứ ở Liên Bang Đông Dương đã được về Huế, gần Nhà thờ chính tòa Phủ Cam. Trong nhiệm kỳ của mình, Giám mục Ajutti luôn xúc tiến cụ thể và tích cực việc hình thành hàng giáo phẩm người bản xứ. Kết quả cụ thể nhất là Toà Thánh đã chọn linh mục người Việt đầu tiên là Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám mục. Ông qua đời khi đang tại nhiệm, trước khi Trụ sở Tòa Khâm sứ tại Huế được khánh thành ngày 1 tháng 5 năm 1928. Liên tục trong 25 năm sau đó, các Khâm sứ kế vị là Giám mục Columban Dreyer (1928-1937) và Giám mục Antonin Drapier (1937-1950) đều đặt Toà Khâm sứ tại Huế. Ảnh tòa nhà 42 Nhà Chung, nơi từng được sử dụng làm trụ sở Tòa Khâm sứ tại Hà Nội. Năm 1945, Việt Nam tuyên bố độc lập. Từ đó, Huế không còn là kinh đô của Việt Nam và Hà Nội trở thành thủ đô của Việt Nam. Năm 1950, Giáo hoàng Piô XII đã bổ nhiệm Giám mục John Dooley, người Ireland, làm Khâm sứ tại Đông Dương và ngày 18 tháng 10 năm 1951, Khâm sứ Dooley đã quyết định dời trụ sở Toà Khâm sứ từ Huế ra Hà Nội và đặt cạnh Tòa Giám mục Hà Nội. Sau Hiệp định Genève 1954, Khâm sứ Dooley vẫn tiếp tục giữ cương vị đại diện chính thức của Tòa Thánh tại Hà Nội tới năm 1959. Năm 1954, khi Việt Nam tạm bị chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự để chuẩn bị Tổng tuyển cử theo Hiệp định Geneva 1954, Khâm sứ Dooley vẫn ở lại Tòa Khâm Sứ tại Hà Nội cho đến năm 1959. Sau đó, Khâm sứ Dooley vì lý do sức khỏe nên đã rời Hà Nội. Người thay thế ông với cương vị Khâm sứ tạm thời (do chưa được Giáo hoàng bổ nhiệm) là Linh mục Terence O’Driscoll, nhưng sau cũng bị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trục xuất khỏi Việt Nam vào tháng 9 năm 1959.
Quan hệ Tòa Thánh – Việt Nam
Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam (cũng còn gọi là Quan hệ ngoại giao giữa Vatican và Việt Nam) trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công giáo lớn ở châu Á. Cho tới hiện nay, cấp bậc cao nhất trong mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam mới chỉ là Khâm sứ Tòa Thánh nhưng chỉ tới năm 1975. Tuy nhiên, những năm gần đây, hai bên đã cử những đại diện ngoại giao đến viếng thăm lẫn nhau. Vào tháng hai năm 2009, phái đoàn của Tòa Thánh do Thứ trưởng Ngoại giao - Đức ông Pietro Parolin (nay là Hồng y Quốc vụ khanh tức Ngoại trưởng Tòa Thánh) dẫn đầu - đã đến thăm và làm việc tại Hà Nội, cả hai bên đã quyết định thành lập các "Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican" để thảo luận vấn đề về quan hệ ngoại giao. Đến năm 2011, Nhà nước Việt Nam đồng ý để Tòa Thánh bổ nhiệm một vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam, và vị tiên khởi là Tổng Giám mục Leopoldo Girelli.
Trận Verdun lần thứ hai là một chiến dịch tấn công của quân đội Pháp trên Mặt trận phía tây thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã diễn ra từ ngày 20 tháng 8 cho đến ngày 9 tháng 9 năm 1917, gần Verdun, nước Pháp. Trong trận đánh này, Tập đoàn quân số 2 của Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Louis Guillaumat đã làm nên được những bước tiến quan trọng, giành lại những vị trí quan trọng như Đồi 304 và Mort-Homme từ tay Tập đoàn quân số 5 của Đế quốc Đức dưới quyền chỉ huy của Thái tử Wilhelm. Mặc dù phía Pháp chịu thiệt hại không nhỏ trong chiến dịch này, họ đã thu được một số lượng tù binh và khí giới đáng kể từ tay quân đội Đức. Với các chiến thắng tại Verdun và La Malmaison vào cuối năm 1917, Thống chế Pháp Philippe Pétain đã chứng tỏ hiệu quả của đường lối phát động những cuộc tấn công hạn chế với mục tiêu hạn chế, cũng như thành công của Pétain trong việc chỉnh đốn tình hình quân ngũ Pháp kể từ sau thất bại nặng nề của Chiến dịch tấn công Chemin des Dames. Ngay từ cuối tháng 5 năm 1917, Pétain đã thông báo với Thống chế Douglas Haig của Anh rằng ông ta sẽ phát động một đợt tấn công tại Verdun vào giữa tháng 7 năm 1917, nhằm hỗ trợ cho chiến dịch tấn công của quân đội Anh tại vùng Flanders. Đợt tấn công tại Verdun cũng sẽ giúp cho người Pháp giành lại một khu vực đã bị mất trong Chiến dịch tấn công Verdun của người Đức năm 1916 ở sườn trái của họ, qua đó cải thiện tình hình của quân Pháp. Tuy nhiên, do tinh thần quân lực Pháp đang suy sụp kể từ sau thất bại tại Chemin des Dames, và do một số cuộc phản công thắng lợi của các lực lượng Đức tại Verdun vào giữa năm 1917, cuộc tấn công của Pháp đã bị đình hoãn cho đến khi quân Pháp bắt đầu tiến hành pháo kích từ ngày 11 tháng 8. Hàng triệu quả đạn pháo đã được bắn vào các vị trí phòng ngự của Đức, Guillaumat giao nhiệm vụ tấn công cho 4 quân đoàn của ông. Vào ngày 20 tháng 8, 8 sư đoàn của Pháp đã tiến công từ rừng Avocourt về phía tây tới Bezonvaux về phía đông, trên một mặt trận dài 24 km. Mặc dù Quân đoàn XIII của Pháp thất bại trong cuộc tấn công vào Đồi 304 từ bờ tây sông Meuse, quân Pháp dưới sự yểm trợ của pháo binh đã nhanh chóng đạt được mọi mục tiêu của mình trong ngày đầu. Lực lượng pháo binh Pháp cũng yểm trợ cho bộ binh bẻ gãy một số cuộc phản công của quân Đức. Hôm sau (24 tháng 8), quân đội Pháp cũng chiếm được Samogneux và Regneville. Tuy gặp nhiều khó khăn, quân Pháp đã giành được Đồi 304. Vào ngày 26 tháng 8, quân Pháp lại tiến công từ trận địa pháo Mormont tới rừng Chaume, và tiến đến tận ngoại ô phía nam của Beaumont. Vào đầu tháng 9, quân Pháp tiếp tục phát động những cuộc tấn công hạn chế của mình, với sự tham gia của cả hai quân đoàn ở bờ đông sông Meuse và với sự chấp thuận của Pétain. Vào ngày 7 tháng 9, một đợt tấn công của Quân XV bị đẩy lùi, tuy nhiên vào ngày 8 tháng 9, Quân đoàn XXXII đã tấn công thắng lợi, mặc dù bị đánh thiệt hại nặng. Sau khi được sự tán đồng của tướng Émille Fayolle, Guillaumat tiếp tục tấn công và gặt hái thắng lợi. Mặc dù không chiếm được vị trí quan sát cuối cùng mà người Đức có thể nhìn thấy Verdun, Guillaumat đã thu được một số chiến hào đặc biệt quan trọng đối với hệ thống phòng ngự của Tập đoàn quân số 2. Tuy vậy, những cú thọc tiếp theo đã vấp phải các đợt phản kích mãnh liệt và hỏa lực pháo binh ác liệt của quân Đức. Do đó, Pétain quyết định chấm dứt tấn công, trước khi quân đội Đức có thể tập trung lực lượng trừ bị và pháo binh của mình. Sau chiến dịch tấn công Verdun, quân đội Pháp không mở một đợt tấn công lớn nào khác cho đến tháng 10.
Trận Verdun
Trận Verdun là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19 tháng 12 năm 1916 xung quanh Verdun-sur-Meuse ở đông bắc Pháp. Người Đức đã lập kế hoạch trận đánh này dựa trên ý tưởng ban đầu của Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Đức là Thượng tướng Erich von Falkenhayn, nhằm "rút sạch máu" quân Pháp. Trận đánh này là một trong những cuộc giáp chiến tiêu biểu của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất vì nó thể hiện tinh thần chiến đấu dũng mãnh của các binh sĩ tham chiến, với những phút giây quang vinh cũng như thảm khốc của họ. Với ý nghĩa lịch sử lớn lao. đây là trận chiến kéo dài nhất trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và là trận đẫm máu thứ hai sau Trận Somme (1916). Chiến dịch kinh hoàng này cũng được xem là trận đánh lâu dài bậc nhất trong lịch sử, với thời gian kéo dài đến 10 tháng. Kết quả là hơn 300.000 người chết và hơn 450.000 người bị thương cho cả 2 bên.
U quái buồng trứng là tên gọi khác của u nang bì buồng trứng. U quái buồng trứng là một dạng u nang thực thể thường gặp ở chị em phụ nữ trong mọi độ tuổi. Mặc dù u quái thường là u nang lành tính nhưng cũng cần theo dõi và điều trị để tránh trường hợp biến chứng gây nguy hiểm sức khỏe của người bệnh. U quái buồng trứng là loại u nang buồng trứng có nguồn gốc từ tế bào mầm. Do cấu trúc của nó có chứa các mô tuyến bã, da, tóc, xương nên hay được gọi là u quái. U quái thường ở dạng lành tính, nhưng không thể tự mất đi và hay gây ra các biến chứng nguy hiểm. U quái có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhất là ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Từ 30 tuổi trở lên, tỷ lệ mắc u quái buồng trứng chiếm đến 30%. Trong các ca u quái buồng trứng, chỉ có 2% trở thành ung thư ( u ác tính). U quái thường chỉ xuất hiện ở một bên buồng trứng, chỉ có khoảng gần 10% là xuất hiện ở cả hai bên. – U quái trưởng thành:Là u quái xuất phát từ các tế bào lá thai ngoài. Khoảng 95% u quái là u quái trưởng thành, đều có thể tiên lượng tốt. U quái trưởng thành đặc: Đây là loại u quái hiếm gặp, thường chỉ xuất hiện ở trẻ em và thiếu niên. U quái trưởng thành đặc có ruột đặc hơn các loại u quái khác. U quái đặc xuất phát từ mô phôi thai là u ác tính. Ngược lại u quái xuất phát từ ba lá phôi lành lại là u lành tính. U quái trưởng thành bọc : Đây là một loại u quái trưởng thành thường xuyên gặp phải, đến gần 25% các ca bệnh là u quái trưởng thành bọc.U quái này còn có tên gọi khác là u bọc dạng bì. U quái trưởng thành hoá ác: U quái trưởng thành hóa ác chỉ thường xuyên xuất hiện đối với phụ nữ sau khi đã trải qua thời kì mãn kinh. U quái này thường rất nguy hiểm, có thể gây tử vong (70% sau 5 năm mắc bệnh). – U quái không trưởng thành: U quái không trưởng thành gồm các mô xuất xứ từ ba lá phôi và những cấu trúc non hay phôi. U quái không trưởng thành thường được phát hiện ở bệnh nhân trong độ tuổi dậy thì. Đa phần các trường hợp u quái này chỉ xuất hiện ở một bên buồng trứng. Xoắn nang: Biến chứng hay gặp ở u quái buồng trứng. Do u quái có cuống dài, hay di động nên dễ dàng bị xoắn cuống nang. Nếu được theo dõi và điều trị kịp thời thì sẽ không gây ảnh hưởng gì nghiêm trọng, nhưng nếu muộn, khối u vỡ hoặc hoại tử có thể dẫn đến tử vong. Vỡ u nang: là biến chứng ít gặp, là hậu quả của xoắn cuống nang mà không được cấp cứu kịp thời, hoặc khi tác động mạnh vào vùng bụng gây chấn thương, có thể xảy ra sau khi giao hợp. Chèn ép các cơ quan khác: Các u quái có kích thước bất thường có thể chèn ép lên các cơ quan nội tạng khác gây ra các triệu chứng như khó tiêu, tiểu nhiều, chướng bụng,… Ngoài ra có thể chèn ép vào tử cung gây khó khăn cho việc sinh sản sau này, hoặc nguy hiểm nhất có thể gây vô sinh. Chính vì những biến chứng nguy hiểm trên, người bệnh cần phải đi khám định kỳ để có thể sớm chuẩn đoán và đưa ra các phương pháp điều trị. Nếu khối u phát triển to hoặc gây ra biến chứng thì phẫu thuật mổ nội soi u nang là phương án tối ưu cho người bệnh. Do những khối u quái thường phát triển âm thầm và không xuất hiện nhiều triệu chứng, do vậy chị em nên thường xuyên khám sức khỏe 6 tháng một lần cùng một chế độ sinh hoạt điều độ đề dễ dàng phòng ngừa căn bệnh này. Đặc biệt, để tránh biến chứng của xuất huyết u quái buồng trứng thì các chị em mắc u nang buồng trứng nên sử dụng các sản phẩm hỗ trợ làm giảm kích thức cũng như cân bằng nội tiết để tránh tối đa biến chứng của bệnh. Hiện nay, sản phẩm thảo dược lành tính Vương Bảo Phụ đang được nhiều chị em tin tưởng và sử dụng để cân bằng nội tiết tố, giảm tình trạng đau bụng, khó chịu mỗi khi tới kì kinh nguyệt. Người bị u quái buồng trứng sẽ mất cân bằng nội tiết tố từ đó gây ra nhiều triệu chứng khiến người bệnh khó chịu. Vương Bảo Phụ – sản phẩm chứa vị thuốc Trâu cổ, cực kỳ nổi tiếng trong việc điều hòa và cân bằng nội tiết cho phụ nữ. Đồng thời giảm các hiện tượng đau bụng, chảy máu bất thường, rối loạn kinh nguyệt…. Dù đây là bệnh lý tế nhị nhưng bạn đừng ngại, hãy gọi về tổng đài tư vấn 18001591 hoặc kết nối Zalo 038.549.7247 để được các dược sỹ chuyên môn hỗ trợ, giúp bạn thoát khỏi sự khó chịu như đau bụng, chảy máu bất thường, rối loạn kinh nguyệt nhé. Nhận tư vấn miễn phí từ GS.TS Vương Tiến Hòa và các dược sỹ chuyên môn TẠI ĐÂY. U quái thuộc loại u nang buồng trứng thực thể, khối u nang này không thể tự mất đi mà tiến triển âm thầm và càng ngày càng lớn dần nên có thể sẽ phải can thiệp phẫu thuật anh nhé. Có nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau nhưng phương pháp được lựa chọn nhiều nhất để giúp bảo tồn buồng trứng là bóc tách khối u nang. Tuy nhiên bóc tách được hay không còn phụ thuộc vào kích thước, vị trí cũng như bình diện khối u. Trong trường hợp xấu hơn phải cắt đi buồng trứng, mình vẫn còn 1 bên buồng trứng còn lại anh nhé. Anh nên cho bé khám và làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết để rõ bản chất khối u nang và có hướng điều trị kịp thời nhé. U quái thuộc loại u nang buồng trứng thực thể, khối u nang này không thể tự mất đi mà tiến triển âm thầm và càng ngày càng lớn dần nên có thể sẽ phải can thiệp phẫu thuật anh nhé. Có nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau nhưng phương pháp được lựa chọn nhiều nhất để giúp bảo tồn buồng trứng là bóc tách khối u nang. Tuy nhiên bóc tách được hay không còn phụ thuộc vào kích thước, vị trí cũng như bình diện khối u. Trong trường hợp xấu hơn phải cắt đi buồng trứng, mình vẫn còn 1 bên buồng trứng còn lại anh nhé. Anh nên cho bé khám và làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết để rõ bản chất khối u nang và có hướng điều trị kịp thời nhé. U quái thuộc loại u nang buồng trứng thực thể, khối u nang này không thể tự mất đi mà tiến triển âm thầm và càng ngày càng lớn dần nên có thể sẽ phải can thiệp phẫu thuật anh nhé. Có nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau nhưng phương pháp được lựa chọn nhiều nhất để giúp bảo tồn buồng trứng là bóc tách khối u nang. Tuy nhiên bóc tách được hay không còn phụ thuộc vào kích thước, vị trí cũng như bình diện khối u. Trong trường hợp xấu hơn phải cắt đi buồng trứng, mình vẫn còn 1 bên buồng trứng còn lại anh nhé. Anh nên cho bé khám và làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết để rõ bản chất khối u nang và có hướng điều trị kịp thời nhé. Phẫu thuật u nang buồng trứng tùy trường hợp có thể mổ nội soi hoặc mổ hỏ bạn nhé. Với phẫu thuật mổ nội soi, nếu hậu phẫu ổn định sau ba ngày bạn sẽ được xuất viện. Đối với mổ hở, thời gian nằm viện sau mổ 4 – 5 ngày. Phẫu thuật nội soi có chi phí khoảng 8 – 10 triệu đồng. Mổ hở có chi phí khoảng 6 – 8 triệu đồng nhé. Có thể mỗi bệnh viện sẽ có 1 mức chi phí khác nhau. Bạn có thể qua bệnh viện để tham khảo trực tiếp nhé. Phẫu thuật u nang buồng trứng tùy trường hợp có thể mổ nội soi hoặc mổ hỏ bạn nhé. Với phẫu thuật mổ nội soi, nếu hậu phẫu ổn định sau ba ngày bạn sẽ được xuất viện. Đối với mổ hở, thời gian nằm viện sau mổ 4 – 5 ngày. Phẫu thuật nội soi có chi phí khoảng 8 – 10 triệu đồng. Mổ hở có chi phí khoảng 6 – 8 triệu đồng nhé. Có thể mỗi bệnh viện sẽ có 1 mức chi phí khác nhau. Bạn có thể qua bệnh viện để tham khảo trực tiếp nhé. Phẫu thuật u nang buồng trứng tùy trường hợp có thể mổ nội soi hoặc mổ hỏ bạn nhé. Với phẫu thuật mổ nội soi, nếu hậu phẫu ổn định sau ba ngày bạn sẽ được xuất viện. Đối với mổ hở, thời gian nằm viện sau mổ 4 – 5 ngày. Phẫu thuật nội soi có chi phí khoảng 8 – 10 triệu đồng. Mổ hở có chi phí khoảng 6 – 8 triệu đồng nhé. Có thể mỗi bệnh viện sẽ có 1 mức chi phí khác nhau. Bạn có thể qua bệnh viện để tham khảo trực tiếp nhé. Hãy để lại thông tin của bạn, chuyên gia sẽ liên hệ lại và tư vấn giúp bạn.
U quái
U quái (tiếng Anh: teratoma) là một khối u được tạo thành từ nhiều loại mô khác nhau, chẳng hạn như tóc, cơ, răng hoặc xương. Chúng thường hình thành ở buồng trứng, tinh hoàn hoặc xương đuôi và ít gặp hơn ở các khu vực khác. Các triệu chứng có thể là tối thiểu nếu khối u nhỏ. Một khối u quái tinh hoàn có thể xuất hiện dưới dạng cục u không đau. Các biến chứng có thể bao gồm xoắn buồng trứng, xoắn tinh hoàn hoặc chảy nước thai nhi. Chúng là một loại u tế bào mầm (một khối u bắt đầu trong các tế bào làm phát sinh tinh trùng hoặc trứng). Chúng được chia thành hai loại: trưởng thành và chưa trưởng thành. U quái trưởng thành bao gồm u nang da và thường lành tính. U quái chưa trưởng thành có thể là ung thư. Hầu hết các u quái buồng trứng là dạng trưởng thành. Ở người lớn, u quái tinh hoàn nói chung là ung thư. Chẩn đoán xác định dựa trên sinh thiết mô. Điều trị u quái xương đuôi, tinh hoàn và buồng trứng nói chung bằng phẫu thuật. U quái tinh hoàn buồng trứng và chưa trưởng thành cũng thường được điều trị bằng hóa trị.
Sốt siêu vi ở người lớn là tình trạng nhiệt độ cơ thể cao hơn mức trung bình, gây ra do virus. Thông thường, các triệu chứng sốt siêu vi có thể nhận thấy là sổ mũi, ho, buồn nôn, mệt mỏi và đau nhức cơ thể. Có thể bắt gặp các tình trạng sau khi sốt siêu vi: sốt cao và nôn ở người lớn, sốt cao chân tay lạnh ở người lớn, sốt cao nhức mỏi toàn thân …. Trong đa số các trường hợp, bệnh có thể tự khỏi. Tuy nhiên, người bệnh cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp hạ sốt trước khi để thân nhiệt tăng quá cao. Vậy sốt siêu vi uống thuốc gì? Điều trị sốt siêu vi người lớn như thế nào mới hiệu quả? Tất cả những câu trả lời cho các vấn đề trên đều có trong bài viết này. Mời quý độc giả cùng theo dõi. Sốt siêu vi gây ra các triệu chứng như ho, chảy nước mũi, nghẹt mũi,. Hầu hết các trường hợp sốt siêu vi đều có các triệu chứng giống một cơn cảm lạnh thông thường. Tuy nhiên, dấu hiệu quan trọng và nổi bật nhất của sốt siêu vi đó là sốt rất cao (có thể trên 39°C, tùy chủng virus). Các cơn sốt có thể liên tục tăng và giảm trong thời gian nhiễm bệnh. Sốt cao đau đầu: Đây là triệu chứng sốt siêu vi thường gặp. Người bệnh bị nhức đầu dữ dội, có cảm giác chao đảo do sốt làm tuần hoàn máu mạnh hơn và các mạch máu căng ra. Đau nhức cơ bắp: Cảm giác đau nhức, yếu cơ bắp toàn thân thường xuyên xuất hiện. Người bệnh bị sốt cao nhức mỏi toàn thân. Đau nhức mắt: Mắt lờ đờ, chảy nước mắt hoặc dử mắt, có cảm giác nóng rát. Mệt mỏi: Phản ứng của hệ miễn dịch chống lại virus xâm nhập gây ra hàng loạt các triệu chứng viêm đau như trên. Hệ quả kéo theo là người bệnh sẽ có cảm giác mệt mỏi thường trực, dễ li bì. Nghẹt mũi, khó thở: Khi các phản ứng viêm sưng tăng quá mức, đường hô hấp có thể bị tắc nghẽn. Người bệnh còn có thể bị ho, hắt hơi hay đau họng. Phát ban đỏ trên da: Triệu chứng này thường xuất hiện sau 2 – 3 ngày sốt, trên da nổi những chấm ban đỏ li ti, ngứa ngáy. Nhiều người dễ nhầm lẫn triệu chứng này của sốt siêu vi thành sốt xuất huyết. Viêm hạch bạch huyết: Do bội nhiễm đường hô hấp, các hạch vùng đầu, mặt, cổ thường sưng to, đau có thể nhìn hoặc sờ thấy được. Ngoài ra còn các triệu chứng sốt siêu vi khác như cảm giác ớn lạnh toàn thân (người bệnh sốt cao người nóng nhưng cảm thấy lạnh), lạnh bàn chân, rối loạn tiêu hóa (người bệnh sốt cao đi ngoài), buồn nôn và nôn do viêm họng kích thích chất nhầy. Trong đa số trường hợp, sốt siêu vi thường không đáng ngại, nhưng nếu thân nhiệt lên đến 39°C hoặc cao hơn, xuất hiện thêm các triệu chứng nghiêm trọng khác thì bạn cần đi khám ngay. Những triệu chứng sốt siêu vi ở người lớn cần chú ý là đau đầu dữ dội, sốt cao khó thở, đau ngực, nôn thường xuyên, phát ban trầm trọng, cổ cứng và đau, sốt cao co giật ở người lớn, mất tỉnh táo. Các chuyên gia luôn đánh giá cao mức độ nguy hiểm của tình trạng bà bầu bị sốt siêu vi. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả mẹ và bé. Hầu hết trường hợp người bệnh có thể tự khỏi trong vòng 1- 2 tuần. Tuy nhiên, sốt siêu vi ngoài gây sốt còn có thể dẫn đến các triệu chứng khác. Khi đó, sử dụng thuốc chính là một cách xử lý hiệu quả các triệu chứng gây ảnh hưởng đến toàn cơ thể như trên. Đề điều trị sốt siêu vi người lớn, bạn có thể sử dụng thuốc hạ sốt paracetamol (Hapacol). Dùng aspirin cũng là một cách giảm sốt siêu vi, nhưng cần thận trọng khi sử dụng cho trẻ em, người dưới 18 tuổi do những rủi ro phát sinh hội chứng Reye. Không giống như nhiễm vi khuẩn, sốt siêu vi không thể điều trị bằng thuốc kháng sinh. Vẫn có một số trường hợp, bác sĩ có thể kê đơn thuốc kháng sinh cho người bị sốt siêu vi. Tuy nhiên, lúc này thuốc kháng sinh chỉ có vai trò chống lại nhiễm trùng thứ cấp, không có tác dụng lên virus. Bạn hãy ghi nhớ khi có ai đó hỏi “sốt siêu vi uống thuốc gì?” thì câu trả lời chắc chắn không phải là thuốc kháng sinh. Chườm ấm, tắm nước ấm: Một quan niệm sai lầm phổ biến khi hạ sốt là sử dụng nước lạnh để tắm hoặc lau người bằng nước lạnh. Trong thực tế, tiếp xúc với nhiệt độ quá lạnh có thể có tác động xấu đến cơ thể trong thời gian bị sốt. Nước lạnh còn khiến cơ thể ấm lên hơn thay vì hạ nhiệt. Do đó, một cách hạ sốt siêu vi đúng đắn hơn đó là dùng nước ấm vừa phải. Uống bù nước: Bạn cần thường xuyên nhấp môi với nước lọc hoặc uống các loại nước chứa chất điện giải (nước dừa, nước chanh). Chúng giúp làm mát nhiệt độ cơ thể và ngăn ngừa mất nước. Trong một số trường hợp bị sốt cao đi ngoài (tiêu chảy), bổ sung nước là điều quan trọng hàng đầu. Chú ý vệ sinh: Hãy đảm bảo vệ sinh ăn uống, ăn các thức ăn dễ tiêu và nhiều vitamin, giữ môi trường sống thoáng mát, sạch sẽ. Bên cạnh đó, đừng quên mang khẩu trang để tránh lây nhiễm. Một số lưu ý khác: Tránh sử dụng quá nhiều chăn mền hoặc mặc quần áo quá dày, ở trong phòng quá kín. Dù bạn thường xuyên cảm thấy ớn lạnh hay bị sốt lạnh run thì nhiệt độ bên trong cơ thể vẫn đang rất cao. Hãy mặc các loại quần áo nhẹ, thoáng, có thể sử dụng quạt gió chế độ thấp để giữ không khí lưu thông. Cố gắng nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt. Tuy gây nhiều khó chịu nhưng hầu hết các triệu chứng sốt siêu vi ở người lớn đều có thể tự khỏi, thậm chí đôi khi bạn chỉ sốt 1 ngày rồi khỏi. Khi cảm thấy thân nhiệt lên cao bất thường, hãy hạ sốt trước, cố gắng nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt cũng như uống đủ nước. Nếu nhận thấy có những dấu hiệu bất thường khác hoặc đã điều trị sốt siêu vi tại nhà nhưng vẫn không giảm, bạn nên nhanh chóng đến bệnh viện kiểm tra để tránh các biến chứng có thể xảy ra nhé!. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp: số 1800156801 do Sở Kế hoạch đầu tư TP. Cần Thơ cấp ngày 02 tháng 01 năm 2020
Sốt siêu vi
Sốt siêu vi là thuật ngữ chỉ chung những trường hợp sốt do nhiễm các loại siêu vi trùng (virus) khác nhau. Một số trường hợp sốt siêu vi có thể chẩn đoán rõ ràng nhờ đặc điểm dịch tễ và các biểu hiện của bệnh. Nhiều trường hợp khác không thể chẩn đoán nguyên nhân. Hầu hết các trường hợp sốt siêu vi có biểu hiện đau đầu, đau nhức mình mẩy và nổi ban. Loại bệnh này chỉ điều trị triệu chứng như hạ sốt, chống mất nước, nghỉ ngơi, cách ly tránh lây nhiễm để tránh bùng phát dịch bệnh. Phần lớn sốt siêu vi không nguy hiểm và có thể tự hết, tuy nhiên cũng có một số bệnh nhanh chóng đưa đến tử vong đặc biệt là đối với trẻ em.
Nga: 900.000 quân chính quy và dân quân (tính riêng vào lúc cao điểm),2.100.000 quân Nga (tất cả). Anh: 750.000 quân (tất cả), 250.000 quân chính quy và dân quân (tính riêng vào lúc cao điểm). Phổ: 320.000 quân chính quy và dân quân (tính riêng vào lúc cao điểm),700.000 quân(tất cả). ~1.800.000 lính chết hoặc mất tích do mọi nguyên nhân, bao gồm 371.000 chết tại trận (306.000 lính Pháp và 65.000 lính đồng minh của Pháp). Thuật ngữ “Đế quốc Áo” được sử dụng từ sau khi Napoleon lên ngôi Hoàng đế nước Pháp năm 1804, và do đó Franz II của đế quốc La Mã Thần thánh phải nhận danh hiệu Hoàng đế Áo (Kaiser von Österreich) cho tương xứng. Đế quốc La Mã Thần thánh tan rã vào năm 1806, và theo đó “Hoàng đế Áo” trở thành danh hiệu chính của Francis. Vì lý do này, thuật ngữ “Đế quốc Áo” vẫn thường được dùng để thay thế cho “Đế quốc La Mã Thần thánh” cho ngắn gọn khi nói về các cuộc chiến tranh Napoleon, mặc dù 2 thực thể này vốn không đồng nghĩa. Cả Áo và Phổ đều đã từng trở thành đồng minh của Pháp trong thời gian ngắn và có đưa quân tham gia cuộc xâm lược nước Nga năm 1812. Nga đã trở thành đồng minh của Pháp sau Hòa ước Tilsit năm 1807. Mối liên minh này tan vỡ năm 1810, dẫn đến cuộc tấn công nước Nga năm 1812. Trong thời gian đó Nga đã tiến hành chiến tranh với Thụy Điển (1808–1809), với Đế quốc Ottoman (1806–1812), và chiến tranh trên danh nghĩa với nước Anh (1807–1812). Tây Ban Nha là 1 đồng minh của Pháp cho đến khi bị Pháp xâm lược năm 1808, và đã chống lại nước Pháp trong cuộc chiến tranh Bán đảo. Sicilia nằm trong liên bang riêng với Napoli cho đến khi Napoli trở thành nước cộng hòa vệ tinh của Pháp sau trận Campo Tenese năm 1806. Trên danh nghĩa, Thụy Điển đã tuyên bố chiến tranh với Anh sau thua nước Nga trong chiến tranh Phàn Lan (1808–1809). Quân đoàn Ba Lan đã sớm phục vụ trong quân đội Pháp từ trước đó. Đế chế Pháp đã sáp nhập Vương quốc Holland năm 1810. Quân Hà Lan đã chiến đấu chống lại Napoleon trong thời kỳ Một trăm ngày năm 1815. Vương quốc Napoli đã liên minh với Áo một thời gian ngắn trong năm 1814, rồi lại liên minh Pháp và đánh lại Áo trong cuộc chiến tranh Napoli năm 1815. 16 đồng minh của Pháp trong số các quốc gia Đức (bao gồm cả Bavaria và Württemberg) đã tạo nên Liên bang Rhein vào tháng 7 năm 1806 sau trận Austerlitz tháng 12 năm 1805. Sau trận Jena-Auerstedt tháng 10 năm 1806, nhiều quốc gia Đức khác trước đó theo phe đồng minh chống Pháp, trong đó có Saxony và Westphalia, cũng liên minh với Pháp và gia nhập Liên bang này. Saxony lại đổi phe lần nữa trong trận Leipzig năm 1813, làm hầu hết các quốc gia thành viên khác cũng nhanh chóng theo sau và tuyên chiến với Pháp. Đan Mạch-Na Uy giữ trung lập cho đến trận Copenhagen năm 1807. Sau chiến dịch ngắn ngủi của Thụy Điển tại Na Uy năm 1814, Na Uy đã tham gia vào khối liên minh riêng với Thụy Điển. Đế quốc Ottoman có chiến tranh với Napoleon trong chiến dịch của Pháp tại Ai Cập và Syria, một phần của Chiến tranh Cách mạng Pháp, cho đến năm 1803. Trong triều đại của Napoleon từ năm 1803 đến 1815, đế quốc này đã tham gia 2 cuộc chiến tranh chống lại phe Liên minh: với Anh trong chiến tranh Anh-Thổ (1807–1809) và với Nga trong chiến tranh Nga-Thổ (1806–1812) (tuy nhiên nước Nga đã liên minh với Napoleon trong các năm 1807-1812). Hoa Kỳ chiến tranh với Anh trong cuộc chiến tranh năm 1812, được xem là một phần của chiến tranh Napoleon nhưng không chính thức làm đồng minh với Pháp. Joseph Bonaparte cai trị với danh hiệu Joseph I của Napoli và Sicilia từ 30 tháng 3 năm 1806 đến 6 tháng 6 năm 1808, và của Tây Ban Nha từ 8 tháng 6 năm 1808 đến 11 tháng 12 năm 1813. Ông ta cũng phục vụ như một vị tướng của Pháp trước và sau 2 giai đoạn trị vì này. Đế quốc Ba Tư có chiến tranh với nước Nga trong các năm 1804-1813 nên trở thành đồng minh của Napoleon; nhưng nước Nga đã liên minh của Napoleon trong các năm 1807-1812. Các cuộc chiến tranh của Napoléon, hay thường được gọi tắt là Chiến tranh Napoléon là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các khối liên minh các nước châu Âu chống lại Đệ nhất Đế chế Pháp. Trên đà các cuộc chinh phục cách mạng từ năm 1789, nước Pháp đã phát triển sức mạnh của mình rất nhanh khi đội quân của Napoléon chinh phục được phần lớn châu Âu. Tuy nhiên, sự thất bại còn nhanh hơn, bắt đầu từ sau thảm họa của cuộc tiến công nước Nga năm 1812 cho đến thất bại quyết định trong trận Waterloo năm 1815, Đế chế của Napoleon cuối cùng đã bị đánh bại hoàn toàn về quân sự và kết quả là sự phục hưng của vương triều Bourbon ở Pháp. Chiến tranh Napoléon đã tạo động lực để cách mạng hóa lực lượng quân đội các nước châu Âu, trong đó có việc sử dụng pháo binh, cách tổ chức quân sự và thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Diễn ra với một quy mô chưa từng thấy – chủ yếu là nhờ vào việc áp dụng chế độ cưỡng bách tòng quân số lượng lớn hiện đại – toàn bộ các cuộc xung đột này đã khiến cho tổng cộng khoảng 5 – 7 triệu người chết, trong đó khoảng 3 – 4 triệu là binh lính và 1 – 3 triệu thường dân. Chiến tranh Napoleón đã dẫn đến sự tan rã của Đế quốc La Mã Thần thánh và gieo mầm cho chủ nghĩa dân tộc hình thành tại Đức và Ý, mà sau này đã giúp dẫn đến việc thống nhất hai quốc gia này vào giữa thế kỷ 19. Đồng thời, đế quốc khắp hoàn cầu của Tây Ban Nha cũng bắt đầu tan vỡ khi chính quốc Tây Ban Nha bị nước Pháp chiếm đóng, làm suy yếu quyền kiểm soát của nó đối với các thuộc địa, mở màn cho một loạt các cuộc chiến tranh giành độc lập tại những nước châu Mỹ. Và một hệ quả trực tiếp khác của chiến tranh Napoleon là Đế quốc Anh đã trở thành cường quốc mạnh nhất thế giới trong một thế kỷ tiếp sau đó, giai đoạn được gọi là Nền hòa bình Anh. Cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí về thời điểm kết thúc của cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và bắt đầu của Chiến tranh Napoléon. Ban đầu người ta cho rằng thời điểm đó là vào ngày 9 tháng 11 năm 1799, khi tướng Bonaparte lên nắm quyền lãnh đạo nước Pháp sau cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, nhưng đa số đều quan niệm các cuộc chiến của cuộc Cách mạng Pháp kéo dài tới năm 1802 và lời tuyên chiến giữa Pháp và Anh ngày 18 tháng 5 năm 1803 – sau khi một thời gian hòa bình ngắn ngủi tiếp theo Hòa ước Amiens năm 1802 – là điểm xuất phát của các cuộc chiến tranh Napoléon. Các cuộc chiến này chấm dứt sau thất bại cuối cùng của Napoléon tại trận Waterloo ngày 18 tháng 6 năm 1815 và Hòa ước Paris thứ hai ký ngày 20 tháng 11 cùng năm đó. Có người gọi các cuộc chiến này là Các cuộc chiến tranh Cách mạng và Đế chế (Guerres de la Révolution et de l’Empire) chủ yếu vì coi chúng là sự tiếp tục của các cuộc chiến bảo vệ Cuộc cách mạng Pháp, do các vương quốc châu Âu liên kết chống lại Pháp trong Liên minh thứ nhất và thứ hai. Tuy nhiên một số người khác lại cho đây là các cuộc chiến tranh xâm lược không thể chối cãi, chẳng hạn như cuộc chiến tranh Bán đảo tại Tây Ban Nha trong các năm 1808-1814. Các sử gia châu Âu đôi khi còn gọi thời kỳ chiến tranh liên tục từ ngày 20 tháng 4 năm 1792, khi Pháp tuyên chiến với Áo, tới ngày 20 tháng 11 năm 1815 là “Cuộc đại chiến”, cho đến khi tên gọi này chuyển sang cho cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, và thay thế bằng Cuộc đại chiến Pháp – Grande guerre francaise. Cuối cùng đôi khi người ta cũng coi các cuộc chiến này là giai đoạn cuối của Cuộc chiến tranh 100 năm lần thứ ba (Troisième guerre de Cent ans) giữa Pháp và Anh. Sau mưu toan nghiền nát Cuộc cách mạng Pháp của Liên minh thứ nhất gồm Anh, Áo, Phổ, Tây Ban Nha và một số nước nhỏ (1792-1797), phe Liên minh bị thất bại bởi cuộc tổng động viên của Pháp (300.000 người) với việc cải cách quân đội bởi tướng Lazare Nicolas Marguerite Carnot và chiến thuật chiến tranh toàn diện. Nước Pháp thắng trận đã sáp nhập vùng Rheinland và vùng Bỉ-Hà Lan-Luxembourg thuộc Tây Ban Nha vào Pháp. Việc chinh phục Cộng hòa Hà Lan (cũng gọi là “7 tỉnh hợp nhất”, tuyên chiến với Pháp năm 1793) và chuyển thành nước Cộng hòa Batavia bởi Hiệp ước La Haye ngày 19.01.1795, đến trước việc từ bỏ Phổ rồi Tây Ban Nha trong cùng một năm. Cuối cùng là trận chiến thắng lợi của vị tướng trẻ Napoléon Bonaparte tại Ý (1796-1797), trước hết tách vùng Piemonte (của Ý) và sau đó các nước dưới quyền Giáo hoàng ra khỏi phe Liên minh, cuối cùng đã buộc Áo phải ký hiệp ước Campo-Formio (17 tháng 10 năm 1797) chấm dứt Liên minh. Vương quốc Anh – cường quốc chính còn chiến tranh với Pháp – tài trợ một Liên minh thứ hai gồm Anh, Nga, Áo, Đế quốc Ottoman, Thụy Điển, Vương quốc Lưỡng Sicilia, Đế quốc La mã thần thánh. Chính phủ Pháp thời đó vừa tham nhũng vừa bất ổn, đã không thể chống lại các cuộc đảo chính, cũng không thể đối mặt với sự đe dọa từ bên ngoài, thiếu các bộ trưởng giỏi như Carnot, hoặc tướng tài như Bonaparte (vì sang Ai cập). Quân Pháp bị quân của Liên minh dưới sự chỉ huy của tướng Nga Aleksandr Vasilyevich Suvorov đánh bại. Bonaparte trao quyền chỉ huy quân đội ở Ai Cập cho tướng Jean Baptiste Kléber, trở về Pháp làm một cuộc đảo chính vào ngày 18 tháng sương mù (9 tháng 11 năm 1799), lật đổ Ban đốc chính (Directoire) và lên nắm quyền. Sự đe dọa cấp bách nhất là cuộc tấn công của Áo cùng một lúc tại 2 mặt trận ở Ý và Đức. Viên Đệ nhất tổng tài (Napoléon) tổ chức một đạo quân gọi là trừ bị, vượt qua dãy núi Alps sang Ý. Ngày 18 tháng 6 năm 1800 Napoléon thắng trận Marengo (Ý) và ngày 3 tháng 12 năm 1800, tướng Jean Victor Marie Moreau cũng thắng quân Áo tại Hohenlinden (Đức). Hòa ước Lunéville được ký ngày 9 tháng 2 năm 1801 giữa Pháp và Áo. Chỉ còn Anh là vẫn chống lại Pháp. Anh có một hạm đội mạnh, làm chủ trên biển. Sau một chiến thắng trước hạm đội Pháp – Tây Ban Nha ở mũi Saint Vincent (1797), rồi trận diệt hạm đội Pháp ở Aboukir (Ai Cập) ngày 1 tháng 8 năm 1798, hạm đội Anh tiếp tục đe dọa Quần đảo Antilles thuộc Pháp, và họ đủ sức kết hợp các cường quốc ở lục địa châu Âu chống lại Pháp. Quân đội Áo cũng vậy, mặc dù bị nhiều thất bại, vẫn còn là một mối đe dọa đối với Pháp. Hòa ước Amiens được ký ngày 25 tháng 3 năm 1802 giữa một bên là Anh và bên kia là Pháp, đại diện cho phe Liên minh (gồm Pháp, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Na Uy, Cộng hòa Batavia), chấm dứt chiến tranh giữa phe Pháp và Liên minh thứ hai. Nền hòa bình coi như không lâu dài, vì cả hai bên đều không hài lòng. Ngày 18 tháng 5 năm 1803, sự thù địch lại tái diễn, nhưng mục tiêu của cuộc xung đột lần này chuyển từ việc tái thiết lập chế độ quân chủ ở Pháp sang cuộc đấu tranh chống Napoléon, khi ông tuyên bố lên làm hoàng đế Pháp ngày 28 tháng 4 năm 1804 và sau đó lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1804. Cuộc chiến trên biển vẫn tiếp tục, không gián đoạn. Đan Mạch – Na Uy trước kia trung lập, làm giàu nhờ buôn bán trong chiến tranh.
Chiến tranh Hoa Kỳ–Anh Quốc (1812)
Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc, hay thường được biết đến với cái tên Chiến tranh năm 1812, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế quốc Anh. Hoa Kỳ tuyên chiến vào năm 1812 vì nhiều nguyên nhân, trong đó có mong muốn được mở rộng vùng lãnh thổ Tây Bắc, những hạn chế về thương mại do cuộc chiến tranh mà nước Anh đang tiến hành chống lại Pháp gây ra, việc cưỡng bức các thủy thủ thương gia người Hoa Kỳ đi lính cho Hải quân Hoàng gia Anh, việc Anh hỗ trợ các bộ lạc da đỏ nhằm chống lại sự bành trướng của Hoa Kỳ, và sự phẫn nộ trước những hành động sỉ nhục danh dự quốc gia Hoa Kỳ của Anh trên hải phận quốc tế. Cho đến năm 1814, Đế quốc Anh cho áp dụng một chiến lược phòng thủ, đẩy lùi nhiều cuộc tấn công của Hoa Kỳ tại các tỉnh Thượng và Hạ Canada. Tuy nhiên, quân đội Hoa Kỳ đã kiểm soát được hồ Erie vào năm 1813, chiếm đóng phần phía Tây Ontario, chấm dứt hy vọng thiết lập một khối Liên minh Da đỏ và xây dựng một nhà nước Da đỏ độc lập tại miền Trung Tây của Tecumseh.
Trong Giải tích, Định lý kẹp là một định lý liên quan đến giới hạn của hàm số. Định lý kẹp là một công cụ mang tính kĩ thuật thường dùng trong các phép chứng minh của giải tích. Ứng dụng đặc thù của định lý này là để tìm giới hạn của một hàm số bằng cách so sánh nó với hai hàm số khác có giới hạn đã biết hoặc dễ tính. Nó được dùng đầu tiên trong hình học bởi các nhà toán học Archimedes và Eudoxus khi các ông tìm cách tính số π, và được Gauss chính xác hóa dưới dạng ký hiệu như ngày nay. Gọi I là một khoảng chứa giới hạn a. Gọi f, g, và h là các hàm số xác định trên I, có thể không xác định tại a. Giả sử với mọi x thuộc I mà khác a, ta có:. Các hàm số g(x) và h(x) được gọi là chặn dưới và chặn trên tương ứng của f(x). Ở đây a không cần thiết phải thuộc về miền trong của I. Thêm vào đó, nếu a là một đầu mút của I thì các giới hạn trên sẽ là giới hạn bên trái hoặc bên phải. Mệnh đề tương tự cũng đúng cho các khoảng vô hạn: ví dụ, nếu I = (0, ∞) thì kết luận trên vẫn đúng trong trường hợp lấy giới hạn khi x → ∞. vì thế các bất đẳng thức đều trở thành đẳng thức và ta có điều phải chứng minh. Hai giới hạn này được sử dụng để chứng minh đạo hàm của hàm số sin là hàm số cosin. Kẹp giữa hai hình quạt trên là một tam giác có đáy là đoạn thẳng nối hai điểm tô đậm và có chiều cao bằng 1. Diện tích tam giác đó bằng. khi Δθ > 0, và các bất đẳng thức đổi chiều nếu Δθ < 0. Vì biểu thức thứ nhất và thứ ba tiến đến sec2θ khi Δθ → 0, còn biểu thức ở giữa tiến đến (d/dθ) tan θ, chứng minh hoàn tất. Ý tưởng chủ yếu của chứng minh là “hiệu tương đối” giữa các hàm số f, g, và h. Nó đưa chặn dưới về 0 và các hàm số đều không âm. Điều này làm chứng minh đơn giản hơn rất nhiều. Trường hợp tổng quát chỉ cần một chút biến đổi đại số. Để bắt đầu, giả sử tất cả các giả thiết và ký hiệu đều giống như đã nói ở phần phát biểu ở trên. Trước hết, ta xét trường hợp đơn giản g(x) = 0 với mọi x và L = 0. Trong trường hợp này:. Gọi ε > 0 là một số dương cố định. Theo định nghĩa giới hạn hàm số, tồn tại số δ > 0 sao cho:. Chứng minh cho trường hợp đơn giản đã hoàn tất. Ta sẽ chứng minh kết quả tổng quát với g và L bất kì. Với mọi x thuộc I mà khác a, ta có:. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Định lý kẹp
Trong Giải tích, Định lý kẹp là một định lý liên quan đến giới hạn của hàm số. Định lý kẹp là một công cụ mang tính kĩ thuật thường dùng trong các phép chứng minh của giải tích. Ứng dụng đặc thù của định lý này là để tìm giới hạn của một hàm số bằng cách so sánh nó với hai hàm số khác có giới hạn đã biết hoặc dễ tính. Nó được dùng đầu tiên trong hình học bởi các nhà toán học Archimedes và Eudoxus khi các ông tìm cách tính số π, và được Gauss chính xác hóa dưới dạng ký hiệu như ngày nay.
6 Nghệ thuật cần phải thỏa mãn nhưng không nhất thiết phải có cảm xúc và ngẫu hứng. Khi nhắc tới nghệ thuật, nhiều người sẽ đắn đo và suy nghĩ để tìm được cho mình một câu trả lời chính xác về định nghĩa của nó. Chính vì thế, bài viết dưới đây được xuất bản bởi mục định giúp độc giả hiểu rõ về định nghĩa nghệ thuật là gì? Hay giải thích về ngôn ngữ nghệ thuật là gì? Thôi không dài dòng nữa, bắt đầu nào!. Nghệ thuật là sự sáng tạo, các hoạt động để tạo ra các sản phẩm (có thể là vật thể hoặc phi vật thể) mang lại những giá trị lớn về tinh thần, tư tưởng và có giá trị thẩm mỹ, mang giá trị văn hóa và làm rung động cảm xúc, tư tưởng tình cảm của khán giả (người thưởng thức tác phẩm nghệ thuật). Trong mỗi loại hình nghệ thuật lại có những quy định và ý nghĩa về nghệ thuật khác nhau, nhưng đều có chung quan điểm về giá trị tinh thần và tư tưởng. Nghệ thuật là cái hay cái đẹp để người ta chiêm nghiệm qua các giác quan từ đó ngưỡng mộ bởi trình độ, tài năng, kĩ năng, kĩ xảo cao vượt lên trên mức thông thường phổ biến. Theo nghĩa này thường là một tác phẩm nghệ thuật hoặc một nghệ sỹ cụ thể nào đó. Được gọi là nghệ thuật là khi một nghề nghiệp nào đó được thực hiện ở mức hoàn hảo với trình độ điêu luyện, thậm chí siêu việt. Chẳng hạn nghệ thuật viết báo, nghệ thuật diễn thuyết, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật đắc nhân tâm, nghệ thuật dùng phím chuột của PC… Theo nghĩa này thường là một tài khéo đặc biệt nào đó. “Nghệ thuật đấy là ngữ cảnh địa phương của cá nhân và cộng đồng”. Đây là quan điểm đương đại về nghệ thuật và được đa số học giả chấp nhận. “Mọi sự miêu tả cảm tính bất kỳ một vật thể sống hay hiện tượng nào từ giác độ trạng thái cuối cùng của nó, hay là dưới ánh sáng của thế giới tương lai, sẽ là tác phẩm nghệ thuật.” Soloviev – nhà thơ triết gia vĩ đại người Nga. Loại hình nghệ thuật là những hình thức tồn tại ổn định của nghệ thuật. Tính tới nay thì có tất cả là 6 loại hình nghệ thuật, bao gồm:. Nguồn gốc sâu xa của sự phát sinh và phát triển của các loại hình nghệ thuật trong lịch sử là tính đa dạng của các quá trình, các hiện tượng trong thực tại, và sự khác biệt của những phương thức cũng như nhiệm vụ phản ánh thẩm mỹ và cải tạo hiện thực do nhu cầu nhiều mặt của con người. Mỗi loại hình nghệ thuật có những đặc trưng riêng, được quy định bởi đặc điểm của đối tượng miêu tả, phương thức tái hiện. nhiệm vụ nghệ thuật và bởi cả những phương tiện vật chất chủ yếu tạo nên hình tượng nghệ thuật. Ngôn ngữ ngữ thường được dùng trong văn trương đó là loai ngôn ngữ gợi cảm gợi hinh mang chức năng truyền đạt thông tin và thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ cho con người. Có nhiều người tin rằng nghệ thuật phải thể hiện tư tưởng. Số khác lại thích cảm nhận nghệ thuật bởi chính vẻ đẹp tự thân của nó. Các nghệ sĩ trường phái Ấn tượng có nhiều tranh luận cực đoan về vấn đề này. Một số cho rằng quan trọng nhất là vẽ lại khung cảnh cuộc sống hiện đại; có người lại chỉ hứng thú khảo sát tác động của ánh sáng lên vạn vật. Đến cả hình ảnh của thị dân cũng gây tranh cãi, như Georges Seurat đã vô tình khơi ra. Mọi người thường bất đồng gay gắt khi xác định giá trị của một tác phẩm. Vincent van Gogh đã chết trong cảnh nghèo đói vì không bán được tranh – ngay cả bạn bè cũng nói tác phẩm ông vẽ chẳng khác nào của một gã điên. Giờ đây, các bức họa ấy nằm trong số những tranh đắt nhất thế giới. Một ví dụ khác: nhà phê bình John Ruskin đã từng phải hầu tòa vì chê bai bức Cảnh đêm đen và vàng óng của James Whistler. Ông không tin nổi Whistler lại đòi 200 đồng vàng cho một thứ “như hắt cả bát sơn vào mặt công chúng”. Whistler đáp rằng: giá trị của tranh không ở chỗ vẽ bao lâu, mà nằm ở tài năng của họa sĩ và bao nhiêu năm miệt mài rèn giữa. Whisler thắng kiện và được bồi thường….25 xu. Có vẻ bồi thẩm đoàn cũng ngầm đồng tình với Ruskin. Nghệ thuật cần phải thỏa mãn nhưng không nhất thiết phải có cảm xúc và ngẫu hứng. Có lẽ sẽ điều này sẽ gây chói tai cho nhiều người vì chúng ta đang sống chung với một số định kiến rằng: làm nghệ thuật phải nhiều cảm xúc, cần phải có hứng mới làm nên được tác phẩm… Tuy nhiên cảm xúc của con người, về mặt cơ bản, là sự chủ quan. Cảm xúc của một người nghệ sĩ chưa chắc tạo ra cảm xúc cho người xem. Trong khi sự ngẫu hứng cũng tương đương với may mắn. Có những lúc, chúng ta sẽ đi mua vé số vì muốn có nhiều tiền mà không phải làm gì cả. Vì thế, trở thành nô lệ của những yếu tố này sẽ khiến người nghệ sĩ không thể sáng tạo được. Câu chuyện rằng Marcel Duchamp, đã gửi chiếc bồn tiểu để ngược này đặt tên là “Đài phun nước” (Fountain) và kí tên dưới bút danh R.Mutt gửi đến Hội Nghệ sĩ độc lập (Society of Independent Artists). Vào thời điểm đó, Duchamp là thành viên hội đồng quản trị. Sau nhiều cuộc tranh cãi, tác phẩm đã không được giới thiệu trong triển lãm. Sau đó, Duchamp từ chức khỏi Hội đồng để phản đối. “Đài phun nước” được trưng bày và chụp ảnh tại studio của Alfred Stieglitz, và bức ảnh được xuất bản trong The Blind Man, nhưng bản gốc đã bị mất. Giờ đây, tác phẩm này được xem như một trong những tác phẩm tiêu biểu của thế kỉ 20. Đây cũng chính là sự thỏa mãn của một chuỗi câu hỏi, thách thức nằm trong tư duy nghệ thuật của Duchamp nói riêng và phong trào Dada nói chung. Tác phẩm thành công ở việc gây ra cảm xúc (có phần tiêu cực, một scandal), tranh luận. Nó khiến chúng ta tự vấn và phải tìm cách tự thỏa mãn chính chúng ta vì cái sự mới mẻ, thách thức các giá trị, tiêu chuẩn nghệ thuật thời bấy giờ. “Đài phun nước” chỉ là một ví dụ nhỏ của sự thỏa mãn. Câu hỏi tiếp theo đặt ra là: “Vào thời nay trong một nền nghệ thuật còn lạc hậu, những tác phẩm của sự thách thức khi nào sẽ xuất hiện?”. Nghệ thuật là sự sáng tạo, các hoạt động để tạo ra các sản phẩm (có thể là vật thể hoặc phi vật thể) mang lại những giá trị lớn về tinh thần, tư tưởng và có giá trị thẩm mỹ, mang giá trị văn hóa và làm rung động cảm xúc, tư tưởng tình cảm của khán giả (người thưởng thức tác phẩm nghệ thuật). Trong mỗi loại hình nghệ thuật lại có những quy định và ý nghĩa về nghệ thuật khác nhau, nhưng đều có chung quan điểm về giá trị tinh thần và tư tưởng. Nghệ thuật là cái hay cái đẹp để người ta chiêm nghiệm qua các giác quan từ đó ngưỡng mộ bởi trình độ, tài năng, kĩ năng, kĩ xảo cao vượt lên trên mức thông thường phổ biến. Theo nghĩa này thường là một tác phẩm nghệ thuật hoặc một nghệ sỹ cụ thể nào đó. Được gọi là nghệ thuật là khi một nghề nghiệp nào đó được thực hiện ở mức hoàn hảo với trình độ điêu luyện, thậm chí siêu việt. Chẳng hạn nghệ thuật viết báo, nghệ thuật diễn thuyết, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật đắc nhân tâm, nghệ thuật dùng phím chuột của PC… Theo nghĩa này thường là một tài khéo đặc biệt nào đó. “Nghệ thuật đấy là ngữ cảnh địa phương của cá nhân và cộng đồng”. Đây là quan điểm đương đại về nghệ thuật và được đa số học giả chấp nhận. “Mọi sự miêu tả cảm tính bất kỳ một vật thể sống hay hiện tượng nào từ giác độ trạng thái cuối cùng của nó, hay là dưới ánh sáng của thế giới tương lai, sẽ là tác phẩm nghệ thuật.” Soloviev – nhà thơ triết gia vĩ đại người Nga. Loại hình nghệ thuật là những hình thức tồn tại ổn định của nghệ thuật. Tính tới nay thì có tất cả là 6 loại hình nghệ thuật, bao gồm:. Nguồn gốc sâu xa của sự phát sinh và phát triển của các loại hình nghệ thuật trong lịch sử là tính đa dạng của các quá trình, các hiện tượng trong thực tại, và sự khác biệt của những phương thức cũng như nhiệm vụ phản ánh thẩm mỹ và cải tạo hiện thực do nhu cầu nhiều mặt của con người. Mỗi loại hình nghệ thuật có những đặc trưng riêng, được quy định bởi đặc điểm của đối tượng miêu tả, phương thức tái hiện. nhiệm vụ nghệ thuật và bởi cả những phương tiện vật chất chủ yếu tạo nên hình tượng nghệ thuật. Ngôn ngữ ngữ thường được dùng trong văn trương đó là loai ngôn ngữ gợi cảm gợi hinh mang chức năng truyền đạt thông tin và thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ cho con người. Có nhiều người tin rằng nghệ thuật phải thể hiện tư tưởng. Số khác lại thích cảm nhận nghệ thuật bởi chính vẻ đẹp tự thân của nó. Các nghệ sĩ trường phái Ấn tượng có nhiều tranh luận cực đoan về vấn đề này. Một số cho rằng quan trọng nhất là vẽ lại khung cảnh cuộc sống hiện đại; có người lại chỉ hứng thú khảo sát tác động của ánh sáng lên vạn vật. Đến cả hình ảnh của thị dân cũng gây tranh cãi, như Georges Seurat đã vô tình khơi ra. Mọi người thường bất đồng gay gắt khi xác định giá trị của một tác phẩm. Vincent van Gogh đã chết trong cảnh nghèo đói vì không bán được tranh – ngay cả bạn bè cũng nói tác phẩm ông vẽ chẳng khác nào của một gã điên. Giờ đây, các bức họa ấy nằm trong số những tranh đắt nhất thế giới. Một ví dụ khác: nhà phê bình John Ruskin đã từng phải hầu tòa vì chê bai bức Cảnh đêm đen và vàng óng của James Whistler. Ông không tin nổi Whistler lại đòi 200 đồng vàng cho một thứ “như hắt cả bát sơn vào mặt công chúng”. Whistler đáp rằng: giá trị của tranh không ở chỗ vẽ bao lâu, mà nằm ở tài năng của họa sĩ và bao nhiêu năm miệt mài rèn giữa. Whisler thắng kiện và được bồi thường….25 xu. Có vẻ bồi thẩm đoàn cũng ngầm đồng tình với Ruskin. Có lẽ sẽ điều này sẽ gây chói tai cho nhiều người vì chúng ta đang sống chung với một số định kiến rằng: làm nghệ thuật phải nhiều cảm xúc, cần phải có hứng mới làm nên được tác phẩm… Tuy nhiên cảm xúc của con người, về mặt cơ bản, là sự chủ quan. Cảm xúc của một người nghệ sĩ chưa chắc tạo ra cảm xúc cho người xem. Trong khi sự ngẫu hứng cũng tương đương với may mắn. Có những lúc, chúng ta sẽ đi mua vé số vì muốn có nhiều tiền mà không phải làm gì cả. Vì thế, trở thành nô lệ của những yếu tố này sẽ khiến người nghệ sĩ không thể sáng tạo được. Câu chuyện rằng Marcel Duchamp, đã gửi chiếc bồn tiểu để ngược này đặt tên là “Đài phun nước” (Fountain) và kí tên dưới bút danh R.Mutt gửi đến Hội Nghệ sĩ độc lập (Society of Independent Artists). Vào thời điểm đó, Duchamp là thành viên hội đồng quản trị. Sau nhiều cuộc tranh cãi, tác phẩm đã không được giới thiệu trong triển lãm. Sau đó, Duchamp từ chức khỏi Hội đồng để phản đối. “Đài phun nước” được trưng bày và chụp ảnh tại studio của Alfred Stieglitz, và bức ảnh được xuất bản trong The Blind Man, nhưng bản gốc đã bị mất. Giờ đây, tác phẩm này được xem như một trong những tác phẩm tiêu biểu của thế kỉ 20. Đây cũng chính là sự thỏa mãn của một chuỗi câu hỏi, thách thức nằm trong tư duy nghệ thuật của Duchamp nói riêng và phong trào Dada nói chung. Tác phẩm thành công ở việc gây ra cảm xúc (có phần tiêu cực, một scandal), tranh luận. Nó khiến chúng ta tự vấn và phải tìm cách tự thỏa mãn chính chúng ta vì cái sự mới mẻ, thách thức các giá trị, tiêu chuẩn nghệ thuật thời bấy giờ.
Nhà phê bình nghệ thuật
Nhà phê bình nghệ thuật là một người chuyên phân tích, giải thích và đánh giá nghệ thuật. Các bài phê bình hoặc đánh giá bằng văn bản của họ góp phần phê bình nghệ thuật và chúng được xuất bản trên báo, tạp chí, sách, tài liệu triển lãm và danh mục và trên các trang web. Một số nhà phê bình nghệ thuật ngày nay sử dụng blog nghệ thuật và các nền tảng trực tuyến khác để kết nối với lượng khán giả rộng lớn hơn và mở rộng tranh luận về nghệ thuật. Khác với lịch sử nghệ thuật, không có một khóa đào tạo thể chế nào cho các nhà phê bình nghệ thuật (chỉ có một vài ngoại lệ); các nhà phê bình nghệ thuật đến từ các nền tảng khác nhau và họ có thể hoặc không được đào tạo bậc đại học. Các nhà phê bình nghệ thuật chuyên nghiệp dự kiến sẽ có một con mắt sắc sảo cho nghệ thuật và kiến thức kỹ lưỡng về lịch sử nghệ thuật. Điển hình là nhà phê bình nghệ thuật xem nghệ thuật tại các triển lãm, phòng trưng bày, bảo tàng hoặc xưởng vẽ của các nghệ sĩ và họ có thể là thành viên của Hiệp hội phê bình nghệ thuật quốc tế có các bộ phận quốc gia.
Trong bài viết này, Goldtrans mong muốn chia sẻ với các bạn hiểu rõ hơn về đèn LED. Chúng tôi mong muốn các bạn làm dịch vụ logistics tự tin khi tư vấn với khách hàng. Bài viết này được chúng tôi tổng hợp từ nhiều trang web khác nhau. Rất hi vọng sẽ giúp ích được cho các bạn. Chắc các bạn đã nghe đến đèn LED, quen thuộc với ánh sáng đèn LED. Từ biển quảng cáo, dây treo trang trí trên cây đến đèn chiếu sáng trong nhà, văn phòng, chiếu sáng đèn phố,… hiện nay gần như đều sử dụng đèn LED. LED (viết tắt của Light Emitting Diode, có nghĩa là điốt phát quang) là các điốt có khả năng phát ra ánh sáng hay tia hồng ngoại, tử ngoại. Cũng giống như điốt, LED được cấu tạo từ một khối bán dẫn loại p ghép với một khối bán dẫn loại n. Chip LED được gắn lại với nhau nhằm nâng cao khả năng phát ánh sáng. Ba loại tổ hợp phổ biến hiện này là : DIP, SMD và COB. Trong ứng dụng làm thiết bị chiếu sáng, các chip LED được lắp ráp với nhau thành một nguồn phát ánh sáng nằm bên trong các sản phẩm có hình dạng như: bóng tròn, tuýp dài, hình nến, hình cầu, downlight… được gọi là đèn LED. Từ những con LED, người ta phải thiết kế thành các modul LED, driver cho LED, thiết kế vỏ, phân bố quang, tản nhiệt cho LED, lắp ráp, đánh giá thử nghiệm đạt tiêu chuẩn. Từ đó mới hình thành nên đèn LED hoàn chỉnh để sử dụng. LED là sản phẩm công nghệ hết sức phức tạp. Do đó đòi hỏi các nhà sản xuất phải nắm rõ công nghệ, đầu tư trang thiết bị bài bản mới có thể kiểm soát tốt được chất lượng. Năm 1907, nhà khoa học người Anh H.J. Round đã phát minh ra điốt bán dẫn phát sáng đầu tiên. Tiếp đó nhà khoa học Nga Oleg Vladimirovich Losev đã tạo ra chiếc đèn LED đầu tiên. Tuy nhiên thành tựu này đã nhanh chóng rơi vào quên lãng khi mà nó không được biết đến rộng rãi. Phải đến tận năm 1961, hai nhà khoa học Mỹ là Robert Biard và Gary Pittman, làm việc tại Texas cũng phát hiện GaAs phát ra tia hồng ngoại khi có dòng điện tác động tới nó. Ngay sau đó 2 ông đã được cấp bằng sáng chế ra đèn LED hồng ngoại. Năm 1962, chiếc đèn LED phát ra ánh sáng đỏ đầu tiên được nghiên cứu bởi Nick Holonyak Jr. Tiếp đến năm 1972, M. George Craford là người đã phát minh ra bóng đèn led có màu vàng đầu tiên có cường độ sáng gấp 10 lần ánh sáng của bóng led màu đỏ và màu cam. Năm 1993, chiếc đèn LED xanh da trời đầu tiền được làm từ InGaN là phát minh của nhà khoa học Shuji Nakamura làm việc cho công ty Nichia Corporation. Sau đó, người ta lấy ánh sáng vàng trộn với ánh sáng xanh da trời và phủ thêm một lớp hợp chất có tên là YAG để cho ra đời ánh sáng trắng. Phải hơn 10 năm sau thì Nakamura mới được được trao giải thưởng công nghệ thiên nhiên kỷ cho phát minh đèn led ánh sáng xanh này. Màu sắc: có thể phát ra màu sắc như ý muốn mà không cần bộ lọc màu theo phương pháp truyền thống. Kích thước: Kích thước của bóng LED rất nhỏ (có thể nhỏ hơn 2 mm2) vì vậy có thể bố trí dễ dàng trên mạch in. Thời gian bật tắt nhanh: Led có thời gian bật và tắt rất nhanh kể từ lúc có tác động (micro giây). Điều này rất quan trọng trong thông tin liêc lạc, lĩnh vực yêu cầu có thời gian đáp ứng nhanh. Độ sáng tối: có thể dễ dàng điều khiển độ sáng tối bằng phương pháp điều chế độ rộng xung hoặc tăng giảm dòng điện tác động. Tuổi thọ đèn cao: Đây là ưu điểm lớn nhất của đèn led, tuổi thọ của đèn LED vào khoảng 35000 đến 50000 giờ, lớn hơn nhiều lần so với bóng huỳnh quang và sợi đốt. Độ bền cao: được làm từ vật liệu bán dẫn, nên rất khó bị phá huỷ bởi sự va đập. Chất lượng: hoảng cách chất lượng của các loại đèn led trên thị trường quá xa nhau. Đây là loại đèn có công suất lớn được gắn trên bảng mạch linh hoạt tạo thành một sợi dây dài dùng để trang trí nhà cửa, nội thất hay cảnh quan thiên nhiên. LED dây khá thân thuộc với mỗi gia đình trong các dịp lễ tết. Được sử dụng chủ yếu tại các văn phòng, tòa nhà cao ốc. Với thiết kế gắn trần cùng khả năng tăng giảm độ sáng, đèn âm trần vừa là sản phẩm cung cấp ánh sáng vừa để trang trí không gian trong phòng thêm sang trọng và ấm cúng. Đèn âm trần có nhiều kích thước cho bạn lựa chọn sao cho phù hợp với không gian mà bạn muốn ứng dụng. Đây là một trong các loại đèn LED được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Đèn led rọi ray thường được dùng tại các showroom, hội trường, dùng để chiếu điểm cho các sản phẩm trưng bày để tạo điểm nhấn giúp thu hút mọi ánh nhìn. Với các kích thước khác nhau, đèn rọi ray cung cấp mọi yêu cầu cho khách hàng từ độ sáng đến tuổi thọ đèn. Đèn rọi ray có giá thành phù hợp, đảm bảo chất lượng sử dụng trong thời gian dài. Đây là bóng đèn LED dân dụng thường được sử dụng tại các hộ gia đình để chiếu sáng trong nhà. Với nhiều kiểu dáng và giá thành khác nhau, LED bulb luôn đáp ứng được mọi tiêu chí của người sử dụng. Đây là loại đèn phù hợp sử dụng trong văn phòng, các phòng họp, hội thảo. Đèn thân thiện với môi trường và con người, đặc biệt tiết kiệm điện năng giúp giảm chi phí cho người dùng. Chúng được ứng dụng chủ yếu trong nhà. Chúng được cấu tạo từ nhôm hợp kim với thiết kế đơn giản. Đèn phát ra ánh sáng đẹp mắt rất phù hợp với các không gian phòng học, khu văn phòng. Đèn pha LED có ánh sáng góc rộng. Nó thường được sử dụng cho các công trình ngoài trời, khu vui chơi, sân vận động. Đèn cung cấp ánh sáng thân thiện, bền bỉ và hoạt động tốt trong điều kiện ngoài trời khắc nghiệt. Đây là loại đèn hữu ích cho xã hội. Nó góp phần không nhỏ vào việc xây dựng xã hội văn minh và an toàn. Với các loại đèn led kích thước khác nhau, đèn led đường luôn mang lại ánh sáng hiệu quả. Tuổi thọ đèn có thể kéo dài 12 năm giúp giảm thiểu chi phí sửa chữa hay thay thế.
Đèn LED
Đèn LED, hay còn gọi bóng đèn LED (tiếng Anh: LED lamp), là đèn điện được sử dụng trong các thiết bị chiếu sáng, tạo ra ánh sáng bằng cách sử dụng một hoặc nhiều diode phát quang (LED). Đèn LED có tuổi thọ cao hơn nhiều lần so với đèn sợi đốt tương đương và hiệu quả hơn hầu hết các loại đèn huỳnh quang; một số nhà sản xuất đèn điện (như công ty Cree và những công ty khác) tuyên bố chip LED có hiệu suất chiếu sáng (luminous efficacy) lên đến 303 Lumen trên Watt (lm/W). Tuy nhiên, bóng đèn LED sử dụng một mạch điều khiển LED điện tử khi nối trực tiếp từ đường dây điện chính và tổn thất gây ra do mạch điều khiển này khiến hiệu suất của đèn LED thấp hơn hiệu suất của chip LED có trong đèn. Đèn LED thương mại hiệu quả nhất hiện nay có hiệu suất 200 lm/W.Thị trường đèn LED dự kiến sẽ tăng gần gấp 4 lần trong thập kỷ tới, từ 67,6 tỷ đô la vào năm 2019 lên 262,8 tỷ đô la vào năm 2030, tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 12,9%.
Đại học Cát Lâm (Jilin University) tọa lạc tại thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm. Trường được thành lập năm 1946, đây là đại học tổng hợp trực thuộc bộ giáo dục Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Tiền thân của trường là Học viện Hành chính Đông Bắc được thành lập vào năm 1946. Đến năm 1950, trường đổi tên là Đại học Nhân dân Đông Bắc. Năm 1958, trường đổi tên thành Đại học Cát Lâm. Năm 1960, trường được liệt vào danh sách những trường đại học trọng điểm. Ngày 12 tháng 6 năm 2000, sát nhập thêm 6 khu học xá của các trường Đại học Công nghiệp Cát Lâm, Đại học Y khoa Berthune, Đại học Khoa học kỹ thuật Trường Xuân. Trường Xuân là một thành phố đẹp, khí hậu một năm có bốn mùa rõ rệt. Trường có 8 khu vực ở 5 quận của thành phố, rất thuận lợi cho việc đi lại và học tập của lưu học sinh. Đại học Cát Lâm đào tạo nhiều chuyên ngành như: triết học, kinh tế, pháp luật, giáo dục, văn học, lịch sử, khoa học, kỹ thuật, nông nghiệp, y học, quản lý, quân sự, nghệ thuật. Toàn trường có 69196 người, trong đó thạc sĩ và tiến sĩ là 24202 người, sinh viên đại học là 43383 người, lưu học sinh là 1404 học sinh. Đại học Cát Lâm từ những năm 1950 đã tiếp nhận lưu học sinh nước ngoài. Hiện nay, trường đã lập “ Quỹ học bổng dành cho những lưu học sinh ưu tú của Đại học Cát Lâm”, đây là học bổng dành cho những lưu học sinh xuất sắc 2 lần được khen thưởng. Hiện nay, Đại học Cát Lâm đã thiết lập và có quan hệ trao đổi với hơn 130 trường Đại học và Viện nghiên cứu thuộc hơn 40 nước và khu vực trên thế giới. Hiện nay trường có hơn 1.000 lưu học sinh từ hơn 40 nước và khu vực đang học tập tại trường. Đại học Cát Lâm ở thành phố Trường Xuân, nơi được đánh giá là nói tiếng phổ thông rất chuẩn. Đây thực sự là một lợi thế về mặt ngôn ngữ, là nơi lý tưởng cho việc học Hán ngữ. Mỗi phòng trong ký túc xá dành cho lưu học sinh đều có: ti vi, điện thoại, nhà vệ sinh (có vòi hoa sen)… Trong khu nhà cho lưu học sinh có bếp, giặt là, nhà ăn, căng tin, phòng đọc sách, phòng máy tính, quán cà phê và phòng đa chức năng. - VINAHURE chúc mừng bạn Trần Thị Thúy Duy đã nhận được visa trường đại học Bắc Kinh. - Vinahure chúc mừng bạn Lê Minh Định đã nhận được visa du học trường Đại học Thượng Hải. - VINAHURE chúc mừng bạn Hoàng Mạnh Long đã nhận được visa du học trường Đại học Trùng Khánh.
Đại học Cát Lâm
Trường Đại học Cát Lâm (吉林大学; Jilin University) là trường đại học trọng điểm Quốc gia có quy mô lớn trực thuộc Bộ Giáo dục Trung Quốc. Tháng 6 năm 2000, theo quyết định của Bộ Giáo dục Trung Quốc, Trường Đại học Công nghệ Cát Lâm, Trường Đại học Y Norman Berthune, Trường Đại học Khoa học - Công nghệ Trường Xuân và Trường Đại học Bưu chính Viễn thông Trường Xuân hợp nhất thành Trường Đại học Cát Lâm. Trường có 9 khuôn viên với 43 học viện. Hiện nay Trường đã thiết lập và có quan hệ trao đổi với hơn 130 trường đại học và viện nghiên cứu thuộc hơn 40 nước và khu vực trên thế giới. Trường Đại học Cát Lâm có đầy đủ các ngành đào tạo với đầy đủ các bậc học: đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, các ngành chính như: Triết học, Kinh tế học, Luật, Văn học, Giáo dục học, Lịch sử, Vật lý, Thể dục thể thao, Xây dựng, Hóa học, Nông học, Y học, Quản lý,. Trường có ký túc xá dành cho lưu học sinh, trong các phòng đều được trang bị các trang thiết bị hiện đại phục vụ đầy đủ nhu cầu của lưu học sinh.
Sân vận động Wembley, thủ đô London (Luân Đôn) nước Anh - một trong những sân vận động hiện đại nhất thế giới, được UEFA chọn lựa là 1 trong số 12 SVĐ sẽ được đăng cai tổ chức các trận đấu tại mùa giải Euro 2020 năm 2021. V9Sport sẽ giới thiệu thông tin chi tiết cho quý độc giả hiểu rõ hơn về sân Wembley, lịch sử hình thành cũng như các sự kiện được tổ chức tại đây. Wembley được mọi người gọi với hai cái tên đó là sân vận động Wembley cũ (1923) và Wembley mới (2007) để phân biệt với sân được xây dựng và trùng tu mới ngay tại chính vị trí phá bỏ sân cũ. Sân vận động Wembley mới được tài trở bởi EE Limited - một tập đoàn viễn thông của Vương Quốc Anh. Sân vận động Wembley thuộc sở hữu của cơ quan quản lý bóng đá ở Anh - hiệp hội bóng đá Anh (the FA). Sân Wembley được xây dựng lại từ năm 2003–2007 với tổng chi phí đầu tư xây dựng lên đến 789 triệu Euro vào thời điểm đó. Sân này đang tọa lạc ngay tại thành phố Wembley, thủ đô London của nước Anh. Sân Wembley (Wembley Stadium) chính là sân vận động lớn nhất nước Anh và lớn thứ hai ở Châu Âu (xếp sau sân Camp Nou, Tây Ban Nha) và được xếp vào top những sân vận động hiện đại bậc nhất thế giới. Sân Wembley có sức chứa lên đến 90,000 chỗ ngồi, phục vụ lượng lớn người hâm mộ bộ môn thể thao vua cũng như những môn thể thao khác. Vì lẽ đó, sân vận động Wembley nổi tiếng với việc tổ chức các trận đấu bóng đá đỉnh cao và quan trọng của nước Anh cũng như Châu Âu như: Chung kết Cúp FA, siêu cúp Anh, chung kết Cúp C1 châu Âu, chung kết UEFA Champions League 2011 và 2013 và các trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Anh. Do đó, sân Wembley được nhiều người nhận xét và đánh giá "chính là thánh đường của bóng đá”. Cùng với đó, SVĐ Wembley còn được đăng cai tổ chức nhiều nhiều sự kiện âm nhạc và các buổi hòa nhạc lớn. Chưa dừng lại ở đó, với giải đấu Euro 2020 chuẩn bị diễn ra vào tháng 6/2021. Sân vận động Luân Đôn - Wembley trở thành 1 trong 12 sân vận động tổ chức các trận đấu vòng bảng, vòng knockout, 2 trận bán kết và chung kết thuộc mùa giải Euro 2020. Có thể nói, Wembley Stadium như một viên ngọc quý trong hàng loạt sân vận động rực rỡ khác mà UEFA đã lên kế hoạch và lựa chọn cho giải đấu mùa hè tới đây. Sân Wembley cũ (còn gọi là sân vận động Đế quốc hoặc sân vận động Triển lãm Đế quốc Anh), được khởi công năm 1922 và khánh thành vào ngày 28/4/1923. Sau đó, được sửa chữa lại vào 1963 và sân phải đóng cửa, dừng hoạt động vào ngày 7/10/2000. Đến năm 2002, sân Wembley được phá hủy và được khởi công xây dựng trong vòng 5 năm từ năm 2003–2007 (khánh thành vào ngày 9/3/2007). Đây chính là sân vận động Wembley mới, với kinh phí đầu tư xây dựng lên đến 789 triệu Euro. Từ đó, SVĐ Wembley trở thành sân bóng lớn nhất nước Anh (90,000 chỗ ngồi). Đồng thời, Wembley Stadium cũng đang nắm giữ kỷ lục về sân vận động chỗ ngồi có mái che lớn nhất trên thế giới. Từ khi sân Wembley mới được hình thành, sân bóng đã trở thành “cái nôi” tổ chức sự kiện với nhiều sự kiện khác nhau như sự kiện âm nhạc, hòa nhạc, thể thao điền kinh, v.v. Nhất là nơi tổ chức của rất nhiều của giải đấu bóng lớn. Nên sân đã được mệnh danh là ngôi đền thiêng mang đậm dấu ấn thể thao và là trái tim của bóng đá. Sân vận động Wembley được thiết kế bởi kiến trúc sư người Anh, Norman Foster. Và công ty Multiplex của Úc chính là đơn vị xây dựng SVĐ Wembley với chi phí 789 triệu Euro và sức chứa đạt 90,000 chỗ ngồi. Điều làm nên sự khác biệt và là biểu tượng của sân vận động Wembley mới chính là kết cấu vòm. Mái vòm này được làm bằng thép chắc chắn để đỡ phần mái vô cùng hiện đại. Hệ thống mái che có chiều cao khoảng 52m và diện tích đạt khoảng 40,000m2. Trong đó, có đến 13,722m2 ở phần mái sẽ có thể chuyển động được. Sân vận động Wembley thủ đô London nước Anh được thiết kế với kết cấu vượt nhịp và cũng được xem là SVĐ sở hữu cấu trúc vượt nhịp dài nhất ở trên thế giới. Ngoài ra, toàn bộ công trình sân vận động Wembley mới đều được tính toán trước bằng công nghệ mô hình thông tin xây dựng (BIM) hiện đại, tổng hợp từ 160 mô hình khác nhau. Thêm đó, để hoàn thiện sân vận động Wembley mới, cần phải sử dụng đến khoảng 23,000 tấn thép và 215,000 tấn bê tông. Thêm vào đó, SVĐ Wembley còn được trang bị đầy đủ hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại nhất, cùng các không gian dịch vụ tốt nhất, tiện nhất phục vụ cho khán giả, các vận động viên cũng như cá nhà báo và quan chức. Từ đó, chúng ta có thể thấy được độ “khủng” và độ “chịu chi” của hiệp hội bóng đá Anh vào sân vận động này. Vì lẽ đó, sân vận động thủ đô London nước Anh - Wembley Stadium được đánh đánh giá là một công trình sân vận động đa chức năng, hoành tráng và tuyệt nhất thế giới. SVĐ Wembley cũ đã tổ chức trận chung kết Cúp FA lần đầu tiên vào năm 1923. Đây cũng chính là sự kiện đầu tiên của sân vận động này. Tiếp đó, sân đã tổ chức trận chung kết League Cup hàng năm, trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1966, trận chung kết Cúp C1 châu Âu và trận chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu năm 1996. Sau khi sân Wembley mới hoàn thành và khánh thành vào ngày 9/3/2007. Đến thứ bảy ngày 19 tháng 5, SVĐ Wembley mới đã được chính thức khai trương với trận chung kết Cúp FA 2007. Đây là sân bóng khai mạc trận đấu mở màn giữa hai CLB Manchester United và Chelsea. Vào thời điểm đó, sận bóng Wembley đã chứa khoảng 89,826 khán giả và đội Chelsea thắng 1–0 nhờ bàn thắng của cầu thủ Didier Drogba. Đến ngày 1 tháng 6 năm 2007, đội tuyển bóng đá quốc gia Anh có trận đấu đầu tiên trên vận động Wembley mới. Đây là trận giao hữu diễn ra giữa đội tuyển Anh với đội Brazil. Năm 2007 vào ngày 21 tháng 11, đội tuyển Anh có trận thua đầu tiên tại sân vận động Wembley mới. Cũng chính tại trận đấu này đã khiến đội tuyển Anh không vượt qua vòng loại Euro 2008. Ngày 17/5/2008, tại Wembley diễn ra trận chung kết Cúp FA thứ hai được tổ chức. Đây là trận đấu giữa đội Portsmouth với đội Cardiff City và đội Portsmouth đã giành chiến thắng 1 - 0 trước Cardiff City. Ở trận đấu này, sân chứa khoảng 89,974 khán giả. Cho nên, sân vận động Luân Đôn - Wembley Stadium đã nhanh chóng trở thành nơi lựa chọn hàng đầu để diễn ra những giải đấu lớn và đỉnh cao như: Siêu cúp Anh 2008, Siêu cúp Anh 2010, Siêu cúp Anh 2011, Chung kết (giữa đội Bayern München và đội Borussia Dortmund), Chung kết Cúp FA 2015, Siêu cúp Anh 2016, Chung kết Cúp EFL 2017, Chung kết Cúp FA 2017, Chung kết Cúp FA 2018, Siêu cúp Anh 2018, Siêu cúp Anh 2019, bán kết Cúp FA, Football League Trophy, FA Trophy, FA Vase, các trận play-off English Football League và các trận play-off National League, v.v. Sân vận động thủ đô London nước Anh (Wembley Stadium) sẽ đăng cai tổ chức các trận đấu bóng đá mùa giải Euro 2020 sắp được diễn ra vào ngày 12/6/2021 tới đây. Chi tiết các trận đấu bóng đá Euro được diễn ra trên sân Wembley:. Sân vận động Wembley Stadium - Nơi đăng cai tổ chức trận đấu chung kết Euro 2020 năm 2021. Từ đó, có thể thấy rằng, sân vận động Wembley của thủ đô Luân Đôn nước Anh sẽ là nơi bùng nổ rực rỡ của những màn trình diễn bóng đỉnh cao ở mùa giải Euro 2020 sắp được diễn ra vào mùa hè này. Như đã nói trên, sân vận động Wembley Stadium mới, không chỉ là nơi diễn ra các trận bóng đá đỉnh cao. Tại đây còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện thể thao, âm nhạc khác như:. Bóng bầu dục (American football), chính là môn thể thao thi đấu đồng đội rất “hot” và được phát triển mạnh mẽ, phổ biến ở Hoa Kỳ (Mỹ). Do đó, đây đã trở thành môn thể thao được nhiều du học sinh lựa chọn, tham gia. Vì lẽ đó vào ngày 28/10/2007, tại sân vận động Wembley Stadium mới là diễn ra trận đấu bóng bầu dục đầu tiên giữa đội New York Giants và đội Miami Dolphins. Kết quả, 13 - 10 nghiêng về đội New York Giants trong trận đấu NFL mùa giải thường xuyên. Với trận đấu này, tại sân chứa đến 81.176 khán giả. Kể từ đó, sân vận động Wembley đã trở thành nơi tổ chức ít nhất một trận đấu mùa giải thường xuyên mỗi năm (môn bóng bầu dục). Tại sân vận động Wembley mới này cũng là nơi tổ chức các sự kiện quyền anh. Cụ thể: ngày 31/5/2014, trận quyền anh đầu tiên giữa Carl Froch và George Groves diễn ra trên sân Wembley, với 80.000 khán giả có mặt tại sân để xem. Đây là trận đấu tranh đai hạng siêu trung IBF và WBA. Ngày 29 tháng 4 năm 2017, sân Wembley được chọn để tổ chức sự kiện quyền anh với trận đấu tranh đai vô địch hạng nặng giữa Anthony Joshua và Wladimir Klitschko với lượng khán giả kỷ lục lên đến khoảng 90.000 người. Sân vận động Wembley mới cũng trở thành nơi thường xuyên diễn ra những chương trình âm nhạc, các buổi hòa nhạc, sự kiện giải trí đình đám với lượng khán giả “khủng” bởi có sự góp mặt của rất nhiều những ca sĩ, nhóm nhạc rất nổi tiếng và rất được yêu thích tại thời điểm đó. Đồng thời, nơi đây cũng đã từng tổ chức 2 buổi hòa nhạc từ thiện vào tháng 7/2007. Và mới đây nhất sân vận động Wembley đã trở thành nơi chọn diễn ra sự kiện âm nhạc “để đời” của các nhóm nhạc hoặc cá nhân như: 6 /2019, Spice Girls 3 ngày trong chuyến lưu diễn Spice World - 2019 Tour; Ngày 6/7/2019, The Who đã biểu diễn chương trình Moving On!. Mái che sân vận động Wembley có diện tích đạt đến 40,000m2 và cao 52m. Và điểm đặc biệt của kiểu thiết kế mái che này đó là kiểu kết cấu vòm thép đỡ mái - Đây cũng được xem là biểu tượng khác biệt của công trình. Mái của sân vận động Wembley có thể mở rộng hoặc đóng lại tùy ý bằng một mái trượt không hoàn toàn bao quanh nó. Đồng thời, mái che sân vận động này còn có nhịp 315m và đó cũng chính là cấu trúc vượt nhịp được đánh giá là dài nhất thế giới. Không chỉ đơn thuần là một sân vận động, Wembley Stadium chính là một kiệt tác tuyệt hảo. Sân được đánh giá là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời trên cả tuyệt vời với sự đầu tư cực lớn về mặt kinh phí, lẫn kỹ lưỡng về mặt thẩm mỹ và công nghệ hiện đại nhất. Chỗ ngồi trên khán đài của sân Wembley đều lắp đặt loại ghế tựa cao cấp, nhằm không gây giới hạn tầm nhìn ra sân cỏ. Đồng thời, tại sân còn trang bị đầy đủ tất cả các không gian dịch vụ phục vụ cho nhu cầu khán giả, vận động viên cũng như các cơ quan chức, nhà báo tác nghiệp…. Liền kề với sân vận động Wembley là các bãi đỗ xe trên mặt đất và còn có cả tòa nhà đỗ xe nhiều tầng. Đồng thời, svđ Wembley tọa lạc ở vị trí “vàng” nên còn được liên kết với 2 tuyến tàu điện ngầm hiện đại tại Luân Đông và tuyến đường sắt quốc gia. Từ đó, giúp người hâm mộ có thể dễ dàng đi chuyển đến sân vận động nhằm “tận mục sở thị” và cũng khuấy động cảm hứng với những trận đấu đỉnh cao nhất. Wembley là sân nhà của đội tuyển Anh đặt tại London HA9 0WS, Vương Quốc Anh. Wembley Stadium tại Luân Đôn, nước Anh chính là sân vận động được chọn trở thành nơi diễn ra tổng 7 trận đấu ở mùa giải Euro 2020. Mùa giải này vì tình hình dịch bệnh Covid nên đã bị trì hoãn đến mùa hè tháng 6/2021 mới được tái xuất lại. Trong đó, có ba trận vòng bảng, một trận vòng 16 đội, hai trận bán kết (07 - 08/07) và 1 trận chung kết (12/07). Bài chia sẻ trên, V9Sport đã cung cấp đầy đủ thông tin nhất về sân vận động Wembley. Hy vọng qua đó, độc giả đã có thêm nhiều kiến thức về sân vận động “đình đám” này. Cũng như có thể góp phần hòa mình vào không khí “nóng bỏng” của những trận đấu “đỉnh chóp” sắp được diễn ra vào mùa hè năm nay. Chuyên trang cung cấp tin tức và sự kiện thể thao bóng đá trong và ngoài nước.
Sân vận động Wembley (1923)
Sân vận động Wembley cũ (tiếng Anh: Wembley Stadium; ; trước đây được gọi là Sân vận động Đế quốc) là một sân vận động nằm ở Wembley Park, Luân Đôn. Sân nổi tiếng với việc tổ chức các trận đấu bóng đá quan trọng. Sân nằm trên cùng một địa điểm với Sân vận động Wembley mới. Wembley đã tổ chức trận chung kết Cúp FA hàng năm, lần đầu tiên vào năm 1923, đây là sự kiện đầu tiên của sân vận động. Sân cũng đã tổ chức trận chung kết League Cup hàng năm, năm trận chung kết Cúp C1 châu Âu, trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1966 và Chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu 1996. Cầu thủ bóng đá Brazil Pelé từng nhận xét về sân vận động: "Wembley là thánh đường của bóng đá. Đây là thủ đô của bóng đá và sân là trái tim của bóng đá", để công nhận vị thế là sân vận động bóng đá nổi tiếng nhất thế giới. Sân vận động này cũng tổ chức nhiều sự kiện thể thao khác, bao gồm Thế vận hội Mùa hè 1948, trận chung kết Challenge Cup của rugby league và các trận chung kết Giải vô địch rugby league thế giới 1992 và 1995.
Giấy tờ tùy thân là những giấy tờ có giá trị xác định đặc điểm nhận dạng và nhân thân của một người. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì giấy tờ tùy thân gồm những giấy tờ gì?. Giấy tờ tùy thân là khái niệm phổ biến trong đời sống xã hội, được hiểu là các giấy tờ mà công dân thường mang theo người. Tuy nhiên, trên phương diện pháp luật thì đến nay chưa có văn bản nào định nghĩa giấy tờ tùy thân là gì, gồm những loại giấy nào. Căn cứ đặc điểm của các giấy tờ nói trên, giấy tờ tùy thân được hiểu là giấy tờ xác định đặc điểm và nhận dạng nhân thân của một con người cụ thể. Tuy nhiên, nhiều văn bản luật cũng đề cập đến giấy tờ này trong thành phần hồ sơ của đương sự như Luật Công chứng (Điều 35), Bộ luật Lao động (Điều 20), Luật Xử phạt vi phạm hành chính (Điều 130) nhưng khi vận dụng các luật này thì giấy tờ này cũng được hiểu khác nhau. Cụ thể, đối với Luật Công chứng thì được hiểu theo nghĩa như giấy tờ cá nhân, gồm: chứng minh nhân dân, kết hôn, khai sinh, sổ hộ khẩu…Đối với Bộ luật Lao động thì cũng được hiểu là chứng minh nhân dân, khai sinh, sổ hộ khẩu của người lao động. Đối với Luật xử phạt vi phạm hành chính thì giấy tờ của người nước ngoài được hiểu là hộ chiếu hoặc giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp cho người nước ngoài như thẻ thường trú, tạm trú. Trong lĩnh vực hàng không, hành khách mang quốc tịch Việt Nam khi tham gia các chuyến bay nội địa phải xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: Hộ chiếu hoặc giấy thông hành, thị thực rời, thẻ thường trú, thẻ tạm trú, chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân; giấy chứng minh, chứng nhận của các lực lượng vũ trang; thẻ Đại biểu Quốc hội; thẻ Đảng viên; thẻ Nhà báo; giấy phép lái xe ôtô, mô tô; thẻ kiểm soát an ninh cảng hàng không, sân bay, thẻ của Ủy ban An ninh hàng không dân dụng quốc gia; thẻ nhận dạng của các hãng hàng không Việt Nam; giấy xác nhận nhân thân do công an phường, xã nơi thường trú hoặc tạm trú xác nhận; giấy của cơ quan có thẩm quyền chứng nhận hành khách là người vừa chấp hành xong bản án; giấy xác nhận có dán ảnh, đóng dấu giáp lai và chỉ có giá trị trong vòng 30 ngày kể từ ngày xác nhận. Như vậy, căn cứ các quy định nói trên thì đến thời điểm hiện nay, chứng minh nhân dân, hộ chiếu, thẻ căn cước công dân là giấy tờ tùy thân của công dân. Một số giấy tờ khác trong từng trường hợp cụ thể cũng có thể được xác định là giấy tờ tùy thân của công dân. Do chưa thống nhất cách hiểu nên mỗi lĩnh vực lại quy định giấy tờ tùy thân khác nhau. Cụ thể, tại Điều 2 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định, người yêu cầu đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích lục hộ tịch xuất trình bản chính một trong các giấy tờ sau để chứng minh về nhân thân: (i) Hộ chiếu; (ii) Chứng minh nhân dân; (iii) Thẻ Căn cước công dân; (iv) Giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng. Ngoài ra, trong lĩnh vực hàng không, hành khách mang quốc tịch Việt Nam khi bay các chuyến nội địa có thể xuất trình một trong 12 loại giấy tờ. Trong Quyết định 19/2009/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Long An ngày 27/5/2009 quy định cụ thể giấy tờ tùy thân là giấy Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh quân đội, Chứng nhận quân nhân còn giá trị sử dụng (chỉ có giá trị áp dụng trên địa bàn tỉnh Long An). Theo đó, giấy tờ tùy thân lại được quy định theo từng lĩnh vực và tùy từng địa phương bên cạnh các loại giấy tờ tùy thân chung gồm: Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, thẻ Căn cước công dân. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết. Tầm nhìn: Trở thành tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý trực tuyến hàng đầu, có mạng lưới và sự hiện diện khắp Việt Nam. Sứ mệnh: Để mọi người Việt Nam đều có thể tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý.
Giấy tờ tùy thân
Giấy tờ tùy thân hoặc giấy tờ cá nhân là những loại giấy tờ có thể giúp xác định đặc điểm và nhận dạng nhân thân của một con người cụ thể. Phạm vi các loại giấy tờ tùy thân được xác định tùy vào quy định pháp luật của từng quốc gia. Nhưng nhìn chung các loại giấy tờ như chứng minh nhân dân (hay thẻ căn cước), hộ chiếu, thẻ công dân, thẻ cư trú. đều được coi là giấy tờ tùy thân. Thông thường, giấy tờ tùy thân là các loại giấy tờ có dán ảnh hợp lệ và có đóng dấu giáp lai lên ảnh tuy nhiên trong một số loại không nhất thiết bắt buộc về chi tiết này.
Dynamic Programming-Quy hoạch động là gì?Dynamic programming là một phương pháp được sử dụng trong lĩnh vực tối ưu toán học và lập trình máy tính. Được phát triển bởi nhà toán học ứng dụng nổi tiếng người Mỹ Richard E. Bellman trong những năm 1950. Dynamic Programming có ý tưởng tương tự phương pháp “chia để trị” chia bài toán ban đầu phức tạp thành các bài toán con đơn giản hơn. Bước này sẽ lặp lại cho đến khi bài toán con có thể giải được một cách đơn giản. Tổng hợp kết quả của bài toán con để suy ra kết quả của bài toán ở mức trên. Từ đây ta có thể thấy phương pháp quy hoạch động có thể cái đặt được bằng đệ quy (recursive). Các đặc điểm của một bài toán có thể giải bằng Dynamic ProgrammingĐầu tiên tôi xin nhắc lại nguyên lý tối ưu Bellman như sau:Một chính sách tối ưu bào gồm một dãy các quyết định có đặc tính là dù trạng thái và quyết định ban đầu có như thế nào đi nữa thì các quyết định còn lại luôn là một dãy các quyết định tối ưu (tạo ra chính sách tối ưu) với kết quả đạt được liên quan đến kết quả của quyết định ban đầu.Bài toán P có thể giải được bằng giải thuật quy hoạch động nếu thỏa mãn các đặc điểm sau:. Bài toán P có các bài toán con gối lên nhau hay nói cách khác không gian bài toán con hẹp và không tạo thành cây. Nếu hai bài toán con được sinh ra cùng mức (được sinh ra từ một bài toán) thì lời giải hai bài toán con này đòi hỏi lời giải của cùng một số bài toán con ở mức dưới. Hệ thức truy hồiNhư đã phát biểu ở trên trong lập trình động khi giải bài toán con ở mức trên ta cần tổng hợp kết quả của bài toán con ở mức dưới. Vậy chúng ta cần phải xây dựng một hệ thức để biểu thị mối quan hệ này. Hơn nữa trong trường hợp bài toán đòi hỏi kết quả là tối ưu ta cần tìm hệ thức để đạt được điều này. Hệ thức như vậy được gọi là hệ thức truy hồi. Để rõ hơn điều này chúng ta xem ví dụ về một bài toán nỗi tiếng trên thế giới sau:Bài toán Tháp Hà nội: có 3 cọc A, B và C. Cọc A chứa N chiếc đĩa theo nguyên tắc đĩa to ở dưới và đĩa nhỏ ở trên, cọc B và C rỗng. Cần chuyển N chiếc đĩa này từ A sang C có thể sử dụng B làm trung gian, mỗi lần chuyển chỉ được một đĩa và đĩa trên các cọc đều phải tuân theo nguyên tắc đĩa nhỏ ở trên, đĩa to ở dưới. Theo hướng tiếp cận Top-Down chúng ta sẽ bắt đầu bằng bài toán lớn nhất hay là bài toán ở mức trên cùng sau đó dùng phương pháp đệ quy để gọi lời giải cho các bài toán con ở mức thấp hơn tiếp theo. Qúa trình tiếp tục cho đến khi gặp bài toán nhỏ nhất. Đệ quy sẽ tự động tổ hợp kết quả của các bài toán con để được kết quả bài toán ban đầu. Cách này đòi hỏi tốn nhiều tài nguyên để ghi nhớ tất cả kết quả của các bài toán con.
Quy hoạch động
Trong ngành khoa học máy tính, quy hoạch động (tiếng Anh: dynamic programming) là một phương pháp giảm thời gian chạy của các thuật toán thể hiện các tính chất của các bài toán con gối nhau (overlapping subproblem) và cấu trúc con tối ưu (optimal substructure). Nhà toán học Richard Bellman đã phát minh phương pháp quy hoạch động vào năm 1953. Ngành này đã được thành lập như là một chủ đề về kỹ nghệ và phân tích hệ thống đã được tổ chức IEEE thừa nhận. Cấu trúc con tối ưu có nghĩa là các lời giải tối ưu cho các bài toán con có thể được sử dụng để tìm các lời giải tối ưu cho bài toán toàn cục. Ví dụ, đường đi ngắn nhất tới một đỉnh trong một đồ thị có thể được tìm thấy bằng cách: trước hết tính đường đi ngắn nhất tới đích từ tất cả các đỉnh kề nó, rồi dùng kết quả này để chọn đường đi toàn cục tốt nhất, như trong hình 1. Chia bài toán thành các bài toán con nhỏ hơn. Giải các bài toán này một cách tối ưu bằng cách sử dụng đệ quy quy trình ba bước này.
Có 2 vấn đề sức khỏe đang gây nhức nhối với cộng đồng đó là huyết áp cao và huyết áp thấp. Người ta nhắc nhiều đến các chỉ số “huyết áp” kèm theo thông điệp theo dõi chỉ số huyết áp như theo dõi chính chỉ số sức khỏe của bạn và gia đình. Vậy huyết áp là gì? Thế nào được coi là huyết áp cao và huyết áp thấp? Mời bạn đọc cùng tham khảo một số thông tin bổ ích về huyết áp qua bài viết dưới đây. Huyết áp là áp lực máu cần thiết tác động lên thành động mạch nhằm đưa máu đến nuôi dưỡng các mô trong cơ thể. Huyết áp được tạo ra do lực co bóp của tim và sức cản của động mạch. Ở người bình thường, huyết áp ban ngày cao hơn ban đêm, huyết áp hạ xuống thấp nhất vào khoảng 1-3 giờ sáng khi ngủ say và huyết áp cao nhất từ 8 – 10 giờ sáng. Khi vận động, gắng sức thể lực, căng thẳng thần kinh hoặc khi xúc động mạnh đều có thể làm huyết áp tăng lên. Và ngược lại, khi cơ thể được nghỉ ngơi, thư giãn, huyết áp có thể hạ xuống. Khi bị lạnh gây co mạch, hoặc dùng một số thuốc co mạch hoặc thuốc co bóp cơ tim, ăn mặn có thể làm huyết áp tăng lên. Ở môi trường nóng, ra nhiều mồ hôi, bị tiêu chảy… hoặc dùng thuốc giãn mạch có thể gây hạ huyết áp. Huyết áp tối đa (còn gọi là huyết áp tâm thu hoặc ngắn gọn là số trên), bình thường từ 90 đến 139 mm Hg (đọc là milimét thuỷ ngân). Huyết áp tối thiểu (còn gọi là huyết áp tâm trương hoặc ngắn gọn là số dưới), bình thường từ 60 đến 89 mm Hg. Khi tim đập, huyết áp sẽ thay đổi từ cực đại (áp lực tâm thu) đến cực tiểu (áp lực tâm trương). Huyết áp sẽ giảm dần khi máu theo động mạch đi xa khỏi tim. Trên thực tế, cả 2 tình trạng huyết áp cao và huyết áp thấp đều gây nguy hiểm tới sức khỏe của người bệnh. Bất cứ ai trong số chúng ta cũng đều nên nắm rõ các chỉ số huyết áp để theo dõi huyết áp của mình nằm trong vùng nào để điều chỉnh chế độ ăn uống và lối sống cho phù hợp. Huyết áp bình thường: Đối với người trưởng thành, khi các chỉ số huyết áp tâm thu dưới 120mmHg và huyết áp tâm trương dưới 80mmHg thì được gọi là huyết áp bình thường. Huyết áp cao: Khi chỉ số huyết áp tâm thu lớn hơn 140 mmHG và huyết áp tâm trương lớn hơn 90 mmHg thì được chẩn đoán là huyết áp cao. Tiền cao huyết áp là mức giá trị của các chỉ số huyết áp nằm giữa huyết áp bình thường và cao huyết áp (Huyết áp tâm thu từ 120-139 mmHg hoặc huyết áp tâm trương từ 80-89 mmHg). Huyết áp thấp: Hạ huyết áp (huyết áp thấp) được chẩn đoán khi huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg hoặc giảm 25 mmHg so với bình thường. Để kết luận một người bị tăng huyết áp hay không người ta cần căn cứ vào trị số huyết áp của nhiều ngày. Do đó phải đo huyết áp thường xuyên, nhiều lần trong ngày, theo dõi trong nhiều ngày. Phải đo huyết áp cả hai tay sau 5 phút nằm nghỉ và sau tối thiểu 1 phút ở tư thế đứng. Chỉ số huyết áp cao lên khi cơ thể vận động quá sức, tinh thần căng thẳng, lo âu hồi hộp. Và huyết áp có thể hạ xuống trong trường hợp bị tiêu chảy, mất sức, ra nhiều mồi hôi, dùng thuốc giãn mạch… Do đó chúng ta cần tìm hiểu lỹ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp. Có hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến huyết áp chính là yếu tố bên trong cơ thể và yếu tố bên ngoài cơ thể. Cùng xem những yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp để có phương pháp phòng ngừa hiệu quả nhé!. Sức bóp của tim: Là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến huyết áp. Tim đập nhanh hay chậm đều tác động trực tiếp đến huyết áp. Nếu tim đập càng nhanh thì tạo nên áp lực máu đến thành động mạnh càng lớn từ đó huyết áp sẽ tăng cao và ngược lại. Sức cản của động mạch: động mạch co giãn tốt, máu sẽ lưu thông dễ dàng hơn từ đó giúp huyết áp ổn định. Nếu thành mạch đàn hồi kém hoặc bị xơ vữa động mạch thì lượng máu sẽ lưu thông khó khăn hơn. Như vậy sức cản của động mạch càng lớn thì rất dễ dẫn đến nguy cơ cao huyết áp. Lượng máu: lượng máu trong cơ thể thấp, không đủ nhiều để tạo áp lực lên thành mạch thì rất dễ có nguy cơ huyết áp thấp. Trong những trường hợp cơ thể bị mất nhiều máu dẫn đến thiếu máu đi khắp cơ thể sẽ làm giảm huyết áp. Tư thế ngồi: Khoa học đã chứng minh tư thế ngồi hoặc đứng sẽ làm ảnh hưởng đến chỉ số huyết áp trung bìnhcủa mỗi người. Đây là một yếu tố ít ai ngờ tới và thường xuyên mắc phải. Ngồi sai tư thế sẽ làm lượng máu lưu thông khó khăn và dẫn đến huyết áp luôn ở mức không ổn định. Thói quen ăn uống, sinh hoạt: chế độ ăn uống hằng ngày không chỉ ảnh hưởng đến huyết áp mà còn ảnh hưởng đến nhiều bệnh lý khác. Ăn mặn, ăn nhiều dầu mỡ, uống nhiều rượu bia, cà phê, thuốc lá… sẽ ảnh làm xơ cứng thành mạch, huyết áp. Sinh hoạt không điều độ, làm việc căng thẳng, thường xuyên thức khuya, ít tập thể dục… cũng là những nguyên nhân làm huyết áp không ổn định. Trong thời đại ngày nay, con người luôn phải bận rộn và đối mặt với tình trạng stress nặng nề làm huyết áp bất ổn. Không ai phủ nhận mức độ nguy hiểm của huyết áp cao và huyết áp thấp. Người ta coi đây là các sát thủ thầm lặng với sức khỏe con người bởi diễn biến âm thầm, các triệu chứng không rõ ràng và các biến chứng nguy hiểm mà nó để lại. Nếu như huyết áp cao là bệnh thuờng gặp và gia tăng theo tuổi, là nguyên nhân gây tử vong và di chứng thần kinh nặng nề như liệt nửa người, hôn mê với đời sống thực vật, đồng thời có thể thúc đẩy suy tim, thiếu máu cơ tim làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống (không cảm thấy khoẻ khoắn, mất khả năng lao động) và gia tăng khả năng tử vong. Huyết áp cao còn là một trong những yếu tố nguy cơ của đột quỵ, nhồi máu cơ tim, suy tim và phình động mạch, ngoài ra nó còn là nguyên nhân gây ra suy thận mãn và biến chứng ở mắt. Tăng áp lực máu động mạch sẽ dẫn tới giảm tuổi thọ trung bình. Biến chứng tức thời: Có thể nguy hiểm đến tính mạng, gồm tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim cấp, bóc tách động mạch chủ, phù phổi cấp, suy thận cấp. Biến chứng lâu dài: Xảy ra nếu bệnh nhân sau một thời gian dài tăng huyết áp mà không được chẩn đoán và điều trị đúng. Biến chứng gồm: Rối loạn tiền đình, bệnh lý mắt, tim to, suy tim, đau thắt ngực do thiếu máu cục bộ cơ tim, suy thận mạn, đau cách hồi. Nếu so sánh với huyết áp cao, huyết ấp thấp trước mắt không dẫn đến biến chứng như tai biến mạch máu não, nghẽn tắc cơ tim nên nhiều người chủ quan với căn bệnh này. Tuy nhiên, ít người biết được rằng huyết áp thấp cũng có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm không kém. Khi người bệnh bị tụt huyết áp nhiều lần, hệ thống thần kinh bị suy giảm chức năng, cơ thể không tự kịp điều chỉnh để cung cấp đủ dinh dưỡng và oxy cho các cơ quan có chức năng sống còn như não, tim, thận gây ra các tổn thương cho các cơ quan này. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh huyết áp thấp có thể dẫn đến tình trạng đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy thận… thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Nhiều trường hợp huyết áp thấp có thể dẫn tới tai biến mạch máu não, trong đó phần lớn là nhồi máu não, tỷ lệ này chiếm khoảng 30%. Ngoài ra, người bị tụt huyết áp cấp có thể gây sốc, đặc biệt nguy hiểm đến tính mạng trong những trường hợp như đang lái xe, làm việc trên tầng cao… Nếu huyết áp thấp kéo dài, còn làm cho các cơ quan thận, gan, tim, phổi suy yếu nhanh chóng. Để kiểm soát huyết áp bạn cần có một chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý, bổ sung các loại thực phẩm giàu kali, canxi và vitamin tổng hợp bằng nhiều thực phẩm tốt như sữa, trứng, rau xanh, các loại đậu, cá… và hạn chế ăn mặn. Dinh dưỡng đầy đủ sẽ giúp cơ thể cung cấp đầy đủ lượng máu và oxy nuôi dưỡng cơ thể từ đó thúc đẩy khả năng hoạt động của cơ tim, thành mạch. Nếu bổ sung một chế độ dinh dưỡng không đủ chất sẽ khiến cơ thể kiệt quệ, dễ dẫn đến tình trạng thiếu máu và gây nguy cơ huyết áp thấp. Bên cạnh đó, việc giữ cho tinh thần luôn vui vẻ, thoải mái, không làm việc quá sức và có thời gian nghỉ ngơi thư giãn. Áp lực, lo âu kéo dài là nguyên nhân khiến huyết áp không ổn định. Tốt hơn hết bạn nên dành thời gian khoảng 30 phút mỗi ngày để tập luyện thể dục, các bài tập nhẹ nhàng để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Ngoài ra chúng ta nên điều chỉnh các tư thế đứng, ngồi, nằm để đảm bảo lượng máu lưu thông dễ dàng hơn nhé. Theo dõi, kiểm tra huyết áp thường xuyên là việc làm vô cùng quan trọng giúp kiểm soát được chỉ số huyết áp của bạn và các thành viên trong gia đình. Nếu bạn là người bận rộn không có nhiều thời gian đến bác sĩ hoặc bạn muốn tiết kiệm chi phí thì có thể tự trang bị cho mình một chiếc máy đo huyết áp tại nhà. Đây là cách vừa tiết kiệm chi phí và thời gian vừa tiện lợi có thể dùng mọi lúc mọi nơi. Việc sở hữu cho mình và gia đình 1 chiếc máy đo huyết áp là vô cùng cần thiết bởi bạn có thể theo dõi huyết áp cho chính mình và các thành viên trong gia đình ngay tại nhà. Điều quan trọng là bạn cần lựa chọn cho mình chiếc máy đo huyết áp phù hợp và chất lượng. Máy đo huyết áp Omron là thương hiệu số 1 được các chuyên gia y tế khuyên dùng. Máy đo huyết áp Omron cho kết quả đo chính xác cao nhờ ứng dụng cảm biến thông tin sinh học và công nghệ xử lý fuzzy. Đây chính là dòng sản phẩm đang bán chạy nhất hiện nay được sản xuất trên công nghệ intellisense tiên tiến từ Nhật Bản. Màn hình LCD lớn cho kết quả hiển thị rõ ràng, chỉ số dễ hiểu. Dòng máy đo huyết áp cao cấp này xứng đáng là thiết bị y tế đáng đầu tư của nhiều gia đình Việt. Nhờ ứng dụng công nghệ “cảm biến thông tin sinh học” thành công, máy đo huyết áp OMRON (Nhật Bản) được Hiệp hội y tế Hoa kỳ, Hiệp hội tăng huyết áp Châu Âu chứng nhận lâm sàng về độ chính xác, an toàn và tiện dùng khi sử dụng. Máy đo huyết áp OMRON là sản phẩm lý tưởng cho mọi gia đình nhờ tính năng ưu việt, công nghệ hiện đại, kết quả đo có độ chính xác cao và được hội tim mạch Việt Nam khuyên dùng. Ngoài ra, máy đo huyết áp Omron dễ sử dụng, kết quả hiển thị rõ ràng nên mọi người đều có thể tự kiểm tra thông số huyết áp tại nhà
Cao huyết áp cấp
Tăng/cao huyết áp cấp (còn gọi là "tăng huyết áp ác tính") là tình trạng tăng huyết áp với sự tổn thương của một hay nhiều hệ cơ quan (đặc biệt là hệ thần kinh, hệ tim mạch, hệ tiết niệu) nguyên nhân là các tổn thương không phục hồi. Khi gặp tăng huyết áp cấp nên giảm huyết áp chậm từ vài phút đến vài giờ khi sử dụng các thuốc giảm huyết áp. Mắt có thể bị xuất huyết võng mạc và chảy máu. phù gai thị có thể xuất hiện. Não gia tăng áp lực nội sọ có những dấu hiệu như đau đầu, nôn mửa, và xuất huyết dưới màng nhện. Bệnh nhân thường bị rối loạn chức năng thất trái. Thận cũng bị ảnh hưởng và gây ra huyết niệu, protein niệu, suy thận cấp. Nói cách khác các biến chứng khác của bệnh cao huyết áp cấp thường đi kèm với phù gai thị. Tăng huyết áp cấp cũng có dấu hiệu giống như cơn tăng huyết với huyết áp tâm trương lớn hơn hoặc bằng 120 mmHg và huyết áp tâm thu lớn hơn hoặc bằng 180mmHg. Tăng huyết áp cấp khác với cơn tăng huyết là có bằng chứng về tổn thương cấp ở một số cơ quan.
Thiếu nhi Thánh Thể là một phong trào Công giáo Tiến hành bắt nguồn từ Hội Cầu nguyện tại Pháp do các linh mục Léonard Cros và Ramadière khởi xướng năm 1865 từ Hội tông Đồ Cầu Nguyện. Lấy tinh thần Đạo Binh Thánh Giá, nhưng thay vì dùng vũ khí vật chất là gươm giáo, phong trào dùng vũ khí tinh thần theo bốn khẩu hiệu truyền thống: cầu nguyện, rước lễ, hy sinh và làm việc tông đồ. Thay vì bảo vệ thánh địa vật chất, phong trào bảo vệ tâm hồn của các thiếu nhi khỏi phong trào trần tục hóa đang lan tràn trong các trường học Công giáo Pháp thời bấy giờ. Năm 1910, qua sắc lệnh Quam Singulari, Giáo hoàng Piô X mong muốn và cổ võ các thiếu nhi được rước lễ lần đầu sớm. Phong trào Nghĩa Binh Thánh Thể được chính thức thành lập tại Pháp năm 1917 do một Linh mục Dòng Tên là Bessière, phong trào trực thuộc Hội Tông Đồ Cầu Nguyện. Đến đầu thế kỷ 20, nhờ linh mục Bessière S.J., Hội Tông Đồ Cầu Nguyện dành cho giới trẻ chính thức được thành lập tại Pháp năm 1917, với đường lối căn bản: nhắm vào trẻ em, có tính cách quốc tế theo ý Hội Thánh Thể ở Lộ Đức, và nhấn mạnh tính cách truyền giáo. Ở Việt Nam, phong trào được thành lập đầu tiên tại Hà Nội vào năm 1929 do hai linh mục Léon Paliard và Paul Urureau, Hội Linh mục Xuân Bích, mang tên Nghĩa Binh Thánh Thể. Phong trào được hàng giáo phẩm và giáo dân hưởng ứng nên đã phát triển khắp Việt Nam trong suốt thập niên 1930: Huế (1931), Sài Gòn (1931), Phát Diệm (1932), Thanh Hoá (1932), Vinh (1935), Vĩnh Long (1935), Quy Nhơn (1936), Bùi Chu (1937), Thái Bình (1937), Bắc Ninh (1938)… Tùy theo lứa tuổi từ nhỏ tới lớn, Nghĩa Binh được chia ra làm Tiền Binh, Trung Binh và Hậu Binh. Cuộc di cư năm 1954 đã làm phát triển rộng lớn hơn nữa Nghĩa Binh Thánh Thể ở miền Nam. Năm 1957, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã bổ nhiệm linh mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ làm Tổng tuyên uý đầu tiên. Sinh hoạt Nghĩa Binh bắt đầu đòi hỏi đổi mới cho phù hợp với tâm lý giới trẻ. Cùng lúc với tinh thần đổi mới của Công đồng Vatican II, phong trào đã thêm vào sinh hoạt cầu nguyện thuần tuý của Nghĩa Binh Thánh Thể một đường lối mới: giáo dục trẻ và dùng phương thức sinh hoạt trẻ vào trong các hoạt động. Vì thế, bản nội quy thống nhất được ra đời và đổi tên Nghĩa Binh Thánh Thể thành phong trào Thiếu nhi Thánh Thể Việt Nam. Năm 1971, Hội đồng Giám mục phê chuẩn bản nội quy mới. Năm 1972, Đại hội Toàn quốc Về Đất hứa 1 tổ chức tại Bình Triệu quy tụ khoảng 2.000 huynh trưởng. Vào thời điểm này, các giáo phận phía Nam có tới 140.000 đoàn viên và 3.800 huynh trưởng trong 650 xứ đoàn của 13 giáo phận. Ở miền Bắc, phong trào Thiếu nhi Thánh Thể vẫn tiếp tục hoạt động chủ yếu là sinh hoạt giáo lý và đạo đức. Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể là một đoàn thể Công giáo tiến hành nhằm mục đích qui tụ các trẻ em quanh Chúa Giêsu Thánh Thể để huấn luyện chúng trở nên những con người hoàn thiện và Ki tô hữu đích thực. Tạo một môi trường tốt và những hoàn cảnh thuận lợi để thanh thiếu niên sống Tin Mừng, làm tông đồ và góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Tin Mừng. Để thực hiện mục đích này Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể dựa trên hai loại phương pháp: Phương pháp siêu nhiên và phương pháp tự nhiên. “Việc huấn luyện để làm tông đồ phải bao hàm việc toàn diện con người cho phù hợp với nhân cách và hoàn cảnh của mỗi người”. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Phong trào Thiếu nhi Thánh thể
Thiếu nhi Thánh Thể là một phong trào Công giáo Tiến hành bắt nguồn từ Hội Cầu nguyện tại Pháp do các linh mục Léonard Cros và Ramadière khởi xướng năm 1865 từ Hội tông Đồ Cầu Nguyện. Lấy tinh thần Đạo Binh Thánh Giá, nhưng thay vì dùng vũ khí vật chất là gươm giáo, phong trào dùng vũ khí tinh thần theo bốn khẩu hiệu truyền thống: cầu nguyện, rước lễ, hy sinh và làm việc tông đồ. Thay vì bảo vệ thánh địa vật chất, phong trào bảo vệ tâm hồn của các thiếu nhi khỏi phong trào trần tục hóa đang lan tràn trong các trường học Công giáo Pháp thời bấy giờ. Năm 1910, qua sắc lệnh Quam Singulari, Giáo hoàng Piô X mong muốn và cổ võ các thiếu nhi được rước lễ lần đầu sớm. Đến đầu thế kỷ 20, nhờ linh mục Bessière S.J., Hội Tông Đồ Cầu Nguyện dành cho giới trẻ chính thức được thành lập tại Pháp năm 1917, với đường lối căn bản: nhắm vào trẻ em, có tính cách quốc tế theo ý Hội Thánh Thể ở Lộ Đức, và nhấn mạnh tính cách truyền giáo.
Ban đầu, cái tên Rus được dùng để chỉ người, khu vực và các quốc gia thời trung cổ của Rus Kiev. Trong văn hóa phương Tây, nó được biết đến nhiều hơn với cái tên Ruthenia từ thế kỷ 11 trở đi, Các lãnh thổ của nó ngày nay thuộc Belarus, Bắc Ukraina và Nga thuộc châu Âu. Một trong những tư liệu lịch sử sớm nhất đề cập đến những người được gọi là Rus như Rhos có từ năm 839 trong Annales Bertiniani. Biên niên này xác định họ là một bộ lạc Germanic được gọi là người Thụy Điển. Theo Biên niên sử chính Primary Chronicle của Kievan Rus, được biên soạn vào khoảng năm 1113, Rus là một nhóm người Varangians, Norsemen đã di chuyển đến một nơi nào đó từ vùng Baltic nghĩa đen là "từ ngoài biển", đầu tiên đến Đông Bắc Châu Âu, rồi đến phía nam nơi họ tạo ra nhà nước Kiev thời trung cổ. Vào thế kỷ thứ 11, thuật ngữ thống trị trong ngôn ngữ Latinh cổ là Ruscia. Nó đã được sử dụng, bởi nhiêu người khác, Thietmar của Merseburg, Adam của Bremen, Kosmas của Praha và Giáo hoàng Grêgôriô VII trong bức thư của ông đến Izyaslav I. Rucia, Ruzzia, Ruzsia là những cách viết thay thế. Trong thế kỷ thứ 12, Ruscia dần nhường chỗ cho hai thuật ngữ Latin khác là "Russia" và "Ruthenia". "Russia" đánh vần là Rossia và Russie là hình thức ngôn ngữ La Mã thống trị, lần đầu tiên được sử dụng bởi Liutprand của Cremona vào những năm 960 và sau đó bởi Peter Damian trong những năm 1030. Nó trở nên phổ biến trong các tài liệu tiếng Anh và tiếng Pháp trong thế kỷ thứ 12. Ruthenia, lần đầu tiên được ghi nhận vào các biên niên sử Augsburg đầu thế kỷ 12, là một hình thức Latin được ưa thích bởi Chancery Apostolic của Giáo hội Latinh. Tên hiện đại của Nga Rossija, được sử dụng vào thế kỷ 15, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp Ρωσία, từ đó bắt nguồn từ Ῥῶς, một tên Hy Lạp đầu tiên của người dân Rus. Một giả thuyết có trước giả thuyết Kievan Rus là Rus Khaganate thế kỷ thứ 9, có tên và sự tồn tại được suy ra từ một số nguồn Byzantine, tiếng Ba Tư và tiếng Ả Rập thời trung cổ đề cập rằng người Nga bị cai trị bởi một khả hãn. Theo lý thuyết nổi bật nhất, cái tên Rus, giống như tên tiếng Phần Lan của Thụy Điển Ruotsi, bắt nguồn từ một thuật ngữ tiếng Bắc Âu cổ cho "những người chèo thuyền rods- chèo) vì chèo là phương pháp chính để di chuyển trên các dòng sông của Đông Âu, và nó có thể được liên kết với khu vực ven biển Roslagen của Thụy Điển các đội chèo thuyền hoặc Roden, như đã được biết đến trong thời gian trước đó. Điều đó là đáng chú ý các yếu tố địa phương Finnic và tiếng Permic trong sử dụng ở miền bắc của lãnh thổ chính nước Nga giống với Rus -liên quan tên cho cả Thụy Điển và Nga tùy vào ngôn ngữ: do đó tiếng Veps ho tên Thụy Điển và người Thụy Điển là Ročinma / Ročin, trong khi trong ngôn ngữ Komi lân cận, thuật ngữ tương ứng về mặt từ ngữ Ročmu / Roč có nghĩa là Nga và người Nga. Thomsen theo đó đã gợi ý rằng Roðer có lẽ bắt nguồn từ roðsmenn hoặc roðskarlar, có nghĩa là người đi biển hoặc người chèo thuyền. Sau đó, Primary Chronicle cho chúng ta biết, họ đã chinh phục Kiev và tạo ra Kievan Rus. Lãnh thổ họ chinh phục được đặt tên theo họ, cuối cùng, cũng là tên của người dân địa phương này cf. Tuy nhiên, Synod Scroll của Novgorod First Chronicle, một phần dựa trên danh sách ban đầu của cuối thế kỷ 11 và một phần trên Primary Chronicle, không đặt tên cho người Varang bởi Chuds, Slav và Krivich yêu cầu cai trị vùng đất của họ như "Rus ". Mọi người có thể cho rằng không có đề cập ban đầu nào về người Varang là người Rus do danh sách cũ có trước Primary Chronicle và Synod Scroll chỉ đề cập đến Primary Chronicle nếu các trang trong danh sách cũ bị lỗi. Các cách viết khác được sử dụng ở châu Âu trong thế kỷ 9 và 10 như sau: Ruzi, Ruzzi, Ruzia và Ruzari. Nhưng có lẽ thuật ngữ phổ biến nhất để nói đến người Rus là Rugii, tên của bộ lạc Đông Đức cổ đại có liên quan đến người Goth. Một số từ nguyên thay thế đã được đề xuất. Những điều này được bắt nguồn từ trường phái tư tưởng "chống người Norman" trong lịch sử Nga trong suốt thế kỷ 19 và trong thời kỳ Xô Viết. Những giả thuyết này được xem là không thể ở phương Tây. Từ nguyên Slav và Iran được đề xuất bởi các học giả "chống Norman" bao gồm:. Một số tên sông trong khu vực có chứa nguyên tố rus / ros và đây có thể là nguồn gốc của tên của Rus. Ở Ukraine, Ros và Rusna, gần Kiev và Pereyaslav, tương ứng, có tên bắt nguồn từ một thuật ngữ Slavic có nghĩa là "nước", gần giống với rosa sương, rusalka nữ thần nước, ruslo giường suối. Giáo sư George Vernadsky đã đề xuất một dẫn xuất từ Roxolani hoặc từ thuật ngữ Aryan ronsa độ ẩm, nước. Tên sông Ros là phổ biến ở Đông Âu. Nhà ngôn ngữ học người Nga, Igor Danilevsky, trong tác phẩm Ancient Rus as Seen by Contemporaries and Descendants của ông, khi được đánh giá bởi người đương thời và sau đó, đã lập luận chống lại những lý thuyết này, nói rằng những người chống Norman đã bỏ qua thực tế của các ngôn ngữ Slav cổ đại và tên quốc gia Rus không thể nảy sinh từ bất kỳ nguồn gốc đề xuất nào khác. Hầu hết các lý thuyết đều dựa trên một gốc Ros, và trong Slavic cổ đại, một o sẽ không bao giờ trở thành u trong Rus. Danilevskiy lập luận thêm rằng thuật ngữ này tuân theo mô hình chung của các tên Slavic cho các dân tộc Uralic láng giềng là Chud, Ves, Perm, Sum, đã trình bày một ngõ cụt lịch sử, vì không có tên bộ lạc hoặc quốc gia nào được biết đến từ các nguồn không phải là người Slav. Danilevskiy cho thấy nguồn lịch sử lâu đời nhất, Biên niên sử chính Primary Chronicle, không nhất quán trong những gì nó được gọi là "Rus": trong các đoạn liền kề, Rus được xếp nhóm với người Varang, với người Slav, và cũng tách biệt với người Slav và người Varang. Danilevskiy gợi ý rằng ban đầu, những người Ru Nga không phải là một quốc gia mà là một tầng lớp xã hội, có thể giải thích sự bất thường trong Biên niên sử chính và thiếu các nguồn không phải là tiếng Slav.
Tên của Rus', Nga và Ruthenia
Ban đầu, cái tên Rus (Русь) được dùng để chỉ người, khu vực và các quốc gia thời trung cổ (thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12) của Rus Kiev. Trong văn hóa phương Tây, nó được biết đến nhiều hơn với cái tên Ruthenia từ thế kỷ 11 trở đi, Các lãnh thổ của nó ngày nay thuộc Belarus, Bắc Ukraina và Nga thuộc châu Âu. Thuật ngữ Россия (Rossija), xuất phát từ tiếng Hy Lạp Byzantine định nghĩa của Rus , Ρωσσία Rossía - đánh vần là Ρωσία (Rosía phát âm là ) trong tiếng Hy Lạp hiện đại. Một trong những tư liệu lịch sử sớm nhất đề cập đến những người được gọi là Rus (như Rhos) có từ năm 839 trong Annales Bertiniani. Biên niên này xác định họ là một bộ lạc Germanic được gọi là người Thụy Điển. Theo Biên niên sử chính (Primary Chronicle) của Kievan Rus , được biên soạn vào khoảng năm 1113, Rus là một nhóm người Varangians, Norsemen đã di chuyển đến một nơi nào đó từ vùng Baltic (nghĩa đen là "từ ngoài biển"), đầu tiên đến Đông Bắc Châu Âu, rồi đến phía nam nơi họ tạo ra nhà nước Kiev thời trung cổ.
Chỉ số tự do kinh tế (Indices of Economic Freedom) đo lường chính sách tự do kinh doanh ở các quốc gia trên thế giới. Chỉ số tự do kinh tế đánh giá 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế, được công bố thường niên bởi tạp chí The Wall Street Journal và Quỹ Di sản (The Heritage Foundation) có ảnh hưởng gián tiếp đến nguyên tắc luật lệ, chính sách thuế cũng như các chính quyền. Milton Friedman và Michael Walker đến từ Viện Fraser đã tổ chức một loạt các hội nghị từ năm 1986 đến 1994 nhằm sáng tạo một định nghĩa rõ ràng về tự do kinh tế và phương pháp đánh giá. Đó là những báo cáo đầu tiên về tự do kinh tế thế giới. Gần đây hơn, Quỹ Di Sản và The Wall Street Journal đã tạo ra một chỉ số khác, tức chỉ số tự do kinh tế. Định nghĩa năm 2008 về ‘tự do kinh tế‘ trong chỉ số tự do kinh tế như sau: “Tự do kinh tế, trong hình thái cao nhất, cho người dân quyền tư hữu tuyệt đối, thực hiện đầy đủ các quyền tự do lưu thông về nhân công, tiền vốn, hàng hóa, và hoàn toàn không có sự chèn ép hay giới hạn tự do kinh tế ngoại trừ những giới hạn tối thiểu cần thiết để họ bảo vệ và duy trì sự tự do đó”. Mỗi tự do trên được cho điểm từ 0 đến 100, mà 100 là tượng trưng cho nhiều tự do nhất. Điểm 100 có nghĩa là có một môi trường kinh tế hay chính sách kinh tế có ích lợi nhất dẫn đến tự do kinh tế. Tổng số điểm được tính trung bình bằng cách cộng 10 số điểm của mỗi tự do và chia cho 10. Định nghĩa chỉ số tự do kinh tế năm 2008 là “quyền tự do kinh tế cao nhất mang lại quyền sở hữu tuyệt đối về quyền sở hữu tài sản, quyền tự do được thực hiện đầy đủ cho lao động, vốn và hàng hóa, và sự vắng mặt tuyệt đối của sự cưỡng chế hoặc ràng buộc của tự do kinh tế vượt quá mức độ cần thiết cho công dân để bảo vệ và duy trì quyền tự do. “Bản dịch của Trần Tuấn Sang từ định nghĩa ‘tự do kinh tế’ của Heritage Foundation năm 2008”. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Chỉ số tự do kinh tế
Chỉ số tự do kinh tế (Indices of Economic Freedom) đo lường chính sách tự do kinh doanh ở các quốc gia trên thế giới. Chỉ số tự do kinh tế đánh giá 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế, được công bố thường niên bởi tạp chí The Wall Street Journal và Quỹ Di sản (The Heritage Foundation) có ảnh hưởng gián tiếp đến nguyên tắc luật lệ, chính sách thuế cũng như các chính quyền. Milton Friedman và Michael Walker đến từ Viện Fraser đã tổ chức một loạt các hội nghị từ năm 1986 đến 1994 nhằm sáng tạo một định nghĩa rõ ràng về tự do kinh tế và phương pháp đánh giá. Đó là những báo cáo đầu tiên về tự do kinh tế thế giới. Gần đây hơn, Quỹ Di Sản và The Wall Street Journal đã tạo ra một chỉ số khác, tức chỉ số tự do kinh tế.
– “Khi con cáo nghe tiếng cừu kêu, nó chạy ngay tới. Nhưng không phải để giúp!”. – Lần đầu tôi biết đến câu chuyện này, có lẽ là lúc 9 tuổi. Có một điều tôi phải nói rõ, cái tên “Sự im lặng của bầy cừu” quá hấp dẫn đối với một đứa bé yêu động vật như tôi. Và cứ như thế, tôi đút đĩa DVD vào, sau đó là một chuỗi ác mộng kinh hoàng, dám chắc sẽ ám ảnh mọi đứa trẻ ở tuổi tôi. – Mãi những năm sau này, khi tôi đủ chính chắn, khi tôi nghe tới cái tên Hannibal Lecter như là một bộ não xuất chúng, khi tôi nghe tới Bác sĩ Lector có cả fan hâm mộ, tôi mới lọ mọ đi mua The silence of the lambs về đọc. – Nhờ đó mà tôi viết bài review này. Không chỉ phân tích chiều sâu câu chuyện, tôi sẽ cố gắng làm rõ ý nghĩa biểu tượng “con cừu im lặng” mà sách nói tới. Các bạn đọc review mình, cũng đã biết về câu chuyện này. Nếu chưa từng đọc, các bạn có thể xem lượt truyện (không spoil) ở đây. ✦ Nhân vật Hannibal Lecter là một trong số ít tên sát nhân tâm thần có bộ não thiên phú. Ông xuất hiện suốt series Hannibal Lecter nói về chính ông. Những câu chuyện hồi hộp đó, cùng một lý lịch phức tạp, một quá trình đi sâu vào nhân vật, … càng làm cho tôi hiểu và hâm mộ ông ta hơn. ✦ Thomas Harris không chỉ tạo ra một nhân vật tuyệt vời trước bối cảnh xã hội nghiệt ngã. Ông còn kể lại những câu chuyện đó rất thông minh. Tiểu thuyết Sự im lặng của bầy cừu thể hiện rất rõ điều đó. Nếu đọc truyện rồi, mọi người sẽ thấy ấn tượng bởi chiều sâu tâm lý các nhân vật chính được thể hiện kỹ như thế nào. Thomas Harris biết cách tạo sự tò mò. Bạn có thể nghĩ là nó bình thường, đã là nhà văn nổi tiếng thì phải làm được điều đó chứ? Nhưng Harris không tạo sự tò mò trong tình tiết, vậy chúng ta tò mò điểm gì? mình sẽ nói rõ:. ✦ Thứ nhất, thủ phạm là một tên sát nhân hàng loat. Một kẻ có thể là bất kì ai, thậm chí không liên quan đến tuyến nhân vật chính. Bởi vậy chúng ta chẳng quan tâm nó làm gì. ✦ Thứ hai, thủ đoạn gây án không có gì ấn tượng. Một tên có vấn đề về trí não điển hình. Hắn không có bộ óc sắc sảo để lái đội điều tra theo những hướng sai lệch được. Bỏi vậy hắn chả có cái gì để giấu, chúng ta chẳng có gì dể tò mò cả. ✦Vì mối quan hệ của nữ FBI tập sự Starling và tên tội phạm máu lạnh Lecter các bạn ạ. Lector thậm chí có nói rằng: “Chà! Người ta sẽ nghĩ chúng ta đang yêu nhau đấy Starling”? Không biết các bạn thế nào, nhưng tôi đã có một chút thoáng nghĩ điều tương tự. Và tôi hồi hộp không biết rằng, 2 người này sẽ đi đến đâu. Đây là cái hay của Harris ở trong tiểu thuyết này. ✦ Bạn không thể trả lời được cho đến khi đóng trang sách cuối cùng. Và vì tập trung vào 2 nhân vật chính này, chúng ta bắt đầu thấy gần gũi hơn qua những cuộc đối thoại của họ. ✦ Starling chỉ là một thực tập sinh, cô quá non kinh nghiệm, dễ rơi vào trò chơi của Lecter. Nhưng chính sự non nớt ngây thơ của cô lại là đón đánh rất hiệu quả vào Lecter. ✦ Những xung đột trong lần gặp đầu của 2 người khiến Lecter hứng thú. Anh muốn chơi đùa với Starling, nhưng càng đọc, tôi càng thấy ông bị cuốn vào trò chơi của mình. Lecter đã ngày càng mong đợi chuyến thăm của Starling hơn. Tôi cảm giác, con người vô vị 8 năm mục ruỗng trong tù đang bắt đầu thấy gì đấy một điều gì đó hấp dẫn. ✦ Lecter còn đối đãi Starling với tư cách một quý ông. Ông không làm những việc mà ông cho rằng: “Đó là thiếu lịch sự đối với phụ nữ”. Trên hết, ông rất quan tâm đến cảm xúc của Starling, và quan tâm rất nhiều đến câu chuyện “bầy cừu” mà tuổi thơ cô gặp phải. Lâu lâu mình xin nhắc lại quan điểm mình xíu: Mình luôn đánh giá một cuốn sách qua cái bìa. Đối với tiểu thuyết Sự im lặng của bầy cừu, bìa sách mang rất nhiều hàm ý. ✦ Loài côn trùng trên bìa sách không phải là một con bướm mà là một con “diều hâu đầu chết“, thường được gọi là “bướm đêm của cái chết“. Có cái tên này, là vì những hoa văn trên ngực của nó trông giống như một hộp sọ của con người. ✦ Điều quan trọng là, khi bạn phóng to hình ảnh của con sâu bướm trên poster, bạn có thể thấy rằng ở giữa là môt nhóm nhóm phụ nữ khỏa thân được sắp xếp trông giống như một hộp sọ. ✦ Tiêu đề “In Voluptas Mors” có thể được dịch là “Trong niềm vui, có cái chết“, một số tài liều dịch là “Cái chết đầy tham vọng”. Dù bằng cách nào, chủ nghĩa tượng trưng đang cố gắng liên kết tình dục và cái chết, một công việc tuyệt vời để tạo ra một bầu không khí rùng rợn cho câu chuyện kinh dị này,. ✦ Ẩn dụ bầy cừu: Chỉ cần nghiền ngẫm 1 chút sau khi đọc xong cuốn sách này, bạn sẽ đủ hiểu nó. Nếu bạn muốn nghe ý kiến của tôi: Gạt cần qua bên phải. Một buổi sáng thức dậy, cô nghe tiếng cả đàn cừu trong trại đang la hét thảm thiết. Cô muốn cứu chúng, cô muốn làm cho chúng im lặng, nhưng cô không thể. Vì còn quá nhỏ, và vì mới mất cha, người mà cô yêu thương và dựa dẫm vào nhất. Cô đã hoảng sợ. Cô chạy đi, ôm lấy 1 con cừu, cố giải thoát 1 con khỏi tiếng kêo đó, cố đưa mình thoát khỏi tiếng hét đó. Vậy mà cô vẫn không cứu được dù chỉ một con. Vì cô bị bắt, con cừu cô mang theo bị giết. Nó lại la hét trước khi im bặt đi trước sự chứng kiến của cô. ✦ Vậy đấy, Starling đã không làm cho . dù chỉ một con cừu . im lặng được. Những tiếng hét đó vẫn đeo đuổi cô hàng đêm. Cô cần tìm cách bắt lũ cừu ấy câm mồm. ✦ Quay lại với nội dung tiểu thuyết. Ẩn dụ mà Harris nói đến. Là việc Starling muốn cứu cô gái khỏi tay Buffalo Bill. Những cô gái ở đấy đang la hét, đang kêu gào như lũ cừu năm ấy. Nếu cô để tiếng hét ấy tự tắt, nó sẽ lại tiếp tục có tiếng hét khác, giống những gì cô nghe được mỗi đêm dù cho con cừu con cô mang theo đã chết. ✦ Starling phải giải được vụ này, phải cứu được cô gái để chấm dứt những tiếng hét. Để giải thoát cuộc sống của cô. ✦ Nếu buộc phải so sánh, sau khi đọc sách sự im lặng của bầy cừu, tôi thấy nó nhỉn hơn “Rồng đỏ” rất nhiều. Đánh giá này chủ yếu dựa vào khả năng phác họa chiều sâu nhân vật. Trong khi nhân vật chính Bác sĩ Hector không phải trung tâm cuốn Rồng đỏ. Thì ở cuốn “the silence of the lambs” này, tôi hiểu thêm rất nhiều về trường tư tưởng của ông. Vài năm sau khi Jack Crawford và Will Graham bắt được Fairy Fairy (Trong truyện Red Dragon), có một kẻ tâm thần khác. "Buffalo Bill" - giết phụ nữ và lột da các bộ phận cơ thể của họ. Hồ sơ tội phạm của FBI tình cờ là Hannibal Lecter, người bị giam cầm trong một bệnh viện tâm thần, vì chính ông là kẻ giết người hàng loạt, cũng bị bắt bởi bộ đôi Crawford / Graham. Lecter không cảm thấy muốn giúp đỡ họ nữa kể từ khi ông dẫn Will Graham đến một cuộc đối đầu tàn khốc, thay đổi cuộc sống với vụ Fairy Fairy. Vì vậy Crawford gửi thực tập sinh Clarice Starling đến nói chuyện với ông. Crawford biết Lecter có một điểm yếu về sự ngây thơ, vì vậy anh ta cho rằng kiểu cô gái nông thôn mạnh mẽ sẽ tác động được Lecter. Anh ấy đã đúng, Starling và Lecter thiết lập một mối quan hệ vượt xa những gì anh ấy mong đợi. Một lần nữa, Jack Crawford đánh bạc với Hannibal Lecter và phải hy sinh cô học trò cưng của mình. Dù chuẩn bị sẵn cho những màn công kích của Lecter, nhưng Starling vẫn thất bại. Hãy đọc để xem Lecter đã chơi đùa với cảm xúc của Starling như thế nào nhé!. Sinh viên tập sự FBI Clarice Starling (Jodie Foster) được nhận lệnh đến phỏng vấn kẻ ăn thịt người Hannibal Lecter (Anthony Hopkins), bị giam giữ trong xà lim riêng ở Bệnh viện tâm thần Maryland. Phía FBI hi vọng khả năng siêu phàm của Lecter có thể giúp cung cấp thông tin về tâm lý tên sát nhân giết người hàng loạt được mệnh danh là Buffalo Bill (Ted Levine) khi nạn nhân bị hắn bắt cóc là con gái bà Nghị sĩ. Bị thu hút bởi Clarice, Lecter đòi hỏi thông tin về đời tư của cô để đổi lấy những thông tin quan trọng về vụ án, và giữa hai người bắt đầu xuất hiện một mối liên hệ kỳ lạ. Dần dần Clarice bộc lộ bản thân mình trước Lecter, cô là một người đang cố gắng thoát ra bóng tối của sự sợ hãi vì những ký ức thuở nhỏ của cô. Khi cô sống với nhà chú dì, nửa đêm cô thường nghe thấy tiếng cừu non kêu thảm thiết, một lần tỉnh dậy, cô chứng kiến cảnh họ giết những con cừu non ấy. Cô mở cửa chuồng mong giải thoát cho chúng, nhưng họ phát hiện, cô bỏ chạy chỉ kịp bế theo một con cừu nhưng rồi nó cũng chết. Những tiếng kêu sợ hãi đã ám ảnh cô suốt từ đó đến giờ. Với mong muốn thoát khỏi ám ảnh đó, Clarice đã rất cố gắng trong vụ giải cứu con gái bà Nghị sĩ. Cô sợ rằng nếu không thành công thì suốt đời sẽ phải chung sống với những ám ảnh, những tiếng kêu thảm thiết của bầy cừu. Cuối cùng, qua các màn đấu trí, tên sát nhân Buffalo Bill - tức Jame Gumb, kẻ chuyên thiết kế y phục phụ nữ bằng da người sống, bị giết, còn con gái bà Nghị sĩ đã được giải thoát. Về phần Hannibal Lecter, bằng trí óc siêu phàm và thủ đoạn tàn bạo, hắn đã giết chết hai viên cảnh sát xấu số, một người bị mổ bụng treo lên, với da mặt của viên cảnh sát còn lại đắp lên mặt mình để giả làm chính viên cảnh sát bị thương đó (Trung sĩ Pembry), Hannibal Lecter trốn thoát khỏi nơi giam cầm và trở thành mối nguy hiểm cho xã hội. Phim kết thúc bằng cuộc gọi của Hannibal Lecter cho Clarice Starling để hỏi cô ấy trong giấc mơ cô còn có nghe thấy tiếng cừu kêu nữa hay không. Sách được bày bán trên toàn quốc dưới tên: Sự im lặng của bầy cừu. Hãy xem qua các Hot deal dưới đây <đang cập nhật>Ebook PDF của sách sẽ được cập nhật ngay khi tác giả công bố free bản PDF. Chỉ trong 2 tiếng, bộ phim chuyển thể được đánh giá là đã truyền tải đầy đủ tính chất của một tác phẩm tâm lý tội phạm hoàn chỉnh. Được chuyển thể vào năm 1991. Sự im lặng của bầy cừu được coi là thành công lúc bấy giờ. Khi mà thời đại kỹ thuật số chưa bùng nổ, một bộ phim muốn hay, phụ thuộc rất nhiều vào tài diễn xuất của diễn viên. Suốt 2 tiếng, Hopkins chỉ xuất hiện gói gọn hơn 16 phút. Nhưng những gì ông thể hiện khiến tôi phải thốt lên: Lecter à! Tôi rất muốn gặp lại ông lần nữa. Ông ta không làm bạn chán một giây nào, thậm chí cả sau khi xem lần thứ mười hoặc mười một. Đó là sức mạnh của màn trình diễn ngoạn mục của Hopkins, hoàn toàn không thể quên ông và vai diễn Bác sĩ Lecter được. Jonathan Demme dựng lên hình ảnh một bác sĩ Lecter rất sát với truyện. Một kẻ giết người tàn bạo với cách đầy mang rợ và … lạ lẫm. Sự lạ lẫm khác người ấy ai xem phim cũng thấy được, và đạo diễn Jonathan Demme biết cách làm cho nó xứng đáng với cái mac phim kinh dị. Nếu phải có một lý do duy nhất để tôn sùng bộ phim này, chắc chắn là hóa học giữa hai diễn viên hàng đầu. Chưa từng xảy ra trước đây, mối quan hệ nam nữ không liên quan đến tình dục lại hấp dẫn vậy. Chưa từng xảy ra trước đây, kết thúc của một bộ phim lại dấy lên sự tò mò nhiều như vậy!. Cả chúng ta cũng tự hỏi bản thân, giống như câu hỏi mà Bác sĩ Lecter đã nói ở cuối phim vậy. Tác phẩm đáng đọc nhất trong series Hannibal Lecter. Bạn có thể phục hoặc không, tài suy luận của gã điên này. Nhưng một điều chắc chắn, bạn sẽ rất nhớ gã, và muốn tìm hiểu thêm những câu chuyện khác của Bác sĩ Lecter đấy!
Sự im lặng của bầy cừu (phim)
Sự im lặng của bầy cừu (tựa tiếng Anh: The Silence of the Lambs) là một bộ phim kinh dị Mỹ được sản xuất vào năm 1991 do Jonathan Demme đạo diễn với sự tham gia của các ngôi sao điện ảnh Jodie Foster, Anthony Hopkins, Scott Glenn, Anthony Heald và Ted Levine. Bộ phim được xây dựng dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Thomas Harris. Nhân vật gây ấn tượng nhất trong phim là bác sĩ Hannibal Lecter do Anthony Hopkins thủ vai. Trong phim, Clarice Starling, một nữ học viên của trường huấn luyện đặc vụ FBI, đã phải đến xin lời khuyên của Lecter để bắt kẻ giết người hàng loạt có biệt danh là "Buffalo Bill". Sinh viên tập sự FBI Clarice Starling (Jodie Foster) được nhận lệnh đến phỏng vấn kẻ ăn thịt người Hannibal Lecter (Anthony Hopkins), bị giam giữ trong xà lim riêng ở Bệnh viện tâm thần Maryland. Phía FBI hi vọng khả năng siêu phàm của Lecter có thể giúp cung cấp thông tin về tâm lý tên sát nhân giết người hàng loạt được mệnh danh là Buffalo Bill (Ted Levine) khi nạn nhân bị hắn bắt cóc là con gái bà Nghị sĩ.
Hooligan nghĩa là gì và nó có ảnh hưởng như thế nào trong bóng đá, mời bạn cùng tìm hiểu chi tiết về thuật ngữ này thông qua bài viết sau đây nhé! Hooligan nghĩa là gì Hooligan được biết tới là một thuật ngữ tiếng anh. Nó dùng để ám chỉ những nhóm. Hooligan được biết tới là một thuật ngữ tiếng anh. Nó dùng để ám chỉ những nhóm người hay những người thường xuyên có những hành động côn đồ. Họ thường phá tiến hành phá hoại xung quanh các trận thi đấu bóng đá. Những hành động bạo lực này tồn tại ở rất nhiều dạng cũng như với nhiều hình thức khác nhau. Một số hình thức phổ biến có thể kể đến như là ném pháo sáng hay ném đá xuống sân thi đấu. Tiến hành tấn công các cầu thủ hoặc ẩu đả với các cổ động viên khác. Về mặt thuật ngữ, hooligan được cho là xuất hiện vào khoảng những năm 1960 tại Anh để chỉ quá trình chuyển từ các hành vi bạo lực mang tính chất nghi thức sang các hành vi bạo lực mang tính chất có tổ chức. Ở VN, vấn nạn hooligan đang ngày càng có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây mà vụ loạn đả trên sân Vinh vào ngày 25-5-2008 hay vụ “quậy” của CĐV Hải Phòng ở trên đường đến sân Vinh vừa qua là những vụ rất điển hình. Từ những năm 1960, các nhà nghiên cứu xã hội Tây Âu đã bắt đầu có những nghiên cứu về hiện tượng này. Các nghiên cứu của họ đã đi đến thống nhất chung: không phải mọi CĐV đều sẽ trở thành hooligan nhưng chắc chắn 100% hooligan là những CĐV của đội bóng mà họ ủng hộ. Những hành động do hooligan gây ra có thể sẽ được biểu hiện ở nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Thậm chí, thời gian gần đây cho thấy những hành động này có dấu hiệu ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Những hành vi bạo lực như ẩu đả, ném pháo sáng, tấn công cầu thủ hay là cổ động viên đội khách là hành vi dễ nhận ra nhất của hooligan. Những cổ động viên Anh có lẽ thấm thía được điều này nhất khi vừa là nơi phát sinh ra khái niệm này vừa là nơi diễn ra nhức nối nhất của nạn hooligan. Thảm họa Heysel (một SVĐ tại Brussels – Bỉ) ở trận chung kết UEFA Cup giữa Liverpool và Juventus trong năm 1985 tới nay vẫn là một trong các thảm họa bóng đá kinh khủng nhất trong lịch sử. 39 người đã bị thiệt hại cùng với đó là 600 người đã bị thương trong trận đấu này. Hệ quả của nó để lại rất nặng nề khi mà 14 CĐV Liverpool đã phải ra hầu tòa còn các CLB tại Anh bị cấm tham dự cúp châu Âu tới 5 mùa, riêng Liverpool phải chịu án phạt này tận 6 mùa. Án phạt này như một đòn đau khiến cho người Anh phải mất rất nhiều thời gian để gượng lại. Mời bạn xem thêm tỷ lệ cá cược bóng đá cập nhật đầy đủ các trận cầu thuộc các giải bóng chuyên nghiệp hàng đầu thế giới nhanh nhất hiện nay. Những hành động này nhận lại rất nhiều những sự chỉ trích của cộng đồng. Chúng ta hay thấy “hooligan” trong các trận đấu bóng đá. Vậy tại sao họ lại có hành động như thế. Theo dõi một số câu chuyện về hooligan để giải mã về những hành động này nhé. Lịch thi đấu bóng đá ngày 29/5/1985 trên sân Heysel đã có một trận đấu bóng đá giữa Liverpool và Juventus. Đây hứa hẹn sẽ là một trận đấu rất hấp dẫn, tuy vậy nó lại bị phá hoại bởi các cổ động viên quá khích và đã tạo thành một thảm kịch. Hôm đấy các khán giả đang ngồi kín ở sân thì tại khán đài Z – nơi dành cho các cổ động viên trung lập của Bỉ đã xuất hiện nhiều nhóm cổ động viên đối lập của Juventus. Trước giờ thi đấu thì các “hooligan” của Anh đã phá tan hàng rào và tấn công những người Ý này bằng gậy, dao,…Thậm chí họ khiến cho một bức tường của khans đài này đổ sụp, cảnh sát không thể kịp ngăn chặn bởi số lượng quá đông. Hậu quả của sự việc này đó là khiến 39 người thiệt mạng và 376 người bị thương. Thế nhưng trận đấu không bị hủy mà vẫn tiếp tục được tiến hành sau khi bị hoãn 1 tiếng. các cầu thủ Juventus đã rất cố gắng và dành chiến thắng. Một ví dụ cụ thể nữa cho “hooligan” đó chính là thảm họa Hillsborough được diễn ra vào ngày 15 tháng 4 năm 1989. Thảm họa hôm đấy đã khiến cho 96 người chết và tất cả đều là người hâm mộ của Liverpool FC. Trận đấu này bị ngừng chỉ sau một vài phút bởi một bức tường ở khán đài phía đường Leppings bị đổ. Các bằng chứng đều cho rằng đây là đây do lỗi của cảnh sát nhưng họ lại chối bỏ trách nhiệm và đổ lỗi cho cổ động viên quá khích chen lấn vào sân gây nên tình trạng quá tải và xảy ra xung đột. Vụ hooligan tồi tệ gần đây nhất được diễn ra vào ngày 2-2-2007 tại Ý, khi mà các cổ động viên bên ngoài sân trận Catania-Palermo đã xung đột dữ dội cùng với lực lượng cảnh sát, khiến sĩ quan cảnh sát Filippo Raciti bị chết và từ đó Chính phủ Ý đã ra lệnh cấm tổ chức các trận đấu bóng cho tới khi ổn định lại trật tự. Qua bài viết trên đây đã có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về Hooligan nghĩa là gì? Như vừa giải thíc ở trên thì Hooligan là những hành động xấu làm mất đi vẻ đẹp của thể thao trong bóng đá và nếu như bạn phát hiện ra được có hiện tượng hooligan đang chuẩn bị diễn ra thì hãy báo ngay cho các lực lượng chức năng để kịp thời ngăn chặn hành vi này nhé. Bóng đá trưa 17/8: Varane tập buổi đầu tiên với MU, Liverpool gia nhập cuộc đua chiêu mộ Yaya Toure 2.0, . là những nội dung thể thao hôm nay.
Hooligan trong bóng đá
Hooligan trong bóng đá (phát âm tiếng Việt như Hu-li-gân) là thuật ngữ tiếng Anh ám chỉ những người hay nhóm người thường xuyên có các hành động côn đồ và phá hoại xung quanh các trận thi đấu bóng đá. Những hành động bạo lực này tồn tại ở rất nhiều dạng như ném đá, pháo sáng xuống sân, tấn công cầu thủ hay ẩu đả với các cổ động viên khác. Hooligan là một hiện tượng phổ biến ở nước Anh cũng như là vấn đề của bóng đá Việt NamTrong lịch sử bóng đá, những hành động quá khích đầu tiên diễn ra tại Anh từ thế kỷ XIV. Tới thập kỷ 80 thuộc thế kỷ XIX, thế giới ghi nhận những trường hợp "hooligan" đầu tiên của bóng đá hiện đại. Khi ấy, các nhóm côn đồ ở Anh táo tợn tới mức đe dọa những người dân vô tội, tấn công trọng tài và cầu thủ vì tình yêu với đội bóng mình yêu thích. Tình trạng bạo lực này lên tới đỉnh điểm năm 1985 với thảm kịch Heysel. Tại Việt Nam, các cổ động viên quá khích của Hải Phòng, Nghệ An thường xuyên ẩu đã và gây bạo lực trên sân cỏ, chính công tác đảm bảo an ninh tắc trách trước, trong và sau mỗi trận đấu đã dung dưỡng để nạn Hooligan Việt Nam phát triển.
FPS – bắn súng góc nhìn thứ nhất – là một trong những thể loại game phổ biến nhất và thành công nhất từ trước đến nay. Ban đầu game tập trung vào mục chơi đơn (singleplayer) là chính, nhưng sau này nhờ có Internet rộng khắp mà chế độ chơi mạng (multiplayer) dần “chiếm diễn đàn” nhiều hơn. Mặc dù sự thật là thế, game thủ vẫn tỏ ra phấn khích với những game FPS có chế độ chơi đơn đặc sắc, thú vị. Sau đây là top 10 tựa game có mục chơi đơn định hình cả thể loại bắn súng góc nhìn thứ nhất.Bạn đang xem: Bắn súng góc nhìn người thứ nhất. Titanfall là series FPS tuy hay xúi quẩy là ít được game thủ biết đến. Phần lớn nhân viên tại studio Respawn đến từ nhà phát triển Infinity Ward – vốn nổi tiếng với series Call of Duty huyền thoại – cho nên dĩ nhiên là họ sẽ có nhiều kinh nghiệm trong việc làm game bắn súng. Dự án đầu tiên của Respawn là trò Titanfall bắn robot ra mắt vào năm 2014, và nó cũng đã có được mức độ thành công nhất định. Tuy nhiên, phần này chỉ tập trung vào chế độ chơi mạng (multiplayer) chứ không có mục chơi chiến dịch (campaign), khiến game thủ hụt hẫng. Thế là trong phần 2, Respawn quyết định nâng cấp đứa con tinh thần của mình lên một tầm cao mới với mục chơi đơn xoay quanh nhân vật Jack Cooper cùng con robot Titan BT-7274 chinh chiến vượt bao hiểm nguy. Và cái hay của mục chơi đơn này nằm ở cách mà Respawn đã xây dựng mối quan hệ bền chặt và đầy cảm động giữa Jack và BT-7274, cho thấy giữa người và robot tưởng chừng như hoàn toàn khác nhau nhưng lại có rất nhiều điểm tương đồng. Chỉ tiếc rằng do EA phát hành game ngay giữa đợt ra mắt của 2 ông lớn là Battlefield và Call of Duty nên có phần bị lu mờ trước đàn anh, dù Titanfall 2 chẳng hề kém cạnh gì. Kể từ những năm 1990, dòng game Wolfenstein đã tạo được tiếng vang trong làng game FPS. Nhờ có lối combat đầy kịch tính và phong cách steampunk nên khi Return To Castle Wolfenstein ra mắt vào năm 2001, game vẫn thu hút đông đảo fan hâm mộ. Tuy nhiên, đến phiên bản Wolfenstein ra mắt năm 2009 thì lại không được game thủ đón nhận nồng nhiệt cho lắm vì nó không thực sự đặc sắc cho lắm. Sau này thì có MachineGames nhảy vào cuộc chơi, bẻ lái series này sang hướng mới hoàn toàn với bản Wolfenstein The New Order ra mắt năm 2014. Cụ thể thì họ đã bỏ mục chơi mạng và tập trung hoàn toàn vào chế độ chơi chiến dịch, và đó là một quyết định sáng suốt các bạn ạ. The New Order đã nhận được vô số lời khen từ fan lẫn giới phê bình nhờ có cốt truyện đưa người chơi vào vai nhân vật B.J Blaskowicz trong một thế giới đầy tàn bạo đang bị lũ phát xít thống trị. Thế là Blaskowicz phải tìm cách phá nát chế độ độc tài này từ gốc rễ, và đồng thời kết mối thân tình với một nhóm quân kháng chiến. Wolfenstein: The New Order đã hồi sinh dòng game này chỉ với cốt truyện đầy tính nhân văn. Và cũng nhờ vậy mà game thủ mới dễ đồng cảm và thấu hiểu nhân vật chính hơn, còn bắn súng chỉ là yếu tố phụ mà thôi. Kết quả là The New Order dễ dàng trở thành một trong những tựa game xuất sắc nhất trong năm 2014 một cách đầy thuyết phục. Trong vòng 10 năm qua, series Metro được đánh giá cao là nhờ có gameplay tiếp cận được nhiều game thủ. Dòng game này được phát triển dựa theo tiểu thuyết của nhà văn người Nga tên là Dimitri Glukhovsky, lấy bối cảnh thế giới hậu tận thế sau vụ nổ hạt nhân. Trong các đường hầm phía dưới thành phố Moscow hoang tàn là những kiếp người đang cố gắng sinh tồn qua từng ngày. Họ cũng có chia bè kết phái, tạo nên cốt truyện vô cùng ảm đạm. Và cũng chính nhờ bầu không khí đầy ám ảnh này mà game lại càng thu hút fan FPS nhiều hơn. Phần đầu tiên ra mắt vào năm 2010 với tên gọi Metro 2033. Tuy rất đáng để chơi nhưng điểm yếu của nó là cơ chế hành động lén lút lại không được đầu tư cho lắm, cộng với đó là màn hướng dẫn khá là “tù túng” làm ảnh hưởng đến trải nghiệm của game thủ. Ba năm sau đó, 4A Games quyết định làm tiếp phần sau với tên gọi Metro: Last Light, và may mắn là nó đã vượt được cái bóng của người tiền nhiệm. Phiên bản năm 2013 này được cải thiện rất nhiều so với phần trước, kể về những mối quan hệ khắng khít, những cuộc chạm trán nghẹt thở, và quan trọng hơn hết là cho người chơi thấy được mặt xấu xa của con người. Bên cạnh đó, thế giới trong game cũng chi tiết hơn và được đầu tư kỹ lưỡng hơn, giúp game thủ cảm nhận rõ khung cảnh đầy tro tàn của một nền văn minh. Sau khi chấm dứt series Brothers In Arms, Gearbox tiếp nối với dòng game Borderlands, và đây có thể xem như là dòng game hiếm hoi có cơ chế bắn súng loot đồ được thiết kế chuẩn chỉnh, trong khi những game cùng thể loại thì toàn “hút máu” người chơi. Ngay từ lúc khởi đầu, Borderlands đã tạo dựng được tên tuổi trong thế loại bắn súng loot đồ nhờ có kho vũ khí muôn hình vạn trạng, được ẩn giấu ở rất nhiều nơi trên bản đồ. Phiên bản đầu tiên ra mắt năm 2009 giành được nhiều lời khen ngợi nhưng vẫn còn tồn đọng một số hạn chế nhất định. Thế là phần 2 ra mắt vào năm 2012, và nó đã sửa được phần lớn những sai lầm trong phần 1. Borderlands 2 đã tiếp thu những góp ý từ game thủ, kết hợp nó với những tính năng vốn được fan yêu thích trong phần 1 và tiếp tục “bung” nó ra nhiều hơn nữa. Nhân vật thì có cây kỹ năng đa dạng, vũ khí thì sáng tạo vô bờ bến, còn lời thoại thì nghe đến đâu là cười sái quai hàm đến đó. Chơi một người đã đủ cười té ghế, nếu vẫn chưa đủ “ép phê” thì bạn có thể rủ thêm 3 người bạn nữa vào chung hội cho nó thêm phần xôm tụ. Kẻ địch và hệ thống level cũng sẽ được căn chỉnh lại cho phù hợp với nhóm của bạn, tạo sự mới lạ và thú vị trong mỗi màn chơi. Bên cạnh đó, đồ họa phong cách cel-shading cũng giúp phần chơi chiến dịch thêm phần sinh động, vui nhộn. Sau này, nhà phát triển tung ra thêm những bản mở rộng thì game lại càng sở nên hấp dẫn hơn nữa. Đây là một trong những series đầu tay của Ubisoft, và ngay từ 2 phần đầu tiên thì game đã thu hút được lượng lớn fan. Điều khiến game này đặc biệt nằm ở chỗ là cứ mỗi phần mới, Ubisoft lại tạo cho nó một bối cảnh mới theo phong cách mới. Phần đầu tiên thì tập trung vào yếu tố combat trên một hòn đảo, phần 2 thì xoay quanh cuộc nội chiến khốc liệt tại châu Phi, còn phần 3 thì khai thác yếu tố tâm lý nhiều hơn. Trong Far Cry 3, bạn sẽ vào vai Jason Brody với nhiệm vụ giải cứu những người bạn thoát khỏi cảnh nô lệ, và đồng thời hợp tác với bộ tộc Rakyat để hạ bệ những kẻ đang thống trị trên hòn đảo. Brody tuy không tạo được mối liên kết quả rõ ràng với người chơi nhưng chúng ta vẫn thấy được con người thật sự của anh khi năm trong tay quyền lực va địa vị mà trước đây chưa từng có được. Nhìn chung thì Far Cry 3 có rất nhiều thứ cho game thủ khám phá và trải nghiệm, và đồng thời cũng góp phần xây dựng cốt truyện thuyết phục hơn. Doom cũng là một trong những huyền thoại trong làng game FPS, và xuyên suốt các phần thì đến bản Doom 3 (2004) series này lại bắt đầu… chìm nghỉm. Trong luc thể loại này bắt đầu có sự chuyển mình thì nhà phát triển cũng phải đổi mặt với những khó khăn nhất định, chẳng hạn như làm sao để Doom phù hợp với thời thế. Cuối cùng, id Software đã quyết định quay trở về với phong cách “old-school”. Doom (2016) đã không còn sử dụng phong cách bắn súng theo kiểu quân sự vốn đã quá phổ biến trong thể loại FPS. Thay vì áp dụng cơ chế tự hồi máu hoặc sử dụng vật cản để núp phía sau, game thủ giờ đây phải liên tục di chuyển để né đạn và tìm cách nã súng tiêu diệt kẻ địch. Đặc biệt, mỗi khi “lâm trận” là lại có một bản nhạc rock vang lên, càng làm game thủ cảm thấy phấn khích và tăng độ hưng phấn để tiêu diệt lũ quỷ. Thay vì tập trung vào cốt truyện, bản Doom này dồn hết tâm huyết vào cơ chế combat đã tai đã mắt. Kết quả là id Software đã tạo ra một tựa game FPS với chế độ chơi chiến dịch có tiết tấu cực nhanh và máu lửa, khiến người chơi cảm giác như mình đang là một “kẻ hủy diệt” vậy. Đây không chỉ là một trong những tựa game có chế độ chơi đơn hoành tráng mà nó còn là bản reboot cực kì thành công. Bioshock (2007) được xem như là người kế nhiệm của System Shock trên tinh thần, và nó đã nhanh chóng trở thành một trong những tựa game được yêu thích nhất trong năm 2007. Game có bối cảnh vào những năm 1960 với nhân vật chính tên là Jack. Sau khi trải qua một tai nạn máy bay thì Jack đã có cơ hội khám phá thành phố Rapture nằm sâu dưới đại dương. Tuy nhiên, cuộc vui chưa được bao lâu thì nó đã nhanh chóng biến thành cơn ác mộng. Bạn sẽ phải đối mặt với những tên dị nhân lảng vảng xung quanh các hành lang và những gã khổng lồ chuyên thu hoạch một loại thuốc có tên là Adam thông qua một đứa bé nhìn khá là đáng sợ. Điều khiến tựa game này khác hẳn so với những trò bắn súng khác là nhờ vào cơ chế tùy biến cao, cho phép bạn tinh chỉnh sao cho phù hợp với phong cách của bản thân nhất. Bạn có thể tận dụng các plasmid sấm sét, lửa để tấn công kẻ địch, hoặc dùng chiêu xâm nhập vào tâm trí kẻ địch để kiểm soát tình hình. Càng chơi thì cốt truyện sẽ càng xuất hiện nhiều yếu tố thú vị, thôi thúc người chơi tiếp tục khám phá những bí ẩn đang nằm chờ phía trước. Môi trường trong game cũng được thiết kế rất chỉn chu, tạo bầu không khí choáng ngợp ngay từ khi bạn bước chân đến thành phố này. Tính đến thời điểm hiện tại thì đây vẫn là một tuyệt tác trong làng game các bạn ạ. Half-Life 2 thì đã quá nổi tiếng luôn rồi. Sau khi ra mắt huyền thoại Half-Life vào năm 1998 thì Valve thừa thắng xông lên với Half-Life 2 (2004). Trong phần này, nhà phát triển đã đầu tư rất nhiều vào khoản biểu cảm khuôn mặt, cơ chế vật lý trong game, và nhất là cốt truyện vô cùng liền mạch. Từ đầu tới cuối game, bạn sẽ có toàn quyền điều khiển nhân vật chính mà không hề có cảnh cutscene làm gián đoạn phần chơi chiến dịch. Game có bối cảnh 20 năm sau phần đầu tiên, lúc này thì Gordon Freemanđược đánh thức và bước vào mtộ thế giới đầy u ám, khi mà con người đang bị lũ Combine thâu tóm. Thế là Gordon lại mặc bộ giáp HEV và cùng hợp tác với Alyx Vance tiêu diệt lũ ngoài hành tinh kia. Gordon sẽ phải làm những nhiệm vụ trải dài từ nội thành ra đến tận bờ biển, sau đó vòng ngược trở về khi quân kháng chiến Lambda bắt đầu đẩy mạnh việc chống lại các mối đe dọa. Có thể nói Half-Life 2 là tựa game tiệm cận của hoàn hảo, và những bản mở rộng sau đó càng làm củng cố thêm vị trí này trong thể loại FPS nói riêng và ngành công nghiệp game nói chung. Halo 3 là một trong những tựa game thành công nhất vào thời điểm ra mắt năm 2007. Nó được rất nhiều fan săn đón, và Bungie đã không làm mọi người thất vọng các bạn ạ. Với câu tagline: “Finish The Fight” (tạm dịch: kết thúc trận chiến), Halo 3 đúng nghĩa là phần gói gọn và kết thúc mạch truyện của bộ 3 đầu tiên. Trong phần này, Master Chief sẽ đối đầu với bọn Covenant lẫn Flood một lần cuối cùng, và thế là Bungie đã tạo ra 9 màn chơi đầy cam go nhưng cũng không kém phần kịch tính và thú vị. Game thủ tỏ ra hứng thú với bản này là vì được sử dụng nhiều loại vũ khí mới, đối đầu với những kẻ địch vô cùng khó xơi, và AI trong game cũng được tinh chỉnh rất công phu. Cách mà kẻ địch, xe cộ, đồng đội, vũ khí, trang bị tương tác với nhau đều được đầu tư rất tỉ mỉ, và đây cũng chính là lý do vì sao fan lại yêu thích series Halo đến thế. Đây cũng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tài hoa của Bungie. Trong khi phần 1 có một số màn chơi hơi nhàm chán, phần 2 có thời lượng ngắn và kết thúc hụt hẫng, thì phần 3 cân bằng hài hòa giữa yếu tố combat và kết thúc đầy thuyết phục. Sau những lần chu du ở những thời điểm trong quá khứ, Call of Duty cuối cùng cũng bước sang bối cảnh chiến tranh hiện đại với phần game Call of Duty 4: Modern Warfare. Trong game, các bạn sẽ theo chân một nhóm binh lính đang cố gắng truy lùng nhà độc tài của vùng Trung Đông AI-Asad và tên tài phiệt người Nga có tên là Zakehev. Những gì xảy ra tiếp theo trong cuộc hành trình chẳng khác gì một chiếc tàu lượn siêu tốc sẽ cuốn bạn đi từ những pha hành động nghẹt thở này đến pha hành động nghẹt thở khác, nhưng đặc biệt phần 4 này vẫn giữ được “câu thần chú” của dòng game Call of Duty đó là không một người lính nào phải xông pha trong đơn độc. Nói chung, phần chơi đơn của Call of Duty 4 đã tạo được ấn tượng rất tốt đối với người chơi. Điều này không những giúp nâng thương hiệu của tựa game này lên một tầm cao hơn, mà còn trở thành một tiêu chuẩn cho các tựa game có phần chơi đơn sau này học hỏi theo.
Bắn súng góc nhìn người thứ nhất
Bắn súng góc nhìn người thứ nhất (First-person shooter, viết tắt FPS) là một thể loại trò chơi điện tử tập trung xung quanh các loại súng và các cuộc chiến dựa trên vũ khí theo góc nhìn người thứ nhất; đó là góc nhìn của người chơi trải nghiệm hành động thông qua mắt của nhân vật chính. Thể loại này chia sẻ các đặc điểm chung với các trò chơi bắn súng khác, từ đó biến nó trở thành trò chơi hành động hàng đầu. Kể từ khi có khái niệm sơ khai của thể loại, đồ hoạ 3D và đồ hoạ giả 3D tiên tiến đã thách thức việc phát triển phần cứng và trò chơi nhiều người chơi đã trở nên bắt buộc. Thể loại game bắn súng góc nhìn thứ nhất đã được bắt nguồn từ Maze War, sự phát triển bắt đầu từ năm 1973 và Spasim năm 1974. Sau đó, và sau những tựa game vui nhộn hơn như MIDI Maze vào năm 1987, thể loại này bắt đầu kết hợp thành một hình thức bạo lực hơn với Wolfenstein 3D năm 1992, được cho là đã tạo ra kiểu mẫu cơ bản của thể loại dựa trên các tựa game tiếp theo.
Thông báo: Tổng khai giảng khoá học online tiếng Anh, Hàn, Hoa, Nhật, tương tác trực tiếp với giáo viên 100%, học phí 360.000đ/tháng, liên hệ: 0902 516 288 cô Mai >> Chi tiết. Rừng sản xuất là rừng tự nhiên gồm rừng tự nhiên và rừng được phục hồi bằng phương pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên. Rừng tự nhiên là rừng có sẵn trong tự nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh tự nhiên hoặc tái sinh có trồng bổ sung. Rừng sản xuất là rừng trồng gồm rừng trồng bằng vốn ngân sách nhà nước, rừng trồng bằng vốn chủ rừng tự đầu tư hoặc có hỗ trợ của nhà nước và các nguồn vốn khác. Rừng trồng là rừng được hình thành do con người trồng mới trên đất chưa có rừng; cải tạo rừng tự nhiên; trồng lại hoặc tái sinh sau khai thác rừng trồng. Bài viết rừng sản xuất tiếng Anh là gì được tổng hợp bởi giáo viên trung tâm tiếng Anh Sài Gòn Vina.
Tái trồng rừng
Tái trồng rừng là việc bổ sung thêm một cách tự nhiên hay cố ý các khu rừng rậm và rừng thừa (sự trồng rừng) mà đã bị làm cho suy kiệt, thường là do việc phá rừng. Tái trồng rừng có thể được sử dụng để điều chỉnh hoặc cải thiện chất lượng cuộc sống con người bằng việc hấp thụ ô nhiễm môi trường và bụi bẩn từ không khí, xây dựng lại sinh cảnh và hệ sinh thái tự nhiên, giảm thiểu hiện tượng ấm lên toàn cầu vì các khu rừng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tách sinh học cacbon dioxide trong không khí, và có thể khai thác gỗ làm tài nguyên, hoặc cũng có thể là lâm sản ngoài gỗ. Một khái niệm tương tự, trồng mới rừng, một dạng khác của trồng rừng, ám chỉ quá trình phục hồi và tái tạo các khu vực rừng thưa hoặc rừng rậm đã tồn tại trước đây nhưng bị tàn phá hoặc bị phá bỏ bằng cách khác vào một tời điểm nào đó trong quá khứ hoặc trống một các tự nhiên (như các đồng cỏ tự nhiên). Đôi lúc thuật ngữ "trồng mới rừng" được sử dụng để phân biệt giữa rừng nguyên sinh và những khu rừng tái sinh của một khu vực.
Gạch sứ hay gạch gốm là gạch làm bằng sứ (porcelain) hoặc gốm (ceramic) thường được dùng để phủ sàn và tường, với tỷ lệ hấp thụ nước ít hơn 0,5 phần trăm. Đất sét được sử dụng để xây dựng gạch sứ nói chung là dày đặc hơn. Nó có thể được tráng men gốm (graze), nên được gọi là gạch men, hoặc không tráng men. Gạch sứ là một loại gạch thủy tinh hóa, và đôi khi được gọi là gạch thủy tinh sứ. Trong lịch sử, sứ không phải là vật liệu thông thường làm gạch, mà nó thường được làm bằng đất nung (đất nung) hoặc đồ gốm sa thạch (stoneware). Những viên gạch sứ đầu tiên được sản xuất tại Trung Quốc, ví dụ như trong Tháp sứ của Nam Kinh thế kỷ 15 (hiện đã bị phá hủy phần lớn). Ở đây, gạch đã được sử dụng cho các bức tường, mà từ lâu vẫn là điển hình. Ở châu Âu, một vài phòng được làm trong các cung điện bằng sứ, thường có hình dạng phù điêu cao. Chúng được làm bằng sứ Capodimonte và Real Fábrica del Buen Retiro trong số những loại sứ khác. Mặc dù sứ hiện đã được sử dụng rộng rãi để làm gạch trong nhiều năm, nhưng phương pháp và số lượng sản xuất hiện đại đã làm cho gạch sứ có sẵn cho các chủ hộ trung bình trong những năm gần đây. Sản xuất gạch sứ quy mô lớn được thực hiện ở nhiều nước, với các nhà sản xuất chính là Trung Quốc, Ý, Morbi Ấn Độ, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra còn có các quốc gia đảm nhận sản xuất quy mô nhỏ, như Úc và tăng trưởng mạnh mẽ ở Brazil. Đánh giá độ mòn của gạch có thể được phân loại từ 0 đến 5 theo thử nghiệm ISO 10545-7 (cũng, theo tiêu chuẩn ASTM C1027) về khả năng chống mài mòn bề mặt của gạch tráng men, và điều này có thể được sử dụng để xác định sự phù hợp cho các điều kiện sử dụng cuối khác nhau. Gồm lớp men phủ trên bề mặt phần xương của viên gạch. Lớp men có thể bóng hoặc mờ, nhám, xù xì, tùy vào thiết kế của nhà sản xuất ứng với từng công dụng của sản phẩm. Gạch men lát sàn có các đặc tính: độ chịu lực cao, độ hút nước thấp, khả năng chống mài mòn, chống trơn phải đạt yêu cầu, theo tiêu chuẩn chất lượng quy định. Các nhà sản xuất khác nhau có các tiêu chuẩn chất lượng cao thấp khác nhau. Gạch men ốp tường thiên về trang trí hơn nên ‎tính chất thẩm mỹ được chú trọng, các tiêu chuẩn kỹ thuật khác không đòi hỏi phải cao như các tiêu chuẩn dành cho gạch men lát sàn. Bề mặt dày, cứng của sứ đã làm cho việc đánh bóng trở thành một sự thay thế khả thi cho bề mặt tráng men. Điều này có nghĩa là một viên ngói có thể được đốt, sau đó đánh bóng cắt vào bề mặt, tạo độ bóng mà không cần tráng men. Sứ cứng hơn nhiều so với gạch gốm thông thường và thường được lựa chọn, mặc dù giá cao hơn, vì tính chất cứng của nó. Sứ có thể được sử dụng trong cả khu vực ẩm ướt và khô như phòng tắm, vòi hoa sen và nhà bếp. Sứ dày hơn và do đó nặng hơn nên phải xử lý nhiều hơn so với gạch gốm khác. Vì lý do này, nó thường đắt hơn. Do cứng hơn, nó khó cắt và khoan hơn và đòi hỏi các công cụ chuyên môn, có thể cản trở việc lắp và tăng chi phí. Sứ đánh bóng có thể cần niêm phong, nơi gạch tráng men thông thường không. Bề mặt tráng men được phủ ít hơn hai micron. Có một số cách để cắt gạch sứ. Các công cụ điện như máy mài góc, máy cắt gạch, dụng cụ cắt gạch, mũi khoan có thể được sử dụng để làm việc này. Tuy nhiên, cách hiệu quả nhất là sử dụng cưa gạch ướt vì tính linh hoạt và khả năng cắt của nó. Xi măng chuyên dụng là cần thiết để lắp đặt gạch sứ, và trong các thông số kỹ thuật của Hoa Kỳ, được thiết lập bởi Hội đồng Ngói của Mỹ và được hỗ trợ bởi Hiệp hội Nhà thầu Ngói. Sứ, dày hơn và nặng hơn gạch men thông thường, cần một chất kết dính mạnh hơn để giữ trọng lượng trên tường. Do đó, chất kết dính trộn sẵn điển hình không được khuyến nghị cho sứ. Khi sứ lần đầu tiên được chế tạo, nó không thấm nước, nhưng quá trình đánh bóng để làm cho bề mặt không tráng men sáng bóng cắt vào bề mặt, khiến nó xốp hơn và dễ bị hấp thụ vết bẩn, giống như gạch đá tự nhiên. Trừ khi họ có cách xử lý phù hợp, lâu dài được áp dụng bởi nhà sản xuất (ví dụ, xử lý công nghệ nano), gạch sứ đánh bóng có thể cần niêm phong. Chất trám sứ là dung môi hoặc gốc nước, rẻ hơn, nhưng không kéo dài. Gạch sứ có thể được thủy tinh hóa để giảm độ xốp và tăng sức mạnh của chúng. Gạch sứ thủy tinh được tạo ra bằng cách kết hợp đất sét với các yếu tố khác như thạch anh, silica hoặc fenspat dưới nhiệt độ cực cao. Quá trình thủy tinh hóa tạo ra gạch sứ có chứa chất nền thủy tinh. Chất nền thủy tinh mang lại cho gạch vẻ ngoài bóng bẩy, cung cấp thêm sức mạnh và làm cho gạch chống nước và chống trầy xước. Gạch sứ được thủy tinh hóa không cần phải được niêm phong lại hoặc tráng men. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Gạch sứ
Gạch sứ hay gạch gốm là gạch làm bằng sứ (porcelain) hoặc gốm (ceramic) thường được dùng để phủ sàn và tường, với tỷ lệ hấp thụ nước ít hơn 0,5 phần trăm. Đất sét được sử dụng để xây dựng gạch sứ nói chung là dày đặc hơn. Nó có thể được tráng men gốm (graze), nên được gọi là gạch men, hoặc không tráng men. Gạch sứ là một loại gạch thủy tinh hóa, và đôi khi được gọi là gạch thủy tinh sứ. Trong lịch sử, sứ không phải là vật liệu thông thường làm gạch, mà nó thường được làm bằng đất nung (đất nung) hoặc đồ gốm sa thạch (stoneware). Những viên gạch sứ đầu tiên được sản xuất tại Trung Quốc, ví dụ như trong Tháp sứ của Nam Kinh thế kỷ 15 (hiện đã bị phá hủy phần lớn). Ở đây, gạch đã được sử dụng cho các bức tường, mà từ lâu vẫn là điển hình. Ở châu Âu, một vài phòng được làm trong các cung điện bằng sứ, thường có hình dạng phù điêu cao. Chúng được làm bằng sứ Capodimonte và Real Fábrica del Buen Retiro trong số những loại sứ khác.
Như vậy, cô là Hoàng hậu Áo và Nữ hoàng Hungary cuối cùng, bên cạnh các danh hiệu khác. Là con thứ mười bảy của Robert I, Công tước Parma và người vợ thứ hai của ông, Infanta Maria Antonia của Bồ Đào Nha, Zita kết hôn với Thái tử Charles của Áo năm 1911. Charles trở thành người thừa kế của Hoàng đế Franz Joseph I của Áo tại Năm 1914 sau vụ ám sát chú của ông, Thái tử Franz Ferdinand của Áo và lên ngôi năm 1916 sau cái chết của hoàng đế. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc vào năm 1918, nhà Habsburg bị phế truất và đế chế tan rã thành bốn quốc gia độc lập là Áo, Hungary, Tiệp Khắc và Nhà nước của người Slovene, người Croatia và người Serb. Charles và Zita rời đi lưu vong ở Thụy Sĩ và sau đó bị quân Đồng minh đưa từ Hungary đến Madeira, nơi Charles qua đời năm 1922. Sau khi chồng bà qua đời, Zita và con trai Otto làm biểu tượng cho sự thống nhất của triều đại bị lưu đày. Là người Công giáo sùng đạo, cô nuôi một gia đình lớn sau khi góa chồng ở tuổi 29 và không bao giờ tái hôn.
Franz Joseph I của Áo
Franz Joseph I Karl - tiếng Đức, I. Ferenc Jozséf theo tiếng Hungary, còn viết là Franz Josef I (18 tháng 8 năm 1830-21 tháng 11 năm 1916) của nhà Habsburg là Hoàng đế Áo (Kaiser), đồng thời là vua Hungary-Croatia và Bohemia từ năm 1848 tới năm 1916. Ông cai trị tới 68 năm, đứng thứ ba trong danh sách các vua chúa trị vì lâu dài nhất châu Âu (sau Louis XIV của Pháp và Johann II xứ Liechtenstein) và lâu hơn Nữ hoàng Victoria của Anh 4 năm. Về thực quyền thì triều đại của Franz Joseph I chỉ ngắn hơn Johann II đương thời, do triều đại Louis XIV có 8 năm đầu Thái hậu phụ chính và 8 năm sau quan lại nắm quyền. Ông lên ngôi sau khi người bác là Hoàng đế Ferdinand I thoái vị trong các cuộc Cách mạng năm 1848 tại Đế quốc Áo. Vị tân Hoàng đế đã trực tiếp chỉ huy quân đội đàn áp phong trào Cách mạng Hungary (1848), và giành thắng lợi nhờ sự hỗ trợ của Đế quốc Nga. Chính sách đối ngoại của ông trở nên thảm họa cho nước Áo: năm 1859, ông bị liên quân Pháp - Sardinia đánh bại trong trận Solferino.
Sinh học tế bào là phân ngành của sinh học nghiên cứu đơn vị cơ bản của sự sống, tế bào . Nó đề cập đến tất cả các khía cạnh của tế bào bao gồm giải phẫu tế bào, phân chia tế bào (nguyên phân và meiosis ), và các quá trình tế bào bao gồm hô hấp tế bào và chết tế bào . Sinh học tế bào không đứng riêng như một ngành học mà có liên quan chặt chẽ đến các lĩnh vực sinh học khác như di truyền học , sinh học phân tử và hóa sinh. Như tên gọi của nó, sinh học tế bào đề cập đến việc nghiên cứu tế bào, đơn vị cơ bản của sự sống. Có hai loại tế bào: tế bào nhân sơ và tế bào nhân thực. Sinh vật nhân sơ không có nhân xác định trong khi sinh vật nhân thực thì có. Việc phát minh ra kính hiển vi đóng vai trò quan trọng trong khả năng nghiên cứu tế bào của các nhà khoa học. Một số con đường sự nghiệp, chẳng hạn như một nhà nghiên cứu lâm sàng, một bác sĩ y khoa hoặc một nhà dược học được mở cho những người đã nghiên cứu sinh học tế bào. Nhiều phát triển quan trọng đã diễn ra trong sinh học tế bào. Từ mô tả của Hooke về một tế bào nút chai vào năm 1655 đến những tiến bộ của tế bào gốc đa năng gây ra, sinh học tế bào tiếp tục thu hút các nhà khoa học. Dựa trên một trong những nguyên lý cơ bản của sinh học , lý thuyết tế bào , việc nghiên cứu tế bào sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự phát minh ra kính hiển vi . Với những kính hiển vi tiên tiến ngày nay, chẳng hạn như Kính hiển vi điện tử quét và Kính hiển vi điện tử truyền qua, các nhà sinh học tế bào có thể thu được những hình ảnh chi tiết nhỏ nhất của cấu trúc tế bào và bào quan . Tất cả các cơ thể sống đều được cấu tạo bởi các tế bào . Một số sinh vật bao gồm các tế bào có số lượng hàng nghìn tỷ. Có hai loại tế bào sơ cấp: tế bào nhân thực và tế bào nhân sơ. Tế bào nhân thực có nhân xác định, trong khi nhân tế bào nhân sơ không xác định hoặc chứa trong màng. Trong khi tất cả các sinh vật đều được cấu tạo từ các tế bào, các tế bào này khác nhau giữa các sinh vật. Một số đặc điểm khác biệt này bao gồm cấu trúc tế bào, kích thước, hình dạng và nội dung bào quan . Ví dụ: tế bào động vật , tế bào vi khuẩn và tế bào thực vậtcó những điểm tương đồng, nhưng chúng cũng khác biệt đáng kể. Tế bào có nhiều phương thức sinh sản khác nhau. Một số phương pháp này bao gồm: phân hạch nhị phân, nguyên phân và meiosis . Tế bào chứa vật liệu di truyền sinh vật ( DNA ), cung cấp các chỉ dẫn cho tất cả các hoạt động của tế bào. Chuyển động của tế bào là cần thiết để một số chức năng của tế bào xảy ra. Một số chức năng này bao gồm phân chia tế bào, xác định hình dạng tế bào, chống lại các tác nhân lây nhiễm và sửa chữa mô . Chuyển động bên trong tế bào là cần thiết để vận chuyển các chất ra vào tế bào, cũng như di chuyển các bào quan trong quá trình phân chia tế bào. Nghiên cứu trong lĩnh vực sinh học tế bào có thể dẫn đến nhiều con đường sự nghiệp khác nhau. Nhiều nhà sinh học tế bào là những nhà khoa học nghiên cứu làm việc trong các phòng thí nghiệm công nghiệp hoặc học thuật. Các cơ hội khác bao gồm:. Đã có một số sự kiện quan trọng trong suốt lịch sử đã dẫn đến sự phát triển của lĩnh vực sinh học tế bào như ngày nay. Dưới đây là một số sự kiện chính sau:. 1831 - Robert Brown là người đầu tiên xác định nhân là một thành phần quan trọng của tế bào . 2006 - Tế bào da chuột trưởng thành được tái lập trình thành tế bào gốc đa năng cảm ứng (iPS). 2010 - Tế bào thần kinh , cơ tim và tế bào máu được tạo ra trực tiếp từ các tế bào trưởng thành được lập trình lại. Cơ thể con người có vô số loại tế bào khác nhau . Các tế bào này khác nhau về cấu trúc và chức năng và phù hợp với các vai trò mà chúng thực hiện trong cơ thể. Ví dụ về các tế bào trong cơ thể bao gồm: tế bào gốc , tế bào sinh dục , tế bào máu , tế bào mỡ và tế bào ung thư . Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Sinh học tế bào
Sinh học tế bào hay Tế bào học là một lĩnh vực của Sinh học, chuyên nghiên cứu các đặc điểm và hoạt động sống ở cấp độ tế bào. Khái niệm này dịch từ thật ngữ tiếng Anh cytology (phiên âm IPA: /sī-ˈtä-lə-jē/). Thuật ngữ này là từ ghép chữ "cyto" (là tế bào) và "logy" (môn khoa học).Sinh học tế bào liên quan đến các tính chất sinh lý, quá trình trao đổi chất, đường dẫn tín hiệu, vòng đời, thành phần hóa học và tương tác của tế bào với môi trường của chúng. Điều này được thực hiện cả trên kính hiển vi và phân tử mức độ vì nó bao gồm các tế bào nhân sơ và tế bào nhân chuẩn. Biết các thành phần của tế bào và cách thức các tế bào hoạt động là nền tảng cho tất cả các ngành khoa học sinh học; nó cũng rất cần thiết cho nghiên cứu trong các lĩnh vực y tế sinh học như ung thư và các bệnh khác. Nghiên cứu về sinh học tế bào liên quan chặt chẽ đến di truyền học, hóa sinh, sinh học phân tử, miễn dịch học và cytochemistry.