text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn (giữa), Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Anh Nguyễn Hoàng Long (trái) và lãnh đạo tập đoàn AstraZeneca tại buổi lễ ký kết - Ảnh: AstraZeneca Việt Nam. Tập đoàn AstraZeneca vừa công bố khoản đầu tư mới lên đến 50 triệu USD (1.200 tỷ VNĐ) vào Việt Nam, trong khuôn khổ chương trình toàn cầu mang tên AZ Forest. Tính đến cuối năm 2022, chương trình này đã trồng được hơn 10,5 triệu cây xanh trên toàn thế giới. Buổi lễ công bố đầu tư diễn ra ngày 5/5 tại Thủ đô London, Vương quốc Anh với sự tham dự của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, Đại sứ Việt Nam tại Vương Quốc Anh Nguyễn Hoàng Long; cùng các lãnh đạo toàn cầu và khu vực của tập đoàn AstraZeneca. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn chia sẻ, khoản đầu tư được AstraZeneca công bố hôm nay sẽ góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị Thượng đỉnh COP26 về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Chính phủ Việt Nam. Chương trình AZ Forest cũng sẽ đóng góp vào Đề án trồng một tỷ cây xanh đến năm 2025 trong khuôn khổ Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam. Bộ trưởng đánh giá cao sự hợp tác chặt chẽ và xuyên suốt của tập đoàn AstraZeneca, không chỉ nhằm góp phần cải thiện sức khỏe của người dân Việt Nam mà còn đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển bền vững. Ông Nitin Kapoor, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc AstraZeneca Việt Nam và Các thị trường mới nổi khu vực châu Á, cho biết: “Nối tiếp nội dung trao đổi giữa Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Tổng Giám đốc Tập đoàn AstraZeneca Pascal Soriot, tại Hà Nội vào tháng 5 năm ngoái, chúng tôi rất vui mừng được công bố chương trình này và một lần nữa khẳng định cam kết lâu dài của AstraZeneca đối với Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy rằng sức khỏe của con người có mối liên hệ sâu sắc với sức khỏe của Trái Đất, và tin rằng chương trình này sẽ mang lại lợi ích đáng kể cho cả nền kinh tế, cộng đồng địa phương và môi trường trong 30 năm tới”. Khoản đầu tư 50 triệu USD nói trên sẽ được sử dụng cho nông lâm kết hợp, bao gồm sản xuất gỗ, quả và hạt, tinh dầu và nhựa cây một cách bền vững; tăng năng suất nông nghiệp thông qua xen canh; và phát triển chuỗi giá trị thị trường một cách bền vững. Công bố đầu tư mới này tiếp nối khoản đầu tư 310 triệu USD của AstraZeneca vào Việt Nam từ năm 2020 đến năm 2030 nhằm giảm gánh nặng bệnh tật, tăng cường hệ thống y tế, nâng cao năng lực sản xuất và nghiên cứu dược phẩm sinh học trong nước, đồng thời phát triển nhân tài. Chương trình AZ Forest là cam kết của AstraZeneca trong việc trồng và duy trì hơn 50 triệu cây xanh đến cuối năm 2050, thông qua hợp tác với các chuyên gia và cộng đồng địa phương. Các dự án của chương trình AZ Forest mang lại lợi ích cho sức khỏe của hành tinh và con người, với các đồng lợi ích về kinh tế-xã hội và bổ trợ cho Tham vọng không carbon – chiến lược hướng tới phát thải ròng bằng 0 dựa trên cơ sở khoa học của AstraZeneca. Tại Việt nam, Chương trình AZ Forest hưởng ứng Đề án trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025 và Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 của Chính phủ Việt Nam. Trong 5 năm tới, dự kiến 22,5 triệu cây xanh sẽ được trồng trên hơn 30.500 ha đất để phục hồi rừng và cảnh quan tại Việt Nam, tạo điều kiện phát triển đa dạng sinh học và bổ sung nguồn sinh kế bền vững cho hơn 17.000 hộ nông dân. Việc tái trồng rừng sẽ được thiết kế nhằm tối đa hóa các đồng lợi ích như: Đa dạng sinh học trên quy mô lớn; cải thiện thực phẩm và dinh dưỡng cho cộng đồng địa phương; bảo tồn đất và nước; tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm thiểu rủi ro của thiên tai và cô lập khí carbon.
AstraZeneca đầu tư 50 triệu USD nhằm phục hồi rừng và cảnh quan tại Việt Nam
750
Năm 1888, Đà Nẵng trở thành nhượng địa của Pháp, với cái tên Tourane. Ngày ấy đến nay tròn 135 năm. Đã có những đổi thay to lớn và kỳ diệu của thành phố biển bên sông Hàn … Di tích lịch sử cấp quốc gia nằm trên đỉnh đèo Hải Vân, nơi tiếp giáp giữa tỉnh Thừa Thiên Huế với thành phố Đà Nẵng. Ảnh: CHÁNH LÂM. 1. Mười năm sau, toàn quyền Paul Doumer lần đầu đến Tourane theo đường bộ, vượt qua đèo Hải Vân bằng cáng và ngựa. Đó là một đường đèo quyến rũ, kỳ vĩ và mạnh mẽ có một không hai của một kiệt tác do thiên nhiên tạo ra. “Rồi khung cảnh tự nhiên đó sẽ chìm vào lãng quên giống như con đường mòn bậc thang của xứ Trung kỳ…”, Doumer tiên đoán bởi con đường sắt xuyên Đông Dương đã được nghiên cứu và thi công từ năm 1899 đến những năm đầu thế kỷ XX mà chính vị toàn quyền này đã đứng ra vay đến 200 triệu Franc từ chính phủ Pháp. Từ những năm 1897 đến 1902, Paul Doumer đi qua đèo Hải Vân để đến Tourane và mê say cảnh đẹp ở đây. Đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống vịnh Đà Nẵng, sau khi vượt qua những đám mây mù trên đỉnh đèo, ông viết: “Mọi thứ trở nên rõ ràng trước mắt. Đà Nẵng xuất hiện thật đắm say. Không có một cảnh thần tiên nào ở Địa Trung Hải mà vừa đẹp mắt lại vừa lớn lao đên vậy. Ta lấy vịnh đẹp nhất ở Pháp là Villfranche… để làm ví dụ, phải lấy diện tích ở đó mà nhân lên 10-20 lần và lấy các diện tích và độ cao của các dãy núi tại vịnh đó mà nhân lên 100 lần, ta mới có được Đà Nẵng được nhìn thấy từ đèo Hải Vân với vịnh và đồng bằng từ ở độ cao 500m. Khung cảnh ấy đủ khiến những ai muốn khám phá phải đi từ Pháp đến Viễn Đông để thưởng thức sự vật quyến rũ và kỳ thú…”. Đọc đến đây, người viết cứ nghĩ các nhà chức trách về du lịch chỉ cần lấy câu ấy của vị toàn quyền sau là Tổng thống Pháp mà khắc lên đá, đặt ở đỉnh đèo hướng về Đà Nẵng ngày nay thôi cũng đủ thu hút nhiều du khách. Cảnh vật giờ cũng đẹp hơn nhiều lần, có cả chất liệu văn chương của Paul Doumer từ sách của ông, sao ta chưa khai thác? Nhất là nay, Hải Vân Quan – Thiên hạ đệ nhất hùng quan đang được khôi phục lại để lưu dấu lịch sử và quảng bá du lịch? 135 năm sau, hầm đường bộ qua đèo Hải Vân đã mở ra những đại lộ nối liền Hành lang kinh tế Đông Tây để phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa, nhưng con đường qua đèo cùng những di tích lịch sử từng được khắc họa vào văn học này mãi mãi sẽ là một di tích có một không hai để lưu dấu cho đời sau và đến bốn phương… Đến đây, người viết lại cũng không quên những dòng thơ hào sảng của Lê Thánh Tôn trong bài thơ “Hải Vân hải môn lữ thứ”: (Đồng Long vằng vặc trăng nằm/ Con thuyền Lộ Hạc canh năm dập dềnh – Nguyễn Thiếu Dũng dịch). Lại nhớ đến nhà thơ Khương Hữu Dụng với trường ca “Từ đêm mười chín” với những câu tuyệt bút viết ở đèo Hải Vân: 2. Đà Nẵng, ngoài Hải Vân đệ nhất hùng quan ấy, sau 135 năm vẫn còn nguyên các di tích, thắng cảnh bán đảo Sơn Trà , Ngũ Hành Sơn , núi Bà Nà , những con sông tuyệt đẹp gắn liền với lịch sử như Cu Đê, Cổ Cò, sông Hàn, sông Cẩm Lệ và những bãi biển đẹp nhất hành tinh nối liền nhau từ Hải Vân, Nam Ô, Xuân Thiều, Tiên Sa, Mỹ Khê, Non Nước từng được các tạp chí du lịch và cơ quan quốc tế bình chọn là những bãi biển đẹp nhất hành tinh. Nói đến biển là nhớ đến những năm chiến tranh với những rào gai thép rào sát mép nước để bảo vệ những đồn bót, những căn cứ quân sự của quân đội Mỹ, nhớ lại những bãi tắm Xuân Thiều được coi như bãi đổ quân đầu tiên vào Việt Nam và trước đó là những tàu chiến của quân đội Pháp, Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng vào những năm 1858-1860 với đồi hài cốt còn lại phía chân núi như một chứng tích chống ngoại xâm của ông cha ta. Nhưng đó là câu chuyện khác. Giờ đôi khi nhắc lại các địa danh ấy là nói đến những bãi biển sầm uất, những con sông thơ mộng với hàng chục các khu du lịch, sân golf, khu nghỉ dưỡng luôn đầy ắp du khách. Nguồn thu từ du lịch ngày càng chiếm tỷ trọng cao của nền kinh tế xanh mà Đà Nẵng đang hướng tới. Đó cũng chính là nguồn lực tạo ra từ hòa bình. Hòa bình đã tạo ra những giá trị mới, giá trị tăng thêm trên việc khai thác các tiền đề của thiên nhiên và lịch sử. Suy nghĩ một cách chín chắn để thấy hết các giá trị đó. Bảo vệ Sơn Trà, Bà Nà hay các dòng sông, bãi biển không bị tàn phá, không bị ô nhiễm còn đòi hỏi cả những nhà làm quản lý, nhà đầu tư và mọi người cần hướng tới việc bảo vệ Đà Nẵng theo các tiêu chí xanh là sợi chỉ xuyên suốt của lịch sử Đà Nẵng. Việc nuôi cấy các rạn san hô quanh bán đảo Sơn Trà, việc gắn thêm những công cụ an toàn cho bầy voọc sinh hoạt trong rừng tự nhiên trên bán đảo, cùng các loài đặc hữu khác và cả chăm lo đời sống cho nhân viên các đội cứu hộ trên bãi tắm ven biển, chẳng những không phải là những công việc nhỏ mà cần được ưu tiên khuyến khích như một nỗ lực hướng đến cuộc sống nhân văn, hướng đến mục tiêu “thành phố đáng sống” như một khẩu hiệu, một thương hiệu… Mới đây, tôi đọc cuốn “Lịch sử đô thị hiện đại” của nhà khoa học Shane Ewen (Dân Trí, 2016), tác giả đã nhấn mạnh về văn hóa đô thị và tính hiện đại rằng: “Cư dân đô thị vốn phụ thuộc vào nhiều người xung quanh hơn trong các tương tác thường nhật của họ” (trang 187) và “thực trạng môi trường từ quá trình đô thị hóa mau chóng ở các quốc gia đang phát triển vẫn ảm đạm…”. Điều này càng cho thấy các chính quyền đô thị đang đối diện với nhiều áp lực để làm thế nào phát triển đô thị đi đôi với bảo tồn các giá trị lịch sử, văn hóa. Điều này khiến ta càng suy nghĩ!
Đà Nẵng 135 năm sau… – Tác giả: Trương Điện Thắng
1,172
Sau 17 năm, nhiều dự án quy hoạch chi tiết đang được triển khai trên địa bàn Đông Hà nhưng quá trình thực hiện gặp nhiều bất cập, không phù hợp với tình hình chung phát triển kinh tế xã hội của Thành phố… Thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Chiều ngày 5/5/2023, UBND tỉnh Quảng Trị đã tổ chức phiên họp toàn thể để thông qua đồ án điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đông Hà đến năm 2045. Thành phố Đông Hà được lập quy hoạch chung từ những năm 1990 và gần đây nhất, năm 2006 đã điều chỉnh quy hoạch chung thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đến năm 2020. Hiện nay, thành phố này có 9 phường với diện tích tự nhiên là 73,0853 km2, dân số 100.156 người, là đô thị nằm trên các tuyến giao thông huyết mạch và Hành lang kinh tế Đông – Tây. Sau 17 năm, nhiều dự án quy hoạch chi tiết đang được triển khai trên địa bàn thành phố nhưng quá trình thực hiện gặp nhiều bất cập, không phù hợp với tình hình chung phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Tại Hội nghị báo cáo quy hoạch Đông Hà đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 mới đây, nhiều ý kiến tư vấn của các chuyên gia đã chỉ ra, điểm nhấn là hoạch định chiến lược và không gian đô thị để xây dựng Đông Hà trở thành một trung tâm phát triển kinh tế của vùng Bắc Trung bộ, là trung tâm chính trị, văn hóa, dịch vụ, thương mại, tài chính, du lịch, công nghiệp của tỉnh; trở thành một trong những đô thị động lực trên tuyến Hành lang kinh tế Đông – Tây. Đông Hà đang hướng tới thành phố đô thị loại 2, đô thị xanh và thông minh. Để đạt được mục tiêu này, Thành phố đang thúc đẩy phát triển kinh tế với các dự án đột phá, thu hút lao động tay nghề cao, đáp ứng các tiêu chuẩn của một đô thị loại 2. Chính vì vậy, Đông Hà cần một quy hoạch chung có thể đưa ra tầm nhìn chiến lược mang tính toàn diện và một chương trình phát triển cụ thể theo từng giai đoạn. Phát biểu tại phiên họp, ông Nguyễn Chiến Thắng, Bí thư Thành ủy Đông Hà, cho rằng trong quá trình lập quy hoạch, các ngành, đơn vị đã nghiên cứu kỹ Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đông Hà đến năm 2045 với 6 phân khu và mở rộng không gian thành phố. Vì vậy cần lưu ý, khi đô thị phát triển thì không gian đô thị phát triển nên đề nghị UBND tỉnh có định hướng và ưu tiên đầu tư phát triển các vùng đô thị lân cận để sớm lan tỏa không gian đô thị rộng lớn. Ông Võ Văn Hưng, Chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Hưng khẳng định, đây là quy hoạch quan trọng làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý sử dụng đất đai, lập các đồ án quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, triển khai các chương trình phát triển và các dự án đầu tư, cần tiếp tục cập nhật, bổ sung, hoàn thiện đồ án theo hướng cập nhật bản đồ hiện trạng, bản đồ quy hoạch và giao sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp sở Xây dựng tiếp tục tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn thiện đồ án, trình Bộ Xây dựng thống nhất sớm. Tại hội nghị các thành viên UBND tỉnh đã bỏ phiếu thống nhất thông qua Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đông Hà đến năm 2045.
Thông qua Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Đông Hà
623
Sự chậm rãi trong tác phẩm văn học là thế nào? Người viết ai không muốn tác phẩm của mình đi nhanh? Ở đây tôi muốn đề cập đến sự diễn tiến chậm chạp của một phong cách sáng tác mà chỉ có lòng kiên nhẫn và tài năng mới làm nổi. “Đi tìm thời gian đã mất” là bộ tiểu thuyết nổi tiếng của Marcel Proust, thậm chí nhiều người coi nó là bộ tiểu thuyết lớn nhất thế kỉ XX nhưng bản thân tôi ít nể phục số chữ của Marcel Proust hay trí nhớ tuyệt vời của ông mà ngưỡng mộ sự chậm rãi, kiên nhẫn gần như tuyệt đối của nhà văn nhiều hơn. Suốt sáu tập sách, Marcel Proust đã kể rất tỉ mỉ câu chuyện ký ức của mình với nhiều sự việc, nhân vật với lòng kiên nhẫn vô biên. Ông hầu như không bỏ qua một hành động nhỏ nào trong hành trình tìm lại ký ức của mình và không cảm thấy sốt ruột. Dòng ý thức miên man suốt bộ sách dài và rõ ràng người viết không vội gì cả. Câu chuyện diễn chậm chạp, người đọc phấp phỏng chờ đợi những bước ngoặt mới nhưng nhà văn thì bình thản như không; không vội vàng, không cần những chấn động hoặc gấp gáp, câu chữ như một dòng sông phẳng lặng chảy khoan thai. Bìa tiểu thuyết “Chiến trường vinh quang” và bìa tiểu thuyết “Đi tìm thời gian đã mất”. Nhưng mặc dù rất buồn ngủ và mỏi mệt người ta vẫn phải công nhận rằng làm được như Marcel Proust không phải dễ, ngoài việc đóng góp về mặt thể loại – văn chương dòng ý thức thì Marcel Proust đã tạo ra một kiệt tác vô song và sự nhẫn nại của người viết là điều rất đáng kể. Tôi nhìn nhận sự nhẫn nại này với tư cách một đồng nghiệp và kính phục sự kiên trì của Marcel Proust. Thông thường người viết luôn có xu hướng tạo ra các bước ngoặt, các cú chấn động trong tác phẩm của mình. Anh ta thường muốn câu chuyện diễn ra nhanh, tốc độ. Người viết không muốn độc giả buồn ngủ khi rơi vào một dòng sông nhàm chán đơn điệu. Những nhà làm phim Hollywood là những người chống lại sự đơn điệu rất giỏi, họ nghiên cứu và biết rằng cứ khoảng tám phút người ta sẽ rơi vào trạng thái buồn ngủ nếu không có một hành động (action) mới được tạo dựng. Vì thế phim Hollywood nói chung thường có diễn biến rất nhanh, nhân vật hầu như không bao giờ được nghỉ và người xem bị cuốn theo mạch của phim. Người ta gọi kiểu phim ăn khách của Hollywood là “phim hành động” (action film). Hành động liên tục là đặc trưng và triết lí cơ bản của kiểu phim mang tính giải trí cao. Những người viết truyện thông thường, kể cả không biết đến thủ thuật của Hollywood thì vẫn hiểu rằng tác phẩm của anh ta cần những tình huống bước ngoặt, những cú rung chấn để câu chuyện hấp dẫn và giữ chân được độc giả. Nhưng Marcel Proust trong “Đi tìm thời gian đã mất” và nhiều đồng nghiệp của ông đã không làm thế. Italo Calvino trong “Đêm đông có một người lữ khách” cũng đã từng làm tương tự; cả cuốn tiểu thuyết của tác giả lừng danh người Ý là sự “lừng khừng” không chịu tiến thêm một bước nào cả, bất cứ đoạn nào trong cuốn sách cũng giống như đoạn mở đầu, nhà văn cố ý để cho mạch truyện luôn giậm chân tại chỗ. Nó không định đi tiếp hay chuẩn bị đến đỉnh điểm và kết thúc. Nó chống lại quy luật thông thường của một câu chuyện là có khởi đầu, chuẩn bị, mâu thuẫn, cao trào và kết thúc. Nhà văn đã tự chịu đựng mình một cách có chủ ý và đó cũng là sự kiên nhẫn tuyệt vời của người viết. Lưu ý rằng với Italo Calvino ngoài bộ ba “Tổ tiên của chúng ta” thì “Đêm đông có một người lữ khách” được đánh giá là cuốn sách lớn và rất đặc biệt của văn hào người Ý. Gần đây tôi có đọc cuốn “Chiến trường vinh quang” của Jean Rouaud, giải Goncourt năm 1990 và cũng thấy vậy. Nhà văn kể một câu chuyện chậm chạp và dềnh dàng, quanh đi quẩn lại, mấy chục trang sách là giọng đều đều, êm ả, rủ rỉ. Người viết không vội và cũng không có những đoạn bùng nổ hoặc chuẩn bị cho điều ấy. Câu chuyện thiếu đi một sự kích thích cố ý, tác giả nhẩn nha kể một câu chuyện hồi ức kiểu của Marcel Proust và không có gì cần phải khẩn trương cả … Thiên tài người Áo, Kafka cũng thích sự chậm rãi này trong cuốn “Lâu đài “của ông. Một câu chuyện loanh quanh và tù túng với hàng trăm trang sách mà không vấn đề nào được xử lý dứt điểm. Người đạc điền tìm cách tiếp cận “lâu đài” và giải quyết những vấn đề của mình nhưng anh ta đã bất lực, câu chuyện vòng vo và không đi đến đâu. Kafka đã tạo ra những tình huống lặp lại, quanh quẩn và không bao giờ chấm dứt, thậm chí chúng còn báo hiệu cho một thời kì xã hội đình trệ, quan liêu, đầy rẫy những thủ tục hành chính. Sự chậm rãi hoặc trì hoãn các câu chuyện của các nhà văn kể trên là hoàn toàn có chủ ý. Họ cố tình tạo ra một câu chuyện như vậy, một cách kể hầu như không đầu không cuối, điều có lẽ không còn phù hợp với một thời đại ưa sự nhanh chóng và dứt khoát. Trong khi cuộc sống xã hội phóng đi như bay thì một số người viết vẫn trong tâm trạng và tư thế “Trong khi chờ đợi Godot”, diễn tả một sự chờ đợi không hợp thời và phi lí. Điều này có phải mâu thuẫn khi những tác phẩm kể trên được coi là kinh điển và khác thường. Về mặt nào đó, ví dụ xét đến thể loại và gu thẩm mĩ, người ta vẫn công nhận đóng góp hoặc ưa thích sự chậm chạp; nhưng cơ bản sự dềnh dàng chậm rãi đang trở thành thứ rất khó tiêu hóa với đa số người đọc hiện đại. Với các nhà văn Việt, tôi hầu như chưa nhìn thấy hiện tượng chậm rãi cố ý như vậy. Các tác phẩm cơ bản đều diễn tiến nhanh, gấp gáp, có nút thắt, nút mở. Có thể người viết không ưa sự chậm chạp hoặc lo lắng độc giả sẽ buồn chán khi dõi theo câu chuyện. Viết chậm một cách cố ý không những thách thức độc giả mà thậm chí thách thức chính người viết. Ta sẽ hiểu rõ điều này nếu lưu ý và so sánh đến môn thể thao đi xe đạp chậm. Đi xe đạp chậm thậm chí còn khó hơn đi xe đạp nhanh rất nhiều! Sự lựa chọn này mang tính chủ quan và tùy thuộc vào phong cách của mỗi cá nhân. Tất nhiên nhà văn có thể chọn phong cách bất kì nhưng người đọc có thích kiểu đó hay không hoặc đánh giá thế nào lại là một chuyện khác. Ngay cả với chính Marcel Proust, thực tế rất ít người đủ kiên nhẫn để đọc hết bộ “Đi tìm thời gian đã mất” của ông. Họ nói rằng: “Đời quá ngắn còn Proust thì lại quá dài”, và tôi nhấn mạnh thêm: ông còn quá chậm nữa! Với những tác phẩm lê thê, tỉ mẩn kiểu này, thời gian thích hợp nhất đọc sách là khi ta phải nằm trong bệnh viện để điều trị dài ngày! Hoặc vào buổi tối, khi người ta cần phải làm một việc gì đó để cưỡng bức cơn buồn ngủ đến mau hơn! Rõ ràng chậm rãi là một sự lựa chọn khó khăn và cũng đầy thách thức!
Chậm rãi – Tác giả: Uông Triều
1,370
Nhiệt độ bề mặt đại dương đang ở mức cao kỷ lục. Xu hướng nhiệt bắt đầu tăng vào giữa tháng 3 và tăng vọt trong tháng 4 đã khiến các nhà khoa học phải nhanh chóng đi tìm lý do đằng sau hiện tượng này. Đại dương ấm lên có thể tẩy trắng san hô. Ảnh: CNN. Theo đài truyền hình CNN, mặc dù nhiệt độ hiện tại đã giảm so với mức cao nhất vào tháng 4 song vẫn đang cao hơn mức chưa từng được ghi nhận vào thời điểm này trong năm. “Thật đáng chú ý. Mặc dù đây vẫn là dữ liệu sơ bộ, nhưng nếu nó phản ánh đúng thực tế, đó sẽ là một cột mốc quan trọng”, Gregory C. Johnson, nhà hải dương học tại Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia ( Mỹ ), cho hay. Vị chuyên gia cho biết vẫn chưa xác định được nguyên nhân nhiệt độ tăng nhanh chóng. Một số nhà khoa học lo ngại quy mô của những kỷ lục mới này có thể đánh dấu sự khởi đầu của một xu hướng đáng báo động, trong khi một số người khác lại cho rằng nhiệt độ phá kỷ lục luôn đáng lo ngại song thế giới cũng đã dự đoán trước được phần nào cuộc khủng hoảng khí hậu do con người gây ra. Tuy nhiên, tất cả các bên đều đồng ý rằng hậu quả mà xu hướng này gây ra sẽ rất nghiêm trọng. Hiện tượng các đại dương ấm lên có thể tẩy trắng san hô (hiện tượng polyp san hô đẩy các tảo sống trong mô của chúng ra khỏi cơ thể), giết chết sinh vật biển, làm tăng mực nước biển dâng và làm cho đại dương kém hiệu quả hơn trong việc hấp thụ các khí làm hành tinh nóng lên. Một nguyên nhân chính khiến đại dương ấm lên được cho là do hiện tượng El Nino , một biến động khí hậu tự nhiên liên quan đến tình trạng ấm lên ở vùng nhiệt đới trung tâm và phía Đông Thái Bình Dương, có tác động làm nóng toàn cầu. Các nhà khoa học cho biết kể từ khi hiện tượng La Ninã kết thúc vào tháng 3 vừa qua sau 3 năm, nhiệt độ đại dương đang tăng trở lại rất nhiều ngay cả trước thời điểm El Nino xuất hiện. Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) ngày 3/5 cho biết khoảng 80% khả năng hiện tượng El Ninõ sẽ hình thành từ tháng 7 đến tháng 9. Năm 2022 là năm thứ 4 liên tiếp ghi nhận mức độ nóng kỷ lục ở các đại dương. Một nghiên cứu được công bố vào tháng 4 cho thấy sức nóng trong hệ thống khí hậu đang gia tăng, báo hiệu tin xấu cho các đại dương. Nghiên cứu chỉ ra rằng tốc độ thay đổi lượng nhiệt mà Trái Đất tích lũy đã tăng hơn gấp đôi trong hai thập kỷ qua và phần lớn lượng nhiệt đó đang đi vào đại dương. Karina von Schuckmann, nhà hải dương học tại Mercator Ocean International ở Pháp đồng thời là đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết: “Cần phải hiểu điều này thực sự cấp bách bởi vì nếu nó là một xu hướng kéo dài thì điều này thực sự rất đáng lo ngại”. Các nhà khoa học cảnh báo các kỷ lục sẽ tiếp tục bị xô đổ khi khủng hoảng khí hậu gia tăng. “Tôi hy vọng đây là một hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả mọi người trên toàn cầu. Hiện tượng nóng lên mà chúng ta đang chứng kiến sẽ không dừng lại cho đến khi chúng ta đưa lượng khí thải của mình trở lại mức 0”, Matthew England, Giáo sư về động lực học đại dương và khí hậu tại Đại học New South Wales (Australia), kết luận.
Nhiệt độ đại dương cao kỷ lục, giới khoa học ráo riết đi tìm câu trả lời
650
Theo thông báo cập nhật của Chính phủ Canada, hàng nghìn người đã buộc phải sơ tán do các đám cháy rừng tại miền Tây nước này bùng phát trong bối cảnh nhiệt độ cao bất thường, vượt 10 độ C so với nền nhiệt trung bình vào đầu tháng 5. Kết quả khảo sát mới nhất cho thấy miền Tây và miền Trung Canada , nơi tập trung phần lớn diện tích đất nông nghiệp của đất nước, đang tron đợt khô hạn bất thường và thậm chí hạn hán nghiêm trọng tại nhiều nơi. Ngày 5/5, tỉnh Alberta, khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cháy rừng, đã ghi nhận hơn 70 đám cháy hoành hành, trong đó một số vượt tầm kiểm soát. Giới chức cho biết khoảng 13.000 cư dân đã được yêu cầu sơ tán. Trọng tâm chính là Hồ Fox, ở phía Bắc của tỉnh, nơi các đám cháy lan rộng trên gần 1.500 ha và thiêu rụi một cộng đồng cư dân nhỏ gồm khoảng 20 ngôi nhà. Trong khi đó, chính quyền tỉnh British Columbia ra tuyên bố cho biết tỉnh ven biển Thái Bình Dương này chịu ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Một số đám cháy đang bùng phát trong đất liền trong khi phía Nam của tỉnh “lâm nguy” khi nhiệt độ ấm bất thường khiến tuyết tan nhanh làm mực nước sông dâng cao, gây vỡ bờ và lũ lụt nghiêm trọng ở một số khu vực. Giới chức sở tại dự báo mưa lớn vào cuối tuần này có thể khiến tình hình trở nên trầm trọng hơn. Mực nước sông có khả năng dâng lên cao nhất trong các ngày 6-8/5, gây ngập lụt trên diện rộng. Những năm gần đây, miền Tây Canada liên tục chịu ảnh hưởng thời tiết cực đoan xảy ra với tần suất dày hơn cùng cường độ mạnh hơn trước các tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu. Ngoài lũ lụt tồi tệ, cách đây 2 năm, tỉnh British Columbia còn trải qua hiện tượng “vòm nhiệt” gây nắng nóng lịch sử, cướp đi sinh mạng của hàng trăm người và kéo theo đó là các vụ hỏa hoạn lớn.
Hàng nghìn người phải sơ tán do cháy rừng tại Canada
367
Họa sĩ Quách Đại Hải. Họa sĩ Quách Đại Hải với cánh trẻ chúng tôi thật dễ gần. Tôi gặp ông lần đầu cách đây cũng đã gần ba mươi năm. Tôi khi ấy đang là binh bét lính xe tăng, bất ngờ được về dự trại viết văn quân đội còn như nằm mơ. Còn hơn cả nằm mơ khi đích thân Đại tá Khuất Quang Thụy tới trường xe làm việc với Ban giám hiệu để tôi có gần một tháng trời văn chương thơ phú cùng các đa đề Lê Lựu, Nguyễn Trí Huân, Vương Trọng, Nguyễn Bảo, Lê Thành Nghị, Nguyễn Đức Mậu, Chu Lai… Cánh trại viên ngày ấy cũng thuộc hàng khủng: Nguyễn Hữu Quý, Sương Nguyệt Minh, Lò Cao Nhum, Mạnh Lê, Tô Hoàn… tôi vừa trẻ nhất trại vừa ngốc nghếch văn chương đã lọt thỏm cơ chừng mất hút nên đôi lúc rất tự ti. Đã thế, các chị đẹp Như Bình, Trần Thanh Hà toàn được trại trưởng Lê Lựu khen viết hay càng khiến tôi rón rén sợ sệt, nghĩ chắc mình là kẻ toi cơm chứ văn viếc gì. May sao, từ giây phút đầu tiên tới buổi cuối cùng, người chăm sóc và động viên tôi nhiều nhất lại là một ông họa sĩ còm rom rí rách cái gì cũng biết. Đó chính là họa sĩ Quách Đại Hải, người có hàng chục năm trình bày mỹ thuật những số Văn nghệ quân đội lừng danh. Hôm tập trung lên xe tại sân nhà số 4, xe chuẩn bị chuyển bánh mọi người cứ dớn dác tìm kiếm ai đó. Tiếng một nữ nhà văn (sau này tôi mới biết là Nguyễn Thị Như Trang) bực dọc: “Đúng giờ thì xuất phát thôi, chắc lại say khớt cò bợ ở đâu rồi? Lần nào cũng bắt mọi người phải đợi, thật chẳng ra thể thống gì cả”. Tôi không hiểu chuyện gì chỉ biết ngồi im. Nhà văn Lê Lựu mướt mồ hôi gãi mớ tóc xoăn lẩm bẩm: “Để tôi, để tôi…”. Cứ thế ông đi như chạy về phía góc đường nơi rùm ròa quán sá kéo sềnh sệch một vị gầy nhách khuôn mặt tý toáy như Tôn Ngộ Không tay vẫn đang cầm chiếc chén hoa hồng dốc dốc thứ gì đó vào miệng, chân đi đôi dép cọc cạch rất tức cười. Tôi thấy nữ nhà văn bĩu môi quay ngoắt lên trên mặc kệ Lê Lựu gần như phải bế kẻ đồng hành để xe chuyển bánh. Xe còn chưa kịp đóng cửa, Lê Lựu vừa lơi mắt, đã tót cái vị kia rời nhanh khỏi xe miệng nói với vào bên trong: “Anh chị đợi tôi tý. Tôi trả bà chủ quán cái chén”. Rồi nhanh như sóc, mọi người chưa kịp hết bực mình đã thấy ông còm rom ngồi tót nơi bậc cửa lên xuống chiếc xe nhà binh phì phèo thuốc lá véo von hát sẩm: “Bèo dạt… mây trôi… chốn xa xôi… em ơi… em hãy đợi… anh về…”. Các nhà văn Quân đội tại cơ quan số 4 Lý Nam Đế sau 1975. Trên xe, mọi người dường như không ai dám dây với ông gầy nhách đang véo von ca hát. Ngay cả bác lái xe mang quân hàm đại úy cũng không dám nhắc nhở gì. Cũng may ngày đó đường chật, người đông nên xe chạy rất chậm, mọi thứ vì thế an toàn cả. Khi xe đến Hải Dương bị tắc ở đầu cầu Phú Lương. Thoắt cái đã không thấy ông gầy đâu. Ai cũng khát lử lả không buồn trò chuyện. Bỗng tiếng hát lại cất lên: “Ta là con của bố ta mẹ ta… nhớ nhà thì ta cứ ta về… ta không cần ba lô không cần ô tô không cần xích lô… ta đi theo lối nhỏ là lối an toàn…”. Lúc này, chừng như không chịu nổi, nữ nhà văn nổi đóa: “Có thôi ngay đi không. Mọi người nhức đầu muốn chết đây…”. Thì kỳ lạ chưa, ông gầy đã nhanh tay khuân ở đâu về một túi to bánh mỳ và nước mát. Ngày đó, lúc đó còn hơn buồn ngủ gặp chiếu manh. Cứ thế thoăn thoắt, ông mau chóng phát cho mỗi người một chiếc bánh mỳ và một chai nước lạnh khiến mặt ai cũng tươi tỉnh hẳn. Đến chỗ nữ nhà văn, ông gầy hai tay cung kính dâng vật phẩm miệng tươi cười duyên dáng: “Tại hạ cung thỉnh nương nương dùng ngự thiện à!” khiến nữ nhà văn cũng phải phì cười. Không khí trên xe từ bấy giờ thay đổi hẳn. Cùng lúc đường hết tắc, gió trên cầu Phú Lương lồng lộng. Được chút đồ lót dạ lại thêm nước mát, ai nấy đều có vẻ phởn phơ. Bấy giờ Lê Lựu từ phía cuối xe mới nói vóng lên: “Xin kính mời quản ca Quách tiên sinh cầm càng hát quốc ca”. Lập tức, ông gầy trịnh trọng tiến ra giữa xe, nhấc bừa chiếc mũ trên chiếc đầu hói của Nguyễn Đức Mậu khẽ ngả ra phía trước làm động tác cúi chào như diễn xiếc rồi đột ngột hất mặt lên trần xe cất giọng nghiêm trang: “Quốc ca! Bắt đầu!… Đoàn quân Việt Nam đi… thôi thì thế thế…”. Vừa hát cả xe cười sằng sặc cái sự táo gan dám chế tác cả quốc ca mà kẻ đầu trò là nhị vị Quách Đại Hải và Lê Lựu. Điều đó sau này tôi mới biết. Các nhà văn tại trại viết Đồ Sơn năm 1995. Trong trại viết đó, tôi mới thấy hết sự ân cần, chăm chút của ông với anh em, nhất là với binh bét tôi. Trong bữa ăn, bao giờ ông cũng súy ngồi cùng bàn với tôi, chăm bẵm như người cha chăm sóc đứa con. Ông ăn ít lắm, chỉ uống là chính. Mỗi khi ăn phở, ông thường dõng dạc tuyên bố: “Khôn ăn cái dại ăn nước. Cả đời tớ dại tớ bèn chỉ húp nước cho đúng với bản chất của mình”. Các trại viên sau vài ngày dường như đã quen với cung cách hài hước ngộ nghĩnh của ông. Các bợm nhậu Lò Cao Nhum, Phùng Kim Trọng, Phan Tùng Lưu… chừng vẻ rất khoái ông anh đã lấp ló ở đâu chai rượu nút lá chuối. Ông anh típ mắt, nhanh như sóc xoay lưng về phía nữ nhà văn đưa ngay chai kề miệng tợp liên hồi. Còn chút rượu đáy chai, dường như không để phí lộc giời, trước cặp mắt thán phục của các bợm nhậu, ông lập tức dốc nốt xuống bát phở đã nguội ngắt từ lâu xì xụp húp. Trong trại viết ấy, tôi được ông chăm sóc tận tình, văn viết chả đến đâu nhưng trọng lượng tăng thêm gần bốn ký. Toàn bộ ảnh chụp anh em trại viết đều do ông tặng. Năm 1996, mỗi bức ảnh trị giá bằng nửa tháng phụ cấp binh bét của tôi. Họa sĩ Quách Đại Hải không chỉ đảm đương toàn bộ phần mỹ thuật của Văn nghệ quân đội một thời gian dài mà ông tham gia viết văn, viết báo, dựng kịch bản phim, thiết kế bối cảnh trường quay cũng rất thần tình. Sau trại viết, tôi về Truyền hình quân đội luôn rất biết ơn ông. Ngày đó, Truyền hình quân đội hàng tháng có chuyên mục giới thiệu Văn nghệ quân đội trên sóng. Trưởng ban biên tập Chi Phan giao cho tôi thực hiện mục này. Tôi từ 84 Lý Thường Kiệt sang nhà số 4 Lý Nam Đế để lấy bản bông thường được họa sĩ Quách Đại Hải cung cấp và tư vấn nội dung. Dưới con mắt họa sĩ giàu hình ảnh, ông đã nói vanh vách nội dung các truyện ngắn, bài thơ, lý luận phê bình khiến tôi kinh ngạc. Ông còn nói Nguyễn Minh Châu là thế này, Nguyễn Khải thế kia, Xuân Sách thâm trầm, Hồ Phương trịnh trọng… cứ như từ điển sống. Rồi cũng chính ông tham vấn và giúp đỡ tận tình tôi thực hiện các phim tài liệu chân dung về các họa sĩ Văn Đa, Mai Văn Hiến, Quang Thọ, Huy Oánh… Tôi trưởng thành được về nghề văn bút truyền hình cũng là nhờ nhiều bậc thầy trong đó có họa sĩ Quách Đại Hải. Họa sĩ Quách Đại Hải là người từng khuyên tôi sớm trở về ngôi nhà số 4. Ông bảo tôi thuộc nòi kiếp văn chương thì phải về đó để kéo cày. Khi tôi về đó cũng là thời khắc ông cùng các bậc đa đề Lê Lựu, Chu Lai, Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu… nghỉ hưu. Rồi công việc cuốn chúng tôi đi. Cũng lâu lâu, không thấy cái dáng còm rom rí rách của ông thấp thoáng dưới gốc cây đại nữa. Trong giới mỹ thuật, họa sĩ Quách Đại Hải là một cái tên dường như còn khiêm tốn, song trong cuộc sống đời thường, ông luôn biết tạo niềm vui cho mọi người. Điều này lớp trẻ chúng tôi rất cần phải học ông. Xin được tạm kết bài viết bằng một đoạn văn của chính ông với tiêu đề Những năm tháng ấy : “Ai quên chứ tôi thì chẳng quên mùa hè 1990, cơ quan cho tất cả đại gia đình gồm dâu, rể, con, cháu đi nghỉ mát một tuần ở Sầm Sơn. Lão “Giang Minh Sài” thật tình sốt sắng “nhặt được” ở đâu một con xe “thương binh nặng” chở tất tật năm mươi người, lúc vào xứ Thanh thì không có chuyện gì. Các chị, các cháu được ngồi ghế còn mấy ông văn thơ cùng họa sĩ rúc xuống cuối xe hò hát, kể chuyện tiếu lâm làm cả xe cười vui quên đi cái nóng trong mùi dầu ma dút và những cú xóc bạt mông. Rồi đến biển mới thật sướng, các cháu lần đầu tiên thả sức vẫy vùng cùng sóng xanh, bận nhất là ông Nghị, bà Phi, con mới ba tuổi phải mang bếp dầu từ Hà Nội vào để nấu cháo. Ông Huân, bà Trâm khá hơn nhưng cũng hú hồn hú vía chạy suốt bờ cát tìm con. Xúc động nhất là bí thư mới của Thanh Hóa – Lê Huy Ngọ – nghe tin có đoàn nhà văn Văn nghệ quân đội vào, lập tức đáp xe từ thị xã xuống thăm và không quên kèm theo mấy “quả bom Tha Đa”. Lúc đi thì thuận thế, lúc về thì ôi thôi, qua “mấy ngày ra biển”, anh “thương binh nặng” bắt đầu giở trò, hơn một trăm cây số anh ta lăn ra chết lâm sàng tới ba lần. Có lần tới hơn hai giờ dưới cái nắng hè xứ Thanh hầm hập, những gia đình có cháu bé đành bỏ xe chạy lấy người, mạnh ai bắt xe ngoài. Anh trụ lại được thì tìm bãi cỏ bụi cây cố gắng nằm, ngồi chờ mặt trời chiếu đến đâu thì trốn đến đấy… rồi đêm khuya cũng ì ạch về tới Hà Nội. Đúng là một chuyến xe bão táp, một chuyến đi nhớ đời”. Họa sĩ Quách Đại Hải là thế đấy. Mà thấm thoắt đã mây bay…
Họa sĩ Quách Đại Hải, thấm thoắt đã mây bay – Tác giả: Nhà văn Phùng Văn Khai
1,874
Sau nhiều ngày tìm kiếm, lực lượng cứu hộ Cộng hòa Dân chủ Congo đã tìm thấy 227 thi thể – phần lớn là những người đang ngủ ngoài trời hoặc đang ở trong các trường học và bệnh viện khi lũ quét qua. Người dân di chuyển bằng thuyền trên đường phố ngập lụt do mưa lớn tại Kinshasa (Cộng hòa Dân chủ Congo). (Ảnh: AFP/TTXVN). Số người thiệt mạng trong các trận lũ quét tại miền Đông Cộng hòa Dân chủ Congo đã tăng gấp ba lần, lên khoảng 200 người, sau khi lực lượng cứu hộ tìm thấy thêm nhiều thi thể bị chôn vùi trong bùn đất. Thông tin từ Thống đốc tỉnh Nam Kivu, ông Théo Ngwabidje Kasi, cho biết mưa lớn gây lũ lụt tại các làng Chabondo, Bushushu và Nyamukubi ở tỉnh này. Sau nhiều ngày tìm kiếm, đã có 227 thi thể được tìm thấy. Phần lớn là những người đang ngủ ngoài trời hoặc đang ở trong các trường học và bệnh viện khi lũ quét qua. Hiện hoạt động tìm kiếm vẫn đang được tiếp tục tại những khu vực bị ảnh hưởng. Trong khi đó, hàng chục người bị thương đang phải điều trị tại bệnh viện trong tình trạng không có đủ thuốc men và nguồn lực vật tư. Trước đó, trong ngày 4/5, những cơn mưa xối xả đã trút xuống tỉnh Nam Kivu, miền Đông Congo, gây ra lũ lụt nghiêm trọng./.
Lũ lụt ở Cộng hòa Dân chủ Congo: Số người thiệt mạng đã tăng gấp ba
238
Tối 6/5, tại Quảng trường 7/5 ( thành phố Điện Biên Phủ , tỉnh Điện Biên ), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đã tổ chức chương trình nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 69 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2023) với chủ đề ‘Bản hùng ca Điện Biên’. Hoạt cảnh về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chương trình nghệ thuật được dàn dựng công phu, ấn tượng với sự tham gia biểu diễn của gần 100 diễn viên, ca sĩ của tỉnh Điện Biên. Chương trình gồm hai phần: Ký ức hào hùng và Điện Biên ngày mới với những ca khúc đi cùng năm tháng như: Hò kéo pháo, Qua miền Tây Tắc, Trên đồi Him lam, Giải phóng Điện Biên, Điện Biên vang mãi bản hùng ca… Một tiết mục tại chương trình. Nội dung xuyên suốt của chương trình thể hiện tầm vóc của Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Đó là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phản ánh bước trưởng thành hết sức quan trọng của các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong đà lớn mạnh của toàn dân, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” gắn liền với vai trò, trí tuệ và bản lĩnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh của chiến dịch. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã trở thành mốc son chói lọi, chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp, mở ra những nấc thang mới của lịch sử dân tộc, tiến tới thống nhất nước nhà. Một tiết mục tại chương trình. Bên cạnh đó, với ý nghĩa “Điện Biên ngày mới”, nội dung các tác phẩm với ý nghĩa Điện Biên trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Chiến trường xưa giờ là một thành phố trẻ đang trên đà đổi mới, đi lên. Trên nền hầm hào ngang dọc, lô cốt, nay là cánh đồng lớn nhất vùng Tây Bắc với bốn mùa ngạt ngào hương lúa, rực rỡ sắc hoa… Gác lại quá khứ, Điện Biên vươn mình, bay cao bay xa. Điện Biên là vùng đất đang hừng hực nhịp sống xanh tươi cùng sức sống bản mường, đang tô vẽ thêm những nét hoa văn tinh túy của đất trời Tây Bắc để Điện Biên mãi tỏa sắc non ngàn. Một tiết mục tại chương trình. Chương trình đã mang lại cho người xem những phút giây ý nghĩa. Đây cũng là dịp để ôn lại truyền thống lịch sử cách mạng, khơi dậy niềm tự hào, đặc biệt là để tưởng nhớ, tri ân những anh hùng liệt sỹ đã anh dũng hi sinh trên mảnh đất này. Thông qua chương trình nhằm tuyên truyền giáo dục về truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khẳng định ý nghĩa tầm vóc, giá trị lịch sử vĩ đại của Chiến thắng Điện Biên Phủ .
‘Bản hùng ca Điện Biên’ – Chương trình nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 69 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ
509
Thủ tướng cho rằng quy hoạch đô thị của Hà Nội cần được triển khai tốt, vừa hiện đại vừa bản sắc, mở rộng không gian phát triển, phát huy tiềm năng và thế mạnh của thành phố. Tại cuộc làm việc của Thủ tướng Phạm Minh Chính với Thường trực Thành ủy Hà Nội sáng 6/5, nhiều nội dung liên quan đến việc đầu tư các dự án giao thông, đường sắt đô thị được lãnh đạo Thành ủy, HĐND và UBND thành phố đặt ra. Bên cạnh những đề xuất chung về dự án vành đai 4, Chủ tịch UBND Hà Nội Trần Sỹ Thanh đưa thêm 7 kiến nghị cụ thể với Chính phủ về các tuyến đường sắt đô thị. Theo ông Thanh, ngoài tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông đang khai thác, tuyến Nhổn – ga Hà Nội đang thi công, Hà Nội còn 7 tuyến (số 1, 2, 4, 5, 6, 7, 8) chưa được triển khai. Trên cơ sở đó, thành phố kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng quyết định cụ thể về chủ trương đầu tư, nguồn vốn, cho ý kiến về chủ trương đầu tư nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thủ tục, đầu tư xây dựng các dự án trên. Riêng với dự án Nhổn – ga Hà Nội, thành phố kiến nghị lãnh đạo Chính phủ xem xét phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư trong tháng 5 và cho phép UBND thành phố được thực hiện thanh toán từ nguồn vốn ứng trước của ngân sách thành phố. Việc này nhằm giải ngân thanh toán cho các nhà thầu, tư vấn của dự án trong thời gian hoàn chỉnh các thủ tục phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh dự án và gia hạn các khoản vay ODA của dự án. Bộ trưởng các bộ: Tài chính, Tư pháp, Xây dựng, GTVT nêu các nội dung, kiến nghị để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của Hà Nội trên nhiều lĩnh vực. Ảnh: VGP. Liên quan vấn đề giao thông và phát triển kết cấu hạ tầng của Hà Nội, Bộ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thắng cho biết thời gian qua, Trung ương và thành phố đã ưu tiên tập trung đầu tư phát triển hạ tầng giao thông như vành đai 1, vành đai 2 cùng nhiều công trình khác. Cùng với đó, Trung ương quan tâm và đã đầu tư, hoàn thành 6 cao tốc như: Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội – Bắc Giang, Hà Nội – Hải Phòng… “Đây cũng là yếu tố để giúp Hà Nội tăng cường kết nối với các tỉnh, thành phố trong khu vực, giảm ùn tắc giao thông, góp phần phát triển kinh tế cho thủ đô cũng như các địa phương khác”, ông Thắng nhìn nhận. Liên quan đến các kiến nghị của Hà Nội về dự án PPP, cơ chế đặc thù đối với dự án đường vành đai 4, tuyến đường sắt đô thị số 6, phát triển nhà ở xã hội… Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết cơ quan này sẽ bàn bạc với các bộ ngành liên quan để giải quyết, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn. Ông Phớc cũng bày tỏ quan tâm đến việc thúc đẩy phát triển kinh tế của thành phố và đề nghị Hà Nội tập trung ưu tiên mọi nguồn lực để tháo gỡ cho doanh nghiệp, đặc biệt đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong khi đó, Bộ trưởng Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị cho rằng về công tác quy hoạch, Hà Nội cần tiếp tục tăng cường quan tâm về quy hoạch chung trong xây dựng và lãnh đạo thành phố cần chỉ đạo sớm hoàn thành nhiệm vụ này. Đồng thời, Hà Nội cũng nên rà soát lại quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết để có điều chỉnh bổ sung phù hợp, đảm bảo tính khả thi. Liên quan đến dự án đường sắt đô thị Nhổn – Ga Hà Nội với tiến độ hiện đạt hơn 60%, Bộ trưởng Bộ Xây dựng cho rằng thành phố cần hoàn thành thủ tục về việc chấp thuận các hạng mục công trình phòng cháy chữa cháy, thủ tục đăng kiểm, sớm đẩy nhanh công tác tuyển dụng đào tạo nhân sự… Phát biểu kết luận tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản đồng tình với các kiến nghị của Hà Nội liên quan đến việc đầu tư xây dựng vành đai 4, các dự án đường sắt đô thị, phát triển nhà ở, đất đai… Thủ tướng nhấn mạnh 3 nguyên tắc giải quyết các kiến nghị này đó là: Bộ trưởng trực tiếp giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền; các bộ phối hợp với Hà Nội đề xuất những việc thuộc thẩm quyền của Chính phủ; bảo đảm khả thi, hiệu quả, đúng hạn, kịp thời. Trong đó, Hà Nội được yêu cầu rà soát, thống kê các công việc đang vướng mắc, báo cáo Thủ tướng trước ngày 15/5. Với các dự án đường sắt đô thị, Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư xử lý các vướng mắc liên quan tới dự án; Bộ Tài chính xử lý các vướng mắc về vốn; Bộ Giao thông Vận tải xử lý các vướng mắc liên quan tới hướng tuyến. Các công việc trên cần được hoàn thành trong quý II/2023. Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị. Ảnh: VGP. Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu lãnh đạo Hà Nội tiếp tục chủ động nắm bắt tình hình, không để bị động, bất ngờ; nâng cao khả năng dự báo những tác động, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế thành phố; phản ứng chính sách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả. Cùng với đó, thành phố cần khẩn trương hoàn thành lập Quy hoạch thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng thủ đô đến năm 2045 và tầm nhìn đến năm 2065. Quy hoạch đô thị cần được triển khai tốt, vừa hiện đại và bản sắc, mở rộng không gian phát triển, phát huy tiềm năng, thế mạnh của thành phố. Người đứng đầu Chính phủ cũng yêu cầu Hà Nội thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ đạo về tháo gỡ khó khăn, phát triển thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp; triển khai các nhiệm vụ, giải pháp về miễn, giảm, thuế, phí lệ, phí, tiền thuê đất… theo thẩm quyền. Trong bối cảnh lạm phát trên cả nước vẫn được kiểm soát và giảm dần theo các tháng, Hà Nội cần ưu tiên hơn cho mục tiêu tăng trưởng, tập trung thúc đẩy 3 động lực tăng trưởng chính (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu), tăng cả cung và cầu. Cùng với đó, Thủ tướng yêu cầu thành phố tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Hà Nội cũng cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp để thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân; chú trọng đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, giải quyết ngay những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong thẩm quyền.
Thủ tướng: Quy hoạch đô thị Hà Nội cần vừa hiện đại, vừa bản sắc
1,244
Ngày 7/5/1954, người chiến sỹ gốc Thái Bình xông vào hầm địch, bắt sống tướng de Castries (Đờ Cát-xtơ-ri), thành dấu mốc quan trọng trong chiến thắng Điện Biên Phủ. 1. Tổng chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ là ai? Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp bàn, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm tư lệnh chỉ huy chiến dịch. Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000 người. Cả nước tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. 261.451 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn hướng về Điện Biên để bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch. 2. Phương châm tác chiến của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ là gì? Ngày 25/1/1954, các đơn vị bộ đội ta đã ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đưa ra quyết định: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”. Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa, nay lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. 3. Chiến dịch Điện Biên Phủ chia thành mấy giai đoạn? Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 1 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh. Đại tá Pirốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát. Giai đoạn 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Địch hết sức ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Tướng Na – va hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1, ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ. Giai đoạn 3: Từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 6/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. 17h30 ngày 7/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát-xtơ-ri cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh. 4. Người chiến sĩ nào anh dũng lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến dịch Điên Biên Phủ? Phan Đình Giót sinh năm 1922 huyện Cẩm Xuyên , Hà Tĩnh . Mùa đông năm 1953, anh cùng đơn vị nhận lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiều 13/3/1954, quân ta nổ súng tiêu diệt cứ địa đồi Him Lam. Cả trận địa rung chuyển mù mịt sau nhiều loạt pháo. Các chiến sĩ đại đội 58 lao lên mở đường, liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín và bị thương ở đùi, nhưng vẫn xung phong đánh quả tiếp theo. Quân Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa ta, đồng đội bị thương rất nhiều. Phan Đình Giót đã lao lên đánh liên tiếp hai quả nữa phá toang hàng rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh sập lô cốt đầu cầu. Anh bị thương ở vai và đùi, máu chảy rất nhiều. Khi địch ném hỏa lực ồ ạt vào quân ta, Phan Đình Giót dùng hết sức nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai và hét to: “Quyết hy sinh vì Đảng, vì dân”, rồi dướn người lấy đà lao cả tấm ngực thanh xuân vào bịt kín lỗ châu mai địch. Hỏa điểm lợi hại nhất của quân Pháp bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Phan Đình Giót hy sinh lúc 22h30 ngày 13/3/1954 ở tuổi 34. 5. Ai là người bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ? Tạ Quốc Luật sinh năm 1925, quê Thái Bình. Ông tham gia phong trào thanh niên phản đế tại địa phương và gia nhập cứu quốc quân từ khi Cách mạng tháng Tám thành công. Năm 1947, ông là trung đội trưởng của Tiểu đoàn 151, tham gia nhiều trận đánh ở các tỉnh Bắc Cạn, Yên Bái, Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Tạ Quốc Luật chỉ huy đại đội lập nhiều chiến công xuất sắc, trong đó có chiến công bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri cùng Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chiều 7/5/1954. Trong hồi ký về những tháng ngày lịch sử, Tạ Quốc Luật viết: “Khi chúng tôi vượt qua cầu Mường Thanh thì gặp một tên lính ngụy. Tôi hỏi tên này: Hầm Đờ Cát-xtơ-ri ở đâu? Hắn chưa hết run và chỉ vào căn hầm có nhiều cột ăng-ten nhỏ ở trên nóc. Tôi liền chỉ huy tổ của mình áp sát khu vực hầm và phân công đồng chí Nhỏ dùng thủ pháo ném vào cửa hầm uy hiếp. Số sĩ quan Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm tỏ ra rất mệt mỏi và lo âu. Riêng Đờ Cát-xtơ-ri vẫn đội mũ ca-lô và ngồi cúi mặt xuống bàn. Khi đến gần, tôi hô lớn tiếng Pháp: “Giơ tay lên!”. Sau đó, Đờ Cát-xtơ-ri cầm máy điện thoại ra lệnh cho toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ đầu hàng. Lúc đó là 17h30 ngày 7/5/1954”. Trong cuốn hồi ký Điện Biên Phủ – Điểm hẹn lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng xác nhận, Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật đã bắt được tướng Đờ Cát-xtơ-ri. 6. Chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài bao nhiêu ngày đêm? Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch. 7. Sau khi bị bắt, người được giao nhiệm vụ hỏi cung tướng Đờ Cát-xtơ-ri là ai? Trong cuốn sách Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ viết, Thượng tướng Hoàng Cầm – trong chiến dịch Điện Biên Phủ là Trung đoàn trưởng trung đoàn 209, đại đoàn 312, đã kể lại câu chuyện buổi chiều 7/5/1954 lịch sử. Theo đó, ngay khi bị bắt sống, tướng De Castries được quân ta áp giải về chỉ huy sở của trung đoàn. Đồng chí Trần Quân Lập, Chính ủy trung đoàn hỏi nó bằng tiếng Pháp: – Đơn vị của anh ở Hồng Cúm hàng chưa? – Tôi bị đứt liên lạc với Hồng Cúm – Anh đã báo cáo với Hà Nội thế nào? – Tôi đã báo cáo cho tướng Cogni là Điện Biên thất thủ rồi, tuyệt vọng hoàn toàn. – Trước kia anh có viết truyền đơn thách chúng tôi phải không? – Mong ông hiểu cho, Hà Nội làm việc đó chứ không phải tôi. 8. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và ký hiệp định nào với ta? Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là trận quyết chiến chiến lược, là trận đánh lừng lẫy năm châu “chấn động địa cầu”, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (ngày 8/5/1954) về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc sau này. Sau hội nghị Giơ-ne-vơ, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Ai là người bắt sống tướng De Castries ở chiến dịch Điện Biên Phủ?
1,751
Nhiệt độ bề mặt đại dương đang cao ở mức kỷ lục. Nhiệt độ bắt đầu tăng vào giữa tháng 3 và tăng vọt trong tháng 4 khiến các nhà khoa học phải gấp rút tìm ra lý do vì sao xảy ra hiện tượng này. Mặc dù nhiệt độ hiện tại đã giảm so với mức cao nhất vào tháng 4 nhưng vẫn đang cao hơn mức chưa từng được ghi nhận vào cùng thời điểm này trong năm. “Thật đáng chú ý. Mặc dù vẫn là dữ liệu sơ bộ nhưng đây là một cột mốc quan trọng”, Gregory C. Johnson, nhà hải dương học tại Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia ( Mỹ ) cho biết. “Với mức nhiệt này đủ để làm ấm một khối lượng nước khổng lồ. Đó là một nguồn năng lượng lớn”, Matthew England, Giáo sư về động lực học đại dương và khí hậu tại Đại học New South Wales ( Úc ) nói. Một thợ lặn quan sát các rạn san hô của Quần đảo Society ở Polynesia thuộc Pháp, nơi xảy ra hiện tượng tẩy trắng lớn ở san hô – Ảnh: Getty Images. Ông Gregory cho biết vẫn chưa xác định được nguyên nhân nhiệt độ tăng nhanh chóng song một số nhà khoa học lại ngại những kỷ lục mới có thể đánh dấu sự khởi đầu của một xu hướng đáng báo động. Nhiều người khác lại cho rằng nhiệt độ phá kỷ lục luôn đáng lo ngại song thế giới cũng đã dự đoán trước được phần nào cuộc khủng hoảng khí hậu do con người gây ra. Song tất cả đều đồng ý rằng hậu quả của xu hướng này là rất đáng lo ngại. Các đại dương ấm lên có thể tẩy trắng san hô, giết chết sinh vật biển, làm tăng mực nước biển dâng và làm cho đại dương kém hiệu quả hơn trong việc hấp thụ các khí ô nhiễm làm hành tinh nóng lên. Một nguyên nhân chính gây ra hiện tượng đại dương ấm lên là do hiện tượng El Nino, một biến động khí hậu tự nhiên có liên quan đến sự nóng lên ở vùng nhiệt đới trung tâm và phía Đông Thái Bình Dương, có tác động làm nóng toàn cầu. Từ khi hiện tượng La Nina kéo dài 3 năm kết thúc vào tháng 3 vừa qua, nhiệt độ đại dương đang tăng trở lại rất nhiều ngay cả trước thời điểm hiện tượng El Nino xuất hiện. Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) ngày 3.5 cho biết khoảng 80% khả năng hiện tượng El Nino sẽ hình thành từ tháng 7 – tháng 9. Nhưng một điều khiến các nhà khoa học lo ngại là nhiệt độ đã tăng lên rất nhiều trước khi hiện tượng này đến. Một số người lo ngại điều này cho thấy biến đổi khí hậu có thể đang tiến triển theo cách mà các mô hình khí hậu chưa dự đoán được. Năm 2022 là năm thứ 4 liên tiếp ghi nhận mức độ nóng kỷ lục ở các đại dương. Một nghiên cứu được công bố vào tháng 4 cho thấy sức nóng trong hệ thống khí hậu đang gia tăng, báo hiệu tin xấu cho các đại dương. Nghiên cứu này đã phát hiện ra rằng tốc độ thay đổi lượng nhiệt mà Trái đất tích lũy đã tăng hơn gấp đôi trong hai thập kỷ qua và phần lớn lượng nhiệt đó đã hấp thụ vào đại dương. Karina von Schuckmann, nhà hải dương học tại Mercator Ocean International ( Pháp ) và là đồng tác giả của nghiên cứu cho biết: “Việc hiểu rõ điều này là rất cần thiết bởi nếu nó là một phần của xu hướng dài hạn thì điều này thực sự rất đáng lo ngại”.
Nhiệt độ đại dương đang tăng cao ở mức báo động
630
69 năm trước đây, từ ngày 13/3 – 7/5/1954, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tiến hành trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng ‘lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu’, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị tổ chức cuộc họp để nghe Tổng Quân ủy báo cáo và duyệt lần cuối kế hoạch tác chiến Đông – Xuân 1953 – 1954, đồng thời quyết định mở Chiến dịch Điện Biên phủ với quyết tâm tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm này. Ảnh: Tư liệu TTXVN. Thắng lợi đó được bắt nguồn từ truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc ta, từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và ý chí quyết chiến, quyết thắng vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch đã giáng đòn quyết định đập tan ý chí xâm lược của các thế lực thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Geneve, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Không chỉ là ngọn cờ cổ vũ các dân tộc thuộc địa trên thế giới đấu tranh giành lại độc lập, tự do, chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam; của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta: đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, biết đánh và biết thắng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; của liên minh đoàn kết chiến đấu thủy chung Việt Nam, Lào, Campuchia. Trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã mở nhiều chiến dịch lớn, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được động viên và phát huy. Đến chiến dịch Điện Biên Phủ, sức mạnh đó đã được phát huy ở mức cao nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh. Với cách đánh “đánh chắc, tiến chắc”, quân ta thực hiện “vây lấn” Tập đoàn cứ điểm từ ngoài vào trong, lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Ảnh: Tư liệu TTXVN. Phối hợp với Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, quân và dân ta ở khắp các địa phương trên cả nước, từ Tây Bắc, Liên khu III, Tả Ngạn, đến Bình – Trị – Thiên, Liên khu V, Nam Bộ… đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân, buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó. Bên cạnh đó, các lực lượng thanh niên, phụ nữ khắp mọi miền đất nước đều tích cực tham gia các hoạt động đấu tranh chính trị, “phá tề trừ gian”, binh, địch vận…, phối hợp với Điện Biên Phủ. Trận quyết chiến Điện Biên Phủ diễn ra ở địa hình rừng núi hiểm trở, xa hậu phương, có nhiều đèo cao, vực sâu, mạng lưới giao thông chiến lược hầu như chưa có. Trong khi đó, miền Tây Bắc vừa được giải phóng, kinh tế còn chậm phát triển, đời sống của đồng bào còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Chính vì vậy, để bảo đảm một khối lượng lớn vật chất hậu cần, kỹ thuật cho một chiến dịch lớn chưa từng có và diễn ra dài ngày là điều cực kỳ khó khăn, đòi hỏi phải phát huy cao độ bản lĩnh và trí tuệ của cả dân tộc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của cả hậu phương và tiền tuyến nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời mọi yêu cầu của bộ đội trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch. Với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, tính chung trong chiến dịch, nhân dân ta đã “đóng góp 25.560 tấn gạo, 226 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt dân công, 20.991 xe đạp thô, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và 3.130 chiếc thuyền” (Theo “Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (1944 – 1954)”). Đại tướng Võ Nguyên Giáp quan sát trận địa lần cuối cùng trước khi phát lệnh nổ súng mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: Tư liệu TTXVN. Ở nhiều nơi do địch đánh phá không làm kịp, để có lương thực kịp thời nuôi bộ đội, đồng bào đồng ý giao cả những rẫy lúa, nương ngô cho các đơn vị tự thu hoạch rồi sau ghi số lại. Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn giã gạo vào cả ban đêm cho bộ đội, điều mà trước đó theo phong tục lâu đời rất kiêng kỵ. Chỉ có sự tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào Bác Hồ, đồng bào mới sẵn sàng đóng góp cho chiến dịch như vậy. Đó là một nỗ lực phi thường thể hiện bản lĩnh của một dân tộc, một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, đang phải tiến hành cuộc kháng chiến cứu nước trường kỳ đầy gian khổ, hy sinh. Truyền thống đoàn kết dân tộc, tư tưởng đại đoàn kết trong thời đại Hồ Chí Minh đã được phát huy mạnh mẽ, thể hiện tinh thần cả nước đồng lòng, toàn dân đánh giặc. Bên cạnh tinh thần đại đoàn kết và những đóng góp sức người, sức của to lớn cho chiến dịch Điện Biên Phủ, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam còn được thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn thể dân tộc, đặc biệt là các chiến sĩ xung kích ngoài mặt trận, trực tiếp chiến đấu với quân thù. Bộ đội ta xông lên đánh chiếm cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, chiều 13/3/1954. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát. Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch dài ngày, nơi tập trung những nỗ lực cao nhất của cả hai bên. Chính vì vậy, đây là cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ với nhiều mất mát, hy sinh. Nhưng dưới sự lãnh đạo, giáo dục, tổ chức và rèn luyện của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn sức mạnh tinh thần vô địch của dân tộc đã được khơi dậy, chuyển hóa thành sức mạnh vật chất để chiến thắng kẻ thù. Chính sách giảm tô, cải cách ruộng đất, đem lại ruộng đất cho nông dân, trong đó có nhiều gia đình cán bộ, chiến sĩ ngoài mặt trận đã khơi dậy lòng biết ơn và niềm tin tuyệt đối của bộ đội vào Đảng, Bác Hồ và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Đồng thời, thông qua các đợt học tập, chỉnh quân chính trị, phát động căm thù, đặc biệt là sau khi được học tập, quán triệt các mệnh lệnh của cấp trên về tăng cường ý thức chấp hành kỷ luật chiến trường, thực hiện tốt nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chuyển từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, tinh thần quyết chiến, quyết thắng được nâng cao trong cán bộ, chiến sĩ, tạo nên ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chính trị, tinh thần, góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch. Bộ đội ta giương cao cờ chiến thắng trên cứ điểm Him Lam vừa chiếm được trong trận mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, chiều 13/3/1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN. Gần 70 năm đã trôi qua nhưng tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn là nguồn cổ vũ lớn lao cho toàn thể nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đặc biệt, tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta đã, đang và mãi tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc ra vững bước trên con đường xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sức mạnh đại đoàn kết trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
1,563
NXB Kim Đồng vừa ra mắt artbook ‘Những miền lưu dấu – Cảnh Việt trong văn chương’ tập hợp 35 trích đoạn thơ, truyện ngắn của các tác giả Việt Nam từ trung đại đến hiện đại đã được đưa vào sách giáo khoa chương trình phổ thông. Các trích đoạn này tập trung vào cảnh đẹp non sông gấm vóc Việt Nam kết hợp với những bức tranh được các họa sĩ hiện đại sáng tác. Một bức tranh trong artbook “Những miền lưu dấu – Cảnh Việt trong văn chương”. 35 tác phẩm văn chương dẫn lối chúng ta đi đến các miền đất trên khắp dải đất hình chữ S thân yêu. Nhờ có văn chương, chúng ta có khả năng đặt chân đến những nơi chốn mình chưa từng được tới. Chúng ta thấy mình ngồi trên tảng đá rêu, dưới bóng râm Côn Sơn khi ngâm ngợi vần thơ Nguyễn Trãi, chúng ta trầm trồ trước vẻ đẹp của miền đất Tây Tiến nhờ những câu thơ của Quang Dũng, chúng ta ghi nhớ dáng hình của sông Đà qua ngòi bút Nguyễn Tuân… Những vùng đất qua ngòi bút văn chương mang cách nhìn, tình cảm, sự tưởng tượng và sáng tạo của mỗi tác giả. Vì thế, các tác phẩm văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung luôn đưa chúng ta đi xa hơn những gì mình thấy hằng ngày. Hội họa tiếp bước những áng văn để tiếp tục hành trình đó, cho người đọc cách nhìn và cảm nhận khác hơn, giàu có hơn về những miền đất trên quê hương mình. Gần 30 họa sĩ với sự đa dạng của phong cách, thủ pháp, chất liệu đã chuyển hóa ngôn ngữ xúc cảm văn chương thành ngôn ngữ hình ảnh của nghệ thuật thị giác. Đó là những bức tranh phong cảnh màu nước hay acrylic, bột màu hay sơn dầu, tranh khắc gỗ hay kĩ thuật số… Mỗi tác giả một phong cách: lãng mạn của Trương Văn Ngọc, ấn tượng của Chu Hồng Tiến, hùng tráng của Vũ Xuân Hoàn… Tất cả hòa chung giai điệu ngợi ca vẻ đẹp Tổ quốc.
Những miền lưu dấu – Cảnh Việt trong văn chương
363
Tỉnh đoàn Khánh Hòa phối hợp với các đơn vị tổ chức Lễ tiễn đoàn ‘Hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương’ lên đường thăm quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK 1 năm 2023. Tàu KN390 đón và đưa đoàn “Hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương” năm 2023 lên đường thăm quần đảo Trường Sa. (Ảnh: TTXVN phát). Sáng 7/5, tại cảng Cam Ranh, Tỉnh đoàn Khánh Hòa phối hợp với các đơn vị tổ chức Lễ tiễn đoàn “Hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương” lên đường thăm quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK 1 năm 2023. Hành trình “Tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương” năm 2023 có sự tham gia của các đại biểu ưu tú, tiêu biểu. Họ là những cá nhân xuất sắc trong công tác Đoàn, Hội, Đội và phong trào thanh thiếu nhi ở các địa phương, đơn vị; doanh nhân trẻ thành đạt, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, vì cộng đồng; nghệ sỹ, bác sỹ trẻ, cán bộ, phóng viên báo chí. Trong 7 ngày, đoàn công tác sẽ tới các điểm đảo trên quần đảo Trường Sa , nhà giàn DK1, thăm hỏi, tặng quà, giao lưu văn hóa văn nghệ với cán bộ, chiến sỹ và nhân dân đang làm nhiệm vụ, sinh sống trên các đảo. Qua các hoạt động, đoàn công tác thể hiện tinh thần tuổi trẻ cả nước mong muốn chung sức, chung lòng cùng cán bộ, chiến sỹ Hải quân và nhân dân giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, làm cho quần đảo Trường Sa gần hơn với đất liền, khẳng định việc thực thi đúng pháp luật các hoạt động khai thác trên vùng đặc quyền kinh tế của đất nước ta. Tại buổi lễ, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Bùi Quang Huy nhấn mạnh biển có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước ta. Trên biển có hàng ngàn đảo lớn, nhỏ, trong đó bao gồm hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa – những phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, được bao thế hệ người Việt Nam đổ mồ hôi công sức, trí tuệ và xương máu để xây dựng, gìn giữ. Vì thế, việc thừa kế bảo vệ vững chắc và phát huy tiềm năng to lớn của biển đảo không chỉ là vinh dự của thế hệ trẻ hôm nay mà còn là trách nhiệm của nhiều thế hệ mai sau để đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Những năm qua, Trung ương Đoàn đã tổ chức nhiều cuộc vận động, chương trình của đoàn viên, thanh thiếu niên cả nước, như: “Nghĩa tình biên giới hải đảo,” “Cả nước vì Trường Sa, Trường Sa vì cả nước,” “Chung tay thắp sáng nhà giàn DK1,” “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”… Đặc biệt, điểm nhấn là Hành trình “Tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương” diễn ra thường niên đã tạo được sự quan tâm của xã hội, có sức lan tỏa sâu sắc trong nhận thức và tình cảm của các bạn trẻ, thu hút đồng bào cả nước cùng chung sức bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Tổ quốc. Ban Bí thư Trung ương Đoàn và lãnh đạo Đoàn tin tưởng chuyến đi sẽ thành công, mang những tình cảm tốt đẹp của đất liền đến với các đảo. Đồng thời, các đại biểu cũng thu được nhiều điều thú vị và bổ ích, để lại dấu ấn và kỷ niệm đẹp, đặc biệt là có thêm những hiểu biết thực tiễn và khơi nguồn xúc cảm sâu sắc, nuôi dưỡng tình yêu biển, đảo quê hương. Các lực lượng chào tạm biệt đoàn hành trình. (Ảnh: TTXVN phát). Ông Nguyễn Tấn Tuân, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa, nêu rõ Khánh Hòa tự hào khi là một trong nhiều địa phương giáp biển của cả nước, trong đó có Trường Sa thân yêu. Với vị trí chiến lược quan trọng về biển đảo, tỉnh Khánh Hòa đang triển khai đề án xây dựng và phát triển huyện đảo Trường Sa trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội trên biển của cả nước theo tinh thần của Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Khánh Hòa đã đóng góp thiết thực, góp phần xây dựng và bảo vệ Trường Sa. Trong chuyến công tác lần này của Đoàn Hành trình “Tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương,” Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị tuổi trẻ Khánh Hòa với vai trò là đơn vị đăng cai sẽ tham gia sôi nổi các hoạt động với tinh thần xung kích, trách nhiệm; góp phần tích cực làm nên thành công của hành trình. Đại tá Nguyễn Thiên Quân, Tư lệnh Vùng 3 Hải quân, cảm ơn sự quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho chuyến đi của các đơn vị. Cán bộ chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam, lực lượng quân đội Việt Nam quyết tâm hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao./.
Tự hào hành trình tuổi trẻ vì biển, đảo quê hương năm 2023
892
Điện Kính Thiên – nơi ngự trị của 54 vị vua của nước Đại Việt vẫn còn là không gian mơ hồ, du khách chưa sờ được thấy. Hơn 20 năm sau khi cụm di tích Hoàng thành Thăng Long đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, Việt Nam đã đạt được những bước tiến mới trong công tác nghiên cứu không gian điện Kính Thiên qua các triều đại để tiến tới. Nghi lễ trong hội Xuân đầu năm mới tại điện Kính Thiên. Ảnh: Phạm Hùng. Điện Kính Thiên được khởi dựng từ năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ. Tại đây, Hoàng đế cử hành các đại điển của triều đình như lễ đăng cơ, thiết triều, nghị bàn quốc gia đại sự, điện thí, tuyên cáo thắng trận, tiếp đón sứ thần… Do đó, điện Kính Thiên là biểu trưng cao nhất của cho quyền lực quốc gia Đại Việt xuyên suốt 4 thế kỷ (XV – XVIII). Năm 1816, vua Gia Long đã cho dỡ điện Kính Thiên với lý do “kiến trúc đã bị mục nát không thể tu bổ được” và cho dựng một tòa điện mới gọi là chính điện Hành cung, năm 1841 vua Tự Đức đổi thành điện Long Thiên. Trải qua thăng trầm lịch sử kiến trúc đã bị phá hủy toàn bộ chỉ còn lại khu nền cao hơn 2m và hai bộ lan can đá thềm bậc ở chính giữa mặt Nam và góc Tây Bắc. Trong nhiều năm qua, kế hoạch phục dựng chính điện Kính Thiên vẫn được coi là hạt nhân để phát huy giá trị của Hoàng thành Thăng Long – PGS.TS Tống Trung Tín – Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam cho rằng: “Không gian điện Kính Thiên thời Lê là không gian thiêng quan trọng nhất của Kinh đô Thăng Long trên các phương diện quy hoạch kinh đô, kiến trúc, nghệ thuật, mỹ thuật, tâm linh, vị trí và chức năng. Đây là nơi diễn ra các nghi thức quốc gia quan trọng nhất của đất nước, nơi đề ra các quyết sách dựng nước, giữ nước thành công của các cấp lãnh đạo cao nhất trong suốt chiều dài hàng nghìn năm lịch sử. Không gian này được cấu trúc bởi 3 thành phần kiến trúc cơ bản gồm: chính điện Kính Thiên, sân Đan Trì (sân Đại Triều) và Đoan Môn”. Đi từ chỗ lần dò không gian điện Kính Thiên thì đến nay, TS Hà Văn Cẩn – Viện Khảo cổ học khẳng định: nghiên cứu khảo cổ học tại Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long trong những năm qua đã thu được những kết quả to lớn, giúp hiểu rõ được khoảng 35% diện mạo không gian chính điện Kính Thiên và điện Kính Thiên. Nếu tiếp tục khai quật và nghiên cứu, thời gian tới có thể nắm bắt được 35% kết cấu không gian này. Theo PGS.TS Đặng Văn Bài – Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa Việt Nam, điện Kính Thiên không chỉ là một công trình mà là không gian tâm linh, nơi đưa ra quyết sách của một quốc gia của 54 vị vua. Chính vì vậy, muốn công trình hiện hữu trong thế kỷ XXI thì cần quan tâm đến việc hoàn thiện các thủ tục, xin ý kiến để thực hiện dự án phục dựng điện Kính Thiên. Hơn 20 năm qua, các nhà khoa học và các nhà quản lý loay hoay việc phục dựng điện Kính Thiên, để rồi theo Giáo sư sử học Lê Văn Lan: “Chúng ta đang có lỗi với tổ tiên” vì quá chậm trễ trong việc đưa công trình này có mặt tại không gian di tích Hoàng thành Thăng Long. Để đi đến những phương án khả thi, với điều kiện tư liệu nghiên cứu định hình được 35% không gian chính điện như hiện nay, các nhà khoa học cho rằng thực hiện phỏng dựng hay tái dựng sẽ hợp lý hơn là phục dựng. Đối với các công trình Pháp thuộc được đánh giá là nằm trên khu vực chính điện Kính Thiên có thể hạ giải, bảo tồn bằng cách số hóa giới thiệu trong Bảo tàng Hoàng cung. “Hà Nội đang bảo tồn rất nhiều công trình Pháp thuộc như: Phủ Chủ tịch, Nhà hát Lớn, Bảo tàng Lịch sử và các biệt thự cũ… nên không nhất thiết phải bảo tồn thêm các công trình Pháp thuộc tại di sản Hoàng thành Thăng Long. Giữa một công trình không nhiều giá trị với một không gian chính điện của 54 vị vua, ta nên chọn công trình nào? Đặt câu hỏi như vậy chúng ta dễ dàng có lời giải” – PGS.TS Đặng Văn Bài bày tỏ. Theo PGS.TS Đặng Văn Bài, khu vực nội đô Hà Nội còn rất nhiều di sản gắn với Thăng Long xưa trong lịch sử và có mối quan hệ chặt chẽ với Hoàng thành. Đó là hệ thống Thăng Long tứ trấn với các đền Voi Phục, Bạch Mã, Trấn Vũ và Kim Liên, là dấu vết của các đàn Nam Giao và Xã Tắc, là hệ thống La thành bao quanh Thăng Long xưa và các khu vực thị dân với dấu vết phố nghề. Nếu mở rộng nghiên cứu đầy đủ và khoa học, việc công nhận Hoàng thành Thăng Long là Di sản Văn hóa thế giới cần thêm cả hệ thống tứ trấn, các làng nghề, phố nghề.
Phỏng dựng hay phục dựng điện Kính Thiên? – Tác giả: Hoàng Lan
920
Các kỹ sư NASA dự định tắt 1 trong 5 thiết bị khoa học trên tàu Voyager 2 trong năm nay nhưng đã đổi kế hoạch. Sứ mệnh Voyager mang lại cho thiên văn học nhiều phát hiện quan trọng. Ảnh: NASA. Theo thông tin từ Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL), NASA đã tìm ra phương pháp giúp kéo dài thời gian vận hành của cả 5 thiết bị khoa học trên tàu thăm dò Voyager 2 tới năm 2026, thay vì tắt 1 trong 5 thiết bị vào năm nay. Voyager 1 và 2 là 2 tàu thăm dò duy nhất hoạt động bên ngoài nhật quyển, giúp tìm hiểu về hình dạng của nhật quyển và vai trò của nó trong việc bảo vệ Trái Đất khỏi các hạt năng lượng và bức xạ khác được tìm thấy trong môi trường giữa các vì sao. Mô hình của tàu Voyager 1 và Voyager 2, được trưng bày tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA. Ảnh: NASA. “Voyager càng đi xa thì các dữ liệu khoa học mà tàu thăm dò này mang về càng có giá trị. Do vậy, chúng tôi muốn giữ cho nó hoạt động lâu nhất có thể”, Linda Spilker, nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA, cho biết. Cả hai tàu Voyager đều tự cung cấp năng lượng bằng các máy phát nhiệt điện đồng vị phóng xạ (RTG), giúp chuyển đổi nhiệt từ plutonium đang phân hủy thành điện năng. Mô hình máy phát nhiệt điện đồng vị phóng xạ của tàu Voyager 1 và 2. Ảnh: NASA. Để bù vào lượng điện hao phí mỗi năm, các kỹ sư đã tắt máy sưởi và các hệ thống không cần thiết. Họ cũng xem xét ngưng hoạt động thêm 1 trong 5 thiết bị khoa học của Voyager 2 trong năm 2023 này, nhằm duy trì sứ mệnh lâu nhất có thể. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đã tìm ra một cách giúp hoãn việc tắt thiết bị khoa học đến năm 2026, giúp con người có thêm nhiều khám phá từ không gian. Cụ thể, họ dự định tắt bộ điều chỉnh điện áp kích hoạt mạch dự phòng, có chức năng bảo vệ tàu khi điện áp thay đổi đột ngột. Nếu phương pháp này hoạt động tốt cho Voyager 2, nhóm sẽ triển khai nó trên Voyager 1. “Các điện áp thay đổi gây rủi ro cho các thiết bị, nhưng chúng tôi cho rằng đó là một rủi ro nhỏ. Tắt bớt hệ thống có thể giữ cho các thiết bị khoa học hoạt động lâu hơn. Chúng tôi đã theo dõi tàu vũ trụ được vài tuần và có vẻ như phương pháp mới này có hiệu quả”, Suzanne Dodd, giám đốc dự án Voyager tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA, cho biết. Sứ mệnh Voyager ban đầu được lên kế hoạch chỉ kéo dài 4 năm với mục đích thăm dò Thổ Tinh và Mộc Tinh. NASA sau đó đã mở rộng sứ mệnh, đưa Voyager 2 tiếp cận Hải Vương Tinh và Thiên Vương Tinh. Voyager 2 hiện vẫn là tàu vũ trụ duy nhất từng chạm trán với hai hành tinh băng. Năm 1990, NASA tiếp tục mở rộng sứ mệnh, đưa các tàu thăm dò ra ngoài nhật quyển. Voyager 1 vượt ra ngoài nhật quyển thành công vào năm 2012, trong khi Voyager 2 di chuyển chậm hơn, đổ bộ khu vực này vào năm 2018.
NASA đang làm gì với tàu vũ trụ cách Trái Đất 23 tỷ km
586
Ngay từ khi đại dịch Covid – 19 xuất hiện, nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn cùng với các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học Giáo dục và Môi trường đã nghiên cứu là Dự án về Chiến lược lâu dài, kế sách bền vững sống chung với Covid 19, Đề xuất Dự án được Thủ tướng Chính phủ gửi thư khen ngợi ngày 17 tháng 09 năm 2021. Sau đó dự án được nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn (chủ biên) cùng các cộng sự biên soạn thành cuốn sách “Kẻ thù vô hình Covid-19”. Cuốn sách “Kẻ thù vô hình Covid-19” được tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc đến trong phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Chính phủ với các địa phương sáng ngày 5 tháng 1 năm 2022. Có rất nhiều các báo, đài, tạp chí đăng bài phát biểu của Tổng Bí thư và cuốn sách được nhắc đến nhiều lần trên truyền thông trong đó khẳng định chúng ta sẽ chiến thắng đại dịch Covid-19. Họp Hội đồng chuyên gia thực hiện dự án sách “Con đường tương lai”. (Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn hàng đầu bên phải). Năm 2021, trong những lần trả lời phỏng vấn trên các cơ quan báo chí, đặc biệt lần trả lời phỏng vấn Báo Nhân dân và Truyền hình Nhân Dân, nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn là người sớm khẳng định rằng, đại dịch Covid-19 sẽ không còn là tình trạng khẩn cấp y tế vào năm 2023 trên phạm vi toàn cầu. Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn nói, trong thư gửi biếu sách tời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà văn cũng viết khẳng định đại dịch Covid-19 không còn là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu vào năm 2023. Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn nói: “Tại thời điểm tôi phát biểu đại dịch Covid-19 không còn là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu vào năm 2023, mọi người đều nghi ngờ sự tiên đoán này, vì đầu năm 2022, mọi thứ vẫn chưa được bình thường mới. Nhất là, đến cuối năm 2022, Trung Quốc là nước lớn của thế giới vẫn chưa xóa bỏ chính sách “zezo Covid” thì lời tiên đoán của tôi có vẻ không chính xác. Nhưng tôi vẫn khẳng định với tất cả mọi người rằng đại dịch Covid-19 sẽ không còn là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu năm 2023.” Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn (Áo đỏ ngoài cùng bìa phải ) cùng nhóm biên soạn sách. Ngày 12 tháng 12 năm 2021, trong buổi ra mắt sách “Kẻ thù vô hình Covid-19” tại nhà riêng, Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn viết trong Facebook nói chính xác đến từng ngày đại dịch Covid-19 sẽ không còn là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu vào ngày 04 tháng 05 năm 2023 hay nói một cách khác là đại dịch Covid-19 chấm dứt trên phạm vi toàn cầu. Trong cuốn tự truyện “Hậu Covid tự truyện” xuất bản năm 2022 về cuộc sống của nhân dân sau sau giai đoạn dịch bệnh trong năm 2021 và 2022, có một số dự đoán về các kẻ thù vô hình về văn hóa, xã hội, kinh tế và những vấn đề đó cũng xảy ra đúng như cuốn sách đã viết. Điều bất ngờ lớn và trùng hợp là, vấn đề về đại dịch Covid-19 được đưa ra trong cuộc họp của Ủy ban Khẩn cấp về Covid-19 vào chiều ngày 4 tháng 5 năm 2023, Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus chính thức tuyên bố đại dịch Covid-19 không còn là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu, có nghĩa là đại dịch Covid-19 đã chấm dứt trên phạm vi toàn cầu. Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn (bìa phải) và Nhà văn Phùng Văn Khai. Khi hỏi về điều này, nhà văn cho rằng, ông là nhà khoa học nghiên cứu về đại dịch cũng chỉ tính toán theo nguyên lý khoa học và xác định đại dịch kết thúc theo tháng hoặc năm. Nhưng điều ngạc nhiên là ông không thể tin được điều trùng hợp có vẻ như bí ẩn này. Ban đầu là là sự sắp xếp số trang sách là 543, với hi vọng đại dịch Covid-19 sẽ giảm dần. Nhà văn nói rằng: “Sau khi đọc một số tờ báo, mọi người đều hỏi tôi rằng, tại sao lại in cuốn sách “Kẻ thù vô hình Covid-19” với số trang lùi là 543. Tôi trả cười sảng khoái nói rằng, trong cuộc sống ai cùng mong mình gắn với một con số đẹp tiến lên, tiến về phía trước. Nhưng, đây là cuốn sách đặc biệt về dịch bệnh kinh hoàng, ai cũng mong muốn dịch bệnh sẽ lùi dần và sự sắp xếp số trang sách tiên đoán dịch bệnh kết thúc trên phạm vi toàn cầu vào năm 2023. Không có gì bàn cãi khi cuốn sách rất có giá trị trong việc phòng chống, chiến thắng dịch bệnh, được người lãnh đạo cao nhất của Đảng nhắc đến để chiến thắng kẻ thù vô hình covid-19, trong cuốn sách cũng nói về những “Kẻ thù vô hình” khác bị đẩy lùi như chúng ta đã từng chứng kiến năm 2023. Bằng nhiệt huyết, đam mê, dũng cảm, dấn thân như tiêu chí trong bài thơ “Con đường tương lai”, nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn nói về tinh thần đoàn kết dân tộc và tinh thần yêu nước của Nhân dân tham gia xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Nhà văn lại tiếp tục cùng với nhiều nhà nghiên cứu biên soạn cuốn sách “Con đường tương lai” cùng tên, cùng ý nghĩa với bài thơ, nhằm đóng góp một phần nhỏ bé cho xã hội, cho đất nước. Cuốn sách “Con đường tương lai” là dự án sách tiếp nối cuốn sách “Kẻ thù vô hình Covid-19”, do Viện Khoa học giáo dục và Môi trường thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam biên soạn do Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn làm chủ biên và các thành viên tham gia gồm: ông Nguyễn Văn Khương – Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục và Môi trường, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Kim Anh – Nguyên giám đốc Nhà xuất bản Thể thao và Du lịch, ông Đinh Xuân Phong – Tổng Biên tập Nhà xuất bản Thể thao và Du lịch; tham gia dự án và phát biểu Nhà sử học Giáo sư Sử học Lê Văn Lan , giáo sư Hà Đình Đức, phó giáo sư Trần Xuân Nhĩ – nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhà thơ Bằng Việt và ông Nguyễn Văn Khánh Chủ nhiệm CLB Văn hóa nghệ thuật Tài năng trẻ Đoàn Thị Điểm. Cuốn sách lấy cảm hứng từ bài phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nội dung đã đề cập đến nhiều nội dung trong chỉ đạo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc ngày 05/01/2022. Cuốn sách có sử dụng nhiều bài báo, đài, tạp chí đăng bài phát biểu của Tổng Bí thư. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo: “Trong hai năm 2020-2021 vừa qua và năm 2022-2023 tới đây, cùng với toàn thế giới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã, đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với “Kẻ thù vô hình Covid-19” như tên của cuốn sách của nhiều tác giả do Nhà xuất bản Thể thao và Du lịch vừa mới phát hành với tinh thần chống dịch như chống giặc. “Kẻ thù vô hình- Covid-19” là rất nguy hiểm, dịch Covid-19 không chỉ cướp đi sinh mạng của người người mà còn có thể hủy hoại nhiều thành quả mà nhân loại và nhân dân ta đã dày công vun đắp. Để có thể chiến thắng “Kẻ thù vô hình-Covid-19” nguy hiểm và tàn ác này. Cố gắng giữ gìn, phát huy những thành tựu, kết quả đã đạt được, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, trước hết là mục tiêu. nhiệm vụ đã đề ra cho năm 2022, chúng ta lâu nay đã đổi mới, sáng tạo thì tới đây càng phải đổi mới, sáng tạo hơn nữa; Nhà nước ta nói chung, Chính phủ, chính quyền các địa phương nói riêng lâu nay đã liêm chính, kỷ cương, hoạt động hiệu lực, hiệu quả thì tới đây càng phải liêm chính, kỷ cương, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn nữa; toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết, nhất trí, chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu thì tới đây càng phải đoàn kết, nhất trí, chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu cao hơn nữa. Chỉ có như vậy thì chúng ta mới có thể hoàn thành được những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho năm 2022, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, thịnh vượng, hùng cường”. Từ cuốn sách “Kẻ thù vô hình Covid-19” đến cuốn sách “Con đường tương lai” – những cuốn sách thành công và hữu ích đã cho thấy tâm huyết và trí tuệ của nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn cùng các nhà khoa học hết sức có trách nhiệm với sự phát triển bền vững của đất nước.
Từ “Kẻ thù vô hình covid -19” đến “Con đường tương lai” những cuốn sách thành công và hữu ích – Tác giả: Nhà văn Phùng Văn Khai
1,593
Annie Ernaux là nữ nhà văn Pháp đầu tiên đoạt giải Nobel Văn chương. Ba tác phẩm của bà: “Hồi ức thiếu nữ”, “Cơn cuồng si”, “Nỗi nhục” vừa được phát hành. Các tác phẩm của bà là ký ức cá nhân, nhưng cũng chính là ký ức tập thể, trong bối cảnh văn hóa qua những giai đoạn cuộc đời bà. Trong đó, Hồi ức thiếu nữ là câu chuyện về thời thiếu nữ của tác giả vào những năm thập niên 1960. Những giấc mơ, tình yêu, khao khát, hoang dại của một thời tuổi trẻ ngày ấy được kể trong bối cảnh nước Pháp những năm thập niên 1950-1960.Thập niên 1960 cũng là giai đoạn manh nha cho làn sóng đấu tranh nữ quyền lần thứ 2. Hồi ức thiếu nữ còn là một tiếng nói đấu tranh cho nữ quyền và bình đẳng giới. Còn tác phẩm Cơn cuồng si được xuất bản năm 1991, với chủ đề khác hẳn các tác phẩm của bà trước đó: tình dục. Đó lại là một giãi bày khác trong một giai đoạn khác của cuộc đời mà nhà văn dám đặt bút viết, kể lại. Tác phẩm sau đó được chuyển thể thành phim điện ảnh. Tác phẩm của Annie Ernaux luôn gây chú ý, thậm chí gây sốc, bởi vì đó là những ký ức có thật – dù là của cá nhân phản chiếu ký ức tập thể hay là thuộc về ký ức tập thể. Ngay từ tác phẩm đầu tay Những ngăn kéo rỗng , nhà văn đã kể về chuyện phá thai “chui” của mình vào năm 1964. Đến năm 1983, một lần nữa bà lại viết về cuộc đời mình với tác phẩm Một chỗ trong đời… Cuộc đời cá nhân được phản ánh dưới góc nhìn xã hội là điều luôn được tìm thấy trong tác phẩm của nh văn Annie Ernaux. Viện Hàn lâm Thụy Điển đã dùng các cụm từ “lòng dũng cảm” và “sự nhạy bén” để nhận định về các tác phẩm của bà trên hành trình “khai quật” ký ức của chính mình. Những trang viết của Annie Ernaux tìm về giá trị cội rễ, trung thực với nỗi đau, không né tránh sự thật, cất tiếng nói thay cho tập thể và thời đại mình đang sống. Và đó là tất cả giá trị mà bà để lại cho đời, bằng văn chương.
Những hồi ức làm nên Nobel Văn chương của Annie Ernaux
393
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi do nhiều nguyên nhân, trong đó một trong những nguyên nhân chủ yếu là Trung ương Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh thế trận lòng dân trên địa bàn chiến lược Tây Bắc trong toàn bộ thời gian chuẩn bị và tiến hành chiến dịch. Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng và hành động lãnh đạo xây dựng, phát huy sức mạnh thế trận lòng dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam nói chung là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và trong chiến tranh cách mạng. Cơ sở thực tiễn là xuất phát từ lòng yêu nước, sự đồng tâm của đồng bào Việt Nam, từ lực lượng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và “trong chiến tranh, ai có nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực lượng hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi”[1]. Nghiên cứu cách mạng Pháp, Người chỉ ra những bài học mà cuộc cách mạng này đã dạy cho chúng ta là “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”[2]. Xem xét các yếu tố chủ yếu để có được thành công trong hoạt động quân sự, Người nhấn mạnh 3 yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau là “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, trong đó “nhân hòa” là quan trọng nhất. Nói nhân hòa là trong đó có cả lòng dân, lòng quân. Với những quan điểm trên và xuất phát từ thực tế ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng việc xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong chiến tranh nhân dân. Ngày 6/12/1953, tại Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với các đồng chí trong Bộ Chính trị thông qua chủ trương, kế hoạch tác chiến Đông – Xuân 1953 – 1954, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu). Ở cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người cùng với Trung ương bàn bạc đưa ra các quyết định về chủ trương, biện pháp, vừa là người trực tiếp chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện, theo dõi uốn nắn những lệch lạc; động viên, cổ vũ, định hướng, nuôi dưỡng phát huy những giá trị đã được tạo dựng thành sức mạnh của thế trận lòng dân trong suốt cuộc kháng chiến nói chung; trước và trong quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên phủ nói riêng. Ngay từ thời kỳ đầu chuẩn bị cuộc kháng chiến, trong bài viết “Hình thức chiến tranh ngày nay” đăng trên Báo Cứu quốc, số 351, ngày 20-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”[3]. Tiếp đó, Người khẳng định “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”[4]. Theo Người “Lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch”[5]. Để xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong kháng chiến, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chính sách đều nhằm vào lợi ích của nhân dân, phải làm cho sự đóng góp của nhân dân được công bằng và phải bồi dưỡng sức lực của nhân dân. Đặc biệt, phải phát động quần chúng một cách đầy đủ, thực sự giành lấy ưu thế quần chúng hơn nữa. Trên nền tảng của tư tưởng chiến tranh nhân dân và với một tầm nhìn chiến lược, Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã chuẩn bị từng bước xây dựng thế trận lòng dân cho trận quyết chiến lược tại Điện Biên Phủ. Nổi bật là bắt đầu từ chiến dịch Tây Bắc 1952. Tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng chủ trương mở hướng tiến công chiến dịch lên Tây Bắc. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc chính thức mở màn từ 14/10/1952. Sau ba tháng chiến đấu, ngày 10 tháng 12 năm 1952 chiến dịch toàn thắng. Giải phóng Tây bắc, quân và dân ta làm chủ một địa bàn chiến lược rộng tới 44.300 km2 với số dân số 440.000 người, chúng ta có dân có đất – điều kiện tiên quyết để tiếp tục các hoạt động xây dựng thế chiến lược của chiến tranh nhân dân tại địa bàn này (trong đó có thế trận lòng dân). Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch đánh giá: “Thu đông 1952 là thu đông chiến thắng Tây Bắc. Nếu nhìn rộng ra toàn chiến trường Bắc Bộ thì đó là thắng lợi lớn của ta trên con đường tiếp tục giành thế chủ động… Thắng lợi đó đã rèn luyện nhiều cho bộ đội ta về kỹ thuật, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường lực lượng kháng chiến của nhân dân, nâng cao lòng tin tưởng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đối với Đảng và Hồ Chủ tịch…”[6], Trong quá trình diễn ra chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn theo dõi sát diễn biến tình hình chiến dịch. Người đã nhiều lần trực tiếp nói chuyện, gửi thư khen, động viên cán bộ chiến sĩ, dân công tại mặt trận và nhân dân các địa phương nhằm phát huy cao độ những giá trị tinh thần – một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh của chiến tranh chính nghĩa và là nội dung cốt lõi của thế trận lòng dân trong chiến tranh nhân dân Việt Nam. Như vậy, có thể thấy, Đảng ta, trực tiếp là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một tầm nhìn chiến lược, chuẩn bị từng bước thế trận lòng dân trên địa bàn này để giành thắng lợi trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên phủ hai năm sau đó. Sau chiến thắng Tây Bắc sức mạnh của thế trận lòng dân cả nước tiếp tục được tăng cường do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất, chỉnh quân và chỉnh đảng.Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vấn đề độc lập dân tộc và người cày có ruộng trở thành mục tiêu tranh đấu trực tiếp của dân tộc Việt Nam. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nền tảng của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân, vì nông dân là tối đại đa số trong dân tộc. Nền tảng của cách mạng dân chủ cũng là vấn đề nông dân, vì nông dân là lực lượng cách mạng đông nhất chống phong kiến, chống đế quốc”[7]. Giải quyết vấn đề ruộng đất và các quan hệ kinh tế gắn liền với ruộng đất thực chất là từng bước giải phóng nông dân, là tăng cường thực lực kháng chiến. Trước Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa II (01/1953) vì hoàn cảnh đặc biệt, Đảng và Chính phủ chỉ thi hành chính sách giảm tô, giảm tức. Sau 7 năm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thế và lực của cách mạng Việt Nam đã mạnh lên cho phép Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch có bước đi mới trong khuôn khổ của cách mạng dân chủ nhân dân. Giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất là việc làm trực tiếp bồi dưỡng sức dân và tạo dựng niềm tin của nông dân với cuộc chiến đấu mà họ là lực lượng tham gia đông đảo nhất.Niềm tin vào Đảng và Hồ Chủ tịch, lòng yêu nước, ý chí và tinh thần kháng chiến của nhân dân yếu tố tạo dựng nên sức mạnh của thế trận lòng dân sẽ được phát huy mạnh mẽ, tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến ở giai đoạn chuẩn bị bước vào tổng phản công. Đối với nhân dân các dân tộc Tây Bắc vừa được giải phóng, giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất như liều thuốc kích hoạt, làm gia tăng sự đồng thuận cao về mặt chính trị tinh thần và sức mạnh vật chất đóng góp cho cuộc kháng chiến nói chung, cho trận quyết chiến chiến lược nói riêng trên một hướng chiến trường đặc biệt quan trọng nhưng lại cách rất xa căn cứ địa cách mạng Việt Bắc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Cải cách ruộng đất sẽ giúp ta giải quyết nhiều vấn đề: Về quân sự, nông dân sẽ càng hăng hái tham gia bộ đội, để giữ làng giữ nước, giữ ruộng đất của mình. Đồng thời cải cách ruộng đất sẽ có ảnh hưởng to lớn giúp làm tan rã ngụy quân. Về kinh tế – tài chính, nông dân đủ ăn đủ mặc, tăng gia sản xuất được nhiều, thì nông nghiệp sẽ phát triển. Họ có tiền mua hàng hóa, thì thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghệ của giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, cũng như công thương nghiệp quốc doanh sẽ được phát triển. Nông dân hăng hái đóng thuế nông nghiệp thì tài chính của Nhà nước được dồi dào. Về chính trị, khi nông dân đã nắm ưu thế kinh tế và chính trị trong làng, nhân dân dân chủ chuyên chính sẽ được thực hiện rộng khắp và chắc chắn”[8]. Trong thời gian chuẩn bị và tiến hành chiến dịch, Chính phủ và các địa phương thuộc căn cứ địa Việt Bắc và và các địa phương thuộc vùng tự do của Khu IV đã huy động được hàng vạn dân công và thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ chiến trường, làm đường giao thông và các công việc phục vụ hỏa tuyến. Tại chiến trường Tây Bắc và chiến dịch Điện Biên Phủ, thắng lợi của giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất thực sự tạo cho nhân dân các dân tộc Tây Bắc hăng hái tham gia các hoạt động phục vụ chiến dịch, đóng góp hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm cho mặt trận; nhân dân địa phương, cán bộ chiến sĩ các đơn vị, hàng vạn dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong thêm tin tưởng vào Chính phủ và Hồ Chủ tịch, quyết tâm cao độ trong thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh cho chiến thắng. Cùng với tiến hành giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất, trước chiến dịch Điện Biên phủ, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh đã tiến hành tổ chức chỉnh đảng, chỉnh quân. Mục đích của chỉnh Đảng, chỉnh quân là nhằm nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản, quán triệt tình hình nhiệm vụ và đấu tranh chống lại các biểu hiện cá nhân trong cán bộ, đảng viên, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, tạo sự nhất trí cao trong đội ngũ cán bộ của Đảng và các cơ quan của Chính phủ. Kết quả của việc chỉnh Đảng, chỉnh quân không những làm cho tinh thần, sức mạnh của con người của tổ chức Đảng, của quân đội được nâng lên rõ rệt mà còn tác động, ảnh hưởng tích cực tới tinh thần của nhân dân . Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào quân đội, tiếp tục được củng cố và tăng cường. Cùng với chỉnh đảng, chỉnh quân, Chủ tịch Hồ Chí minh đã phát động phong trào thi đua ái quốc với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến”. Người kêu gọi toàn quân, toàn dân dốc sức cho thắng lợi của cuộc kháng chiến và Chiến dịch. Cũng như trong chiến dịch Tây Bắc, trong quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bằng những việc làm cụ thể để khích lệ tinh thần chiến đấu, phục vụ chiến đấu của các lực lượng. Sức mạnh của thế trận lòng dân trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên phủ, nhờ đó mà không ngừng được phát huy. Bàn về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ không thể không nói đến một quyết định sáng sáng suốt khác của chủ tịch Hồ chí Minh và Trung ương Đảng trong tạo lập và xây dựng thế trận hậu cần nhân dân . Tây Bắc, trong đó có lòng chảo Điện Biên phủ cách căn cứ địa Việt Bắc và vùng tự do khu IV trên ba trăm cây số, địa hình hiểm trở, điều kiện kinh tế của các địa phương trong vùng do mới được giải phóng nên còn hết sức khó khăn. Việc đảm bảo hậu cần chiến dịch bao gồm cả hậu cần nhân dân, hậu cần quân sự, hậu cần tại chỗ và hậu cần chiến dịch vì thế là vấn đề nan giải đối với Bộ chỉ huy mặt trận và Chính phủ. Để giải quyết bài toán hậu cần tại đây, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã thành lập Hội đồng cung cấp hậu phương, giao cho đồng chí Phạm Văn Đồng (lúc đó là Phó Thủ tướng) làm chủ tịch, huy động hàng chục vạn dân công và thanh niên xung phong của các địa phương thuộc căn cứ địa Việt Bắc và vùng tự do Liên khu IV để vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men đạn dược, vận chuyển thương binh, quản lý tù hàng binh tại mặt trận; khai thác những điều kiện vật chất tại chỗ, huy động sức người, sức của các địa phương Tây Bắc (thuyền mảng, lừa, ngựa…) tổ chức xay xát gạo tại mặt trận, mở đường vận chuyển bộ bằng lừa ngựa, xe đạp thồ, ô tô, làm đường kéo pháo và lập các điểm nghi binh địch… Thắng lợi của công tác hậu cần tại mặt trận Điện biên Biên phủ đã góp phần làm cho thế trận lòng dân của chiến dịch trở nên hoàn chỉnh. Sau 56 ngày đêm chiến đấu hy sinh, gian khổ, ngày 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng” tung bay trên nóc hầm De Castres ở Điện Biên Phủ. (Ảnh tư liệu). Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ là thắng lợi của tư tưởng chiến tranh nhân dân Hồ Chí Minh và đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng ta. Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, bồi dưỡng “tín tâm và quyết tâm” kháng chiến của nhân dân; nâng cao vai trò và uy tín của lực lượng lãnh đạo nhân dân, nhân dân đã đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để cùng với quân đội đưa kháng chiến đến thành công. Hơn 60 năm đã trôi qua, nhưng các thế hệ người Việt Nam sẽ mãi mãi nhắc tới chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã để lại một trong những điều đặc biệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, đó là người dân tham gia vào chiến dịch này đông gấp nhiều lần quân đội. Có thể nói, không có sự đóng góp sức người, sức của to lớn đó của nhân dân thì không có chiến thắng Điện Biên Phủ và sự đóng góp ấy là kết quả của việc xây dựng và phát huy thế trận lòng dân dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Ngày nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong tình hình mới càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước. Thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Tất cả nhằm xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng ————– [1] V.I.Lênin, Toàn tập , Nxb Tiến bộ. M.1977, T39, tr 271. [2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 2, tr 297. [3] Hồ Chí Minh, Toàn tập , Nxb CTQG, H.2011, tập 4, tr 344. [4] Hồ Chí Minh, Toàn tập , Nxb CTQG, H.2011, tập 5, tr 179. [5] Hồ Chí Minh, Toàn tập , Nxb CTQG, H.2011, tập 5, tr 448. [6]Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu, Xb. 1963, t. 2, tr.217 [7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 8, tr.31 [8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, tập 8, tr.31
Thế trận lòng dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ
3,143
Nhà văn Trần Thùy Mai giao lưu với độc giả về tiểu thuyết lịch sử nhân dịp ra mắt "Công chúa Đồng Xuân". Dù khó, nhưng mảng đề tài lịch sử vẫn thu hút nhiều nhà văn nhiều thế hệ. Theo nhà thơ Trần Đăng Khoa – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, viết tiểu thuyết lịch sử là một việc vô cùng khó, bởi với những nhân vật, sự kiện lịch sử đã xảy ra, đã có sẵn, các tác giả phải viết sao cho hấp dẫn, lôi cuốn mà vẫn giữ đúng giá trị lịch sử. Và các nhà văn đã không dừng lại, không bỏ cuộc, thậm chí họ tha thiết với những giai đoạn, nhân vật ít có trong sử liệu, với hy vọng độc giả tiếp tục tìm hiểu, khám phá lịch sử theo cách riêng. Trong các thể loại của văn học, tiểu thuyết lịch sử luôn là một mảng đề tài đòi hỏi sự dấn thân của người viết. Bởi dẫu gì, khi viết về đề tài lịch sử, các tác giả cũng đều phải căn cứ vào những dữ liệu, tài liệu, nghiên cứu lịch sử. Do đó, sự sáng tạo thường chỉ có thể trong những giới hạn nào đó. Tuy nhiên, dù khó, nhưng thể loại này vẫn luôn thu hút được các nhà văn ở nhiều thế hệ. Và ở mỗi thế hệ, lại có những cách viết, cách thể hiện khác nhau, và tất nhiên, sự thành công cũng không giống nhau. Ngược dòng thời gian, trở về với chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, văn học Việt Nam cũng đã ghi nhận nhiều tiểu thuyết lịch sử đáng đọc. Trong đó, không thể không nhắc tới nhà văn Hữu Mai với các tiểu thuyết “Cao điểm cuối cùng”, “Không phải huyền thoại”… Nếu “Cao điểm cuối cùng” phản ánh cuộc chiến đấu oanh liệt của quân đội ta tiêu diệt Đồi A1, cứ điểm then chốt của quân đội Pháp, từ đó giành toàn thắng ở chiến trường Điện Biên Phủ vào ngày 7/5/1954 thì “Không phải huyền thoại” là cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tiên về Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp và cao trào chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Về đề tài lịch sử, trước và sau Hữu Mai, nhiều nhà văn đã viết những tiểu thuyết gây dư ba, và khẳng định vị thế của mình trên văn đàn. Có thể kể đến nhà văn Hà Ân với “Trăng nước Chương Dương” (bao gồm 3 tiểu thuyết: “Trên sông truyền hịch”, “Bên bờ Thiên Mạc”, “Trăng nước Chương Dương”); “Người Thăng Long” và “Khúc khải hoàn dang dở”; nhà văn Ngô Văn Phú với “Ngôi vua và những chuyện tình”, “Gươm thần Vạn Kiếp”, “Ấn kiếm trời ban”…; nhà văn Nguyễn Khắc Phục với bộ “Thăng Long Ký”; nhà văn Nguyễn Quang Thân với “Hội thề”… Tiếp đó, bộ tiểu thuyết đồ sộ “Tám triều Vua Lý” của nhà văn Hoàng Quốc Hải, hay những “Hồ Quý Ly”, “Đội gạo lên chùa”… của Nguyễn Xuân Khánh cũng cho thấy dấu ấn và sự đóng góp của các nhà văn ở địa hạt tiểu thuyết lịch sử. Gần đây, dù thị trường xuất bản khó khăn, dù độc giả ngày nay có xu hướng thích đọc nhanh, và thể loại tản văn “nở rộ”, song vẫn thấy những cuốn tiểu thuyết dày dặn ra đời, và âm thầm gây tiếng vang trong những lớp độc giả thích “đọc sâu”. Trong đó, có thể kể tới “Thông reo Ngàn Hống”, “Nguyễn Du” của nhà văn Nguyễn Thế Quang; “Hùng binh” của tác giả Đào Ngọc Hưng… Thậm chí, nhiều cây bút thế hệ 7X cũng có những đóng góp cho mảng tiểu thuyết lịch sử, như Lưu Sơn Minh với bộ “Trần Quốc Toản”, “Trần Khánh Dư”; Phùng Văn Khai với bộ tiểu thuyết “Vương triều Tiền Lý”… Tiểu thuyết lịch sử không chỉ hấp dẫn các cây bút nam giới “sức dài vai rộng” mà còn cuốn hút cả những nhà văn nữ. Hai gương mặt được nhiều người nhắc tới trong thời gian gần đây là nhà văn Lý Lan và Trần Thùy Mai. Với “Bửu Sơn Kỳ Hương”, cuốn tiểu thuyết của Lý Lan được Hội Nhà văn Việt Nam vinh danh ở hạng mục văn xuôi năm 2022. Tác phẩm tập trung vào các nhân vật lịch sử như Trương Vĩnh Ký hay Tôn Thọ Tường, Phan Thanh Giản, thông qua những hình tượng ấy, kể câu chuyện thuở hàn vi. Theo nhà văn Nguyễn Bình Phương – Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, tác phẩm “Bửu Sơn Kỳ Hương” chọn con đường tự sự với giọng trần thuật dồi dào khí lực, hào sảng, gần gũi trong một cấu trúc tự nhiên, làm bật lên cá tính, phong cách của con người và nét văn hóa đặc sắc vùng Nam bộ. Trong khi đó, với tiểu thuyết “Từ Dụ Thái hậu” (2 tập) – tiểu thuyết đã được trao giải thưởng danh giá của Hội Nhà văn Việt Nam (Giải nhất cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 5 – 2016-2019) và Giải Sách hay 2020 của Viện Giáo dục IRED; và mới đây là tiểu thuyết “Công chúa Đồng Xuân” (2 tập), nhà văn Trần Thùy Mai cho thấy những nỗ lực rất đáng ghi nhận của mình khi tạm ngưng viết truyện ngắn – thể loại đưa tác giả gặt hái những thành công nhất định, để chuyển sang gắn bó với tiểu thuyết lịch sử. Khi các nhà văn lựa chọn hướng đi, đó là tìm về kho tư liệu vĩ đại của lịch sử dân tộc để tái hiện lại đời sống lịch sử dân tộc, rõ ràng đó là điều rất đáng hoan nghênh và trân trọng. Và mỗi nhà văn, đều có lý do riêng của mình. Nhà văn Phùng Văn Khai cho biết, từ 20 năm trước, anh đã đến với tiểu thuyết lịch sử một cách nghiêm túc. “Đầu tiên là vì đam mê, tôi yêu các nhân vật lịch sử và luôn có khát khao được tìm hiểu về họ. Tác phẩm lịch sử đầu tiên của tôi viết về anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo với gần 100 trang văn. Nhưng tôi cảm thấy chưa đủ, để có thể khắc họa đầy đủ hình tượng của một vị anh hùng dân tộc cần rất nhiều yếu tố về tính cách, phong tục tập quán, những câu chuyện xoay quanh vị anh hùng đó. Tôi quyết định chuyển sang viết tiểu thuyết lịch sử. Ròng rã 20 năm chuyên tâm viết sử, tôi có cơ hội đi cùng các đoàn nghiên cứu, miệt mài điền dã hàng trăm ngôi đình, đền để lấy tư liệu, tham gia rất nhiều hội thảo khoa học, tôi làm việc không thấy mệt mỏi, càng viết lại càng say mê. Một phần là nhờ người thầy của tôi – nhà văn Hoàng Quốc Hải, đã luôn luôn động viên, khích lệ tôi, giúp quá trình chuyển hướng viết tiểu thuyết lịch sử của tôi được trọn vẹn và dễ dàng hơn”, nhà văn Phùng Văn Khai chia sẻ, đồng thời cho rằng, viết về lịch sử đòi hỏi nhiều thứ, phải am hiểu về văn hóa của thời đại mà mình viết, thời đại mình đang sống. Trong khi đó, nhà văn Trần Thùy Mai chia sẻ, khi viết tiểu thuyết lịch sử, bà dựa trên 3 nguồn chính: Chính sử triều Nguyễn, giai thoại dân gian, cùng suy luận của tác giả. Chính sử triều Nguyễn, với nguồn chính là bộ “Đại Nam Thực Lục” và “Đại Nam Liệt truyện”, cùng những bộ sách hỗ trợ: “Đại Nam Nhất Thống Chí”, “Đại Nam Hội điển sự lệ” và “BAVH” – tức là những bài báo đăng trên tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue. Còn tác phẩm dân gian, thì như vè sử, chuyện kể, giai thoại dân gian nhà văn Trần Thùy Mai tiếp cận trong 10 năm làm giảng viên môn Văn học dân gian ở Trường Đại học Sư phạm Huế. “Viết tiểu thuyết về lịch sử triều Nguyễn trong giai đoạn này, theo tôi là một việc khá thuận lợi. Trong mọi công việc, tôi không có thói quen nghĩ nhiều về sự khó khăn. Hơn nữa, khi làm một việc mình đam mê, thì những khó khăn càng làm cho mình động não và hứng thú hơn”, nhà văn Trần Thùy Mai nói. Nhà văn cũng cho rằng, có hai điều khiến bà yêu thích tiểu thuyết lịch sử. Thứ nhất, khi viết hay đọc một tiểu thuyết lịch sử, chúng ta có tâm thế hào hứng của một nhà du lịch. Ta du lịch về lại miền quá khứ. Trang sách kích thích trí tưởng tượng, và làm hiện lên những giấc mơ. Thứ hai, tiểu thuyết lịch sử có thể giúp người ta có cơ hội trở thành những quan tòa trong tòa án lương tâm: Bằng quan niệm và trí suy luận của thời ta sống, ta có thể đem tới cho người đọc những lý giải mới, đánh giá mới về những việc trong quá khứ. Viết tiểu thuyết lịch sử để lan tỏa tình yêu với lịch sử cũng là một thông điệp được hầu hết các nhà văn lựa chọn. Trong khi các nước khác có nhiều cách để truyền bá lịch sử dân tộc một cách sinh động, thì chúng ta vẫn đang được cho là còn chậm trễ. Vì thế, thông qua những cuốn tiểu thuyết lịch sử, bạn đọc sẽ được khơi gợi, thôi thúc tìm kiếm những mảnh ghép lịch sử để làm dày dặn hơn kho tri thức của mình. Và có một điều đáng mừng, nhiều cuốn tiểu thuyết lịch sửa ra mắt gần đây đã được độc giả đón nhận, được tái bản nhiều lần. HÀ ANH
Tiểu thuyết lịch sử: Khó nhưng không bỏ
1,667
Những trang thư viết cho đồng đội, người thân trước trận đánh quyết định như tiếp thêm sức mạnh, sự kiên cường, quả cảm cho những người lính, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ‘lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu’. “17.6.1953. Em, Anh đã nhận được của em hai lá thư. Thư ngày 15.4 em viết sau ngày đơn vị anh chiến thắng trận đầu tiên của chiến dịch một ngày (trận Nà Noong ngày 14.4) và đến tay anh sau trận chiến thắng Mường Khoa 12 tiếng (trận Mường Khoa đêm 17, rạng 18.5, còn lá thư sau không đề ngày (có lẽ em viết đầu tháng 5), anh nhận được khi về tới nơi trú quân (8.6). Cả hai thư đến vừa đúng lúc. Anh vui nhiều khi đọc được những dòng chữ thân yêu ở những nơi xa xôi này. Trong cái vui phấn khởi chung của đơn vị chiến thắng, có cái vui về tình cảm của mình, anh thấy mình cũng được hưởng hạnh phúc hơn các bạn xung quanh nhiều…” Thư viết từ chiến trường cho người vợ thân yêu luôn được người lính Vũ Lăng bắt đầu như thế. Thượng tướng Vũ Lăng (1921 – 1988) nguyên là Tư lệnh Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên), nguyên Giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Vũ Lăng là vị tướng trận góp mặt trong nhiều chiến dịch lớn với Tây Bắc, Lê Hồng Phong, Hà Nam Ninh, Sông Thao, Biên Giới… Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 đã lập chiến công vang dội trong tiến công đồi C1. Những lá thư thời chiến. Ảnh: Đại tá Đặng Vương Hưng. Ít ai biết, trong những ngày “hành quân liên miên đuổi giặc, đi cả ngày cả đêm trung bình từ 34 – 45 cây số (có ngày tới 62 cây số) leo những đèo cao ngút ngàn hàng 20 cây và dưới trời nắng như thiêu người”, người lính ấy vẫn hướng về quê nhà, không quên báo tin mừng chiến thắng. Đại tá, nhà văn Đặng Vương Hưng, người trực tiếp sưu tầm những lá thư của Thượng tướng Vũ Lăng cũng không khỏi bất ngờ khi cho biết, phải mất thời gian khá dài ông mới có được trong tay những lá thư này. “Nguồn thư do thân nhân các gia đình chuyển cho chúng tôi rất nhiều, song đại diện cho thế hệ kháng chiến chống Pháp lại vô cùng ít ỏi. Phần vì điều kiện văn hóa, lịch sử, đời sống kinh tế khó khăn, người viết thư rất hiếm, việc lưu trữ còn hạn chế”. Do đó, theo Đại tá Đặng Vương Hưng, kiểu dạng thư như của Thượng tướng Vũ Lăng là đáng quý vô cùng. Dù chỉ một vài lá thư nhưng cũng thấy được sự kiên cường, trung trinh của người lính với quê hương, đất nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ở đây là chiến dịch Điện Biên Phủ. Những lá thư mà người lính năm xưa khi đặt bút viết không ngờ rằng, mấy mươi năm sau chúng được in thành sách và họ trở thành tác giả. “22.10.1953. Em… Ngày mai, ngày kia cục diện sẽ thay đổi. Bộ đội và anh tin tưởng mãnh liệt vào cuộc chiến đấu gay go ác liệt sắp tới này, cái niềm tin tất thắng dựa trên một cơ sở thực tế giữa chúng ta và kẻ thù làm cho mọi người phấn khởi vô cùng. Viết cho em lúc này anh có cảm tưởng như lá thư của một chiến sĩ viết trước giờ phút xung phong để một mất một còn với kẻ thù, giành lại hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình, cho Tổ quốc và cho cả nhân loại…” Vốn là vị tướng trận, tính nóng như “hổ lửa” nhưng Vũ Lăng rất ham làm thơ. Những lá thư ông viết gửi vợ khi đi chiến dịch thể hiện tình cảm nồng nàn, sâu sắc đồng thời cũng cho thấy ở ông một tâm hồn rất lãng mạn. Thư gửi vợ ngày 22.2.1953, ông viết: “Gởi em cả mấy bông hoa đào hái ở một bản vắng một chiều hành quân. Những bông hoa nở trên hố bom, hố đại bác, hớn hở đón một mùa xuân chiến thắng, biểu hiện sức đấu tranh của dân tộc ta, mỗi ngày một mạnh lên, bom đạn của kẻ thù không thể nào ngăn cản nổi. Thôi khuya rồi. Chúc em ngủ ngon giấc. Kéo chăn len hồng lên tận má cho ấm nhé!… Hôn em” . Còn trong lá thư đề ngày 17.6.1953, ông biên: “Hôm nay viết thư cho em trên dọc đường hành quân khi dừng lại nghỉ ở một bản trên đường. Trong mùi thơm ngát của hoa cau buổi sớm, nhớ đến nụ cười, đôi mắt, tiếng nói thân yêu của những ngày nào tháng 6 năm ngoái ở chợ Chu. Nhớ căn nhà lá xinh xinh bên dòng suối trong mát, những bữa cơm rau dền, những đêm trăng chênh chếch chiếu qua khung cửa sổ…”. Kéo pháo, sơn mài của Dương Hướng Minh, 1957. Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Đại tá Đặng Vương Hưng cho biết thêm, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đến ngày chiến thắng, nhiều người lính vẫn không quên làm nhiệm vụ, âm thầm và lặng lẽ. Ông kể, cuối năm 2008, Đại tá Đỗ Sâm, nguyên là sĩ quan pháo binh từng trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, đã chuyển tới ông tập bản thảo “Người điệp báo Thành Sơn”. Đó là tác phẩm viết về cuộc đời và những chiến công thầm lặng của điệp báo viên Đào Thiện Thùy, đồng thời cũng là bố vợ của Đại tá Đỗ Sâm. Trong “Người điệp báo Thành Sơn”, có một số tư liệu quý, đó là những bức thư liên lạc nghiệp vụ tuyệt mật một thời, được điệp báo viên Đào Thiện Thùy (mang bí danh Chị Nguyên) sử dụng để gửi báo cáo và tiếp nhận mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, mà trực tiếp là Tổ điệp báo Công an tỉnh Sơn Tây. Thư viết: “Lê Nhượng. Sơn Tây, ngày 6.5.1954. Chị Nguyên! Tình hình hiện nay có nhiều chuyển biến có lợi cho ta. Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, địch thiệt hại nặng ở khắp các chiến trường khác. Yêu cầu: Báo cáo cụ thể về tình hình hoang mang dao động của địch, triệu chứng địch rút diễn biến thế nào? Âm mưu của địch hiện nay ở Sơn Tây sau khi chúng rút? Nếu địch rút thì chị cứ yên tâm theo nhiệm vụ cũ. Liên lạc ngay từ bây giờ để sau này không bị gián đoạn…” Những dòng thư có thể được viết vội trong lúc nghỉ chân giữa chặng hành quân, trước khi vào trận chiến, có những lá thư hết sức đặc biệt khi cả người viết và người nhận đều dùng mật danh; nội dung trao đổi trong thư được diễn đạt bằng mật mã, hoặc ngôn ngữ tiếng lóng mà chỉ những người trong cuộc mới hiểu… “Nhưng đó là cảm xúc, nỗi lòng, là nhiệm vụ thiêng liêng được bộc lộ trong những khoảnh khắc và bối cảnh tự nhiên nhất, chân thật nhất, ý nghĩa nhất bởi vậy mà nó rất thật, rất đời, rất sinh động và cuốn hút đến lạ kỳ”, Đại tá Đặng Vương Hưng nói.
Những cánh thư báo mừng chiến thắng
1,257
Ngay trước dịp kỷ niệm 69 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2023), Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chung thành phố Điện Biên Phủ đến năm 2045. Đây là tiền đề để Điện Biên Phủ phát huy cao nhất các lợi thế về văn hóa, lịch sử cách mạng, về vị trí, vị thế, vai trò của một đô thị cửa ngõ tây bắc đất nước, vùng trung du và miền núi phía bắc, đồng thời cũng là cửa ngõ giao thương với thị trường các nước Trung Quốc , Lào và Thái Lan . Đoàn viên, thanh niên các dân tộc tìm hiểu di tích lịch sử trên đồi A1. (Ảnh ĐĂNG KHOA). Trong quyết định phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chung thành phố Điện Biên Phủ đến năm 2045 có nêu rõ quan điểm là phát triển thành phố Điện Biên Phủ trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị của Khu di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt “Chiến trường Điện Biên Phủ” cùng với đặc trưng về sinh thái, cảnh quan, môi trường, văn hóa nhân văn và cụ thể hóa các định hướng phát triển chính của quy hoạch tổng thể Khu du lịch quốc gia Điện Biên-Pá Khoang. Theo quy hoạch này, thành phố Điện Biên Phủ trong tương lai sẽ là đô thị loại II, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, giữ vai trò trọng yếu về quốc phòng-an ninh của vùng Tây Bắc, vùng trung du và miền núi phía bắc; là đầu mối giao lưu kinh tế đối ngoại và văn hóa, du lịch với các tỉnh bắc Lào, nam Trung Quốc, Thái Lan và Myanmar. Đồng thời, Điện Biên Phủ cũng là thành phố du lịch văn hóa-lịch sử cách mạng cấp quốc gia; trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch nghỉ dưỡng và trung chuyển trọng điểm của khu vực, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội cho tỉnh Điện Biên, vùng Tây Bắc và vùng trung du và miền núi phía bắc. Hồi đầu tháng 3 vừa qua, khi Điện Biên Phủ đang nỗ lực chuẩn bị cho Lễ hội Hoa ban Điện Biên năm 2023 và Ngày hội Văn hóa, Thể thao, Du lịch các dân tộc tỉnh Điện Biên lần thứ bảy. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Điện Biên Phủ Nguyễn Quang Hưng cho biết: Tên gọi Điện Biên và thành phố Điện Biên Phủ được cả thế giới biết đến. Đó là vùng đất phên giậu của Việt Nam gắn với Chiến thắng Điện Biên Phủ vang danh thế giới. 69 năm trôi qua, quần thể di tích chiến trường Điện Biên Phủ nay là điểm đến thu hút du khách trong nước, quốc tế. Đó chính là lợi thế riêng của thành phố Điện Biên Phủ và tỉnh Điện Biên. Song, ngoài di tích, Điện Biên còn có lợi thế là bản sắc văn hóa các dân tộc rất đặc sắc; nhiều danh lam thắng cảnh, du lịch sinh thái và là khu vực trung chuyển của bắc Lào, Thái Lan và Trung Quốc. Xét về mặt địa chính trị, vị trí của tỉnh rất quan trọng bởi đây là cửa ngõ vào thị trường Trung Quốc qua tỉnh Vân Nam và qua bắc Lào, Thái Lan, Myanmar. Du khách tham quan Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ. (Ảnh ANH SƠN). Dành sự ưu tiên đầu tư cho thành phố Điện Biên Phủ với mục tiêu đến năm 2025, thành phố được nâng cấp lên đô thị loại II, Tỉnh ủy Điện Biên đã ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TU về phát triển thành phố, trong đó có mấy vấn đề quan trọng liên quan phát triển đô thị; thương mại, dịch vụ; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa và chăm lo đời sống nhân dân. Và mới đây, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 408/QĐ-TTg ngày 18/4/2023 phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chung thành phố Điện Biên Phủ đến năm 2045, thì mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân Điện Biên đã như được tiếp thêm động lực để nỗ lực thực hiện các mục tiêu xây dựng Điện Biên; xây dựng thành phố Điện Biên Phủ thành điểm đến thân thiện, hấp dẫn, trở thành thành phố du lịch văn hóa-lịch sử cách mạng cấp quốc gia… Cùng với phát triển đô thị, tại quyết định phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chung thành phố Điện Biên Phủ đến năm 2045, Thủ tướng Chính phủ có yêu cầu: Phát triển thành phố Điện Biên Phủ trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị của Khu di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt “Chiến trường Điện Biên Phủ”… Điều đó là vô cùng cần thiết, ý nghĩa trong hành trình xây dựng Điện Biên ngày càng phát triển như lời dặn dò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi trò chuyện với cán bộ, nhân dân, cựu chiến binh Điện Biên năm 2004: “Tất cả cùng vươn lên, cùng làm nên những Điện Biên Phủ lớn nhỏ khác về kinh tế, văn hóa, xã hội, thu hút khách quốc tế”. Từng bước thực hiện các nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đáp ứng mong ước của nhân dân Điện Biên, Điện Biên đặt ra mục tiêu cụ thể cho từng năm, từng giai đoạn. Đồng chí Lê Thành Đô, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên cho biết: Hướng tới kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (ngày 7/5/2024), Điện Biên ưu tiên nguồn lực thực hiện đồng thời các dự án giao thông, đô thị trọng điểm. Với phương châm “hạ tầng giao thông đi trước”, tỉnh Điện Biên chú trọng thực hiện công tác quy hoạch và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông. Hiện nay, tỉnh ưu tiên mọi nguồn lực để thực hiện dự án đầu tư xây dựng, mở rộng Cảng Hàng không Điện Biên và các tuyến giao thông kết nối các vùng động lực kinh tế của tỉnh. Dự án đầu tư xây dựng, mở rộng Cảng Hàng không Điện Biên khởi công từ cuối tháng 1/2022 là dự án nhóm B, công trình giao thông cấp I, với tổng mức đầu tư hơn 1.467 tỷ đồng; cải tạo, mở rộng công suất khai thác nhà ga hành khách hiện hữu từ 300 nghìn khách/năm lên 500 nghìn khách/năm; bảo đảm đồng bộ khai thác máy bay A320, A321 và tương đương. Cuối tháng 4 vừa qua, hai gói thầu cuối cùng của dự án đã được động thổ khởi công, dự kiến sẽ hoàn thành và đưa vào khai thác cuối tháng 11/2023. Cùng với đó, tỉnh Điện Biên đang tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các dự án hạ tầng giao thông được phê duyệt đầu tư trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, như: Dự án Cải tạo nâng cấp Quốc lộ 279B, tỉnh Điện Biên (đoạn Nà Tấu-Mường Phăng) và dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 12 đoạn Km102-Km139+650, tỉnh Điện Biên (Mường Lay-Mường Chà); dự án Đường giao thông kết nối các khu vực kinh tế trọng điểm thuộc vùng kinh tế động lực dọc trục Quốc lộ 279 và Quốc lộ 12, tỉnh Điện Biên. Đồng thời, tỉnh đang tích cực phối hợp các bộ, ngành Trung ương thực hiện các dự án giao thông quan trọng gồm: dự án đường cao tốc Sơn La-Điện Biên-Cửa khẩu Tây Trang, giai đoạn 1 (thành phố Điện Biên Phủ-nút giao Km15+800/QL 279); dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 279 (đoạn Điện Biên-Tây Trang) và Quốc lộ 4H. Xác định phát triển du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, do vậy Tỉnh ủy Điện Biên cũng đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU về phát triển du lịch tỉnh Điện Biên đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 dựa trên cơ sở khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của ba trụ cột chính là: Du lịch lịch sử-tâm linh; du lịch bản sắc văn hóa dân tộc, khám phá cảnh quan thiên nhiên và du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, chăm sóc sức khỏe. Nghị quyết xác định mục tiêu tổng quát xây dựng Điện Biên trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ vào năm 2025; khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế gắn với bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc, di tích lịch sử, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ quyền biên giới quốc gia.
Điện Biên, khát vọng vươn lên
1,476
Nhà văn Đặng Vương Hưng cho biết, 6 cuốn nhật ký và 30 bức thư của binh sĩ Việt Nam được người Mỹ lưu giữ rất cẩn thận suốt 48 năm qua. Nhân kỷ niệm 69 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2023), Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức giao lưu Những trang viết từ chiến trường và giới thiệu cuốn sách Những lá thư thời chiến Việt Nam . Nhà văn Đặng Vương Hưng, bà Trần Hồng Dung, nhà văn Trần Trọng Giá tại buổi giao lưu. Đại tá, cựu chiến binh, nhà văn, nhà báo Đặng Vương Hưng – người sưu tầm, biên soạn bộ sách Những lá thư thời chiến Việt Nam và Nhật ký thời chiến Việt Nam chia sẻ, ý tưởng thực hiện sưu tầm những lá thư này bắt đầu sau cuộc gặp gỡ với nhà văn người Mỹ Andrew Caroll. “Sau khi trải qua một vụ hỏa hoạn thiêu rụi ngôi nhà đang sống, Andrew Caroll mất những lá thư của người yêu, khi đó anh ấy mới hiểu giá trị của các lá thư lớn như thế nào. Chúng không chỉ là vài trang viết ngẫu hứng mà đó là một phần cuộc đời của con người. Thông qua phương tiện đại chúng, Caroll sưu tầm lại những lá thư thời chiến của người Mỹ và đi khắp các thành phố tìm tư liệu rồi xuất bản cuốn sách War Letters năm 2001”, nhà văn Đặng Vương Hưng chia sẻ. Sau cuộc gặp với Andrew Caroll, đúng dịp kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn Đặng Vương Hưng công bố Cuộc vận động sưu tầm và xuất bản bộ sách Những lá thư và nhật ký thời chiến Việt Nam . Ý tưởng đã chạm đến nhu cầu sẵn có trong đời sống nên chỉ sau một tháng, ông nhận được cả vạn bức thư, hàng trăm cuốn sổ tay nhật ký từ khắp mọi miền đất nước gửi về. Nhà văn Đặng Vương Hưng. Nhà văn Đặng Vương Hưng chia sẻ, công việc viết văn đã giúp ông “ngộ” ra một điều: Đôi khi, chính những trang thư, nhật ký, ghi chép… tưởng chừng rất đỗi riêng tư lại mang đến thông tin và tư liệu cực kỳ quý báu; có thể gợi mở biết bao điều về đời sống tinh thần, vật chất và cả văn hóa của xã hội trong quá khứ; góp phần lý giải những bí mật của lịch sử, làm cho cuộc sống hiện tại và tương lai tốt đẹp hơn. Nhà văn rất mừng vì sức lan tỏa của cuộc vận động. Ông tiết lộ, đã nhận thông tin về các cuốn nhật ký và thư từ của binh sĩ Việt Nam được người Mỹ lưu giữ rất cẩn thận suốt 48 năm qua. “Sau cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, người Mỹ mang về hàng nghìn di vật của quân giải phóng nước ta. Tôi được biết, các tư liệu này đã số hóa thành những bộ hồ sơ đầy đủ thông tin từ họ tên, quê quán, trận đánh của người viết. Nhóm sưu tầm bên Mỹ đang có tổng cộng 6 cuốn nhật ký và 30 lá thư. Dự kiến cuối tháng 5, câu lạc bộ Mãi mãi tuổi 20 và bảo tàng Phụ nữ Việt Nam có thể tổ chức một buổi giao nhận các kỷ vật”, nhà văn Đặng Vương Hưng tiết lộ. Những lá thư nhắc giới trẻ không quên quá khứ Bà Trần Hồng Dung – Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng quản lý câu lạc bộ Mãi mãi tuổi 20 cho rằng, cuốn sách Những lá thư thời chiến Việt Nam cùng những câu chuyện chân thực nhắc nhở chúng ta nhiều việc cần làm. Trước mắt là tiếp lửa truyền thống cho thế hệ trẻ thông qua hành trình tri ân anh hùng liệt sĩ; sau đó là những việc làm thiết thực bù đắp phần nào sự hy sinh, mất mát của các anh hùng, giúp đỡ gia đình và thân nhân họ. Không phải từ số liệu khô khan, toàn cảnh các cuộc kháng chiến của dân tộc được tái hiện qua những lá thư, nhật ký của chính người trong cuộc, giữa mưa bom bão đạn vẫn chiến đấu hết mình với niềm tin tất thắng. Mong muốn thế hệ sau hiểu thêm lịch sử, thấm thía hơn về sự cống hiến của cha ông, Đại tá Trần Trọng Giá – Thường trực Hội đồng quản lý câu lạc bộ Trái tim người lính , cho rằng, các bạn trẻ cần tìm hiểu những câu chuyện và nhân chứng lịch sử. Đó là bài học nhắc chúng ta không quên quá khứ của dân tộc. “Tôi có bố và anh trai tham gia kháng chiến chống Pháp và đấu tranh chống Mỹ cứu nước, đã để lại máu xương tại chiến trường. Vì vậy, mỗi trang viết, dòng nhật ký hay kỷ vật của họ đều giúp tôi cùng người thân nhớ lại những ngày tháng xưa và quý trọng cuộc sống hôm nay. Giống như khi đọc Những lá thư thời chiến Việt Nam, độc giả sẽ có cái nhìn nhiều chiều và sinh động về hai cuộc kháng chiến của dân tộc, từ đó thêm trân quý lịch sử và những con người làm nên lịch sử”, Đại tá Trần Trọng Giá chia sẻ.
Người Mỹ số hoá những lá thư thời chiến của binh sĩ Việt Nam
883
Kính viễn vọng không gian Hubble của NASA đã lần lượt phát hiện hai bóng ma bí ẩn xung quanh TW Hydrae, một ngôi sao mới 10 triệu năm tuổi nằm cách chúng ta 200 năm ánh sáng. Vào năm 2017, thông qua những hình ảnh mà Hubble ghi lại, các nhà thiên văn học từng báo cáo về một cái bóng lạ quét qua bề mặt của một đĩa khí bụi hình bánh kếp khổng lồ, bao quanh ngôi sao lùn đỏ TW Hydrae. “Bóng ma” này không phải từ một hành tinh, mà từ một đĩa khí bụi khác, nhỏ hơn nhiều và hơi nghiêng so với đĩa bên ngoài. Mới đây, bóng ma thứ hai tiếp tục hiện ra. Thế giới bí ẩn với hai “bóng ma” được Hubble nắm bắt – Ảnh: : NASA/AURA/STScI. Theo SciTech Daily, nó được xác định là đĩa khí bụi thứ hai. Cả hai “bóng ma” này đã cung cấp cái nhìn ngoạn mục về hai hành tinh ở một giai đoạn chưa từng thấy trước đây, hai phôi thai còn chưa rõ hình dạng. Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi nhà thiên văn học John Debes từ Viện khoa học Kính viễn vọng không gian ở Maryland – Mỹ và Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) cho biết đó cũng là hai đĩa tiền hành tinh hoàn toàn khác biệt so với những cái từng biết. Ban đầu chỉ thấy một cái là vì chúng chỉ như một, hoặc ít nhất nằm sát nhau và hoạt động cùng một cách. Bỗng dưng hai bóng ma này tách ra và bắt đầu cho thấy chúng là hai chiếc đĩa riêng biệt, hoạt động khác nhau, mặt phẳng quỹ đạo cũng hơi khác nhau. Điều này vẫn đang khiến các nhà khoa học bối rối và cả thú vị, bởi sẽ tiết lộ những điều chưa từng biết về cách một hành tinh ra đời. Các dữ liệu ban đầu cho thấy các hành tinh non trẻ này nằm trong một khu vực có khoảng cách gần bằng Sao Mộc so với Mặt Trời, quay quanh sao mẹ mỗi 15 năm, có mặt phẳng quỹ đạo nghiêng từ 5-7 độ so với đĩa tiền hành tinh chính của sao mẹ. Bất ngờ, điều này hoàn toàn phù hợp với “kiến trúc phong cách hệ Mặt Trời”, có thể cung cấp cho các nhà thiên văn cái nhìn “xuyên không” về quá khứ, để suy ra cách thế giới của chúhg ta hình thành. Đĩa tiền hành tinh của sao mẹ cũng gồm 2 đĩa trong và ngoài, trong đó đĩa ngoài có thể có bán kính gấp vài lần Vành đai Kuiper của hệ Mặt Trời . Đĩa này cũng có khoảng trống kỳ lạ ở khoảng cách gấp đôi khoảng cách Sao Diêm Vương với Mặt Trời, cho thấy khả năng về một hành tinh thứ ba. Nghiên cứu vừa công bố trên The Astrophysical Journal.
NASA: Khám phá chưa từng thấy từ vật thể mang hai ‘bóng ma’
482
Hàn Quốc – Kim Ung Yong biết nói khi mới 6 tháng tuổi, thông thạo 4 ngôn ngữ năm 4 tuổi và được NASA mời về làm việc năm 8 tuổi. Tuy nhiên, sự thông minh trời phú này lại khiến ông rơi vào bất hạnh. Nhắc đến thiên tài với trí thông minh hàng đầu nhân loại của thế kỷ 20, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến Steven Hawkings và Albert Einstein . Tuy nhiên, có một người đã vượt qua cả chỉ số IQ và trí tuệ tổng thể của 2 nhà bác học này, đó là Kim Ung Yong đến từ Hàn Quốc. Kim Ung Yong sinh năm 1962 tại Seoul, Hàn Quốc . Ông là con cả trong một gia đình có ba người con. Ngay từ khi còn rất nhỏ, Kim đã thể hiện một trí tuệ phi thường. Ông bắt đầu biết nói khi mới 6 tháng tuổi và đến năm 4 tuổi, ông có thể đọc và viết bằng tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Đức và tiếng Anh, theo Korea Sports Economy . Năm 1977, Kim 5 tuổi đạt chỉ số IQ 210 và được ghi vào Sách kỷ lục Guinness thế giới với tư cách là người có chỉ số IQ cao nhất thế giới. Ông đã duy trì kỷ lục này trong 10 năm liên tiếp và được công nhận là thiên tài tầm cỡ thế giới. Kim Ung Yong sở hữu những khả năng đặc biệt ngay từ khi còn nhỏ. Cha mẹ đã nhận ra khả năng đặc biệt của con và đã đăng ký cho Kim vào một trường học địa phương dành cho trẻ em có năng khiếu. Năm 1967, khi Kim mới 5 tuổi, ông đã xuất hiện trên Đài Truyền hình Fuji ở Nhật Bản và khiến khán giả nước này và thế giới sửng sốt với khả năng giải các phương trình toán học phức tạp mà hầu hết mọi người đều không thể làm được. Sau đó, gia đình rất lo ngại về sự an toàn vì con có thể trở thành mục tiêu của những kẻ bắt cóc hoặc tống tiền vì vậy họ quyết định chuyển đến Mỹ. Trí thông minh của cậu bé Kim gây kinh ngạc thế giới lúc đó. Năm 1974, khi 8 tuổi, Kim Ung Yong được Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) mời đến để làm việc với tư cách là nhà nghiên cứu. Ông nhanh chóng thích nghi với cuộc sống ở Mỹ và gây ấn tượng với “đồng nghiệp” về trí thông minh cũng như tinh thần làm việc. Ông làm việc trong nhiều dự án khác nhau, bao gồm thiết kế tàu con thoi và phát triển hệ thống máy tính để sử dụng trong thám hiểm không gian. Mặc dù thành công và được ghi nhận tại NASA, Kim Ung Yong vỡ mộng với công việc. Từ trong sâu thẳm, Kim vẫn là chàng trai trẻ đang lớn, khao khát tình thương của gia đình và bạn bè ở Hàn Quốc. Kim Ung Yong từng chia sẻ, 10 năm học tập và nghiên cứu ở Mỹ là khoảng thời gian cô độc và đáng buồn nhất trong đời ông. “Thời điểm đó, tôi sống chẳng khác gì một cỗ máy. Tôi thức dậy, giải quyết những việc được giao hằng ngày, ăn, ngủ và cứ thế, thời gian trôi đi. Tôi thực sự không biết tôi đang làm gì. Tôi vô cùng đơn độc và không có lấy một người bạn”. Từ bỏ NASA về Hàn Quốc là quyết định đúng đắn nhất trong đời ông Kim. Ông đã đưa ra một quyết định khó khăn là rời NASA, trở về Hàn Quốc và tiếp tục việc học và nghiên cứu. Quyết định rời NASA của Kim Ung Yong vấp phải sự phản đối kịch liệt của cha mẹ và đồng nghiệp bởi họ tin rằng ông đang bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một. Những người trước đây ca ngợi Kim quay ngoắt 180 độ gọi ông là “thiên tài thất bại”, chỉ trích ông vì quyết định này, theo The Korea Heralds . Kim đã phải vật lộn với chứng trầm cảm và cảm giác bị cô lập trong những năm đầu trở lại quê nhà, thậm chí có lúc, Kim còn nghĩ đến việc tự tử. Kim Ung Yong bắt đầu lại từ đầu. Ông theo học các cấp học để lấy bằng chỉ trong 2 năm sau khi về nước. Năm 1981, ở tuổi 19, Kim Ung Yong đăng ký vào ngành kỹ thuật dân dụng ở Đại học quốc gia Chungbuk. Sau khi tốt nghiệp, ông làm nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Đất đai và Môi trường. Ông coi đây là quãng thời gian hạnh phúc nhất kể từ khi sinh ra. Kể từ năm 1988, ông đã xuất bản hơn 100 bài báo trên các tạp chí học thuật trong và ngoài nước, theo Hãng thông tấn Yonahap. Năm 2014, Kim Ung Yong đã trở thành giáo sư của ĐH Shinhan tại tỉnh Gyeonggi ở tuổi 52. Hiện nay, ông cũng là diễn giả cho một số chương trình giáo dục trẻ em và đưa ra nhiều lời khuyên dành cho các bậc phụ huynh về giáo dục con cái. Kim Ung Yong cho rằng mọi người quá đề cao chỉ số IQ. “ Một số người nghĩ rằng những người có chỉ số IQ cao thì toàn năng, nhưng điều đó không đúng. Hãy nhìn tôi này, tôi không có năng khiếu âm nhạc, cũng không giỏi thể thao. Cũng giống như các kỷ lục thế giới dành cho vận động viên, có chỉ số IQ cao chỉ là một yếu tố khác của tài năng con người “. “ Xã hội không nên đánh giá bất kỳ ai với các tiêu chuẩn đơn phương, mọi người đều có năng lực học tập, kỳ vọng, tài năng và ước mơ khác nhau, chúng ta nên tôn trọng điều đó ,” ông Kim nói.
Bi kịch của thần đồng IQ 210, làm việc cho NASA năm 8 tuổi
972
Nhà văn Nguyễn Bình Phương phát biểu khai mạc trại sáng tác. Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp Bộ Văn hoá – Thể thao và Du lịch mở Trại Sáng tác văn học năm 2023 tại Nhà Sáng tác Đà Lạt từ ngày 05.5 đến 19.5.2023. Tham dự lễ khai mạc có nhà văn Nguyễn Bình Phương – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Thanh Dương Hồng – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng, ông Võ Văn Quốc Bình – Giám đốc Nhà Sáng tác Đà Lạt và 15 nhà văn đến từ các tỉnh thành trên cả nước về tham gia trại sáng tác. Phát biểu tại lễ khai mạc, nhà văn Nguyễn Bình Phương nêu những vấn đề cơ bản về công tác tổ chức một trại viết. Đây là hoạt động quan trọng thường xuyên của Hội Nhà văn Việt Nam. Mở trại viết nhằm mục đích hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhà văn tập trung vào công việc sáng tác văn học. Tại trại viết, nhà văn có thể hoàn thành tác phẩm, hoặc lên ý tưởng cho một tác phẩm mới, hoặc có thể trải nghiệm khám phá làm đầy cảm hứng sáng tác. Trại viết cũng là cơ hội để các nhà văn từ nhiều miền đất nước có thể giao lưu gặp gỡ, trao đổi chuyên môn và kinh nghiệm viết văn. Nhà văn Nguyễn Bình Phương còn cho rằng các tác phẩm văn học đã tác động tích cực, có thể làm thay đổi nhận thức từ cá nhân lan tỏa đến cộng đồng. Văn học đòi hỏi ý thức và trách nhiệm từ mỗi nhà văn. Đồng thời, qua tác phẩm, nhà văn có quyền bày tỏ tư tưởng, nhận thức, thái độ với những mảng hiện thực, hoặc chủ đề mà mình phản ánh trong tác phẩm. Nhà văn hoàn toàn có quyền tụng ca hoặc phản biện, nếu cái hiện thực miêu tả nó thật sự xứng đáng. Tuy nhiên, dù phản ánh như thế nào thì nhà văn cũng phải xuất phát từ động cơ sáng tác. Đó là ý thức đạo đức lương tri và phẩm giá con người; là trách nhiệm với những con chữ được viết và và công bố với người đọc. Một tác phẩm văn học lớn là tác phẩm phải xuất phát từ thái độ xây dựng và tinh thần nhân đạo, thương yêu con người. Ngày nay, văn học chịu sự cạnh tranh rất gay gắt quyết liệt với các loại hình giải trí nghe nhìn, đòi hỏi văn học phải có sự đổi mới về cả hình thưc chất lượng nghệ thuật và nội dung phản ánh. Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam mong muốn có một nền văn học phong phú, cởi mở, nhưng phải có trách nhiệm với xã hội, tác động đến đời sống xã hội. Trại sáng tác là hoạt động để chúng ta hy vọng có được những điều mà tất cả các hội viên và những người yêu quý văn văn học mong muốn tạo ra những tác phẩm văn học có chất lượng và có giá trị đối với đời sống. Việc ấy phụ thuộc vào chính các nhà văn, nhà thơ – những người tâm huyết với văn học. Ban Chấp hành Hội hy vọng với tài năng, tâm huyết, trách nhiệm của mình, các nhà văn nhà thơ tiếp tục có những tác phẩm đóng góp vào sự phong phú của văn học đương đại, thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng văn nghệ nhân ái và cởi mở hơn. Phát biểu chào mừng trại sáng tác, nhà thơ Thanh Dương Hồng – Chủ tịch Hội VHNT Lâm Đồng đã bày tỏ niềm vui, lòng hiếu khách, giới thiệu những danh lam thắng cảnh của Đà Lạt có ý nghĩa lịch sử, văn hóa với các nhà văn, nhà thơ. Đồng thời mong muốn các nhà văn, nhà thơ sáng tác được nhiều tác phẩm chất lượng trong thời gian tham dự trại, biến những ý tưởng đang ấp ủ thành những bản thảo dày dặn; bên cạnh những tác phẩm có tầm vóc quốc gia, có nhiều tác phẩm hay, đẹp dành cho Đà Lạt – Lâm Đồng. Nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng thay mặt cho các nhà văn dự trại cảm ơn Hội Nhà văn Việt Nam đã quan tâm tới công việc sáng tác, mở trại viết để các nhà văn có điều kiện hoàn thiện tác phẩm của mình trong thời gian tập trung nhất. Hy vọng là sẽ có những tác phẩm xứng đáng như kỳ vọng. Ông Võ Văn Quốc Bình cũng phát biểu rằng, Nhà Sáng tác Đà Lạt thường xuyên đón các nhà văn từ mọi miền đất nước về dự trại viết. Nhà sáng tác sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà văn trong thời gian tham gia trại viết. Tại lễ khai mạc, các nhà văn, nhà thơ đã cùng nhau chia sẻ những ý tưởng sáng tác giới thiệu về mình qua những tác phẩm văn chương. Buổi lễ khai mạc trại viết đã thực sự tạo được không khí sáng tác sôi nổi và hào hứng.
Hội Nhà văn Việt Nam khai mạc Trại sáng tác Văn học
874
Ít nhất 21 người, trong đó đa phần là trẻ em đã bị thiệt mạng trong một vụ lật tàu chở khách tại thị trấn ven biển Tanua, bang Kerala, miền nam Ấn Độ tối ngày 7/5. Cảnh sát địa phương đã xác nhận thông tin này vào sáng sớm 8/5 và cho biết, trên tàu có ít nhất 35 hành khách, hầu hết là học sinh đang có chuyến dã ngoại trong kỳ nghỉ. Ảnh minh họa. Các nhà chức trách Ấn Độ đã điều động lực lượng ứng phó thảm họa đến hiện trường. Cảnh sát chưa công bố số hành khách trên tàu bị mất tích. Tuy nhiên, truyền thông địa phương đưa tin, có ít nhất 10 người đang được điều trị tại bệnh viện. Hiện nguyên nhân của vụ lật tàu vẫn đang được làm rõ. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng thống Droupadi Murmu đã gửi lời chia buồn đến gia đình các nạn nhân và tuyên bố hỗ trợ mỗi gia đình có người bị thiệt mạng hoặc mất tích 200.00 rupee (tương đương 2.447 USD) từ Quỹ hỗ trợ khẩn cấp quốc gia./. Biên dịch Nguồn: Tân Hoa xã
Lật tàu tại Ấn Độ, 21 người thiệt mạng
192
Theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), 3 quốc gia có dự trữ tiền mặt và vàng lớn nhất thế giới bao gồm Trung Quốc, Nhật và Thụy Sỹ. Khi thế giới trải qua nhiều cuộc khủng hoảng khác nhau (thảm họa khí hậu, đại dịch Covid-19, chuỗi cung ứng và bất ổn ngân hàng), các quốc gia có ít tài nguyên hơn đã dựa vào dự trữ ngoại hối để duy trì nền kinh tế của họ phát triển. Vào năm 2020, trong đại dịch Covid-19, các chính phủ từ Belize đến Zambia đã sử dụng dự trữ tiền mặt và vàng của họ, trong đó Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng tới một nửa lượng dự trữ của mình. Chính phủ của các quốc gia có nhiều dự trữ hơn sẽ có mạng lưới tài chính an toàn lớn hơn khi khủng hoảng xảy ra. Đây là những quốc gia đã khá giả về tài chính, chẳng hạn như Nhật Bản , Thụy Sỹ và Mỹ. Những xấp tiền giấy 20 USD. (Ảnh: Youtube). Trung Quốc có lượng dự trữ tiền mặt và vàng nhiều nhất so với bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới: trị giá 3.430 tỉ USD, theo dữ liệu từ Ngân hàng Thế giới và IMF. Ngược lại, các quốc gia có dự trữ vàng và tiền mặt nhỏ nhất bao gồm Burundi, Samoa và nhiều quốc đảo khác. Dominica có lượng dự trữ ít nhất, trị giá 190,8 triệu USD. Các nước nghèo hơn rơi vào tình huống thảm khốc khi gặp khủng hoảng. Các quốc gia không ở trong tình trạng tồi tệ nhất vẫn có thể gặp rắc rối khi cuộc khủng hoảng tiếp theo xảy ra. Ví dụ, Bolivia chỉ có đủ dự trữ tiền mặt để chi trả cho hàng nhập khẩu trong 3 tháng, khiến ngân hàng trung ương của nước này phải bán USD cho các cá nhân để tăng tỷ giá hối đoái. Những quốc gia, vùng lãnh thổ có dự trữ tiền mặt và vàng lớn nhất thế giới 1- Trung Quốc: 3.430 tỉ USD. 2- Nhật Bản: 1.410 tỉ USD. 3- Thụy Sĩ: 1.110 tỉ USD. 4- Mỹ: 720 tỉ USD. 5- Ấn Độ: 640 tỉ USD. 6- Nga: 630 tỉ USD. 7- Hong Kong (thuộc Trung Quốc): 500 tỉ USD. 8- Saudi Arabia: 470 tỉ USD. 9- Hàn Quốc: 460 tỉ USD. 10- Singapore: 430 tỉ USD. 11- Brazil: 360 tỉ USD. 12- Đức: 300 tỉ USD./.
Quốc gia nào đang có dự trữ tiền mặt và vàng lớn nhất thế giới?
394
Công dân Nga tại Cuba và nhiều người dân địa phương đã cùng diễu hành trong ngày 7/5 để kỷ niệm 78 năm ngày kết thúc cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nhân dân Xô Viết và ngày Chiến thắng phát xít (9/5/1945 – 9/5/2023). Pháo hoa mừng chiến thắng trên Quảng trường Đỏ ở Moskva, ngày 9/5/1945. Từ đó, ngày 9/5 hằng năm trở thành “Ngày Chiến thắng”, tôn vinh những giá trị đích thực của thắng lợi lịch sử này cũng như sự hy sinh to lớn của nhân dân các nước, trong đó có Liên Xô trong cuộc chiến vì tự do và phồn vinh của nhân loại. Ảnh: Tư liệu quốc tế/TTXVN phát. Theo phóng viên TTXVN tại La Habana, người dân Nga và Cuba ở La Habana cùng đeo dải băng Georgi – hay còn gọi là dải băng Chiến thắng – biểu tượng tôn vinh lòng dũng cảm và tưởng nhớ các anh hùng, giơ cao ảnh của những người đã chiến đấu để giành chiến thắng trước Đức quốc xã và bảo vệ sự toàn vẹn của đất Nga. Đoàn diễu hành cũng vinh danh những chiến sĩ Cuba đã gia nhập Hồng quân trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nhân dân Xô Viết, trong đó nổi bật là chỉ huy trung đội súng trường Enrique Vilar (1925 – 1945) đã ngã xuống trong cuộc chiến giải phóng Ba Lan, chiến sĩ Aldo Vivó (1924 – 1943) hy sinh khi chiến đấu chống lại Đức quốc xã trong cuộc phong tỏa Leningrad (Saint Petersburg ngày nay), và anh trai của ông là Jorge sống sót sau khi bị thương nặng và được sơ tán đến Kazakhstan. Đại sứ Nga tại Cuba Vítor Koronelli nêu bật ý nghĩa của lễ kỷ niệm và nhấn mạnh để đi đến Ngày Chiến thắng, nhân dân Liên Xô đã phải chịu những hy sinh, mất mát to lớn, những tổn thất không thể bù đắp. Chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của khoảng 27 triệu người Liên Xô, trong đó gần 9 triệu chiến sĩ Hồng quân đã ngã xuống cho Ngày Chiến thắng. Vì vậy, ngày Chiến thắng luôn là ngày lễ thiêng liêng nhất, cao cả nhất đối với các thế hệ người dân Nga nói riêng và nhân loại nói chung. Hằng năm, để tưởng nhớ và tri nhân những chiến sỹ Hồng quân Liên Xô năm xưa, Nga và nhiều nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đều tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng 9/5.
Hoạt động kỷ niệm 78 năm Ngày Chiến thắng phát xít tại Cuba
421
Nhà văn Lê Lựu (1942 - 2022). Lê Lựu có biệt tài đưa cái hồn nhiên, dân dã vào trong tác phẩm và đặt tên nhân vật, tạo tình huống để có tiếng cười. Trong các cuộc đàm đạo văn chương chính thức và bán chính thức, chúng tôi thường đặt cho nhau một câu hỏi giả định rằng: nếu vì một lý do bất khả kháng nào đó, anh chỉ được phép cứu vội 10 cuốn tiểu thuyết đương đại của các nhà văn Việt Nam thì anh sẽ chọn những cuốn nào? Mỗi người đều có những đáp án riêng của mình, nhưng có một sự đồng thuận khá cao khi những cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu; Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường luôn được ưu ái chọn lựa. Và nhiều khi tôi cứ lẩn thẩn suy nghĩ rằng, nếu như nền văn học nước nhà trong nửa cuối thế kỷ 20 không xuất hiện nhà văn Lê Lựu thì sẽ ra sao nhỉ? Tất nhiên là sẽ không có Người về đồng cói ; Sóng ở đáy sông ; Thời xa vắng ; Hai nhà … Vâng nếu không có những cuốn sách ấy thì hình như sẽ có một sự thiếu vắng rất đáng kể của nền văn học nước nhà, mà sự thiếu vắng lớn hơn đó chính là thiếu vắng sự hiện diện của bản thân nhà văn Lê Lựu trong đời sống văn học của chúng ta. Bản thân Lê Lựu đã là một nhân vật lớn trong bất kỳ một cuốn tiểu thuyết nào của các tác giả khác, xung quanh con người và cuộc sống của ông đã dệt nên bao giai thoại khiến cho người đọc, người nghe cười đến ngả nghiêng, và đương nhiên ông luôn là nhân vật của chính bản thân ông. Khi đã dám đưa chính mình ra để làm nhân vật, để mà đắp lên mình bao “chiếc mặt nạ” để cho người đời khóc cười với mình thì phải là một người có bản lĩnh và tài năng xuất chúng bởi tâm lí chung của con người là “xấu che tốt khoe”, nhưng Lê Lựu thì không thế. Đã từ lâu trong giới phê bình học thuật thường hay than vãn rằng văn học Việt Nam quá thiếu vắng sự hài hước, các nhà văn Việt Nam viết nghiêm túc quá, điều đó đúng nhưng bản thân chúng tôi xét thấy chưa đủ, liệu có phải chăng chúng ta đang quan niệm hài hước phải là tiếng cười bật ra đầu môi? Cũng giống làng hài kịch nước nhà hiện nay cũng lắm tiếng cười đấy chứ, họ còn tự phong cho nhau là ông hoàng, vua hài… nhưng những tiếng cười “cù nách” chỉ có giá trị nhất thời và đem lại tiếng cười quá dễ dãi cho lớp người bình dân, nếu cứ kéo dài mãi thì chẳng góp được ích lợi gì trong việc nâng cao trình độ kiến thức thưởng thức nghệ thuật của quần chúng, còn tiếng cười của những nghệ sĩ hài thuở trước như Trịnh Thịnh, Trịnh Mai… nó còn sống lâu bền với thời cuộc. Vì tiếng cười ấy mang đầy hàm lượng trí tuệ. Tiếng cười có thể không đến ngay và luôn, nhưng tiếng cười còn ở mãi trong mỗi người xem khi nghĩ đến. Và xét cho đến tận cùng thì hình như tiếng cười từ những bi kịch mới là tiếng cười đọng lại sâu nhất trong lòng người đọc. Chúng tôi thấy được điều ấy ở trường hợp của Lê Lựu. Trở lại tiếng cười trong tác phẩm văn học, mỗi khi nhắc đến yếu tố này, người ta nghĩ ngay đến Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, đúng là mỗi câu văn của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ luôn gây cho người đọc những tiếng cười với những trạng huống khác nhau, cười đấy và buồn đấy, cười đấy rồi khinh đấy, cười đấy rồi khóc đấy… Nhưng tiếng cười của Vũ Trọng Phụng là tiếng cười “của một ai đó ở ngoài tác giả” điều đó cũng tốt nhưng hình như nó vẫn chưa thấm bằng tiếng cười của Lê Lựu và Nam Cao (ở đây chúng tôi không so sánh về giá trị nghệ thuật của tác phẩm cũng như tài năng của các tác giả). Sở dĩ có nhận định như vậy là vì hình như toàn bộ tác phẩm của Lê Lựu, ông đều “mổ bụng mình ra cho thiên hạ xem”, những nhân vật chính trong những sáng tác của Lê Lựu đều là những Lê Lựu ”phẩy” mà hiện hình lên trang sách. Ông đã biến mình thành nhân vật của chính mình, đưa cái dị mọ nhôm nhoam của chính mình ra để giễu và người đọc qua nhân vật của ông đã soi chiếu lại đời sống, soi chiếu lại chính mình và xã hội đương thời. Trường hợp này cũng xuất hiện ở nhà văn Nam Cao như nhà văn Tạ Duy Anh đã từng nhận định: “Theo tôi, nếu đọc thật kĩ, sẽ thấy Nam Cao mới thực là nhà văn hài lớn nhất của văn chương Việt. Dám mang mình ra để cười nhạo, biến mình thành nhân vật hài rồi lồng vào đó sự phê phán thời đại, chưa bao giờ là dễ dàng với bất cứ người cầm bút nào”. Nhưng qua khảo sát chúng tôi thấy, cái sự “triệt để” ở Nam Cao vẫn chưa bằng Lê Lựu, nếu xem tác phẩm Chí Phèo là đỉnh cao của sự nghiệp văn chương Nam Cao thì ở đó chúng tôi thấy vẫn còn mờ nhạt thậm chí là thiếu vắng hình bóng của Nam Cao và còn ở nhiều tác phẩm khác của ông cũng thế. Nhưng chúng ta thử ngẫm lại xem, Lê Lựu đậm đặc trong từng tác phẩm của ông, mà tác phẩm nào cũng có cái để cười, có cái để mà đau, mà suy ngẫm. Đọc Lê Lựu ở từng câu, từng chữ thì sẽ ít gây cười, nhưng ở những chi tiết, những trường đoạn và sau khi đọc kỹ, ngẫm kỹ sẽ gây cười. Ví dụ chuyện của anh Sài trong Thời xa vắng chẳng hạn. Theo sự chỉ đạo của tổ chức – mà thực chất là một anh “đại diện” tổ chức – là Sài phải “kiên quyết cắt đứt quan hệ với người mình yêu” để “thực sự yêu vợ”. Hay đoạn viết về buổi họp gia đình, bữa cơm khi nhà có khách, đám ma ông đồ trong Thời xa vắng được miêu tả sống động và hài hước, tạo được một không khí “nhà quê” rất đặc trưng Lê Lựu. Trong truyện Đại tá không biết đùa , Đại tá Hoàng Thủy để rèn luyện con, ông đã yêu cầu công an huyện cho Tùy đi tập trung cải tạo, tự xin hoãn đi học đại học ở nước ngoài để làm công nhân, bắt con phải từ bỏ tình yêu với cô gái từng yêu một người khác vì cho rằng “người ta đã bỏ được người thứ nhất cũng dễ dàng bỏ đến người thứ một trăm”. Lê Lựu có biệt tài đưa cái hồn nhiên, dân dã vào trong tác phẩm và đặt tên nhân vật, tạo tình huống để có tiếng cười, mặt khác, ông cũng có tài khi đưa vào tác phẩm những nhân vật ngớ ngẩn, duy ý chí, cứng nhắc rập khuôn “ngu, ác một cách hồn nhiên” để tạo cho người đọc những tiếng cười thâm sâu mà chua chát. Hay tình huống ông Tâm tốt tính, hiền lành nhưng nhu nhược. Một ông Địa thâm trầm nhưng hèn hạ và độc ác ngấm ngầm trong Hai nhà . Thực chất hai ông chính là hai mặt của một con người, nhưng cái trớ trêu ở chỗ dù hiền lành hay độc ác thì cuối cùng cũng bị những người đàn bà lừa cho trắng mắt, dù dân gian có câu: “Đàn ông nông nổi giếng khơi / đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”. Lê Lựu đưa ra một phản đề để người đọc suy ngẫm và cười và đau, cười chua chát cho nhân tình thế thái, cho đạo lý, có tình yêu, tình nghĩa vợ chồng… Bìa tiểu thuyết Hai nhà của nhà văn Lê Lựu. Từ trước tới nay khi nhắc đến Lê Lựu , không hiểu vì sao người đọc và cả các nhà nghiên cứu thường ít nhắc đến cuốn tiểu thuyết Hai nhà của ông. Theo cái sự đọc của chúng tôi, nếu đọc và ngẫm kỹ, chính tiểu thuyết Hai nhà là “tập hai” của Thời xa vắng dù tất cả các nhân vật đều khác tên, khác tuổi. Nhưng khi đọc ta sẽ thấy Tâm trong Hai nhà chính là Sài trong Thời xa vắng . Tâm và Sài đều đánh mất bản thân, đều nín nhịn, chiều chuộng vợ và cuối cùng đều bị phản bội. Kết cục của Tâm là hai đứa con mà anh dốc lòng chăm bẵm đều không phải con đẻ của anh, cay đắng hơn, đứa con của một người bạn thân chết oan trong trò gian dâm của vợ anh. Hai nhà và Thời xa vắng đều dần mở ra những ô cửa sổ để người đọc khám phá căn nhà rộng lớn có tên Lê Lựu, tựu trung lại là những bi kịch do chính con người tạo ra, những bi hài kịch do lòng hận thù, ích kỷ, tham lam, dâm đãng, vô văn hóa của chính con người. Cũng có thể do cái bóng của Thời xa vắng quá lớn nên đã chen mất Hai nhà chăng? Hay vì văn phong của Hai nhà khác với văn phong của Lê Lựu vốn có? Trong Hai nhà là một Lê Lựu lọc lõi, sâu cay và lạnh lùng một cách triệt để, một Lê Lựu dám dấn thân đi đến tận cùng của cái ác, cái giả trá và lật lọng? Mà người đời thì vốn thích ấm áp và vị tha? Có phải vì những điều trên mà Hai nhà ít được nhắc đến? Chúng tôi vẫn tin rằng đến một ngày nào đó, nếu bạn đọc đọc kỹ cuốn tiểu thuyết Hai nhà của nhà văn Lê Lựu sẽ nhìn được thêm một mặt vốn khuất lấp của chính Lê Lựu. Tuy nhiên, nếu đọc văn học mà tin một trăm phần trăm nhân vật là tác giả thì quả là mới đọc ở con mắt chứ chưa đọc bằng cái đầu, nhưng trường hợp của Lê Lựu thì mới chỉ đọc bằng con mắt cũng đã dễ nhận ra, còn nhận ra bao nhiêu phần trăm thì tùy thuộc ở bạn.
Lê Lựu – nhà văn của những tiếng cười – Tác giả: Nguyễn Thế Hùng
1,750
Sau những ngày nắng nóng gay gắt, chiều 7/5 tại các huyện Quỳ Châu , Quế Phong , Kỳ Sơn đã xuất hiện mưa lớn, gió giật mạnh khiến một số nhà dân bị tốc mái. Theo đó, vào chiều ngày 7/5 tại các huyện Quỳ Châu, Kỳ Sơn, Quế Phong… đã xảy ra tình trạng mưa lớn, giống lốc khiến nhiều nhà dân bị hư hỏng, cây xanh đổ ngã, cột điện gãy. Cột điện tại xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu bị gãy sau trận lốc xoáy. Nhà của ông Ngân Văn Dục ở xã Mường Nọc, huyện Quế Phong bị đổ hoàn toàn do lốc xoáy. Nhiều cây xanh cũng bị đổ ngã do trận lốc xoáy. Giông lốc làm nhà dân bị tốc mái. Hiện, các địa phương đang thống kê thiệt hại sau trận mưa lớn kèm theo gió lốc, đồng thời hỗ trợ các hộ dân khắc phục hậu quả.
Nghệ An: Xuất hiện mưa lớn, giông lốc tại một số huyện miền núi
144
Ngoài các lễ theo tục lệ, còn một lễ đặc biệt trong đám cưới hoàng tử triều Nguyễn gọi là lễ phát sách, cử hành trước khi cô dâu từ giã gia đình về nhà chồng trở nên bà phi. Một nghi lễ trong cung Nguyễn. Mặc dù tại Việt Nam có tục tảo hôn, nhưng các con vua chỉ thành hôn khi đã 18 tuổi. Cho đến năm 18 tuổi, các hoàng tử sống bên cha mẹ trong cung. Bắt đầu từ tuổi này các hoàng tử phải ra ở riêng tục gọi là xuất phủ. Khi ra ở riêng lập phủ, hoàng tử có một số các quan văn võ, thường là cấp nhỏ, giúp việc và một số lính hầu. Con phải ra ở riêng; thương con, phụ hoàng và mẫu hậu phải tính chuyện lập đôi bạn cho con. Nhà vua, trong một buổi hội họp quần thần nêu ý muốn nạp phi cho hoàng tử và hỏi xem trong số các quan có ai có con gái có thể sánh duyên với hoàng tử được. Khi có một vị đại thần nhận gả con gái cho hoàng tử, nhà vua sẽ chọn hai vị đại thần có tuổi, vợ chồng song toàn con cái đàn đống làm Chánh và Phó sứ trong việc giao thiệp với nhà gái. Lãnh mệnh vua, Chánh phó sứ cầm mao tiết, biểu hiện quân quyền cùng một số người tùy tùng tới nhà gái để tuyên đọc thánh chỉ. Nhà gái đã sửa soạn sẵn, lập hương án xây về hướng Nam nghênh tiếp Chánh phó sứ. Chánh phó sứ đứng hai bên tả hữu hương án cũng xây về hướng Nam, bố cô gái mặc áo thụng xanh quỳ trước hương án. Viên Chánh sứ đọc thánh chỉ truyền cho cô gái kết duyên với hoàng tử và hẹn ngày để bố cô gái vào điện lĩnh mệnh. Bố cô gái nghe thánh chỉ, lễ năm lễ. Xong, một tiệc rượu thết đãi sứ đoàn, trước khi sứ đoàn về cung phục mệnh. Đúng ngày hẹn bố cô gái phải vào chầu vua, lại lễ năm lễ để tạ ơn và mẹ cô gái vào cung để lạy tạ hoàng hậu. Sau đó Khâm thiên giám phải xem ngày để tiến hành lễ cưới. Ở đây mọi lễ nghi của phong tục vẫn được theo đủ. Các nghi thức truyền thánh chỉ là lễ tạ ơn được thay thế cho các lễ đầu tiên: nạp thái, vấn danh và nạp cát. Từ đây, bắt đầu lễ nạp lệ. Vua truyền Bộ Lễ sắm sửa lễ vật, ghi vào một tờ thiếp đựng trong tráp đỏ. Thường các lễ vật gồm: 2 thoi vàng, 4 thoi bạc, 2 cây gấm, 6 cây lụa, 20 cây vải hảo hạng, 1 đôi xuyến, 1 đôi hoa tai, 1 bộ trâm vàng, 2 chuỗi hạt châu, 2 vò rượu, 1 mâm trầu cau, 1 con trâu, 1 con bò, 1 con lợn. Trước ngày nạp lễ một hôm, nhà vua thiết triều tại điện Cần Chánh. Giữa điện có kê chiếc bàn trên để cờ mao tiết và tráp thiếp. Sau khi triều thần quỳ lạy xong, nhà vua báo cho bá quan biết về ngày giờ hôn lễ cử hành và ủy cho Chánh Phó sứ lo lễ Nạp tệ. Chánh phó sứ lĩnh thánh chỉ cầm mao tiết và tráp thiếp. Hai vị tới nhà Văn võ Công thự, tại đây các lễ vật đã sắp đủ, để nhận lễ vật rồi lên đường tới nhà gái. Có mấy vị đại thần và mấy vị mạng phụ đi theo. Lễ vật do quân lính khiêng gánh. Tại nhà gái, hương án đã được thiết lập để đón thánh chỉ. Lễ vật đưa vào trong nhà. Chánh phó sứ lại đứng hai bên tả hữu hương án, ông bố vợ lại quỳ trước hương án để nghe thánh chỉ. Chánh sứ giao cho bố vợ lễ vật và tráp thiếp. Ông này nhận rồi trao lại cho một viên quan quỳ gần đấy. Lễ phát sách là nghi lễ đặc biệt trong đám cưới hoàng tử nhà Nguyễn. Trong ảnh là một cuốn kim sách niên hiệu Bảo Đại thứ 9 (1934), Hoàng đế Bảo Đại phong lập Hoàng hậu Nam Phương. Ảnh: Lê Hiếu. Sau đó, ông lại lễ năm lễ để tạ ơn nhà vua. Sau lễ nạp lệ là các lễ khác của tục lệ. Ngoài các lễ theo tục lệ, còn một lễ đặc biệt gọi là lễ phát sách, cử hành trước khi cô dâu từ giã gia đình về nhà chồng trở nên bà phi. Nhà vua cho làm một quyển sách bằng vàng gọi là Kim sách nói về cuộc hôn phối của hoàng tử với bà phi, lý lịch của hai người. Nhà vua cũng ra lệnh sắm cho bà phi mũ, áo, giầy và kiệu. Cũng như các lễ trước, nhà vua lại truyền chỉ cho Chánh phó sứ mang trao kim sách, với lễ vật mới sắm. Trong chuyến đi nạp lễ này có mấy bà nội cung đi theo và lúc đi đường có âm nhạc. Khi sứ đoàn tới nhà gái, bố cô gái rước mọi người vào. Chánh sứ cầm mao tiết, phó sứ bưng tráp đựng kim sách và mọi người khác mang lễ vật kéo vào. Lại nghi lễ trước hương án. Lần này sau khi bố cô gái lễ xong năm lễ, một nữ quan ra đứng trước hương án. Phó sứ trao kim sách cho nữ quan, nữ quan quỳ xuống nhận, rồi sau đó cùng thị nữ bưng kim sách đi vào nhà trong. Từ trong khuê phòng, bà mẹ đưa cô gái ra nghênh tiếp. Kim sách lại được mang ra đặt lên hương án. Nữ quan dẫn cô dâu đến trước hương án lễ năm lễ, rồi vào phòng riêng thay triều phục của vua ban, đoạn lại quỳ trước hương án để đọc kim sách. Kim sách đọc xong, nữ quan trao cho cô dâu. Cô dâu nhận lấy đưa ngang trán, trao lại cho một nữ quan khác để đặt lên hương án. Kế đó, hương án được dẹp đi và được thay vào bằng một chiếc ghế đặt trên một chiếc bực. Nữ quan mời cô dâu, lúc đó là bà Phi ngồi vào ghế để các bà mạng phụ, thị nữ sắp hàng lễ mừng mỗi người bốn lễ. Lễ mừng xong đến tiệc tùng nhà gái khoản đãi, rồi sau cô dâu được đưa về phủ của ông Hoàng theo lễ thân nghênh. Ngày hôm sau, bố mẹ cô dâu vào cung để tạ ơn vua và hoàng hậu. NXB Trẻ
Vật phẩm đặc biệt trong đám cưới hoàng tử triều Nguyễn – Tác giả: Toan Ánh
1,104
Theo số liệu cập nhật ngày 7/5, số người thiệt mạng do lũ lụt ở miền Đông Congo đã tăng gần gấp đôi, lên gần 400 người. Cảnh tàn phá sau những trận mưa lớn gây lũ lụt và lở đất ở Nyamukubi, miền Đông Congo, ngày 6/5/2023. Ảnh: AFP/TTXVN. Ông Thomas Bakenge, quan chức quản lý lãnh thổ Kalehe thuộc tỉnh Nam Kivu, khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất, xác nhận đã tìm thấy 394 thi thể, song nhấn mạnh đây chỉ là con số tạm thời vì công tác tìm kiếm cứu hộ đang tiếp diễn. Một quan chức khác tại Kalehe, ông Delphin Birimbi cho biết hàng nghìn người đang mất tích. Ông cũng cho biết thêm rằng các bác sĩ đã đến để chữa trị cho những người bị thương nhưng các cộng đồng ở đây vẫn rất cần thêm trợ giúp khẩn cấp. Trong khi đó, việc hai tuyến đường chính không thể lưu thông đang cản trở các nỗ lực trợ giúp. Ngày 8/5, Chính phủ Congo đã tuyên bố một ngày quốc tang các nạn nhân lũ lụt. Tổng thống Felix Tshisekedi đã cử một đoàn thị sát khu vực bị ảnh hưởng trong ngày 8/5. Mưa lớn tại Kalehe bắt đầu vào tối 6/5 khiến nhiều con sông tràn bờ, đem theo dòng nước lũ cuốn trôi nhiều ngôi nhà ở làng Bushushu và làng Nyamukubi. Trong những ngày gần đây, mưa lớn cũng gây thiệt hại ở các nước Đông Phi, như Uganda và Kenya . Đầu tuần trước, lũ lụt và lở đất ở Rwanda, nước láng giềng của Congo, đã khiến 129 người thiệt mạng.
Lũ lụt ở Congo: Số nạn nhân thiệt mạng tăng lên 394 người
267
Đọc những cuốn sách kinh điển đưa ta vào hành trình khám phá chung của nhân loại. Đó là hành trình xuyên văn hóa và xuyên thời gian. Ảnh: openart.ai. Đọc sách kinh điển, độc giả có thể hiểu về con người tốt hơn, đánh giá lại thế giới hiện đại, có những cuộc đối thoại với thế hệ trước… Đối với nhiều người, đọc sách kinh điển đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Nhưng những cuốn sách bị gắn mác “khó nhằn” này luôn có vị trí đặc biệt trong mắt người yêu sách. Theo BigThink, sách kinh điển giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới hiện đại. Những cuốn sách này là tác phẩm hay, đã được thời gian kiểm chứng, đó là một lợi thế mà sách mới xuất bản không có. Một trong những rào cản phổ biến nhất khi độc giả tiếp cận các cuốn sách cũ là ý nghĩ cho rằng những tác phẩm này đã lỗi thời. Để sống cuộc sống trong xã hội hiện đại, việc hiểu về chiến tranh thời trung cổ, về sự cơ cực của tầng lớp lao động thời Victoria… có vẻ không mấy quan trọng. Nhưng sự thật là những cuốn sách cũ vẫn có thể cung cấp cho chúng ta những hiểu biết có giá trị về những phẩm chất phổ quát tạo nên con người nói chung. Mặc dù niềm tin và kiến thức tập thể của con người đã thay đổi nhiều, những đấu tranh cơ bản, những câu hỏi ta đặt ra về cuộc sống và giá trị của con người… vẫn có thể được tìm thấy trong tác phẩm của các tác giả từ thế hệ trước như Aristotle, Spinoza và Descartes. Hay như Thomas Paine và Karl Marx cho đến nay vẫn tiếp tục định hình cách chúng ta nhìn nhận chính trị, tổ chức xã hội và nhân quyền. Trong văn học, những câu chuyện và chủ đề đã thu hút độc giả từ nhiều thế kỷ trước vẫn tiếp tục gây được tiếng vang. Niềm kiêu hãnh của Odysseus, niềm đam mê của các nhân vật Shakespeare viết và nỗi sợ hiện sinh của Ivan Ilyich vẫn là những đặc điểm không thể dập tắt trong đời sống nội tâm của chúng ta. Đọc những cuốn sách kinh điển đưa ta vào hành trình khám phá chung của nhân loại. Đó là hành trình xuyên văn hóa và xuyên thời gian. Ngay cả khi trong hành trình ấy, bạn bắt gặp những tư tưởng đã lỗi thời, những nhận định thiếu hiểu biết hay thậm chí mang tính xúc phạm thì đó cũng là điều tốt. Như nhà phê bình Michael Dirda trên tờ Washington Post đã chỉ ra rằng nhận ra sai lầm, thành kiến và những hành vi vô nhân đạo không đồng nghĩa với dung túng chúng. Dirda viết: “Điều quan trọng là tiếp thu kiến thức, mở rộng nhân sinh quan, thử nhìn thế giới qua con mắt của người khác. Những cuốn sách vĩ đại là bởi chúng đối thoại được với chúng ta, từ thế hệ này qua thế hệ khác”. Những cuốn sách cũ cho phép chúng ta theo dõi được chủ đề tranh luận từ đầu nguồn. Ảnh: Wikimedia Commons. Hẳn nhiên, nhiều độc giả hiện đại khi đọc các tác phẩm kinh điển vẫn nhận thấy những tư tưởng ngớ ngẩn, mù quáng hay sai lầm. Không phủ nhận rằng những tác giả này được định hình bởi thời đại, văn hóa và kiến thức chung thời ấy. Họ không nhìn ra những thành kiến và giả định của chính họ, điều mà giờ đây chúng ta nhận thấy rõ ràng hơn nhờ khoảng cách lịch sử. Nhưng cũng nên nhớ rằng, bản thân chúng ta cũng không tránh được những thành kiến và giả định của thời đại mới. Những điều này vẫn che mờ khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp của chúng ta và thế hệ tương lai hẳn cũng sẽ nhìn vào những sáng tác hiện nay với vẻ hoài nghi tương tự. Đọc những cuốn sách cũ sẽ giúp chúng ta tránh được những hạn chế này. Hòa mình vào các nền văn hóa và tư tưởng của thời đại trước sẽ cho chúng ta hiểu về cái gọi là “giá trị của sự kỳ lạ” (theo Jeffery Brenzel, giảng viên khoa triết học của trường Đại học Yale). Theo Brenzel, đọc sách cũ sẽ đem lại trải nghiệm như đi du lịch nước ngoài. Và sau khi được trải nghiệm nền văn hóa khác, người du hành trở về nước và nhìn nhận nền văn hóa của họ khác đi. Họ cởi mở hơn với những giả định của chính họ và học cách xem xét lại những giả định đó một cách thấu đáo hơn. Theo nhà văn C.S Lewis, lựa chọn chỉ đọc sách đương đại là ta chỉ đang tham gia vào giữa chừng cuộc tranh luận. Cứ thế nhảy vào và theo dòng câu chuyện. Tuy nhiên, nếu tham gia cuộc tranh luận này từ đầu, bạn sẽ nắm bắt tốt hơn. Những cuốn sách cũ lưu giữ những chủ đề đàm thoại này, cho phép chúng ta theo dõi được chủ đề tranh luận từ đầu nguồn. Ta bắt gặp tư tưởng tương đồng ở triết gia Alfred North Whitehead khi ông nói: “Bạn đơn giản không thể nghiên cứu lịch sử tư tưởng phương Tây mà không bắt gặp những đối chiếu dẫn về Plato và Socrates. Bạn không thể đọc được một nhà tư tưởng không bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng này theo một cách nào đó. Chính những tư tưởng lớn từ xưa đã khiến họ đặt ra những câu hỏi mới”. Sách kinh điển có thể truyền cảm hứng, vừa khiến ta thấy ngần ngại lại vừa thách thức, khiêu khích ta. Sách kinh điển có thể truyền cho chúng ta không chỉ kiến thức và trí tuệ mà còn cả những cung bậc cảm xúc của con người. Nhưng trải nghiệm này chỉ đến khi ta tiếp cận sách kinh điển với tinh thần tự nguyện. Như Mark Twain từng châm biếm: “Một tác phẩm kinh điển là thứ mà mọi người đều muốn đọc và không ai muốn đọc”. Cũng dễ hiểu khi thế hệ mới với khả năng tập trung ngày một ngắn hơn không cảm thấy sẵn sàng đắm mình vào một tác phẩm kinh điển đồ sộ. Theo BigThink , để khắc phục suy nghĩ này, đừng tiếp cận những cuốn sách cũ hơn theo cách chúng ta đã làm ở trường. Đây không phải là những nhiệm vụ mà bạn cần phải làm để trở nên “có học”, “có văn hóa” hay để có thể “diễu võ dương oai”. Hãy cứ đợi cho đến khi một tác phẩm kinh điển cụ thể nào đó khiến bạn tò mò. Nếu bạn chưa sẵn sàng tiếp thu các triết lý của Plato, hãy thử xem các vở kịch của William Shakespeare hoặc đọc thử thơ lãng mạn của John Keats. Nếu những gợi ý trên không có vẻ hấp dẫn với bạn, hay là thử đọc truyện trinh thám, truyện kinh dị thời Victoria xem. Tranh The House of Usher của Abigail Larson. Ảnh: the-artifice. Nhân loại đã tích trữ được một kho tàng thư viện đủ rộng lớn để cho chúng ta có thừa lựa chọn rồi. Vì vậy, hãy cứ mở lòng và ngó xem có gì hấp dẫn bạn chưa. Nhà văn Italo Calvino từng gọi sách kinh điển là “những cuốn sách đem lại trải nghiệm quý giá cho những ai đã đọc và yêu thích chúng; vẫn đem lại trải nghiệm quý giá cho những ai dành cơ hội cho chúng khi họ thấy sẵn sàng”. Những tác phẩm này đã chờ đợi một thời gian dài (có khi là hàng thế kỷ) để có được vị trí vững chắc trên các giá sách rồi. Thêm vài năm nữa có là gì? Miễn là chúng ta cho chúng cơ hội chờ trên kệ sách và khi thời điểm đến, lấy chúng xuống khỏi kệ là được.
Lý do nên đọc sách kinh điển – Tác giả: Minh Hùng
1,353
Tại nơi tưởng chừng như chết chóc của hệ Mặt Trời, các nhà khoa học vừa phát hiện ra bốn thế giới có khả năng ẩn giấu nơi trú ẩn ấm áp, thân thiện cho sự sống ngoài hành tinh. Theo SciTech Daily, các nhà khoa học NASA đã phân tích lại bộ dữ liệu thú vị mà cặp đôi tàu vũ trụ Voyager của NASA thu thập được trước khi bay ra tận không gian giữa các vì sao. Nhờ đó, họ phát hiện ra điều rất thú vị ở 4 trong số 27 mặt trăng của Sao Thiên Vương. Đó là Ariel, Umbriel, Titania và Oberon, bốn mặt trăng có kích thước lớn của hành tinh xa xôi này.’ Cấu trúc bên trong các mặt trăng Sao Thiên Vương – Ảnh: NASA. Vùng không gian quanh Sao Thiên Vương, hành tinh thứ bảy của hệ Mặt Trời , chắc chắn là cực kỳ lạnh giá. Tuy nhiên lớp vỏ băng của chúng, giống như một số mặt trăng Sao Mộc hay Sao Thổ, có thể là áo giáp tuyệt vời để lưu giữ một đại dương ngầm ấm áp. Một mô hình đã được xây dựng với sự bổ sung dữ liệu từ các tàu vũ trụ khác của NASA từng hoạt động gần khu vực hoặc nghiên cứu các thế giới tương tự: Galileo, Cassini, Dawn và New Horizons. Kết quả cho thấy 4 mặt trăng Ariel, Umbriel, Titania và Oberon không chỉ có lợi thế ở lớp vỏ băng, mà đường kính từ 1.160 km đến 1.580 km sẽ cho phép chúng giữ nhiệt bên trong bởi sự phân rã phóng xạ vùng lõi, cung cấp nguồn nhiệt tiềm năng trong lớp phủ đá mà tàu vũ trụ đã tìm thấy bằng chứng. Giống như Trái Đất, quá trình đó giải phóng nhiệt để nung nóng đại dương ngầm, giúp nước bên trong ở trạng thái ấm áp. Chưa kể, chúng có khả năng chứa các chất có tác dụng chống đóng băng như clorua, amoniac và muối, cũng là những thứ tồn tại trong đại dương Trái Đất. Trong số 4 mặt trăng nói trên, các mô hình cho thấy Titania và Oberon là hai thế giới thú vị nhất, đại dương có thể đủ ấm để hỗ trợ sự sống. NASA cũng khảo sát cả một mặt trăng khác là Miranda, nhưng rất tiếc tuy nó cũng có những yếu tố để sở hữu đại dương ngầm ấm áp như 4 mặt trăng kia, nhưng lại không có khả năng giữ đại dương của mình lâu. Các bằng chứng cho thấy nó bị mất nhiệt quá nhanh và đến thời điểm hiện tại có thể chỉ còn là một khối cầu băng. Đây không phải lần đầu tiên thế giới chứa đựng sự sống tiềm năng được các nhà khoa học phát hiện. “Khi nói đến các thiên thể nhỏ – hành tinh lùn và mặt trăng nhỏ – các nhà khoa học hành tinh trước đây đã tìm thấy bằng chứng tiềm năng về đại dương ở các nơi như hành tinh lùn Ceres, Sao Diêm Vương, mặt trăng Mimas của Sao Thổ…” – tiến sĩ Julie Castollo-Rogez từ Phòng thí nghiệm Sức đẩy phản lực của NASA, tác giả chính của nghiên cứu cho biết. Có những cơ chế đặc biệt mà các nhà nghiên cứu NASA cũng phải thừa nhận là chưa hiểu hết, do đó việc xác định thêm những thế giới tương tự như 4 mặt trăng của Sao Thiên Vương là rất quý giá. Các phát hiện cũng định hướng cho những sứ mệnh tương lai của NASA, nhất là các sứ mệnh tìm kiếm sự sống ngoài hành tinh mà họ dày công theo đuổi. Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Geophysical Research: Planets.
Bốn thế giới ngoài hành tinh lộ diện thứ giống Trái Đất: Sự sống tiềm năng?
624
Dù biết đến danh tiếng động Phong Nha ( Quảng Bình ) là một trong những hang động đẹp nhất thế giới với dòng sông ngầm dài nhất, hồ nước ngầm đẹp nhất, nhưng hôm nay tôi mới được đặt chân tới nơi này… Bên thuyền động Phong Nha và “con đường” vào thăm động. Cô Hà, người dẫn đường giục chúng tôi mau chóng xuống thuyền. Thấy “lạ” nên tôi vội hỏi lại: “Mình đi thăm động Phong Nha kia mà?”. Cô Hà cười vui cho biết: “Vâng chú. Thăm động Phong Nha phải đi thuyền chú ạ”. Thì ra, khác với những hang động mà tôi đã từng được đến, như động Thiên Đường là phải men theo sườn núi rồi còn lên mấy trăm bậc thang mới lần mò được vào trong động, thì muốn vào thăm động Phong Nha phải đi bằng thuyền bởi lẽ động Phong Nha vốn là một dòng sông ngầm. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, khi ngồi trò chuyện cùng với các anh chị trong Hội Văn nghệ Quảng Bình, lúc đó nữ nhà văn Trác Diễm đã kể. Tôi nhớ nữ nhà văn xinh đẹp Trác Diễm thời còn “loay hoay” chuyện viết lách, đã từng là hướng dẫn viên Khu du lịch Phong Nha – Kẻ Bàng, nên chuyện về hang động nổi tiếng này cứ gọi là vanh vách. Trác Diễm kể: Cô tốt nghiệp khoa Việt Nam học – Trường Đại học Quảng Bình. Thế thì đúng rồi. Học khoa ấy nên tình yêu quê hương dạt dào là phải rồi. Lại một nụ cười con gái khiến cánh mày râu phải “hồn xiêu”. Tôi hỏi nhà văn: “Nẻo vào văn học của Trác Diễm như thế nào nhỉ?”. Trác Diễm đưa tay sửa kính, rồi cô kể: Ra trường Trác Diễm hăng hái trở lại huyện nhà. Cô đầu quân vào làm thuyết minh viên cho Trung tâm du lịch Phong Nha – Kẻ Bàng, rồi cô kiêm luôn hướng dẫn viên du lịch. Cô quan niệm: “Nói về danh thắng của quê hương phải có một cách nói mới”. Và cái cách mới của Trác Diễm là để rồi một ngày đẹp trời của năm 2010, Trác Diễm ngồi ngay trên thuyền, kê tập vở lên đùi để viết tiểu thuyết. Câu chuyện kể về cô gái tên là Thôi Văn. “Ồ sao lại là Thôi Văn nhỉ? Cái tên nghe là lạ?” – tôi thật thà hỏi. Trác Diễm cười, thì ra đó là cái tên “cúng cơm” của cô. Thuở cô mới lọt lòng, cha cô, một nhà báo kiêm nhà thơ ở chiến trường đã đặt là “Thôi Văn” với hàm ý không muốn con gái đi theo nghiệp chữ nghĩa. “Thôi Văn” cũng là nhân vật chính trong tiểu thuyết đầu tay của cô. Tôi nghe xong câu chuyện viết lách của Trác Diễm, sau đó hỏi thêm về sự tích động Phong Nha, về địa danh cô đã viết trong tiểu thuyết đầu tay có tên là “Hồn lau trắng” của mình, cô kể rằng: “Ngày xưa, có vị tiên sư đại pháp người Trời thường xuống du ngoạn cảnh hạ giới, thấy yêu mến nơi này bèn ở lại rồi dạy dân cách làm ăn. Một năm kia xảy ra đại hạn, muôn vật khô héo; để cứu dân, vị tiên sư đại pháp lén về Trời khơi trộm nguồn nước từ Thiên cung chảy xuống nhưng vì là khơi trộm nên vị tiên sư đại pháp phải cho dòng chảy chảy từ trong núi ra. Dòng nước chảy ra đã tưới mát cỏ cây, cứu sống muôn loài. Nhưng sau đó vị tiên sư đại pháp bị triệu về Trời và phải chịu hình phạt của Thiên đình. Dân làng cảm kích tấm lòng của vị tiên sư đại pháp nên đặt tên cho sông này là sông Son”. Trong lòng hang động Phong Nha. Sông Son là một dòng sông ngầm và hợp lưu vào sông Gianh. Và ngọn núi mà vị tiên sư đại pháp cho dòng nước chảy ngầm qua chính là núi thuộc vùng núi đá vôi Kẻ Bàng. Còn tên Phong Nha thì: Ở phần ghi chép danh sách các phủ, huyện, tổng, xã, thôn, trang, trại, sách của hai xứ Thuận – Quảng, nhà bác học Lê Quý Đôn cho biết: Phong Nha lúc ấy là tên của một đơn vị hành chánh ở miền núi, tương đương với cấp làng, xã ở miền đồng bằng. Tôi hỏi chen ngang: “Vậy tên Phong Nha có nghĩa là gì và sao lại gọi là động Phong Nha?”. Nhà văn Trác Diễm cho biết: “Sau này khi phát hiện ra khu hang động này người ta đã dùng địa danh này để gọi luôn tên của khu hang động tại địa phương?”. Nữ văn sĩ còn cung cấp thêm: “Phong có nghĩa là gió. Còn Nha có nghĩa là răng. Động vốn là một hang ngầm có sông ngầm chảy nên ở cửa động luôn phát ra âm thanh của gió. Bên trong hang động những thạch nhũ rủ xuống thoạt nhìn cứ ngỡ là những chiếc răng nên người dân gọi là Gió Răng, nghĩa là Phong Nha đó mấy anh”. Con thuyền máy chở chúng tôi sau khi chui qua cửa động Phong Nha thì người điều khiển tắt máy. Không gian đang sục sôi với tiếng máy nổ, với tiếng nước vỗ ì oạp hai bên mạn thuyền, thì đột ngột im ắng. Tôi vội đưa tay dụi mắt, vài giây sau đã quen với anh sáng trong động Phong Nha, tôi mới bắt đầu nhận thấy những khối, những sợi thạch nhũ cứ như từ trên trời đang rỏ xuống. Người điều khiển máy thuyền giờ chuyển sang tay chèo. Anh lái chèo rất thong thả, nhẹ nhàng khua mái chèo nhè nhẹ để con thuyền chậm rãi ngược sông Son đi sâu vào trong động Phong Nha. Tôi cúi xuống nhìn mặt nước, đang là mùa khô nên nước sông Son trong văn vắt, ngỡ như nhìn được tận đáy sông vậy. Câu chuyện mà nhà văn Trác Diễm đã kể trong tiểu thuyết của mình được gợi nhớ lại. Theo đó, những ai chưa một lần đặt chân đến động Phong Nha, động Tiên Sơn, được ngược dòng sông Son thì khi được đọc tiểu thuyết “Hồn lau trắng” sẽ được chiêm ngưỡng “Những khối thạch nhũ óng ánh buông rũ xuống như những bức rèm dệt thêu kim tuyến. Xung quanh còn hội tụ rất nhiều khối nhũ có hình dáng giống tượng Phật Bà Quan Âm, cảnh quần tiên hội tụ, rồng phượng giao duyên”. Và sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh “ngã ba sông hiện ra trước mắt mềm mại như những tấm lụa đào. Hai bên bờ sông là những thửa ruộng xanh, vàng từng đám loang lổ như những vệt nắng”. Giờ thì chúng tôi đã thực sự đặt chân tới động Phong Nha. Câu chuyện mà nữ văn sĩ Trác Diễm kể “cuốn” chúng tôi vào một không gian huyền thoại. Mạnh dạn thò tay xuống mặt nước cho ngập bàn tay. Tôi có cảm giác dường như có gì đang níu bàn tay mình? Dường như có bàn tay ai đang nắm níu lấy bàn tay mình. Một chút hoảng hốt nhưng rồi cảm giác đó chợt tan biến. Trong tôi đang dấy lên sự thích thú. Con thuyền vẫn lặng lẽ đi vào sâu bên trong. Không một ai trên thuyền cất lên tiếng, dường như mọi người cũng như tôi lúc này? Lắng nghe và cảm nhận. Hình như đâu đó đang có những âm thanh xa xôi, mờ ảo vọng tới. Nhớ ra rằng nhà văn Trác Diễm đã bảo: “Vào Phong Nha sẽ nghe được tiếng nói của người xưa. Cô đã gọi đó là “tiếng vọng Ma Coong”. Nữ nhà văn quê Quảng Bình với tình yêu tha thiết với thiên nhiên kỳ vĩ của quê hương mình đã lấy vùng đất di sản Phong Nha – Kẻ Bàng làm bối cảnh cho tiểu thuyết “Tiếng vọng Ma Coong”. Trong “Tiếng vọng Ma Coong” là thấy đầy ắp chuyện lạ của thiên nhiên và phong tục kỳ bí của tộc người sinh sống nơi đây. Hình như con thuyền đang được người “chèo đò” bẻ hướng quay đầu. Vào tới đây thấy lòng động chợt im ắng hơn và không gian cũng tối hơn. Muốn vào sâu hơn nữa bởi động Phong Nha dài gần 8 cây số, nhưng “đoạn đường” cho du khách vào thăm động đến đây cũng kết thúc. Tôi hơi tiếc nuối nhưng rồi người chèo đò cho thuyền neo vào một bến cát. Chúng tôi lên bến cát và đặt những bước chân đầu tiên trong động. Bấy giờ chúng tôi mới được đặt tay lên những thạch nhũ muôn hình kỳ vĩ, mới cảm nhận thực sự luồng sinh khí từ trong động. Cảm giác man mác và huyền diệu dần lan lên và tỏa khắp cơ thể. Ai đó vừa thốt lên: “Thật không có gì tuyệt vời hơn”. Ánh sáng tự nhiên từ bên ngoài ùa vào khi chúng tôi ra tới cửa hang. Đó là một hình ảnh thật diệu kỳ, cứ như lần đầu tiên được bước tới ánh sáng vậy. Bên ngoài lùa vào chút gió, lại nghe đâu đây tiếng vọng người xưa đang xạc xào từ hàng ngàn bông hoa lau trắng.
Đi thuyền thăm động Phong Nha
1,567
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế quốc gia mang tính chiến lược chỉ đạo sự phát triển kinh tế – xã hội (KT – XH) và phân bố nguồn lực theo không gian (lãnh thổ). Những mục tiêu phát triển KT – XH không thể tách rời Luật Đất đai với quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) là trung tâm và ngược lại, Luật Đất đai và QHSDĐ không thể tách rời các chiến lược KT – XH. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế quốc gia mang tính chiến lược chỉ đạo sự phát triển KT – XH và phân bố nguồn lực theo không gian (lãnh thổ) dựa trên QHSDĐ. QHSDĐ là sản phẩm rất quan trọng của Nhà nước và là công cụ hiệu quả xây dựng kế hoạch liên kết các nguồn lực nhằm phát triển đất nước bền vững. Các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài nguyên (đất đai…) được quy hoạch và có kế hoạch triển khai tốt, đến lượt nó sẽ gây dựng niềm tin cho các nhà đầu tư và đồng thuận xã hội, tác động đến các nguồn lực khác như sản phẩm, con người, xã hội, và đặc biệt là tài chính tạo sự cộng hưởng phát triển tích cực cho tổng thể nền kinh tế. Trên thế giới, cách đây hơn 30 năm, Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21), được hơn 170 quốc gia phê chuẩn tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất ở Rio de Janeiro nêu rõ rằng, QHSDĐ đóng một vai trò rất quan trọng trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Trong trường hợp tranh chấp quyền lợi trong sử dụng đất đai, nó cho phép giải quyết các mâu thuẫn phát sinh và dung hòa các lợi ích để đạt được các thỏa thuận bảo đảm sự bền vững của xã hội. Thực tế quá trình phát triển xã hội loài người, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh vật chất – văn minh tinh thần, các thành tựu kỹ thuật vật chất – văn hóa khoa học đều được xây dựng trên nền tảng cơ bản – sử dụng đất. Chính vì vậy, những mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội bền vững không thể tách rời QHSDĐ và ngược lại, QHSDĐ không thể tách rời các chiến lược, kế hoạch phát triển KT – XH của đất nước và từng địa phương. Ở Việt Nam , đất đai là một loại tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai vì vậy QHSDĐ là một trong những nội dung quan trọng của Luật Đất đai, liên quan đến việc phân bổ đất cho các mục đích sử dụng khác nhau một cách tổng thể theo cách cân bằng các giá trị kinh tế, xã hội và môi trường. QHSDĐ là căn cứ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất và có vai trò quan trọng trong điều tiết thị trường bất động sản. QHSDĐ được lập ở cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược phát triển KT – XH nhanh, bền vững cũng như bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Những năm qua công tác quản lý đất đai có những tiến bộ đáng kể, trong đó QHSDĐ là một công cụ quan trọng, góp phần sử dụng đất đai tiết kiệm, hiệu quả và đảm bảo phát triển các nguồn lực bền vững. QHSDĐ tốt có tác động tích cực đến sự phát triển trật tự lãnh thổ quốc gia và phân vùng sinh thái kinh tế như là một công cụ hỗ trợ cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Quy hoạch lãnh thổ được thúc đẩy làm cơ sở cho các kế hoạch phát triển đồng bộ, đảm bảo ổn định biên giới cũng như quản lý các lưu vực sông, các vùng biển và ven biển. Tuy nhiên, trong một thế giới biến động không ngừng và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, việc xây dựng QHSDĐ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng cũng có nhiều bất cập dẫn đến chi phí cao (bao gồm cả chi phí cơ hội và chi phí thời gian) làm lãng phí các nguồn lực do sự kết nối không đồng bộ, đầu tư không hiệu quả và thiếu sự đón đầu của công nghệ… Có thể điểm qua 4 hạn chế chủ yếu của công tác QHSDĐ: Một là, Lý thuyết xây dựng QHSDĐ phần lớn được định hình bởi các nghiên cứu cũ dựa trên nhiều khái niệm cơ bản liên quan đến QHSDĐ truyền thống cổ điển phương Tây bất chấp cảnh quan đô thị, khoa học công nghệ cũng như cuộc sống đa văn hóa của người dân thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là ở phương Đông với mật độ dân số cao. Ngoài ra, chính sách sử dụng đất kém đã làm hạn chế nguồn cung và đẩy giá trị bất động sản ở các thành phố lớn cao một cách giả tạo, gây phát sinh một chi phí đắt đỏ cho nền kinh tế. Hai là, Chất lượng QHSDĐ và một số quy hoạch ngành, lĩnh vực chưa cao, chưa mang tính chiến lược lâu dài. Triển khai thực hiện, tính liên thông, liên kết vùng trong quy hoạch sử dụng đất chưa nhuần nhuyễn, dự báo nhu cầu sử dụng đất một số lĩnh vực chưa sát. Sự phối hợp cũng như trách nhiệm giữa các cấp, các ngành trong việc lập, điều chỉnh QHSDĐ còn hạn chế dẫn đến thiếu quy hoạch, quy hoạch treo làm bất ổn đời sống người dân, thúc đẩy lợi ích nhóm và đầu cơ để mua hoặc bán khống đất đai với mục đích thu lợi nhuận dựa trên thay đổi nhu cầu của người khác hoặc do thay đổi nguồn cung. Tất cả điều đó gây cản trở cho sản xuất kinh doanh để phát triển sản phẩm, thậm chí còn tạo ra những mâu thuẫn xã hội (hàng năm, khiếu nại hành chính liên quan đến đất đai luôn chiếm khoảng 70%) và làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Nhà nước và nguồn vốn xã hội. Ba là, QHSDĐ và các quy hoạch khác (quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới và các quy hoạch ngành, lĩnh vực khác có sử dụng đất…) còn mâu thuẫn, chưa thống nhất nên rất khó khăn trong việc triển khai thực hiện. Đặc biệt, việc quản lý, thực hiện quy hoạch chưa nghiêm túc, kịp thời, chế tài xử lý khi vi phạm quy định về xây dựng, điều chỉnh quy hoạch chưa đủ rõ, đủ răn đe sai phạm. Theo quy định hiện nay, chuyển mục đích sử dụng đất thông qua hai hình thức là đấu giá, đấu thầu và tự thỏa thuận giữa người mua – bán để chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Trong quy định đất đai hiện nay vẫn chưa xử lý tốt việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất gây thất thoát lớn do chênh lệch địa tô nhất là khi cổ phần hóa DNNN và đô thị hóa. Điều này đòi hỏi cần quản lý mục đích sử dụng đất chặt chẽ vì một quyết định hành chính có thể gây thất thoát hàng trăm, nghìn tỷ đồng làm lãng phí nguồn lực tài nguyên. Nhiều sai phạm cũng phát sinh từ đây và gây ra tệ nạn tham nhũng, làm hủy hoại đạo đức con người và tạo sự chênh lệch giàu nghèo… Bốn là, Quan hệ giữa lĩnh vực đất đai, bất động sản – lĩnh vực tài chính có tính chất rất chặt chẽ và hữu cơ. Hơn nữa, thông qua QHSDĐ giá trị đất đai sẽ được nâng lên và tác động mạnh mẽ vào thị trường tài chính. Mặc dù vậy, các chính sách liên quan quản lý mối quan hệ tài chính và đất đai vẫn còn nhiều hạn chế. Ngân hàng Nhà nước cho biết dư nợ tín dụng bất động sản của toàn ngành đến cuối năm 2022 đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24,27% so với cuối năm 2021, là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất và chiếm tỷ trọng lớn 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế (cao nhất trong 5 năm qua). Đại hội XIII của Đảng đã xác định hoàn thiện thể chế là một trong ba khâu đột phá chiến lược, trong đó có việc sửa đổi Luật Đất đai mà QHSDĐ là một trong những nội dung trọng tâm. Để thực hiện tốt việc QHSDĐ nhằm tạo những nền tảng kết nối và phát triển các nguồn lực phát triển KT – XH, xin đề xuất 5 nguyên tắc chính sau: Một là, QHSDĐ không phải là một thủ tục chuẩn hóa được áp dụng thống nhất trên toàn thế giới. Nội dung của nó dựa trên phân tích tình hình thực tế đất nước và phải đảm bảo rằng QHSDĐ được đưa ra từ trên xuống theo cơ sở lý thuyết cơ bản với sự cập nhật những kiến thức mới về khoa học công nghệ và văn hóa xã hội hiện đại phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước. Điều này có nghĩa là lợi ích của tăng trưởng đất nước phải được đặt lên hàng đầu đảm bảo tầm nhìn đại cục và nhất quán. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để lập kế hoạch sử dụng đất thực tế khi triển khai QHSDĐ, là phân tích chi tiết các nhóm lợi ích khác nhau. Mục đích là để tìm ra những lợi ích khác nhau của các bên tham gia nhằm tạo cơ sở cho quá trình đàm phán, đưa ra quyết định vì cốt lõi của quy hoạch sử dụng đất là sự cân bằng chung giữa các mục đích sử dụng đất của tất cả các bên liên quan và tránh mâu thuẫn để đạt được sự đồng thuận cao nhất – lý tưởng nhất là kết nối và phát triển các nguồn lực một cách tối ưu. Hai là, Luật Đất đai trong đó có QHSDĐ là công cụ để quản trị hiệu quả nhất đối với nguồn lực tài nguyên. Hiện nay, an ninh lương thực và vị trí địa chính trị của đất nước ở Biển Đông đang là thành phần quan trọng trong những nguồn lực bền vững nhất của quốc gia. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu phức tạp và sự xung đột của các thế lực cạnh tranh trong khu vực, việc quy hoạch trung tâm lương thực ĐBSCL và vùng Biển Đông Việt Nam để phát triển bền vững sẽ phải là trọng tâm của QHSDĐ nhằm đảm bảo an ninh lương thực và cả quốc phòng. Trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cần bổ sung nội dung đất đô thị, đất xây dựng đô thị, đất lấn biển… bao gồm cả quy hoạch và phát triển không gian trên và ngầm mặt đất để phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho nền kinh tế quốc gia. Ba là, QHSDĐ phải là nền tảng cho sự công bằng và tạo niềm tin xã hội trong việc an cư lạc nghiệp. Nhiệm vụ cốt lõi của QHSDĐ bao gồm khởi xướng một quá trình giao tiếp và hợp tác minh bạch “cho phép tất cả những người tham gia hình thành lợi ích và mục tiêu của họ trong cuộc đối thoại”. Nguồn vốn xã hội to lớn được tạo ra trong quá trình xây dựng và thực hiện thể chế này sẽ thúc đẩy kinh tế xã hội, xây dựng vững chắc nền tảng đạo đức, pháp luật xã hội và đem lại hạnh phúc cho người dân tạo động lực mạnh mẽ cho nguồn lực con người Việt Nam để phát triển, đổi mới và sáng tạo. Bốn là, Chính phủ nên sử dụng QHSDĐ làm đòn bẩy để phát triển các nguồn lực xã hội đặc biệt là thúc đẩy các chính sách tiền tệ và tài khóa như đánh thuế thích hợp đối với giá trị của đất đai. Trong khi thuế cao đánh vào tài sản có thể không khuyến khích đầu tư, thì thuế đất cao lại tạo ra động cơ để phát triển các khu đất chưa sử dụng. Thuế giá trị đất đai cũng có thể giúp tiếp cận đất đai tốt hơn cho những nhà đầu tư cũng như phát triển cơ sở hạ tầng mới làm tăng giá trị của đất đai gần đó, tự động chuyển thành doanh thu – làm cân bằng thu chi ngân sách. QHSDĐ kết hợp với xây dựng chỉ số giá bất động sản là hết sức cần thiết vì giá bất động sản được sử dụng như một trong những chỉ tiêu ổn định hệ thống tài chính và chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định chính sách. Năm là, QHSDĐ là một quá trình xây dựng tiêu chuẩn tiến bộ liên tục với những phản ứng linh hoạt và cởi mở dựa trên những phát hiện mới và điều kiện thay đổi. QHSDĐ không chỉ là việc chuẩn bị một tài liệu quy hoạch, nó là một quá trình lặp đi lặp lại từ khâu xây dựng, phê duyệt, thực hiện đến việc giám sát, kiểm tra… đó vừa là nguyên tắc vừa là phương pháp. Những tầm nhìn phát triển và phát hiện mới phải được quan sát cụ thể và đưa vào quá trình lập quy hoạch kịp thời. Nó có thể dẫn đến việc xem xét lại quyết định và lặp lại các bước đã thực hiện. Quá trình đó đòi hỏi sự linh hoạt nhưng phải luôn có sự ổn định và nhất quán trong quy hoạch. Năm 2023, đúng dịp một thập kỷ thực hiện sáng kiến thúc đẩy hạnh phúc quốc gia, Liên Hợp Quốc đã công bố chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 12 bậc. Trong bối cảnh vị thế của Việt Nam không ngừng phát triển trên trường quốc tế như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Luật Đất đai sửa đổi với QHSDĐ mang tính định hướng trọng tâm phát triển các nguồn lực KT – XH sẽ là cơ hội tốt để chúng ta đột phá, trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào giữa thế kỷ XXI.
Sửa đổi Luật Đất đai – Cơ hội để quản trị hiệu quả các nguồn lực phát triển
2,478
Lễ đăng quang của Vua Charles III tại Vương quốc Anh hôm 6/5 vừa qua đã thu hút 20,4 triệu người dân Anh theo dõi trên truyền hình và trở thành chương trình phát sóng được nhiều người xem nhất kể từ đầu năm đến nay. Nhà Vua Anh Charles III cùng Hoàng hậu Camilla ngồi trên cỗ xe ngựa đặc biệt Diamond Jubilee trong “lễ diễu hành của Quốc vương”, từ Cung điện Buckingham qua đường phố London đến Tu viện Westminster, ngày 6/5/2023. Ảnh: AFP/TTXVN. Theo tổ chức Barb nghiên cứu về khán giả, số người theo dõi Lễ đăng quang của Vua Charles III trên truyền hình đạt đỉnh 20,4 triệu người vào lúc 12h02 (giờ địa phương), cũng là thời điểm Nhà Vua đăng quang. Lượng khán giả trung bình đạt 18,8 triệu người xem trên 11 kênh và dịch vụ phát sóng. Tờ The Guardian cho rằng thời tiết xấu tại Anh hôm 6/5 là một trong những lý do khiến nhiều người dân ở nhà và theo dõi lễ đăng quang qua màn hình TV. Theo báo này, có 15,5 triệu người theo dõi sự kiện trên kênh BBC One, BBC Two và BBC News, trong khi đài truyền hình ITV thu hút 3,6 triệu khán giả, tiếp đến là Sky News và Sky Showcase với 800.000 người xem. Ngày 6/5, Lễ đăng quang của Vua Charles III cùng Hoàng hậu Camilla diễn ra tại Tu viện Westminster ở London với sự tham dự của hơn 2.200 khách mời là các thành viên hoàng gia Anh và nước ngoài, đại diện của gần 130 quốc gia trên khắp thế giới, các chính khách Anh và các tình nguyện viên trên khắp nước Anh .
Lễ đăng quang của Vua Charles III thu hút 20,4 triệu người xem truyền hình tại Anh
283
Nhà văn Roman Ivanytchouk. Ảnh: Nguồn internet. Roman Ivanytchouk (1929-2016) người miền Tây Ukraine , là thế hệ nhà văn Xô viết trưởng thành sau thế chiến II, từ là giáo viên dạy văn học Ukraine dần trở thành nhà văn nổi tiếng; ông còn là nhà hoạt động xã hội xuất sắc, Đại biểu Quốc hội Liên Xô nhiều khóa. Đàn cò gồm những cặp đôi bay liệng trên dải đất của gia đình nhà Sémène. Chiếc cào mà Sémène đang gom rơm khô trong sân mỗi khi tuyết tan bỗng rời tuột khỏi tay, anh quan sát bầu trời hồi lâu, đôi mắt mở to phóng tầm mắt về phía chân trời như tìm kiếm nhận dạng đàn chim, chắc thế nào cũng sẽ có một vài con quay trở lại dải đất nhà anh khi chúng giã từ xứ sở nóng bức để tìm về chốn cũ. Bầy chim xuất hiện lần này, chúng bay thành vòng tròn chao liệng nhiều lần trên đỉnh núi, rồi sau đó lặng lẽ hạ cánh xuống khu đất phía sau ngọn núi của làng. Và một lần nữa, Sémène lại thầm thì khe khẽ hát: “Con lạy Thánh Piere, con cầu xin cho nước ấm lên, và con cũng lạy Thánh Jean, con cầu xin cho nước lạnh đi…”. Đôi môi anh như bất động. Bài hát này, ngày xưa anh hay hát để cho khuây khỏa, giờ thì chính nó tự nhiên lại được ngân lên, giai điệu của bài hát như được rót ra từ miệng một lỗ cây sáo, dậy lên nghe buồn bã, tâm trạng ấy nguyên nhân có thể là do đàn cò xuất hiện trở về, và giờ thì chúng đang ẩn mình trong khu rừng thông. Không nghi ngờ gì, Sémène thường đã ngân nga bài hát này với giọng điệu buồn thảm bởi vì giai điệu của bài hát luôn làm cho Vassylyna tức tối và vì rằng Chúa luôn che chở cô ấy… “Lại Thánh Jean! Con cầu xin cho cô ấy bớt lạnh lùng đi và con xin các ngài phù hộ cho con được yêu cô ấy, nàng Olèna xinh tươi, trẻ đẹp…” – Này, hãy câm miệng đi, đừng rống lên như bò thế nữa, Vassylyna luôn miệng nói như vậy. – Trong cái đầu của anh lúc nào cũng liên tưởng đến cái con Olèna ấy, thế nên tôi buộc phải nghĩ, cứ như anh thì bọn trẻ Yossup, Sophie, Vassul và Ganoussia…phải nuôi dạy chúng ở đâu. Tôi có quá nhiều cái tầu há mồm đang chờ đợi ở nhà, thậm chí đến nỗi mỗi sáng, tôi không biết mình phải trông vào đâu nữa, còn anh thì lúc nào cũng chỉ lảm nhảm mấy ca từ của anh nào là Thánh Pierre, nào là thánh Jean… – Thằng Yossyp rồi nó sẽ đi làm ở xưởng rèn, Sémène cự lại; anh liếc nhìn vợ mình, cô ấy gầy tóp đi vì công việc, anh ái ngại thương vợ vì Vassylyna của anh thực sự là một người phụ nữ tốt. Anh ngừng không hát nữa, cho dù giai điệu bài hát vẫn tiếp tục ngân lên trong anh đến nỗi có lúc chính anh cũng cảm thấy khó chịu; nhưng dường như có khi anh lại cảm thấy như là muốn hát to lên nữa, lúc ấy trong sâu thẳm, anh lại thầm trách Vassylyna: “Em chỉ nghĩ về những điều như thế thôi sao? Anh lao tâm khổ tứ chỉ vì em và các con chúng ta, còn em thì đến tiếng hát của anh cũng làm em tức tối, anh nhất định sẽ không bao giờ rời bỏ em nhưng mà bài hát thì anh không thể. Cứ theo cách hiểu của em thì ít nhất cô ấy cũng là nguyên nhân làm nên sự bội bạc duy nhất của anh mà thôi?..” Sémène đảo mắt sang bên, phía đó đàn cò đã bay đi và anh cảm thấy sao mà buồn, hẫng hụt, anh hiểu rằng mọi cái có thể xẩy ra sau mùa di trú dài ngày, bởi vì tất cả đàn chim sẽ không còn quay trở lại nơi này nữa. Điều này không phải chỉ can hệ đến riêng anh. Người ta có thể còn cho biết rằng, tỷ dụ như ở Ấn Độ hàng trăm người đã chết trong ngập lụt, và cái tin sau còn khủng khiếp hơn thế nhiều, nó còn mang lại cho các bạn những cảm nhận rất khác nhau, ví như mùa hè vừa qua một cơn sét đã đánh chết Ilko Potiak trong rừng, và anh cảm thấy quá buồn với suy nghĩ cho rằng người đàn ông này đã chết một cách dại dột… Sémène nhớ lại Ilko và một lần nữa anh cảm thấy chính bài hát đã rền rĩ trong anh một cách tang thương:”… Tôi thích thú bài hát ấy hãy ghi nhớ điều này, hôm qua tôi đã không ăn, mà sao hôm nay tôi cũng không thấy đói”, và anh thấy xấu hổ, mặc dù anh không muốn, vì bài hát này nó buộc anh phải vui vì cái chết của Ilko, và giai điệu của bài hát cứ dội về không ngừng, thức tỉnh trong anh thời trai trẻ bất chấp giờ đây anh đã ở cái tuổi lục tuần-mùa xuân cuộc đời. Con ngựa của Sémène chuyển hướng rồi chồm lên, anh giật mạnh dây cương và chửi đổng:” Đồ Quỷ tha ma bắt, đồ tồi tệ, con ruồi chết tiệt nào đã chích mày mà mày nhẩy cẫng lên đâm vào bụi rậm này như đỉa phải vôi thế…” nhưng những lời nguyền rủa ấy chưa kịp xả ra hết. Một thiếu nữ trẻ, xinh đẹp; làn da trắng hồng, trên tóc cài những cành nho, tay cầm một chiếc giỏ đựng đầy quả dâu tây tươi, xuất hiện trên con đường, vẻ đẹp thánh thiện của thiếu nữ làm cho Sémène trầm trồ và anh như muốn từ trên yên ngựa nhẩy xuống. – Xin ông thứ tỗi! Ông Sémène kính mến, cô gái trẻ lên tiếng, chính cháu đã làm cho con ngựa của ông hoảng sợ, cháu cứ tưởng có ai đang làm gì trong đó…Khi cháu đang hái những quả dâu tây thì bị một cú đấm vào đây, cô gái đưa tay chỉ vào ngực mình. – Ai đã đánh cháu? Sémène quan sát cô gái và nhận ngay ra Olèna Bokanïouk de Grounié – Cháu không biết ạ… – Nhưng chẳng có ai ở đó đâu. – Em! em cũng ở đây ư… Tất cả dường như là hợp điểm của những chất kết dích từ cây cỏ, những trái dâu tây, mái tóc màu hung bạc nắng mặt trời, đến cả lời thì thầm của người đàn bà cũng như được tẩm ướp hương thơm. – Tại sao cho đến tận bây giờ em cũng không muốn gặp anh? – Nhưng sự thực là anh cũng đã không được gặp em, Olèna ạ… – Anh biết không em đã khóc vì đám cưới của anh, và bây giờ em lại khóc vì cuộc tình của mình: em đã đính hôn với Ilko Potiak. Những con cò đã không còn trở về…Và mùa xuân thì đã có mặt ở đó sớm hơn mọi năm! Ngày trước, vào thời điểm này, khi những cơn gió nổi lên, những búi tuyết bị cuốn xoáy xoay tròn, gần đó, những cây lãnh sam không còn đung đưa vặn mình kêu răng rắc, những con quạ đen đã về đậu trên cành, bộ lông dựng lên, khi ấy bạn có thể nhận ra những con cò trung thành đậu từng cặp trên mái nhà, rồi sau đó thì chạy nhẩy trên sân giống như đàn gà đỗ trên giàn, chạy lon ton về phía trước cửa nhà, mình lấm len, ẩm ướt do lặn lội từ các nơi về, dùng cái mỏ đỏ tía mổ lách cách vào cửa nhà… « Này, Sémène, Sémène, xin đừng đến nhà em, em có một con chó to đen, nếu như nó cắn anh, anh sẽ chết vì nó… » Một bé gái tinh nghịch, trên đầu cài những bông hoa, đang chăn bò ở gần con suối, bé gái thường nén những quả thông cho anh, khi đó anh đã là một người đàn ông trung niên, đang tắm cho con ngựa của mình…Anh biết cô gái đó là ai nhưng anh không để ý, -cô giái cũng chẳng quan tâm-Tại sao, một người lớn lại để ý đến một đứa con nít? Sau này, trong ngày đám cưới, khi anh và Vassylyna ngồi ở hàng ghế dành cho cô dâu chú rể để nghe ca sỹ làng hát những bài tình ca buồn nói về ngày cưới dành cho cô dâu, Sémène nhớ lại một cô gái trẻ, dáng dong dỏng cao, da mịn màng ngồi ở một góc khóc nức nở, lúc đó anh chợt nhận ra đó là cô bé đã nén những quả thông, những giọt nước mắt của cô gái này không làm anh ngạc nhiên, lời điệp khúc ca hôn được hát đi hát lại có thể làm mủi lòng bất kỳ ai, nhưng lần này, cũng không làm cho anh để tâm đến cô gái…tâm trạng đó còn kéo dài mãi cho đến cái ngày khi anh gặp cô ở đoạn rừng thưa với một giỏ đầy những quả dâu tươi trong khi anh đang chở muối ăn từ Outrope về, Cuộc gặp mặt này sao mà nặng nề… … Gửi ai trông Sophie, Vassyl và Ganoussia đây? Anh đã đi buôn muối, thuốc lá, và lần ấy để trốn công an buộc anh phải vất những bao hàng từ trên yên ngựa vào trong những bụi cây rậm rạp trong rừng, và đã mất cả chì lẫn chài chẳng còn gì cho bọn trẻ ăn sáng, Vassylyna đã heo mòn và tuôn ra những lời chì chích: – Nếu Anh cứ hát mãi thì hãy đi mà kiếm lấy một người đàn bà khác. Sémène lặng thing, vả lại cũng còn gì để nói. Thực tình, anh đã bao giờ gặp cô ấy đâu. Anh chỉ đi với Ilko một lần vào rừng chặt củi nhưng chẳng bao giớ gặp Olèna, anh sợ…này Vassylyna ! nếu em cứ ngăn cấm anh hát bài hát này. Không có nó, có thể anh sẽ trở thành một kẻ cuồng rông, thậm chí những buổi tối anh chắc cũng sẽ không ngủ ở nhà. Anh làm sao mà rời xa nó được. Sémène đặt chiếc cào xuống bên cạnh, rồi ngồi tệt xuống trên một gốc cây bên đống củi khô; người ta nghe thấy tiếng cây lãnh sam vặn mình, tuyết bốc hơi bay lên ẩm ướt, đó đây, một dòng nước chảy tràn làm thành một con đường tuyết bao bọc xung quanh những đống tuyết cũ, gần rìa đường một cánh rừng nổi lên tạo nên một bức tường thành vây quanh màu ghi xám, điểm xuyến những cây nghệ tây màu xanh, những âm thanh rung rinh phát ra từ hốc lỗ tuyết bắt đầu vang lên, con đường dẫn vào thác nước hoàn toàn khô, và lồi lõm, vào chính thời điểm đó Sémène nghĩ hôm nay hay ngày mai mình cần phải đến thăm cậu con trai ở trong làng và sẽ nói với nó rằng bố luôn luôn ở bên cạnh con, rằng cần phải làm những gì con trai muốn về việc sở hữu ngôi nhà trên núi. Có lẽ Yossyp sẽ mỉn cười nói: cuối cùng thì bố cũng trở thành một người cha có lý, thật là tồi tệ cho những gì bố đã nghĩ, chẳng bao giờ mẹ con lại trở về sống chung với bố đâu, thời gian sẽ qua đi, bố vẫn sẽ chăn bò cho gia đình mình thôi là bởi lẽ bọn trẻ đã đến tuổi đi học, Maria thì làm việc ỏ trạm khai thác rừng, còn con, con cũng quá bận ở xưởng rèn của nông trang. Vassylyna nằm duỗi dài trên giường, người gầy guộc, xanh xao. Từ ngày mai, cô sẽ quyết bỏ Sémène, nàng cất giọng chì chiết: – Này, tôi chẳng còn thiết sồng trên cõi đời này nữa… Sémène bỗng ôm mặt khóc nức nở rồi đập đầu liên tiếp vào thành giường, Vassylyna đối với anh, luôn là một người vợ tốt, nàng tiết kiệm từng đồng vì anh và những đứa trẻ nhưng bài hát này như một cái kim chọc thẳng vào tim nàng. – Tại sao giờ em lại tự bỏ đi…khi mà chúng ta có thể chung sống và những đứa trẻ cần được nuôi dạy tốt ? Tại sao? – Tôi là thứ đồ cũ rồi, anh Sémène ạ… Những con cò đã trở về bay liệng trên nóc nhà nhưng chúng không đậu xuống. Ui bây giờ, thế là hết. Chẳng có gì ở đây để làm. Chờ đợi gì nữa chứ ? Trông đợi gì nữa? Yossyp đã từng tự nhủ mình như vậy… Sémène nhìn về phía chân trời ở đó thấp thoáng một dải rửng với những cây họ thông dường như nơi ấy là chỗ lưu giữ dấu vết còn sót lại của đàn cỏ nhưng lại chính vào thời điểm ấy xuất hiện một con cò đực quay trở lại. Nó bay thẳng về phía dải đất, Sémène bật đứng thẳng người dậy ngước nhìn bầu trời như là để chờ đợi con tiếp theo, nhưng mà nào có thấy. Con cò liệng xoay tròn một lúc phía trên ngôi nhà rồi cuối cùng đỗ nhẹ xuống cái tổ cũ, quẹt quẹt cái mỏ hồi lâu, đầu nó nghểnh lên ngóng về phía bầu trời. – Mày đã đánh mất một người bạn đường, quả đúng vậy, một kẻ góa vợ đáng thương của ta, Sémène tự nói với mình thế, và anh tự nhủ cần phải đến ở với cậu con trai ngay thôi, bởi chả nhẽ hai người đã ly thân lại cùng sống chung trong một cái sân thì thật chẳng nên. Có lẽ ngày kia anh sẽ ra đi. Gã đàn ông không ngừng vật vã, khóc lóc thảm thiết trên chái hiên nhà, sự nhớ nhung luyến tiếc ấy hình như lan truyền ra khắp vùng đồi. Gã đàn ông không ngừng vật vã, khóc lóc thảm thiết trên chái hiên nhà, sự nhớ nhung luyến tiếc ấy hình như lan truyền ra khắp vùng đồi. Con ngựa từ từ dừng lại, nó không chồm lên theo bản năng khi thấy có một phụ nữ từ trong phía bìa rừng đi ra, ở chỗ này, dạo trước, cứ vào độ cuối mùa xuân, khi những trái dâu tây chín tỏa hương thơm nhè nhẹ, cô thường đứng ở giữa con đường; con ngựa dúi dúi mõn với cặp môi ướt mềm vào tay của người đàn bà, bà ta vừa xoa nhẹ tay lên cái chấm đốm trắng trước trán của con vật vừa hỏi: – Anh không đến dự đám cưới của Ilko à, và anh cũng không muốn đến đám ma của anh ấy? – Anh không thể, Olèna ạ. – Anh không ốm chứ ? – Không…và Sémène không nói gì thêm, hình như anh rất muốn từ trên yên ngựa nhẩy xuống để thú tội với người đàn bà, đang độ xuân sấc xuân thì này: rằng cái bài hát mà hàng ngày anh vẫn hát từ khi còn trai trẻ…, đối với anh, cuộc sống âm thầm này luôn phảng phất mùi thơm của những trái dâu tây rừng…đúng, Vassylyna luôn đối xử tốt với anh và Ilko cũng là một người bạn cảm đảm, nhưng anh không thể đến để nói với anh ấy một lời vĩnh biệt vì sợ Olèna cho rằng anh mừng vui và quá vô tâm. Nghĩ vậy nhưng anh không nói mà vẫn ngồi yên trên yên ngựa, con vật mơn man đôi tay của Olèna bằng đôi môi ướt mền, còn Olèna thì vuốt ve chấm đốm trắng phía trán đối diện của con vật; con đường quá hẹp làm cho hai người buộc phải đối diện nhau. – Olèna này, một lát sau Sémène cũng lên tiếng. Em góa chồng đã đúng một năm, còn anh thì đã tròn hai bốn tháng, cho anh đến nhà em đi. Nàng ngước nhìn Sémène và cười. – Không, anh Sémène, xin anh đừng đến, nàng khẩn khoản, và ngay chính lúc ấy anh đã nhận ra cô gái tinh nghịch với đôi mắt mở to có bông hoa cài trên đầu, người đã nén cho anh những quả thông, và cô gái dáng người mảnh khảnh, giàn dụa nước mắt trong ngày cưới của anh. Đó cũng chỉ là cô nàng tinh nghịch với giỏ quả dâu tây rừng cầm trên tay mà thôi. Muộn quá rồi anh Sémène ạ…rồi sau đó thì người đời sẽ eo xèo rằng chúng ta đã làm một việc là chờ đợi sự góa bụa của nhau mà thôi… Nàng tiếp tục bước theo cạnh rìa con đường, một tay xoa bụng, và mông con ngựa, nó ngoan ngoãn bước đi, cùng lúc Sémène lên tiếng: Anh sẽ đợi em ở nhà đến khi nào anh không còn tồn tại trên cõi đời này thì thôi. Con chim không ngừng kêu, Sémène quay lại về phía rặng núi cao, ẩn hiện đằng sau thung lũng, ngắm nhìn không gian bao la và khung cửa sổ ngôi nhà của Olèna, bài hát lần cuối cùng ngân lên trong sâu thẳm lòng anh, rồi lặng chìm đi: nó tự kết thúc đối với anh. Sémène chợt nghĩ tốt hết là cũng không nên nghe giai điệu khóc lóc tuyện vọng này thêm một giấy nào nữa, anh cũng sẽ không còn xua đuổi con chim. Ngay ngày hôm nay anh sẽ xuống làng và nói với Yossyp rằng từ bây giờ bố sẽ luốn ở bên con rằng con muốn làm những gì mà con muốn cho ngôi nhà trền ngọn núi của bố thì làm. Khi mặt trời chím xuống sau dẫy núi Grounié, Sémène đi ra khỏi nhà cùng với cái đẫy đeo chéo hai vai. Người đàn ông tiếp tục than phiền, anh ngắm nhìn con chim đang đập đập hai cánh, rồi kêu lên với một giọng điệu oai oán, Sémène quay lại quan sát một con chim khác đang xuất hiện đằng sau cánh rừng phía trước ngôi nhà của mình. Con chim cái từ từ đỗ xuống mái nhà, rồi khu sân, buồn bã như kẻ lạc bầy, nó thận trọng nhẹ nhàng từ từ tiến lại chỗ cái tổ ở trong đó có một con chim đực đang nằm. Thoạt đầu, chúng chăm chú nhìn nhau, rồi sau đó, sấn lại ân ái, chà vít cổ nhau, hai mỏ quắn quýt đớp nhau, phát ra những âm thanh cảm thụ niềm hạnh phúc ngọt ngào. Sémène chợt nghĩ bài hát của anh bị giết chết nhanh quá, rằng có lẽ thời gian đến sống bên con trai có thể nhanh thì vào mùa khô, hoặc chần chừ thì cũng vào đầu đông, và có lẽ anh cũng phải gấp rút không thể chậm trễ thêm nữa. Những con cò đã trở lại đến đậu trên mái nhà của Sémène. Mùa Xuân thực sự trở về đẹp và lung linh làm sao!
Khi đàn cò trở lại – Nguyễn Hùng Vỹ (Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp)
3,214
Hầm xuyên núi dài nhất Việt Nam nằm tại khu vực miền Trung. Cụ thể, hầm đường bộ qua đèo Hải Vân là một công trình giao thông tổng hợp gồm: đường, hầm, cầu và trang thiết bị vận hành đi qua địa phận tỉnh Thừa Thiên Huế ở phía Bắc và thành phố Đà Nẵng ở phía Nam hầm. Đặc biệt, hầm Hải Vân là hầm đường bộ dài nhất Việt Nam. Toàn tuyến công trình hầm đường bộ Hải Vân có chiều dài 12,047 km, tốc độ thiết kế 80km/h. Trong đó, hầm chính dài 6.280m có chiều rộng 10m cho 2 làn xe, độ cao cho phép xe đi qua là 7,5m; hầm cứu nạn chạy song song với hầm chính và có chiều dài tương tự, chiều rộng 4,7m, được nối với nhau bằng các hầm ngang, là đường thoát hiểm cho người và phương tiện khi có sự cố xảy ra. Theo Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng, đường hầm được xây dựng theo phương pháp NATM của Áo – đây là phương pháp thi công hiện đại, phù hợp với điều kiện kết cấu địa chất của Việt Nam, đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng để thi công đường hầm giao thông, hầm thủy điện… Hầm được làm theo dạng hình tròn để tăng khả năng chịu lực, tránh tập trung ứng suất tại góc. Theo thống kê, bình quân mỗi ngày đêm có khoảng 6.500 lượt xe lưu thông qua hầm Hải Vân; những ngày Lễ, Tết con số đó có thời điểm tăng gấp đôi. Theo Cổng thông tin điện tử Bộ Xây dựng, trước khi hầm đường bộ Hải Vân được đưa vào khai thác, các phương tiện giao thông trên tuyến huyết mạch Bắc – Nam phải qua đèo Hải Vân. Đường đèo dài khoảng 21 km với những nhược điểm cố hữu là hẹp, độ dốc lớn, đường cong bán kính nhỏ, tầm nhìn hạn chế, sương mù, một bên là vực sâu, một bên là vách núi dựng đứng gây nguy hiểm. Do đó, hầm Hải Vân được xây dựng nhằm giải quyết triệt để những khó khăn, nguy hiểm cho người và phương tiện khi tham gia giao thông trên tuyến Quốc lộ 1A đoạn qua đèo Hải Vân thuộc địa phận ranh giới giữa tỉnh Thừa Thiên – Huế và thành phố Đà Nẵng. Khi hầm Hải Vân được đưa vào hoạt động, những nguy hiểm khi giao thông trên đèo Hải Vân đã được giải quyết. Giao thông qua hầm Hải Vân rút ngắn được gần 1/2 chiều dài, nhưng thời gian chỉ còn 1/4 so với đi đường đèo. Cổng thông tin điện tử thành phố Đà Nẵng cho biết, việc thông xe công trình hầm đường bộ Hải Vân đã cải thiện cơ bản điều kiện giao thông qua lại trên đoạn đường đèo hiểm trở, rút ngắn hành trình Bắc-Nam, giảm tiêu hao nhiên liệu, hư hỏng phương tiện, đặc biệt là góp phần hạn chế những thiệt hại không thể lường trước do ách tắc, tai nạn giao thông xảy ra hàng năm so với đường đèo, mang lại lợi ích kinh tế-xã hội to lớn. Hầm đường bộ Hải Vân đi vào vận hành đã giúp phát triển kinh tế cho thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế. Bên cạnh đó, hầm Hải Vân còn góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông hành lang kinh tế Đông – Tây, góp phần đưa khu vực miền Trung – Tây Nguyên Việt Nam có thể giao thương với khu vực Đông Nam Á, từ đó góp phần hội nhập quốc tế. Hiện nay, đèo Hải Vân đã trở thành điểm đến thu hút nhiều khách du lịch đến tham quan. Để khai thác tốt nhất tiềm năng du lịch của đèo Hải Vân, năm 2013, UBND thành phố Đà Nẵng đã có quyết định công nhận Đỉnh đèo Hải Vân là điểm du lịch địa phương của thành phố Đà Nẵng . Tiếp sau đó, thành phố cũng lên phương án xây dựng đèo Hải Vân thành điểm du lịch quốc gia. Theo đề án nghiên cứu đề xuất hình thành một số chợ điểm phục vụ du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ 2021 – 2050 đã được phê duyệt, chính quyền thành phố Đà Nẵng đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ hình thành hệ thống chợ điểm phục vụ du lịch hiện đại mang bản sắc riêng của đô thị phát triển, bảo đảm cung cấp hàng hóa dịch vụ dân sinh và sản phẩm du lịch đặc thù. Từ đó, du lịch sẽ đóng góp để Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm thương mại, du lịch của đất nước; góp phần thúc đẩy thương mại và nhất là du lịch thực sự trở thành ngành mũi nhọn, có đóng góp cao trong cơ cấu GRDP của thành phố.
Hầm xuyên núi dài nhất Việt Nam
821
Phút nghỉ ngơi của một người Sherpa. Ảnh: Kevin Aryalz. Nepal , quốc gia châu Á được coi là bí ẩn hàng đầu thế giới, cũng là nơi bắt đầu của những cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Không chỉ nổi tiếng với những dãy núi cao ngất với đỉnh Everest là nóc nhà thế giới, đất nước của những con người có sức bền vô đối, một nền văn hóa bản địa độc đáo… Nepal còn hấp dẫn bởi nhiều khác biệt không nơi nào có được. Mới đây các nhà tổ chức tour leo núi Nepal cho biết, số lượng giấy phép chính phục đỉnh Everest được cấp trong mùa leo núi năm nay có thể sẽ vượt quá kỳ vọng, khi mà 500 nhà leo núi đang cố gắng ‘chen chân’ để chinh phục đỉnh núi cao nhất thế giới, bắt đầu vào tuần thứ 2 của tháng 5 năm nay. Mỗi giấy phép leo núi Everest có giá 11.000 USD đối với người nước ngoài. Tổng cộng 1 người leo núi phải trả từ 50.000 – 90.000 USD nếu muốn chinh phục đỉnh Everest, trong mùa leo núi kéo dài 45 ngày. Trên một quả đồi nhìn ra Kathmandu, thủ đô Nepal, ni viện mang tên Druk Amitabha độc đáo nhất thế giới khi những nữ tu ở đây đồng thời cũng luyện tập Kungfu. Một bài viết trên tờ The Straits Times cho biết ni viện nổi danh vì không ở đâu có chuyện nữ tu luyện võ. Những người phụ nữ này là một phần của chi phái Phật giáo hơn 800 năm tuổi có tên là Drukpa, có nghĩa là “Rồng” trong tiếng địa phương. Dọc theo dãy Himalaya, những môn đồ của chi phái Drukpa pha trộn hoạt động thiền tịnh với việc luyện tập võ thuật. “Mỗi ngày, các nữ tu tại đây đều khoác lên mình bộ đồng phục màu nâu sẫm dành cho môn võ thuật cổ xưa. Sáng sớm, khi những tia nắng đầu tiên xuất hiện, nữ tu Jigme Rabsal Lhamo, 35 tuổi, rút thanh kiếm từ sau lưng và hét lớn: “Tất cả tập trung vào mục tiêu!”. Ngay sau đó, buổi luyện tập bắt đầu. “Kungfu giúp chúng tôi xóa rào cản về giới và thúc đẩy sự tự tin bên trong, cũng như giúp chúng tôi bảo vệ lẫn nhau” – Lhamo nói và cho biết mình đã đến ni viện chục năm trước từ Ladakh, miền bắc Ấn Độ . Các nữ tu Kungfu ở Himalaya bắt đầu phong trào này cách đây 30 năm dưới sự lãnh đạo của Jigme Pema Wangchen – người đứng đầu thứ 12 của chi phái Drukpa – còn được gọi là Gyalwang. “Chúng tôi đang thay đổi luật lệ cuộc chơi, chỉ ngồi thiền trên nệm là chưa đủ. Mỗi năm các nữ tu đều hành hương quãng đường khoảng 2.012km từ Kathmandu đến Ladakh để kêu gọi bảo vệ thiên nhiên. Trên hành trình, chúng tôi ghé qua các ngôi làng để truyền đạt cho người dân về bình đằng giới và tầm quan trọng của trẻ em gái, cũng như chỉ cho các em biết một vài chiêu thức Kungfu” – Lhamo nói. Trong vòng 15 năm qua, khoảng 800 nữ tu sĩ đã được đào tạo cơ bản về võ thuật và khoảng 90 tu sĩ khác trở thành huấn luyện viên nhờ vào khả năng của họ khi đã trải qua những bài luyện tập hết sức khắc nghiệt. Các nữ tu Druk Amitabha trở nên rất nổi tiếng ở Nepal, đất nước chỉ khoảng 9% dân số theo đạo Phật và danh tiếng của họ cũng dần tỏa sang những quốc gia khác. Cũng ít người biết rằng, trong số họ không phải ai cũng là phật tử xuất gia, mà nhiều người luyện Kungfu trong ni viện làm những nghề khác nhau, như họa sĩ, nghệ sĩ, thợ sửa ống nước, người làm vườn, thợ điện, thợ xây dựng. Có người là nhân viên thư viện hay là phục vụ tại một phòng khám y tế. “Chúng tôi không chỉ quan tâm mỗi tôn giáo của mình, chúng tôi còn quan tâm đến xã hội. Luyện tập Kungfu giúp chúng tôi tự tin và có sức mạnh để giúp mọi người” – nữ tu sĩ Lhamo nói và cho biết thêm nhận được khá nhiều yêu cầu xin gia nhập dòng tu, có cả những yêu cầu từ những đất nước xa xôi như Mexico , Ireland , Đức và Mỹ . “Nhưng không phải ai cũng có thể trở thành tu sĩ. Bên ngoài chúng tôi trông thật thú vị nhưng đây vẫn là một cuộc sống khó khăn khi kết hợp giữa thiền với Kungfu, đòi hỏi phải có nghị lực khác thường, nhất là đối với phụ nữ” – nữ tu sĩ Jigme Yangchen Ghamo nói với phóng viên của tờ The Straits Times. Một buổi tập Kungfu của các nữ tu tại ni viện Druk Amitabha. Tòa đại bảo tháp lặng lẽ mà huyền bí nằm ở vùng ngoại ô phía bông bắc thủ đô Kathmandu, được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới vào năm 1979. Kiến trúc tòa tháp hình vòm đặc trưng của Phật giáo Mật tông với 4 phía nhìn ra 4 hướng, đều được vẽ đôi mắt của Đức Phật. Phía trên cùng là hình tượng con mắt thứ ba, biểu trưng cho sự thấu suốt, cho trí tuệ giác ngộ. Tòa bảo tháp được cho là được hình thành giúp các thương nhân, hành giả, lama (người tu hành)… nghỉ chân và cầu nguyện bình an để vượt dãy Himalaya hay tới những thung lũng khác. Tới nay, Boudhanath vẫn là trung tâm Phật giáo Mật tông lớn nhất Kathmandu khi mỗi ngày đều đón nhận hàng ngàn lượt khách hành hương, tăng ni, dân địa phương… tới hành lễ với niềm tin đặc biệt về sự giác ngộ và giải thoát. Người từ nơi khác tới Nepal đều có chung suy nghĩ rằng khi tới bảo tháp Boudhanath họ cảm giác như cuộc sống chậm lại và học được ít nhiều sự kiên nhẫn. Đó là bởi nhịp sống nhẹ nhàng, từ tốn và biết hài lòng, kể cả ngoài kia là những con đường đông đúc người xe. Mà thật ra Kathmandu có thể được coi là thủ đô yên ả nhất thế giới khi mà không hề nghe tiếng còi xe, không hề nhìn thấy cảnh chen lấn, hối thúc. Mọi va chạm đều được giải quyết một cách từ tốn. Trên con đường từ Boudhanath tới vùng thung lũng ngoại vi thủ đô cho dù có kẹt xe thì cũng không ai cau có hay mất bình tĩnh. Thamel – khu phố du lịch sầm uất của Kathmandu vẫn có những đàn chim bồ câu đập cánh bay lên đỉnh những bảo tháp linh thiêng. Tất cả toát lên sự yên ả khiến bất cứ ai cũng cảm thấy yên lòng. Trong nhịp sống chậm rãi và hài hòa ấy, mạch ngầm văn hóa truyền thống rất được người Nepal tôn trọng. Trong số những nghệ sĩ chăm chỉ hồi sinh nghệ thuật truyền thống Nepal không thể không nói tới Lok Chitrakar và Mukti Singh Thapa. Họ cặm cụi hồi sinh Paubha – nghệ thuật truyền thống có từ thế kỷ 13, những tác phẩm đại diện cho triết học Ấn độ giáo, Phật giáo. Khu phố Latitpur ở thung lũng Kathmandu giống như một viện bảo tàng mênh mông, nơi cuộc sống và nghệ thuật không tách rời. Những con phố và ngõ hẹp; những ngôi đền và bảo tháp có tuổi đời nhiều trăm năm được phủ đầy những lễ vật như thần sa và cúc vạn thọ, cùng đó là các cửa hàng bán tác phẩm nghệ thuật truyền thống, đặc biệt là tranh thanka. Sự tiếp nối nghệ thuật truyền thống nguyên bản diễn ra mạnh mẽ. Lok Chitrakar, 62 tuổi, cho biết ông đã vẽ suốt hơn 30 năm qua. Sinh ra ở thung lũng Kathmandu, Lok Chitrakar lớn lên trong sự bao bọc của nghệ thuật truyền thống Nepal. Tự học, cha mất sớm nhưng người đàn ông này không bỏ cuộc. Những năm đầu khi vẽ, ông quảng bá tranh của mình từ cửa hàng này sang cửa hàng khác, còn nay thì người ta tìm đến ông. Theo Lok Chitrakar, khi ông thực hiện các tác phẩm nghệ thuật thì không phải là sao chép y nguyên tranh cổ mà đó còn là cách để ông “thực hành triết học”, có nghĩa là vừa chiêm nghiệm vừa sáng tạo. “Chúng tôi không phải là thợ vẽ. Nhưng chúng tôi bao giờ cũng bám chắc vào truyền thống” – Lokk Chitraka nói. Các tác phẩm của ông đều được vẽ trên một mảnh vải hình chữ nhật, bôi keo da trâu và đất sét trắng. Bề mặt được chà xát đánh bóng bằng đá mịn. Bức tranh được thực hiện theo quy tắc và kích thước mà truyền thống truyền lại. Trên cái nền bất biến đó, Lok thả hồn phiêu du. Người thứ hai cũng nổi tiếng không kém là Mukti Singh Thapa, 66 tuổi, được đánh giá là họa sĩ truyền thống hàng đầu của Nepal, bao giờ cũng chỉ vẽ bằng bột màu và màu nhuộm từ thực vật. Tuy nhiên, những đường nét thì vô cùng chính xác với khả năng sáng tạo vô song của người nghệ sĩ. Thapa sinh năm 1957 tại thị trấn Bandipur, miền trung Nepal, trên dãy Himalaya. Ông nói, ngay từ nhỏ đã thấy sừng sững trước mắt những ngọn núi phủ đầy tuyết. Lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo, từ nhỏ Thapa đã bị mê hoặc bởi vẽ, thường phác họa những bông hoa hoặc con vật nhỏ mà ông đem bán cho người làng. Lớn lên, Thapa không bằng lòng sao chép người khác.Ông đã đến những ngôi chùa, tu viện và viện bảo tàng để tự mình khám phá ra những phong cách khác nhau, mà ông gọi là “giác ngộ”. Ông bị quyến rũ bởi phong cách Newar cổ điển, vốn phổ biến trên khắp dãy Himalaya từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 16 và đã luyện tập trong nhiều năm để hoàn thiện kỹ thuật của riêng mình. “Điều đó đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Nhưng khi đã tiếp thu được rồi thì lại phải nỗ lực hơn nữa để tạo ra tác phẩm của riêng mình chứ không phải là sao chép” – Thapa nói. Chính điều đó khiến tác phẩm của ông vượt ra khỏi biên giới Nepal, được trưng bày trong Bảo tàng Rubin ở thành phố New York (Mỹ) và Bảo tàng Nghệ thuật Châu Á Fukuoka ở Nhật Bản. Nghệ thuật truyền thống Nepal trong dòng chảy thời gian. Tuy nhiên, nói đến Nepal thì không thể không nói đến những người chấp nhận cuộc sống khắc nghiệt dẫn đường cho du khách leo lên đỉnh Everest – đỉnh núi cao nhất thế giới, 8.848 mét. Họ là những người của bộ tộc Sherpa, được mệnh danh là những leo núi cừ khôi nhất thế giới. Lịch sử ghi lại, khoảng 600 năm trước người Sherpa đã vượt qua những con đường trắc trở từ Đông Tây Tạng đến vùng đất Solukhumbu để tìm kiếm cơ hội cải thiện cuộc sống. Kể từ năm 1953, đỉnh Everest được xem là nơi để chinh phục giới hạn của con người. Có những nhà leo núi thành công đến đích nhưng cũng có hàng nghìn người đã bỏ mạng tại đây khi cố gắng đẩy giới hạn của bản thân vượt sức chịu đựng của người bình thường. Muốn thực hiện một hành trình chinh phục Everest, tất cả những người leo núi đều phải nhờ đến người Sherpa trong việc dựng trại, thiết lập đường đi, chuẩn bị các vật dụng cần thiết, khuân vác và đảm bảo sự an toàn. Đó cũng chính là kế sinh nhai của nhiều thế hệ người Sherpa. Một nghiên cứu của Mỹ vào năm 1976 đã đưa ra kết luận rằng bộ tộc Sherpa là những người phi thường vì có thể kiểm soát và tận dụng oxy tốt dù thường xuyên tiếp xúc với độ cao của đỉnh Everest khi mà thiếu oxy là một trong những nguyên nhân dẫn đến chứng say độ cao và tử vong. Trải qua nhiều trăm năm, cơ thể của người Sherpa đã phát triển và biến đổi gene để thích nghi với khí hậu khắc nghiệt, điều kiện sống thiếu thốn. Đó là nguyên nhân giúp họ sống được trong bầu không khí loãng của dãy núi cao nhất thế giới. Norbu Tshering, một người dẫn đường sống ở Katlahoma cho biết, dù quen thuộc đường lên núi cũng như chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt nhưng rủi ro đối với họ vẫn rất cao. “Cái chết và thương tích là một phần cuộc sống của chúng tôi” – ông nói. Khi được hỏi, những nhà leo núi lên được đỉnh Everest đều được tôn vinh, còn với họ trong tư cách là người dẫn đường, người phục vụ thì sao? Tshering nói, cũng không lấy gì làm thiệt thòi cho dù có người Sherpa đã 30 lần lên tới nóc nhà thế giới. “Chúng tôi là những người không tên. Họ chỉ biết đến chúng tôi như một khái niệm với định danh chung là Sherpa”. Pemba, 39 tuổi, một người dẫn đường sống ở Thamo – một ngôi làng nhỏ ở thung lũng Thame cho biết, cha của anh đã chết trong một vụ lở tuyết trên đỉnh Everest khi dẫn đường cho một nhóm người leo núi đến từ châu Âu. Trong trí nhớ của người con trai thì người cha là một người đàn ông có nụ cười thân thiện và vui vẻ. “Tôi không bao giờ nghĩ cha tôi sẽ chết khi leo núi vì từ bé tôi đã biết ông dẫn đường cho những người leo lên đỉnh Everest. Nhưng rồi dãy núi cũng đã mang ông đi khỏi chúng tôi” – Pemba rầu rĩ nói. Tiếp tục làm nghề dẫn đường, Pamba cho biết mỗi lần dẫn đoàn lên núi anh đều tự hỏi liệu có sống sót để trở về? Trong 14 lần dẫn khách leo núi lên đỉnh Everest thì ngần ấy lần Pemba mang theo một bức ảnh gia đình bên người. Cách đây 100 năm, người Sherpa kiếm sống bằng nghề nông trên vùng núi cao, họ chăn thả gia súc và kéo sợi len. Những người Sherpa đi ngang qua các đỉnh của dãy Himalaya nhưng không leo lên chúng vì họ tin rằng đó là nhà của các vị thần. Sau này, khi người Anh bắt đầu tiến hành những chuyến thám hiểm leo núi Himalaya, họ đã gặp hết thất bại lần này đến lần khác. Cho đến khoảng năm 1953, một người leo núi đến từ New Zealand nhờ có sự dẫn đường và giúp sức của người Sherpa đã chinh phục được nóc nhà thế giới. Từ đó, những nhà leo núi phương Tây mới nhận ra rằng nếu muốn leo lên đỉnh Everest thì nhất thiết phải thuê người Sherpa làm khuân vác và dẫn đường. Đồng thời họ cũng nhận ra rằng người Sherpa đã phát triển được những phẩm chất siêu phàm khi phải sống và leo lên những đỉnh núi cao tuyết phủ quanh năm. Sống ở độ cao hơn 4.500 mét so với mực nước biển, người Sherpa có thể chất không ai bì nổi và họ đã trở thành một trong những nhóm người leo núi giỏi nhất hành tinh. “Khi chúng ta leo núi, hormone erythropoietin (EPO) thúc đẩy quá trình sản xuất thêm hồng cầu, sau đó hồng cầu chở nhiều oxy tới cho các cơ. Nhưng các tế bào sinh ra thêm cũng làm máu đặc hơn, tạo thêm áp lực lên trái tim để bơm máu, và có thể gây ra hội chứng say độ cao. Còn người Sherpa thì khác, cơ thể họ cũng tăng số lượng tế bào hồng cầu khi ở trên cao, nhưng không nhiều như người đến từ vùng khác” – nghiên cứu được công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences. Họ cũng đã tìm thấy mức độ oxy hóa chất béo thấp hơn ở người Sherpa, có nghĩa là các mô của người Sherpa có thể sử dụng oxy tốt hơn nhiều và tạo ra năng lượng hiệu quả hơn so với người bình thường. Từ những nghiên cứu mở đầu, giới khoa học tiếp tục nhiều nghiên cứu khác nhằm “giải mã” sự siêu phàm của người Sherpa. Một trong những địa chỉ tập trung nghiên cứu là làng Phortse, nằm trên một cao nguyên ở thung lũng Khumbu của Nepal, bao quanh bởi những sườn núi xanh mướt và những đỉnh núi phủ đầy tuyết. Trong một con ngõ hẹp ở độ cao 3.800 mét, phóng viên của tờ SCMP bắt gặp hai thanh niên ở độ tuổi ngoài 20 đang quay sợi trước cửa nhà. Khi được hỏi liệu họ đã từng đặt chân tới đỉnh Everest gần đó chưa, họ chỉ gật đầu một cách thờ ơ. Một chủ nhà trọ gần đó là Panuru cũng bình thản cho hay: “Tôi đã lên đỉnh Sagarmatha (cách gọi Everest theo tiếng Nepal) khoảng 13 lần”. Còn trong một gia đình có ba cha con, cô con gái 21 tuổi chia sẻ: “Chúng tôi lên đường mà không có kế hoạch gì cả”. Rất đặc biệt là làng Phortse hiện có tới 70 người chinh phục đỉnh núi cao nhất thế giới và còn sống. Đây cũng là nơi ghi nhận số lượng người trong một làng có thể leo lên đỉnh Everest nhiều nhất – theo Cơ sở dữ liệu Himalaya. Nhà leo núi nổi tiếng người Mỹ Conrad Anker cho biết, người Sherpa leo núi mà không có bất kỳ kỹ thuật nào. Một số người Sherpa tử nạn trong khi dẫn đường lên đỉnh Everest do đều gặp tình huống xấu nhất, như bão tuyết, băng tan chẳng hạn chứ không phải do kiệt sức, tê cóng hoặc say núi liên quan đến độ cao – những nhân tố ác mộng với các nhà leo núi chuyên nghiệp nước ngoài. C.Anker kết thúc câu chuyện của mình bằng câu nói: “Hãy đến Nepal một lần trong đời. Bạn sẽ không hối tiếc”. Nepal, một quốc gia châu Á bên dãy Himalaya, thuộc châu Á; 3/4 biên giới giáp Ấn Độ, 1/4 còn lại giáp Tây Tạng (Trung Quốc). Nepal là nơi sinh của Đức Phật nhưng ngày nay 80% dân số theo đạo Hindu. Người ta nói rằng đặc sản của Nepal không gì khác ngoài những ngọn núi tuyết, nơi những ngọn núi có vẻ đẹp mê hoặc như đỉnh Everest – nóc nhà thế giới trong dãy Himalayas huyền thoại. Nepal được những dãy núi bao bọc, không có biển, chỉ có những hồ nước xanh ngọc bích nằm ở độ cao từ 3.000 đến 5.000m so với mặt nước biển. Ở thành phố hay làng quê, đều có những công trình kiến trúc cổ xưa. Những thánh tích tôn giáo, những đền đài, những tu viện nằm ở trung tâm hay nằm sâu trong lòng núi… đều khó gặp ở bất cứ nơi đâu trên Trái đất. Do vị trí địa lý, Nepal được biết đến là “quốc gia kín đáo”, với rất nhiều tập tục. Ví dụ, ở Nepal, chạm vào đầu người khác là hành động không đứng đắn. Vì quan niệm của người Nepal đầu là phần thiêng liêng của cơ thể, và chỉ có các nhà sư và các bậc cha mẹ mới có thể chạm vào. Machapuchare là ngọn núi thiêng liêng, người địa phương gọi là “núi đuôi cá”, cấm leo. Vì thế chưa một ai leo tới đỉnh của nó. Còn Bagmati là con sông linh thiêng nhất của người Nepal, như sông Hằng đối với người Ấn. Nằm bên bờ Bagmati, Pashupatinath là ngôi đền Hindu lớn nhất Nepal, cũng là ngôi đền thờ thần Shiva quan trọng nhất đất nước này. Tại Nepal, hiện có 3 di sản thiên nhiên được UNESCO vinh danh, đó là Thung lũng Kathmandu, Vườn quốc gia Sagarmatha và núi Everest. Cùng với đại bảo tháp Boudhanath, còn có bảo tháp Swayambhunath, là ngọn tháp cổ xưa và bí ẩn nhất trong các đền thờ tại thung lũng Kathmandu. Bảo tháp này còn được gọi là “Đền Khỉ” vì có đến hàng trăm con khỉ tự do chạy nhảy tại đây.
‘Quốc gia kín đáo’ dưới chân đỉnh Everest huyền thoại
3,424
Nhà thơ Đinh Thị Như Thúy 1. Tôi nhớ mình bắt đầu đọc Đinh Thị Như Thúy từ một trang văn chương mạng, quãng mươi, mười lăm năm trước; trang văn chương có tiêu chí là mới , từ tư duy nghệ thuật, đến nội dung, hình thức; khá hot, được in ở đó như một khẳng định. Mấy ngày là có chùm thơ người thơ nữ này. Khi biết chị là một giáo viên, dạy học đâu đó ở Đắc Lắc, tôi có chút ngạc nhiên: môi trường giáo dục sao có thể dung hòa với một tâm hồn mênh mông cô đơn, thường trực dự cảm bất an và luôn khắc khoải, dịu dàng nỗi chết? Những bài thơ tự do, thơ văn xuôi, những câu những chữ bẩy tiếp nhau, lặp lại nhau, đùa đẩy nhau không dứt; hối hả, cuống quýt, đắm đuối, tưởng như nếu dừng lại, sẽ không còn cơ hội. Tôi đọc, sau mỗi chùm thơ, thường khi cảm thấy thiêu thiếu: dường như cái miên man kia phải tạm dừng vì dung lượng một lần chọn in của trang báo; hoặc giả, nhà thơ chỉ vừa viết tới đó rồi phải tạm ngưng, thời gian riêng tư cho mình đã hết, hẹn hôm sau. Tôi có lần vào thử mục những tác phẩm đã in của tác giả này, trên trang văn chương này, đọc một lần mấy chục bài đến hết, vẫn nguyên cảm giác thiếu. Cho mãi đến 2016, khi có dịp quen biết nhau, Đinh Thị Như Thúy tặng tôi tập thơ Ngày linh hương nở sáng (in 2011- Giải thưởng Hội Nhà văn cùng năm), rồi Trong những lời yêu thương , 2018, cảm giác thiếu mới dừng lại khi đọc bài cuối cùng tập thơ, khi khép cuốn sách. Có lẽ thao tác mở sách, khép sách lại sau trang cuối cùng tạo cảm giác kết thúc chăng? Dung lượng của cuốn sách như một câu chuyện được kể tới đó, như một vở diễn đã hạ màn, như bài hát đã xong phần nhạc kết? Cảm giác xong việc, không đợi chờ gì thêm, cái còn lại có thể là sự nhàm nhạt, vô bổ, không đọng lại gì hay những day dưa, bâng khuâng nuối tiếc; trang sách ấy, bài hát ấy nối tiếp trong ta cuộc sống của nó, nhưng đó là chuyện khác. Cảm giác thiêu thiếu khi đọc một bài thơ, chùm thơ (thường khi) hoặc hài lòng khép trang sách lại của tôi, là cảm giác chung nhất, khi đọc Đinh Thị Như Thúy. 2. Lại có khi bài thơ bất ngờ gợi một liên tưởng khác trong tôi. Ví dụ: Bên anh trên chiếc ghế ven đường nơi ta vẫn nghỉ chân. Chiều nay em nhìn không chớp chiếc lá mới nhuốm vàng. Chiếc lá vừa chao nhẹ từ cành cây rồi đậu khẽ vào lòng em như cánh bướm … Em ngẫm ngợi đây là chiếc lá đời sống em, là đây chiếc lá mang linh hồn em, là đây linh hồn thiếu nữ thật nhiều ước ao trong hình hài tàn phai thiếu phụ. Em chợt muốn dịu dàng vuốt ve chiếc lá, em chợt muốn thầm thì với anh về thời gian, em chợt muốn đặt môi hôn lên mặt vàng buồn bã Mai kia anh có thấy không ánh nhìn của mắt em từ khung xương rã mục của cánh lá sẫm nâu. (Chiếc lá) Cách lưu ảnh “em nhìn không chớp chiếc lá mới nhuốm vàng”, “em chợt muốn dịu dàng vuốt ve chiếc lá”, “ánh nhìn của mắt em từ khung xương rã mục của cánh lá sẫm nâu” gợi hình ảnh suy kiệt, sắp chết của người nữ quý tộc xinh đẹp kia. Có thể cái buồn đẹp từ ánh nhìn nhiều suy cảm từ chiếc lá vàng, từ khung xương xác lá của bài thơ gợi chớp sáng hắt hiu, mà thiêng liêng vang động tâm cảm những giá trị vĩnh cửu của tình, của ý nghĩa cuộc sống. Có thể từ cảm giác bất lực trước thản nhiên và riết róng của thời gian đời người, lá xanh, lá vàng, thiếu nữ tràn đầy mơ ước và tàn phai thiếu phụ gặp khung hình ấn tượng đoạn cuối tiểu thuyết kia?… Hoặc từ cách điềm tĩnh ngẫm ngợi ấy? Hoặc đơn giản, niềm xúc động mạnh, ấn tượng mạnh từ một vẻ đẹp bắt gặp thường khơi gợi mối tương liên đằm sâu trong ký ức không bao giờ phôi pha? Tôi không chắc chắn vì sao. Nhưng quả là khi đọc Chiếc lá , tôi nhìn thấy vườn hoa kia trong chiều tàn, tôi nhớ như in câu nói từng làm chấn động tâm hồn tôi khi đọc đến trang sách ấy. Và đó cũng là bí mật khác của văn chương chăng? 3. Nhưng đúng là lưu ảnh. Khả năng lưu ảnh trong thơ Đinh Thị Như Thúy thật đặc biệt. Đọc thơ, bình thơ, người ta thường nhắc tới ngôn ngữ, hình ảnh thơ… có đắt không, có ám ảnh không…, chẻ câu thơ làm tư để tìm các biện pháp tu từ, để phát hiện “nhãn tự”. Thì cũng được. Cách sáng tác, cảm nhận, phê bình trên nền tảng mỹ học cũ, gọi chung rất đường mòn, rất lạm dụng là truyền thống. Thôi không bàn về thực tế thơ còn khá đông đảo này. Đang nói về khả năng lưu ảnh của thơ Đinh Thị Như Thúy. Nó không sinh ra từ chữ nghĩa đặc biệt nào. Càng ít sử dụng các biện pháp tu từ; có chăng điệp từ điệp ngữ, những so sánh, liên tưởng- một cách thể hiện như phải thế trong nỗi cuốn đi, cuộc hòa tan, chứ không thiên về kỹ thuật. Tất cả đều trên nền ngôn ngữ trong sáng nhất có thể. Còn hình ảnh, nội dung? Chị cũng viết về mọi điều xảy ra hàng ngày, điều nhìn thấy, cảm nhận: về thời tiết, những cơn mưa, cái lạnh, hoa cà phê mùa tưới rẫy, chiếc lá, bông hoa, con bướm, con rắn trong vườn, một nhành hoa cau nhặt được trên đường…; về con tàu mắc cạn, về cái chết những người bạn, về một cuộc sinh hoạt cộng đồng, một kỷ niệm; cả những suy đồi nhân cách, những vấn đề xã hội, thế sự… Khả năng lưu ảnh lớn không phải từ cách miêu tả chân xác, sinh động, mà là những suy gợi từ hình ảnh ấy chiều sâu khác. Nó đọng lại, day dưa, sinh sôi. Và một vấn đề khác, một thế giới khác hay một đời sống khác đã hiện lên, đã ngân lên trong tâm cảm người đọc. Thử đọc một số, tình cờ: Không thể không thở than trước những bất thường của thời tiết mùa xuân, khi tràn ngập đất trời những gió chướng những mưa trái mùa những mây xám xịt những lạnh buốt những tím tái những nứt môi nẻ chân những áo quần lùng xùng bao bọc giấu che thân thể Một ngày vẫn bắt đầu bằng chỗ ngồi quen đến cũ, lâu rồi không thấy con sóc nhỏ lấp ló hít mùi café (lạnh quá nó đã ngủ quên trong hốc tối hay đã bị loài mèo chụp bắt), lâu rồi lại thấy ông chủ quán xuất hiện với mảnh tang đen trên ngực trái, vẻ mặt âu sầu mỏi mệt và bài hát vang lên trong quán cũng mệt mỏi âu sầu, như nhắc nhớ hỏi han mỗi con người rằng còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn xưa* (Lời trong bài hát Phúc âm buồn của Trịnh Công Sơn) (Những ban mai không có mặt trời) Hoặc: Làm sao lý giải được những con sâu nhỏ nhắn toàn thân phủ một lớp lông mịn vàng óng như lông chim hoàng yến lại cứ mù lòa quờ quạng mải miết bò vào những lối đi ồn ã nơi luôn có người lại qua để rồi bị giày xéo vỡ nát. Làm sao lý giải được những con ve nhẫn nại nằm trong lòng đất bao năm rồi một hôm lột xác điểm trang cho mình một bộ cánh mỏng tang trong veo óng ánh nhưng chỉ để hiện hữu vài ngày lảnh lói tiếng ca dưới nắng vài ngày rồi chết Và xác của bao nhiêu loài côn trùng khác khô giòn nằm rải rác khắp các xó xỉnh ngóc ngách của khu vườn Và đêm đêm bị ánh sáng dẫn dụ bao nhiêu bọ rầy bọ dừa bay vào trong những căn phòng nhỏ để rồi mất phương hướng để rồi loạng choạng để rồi rơi xuống rồi lại bay lên rồi múa lượn với chính cái bóng của mình rồi đâm sầm vào những ngọn đèn rồi chết trong ảo vọng (Chuyện tháng tư) Thật nhiều, có thể nói là hầu khắp trong mỗi trang thơ của chị, những ảnh hiện vọng sâu, dai dẳng. Màu xanh của rắn lục, màu rợn đẹp sự chết là màu cây lá sự sống; những mưa lạnh lê thê; thế giới những con vật, con sóc lấp ló đáng yêu hay con sên nhớt nhầy ghê tởm dù chậm chạp lành hiền, những con côn trùng nhỏ bé giữ rịt bí mật tồn tại của mình trong hành trình, vũ đạo mê cuồng, bất chấp lý lẽ thiệt hơn của con người, toan tính của con người … Thế giới tự nhiên ấy đọng lại, lưu dấu rất sâu, bởi ẩn sau đó là bóng dáng con người với những ngẫm ngợi về sự tẻ nhạt, sự độc ác, tranh đoạt đầy ngu tối, những trò múa may cuống cuồng, những ngụy trang, ảo vọng… Tất cả, thật vô lý như đang sống và vô nghĩa khi đối diện cái chết. Sẽ đi về đâu sự sống này, thế giới này? Tôi thấy chị như tách rời ra khỏi mình. Ngắm mình, săm soi. Ngắm thế giới chung quanh, đắm say, mê miên như vậy trong nỗi e dè, ngạc nhiên, bất lực. Dòng chảy dường như cuốn trôi, dường như bỏ quên một thực tồn, một không thực tồn. 4. Đương nhiên khác nhau nỗi cô đơn mênh mông, những bất an thường trực và niềm khắc khoải, dịu dàng nỗi chết. Nhưng các trạng thái tâm hồn này thường cận kề nhau, có trong nhau, nhiều lúc là các mặt khác của nhau trong thơ Đinh Thị Như Thúy . Đã có “trăm năm cô đơn” . Đã có “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người” . Đã có “to be or not to be” . Rồi con người từ đâu đến, và sẽ đi về đâu?… Văn chương nghệ thuật và triết học và khoa học và tôn giáo và ngoài tất cả, những mê muội mê lú… Duy vật và duy tâm, duy ý chí duy khoác lác duy đồng bóng. Những tâm lý học, tâm phân học. Những ý thức, vô thức, tiềm thức. Và thiền. Và bản ngã, vô ngã, chân ngã. Và những lừa mị… Đã ngàn vạn năm qua, con người không thôi ám ảnh, không thôi đào xới. Văn chương và triết học luôn mở hết tốc độ, luôn dãn nở đến tận cùng. Mà có tận cùng đâu, các trạng huống của tâm hồn, các vấn đề sinh – tử? Không tận cùng cũng là bí mật hấp dẫn cần khám phá. Cũng như, cái chết khó thể trải nghiệm, nhưng nếu sự sống là mặt đối lập của cái chết thì trải nghiệm sống bằng khoái cảm ưu tư cũng là cách tiếp cận khả dĩ. Vậy nhà thơ nữ này, tinh thần và trí lực, và xúc cảm, bằng phản xạ tự thân, tự nhiên nhất, cứ hướng về, cứ trôi vào sự cuốn hút khôn cưỡng ấy như thế nào? Như sự chấp nhận, như động viên nhắc nhớ mình, hay cuộc trốn/ tìm vào cơn mơ, hay thoát đi vào một thế giới khác? Lạnh và tĩnh lặng. Tôi mơ làm dòng nước trôi chậm trong đất. Trôi. Và lắng lại. Thèm chút tĩnh lặng trong mưa như sáng nay để lắng lại. Đừng xô đẩy. Đừng dằn vặt. Để tôi nhìn thời gian trôi. Và nhìn tôi sống. Sống một ngày là chết một ngày. Tôi nhắm mắt. Nghe lời thét gào của một cơn mưa khác. Cơn mưa tiên tri buổi hoàng hôn ngay đó. Đừng quay lại. Khuôn mặt hân hoan đến mức lố bịch và trơ trẽn của một con người. (Có thể đi hết chiều dài cơn mộng này không) Hay chấp nhận sự biến dạng từ “những chuyển động hỗn loạn và chói gắt”, mọi thứ quá ngưỡng cùng trỗi lên như niềm hả hê trước kiểu “sáng thế ký” kinh dị, trước vẻ đẹp tuyệt diệt? Mặt trời không lên thẳng mà đi đường dích dắc. Những hàng cây chen ra giữa lòng đường. Những ngọn đèn đường chuyển chỗ cho nhau và chuyển đổi sắc màu liên tục. Những hàng quán không còn bảng hiệu, sự dịch chuyển của ghế bàn ly tách thìa nỉa tạo ra bao vệt sáng lóng lánh. Trong không gian đầy ắp âm thanh có gì như vui tươi có gì như cuồng nộ. Trong công viên đầy ắp những dây leo, từ dưới đất vẹo vọ mọc lên, từ trên vòm lá xanh ùn ùn tràn xuống lắc lư vặn xoắn như rắn cuộn Trong lồng ngực khối u đã được kích hoạt, từ vị trí ba giờ bên ngực trái những chiếc rễ bắt đầu mọc lan, cái chết lạnh toát đang nở ra trương phình ra như rong tảo khô ngấm nước Mũi tên đã rời cánh cung đang vẽ vào cát bụi một đường cong lộng lẫy (Cái gì đã xảy ra giữa chúng ta) Có khi là tỏ bày đồng cảm cùng một bông hoa, một con vật, một cơn mưa, những đối tác tội nghiệp và đáng tin cậy? Lại chạy như con hươu trong bóng tối bủa vây Biết vũ khí duy nhất của mình Là đôi chân Guồng những bước nhanh Buồn rời rã trong nỗi kinh hoàng bị săn đuổi Nước mắt nhỏ suốt dọc đường đi (Gọi đúng tên là nỗi sợ) Mưa vẫn chưa ngừng. Những cơn mưa như đã chết. Cái chết của cơn mưa không phải khi nó chấm dứt mà khi nó đã tràn ngập tất cả, đã nhấn chìm tất cả nhưng không làm sao được ngừng rơi. Không dừng lại được cũng là một hình thức chết/…/ Ngoài hiên bạch thiên hương tỏa hương. Cây hoa này cứ như một yêu nữ. Hoa thì đẹp, hương thì thơm, nhưng dường như đã phải chịu một lời nguyền nào đó nên không làm sao ngẩng mặt lên được. Những bông hoa trắng cứ chúi vào nhau. Rũ rượi. Nhất là trong mưa. Những bông hoa trắng chúi vào nhau như những con nhạn ướt cánh, rũ vùi. Đẹp. Man dại. Buồn bã. Và đau đớn. (Những cơn mưa của ngày dài mê dại) Có lẽ không phải. Không đúng. Không phải ẩn vào, nương theo một thế giới khác do nỗ lực chạy trốn của mình. Mà, thế giới thường hiện trong thơ chị vốn là một thế giới khác! Tôi đã hoài công tìm kiếm những biện giải về cái điều hiển nhiên khi nỗi cô đơn, sự bất an và cái chết chẳng là gì hết bởi đã được thanh lọc khi đi qua “thế giới của những giấc mơ và những bông hoa độc”: Sáng nay rừng không bướm trắng/ Sáng nay rừng không gió động/ Mưa trái mùa đã rơi suốt đêm qua Suốt đêm mưa rơi trên những hoa dại mới nảy mầm/ Suốt đêm mưa rơi trên dự cảm những bồn chồn ly biệt. Có thể chúng ta phải tự trách mình/ Có thể chúng ta phải tự thương mình/ Có thể chúng ta phải cười như Vũ khi mọi người vuốt mắt Có thể chúng ta phải ngoái nhìn những biến thiên của mọi kiếm tìm/ Như thể nhìn một ban mai dịu nhẹ/ Như thể nhìn một gương mặt bình yên sau giấc ngủ dài. (Có phải mọi kiếm tìm đều như thế) Bây giờ thì tôi hiểu vì sao có cảm giác thiêu thiếu mỗi khi đọc một bài thơ, một chùm thơ Đinh Thị Như Thúy trên báo. Là bởi, khả năng khơi gợi một thế giới khác trong mỗi câu chuyện, mỗi hình ảnh. Và nỗi vây bủa, ám ảnh trên từng nhịp sống, không ngừng nghỉ nối tiếp những ảnh hiện, qua nhà thơ, dù có khoảng trống cuộc tiếp nhận này (vì một công việc khác), như chiếc đồng hồ thản nhiên tích tắc bất kể ta có chú ý hay không. 5. Cái thế giới ấy ít thấy con người (trừ những người bạn đã qua đời, được gọi tên, được lưu dấu sâu đậm, những Vũ, Diệp, Nhẫn…), mà chỉ là những ảnh tượng, những thoảng qua. Những “chỉ tay vào mặt”, “vung tay chặt chém” hoặc “khuôn mặt hân hoan đến mức lố bịch và trơ trẽn của một con người”… Hoặc cùng lắm là những người đàn ông “yêu người đàn bà bằng những câu chửi”, những người đàn bà vô vọng “mang trong mình ổ trứng hồng thèm khát sinh nở” của làng chài mất đất “tìm lên dãy núi Răng Cưa” (Bài ca bên dãy núi Răng Cưa) tội nghiệp. Nhưng những người đàn ông, đàn bà này, những khốn khổ bé mọn này đã nhập vào những con hươu bị bóng tối bủa vây, bị truy đuổi; với phía bị hại, niềm thương cảm thì ích gì, niềm thương cảm không thay đổi được bóng tối? Thực không có chỗ cho sự khinh khi bởi nó đáng thương hơn đáng giận- con người thảm hại đâu đó hàng ngày phải tiếp xúc, hoặc trong những đám đông, những gặp gỡ tình cờ. Mà nói gì với con người đây khi nó nhàm nhạt, nó rập khuôn, đồng bóng, xu thời, hãnh tiến, bé mọn và kiêu ngạo? Nhưng người, nguồn cơn chính của nỗi bất an, vẫn chung đụng vẫn phải tìm kiếm sự hài hòa. Đôi khi muốn tồn tại phải như bầy tượng gỗ “mọc lên từ những chiếc ghế có nơ cài” trong đám đông những bàn tiệc chung quanh, vẫn khó thoát: những tiếng hú gào hả hê/ vây quanh chúng ta trong biển những mặt người thù hận/ chúng ta đã không cẩn trọng không phòng vệ không di chuyển/ từ lời nói này vị trí này cảm xúc này/ đến lời nói khác vị trí khác cảm xúc khác/ những bẫy sập bẫy kẹp bẫy treo bẫy thòng lọng/ gom dần chúng ta trong lưới … họ đã cài đặt tất cả/ bằng tất cả quyền lực/ để trùm phủ tối tăm lên xứ sở này/ tình yêu niềm tin danh dự là vũ khí của chúng ta/ trở thành trò cười thảm hại/ cả trong mặt những chiếc ghế có nơ cài (Trò chơi của bầy tượng gỗ) Hay: làm sao biết/ sự tinh khiết của niềm tin/ là có thật những đổ sập/ mang khuôn mặt trang nghiêm/ mỗi lời hứa/ bày ra một cái bẫy (Rốt cuộc thì tháng 11 cũng đã chịu hết) Khi nỗi đau tột cùng, phẫn nộ tột cùng, bất lực tột cùng, con người hiện lên, dữ dội nhất, kinh dị nhất: tìm được cơ hội để diễn tả nhẹ như không lại thành tiếng thét đau đớn lộ liễu duy nhất của nhà thơ, là lúc gửi gắm, cảm thấu con người – bù nhìn, bù nhìn – người: Tôi khô những cọng rơm/ Khóc không có nước mắt/ Đau không có miệng mếu máo/ Oan ức không có bàn tay nắm lại phẫn nộ/ Tôi không nghe hơi thở buồn bã của tôi/ Tôi không nghe máu chảy Con người sẽ bất lực hơn con bù nhìn/ Nếu làm con bù nhìn Con người sẽ tàn độc hơn thú dữ/ Nếu biến thành thú dữ (Không chỉ mình tôi như thế) Ngay với tình (?), với “anh”, dù là thật tinh khiết niềm tin, vẫn không là sự vô ưu thuần túy thời khắc ấy mà bắt đầu một khởi sinh khác, có thể tốt đẹp hơn, để hy vọng, nhưng như một trốn tránh thực tại: Em rủ anh đêm nay kín đáo, lặng lẽ ra vườn ngồi chìm trong bóng tối. Góc vườn đó. Chiếc ghế đá đó. Dưới gốc mimosa đó. Không là mùa trăng. Trời tối. Nên tha hồ rón rén. Như thể trộm lén dự phần vào cuộc sống bí mật nơi này. Em bảo. Một lần thử xem. Chúng ta học cách sống của loài cây. Chúng ta ngồi thật lâu trong im lặng. Chúng ta chìm vào vườn. Hơi thở chúng ta hòa lẫn trong hương thơm cỏ cây. Hơi thở của chúng ta hòa lẫn trong hơi thở thơm mát của khu vườn. Anh có thấy không? Dường như trong anh đang bền bỉ lớn dần những đọt non chồi lá (Rơi như là giọt nước) Rồi như, với học trò, với đối tượng trong sáng thân yêu, có điều gì vẫn gờn gợn, giữa trang sách, bài giảng (hẳn là những điều tốt đẹp, nhân văn) và cuộc sống ngoài kia, thiên nhiên tươi đẹp ngoài kia: …nhưng rồi cô tự hỏi có đúng vậy không, có ý nghĩa thực sự gì không trong những rao giảng của cô, trong những tác phẩm hàng ngày cô và trò đi qua, khi ngoài kia trời đẹp đôi khi đến ngộp thở, đẹp đến nỗi người ta không muốn gì hơn là được hít thở được nói cười được bày tỏ những quan tâm đến nhau một cách chân thành không giả trá không nịnh nọt không gò bó không từ chối không ngụy trang (Krông Pắc, tháng mười một ngày mười ba) Có điều lạ, trong thế giới đầy những dự cảm bất an của Đinh Thị Như Thúy, tôi không thấy ngớp trong nỗi lo âu, mà chỉ thực sự xúc động. Trước thiên nhiên tuyệt diệu. Trước sự chịu đựng, nỗi thống khổ và khả năng kiếm tìm vô hạn của con người lý lẽ để biết mình hằng hữu, cả khi đã chết đi. Bởi nỗi buồn, nỗi đơn độc, và sự chết như một tận hưởng, và nhận biết ấy thành hân tặng của tạo hóa. Con người, dù tuyệt vọng đến đâu, vẫn tin một lối thoát sẽ hiện ra, không phải quy luật tồn sinh, hay cách “hạt cây chỉ thật sự chết đi khi đã được nảy mầm” (Rồi lạnh dần nỗi nhớ), mà là một hy vọng khôn nguôi, một niềm mơ được quyền mơ, cái quyền Thượng đế dành cho mỗi sinh thể: Sinh ra là để đi/ Để dịch chuyển những tự do/ Để đối mặt với bát ngát xa xăm phơi mở những chân trời sóng Chiều nay con tầu mắc cạn chết sững sờ bờ cát/ Bất lực chịu đựng bao ánh mắt/ Thảng thốt giấc mơ về lại biển khơi Chiều nay con tầu đã làm tôi buồn quá … Sinh ra là để mơ/ Những giấc mơ sẽ vẫn tiếp tục tràn trề biển khơi và ánh sáng/ Khi những dây leo xanh lạnh bắt đầu bò lan/ Khi bóng tối mục ruỗng thân tầu lặng lẽ đến/ Cùng những con còng lăng xăng gió (Với con tàu mắc cạn) 6. Đó, cái thế giới của Đinh Thị Như Thúy. Khi những lan man của tôi dừng lại thì nó vẫn tiếp tục sinh sôi…
Trong một thế giới khác
3,870
Những cấu trúc đặc biệt bao vây Fomalhaut, một trong những ngôi sao sáng nhất khi nhìn từ Trái Đất, vừa được kính viễn vọng không gian James Webb tiết lộ. Theo Reuters, hôm 8-5 nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi nhà thiên văm học Andras Gaspar từ Đại học Arizona đã công bố phát hiện về ba vành đai và một khoảng trống đầy thú vị xung quanh ngôi sao Fomalhaut nằm trong khu vực lân cận của Milky Way (Ngân Hà, tức thiên hà chứa Trái Đất). Đó là ba vành đai lớn, đồng tâm, cung cấp cái nhìn dầy đủ nhất từ trước đến này về các cấu trúc hệ sao bên ngoài hệ Mặt Trời . Fomalhaut và ba vành đai vật chất – Ảnh: NASA/ESA/CSA. Fomalhaut là một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời Trái Đất và là cái sáng nhất trong chòm sao Nam Ngư. Nó cách Trái Đất 25 năm ánh sáng và các tính toán cho thấy độ sáng thực của nó là gấp 16 lần Mặt Trời của chúng ta. Do quá sáng và là một trong những vì sao gần Trái Đất nhất, vành đai mảnh vụn đầu tiên của Fomalhaut đã được quan sát vào năm 1983. Nhưng “mắt thần” của kính viễn vọng tối tân nhất thế giới James Webb đã giúp lộ diện hai vành đai bổ sung gần ngôi sao hơn, vốn bị che lấp bởi ánh sáng sao khi quan sát bằng các phương tiện khác. Theo bài công bố trên Nature Astronomy, 3 vành đai này có thể chứa đựng các hành tinh nhỏ, thứ mà trong lịch sử ban đầu của các hệ sao bao gồm hệ Mặt Trời đã kết hợp với nhau để tạo thành các hành tinh như ngày nay. Chúng cũng bao gồm những vật thể nhỏ hơn như tiểu hành tinh và sao chổi. Ba vành đai này lồng vào nhau, mở rộng với đường kính lên tới 23 tỉ km, tức khoảng 150 đơn vị thiên văn (AU, bằng khoảng cách Mặt Trời – Trái Đất). Mặc dù chưa có hành tinh nào được xác định quanh Fomalhaut, các nhà nghiên cứu nghi ngờ rằng các vành đai được tạo ra bởi lực hấp dẫn do các hành tinh non trẻ tác động. Hệ Mặt Trời của chúng ta cũng có 2 vành đai như vậy, bao gồm vành đai tiểu hành tinh chính giữa quỹ đạo Sao Hỏa và Sao Mộc, cũng như vành đai Kuiper bên ngoài “người khổng lồ băng” Sao Hải Vương. Ảnh hưởng hấp dẫn của Sao Mộc khổng lồ đã bao trùm và định hình vành đai tiểu hành tinh chính, trong khi Sao Hải Vương định hình cái còn lại. Vì thế, các nhà khoa học tin rằng một khoảng trống lớn, rõ mà họ quan sát giữa các vành đai là dấu hiệu mạnh mẽ về một “người khổng lồ băng” khác trong hệ Fomalhaut. Sao Fomalhaut là một ngôi sao trẻ 440 triệu tuổi, tức chưa bằng 1/10 tuổi Mặt Trời, do đó các hành tinh của nó cũng là các hành tinh non trẻ, xuất hiện chưa lâu. Tuy nhiên đó là dạng sao “đoản mệnh”, có thể đã đi hết phân nửa vòng đời. Các thành quả được đưa đến từ thiết bị hồng ngoại trung bình MIRI của James Webb, giúp phát hiện các vành đai vật chất ấm hơn dạng vành đai lạnh mà các kính viễn vọng khác nhìn thấy. James Webb là kính viễn vọng không gian mạnh nhất hiện nay, được chế tạo và vận hành chính bởi NASA. Phát hiện mới của James Webb cung cấp một cái nhìn sâu sắc khác về cách mà một hệ sao đang thành hình, với những hành tinh đầu tiên được hoài thai, đúng với các nghiên cứu mô hình trước đó về cách mà hệ Mặt Trời bao gồm Trái Đất đã ra đời. Anh Thư
‘Người khổng lồ băng’ ra đời bên ngôi sao sáng rực trên bầu trời Trái Đất?
645
Chân dung nhà văn, nhà báo Barbara Kingsolver và tác phẩm Demon Copperhead. Ảnh: Atlanta. Tác phẩm ‘Demon Copperhead’ là sự mô phỏng và mở rộng hình tượng David Copperfield của nhà văn Charles Dickens trong bối cảnh xã hội nước Mỹ đầy rối ren. Vào lúc 3h sáng ngày 9/5, theo giờ Việt Nam (GMT+7), lễ trao giải thưởng Pulitzer đã được tổ chức tại Đại học Columbia, Mỹ. Các cuốn sách được chia làm sáu hạng mục khác nhau để tranh giải gồm: Hư cấu, lịch sử, tiểu sử, hồi ký hoặc tự truyện, thơ và phi hư cấu. Các tác phẩm năm nay có nhiều thông điệp khác nhau, từ vấn đề chính trị, xã hội cho đến đời sống, sức khỏe. Tại hạng mục hư cấu, tác phẩm Demon Copperhead của Barbara Kingsolver chiến thắng. Demon Copperhead lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết kinh điển David Copperfield của nhà văn Charles Dickens. Barbara Kingsolver đưa người đọc đến những vùng quê nước Mỹ, nơi con người đang phải đối mặt với nghèo đói và bóng ma nghiệp ngập. Nếu phiên bản của Dickens đặt ra câu hỏi: “Liệu tôi có thể nắm giữ số mệnh của mình hay không?”, tiểu thuyết của Kingsolver lại đưa ra vấn đề: “Cứu người hay được người cứu”. Theo đánh giá của New York Times trước đó, việc lựa chọn làm mới một nhân vật kinh điển trong văn học của Kingsolver là điều khó hiểu. Trước đó nữ nhà văn đã có nhiều tác phẩm làm nên tên tuổi như The Poisonwood Bible (1998), Flight Behavior (2012)… Tuy nhiên, sau khi ra mắt, chúng lại nhận được phản hồi tích cực từ độc giả và đánh giá cao của giới chuyên môn. David Copperfield là câu chuyện về một bé gặp nhiều biến cố, cô độc trong ngôi nhà của mình, bỏ trốn đi tìm một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Demon Copperhead, nhân vật chính trong tác phẩm của Barbara Kingsolver cũng gần như vậy. Thế nhưng sau cùng nữ nhà văn đã không để nhân vật của mình thoát ra khỏi những vòng vây cuộc sống. Họ cứ chìm dần vào trong một vũng lầy, bao quanh đó là chất gây nghiện tạo ảo giác ở những liều thuốc giảm đau. Sau tất cả, Kingsolver vẫn cho người đọc thấy một tia hy vọng le lói, “Không thể biết trước điều gì nếu chúng ta chưa lật tới trang cuối”. Trong 5 năm trở lại đây, Demon Copperhead là tác phẩm đầu tiên lấy cảm tác từ một hình tượng văn học kinh điển giành giải thưởng Pulitzer. Dưới ngòi bút của tác giả đương thời, nhân vật David Copperfield đã được làm mới lại để thể hiện nhân sinh quan gắn với dòng chảy thời sự. Trước đó, các tác phẩm thường là những câu chuyện lấy cảm hứng từ những cuộc đấu tranh có thật trên đất nước Mỹ. Chẳng hạn The Night Watchman (2021) của Louise Erdrich viết về cuộc đấu tranh bảo vệ quyền của người Mỹ bản địa năm 1950, The Nickel Boys là câu chuyện dựa trên chuỗi sự kiện về trường Dozier tại bang Florida bị tố lạm dụng tình dục (2020). Cùng Demon Copperhead của Barbara Kingsolver, Trust của Herman cũng chiến thắng ở hạng mục hư cấu. Cuốn sách lấy bối cảnh phố Wall, hai vợ chồng nhà Rask cùng vươn lên trở thành thế lực tài chính nước Mỹ bằng trái phiếu. Để có được khối tài sản khổng lồ cũng như địa vị trên thương trường, nhà Rask đã sử dụng nhiều thủ đoạn, trong đó có việc đầu cơ tích trữ, sử dụng quyền lực tài chính bóp méo sự thật. Herman đã lên án gay gắt hành động này và nêu cao tinh thần hướng đến sự thật. Cuốn sách đoạt giải thưởng hạng mục phi hư cấu. Ảnh: Y.T. Ở hạng mục lịch sử, tác giả Jefferson Cowie đã chiến thắng với tác phẩm Freedom’s Dominion: A Saga of White Resistance to Federal Power. Cuốn sách lấy bối cảnh tại tiểu bang Alabama (Mỹ) thế kỷ 19 nói về cuộc đấu tranh của người da đen giành quyền tự do, thoát khỏi chế độ nô lệ. Cuốn sách giành giải thưởng Pulitzer hạng mục phi hư cấu là His Name Is George Floyd (Robert Samuels và Toluse Olorunnipa). Đây là một bức chân dung gần gũi về người đàn ông tạo nên làn sóng Black Lives Matter vào năm 2020. Còn với thể loại tiểu sử, giải thưởng đã được trao cho cuốn G-Man của Beverly Gage. Giải thưởng về tập thơ xuất sắc thuộc về Then the War của Carl Phillips và giải hồi ký hoặc tự truyện thuộc về Stay True của Hua Hsu.
Cuốn sách lấy cảm hứng từ văn học kinh điển thắng giải Pulitzer 2023
760
Ảnh chân dung chính thức đầu tiên của Vua Charles III sau đăng quang. Ảnh: Hoàng gia Anh. Cung điện Buckingham ngày 8/5 công bố bức chân dung chính thức đầu tiên của Vua Charles III sau lễ đăng quang. Nhiếp ảnh gia Hugo Burnand là người chụp bức ảnh lịch sử này. Trong bức ảnh đang được lan truyền rộng rãi, có thể thấy Vua Charles III mặc áo tunic tím, áo choàng Robes of Estate, đội vương miện Imperial State (Nhà nước Hoàng gia) và đang cầm quả cầu cùng vương trượng. Theo People , đối với bức chân dung này, Vua Charles III ngồi trên một trong hai chiếc ghế ngai vàng năm 1902 – vốn được làm cho vợ chồng vị vua tương lai George V trong lễ đăng quang của Vua Edward VII. Nặngg 1,06 kg và cao 31,5 cm, Vương miện Imperial State được khảm 2.868 viên kim cương, 17 viên ngọc bích, 11 viên ngọc lục bảo, 269 viên ngọc trai và 4 viên hồng ngọc. Vương miện này còn có viên kim cương Cullinan II, viên đá lớn thứ hai được cắt từ viên kim cương Cullinan. Bên cạnh đó, Vua Charles III hôm 8/5 gửi lời cảm ơn “chân thành” tới những người tham gia lễ đăng quang của ông vào cuối tuần. Ông cho biết bản thân và Hoàng hậu Camilla sẽ cống hiến cuộc đời mình để phục vụ người dân Vương quốc Anh và Khối thịnh vượng chung. Vua Charles III và Hoàng hậu Camilla chụp hình cùng với các thành viên đang phục vụ Hoàng gia Anh. Ảnh: Hoàng gia Anh. Tuyên bố được đưa ra vào cuối ba ngày lễ kỷ niệm đăng quang, kèm theo 4 bức ảnh chính thức của Vua Charles, Hoàng hậu Camilla và các thành viên hoàng gia. Vua Charles III cũng gọi sự ủng hộ của quốc gia trong suốt lễ kỷ niệm lịch sử này là “món quà đăng quang tuyệt vời nhất có thể”. Vua Charles III và Hoàng hậu Camilla ngày 6/5 chính thức đăng quang tại Tu viện Westminster , đánh dấu sự khởi đầu mang tính biểu tượng của một kỷ nguyên hoàng gia mới ở Anh.
Ảnh chân dung chính thức đầu tiên của Vua Charles III sau đăng quang
355
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42, dự kiến Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ có các bài phát biểu quan trọng và có những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ với lãnh đạo các nước. Sáng 9-5, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã rời Thủ đô Hà Nội lên đường dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42 theo lời mời của Tổng thống Cộng hòa Indonesia, Chủ tịch ASEAN 2023 Joko Widodo Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42 diễn ra từ ngày 9 đến 11-5 tại Labuan Bajo – Indonesia với sự tham gia của lãnh đạo các nước ASEAN và Tổng Thư ký ASEAN. Thủ tướng Timor Leste được mời tham dự lần đầu tiên với tư cách quan sát viên. Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42. Ảnh: VGP. Dịp này cũng sẽ diễn ra các phiên đối thoại giữa lãnh đạo các nước ASEAN với đại diện Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA), Thanh niên, Hội đồng Tư vấn Kinh doanh ASEAN (ABAC) và Nhóm Đặc trách Cao cấp (HLTF) về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025. Trước đó, Hội nghị Bộ trưởng của các trụ cột cộng đồng sẽ họp trù bị. Cụ thể: Hội đồng Cộng đồng Chính trị – An ninh họp ngày 9-5 tại Labuan Bajo; Hội đồng Cộng đồng Kinh tế họp ngày 7-5 tại Jakarta và Hội đồng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội họp ngày 9-5 tại Bali. Với chủ đề “ASEAN tầm vóc: Tâm điểm của tăng trưởng”, Indonesia – Chủ tịch ASEAN 2023 – đưa ra nhiều ưu tiên, sáng kiến cụ thể nhằm nâng cao khả năng ứng phó của ASEAN, đưa ASEAN trở thành động lực tăng trưởng toàn cầu, trong đó đặc biệt chú trọng an ninh năng lượng, an ninh lương thực, tự cường y tế, ổn định tài chính-kinh tế. Đại sứ Vũ Hồ, Quyền Trưởng SOM ASEAN, cho biết hội nghị được tổ chức tại Labuan Bajo, một hòn đảo nằm rất xa thủ đô Jakarta, điều kiện phát triển và hạ tầng còn rất hạn chế song có tiềm năng du lịch rất lớn. Có thể nói, việc Indonesia chọn địa danh này làm nơi tổ chức hội nghị chuyển tải thông điệp về quyết tâm của các nước thành viên cùng chung tay thúc đẩy phục hồi nền kinh tế theo hướng bền vững và bao trùm. Các nhà lãnh đạo sẽ tập trung thảo luận những vấn đề đang nổi lên và được quan tâm hiện nay ở cả tầm khu vực và toàn cầu, thống nhất định hướng ứng xử và những đóng góp hết sức thiết thực của ASEAN trong việc tìm kiếm giải pháp; qua đó khẳng định vai trò, uy tín và trách nhiệm của ASEAN trong bối cảnh ngày nay. Đại sứ Indonesia tại Việt Nam Denny Abdi tiễn Thủ tướng và Đoàn Việt Nam lên đường dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42. Ảnh: VGP. Theo chương trình hội nghị do chủ nhà Indonesia xây dựng, các lãnh đạo sẽ có 2 ngày làm việc, trong đó có 2 phiên họp toàn thể và phiên họp hẹp. Dịp này, các lãnh đạo sẽ có các phiên đối thoại với đại diện Nghị viện, Thanh niên, doanh nghiệp và Nhóm Đặc trách Cao cấp soạn thảo Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025. Về nội dung thảo luận, theo thông lệ lâu nay trong ASEAN, phiên họp toàn thể sẽ là dịp để lãnh đạo các nước bàn và đưa ra các chỉ đạo thúc đẩy tiến trình xây dựng cộng đồng. Còn tại phiên họp hẹp, các lãnh đạo sẽ trao đổi về những vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Hội nghị Cấp cao dự kiến thông qua nhiều văn kiện quan trọng trải rộng trên cả 3 trụ cột chính trị – an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội của Cộng đồng ASEAN. Tại hội nghị, dự kiến Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ có các bài phát biểu quan trọng và có những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ với lãnh đạo các nước. Thông điệp mà đoàn Việt Nam mang tới hội nghị lần này là củng cố đoàn kết, tự cường, nâng cao năng lực ứng phó và thích ứng linh hoạt của ASEAN trước các biến động; phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò, tiếng nói và trách nhiệm của ASEAN khi tham gia công việc chung của khu vực và thế giới.
Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị Cấp cao ASEAN
759
Bìa sách “Luân vũ mưa” của tác giả Sherzod Artikov do Khánh Phương dịch. Nhà văn, dịch giả Khánh Phương vừa trình làng tập truyện dịch ‘Luân vũ mưa’ của tác giả Sherzod Artikov – nhà văn, dịch giả người Uzbekistan. Sách do nhà xuất bản Văn học ấn hành, dưới sự bảo trợ của Nhóm Nữ dịch giả Hà Nội. Nhà văn, dịch giả Khánh Phương cho biết: “Đây là tập truyện ngắn mà tôi vô cùng tâm đắc nên đã tập trung cao độ trong nhiều đêm không ngủ để dịch sách. Mỗi câu chuyện đều cho tôi những xúc động sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước, con người. Trước khi dịch, tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bằng tiếng Anh để hiểu thông điệp sâu xa mà tác giả muốn truyền tải, từ đó giúp tôi tìm từ ngữ xác đáng và chuẩn mực hơn cho mỗi câu chuyện. Đặc biệt, mỗi câu chuyện cho một cái kết khá hấp dẫn và bất ngờ khiến cho chính dịch giả muốn dịch nhiều hơn nữa tác phẩm của nhà văn tâm huyết này”. Sherzod Artikov là nhà văn, dịch giả người Uzbekistan . Các tác phẩm văn học của ông đã được xuất bản bằng 30 thứ tiếng trên các tạp chí, tuần báo và trang web của 64 quốc gia trên thế giới. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách trong đó bao gồm: “Bản giao hưởng mùa thu” (xuất bản năm 2020 tại Uzbek), “Cái đẹp không cứu được thế giới” (xuất bản năm 2022 tại Uzbek), “Nụ cười của Mona Liza” (xuất bản năm 2022 tại Uzbek), “La sinfonia del Otono” (xuất bản năm 2021 tại Cuba), “Cuốn sách của Garcia Marquez” (xuất bản năm 2022 tại Ấn Độ) và “Sonata lui Rahmaninov” (xuất bản năm 2022 tại Romania). Bên cạnh đó, các tác phẩm của ông đã được đăng trên các tạp chí văn học, báo và trang web của Nga, Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ, Montenegro, Serbia, Slovenia, Anh, Đức, Hy Lạp, Ý, Tây Ban Nha, Romania, Ba Lan, Israel, Bỉ, Albania, Macedonia, Thụy Điển, Kazakhstan, Bangladesh, Pakistan, Trung Quốc, Ả Rập Saudi, Ấn Độ, Indonesia, Iraq, Jordan, Syria, Lebanon, Yemen, Palestine, Iran, Nepal, Nigeria, Ai Cập, Maroc, Algeria, Peru, Bolivia, Argentina, Colombia, Chile, Venezuela, Brazil, Mỹ, Mexico, Costa Rica, Guatemala, Nicaragua, El Salvadore. Ông từng thốt lên khi biết tác phẩm của mình được xuất bản tại Việt Nam: “Tôi rất vui và tự hào được cộng tác với các bạn văn/thơ Việt Nam. Thật vinh hạnh được kết nối với Hội Nhà văn Việt Nam. Chúng tôi, những đại diện cho hai quốc gia đã thiết lập thành công tình hữu nghị và văn học. Chúng tôi đã nỗ lực ngày đêm để dịch và xuất bản các tác phẩm văn học của hơn 50 nhà thơ, nhà văn Uzbekistan và Việt Nam tại Uzbekistan, Pakistan và Việt Nam trong những năm 2021-2023. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ góp phần củng cố thêm tình hữu nghị giữa hai quốc gia. Tôi cũng mong cuốn sách này đến với độc giả Việt Nam như một cầu nối và ngọn cờ hữu nghị giữa hai dân tộc chúng ta”. Nhà văn, dịch giả Khánh Phương. Tập truyện ngắn này gồm 16 tuyển tập những câu chuyện xoay quanh cuộc sống đời thường với những xúc cảm, tình yêu cuộc sống, quê hương đất nước con người. Mỗi câu chuyện không quá ly kỳ như trinh thám, cũng không quá mỹ miều như ngôn tình nhưng lại khá hấp dẫn với cái kết bất ngờ khiến cho bạn đọc muốn đọc nhiều hơn nữa. Tưởng chừng như rất giản đơn nhưng khép lại mỗi câu chuyện là những thông điệp sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải đến độc giả. Cùng với đó là sự mộc mạc, chân thực trong ngôn ngữ dịch mà nhà văn, dịch giả Khánh Phương đã khéo léo vận dụng, từ đó giúp bạn đọc khám phá thêm về nghệ thuật ngôn từ của một tác giả Uzbekistan, người từng đạt nhiều giải thưởng quốc tế và trong nước.
Nhà văn, dịch giả Khánh Phương ra mắt truyện dịch ‘Luân vũ mưa’
689
Châu Á vẫn đang phải hứng chịu một đợt nắng nóng gay gắt, giữa lúc các nhà khoa học khí hậu cảnh báo 2023 có thể là năm nóng nhất của thế giới. Nhiều khu vực ở châu Á ghi nhận mức nhiệt cao lục. Ảnh: AP. Trong một dấu hiệu đáng ngại trước mùa hè ở bán cầu bắc, hiện tượng El Nino đang nổi lên đã đẩy nhiệt độ ở nhiều khu vực phía Nam châu Á lên mức cao kỷ lục, Bloomberg đưa tin. Nhiều khu vực ở Đông Nam Á đã ghi nhận kỷ lục về nhiệt độ cuối tuần qua, từ đó gây chao đảo cuộc sống của hàng triệu người. Mức nhiệt cao nhất mọi thời đại được ghi nhận ở thủ đô của Lào , Thái Lan và Việt Nam . Theo Bloomberg , sức nóng tàn khốc tiếp tục bao trùm châu Á như một lời cảnh báo cho phần còn lại của thế giới. Ở Lào, thành phố Luang Prabang ghi nhận mức nhiệt 43,5 độ C vào ngày 6/5, phá vỡ kỷ lục 42,7 độ C mới được thiết lập vào tháng trước, nhà sử học thời tiết Maximiliano Herrera cho biết. Thủ đô Vientiane cũng phá kỷ lục mọi thời đại vào cuối tuần với nhiệt độ 42,5 độ C. Việt Nam đã báo cáo nhiệt độ cao kỷ lục là 44,2 độ C vào cuối tuần. Trong khi đó, Philippines cắt giảm giờ học sau khi chỉ số nhiệt đạt đến mức “nguy hiểm” – phản ánh sự kết hợp giữa nhiệt độ và độ ẩm có khả năng gây chết người. Nhiệt độ đo được ở TP Hà Tĩnh (Việt Nam) vào trưa 6/5 lên tới 42 độ C. Ảnh: Phạm Trường. Thời tiết nắng nóng đang thử thách khả năng của các nước trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đồng thời ngăn chặn sự gián đoạn lớn đối với nông nghiệp và sản xuất điện ở các nền kinh tế vẫn đang phục hồi sau sự tàn phá của Covid-19. El Nino – vốn khiến nước biển ấm lên khắp Thái Bình Dương – có tác động sâu rộng đến các kiểu thời tiết trên khắp thế giới. El Nino có thể giúp xoa dịu các khu vực khô hạn ở Argentina và miền Nam nước Mỹ, trong khi gây ra thời tiết khô nóng hơn đối với nhiều khu vực ở châu Á và Australia. Cây cà phê, đường, dầu cọ và ca cao sẽ đặc biệt dễ bị tổn thương trước hiện tượng thời tiết khô nóng. Nhiệt độ ở Thái Lan duy trì ở mức trên 40 độ C ở nhiều khu vực miền Bắc và miền Trung trong suốt tuần trước, đẩy nhu cầu điện lên mức kỷ lục mới. Một nhóm doanh nghiệp và ngân hàng đã yêu cầu chính phủ chuẩn bị một kế hoạch hành động để đối phó với một đợt hạn hán tiềm tàng mà họ cho rằng có thể kéo dài trong ba năm. Tháng trước, Thủ tướng Thái Lan Prayut Chan-o-cha bày tỏ lo ngại về “nhiệt độ cao nguy hiểm ở nhiều vùng khác nhau của Thái Lan”. Bên cạnh đó, lượng mưa ở Malaysia có thể thấp hơn tới 40% ở một số khu vực, từ đó có thể gây rủi ro đến việc sản xuất dầu cọ ở quốc gia này. Malaysia nằm trong số nhà sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới. Bên cạnh đó, các nhà chức trách đang theo dõi chặt chẽ sự bùng phát trở lại của cháy rừng và ô nhiễm không khí. El Nino vào năm 2015 đã gây ra hiện tượng sương mù đặc biệt nghiêm trọng – một trong những thảm họa môi trường tồi tệ nhất ở Đông Nam Á. Mức nhiệt thiêu đốt cũng tấn công nhiều khu vực của Trung Quốc, Ấn Độ và Bangladesh trong những tuần gần đây. Tỉnh Vân Nam, một trung tâm sản xuất nhôm lớn ở phía Tây Nam Trung Quốc, đã phải hứng chịu đợt hạn hán tồi tệ nhất trong một thập kỷ vào tháng trước. Ấn Độ đang cảnh giác trước những đợt sóng nhiệt vào tháng 5, sau khi nhiệt độ tăng cao hồi tháng 4 đã khiến trường học ở một số bang phải đóng cửa và khiến ít nhất 11 người chết vì say nắng sau khi tham dự một sự kiện. Ở Bangladesh, South China Morning Post dẫn một số nguồn tin cho biết mặt đường đã tan chảy dưới sức nóng chói chang ở thủ đô Dhaka. Tháng 4 và tháng 5 thường là những tháng nóng nhất trong năm đối với Nam Á và Đông Nam Á, khi nhiệt độ tăng cao trước khi những cơn mưa gió mùa hàng năm xuất hiện giúp giải nhiệt. CNN dẫn một nghiên cứu năm 2022 cho biết các đợt nắng nóng nguy hiểm, với mức nhiệt từ 39,4 độ C trở lên, sẽ xảy ra thường xuyên hơn 3-10 lần vào giai đoạn chuyển giao giữa các thế kỷ. Một công nhân đang xử lý khối đá lạnh trong đợt nắng nóng ở Bangkok vào ngày 27/4. Ảnh: Bloomberg. Ở vùng nhiệt đới, bao gồm phần lớn châu Á, nghiên cứu cho thấy những ngày có “nhiệt độ cực kỳ nguy hiểm” – ở mức 51 độ C – có thể tăng gấp đôi, từ đó tạo ra rủi ro đối với người dân ở các quốc gia bị ảnh hưởng. “Theo định nghĩa, chúng tôi không biết điều gì có thể xảy ra nếu một lượng lớn dân số phải đối mặt với tình trạng căng thẳng về nhiệt độ và độ ẩm chưa từng có. Tuy nhiên, những đợt nắng nóng trong vài thập kỷ qua đã cực kỳ nguy hiểm và (chúng ta) có lý do để lo ngại trong tương lai”, Lucas Vargas Zeppetello, thuộc Đại học Harvard và là tác giả chính của nghiên cứu, chia sẻ.
Lời cảnh báo thế giới từ kỷ lục nhiệt ở châu Á
967
Ông thầy người Pháp rất kiên định với lựa chọn từ đầu đối với từng trụ cột, kiên nhẫn chờ đợi học trò tiến bộ qua từng trận đấu và nhận được kết quả ngày càng ưng ý. Khá bất ngờ khi ông Phillipe Troussier tung ra sân một đội hình U22 Việt Nam gặp U22 Malaysia tương tự như trận ra quân gặp U22 Lào và phần lớn trận gặp U22 Singapore với Văn Chuẩn trong khung gỗ, bộ ba trung vệ Tiến Long, Quang Thịnh, Tuấn Tài; cặp wingback Minh Trọng, Văn Cường; bộ đôi tiền vệ trung tâm Thái Sơn, Đức Phú; bộ ba tấn công Văn Đô, Văn Tùng, Thanh Nhàn. Tất nhiên, U22 Việt Nam sẽ có điều chỉnh trong hiệp 2 với sự xuất hiện lần lượt của Văn Khang, Công Đến, Quốc Việt… Nếu như trận ra quân, cặp tiền vệ trung tâm Thái Sơn – Đức Phú được đánh giá là “không đủ sức” đảm nhiệm tuyến giữa thì đến nay, mọi nghi ngại, lấn cấn đối với 2 nhân tố trẻ này đã tan biến. Đây chính là những cầu thủ “không phổi” với tầm hoạt động rộng, công suất cao, chạy không biết mệt mỏi với thống kê đường chạy 10-11 km trong từng trận đấu, không hề kém cạnh cầu thủ của Giải Ngoại hạng Anh. Chính hai nhân tố này đã góp phần phá lối chơi của đối thủ, bịt kín mọi khoảng trống lộ ra, không cho đối thủ khai thác, không cho đối thủ có thời gian để triển khai ý đồ tấn công theo bài bản vạch sẵn. Cũng đến trận đấu thứ 3 quan trọng nhất ở vòng bảng của U22 Việt Nam mới thấy sự kiên định với cặp wingback Minh Trọng – Văn Cường. Họ là “ngòi nổ” thực sự dẫn đến các bàn thắng, nhất là trong trận đấu gặp U22 Malaysia không còn gì để mất, với sự xuất hiện bất ngờ của Minh Trọng: Cú sút khiến cầu thủ đối phương để bóng chạm tay trong vòng cấm, pha kiến tạo tuyệt vời để Văn Tùng bật lên đánh đầu găm bóng vào lưới đối thủ. Trận này, ở bên phía phải đối diện, Văn Cường cũng có cơ hội nhưng tiếc rằng cú sút của hậu vệ Sông Lam Nghệ An đi chệch cột dọc trong gang tấc. Sự kiên định của ông thầy người Pháp từng bước mang lại niềm tin cho chính từng trụ cột, cho cả đội bóng, nhất là khi phải đối đầu với đối thủ mạnh. Văn Tùng sau 3 trận đấu đã ghi được 4 bàn thắng, trong đó có cú đúp hạ gục U22 Malaysia, là phần thưởng xứng đáng cho niềm tin của ban huấn luyện khi trước đó các học trò luôn im tiếng trước các đối thủ lớn nhỏ. U22 Việt Nam lớn lên, vững vàng hơn trong từng trận đấu, không chỉ giành kết quả thắng liên tiếp 3 trận ở vòng bảng để có vé sớm vào bán kết, mà quan trọng là tạo dựng được niềm tin dù vận hành lối chơi mới với ông thầy mới không sao tránh khỏi bỡ ngỡ ban đầu. Điều đáng nói về ông thầy mới trong trận thắng U22 Malaysia, bên cạnh sự kiên định vừa chứng minh ở trên là sự linh hoạt cần thiết của từng trận đấu, từng bối cảnh đặt ra. Trận đấu quan trọng thứ 3, trời mưa sân trơn khiến đội bóng không thể chơi kiểm soát bóng như thường lệ, càng không thể áp đặt thế trận khi đối thủ không còn đường lùi sau trận thua U22 Thái Lan trước đó đã dồn lên tấn công dồn dập. Nhưng U22 Việt Nam ngay từ pha phối hợp đầu tiên của trận đấu đã chơi bóng dài khác với thường lệ. Hai bàn thắng ghi được chóng vánh ở hiệp 1 cũng xuất phát từ các pha bóng dài, trong đó sự xuất sắc của Minh Trọng bên cánh phải là một dấu ấn bất ngờ, thú vị, pha chuyền dài của Tuấn Tài nhắc lại điểm mạnh vốn có của cầu thủ gốc Nghệ này vốn thể hiện nhiều lần trước đó. Cũng cần nói tới việc ông thầy sử dụng Đức Phú khi ở vị trí tiền vệ trung tâm, khi ở hậu vệ biên phải. Văn Cường chủ yếu chơi cánh phải quen thuộc nhưng khi cần lại sang trám vào cánh trái như cuối trận gặp U22 Malaysia cho thấy sự linh hoạt của ông thầy và sự đa năng của các trụ cột khi đội bóng có yêu cầu cụ thể. Tất nhiên, U22 Việt Nam trong suốt hiệp 1 đã chơi pressing toàn diện khiến đối thủ lúng túng và phá sản lối chơi, hiệp 2 đã chủ động nhường sân để chơi phòng ngự – phản công y hệt thời ông Park Hang-seo và cũng mang lại thành công như mong đợi. Rất hay ở chỗ chính Văn Tùng mới là người thường xuyên tạo được áp lực lên hàng thủ đối phương với những màn thể hiện chói sáng vừa qua. Khi ông thầy thay thế hơi sớm mũi nhọn này đầu hiệp 2 trận gặp U22 Malaysia, rõ ràng người thay thế Văn Khang đầy tiềm năng nhưng không thể đạt được ý muốn mà ông thầy gửi gắm. Cũng không rõ vì sao Văn Trường, Xuân Tiến tiếp tục được “ém kỹ” đến thế trong trận đấu quan trọng này? Khi U22 chắc chắn có vé vào bán kết, khi trận đấu cuối vòng bảng chỉ cách trận bán kết 2 ngày nghỉ, đương nhiên U22 Việt Nam phải toan tính, dưỡng sức cho các trụ cột. Điều đó đồng nghĩa với việc các nhân tố dự bị lâu nay sẽ có cơ hội trong trận đấu gặp đối thủ mạnh nhất bảng U22 Thái Lan. Về lý thuyết có vẻ như U22 Việt Nam chấp nhận thua sút đối thủ và không quan tâm ngôi nhất bảng? Nhưng biết đâu với tinh thần thoải mái, chưa phải mất nhiều sức lực trong các trận vừa qua, đội hình 2 U22 Việt Nam lại khiến “đội bóng vô đối” choáng váng, đánh mất mình như U22 Malaysia mới đây? Rõ ràng, việc giành thắng lợi trước U22 Malaysia đã trút được gánh nặng tâm lý, chứng minh niềm tin, sức mạnh của thầy trò U22 Việt Nam sau quãng thời gian làm mới, thử nghiệm, sau những bước đi đầy kiên định và vô cùng linh hoạt của ông thầy người Pháp. Hai đối thủ lớn nhất phía trước của U22 Việt Nam là U22 Thái Lan và U22 Indonesia chắc hẳn cũng giật mình trước vị “Phù thủy trắng” cùng Văn Tùng và đồng đội. Nên nhớ, U22 Thái Lan hùng hổ là thế mà cũng phải mất hơn 70 phút mới hạ gục được “những chú hổ” Mã Lai. Trong khi đó, U22 Việt Nam chỉ mất chưa đầy 10 phút đã “vào hang bắt được hổ” và sau 35 phút đã khiến đối thủ 2 lần vào lưới nhặt bóng! Chính U22 Việt Nam đang lần lượt chứng minh đâu mới là “hổ” thực sự đấy thôi?
Ông Troussier kiên định và linh hoạt như thế nào ở SEA Games 32?
1,208
Cháy rừng gần Evansburg, Alberta. Ảnh: Alberta Wildfire/Twitter. Tỉnh Alberta ( Canada ) đã yêu cầu hỗ trợ quân sự từ chính phủ liên bang khi phải đối mặt với các vụ cháy rừng ‘chưa từng có’. Hôm 8/5, Thủ hiến Alberta Danielle Smith cho biết bà đã nói chuyện với Thủ tướng Canada Justin Trudeau và yêu cầu chính phủ liên bang giúp đỡ thêm, bao gồm hỗ trợ quân sự, BBC đưa tin. “Thủ tướng Trudeau xác nhận quân đội sẽ được cử đến để hỗ trợ nếu cần thiết”, bà Smith nói tại cuộc họp báo. Bà cho biết thêm đây là “thời gian thử thách” đối với tỉnh Alberta. Các nhân viên cứu hỏa đang chiến đấu với ngọn lửa trong khi người dân và bệnh nhân bệnh viện được sơ tán khỏi các khu vực bị ảnh hưởng. “Hàng chục nghìn người đã bị buộc phải rời bỏ nhà cửa và công việc của họ, bỏ lại mọi thứ họ sở hữu, tự hỏi liệu họ có mất tất cả những gì họ từng dày công tạo dựng hay không”, bà nói. Bà Smith cho biết tỉnh Alberta sẽ trả khoản hỗ trợ tài chính khẩn cấp trị giá 934 USD cho bất cứ người trưởng thành nào buộc phải sơ tán trong hơn 7 ngày. Tính đến chiều 8/5, 94 vụ cháy rừng bùng cháy khắp Alberta, trong đó 27 đám cháy được coi là ngoài tầm kiểm soát. Hơn 29.000 người đã được yêu cầu sơ tán khỏi nhà. Tỉnh Alberta đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp vào cuối tuần do cháy rừng. Lính cứu hỏa từ các nơi khác, bao gồm Quebec và Ontario, đã bay đến Alberta để giúp dập tắt đám cháy. Các đám cháy đang lan rộng khắp phía tây và phía bắc của tỉnh này. Những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bao gồm Thung lũng Drayton – cách thủ phủ Edmonton của tỉnh khoảng 140 km về phía Tây, cùng Hồ Fox – cách thành phố khoảng 550 km về phía Bắc, nơi có 20 ngôi nhà và một đồn cảnh sát bị lửa thiêu rụi. Dù vậy, một số cư dân ở Alberta đã được phép trở về nhà vào hôm 8/5 khi lệnh sơ tán được dỡ bỏ ở một số khu vực. Thảm họa khiến hơn 24.000 người Canada phải sơ tán Chính quyền tỉnh bang Alberta, Canada ngày 6/5 đã ban bố tình trạng khẩn cấp khi nơi này ghi nhận hơn 100 vụ cháy rừng, thiêu rụi 120.000 ha và khiến hơn 24.000 người sơ tán.
Video: Alberta cầu cứu quân đội Canada
419
Ngày 8/5, NASA đã phóng thành công 2 vệ tinh nhỏ theo dõi bão hằng giờ từ một căn cứ tại New Zealand . Tên lửa đẩy Falcon 9 của SpaceX mang theo các vệ tinh Starlink được phóng đi từ căn cứ không quân Cape Canaveral, bang Florida, Mỹ ngày 29/1/2020. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN. Đây là hoạt động thuộc sứ mệnh TROPICS nhằm cải thiện năng lực dự báo sớm những cơn bão có sức tàn phá lớn. Cụ thể, hai vệ tinh được tên lửa của công ty Rocket Lab ( Mỹ ) đưa vào quỹ đạo. Phát biểu tại cuộc họp báo về vụ phóng đầu tiên của sứ mệnh TROPICS, nhà khoa học Will McCarty của NASA cho biết nhờ các thiết bị theo dõi trên mà giới nghiên cứu sẽ có thể theo sát sự hình thành và hoạt động của bão trên Thái Bình Dương từng giờ so với chu kỳ 6 giờ/lần như các vệ tinh hiện nay. Ngoài ra, thông tin thu thập được về lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm có thể giúp các nhà khoa học xác định chính xác hơn nữa cường độ cũng như vị trí bão đổ bộ, qua đó hỗ trợ người dân ven biển sẵn sàng phòng chống bão và khả năng sơ tán khẩn cấp. Giám đốc điều hành chương trình của NASA Ben Kim nhận định nhiều tổ chức như Trung tâm Bão Quốc gia, Trung tâm Phối hợp Cảnh báo Bão cùng một số cơ quan khác đã sẵn sàng tiếp nhận nhiều hình ảnh hữu ích. Về lâu dài, việc hiểu hơn về sự hình thành và tiến triển của những cơn bão sẽ giúp cải thiện các mô hình khí hậu trong tương lai. Con tàu vũ trụ thứ 2 do Rocket Lab chế tạo dự kiến phóng thêm 2 vệ tinh lên quỹ đạo trong khoảng 2 tuần tới, qua đó tạo thành chùm 4 vệ tinh theo dõi bão. Chùm vệ tinh này ban đầu dự định có 6 vệ tinh thay vì 4. Tuy nhiên, năm ngoái, NASA đã thất bại trong vụ phóng 2 vệ tinh đầu tiên sau khi tên lửa US Astra gặp trục trặc ngay sau khi cất cánh. Giới khoa học cảnh báo bão đang trở nên mạnh hơn khi nước biển tầng mặt nóng lên. Năm ngoái, siêu bão Ian cướp đi sinh mạng của hàng chục người, tàn phá bang Florida (Mỹ) và gây thiệt hại kinh tế hơn 100 tỷ USD. Đây cũng là thảm họa thiên tai gây tổn thất nặng nề nhất thế giới trong năm 2022.
NASA phóng thành công 2 vệ tinh theo dõi bão
430
Không – thời gian có 4 chiều (3 chiều không gian và 1 chiều thời gian). Trong các môn nghệ thuật thị giác, nhất là hội họa và điêu khắc, liệu chúng ta có thể cảm thụ hoặc “nhìn” thấy được chiều thứ 4 mà chúng ta thường gọi là chiều thời gian? Đã từng có không ít thắc mắc về nguyên nhân thôi thúc các nghệ sĩ đi tới thể nghiệm và thực hành việc gắn yếu tố thời gian vào nghệ thuật tạo hình. Đó là trò chơi “sáng tạo” đáp lại các thách thức, là phát hiện ngẫu nhiên, hay một lẽ không thể khác trong vận trình của đời sống xã hội? Thế kỷ XX đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hình thái mỹ thuật mới mẻ, kỳ lạ, thậm chí bị gọi là kỳ quặc vào lúc xuất hiện. Chúng ta nhận thấy những thể nghiệm đầy nỗ lực đến độ thoát ly khỏi những quan niệm truyền thống đã trở thành lối mòn. Nghệ thuật dường như đang đi xa hơn các ước định cũ để tạo ra những đáp ứng trực tiếp đối với các tiêu chuẩn không ngừng thay đổi của đời sống văn minh khoa học, vận động với tốc độ cao. Những thuật ngữ như “futurism” (vị lai), “op” (ảo thị), “pop” (bình dân), “neo-Dada” (tân Dada) và “kinetic” (động)… đã được gán cho những trào lưu nghệ thuật sinh ra trong thời đại của chúng ta để rồi sẽ có lúc bạn đi tới một gallery không phải là để chiêm ngắm các tác phẩm hội họa hay điêu khắc, mà là để có mặt ở một tác phẩm “happening”. Hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật đã đồng thuận về nguồn gốc chung của những phong cách mới này. Đó là thể nghiệm nghệ thuật vĩ đại đầu tiên trong thế kỷ XX – Chủ nghĩa Lập thể (Cubism), dẫn đầu là Picasso và Braque, từng bước đi ra từ ảnh hưởng của Cézanne để tiến tới phân tích, khai thác và áp đặt cấu trúc hình học vào vật thể tự nhiên rồi liên kết các khía cạnh khác nhau của nó trong cùng một bố cục bằng “phép chiếu đồng hiện” (simultaneous projection). Cho tới nay, người ta vẫn coi Chủ nghĩa Lập thể như là hiệu lệnh khởi đầu cuộc cách mạng trong nghệ thuật hiện đại. Giáo sư, triết gia nghệ thuật Graham Collier đã có lần nói: “…Nếu ai đó đề nghị tôi đánh giá xem bình diện nào trong sự tiến bộ của thế kỷ XX đã có tác động quan trọng nhất tới đời sống nhân loại – tôi sẽ nói đó là yếu tố THỜI GIAN”. Georges Braque – Đàn vĩ cầm và bản nhạc Petit Oiseau. Thuyết lượng tử của Max Planck ra đời vào năm 1901, cùng nguyên lý Bất định của Werner Heisenberg, rồi thuyết Tương đối của Einstein được công bố vào năm 1905 là cột mốc đánh dấu những đổi thay lớn lao từ khi con người bắt đầu bước vào thế kỷ mới, cũng là khoảng thời gian khai mở những luận điểm triết học như Hiện tượng luận, Chủ nghĩa Hiện sinh, v.v… Nền văn minh phát triển, năng lực không thể tin nổi của các phương tiện truyền thông, điện ảnh (motion picture)… đã làm thay đổi những suy nghĩ bất biến về thời gian. Ví như người ta chỉ cần ngồi tại nhà song “đồng thời” lại có thể có mặt ở nhiều nơi, chứng kiến nhiều sự kiện xảy ra cùng một lúc nhờ truyền hình trực tiếp hoặc qua internet. Thời đại khoa học với “ma thuật” công nghệ đã tác động mạnh tới đời sống muôn mặt của xã hội. Các chân lý khoa học tuyệt đối về thế giới đã phải dành chỗ cho một loạt chân lý tương đối, ngay cả phương pháp khoa học chính xác cũng không thể đưa ra những tiên đoán tuyệt đối về vũ trụ luôn năng động. Chủ nghĩa Lập thể trong hội họa ra đời như một hưởng ứng tự nhiên, mới mẻ của nghệ thuật, còn cái gọi là nghệ thuật “Happening” bắt đầu xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ. Kể từ 1905, văn minh của nhân loại đã vượt qua quãng đường dài tựa mấy trăm năm, con người bắt đầu nhìn nhận điều có ý nghĩa lớn nhất chính là thực tại chúng ta đang sống, trong đó, chất lượng trong từng khoảnh khắc sống mới là cái được coi trọng chứ không phải độ dài của dòng thời gian. Ý thức về sự hiện tồn được phản ánh khi người xem đối diện với ánh sáng và sự chuyển động tạo hiệu quả tức thời trong Điêu khắc động (Kinetic sculpture), trong tính giễu nhại và kỹ thuật tân Lập thể của Nghệ thuật Bình dân (Pop-art), trong sự phát hiện ngẫu nhiên các mối quan hệ ở cách thức lắp ghép của Neo-dada, và cuối cùng trong sự dàn dựng một “Happening”, tức là, có một cái gì đó đang diễn ra ngay trước mắt bạn. Lối cấu trúc phô bày đồng hiện – tinh túy của Chủ nghĩa Lập thể – rõ ràng đã tạo ra trạng thái thời gian mới. Những trải nghiệm thị giác vốn “lan” thành chuỗi theo dòng thời gian, đã chuyển sang xuất hiện đồng thời và bằng cách đó mang đến cho người xem một cảm nhận TOÀN CẢNH, TỨC THỜI, TRONG MỘT LÁT CẮT THỜI GIAN (thời điểm quan sát tác phẩm). Vấn đề nêu ra là: chúng ta diễn giải ra sao về tính đồng hiện nghệ thuật? Thuật ngữ đồng hiện ở đây đúng nghĩa là một vài sự kiện xảy ra cùng một lúc chứ không thành chuỗi nối tiếp nhau theo dòng thời gian. Nếu đã có lần bạn là một khán giả trong rạp xiếc, hẳn bạn đã từng trải qua tình huống có ba hay bốn tiết mục diễn ra cùng lúc trong một sân khấu tròn. Để quan sát, bạn phải cử động ngoái đầu và tập trung lần lượt vào từng tiết mục; trên thực tế, bạn không thấy chúng đồng thời. Khi mải nhìn ngắm diễn viên nhào lộn đang biểu diễn tiết mục trồng cây chuối, bạn đã bỏ lỡ những anh hề đang làm trò ngố với một chiếc xô nước; bạn không bao giờ nhận thấy được những vai hề đó đang làm điều gì vào cùng thời điểm đó, có nghĩa là những giây lát thậm chí tính bằng phút thời gian có thể trôi đi trước khi chúng ta thấy được toàn bộ một sự việc. Rõ ràng là khả năng trải nghiệm thị giác của con người bị giới hạn khi nắm bắt một quang cảnh bao hàm các sự kiện, vì trải nghiệm của chúng ta là phép cộng các cảm nhận thị giác nảy sinh theo chuỗi, cho dù các sự việc có thể xảy ra đồng thời, do đó cụm từ theo chuỗi mang ý nghĩa đối lập với cụm từ đồng hiện. Picasso – Cây vĩ cầm và những quả nho. Bởi thế, thuật ngữ tính đồng hiện nghệ thuật vốn chẳng mảy may nghĩa lý gì đối với bất cứ một thời kỳ nào trước đây song lại mang một ý nghĩa đặc biệt đối với quan niệm về chuyển động và thời gian ở thời đại này. Trong ý nghĩa tự do mà nghệ thuật đạt được ở thế kỷ XX còn có một sự giải phóng nổi bật đầy hứng khởi – là lúc Chủ nghĩa Lập thể thoát ra khỏi ước định cũ: cần phải xử lý một hay nhiều vật thể xuất phát từ một góc nhìn bằng các quy tắc của luật xa gần (từ thời Phục Hưng), giờ đây đã trở nên sáo mòn. Về mặt cảm xúc, ngay từ cuối thế kỷ V, Sie Ho (Tạ Hách) một họa sư kiêm phê bình nghệ thuật Trung Hoa đã đưa ra sáu quy tắc hội họa (Lục pháp luận), trong đó, quy tắc thứ hai có thể lấy làm diễn ngôn cho xu hướng Lập thể sau này, đó là quy tắc vẽ xương cốt. Ông đề xuất rằng: “chỉ có một cách duy nhất là trải nghiệm đồng thời những yếu tố thiết yếu bao gồm cấu trúc bên trong và các bề mặt bên ngoài thì họa sĩ mới có thể khơi gợi được cảm xúc xác thực về đối tượng, hoặc bản chất thực sự của nó”. Hãy chú ý xem xét 2 bức: “Đàn Vĩ cầm và bản nhạc: Petit Oiseau” của Braque (hình 1), “Vĩ cầm và những quả nho” của Picasso (hình 2); hai bức có sự tương đồng thuộc khuynh hướng Lập thể. Nếu chỉ bàn về bức của Picasso, bạn sẽ nhận thấy ông đã vẽ nên hình hài những cảm giác khác nhau khiến ta liên tưởng tới các khía cạnh phong phú của chiếc vĩ cầm, chúng chiếm ưu thế dàn trải trong bố cục và hình ảnh tổng thể của bức tranh – thậm chí cả không gian cũng mang một phẩm chất bằng gỗ ấm áp mộc mạc, chan chứa tình cảm, những quả nho căng mọng ngọt ngào cũng có thể thay thế cho những chiếc núm lên dây của cây đàn. Bức tranh tạo thành một thế giới mang âm hưởng của vĩ cầm tựa như ta có thể bước vào đó để trải nghiệm những sắc thái cảm xúc gần như trong thế giới thực, hoặc quan sát như một khán giả ở tại một “Happening”. Vậy, nếu coi phép chiếu đồng hiện các khía cạnh của sự vật là nguyên lý cấu trúc cốt lõi của chủ nghĩa Lập thể, thì chúng ta nhìn nhận sự bén rễ và lan tỏa của nó trong một số trào lưu nghệ thuật khác theo cách như thế nào? Chúng ta hiếm khi xem xét sự vật trong trạng thái hoàn toàn bất động. Cảm giác, ở đây là cảm nhận thị giác, sẽ nảy sinh khi ta đang di chuyển vòng quanh để quan sát một vật thể, đó là sự nhận biết hoặc một ấn tượng thoáng qua về vật thể ấy nhờ ánh sáng chiếu vào bề mặt rồi ngay lập tức nhìn ra những đặc tính bề ngoài của nó. Vì thế, những cảm giác thoáng qua này sẽ xuất hiện lần lượt theo chuỗi và luôn thay đổi cùng với độ dài của khoảng thời gian người quan sát di chuyển và nhìn ngắm vật thể. Cảm giác thì luôn biến đổi là vì mỗi lần người quan sát di chuyển tới một góc độ mới (hoặc vật thể di chuyển trong khi người quan sát đứng yên) là một lần vật thể phô ra một khía cạnh khác của nó, rồi làm nảy ra một cảm giác mới trong tri giác của người quan sát. Theo đó thì cảm giác về một vật thể mới chỉ là “thấy” vật thể. Giacomo Balla – Con chó với sợi xích. Cấp độ cao hơn, một hoạt động TRI GIÁC còn bao hàm nhiều thứ quan trọng hơn so với CẢM GIÁC về một vật thể. Tri giác sẽ mang lại một nhận thức rõ về những yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài như: cấu trúc bản chất, mối quan hệ tinh vi giữa các bộ phận, chất thể, cấu tạo bề mặt, và trạng thái tĩnh hay động trong không gian. Như vậy, tri giác về một vật thể có nghĩa là “hiểu” vật thể, và hầu như hoàn toàn phải dựa vào việc kết nối các cảm giác để tìm ra và xác lập một trật tự thống nhất vững chắc, có quy tắc ở hình hài trọn vẹn của vật thể, tức là biến các cảm giác thành một kinh nghiệm tri giác. Nhờ thế mà kinh nghiệm tri giác có năng lực tái tạo vật thể trong trí nhớ có ý thức – thành thực thể có hình thức đủ đầy và bất biến trong tâm trí. Tuy nhiên, chính vì đặc điểm bất biến (cố định) này mà người ta hầu như không thể nhận ra được yếu tố thời gian ở hình ảnh đã được tri giác khắc ghi. Trong bài thuyết trình của mình với tựa đề “On my Painting”, họa sĩ đa năng Max Beckmann đã đưa ra một câu nói rất đáng chú ý, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: “…Chuyển đổi chiều cao, chiều ngang và chiều sâu vào mặt phẳng hai chiều đối với tôi là một trải nghiệm đầy ma lực, trong khoảnh khắc, tôi đã thoáng thấy chiều thời gian ở đó, chính là cái mà toàn bộ sự sống của tôi đang đi tìm…”!? Có một điều chắc chắn từng xảy ra trong thời kỳ này, đó là yếu tố thời gian (luôn gắn với chuyển động) đã tạo cảm hứng cho các nghệ sĩ sau khi nghệ thuật thoát khỏi sự chi phối bấy lâu của cặp đôi chủ nhân, tức: ảo giác biểu hình (vẻ ngoại hiện của thế giới thực), và luật xa gần (áp dụng một góc nhìn cố định). Xin lấy hai tác phẩm thuộc phái Dada và Vị lai ra làm thí dụ điển hình cho mối quan tâm tới đối tượng đang chuyển động, đó là bức “Con chó với sợi xích” của Giacomo Balla (hình 3) và bức “Khỏa thân bước xuống cầu thang”, số 2, của Marcel Duchamp (hình 4), cùng ra đời trong năm 1912. Minh họa cho thấy hai họa sĩ đang nỗ lực thể hiện những cảm giác thị giác chứ không phải tri giác, bằng cách mô tả hình ảnh được lưu trong võng mạc – thuộc chức năng lưu ảnh của con mắt nhìn. Nếu so sánh, bức của Balla đơn giản hơn, vì trong ý định bộc lộ chuyển động qua những bước chân đang đi, ông đã vận dụng cách thức có phần hơi giống trẻ em khi vẽ một chuỗi cẳng chân ở những vị trí khác nhau đang dao động tiến – lùi theo kiểu con lắc, khiến chúng ta nhớ tới những hình dáng chuyển động trong điện ảnh thời kỳ đầu (giật cục, quay chậm, chồng hình). Tạo hình của Duchamp thì tinh tế hơn nhiều – hình ảnh người nữ khỏa thân, bị bóp méo, được vẽ lặp đi lặp lại, liên tiếp phô bày các khía cạnh của đối tượng tương ứng với từng lát cắt thời gian khi đang di chuyển trong không gian. Kết quả cho thấy đó là một hình ảnh di động và thay đổi các hướng chuyển động khi xuống cầu thang, không một chút nào giống với hình ảnh trong tri giác vốn luôn cố định bất chấp thời gian và chuyển động. Họa sĩ đã áp dụng tài tình những trục xoay chính có vẻ cơ học cho dáng người đang di chuyển, đó là sự xoay tròn 360° quanh trục thẳng đứng (theo cách tưởng tượng) của một khung chậu tròn được làm nghiêng đi. Bức tranh cho thấy Duchamp đã nỗ lực đầy ý thức bộc lộ chính bản thân cảm giác, và cho dù chúng ta có thể nhận thấy những tìm tòi tỉ mỉ khoa học về kinh nghiệm thị giác song phẩm chất tạo hình của nó cao hơn nhiều so với bức của Balla. Marcel Duchamp – Khỏa thân bước xuống cầu thang – số 2. Bất cứ hành động gì của chúng ta cũng đều bao hàm cả chuyển động lẫn thời gian. Khi nhìn ngắm tác phẩm của một nghệ sĩ Lập thể hoặc Vị lai, bằng sự xuất hiện đồng thời ngay trước mắt nhiều khía cạnh khác nhau của một vật thể, ta nhận ra được sự tồn tại của chiều thời gian nằm bên trong chuỗi biến ảnh (mô tả chuyển động) đó. Cho đến sau này, người ta chỉ thực sự xếp Nghệ thuật Ảo thị (Op Art) vào vai trò khởi đầu của Nghệ thuật động (Kinetic Art) tiêu biểu là Victor Vasarely, Bridget Riley… với lý do rằng những họ sĩ Op Art đã tiến xa hơn trong việc thể hiện yếu tố chuyển động; dường như họ coi lối mô tả của Vị lai không cho thấy sự chuyển động, bởi lẽ, kết quả đưa ra vẫn là những hình ảnh bất động (fixed images) dù chúng được xếp thành chuỗi! Thế rồi họ bắt đầu lợi dụng triệt để bản năng tự nhiên lưu ảnh trong võng mạc của con mắt nhìn. Khi chúng ta quan sát tác phẩm với tựa đề “Dòng chuyển động” của Bridget Riley ta sẽ hiểu rõ hơn về điều này; sử dụng những nét mảnh uốn lượn song song với nhau, có độ sáng tối khác nhau nhưng có kích thước giống nhau để rồi tạo nên một tương quan hình – nền nhập nhằng mơ hồ trong trường nhìn của người quan sát, vì con mắt khó có thể phân biệt được đâu là hình và đâu là nền. Mặt khác, cái nhìn của chúng ta có bản tính cố hữu là luôn bám theo hướng đi của một nét liền mạch, do đó một loạt nét chạy song song sẽ xui khiến con mắt không thể không dõi theo như bị thôi miên, trong khi các nét này có những chỗ uốn lượn rồi đảo chiều, bắt buộc con mắt chúng ta phải ứng phó không chỉ với hai chiều dọc – ngang mà còn đi vào trong (lõm) hoặc bị đẩy ra ngoài (lồi). Kết quả là chúng ta sẽ tự thấy hoa mắt bởi sự phức tạp của chuyển động như thể có một cái gì đó “lung linh” hiện ra trước mắt bạn. Trong thực tế, sự chuyển động/rung động đó là do chức năng sinh lý của chính con mắt nhìn tạo ra, cặp mắt của bạn phải thực hiện nhiều việc cùng một lúc rồi bị đẩy tới ảo giác về một phẩm chất “động” trong khi bản thân những đường vẽ không hề chuyển động! Nhờ vậy, Op Art đã tạo ra một sự lung linh – rung động đầy cuốn hút. Câu chuyện về thời gian và chuyển động vẫn tiếp diễn khi đã có những nghệ sĩ phản biện, đại thể là: Op Art vẫn chỉ là một thứ chuyển động “ảo”, không thoát khỏi tình cảnh bị đông cứng cố định trong khuôn khổ tấm toan vẽ!? Từ đây không thể không nhắc đến chuyển động “thực” trong nghệ thuật “động”. Thứ chuyển động bước ra khỏi mặt phẳng hai chiều và được nhấn mạnh qua các tác phẩm điêu khắc động, tiêu biểu là “Kinetic Construction” (Cấu trúc Động) của Naum Gabo, “Bicycle Wheel” (Bánh xe đạp) – tác phẩm điêu khắc bằng đồ chế sẵn “readymade” song được nhìn nhận là thuộc Kinetic Art của Marcel Duchamp , hay những “Mobile” điêu khắc lơ lửng lay động trong không trung của Alexander Calder cùng chiêm nghiệm nổi tiếng của ông: “Người ta có thể sắp xếp màu sắc, hình dạng, vì thế cũng có thể sắp xếp các chuyển động”. Trừ nghệ thuật Ảo thị, điểm chung giữa Kinetic Art và các trào lưu như Happening, Fluxus, hay Performance… là chúng được phô bày trong “không – thời gian” thực, bao hàm sự chuyển động diễn ra ngay trước mắt người xem. Bản thân nghệ sĩ tham gia trình diễn tương tác cùng với âm thanh, ánh sáng, điện năng, khán giả. Kể từ đây, đã bắt đầu nảy sinh những tranh luận và rất nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh những giới hạn của nghệ thuật tạo hình. Họa sĩ – điêu khắc gia danh tiếng người Mexico, Rufino Tamayo, từng trả lời trong một cuộc phỏng vấn về những liên quan giữa ông với các bậc tiền bối rằng: “Hoài bão của họ là tạo ra một nền nghệ thuật dân tộc, vậy mà họ lại sử dụng các kỹ thuật của thời Phục Hưng… Về mặt cá nhân, điều khiến tôi quan tâm nhất là hội họa giá vẽ, tựa như một phòng thí nghiệm để tôi thể nghiệm không ngừng. Điều đó là không thể đối với vẽ tranh tường, vì luôn lệ thuộc vào kiến ​​trúc. Ngược lại, ở tranh giá vẽ người ta phải đối diện với mặt phẳng hai chiều, cho thấy sự vô lý của những người nói rằng hội họa giá vẽ đã chết, nó không chết vì nó có chức năng riêng: thực hiện sự biểu đạt trên mặt phẳng hai chiều… cũng có thể nói, cho dù Nghệ thuật Động là sự đóng góp hết sức thú vị cho nghệ thuật nói chung, song nó chẳng bao giờ thay thế được cho hội họa giá vẽ”. Bridget Riley – Dòng chuyển động. Thời kỳ Lập thể phân tích rồi đến giai đoạn Lập thể tổng hợp, nhìn chung có lẽ chỉ là những cách gọi cốt để phân biệt, và không quá quan trọng, nhưng nguyên lý thì có. Mặc dù những hình ảnh Lập thể truyền thống giờ đây đã trở thành một phần của lịch sử mỹ thuật và có thể bị coi là lỗi thời, song từ cuộc vận động then chốt đó mà phần lớn nghệ thuật hoàn toàn trừu tượng của chúng ta đã ra đời, các nghệ sĩ sau này nhận thức rõ quyền tự do sáng tạo tự trị, thoát khỏi sự ràng buộc, áp đặt từ khách thể cùng với những giới hạn của cảm nhận thị giác. Người ta nhận thấy, có một sự khác biệt không nhỏ giữa tự do của xu hướng Lập thể thời kỳ đầu với tự do trong các trào lưu nghệ thuật đương thời, đó là tác nhân kích thích đối với người nghệ sĩ đã đổi thay, bản thân đời sống văn minh cùng với những giá trị (hoặc phản giá trị) mà nó đề cao đã tạo ra những xung lực mới. Họ sử dụng những hình ảnh khách thể của thế giới bên ngoài như là những dấu hiệu thể hiện, và trong một số trường hợp như là các biểu tượng, để bình phẩm những nét đặc trưng của đời sống xã hội. Nghệ sĩ Pop art hay là Neo – Dada đã áp dụng phương pháp của phái Lập thể cho những hình ảnh mang tinh thần văn hóa như thế. Họ thu thập chúng từ nhiều nguồn, thường là khác xa nhau về gốc gác cũng như thời kỳ lịch sử, rồi tạo ra nghệ thuật của mình bằng đủ mọi phương tiện tạo hình với bất cứ sự phối hợp nào có thể (nhiếp ảnh, cắt dán, lắp ghép…). Hoặc là, có khi lấy một vật thể phổ biến, quen thuộc, một lá quốc kỳ chẳng hạn rồi tạo ra tác phẩm theo cách bất thường và xa lạ: phân chia ra và chồng phần này lên phần khác, tạo nên cả tình trạng ảo thị lẫn kỳ dị theo “kiểu” Dada. Với bức “Diều hâu” của mình nghệ sỹ Pop art – Robert Rauschenberg cho thấy ông đã sử dụng các bức ảnh chụp và tái hiện chúng bằng kỹ thuật in, sau đó liên kết không gian bằng thủ pháp hội họa. Chúng ta có thể thấy hình ảnh các hướng đạo sinh tay mang cờ được thực hiện bằng kỹ thuật nhiếp ảnh, chồng lên trên là hình ảnh chắp vá của những binh lính vũ trang. Kết quả đưa ra là không rõ ràng, mơ hồ có chủ ý và thật khó xác định được là ở thời gian nào. Trong khi chiếc trực thăng đang lởn vởn lửng lơ cho thấy dấu hiệu của chiến tranh thời hiện tại, thì con chim diều hâu đứng trên cao chót vót bí ẩn lạnh lùng lại là một biểu tượng phổ biến của quyền uy và sức mạnh từ thời đế chế La Mã xưa kia. Về mặt không gian liên kết các hình ảnh lắp ghép, những khoảng xa vô tận được đặt kề bên khoảng không gian trực tiếp ngay trước mắt. Theo bạn, chúng có hỗ trợ cho tính thẩm mỹ của những hình ảnh biểu tượng hay không? Thay cho việc phô bày những khía cạnh của một vật thể như Lập thể thời kỳ đầu với vẻ ngoài mang nặng tính hình học, bức tranh phô bày những diễn biến của đời sống xã hội xảy ra trong những không – thời gian khác nhau. Tác giả đã kết nối các sự kiện theo truyền thống Lập thể đích thực, và đó chính là ĐỒNG HIỆN. Có nhiều góc nhìn, phân tích hoặc lý giải về sự ra đời của những khuynh hướng nghệ thuật khác nhau trong quá khứ, cho dù “… lịch sử nghệ thuật chẳng bao giờ là một tiến trình tuần tự như khoa học hay triết học và luôn ở tình trạng bề bộn với nhiều bối rối…” (diễn ý của Sir. Herbert Read), song con người ta luôn có nhu cầu phán đoán, khảo sát, làm sáng tỏ những mối liên hệ qua lại giữa các mặt của đời sống xã hội, trong đó có nghệ thuật. Sự truy cầu đó không chỉ mang lại cho chúng ta khả năng tận hưởng mà còn là công cụ sáng tạo hữu hiệu. Thời nay, tuy có phần nhạt phai về cảm hứng qua hơn một thế kỷ sôi động, song phép tạo dựng hình ảnh đồng hiện nghệ thuật vẫn được xếp vào hàng ngũ của những nguyên lý sáng tạo kinh điển./.
Thời gian, chuyển động, nghệ thuật – Tác giả: Vương Tử Lâm
4,301
Posidonia Shale là địa điểm nổi tiếng với những hóa thạch bằng vàng tuyệt đẹp ở Đức , lưu giữ các quái vật nhỏ kỷ Jura được tự nhiên biến thành những vật thể sáng lấp lánh như vàng ròng. Một nhóm khoa học gia quốc tế đã quyết định khám phá bí ẩn Posidonia Shale lần nữa bằng cách đến và kiểm tra một số mẫu hóa thạch của các quái vật biển nhỏ khoảng 183 triệu năm tuổi, tức sống vào giữa kỷ Jura. Cũng như nhiều mẫu vật Posidonia Shale khác, chúng đều được bảo quản tốt trong một lớp vật chất sáng lấp lánh như vàng. Một trong các quái vật nhỏ được hóa thạch theo cách độc nhất vô nhị tại Posidonia Shale – Ảnh: Sinjini Sinha. Các nhà nghiên cứu trước đó đã tin rằng đó không phải là vàng như chúng ta vẫn dùng làm trang sức mà là “vàng của kẻ ngốc”, tức pyrite, một loại khoáng chất đẹp như vàng. Thế nhưng kết quả kiểm tra mới nhất cho thấy những sinh vật này không hề bị pyrite hóa như suy nghĩ trước đây. “Lạ thay, có một ít pyrite trên vài mẫu, nhưng về cơ bản tất cả đều là canxit phốt phát hoặc hợp chất có màu vàng khác cùng nhóm” – Phó giáo sư Rowan Martindale từ Khoa Khoa học địa chất của Trường Đại học Texas ở Austin, thành viên nhóm nghiên cứu, nói với Live Science. Phó giáo sư Martindale cho biết đó là một cú sốc đối với cả nhóm, sau khi phân tích tất cả 70 quái vật nhỏ hóa thạch khác nhau. Các cụm tinh thể pyrite rất nhỏ nên chính các khoáng chất mới phát hiện mới là thứ đem lại màu vàng lấp lánh lạ mắt. Trước đó người ta tưởng nó là pyrite không chỉ vì quá giống, mà còn vì quá trình pyrite hóa chỉ diễn ra ở môi trường thiếu oxy, rất phù hợp với các mẫu vật nằm trong đá phiến sét đen này. Nghiên cứu mới tiết lộ mặc dù Posidonia Shale đúng là môi trường đáy biển cổ đại thiếu oxy tạo tiền đề cho quá trình hóa thạch, nhưng nó cần một sự kiện oxy bùng nổ làm “mồi” để các phản ứng hóa thạch xảy ra. Đó là lý do các khoáng chất phốt phát chiếm lĩnh và tạo ra dạng hóa thạch giống như vàng. Tuy nhiên, cho dù các quái vật nhỏ hóa thạch này không phải vàng, cũng chẳng phải vàng của kẻ ngốc, chúng vẫn vô cùng quý giá vì có niên đại từ kỷ Jura, mang độ nguyên vẹn hoàn hảo và vẻ đẹp hiếm có. Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí Earth Science Reviews.
Sốc 2 lần khi kiểm tra ‘quái vật biến thành vàng’ 183 triệu tuổi
455
Ngày 9/5, Quận ủy, HĐND, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc quận Ba Đình trang trọng tổ chức lễ hội kỷ niệm 980 năm Thập Tam Trại. Nghi thức rước kiệu mở đầu lễ hội. Thập Tam Trại là tên gọi dân gian để chỉ vùng đất phía Tây kinh thành Thăng Long xưa. Vùng đất này về cơ bản tương đương với tổng Nội, huyện Vĩnh Thuận, nay thuộc địa phận quận Ba Đình , thành phố Hà Nội . Thập Tam Trại ngày nay bao gồm 14 trại: Thủ Lệ, Vạn Phúc, Hào Nam, Kim Mã, Ngọc Khánh, Liễu Giai, Cống Vị, Cống Yên, Vĩnh Phúc, Xuân Biểu, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Đại Yên, Giảng Võ. Màn trống hội chào mừng lễ hội. Các tiết mục nghệ thuật biểu diễn tại lễ hội. Lễ hội được quận tổ chức nhằm tưởng nhớ người anh hùng Nguyễn Quý Công (Hoàng Phúc Trung) hay còn gọi là ông Hoàng Lệ Mật, vị công thần triều Lý, người làng Lệ Mật (nay thuộc phường Việt Hưng, quận Long Biên) có công khai khẩn vùng đất hoang phía Tây kinh thành Thăng Long, lập lên 13 làng trại, tạo nên vùng nông nghiệp trù phú với địa danh Thập Tam Trại. Nghi thức rước kiệu mở đầu lễ hội. Lễ hội để bảo tồn, phát huy và lan tỏa giá trị tốt đẹp, tôn vinh các giá trị văn hóa của dân tộc, tưởng nhớ, tri ân công đức của ông Nguyễn Quý Công, ý nghĩa lịch sử của Thập Tam trại. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của Nhân dân, nêu cao đạo lý “Uống nước, nhớ nguồn”, cũng là dịp để người dân 13 làng trại ôn lại những trang sử dựng làng đầy khó khăn thử thách của các vị tiền hiền. Lễ hội được tổ chức trang trọng với đẩy đủ nghi lễ truyền thống sẽ là nơi giao lưu, hội tụ, thể hiện nét đẹp văn hóa của người Ba Đình, qua đó tạo nên sức mạnh đoàn kết, khơi dậy lòng tự hào về truyền thống lịch sử anh hùng của dân tộc. Chủ tịch UBND quận Ba Đình Tạ Nam Chiến phát biểu tại lễ hội. Phát biểu khai mạc lễ hội, Chủ tịch UBND quận Ba Đình Tạ Nam Chiến cho biết, phát huy truyền thống lịch sử anh hùng, cùng với sự phát triển của đất nước và Thủ đô Hà Nội, quận Ba Đình hôm nay đã và đang phấn đấu để xứng đáng là địa bàn A1, trung tâm hành chính – chính trị quốc gia. Lớp lớp thế hệ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân Ba Đình đã đoàn kết, quyết tâm xây dựng quận ngày một khang trang, văn minh, hiện đại. Hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư; công tác an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Kinh tế tăng trưởng ổn định, 13 làng trại đã phát triển thành đô thị, đời sống Nhân dân được nâng cao, văn hóa xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng; giữ gìn, phát huy tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, trong đó có các di tích thuộc vùng đất Thập Tam Trại. Qua đó lan tỏa giá trị truyền thống tốt đẹp của vùng đất Ba Đình, góp phần xây dựng người Hà Nội thanh lịch văn minh.
Quận Ba Đình: Phát huy giá trị lịch sử văn hóa vùng đất Thập Tam Trại
567
Cần có Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và phát triển lâm nghiệp bền vững. Đây là thông tin được các đại biểu đề xuất tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 13-CT/TW, ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ diễn ra ngày 9/5 tại Lào Cai. Sự kiện do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tỉnh ủy Lào Cai tổ chức với sự chủ trì của ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 13-CT/TW. Toàn cảnh Hội nghị. Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ bao gồm 14 tỉnh, đây là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng của cả nước; có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ; có tiềm năng, lợi thế về nông, lâm nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu. Tuy nhiên, Vùng Trung du và miền núi Bắc bộ có nhiều địa phương thuộc diện khó khăn, chỉ 1/14 tỉnh có thu nhập bình quân đầu người năm 2022 trên bình quân cả nước; 7/14 tỉnh có thu nhập bình quân đầu người nằm trong nhóm 10 tỉnh thấp nhất cả nước; là vùng tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với trên 30 dân tộc cùng sinh sống; hạ tầng phát triển còn chậm. Trong 5 năm qua, các địa phương trong Vùng đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nhất là Chỉ thị số 13-CT/TW và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Ngành lâm nghiệp đã có bước phát triển khá, từng bước khẳng định được vị thế, vai trò trong phát triển kinh tế – xã hội của vùng, góp phần nâng cao đời sống người dân. Diện tích rừng trồng tăng lên; diện tích rừng tự nhiên, hệ sinh thái rừng và đa dạng sinh học được bảo vệ khá tốt, độ che phủ rừng cao hơn trung bình cả nước trên 12% (đạt 54,2%), tăng 0,6% so với trước khi có Chỉ thị 13. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản ngoài gỗ phát triển khá. Các cơ chế, chính sách về phát triển lâm nghiệp từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn còn những hạn chế, vướng mắc cần tiếp tục khắc phục. Theo đó, vẫn còn để xảy ra các điểm nóng về phá rừng, khai thác lâm sản trái pháp luật, đặc biệt là phá rừng tự nhiên. Việc phân cấp quản lý rừng đặc dụng hiện nay vẫn còn bất cập. Kinh phí chi cho quản lý, bảo vệ và bảo tồn thiên nhiên hạn hẹp, phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn ngân sách nhà nước, thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích từ du lịch sinh thái, sử dụng môi trường rừng, phát triển kinh tế dưới tán rừng,… Tại Hội nghị, các đại biểu đã cùng nhau tập trung thảo luận về những khó khăn, vướng mắc gây cản trở công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thời gian vừa qua. Đồng thời, đề xuất những chủ trương, chính sách mới, cụ thể là quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và phát triển lâm nghiệp bền vững trong thời gian tới. Trong đó, hầu hết các đại biểu đều đề xuất cần có Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng và phát triển lâm nghiệp bền vững. Nghị quyết này sẽ đưa ra các chủ trương, chính sách mới, bảo đảm cả 2 hướng chủ đạo: bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp. Ông Trần Tuấn Anh – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo sơ kết Chỉ thị 13-CT/TW phát biểu tại Hội nghị. Đồng tình với các kiến nghị, đề xuất của các đại biểu tham dự tại Hội nghị, ông Trần Tuấn Anh – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo sơ kết Chỉ thị 13-CT/TW – cho rằng, cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, giải quyết dứt điểm các tồn đọng, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp có nguồn gốc từ nông lâm trường quốc doanh; tình trạng di dân tự do. Bên cạnh đó, cần có cơ chế, chính sách đủ mạnh để phát triển kinh tế rừng; đổi mới chính sách đầu tư, hỗ trợ và ưu đãi đầu tư cho quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; phát triển kết cấu hạ tầng lâm nghiệp, phát triển công nghiệp sản xuất, chế biến gỗ và sản phẩm gỗ; phát triển du lịch sinh thái gắn với bảo vệ và phát triển rừng. Đồng thời, cần có các giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, phát triển bền vững dịch vụ môi trường rừng; khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách cho thị trường tín chỉ các bon ở Việt Nam. Bảo vệ toàn bộ diện tích rừng hiện có, đặc biệt là các diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng tự nhiên, bảo đảm thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 theo cam kết quốc tế tại COP26 về biến đổi khí hậu. Ngoài ra, cần có chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển các hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt là phát triển giống, trồng rừng, phát triển lâm sản ngoài gỗ, cơ giới hóa trong lâm nghiệp, chế biến gỗ và lâm sản,… Ông Trần Tuấn Anh cũng đề nghị Ban Tổ chức Hội nghị tổng hợp, chắt lọc, tiếp thu tối đa những nội dung được trình bày và ý kiến thảo luận phục vụ công tác sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 13 và tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, cơ chế, chính sách có hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trong bối cảnh mới. Trước đó, ngày 8/5/2023, Đoàn công tác do ông Nguyễn Duy Hưng – Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ Đạo dẫn đầu đã khảo sát, nắm tình hình thực tế về công tác bảo vệ, phát triển rừng tại huyện Bảo Thắng , tỉnh Lào Cai , thăm vùng nguyên liệu quế, cơ sở chế biến tinh dầu quế và cơ sở chế biến đũa xuất khẩu trên địa bàn tỉnh.
Cần có Nghị quyết mới về bảo vệ rừng và phát triển lâm nghiệp bền vững
1,242
Theo dịch giả Alison L Strayer, tác phẩm của Ernaux đặc biệt vì bà thường viết ‘nhật ký phản ánh thế giới xung quanh’ hơn là những tự sự nội tâm. Nhà văn Annie Ernaux là chủ nhân giải Nobel văn chương 2022. Ảnh: The Nobel Prize. Alison L Strayer là dịch giả người Canada, người đã dịch nhiều sáng tác của Annie Ernaux sang tiếng Anh như Les Anneés, Mémoire de fille, Regarde les lumìeres mon amour… Chia sẻ với Literary Hub , Strayer cho biết bà đọc sách Annie Ernaux lần đầu vào năm 1992. Khi ấy, nữ dịch giả này đang làm công việc biên kịch. Nhà làm phim bà làm việc cùng được truyền cảm hứng bởi tác phẩm Passion Simple và mong muốn tạo ra một bộ phim mang hơi thở tương tự cuốn sách của Ernaux. Đọc Passion Simple , Strayer cảm thấy như được đối thoại với tác giả. Theo Strayer, Annie Ernaux đã sử dụng lời văn mộc mạc mà thẳng thắn để kể về tình huống đầy rắc rối của mình khi đó, đồng thời mô tả nền kinh tế lúc bấy giờ. Nữ dịch giả đánh giá cao việc nhà văn Pháp này tìm kiếm một lối viết cho phép kể lại những điều đã xảy ra theo cách chân thật nhất. Cũng trong các tác phẩm của Annie Ernaux, Strayer nhận ra quan điểm viết của nhà văn, từ đó, tìm ra lối dịch cho riêng mình. Trong lời mở đầu của cuốn Se perdre , Annie Ernaux cho biết nữ tác giả giữ lại mọi thứ trong bản thảo đầu tiên. Vì khi những câu từ được viết ra trên giấy để lưu lại những suy nghĩ và cảm xúc trong một thời điểm nhất định, bản thân chúng chính là thời gian. Và giống thời gian, những câu từ ấy không thể bị xóa bỏ hay đảo ngược. Hay như trong cuốn L’écriture comme un couteau , Ernaux tin rằng có sự liên kết sâu sắc giữa cấu trúc, nhịp điệu và từng từ ngữ trong câu văn với phẩm chất chăm chỉ học hỏi của nhà văn và câu chuyện riêng trong cuộc đời người đó. Chính những điều Ernaux viết trong Se perdre và L’écriture comme un couteau giúp Alison định hình được hướng đi trong công việc dịch thuật một tác phẩm văn học. Trong dịch phẩm mới nhất Alison L Strayer thực hiện – Look at the Lights, My Love (tên gốc: Regarde les lumìeres mon amour ), Annie Ernaux viết những dòng nhật ký chứa đựng những quan sát về thế giới xung quanh, như trong siêu thị: thiết kế của cửa hàng, hàng hóa và cách chúng được bày biện… Strayer nhận định rằng cuốn sách tựa một tài liệu ghi chép với chức năng chính là truyền đạt thông tin. Và dù đây là một cuốn sách dạng tự truyện, cách tiếp cận đặc biệt của Ernaux khiến cho cuốn sách có những phẩm chất văn chương không thể chối cãi, khiến cho giới phê bình cũng phải đau đầu không biết nên định nghĩa tác phẩm của bà thế nào. Theo cách nói của nhà văn người Pháp Michel Tournier, sách của Annie Ernaux là “nhật ký về thế giới xung quanh”. Thay vì mô tả thế giới nội tâm của con người, những cuốn nhật ký này tập trung nắm bắt những khoảnh khắc của đời sống cộng đồng, của thời đại. Nhưng đồng thời, nó cũng họa lên bức chân dung của tác giả – người đang ghi lại những chi tiết của thế giới bên ngoài. Đơn cử, cuốn Journal du dehors và La vie extérieure lần lượt mô tả đời sống chung của xã hội trong giai đoạn 1985-1992 và 1993-2000. Trong đó, Ernaux viết về những gì bà quan sát được khi đang đi trên các chuyến tàu, trong các trung tâm mua sắm, tiệm làm tóc, trên đường phố. Bà ghi chép lại quang cảnh cuộc sống, con người, các sản phẩm hàng hóa, tranh phun sơn trên các bức tường công cộng… Annie Ernaux chọn ghi nhớ những nơi chốn và đồ vật nhất định. Với bà, tinh thần của thời đại quyết định điều gì là đáng ghi nhớ, cái gì là một biểu tượng đáng giá. Alison L Strayer cho rằng các tác phẩm của Annie Ernaux thường chứa đựng mối liên kết rõ ràng và sâu sắc giữa nữ quyền và văn học do phái nữ sáng tác. Ernaux luôn trăn trở về vị trí của phụ nữ trong lĩnh vực văn học tại một quốc gia dân chủ. Bà cho rằng họ chưa được công nhận xứng đáng cho vị trí một người sáng tác. Có những người đàn ông, gồm cả giới trí thức phương Tây, thường coi nhẹ sự tồn tại của các tác phẩm do phái nữ sáng tác. Nhưng với ghi nhận của Viện Hàn lâm Thụy Điển dành cho Annie Ernaux, Alison L Strayer tin sẽ ngày càng có nhiều nhà xuất bản đủ cởi mở để lắng nghe phái nữ; và tích cực tìm kiếm các tác giả, dịch giả nữ cũng như tác phẩm của họ. Giải Nobel Văn chương sẽ có tác động tích cực đến các cây viết nữ.
Điểm đặc biệt trong các tác phẩm tự truyện của Annie Ernaux
848
Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân với Chủ tịch Quốc hội Qatar Hassan bin Abdullah Al-Ghanim. (Ảnh: TTXVN) Ngày 7 và 8/5, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân tiếp tục các hoạt động trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Nhà nước Qatar. Tại cuộc hội kiến Chủ tịch Quốc hội Qatar Hassan bin Abdullah Al-Ghanim, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân khẳng định mong muốn thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Qatar, trong đó có hợp tác giữa cơ quan lập pháp hai nước. Chủ tịch Quốc hội Qatar nhấn mạnh, Việt Nam là một trong những đối tác ưu tiên của Qatar tại khu vực Đông Nam Á; khẳng định, Quốc hội Qatar ủng hộ thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với Việt Nam; đề xuất hai bên nghiên cứu thành lập Hội nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Qatar . Hai nhà lãnh đạo nhất trí Quốc hội hai nước sẽ tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực lập pháp, rà soát và giám sát việc thực hiện các thỏa thuận song phương nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho hợp tác song phương; tăng cường trao đổi đoàn các Ủy ban của Quốc hội hai nước; tiếp tục phối hợp chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau trên các diễn đàn nghị viện quốc tế. Trong buổi tiếp Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Qatar (QCCI) Khalifa bin Jassim Al-Thani, hai bên đánh giá cao việc quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước thời gian qua đã có những bước phát triển tích cực, song cho rằng vẫn chưa tương xứng tiềm năng của mỗi nước. Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đề nghị QCCI hợp tác chặt chẽ với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các Đại sứ quán Việt Nam và Qatar ở mỗi nước cùng rà soát các văn kiện hợp tác, tổ chức các đoàn doanh nghiệp tìm hiểu thị trường, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng nông, thủy sản, may mặc… vào thị trường Qatar. Tiếp Tiến sĩ Hassan Rashid Al-Derham, Chủ tịch Đại học Tổng hợp Qatar, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đề nghị trường xem xét tăng số lượng học bổng cho sinh viên Việt Nam và tăng cường hợp tác với các cơ sở giáo dục lớn của Việt Nam. Chủ tịch Đại học Qatar bày tỏ sẵn sàng cấp thêm học bổng cho sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam; đề xuất hai bên phối hợp xuất bản sách Việt Nam bằng tiếng Arab và sách của Qatar và các nước Arab bằng tiếng Việt. Trong buổi làm việc với Công chúa Al-Mayassa bint Hamad Al-Thani, Chủ tịch các Bảo tàng Qatar, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân khẳng định, Việt Nam mong muốn thúc đẩy hợp tác với Qatar trong lĩnh vực giao lưu nhân dân, văn hóa, giáo dục nhằm gia tăng hiểu biết lẫn nhau và quảng bá hình ảnh của Việt Nam và Qatar. Hai bên nhất trí tăng cường chia sẻ kinh nghiệm bảo tồn, trùng tu di tích, gìn giữ di sản văn hóa, mở rộng hợp tác lĩnh vực bảo tàng, tổ chức triển lãm nghệ thuật… Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đến thăm Đại sứ quán Việt Nam tại Qatar. (Ảnh: TTXVN). Trong khuôn khổ chuyến công tác, Phó Chủ tịch nước thăm và gặp mặt cán bộ nhân viên Đại sứ quán Việt Nam và cộng đồng người Việt tại Qatar. Ban Liên lạc cộng đồng người Việt tại Qatar bày tỏ vui mừng trước sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có Qatar; bày tỏ mong muốn Nhà nước tiếp tục có các chính sách hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển, đóng góp cho quê hương, đất nước. Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân khẳng định, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và dành sự quan tâm đặc biệt đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và đề nghị Ban Liên lạc cộng đồng nỗ lực phát huy tốt hơn nữa vai trò kết nối bà con, đồng thời là cầu nối tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc, góp phần quảng bá đất nước, văn hóa và con người Việt Nam tại Qatar.
Việt Nam là đối tác ưu tiên của Qatar tại khu vực Đông Nam Á
765
Ảnh: NHK Chỉ còn 10 ngày nữa, Hội nghị thượng định các nước phát triển hàng đầu thế giới (G7) sẽ khai mạc tại Hiroshima. Với tư cách là nước chủ nhà, Nhật Bản vẫn đang tích cực điều chỉnh những nội dung quan trọng sẽ được thảo luận tại Hội nghị. Bên cạnh những nội dung chính mà các nhà lãnh đạo G7 tập trung thảo luận như tình hình kinh tế thế giới sau đại dịch Covid-19, không phổ biến vũ khí hạt nhân, biến đổi khí hậu, công nghệ số… các vấn đề liên quan đến xung đột Nga-Ukraine, Trung Quốc và hạt nhân của Triều Tiên sẽ trở thành nội dung nghị sự. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio trong một trả lời phỏng vấn báo chí trong chuyến công du tới châu Phi và Hàn Quốc vừa qua đã khẳng định rằng Hội nghị G7 là cơ hội xác nhận lại sự hợp tác chắc chắn của các thành viên trong vấn đề xung đột Nga-Ukraine. Ngoài ra, chủ đề về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương bao gồm tình hình Đông Á cũng sẽ là chủ đề của Hội nghị. Nhật Bản sẽ nỗ lực điều chỉnh và quyết định những nội dung quan trọng nhằm phát đi những thông điệp chung cho Hội nghị. Liên quan đến xung đột Nga-Ukraine, Nhật Bản mong muốn các nước thành viên thống nhất việc tiếp tục viện trợ cho Ukraine và thực hiện một cách nghiêm khắc các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga, đồng thời phê phán mạnh mẽ việc Nga trang bị vũ khí hạt nhân cho Belarus, yêu cầu các nước thứ 3 ngừng cung cấp vũ khí vào Nga, yêu cầu Trung Quốc ngừng hoạt động chi viện đối với Nga. Liên quan đến an ninh hàng hải, Nhật Bản dự kiến sẽ đưa ra nội dung bày tỏ sự lo ngại đối với tình hình tại khu vực Biển Đông và Hoa Đông, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì, tăng cường trật tự quốc tế một cách tự do dựa trên luật pháp quốc tế, phản đối hành vi đơn phương thay đổi hiện trang bằng vũ lực, mang tính de dọa, uy hiếp. Vấn đề eo biển Đài Loan cần được giải quyết một cách hòa bình và ổn định./.
Nội dung chính thức của Hội nghị G7 là gì?
389
Trong “Long thành cầm giả ca ” – chuyển thể từ bài thơ của Nguyễn Du, giếng nước tượng trưng cho cây đàn nguyệt của người kỹ nữ. Buổi nói chuyện Long thành cầm giả ca – từ thơ đến phim nằm trong khuôn khổ chương trình tọa đàm học thuật do nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu chủ trì giữa tháng 4 tại TP HCM . Phim Long thành cầm giả ca , Đào Bá Sơn đạo diễn, lấy bối cảnh lịch sử giai đoạn 1783 – 1813, từ kịch bản đoạt giải nhất của nhà văn – nghệ sĩ Văn Lê trong cuộc thi Kịch bản kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Sau 13 năm ra mắt, đến nay tác phẩm điện ảnh này vẫn được khán giả yêu thơ ca nhắc đến như một trong những phim lịch sử hay nhất thập niên 2000-2010. Đại thi hào Nguyễn Du đã tóm tắt thời kỳ biến động của lịch sử qua 25 câu thơ trong bài Long thành cầm giả ca. “Tác phẩm có độ hàm súc cao, để mở rộng thành câu chuyện với các tình tiết nhân vật như trong phim, cần một đạo diễn có tài. Nếu không sẽ biến bài thơ thành truyện ngôn tình hoặc liêu trai về chàng thư sinh yêu cô kỹ nữ”, Nhật Chiêu nói. Bài thơ là tác phẩm mở đầu phần Bắc hành tạp lục trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được sáng tác khi ông đi sứ năm 1813. Theo Tiến sĩ Phạm Trọng Chánh, thời điểm đó, Nguyễn Du đã nổi tiếng, liệt vào An Nam ngũ tuyệt (một trong năm nhà thơ lớn của Việt Nam bấy giờ). Trong tác phẩm, tác giả kể về cuộc hội ngộ với một người ca nữ tài hoa đất Thăng Long. Với lòng thương cảm cho thân phận long đong của người phụ nữ, Nguyễn Du giải bày: Nam hà quy lai đầu tận bạch Quái để giai nhân nhan sắc suy (Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn) Nhật Chiêu gọi Nguyễn Du là “nhà thơ có tấm lòng bồ tát”, có khả năng nhìn sâu tâm hồn con người, trong thi ca lẫn tư tưởng cuộc sống. Nguyễn Du thể hiện tinh thần nhân đạo thông qua bài thơ, bênh vực số phận người ca kỹ bị xã hội phong kiến kìm kẹp. “Trong bất kỳ loại hình nghệ thuật nào, sự hư cấu và tưởng tượng quyết định tầm vóc của tác phẩm. Khi xem bản điện ảnh, tôi thích sự sáng tạo của nhà làm phim, nổi bật qua hình ảnh cái giếng”, Nhật Chiêu nói. Trong bài thơ, chi tiết giếng nước không xuất hiện nhưng lại là một yếu tố làm nên ngôn ngữ điện ảnh của đạo diễn Đào Bá Sơn. Theo ông, giếng nước là hình ảnh thân thuộc của làng quê Bắc bộ, gắn liền với nhân vật Cầm. Đạo diễn muốn tìm được bối cảnh giống với tưởng tượng về làng quê xưa, nơi quê nhà của Cầm. Ông đi từ Hà Nội về Ninh Bình khảo sát các địa điểm có giếng nước, phù hợp với bối cảnh phim. Khi đến đền Thái Vi, ông phát hiện đường mòn dẫn đến giếng Ngọc có từ nghìn năm trước trong khuôn viên đền. Nhà làm phim lập tức chọn nơi đây là nơi ghi hình tác phẩm. Nội dung phim được viết theo cấu trúc vòng tròn câu chuyện (story circle). Đầu phim, nhân vật Gái – lúc này là một cô bé – soi bóng dưới làn nước của chiếc giếng làng. Sau nhiều trắc trở, nàng kỹ nữ giờ đã già, về quê thăm lại giếng nước xưa, khép lại vòng tròn của một kiếp người. Khi nhận được kịch bản từ nhà biên kịch Văn Lê, Đào Bá Sơn trăn trở làm thế nào để hình tượng Nguyễn Du có sức thuyết phục với khán giả. Ông mất hàng tháng tìm địa điểm ghi hình. Với kinh phí sản xuất chỉ hơn tám tỷ đồng, nhà làm phim dành dụm cho việc thiết kế bối cảnh và làm hậu kỳ tại Thái Lan. Lúc giám đốc sản xuất gợi ý sang Trung Quốc quay với bối cảnh sẵn có để tiết kiệm chi phí, đạo diễn từ chối vì muốn ghi hình trong nước, gợi không khí lịch sử. “Nguyễn Du là danh nhân lớn nhưng ông không thể vượt qua tư tưởng Nho giáo. Nhân vật Cầm mang kiếp cầm ca, cô cũng không vượt ra được định kiến của xã hội. Bài thơ vừa là tiếng lòng của thi hào vừa là ghi chép về thời đại”, đạo diễn nói. Long thành cầm giả ca đoạt nhiều giải thưởng điện ảnh, gồm Cánh diều vàng 2010 cho phim truyện nhựa, biên kịch phim truyện nhựa, họa sĩ phim truyện nhựa, bằng khen của Ban giám khảo Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17, Diễn viên nam chính xuất sắc cho Quách Ngọc Ngoan (vai Nguyễn Du) ở Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17. *** Nhật Chiêu sinh năm 1951, có hơn 40 năm nghiên cứu, giảng dạy và viết lách. Ông còn được độc giả biết đến trong vai trò một dịch giả, nhà nghiên cứu văn học… Nhà thơ dành thời gian xây dựng giáo trình cho sinh viên các môn văn học Nhật, Trung Cận Đông, Phương Đông với nhiều đầu sách được tái bản nhiều lần. Đào Bá Sơn sinh năm 1952 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 2 Trường Điện ảnh Việt Nam năm 1977. Phim đầu tay Người tìm vàng được trao giải đặc biệt của Ban giám khảo Liên hoan phim quốc gia lần 9. Nghệ sĩ tham gia khoảng gần 30 vai chính và nhiều vai phụ. Nguồn: Vnexpress
“Long thành cầm giả ca” – từ thơ đến màn ảnh – Tác giả: Quế Chi
956
Bàn về các thể thơ ghi dấu thành công của Huy Cận trong sáng tác, không thể không nhắc đến lục bát. Trong cả ngàn bài thơ mà Huy Cận để lại, mặc dù lục bát có số lượng khá khiêm tốn, song dấu ấn tài năng của ông qua những tác phẩm sử dụng thể thơ này đã thể là không phủ nhận. Bên cạnh những “cây lục bát” tên tuổi như Nguyễn Bính , Tố Hữu , Bùi Giáng , và sau này là Nguyễn Duy, thì Huy Cận xứng đáng được dành một vị trí danh dự. Nghiệp thơ Huy Cận trải dài trên 70 năm, thuộc 2 giai đoạn trước và sau cách mạng, nhưng những bài lục bát để đời của ông chủ yếu nằm trong tập Lửa thiêng, ấn hành trước 1945. Đúng vậy, nếu lục tìm trong vài chục tập thơ của Huy Cận xuất bản sau 1945, khó có thể thấy bài lục bát nào sánh được với những Ngậm ngùi, Buồn đêm mưa, Đẹp xưa… được viết trong thời Thơ mới. Tập Lửa thiêng của Huy Cận có 50 bài thơ, số lượng và tỉ lệ các thể thơ được sử dụng không đồng đều. Cụ thể: thơ 4 tiếng chỉ 2 bài (4%); thơ 5 tiếng: 5 bài (10%); lục bát có 8 bài (16%); thơ 7 tiếng: 19 bài (38%), thơ 8 tiếng có 16 bài (32%). Xem thế đủ thấy, trong giai đoạn Thơ mới, Huy Cận ưu tiên cho thể thơ 7 tiếng và thơ 8 tiếng. Không chỉ về số lượng, giá trị nghệ thuật của những bài tiêu biểu thuộc 2 thể thơ này như: Buồn, Áo trắng, Tràng giang… (thơ 7 tiếng), Trình bày, Đi giữa đường thơm, Mai sau… (thơ 8 tiếng) đã đưa Huy Cận vào hàng những cây bút xuất sắc nhất của thơ lãng mạn. Vị trí ấy của Huy Cận càng được củng cố thêm nhờ các bài thơ lục bát. Vốn sinh thành cùng ca dao, lục bát được sử dụng rộng rãi trong truyện Nôm khuyết danh (Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Phan Trần, Hoàng Trừu…). Ở thể loại truyện Nôm, lục bát vẫn còn mang bộ mặt thuần phác, quê kiểng, mà điển hình là hiện tượng từ ký sinh ở vị trí gieo vần khiến ngày nay đọc lại, ta không khỏi thấy ngô nghê: Cha tôi trưởng giả nhà quê Giàu sang sớm đã sinh thì ba tôi (Tống Trân – Cúc Hoa) Nằm lăn em mới ngủ đi Vừa hết canh một sang thì canh năm (Phạm Tải – Ngọc Hoa) Qua bàn tay thiên tài Nguyễn Du, lục bát dường như được lột xác. Vẫn những quy cách vần điệu ấy, nhưng câu lục bát trong Truyện Kiều đã trở nên nhuần nhụy, tươi tắn, có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu biểu đạt (kể chuyện, tả cảnh, tả người, tả tình, phẩm bình, triết lý, dẫn thoại, đối thoại, độc thoại,…). Dù vậy, lục bát Nguyễn Du vẫn thiên về thuật sự. Có tả tình, biểu cảm thì cũng chỉ phục vụ cho mục đích tự sự. Những đoạn trữ tình đặc sắc nhất của Truyện Kiều vẫn nằm trong khuôn khổ của bút pháp tả cảnh ngụ tình rất phổ biến của thi pháp trung đại. Ở một truyện thơ, đặc điểm ấy là tất yếu. Việc hàm súc hóa lục bát trong một chỉnh thể thơ trữ tình tinh gọn vẫn còn ở là câu chuyện của tương lai. Những nhà thơ như Tú Xương, Tản Đà sẽ tiếp tục tìm tòi, khai mở. Đi hát mất ô (Tú Xương), Thề non nước (Tản Đà), và nhất là những bài thơ Đường được Tản Đà dịch bằng lục bát kiểu như Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu đã để lại những kinh nghiệm quí báu. Đến Thơ mới 1932 – 1945, thể lục bát được không ít nhà thơ thử bút. Viết dăm ba bài có Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,… Viết nhiều hơn có Hồ DZếnh. Tuy nhiên, nếu kể đến một “đối trọng” nặng ký của Huy Cận ở lục bát, thì chắc chắn người đó phải là Nguyễn Bính. Không khó để nhận ra sự khác biệt giữa lục bát Nguyễn Bính và lục bát Huy Cận, và đó cũng chính là chỗ làm nên những nét đặc sắc riêng của hai tác giả này. Nguyễn Bính đã tạo được một “thương hiệu” độc đáo nhờ khai thác khả năng “tự sự để trữ tình” bằng chất liệu dân gian hết sức phong phú. Thơ tình Nguyễn Bính bao giờ cũng xoay quanh một câu chuyện nhỏ, liên quan đến chủ thể trữ tình, và câu chuyện ấy được lâm ly hóa nhờ một hệ thống ngôn từ, hình ảnh, cách ví von, so sánh, cách dùng ẩn dụ, cách thể hiện giọng điệu riêng… Bí quyết trữ tình của Nguyễn Bính không ngoài những vấn đề đó. Không thể là một phiên bản của Nguyễn Bính, dĩ nhiên Huy Cận nhận thức sâu sắc điều ấy. Nhưng phải khác ở chỗ nào, bằng cách nào thì quả là thử thách không nhỏ. Huy Cận đã chứng tỏ được khả năng của mình ngay ở tập Lửa thiêng khi ông tạo nên một cấu trúc trữ tình hoàn chỉnh trong một hình thức thơ đúc nén mang tính cổ điển. Theo tôi, ấy là nỗ lực đáng ghi nhận nhất của Huy Cận trong việc cá biệt hóa sáng tạo ở thể lục bát. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh tinh ý nhận ra rằng, mặc dù là một trong số những cây bút chịu ảnh hưởng thơ Pháp (theo lối tượng trưng), nhưng Huy Cận lại mang trong hồn cốt của mình chất Đường thi[1]. Chất Đường thi cổ điển ấy thấm nhiễm sâu sắc và chi phối mạnh mẽ tư duy thể loại của Huy Cận. Sở đắc của ông về thể thơ 7 tiếng có lẽ xuất phát từ điều này. Không chỉ về âm luật mà cả về ý tứ, mỗi khổ thơ trong Tràng giang, Xuân, Vạn lý tình… có thể xem như một bài thất ngôn tứ tuyệt. Viết lục bát, Huy Cận cũng triệt để khai thác những thế mạnh của Đường thi ở kết cấu chặt chẽ, ở tính đăng đối, cách dùng nhãn tự, tính cô đúc, ở thủ pháp dùng tĩnh tả động, dùng hữu hạn để nói cái vô cùng… 8 bài lục bát có mặt ở tập Lửa thiêng không có bài nào dài. Dài nhất là bài Trông lên (16 câu), còn lại, có 4 bài 12 câu (Buồn đêm mưa, Thuyền đi, Ngậm ngùi, Xuân ý), 3 bài 10 câu (Chiều xuân, Đẹp xưa, Thu rừng). Có một dấu hiệu đáng lưu ý: phần lớn lục bát của Huy Cận có số câu hầu như tương đương với những bài thơ 7 tiếng – một thể thơ gần với thơ Đường nhất. Trong khi đó, độ dài của thơ 8 tiếng lại khác hẳn. Không hiếm bài dài gấp 2, gấp 3 lần các bài lục bát, chẳng hạn: Đi giữa đường thơm (27 câu), Thân thể (35 câu). Nhạc sầu (37 câu), Trình bày (41 câu)… Độ dài của bài thơ không đơn thuần phản ánh mức dồi dào của cảm xúc hoặc sự phong phú của ý tứ cần biểu đạt, mà là ở vấn đề ý tưởng cấu trúc. Một khi cảm xúc khởi phát và ý tưởng cấu trúc hình thành, thì hệ quả tức thì sẽ là một thể thơ nào đó được lựa chọn để biểu đạt. Nó định hình ngay từ câu thơ đầu tiên. Có sự lựa chọn vừa ý, có sự lựa chọn không vừa ý, buộc tác giả phải tìm tòi, thay thế. Cùng một đề tài, Chế Lan Viên đã thử viết đi viết lại bằng 3, 4 thể thơ khác nhau, và ông cảm thấy hài lòng nhất là bài làm theo thể tự do. Huy Cận cũng có một trường hợp tương tự: bài Tràng giang. Trước đó, ông đã viết bài Chiều trên sông bằng thể lục bát, nhưng cảm thấy không thỏa mãn nên đã viết lại thành bài thơ 7 tiếng để có được một Tràng giang mĩ mãn như ta đã thấy. Theo lô gic ấy, các bài lục bát trong Lửa thiêng chắc chắn cũng là kết quả của sự lựa chọn – một sự lựa chọn diễn ra trong bề sâu cảm xúc và tư duy, không dễ diễn giải, bởi lúc đó, mọi yếu tố thuộc tâm thức sáng tạo của chủ thể đều tích cực tham gia và góp phần chi phối. Để thấy được sự cô đọng, súc tích rất cổ điển của lục bát Huy Cận, ta có thể dẫn ra bất cứ bài thơ nào của ông. Ở đây, tôi muốn dừng lại một chút với bài Đẹp xưa: Bài thơ như một bức thủy mặc, nét vẽ thưa thoáng. Nghệ thuật chấm phá được sử dụng rất hiệu quả, chi tiết thơ được giản lược tối đa. Thời gian là chiều thu. Không gian thì có tầng, có lớp như hiện ra dưới cái nhìn theo luật viễn cận của hội họa hiện đại: gần có mép núi quanh co, lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang; xa dần là non cao, sau non, trời thu rộng, hút nẻo vàng. Cứ thế, nét vẽ từ sắc, rõ chuyền dần thành nhòe mờ theo cảm nhận thị giác. Thiên nhiên có núi non, mưa gió, mây trời cao rộng. Sự vật có quán dựng, lò cao chênh vênh, hiểm trở. Nẻo vàng là một sắc màu có phần mơ hồ (vì từ nẻo rất ít khi kết hợp với từ chỉ màu cụ thể). Tuy vậy, sắc vàng ấy đã hắt lên bức tranh thơ một vệt sáng rất ấn tượng. Về âm thanh, nếu tiếng vi vu của gió hút nghe rợn ngợp, thì tiếng đạc nhỏ thưa theo vó ngựa xa dần lại có vẻ gần gũi. Nhưng chính tiếng đạc ngựa ấy lại làm cho cảnh tịch liêu càng trở nên tịch liêu hơn bởi hiệu quả của nghệ thuật dùng động tả tĩnh. Đọc đến hai câu Dừng cương nghỉ ngựa non cao/ Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon …, ta bỗng nhớ đến hai câu kết trong bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan: Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ/ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn… Như vậy, các chi tiết nghệ thuật và những yếu tố liên văn bản hiện diện trong bài thơ là một tập hợp đồng hướng, cùng góp phần biểu đạt một trạng thái cảm xúc, một tình huống của đời sống. Cho nên, mặc dù đến cuối bài thơ, chữ buồn mới xuất hiện ở cả câu lục và câu bát (Trơ vơ buồn lọt quán chiều/ Mắt nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người), nhưng thực ra, nỗi buồn ấy đã thấu nhập vào bài thơ ngay từ câu mở đầu nhờ bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng thuần thục, tinh tế. Giá trị tạo hình và biểu cảm của bài Đẹp xưa rõ ràng là rất phong phú. Ấy vậy mà nó được gói ghém trong chỉ vẻn vẹn 10 câu lục bát, chia làm 3 khổ: khổ đầu 4 câu, khổ giữa 2 câu, khổ cuối 4 câu, gợi ấn tượng về một chỉnh thể hài hòa, đăng đối theo trục tung. Nó gọn, chắc, đầy đặn, không thể thêm bớt. Dường như tất cả những gì đặc trưng của thơ cổ điển đều được phát huy ở bài lục bát này của Huy Cận. Đến đây, ta có thể hỏi: vậy tính hiện đại của bài thơ là ở đâu? Dấu hiệu nào cho thấy đây là sản phẩm của thời đại Thơ mới? Theo tôi, câu trả lời nằm ở vấn đề hình tượng con người xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Nếu chú ý, ta sẽ thấy trong bài thơ có 2 loại nhân vật: khách thể và chủ thể. Loại nhân vật khách thể chỉ được chấm phá nhờ nghệ thuật “vẽ mây nẩy trăng” thần tình. Ta hình dung, ở đây có người ra đi (Dừng cương nghỉ ngựa non cao, khuất ngựa sau non) và kẻ ở lại (Mắt nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người). Nhưng bao trùm lên là nhân vật chủ thể. Tất cả những gì trong bức tranh thơ mà ta đã phân tích ở trên (thời gian, không gian, thiên nhiên, ánh sáng, âm thanh…) cùng 2 nhân vật khách thể (người đi – kẻ ở) đều hiện lên qua cảm nhận của một chủ thể trữ tình. Quả là có một cái tôi thi nhân hiện hữu, với quyền uy tối thượng là phủ lên thế giới nghệ thuật bài thơ một nguồn cảm hứng, một sắc thái trữ tình riêng bằng một cấu trúc trữ tình phù hợp. Rất phổ biến trong Thơ mới là cái nhìn chủ quan, áp đặt, bởi ở đó, cái tôi cá nhân luôn luôn giữ vị trí trung tâm, hoàn toàn khác cái nhìn siêu cá thể – hệ quả của việc giấu kín cái tôi trong thơ cổ điển. Để đồng thời gia tăng chất Đường thi và tính hiện đại cho lục bát của mình, bên cạnh việc cô đọng hóa bài thơ, Huy Cận còn phối hợp các thủ pháp như “đúc chữ”, tiểu đối, kết hợp bất ngờ… Ông tước bỏ những rườm rà của định ngữ nghệ thuật để lời thơ trở nên thật tinh gọn, hàm súc. Thay vì dùng những cụm từ cố định kiểu “cấu kiện đúc sẵn”, ông thích sáng tạo các tổ hợp mới bằng những “bất ngờ cú pháp (chữ của Nguyễn Phan Cảnh). “Nỗi hàn bao la”, “rời rạc trong hồn”, “chân xa vắng”, “dặm mòn lẻ loi”, “hướng lạc, phương mờ”, “bốn bề tâm tư”, “giòng mộng tuôn dòn”, “hương vị đời ngon”, “chiều tê cúi đầu”, “mấy mùa thương đau”… là những tổ hợp như thế. Chúng rất xa lạ với thơ xưa, nhưng lại khá quen thuộc trong Thơ mới 1932 – 1945. Cũng vậy, câu thơ tiểu đối kiểu “Nghe trời nằng nặng/ nghe ta buồn buồn”, “Trời xa sắc biển/ lá thon mình thuyền”, “Trăm chèo của Nhạc/ muôn lời của Thơ”, “Đèo cao quán chật/ bến đò lau thưa”… xuất hiện không ít trong tập Lửa thiêng. Tiểu đối nhưng vẫn rất tự nhiên, không gò bó, câu thúc, khiến lời thơ vừa uyên súc, cổ điển, vừa trang nhã, tươi mới. Vang lên từ lục bát Huy Cận là giọng sầu não rất đặc trưng. “Sầu” vốn là thứ “gia bảo” truyền đời của hồn thơ Huy Cận. Nó phổ vào mọi bài thơ, mọi thể thơ. Nhưng có lẽ lục bát với nhịp chẵn đều đặn, tiết tấu chậm rãi, với lối bắt vần lưng ở vị trí bất biến đã giúp nhà thơ tạo nên một hiệu ứng âm điệu đặc biệt. Ngày trước, bằng lục bát, Nguyễn Du đã viết nên một truyện thơ có giọng cảm thương lôi cuốn mê hoặc (ý của GS. Trần Đình Sử). Thời Thơ mới, cũng với lục bát, điệu hồn sầu não của Huy Cận được cất lên thành giọng thơ độc đáo. Giọng điệu ấy là tổng hòa của nhiều yếu tố. Trước hết là cảm xúc thơ bật lên từ âm giai của từ buồn, buồn bã, buồn buồn, sầu, rầu, ngây, ưu phiền, thương đau… phối hợp với các từ chỉ tâm trạng (chủ yếu là từ láy, có tần số xuất hiện cao trong Lửa thiêng) như: nặng nặng, rời rạc, xa vắng, lẻ loi, vu vơ, tương tư, hiu hắt, hững hờ, quằn quại, lê thê, héo hon, ngẩn ngơ, tịch liêu, trơ vơ, âm u, lạnh lùng, hiu quạnh,… Chúng hợp thành một chùm dấu hiệu đặc dị giúp người đọc không thể nhầm lẫn lục bát Huy Cận với lục bát của một nhà thơ nào khác cùng thời: Đêm mưa làm nhớ không gian Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la… (Buồn đêm mưa) Buồn gieo theo gió veo hồ, Đèo cao quán chật bến đò lau thưa… (Chiều xưa) Nắng chia nửa bãi; chiều rồi… Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu (Ngậm ngùi) Một điều rất dễ thấy, hình ảnh trong lục bát Huy Cận thường thấm đẫm cảm xúc buồn thương, cô quạnh. Ấy là những vườn hoang, cây dài, bóng xế, đêm mưa, dặm mòn lẻ loi, chân xa vắng, hơi may hiu hắt, hiu hiu gió, đèo cao quán chật, bến đò lau thưa, quằn quại bóng cờ, thành son nhạt, chiều tê cúi đầu, ánh trăng tàn, hàng mây nao, tạnh vắng bên cồn, tràng giang lững lờ, dặm xa lữ thứ,… Nhờ những hình ảnh như thế mà ở không ít bài thơ, dẫu chữ “sầu”, “buồn”, “tái tê” vắng bóng, thì giọng sầu não vẫn trỗi lên như một chủ âm: Sắc trời trôi nhạt dưới khe Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng… (Thu rừng) Ngàn năm sực tỉnh lê thê Trên thành son nhạt. – Chiều tê cúi đầu… (Chiều xưa) Canh khuya tạnh vắng bên cồn, Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang… (Thuyền đi) Lục bát là một thể thơ minh triết – nhà ngôn ngữ học Nguyễn Phan Cảnh đã nhận định như thế. Sự minh triết đó thể hiện ở trường nét dư, có nghĩa là, dù cho phát triển rực rõ đến mức nào, lục bát vẫn không hề bị vắt kiệt khả năng biểu hiện. Ngược lại, nó luôn tạo độ dư, chừa khoảng trống cho sự sáng tạo[2]. Huy Cận là một minh chứng về khả năng tái sử dụng một thể thơ đã quá quen thuộc trong văn học Việt Nam. Sau ông, một số cây bút cũng tìm được ít nhiều vinh quang ở thể lục bát. Để làm được điều đó, dĩ nhiên, trước hết phải có tài năng. Với Huy Cận, tài năng ấy nẩy nở trên một vốn văn hóa thâm hậu, ở đó, có ảnh hưởng của văn học phương Tây, có vấn vương “hồn cũ thịnh Đường”, đồng thời có sự bắt rễ rất sâu vào mạch nguồn truyền thống thơ ca dân tộc. ————————- [1] Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, tái bản lần thứ 17, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000, tr. 32 – 33. [2] Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, tái bản lần thứ nhất, Nxb Thanh niên, 2001, tr. 212.
Lục bát Huy Cận trong Lửa thiêng – Tác giả: Đặng Lưu
3,090
Đầu mũi tên và giáo thời tiền sử được tìm thấy ở châu Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản có điểm tương đồng. Ảnh: Mostardi Photography/Alamy. Nghiên cứu mới chỉ ra rằng một số người đầu tiên đến châu Mỹ trong kỷ băng hà cuối cùng và trong cuộc di cư ngay sau đó bao gồm những người đến từ khu vực là Trung Quốc ngày nay. Yu-Chun Li, một trong những tác giả của nghiên cứu di truyền học trên, cho biết: “Phát hiện của chúng tôi chỉ ra rằng bên cạnh các nguồn tổ tiên của người Mỹ bản địa đã được chỉ ra trước đây ở Siberia, vùng ven biển phía bắc Trung Quốc cũng đóng vai trò là nguồn gene đóng góp”. Người ta từng tin rằng những người Siberia cổ đại là tổ tiên duy nhất của người Mỹ bản địa. Những người này đã đi qua một con đường hẹp ở eo biển Bering nối hai khu vực mà hiện nay là Nga và Alaska. Nhiều nghiên cứu gần đây hơn, kể từ cuối thập niên 2000, đã phát hiện các dấu hiệu cho thấy nguồn gene đa dạng hơn từ châu Á có thể cũng đã hình thành các quần thể người trên khắp châu Mỹ, bao gồm cả ở Bolivia, Brazil, Chile, Ecuador, Mexico và bang California của Mỹ. Theo nghiên cứu di truyền học được công bố hôm 9/5 trên tạp chí Cell Reports , đã có hai cuộc di cư. Lần đầu là từ 19.500 đến 26.000 năm trước, trong kỳ băng hà cuối cùng, khi độ bao phủ của băng ở mức lớn nhất và điều kiện khí hậu ở khu vực miền Bắc Trung Quốc có lẽ rất khắc nghiệt. Lần thứ hai là vào thời kỳ tan chảy, từ 19.000 đến 11.500 năm trước. Dân số gia tăng trong thời kỳ này có thể đã thúc đẩy di cư. Chính trong lần di cư thứ hai này, các nhà khoa học đã tìm thấy mối liên hệ di truyền đáng ngạc nhiên giữa người Mỹ bản địa và người Nhật Bản, đặc biệt là người Ainu bản địa. Nghiên cứu cho biết trong thời kỳ tan chảy, một nhóm phân nhánh từ vùng duyên hải phía bắc Trung Quốc đã đến Nhật Bản, góp phần tạo nên người Nhật Bản. Điều này có thể giúp giải thích vì sao đầu mũi tên và giáo thời tiền sử được tìm thấy ở châu Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản có điểm tương đồng.
Phát hiện mới đáng ngạc nhiên về nguồn gốc thổ dân châu Mỹ
415
Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học nhằm mục đích làm sáng tỏ những cơn gió ảo ma trên Titan – mặt trăng lớn nhất của Sao Thổ đã khiến các nhà thiên văn học bối rối trong nhiều thập niên. Mô phỏng bề mặt Titan. Các nhà nghiên cứu cho biết, các câu trả lời có thể giúp giải thích tại sao Titan là mặt trăng duy nhất trong hệ mặt trời vẫn có bầu khí quyển giống hành tinh. Các nhà thiên văn học lâu này vốn sớm biết rằng các mùa trên Titan – mỗi mùa kéo dài gần 7,5 năm Trái đất – ảnh hưởng đến gió của thiên thể này. Nhưng họ không thể xác định tốc độ của những cơn gió đó. Đã có hai nghiên cứu liên quan, được thực hiện cách nhau gần 30 năm nhưng lại dẫn đến những phát hiện trái ngược nhau. Giờ đây, các nhà thiên văn học đang xem xét lại bí ẩn đã tồn tại hàng thập niên này bằng các kính viễn vọng mới được nâng cấp. Những phát hiện nghịch lý từ nghiên cứu trước đây có thể là kết quả của các giả định không chính xác do hạn chế của dữ liệu hoặc công cụ, hoặc có thể chỉ là như Eliot Young, nhà khoa học chính tại Viện Nghiên cứu Tây Nam ở Texas mô tả “có điều gì đó cơ bản mà chúng ta không hiểu rõ”. Titan có một bầu khí quyển dày, giống như sương mù, cao tới 370 dặm (600 km) và với 95% là nitơ và một ít phân tử hữu cơ. Gió trên mặt trăng lớn nhất của sao Thổ bao quanh nó chỉ trong một ngày, liên tục mang theo những luồng không khí ấm áp từ vĩ độ thấp hơn đến các cực của mặt trăng này, cơ chế mà NASA gọi là băng chuyền tốc độ cao. Năm 1989, các nhà thiên văn học phát hiện ra rằng gió của Titan chậm nhất ở gần đường xích đạo của nó và nhanh nhất ở các vĩ độ trung bình ở cả bán cầu bắc và nam. Điều này đã được tiết lộ nhờ lần quan sát ngẫu nhiên một ngôi sao thẳng hàng phía sau Titan cho phép các nhà thiên văn học nghiên cứu cách ánh sáng mờ của ngôi sao đi qua bầu khí quyển của mặt trăng này, giúp họ giải thích tốc độ gió. Vào năm 2016, một nhóm khác đã sử dụng kính viễn vọng trên mặt đất để nghiên cứu cách ánh sáng chiếu ra từ các phân tử trong bầu khí quyển thay đổi như thế nào với tốc độ và hướng gió thay đổi. Những phát hiện từ phương pháp này cho thấy điều ngược lại: Gió thổi nhanh nhất ở gần xích đạo của Titan và chậm dần ở các vĩ độ thấp hơn của thiên thể này. Do hai nhóm quan sát cách nhau 3 thập niên, các nhà thiên văn học cho rằng các mùa khác nhau trên Titan có thể đã dẫn đến sự thay đổi gió đáng kể giữa cả hai nghiên cứu. Ngoài ra, nhóm năm 1989 đã nghiên cứu những cơn gió nằm ở các tầng giữa của bầu khí quyển Titan, trong khi nghiên cứu gần đây hơn tập trung vào gió ở các tầng trên. Do vậy, các nhà thiên văn học cho biết điều này cũng có thể giải thích các tốc độ gió khác nhau. Juan Lora, phó giáo sư khoa học Trái đất và hành tinh tại Đại học Yale phân tích: “Giống như trên Trái đất, gió trên Titan khác nhau ở các độ cao khác nhau và cũng thay đổi theo mùa. Và cả hai điều này có khả năng giải thích tại sao các quan sát không hoàn toàn khớp nhau”. Để tìm hiểu tận cùng của sự khác biệt này, một nhóm các nhà khoa học đã thu thập dữ liệu mới về gió của Titan bằng cả hai phương pháp cùng một lúc. Năm ngoái, nhóm đã sử dụng tám kính viễn vọng ở Mỹ và Nam Mỹ để quan sát hai lần Trái đất, Titan và các ngôi sao phát sáng ở xa xếp thẳng hàng một cách ngẫu nhiên. Vào tháng 9.2022, bốn kính viễn vọng ở Hawaii đã quan sát ngôi sao, 2MASS 21312124-1602427, ở sau Titan. Cũng vào tháng 11 năm ngoái, một ngôi sao khác có tên 2MASS 21292356-1611056 nằm sau Titan. Dữ liệu từ sự kiện này được thu thập bởi bốn kính viễn vọng khác ở Chile. Nhóm nghiên cứu vẫn đang so sánh dữ liệu từ cả hai quan sát và hy vọng sẽ có kết quả vào cuối năm nay. Martin Cordiner, một nhà nghiên cứu khoa học hành tinh tại Trung tâm Du hành Vũ trụ Goddard của NASA ở Maryland, cho biết: Cho đến nay, các quan sát của đài thiên văn ALMA đã cho thấy bằng chứng về những cơn gió có tốc độ cao song song với đường xích đạo của Titan. Các chuyên gia tham gia nghiên cứu mới nhất cho biết họ vừa kịp thu thập dữ liệu có giá trị về gió của Titan tại bán cầu bắc trước kỳ thu phân năm 2025, thời điểm cả hai bán cầu của mặt trăng lớn nhất sao Thổ nhận được ánh sáng mặt trời bằng nhau trong một thời gian ngắn trước khi bán cầu bắc của nó hướng thẳng về phía mặt trời hơn. Theo tạp chí Nature, trong thời gian này, gió của Titan sẽ đảo ngược hướng và bắt đầu thổi từ bắc xuống nam — một sự thay đổi đã làm khuấy động những cơn bão bụi mạnh trong quá khứ. Với sự thành công của máy bay trực thăng sao Hỏa Ingenuity, NASA muốn tung thêm “nhà thám hiểm” robot đến Titan. Được thiết lập để ra mắt vào năm 2034, sứ mệnh Dragonfly của NASA sẽ là một tàu cánh quạt robot có nhiệm vụ khám phá mặt trăng Titan của sao Thổ, một vệ tinh đặc biệt hấp dẫn với giới khoa học vì nó được cho là có khả năng hỗ trợ sự sống,. Nhiệm vụ đặc biệt của thiết bị là nhằm đánh giá khả năng sinh sống của mặt trăng sao Thổ bằng cách nghiên cứu cả bầu khí quyển và bề mặt của nó, đồng thời đến gần những khu vực khó nghiên cứu từ quỹ đạo do độ dày của bầu khí quyển. Để thực hiện nghiên cứu này, máy bay trực thăng Dragonfly sẽ mang theo một thiết bị gọi là “Máy quang phổ khối Dragonfly” (DraMS). Tương tự như hệ thống trên tàu thám hiểm sao Hỏa , thiết bị Dragonfly được sử dụng để phân tích các mẫu. Các mẫu này sẽ được thu thập bởi một mũi khoan có tên là “Mũi khoan thu nhận các chất hữu cơ phức hợp” (DrACO). Khi DrACO thu thập một mẫu vật, khối phổ kế sẽ bắn phá nó bằng năng lượng để các phân tử của nó bị ion hóa. Sau đó, thiết bị có thể sắp xếp các ion này theo khối lượng và điện tích của chúng và đo chúng để biết thành phần của từng mẫu. Điều này có nghĩa là DraMS sẽ có thể phân tích thành phần bề mặt của Titan. Các nhà nghiên cứu cũng đặc biệt quan tâm đến việc liệu bề mặt của vệ tinh này có thành phần hóa học hỗ trợ sự hình thành sự sống hay không.
Tìm cách giải mã những cơn gió ảo ma thổi trên mặt trăng Titan của sao Thổ
1,261
Thông tin về việc Văn Miếu – Quốc Tử Giám sắp có tour tham quan về đêm đã nhận được sự quan tâm của người dân và những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Trước đây, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng đã từng diễn ra nhiều hoạt động văn hóa vào ban đêm như: Đêm hội thơ, đêm vinh danh đạo học… Những hoạt động này đã thu hút được sự quan tâm của người dân và du khách đến với di tích. Năm 2020, ý tưởng ứng dụng công nghệ vào tour đêm để kể chuyện đạo học đã từng được đưa ra nhưng do yếu tố khách quan về dịch bệnh nên chưa thể thực hiện. Ông Lê Xuân Kiêu – Giám đốc Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám cho biết, hai năm vừa qua, Trung tâm đã xây dựng nội dung và nhiều lần thay đổi kịch bản. Sau các nghiên cứu, điều chỉnh tích cực, kịch bản chương trình này vừa được hoàn thiện. Công nghệ 3D Mapping đã từng được thử nghiệm tại di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Hiện tại, Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám phối hợp với công ty thực hiện số hóa 82 bia tiến sĩ và các công trình tiêu biểu, cũng như số hóa các triển lãm chuyên đề, số hóa cuộc đời các danh nhân và truyền thống đạo học ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Năm 2023, đơn vị triển khai hệ thống trải nghiệm kính thực tế ảo, đang tiến hành triển khai tour trải nghiệm đêm theo hình thức ứng dụng chiếu sáng nghệ thuật và công nghệ 3D Mapping kể câu chuyện lịch sử và đạo học… Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một trong những di tích lịch sử văn hóa thu hút đông đảo người dân và du khách khi đến với Hà Nội. Năm 2012, di tích đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Nơi đây lưu giữ 82 bia tiến sĩ, được công nhận là Di sản tư liệu thế giới, Bảo vật quốc gia, có Khuê Văn Các được chọn là biểu tượng của Thủ đô. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, việc ứng dụng công nghệ vào các hoạt động tại di tích là rất cần thiết, nhằm hiện đại hóa, hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản di tích. Đồng thời cung cấp dịch vụ thông tin, tuyên truyền, thuyết minh phục vụ khách tham quan và phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng của di tích trong kỷ nguyên thông tin Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay. Tour đêm Văn Miếu dự kiến ra mắt vào tháng 7. Sản phẩm này được kỳ vọng sẽ trở thành điểm nhấn gắn với phố đi bộ Văn Miếu – Quốc Tử Giám sắp tới.
Trải nghiệm Văn Miếu – Quốc Tử Giám bằng công nghệ
505
Sóng nhiệt đến sớm đang khiến các nước Địa Trung Hải gánh mức nhiệt độ cao kỷ lục. Ảnh: AP. Kết quả một nghiên cứu do các nhà khoa học quốc tế thực hiện và công bố gần đấy cho thấy, sức nóng cực độ bao trùm bán đảo Iberia và một số khu vực ở Bắc Phi vào tuần trước ‘gần như không thể xảy ra nếu không có biến đổi khí hậu’. Nghiên cứu trên do 10 nhà nghiên cứu thuộc tổ chức hợp tác quốc tế chuyên nghiên cứu về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu World Weather Attribution (WWA) thực hiện. Họ là các nhà khoa học đến từ các trường đại học và cơ quan khí tượng ở Pháp , Ma-rốc , Hà Lan và Vương quốc Anh . Theo đó, báo cáo của WWA nêu rõ: “Sóng nhiệt đến sớm một cách bất thường đã khiến nhiệt độ tại khu vực này nóng hơn tới 20 độ C so với thường lệ và nền nhiệt cao kỷ lục trong tháng 4 đã bị phá khi tăng thêm tới 6 độ C”. Đầu tuần trước, một khối không khí nóng, khô và ấm từ Bắc Phi đã tràn tới bán đảo Iberia, khiến nhiệt độ tại đây tăng lên mức cao kỷ lục trong lịch sử các tháng 4. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã phá kỷ lục nhiệt độ trong tháng 4, khi hai quốc gia nằm trên bán đảo Iberia đón đợt nắng nóng đầu mùa Hè đang làm trầm trọng thêm tình trạng hạn hán kéo dài ở một số vùng. Đầu tháng này, Cơ quan Thời tiết quốc gia Tây Ban Nha (AEMET) cho biết, thành phố Cordoba – miền Nam nước này – đã có ngày ghi nhận nhiệt độ lên tới 38,8 độ C, phá vỡ mức nhiệt kỷ lục 38,6 độ C ở thành phố Elche vào năm 2011. Khu vực nội địa Tây Ban Nha ghi nhận mức nhiệt kỷ lục trong tháng 4 lên tới 44 độ C ở thành phố Seville. Ở nước láng giềng Bồ Đào Nha, nhiệt độ ở thành phố Mora đạt 36,9 độ C, phá kỷ lục 36 độ C ghi nhận vào tháng 4/1945, theo dữ liệu của cơ quan thời tiết nước này. Trong khi đó, ở Morocco, nhiệt kế ghi nhận nhiệt độ 41,1 độ C tại một vài khu vực, trong đó có thủ đô Marrakesh, một kỷ lục mới trong tháng 4 tại quốc gia Bắc Phi. Tại Algeria, nhiệt độ cũng vượt quá 40 độ C. Để chống nắng nóng, chính quyền thủ đô Madrid của Tây Ban Nha đã mở cửa các địa điểm được gọi là “bãi biển trong thành phố” với hồ bơi và vòi phun nước hạ nhiệt dọc sông Manzanares. Tại Bồ Đào Nha, nhà chức trách đã ban bố cảnh báo nguy cơ cháy rừng tại 2 thành phố Proenca-A-Nova ở miền Trung và Tavira ở miền Nam. Báo cáo của WWA khẳng định, biến đổi khí hậu do con người gây ra đã khiến đợt nắng nóng kỷ lục ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Maroc và Algeria tăng mạnh cường độ so với bình thường. Tình trạng này gần như không thể xảy ra, nếu không có biến đổi khí hậu. Cuối tháng 4, một khối không khí khô nóng từ sa mạc Sahara di chuyển và xuất hiện ngay phía trên khu vực phía Tây Địa Trung Hải, gây ra nền nhiệt độ thường chỉ có vào cao điểm mùa hè tháng 7, tháng 8. Theo các dữ liệu thu thập được, cái nóng như thiêu đốt kéo dài 3 ngày liên tiếp trong tháng 4 ở khu vực Địa Trung Hải là rất hiếm thấy. Ông Sjoukje Philip – chuyên gia khí hậu tại Viện Khí tượng Hoàng gia Hà Lan cho biết, sóng nhiệt ở Địa Trung Hải vừa qua chắc chắn không thể xảy ra nếu không phải bởi biến đổi khí hậu do con người gây ra. Nhiều năm qua, bán đảo Iberia và vùng Bắc Phi đã vật lộn với nạn hạn hán. Lượng mưa ngày càng ít ỏi khiến các vụ mùa lúa mỳ của Morocco thiệt hại nặng. Nhiệt độ cao và thiếu nước tưới cũng làm suy giảm sản lượng olive tại Tây Ban Nha, nước sản xuất dầu olive lớn nhất châu Âu. Giá dầu olive hiện ở mức cao nhất trong vòng 26 năm. Bà Fatima Driouech – chuyên gia môi trường Đại học Bách khoa Mohammed VI – cho biết, khan hiếm nước đã gây tác động nghiêm trọng tới sinh kế của người dân khu vực Nam Âu và Bắc Phi. “Diễn biến trong tương lai sẽ không khả quan hơn” – bà Driouech cảnh báo. Guardian dẫn lời tiến sĩ Friederike Otto – chuyên gia Đại học Imperial London – cho biết: “Địa Trung Hải là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất ở châu Âu bởi biến đổi khí hậu. Các đợt sóng nhiệt sẽ không biến mất, chúng sẽ xảy ra ngày càng thường xuyên hơn cho tới khi chúng ta ngừng phát thải khí nhà kính”. Kết quả nghiên cứu cho thấy, phát thải khí nhà kính dẫn tới nóng lên toàn cầu đã khiến sóng nhiệt có nguy cơ xảy ra cao gấp 100 lần so với kịch bản không có phát thải. Nhiệt độ trong các đợt sóng nhiệt cũng cao hơn 3,5 độ C so với kịch bản giả tưởng không có nóng lên toàn cầu. Nghiên cứu cũng sẽ giúp cung cấp thông tin cho các chính phủ chuẩn bị đối phó với thời tiết nắng nóng khắc nghiệt đến sớm, với mục đích ngăn ngừa tử vong và mở rộng các chiến dịch nâng cao nhận thức về nhiệt. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm ngoái, ít nhất 15.000 người đã chết ở châu Âu vì thời tiết quá nóng, trong đó Tây Ban Nha là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Bà Roop Singh thuộc Trung tâm Khí hậu Trăng lưỡi liềm đỏ của Hội Chữ thập đỏ – cho biết: “Khi chúng tôi có thể gửi cảnh báo bằng thông điệp đã hiệu chỉnh sẽ giúp mọi người nhận thức chính xác rủi ro của họ và có thể dẫn đến thay đổi hành vi cá nhân, như việc sử dụng máy điều hòa không khí trong trường học và nhiều hoạt động giảm thiểu tác động đến môi trường”.
Sóng nhiệt ‘tấn công’ Địa Trung Hải
1,076
Hình ảnh từ Kính viễn vọng không gian James Webb cho thấy rõ 3 vành đai nằm xung quanh Fomalhaut, một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời. Fomalhaut với các vành đai bao quanh. Ảnh: András Gáspár/ Đại học Arizona. Fomalhaut là một ngôi sao nằm cách Trái Đất 25 năm ánh sáng trong chòm sao Piscis Austrinus, hay cá phương nam. Ngôi sao này được quan sát rõ nhất từ Nam bán cầu, nhưng cũng có thể được nhìn từ một phần lớn của Bắc bán cầu, đặc biệt là vào mùa thu. Độ sáng và vị trí của Fomalhaut biến nó thành một “công cụ” vẫn được sử dụng để điều hướng ngày nay. Các quan sát trước đây của kính viễn vọng không gian Hubble và các thiết bị khác cho thấy ngôi sao 440 triệu năm tuổi được bao quanh bởi bụi và mảnh vụn, nhưng các hình ảnh không cho thấy rõ cách vật chất vũ trụ bao quanh ngôi sao trẻ. Giờ đây, những hình ảnh có độ phân giải cao từ kính viễn vọng không gian James Webb đã tiết lộ môi trường xung quanh ngôi sao một cách chi tiết chưa từng có. Xung quanh Fomalhaut là 3 vành đai. Vành đai hẹp nhất, gần nhất với ngôi sao là các thiên thạch. Rộng hơn bên ngoài là vành đai từ đá và mảnh vụn. Vành đai ngoài cùng của Fomalhaut giống như vành đai Kuiper của Hệ Mặt Trời , nơi có Diêm Vương tinh và các hành tinh lùn hay hành tinh siêu nhỏ khác. Cũng ở vòng ngoài này, các nhà thiên văn học đã một đám mây bụi lớn. Họ nghi ngờ lượng bụi này được tạo ra khi 2 tảng đá không gian rộng gần 650 km va vào nhau. Tầm nhìn hồng ngoại của James Webb đã giúp chụp ảnh ngôi sao Fomalhaut và các vật thể xung quanh với độ chi tiết chưa từng có. Ảnh: NASA. “Những gì chúng ta thấy là bụi, tàn dư từ các vụ va chạm giữa các vi thể hành tinh. Bản thân các vi thể hành tinh cũng là tàn dư từ quá trình hình thành một hệ hành tinh”, András Gáspár, tác giả chính của nghiên cứu tại Đại học Arizona, cho biết. Vi thể hành tinh là các thiên thể đá nhỏ, sinh ra từ các hạt bụi vũ trụ va đập và gắn kết với nhau. Các nhà khoa học đã xác định được 3 vành đai từ các hình ảnh do James Webb chụp ở bước sóng hồng ngoại. Những khoảng trống giữa chúng gợi ý rằng có các hành tinh không nhìn thấy được đang quay quanh Fomalhaut và định hình hệ sao thông qua trường hấp dẫn của chúng. “Các hành tinh có khối lượng nhỏ như Hải Vương tinh là đủ để có lực hấp dẫn tạo nên các vành đai gần nhất với ngôi sao”, các tác giả viết trong Nature Astronomy .
Hình ảnh kỳ lạ về ngôi sao sáng nhất trên bầu trời
494
Các nhà khoa học cuối cùng cũng xác nhận có gì bên trong Mặt trăng thông qua việc lật đi lật lại những dữ liệu đã thu thập được và đối chiếu chúng qua những mô phỏng. Một cuộc điều tra kỹ lưỡng đã phát hiện ra rằng lõi bên trong của Mặt trăng trên thực tế là một quả cầu rắn có mật độ tương tự như sắt. Các nhà nghiên cứu hy vọng điều này sẽ giúp giải quyết một cuộc tranh luận lâu dài về việc liệu lõi sâu bên trong của Mặt trăng là rắn hay nóng chảy và dẫn đến sự hiểu biết chính xác hơn về lịch sử của Mặt trăng – và mở rộng ra là của hệ Mặt trời. Các nhà thiên văn học từ xa xưa đã thắc mắc về cấu trúc của Mặt trăng. Đã có cuộc tranh luận sôi nổi nổ ra trong nửa đầu thế kỷ 20 về việc liệu Mặt trăng có phải là một thế giới đá “nguyên thủy”, giống như các mặt trăng Phobos và Deimos của sao Hỏa, hay liệu địa chất dưới sâu Mặt trăng có phong phú hay không. Những gợi ý đầu tiên rằng Mặt trăng có phần bên trong giống Trái đất đến từ các tàu Apollo của NASA. Dữ liệu được thu thập bởi các thiết bị của tàu đổ bộ Mặt trăng cho thấy thiên thể này có cấu trúc được phân hóa – hoặc được phân lớp với vật chất đặc hơn ở trung tâm và vật chất ít đặc hơn ở gần bề mặt – trái ngược với đá đồng nhất xuyên suốt như Phobos hay Deimos. Theo NASA, các phi hành gia của tàu Apollo thậm chí còn để lại máy đo địa chấn trên Mặt trăng, sau này tiết lộ rằng nó đã trải qua các trận động đất trên Mặt trăng. Tuy nhiên, gần đây các nhà khoa học mới có thể sắp xếp các bộ dữ liệu khổng lồ từ các tàu Apollo và các tàu thăm dò Mặt trăng khác để có được bức tranh rõ ràng hơn về bên trong Mặt trăng. Nhóm nghiên cứu do nhà thiên văn học Arthur Briaud thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp vừa thông báo: “Kết quả của chúng tôi đặt ra câu hỏi về sự tiến hóa của từ trường Mặt trăng nhờ vào việc chứng minh sự tồn tại của lõi bên trong và tương tác với bề mặt bao phủ. Điều này mang lại những hiểu biết đáng kể về dòng thời gian của Mặt trăng trong một tỉ năm đầu tiên của hệ Mặt trời đầy bạo lực”. Việc thăm dò thành phần bên trong của các vật thể trong hệ Mặt trời được thực hiện hiệu quả nhất thông qua dữ liệu địa chấn. Cách sóng âm do động đất tạo ra di chuyển qua và phản xạ từ vật chất bên trong một hành tinh hoặc mặt trăng có thể giúp các nhà khoa học tạo ra một bản đồ chi tiết về bên trong của vật thể. Các nhà nghiên cứu đã tình cờ có dữ liệu địa chấn Mặt trăng được thu thập bởi tàu vũ trụ Apollo, nhưng độ phân giải của nó quá thấp để xác định chính xác trạng thái của lõi bên trong. Họ tin rằng có một lõi bên ngoài lỏng, nhưng những gì nó bao phủ vẫn còn đang được tranh luận. Các mô hình lõi rắn bên trong và lõi lỏng phía ngoài hoàn toàn phù hợp với dữ liệu mà Apollo thu thập. Để tìm ra nó một lần và dứt điểm các tranh cãi, Briaud và các đồng nghiệp của ông đã thu thập dữ liệu từ các tàu không gian và các thí nghiệm về phạm vi laser của Mặt trăng để biên soạn một hồ sơ về các đặc điểm khác nhau của Mặt trăng. Chúng gồm cả mức độ biến dạng của Mặt trăng do lực tương tác hấp dẫn với Trái đất, sự thay đổi khoảng cách của Mặt trăng với Trái đất và mật độ của nó. Tiếp theo, họ tiến hành lập mô phỏng với nhiều loại lõi khác nhau để tìm ra loại nào phù hợp nhất với dữ liệu quan sát được. Họ đã thực hiện một số phát hiện thú vị. Đầu tiên, các mô phỏng gần giống nhất với những gì chúng ta biết về Mặt trăng mô tả sự “đảo ngược tích cực” sâu bên dưới lớp vỏ của Mặt trăng. Điều này có nghĩa là vật chất bên trong Mặt trăng sẽ càng dày đặc hơn ở phía lõi và vật chất ít đặc hơn sẽ trồi lên trên. Hoạt động này từ lâu đã được đề xuất như một cách giải thích sự hiện diện của một số nguyên tố trong các vùng núi lửa của Mặt trăng. Và họ phát hiện ra rằng lõi Mặt trăng rất giống với lõi Trái đất – với lớp chất lỏng bên ngoài và lõi bên trong rắn chắc. Theo mô hình của họ, lõi ngoài có bán kính khoảng 362 km và lõi bên trong có bán kính khoảng 258 km. Đó là khoảng 15 phần trăm toàn bộ bán kính của Mặt trăng. Nhóm nghiên cứu tìm thấy lõi bên trong cũng có mật độ khoảng 7.822 kg trên một mét khối. Con số đó là rất gần với mật độ của sắt. Thật kỳ lạ, vào năm 2011, một nhóm do nhà khoa học hành tinh Marshall của NASA, Renee Weber, dẫn đầu đã tìm thấy một kết quả tương tự bằng cách sử dụng các kỹ thuật địa chấn tiên tiến nhất lúc bấy giờ trên dữ liệu Apollo để nghiên cứu lõi Mặt trăng. Họ đã tìm thấy bằng chứng về một lõi rắn bên trong với bán kính khoảng 240 km và mật độ khoảng 8.000 kg trên một mét khối. Briaud và nhóm của ông cho biết, kết quả của họ là sự xác nhận cho những phát hiện trước đó và tạo thành một bằng chứng khá chắc chắn cho lõi Mặt trăng giống Trái đất. Và điều này có một số ý nghĩa thú vị đối với sự tiến hóa của Mặt trăng. Chúng ta biết không lâu sau khi được hình thành, Mặt trăng có một từ trường cực mạnh, từ trường này bắt đầu suy giảm khoảng 3,2 tỉ năm trước. Một từ trường như vậy được tạo ra bởi chuyển động và đối lưu trong lõi, vì vậy cấu tạo của lõi Mặt trăng có liên quan sâu sắc đến cách thức và lý do từ trường biến mất. Với hy vọng trở lại Mặt trăng của loài người trong thời gian tương đối ngắn, có lẽ chúng ta sẽ không phải đợi lâu để xác minh cho những phát hiện này.
Những khám phá giật mình về lõi Mặt trăng
1,145
TP Hồ Chí Minh sẽ xét tặng Giải thưởng văn học nghệ thuật TP Hồ Chí Minh 5 năm lần thứ 3 (từ năm 2018 đến năm 2022) nhằm tôn vinh các tác giả, tác phẩm tiêu biểu có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Các văn nghệ sỹ TP Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh cho những cống hiến đóng góp nghệ thuật Thành phố. Ngày 10/5, UBND TP Hồ Chí Minh ban hành Kế hoạch xét tặng Giải thưởng Văn học nghệ thuật TP Hồ Chí Minh 5 năm lần thứ 3 (từ năm 2018 đến năm 2022) để tôn vinh các tác giả, tác phẩm tiêu biểu có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng; động viên, khích lệ các văn nghệ sĩ phát huy tính năng động sáng tạo nghệ thuật, góp phần xây dựng và phát triển thành phố, đất nước. Những tác phẩm được xét thưởng là những sáng tác có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh lịch sử dân tộc, truyền thống đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta, trong đó ưu tiên những tác phẩm lấy đề tài về TP Hồ Chí Minh. Các tác giả tham dự giải bao gồm: tất cả công dân Việt Nam là hội viên của các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố (gồm Hội Nhà văn; Hội Âm nhạc; Hội Sân khấu; Hội Điện ảnh; Hội Nhiếp ảnh; Hội Mỹ thuật; Hội Nghệ sĩ múa; Hội Kiến trúc sư; Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Thành phố, thuộc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố đều có thể gửi tác phẩm tham dự giải thưởng. Tác phẩm tham dự giải thưởng là tác phẩm của cá nhân hoặc tập thể tác giả thuộc các ngành: Văn học, Sân khấu, Mỹ thuật, Âm nhạc, Điện ảnh, Nhiếp ảnh, Kiến trúc và Múa; là tác phẩm mới đã được công bố từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2022; có thể là tác phẩm đã được tặng giải trong nước hoặc quốc tế và đã được xây dựng hoặc công diễn. Ban tổ chức bắt đầu tiếp nhận tác phẩm từ ngày 15/5 đến hết ngày 15/8/2023. Việc công bố và trao tặng Giải thưởng dự kiến diễn ra trước ngày 15/1/2024. Tin, ảnh: Hoàng Tuyết
Giải thưởng Văn học nghệ thuật TP Hồ Chí Minh tôn vinh các tác phẩm, tác giả tiêu biểu
400
Có rất nhiều cảnh quan hồ trên thế giới, và cảnh quan hồ được lai tạo ở các vùng khác nhau cũng khác nhau. Một số hồ có một số đặc điểm rất kỳ diệu mà nhiều người chưa từng nhìn thấy trước đây, và một số hồ chứa đầy bất trắc từ khi nước rút cho đến quá trình tiến hóa, vì vậy chúng mang lại cho người ta một cảm giác rất khác biệt, chính vì những đặc điểm này nên chúng sẽ thu hút rất nhiều khách du lịch. Và có một hồ nước trên thế giới khiến mọi người đầy nghi ngờ, hôm nay chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn một trong những hồ nước thú vị nhất thế giới, nó xuất hiện ba năm một lần, đó là hồ Eyre. Eyre – Hồ nước ẩn này sẽ “xuất hiện” ba năm một lần. Có những khía cạnh rất đặc biệt của Lake Eyre đáng được nói theo cách nào đó, bởi vì một số tính năng thực tế mà nó khá đáng chú ý. Đây là một trong những hồ theo mùa nổi tiếng nhất trên thế giới, và chính vì sự khác biệt đáng kể như vậy mà nó cũng rất nổi tiếng trên thế giới, và một số địa điểm đặc biệt nó đã thu hút rất nhiều sự tò mò và quan tâm của các nhà khoa học. Muốn ngắm được hồ nước này cần phải chọn thời điểm thật thích hợp, nếu không có thể rất mất thời gian. Hồ Eyre nằm ở vùng sa mạc miền trung Nam Úc, trong một lưu vực nội địa khô cằn, nơi đây có lượng mưa ít và lượng bốc hơi lớn nên nước hồ chủ yếu được cung cấp bởi nước sông và nước mưa lâu ngày thiếu nguồn cung, nó đã trở thành một hồ nước theo mùa. Hồ Eyre là một hồ nước rất thú vị, thỉnh thoảng xuất hiện rồi biến mất như một bóng ma, khó tìm ra dấu vết, năm 1832, một đoàn thám hiểm đến đây điều tra và tìm thấy một cái vực nhỏ được bao phủ bởi một lớp muối. Năm 1860, một đoàn thám hiểm khác đã đến đây, nhưng đã tìm thấy một hồ nước mặn với những con sóng xanh lăn tăn. Năm sau, đoàn thám hiểm lại đến đây để đo diện tích của hồ, nhưng hồ đã biến mất, hồ nước gợn sóng lại trở thành một vùng đất nhỏ. Đặc điểm khác thường nhất của nó là nước trong hồ rất hiếm. Ở khu vực này của Úc, lượng mưa hàng năm dưới 127 mm. Phần lớn thời gian hồ chỉ là một lòng hồ khô với lớp vỏ muối lung linh dày 20 cm. Người ta nói rằng hồ hoàn toàn chứa đầy nước, trung bình chỉ có hai lần sau mỗi 100 năm. Nước hồ Eyre chủ yếu lấy từ nước sông và nước mưa, diện tích thay đổi rất nhiều, khi lượng mưa lớn diện tích có thể lên tới 8.200 km vuông, khi lượng mưa thấp sẽ khô cạn. Theo diện tích trung bình, nó là hồ lớn thứ 19 trên thế giới, là hồ lớn nhất ở Châu Đại Dương nếu tính theo diện tích lớn nhất của nó. Khi mưa bão đến và lượng mưa lớn, lòng hồ bị bồi lấp, diện tích hồ có thể lên tới 8.200m2 trở thành hồ nước ngọt, hồ trở thành lớp vỏ muối khô cạn. Kết quả là hồ xuất hiện và biến mất theo thời gian. Do đó, diện tích của nó trong từ điển địa lý là “0-8200” km vuông, và không có con số cố định. Để thay đổi khí hậu khô hạn của miền trung Australia , các nhà khoa học đang nỗ lực để bắt “bóng ma” này, họ đề xuất đào một con kênh nối vùng vịnh gần đó với hồ Eyre, để nước biển tự động chảy về hồ Eyre, nó sẽ không khô nữa. Hồ rất thú vị này có thể được nhìn thấy theo thời gian trong tương lai.
Hồ nước thú vị nhất thế giới theo thời gian ‘xuất hiện’ 3 năm một lần
682
Đối với chúng tôi, điều bất ngờ nhất là sự quan tâm và theo dõi của Khuất Bình Nguyên đối với thơ miền Nam trong thời chiến… Được đào tạo căn bản về văn học và luật học, Khuất Bình Nguyên dành phần lớn cuộc đời cho công tác tư pháp, nhưng vẫn không lìa xa được văn chương chữ nghĩa. Từ khi về hưu, ông chuyên tâm cho văn học và xuất hiện như một thi sĩ tiềm ẩn lâu năm với năm tập thơ riêng (Người lữ hành thời gian, Nơi thời gian trở về, Cành tục ngữ hóa đá, Bỏ quên trong rừng thu, Hoa hoàng đàn nở muộn) và hai tập in chung (Bảy con đường của số phận, Mùa thu lứa đôi) được xuất bản chỉ trong vòng bốn năm. Tự ví mình như một bông hoa nở muộn trên cánh đồng văn chương muốn bung hết sắc màu cho trời đất, Khuất Bình Nguyên không dừng lại ở lãnh vực sáng tác. Hơn mười năm qua, ông vừa làm thơ, vừa suy nghĩ về văn chương, phân tích những thế giới nghệ thuật mà ông tâm đắc và phác vẽ chân dung những cá tính sáng tạo mà ông yêu mến. Ông không nhìn ngắm và luận bàn như một nhà khoa học khách quan mà như một người nghệ sĩ đồng cảm, sẻ chia với lao động nghệ thuật của những đời văn. Các tác phẩm của Khuất Bình Nguyên. Cần mẫn làm việc, Khuất Bình Nguyên hoàn thành bộ sách ba tập, tổng cộng 800 trang khổ lớn, gồm: Giọt nước trong lá sen (2016, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam), Giấu vàng trong gió thu (2019, Giải A của Hội đồng Lý luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương), Giọt nước thầm giữa những thời đại thi ca (2023), được gọi chung trong một tiêu đề phụ là Chân dung văn học – Đàm luận văn chương. Đọc hết ba tập sách của Khuất Bình Nguyên, có thể thấy tác giả như bị cuốn hút đến gần như ngây ngất trên cánh đồng văn chương màu mỡ của dân tộc, từ cổ điển đến đương đại. Ông nghĩ lại và nghĩ tiếp về thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Tú Xương, Tản Đà; đào sâu hơn những ẩn nghĩa trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Bích Khê – những giá trị nghệ thuật tưởng chừng đã ổn định trong đánh giá. Tấm lòng của ông bộc lộ rõ khi ngòi bút liên tài đã tiếp cận những đời thơ lận đận của Phùng Quán, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Văn Cao, Phùng Cung, Việt Phương. Đối với chúng tôi, điều bất ngờ nhất là sự quan tâm và theo dõi của Khuất Bình Nguyên đối với thơ miền Nam trong thời chiến. Bản lĩnh của một ngòi bút lịch duyệt khiến ông không ngần ngại bàn đến thế giới thơ từng xa xôi cách trở của Vũ Hoàng Chương, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Bùi Giáng, Trần Vàng Sao trong khía cạnh nghệ thuật độc đáo nhất. Cùng là đồng môn nhưng cách nhau bảy khóa, Khuất Bình Nguyên và chúng tôi đều đã từng theo học những giờ giảng về văn học miền Nam của Thầy Hồ Tấn Trai tức Phạm Văn Sỹ. Nhớ lại những câu thơ Thanh Tâm Tuyền mà thầy Trai đọc trong lớp, nhớ đến hình ảnh Đà Lạt mà nhà thơ và nhà giáo này đặt chân đến trong khoảng cách một thập niên, Khuất Bình Nguyên viết: “Thế hệ thầy Trai và Thanh Tâm Tuyền đến lúc cuối đoạn đường đời vẫn chưa thể gặp nhau. Cuộc đời của họ đã vỡ vào chuông giáo đường để chỉ còn lại tiếng ngân nga của ân tình và thức tỉnh”. Có lẽ do khoảng cách địa lý và thời gian nên Khuất Bình Nguyên chưa nắm đầy đủ thông tin về mảng văn học này. Ông dùng hình ảnh thật thích hợp: thơ Nguyên Sa là “những vũ điệu của tình yêu”. Nhưng nếu ông đọc được bản thảo tập thơ Những năm sáu mươi (bị chính quyền miền Nam kiểm duyệt, không cho xuất bản) và những bài thơ của Nguyên Sa trên các tạp chí Đất Nước, Trình Bầy, thì ông sẽ thấy rằng Nguyên Sa không hoàn toàn xa lạ với tinh thần “dấn thân” của chủ nghĩa hiện sinh. Viết về những tác giả cùng thời hay cùng thế hệ, ngòi bút Khuất Bình Nguyên càng tự tin hơn, nhờ sự từng trải trong cảnh sống mà ông chan hòa. Những bài viết của ông thu hút sự chú ý trước hết nhờ những nhan đề vừa đầy chất thơ, vừa gợi mở được chân dung của các tác giả: “Tiếng đập cửa của số phận” (viết về Bằng Việt); “Người của một thời, thơ của muôn đời” (viết về Phạm Tiến Duật), “Tôi ấy mà, một gốc rạ bơ vơ” (viết về Hữu Thỉnh), “Rút tơ ra trải đường đi riêng mình” (viết về Nguyễn Đức Mậu), “Người lính mang thông điệp đoàn viên” (viết về Nguyễn Trí Huân), “Người lặng lẽ ở số 9 Nguyễn Đình Chiểu” (viết về Ngô Thế Oanh), “Người suốt đời vác cây thánh giá tuổi thơ” (viết về Trần Đăng Khoa), “Sự mất ngủ của thi ca” (viết về Nguyễn Quang Thiều), “Nỗi sợ hãi trước chân trời” (viết về Trương Đăng Dung)… Đôi khi ông không giấu giếm sự “thiên ái” như đã viết đến ba bài về Nguyễn Huy Thiệp. Cũng như làm thơ, đối với Khuất Bình Nguyên, viết tiểu luận phê bình pha chất tùy bút bao giờ cũng là một cuộc viết nghiêm trang. Ông không đóng khung tác phẩm trong giới hạn của văn bản. Ông kéo nó lại gần với cuộc đời, với tâm tình người viết và tâm trạng người đọc. Ông đi tìm lại những dấu tích của Nguyên Hồng, Bích Khê, Quang Dũng, Trần Vũ Mai, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh… Chúng tôi đã từng được ông đưa đến phố Lãn Ông thắp hương tưởng niệm Vũ Đình Văn và ôn lại chuyện cũ với gia đình nhà thơ; ngồi cùng ông và những bạn văn một sáng thu hồ Tây để ngắm nhìn ngôi-nhà-cây-liễu xưa của Thạch Lam bên hồ Ao Vả ở đầu làng Yên Phụ. Gần đây ngòi bút Khuất Bình Nguyên có xu hướng viết về những tài năng mới phát hiện trong đời sống văn chương và những bài tổng luận có tính khái quát. Mong ông dành tâm sức và thời gian đầu tư cho một công trình chuyên sâu, dài hơi về tiến trình thơ Việt Nam hiện đại.
Khuất Bình Nguyên: ‘Hoa nở muộn’ trên cánh đồng văn chương – Tác giả: GS Huỳnh Như Phương
1,111
Văn học chiến tranh có một thời mang đậm âm hưởng sử thi, chủ đạo là ngợi ca “ta thắng, địch thua, cả nhà sum họp”. Văn học chiến tranh đã từng là trung tâm của nền văn học cách mạng và có tác dụng động viên, cổ vũ, đóng góp rất lớn vào sự nghiệp thống nhất đất nước. Tuy nhiên, giờ đây với sự bùng nổ của Internet cùng rất nhiều phương tiện giải trí hấp dẫn đã và đang lấn lướt văn hóa đọc, thậm chí có không ít người đã bỏ cả thói quen đọc sách. Vậy văn học chiến tranh có còn hấp dẫn với bạn đọc hôm nay? 1. Có những người đi đánh trận rồi viết, lại có người xem đánh trận, thậm chí có người chỉ nghe kể chuyện trận mạc, đọc sách, xem phim, đi thực tế, đọc tư liệu chiến tranh… rồi viết tác phẩm về chiến tranh. Dĩ nhiên định dạng như thế chỉ là tương đối. Bởi có ông nhà văn lúc ở nhà thì xem bộ đội cao xạ nhả đạn “chọi” nhau với máy bay Mỹ chúc đầu cắt bom; khi nhập ngũ nghe bạn lính kể chuyện, vào chiến trường và đánh nhau tơi bời rồi viết và viết hay; khi hòa bình mới kịp đi học, mới kịp đọc ngấu nghiến “kinh thiên vạn quyển”… viết càng hay. Nhưng, có người làm phóng viên chiến trường, vẫn hành quân đi dọc Trường Sơn, vẫn ra trận theo cách đi cùng các đơn vị vào chiến dịch, có nghĩa là không cầm súng đánh nhau trực tiếp, chỉ “xem” đánh nhau, mà có thể hứng bom đạn, có thể thương tích đầy mình,… rồi viết mà vẫn hay. Còn các nhà văn trưởng thành khi chiến tranh đã kết thúc, thậm chí chiến tranh lùi xa lâu rồi, chỉ nghe kể chuyện trận mạc, đọc và xem tư liệu, đi thực tế và viết bằng trí tưởng tượng mà vẫn hay. Mỗi dạng nhà văn ấy đều có những lợi thế và những hạn chế nhất định khi sáng tác; thành công hay không là do tài năng, và lao động nghệ thuật ít hay nhiều, cộng thêm một chút may mắn hoặc không may nữa. Dù viết ở tâm thế nào thì cũng phải công nhận họ đã kiến tạo nên một nền Văn học chiến tranh. Cái không khí thời đại sinh thành nuôi dưỡng tác phẩm văn học nghệ thuật và rồi văn học nghệ thuật lại tác động vào con người, vào xã hội thời chiến bằng sức mạnh tinh thần thật ghê gớm. 2. Nhưng, bây giờ sự thể đã khác xưa lắm rồi. Văn học chiến tranh và cả mỹ thuật, điện ảnh về chiến tranh cũng đang chật vật đi đến trái tim bạn đọc, người xem. Các tiểu thuyết về chiến tranh in nhiều thì được 2.000 bản, ít thì 1.000, thậm chí chỉ 500 bản. Các tập thơ và trường ca về chiến tranh thì hầu như không bán được mà chỉ cho và tặng. Từ khi kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là Internet không còn xa lạ, đến từng nhà, thì mối quan tâm giải trí, thụ hưởng giá trị tinh thần của con người không chỉ là văn học, nghệ thuật mà còn nhiều loại hình vui chơi giải trí điện tử khác như games, hay mạng xã hội như Twiter, Facebook, Google… và bây giờ là ChatGPT chia thị phần. Bữa tiệc tinh thần linh đình, phong phú làm cho người thưởng thức tha hồ lựa chọn. Sự dịch chuyển đọc ebook nhiều hơn chẳng đáng lo ngại, vì đọc bằng sách giấy hay sách điện tử (ebook) thì cũng vẫn là đọc. Điều đáng quan tâm là người ta đọc cái gì, và sử dụng Internet làm gì? Theo báo cáo ứng dụng di động năm 2021 của Appota thì “người Việt dành 25% thời gian để sử dụng Facebook và 12% thời gian để xem YouTube. Xếp sau 2 nền tảng này là Zalo 7%, Messenger 6% và TikTok 4%”. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ chia sẻ trên truyền thông rằng: “Viết văn bây giờ đã khác. Văn chương tuy là ngọn bút chiến đấu với nhiều cay đắng nhưng chưa chắc tới được người đọc”. Chưa bao giờ người viết văn đứng trước sự thử thách nghiệt ngã trước các loại hình, và phương tiện giải trí như hiện nay. 3. Văn học chiến tranh còn cần thiết không hay bạn đọc đã quay lưng? Không! Chiến tranh là đề tài lớn, thậm chí có người nói “siêu đề tài”, luôn luôn được bạn đọc của bất cứ sắc tộc nào quan tâm. Các đề tài về tình yêu, đạo đức, văn hóa, xã hội,… còn có ngăn cách bởi văn hóa, tâm lý, cách cảm, cách nghĩ, cách tiếp nhận của mỗi dân tộc cần phải vượt qua rất khó khăn. Nhưng, cuộc chiến tranh nào thì cũng kẻ thua người thắng, cũng mất mát đau thương, có những mẫu số chung dễ chia sẻ, dễ tiếp nhận. Nữ dịch giả Kim Joo-Young đem một tập truyện ngắn của một tác giả người Việt về đề tài xã hội đã dịch sang tiếng Hàn đến các nhà xuất bản thuyết phục họ in, cuối cùng sách cũng ra đời. Trong bài phỏng vấn của giáo sư, tiến sĩ, dịch giả Bae Yang Soon, nữ dịch giả Kim Joo Young nói rằng: “Những người trong giới xuất bản xung quanh tôi không hứng thú với tác phẩm không có chủ đề chiến tranh”. Độc giả Hàn Quốc đang ngóng trông văn học chiến tranh của Việt Nam chăng? Có lẽ đề tài chiến tranh vẫn là mối quan tâm chung của nhân loại, ở đâu trên trái đất này cũng muốn đọc văn học chiến tranh? Vậy thì, văn học chiến tranh vẫn còn đất sống, vẫn còn chỗ đứng trong lòng bạn đọc. Chỉ có điều phải viết như thế nào mà thôi. Thời đại mới, con người mới, mỹ học tiếp nhận cũng mới. Văn học chiến tranh muốn đi vào lòng thế hệ bạn đọc mới cần phải viết khác trước, phải độc đáo, đặc sắc, dĩ nhiên là phải hay, phải lôi cuốn, hấp dẫn, dẫn dụ người đọc say mê đến trang cuối cùng cuốn sách. Sau chiến tranh, các sự kiện, biến cố có thời gian lắng đọng lại, rõ ra, hiện lên, các nhà văn nhìn chiến tranh cũng trầm tĩnh hơn. Người sáng tạo văn chương không chỉ viết với tư cách nhà văn công dân mà còn viết với tư cách con người cá nhân. Người đọc bây giờ sẽ không đọc nổi loại truyện ngắn miêu tả một trận đánh, càng không mất thời gian đọc tiểu thuyết, trường ca kể lể con cà con kê một chiến dịch dù là chiến thắng hay thất bại. Những điều đó, phim tài liệu chiến tranh chân thực hơn, cụ thể, chính xác hơn ngòi bút nhà văn. Trong một cuộc trà dư tửu hậu, bạn tôi – một tiến sĩ văn chương thẳng thắng bảo: “Cái điều bạn đọc chúng tôi đang cần ở văn học chiến tranh là những cắt nghĩa ngọn ngành bằng hình tượng nghệ thuật số phận dân tộc, số phận con người trong chiến tranh. Chiến tranh như là nó đã xảy ra, hay chiến tranh có thể là, phải là… theo trí tưởng tượng của nhà văn, nhưng phải chân thật”. Vâng! Chân – thiện – mỹ hoàn hảo là cái mà nhà văn phải vươn tới, là điều bạn đọc yêu cầu trong tác phẩm chiến tranh. Nhưng, nói thì dễ, làm mới thật khó làm sao. Trong trường ca “Đường tới thành phố” , ông Hữu Thỉnh đã từng viết người vợ đi hết thời thanh xuân mỏi mòn: “ Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy/ Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc/… Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”. Viết về chiến tranh héo hắt, chân thực như thế, chắc chắn sẽ được nhiều bạn đọc chia sẻ, thậm chí lấy được nước mắt phụ nữ. Ông Nguyễn Minh Châu gửi gắm nỗi niềm xót xa, thương cảm vào nhân vật Thai trong “ Cỏ lau ” với hình tượng người vợ thủy chung, chỉ qua hai câu người chồng mới nói với người chồng cũ mà cũng thấy nhói lòng: “Nhà tôi là một thứ đàn bà cổ. Những người đàn bà chờ chồng có thể hóa đá”. Viết về chiến tranh lay động trái tim và thổn thức lòng người như thế mới hòng bạn đọc không bỏ sách. Lại nữa, nếu ai quan tâm đến các loại hình giải trí hiện đại thì nhận ra có một đặc điểm chung là: Nhân vật anh hùng hay nhân vật kỳ quái cũng đều thiên về hành động. Thậm chí các nhân vật lính tráng, dân thường cũng chỉ hành động. Truyện tranh càng hành động, games thì quá hành động. Nhân vật tâm trạng hầu như không có. Tiếc thay, đa số tác phẩm văn học chiến tranh cũng thiên về nhân vật hành động, rất hiếm hoi nhân vật tâm lý tâm trạng. Miêu tả tâm trạng người vợ nghe tin chồng hy sinh ngoài mặt trận thế nào, tâm trạng người con gái trao trinh tiết cho người yêu trước ngày nhập ngũ ra sao, không phải tác giả nào cũng thuyết phục người đọc. Thế là, người ta đang no xôi chán chè với các loại hình giải trí đánh đấm, tiết tấu nhanh mạnh đến mức không kịp suy nghĩ, thì lại gặp các quyển sách văn học dày cộp cũng lại hành động và hành động, rất ít suy tư, khái quát, chiêm nghiệm…, làm sao khiến họ đêm đêm không ngủ cầm sách đọc. Suy tư không chỉ trong quá trình sáng tạo, mà trên từng trang sách cũng cần suy tư để lay động lòng người đọc. Đã đến lúc, nhà văn chiến sĩ phải đứng xa cuộc chiến, đứng ngoài cuộc chiến tranh để nhìn chiến tranh bao quát hơn, khách quan, toàn diện hơn là miêu tả cụ thể chi tiết một bộ phận hiện thực, một trận đánh tấn công, hay phòng ngự, hoặc chỉ là kể lể gian khổ, hy sinh, ác liệt. Cái điều ấy, người lính chiến trận kể hay hơn nhà văn. Bạn đọc nghe người lính chiến trận dễ đồng cảm, xúc động và hấp dẫn hơn là đọc quyển tiểu thuyết chiến tranh dày cộp của nhà văn. Là nhà văn, năm tháng đi qua, ta đọc lại tác phẩm của ta viết thời chiến trận còn cảm thấy bớt hay, thậm chí không hay, thì bạn đọc đọc sao nổi? Trong chiến tranh, đối diện với mất mát, hy sinh, với thử thách khốc liệt, con người mang lý tưởng luôn cố gồng lên quá sức mình để làm việc phi thường, hoặc đơn giản chỉ để sống và tồn tại là hoàn toàn hợp lý, dễ chấp nhận. Chuyện diễn ra tự nhiên, hợp lý và cả những việc phi lý trong chiến tranh không phải ai cũng biết, cũng viết được. Viết được thì phải dấn thân, phải sống. Sống là quá trình dấn thân phát hiện, khám phá hiện thực. Sống kỹ, sống quan sát, sống lắng nghe, sống nghĩ ngợi. Nhà văn Chu Lai cũng từng nói: “Xã hội càng ngổn ngang thì nhà văn càng có chất liệu để viết nhưng văn nghệ sĩ hiện đang chìm nổi, chết ngập trước các loại hình thông tin truyền hình, báo mạng, Facebook… Tất cả cũng góp phần khiến văn học đọc bị chìm. Nhà văn phải có cái đau đáu, đau đời để viết nhưng hiện không có ai dám sống, dám dấn thân bỏ phố thị phồn hoa để đi 5-10 năm rồi trở về viết một cuốn sách 500-600 trang”. Bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc trẻ đang “dan díu” với những games, mạng xã hội, truyện tranh…, họ không thể bỏ nó ngay để đọc những tác phẩm văn học chiến tranh viết một cách dễ dãi, hời hợt, sống sít và cẩu thả. Sống và dấn thân, không chỉ nghĩ mới, nghĩ lớn thể hiện ở cách kể chuyện, mà còn ở nghệ thuật sử dụng ngôn từ với lao động nghệ thuật nghiêm túc, chuyên nghiệp chính là tôn trọng bạn đọc, thì không lo bạn đọc quay lưng. Văn học chiến tranh vẫn có chỗ đứng trong lòng người đọc.
Văn học chiến tranh có còn chỗ trong lòng bạn đọc? – Tác giả: Sương Nguyệt Minh
2,109
Thủ tướng giao Bộ Giao thông Vận tải phối hợp với các địa phương sớm đầu tư các tuyến đường kết nối để đáp ứng nhu cầu vận tải vùng Đông Nam Bộ và kết nối với vùng Tây Nguyên. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa đồng ý với kiến nghị của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) về đầu tư tuyến đường kết nối tỉnh Bình Phước và Đồng Nai theo công văn 3266/VPCP-CN ngày 9/5/2023. Thông tin về dự án, theo Bộ GTVT, tuyến đường có điểm đầu tại thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, đoạn đầu tuyến đi trùng đường tỉnh 753 khoảng 15km, đoạn cuối tuyến được nghiên cứu theo 2 hướng tuyến. Hướng tuyến 1 do UBND tỉnh Bình Phước đề xuất đi qua cầu Mã Đà, sang địa phận tỉnh Đồng Nai, tiếp tục đi theo các tuyến đường địa phương và kết nối với đường vành đai 4 TP HCM tại thành phố Biên Hòa , tỉnh Đồng Nai . Tổng chiều dài khoảng 76km, trong đó khoảng 31km đi qua vùng lõi khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai. Bộ GTVT nhận định hướng tuyến này tác động lớn, chia cắt vùng lõi, phân mảnh hệ sinh thái, ảnh hưởng đến hành lang liên kết đa dạng sinh học, không phù hợp với Luật Đa dạng sinh học và các điều ước quốc tế. Mặt khác cũng phù hợp với các quy định của Luật Lâm nghiệp, Luật Di sản văn hóa, Luật Bảo vệ môi trường và chủ trương của Đảng, Chính phủ. Phương án 2 do Bộ GTVT nghiên cứu có hướng tuyến kết nối với đường Đồng Phú – Bình Dương (tỉnh Bình Phước đang đầu tư xây dựng) và đường Bắc Tân Uyên – Phú Giáo – Bàu Bàng (tỉnh Bình Dương đang đầu tư xây dựng), tuyến tiếp tục đi theo 15,5km xây dựng mới để kết nối với đường vành đai 4 TP HCM tại huyện Bắc Tân Uyên , tỉnh Bình Dương , tổng chiều dài khoảng 71km. Theo Bộ GTVT, phương án này có hướng tuyến kết nối từ thành phố Đồng Xoài đến đường vành đai 4 TP HCM thuận tiện, chiều dài ngắn, kinh phí đầu tư thấp nhất và tận dụng được các tuyến đường địa phương đã và đang được đầu tư xây dựng và hạn chế tối đa ảnh hưởng đến khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai. Về lựa chọn phương án, theo Bộ GTVT, tuyến đường kết nối tỉnh Bình Phước và tỉnh Đồng Nai thuộc trách nhiệm quản lý của các địa phương. Tuy nhiên, do tính chất kết nối liên vùng cùng kiến nghị hướng tuyến không đi qua khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai (không đi qua cầu Mã Đà) được nhiều Bộ, ngành, UNESCO và các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai cơ bản thống nhất nên Bộ GTVT kiến nghị Thủ tướng Chính phủ trước mắt chấp thuận phương án kết nối tỉnh Bình Phước với đường vành đai 4 TP HCM không đi qua cầu Mã Đà. Đồng thời, giao UBND các tỉnh Bình Phước, Bình Dương cân đối nguồn vốn của địa phương và quyết định đầu tư các tuyến đường trên địa bàn. UBND các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương đẩy nhanh tiến độ xây dựng tuyến đường vành đai 4 TP HCM để tạo điều kiện kết nối thuận lợi các tỉnh Bình Phước, Bình Dương với cảng hàng không quốc tế Long Thành, cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu. Bộ cũng kiến nghị UBND tỉnh Bình Phước, UBND tỉnh Đồng Nai phối hợp với Bộ GTVT nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tác động để lựa chọn hướng tuyến chi tiết phương án kết nối tỉnh Bình Phước với tỉnh Đồng Nai, bao gồm cả phương án qua cầu Mã Đà.
Thủ tướng đồng ý xây tuyến đường kết nối Bình Phước và Đồng Nai
629
Nhà thơ Hoàng Trung Thông Cho đến nay, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã rời bỏ cõi tạm được 30 năm. Năm 2022, ông là một trong tám tác giả, đồng tác giả được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Sinh thời ông được biết đến với những câu thơ bình dị mà độc đáo, với tính cách cương trực thẳng thắn, thậm chí “gàn”, với tâm hồn lãng mạn, với cả sở thích uống rượu và nhiều chuyện thật tưởng như đùa. Trong ông dường như hội tụ rất nhiều khía cạnh: vừa tài hoa nghệ sĩ vừa uyên bác học giả, vừa bộc trực vừa kín đáo. Nhà thơ Huy Cận từng viết về Hoàng Trung Thông: “Thông nghệ sĩ tài hoa, Thông uyên bác, Thông trữ tình, Thông tinh chất xứ Nghệ.” Với tư cách nhà thơ, có thể nói Hoàng Trung Thông là một người nhập cuộc. Thơ ông đứng về phía những thân phận nhỏ bé, đau khổ, bất hạnh. Ông quan niệm người nghệ sĩ phải luôn gần gũi với nhân dân, thơ ca phải có ích, có ý nghĩa với cuộc sống. Từng đảm nhiệm nhiều trọng trách (Tổng biên tập Báo Văn nghệ , Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương, Viện trưởng Viện Văn học), nhưng lúc nào người ta cũng thấy Hoàng Trung Thông trong bộ cánh giản dị thậm chí tuềnh toàng. Có lần, một vị quan chức gọi ông đến nhắc nhở: “Anh là một đại diện lớn cho văn hóa văn nghệ nhưng tại sao anh ăn mặc lôi thôi lếch thếch và suốt ngày uống rượu ở các quán vỉa hè. Như vậy liệu có làm ảnh hưởng đến uy tín của những người làm văn hóa, văn nghệ không?” Ông Thông thẳng thắn trả lời: “Nếu tôi suốt ngày ăn mặc đẹp, ngồi trên ô tô và đi rao giảng, dạy dỗ thì liệu thơ ca tôi có hiểu những tiếng nói thầm sâu của người dân không?” Ngẫm nghĩ một lúc, vị lãnh đạo kia buông một câu: “Anh Thông có lí!” Hoàng Trung Thông sống chủ yếu ở Hà Nội nhưng viết nhiều thơ về làng quê ở Nghệ An . Những hoài niệm về làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu luôn quay trở về ám ảnh tâm trí ông. Nhiều năm ở Hà Nội, mặc dù đang trong chiến tranh, ông vẫn một mình lặng lẽ đi xe đạp về làng Quỳnh để được sống lại thêm một lần nữa những điều trở trăn trong kí ức. Trải lòng về những bài thơ viết về làng quê của mình, ông từng nói với các con: “Thơ bố đã viết về nông nghiệp, các con phải làm một cuộc cách mạng về công nghiệp.” Ông là người muốn làm cách mạng triệt để với thơ. Bản thân ông cũng dự phần “chôn Thơ mới” (chữ của Trần Dần), tức là nỗ lực vượt lên Thơ mới để không ngừng làm mới thơ. Hoàng Trung Thông là người có học vấn uyên bác. Là con trai của ông tú tài Hoàng Trung Quát, Hoàng Trung Thông mất bố từ khi lên 8 tuổi, song từ nhỏ ông đã được biết đến như một thần đồng về Hán học. Người ta bàn tán về ông, nói rằng “con hơn cha”, hẳn ông sẽ sớm thành đạt. Lớn lên ông học ở Quốc học Vinh. Sau này ông thông thạo tiếng Anh, Pháp, Trung (và Hán), ngoài ra còn học thêm tiếng Nga. Ông dịch nhiều thơ nước ngoài sang tiếng Việt và thơ ông cũng được nhiều nhà thơ trên thế giới dịch ra tiếng nước họ, trong đó có tập Quê hương chiến đấu được dịch ra tiếng Trung. Trong lĩnh vực dịch thuật, ông là người đầu tiên đưa thơ Mayakovsky và Pushkin về Việt Nam. Ngoài sáng tác, dịch thuật thơ, Hoàng Trung Thông còn viết câu đối, truyện ngắn, bút kí, lí luận phê bình văn học. Chế Lan Viên gọi ông là “Trạng Thông họ Hoàng”, còn Phan Ngọc gọi ông là học giả. Theo lời kể của họa sĩ Hoàng Phượng Vỹ, con trai Hoàng Trung Thông, từ nhỏ anh đã được sống trong cả một “thư viện”. “Khắp nơi trong nhà là sách. Bố tôi đã biến nhà mình thành thư viện. Ngày đó khó khăn như thế mà bố làm được vậy, tôi thực sự thấy ngôi nhà mình trở nên lấp lánh”, Hoàng Phượng Vỹ kể lại. Bố anh hay nói chuyện nghệ thuật với bạn bè nghệ sĩ và chính những buổi giao lưu đó đã dẫn dắt anh đến với nghệ thuật, để sau này anh quyết định từ bỏ nhiều cơ hội lớn và trở thành một họa sĩ. Đứng về phía nhân dân cần lao, sáng tác những bài thơ nhập cuộc, đảm nhiệm nhiều trọng trách lớn trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, đồng thời có tâm hồn nghệ sĩ bay bổng, trong Hoàng Trung Thông dường như luôn có những giằng co, mâu thuẫn. Ông đứng ở ranh giới chênh vênh giữa một người lãnh đạo văn nghệ và một thi sĩ khao khát tự do, chấp chới cô đơn. Nhưng ông đã làm tròn cả hai vai đó một cách kì diệu. Chắc hẳn điều đó khó khăn hơn những gì một người ngoài cuộc có thể hiểu, nên nhiều điều trong cuộc đời của Hoàng Trung Thông vẫn còn là ẩn số. Chẳng thế mà sau những “bài ca vỡ đất”, Hoàng Trung Thông đã ít nhiều viết về những đổ vỡ trong tâm hồn chính mình. Mời trăng là tập thơ cuối cùng nhưng cũng là tập thơ hay và lãng mạn nhất của ông. Nếu như trước đây ông “chôn” Thơ mới thì lúc này Mời trăng trở thành cuộc cách tân cho chính mình khi đổ vỡ. Đó là sự trở về với cái “tôi” đầy đau đớn nhưng cũng lắm hân hoan. Hân hoan vì được là mình. Tập Mời trăng như một cuộc “trả nợ” cho chính ông, nơi Hoàng Trung Thông có thể phơi tỏ lòng mình một cách thoải mái hơn. Người đọc sẽ bắt gặp những câu thơ trải lòng như “Ai rõ lòng ta đang nhớ tới xa xăm” ( Mời trăng ); Và ta yêu cuộc đời/ Dẫu còn bao đớn đau, xót xa, vất vả (Dưới bóng hòe); Tôi một mình nhìn và nhớ bạn/ Thấy đời mình bớt nỗi đắng cay (Nhìn). Cũng có khi nhà thơ tự vấn: Ngày lại ngày/ ta tỉnh/ hay/ ta say/ Ta nhìn mặt trời/ tưởng là mặt trăng/ mặt trời chói lọi/ sao mây mờ giăng/ và ta tự hỏi/ làm được gì chăng (Ngày)… Những câu thơ dường như được viết trong cơn chếnh choáng, của hơi men, của những nỗi niềm ấp ủ dồn nén bấy lâu, của cả những đam mê bất tận với thi ca, nghệ thuật. Hoàng Trung Thông chỉ còn biết bám víu vào ánh trăng, rượu và thơ, trong đó thơ được ông thừa nhận là thứ có thể khiến ông “không còn khóc”. Ở bài Giá như tôi đọc , ông như đang trò chuyện với một người. Ông nói rằng ông không có thời gian để đọc nghìn bài thơ, trăm bài thơ hay chục bài thơ. Ông chỉ có thể đọc một bài. Kết thúc, ông viết: Giá như tôi đọc/ Chục bài thơ/ Giá như tôi đọc/ Trăm bài thơ/ Giá như tôi đọc/ Nghìn bài thơ/ Thì bây giờ/ Tôi không còn khóc. Hoàng Trung Thông uống rượu nhiều vô kể. Giới văn nghệ vẫn còn kể lại nhiều chuyện vui vui buồn buồn của ông trong những lần uống rượu. Ở nhà thì ông vừa uống vừa ngắm trăng, còn nếu ra ngoài thì ông hay chọn quán rượu ở ga Hàng Cỏ hoặc ở bến xe Lò Đúc. Những dòng người nhộn nhịp xô bồ qua lại càng khiến ông thấy cô độc hơn, nhưng ông muốn cái xanh tươi ồn ào đó của cuộc sống thẫm đẫm hồn mình, để những ý tưởng sáng tạo được bừng lên. Hoàng Trung Thông quen mặt ở các quán rượu, đến nỗi ông là một trong những người có đặc quyền được ghi nợ. Cuối năm là thời điểm vợ ông phải đi trả tiền và lần nào bà cũng giật mình: một năm ông uống nợ đến 5000 chén. Ngoài thời gian làm việc ở Sở Y tế Hà Nội, bà vợ phải đan len và làm thêm vài việc phụ để trả tiền rượu cho ông. Cuối đời Hoàng Trung Thông gặp phải những ảo giác. Trở lại với Mời trăng , đây là tập thơ bao gồm những bài thơ hàm súc, cô đọng nhưng ở đó chứa đựng cả những huyễn ảo của một nội tâm nhiều ẩn ức, giằng xé đớn đau. Ông viết Mời trăng vào những ngày tháng cuối đời như một di chúc gửi gắm lại cho riêng mình. Ở đó có những câu thơ chập chờn ảo giác. Chẳng hạn trong Bài thơ về biển: Ta vốn là nhà thơ/ Thấy nước triều dâng ta giẫm chân xuống nước. Hay trong bài Biển: Tôi/ như cây/ nhổ ra/ khỏi/ đất/ Tôi/ như cá/ ra/ khỏi/ biển khơi. Ẩn sau nhân vật đóng nhiều vai trò xã hội, đảm nhiệm nhiều trọng trách lãnh đạo văn nghệ, ẩn sau những câu thơ nhập cuộc viết về thân phận lam lũ khổ hạnh của nhân dân lao động… là một Hoàng Trung Thông buồn u ẩn, dễ rạn vỡ. Trong bài Mời trăng có câu Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm . Có lẽ đến lúc này, khi tóc đã nhiều sợi bạc, Hoàng Trung Thông mới tìm đến thơ để giãi tỏ lòng mình, trong đó có những điều mà cả đời người trôi qua ông đã giấu bặt hoặc khiêm nhường để chúng yên ắng sâu thẳm đâu đó, nhường chỗ cho những đại cuộc. Khi Hoàng Trung Thông mất, một ngôi chùa lớn ở Ấn Độ đã lập bàn thờ ông. 5 năm sau họ gửi về cho vợ ông một lá bồ đề ở ngôi chùa đó, như lời cảm ơn và tưởng nhớ đến người đã dịch thơ Ấn Độ sang tiếng Việt. Những người con của ông luôn giữ lá bồ đề đó như một kỉ vật linh thiêng về cha mình. Một lá bồ đề vừa gân guốc cứng cỏi vừa mỏng manh nhẹ nhõm.
Nhà thơ Hoàng Trung Thông: nhập cuộc và chênh vênh – Tác giả: Đăng Tiêu
1,728
Một số vùng ở miền Tây nước Mỹ và Thái Bình Dương có thể gặp sự cố mất điện vô tuyến, trong khi ánh sáng phương Bắc lan xuống những nơi bất thường trên Trái Đất. Theo tờ Space, một loại “họng súng vũ trụ” – tức những vết đen Mặt Trời hay bắn phá Trái Đất – cực kỳ hiếm vừa giải phóng ra những quả pháo sáng mạnh mẽ và cả một quả cầu lửa gọi là “vụ phóng khối lượng đăng quang” (CME). Họng súng vũ trụ này tên AR3296, thuộc nhóm vết đen có từ trường ngược lại các vết đen Mặt Trời khác, chỉ chiếm khoảng 3% số vết đen trên ngôi sao mẹ của chúng ta và cũng dễ bùng nổ hơn các vết đen còn lại. Một trong những cơn “bão lửa” bùng phát từ vết đen Mặt Trời – Ảnh: NASA. Các vết đen này ngược với một quy tắc căn bản gọi là Định luật Hale, mà theo đó trong chu kỳ 25 của Mặt Trời hiện nay, các vết đen ở Bắc bán cầu phải có các cực tích điện dương ở bên phải và tích điện âm ở bên trái. AR3296 ngược lại. Vụ bùng nổ mạnh mẽ của nó đã được các tàu vụ trụ quan sát từ lúc 5 giờ 54 phút sáng 8-5 (giờ Việt Nam . Các tính toán cho thấy các quả pháo sáng, cầu lửa từ vụ bùng nổ đó nhắm thẳng Trái Đất và sẽ chạm đến mục tiêu trong các ngày 10 và 11-5, gây ra bão địa từ. Chúng bao gồm pháo sáng loại M1.5 cường độ trung bình và quả cầu lửa CME mạnh mẽ, có thể gây ra bão địa từ mạnh khi va chạm với từ quyển của Trái Đất. Dự kiến tác động trong các ngày 10 và 11-5 bao gồm cực quang rực rỡ vào ban đêm ở những nơi thường không trông thấy “ánh sáng phương Bắc” này, bởi cực quang thường chỉ hiện ra ở nơi rất gần các địa cực. Tại Mỹ , các nhà khoa học tính toán các bang như Oregon, Nebraska hay Virginia cũng có thể thấy cực quang; trong khi miền Tây nước Mỹ và khu vực Thái Bình Dương cảnh báo mất điện vô tuyến sóng ngắn. Theo EarthSky, các công cụ dự đoán cho thấy có khả năng 99% các quả pháo sáng ập vào Trái Đất hôm 10-5 là cấp C (yếu), 55% là pháo sáng trung bình cấp M và 20% nguy cơ hứng các quả cực mạnh loại X, vốn có thể gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng bao gồm làm các vệ tinh lạc đường, thậm chí rơi ngược về Trái Đất nếu không may đang được phóng đúng thời điểm “trúng đạn”.
Hôm nay, ‘bão lửa vũ trụ’ ngược đời ập vào Trái Đất
454
Tiếp Chủ tịch Danh dự của UNICEF Bỉ là Hoàng hậu Mathilde chiều 9/5, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng mong muốn UNICEF Bỉ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến trẻ em và về giáo dục, y tế. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Hoàng hậu Bỉ Mathilde sang thăm và làm việc tại Việt Nam với tư cách là Chủ tịch Danh dự của UNICEF Bỉ. Ảnh: TTXVN. Tại buổi tiếp, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng hoan nghênh Hoàng hậu Mathilde đến Việt Nam, cho rằng chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh rất có ý nghĩa khi hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 5 năm Đối tác Chiến lược về Nông nghiệp trong năm 2023. Chủ tịch nước vui mừng nhận thấy quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác tốt đẹp giữa hai nước tiếp tục phát triển tích cực. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và tiếp xúc giữa lãnh đạo các cấp. Quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư song phương có những bước phát triển vượt bậc. Hoàng hậu Bỉ Mathilde chia sẻ cảm xúc vui mừng trước chuyến đi Lào Cai sắp tới để có dịp chứng kiến kết quả nổi bật của các cơ sở chăm sóc trẻ em tại Việt Nam; thành tựu của Việt Nam trong tiến trình phát triển bền vững. Đồng thời tìm hiểu những khó khăn của Việt Nam trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ sức khỏe trẻ em, nhất là những vấn đề về giáo dục, dinh dưỡng và sức khỏe tinh thần. Hoàng hậu Bỉ cũng cho biết trong chuyến đi, bà sẽ tới thăm các cơ sở giáo dục, trường học tại Lào Cai; tìm hiểu về kết quả ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy và học; thăm câu lạc bộ dinh dưỡng của các bà mẹ và giao lưu với học sinh, thiếu niên Việt Nam về việc chăm sóc sức khỏe tinh thần, bởi đây là một vấn đề lớn đang được quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn hiện nay. Đánh giá cao những khuyến nghị của Hoàng hậu và Đoàn, Chủ tịch nước mong muốn UNICEF Bỉ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến trẻ em. Ảnh: TTXVN. Thông tin thêm với Hoàng hậu Mathilde, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết, Việt Nam có xuất phát điểm là nước nông nghiệp, trải qua nhiều mất mát trong các cuộc chiến tranh, nhưng với quan điểm coi trẻ em là tương lai của đất nước, công tác chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em luôn được quan tâm, với tinh thần dành những điều tốt đẹp nhất cho trẻ em. Cùng với đó, Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành và thực hiện nhiều chính sách, chương trình liên quan đến trẻ em như các chương trình giảm nghèo, phát triển nông thôn mới, phát triển giáo dục, y tế, chăm sóc xã hội… Công tác chăm sóc trẻ em được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Nhân dịp này, Chủ tịch nước trân trọng cảm ơn Vương quốc Bỉ và UNICEF Bỉ, cũng như cá nhân Hoàng hậu Mathilde đã luôn đồng hành, hỗ trợ, hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em; dành nhiều nguồn lực quan trọng hỗ trợ Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả chăm sóc trẻ em. Chủ tịch nước cũng cho biết bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhiệm vụ bảo vệ và chăm sóc trẻ em tại Việt Nam còn gặp một số thách thức như khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày càng lớn, vẫn có sự chênh lệch về sức khỏe và dinh dưỡng giữa các địa bàn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Chủ tịch nước tin tưởng trong thời gian đi thăm một số dự án hợp tác do UNICEF Bỉ hỗ trợ tại các địa phương ở Việt Nam, Hoàng hậu Mathilde sẽ có dịp hiểu rõ hơn những thành tựu, nỗ lực của Việt Nam; đồng thời chia sẻ những khó khăn, thách thức của Việt Nam trong bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Đánh giá cao những khuyến nghị của Hoàng hậu và Đoàn, Chủ tịch nước mong muốn UNICEF Bỉ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến trẻ em; tiếp tục dành nguồn lực hỗ trợ Việt Nam, nhất là ở các lĩnh vực giáo dục, y tế để Việt Nam thực hiện tốt hơn việc chăm sóc, giáo dục trẻ em trong thời gian tới.
Chủ tịch nước mong muốn UNICEF Bỉ hỗ trợ Việt Nam trong giáo dục và y tế
791
Ngày 10/5, tại Hà Nội , gia đình nhà thơ Thâm Tâm phối hợp Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức buổi ra mắt các tác phẩm văn xuôi mới sưu tầm của nhà thơ Thâm Tâm. Đây là nỗ lực lớn không chỉ của gia đình nhà thơ mà còn có sự hỗ trợ rất lớn của các văn nghệ sĩ nhằm góp phần đưa các tác phẩm văn học của Thâm Tâm đến với đông đảo bạn đọc. Một trong số các tác phẩm văn xuôi của nhà thơ Thâm Tâm. Nhà thơ – liệt sĩ Thâm Tâm tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12/5/1917 tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương ), tỉnh Hải Dương . Ông mất ngày 18/8/1950 trên đường đi công tác ở chiến khu Việt Bắc, được đồng đội và nhân dân địa phương mai táng tại bản Pò Noa, xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Cố nhà thơ được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt II năm 2007. Các tác phẩm văn xuôi mới sưu tầm của nhà thơ Thâm Tâm ra mắt dịp này, gồm: “Truyện ngắn Thâm Tâm”, “4 truyện cổ tích” và tập truyện ngắn chọn lọc “Tháng ba sấm đông” (NXB Văn học), “Thâm Tâm truyện vừa” (NXB Quân đội Nhân dân). Bên cạnh đó, NXB Lao động và Công ty Linh Lan liên kết ấn hành bộ ba tuyển truyện ngắn: “Gió thu hoa cúc gẫy rồi” cùng hai tiểu thuyết “Thuốc mê”, “Nỗi ân hận dài”; NXB Kim Đồng ấn hành bộ truyện thiếu nhi gồm ba cuốn: “Hai cây hoa nhài” (tập truyện cổ tích), “Thuồng luồng ở nước” (tập truyện dã sử) và “Con rùa đội vẹt” (tập truyện đồng thoại). Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều phát biểu. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều chia sẻ, Thâm Tâm được biết đến trong vai trò một nhà thơ. Ông sớm bước vào con đường văn chương và hy sinh khi còn rất trẻ, nhưng đã kịp để lại cho đời những tác phẩm có giá trị lớn nhờ hành trình dấn thân đến quên mình và đặt sứ mệnh của người viết lên tận cùng. Bên cạnh thơ ca, Thâm Tâm còn có một gia tài văn xuôi đồ sộ mà nhờ đó giới làm nghề, bạn đọc có dịp nhìn nhận lại cả một sự nghiệp đồ sộ để một lần nữa khẳng định rõ nét hơn trong việc tôn vinh tài năng, tâm huyết và khát vọng sáng tạo của ông. Ông Nguyễn Tuấn Khoa – con trai cố nhà thơ Thâm Tâm cho biết, từ năm 1999, nhà phê bình văn học Văn Giá đã sưu tầm được khá nhiều truyện và kịch của Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, lưu trữ trên microfilm, mang bản in từ Thư viện Thành Ủy Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội, tiếp cận với gia đình và tiến hành số hóa, xuất bản “Truyện ngắn Thâm Tâm” gồm 38 truyện và kịch ngắn vào năm 2000. Ông Nguyễn Tuấn Khoa, con trai duy nhất của nhà thơ Thâm Tâm kể về quá trình tìm lại tác phẩm của cha. Trong suốt ba năm qua, được sự giới thiệu của nhiều anh chị em nhà văn, gia đình ông đã tiếp cận được cơ sở dữ liệu số hóa ảnh bộ Tiểu thuyết thứ bảy tại Thư viện Quốc gia Việt Nam và bộ Phổ thông bán nguyệt san Truyền bá, Tuổi trẻ của Thư viện Quốc gia Pháp, tải về được bản ảnh của nhiều số Tiểu thuyết thứ bảy và Truyền bá. Gia đình cũng liên hệ với một số nhà sưu tầm trong ngoài nước và đã mua được một số lượng khá lớn bản gốc Tiểu thuyết thứ bảy, Tiểu thuyết thứ bảy Nguyệt san, Truyền bá, Sách của Tân Dân. Cho tới thời điểm hiện tại, được sự giúp sức của nhiều cá nhân, tổ chức, gia đình nhà thơ Thâm Tâm đã sưu tầm được 83 truyện ngắn và 29 kịch ngắn trên Tiểu thuyết thứ bảy (từ 1939 đến 1944), 27 truyện vừa đăng trên Truyền bá, cùng hai tiểu thuyết “Thuốc mê” và “Nỗi ân hận dài” do Tân Dân xuất bản. Ngoài ra, gia đình còn sưu tầm thêm được một số bài thơ của Thâm Tâm trong các ấn phẩm này. Nhà phê bình Văn Giá – người đầu tiên nghĩ tới việc sưu tầm các tác phẩm của nhà thơ Thâm Tâm chia sẻ, những năm 1998-2000, ông có nhiều chuyến đi giảng dạy và làm nhiều công việc liên quan tới các tư liệu cũ – một cơ duyên quan trọng kết nối ông với tác phẩm của Thâm Tâm. Điều khiến ông xúc động là tình cảm, trách nhiệm rất cao từ gia đình cố nhà thơ. Cũng trong mấy năm qua, gia đình cố nhà thơ đã xây dựng trang website: thamtamnet.vn, đưa lên tất cả những tác phẩm văn thơ của Thâm Tâm, cùng các chuyên mục về: Tiểu sử, bình luận, kỷ niệm, các tác phẩm thơ, truyện, kịch của Thâm Tâm; Thâm Tâm và những người bạn (Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Thâm Tâm và TTKh); các sáng tác văn học nghệ thuật về Thâm Tâm; di bút và di ảnh, hình ảnh đồng đội và quê hương Hải Dương, Cao Bằng và Hà Nội có liên quan đến Thâm Tâm… Theo gia đình, quá trình tìm kiếm và sưu tầm những tác phẩm của Thâm Tâm vẫn được tiếp tục với hy vọng sẽ tiếp cận được thêm những sáng tác của ông trong giai đoạn 1939-1945, cũng như trong thời gian ngắn ngủi sau Cách mạng Tháng Tám. Công việc này sẽ được gia đình tiến hành như tìm về những di cảo của cha ông, góp phần vào việc sưu tầm các di sản cho nền văn học nghệ thuật nước nhà. BÀI VÀ ẢNH: MAI LỮ
Ra mắt các tác phẩm văn xuôi của nhà thơ Thâm Tâm
1,001
Những món quà ý nghĩa kèm theo lời chúc Ngày của Mẹ 2023 đong đầy yêu thương sẽ khiến mẹ của bạn hạnh phúc. Ngày của Mẹ năm 2023 sẽ diễn ra vào Chủ nhật, ngày 14/5. Vào dịp này, những người con thường dành thời gian bên mẹ, đồng thời thể hiện sự hiếu thảo, lòng biết ơn qua những món quà tặng kèm lời chúc Ngày của Mẹ. Một lời chúc ấm áp sẽ sưởi ấm trái tim của mẹ. Ảnh minh họa: Pexels. Tham khảo lời chúc mừng Ngày của Mẹ bạn nhé! 1. Happy Mother’s Day! Con biết rằng chẳng có từ ngữ nào có thể diễn tả hết được những hy sinh, vất vả cùng tình yêu mà mẹ dành cho con. Nhân dịp Ngày của Mẹ 2023, con chỉ cầu mong mẹ của con luôn được bình an, khỏe mạnh. Mẹ phải sống thật lâu để cùng con tận hưởng những điều tuyệt vời mẹ nhé. Con yêu mẹ! 2. Hôm nay là ngày gì mẹ có biết không ạ? Ngày tôn vinh những người mẹ, những người tuyệt vời nhất thế gian. Và con muốn nói rằng mẹ chính là người tuyệt vời nhất, đặc biệt nhất trong lòng con. Cầu chúc cho mẹ của con luôn xinh đẹp, tươi vui, bình an và hạnh phúc. 3. Với con, mẹ luôn là người vô cùng đặc biệt, không ai có thể thay thế trên cuộc đời này. Con rất hạnh phúc vì mẹ luôn kề bên, lo lắng, quan tâm tới con. Chúc mừng Ngày của Mẹ! Chúc mẹ kính yêu của con luôn được bình an và sống thật lâu bên con mẹ nhé. 4. Có mẹ, con sẽ chẳng cần phải trưởng thành đúng không ạ? Con rất tự hào và biết ơn vì được làm con của mẹ. Nếu có kiếp sau, con vẫn nguyện được làm con của mẹ. Chúc mẹ thật vui và hạnh phúc vào ngày lễ đặc biệt dành cho những người mẹ. Happy Mother’s Day! 5. Nếu có giải thưởng “Người mẹ số 1 thế giới” thì con tin chắc rằng mẹ sẽ giành chiến thắng mỗi năm đấy ạ. Chúc mẹ của con luôn vui vẻ và hạnh phúc! Con yêu mẹ rất nhiều! Happy Mother’s Day! Mẹ luôn bên ta lúc vui lẫn buồn. Ảnh minh họa: Pexels. 6. Mẹ ơi! Mẹ có biết rằng những vết hằn trên đôi bàn tay mẹ, những vết chân chim in trên khóe mắt của mẹ đẹp đến nhường nào không? Con luôn tự hào và hãnh diện vì được làm con gái của mẹ. Cảm ơn mẹ đã sinh con ra, nuôi nấng con nên người. Trong ngày đặc biệt này – ngày của những người mẹ tuyệt vời, con chỉ cầu mong mẹ của con luôn mạnh khỏe và mãi là chỗ dựa tinh thần vững chắc của con mẹ nhé! 7. Đối với con điều hạnh phúc nhất trên cuộc đời này là được làm con của mẹ. Dù con có lớn thế nào cũng muốn làm một người con bé bỏng của mẹ. Chỉ mong sao mẹ mãi ở bên con và yêu con mãi mãi thôi. Chúc mẹ thật vui vẻ và hạnh phúc bên gia đình mình mỗi ngày mẹ nhé. 8. Nhân Ngày của Mẹ, con chúc mẹ luôn vui vẻ, sức khỏe dồi dào – luôn xinh đẹp trong mắt bố con và mọi người. 9. Chúc “ngân hàng” của con luôn luôn vui vẻ, mạnh khỏe và an yên. Mẹ có biết con luôn tự hào và vui mừng khi được làm con của mẹ không? Không phải vì mẹ luôn chiều con đâu nhé mà là vì mẹ có quá nhiều điểm tuyệt vời đấy. Chúc mừng ngày đặc biệt của mẹ! Happy Mother’s Day! 10. Nếu có một điều ước, con chỉ ước mẹ sống đời đời với con. Con chưa từng nói yêu mẹ nhưng mẹ luôn là người có vị trí vô cùng đặc biệt trong trái tim của con. Nhân dịp Ngày của Mẹ – ngày tôn vinh những người mẹ tuyệt vời, con muốn gửi đến mẹ những điều tốt đẹp nhất. Con yêu mẹ nhiều lắm mẹ ơi! Bên mẹ, chúng ta học được nhiều điều thú vị. Ảnh minh họa: Pexels. 11. Người ta tặng mẹ những món quà đắt tiền và giá trị, con chỉ có những lời chúc chân thành nhất, chúc mẹ luôn mạnh khỏe bên con. 12. Khi đi xa con mới thấy không gì bằng ở bên mẹ và chỉ mong được trở về nhà với mẹ! Con chúc mẹ mạnh khỏe, bình an, con sẽ thu xếp công việc để về thăm mẹ. 13. Khi làm mẹ, con mới thấu hiểu được những vất vả của mẹ và tình yêu mẹ đã dành cho con. Nhân Ngày của Mẹ, con gửi tới mẹ lời chúc hạnh phúc và bình an nhất. Con yêu mẹ! 14. Mẹ có biết lúc cười mẹ rất xinh đẹp và rạng ngời không? Con yêu nụ cười của mẹ nên mẹ phải cười thật nhiều mẹ nhé. Chúc mừng Ngày của Mẹ! Chúc mẹ luôn bình an và hạnh phúc để mãi là chỗ dựa vững chắc cho con. 15. Mẹ là tất cả những gì con có, mẹ là tất cả cuộc đời con.
Lời chúc Ngày của Mẹ 2023 tình cảm, ý nghĩa
876
Sáng 10/5, một số tay săn ảnh nấn ná ở nhà ga quốc tế sân bay Đà Nẵng để ghi lại những khoảnh khắc chiếc máy bay mang dáng dấp của chú cá voi ghé Đà Nẵng . Trước đó, vào chiều 9/5 khi nhận thông tin về máy bay Airbus A300-600ST (của Hãng Airbus) có hình dạng chú cá voi khổng lồ bất ngờ đáp xuống sân bay Đà Nẵng, nhiều tay săn ảnh chuyên nghiệp lập tức có mặt, kịp ghi lại hình ảnh chiếc máy bay này trước khi nó cất cánh đến Đài Loan (Trung Quốc) vào tối cùng ngày. “Cá voi” Airbus A300-600ST mang số hiệu 4Y8007 trên bầu trời Đà Nẵng. Ảnh: Dương Thanh Tùng. Thông tin từ Cảng hàng không sân bay Đà Nẵng, cho biết “cá voi” Airbus A300-600ST mang số hiệu 4Y8007 từ Kolkata của Ấn Độ đáp xuống sân bay quốc tế Đà Nẵng trong tình trạng không tải (Ferry) vào sáng 9/5. Sau khi thực hiện một số thủ tục cần thiết, phi hành đoàn và chiếc máy bay đã rời Đà Nẵng để đến Đài Loan vào chiều muộn ngày 9/5. “Cá voi” Airbus A300-600ST mang số hiệu 4Y8007 ở đường băng sân bay Đà Nẵng. Ảnh: Dương Thanh Tùng. Theo tìm hiểu của chúng tôi, máy bay khổng lồ Airbus A300-600ST còn có tên gọi là máy bay cá voi (Beluga) nằm trong số máy bay hạng nặng được thiết kế bởi hãng sản xuất Airbus, để chuyên chở các thành phần máy bay giữa những nhà máy ở châu Âu và các dây chuyền lắp ráp cuối cùng ở Toulouse (Pháp), Hamburg (Đức) và Thiên Tân (Trung Quốc). “Cá voi” Airbus A300-600ST chính thức hoạt động từ năm 1995. Sau Airbus A300-600ST, “cá voi” Airbus Beluga XL được đưa vào hoạt động toàn thời gian, với chuyến bay chính thức đầu tiên diễn ra vào ngày 9/1/2020. Kể từ khi ra đời dòng máy bay cá voi đã lôi cuốn hàng tỷ người trên thế giới bởi kiểu dáng đẹp, hấp dẫn.
Ngắm ‘cá voi’ bay trên bầu trời Đà Nẵng
337
Những tàn tích dưới nước của một con đường 7.000 năm tuổi, nối một vùng đất nhân tạo cổ xưa với một hòn đảo của Croatia đã được phát hiện. Video: Phát hiện con đường 7.000 tuổi dưới đáy biển. Các nhà khảo cổ đã có một khám phá hấp dẫn ở vùng biển ngoài khơi đảo Korčula của Croatia. Đó là một con đường cổ gắn liền với nền văn hóa hàng hải đã mất được gọi là Hvar. Những người sống ở khu vực này trong thời kỳ Đồ đá mới. Phát hiện đáng chú ý trên do nhà nghiên cứu Igor Borzić của Đại học Zadar (Croatina) thực hiện. Ông tìm ra điều này sau khi phát hiện ra các cấu trúc bất thường ở độ sâu khoảng 4,6m dưới nước ở Vịnh Gradina trên bờ biển phía tây Korčula. Đoạn video về phát hiện trên đã được Đại học Zadar công bố, cung cấp thêm thông tin chi tiết về lối đi dưới nước, được xây dựng bằng đá xếp chồng lên nhau và có chiều ngang khoảng 3,6m. Đại học Zadar đưa ra một tuyên bố, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của khám phá trên. Dọc theo con đường trên, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy những lưỡi đá lửa, rìu đá và những mảnh cối xay, giúp chúng ta hiểu thêm về những người Hvar bí ẩn đã đến khu vực này khoảng 7.000 năm trước. Nghiên cứu trên là một nỗ lực hợp tác liên quan đến nhiều nhà khoa học và tổ chức, dẫn đầu là nhà khảo cổ học Mate Parica, người đã điều tra địa điểm này trong nhiều năm. Nhiều tàn tích và đồ tạo tác dưới nước của Hvar đã được phát hiện, bao gồm cả một khu định cư được xây dựng trên một hòn đảo nhân tạo. Con đường được phát hiện mới đây đóng vai trò kết nối giữa hòn đảo này và bờ biển Korčula. Nền văn minh Hvar đã để lại nhiều đồ tạo tác, bao gồm đồ trang trí và đồ gốm, làm sáng tỏ các hoạt động canh tác tự cung tự cấp và các nghi lễ chôn cất của họ. Các cuộc khai quật không chỉ giới hạn ở các cuộc khảo sát dưới nước mà còn mở rộng đến các địa điểm cổ xưa trên đất liền. Một địa điểm như vậy là một hang động ở thị trấn Vela Luka gần đó, nơi đã liên tục bị chiếm đóng trong ít nhất 19.000 năm bởi nhiều nền văn hóa khác nhau, bao gồm cả Hvar. Nghiên cứu khảo cổ đang diễn ra hứa hẹn sẽ tiết lộ thêm những chi tiết hấp dẫn về nền văn minh hàng hải phát triển mạnh trong khu vực hàng ngàn năm trước. Theo Sputnik Hải Yến
Video: Phát hiện con đường 7.000 tuổi dưới đáy biển
461
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh quan điểm này khi chủ trì cuộc họp Hội đồng Thẩm định Quy hoạch Bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch), sáng 10/5. Bảo tồn đa dạng sinh học dưới góc độ quy hoạch quốc gia Theo Phó Thủ tướng, Việt Nam có giá trị đa dạng sinh học cao, nhiều giống loài mang tính đặc hữu được thế giới ghi nhận, cần được bảo tồn, khai thác, sử dụng bền vững. Những năm qua, chúng ta đã có nhiều quy hoạch dưới các tên gọi khác nhau để bảo tồn, quản lý, bảo vệ tài nguyên, đa dạng sinh học như quy hoạch các khu bảo tồn thiên nhiên, đất ngập nước, các di sản thiên nhiên của khu vực, thế giới…, tuy nhiên, mô hình phát triển kinh tế truyền thống lại đang chủ yếu dựa trên tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học. Nhấn mạnh, lần đầu tiên công tác bảo tồn đa dạng sinh học được tiếp cận dưới góc độ quy hoạch quốc gia, mang tính toàn diện, bao trùm, Phó Thủ tướng cho rằng Quy hoạch phải bảo đảm tính tổng thể, khái quát, vừa kế thừa, vừa tích hợp và giải quyết được các mối quan hệ với các luật, quy hoạch khác về: Bảo vệ môi trường, lâm nghiệp, thủy sản, mua bán vận chuyển sản phẩm động thực vật hoang dã,…; đồng thời thể hiện trách nhiệm của Việt Nam với việc bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới; cập nhật tư duy, quan điểm, mục tiêu mới về bảo tồn sinh học trên thế giới. Phó Thủ tướng đề nghị các ủy viên phản biện, thành viên hội đồng thẩm định, các nhà khoa học, đại diện địa phương… tiếp tục trao đổi thẳng thắn về các nội dung của dự thảo Quy hoạch – Ảnh: VGP/Minh Khôi. “Quy hoạch đang đặt ra mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học khoảng 3 triệu ha đất liền (9% diện tích đất liền) và 3-5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia, nhưng tiêu chuẩn bảo tồn mới trên thế giới cho rằng phải nâng tỉ lệ diện tích đất liền và đại dương được bảo tồn đa dạng sinh học lên 30%. Vì vậy, cách thức xử lý “bài toán” bảo tồn đa dạng sinh học ở từng quốc gia, trong đó có Việt Nam, cần phù hợp với yêu cầu phát triển”, Phó Thủ tướng nêu ví dụ và cho rằng Quy hoạch phải thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển, có tầm nhìn dài hạn, là công cụ định hướng chủ trương ưu tiên đầu tư cho bảo tồn đa dạng sinh học, trên quan điểm “phát triển dựa trên bảo tồn, bảo tồn vì mục đích phát triển”. Nhiều áp lực đối với các hệ sinh thái, khu bảo tồn Tại cuộc họp, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã báo cáo kết quả thực hiện Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định 45/QĐ-TTg ngày 8/1/2014). Theo đó, đến năm 2020, cả nước có 178 khu bảo tồn (vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài-sinh cảnh, khu bảo vệ cảnh quan) với diện tích 2,66 triệu ha; tại vùng Nam Trung Bộ có 3 hành lang đa dạng sinh học cấp tỉnh đã được thành lập và quản lý với tổng diện tích 298.146 ha; đã phát hiện, ghi nhận 43.500 loại động vật trên cạn và dưới nước; 17.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước (không kể 2.200 loài nấm lớn); số lượng các loài mới được phát hiện không ngừng tăng nhanh; bảo tồn được 14.000 nguồn gen cây trồng, vật nuôi… Công tác bảo tồn đa dạng sinh học hiện nay đang chịu áp lực từ những thay đổi về dân số làm tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên; việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, đất ven biển (đầm phá, bãi triều) phục vụ phát triển kinh tế; tác động của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu… Hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên bị suy thoái hoặc giảm diện tích. Các loại hoang dã, đặc biệt số lượng của các loài nguy cấp bị giảm nghiêm trọng. Một số nguồn gen vật nuôi có số lượng cá thể quá ít. Nguồn lực con người, tài chính, cơ sở vật chất để thực hiện đa dạng sinh học còn hạn chế. GS.TS Nguyễn Xuân Huấn, Giảng viên cao cấp Đại học quốc gia Hà Nội đề nghị ưu tiên nguồn lực đầu tư cho các khu bảo tồn mới thiết lập… – Ảnh: VGP/Minh Khôi. Hài hòa giữa bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học Quy hoạch Bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 áp dụng cách tiếp cận hệ sinh thái, lồng ghép các nội dung về biến đổi khí hậu, dự báo xu thế biến đổi và nhu cầu bảo tồn đa dạng sinh học trong tương lai… Quy hoạch kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên đa dạng sinh học, nhằm ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi đà suy giảm, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo tồn tại chỗ với bảo tồn chuyển chỗ; tăng cường công tác bảo tồn đa dạng sinh học ngoài phạm vi các khu bảo tồn thiên nhiên; hạn chế tối đa việc phá hủy hệ sinh thái tự nhiên, thay đổi mục đích sử dụng đất tại các khu vực có hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ;…. Quy hoạch cũng tăng thêm 3 đối tượng bảo tồn đa dạng sinh học gồm: Khu vực đa dạng sinh học cao, cảnh quan sinh thái quan trọng và đất ngập nước quan trọng. Quy hoạch nhằm mục tiêu: Gia tăng diện tích, phục hồi, đảm bảo tính toàn vẹn và kết nối các hệ sinh thái tự nhiên; quản lý bảo tồn hiệu quả các loài hoang dã, các nguồn gen quý hiếm; xây dựng và phát triển hệ thống khu bảo tồn đa dạng sinh học, khu vực đa dạng sinh học cao, cảnh quan sinh thái quan trọng, vùng đất ngập nước quan trọng góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững đất nước. Cụ thể, đến năm 2030 diện tích các khu bảo tồn trên cạn đạt gần 3 triệu ha (tương đương 9% diện tích đất liền), tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt 3%-5% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia. Số khu bảo tồn tăng từ 178 lên 256 đơn vị, trong đó thúc đẩy các khu bảo tồn đất ngập nước và biển. Đồng thời, thành lập các cơ sở nuôi trồng loài nguy cấp, quý hiếm cần bảo vệ, tăng cường năng lực cứu hộ động vật hoang dã; lưu giữ bảo quản giống cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật và nấm đặc hữu, nguy cấp, quý hiếm, có giá trị đặc biệt về khoa học, y tế, kinh tế, sinh thái, cảnh quan, môi trường hoặc văn hóa-lịch sử… Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Điện Biên Phạm Đức Toàn cho rằng bảo tồn đa dạng sinh học chỉ thực chất, hiệu quả khi gắn với cải thiện sinh kế, mức sống của người dân địa phương – Ảnh: VGP/Minh Khôi. Đánh giá kỹ tác động của Quy hoạch đối với tăng trưởng kinh tế-xã hội Tại cuộc họp, các ủy viên phản biện, thành viên hội đồng thẩm định, các nhà khoa học, đại diện địa phương… tiếp tục trao đổi thẳng thắn về các nội dung của dự thảo Quy hoạch: Cơ sở khoa học, tư duy, phương pháp luận, tầm nhìn, giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, mở rộng các khái niệm về bảo tồn, giá trị cảnh quan sinh thái tự nhiên, khu bảo tồn tự nhiên… Các ý kiến cũng làm rõ thêm nhiệm vụ, giải pháp, lộ trình tổ chức thực hiện, cũng như định hướng tiếp tục cập nhật, phát triển nội dung của Quy hoạch. GS.TS Nguyễn Xuân Huấn, Giảng viên cao cấp Đại học quốc gia Hà Nội đề nghị cần nâng diện tích các khu bảo tồn ở những vùng đa dạng sinh học, có hệ sinh thái quan trọng; ưu tiên nguồn lực đầu tư cho các khu bảo tồn mới thiết lập… Ông Võ Nguyên Chương, Phó Giám đốc Sở TN&MT Đà Nẵng cho rằng đánh giá kỹ về tác động của Quy hoạch đối với tăng trưởng kinh tế-xã hội; số hóa dữ liệu để các địa phương sử dụng khi điều chỉnh, cập nhật đồng bộ với các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Nêu thực tế những nơi có tỉ lệ che phủ rừng cao thì người dân rất nghèo, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Điện Biên Phạm Đức Toàn kiến nghị việc bảo tồn đa dạng sinh học phải gắn liền với việc tạo sinh kế, nâng cao mức sống cho người dân địa phương, khai thác hiệu quả giá trị kinh tế do đa dạng sinh học đem lại, trong đó có việc thực hiện Quy hoạch mới thực chất. Phó Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu thay đổi quan điểm, có tư duy mới trong bảo tồn, khai thác, sử dụng tài nguyên đa dạng sinh học, hài hòa với phát triển kinh tế-xã hội – Ảnh: VGP/Minh Khôi. “Đánh thức” giá trị cảnh quan, tài nguyên đa dạng sinh học Ghi nhận các ý kiến đóng góp, Phó Thủ tướng nhấn mạnh, đây là Quy hoạch bao trùm lãnh thổ đất liền, vùng biển quốc gia nên có liên quan chặt chẽ với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch đất đai, quy hoạch biển cũng như các quy hoạch ngành nông nghiệp, công nghiệp, môi trường, y tế, thủy sản, giao thông vận tải, quốc phòng, an ninh, quy hoạch của địa phương… Vì vậy, Quy hoạch phải bảo đảm đồng bộ, thống nhất, không xung đột, chồng chéo với các quy hoạch khác. Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ TN&MT, đơn vị tư vấn cần đổi mới phương pháp tiếp cận, quan điểm, tư duy xây dựng Quy hoạch, trong đó xác định chính xác vai trò, vị thế của tài nguyên đa dạng sinh học, phương thức khai thác, sử dụng bền vững cho phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường, cân bằng hệ sinh thái, bảo đảm môi trường sống bền vững. Đặc biệt, Quy hoạch phải đánh giá được tác động đến việc phát triển kinh tế-xã hội, và ngược lại. Nhấn mạnh quan điểm “bảo tồn để phát triển, phát triển dựa vào bảo tồn”, Phó Thủ tướng cho rằng Quy hoạch cần “vừa tĩnh, vừa động” hoặc “vừa đóng, vừa mở”. Thứ nhất là nhóm mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, giải pháp có cơ sở pháp lý chắc chắn, đã được triển khai trên thực tế. Thứ hai là bộ công cụ, tiêu chí mang tính mở, linh hoạt để xác định những giá trị tài nguyên đa dạng sinh học tại các khu vực, hệ sinh thái cần bảo tồn, đồng thời phục vụ phát triển kinh tế, gắn với sinh kế người dân. Phó Thủ tướng phân tích thêm: Nếu bảo tồn chỉ đơn giản là khoanh lại và giữ nguyên thì không phát triển được kinh tế, ngược lại chỉ tập trung phát triển kinh tế thì sẽ không thể bảo tồn hiệu quả. Do vậy, Quy hoạch phải hài hòa hai mục tiêu này, trong đó bảo tồn phải thay đổi trước một bước, “đánh thức” giá trị cảnh quan, tài nguyên đa dạng sinh học để quản lý, khai thác, sử dụng triệt để, bền vững bằng các dịch vụ sinh thái mang lại hiệu quả kinh tế cao. “Đối với các hệ sinh thái như rừng đồng bằng, đất ngập nước ven biển đang bị suy thoái, suy giảm thì phải có công cụ, tiêu chí để xác định, chứng minh giá trị kinh tế, sinh thái, ứng phó biến đổi khí hậu cao hơn nhiều so với việc chuyển đổi sang làm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm khu công nghiệp… thì mới bảo tồn được”, Phó Thủ tướng nêu ví dụ. Trong đô thị có rừng, trong rừng có đô thị Phó Thủ tướng cũng gợi mở những định hướng lớn, quan điểm, tư duy mới về quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học như: Trong đô thị cũng có thể có các khu bảo tồn như rừng, hồ, đất ngập nước, trong các khu bảo tồn cũng có thể hình thành đô thị, thậm chí trong một tòa nhà cũng có thể bảo tồn một hệ sinh thái đầy đủ… “Có như vậy mới có thể gắn bảo tồn đa dạng sinh học với phát triển, khai thác dịch vụ xanh, kinh tế xanh, du lịch…, bảo tồn vì nhân sinh, hướng tới đáp ứng tiêu chuẩn mới về bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới”, Phó Thủ tướng nói. Cùng với việc tiếp thu, giải trình đầy đủ các ý kiến đóng góp cho dự thảo Quy hoạch, Phó Thủ tướng giao Bộ TN&MT cập nhật đầy đủ, chính xác số liệu có kiểm chứng, trích dẫn đầy đủ; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản trị các lớp dữ liệu mang tính liên ngành về bảo tồn đa dạng sinh học; xác định một số dự án ưu tiên để khảo sát, điều tra, triển khai bảo tồn gắn với phát triển kinh tế-xã hội của địa phương…
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Bảo tồn để phát triển, phát triển dựa vào bảo tồn
2,328
Kiến Honeypot, hay còn gọi là kiến mật, là những công nhân chuyên biệt có công việc duy nhất là hút mật hoa cho đến khi chúng trở thành kho chứa mật ong sống. Bạn có biết rằng ong mật không phải là loài côn trùng duy nhất có khả năng tạo ra sản phẩm tự nhiên có vị ngọt, sánh và có màu từ nâu vàng mà chúng ta gọi là mật ong? Một số loài ong khác, cũng như ong vò vẽ và thậm chí cả ong bắp cày được biết là tạo ra món ăn có đường, nhưng có một loài côn trùng khác thường nhất cũng có thể chuyển mật hoa thành mật ong đó là kiến honeypot. Với khả năng này, chúng thậm chí còn đóng vai trò như “một kho lưu trữ lương thực” cho đàn kiến nói chung khi những nguồn thức ăn khác dần khan hiếm. Kiến Honeypot. Theo đó, các con kiến mật thợ tạo ra mật bằng cách ăn mật (hoa) từ nhiều loại thực vật khác nhau, các loại mật đó sau khi được kiến ăn sẽ dần chuyển hóa thành mật kiến và được lưu trữ ở bụng kiến. Kiến thợ sẽ cứ ăn và tạo mật cho đến khi phần bụng chứa mật phình to đến mức chúng không thể di chuyển được nữa, lộ rõ dòng mật ngọt màu hổ phách đầy hấp dẫn. Đến lúc đó, những con kiến thợ này sẽ chỉ có thể tự treo lơ lửng cơ thể của chúng ở phía trên tổ kiến. Phần mật này sẽ được tiết ra từ một bộ phận ở khoang bụng cho đàn kiến thưởng thức bất cứ khi nào chúng cần. Hầu hết các loài kiến mật được tìm thấy ở các vùng khô hạn, vùng sa mạc hoặc bán khô hạn ở Úc , Mỹ , Mexico và châu Phi, những khu vực có khí hậu khắc nghiệt và nguồn lương thực khan hiếm. Chính vì vậy, việc tạo và lưu trữ mật chính là cách thích nghi tốt nhất để tồn tại trong những môi trường này. Kiến mật được coi như “một nguồn thức ăn quý giá” đến nỗi các đàn kiến khác đôi khi sẽ tấn công để lấy mật của chúng. Thổ dân Úc cũng rất thích tìm kiếm và thu thập kiến mật. Vậy mật ong kiến so với mật ong rừng như thế nào? Chà, theo một nghiên cứu mà chúng tôi có thể tìm thấy, mặc dù thoạt nhìn hai loại này trông rất giống nhau, nhưng mật ong của kiến có độ đặc ít sánh hơn so với mật ong. Nó ngọt, nhưng không hoàn toàn ngọt như món mà con người chúng ta vẫn quen dùng và có vị chua không được phát hiện trong mật ong mật. Một sự khác biệt đáng kể khác giữa hai loại mật ong là mật ong kiến có lượng glucose cao hơn so với fructose trong mật ong, trong khi mật ong mật thì ngược lại. Cả hai giống đều có nhiều chất chống oxy hóa.
Honeypot – Loài kiến duy nhất tiết mật trên thế giới
507
Nhiều nhà khoa học tin rằng vật thể lạ rơi thủng mái nhà, đáp xuống giữa phòng ngủ một người Mỹ vài ngày trước là kho báu vũ trụ vô giá từ sao chổi cổ đại Halley. Sau khi sự việc một gia đình ở thị trấn Hopewell, New Jersey – Mỹ bị một vật thể lạ tấn công vào hôm 8-5 được lan tỏa thông qua các báo địa phương và cộng đồng khoa học, suy luận đầy bất ngờ về nguồn gốc của nó đã được đưa ra. Tảng đá sẫm màu có kích thước khoảng 10×15 cm vẫn đang được phân tích nhưng theo tiến sĩ Derrick Pitts, nhà thiên văn học trưởng của Viện Franklin ở Philadenphia (Mỹ), khả năng cao nhất nó chính là một mảnh sao băng Eta Aquarid. “Kho báu vũ trụ” vừa hạ cánh xuống ngôi nhà ở Mỹ – Ảnh: SỞ CẢNH SÁT HOPEWELL. Mưa sao băng Eta Aquarids được tạo nên khi Trái Đất đi qua chiếc đuôi đá bụi của sao chổi Halley, đang diễn ra nhưng hầu như không thể quan sát được bởi trận mưa sao băng này có đêm cực đại lại gần trùng khớp với ngày trăng tròn, khiến các sao băng hoàn toàn bị khỏa lấp bởi ánh trăng. Tuy nhiên rất có thể gia đình người Mỹ nói trên đã cực kỳ may mắn khi một mảnh Halley quyết định chọn nhà họ để hạ cánh. Đó phải là một mảnh lớn trong chiếc đuôi đá bụi, nên vẫn còn một chút sót lại dù bị bầu khí quyển địa cầu thiêu đốt. Theo Live Science , vật thể lạ đã gây một chút thiệt hại cho gia đình bởi làm thủng mái nhà và hư hại một số tài sản khi đáp xuống giữa một phòng ngủ. Rất may thời điểm đó không có ai ở nhà. Nhưng nếu nó đúng là một sao băng, đó sẽ là một kho báu không tưởng. Bởi lẽ, sao chổi Halley, ước tính khoảng 4-5 tỉ tuổi, là một trong những vật thể cổ xưa nhất hệ Mặt Trời mà các nhà khoa học luôn ao ước chạm đến. Vật chất từ những vật thể cổ đại, nguyên sơ này có thể giúp giải đáp nhiều câu hỏi lớn xung quanh việc hình thành của hệ Mặt Trời và chính Trái Đất chúng ta, cũng như cung cấp các manh mối về việc nước và các hợp chất hóa học cần cho sự sống khác đến từ đâu, thậm chí chính sự sống đến từ đâu. Một số cơ quan vũ trụ thế giới đã chi tiền khủng để lấy mẫu từ các vật thể cổ đại, ví dụ NASA với OSIRIS-REx trị giá 800 triệu USD làm nhiệm vụ lấy mẫu tiểu hành tinh Bennu có độ tuổi tương đương. Vì vậy, nếu vật thể lạ rơi xuống phòng ngủ này là một mảnh sao chổi Halley 5 tỉ tuổi, nó sẽ là một kho báu có giá trị vô song. Theo Science Alert, báo cáo sơ bộ từ nhà chắc trách địa phương cho biết vật thể có thể là mảnh sao chổi Halley này có vẻ có thành phần kim loại phong phú, vì nó lấp lánh ánh kim. Dù chỉ to cỡ quả bưởi nhưng nó nặng tận 1,8 kg.
Hoảng hồn vì ‘kho báu vũ trụ 5 tỉ tuổi’ hạ cánh giữa phòng ngủ
540
Một nhà khoa học Australia cho biết yếu tố xác suất là nguyên nhân hàng đầu gây ra những vụ mất tích bí ẩn ở khu vực có biệt danh Tam giác quỷ Bermuda. Ảnh minh họa. (Nguồn: Getty Images). Trong thế kỷ trước, khoảng 50 con tàu và 20 chiếc máy bay đã biến mất tại khu vực được mệnh danh là Tam giác quỷ Bermuda (thực tế là một khu vực không cố định nằm ở phía Bắc Đại Tây Dương, với một điểm của tam giác nằm gần Bermuda, vùng lãnh thổ Hải ngoại của Anh ). Các vụ tai nạn này đều có một điểm chung là không có cái kết rõ ràng, và chúng là nguyên nhân khiến thuyết âm mưu liên quan tới Tam giác quỷ Bermuda tăng vọt. Đã có những hướng giả thuyết cho rằng tàu thuyền, máy bay mất tích là do tác động bởi các công nghệ còn sót lại từ lục địa huyền thoại Atlantis, từ những sinh vật khổng lồ, thậm chí do “đĩa bay” UFO, hoặc các hiện tượng và sức mạnh siêu nhiên mà con người không thể giải thích được. Trong nỗ lực đánh tan những quan điểm này, nhà khoa học người Australia Karl Kruszelnicki, một giảng viên tại Đại học Sydney, đã quyết định lý giải hiện tượng mất tích dựa trên cơ sở khoa học. Đầu tháng Năm vừa qua, ông chia sẻ với trang tin BGR rằng bất chấp việc có nhiều vụ tai nạn, Tam giác quỷ Bermuda thực tế chỉ có tỷ lệ máy bay và tàu thuyền mất tích ngang bằng. Theo ông, Tam giác quỷ Bermuda trải trên một diện tích quá rộng lớn, lên tới 700.000km vuông biển, và là khu vực có lưu lượng phương tiện giao thông qua lại cực lớn. Vì thế, số lượng các vụ mất tích ở đây không hề là quá nhiều. “Tam giác Bermuda nằm gần đường Xích đạo, gần một khu vực giàu có của thế giới – nước Mỹ – nên rất đông phương tiện qua lại. Theo phân tích của công ty Lloyd’s ở London (Anh) và Lực lượng Tuần duyên Mỹ, số lượng phương tiện mất tích trong khu vực Tam giác Bermuda bằng mọi nơi khác trên thế giới, nếu xét theo tỷ lệ phần trăm,” ông chia sẻ với tờ Mirror. Kruszelnicki còn chỉ ra rằng đa phần các vụ tai nạn ở khu vực này đều có nguyên nhân thời tiết xấu, hoặc thậm chí là từ những quyết định sai lầm của người điều khiển phương tiện đã bị mất tích. Ông lấy ví dụ là vụ mất tích của Chuyến bay số 19, sự kiện đã châm ngòi cho các giả thuyết rùng rợn về Tam giác quỷ Bermuda. Chuyến bay số 19 liên quan tới một phi đội 5 chiếc máy bay ném ngư lôi TBM Avenger của Hải quân Mỹ. Phi đội này cất cánh từ Fort Lauderdale, Florida, vào ngày 5/12/1945 để thực hiện một nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu thường lệ, dự kiến kéo dài 2 giờ đồng hồ, trên khu vực Đại Tây Dương. Tuy nhiên không lâu sau khi tới Tam giác quỷ Bermuda, cả phi đội máy bay đã mất liên lạc với căn cứ. Bất chấp nỗ lực tìm kiếm kéo dài, không một bằng chứng hay mảnh vỡ nào của những chiếc máy bay được tìm thấy. Trong vụ này, Kruszelnicki chỉ ra rằng nguyên nhân có thể do các phi công điều khiển máy bay quá non kinh nghiệm. Thực tế trong số 14 thành viên phi hành đoàn của 5 chiếc máy bay, chỉ 1 người duy nhất là phi công có kinh nghiệm. Nhưng hồ sơ bay cho thấy người này lại có lịch sử đưa ra nhiều quyết định tồi. Chưa hết, thời tiết trong ngày xảy ra vụ mất tích của Chuyến bay số 19 rất tồi tệ, khi trời có bão và biển động với sóng cao tới 5m. Hồ sơ về hoạt động trao đổi qua sóng vô tuyến còn lưu lại cho tới nay cho thấy viên phi công chỉ huy phi đội là Thiếu úy Charles Taylor và những người khác đã bất đồng với nhau về việc nên bay về hướng nào, trước khi cả nhóm mất tích. Taylor tin rằng cả nhóm đang bay trên khu vực Florida Keys nên đã yêu cầu phi đội rẽ về phía Đông, thay vì phía Tây, và do đó khiến cả nhóm bay sâu vào Đại Tây Dương hơn là về phía đất liền. Và do khu vực biển nơi những chiếc máy bay bị mất tích khá sâu nên chắc chắn sẽ rất khó để tìm thấy bất kỳ mảnh vỡ nào, nếu như chúng đều đã chìm hết xuống đáy biển. Điều thú vị là quan điểm của Kruszelnicki cũng giống với quan điểm của Hiệp hội Đại dương và Khí quyển Quốc gia Mỹ (NOAA). Hồi năm 2010, NOAA từng tuyên bố: “Không có bằng chứng nào cho thấy những vụ mất tích bí ẩn ở Tam giác quỷ Bermuda xảy ra với tần suất lớn hơn so với bất kỳ khu vực rộng lớn, có nhiều phương tiện qua lại nào khác, trên đại dương.” NOAA cũng cho biết các yếu tố về môi trường có thể giải thích cho hầu hết các vụ mất tích ở Tam giác quỷ Bermuda, ví dụ như xu hướng thay đổi thời tiết rất cực đoan của Dòng hải lưu vùng Vịnh, số lượng đảo nhiều ở khu vực Biển Caribbe khiến hoạt động đi lại tại đây rất phức tạp, bên cạnh những bằng chứng cho thấy khu vực Tam giác quỷ Bermuda có khả năng gây nhiễu loạn từ trường cho các thiết bị định hướng. Cụ thể, khi tới đây, la bàn trong các thiết bị định hướng thường quay theo hướng Bắc thực (hướng Bắc trắc địa), thay vì quay theo hướng Bắc từ, gây nhầm lẫn trong việc tìm đường. “Hải quân Mỹ và Lực lượng Tuần duyên Mỹ cho rằng không có lời giải thích siêu nhiên nào cho các thảm họa trên biển,” NOAA nói thêm. “Kinh nghiệm của họ cho thấy rằng sức mạnh tổng hợp của tự nhiên và khả năng tính toán sai lầm của con người thường đưa tới những kết quả vượt xa cả những thứ khó tin nhất chỉ có trong khoa học viễn tưởng.” Kruszelnicki thường xuyên thu hút sự chú ý của công chúng vì đã nêu quan điểm khoa học cho vấn đề Tam giác quỷ Bermuda. Ông từng thu hút truyền thông một lần vào năm 2017 và sau đó thêm lần nữa vào năm 2022, trước khi xuất hiện trở lại vào năm nay. Lần nào ông cũng kiên định với cùng một quan điểm: những con số không biết nói dối và không có bí ẩn siêu nhiên nào ở Tam giác quỷ Bermuda./.
Nhà khoa học Australia tuyên bố đã có lời giải về Tam giác quỷ Bermuda
1,143
Theo The Guardian, các nhà khoa học từ Viện Nghiên cứu Rừng, Tuyết và Cảnh quan Liên bang Thụy Sĩ (WSL) đã phát hiện các loài vi khuẩn và nấm có thể tiêu hóa hiệu quả nhiều loại nhựa không phân hủy sinh học khác nhau ở nhiệt độ chỉ 15 độ C. Để tìm ra chúng, nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi tiến sĩ Joe Ruthi đã lấy mẫu 19 chủ vi khuẩn và 15 loại nấm phát triển trên nhựa nằm tự do hoặc bị chôn lấp trong 1 năm dưới lòng đất những nơi lạnh giá như Greenland, quần đảo Svalbard cực Bắc Na Uy và Thụy Sĩ, nuôi cấy đơn chủng trong phòng thí nghiệm và để chúng thử “ăn” các loại nhựa polymer khác nhau. Greenland sở hữu các vi sinh vật có khả năng phân hủy nhựa ở nhiệt độ thấp – Ảnh: NASA/REUTERS. Kết quả được công bố trên tạp chí Prontiers in Microbiology cho thấy ở 15 độ C, 11 loại nấm và 8 vi khuẩn trong số đó có thể tiêu hóa polyester-polyurethane phân hủy sinh học (PUR); trong khi 14 loại nấm và 3 vi khuẩn có tác động tốt đến hai hỗn hợp polybutylene adipate terephthalate (PBAT) và axit polylactic (PLA). Rất tiếc chúng không tiêu hóa nổi một loại nhựa phổ biến trên thị trường khác là polyetylene (PE). Những vi khuẩn và nấm này có thể tạo nên bước đột phá trong lĩnh vực tái chế ứng dụng vi sinh vật, giúp giảm chi phí và gánh nặng môi trường. Trước đây một số vi sinh vật có thể phân hủy nhựa từng được tìm thấy, nhưng chúng thường chỉ hoạt động được ở nhiệt độ trên 30 độ C, đồng nghĩa với việc sử dụng chúng đòi hỏi đốt nhiên liệu để sưởi ấm, gây tốn kém và không thực sự thân thiện với môi trường do giải phóng carbon.
Tìm ra vi sinh vật tiêu hóa nhựa ở nhiệt độ thấp
318
Chiều 10/5, đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội cùng các đồng chí Thường trực Thành ủy Hà Nội đã đi khảo sát công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị làng cổ Đường Lâm và khu di tích Đền Và trên địa bàn thị xã Sơn Tây. Thường trực Thành ủy Hà Nội thăm, trò chuyện với người dân tại làng cổ Đường Lâm. (Ảnh: DUY LINH). Di tích kiến trúc-nghệ thuật cấp quốc gia Làng cổ ở Đường Lâm là một quần thể di tích với 50 di tích có giá trị được xếp hạng, gần 100 ngôi nhà cổ có niên đại hơn 100 năm và gần 1.000 ngôi nhà truyền thống nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Năm 2013, Ủy ban nhân dân thành phố đã phê duyệt Dự án Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Làng cổ ở Đường Lâm. Năm 2014, thành phố tiếp tục ban hành Đề án “Đầu tư tôn tạo, bảo tồn và phát huy giá trị di tích làng cổ ở xã Đường Lâm”. Từ đó đến nay, 13 dự án với tổng mức đầu tư là 178,029 tỷ đồng đã được thực hiện. Hiện vẫn còn năm nội dung chưa được triển khai thực hiện hoặc chưa hoàn thành. Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích Làng cổ ở Đường Lâm và các di tích khác trên địa bàn, thị xã Sơn Tây đã đề xuất, kiến nghị với thành phố: Đẩy nhanh tiến độ quy hoạch phân khu đô thị ST4; hướng dẫn thị xã Sơn Tây thực hiện điều chỉnh Quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Làng cổ ở Đường Lâm… Thị xã cũng kiến nghị thành phố hỗ trợ kinh phí, cho phép và hỗ trợ thực hiện Quy hoạch chi tiết xây dựng bảo tồn và phát huy giá trị một số di tích gắn với phát triển dịch vụ, du lịch thị xã Sơn Tây bao gồm các nội dung như: Mở rộng khuôn viên và đầu tư hạ tầng cụm di tích đền vua Phùng Hưng, Đền và lăng vua Ngô Quyền, khu di tích Đền Và, Văn Miếu, Thành cổ; xây dựng cụm công viên sông Tích kết nối các điểm di tích bằng đường thủy và đường bộ… Lãnh đạo thành phố Hà Nội khảo sát công tác quản lý, bảo tồn di tích đền và lăng Ngô Quyền.(Ảnh: DUY LINH). Tại buổi khảo sát, lãnh đạo thành phố đã thị sát chi tiết các công trình, đánh giá ưu điểm, hạn chế; xem xét cụ thể các giải pháp, đánh giá các khả năng giải quyết những vấn đề đặt ra, cơ hội, điều kiện để tạo sức sống mới cho các di tích. Thay mặt Thường trực Thành ủy trao đổi với báo chí về kết quả buổi khảo sát, Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Phong khẳng định, Làng cổ ở Đường Lâm và các di tích trên địa bàn thị xã Sơn Tây có giá trị văn hóa lịch sử to lớn, trong đó làng cổ ở Đường Lâm là di tích hiếm có, thuộc dạng độc nhất vô nhị của cả nước. Buổi khảo sát đã giúp Thường trực Thành ủy đánh giá được tình hình công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị của những di tích này thời gian qua; làm rõ từ thực tiễn những ưu điểm, hạn chế. Đây là cơ sở rất quan trọng để lãnh đạo thành phố xem xét, chỉ đạo trước hết là công tác quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch, đồng thời xây dựng các cơ chế nhằm đạt được ba mục tiêu, vừa bảo tồn, gìn giữ những giá trị vô giá của di tích; vừa phát huy tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội, nhất là du lịch, dịch vụ; đồng thời nâng cao điều kiện sống, bảo đảm sinh kế, gia tăng thu nhập cho người dân.
Phát huy giá trị làng cổ Đường Lâm bảo đảm ba mục tiêu
672
Bức ảnh do Elias Chasiotis chụp năm 2019 ở Qatar. Ảnh: Elias Chasiotis. Bức ảnh là sự kết hợp giữa nhật thực và hiệu ứng khúc xạ ánh sáng với bề mặt đại dương, bẻ cong ánh sáng của Mặt Trời . Năm 2019, Elias Chasiotis từng chụp thành công một cảnh tượng đắt giá là “chiếc sừng quỷ” trên đại dương. Tấm ảnh gây ấn tượng bởi khoảnh khắc Mặt Trời bị Mặt Trăng che khuất một phần vào lúc bình minh, tạo ra hình ảnh Mặt Trời nhô lên khỏi mặt nước trông giống sừng quỷ. Vào thời điểm đó, tấm ảnh được lan truyền rộng khắp trên Internet vì chụp được một hiện tượng rất hiếm gặp ở tự nhiên – nhật thực kết hợp với hiệu ứng khúc xạ, làm uốn cong ánh sáng gần bề mặt đại dương. Bức ảnh được nhiếp ảnh gia chụp trong chuyến du lịch đến Al Wakrah, Qatar , ngày 26/12/2019. Ông đã lên kế hoạch và đợi đúng thời điểm bình minh trên biển với hy vọng sẽ chụp được những hình ảnh ấn tượng về hiện tượng nhật thực cuối cùng của thập kỷ. “Tôi đã rất lo lắng vì bầu trời rất âm u và mây mù khắp nơi”, Chasiotis nói với NBC . May mắn là nhiếp ảnh gia vẫn đợi được khoảnh khắc lịch sử khi Mặt Trời màu đỏ ló dạng từ đường chân trời và dần nổi lên trên mặt biển. Điều đáng kinh ngạc là Mặt Trời lại bị che khuất một phần bởi Mặt Trăng cắt qua trong quá trình nhật thực. Theo NASA, Mặt Trăng đã chặn cả hai mặt trên và dưới của Mặt Trời, chỉ để lộ hai phần nhọn, tạo ra hình ảnh như hai chiếc sừng trồi lên từ mặt biển. “Khi Mặt Trời mọc, nó bị Mặt Trăng che khuất và chia thành hai mảnh giống như chiếc sừng”, nhiếp ảnh gia Elias Chasiotis chia sẻ. Nhiếp ảnh gia còn kiên nhẫn đợi đến khi Mặt Trời mọc lên cao, xuất hiện hình lưỡi liềm đỏ độc đáo. “Chiếc sừng” dần mọc lên từ đường chân trời. Ảnh: Elias Chasiotis. Không chỉ vậy bức ảnh còn là sự kết hợp giữa nhật thực và hiệu ứng khúc xạ ánh sáng với bề mặt đại dương làm bẻ cong ánh sáng của Mặt Trời, tạo cảm giác “sừng quỷ” cách đường chân trời một khoảng. “Đây là cảnh bình minh ngoạn mục nhất mà tôi từng thấy”, Elias Chasiotis bật thốt. Với hình dạng chiếc sừng màu đỏ, bức ảnh của nhiếp ảnh gia được đặt tên là “evil sunrise” (bình minh ác quỷ). Trên thực tế, đây là hiện tượng Fata Morgana, một dạng ảo ảnh khiến vật thể trông như nằm phía trên đường chân trời, có thể được nhìn thấy trên đất liền hoặc biển. Theo NASA, hiện tượng này xảy ra khi các tia sáng bị bẻ cong lúc chúng đi qua các lớp không khí với nhiệt độ khác nhau. Theo Explorersweb , hiện tượng Fata Morgana được đặt theo tên phù thủy trong truyền thuyết Arthurian, chuyên tạo ra ảo ảnh về những hòn đảo không tồn tại lơ lửng trên trời để đánh lừa các thủy thủ. Mặt Trời vẫn ở hình dạng lưỡi liềm khi đã rời khỏi đường chân trời. Ảnh: Elias Chasiotis. Đây là dạng ảo ảnh hiếm gặp và phức tạp. David Braine, nhà khí tượng học của BBC giải thích hiện tượng này xảy ra do hiệu ứng nghịch nhiệt, nơi không khí lạnh gần mặt biển, ở trên lại có lớp không khí ấm hơn. Đến khi Mặt Trời di chuyển khỏi đường chân trời, Elias Chasiotis cho biết ông vẫn nhìn thấy hình dạng lưỡi liềm của nó giữa bầu trời đầy mây mù. Vào thời điểm đó tấm ảnh “bình minh ác quỷ” đã được NASA bình chọn là “Bức ảnh thiên văn trong ngày”.
Câu chuyện đằng sau bức ảnh ‘sừng quỷ’ nổi trên biển
638
Robot thăm dò Sao Hỏa Curiosity của NASA vừa gửi về Trái Đất một hình ảnh như chụp từ tàn tích của một nền văn minh cổ xưa. Theo SciTech Daily, đó là một tảng đá kỳ dị được đặt tên là Terra Firme, trông y hệt một quyển sách đang mở, được Curiosity chụp vào ngày 15-4-2023, ngày thứ 3.800 của sứ mệnh được nối dài bất tận của nó. Quyển sách đá bí ẩn được phát hiện trên Sao Hỏa – Ảnh: NASA. “Quyển sách” này rất nhỏ, bề ngang chỉ khoảng 2,5 cm, được các nhà khoa học NASA phân tích kỹ lưỡng. Họ kết luận rằng đó không phải quyển sách từ một nền văn minh ngoài hành tinh nào, mà là kết quả của quá trình nước lắng đọng các khoáng chất cứng, cộng thêm sự xói mòn do gió, điêu khắc nên một hình thù kỳ dị. Nhưng dù như vậy, phát hiện này vẫn vô tình quý giá: Quyển sách đá có thể không phải sách thật và không phải do người Sao Hỏa tạo ra, nhưng nó là bằng chứng rõ ràng, mới mẻ nhất về một thế giới đầy nước trên Sao Hỏa, vốn có thể đã từng có sự sống. Đây cũng là một bước tiến mới trong nhiệm vụ của Curiosity, bao gồm khám phá khu vực rộng lớn mà tảng đá thuộc về – miệng hố khổng lồ Gale – phân tích khí hậu, địa chất và tiềm năng sinh sống. Tàu đổ bộ Curiosity – Ảnh: NASA. Curiosity là một tàu đổ bộ dạng xe tự hành, có thể hoạt động như một robot và mang trong bụng một phòng thí nghiệm mini để phân tích các mẫu vật. Trên cơ thể nó cũng trang bị nhiều phương tiện khảo sát bao gồm chiếc máy ảnh Mars Hand Lén Imager (MAHLI) đặt trên cánh tay, chính là thứ đã chụp được quyển sách đá bí ẩn.
NASA công bố ảnh sốc: “Quyển sách đá” bí ẩn trên Sao Hỏa
319
Sa mạc có ở khắp nơi trên thế giới, ngay cả cạnh đại dương. Nhưng tại sao những khu vực này lại khô hạn thế. Sa mạc có thể ở nhiều dạng, từ các đồi cát cuốn, hẻm núi đá, thảo nguyên cây ngải đắng, cho tới các dải băng địa cực. Nhưng có một điểm chung là các sa mạc đều có ít mưa. Thường thì những nơi có lượng mưa dưới 250mm mỗi năm được coi là sa mạc. Điều này cũng có nghĩa là sa mạc rất khô. Nhưng tại sao một số nơi trên Trái đất lại nhận được rất ít mưa so với những nơi khác? Hay nói cách khác, vì sao sa mạc lại khô? Theo các nhà khoa học, cách không khí toàn cầu lưu thông là nguyên nhân chính. Mặt trời chiếu xuống Trái đất mạnh nhất ở đường xích đạo, làm không khí ở đó nóng lên và nước bốc hơi. Luồng không khí nóng và khô này di chuyển về phía các địa cực, rồi có xu hướng hạ xuống ở gần vĩ tuyến 30. Hướng lưu thông này được gọi là vòng hoàn lưu Hadley, tạo ra gió mậu dịch, giúp những người đi biển thời xưa khám phá Trái đất. Hoàn lưu Hadley cũng là lí do tại sao các sa mạc lớn nhất lại nằm ở các vĩ tuyến trung bình này, chẳng hạn như sa mạc Sahara và sa mạc Gobi ở Bắc bán cầu, hay sa mạc Kalarahi ở Nam bán cầu. Song câu chuyện còn phức tạp hơn thế. Các hướng gió tương tác với địa hình cũng ảnh hưởng đến sự hình thành sa mạc. Ví dụ, không khí thổi vào từ đại dương và gặp một dãy núi thì sẽ đi lên và giải phóng độ ẩm dưới dạng mưa hay tuyết lên sườn núi. Bởi vậy khi vượt qua đỉnh núi và hạ xuống sườn bên kia, không khí đã thành khô. Như ở California, Mỹ thì sa mạc Mojave nằm ở vùng bóng mưa (rain shadow) của dãy Sierra Nevada. Đôi khi, các vùng sâu trong đất liền trở nên khô hơn vì nằm xa những vùng nước lớn đến nỗi không khí từ những vùng nước thổi đến nơi thì đã mất hết hơi ẩm. Đây là điều diễn ra ở sa mạc Gobi tại Trung Á, nó cũng bị chắn bởi dãy Himalayas. Mặt khác, vùng ven biển cũng không nhất thiết là nơi ẩm ướt. Các dòng hải lưu lạnh gặp không khí thổi vào ven biển thì có thể tạo ra sương mù. Khi sương mù di chuyển vào đất liền, hơi ẩm lưu lại trong không khí chứ không tạo thành mưa. Hiện tượng này có thể tạo ra các sa mạc ven biển, chẳng hạn như sa mạc Atacama ở Chile , một trong những vùng khô nhất Trái đất. Sa mạc cũng không nhất thiết phải nóng, như các sa mạc ở Bắc cực và Nam cực. Không khí lạnh không thể chứa nhiều hơi ẩm như không khí ấm. Do đó, nhiệt độ thấp ở các cực dẫn tới rất ít mưa, mặc dù có nhiều nước được lưu dưới đất ở dạng băng tuyết. Khi các kiểu khí hậu toàn cầu thay đổi, sa mạc cũng di chuyển. Ví dụ, hàng ngàn năm trước đây, sa mạc Sahara đã từng có các đồng cỏ và rừng nhiệt đới. Ngày nay, biến đổi khí hậu đang định hình lại ranh giới của các sa mạc khắp nơi trên thế giới. Theo các nhà khoa học, do biến đổi khí hậu, vùng hoàn lưu Hadley sẽ trải dài thêm ra hai phía bắc và nam. Điều này có nghĩa là mở rộng khu vực có khả năng trở thành sa mạc. Nhiệt độ cao hơn cũng có thể đẩy nhanh sự lan rộng này qua việc làm nước bốc hơi và làm khô không khí hơn. Không chỉ đơn giản là lượng mưa mà sự cân bằng giữa giáng thủy và bốc hơi là điều tạo nên sa mạc. Như vậy, với sự ấm lên toàn cầu, chúng ta sẽ thấy sự bốc hơi tăng lên và các khu vực sa mạc hiện nay phát triển rộng ra. Tác động của con người lên cảnh quan cũng ảnh hưởng đến quá trình này. Việc chặt cây để lấy đất trồng trọt làm giảm khu vực thực vật tự nhiên, và một số nhà nghiên cứu cho rằng tình trạng phá rừng ở các vùng nhiệt đới đang làm giảm sự giáng thủy. Nếu nước bốc hơi nhiều hơn thay vì được cây giữ lại trong đất thì sẽ có một vòng lặp khiến cho khu vực đó ngày càng khô hơn. Những khu vực bán khô hạn cạnh các sa mạc hiện nay là những vùng dễ bị ảnh hưởng nhất. Các nhà khoa học cho rằng sự tương tác giữa nhiều yếu tố là điều khiến cho sa mạc lan rộng ra. Không chỉ riêng tác động của con người, biến đổi khí hậu hay sự dao động trong khí hậu tự nhiên, mà tổng thể tất cả những yếu tố này là thứ đẩy các hệ sinh thái lên quá điểm bùng phát.
Vì sao sa mạc lại khô?
867
Châm biếm thâm thúy, mát mẻ sâu cay là một nét của mỹ học Nho gia. Đó cũng là một nét phong cách của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một người bạn làm quan có tiếng liêm khiết đến tuổi về hưu, Trạng Trình liền có bài thơ tiễn bạn kín đáo nhắc nhở chung những vị quan: “ Trời như có ý tốt ban cho mọi người tuổi thọ/ Thì hãy vì dân chúng mà nhổ vứt đi một lông tơ ” (Tiễn An Điện về quê La Phù). Câu này có tích thời Xuân Thu, chủ thuyết phái vị kỷ là Dương Chu tuyên bố dù bớt một sợi lông chân mà có ích cho thiên hạ thì cũng không làm. Quan niệm ngược lại, Trạng Trình khuyên đừng như vậy mà hãy vì dân chúng dù có thể chịu thiệt thòi ít nhiều. Châm biếm Nho gia thường mượn tích xưa để giễu hiện tại. Thơ Trạng Trình cũng nằm trong mạch này. Làm thơ vịnh cành liễu ông có so sánh “ Cành mềm yếu, mảnh mai như lưng nàng phi trong cung nước Sở ” (Liễu thi). Vua nước Sở thích con gái có lưng thon, thế là bao cung tần mỹ nữ nhịn ăn để có lưng thon nhỏ gọn. Có người vì thế mà chết. Về sau hai chữ “Sở yêu” để chỉ hình ảnh lưng con gái đẹp. Đối tượng châm biếm ở đây là sự nô lệ, a dua, chiều theo quan niệm người khác đến đánh mất mình. Tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585). Nét riêng của châm biếm Nguyễn Bỉnh Khiêm là thường đặt sự vật hiện tượng vào các cặp đối lập để những mâu thuẫn giữa chúng tự bật ra cái đáng cười. Ông mỉa những kẻ ít đọc sách nhưng lại hay chê bai người khác: “ Ở đời không có ai đọc đến đứt ba lần dây buộc sách/ Mới đọc mấy hàng chữ mà đã cười cõi Thái sơ ” (Cảm tác khi đọc Chu Dịch). Ngày xưa sách làm bằng thẻ tre cuộn lại nên phải lấy dây buộc. Truyền ngôn kể Khổng Tử đọc “Kinh Dịch” chăm đến mức đứt ba lần thay dây buộc sách mà vẫn thấy chưa đủ. Thế mà có kẻ mới đọc mấy hàng chữ đã tự cho mình biết hết. Thơ ông giàu triết lý về thời thế: “ Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười/ Có của thì hơn hết mọi lời/ Trước đến tay không nào thốt hỏi/ Sau vào gánh nặng lại vui cười/ Anh anh chú chú mừng hơ hải/ Rượu rượu giầu giầu thết tả tơi/ Người của lấy cân ta thử nhắc/ Mới hay rằng của nặng hơn người ” (Vô đề 80). Các cặp đối: nhân nghĩa/ vàng mười; của/ lời; trước/ sau; tay không/ gánh nặng;… để bật ra một kết thúc bất ngờ mà hợp lý: “Mới hay rằng của nặng hơn người”. Bất ngờ ở chỗ nhân tình thế thái xuống dốc thảm hại; hợp lý ở chỗ các mối quan hệ vị của, vị lợi như thế thì tất yếu sẽ có cái kết như thế. Luôn lấy điểm tựa từ các mâu thuẫn tương phản nhà thơ mỉa mai: “ Được thời thân thích chen chân đến/ Thất thế hương lư ngoảnh mặt đi ” (Vô đề 58). Chúng vừa là những mâu thuẫn, chua chát thay, lại vừa là sự thật ở thế gian: “ Vị thế gian, nhiều mặn lạt/ Đường danh lợi, có chông gai ” (Vô đề 43). Có trường hợp sự châm biếm bung phá thành tiếng cười sắc nhọn chĩa vào nhiều đối tượng: “ Ở thế mà chi cười lẫn nhau/… Người hàng thịt nguýt người hàng cá/ Đứa bán bò gièm đứa bán trâu/ Bé vú thỉ thăn người cả vú/ Ít râu ánh ỏi kẻ nhiều râu/ Ở thế mà chi cười lẫn nhau ” (Vô đề 118). Đứng giữa sự tương phản của nhiều loại người là các động từ nguýt, gièm, thỉ thăn (từ cổ chỉ sự ghen tỵ), ánh ỏi … như chia đôi hai thế giới không thể dung hòa. Mở và kết bài thơ được lặp lại (Ở thế mà chi cười lẫn nhau) như gói gọn các loại người ấy trong tiếng cười và các động từ, để chúng tha hồ mà gièm pha, ánh ỏi… lẫn nhau. Soi chiếu ánh sáng ký hiệu học hiện đại vào thơ trung đại chắc sẽ tìm ra nhiều vấn đề mới. Như ở hai câu: “Lận thế treo dê màng bán chó/ Rắp danh cưỡi hạc lại đeo tiền” (Vô đề 131). Câu đầu thoát thai từ thành ngữ “Treo đầu dê bán thịt chó”, hình tượng đã thành biểu trưng: có kẻ treo đầu con dê để lừa khách mua tưởng rằng quán bán thịt dê, nhưng lại là bán thịt chó. Ít nhất có các nghĩa: nói thế này làm thế khác; đưa ra hình thức này nhưng lại làm nội dung khác (đánh lừa)… Chữ “màng” được dùng với nghĩa “nghĩ tới” (mơ màng) tức ở thì tương lai, thế khả năng. “Rắp danh cưỡi hạc lại đeo tiền” thì “cưỡi hạc” là biểu trưng cho những người trí thức, học hành đỗ đạt cao. “Tiền” là biểu trưng cho vật chất, lợi lộc. Hai chữ “rắp ranh” có nghĩa chuẩn bị thực thi một ý định (tiêu cực) nào đó. Câu thơ mang tính cảnh tỉnh, ngăn chặn những kẻ có mưu đồ học cao giành tước vị bằng cách dùng tiền để mua bán! Bìa sách “Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Thơ châm biếm ngụ ngôn Nguyễn Bỉnh Khiêm mang tính răn đe. Làm thơ về cá lớn nuốt cá bé nhưng ai cũng hiểu nhà thơ vẽ ra cảnh tranh ăn và tàn sát lẫn nhau của người: “ Sao mà cá lớn ở sông kia/ Cậy khỏe ăn thịt con nhỏ/ Chẳng khác gì con rắn nuốt ngốn/ Cũng giống như con rái cá lùng đuổi/ Ao ngầu bỗng rỗng không/ Lòng tham chưa no chán/ Chỉ cốt thân mình béo/ Chẳng biết tự mình gây ra độc hại cho mình/ Lưới to một phen giăng ra/ Không chốn nào có thể náu thân/ Miếng mồi sao lúc trước tham ăn quá ” (Ở quán Lâm cảm tác về cảnh cá lớn nuốt cá bé). Kết quả của sự tham lam, ích kỷ, độc ác ấy là cái giá bằng mạng sống. Bài thơ như là nói với hôm nay: những con cá to tham ăn sẽ bị lưới công lý trừng trị. Các thành ngữ ngụ ngôn đi vào thơ Trạng Trình trở thành những bài học nhận thức sâu sắc, mới mẻ: “ Cáo đội oai hùm mà nát chúng (người)/ Ruồi nương đuôi ký vốn khoe người ” (Vô đề 99). Thành ngữ “Cáo đội oai hùm” cười những kẻ thân phận, tài năng hèn kém lại đi mượn tên tuổi, uy danh người khác để làm việc lòe bịp thiên hạ. “Ruồi nương đuôi ký (ngựa)” cười kẻ láu cá biết ăn nhờ người khác để khoe khoang. Những kẻ như thế thời nay càng không thiếu! Bài thơ chữ Hán “Tăng thử” (Ghét chuột) rất tiêu biểu cho phong cách châm biếm Nguyễn Bỉnh Khiêm trí tuệ, sâu cay là sự kết hợp hai cảm hứng tương phản chủ đạo: căm ghét và thương cảm. Hình thức châm biếm là sự kết hợp ngụ ngôn với điển cố: “ Chuột lớn sao bất nhân?/ Gặm khoét thật thâm độc/ Đồng ruộng trơ rơm khô/ Kho đụn kiệt gạo thóc/ Nông phụ cùng nông phu/ Nghèo khốn miệng gào khóc/ Ngựa Ngụy sao gặm yên?/ Sừng trâu Lỗ đánh cắp/ Mệnh dân vốn rất trọng/ Tàn hại chi thảm khốc?/ Ỷ thành xã làm càn/ Thần nhân đều hằn học/ Đã làm mất lòng người/ Thiên hạ ắt tru lục/ Thây phơi chốn thị triều/ Thịt cú diều rỉa móc ”. Các điển cố tăng cường thêm cho sự tang thương của nạn chuột phá hoại. “Ngựa Ngụy sao gặm yên?” nói về thời Tam quốc khi bị bao vây, lương thực hết, quân Ngụy phải lấy yên ngựa đem ninh nhừ để ăn. “Sừng trâu Lỗ đánh cắp” là chuyện thời nước Lỗ dân gặp nạn đói phải đem chiếc tù và bằng sừng trâu hầm lấy nước chia nhau cầm hơi. Gây ra nạn đói như thế là do loài chuột. Tưởng rằng giết hết chuột thì dân sẽ yên vì “Mệnh dân vốn rất trọng”. Thế mà… Đến đây cấu trúc lời văn như bị bẻ đôi. Không giết được chuột vì chúng ỷ vào thế sống trong “thành xã” (Ỷ thành xã làm càn). Theo sách “Tấn thư” gây ra mối họa loạn là con cáo ở tường thành, con chuột ở đàn xã. Biết vậy mà không làm sao được, vì không dám đào hang cáo (vì thành sẽ đổ), không dám đào hang chuột (vì là nơi thờ thần linh thiêng). Thì ra loài cáo chuột tham nhũng tàn hại trước nay đều có thế lực “chống lưng” cả. Thế là lại chỉ dân chịu hậu họa! Nạn tham nhũng thời nào cũng vậy, luôn tìm thế “thành xã” mà nương thân tồn tại để hoành hành. Nhưng rồi lưỡi gươm công lý sẽ bắt chúng phải “thây phơi chốn thị triều”! Trạng Trình khuyên dạy người ta phải qua trải nghiệm thực tế để có cái nhìn vừa chỉnh thể, hệ thống vừa chi tiết, kỹ càng: “Muốn học dưỡng sinh mà chưa biết róc hết thịt trọn vẹn con trâu” (Tân quán ngụ hứng 26). Trong thiên “Dưỡng sinh chủ”, Trang Tử viết: Lúc bắt đầu mổ trâu thấy cái gì cũng nghĩ đến toàn bộ con trâu. Làm nghề ba năm lại không thấy toàn bộ con trâu nữa mà chỉ thấy gân cốt của trâu. Về sau thành điển cố “Mục vô toàn ngưu” (Mắt không thấy toàn vẹn con trâu) để nói phải thành thạo nghề mới có cái nhìn thấu đáo và có kỹ năng thành thục đến từng chi tiết, cụ thể. Trước kia người ta quan niệm điển cố là sự nệ cổ, sùng ngoại nhưng ở thời hội nhập toàn cầu thì “liên văn hóa” lại khẳng định điển cố là biểu hiện tất yếu của giao lưu, tiếp biến. Đó là những ký hiệu, biểu tượng tồn tại trong nó nhiều ý nghĩa nhưng chỉ gói trong một vài câu chữ ngắn gọn. Càng sở hữu nhiều điển cố càng chứng minh vốn “liên văn hóa” sâu rộng, lấy đó làm phương tiện châm biếm phải trí tuệ và có năng khiếu trào phúng. Trạng Trình là một trường hợp như vậy!
Tài nghệ châm biếm của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Tác giả: Nguyễn Thanh Tú
1,774
Tiến sĩ Đinh Công Vỹ tại Hội thảo Phùng Hưng. Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân Tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ là một người khá nổi tiếng trong giới nghiên cứu lịch sử. Ông còn nổi tiếng khi chủ trì các diễn đàn, câu lạc bộ về thơ Đường, một điều có phần lãng phí thời gian và sức lực, nhưng với ông nào có hề gì. Với riêng họ Phùng, ông đặc biệt nổi tiếng bởi trong các cuộc Hội thảo Khoa học cấp toàn quốc do họ Phùng khởi xướng và đồng chủ trì với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, các cơ quan có liên quan theo đặc thù mỗi Hội thảo, thì Đinh Công Vỹ, với cái duyên gắn kết họ Phùng, luôn là người đi tiên phong làm bộ đội chủ lực , con át chủ bài , cây đại đao hiệu quả và thuyết phục nhất trong những chương trình tầm vóc ấy. Tôi là hậu duệ sinh sau ông ba mươi năm, không phải trải qua những đắng cay cơ cực của các cuộc chiến tranh, không phải chịu sự khốn khó về vật chất, cũng khác xa về lối sống, môi trường công tác… vậy mà không hiểu tại sao, lại vô cùng gắn bó với vị Tiến sĩ họ Đinh. Có thể chỉ nhìn vào mắt nhau là hiểu sẽ nói gì, sẽ làm gì. Chúng tôi luôn tin tưởng nhau một cách tuyệt đối. Ngay cả những sự mờ khuất của lịch sử chẳng dễ gì vén được ra thì cũng mau chóng nhất trí ở các phán đoán khoa học, lấy sự nhân văn, đạo đức, tiến bộ làm đầu. Nghĩa là ở những khoảng mờ ấy, hậu nhân hãy học cách ứng xử của tiền nhân, hãy biết tạm gác đi những nhỏ nhen độc ác mà cùng chung tay góp sức cho nghĩa lớn, cho những dài rộng của tương lai. Tiến sĩ Đinh Công Vỹ (đeo túi) tại Tây Đằng , Ba Vì, Hà Nội. Khi tiến hành các Hội thảo Khoa học với Tiến sĩ Đinh Công Vỹ, họ Phùng luôn trân trọng mời và tạo điều kiện để ông thể hiện mọi sở trường sở đoản của mình. Đinh Công Vỹ có thể làm việc thâu đêm suốt sáng, có thể đi điền dã hàng tuần, thậm chí hàng tháng, vừa học hỏi cầu thị vừa hăm hở say mê. Ông từng tuyên bố tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám rằng, ông say mê viết cho họ Phùng nhất trong các dòng họ, rất khâm phục sự đồng hành, chia sẻ của Trung tướng Phùng Khắc Đăng – vị Chủ tịch Hội đồng và Tiến sĩ Phùng Thảo – Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng họ Phùng Việt Nam. Đừng tưởng họ Phùng không dày công đi điền dã. Cũng đừng nghĩ rằng họ Phùng đã mời các nhà khoa học thì không tự lấy thân mình làm gương. Hai mươi sáu nhà khoa học tên tuổi, đặc biệt là Đinh Công Vỹ đã phải trầm trồ thán phục trước tham luận khoa học về Bố Cái Đại vương Phùng Hưng của Tiến sĩ Phùng Thảo dày 80 trang A4 sau chuyến đi ròng rã một năm trời tới 60 đình, đền, chùa, miếu ở các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Nghệ An… nơi thờ Bố Cái Đại vương. Tuy nhiên, với cách làm khoa học và trọng thị nhân sĩ trí thức, Hội đồng họ Phùng Việt Nam luôn coi việc mời các nhân sĩ trí thức, nhà khoa học, đặc biệt giới nghiên cứu lịch sử cùng đồng hành, chia sẻ với họ Phùng là điều tiên quyết, thậm chí là sống còn. Hơn mười năm hoạt động của Ban Liên lạc, nay là Hội đồng đã minh chứng điều đó. Tiến sĩ Đinh Công Vỹ từng tham gia làm việc với nhiều dòng họ, có không ít thành công và nhận được sự quý mến của mọi người, nhưng như ông từng tâm sự, chỉ khi đến với họ Phùng ông mới phát huy được hết những phẩm chất và năng lực nổi trội nhất, mới có những trang viết khoát hoạt nhất, khắc họa ở mức sâu nhất những nhân vật lịch sử mà ông hằng yêu thích. Bố Cái Đại vương Phùng Hưng vốn được Đinh Công Vỹ nghiền ngẫm từ hàng chục năm. Ông sinh sống cách Đường Lâm một khoảng ngắn, thường xuyên đến trò chuyện với các cụ thủ từ nơi đền miếu ở đây nên rất thuận lợi trong công tác nghiên cứu, tìm tòi cái mới từ thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của đức vua. Lần nào trình bày tham luận trong các Hội thảo họ Phùng, Đinh Công Vỹ cũng đều cháy hết mình, khẩn thiết và nghiêm cẩn một cách thái quá khiến người tham dự không khỏi cho ông là lên gân. Đặc biệt, những nhân vật lịch sử họ Phùng đánh quân phương Bắc như Phùng Hưng, Đinh Công Vỹ dường như rất khoái. Những căm giận của ông về sự hiểm ác, trí trá, đè đầu cưỡi cổ một cách có hệ thống và truyền kiếp của giới cầm quyền phương Bắc khiến vị Tiến sĩ họ Đinh luôn nổi đóa lên. Ông mắng mỏ gian hùng phương Bắc như chúng đang ở ngay trước mặt mình. Rồi ông say sưa tìm đủ mọi bằng chứng kết tội trí trá lưu manh của chúng không phải trong lịch sử mà ngay cả hôm nay khiến không ít người dè dặt và chủ tọa phải nhắc. Ông như quên mất bản thân mình, mặc kệ những tai họa không đâu có thể giáng xuống bất kỳ lúc nào từ những sơ hở của ông mà tồng tộc nói hết tâm can trước mối họa phương Bắc. Đây cũng là điểm đáng yêu của ông nhưng cũng khiến người làm công tác tổ chức phải tính toán. Chúng ta không nhất thiết phải gây hấn và gây sự với những thứ nằm ở khu vực khác. Nếu có một Hội thảo về tính xấu của người phương Bắc, hẳn Tiến sĩ Đinh Công Vỹ sẽ chẳng tiếc sinh mạng mình mà chiến đấu tới hơi thở cuối cùng? Tiến sĩ Đinh Công Vỹ (thứ 3 từ phải sang) tại Tây Đằng , Ba Vì, Hà Nội. Anh em họ Phùng luôn ghi nhận tấm lòng sắt son và sự sáng tạo không ngừng của Tiến sĩ Đinh Công Vỹ. Khi tổ chức Hội thảo Thái phó Phùng Tá Chu – Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp đã gặp phải những khó khăn, thậm chí là rất khó từ chính sử. Ngay lập tức, cây đại đao Đinh Công Vỹ xuất chiến với những luận cứ khoa học lịch sử xuất sắc. Bằng kiến thức và sự nhạy bén khác thường, cộng với những chia sẻ và phán đoán chuẩn xác của những Nhà nghiên cứu, Nhà văn tâm huyết như Hoàng Quốc Hải, Dương Trung Quốc, Đặng Văn Sinh, Phạm Quang Long, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Văn Sơn, Phạm Minh Quân, Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Minh Đức, Phạm Xuân Nguyên, Trần Ngọc Vương, Vũ Bình Lục, Phạm Lưu Vũ… Bộ đội chủ lực Đinh Công Vỹ với văn phong riêng biệt đã không chỉ xuất sắc thể hiện bài Chúc văn lay động lòng người mà Tham luận khoa học của ông đã tiên phong mở đường phản biện lại sự thiếu công bằng, cứng nhắc, giáo điều, lạnh lùng đến thất nhân tâm từ chính sử. Cùng với những Nhà nghiên cứu tâm huyết khác, cuộc Hội thảo Thái phó Phùng Tá Chu – Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp đã gây tiếng vang lớn, tạo sự chuyển động về nhận thức về bộ đôi nhân vật lịch sử lừng danh Phùng Tá Chu – Trần Thủ Độ mà đã bảy tám trăm năm còn chưa tường minh hết. Trước, trong và sau Hội thảo, tôi luôn thấy bộ ba Đinh Công Vỹ – Hoàng Quốc Hải – Đặng Văn Sinh gắn kết, trăn trở, xét lên xét xuống từng câu từng chữ ở trong quốc sử, văn bia, sắc phong, gia phả, rồi đối xét cùng sách vở đông tây kim cổ để soi rọi những tồn nghi mà do lười nhác của các thế hệ làm công tác nghiên cứu lịch sử đã lãng quên đi. Đây cũng là bài học lớn đối với người làm công tác nghiên cứu lịch sử. Có người chỉ dựa vào vài dòng chính sử đã có thể kết luận bừa bãi công tội của các bậc tiền nhân lừng danh, thật đáng xấu hổ lắm thay! Tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ có một đặc tính nổi trội hơn người đó là sự say mê nghiên cứu lịch sử đến tận cùng. Đã nhiều lần tôi e ngại, thậm chí còn hãi sợ khi ông, với nhiệt huyết và lòng tôn trọng lịch sử, đã quả quyết và nằng nặc dốc sức chứng minh những khuất khúc tày trời của lịch sử. Những loạt bài viết về Nguyên Phi Ỷ Lan, Thái hậu Dương Vân Nga, Thái sư Lê Văn Thịnh, Học sĩ Nguyễn Thị Lộ… gây chấn động dư luận, tạo sự nhận thức lại, gây tranh cãi lớn, thậm chí là đảo lộn sự bình yên vốn có của những nhân vật lịch sử. Tôi luôn có cảm giác, dẫu có gươm kề cổ súng kề tai Tiến sĩ Đinh Công Vỹ vẫn sẽ không viết khác. Đó chính là dũng khí của họ Đinh. Đó chính là khí độ của một sử quan không dễ gì có được trong cuộc sống. Càng nghĩ về cuộc dấn thân tìm tới tận cùng sự thật; truy bức sự giả dối, ngụy tạo; khai mở những vấn đề chính yếu của lịch sử; vén những bức mây mù thậm chí là hỏa mù do con người đương đại cố tình gây ra, Đinh Công Vỹ mặc kệ bóng đao ánh kiếm tầng tầng khi công khai tứ bề chụp xuống khi âm thầm thập diện mai phục, họ Đinh cứ điềm nhiên khai hỏa từng bài, từng nhân vật, từng vấn đề còn khuất lấp, còn ngụy tạo của lịch sử bất chấp những đe dọa ở xung quanh. Riêng về điểm này, cá nhân tôi luôn thán phục ông. Khi đọc loạt bài ông viết về Nguyên Phi Ỷ Lan và Thái hậu Dương Vân Nga, tôi cho rằng Đinh Công Vỹ cầm chắc cái chết, nếu không chết cũng chín chết một sống, sống không bằng chết. Đừng tưởng chốn vua chúa cung đình, dẫu là thời đại minh quân thánh chúa là không có oan khiên. Đừng tưởng những vị vua, hoàng hậu khai quốc lập nước, quyền lực ôm trùm triều chính là luôn minh bạch. Điều nay Đinh Công Vỹ biết lắm! Còn biết với tay ông! Họ Đinh cứ lừng lững như võ sĩ trên sới vật quật ngã từng mảng bóng đen xuống dưới chân mình. Những bóng đen âm u chờn vờn cũng không phải loại vừa, chúng hè nhau chế áp nhà nghiên cứu lịch sử. Vỏ quýt dày gặp móng tay nhọn. Kẻ tám lạng người nửa cân đấu với nhau đằng đẵng bao nhiêu năm. Có những lúc tưởng chừng bóng đao ánh kiếm đã khuất phục tiến sĩ họ Đinh. Hoặc giả tiến sĩ họ Đinh vốn cũng người trần mắt thịt, cũng tự lượng sức mình mà thôi đi cho, nào ngờ càng ngày Đinh Công Vỹ càng chứng tỏ mình là một cao bồi già không dễ gì khuất phục. Tiến sĩ Đinh Công Vỹ (áo đỏ) đọc chúc văn tại đền thờ Phùng Hưng – Đường Lâm – Sơn Tây. Cái sự kiên gan kiên cường ấy có được trước tiên bởi sự trung chính với Tổ quốc, với dân tộc, với nhân dân. Đinh Công Vỹ đứng trên nền tảng này mà nghiên cứu và đưa ra những bài học và kinh nghiệm lịch sử. Bởi vì vậy ông không dễ gì bị quật ngã, kể cả là ám toán. Có sự kiên gan, kiên cường bởi ông luôn tin vào sức mạnh của chính nghĩa, của sự thật. Cho dù sự thật có đớn đau, éo le, thậm chí là nhục nhã bao nhiêu vẫn là sự thật của lịch sử. Chúng ta không thể đẩy Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ra khỏi danh sách người Việt. Chúng ta càng không thể nhìn sự chói lóa của long bào, long ngai, những quyền uy sấm sét thay đổi ngôi nước bất minh diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật mà không dám vạch trần sự thật. Đinh Công Vỹ càng không. Những trang ông viết về Thái hậu Dương Vân Nga quả đã kinh động quỷ thần, khiến người đời vừa hãi sợ vừa khâm phục. Đinh Công Vỹ còn có một niềm tin lớn vào chính mình. Bản thân ông không chỉ có kiến thức vững vàng về sử học mà còn có niềm tin từ chính các bậc thầy không ít người đã khuất truyền lại cho ông. Người đời trùm phủ bóng đao ánh kiếm vây bọc ông thì ông cũng khiên giáp kiếm cung đầy đủ lắm. Đinh Công Vỹ như một chiến binh độc cô cầu bại không sợ hãi điều gì. Mà việc quái gì ông phải sợ? Làm sao chúng ta phải sợ bóng tối trong khi chúng ta là ánh sáng? Tại sao chúng ta phải sợ cường quyền trong khi chúng ta nắm quyền năng là lẽ phải? Có lẽ nào người ngay sợ kẻ gian? Đấy! Đinh Công Vỹ luôn suy nghĩ như vậy, nên sẽ dẫn đến những hành động táo bạo, có lúc chỉ một thân một mình vì những kẻ khôn ngoan khác đã rút sạch đi thì họ Đinh vẫn bất chấp xông lên. Đó chính là tiết tháo của kẻ sĩ. Ở các công trình nghiên cứu lịch sử của Tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ luôn hàm chứa không chỉ những câu chuyện lịch sử hấp dẫn, những tường minh và phản biện, những truy vấn và làm rõ đến tận cùng mà ông đã còn đặt ra những vấn đề lớn, những câu hỏi lớn trong dòng chảy lịch sử vốn không ít lúc người có trách nhiệm đã cố tình uốn nắn cho thuận mắt, thuận tai giới cầm quyền bất chấp sự thật lịch sử. Thì ở những công trình ấy, Đinh Công Vỹ sẽ lại nổi đóa lên, lại bất chấp bóng đao ánh kiếm, lại một thân một mình xông vào trường văn trận sử mà khiêu chiến và tác chiến đến cùng. Đó vừa là năng lực cần được giải phóng vừa là khát vọng đam mê vươn tới của ông. Tôi thấy Tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ lúc nào cũng sôi sùng sục. Ở ông không có khái niệm nghỉ ngơi. Kể cả đã cùng nhau tranh luận chán chê, đã đi ròng rã nhiều ngày, nhưng bữa sáng, bữa trưa, bữa tối khi đang ăn, Đinh Công Vỹ cũng hăng say quên cả giờ giấc thao thiết nói về lịch sử. Mỗi khi điện thoại, thường chỉ một mình ông nói, chỉ toàn chuyện lịch sử, những sai sẩm của lịch sử, những trí trá ở đâu đó xa lắc lơ cũng khiến ông nổi nóng, ngay cả sự lười biếng của người đời ông cũng cho rằng sẽ làm phương hại tới lịch sử… Cứ như thế, Tiến sĩ họ Đinh đi từ chủ đề này sang chủ đề khác, triều đại này sang triều đại khác, nhân vật lịch sử này sang nhân vật lịch sử khác một cách quá say mê. Tôi có cảm giác rằng, nếu có cách nào đó để ông nhảy vào trong thùng mực rồi lăn ra trên mặt giấy với đủ các câu chuyện lịch sử của mình được hiện hình thì mới thỏa chí bình sinh để ông giải quyết những ấp ủ của ông. Đinh Công Vỹ cũng là người rất biết tiếp thu. Phản biện nhau, thậm chí là cãi cọ cũng phải từ khoa học lịch sử, cũng phải bằng tác phẩm. Có những người nói rất hay, hùng biện sắc sảo nhưng rốt cục chỉ là những thứ anh nói ra đằng miệng, khẩu thiệt vô bằng, tác phẩm là con số không tròn trĩnh thì người đời cũng chẳng biết cách nào để định lượng anh, vinh danh anh. Lại có những người nói năng khó nhọc, ít thuận tai thiên hạ nhưng những công trình của họ đều là những hòn đá tảng trong mỗi chuyên ngành, nhất là chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn, đặc biệt là lịch sử, thì họ vẫn xứng đáng là những bậc thầy. Những người này không ít người đã được đặt tên phố tên đường. Nhân dân ta vốn tinh tường lắm. Tiến sĩ Đinh Công Vỹ (áo đỏ) hóa chúc văn tại đền thờ Phùng Hưng – Đường Lâm – Sơn Tây. Những tác phẩm, công trình của Tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ rất phong phú, bao hàm nhiều lĩnh vực. Ông không chỉ hay nói ngoài đời, thao thao trong điện thoại mà còn viết rất rành mạch, khúc triết, kỹ lưỡng, muôn hồng ngàn tía trong hàng chục cuốn sách đủ mọi thể loại của ông. Ở đâu ra sức lực và nguồn năng lượng chừng như vô tận đó? Lão tiến sĩ cũng đã ngót nghét tám mươi vẫn luôn có mặt ở tuyến đầu. Chỉ riêng với họ Phùng, các cuộc hội thảo khoa học: Họ Phùng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước; Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan – Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp; Thái phó Phùng Tá Chu – Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp; Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng – Thân thế, cuộc đời và sự nghiệp Tiến sĩ Đinh Công Vỹ không chỉ đảm đương viết những tham luận nòng cốt mà ông còn tham gia biên soạn toàn bộ các tham luận trong Kỷ yếu và luôn xung phong viết Chúc văn cho các nhân vật lịch sử trong Hội thảo. Viết Chúc văn là việc cực khó không chỉ bởi với thể loại song thất lục bát vốn đòi hỏi niêm luật nghiêm nhặt mà còn phải là người am tường những điển cố sâu xa, một kiến văn rộng lớn và đặc biệt phải có tấm lòng kính ngưỡng tiền nhân mới có thể dễ dàng thể hiện một cách vừa chặt chẽ vừa khoáng hoạt thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của các vị anh hùng. Những tác phẩm Chúc văn đã được viết ra đã là một thành tựu riêng của Tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ. Dù đã nhiều năm, trong không khí linh thiêng nơi Đường Lâm cổ tự, mỗi buổi sáng ngày mùng 8 tháng Giêng, mỗi khi thấy Tiến sĩ Đinh Công Vỹ mũ đỏ, quần áo đỏ, đôi hia đỏ trang nghiêm đọc chúc văn ca ngợi công đức của Bố Cái Đại vương Phùng Hưng trong khói hương trầm mặc ai ai cũng như thấy tiếng vọng của hào khí non sông ăm ắp ùa về. Từng câu, từng lời vang lên trong tiếng chiêng tiếng trống như càng thúc giục mỗi người phải biết trân trọng những giá trị văn hiến của cha ông. Tôi thấy Tiến sĩ Đinh Công Vỹ như hóa thân vào một vị đại quan bộ Lễ đang đĩnh đạc tuyên đọc hịch văn trước triều đình. Ở đó toát lên vẻ đẹp nghìn năm, khí chất mã thượng, thanh cao, nhân văn của muôn dân Lạc Việt. Ở nước ta hiện nay có nhiều người làm công tác nghiên cứu lịch sử nhưng người thực sự làm việc có tâm, có tầm và công minh như Tiến sĩ Đinh Công Vỹ quả là rất hiếm. Không như những người khác lựa gió xuôi chiều làm vừa lòng Ban tổ chức, vừa lòng hệ thống công quyền của các giai đoạn cầm quyền trong lịch sử, Đinh Công Vỹ luôn toát lên tinh thần khoa học, tinh thần kiếm khách thượng tôn sự thật, mong muốn phải biết tường tận cả mặt phải và mặt trái của lịch sử, mặc kệ những gì tưởng như đã ổn định, đã đóng đinh trong chính sử. Đây chính là con đường gai góc nhất mà vị Tiến sĩ họ Đinh cam tâm tình nguyện lựa chọn cho chính mình. Lựa chọn con đường này là chấp nhận sự cam go, lúc nào cũng phải đương đầu với những bộ óc bách khoa đã sản sinh ra những công trình bách khoa về lịch sử như Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Ngô Thì Nhậm… thật chẳng dễ dàng gì. Nếu ở một người khác, chắc đã tự thoái lui từ lâu. Nhưng đây là Đinh Công Vỹ nên mọi thứ đã rất khác. Những cuốn sách, công trình mà ông trình bày ra, có người hoặc ngay cả bản thân ông cũng nói rằng đó là Bên lề chính sử tôi thấy rằng quả là chưa thỏa đáng, chưa đích đáng với cống hiến và sức lực của ông, chưa công bằng với ông và những tác phẩm mà ông đã công bố. Ở đây tôi muốn nói thêm, chính những gì tưởng như dông dài, đậm tính huyền sử, đưa văn học vào lịch sử như Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam; Chuyện tình kẻ sĩ Việt Nam; và sắp tới là Chuyện tình dân dã Việt Nam đã khiến không ít người nghiên cứu đồng thời hồ nghi vào tính khoa học và sức vóc của các công trình của Tiến sĩ Đinh Công Vỹ. Ở ta định luận về làm sử nó là thế chăng? Hay nói như cách nói của cố Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến là cái nước mình nó thế . Tôi lại cho rằng khác, rất khác. Chính những ngóc ngách của lịch sử, từ những chuyện tình được lưu giữ trong dân gian kia phải luôn là một phần quan trọng nhất của lịch sử. Nếu lịch sử chỉ dựa vào những văn bản vốn chẳng nhiều nhặn gì, lại luôn khô cứng, giáo điều thì dân tộc Việt đã chẳng phát triển hùng mạnh được như hôm nay. Bản sắc văn hiến Việt Nam, tầm vóc văn hóa Việt Nam, bản lĩnh con người Việt Nam có được phải được hun đúc từ ngọn nguồn phong phú và linh hoạt của mọi tầng lớp, một điều quá hiếm trong chính sử. Bởi những lý do ấy, tôi luôn khâm phục Tiến sĩ Đinh Công Vỹ, khi ông đã một mạch mấy mươi năm đi vào tận cùng mọi ngóc ngách của cuộc sống, mọi điểm mờ trong chính sử, những ánh vàng trong dã sử, đường mòn lối mở của huyền tích dân gian để khai mở và trình ra những quan điểm, chính kiến, bài học quý giá của lịch sử. Đây cũng chính là bản lĩnh cao cường, tầm vóc đai đẳng nhất của Đinh Công Vỹ. Ông đã chịu nhiều búa rìu, thậm chí là phủ định, thành kiến, khinh khi những tác phẩm thấm đẫm mồ hôi và trí tuệ đằng đẵng mấy chục năm. Đây cũng chính là sự thiếu công bằng, thiếu sòng phẳng, sự áp đặt vô căn cứ khiến những người thiếu bản lĩnh sẽ dễ dàng chùn bước. Nhưng đối với Đinh Công Vỹ thì tuyệt nhiên không. Đó mới là Đinh Công Vỹ. Ông đã từ lâu bỏ mặc những bóng đao ánh kiếm của người đời. Ngay cả những bậc khoác áo đa đề, những kẻ mũ cao áo rộng trà trộn trên cao hòng thao túng các giá trị lịch sử Đinh Công Vỹ dường như cũng không mấy bận tâm. Ông không hề sợ hãi còn sẵn sàng khiêu chiến và khai chiến nếu thấy cần thiết phải bảo vệ sự thật lịch sử. Thậm chí ông còn có cách chế áp riêng. Ông phán đoán và sáng tạo rất tài tình những uẩn khúc của lịch sử. Điều này thì những kẻ lười nhác, tâm địa bất minh không thể bì được, càng không thể phán đoán và sáng tạo trên cái tâm trong sáng như ông nên dường như chúng cũng mặc kệ họ Đinh. Điều này cũng chẳng biết nên buồn hay nên vui nữa. Gần một đời làm công tác nghiên cứu lịch sử, duyên nợ ba sinh, độc mã đơn thương dặm trường tự quyết, luôn không hổ thẹn với chính lòng mình, với lịch sử và nhân dân, dường như Đinh Công Vỹ đã đi trọn con đường không một chút ấm êm phẳng lặng mà đầy rẫy thác ghềnh bóng đao ánh kiếm mà vẫn an toàn cho tới hôm nay đã là một đặc ân của tạo hóa dành cho Đinh Tiến sĩ. Một điều lạ là Đinh Công Vỹ cũng chẳng đòi hỏi gì cho riêng mình. Tiền tài, danh phận, ngay cả những thứ vui chơi thường nhật Đinh Công Vỹ cũng chẳng đam mê thái quá điều gì. Nước chảy chân cầu. Hoa tàn lá rụng. Đời người xưa tới nay bao gồm cả thánh chúa minh quân tới gian thần ác tặc rồi cũng về chốn cát bụi vô cùng. Sống làm sao thấy ổn thỏa với chính mình là được. Đến lúc này đây, tôi mới giật mình thấy Tiến sĩ họ Đinh hóa ra đã từ lâu ngộ được đạo trời. Đã biết buông bỏ những gì cần buông bỏ. Sôi sùng sục đấy nhưng cũng rất tùy duyên. Đi đến tận cùng, đến máu chảy đầu rơi nhưng cũng biết uyển chuyển linh hoạt tìm sự bình yên trong bóng đao ánh kiếm . Tiến sĩ Đinh Công Vỹ, ở những lúc gần gũi ông nhất, tôi luôn cảm thấy sự hấp dẫn đặc biệt từ chính sự say mê lịch sử của ông. Ông say mê đến độ có lúc tưởng như quên đi chính mình, quên đi gia cảnh của mình. Cuộc đời vốn đường xa dặm thẳm. Có biết bao nhiêu thứ không theo được ý ta. Bao việc bao người lỡ dở. Bao năm bao tháng đã trôi đi như nước kia xuôi về biển một đi không trở lại. Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân . Những lúc như lúc đó, tôi đã thấy được không ít bất công đã giáng vào ông, đã gây cho ông không ít đớn đau, phiền não. Ở con người hay cười hay nói ấy có những lúc cũng lặng đi, trầm xuống bởi chất chứa quá nhiều tâm sự. Tảng trán vát lên kia, đôi mắt luôn ngạo nghễ kia, cái miệng luôn tươi tắn kia dường như không ít lúc đã phải hằn lên, thắt lại, mím chặt để khỏi thảng thốt kêu lên ôi chao sự giá họa không riêng gì có từ lịch sử đâu mà ngay ở hôm nay, ngay lúc này đây, ngay ông đây cũng đang phải giáp mặt, phải vật lộn với chúng. Bóng đao ánh kiếm chạnh niềm thiên thu . Sao? Ý này liệu có đúng với bản chất của ông không? Một con người đã trót đam mê văn chương và lịch sử thì việc phải sống chung với bóng đao ánh kiếm cũng là lẽ thường hằng. Còn cái gọi là chạnh niềm thiên thu ấy hãy để cho hậu sinh định luận.
Tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ, bóng đao ánh kiếm chạnh niềm thiên thu – Tác giả: Nhà văn Phùng Văn Khai
4,588
Trong lịch sử Việt Nam, nhiều vị vua có tài văn học, từng đích thân soạn sách, điển hình như các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông… Sau những biến động của lịch sử, ngày nay, chúng ta không còn tư liệu về sách vở thời Lý. Tuy nhiên, từ thời Trần về sau, thư tịch để lại cho biết nhiều vị vua Việt cũng trực tiếp biên soạn sách vở. Điển hình là các vị vua đầu triều Trần, đều là những người tôn sùng đạo Phật, khi về già thường nhường ngôi cho con và xuất gia đi tu, nên đều là những tác giả Phật học uyên thâm. Như Vua Trần Thái Tông có tác phẩm nổi tiếng “Khóa hư lục” ghi chép quá trình tu luyện đạo Phật theo tinh thần kiên trì học tập nhưng không cố chấp để bị trói buộc bởi những giáo điều nhằm đạt tới sự chứng ngộ hoàn toàn tự do. Ngoài ra, Vua Trần Thái Tông còn viết sách chú giải “Kinh kim cương Tam Muội” , hay soạn cuốn “Lục thì sám hối khoa nghi” … Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng là tác giả của các bộ sách như “Thiền lâm thiết chủy ngữ lục”, “Thạch thất mỵ ngữ” . Bên cạnh đó, Vua Trần Nhân Tông cũng là một nhà viết sử khi đích thân biên soạn cuốn “Trung hưng thực lục” ghi chép chi tiết về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược, gồm 2 quyển. Tiếc rằng, bộ sử này của nhà vua sau đó thất lạc. Về thơ văn, Vua Trần Thái Tông có “Thiền tông chỉ nam”, “Thái Tông thi tập” , Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, Trần Nghệ Tông cũng đều có thi tập ghi chép lại những bài thơ ngự chế, hiện còn lại một số bài. Ngoài ra, các vua Trần cũng có những tập thơ riêng như “Đại Hương hải ân thi tập” của Trần Nhân Tông soạn sau khi xuất gia, “Thủy vân tùy bút” của Trần Anh Tông… Nhiều sáng tác của các vua Trần đã bị thất lạc, bị lấy mất khi quân Minh xâm lược nước ta. Nhưng, cũng có khi, các tác phẩm bị đích thân nhà vua yêu cầu tiêu hủy. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” thì khi Thượng hoàng Trần Minh Tông lâm chung, đã sai thị thần là Nguyễn Dân Vọng đem bản thảo tập thơ ngự chế đốt đi. Khi thấy Dân Vọng còn do dự, Minh Tông nói: “Vật đáng tiếc còn không thể tiếc được, tiếc làm gì thứ ấy”. Đây cũng là nét tiêu biểu trong triết lý đạo Phật mà các vị vua Trần đều thấm nhuần. Về mảng giáo dục, sử sách cho biết Vua Trần Thánh Tông đã soạn “Cơ cừu lục” , nhưng đến nay đã không còn. Sau khi lãnh đạo quân và dân ta tiến hành thành công cuộc kháng chiến chống quân Minh, năm Thuận Thiên thứ 3 (1431), Vua Lê Thái Tổ cho soạn cuốn “Lam Sơn thực lục” kể về gốc tích nhà vua cũng như diễn biến của cuộc kháng chiến. Đích thân nhà vua viết bài tựa cho sách này, ký là Lam Sơn động chủ. “Lam Sơn thực lục” kể về thói quen đọc sách của Vua Lê Thái Tổ rằng: “Nhà vua tuy gặp đời rối loạn, mà chí giữ càng bền; lẩn giấu ở núi rừng làm nghề cày cấy; tự mình vui với kinh, sử, nhất là càng chuyên tâm về các sách thao lược”. Đất nước được độc lập, sang đời Vua Lê Thái Tông, năm 1435, Hành khiển Nguyễn Trãi đã biên soạn “ Dư địa chí” , tác phẩm địa lý đầy đủ đầu tiên của Việt Nam. Theo một số nhà nghiên cứu, “Dư địa chí” nằm trong một bộ sách lớn có tên là “Quốc thư bảo huấn đại toàn” . Sau khi Nguyễn Trãi bị hại trong vụ án Lệ Chi viên, phải đến thời Vua Lê Nhân Tông, khi vua vào bí thư các, xem các sách vở, thấy bản sách của Nguyễn Trãi còn sót lại, bảo quần thần rằng: “Nguyễn Trãi trung thành, giúp đức Thái Tổ vũ trang dẹp giặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng triều ta không ai bằng được. Không may, chỉ vì một người đàn bà gây biến mà người lương thiện bị tội oan, thật đáng thương!”. Vua Nhân Tông bèn đem “Dư địa chí” để trong phòng ngủ làm sách giúp cho việc hành chính. Tượng Vua Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là một vị vua anh minh, tài ba. Nhà sử học Vũ Quỳnh từng khen về khả năng đọc sách của nhà vua: “Vua võ giỏi, văn hay mà thánh học rất chăm, tay không lúc nào bỏ quyển sách. Sách gì cũng thông, văn thơ hay hơn cả các quan văn học”. Trong lời tựa ngự chế cho tập “Quỳnh uyển cửu ca” , Vua Lê Thánh Tông có nói về việc đọc sách dẫn đến nhu cầu viết của mình rằng: “Lúc rảnh sau muôn việc, trong khoảng nửa ngày, mắt xem rừng sách, lòng dạo vườn văn, không nghe huyên náo, lòng như hoa thơm, dục thần ít trong, ở yên cao hứng, bèn hăng hái nghĩ đến các bậc đế vương thánh triết, đến lòng cặn kẽ của những bề tôi trung lương, mới gọi Giấy, Bút, Mực, Nghiên đến bảo cho biết rằng: Tình của ta thư thái, khí tinh anh cuồn cuộn tuôn ra, lời khuôn mẫu từng từng lớp lớp, các ngươi có thể vì ta ghi lấy được không?”. Chính vì vậy, sau khi ngự chế 9 bài thơ cận luật, Vua Lê Thánh Tông đã họp các vị học sĩ, hàn lâm, tất cả 28 người, ứng với nhị thập bát tú, lập thành một hội Tao Đàn, thay nhau cùng họa, được vài trăm bài. “Bài nào cũng chọn chữ kỹ càng, điệu vần sang sáng, dâng lên ta xem, lòng ta rất vui, xem kỹ hai ba lần. Ta nghĩ cán cân văn chương phải là công khí, không muốn chỉ để riêng ta thưởng thức một lúc, mới sai khắc bản in để truyền bá được rộng”, vua viết tiếp trong lời tựa sách. Theo Lê Quý Đôn thì “Vua Thánh Tông ham thích sách vở, hồi đầu Quang Thuận (1460-1469) hạ chiếu tìm tòi dã sử, sưu tập truyện ký cổ kim còn chứa ở các nhà riêng, hạ lệnh cho dâng lên tất cả; khoảng năm Hồng Đức (1470-1497), nhà vua lại hạ chiếu tìm những sách vở còn sót lại đem về chất chứa ở bí các. Trong dịp này có người đem dâng những sách lạ, sách bí truyền đều được ban thưởng. Do đó, sách đời trước dần dần được đưa ra”. Và chính vua đã xuống chiếu “Ra lệnh tìm kiếm những di cảo thơ văn của cố Hàn lâm Thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi”. Vua Lê Tương Dực tuy là một vị vua bạo ngược nhưng lúc mới lên ngôi cũng là người ham đọc sách sử và có công lao trong việc sửa sang giáo dục, biên chép sử sách. Khi sử quan Vũ Quỳnh dâng sách “Việt giám thông khảo” , chép từ đời Hồng Bàng đến Lê Thái Tổ, dài 26 quyển, Vua Tương Dực muốn nhặt những điều cốt yếu để làm tổng luận cho tiện đọc, mới sai học sĩ Lê Tung soạn cuốn “ Việt giám thông khảo tổng luận” , rút gọn chỉ có 1 quyển. Thời Hồ, Vua Hồ Quý Ly cũng soạn bộ sách giáo dục “Minh đạo lục” , gồm 14 thiên, nhưng đến nay đã thất truyền. Vị vua đầu triều Hồ này cũng còn soạn bộ “Quốc ngữ thi nghĩa” để giảng giải về ý nghĩa các bài thơ viết bằng chữ Nôm. Không chỉ các vị vua, chúa Trịnh Sâm, khi còn là thế tử có làm một tập thơ, đến khi lên ngôi vương mới chép lại thành tập đặt tên là “Tâm thanh tồn dụy tập” gồm 4 quyển, tự làm bài tựa, trong đó cũng kể về việc ông đọc sách thế nào: “Ta lúc trẻ xem thơ Đường, thấy thơ của các danh gia đại để là để ý đến thanh âm niêm luật khéo hay vụng. Nhân đọc bài tựa “ Kinh Thi” của Chu Tử có nói: “Thơ là do cảm xúc trong lòng người mà hình ra lời nói. Lòng cảm xúc có tà, có chính nên hình ra lời nói có phải, có trái”, bấy giờ ta mới biết được mấu chốt của việc học “Kinh Thi” ”. Vua Lê Hiển Tông, trong bài tựa ngự chế cho tập “Hoàng Lê ngọc phả” mà Trịnh Viêm và Nguyễn Hài soạn, cũng nói về chuyện đọc sử của mình: “Ta nối nghiệp ông cha, nghĩ đến dấu nghĩa của các triều trước, không ngày nào quên, từng biên chép thành sách, để hằng ngày xem đọc. Gần đây, thấy bản chép cũ của các hương thân, so với những điều trong bản chép của ta thấy có hơi khác nhau, nên ta giao cho bọn gia thần khảo cứu biên chép lại, cốt cho đầy đủ hoàn toàn…”. Triều Nguyễn, Vua Minh Mạng không chỉ ham đọc sách mà còn khuyến khích các quan đọc sách. Ngay sau khi lên ngôi, vua đã dụ bầy tôi rằng: “Đạo trị nước chép ở sách vở, không xem rộng, xét kỹ, không thể biết hết được. Nay thư viện Thanh Hòa chứa nhiều sách lạ bốn phương, bọn khanh lúc rỗi việc mà có chí đọc sách thì mượn mà xem”. Vua Minh Mạng sau chuyến ngự giá Bắc Thành năm 1821, đã ban dụ cho nội các rằng: “Nước Việt ta mở nước bằng văn hiến, các bậc vua hiền đời đời đều có, duy Lê Thánh Tông thì không phải đời nào cũng có. Những phép hay, chính tốt chép cả ở trong sử sách, lại còn khi rảnh việc thì lấy văn nghệ làm vui, trước tác rất nhiều, tiếng hay phong nhã vẫn còn văng vẳng bên tai mọi người. Trẫm nhớ đến cổ nhân rất lấy làm kính mến. Tuy đời đã xa, lời nói đã mất, văn chương tuy đã tản mát, nhưng ở trong rừng Nho chăm học tất vẫn có người trân trọng giữ gìn. Nay trẫm muốn tìm cho khắc in để lại lâu dài muôn đời bất hủ. Vậy ra lệnh cho quan Lễ Bộ, tư hỏi Bắc Thành và các trấn Thanh, Nghệ, Ninh Bình phàm những nhà quan lại sĩ dân, ai còn giữ được những tập thơ văn ngự chế về đời Hồng Đức (1460-1497) đều đưa đến cho quan sao chép, thu góp lại khắc in truyền khắp trong nước, để nêu cái tốt đẹp của tiền nhân, lưu một việc hay trong rừng văn nghệ”. Vua Thiệu Trị cũng nổi tiếng là người hay chữ và chăm đọc sách, từng bảo Đại học sĩ Trương Đăng Quế rằng: “Đọc sách có ích rất nhiều. Trẫm gần đây xem sách “Vận phủ” , xét trong “Tự điển” , sách ấy còn thiếu sót nhiều. Nay nhà nước nhàn rỗi, phong nhã rất thịnh, trẫm muốn sai quan khảo cứu so sánh làm thành bộ sách đầy đủ của nước Nam ta, để giúp những người hậu học”.
Các vị vua Việt soạn sách
1,888
Ông là Tiến sĩ, Phó Giáo sư, Nhà giáo ưu tú, là thầy giáo dạy văn đại học. Những tưởng như vậy đã ‘an bài’ được rồi, nhưng không. Ông đã làm đủ thứ việc, đủ mọi việc, kể cả những việc tưởng như rất ‘kị’ với nghề thầy, chỉ với mục đích kiếm tiền để ‘nuôi’ văn chương, để thỏa đam mê văn học của mình. Gặp nhà văn Nguyễn Đức Hạnh ở Trại sáng tác do NXB Công an nhân dân mở tại Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh. Tôi đùa: “ Tôi ở Hà Nội về/ Anh trên Thái Nguyên xuống/ Gặp nhau ở Bãi Cháy/ Thấy “lửa văn” bùng bùng ”. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh ghé tai tôi nói nhỏ: “Tôi vào Hội Nhà văn Việt Nam ở chuyên ngành lý luận”. Ngạc nhiên chưa, tôi khẽ thầm trong họng, bởi biết đến ông là tôi biết đến những bài thơ in “ào ạt” trên các báo; là tôi biết đến một cây bút văn xuôi với các truyện ngắn “hay đến phát sợ” (chả là nhà văn Nguyễn Đức Hạnh viết truyện tâm linh sâu sắc lắm). Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh vốn quê ở xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ , tỉnh Hưng Yên nhưng gia đình ông đã “di lên Thái” từ lâu rồi. Ông sinh ra và lớn lên rồi lập nghiệp ở Thái Nguyên, giờ thì ông thành người Xứ Chè thứ thiệt (về dự trại ông mang theo rất nhiều chè để mời anh em cùng uống). PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh nhận danh hiệu Nhà giáo ưu tú. Để thỏa đam mê văn học, việc đầu tiên là ông thi vào Khoa Ngữ văn của Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, năm 1979. Sau 4 năm theo học, ông được phân công về giảng dạy tại Trường Cao đẳng Sư phạm Việt Bắc. Dạy ở đó hơn 7 năm thì ông chuyển sang Trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyên. Giảng viên Nguyễn Đức Hạnh phấn đấu lên đến chức Phó Trưởng khoa thì năm 2012 ông rẽ ngang sang NXB Đại học Thái Nguyên, từ Phó Giám đốc lên Giám đốc. Tưởng yên ổn rồi thì lần nữa ông lại “đi”. Năm 2019, ông làm Phó Trưởng ban Thanh tra Đại học Thái Nguyên cho đến tháng 10 năm 2022 thì nghỉ hưu. Tôi nghe “tràng dài” công việc với nhiều đơn vị thì nói: “Chuyển việc nhiều thế”. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh lại ghé tai tôi nói nhỏ: “Đấy là tôi chưa kể cho anh hay rằng tôi còn làm nhiều việc “tày đình” khác nữa”. Tôi trố mắt rồi đề nghị ông kể tường tận. Đúng là nhà văn, nhà giáo Nguyễn Đức Hạnh có cả cuộc đời gắn bó với ngành giáo dục thật nhưng ông còn làm thêm rất nhiều việc khác nữa, như ông nói là để “nuôi”, nuôi cơm vợ con và nuôi viết văn. Chuyện nuôi vợ con thì dễ hiểu rồi nhưng nuôi viết văn thì tôi chưa hiểu. Ông cười hóm: “Tạo vốn sống và vốn hiểu đời anh ạ”. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh vào nghề viết văn với xuất phát điểm là thơ. Cho đến nay ông đã in 4 tập thơ. Những tập thơ tạo ấn tượng với độc giả như: “Núi khát”, NXB Hội Nhà văn, năm 2000; “Vết thời gian”, Sở Văn hóa Thể thao Thái Nguyên, năm 2014; “Khoảng lặng”, NXB Đại học Thái Nguyên, năm 2016 và “Thầm”, NXB Hội Nhà văn, năm 2020. Chưa hết, cùng thời điểm ra thơ này ông còn xuất bản 3 chuyên đề khảo cứu và phê bình văn học. Đó là những cuốn: “Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965-1975 nhìn từ góc độ thể loại”; “Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Chu Lai và Văn học địa phương miền núi phía Bắc”. Toàn là những khảo cứu nghiêm túc và chất lượng. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh nói: “Bài thơ đầu tiên in trên Báo Văn nghệ năm 1991 có tên là “Dốc”, nó như là chính cuộc đời tôi anh ạ”. Ông đã viết “Những tháng ngày dài đến đứt hơi/ Tôi như con ngựa già còng lưng leo dốc/ Hàng nặng chân run mắt mờ lệ nhọc/ Tôi muốn quăng xe đi mà nằm xuống bên đường”. Thì ra trong cuộc mưu sinh vào những tháng năm kham khó, nhà giáo trẻ Nguyễn Đức Hạnh từng có 5 năm “theo bưởng” vào Thần Sa, Khâu Âu rồi Tràng Xá, Võ Nhai để đào vàng. Dĩ nhiên ông phải “gồng” lên để hoàn thành đủ chỉ tiêu giảng dậy 280 tiết một năm. Nhưng rồi việc đào vàng với hy vọng “đổi đời” thất bại. Anh giáo Hạnh quay về nhà để chạy xe ôm. Ông kể thầm thì: “Tôi chỉ dám chạy xe ôm ra vào bãi vàng thôi. Chạy xe trong thành phố sợ sinh viên và đồng nghiệp bắt gặp. Cũng ngượng lắm”. Bìa một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Đức Hạnh. Rồi cũng chưa “giàu”, anh giáo Hạnh lại xoay sang nghề vác máy ảnh đi chụp ảnh dạo cho du khách, thực ra chụp ảnh dạo cũng manh nha lâu rồi, từ năm 1983 kia, nghĩa là cùng lúc anh giáo Hạnh làm đủ kiểu để kiếm tiền. Tới năm 1991, thì ông mới thôi vác máy ảnh chạy rối rít theo chân du khách mời mọc họ đứng rồi cười toe toét cho mình bấm vài nháy. Tôi hỏi thêm: “Thế đã hết các kiểu nghề kiếm sống chưa?”. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh nói: “Còn. Tôi còn có 6 tháng đi đào than thổ phỉ ở mỏ than Làng Cầu bên huyện Đại Từ nữa. Vẫn chưa hết, tôi còn “kết hợp” với vợ mở quán bán nước chè ở ngay trong trường. Khổ nỗi sinh viên ra quán uống nước, hút điếu thuốc toàn “ghi sổ” thôi nên phải dẹp quán. Chỉ đến khi tôi tham gia luyện thi đại học thì mới khấm khá lên được”. Tôi đùa: “Ai bảo mới 21 tuổi đã lấy vợ rồi 22 tuổi đã có con. Tôi đây này, có con khi tuổi cao cao một tí nhưng được cái không chạy đôn chạy đáo kiếm tiền hồi thanh niên trai tráng”. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh cười (hình như có chút bẽn lẽn). Hồi nhỏ (cũng tới tầm 30 năm) gia đình ông dựng nhà ở ngay sát nghĩa địa Dốc Lim, nghĩa địa lớn nhất tỉnh Thái Nguyên . Hình như những linh hồn lởn vởn cùng cái khí u u minh minh mà cậu bé Hạnh cảm nhận được đã “truyền” cho ông năng lực viết lên những câu chuyện đậm tâm linh. Lúc nhỏ, vì ham mê đọc sách mà nhiều khi cậu bé Hạnh lẻn vào nghĩa địa, tìm ngôi mộ cao ráo có mái che để nằm đọc sách, có lẽ vậy mà cậu bé Hạnh đã nghe được “tiếng” của những linh hồn? Tôi thực sự có ấn tượng mạnh với truyện ngắn “Gào thét” của nhà văn Nguyễn Đức Hạnh, thực sự man miên với truyện ngắn “Tiếng chuông chùa Từ Đằng” của nhà văn Nguyễn Đức Hạnh. Đó là những truyện ngắn lấy cảm hứng từ những câu chuyện đời thật và từ chính bản thân của tác giả. Những truyện ngắn này đều đậm dấu ấn tâm linh và tác giả đã vận dụng rất thành công từ khuynh hướng “hiện thực huyền ảo” của văn học châu Mỹ La tinh. Rồi truyện ngắn “Hoa huê tình còn thơm” in Báo Văn nghệ năm ngoái nữa (2022). Truyện ngắn này đã lọt vào top ten “10 truyện ngắn hay năm 2022” của báo. Đó tuy là chọn lựa của Ban biên tập báo nhưng như một giải thưởng văn học vậy. Xin được nói thêm rằng: Cũng năm 2022, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh đã xuất bản tập truyện ngắn đầu tay mang tên “Tiếng chuông chùa Từ Đằng”, sách do NXB Hội Nhà văn ấn hành. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh trong những sáng tác của mình ngoài đề tài miền núi và tâm linh ra còn có những “ưu tiên” cho đề tài người chiến sĩ Công an nhân dân. Bài thơ “Những người hát bè trầm” của ông khá thành công, được phổ nhạc thành ca khúc cùng tên rất phổ biến. Lời thơ có câu: “ Nơi đây gió dữ như dao chém/ Bao cánh hoa bay trắng trời chiều/ Đất rắn như đá/ Cỏ xanh buồn hát khúc cô liêu/ Dáng lính trẻ cong như dáng mặt trời/ Lưỡi dao lia ngang mồ hôi chảy dọc/ Cây còi cọc chờ đếm từng lá non/ Tàu chuổi xác xơ không che đủ mái đầu/ Sớm nay hoa bừng nở/ Cây trái ngọt lành say đắm níu nhau/ Một ngày vinh quang vạn ngày khổ luyện/ Nơi đây là bệ phóng của chiến công ”. Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh cho biết: “Bài thơ này tôi viết tặng Trung tâm rèn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ của Bộ Tư lệnh Cảnh vệ ở núi Ba Vì. Trên đó thời tiết rất khắc nghiệt”. Với những nỗ lực và đóng góp cho sáng tác văn học và nghiên cứu văn học đó, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh đã đạt nhiều thành công đáng ghi nhận. Năm 2011, ông được phong hàm Phó Giáo sư. Năm 2004, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Văn học. Năm 2016, ông được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hội viên Hội Văn nghệ tỉnh Thái Nguyên.
Nhà văn Nguyễn Đức Hạnh: Làm đủ việc chỉ để viết văn – Tác giả: Nguyễn Trọng Văn
1,614
Chuyến công tác tới Indonesia tham dự Hội nghị Cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 42 từ ngày 9-11/5 của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã kết thúc tốt đẹp. Thủ tướng Phạm Minh Chính và các nhà lãnh đạo ASEAN tham quan vùng biển Labuan Bajo, Indonesia. Ảnh: Dương Giang/TTXVN. Trong khoảng 48 tiếng tại Labuan Bajo – địa danh du lịch trên đảo Flores của Indonesia, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có gần 20 hoạt động đa phương, song phương. Thông qua các hoạt động, Thủ tướng thể hiện nỗ lực, mong muốn của Việt Nam cùng các nước xây dựng bản sắc, giá trị, sức sống và uy tín của ASEAN và làm sâu sắc thêm quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN. Với chủ đề của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42 là: Hướng đến “Một ASEAN Tầm vóc: Tâm điểm của Tăng trưởng”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo các nước đã thảo luận, thông qua các thành tố chính của Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025, phác thảo tương lai của cộng đồng trong 20 năm tới, với mục tiêu, khát vọng phát triển mạnh mẽ hơn, xứng tầm ASEAN. Lãnh đạo các nước ASEAN cũng thông qua 10 văn kiện định hướng hợp tác ASEAN trong nhiều lĩnh vực, trong đó đáng chú ý có Tuyên bố chung hướng đến Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025, phát triển hệ sinh thái xe điện ở khu vực, Sáng kiến Một sức khỏe ASEAN, thúc đẩy kết nối thanh toán khu vực và tăng cường giao dịch bằng đồng bản tệ… Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nêu ra ba vấn đề cốt lõi quyết định bản sắc, giá trị, sức sống và uy tín của ASEAN, đó là giữ vững độc lập, tự chủ chiến lược, vươn mình bứt phá thành tâm điểm của tăng trưởng và thích ứng ngày càng tốt hơn trước những biến động bên ngoài. Thủ tướng cũng đề xuất nâng cấp Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN; triển khai đồng bộ và quyết liệt các dự án kết nối khu vực; tăng cường hợp tác kinh tế số, chính phủ số, kinh tế tuần hoàn; thu hẹp khoảng cách phát triển, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, các tiểu vùng. Để hiện thực hóa mục tiêu, khát vọng hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng, Thủ tướng đề nghị các thành viên ASEAN chung tay khơi dậy ý chí tự cường, đoàn kết, khơi thông các nguồn lực phát triển và khởi tạo các ý tưởng đột phá cho xây dựng cộng đồng, giúp ASEAN bứt phá trở thành tâm điểm tăng trưởng của khu vực và toàn cầu. Cho rằng ASEAN vừa là tâm điểm của hàng loạt sáng kiến liên kết và kết nối khu vực, đồng thời cũng là trọng điểm trong cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, Thủ tướng nhấn mạnh yêu cầu đặt ra cho ASEAN là thích ứng năng động và tăng cường sức mạnh tự thân để khẳng định giá trị chiến lược; giữ vững lập trường nguyên tắc trong các vấn đề liên quan trực tiếp đến môi trường an ninh phát triển nêu trong các văn kiện nền tảng, đặc biệt là giương cao ngọn cờ thượng tôn luật pháp quốc tế… Thủ tướng Chính phủ khẳng định lại điều quan trọng nhất là các nước thành viên ASEAN cần đoàn kết, phát huy tinh thần trách nhiệm, tinh thần tập thể vì mục tiêu chung, hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích của hiệp hội; tái khẳng định lập trường nguyên tắc của ASEAN về các vấn đề khu vực, quốc tế cùng quan tâm, trong đó bảo vệ hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông vừa là lợi ích, vừa là trách nhiệm của tất cả các nước. Những đề xuất của Thủ tướng Phạm Minh Chính nhận được sự quan tâm, ủng hộ và đánh giá cao của các nhà lãnh đạo ASEAN tham dự hội nghị. Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Phiên họp hẹp Hội nghị cấp cao ASEAN 42. Ảnh: Dương Giang/TTXVN. Trong chuyến công tác, Thủ tướng Chính phủ cũng tham gia các Phiên đối thoại giữa lãnh đạo các nước ASEAN với đại diện Đại Hội đồng liên Nghị viện ASEAN (AIPA), Thanh niên ASEAN, Hội đồng Tư vấn Kinh doanh ASEAN (ABAC) và Nhóm Đặc trách Cao cấp (HLTF) về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau năm 2025. Trên tinh thần cởi mở, chân thành và thực chất, với các đại diện AIPA, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu ba định hướng tăng cường hiệu quả phối hợp giữa lập pháp và hành pháp; với thanh niên, Thủ tướng đề nghị đưa Cộng đồng ASEAN thành “cộng đồng học tập” nhằm phát triển kỹ năng cho thanh niên ASEAN và “cộng đồng sáng tạo” để ASEAN là vườn ươm khởi nghiệp giúp thanh niên phát huy sức sáng tạo; với ABAC, Thủ tướng nêu định hướng “Ba cùng”, đó là cùng hoàn thiện thể chế, cùng phát triển cơ sở hạ tầng chiến lược và cùng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Thủ tướng yêu cầu Nhóm Đặc trách Cao cấp bám sát “ba đột phá” là đột phá trong kết nối, trong thúc đẩy tăng trưởng và trong phát triển con người, để vạch ra những đường hướng chiến lược cho ASEAN phát triển tới năm 2045. Cùng với các hoạt động đa phương, nhân dịp này, Thủ tướng Phạm Minh Chính có các cuộc gặp song phương lãnh đạo 8 nước gồm: Tổng thống Indonesia Joko Widodo, Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone, Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah; Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long; Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim; Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr.; Thủ tướng Timor Leste Taur Matan Ruak. Tại các cuộc tiếp xúc, cùng với điểm lại kết quả hợp tác, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo các nước thảo luận việc thực hiện các thỏa thuận, cam kết và các biện pháp tăng cường hợp tác, với các nội dung cụ thể, thực chất như việc tháo gỡ vướng mắc và thúc đẩy triển khai các dự án trọng điểm tại Lào; thúc đẩy thương mại biên giới, hợp tác phát triển kinh tế khu vực giáp biên với Campuchia; triển khai hiệu quả quan hệ Đối tác Kinh tế số – Kinh tế xanh với Singapore; tăng cường hợp tác biển, lập cơ chế tham vấn và quản lý về biển với Indonesia, Malaysia… Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Phiên Đối thoại giữa các lãnh đạo ASEAN và Nhóm công tác cấp cao về Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau 2025. Ảnh: Dương Giang/TTXVN. Việc tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42 và các hoạt động liên quan của Thủ tướng khẳng định Việt Nam đóng góp tích cực, chủ động và có trách nhiệm, góp phần củng cố đoàn kết ASEAN, ứng phó hiệu quả với các thách thức đang đặt ra; thể hiện ưu tiên của Việt Nam về kết nối hạ tầng chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, an ninh lương thực, năng lượng, phát triển tiểu vùng và ứng phó với biến đổi khí hậu; khẳng định vai trò, hình ảnh và uy tín của ASEAN, qua đó đóng góp cho công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN; giữ vững lập trường nguyên tắc của ASEAN về các vấn đề quốc tế và khu vực. Việc tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 42 và các hoạt động liên quan của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu Việt Nam góp phần triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về “tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế” và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về “đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Việt Nam cùng xây dựng bản sắc, giá trị, sức sống và uy tín của ASEAN
1,406
Theo Cơ quan khí quyển và đại dương quốc gia Mỹ (NOAA), chỉ trong 4 tháng đầu năm 2023 Mỹ đã hứng chịu 7 thảm họa thiên nhiên, ước tính mỗi thảm họa gây thiệt hại không dưới 1 tỷ USD. Cảnh tàn phá sau trận lốc xoáy tại Arkansas, Mỹ, ngày 1/4/2023. Ảnh: AA/TTXVN. Trong báo cáo khí hậu hằng tháng được NOAA công bố đầu tuần này, kể từ đầu năm đến hết tháng 4 vừa qua, nước Mỹ hứng chịu 7 thảm họa thiên nhiên bao gồm 5 đợt thời tiết khắc nghiệt, 1 cơn bão mùa Đông và 1 đợt lũ lụt, gây tổng thiệt hại hơn 19 tỷ USD và khiến 97 người thiệt mạng vì các nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan thảm họa. NOAA cho rằng đây là con số “đáng kể” các thảm họa thiên nhiên gây thiệt hại lớn xảy ra trong những tháng đầu năm 2023. Trước đó, chỉ có các năm 2017 và 2020 có số lượng thảm họa thiên nhiên cao hơn trong cùng giai đoạn, với 8 thảm họa xảy ra mỗi năm trong 4 tháng đầu năm. Năm 2022, Mỹ đã phải hứng chịu 18 thảm họa thời tiết và khí hậu, gây tổng thiệt hại hơn 165 tỷ USD. Kể từ năm 1980 đến nay tại Mỹ xảy ra 355 thảm họa thiên nhiên gây thiệt hại ở mức hàng tỷ USD. Tổng mức thiệt hại là hơn 2.540 tỷ USD. Theo NOAA, trung bình mỗi năm từ 1980-2022, Mỹ ghi nhận khoảng 8 đợt thiên tai gây thiệt hại hàng tỷ USD. Trong 5 năm trở lại đây, con số lên tới mức 18 đợt thiên tai như vậy mỗi năm./.
Mỹ hứng chịu 7 thảm họa thiên nhiên gây thiệt hại hàng tỷ USD trong 4 tháng qua
284
NASA đã chụp được hình ảnh gần nhất về hành tinh bí ẩn còn được gọi là siêu Trái đất hay sao Hải Vương thu nhỏ. Đây là tất cả những gì bạn cần biết. Hành tinh bí ấn có tên GJ 1214 b. Bạn đã nghe nói về một hành tinh xa xôi bên ngoài hệ Mặt trời của chúng ta chưa? Bạn có biết có một thế giới bí ẩn? Kính viễn vọng Không gian James Webb của NASA đã chụp được một thứ vô cùng đáng kinh ngạc. Đó là hình ảnh rõ nhất về hành tinh bí ẩn có tên GJ 1214 b. Nó lớn hơn các hành tinh đá như Trái đất, sao Hỏa, sao Kim, nhưng vẫn nhỏ hơn bất kỳ hành tinh băng hoặc khí khổng lồ nào trong hệ thống của chúng ta như sao Thiên vương, sao Hải vương chứ chưa nói đến sao Thổ, sao Mộc. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho rằng những hành tinh như vậy – thường được gọi là siêu Trái đất hoặc sao Hải vương thu nhỏ – cực kỳ phổ biến trong thiên hà của chúng ta. Thông báo của NASA đã tuyên bố: “Một nhóm khoa học đã có được quan sát sâu sắc mới về bầu khí quyển của một “sao Hải Vương thu nhỏ”, một loại hành tinh phổ biến trong thiên hà nhưng ít được biết đến. Kính viễn vọng Không gian James Webb của NASA đã quan sát thấy một hành tinh xa xôi bên ngoài hệ Mặt trời của chúng ta để tiết lộ nơi có khả năng là một thế giới có độ phản chiếu cao với bầu khí quyển ẩm ướt. Đó là cái nhìn cận cảnh nhất về một thế giới bí ẩn, một “sao Hải Vương nhỏ” mà hầu như không thể xuyên thủng đối với các quan sát trước đây”. Theo thông tin do NASA cung cấp, dù GJ 1214 b có nhiệt độ 277 độ C – quá nóng để con người có thể sinh sống cũng như để tồn tại các đại dương chứa nước lỏng, nhưng nó vẫn thuộc loại lạnh ở quy mô vũ trụ. Thậm chí, nước có khả năng tồn tại ở dạng hơi và vẫn có thể là một phần chính trong bầu khí quyển của GJ 1214 b. Eliza Kempton, một nhà nghiên cứu tại Đại học Maryland và là tác giả chính của một báo cáo vừa được xuất bản trên tạp chí Nature, cho biết: “Hành tinh này hoàn toàn bị bao phủ bởi một loại sương mù hoặc lớp mây nào đó. Bầu không khí vẫn hoàn toàn bị che khuất khỏi chúng ta cho đến khi có quan sát này”. Kempton cũng lưu ý rằng, nếu thực sự chứa nhiều nước, thì hành tinh này có thể là một “thế giới nước”, với một lượng lớn vật chất nước và băng giá vào thời điểm hình thành. Quan sát chứng minh sức mạnh của Thiết bị hồng ngoại trung bình (MIRI) của Webb, thiết bị này quan sát các bước sóng ánh sáng bên ngoài phần quang phổ điện từ mà mắt người có thể nhìn thấy. Nhờ sử dụng MIRI, nhóm nghiên cứu đã có thể tạo ra một loại “bản đồ nhiệt” của hành tinh khi nó quay quanh ngôi sao mẹ. Hành tinh này hoàn thành một quỹ đạo quanh ngôi sao mẹ chỉ trong 1,6 ngày Trái đất. Bản đồ nhiệt thời điểm ngay trước hành tinh di chuyển về phía ngôi sao và khi nó xuất hiện trở lại ở phía bên kia đã hé lộ chi tiết về thành phần của bầu khí quyển. Kempton cho biết: “Khả năng có được một quỹ đạo hoàn chỉnh thực sự rất quan trọng để hiểu cách hành tinh phân phối nhiệt từ phía ban ngày sang phía ban đêm. Có rất nhiều sự tương phản giữa ngày và đêm. Ban đêm lạnh hơn ban ngày”. Trên thực tế, nhiệt độ thay đổi giữa ngày và đêm của GJ 1214 b là từ 277 đến 165 độ C. Sự thay đổi lớn như vậy chỉ có thể xảy ra trong bầu khí quyển được tạo thành từ các phân tử nặng hơn, chẳng hạn như nước hoặc khí mê-tan. Điều đó có nghĩa là bầu khí quyển của GJ 1214 b hầu như không chứa các phân tử hydro nhẹ. Kempton cho biết, đây là manh mối tiềm năng quan trọng đối với lịch sử và sự hình thành của hành tinh này – được giả định là đầy nước trong giai đoạn hình thành. Kempton lưu ý dù GJ 1214 b được xếp vào hành tinh nóng nhưng nó mát hơn nhiều so với dự kiến. Đó là bởi vì bầu khí quyển sáng bóng bất thường của nó, điều gây ngạc nhiên cho các nhà nghiên cứu. Chính bầu khí quyển này đã phản xạ một phần lớn ánh sáng từ ngôi sao mẹ thay vì hấp thụ để có nhiệt độ nóng hơn. Trước đây, các nhà khoa học đã nghĩ rằng những đám mây có thể được tạo thành từ một loại sương mù tối nào đó, nhưng điều đó không phù hợp với lượng ánh sáng được phản chiếu. Các nhà khoa học có thể sẽ tạo ra khói mù hóa học có đặc tính tương tự trong phòng thí nghiệm, để mô phỏng điều kiện thực tế trên GJ 1214 b. Những quan sát mới có thể mở ra cơ hội hiểu biết sâu hơn về một loại hành tinh bị bao phủ kiểu như vậy. Mini-Neptunes – hay sub-Neptunes (hành tinh dạng sao Hải vương thu nhỏ) là loại hành tinh phổ biến nhất trong thiên hà, nhưng bí ẩn đối với chúng ta vì chúng không xuất hiện trong hệ Mặt trời . Các phép đo đạc cho đến nay cho thấy chúng tương tự như một phiên bản thu nhỏ của sao Hải vương nhưng trước nay ít được biết đến. Những phát hiện mới đã thu hút nhà nghiên cứu hành tinh Laura Kreidberg, thuộc Viện Thiên văn học Max Planck ở Đức , người không thuộc nhóm nghiên cứu này nhưng đã từng sử dụng Kính viễn vọng Không gian Hubble để quan sát GJ 1214b trong quá khứ. Kreidberg gọi hành tinh này là “cá voi trắng” đối với các nhà khoa học nghiên cứu các hành tinh bên ngoài hệ Mặt trời vì nó rất khó để mô tả đặc điểm. Kreidberg nói: “Thật tuyệt khi cuối cùng cũng thấy một số bí mật được tiết lộ. Tôi không ngờ bầu khí quyển của nó lại sáng bóng như vậy. Điều đó hoàn toàn không nằm trong hình dung của tôi. Chúng ta sẽ phải quay lại bàn để tìm hiểu tại sao hành tinh này lại sáng bóng như vậy”.
Những phát hiện giá trị khi NASA chụp được siêu Trái đất màu hồng
1,136
Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn trả lời phỏng vấn về kết quả chuyến công tác tham dự hội nghị của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Ảnh: VGP/Nhật Bắc Ngay sau khi Hội nghị Cấp cao ASEAN 42 kết thúc, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã trả lời phỏng vấn về kết quả chuyến công tác tham dự hội nghị của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Trong hai ngày 10 và 11/5, tại hội nghị, lãnh đạo ASEAN đã thống nhất nhiều định hướng quan trọng cho hợp tác ASEAN 2023 và những năm tới. Các trao đổi diễn ra xung quanh chủ đề “Một ASEAN Tầm vóc: Tâm điểm của tăng trưởng.” Kết quả của hội nghị đã gửi đi nhiều thông điệp lớn. Trong thời gian hội nghị, các nhà lãnh đạo đã có các cuộc gặp, đối thoại với Nghị viện các nước ASEAN, thanh niên, doanh nghiệp, và Nhóm đặc trách cao cấp về tầm nhìn cộng đồng sau 2025. Thứ nhất, tinh thần đoàn kết, độc lập, tự cường và tự chủ chiến lược được phản ánh rõ nét trong phát biểu của các nước. Các lãnh đạo đều thống nhất rằng đây chính là sức mạnh, là động lực và cũng là phương châm để ASEAN giữ vững vị trí, vai trò và hình ảnh trong khu vực và trên thế giới. ASEAN sẽ là lực lượng trung tâm trong tiến trình củng cố hòa bình, duy trì ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á và rộng lớn hơn là châu Á-Ấn Độ Dương-Thái Bình dương. Thứ hai, ASEAN có đủ điều kiện trở thành tâm điểm của tăng trưởng cũng được các nước hết sức đề cao. Kinh tế toàn cầu bấp bênh, địa chính trị biến động, thách thức, khó khăn chồng chất, nhưng ASEAN vẫn tăng trưởng ở mức cao, tới 5,5% năm qua trở thành là nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới. Tuy vậy, các nước vẫn cho rằng chưa thể chủ quan, cần đẩy mạnh hợp tác trong một số lĩnh vực mới, chiến lược, như tăng cường thương mại, đầu tư nội khối, chuyển đổi số, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh, năng lượng tái tạo… Thứ ba, lợi ích của người dân được coi là mục tiêu cao nhất, là tâm điểm của Cộng đồng ASEAN. Các nội dung được bàn thảo, các văn kiện của hội nghị lần này đều xoay quanh lợi ích của người dân, hướng tới phát triển đồng đều, bền vững và bao trùm. Điều này thấy rõ qua các tuyên bố của lãnh đạo cấp cao, tất cả đều rất thiết thực, hướng tới cộng đồng như lao động di cư, mạng lưới làng xã, phát triển nông thôn… Trong thời gian hội nghị, các lãnh đạo cũng dành thời gian lắng nghe ý kiến của các giới khác nhau trong ASEAN như quốc hội, thanh niên, doanh nghiệp và Nhóm đặc trách cao cấp về tầm nhìn ASEAN sau 2025. Các phát biểu rất tập trung, đều thể hiện quyết tâm chung tay xây dựng Cộng đồng thực sự hướng tới người dân và lấy người dân làm trung tâm. Xin Bộ trưởng cho biết đóng góp của đoàn Việt Nam tại hội nghị lần này? Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đoàn đại biểu Việt Nam đến Labuan Bajo lần này mang theo nhiều thông điệp quan trọng. Đó chính là tinh thần đoàn kết ASEAN, quyết tâm đóng góp thực chất, hiệu quả cho công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN và cũng là khẳng định đường lối nhất quán, chủ trương thống nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam, coi ASEAN là bộ phận quan trọng, không tách rời trong chính sách đối ngoại. Trên tinh thần đó, những phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính đều hướng tới khởi tạo ý tưởng, khơi dậy tự cường, khơi thông nguồn lực cho sự phát triển của Cộng đồng ASEAN. Thủ tướng nêu nhiều đề xuất tại các phiên họp. Thứ nhất, đoàn kết, thống nhất, độc lập, tự lực, tự cường và phát huy mạnh mẽ vai trò trung tâm là những giá trị nền tảng làm nên thành công của ASEAN. Thủ tướng nêu rõ đoàn kết là sức mạnh vô địch, phải thể hiện qua ý chí và hành động cụ thể. Củng cố đoàn kết và thống nhất là nhiệm vụ căn cốt cho một ASEAN độc lập và tự cường. Thủ tướng cũng nhấn mạnh ASEAN cần phải giữ vững cân bằng chiến lược trong quan hệ với các Đối tác, đặc biệt là các nước lớn. Giữ được cân bằng chiến lược sẽ giữ được vai trò trung tâm của ASEAN, hướng tới xây dựng “một ASEAN tầm vóc”. ASEAN phải thực sự là một cầu nối tin cậy, có năng lực điều hòa các mối quan hệ với các nước lớn; tạo dựng và thúc đẩy văn hóa đối thoại, hợp tác tham vấn, xây dựng lòng tin; phối hợp ứng phó với các thách thức chung. Thứ hai, thúc đẩy kết nối khu vực trên cả ba phương diện thể chế, hạ tầng và con người để khai thông các điểm nghẽn hợp tác và khơi dậy tiềm năng phát triển. Thủ tướng nhấn mạnh đây là ba đột phá chiến lược để tạo xung lực phát triển mạnh mẽ hơn cho ASEAN trong những thập kỷ tới. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất ổn, để thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững, Thủ tướng nhấn mạnh mở rộng thị trường nội khối, đề nghị nỗ lực đàm phán nâng cấp Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN, triển khai đồng bộ và quyết liệt các dự án kết nối khu vực, tạo bước chuyển về chất cho môi trường đầu tư, kinh doanh và du lịch. Thủ tướng đề nghị quan tâm thúc đẩy hợp tác kinh tế số, chính phủ số, kinh tế tuần hoàn, cùng với kết nối mạng lưới điện, phát triển năng lượng tái tạo, và sớm xây dựng các chiến lược dài hạn về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thông qua nâng cao hiệu quả triển khai Thỏa thuận công nhận lẫn nhau về lao động trong một số ngành nghề của ASEAN. Thứ ba, bám sát tinh thần cốt lõi của ASEAN là lấy người dân làm trung tâm, mục tiêu và động lực của xây dựng Cộng đồng, Thủ tướng nhấn mạnh ASEAN cần quan tâm thúc đẩy nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa và tiểu vùng. Hợp tác tiểu vùng cần được gắn kết với các chương trình hợp tác chung của Cộng đồng ASEAN trên tất cả lĩnh vực, nhằm mở ra không gian phát triển rộng lớn hơn, và bảo đảm cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả người dân. Tại hội nghị, Thủ tướng đã cùng các lãnh đạo trao đổi sâu rộng về các vấn đề khu vực và quốc tế, tái khẳng định lập trường nguyên tắc của ASEAN. Thủ tướng nhấn mạnh bảo vệ hòa bình, ổn định, an ninh,an toàn tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông vừa là lợi ích, vừa làtrách nhiệm của tất cả các nước, đề nghị thúc đẩy thực hiện đầy đủ thúc đẩy thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố DOC và phấn đấu đạt được Bộ Quy tắc COC thực chất, hiệu quả, phù hợp luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Những đề xuất và đóng góp trên đây của Thủ tướng nhận được sự quan tâm, ủng hộ và đánh giá cao của các đại biểu. Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ đã gặp gỡ, tiếp xúc lãnh đạo các nước ASEAN để rà soát việc thực hiện các thỏa thuận, trao đổi các biện pháp tăng cường quan hệ, mở ra các cơ hội mới đưa hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, an ninh-quốc phòng, văn hóa-giáo dục, giao lưu nhân dân… giữa Việt Nam và các nước ASEAN ngày càng sâu sắc, hiệu quả và thực chất. Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng.
Thủ tướng dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 42: Một ASEAN tầm vóc, hết mình vì lợi ích người dân
1,386
Phố sách Hà Nội. Ảnh: Quang Vinh. Việc ra đời các phố sách, nâng cấp thư viện, tổ chức hội sách, tu sách cộng đồng… đã và đang tạo ra những không gian lan tỏa văn hóa đọc, thúc đẩy thói quen đọc sách của người dân. Khai trương vào năm 2017, tại con đường 19/12, sau 6 năm triển khai, Phố sách Hà Nội từ những bỡ ngỡ ban đầu giờ đây đã trở thành điểm đến văn hóa của Thủ đô. Đặc biệt, các sự kiện vào dịp Tết Nguyên đán và vào những ngày cuối tuần thu hút đông đảo người dân trải nghiệm. Đến với Phố sách Hà Nội giờ đây không chỉ có sách mà còn là không gian cà phê, góc trải nghiệm và sân khấu trung tâm, nơi diễn ra hơn 300 sự kiện giao lưu tác giả, tác phẩm và các hoạt động văn hóa, nghệ thuật trong 6 năm qua. Theo thống kê, chỉ riêng trong những tháng đầu năm 2023 lượng độc giả đã tăng 90% so với năm ngoái. Đặc biệt, đến Phố sách Hà Nội người ta còn dễ dàng bắt gặp những buổi quyên góp sách cho trẻ em nghèo. Từ đó nhân lên tình yêu sách, và gửi tình yêu ấy đến muôn vạn nẻo đường đất nước. Ra đời trước đó vào năm 2016, Đường sách TP Hồ Chí Minh với chiều dài 144 m và khoảng 30 gian hàng hiện nay cũng đã trở thành một điểm đến nổi bật ở khu vực trung tâm thành phố. Qua 7 năm tồn tại, đường sách đã phục vụ tới 15 triệu lượt khách, doanh thu không ngừng gia tăng. Đặc biệt, trong những năm qua Đường sách TPHCM đã trở thành địa điểm quen thuộc của nhiều hoạt động liên quan tới sách như phát động các cuộc thi, giới thiệu tác phẩm mới, giao lưu với tác giả, các sự kiện giảm giá, khuyến mãi… Phó Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam, Giám đốc Đường sách TPHCM Lê Hoàng cho biết, khác với các tiệm sách thông thường, mô hình đường sách có một lợi thế lớn đó là nơi tập trung những nhà xuất bản, đơn vị phát hành sách lớn. Độc giả đến đây không chỉ để mua sách mà còn trải nghiệm những hoạt động liên quan đến sách, giao lưu với tác giả… Vẫn theo ông Hoàng, hiện nay tại đường sách và phố sách đang tiến hành xây dựng các chương trình tương tác, đồng thời có thêm câu lạc bộ giới thiệu tại các trường học để thu hút các em học sinh. Bởi khi số lượng đường sách tăng lên, các hoạt động cần nhắm đến đối tượng cụ thể tại địa phương. Các hoạt động cần có đối tượng cụ thể, nói về câu chuyện về nơi họ đang sống chứ không chỉ nói chung chung. Cùng với các mô hình đường sách, phố sách đang được nhân rộng tại nhiều địa phương, thời gian qua những điểm đến của những người yêu sách như thư viện, tủ sách cộng đồng, hội sách… cũng đã có những thay đổi nhằm thích ứng với nhu cầu của độc giả. Mới đây, Thư viện Hà Nội cũng đã tổ chức khánh thành dự án “Tái tạo thư viện công cộng” nhằm tạo ra một không gian văn hóa đặc sắc cho Thủ đô. Hay thành phố Tam Kỳ (Quảng Nam) với dự án “Thư viện số cộng đồng” nhằm tạo không gian đọc cho nhân dân thành phố, nhất là tầng lớp thanh, thiếu nhi, góp phần phát triển văn hóa đọc và phong trào học tập suốt đời. Đây là thư viện số cộng đồng đầu tiên của cả nước… Đường sách TP Hồ Chí Minh. Có thể nói, bên cạnh việc tạo ra các điểm đến văn hóa, các không gian như phố sách, đường sách, thư viện… đang là chất xúc tác hiệu quả trong việc nâng cao tỷ lệ đọc sách tại Việt Nam. Tuy nhiên, để lan tỏa văn hóa đọc rộng khắp trong cộng đồng, vẫn còn đó những trăn trở. Bởi phát triển văn hóa đọc là chặng đường dài. Ở Việt Nam, chặng đường này thậm chí còn nhiều khó khăn do phần đông người Việt chưa rèn thói quen đọc sách hay dành sự quan tâm tới sách. Bên cạnh đó, việc các mô hình phố sách không phải địa phương nào cũng hái được “quả ngọt”. Bởi mở một phố sách đã khó, nhưng để duy trì còn khó hơn. Chỉ cần thiếu hoạt động quảng bá, tổ chức sự kiện đơn điệu, thiếu hấp dẫn, thái độ phục vụ thiếu lịch thiệp, biến phố sách thành nơi tổ chức ăn uống, nhậu nhẹt… thì chẳng mấy chốc sự lôi cuốn của phố sách, đường sách sẽ suy giảm. Đơn cử như mô hình phố sách Hai Bà Trưng ở Huế sau một thời gian thí điểm đã phải dừng hoạt động. Về vấn đề này, bà Triệu Thục Trinh – thành viên Ban quản lý Phố sách Hà Nội bày tỏ, Phố sách Hà Nội cũng đã trải qua một thời gian dài tương đối khó khăn. “Để hồi sinh Phố sách, chúng tôi tổ chức nhiều hoạt động khuyến đọc, tổ chức nhiều sự kiện thu hút bạn đọc. Các sự kiện mời nhiều diễn giả về, bàn về sách, lan tỏa văn hóa đọc. Ngoài ra còn có hoạt động tặng sách cho các trường, đến vùng sâu vùng xa; hoạt động đổi sách lấy cây… Đó là những hoạt động tương tác, được tổ chức với mục đích để mọi người tiếp cận với sách rộng rãi hơn”- bà Trinh nói đồng thời cho rằng, để phát huy hiệu quả mô hình của phố sách thì mọi hoạt động đều phải được sàng lọc và có giá trị văn hóa. Đơn cử như những triển lãm nghệ thuật cũng phải được lựa chọn, có chủ đề giúp kích thích người ta tìm hiểu về văn hóa, kinh tế, xã hội Việt Nam. Khách trong và ngoài nước đến đây tìm kiếm những giá trị văn hóa sẽ được khơi gợi cảm hứng để tìm hiểu sâu hơn nữa. “Khách đến Phố sách vừa có thể tham quan, giải trí, nghỉ ngơi và mua sắm. Phố sách giờ đây rất sôi động và nhộn nhịp. Không gian đẹp, an toàn, trẻ con có thể nô đùa, cha mẹ có thể nghỉ ngơi mà không cần lo lắng” – bà Trinh nói.
Lan tỏa không gian văn hóa đọc
1,098
Một số đài thiên văn Trái Đất đã bắt được tín hiệu từ một quả cầu lửa dữ dội chưa từng thấy, tuy cách xa tới 8 tỉ năm ánh sáng nhưng sáng như một siêu tân tinh hay sao chổi vừa bay ngang qua ở cự ly gần. Theo The Guardian , quả cầu lửa này to gấp 100 lần hệ Mặt Trời, sáng gấp 2 triệu lần Mặt Trời và chỉ trong 3 năm qua đã giải phóng năng lượng gấp 100 ngôi sao mẹ của chúng ta trong suốt vòng đời sẽ kéo dài 10 tỉ năm. Vụ bùng nổ ánh sáng được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2022 bởi sứ mệnh khảo sát bầu trời đêm Zwicky, một máy ảnh hiện đại gắn trên Kính viễn vọng Samuel Oschin của Đài quan sát Paloma ở California – Mỹ . Ảnh đồ họa mô tả cách quả cầu lửa xuất hiện – Ảnh: John A. Paice/SPACE. Nó sáng đến nỗi người ta tưởng rằng có một sao chổi chưa từng biết vừa bay ngang qua bầu trời Trái Đất, hoặc một siêu tân tinh – tức vụ nổ sao – ở cự ly khá gần. Nhưng các tính toán sau đó khiến các nhà thiên văn choáng ngợp: Nguồn sáng bùng nổ đó cách chúng ta tận 8 tỉ năm ánh sáng. Tiến sĩ Philip Wiseman, nhà thiên văn học từ Đại học Southampton ( Anh ), thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết các dữ liệu cũ cho thấy nguồn sáng đã tồn tại hơn 1 năm trước khi được chú ý vì tăng độ sáng đột ngột. Nó tiếp tục sáng rực rỡ trong 3 năm nay. Họ tin rằng vụ bùng nổ – được đặt mã số AT2021lwx – là kết quả của một đám mây khí khổng lồ lớn hơn Mặt Trời hàng nghìn lần bất ngờ lao vào miệng một lỗ đen quái vật và không thể thoát ra. Quá trình thảm khốc này đã khiến lỗ đen hóa thành một chuẩn tinh sáng chưa từng thấy, phát ra năng lượng khủng khiếp xuyên không – thời gian, khiến cả người Trái Đất ở rất xa cũng quan sát thấy. Đây không phải hiện tượng sáng nhất từng được ghi nhận. Một vụ nổ tia gamma sáng hơn từng được phát hiện vào năm ngoái nhưng chỉ kéo dài vài phút. Quả cầu lửa này, sau 3 năm bùng nổ, vẫn đang tiếp diễn mạnh mẽ và tổng năng lượng giải phóng trong toàn quá trình sẽ còn lớn hơn rất nhiều.
Cầu lửa sáng gấp 2 triệu lần Mặt Trời bùng trên bầu trời Trái Đất
417
Nhà văn Khuất Quang Thụy, Tổng biên tập báo Văn nghệ tại buổi lễ phát động Cuộc thi truyện ngắn 2022 – 2024. HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 75 NĂM BÁO VĂN NGHỆ RA SỐ ĐẦU TIÊN Đã ngót một năm trong cuộc thi hai năm trôi qua, đã có gần 100 truyện ngắn được chọn in từ gần ngàn truyện gửi; đó là con số khả quan về sức hút của cuộc thi. Chúng ta đều biết rằng, để tránh cái bẫy của thu nhập trung bình, mọi cấp mọi ngành, từ nhà hoạch định chính sách đến những người lao động đều phải nỗ lực vượt thoát khỏi chính mình. Để thoát khỏi tình trạng làng nhàng trung bình, văn chương cũng cần nỗ lực như thế, hơn thế nữa. Đó cũng là động lực để Văn nghệ tổ chức cuộc thi khi phải đối diện khá lâu trước một thực trạng trung bình như là một cách để bứt phá. Trong râm ran khởi đầu, đáng kể nhất có lẽ là lão nhà văn Hà Đình Cẩn. Ông đã U 80 và đã in bốn truyện ngắn, truyện nào cũng ghê gớm và có nét mới: Tình yêu thủy chung với người lính ra trận vốn thiêng như một mặc định, nay chợt bị đặt trước cái xô bồ nhộn nhạo của thời thị trường ( Gió mặn ); cái motif xung quanh diocin tuy cũ, các chi tiết tình huống cũng cũ nhưng tình của những đồng đội cũ thì lại mởi mẻ, bao dung ( Ga cuối ); tuy chưa dứt khoát trong quan niệm thẩm mỹ, còn do dự giữa ý thức với tính nhân văn tự do, Tháp đèn do đó chưa đạt đến một tổng phổ cần thiết. Rất tiếc hoàn cảnh cô đơn của Hạnh khá đồng điệu với ông nhạc sĩ Saent Saens thời Côn Đảo còn hoang sơ, với nhân vật trong vở nhạc kịch nàng Fredegonde hoàng hậu đã chưa thật “gặp gỡ” để truyện ngắn thành một chỉnh thể nghệ thuật. Và gần đây nhất là Mađagui , một truyện ngắn cũng rất nhiều điều đáng để ngẫm nghĩ… Đáng kể nữa là các nhà văn đều nặng lòng với trái đất tổn thương, môi trường thiên nhiên bị hủy hoại; mùi thuốc sâu độc hại phục kích trong mọi thứ đồ ăn non tươi mơn mởn, phảng phất trong trong không gian sống của con người: Vàng đau (Nguyễn Thu Hằng) khiến ám ảnh với màu vàng chuối chín được Xoan rấm bằng thuốc diệt cỏ rồi chính nó gây ngộ độc cho đứa con trai ốm o duy nhất của Xoan; Xe đêm (Đặng Chương Ngạn) kể câu chuyện thằng con trai muốn ném bom xăng vào kho chứa thuốc sâu, để báo thù cho cái chết của cha, của đứa bạn gái mà nó phải lòng nhưng ông chủ xe đã quát vào mặt nó rằng liệu nó phải ném bao nhiêu quả bom xăng thì mới xử lý tiệt nọc thuốc sâu – tiếng quát của ông chủ xe cứ ám ảnh mãi bạn đọc, như một câu hỏi lớn thời đại mà chúng ta đang sống. Miền xa ngái (Phạm Xuân Hùng) kể câu chuyện giết nhau ở bãi vàng về vì nghi kỵ ăn chia cứ diễn ra, đơn giản và vô lý đến kỳ quặc; Hồn rừng (Đinh Thành Trung) kể câu chuyện kinh hoàng vụ đốt rừng, chữa cháy rừng đặt ra một vấn đề ghê gớm: Chúng ta đốt đi cái ngàn năm ông cha để lại rồi ngồi hy vọng cỏ cây nhú lên từng vạt từng vạt mà thành rừng cho mai sau. Lời ru trên núi Chù Khèo (Đặng Thùy Tiên) thật xót xa, bản Mông tít mù trên núi xa đã không còn trong lành nữa, thói đời ô mạt, văn minh xa xôi đã len lỏi vào núi vắng, đánh bật một truyền thống xe lanh dệt vải thêu váy lộng lẫy một thời, cái xấu cái ác đã len lỏi vào tình ruột thịt để rồi cái đẹp – em dâu Dể của Dua tự vẫn, Dua – nạn nhân của cái xấu ác lại gánh thêm việc nuôi lũ con thơ dại, của vợ chồng em dâu để lại, trong đó có đứa con lẽ ra là của chị! Một thế giới khác (Vũ Thị Huyền Trang) lại kể một chuyện ác khác, vợ chồng anh con cả làm quan, đưa bằng được ông bố – nguyên là chủ tịch xã, sống một đời vô tư lự, làm tốt cho dân làng việc gì thì cố làm và cố tranh những lần gặp gỡ quà cáp lằng nhằng. Anh ta đứa bố lên thị trấn, danh nghĩa là để vật lý trị liệu, phục hồi chức năng cho ông bố vừa bị tai biến não, nhưng thực là nhằm nhận phong bì của các cấp các ngành thăm bố quan ốm. Cứ như thể vợ chồng anh con cả vít cổ bằng được cái thanh cao còn sót lại ở cha mình xuống vũng bùn ô danh hiện là môi trường sống của họ. Vũ Thị Huyền Trang còn một truyện nữa, truyện Đất chùa, cũng thật chua chát. Xưa Nguyễn Huy Thiệp viết Thương nhớ đồng quê, văn minh mới về đến đầu làng đã gây tai nạn chết người; nay Trang lại viết về cái văn minh ấy, nó chưa hề đến, nó còn ở đâu đâu, mới là tin đồn nhưng văn minh đã kịp “đánh” tan tác tình người xung quanh nạn tranh giành đất đai. Tình mẹ con xói mòn, một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi nổi một mẹ vốn là chuyện đã thành điển cố, nhưng làm sống lại như trong Phận ngải (Nguyễn Thị Mai Phương) khiến đánh thức cái hiện hữu thì nỗi đau chợt nhói lên: Hóa ra nó không cũ bao giờ. Truyện trở nên ám ảnh và đầy ẩn dụ khi nhân nghĩa cưu mang như đồi hoang nơi bà Thảo nằm chết trong bạc bẽo bỗng mọc đầy ngải cứu, đủ làm nhẹ bớt nỗi đau và xoa dịu niềm phẫn nộ. Tuy không phải là dòng chủ lưu, nhưng những truyện đang diễn ra, đang gây nhức nhối tâm can thế sự vẫn khiến bạn đọc tin rằng nhà văn không nguôi quên tâm thế xã hội. Vợ người anh hùng (Nguyễn Trọng Luân) kể lại thời đã qua, hay nỗi mất mát lớn nhất đời người vợ góa trẻ đã qua nhưng khi nhà văn kể lại, một niềm ngan ngát buồn thương trở lại và không thể tan biến nữa về một thời người vợ liệt sĩ đã chịu đựng. Truyện không kêu gọi hay chê trách ai về cái thiếu hụt không sao bù đắp nổi kia, nhưng nó ám ảnh và ngan ngát buồn thương. Tù nhân đặc biệt (Hồ Ngọc Quang xoáy vào các “tù nhân cao cấp”, ở bên ngoài thì họ sống trên pháp luật, ở trong tù thì họ tạo ra một kiểu tù chả giống ai, không giống ở đâu; thật đáng ghê tởm. Trần Hợp in liền ba truyện và đều gây ấn tượng. Ân nhân bùn đỏ điển hình cho một kiểu làm khoa học bằng “vốn tự có” kiêm thói lưu manh giả danh trí thức của một người trẻ; “Anh đứng cho chú vững chưng” lại điển hình cho một kiểu cướp công nghiên cứu của học trò, của cấp dưới của những “ông thày” chuyên cho mượn chức danh hàm vị; “Trưởng phòng đang gọi đến” là tên truyện, cũng là dòng tên ghi trong danh bạ điện thoại của một cấp dưới chuyên xu nịnh, nhưng rồi anh ta thức tỉnh. Có thể nói, tác giả Trần Hợp đã cất tiếng giùm lớp trẻ trước lớp cha chú biến chất đã dần trở nên quan liêu xơ cứng, một thái độ dứt khoát, rõ ràng, đanh thép rất đáng để tin cậy. Cuộc chiến sinh tử (Hải Đăng) và Về một người đã ra đi (Phạm Quốc Toàn) như là viết về các nhân vật tiêu biểu nhưng chân thực, sống động, đặt ra một vấn đề đạo lý kinh doanh, đạo lý làm người. Linh mã (Nguyệt Chu) viết về cái gốc của chân linh – cái trinh vẹn Người, sự thành kính trước anh hùng lịch sử dân tộc đã bị đốn ngã; chân linh không ở trong đền, linh mã bơ vơ tìm chân chủ tướng; trong đền chỉ còn là những giá đồng ma giả làm thần thánh và như một mong muốn của tác giả hơn là hiện thực diễn ra, nạn buôn thần bán ma phải được thiêu rụi. Truyện Làng Ba (Nguyễn Thị Minh Hoa) viết thật tài tình về một đời sống tâm linh u mê, nó khiến vừa buồn cười sự ngô ngọng, về cái “nguồn cơn” rất đỗi mờ mịt được dựng thành nhà thánh để thờ phụng, để phát triển hẳn thành một “làng tấu sớ” sầm uất trù phú. Ở một tầm khái quát cao hơn, Lễ đặt tên cho những linh hồn (Y Ban) đụng vào nỗi đau nhức nhối chưa bao giờ vợi giảm, ấy là nạn nạo phá thai do u tối, do sinh hoạt bừa bãi nhân danh cách mạng tình dục và cả cái ác tiềm ẩn kề cận ngay cạnh thói đạo đức giả đã thành căn bệnh trầm kha. Vấn nạn ấy chưa qua, giờ là lúc làm ăn sinh ra thói tật cầu cúng, sinh ra lòng trắc ẩn mong sám hối để được thanh thản, để “các vong” chưa đủ hình hài khỏi đeo bám những ác tâm được mang danh các “tín chủ.” Y Ban có lẽ là nhà văn lần đầu tiên đặt tên cho các linh hồn chưa có đủ hình hài, đưa khái niệm linh hồn đi thêm một bước đến nhân văn? Dòng tìm tòi lối viết (chuyển đổi thi pháp) được nhiều tác giả thử sức. Mưa cổ thành ( Bùi Việt Phương ) là một áng văn lạ, trong những cơn mưa của hiện thời, quá khứ nhiều thời sống dậy, đan xen trong mưa, trong tâm tưởng một nữ sinh mơ mộng mường tượng về lịch sử thấm máu cha ông; nữ sinh bỗng thấy mình trở thành là một phần không thể thiếu của thực thể mơ mộng đang diễn ra trong hồn cô. Mặt trời đắng (Phát Dương) sắp đặt công phu, diễn ngôn ấn tượng và hẳn để hàm chứa tư tưởng nghệ thuật không đơn giản: Hãy để cho đời sống gần với thuần phong mĩ tục, với tập quán ngàn đời chứ không thể khiên cưỡng áp đặt nhân danh nhiều thứ hay ho sẽ chỉ khiến con người lâm vào cảnh khốn cùng. Những cư dân xóm nghèo nhất loạt xin trả lại mặt trời đắng cho các thần linh và đòi lại mặt trời quen thuộc cũ là một tiếng nói nhiều thông tin. Rất tiếc, kiểu diễn đạt hơi cầu kỳ; đành rằng trúc trắc khúc khắc là một phép diễn ngôn nhưng làm dụng quá thì thành ra … làm văn! Thực ra, truyện của Y Ban và Nguyệt Chu thân nằm ở thực tại nhưng hồn đã phiêu bồng sang một hiện thực khác – hiện thực tâm linh. Nói chung, mỗi tác giả đều đã tìm cho truyện của mình một thi pháp mới; nó khiến diện mạo chung là phong phú đa dạng và cái nó mang đến nhiều nhất là… không nhạt! Ở trên, tôi mới chỉ nói được một phần trong cảm nhận tích cực từ cả trăm truyện ngắn. Xin chỉ coi đây như một cách đọc của riêng một người. Rất đáng mừng là ngoài đa dạng cái viết, lối viết; các tác giả đều đã và đang tự trỗi vượt khỏi mình. Ấy là tiền đề cho truyện ngắn nhúc nhích từng bước về phía mới, lạ, hay. Ấy cũng là cơ sở cho hy vọng cuộc thi sẽ bứt tốc để về đích ngoạn mục.
Cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2022 – 2024: Khúc dạo đầu đáng để hy vọng
1,970
Ngày 11/5, Cơ quan Khí tượng Bangladesh ban bố cảnh báo bão Mocha có nguy cơ phát triển thành siêu bão đang tiến sát bờ biển ở Đông Nam nước này. Lệnh sơ tán khẩn cấp gần 1 triệu dân cư các vùng ven biển đã được đưa ra. Cảnh báo bão nguy hiểm số 1 được phát đi qua loa phóng thanh tại tất cả các cảng ở hai thành phố Chattogram và Cox’s Bazar. Các tàu đánh cá và tàu chở khách được khuyến cáo neo đậu tại nơi trú ẩn cho đến khi có thông báo mới. Trong khi các khu vực có nguy ảnh hưởng lớn do thiên tai đã kéo cờ cảnh báo màu đỏ. Chính quyền các thành phố nói trên đã bắt đầu chiến dịch sơ tán gần 1 triệu người trước khi bão đổ bộ. Trước đó, ngày 10/5, Giám đốc Cơ quan Khí tượng Bangladesh Md Azizur Rahman dự báo bão Mocha sẽ quét qua khu vực ven biển phía Đông Nam của Bangladesh và bờ biển phía Bắc Myanmar vào ngày 14/5. Ông cho biết quân đội, hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển của nước này đã sẵn sàng triển khai lực lượng cứu hộ cứu nạn do bão Mocha có khả năng tăng cấp thành siêu bão. Bão mạnh cướp đi sinh mạng của hàng trăm người mỗi năm tại Bangladesh .
Bangladesh sơ tán gần 1 triệu người, sẵn sàng ứng phó với siêu bão
229