text
stringlengths 78
4.36M
| title
stringlengths 4
2.14k
| len
int64 18
943k
| gen
stringclasses 1
value |
---|---|---|---|
Ngày 11/5, đảo núi lửa Anak Krakatau ở khu vực Eo biển Sunda của Indonesia đã phun trào những cột khói cao tới 3.000 m.
Cột khói bốc lên từ miệng núi lửa Anak Krakatau, nhìn từ đảo Rakata ở Nam Lampung, Indonesia. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN.
Trung tâm Giảm thiểu tác hại của núi lửa và địa chất (CVGHM) cho biết đợt phun trào bắt đầu từ 5h19 (giờ địa phương) và kéo dài trong hơn 2 phút.
Kể từ hình thành hồi tháng 6/1927, Anak Krakatau ngày càng hoạt động mạnh, khiến đảo núi lửa này gia tăng độ cao và diện tích. Hoạt động phun trào tăng mạnh từ ngày 24/4/2022 và cơ quan chức năng duy trì cảnh báo nguy hiểm cấp 3. Người dân được khuyến cáo tránh xa Anak Krakatau trong bán kính ít nhất 5 km.
|
Núi lửa Anak Krakatau tại Indonesia phun trào
| 140 | |
Sách Một người phụ nữ của Annie Ernaux. Ảnh: NN.
Trong buổi giao lưu ra mắt 3 cuốn sách của
Annie Ernaux
, nhiều độc giả đã đặt câu hỏi về tư tưởng trong sách Ernaux, về cách định nghĩa các cuốn sách của bà.
Ngày 6/10/2022, nhà văn người Pháp Annie Ernaux đoạt Nobel Văn chương vì “lòng dũng cảm và sự nhạy bén sắc lạnh bà sử dụng để khám phá ra gốc rễ, sự bất hòa và những hạn chế của ký ức cá nhân”. Ngay lập tức, giới yêu văn chương tò mò và tìm đọc các tác phẩm của nhà văn này.
Sách Annie Ernaux đã được xuất bản tại Việt Nam trước đó nhưng chưa gây được tiếng vang thực sự. Sau giải Nobel, các tác phẩm của bà mới được độc giả Việt săn đón, được đơn vị xuất bản tái bản và mua thêm bản quyền.
Nhân dịp Những ngày văn học châu Âu, ba tác phẩm của Annie Ernaux được giới thiệu đến độc giả. Trong buổi giao lưu ra mắt sách vào tối 11/5 tại
Hà Nội
, nhiều người cũng thú nhận họ đọc Annie Ernaux khá “muộn”, hầu hết là sau khi giải Nobel xướng tên bà.
Hiệu ứng Nobel kích thích trí tò mò của độc giả, người ta đặt ra câu hỏi: Điều gì khiến nhà văn này, với văn chương không hoa mỹ, sách viết thường mỏng dính, lại đặc biệt đến thế?
Từ trái qua phải: Nhà văn Hiền Trang, ông Hervé Malagola, TS Nguyễn Quyên. Ảnh: MH.
Xuất hiện tại buổi giao lưu ra mắt sách, TS Văn học Nguyễn Quyên chia sẻ: “Đọc Ernaux luôn gắn với 3 chủ đề: giai cấp, tính dục và giới tính. Đọc tác phẩm nào của bà cũng có thể nhận ra những tư tưởng xoay quanh 3 chủ đề này”.
Trong văn chương của mình, Annie Ernaux bóc tách những sự kiện, những lát cắt trong cuộc đời cá nhân nhưng lại có độ vang rộng. Đó là những câu chuyện riêng nhưng lại mang cảm giác như câu chuyện chung.
Nhà văn Hiền Trang nhận xét: “Đó là văn phong của một người phụ nữ cả nghĩ, luôn bị hành hạ bởi những suy nghĩ về bản thân, những mặc cảm, tự ti, ngượng ngùng”.
Câu chuyện của Ernaux không đơn thuần là câu chuyện của một nhân vật “tôi”, mà là câu chuyện đồng vọng của rất nhiều phụ nữ khác.
Mỗi cuốn sách của Annie Ernaux đều phản ánh một độ tuổi, một sự kiện trong đời bà, nhưng thường là những sự kiện mà hầu như ai cũng đã/đang trải qua, do vậy, dễ có kết nối cảm xúc.
TS Nguyễn Quyên nói: “Các tác phẩm của bà đều có thể khớp được với chúng ta ở một giai đoạn nào đấy”.
Nếu còn trẻ và muốn đọc một câu chuyện tình yêu say đắm, độc giả có thể tìm đọc
Cơn cuồng si
. Nếu muốn đọc về nỗi băn khoăn nguồn gốc của bản thân, có thể tìm đến
Nỗi nhục
. Muốn đọc để hiểu thêm về mối quan hệ với cha, với mẹ, có thể tìm đến
Một chỗ trong đời
và
Một người phụ nữ
.
Hơn thế, Annie Ernaux tiếp cận một lối viết không quá hoa mĩ, nhưng rất sắc lạnh, chính xác, khơi gợi cảm xúc một cách tự nhiên.
Bà Nguyễn Quyên cho rằng các nhà văn Việt Nam có thể học tập lối viết này, dùng một lăng kính không ngại ngần, dùng một con dao phân tách từng cảm xúc cá nhân và phơi bày mọi thứ lên trang giấy bằng một lối văn chỉn chu, tiết chế.
Thể loại văn mà Ernaux viết cũng đã được nhiều nhà văn đương đại châu Âu học tập, TS Quyên bày tỏ mong muốn được thấy các tác giả Việt Nam cũng thử nghiệm với lối văn này.
Sách Cơn cuồng si của Annie Ernaux. Ảnh: NN.
Ông Hervé Malagola, giáo viên văn học Pháp và La tinh, Trường Pháp Quốc tế Alexandre Yersin, cho rằng sách của Annie Ernaux có nhiều điểm cách mạng về mặt tư tưởng.
Ông thừa nhận lần đầu đọc Annie Ernaux cách đây 20 năm, ông cảm thấy khó chịu. Giờ nhìn lại, ông cho rằng khi ấy, ông vẫn đắm chìm trong những quỹ đạo xã hội quen thuộc của chính mình.
Nhưng sau khi đọc và yêu thích các tác phẩm khác của Ernaux, ông quay lại với tác phẩm đầu tay của bà và nhận ra sự cách mạng trong cái nhìn về xã hội, trong đó, Annie Ernaux phê phán những sự thống trị trong thế giới, mà trên hết là sự thống trị của tính nam.
Đó là một trong những góc nhìn mới về mặt tư tưởng mà độc giả có thể tìm thấy trong các cuốn sách của Ernaux.
Trong buổi giao lưu tối 11/5, nhiều độc giả bày tỏ sự tò mò về thủ pháp mà Annie Ernaux đã sử dụng, về cách định nghĩa các tác phẩm của bà: Tiểu thuyết, tự truyện hay bình luận xã hội?
Giới phê bình phương Tây thường sử dụng thuật ngữ autofiction để gọi các tác phẩm của Annie Ernaux. Trao đổi với các độc giả, bà Nguyễn Quyên cho rằng thuật ngữ này không có một định nghĩa chính xác, mỗi nhà phê bình lại hiểu nó theo một cách khác nhau, các nghiên cứu về autofiction cũng không đồng nhất.
Vị diễn giả chia sẻ: “Bản thân Ernaux khẳng định bà không viết fiction (tiểu thuyết). Bà dùng cụm từ ‘auto social biography’ – tự truyện xã hội”.
TS Nguyễn Quyên cho rằng trong 3 tác phẩm đầu tay của Ernaux vẫn có yếu tố hư cấu, nhưng từ tác phẩm thứ tư, bà thuật lại chính xác cuộc đời mình, lần lại những giai đoạn khác nhau, phơi bày những lát cắt cuộc đời, tạo nên một thứ nằm giữa văn chương, xã hội học và lịch sử. Đó là thể loại mà Annie Ernaux đã sáng tạo ra.
Nhà văn Hiền Trang thử so sánh hai “tác phẩm” của bà là
Nhật ký
và
Cơn cuồng si
– đều kể về mối tình với người đàn ông đã có vợ. Nhà văn này cho rằng
Nhật ký
là một văn bản thô, có gì viết nấy, trong khi đó,
Cơn cuồng si
là một văn bản để xuất bản thành sách. Có nhiều điều trong
Nhật ký
Ernaux đã không đưa vào
Cơn cuồng si
.
Nhà văn Hiền Trang nói: “Bất cứ nhà văn nào khi viết sách cũng sẽ trải qua bước xử lý chất liệu trong đời thật. Và tôi nghĩ Annie Ernaux coi cuộc đời mình như một kiểu mẫu để nghiên cứu xã hội. Do vậy, sách của bà có thể đọc như một nghiên cứu về dân tộc, về giai cấp”.
Hiền Trang nhận định sách của
Annie Ernaux
không phải là tiểu thuyết (ít nhất là theo nghĩa truyền thống).
|
Độc giả Việt tò mò về Annie Ernaux
| 1,137 | |
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và nhạc sĩ Hồng Đăng đều đã nhẹ bước ở cõi thênh thang nhưng chuyện về hai người thì vẫn còn được kể bởi người ở lại.
Nhạc sĩ Hồng Đăng và vợ là bà Lê Anh Thúy. Ảnh: GĐCC.
Bà Lê Anh Thúy – phu nhân của nhạc sĩ Hồng Đăng đã kịp ghi lại câu chuyện đầy ly kỳ của hai người nghệ sĩ tài hoa này.
Tháng 8 năm 1988, đám tang của gia đình nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ được tổ chức ở 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội) – Trụ sở của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật và nhiều hội văn nghệ, trong đó có Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Nhạc sĩ Hồng Đăng vừa chân ướt chân ráo từ phương xa về Hà Nội, nghe tin dữ, vội tới viếng. Từ xa, mọi người đã thấy nhạc sĩ Hồng Đăng, Dương Ngọc Đức đến với đôi mắt đỏ hoe, giọng thương cảm:
–
Anh Đăng ơi! Tại sao anh đã khuyên Quỳnh và Vũ đừng đi chuyến xe ấy xuống Hải Phòng mà chúng nó vẫn cứ đi làm gì nhỉ? Không biết nghe lời khuyên của anh thật dại dột. Đúng là sai lầm, không thể nào cứu gỡ được nữa rồi. Thương chúng nó quá anh ạ!
Hồng Đăng ngơ ngác:
–
Không có đâu anh ạ! Đã hai năm nay tôi chưa gặp lại Quỳnh và Vũ, làm gì có lời khuyên đó. Chắc là lời khuyên của ai đó, không phải của tôi đâu.
–
Thế mà mấy hôm nay người ta cứ đồn ầm lên về chuyện ấy. Cả Hà Nội đều biết và tin chắc là vì anh đã khuyên mà chúng nó không nghe và ai cũng tưởng là nếu nghe lời khuyên của anh thì đâu đến nỗi.
–
Không hiểu từ đâu lại có tin đó được nhỉ? Tôi vừa từ Sài Gòn ra mà, tôi chưa gặp Vũ và có biết gì đâu.
–
Thế mà mọi người đồn anh vừa gặp chúng nó trước hôm đi Hải Phòng. Có thể vì Vũ hay nhắc đến anh và kể chuyện những lời khuyên của anh về đường đi nước bước của Vũ. Vũ nói nếu không có lời khuyên của anh thì lúc cùng quẫn nhất đã định tìm cách đi xuất khẩu lao động để kiếm sống rồi.
–
Chuyện đó thì có. Nhưng để lúc khác tôi sẽ kể chi tiết. Rất lạ. Cho đến hôm nay, khi cuộc đời của Vũ kết thúc, chính tôi cũng bàng hoàng trước những quy luật ghê gớm của số phận.
Người đông nghẹt sân 51 Trần Hưng Đạo, xô đẩy hai người, Hồng Đăng và Dương Ngọc Đức chỉ kịp giơ tay lên vẫy chào rồi đi vào hội trường, nơi diễn ra tang lễ. Ba chiếc quan tài nằm trên hội trường, hàng vạn người tự động tìm đến tiễn đưa gia đình Lưu Quang Vũ, đủ các giới, đủ các lứa tuổi, có những người anh chưa từng gặp mặt, nghe tên.
Nhạc sĩ Hồng Đăng biết trước về sự nổi tiếng và cái chết của Lưu Quang Vũ?
Nhạc sĩ Hồng Đăng là bạn vong niên của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận. Ông mất đột ngột khi đang cùng vợ ngồi xem một vở kịch ở Nhà hát Lớn Hà Nội. Đến viếng Lưu Quang Thuận, Hồng Đăng gặp
Lưu Quang Vũ
đứng chủ tang. Ít lâu sau, Vũ tìm đến hỏi:
–
Anh Đăng ơi, anh cho em một lời khuyên. Em bế tắc quá anh ạ! Em định tìm cách đi xuất khẩu lao động. Vợ làm thơ, chồng cũng làm thơ, kinh tế không thể vực lên được. Nhìn vợ con mà thương, thiếu thốn đủ thứ. Em đang phân vân, anh xem hộ em xem có nên đi không?
Sau khi lập và xem kỹ trên bản tử vi, Hồng Đăng nhẹ nhàng:
–
Vũ ạ, thơ của cậu và Quỳnh rất khá, anh em đều yêu. Nhưng quả thực thơ không thể nào nuôi nổi được một gia đình. Nhưng yên tâm, cậu không phải đi xuất khẩu lao động làm gì. Vả lại, số cậu chưa đến ngày đi, xin chưa chắc đã được mà thêm vất vả. Nhưng theo bản tử vi của cậu đây, sắp tới cậu sẽ có một bước chuyển nghề và yên trí đi, sẽ rất tốt đẹp, rất tốt đẹp đấy!
– Thì em cũng đã thử chuyển mấy nghề rồi còn gì. Anh xem, em kiếm ăn bằng đủ các thứ linh tinh, vặt vãnh. Từ vẽ pa nô cho nhà hát đến lao động chân tay mà vẫn không đủ sống. Bức bối lắm anh ạ, căn buồng của chúng em ở chỉ có 9 thước vuông, đến không khí còn không đủ để thở nói gì đến chuyện khác nữa hả anh. Gay lắm anh ạ!
– Cậu sẽ có chuyển biến rất lớn, mà lần chuyển biến này sẽ khác trước đấy. Không lâu nữa đâu. Không những tốt đẹp mà còn vinh quang, đừng sốt ruột.
Kịch tác gia Lưu Quang Vũ. Ảnh: TL.
Chia tay Lưu Quang Vũ, Hồng Đăng vẫn thấy ái ngại. Mãi đến ba năm sau hai người mới gặp lại nhau, quả có khác,
Lưu Quang Vũ
rủ Hồng Đăng đi uống cà phê.
–
Sau lần gặp anh, ba bốn tháng sau, em tìm được con đường mới của mình thật anh ạ. Hiện nay, em không còn nhiều thì giờ để làm thơ mà lao vào viết kịch. Mấy vở em viết được dựng đều, rất ăn khách. Các vở đều gây xôn xao dư luận, nhưng anh nói thật cho em biết đi, số em có bị tù không?
– Sao cậu lại hỏi thế, định đi buôn lậu nữa à?
– Đâu, làm gì có chuyện đó. Em hỏi thế là vì các vở kịch em viết hiện nay đều động đến những vấn đề nóng bỏng trong cuộc sống, đụng chạm tới cả những thế lực lớn đang trì trệ, những vấn đề của bộ máy quyền lực, của xã hội. Nhiều lời nhắc nhở, răn đe xa gần là nên ăn nói cẩn thận, nghĩa là đừng đụng chạm. Nói thật, nhiều khi em cũng hơi “hốt”, không hiểu rồi có việc gì không?
– Có một điều cực kỳ quan trọng cậu nên nhớ kỹ, trong bản tử vi của cậu không có sao về tù tội nhưng có mấy bộ sao uy hiếp rất lớn đấy. Số cậu sắp tới còn lên rất dữ, lên một cách rất đáng kinh ngạc. Trong giai đoạn này, tử vi của cậu tập trung tới hai bộ sao hung tinh đắc địa, nghĩa là sao dữ nhưng được đặt ở chỗ tốt, trong tử vi gọi là “phát dã như lôi”. Đứng về mặt học thuật, mấy chữ này có nghĩa là phất lên dữ dội, phất lên như sấm như sét. Với người có một bộ hung tinh đắc địa là đã có thể phát dữ mà cậu còn có tới hai bộ tập trung thì lại càng ghê gớm. Nhưng phải hết sức dè chừng, vì đến lúc đã phát lên tuyệt đỉnh, sau đó sẽ rơi tõm như pháo thăng thiên hết đà vậy thôi.
– Em chỉ sợ không phát được thôi chứ phát được như pháp thăng thiên thì cũng thú, sau đấy có rơi cũng đành.
– Tất nhiên, làm nghề này phải dũng cảm và phải đi đến tận cùng. Thậm chí, phải chấp nhận hy sinh, vì trong tìm tòi sáng tạo, làm gì có chuyện nửa vời, dễ ăn. Đó là lời khuyên của một người bình thường làm văn nghệ, nhưng lời khuyên của một người biết về số mệnh thì cậu nên hết sức thận trọng.
– Vậy trong trường hợp của em thì nên xử lý như thế nào hả anh?
– Chỉ cần biết cách hạn chế đà lên cao một cách khéo léo, đừng ham quá thì sẽ có cách rơi nhẹ, không bị thương tổn.
– Khó đấy anh nhỉ?
Quả nhiên, sự nghiệp của nhà viết kịch
Lưu Quang Vũ
sau đó lên vùn vụt. Trong vòng mấy năm, anh là tác giả của hơn 40 kịch bản nổi tiếng. Vở nào anh viết xong cũng được các đoàn tranh nhau diễn. Lúc nào anh cũng ngập trong các đơn đặt hàng của các đoàn nghệ thuật sân khấu khắp Bắc, Trung, Nam. Người đàn ông tài hoa, đã có những lúc tưởng chừng thất thế, bế tắc, cùng quẫn ấy đã thổi một luồng sinh khí mới cho sân khấu Việt Nam, góp phần đưa sân khấu vào thời kỳ thịnh vượng nhất. Cho đến tận bây giờ, sau anh, người ta chưa thấy một tài năng nào có sức ảnh hưởng lớn như thế.
Và cái chết của gia đình anh, có phải chăng là cú rơi của số mệnh hay chỉ là một tai nạn không may trên tuyến quốc lộ vốn nhiều tai nạn?
|
Chuyện ly kỳ của nhạc sĩ Hồng Đăng và kịch tác gia Lưu Quang Vũ
| 1,498 | |
Nhà thơ Trần Thị Huyền Trang.
Trần Thị Huyền Trang sinh năm 1964 tại Phù Cát, tỉnh Bình Định, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, là cây bút nữ có bản sắc, đạt nhiều giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam, của Báo Văn nghệ Việt Nam, Giải thưởng văn học nghệ thuật Xuân Diệu – Đào Tấn tỉnh Bình Định.
Thơ Trần Thị Huyền Trang là thứ thơ chiêm nghiệm, có vị muối, bao giờ cũng có chút mằn mặn của cuộc đời, chạm đến, nghe qua, luôn đọng lại dư vị, không trôi tuột theo thời gian. Đến nay, Trần Thị Huyền Trang đã in các tập thơ. Tập
Muối ngày qua
, NXB Hội Nhà văn (2000), đạt Giải A, Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam, năm 2000,
Kinh x
ư
a
(2005),
Trong tĩnh lặng
(NXB Hội Nhà văn, 2005).
Bài thơ
Chuyện cổ
toàn văn như sau:
Chàng dừng lại trước ngôi nhà cổ
Nàng vừa đi dự hội thử giày
Một thúng thóc,
Một thúng kê,
Và gió.
Mảnh áo sờn thôn nữ vắt ngang dây
Hội đã tan, nàng không về nữa,
Thóc và kê đã xanh mướt cánh đồng.
Lững thững đàn trâu đi trong tiếng sáo,
Tiếng sáo thì trôi tít mãi tầng không.
Bài thơ trên nằm trong tập “Muối ngày qua”, NXB Hội nhà văn, 2000. Bài thơ ngắn, chỉ 61 từ, dáng dấp như câu chuyện ngày xưa của
Cô bé Lọ Lem
trong Truyện cổ Grimm hay
Tấm Cám
, chuyện cổ tích Việt Nam. Trong các câu chuyện cổ, nàng dự hội thử giày, được hoàng tử chọn làm vợ. Một câu chuyện với kết thúc có hậu. Ở đây thì sao ?
Bài thơ này, ba cảnh, có lớp lang, có nhân vật, có sự kiện, nhưng lại vời vợi thời gian, không gian và phận người. Chuyện có hai người, “chàng” và “nàng”:
Chàng dừng lại trước ngôi nhà cổ
Nàng vừa đi dự hội thử giày
Chàng trai dừng lại trước ngôi nhà cổ. Nàng đã đi dự hội thử giày. Chàng vừa đến thì nàng cũng vừa đi. Không gặp. Và, vĩnh viễn không gặp. Câu chuyện và duyên phận bắt đầu từ đây, từ không gian liên quan đến lễ hội.
Cảnh thứ hai, theo phép liệt kê, chỉ rõ: một thúng thóc, một thúng kê và (một) mảnh áo sờn của cô thôn nữ đang vắt ngang dây:
Một thúng thóc,
Một thúng kê,
Và gió.
Mảnh áo sờn thôn nữ vắt ngang dây
Rất kiệm lời. Những hình ảnh trong các dòng thơ đều có tính chọn lọc và điển hình, nêu được bản chất của sự kiện cần nói đến.
Một thúng thóc / Một thúng kê
được nhặt ra gọn gàng, sạch sẽ. Hình ảnh ẩn dụ này mang thông điệp về một phép màu, về tình yêu thương, lẽ công bằng, đạo lý ở hiền gặp lành và cũng cho biết về quy luật nhân quả. Ẩn sau câu chuyện, người đọc nhận ra những ý đồ xấu xa, cả hằn học, tưởng đã mãn nguyện, phá đi ước mơ của con người, đã không thành trong hiện thực. Cô gái đã đi dự hội. Hai hình ảnh này được lặp lại và mang ý nghĩa khác.
Tiếp đến, “
Và gió / Mảnh áo sờn thôn nữ vắt ngang dây
” hai dòng thơ, ngắn, 10 từ, vừa biểu thị chỉ sự thênh thang, tự do của gió, vừa biểu hiện phận nghèo như manh áo sờn, vắt ngang dây, phất phơ trước gió, biết về đâu, thông báo một khát vọng vươn lên của con người, một ước mơ về một chân trời xa mới.
Khổ cuối:
Hội đã tan, nàng không về nữa,
Thóc và kê đã xanh mướt cánh đồng.
Lững thững đàn trâu đi trong tiếng sáo,
Tiếng sáo thì trôi tít mãi tầng không
Cái gì đến, đã đến. Giày ướm vừa chân. Hoàng tử đã chọn được vợ. Hội tan. Nàng không về nữa. Chiếc áo cũ sờn của cô thôn nữ vẫn còn vắt qua ngang dây, đong đưa trước gió. Theo thời gian, thúng thóc, thúng kê ngày xưa đã xanh mướt trên đồng. Một màu xanh như kéo dài đến vô tận. Trên cánh đồng đó, đàn trâu bình yên, lững thững, đi về trong tiếng sáo. Tiếng sáo tầng thấp và tiếng sáo trên tầng không, trôi mãi, dặt dìu. Hai lần tiếng sáo được nhắc lại. Điều ấy không phải là không có chủ đích.
Cô thôn nữ ngày nào đã đổi thay số phận, đón nhận hạnh phúc. Cái thiện đã chiến thắng.
Song, bài thơ có một khúc quanh khác, dấu đằng sau các dòng thơ. Câu chuyện tình của chàng trai gờn gợn âm thanh buồn, buồn nhưng trong trẻo, như tiếng sáo trôi tít mãi trên tầng không, hòa cùng đất trời, thiên nhiên, sẻ chia và thông cảm. Và, thấp thoáng đâu đó, tưởng như, đấy là tiếng sáo của Trương Chi, tiếng sáo nao nao buồn cho một cuộc tình đẹp.
Trần Thị Huyền Trang viết lại câu chuyện cổ bằng thứ ngôn ngữ sâu đằm, thấm thía, rằng là, hạnh phúc có khi không viên mãn, toàn vẹn, giữ được tiếng sáo thanh bình, buổi chiều yên ả vẫn là ước vọng muôn đời của con người.
Tiếng sáo là hình ảnh kết thúc có hậu của bài thơ, gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc. Cảm ơn Trần Thị Huyền Trang trao gửi câu chuyện về tình yêu, về cuộc đời, về hạnh phúc, ở đó, có cả vị đắng, từ giã một thứ lớp sơn quen thuộc trong tư duy truyền thống của văn chương, tiệm cận với cách nhìn mới, đa chiều, đa phương.
Có lần, Trần Thị Huyền Trang viết:
trên sân ga đời người / trên chuyến tàu nặng nề thở khói / mong sao / khi ngước mắt lên / ta được soi vào bầu trời ưu tư và độ lượng
…
Chuyện cổ
gửi cho đời một thông điệp
ưu tư và độ lượng.
Tháng 3-2023
H.V.H
|
Chuyện cổ hay chuyện tình buồn – Tác giả: TS. Huỳnh Văn Hoa
| 977 | |
Đại sứ Đặng Hoàng Giang khẳng định chủ nghĩa đa phương, đoàn kết quốc tế, hòa bình, ổn định là cơ sở quan trọng cho phát triển bền vững ở các nước thu nhập trung bình.
Quang cảnh phiên họp. (Ảnh: Trần Thanh Tuấn/TTXVN).
Ngày 11/5 tại Trụ sở Liên hợp quốc, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã tổ chức Phiên họp cấp cao về các nước thu nhập trung bình với chủ đề “Đẩy nhanh việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) ở các nước thu nhập trung bình, tập trung vào khía cạnh môi trường.”
Tại Liên hợp quốc, phát biểu khai mạc phiên họp, Chủ tịch Đại Hội đồng Liên hợp quốc Csaba Korosi cho rằng các nước thu nhập trung bình (MICs) có vai trò quan trọng trong thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững trên toàn cầu, nhưng hiện phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, khủng hoảng kinh tế và các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Chủ tịch Đại Hội đồng Liên hợp quốc kêu gọi cùng thảo luận tìm giải pháp để giãn nợ, tận dụng các cơ chế tài chính hiện có để MICs giải quyết các thách thức về môi trường, biến đổi khí hậu.
Chủ tịch Hội đồng Kinh tế-xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) Lacheva Stocheva nhấn mạnh cần có cách tiếp cận toàn diện trong hỗ trợ MICs, thông qua hỗ trợ về nguồn lực, kỹ thuật và công nghệ, thúc đẩy xây dựng chỉ số bổ sung cho cách tính Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và chỉ số về dễ bị tổn thương đa chiều (MVI); tạo điều kiện cho các nước này tiếp cận tài chính ưu đãi.
Nhiều nước nêu các khó khăn, thách thức đặc thù mà MICs phải đối mặt và nhấn mạnh rất cần sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật từ các cơ quan Liên hợp quốc, các đối tác phát triển, các thể chế tài chính quốc tế.
Đồng thời, cũng chia sẻ những bài học, kinh nghiệm quốc gia trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, đánh giá vai trò của hệ thống phát triển Liên hợp quốc trong hỗ trợ các nước thu nhập trung bình và thảo luận về xây dựng các chỉ số về phát triển bền vững lồng ghép các khía cạnh về kinh tế, môi trường, xã hội.
Phát biểu tại phiên họp, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, khẳng định chủ nghĩa đa phương, đoàn kết quốc tế, hòa bình, ổn định là cơ sở quan trọng cho phát triển bền vững ở các nước thu nhập trung bình. Để giải quyết các thách thức như biến đổi khí hậu, mất an ninh lương thực, năng lượng.
Đại sứ cho rằng ở cấp quốc gia, các nước thu nhập trung bình cần tăng cường khả năng chống chịu và huy động nguồn lực trong nước hiệu quả để phát triển, tận dụng thế mạnh của khoa học, công nghệ và đổi mới để phát triển xanh, bền vững và thông minh.
Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế cũng rất quan trọng trong việc thúc đẩy nỗ lực toàn cầu và nỗ lực quốc gia.
Đại sứ kêu gọi các nước phát triển thực hiện cam kết hỗ trợ tài chính và kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và xây dựng năng lực cho các nước thu nhập trung bình.
Ngược lại, các nước thu nhập trung bình cần tăng cường hợp tác, đối thoại chính sách, chia sẻ kinh nghiệm thông qua các cơ chế hợp tác hiện có giữa các nước thu nhập trung bình và với các nước phát triển.
Nhân dịp này, Đại sứ đã đề cao các nỗ lực của
Việt Nam
trong thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững, cam kết phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050 cũng như việc gần đây đã thiết lập quan hệ đối tác về chuyển đổi năng lượng công bằng./.
|
Việt Nam: Cần tăng cường hợp tác hỗ trợ các nước thu nhập trung bình
| 691 | |
Ảnh minh họa: New Scientist.
Ngày 12/5, các nhà thiên văn học cho biết đã xác định được một vụ nổ ‘lớn nhất’ vũ trụ từ trước đến nay, tạo ra quả cầu lửa có kích thước gấp 100 lần so với Hệ Mặt Trời được phát hiện lần đầu hơn 3 năm trước.
Vụ nổ có tên gọi AT2021 lwx không phải là vụ nổ sáng nhất trong lịch sử vũ trụ khi kỷ lục này thuộc về vụ bùng phát tia gamma hiếm có tháng 10/2022 được gọi là BOAT (viết tắt của cụm từ “Sáng nhất mọi thời đại” trong tiếng Anh). Tuy nhiên, nhà vật lý thiên văn học Đại học Southampton (
Anh
), Philip Wiseman – trưởng nhóm nghiên cứu, khẳng định AT2021 lwx là vụ nổ lớn nhất vũ trụ khi trong 3 năm qua, vụ nổ đã giải phóng nhiều năng lượng hơn cả năng lượng mà BOAT giải phóng.
Ông Wiseman cho biết đây là một “phát hiện tình cờ”. Vào năm 2020, trạm nghiên cứu vũ trụ Zwicky Transient ở California, Mỹ lần đầu phát hiện AT2021 lwx trong một lần quét tự động. Nhưng phải đến năm 2021, các nhà nghiên cứu mới chú ý đến vụ nổ khi xem xét cơ sở dữ liệu quan sát. Và cũng phải cho đến khi sử dụng những kinh thiên văn chất lượng cao hơn, các nhà thiên văn học, bao gồm Wiseman, mới có thể tìm hiểu rõ hơn về thứ mà họ đang nghiên cứu.
Theo đó, bằng cách phân tích các bước sóng ánh sáng khác nhau, các nhà thiên văn học phát hiện rằng vụ nổ xảy ra ở một điểm cách Trái Đất khoảng 8 tỷ năm ánh sáng, xa hơn nhiều so với hầu hết các tia sáng mới phát hiện khác trên bầu trời và được ước tính sáng hơn 2.000 tỷ lần so với Mặt Trời.
Các nhà thiên văn học cũng tìm cách lý giải cho hiện tượng này. Một trong số đó cho rằng AT2021 lwx có thể là 1 ngôi sao đang phát nổ nhưng với cường độ sáng gấp 10 lần so với các vụ nổ “siêu tân tinh” trước đây. Số khác nhận định đây là một phần của hiện tượng “hố đen dùng bữa” khi một ngôi sao bị phân mảnh và hút vào một hố đen khổng lồ. Song Wiseman không đồng ý với những giả thuyết này khi nghiên cứu của ông chỉ ra rằng AT2021 lwx vẫn sáng gấp 3 lần so với những sự kiện nêu trên.
Một giả thuyết khác được nhắc tới rằng đây có thể là hiện tượng “chuẩn tinh” khi các hố đen siêu lớn nuốt chửng một lượng khí khổng lồ ở trung tâm các thiên hà. Tuy nhiên, ông Wiseman cho rằng ánh sáng phát ra từ hiện tượng này thường nhấp nháy trong khi AT2021 lwx vẫn đang rực sáng sau 3 năm. “Đây là điều chúng tôi chưa bao giờ được chứng kiến. Mọi thứ cứ như xuất hiện từ hư không”-Wiseman nhận định.
Trong nghiên cứu đăng trên tạp chí khoa học Monthly Notices of the Royal Astronomical Society, các nhà nghiên cứu quốc tế cũng đặt ra giả thuyết được cho là có cơ sở nhất về sự xuất hiện của AT2021 lwx, theo đó cho rằng vụ nổ này xuất hiện khi một đám mây bụi khí khổng lồ, ước tính lớn gấp 5.000 lần so với Mặt Trời, dần bị một siêu lỗ đen nuốt chửng. Tuy nhiên, ông Wiseman cho rằng “không có gì là chắc chắn trong khoa học”, vậy nên nhóm nghiên cứu của ông đang làm việc trên nhiều mô phỏng để kiểm nghiệm giả thuyết nêu trên. Các nhà thiên văn học thế giới cũng đang tích cực quan sát bầu trời để tìm kiếm các vụ nổ tương tự có thể bị bỏ sót.
|
Vụ nổ lớn nhất từng được quan sát trong vũ trụ ‘làm khó’ các nhà thiên văn học
| 650 | |
Chiều 12/5, tiếp Tổng thư ký Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) Kitack Lim, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị IMO tiếp tục hỗ trợ Việt Nam phát triển ngành hàng hải, nhất là trong khoa học quản lý, đào tạo nguồn nhân lực…
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp ông Kitack Lim, Tổng Thư ký Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO). Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Thủ tướng đánh giá cao chuyến thăm đầu tiên của Tổng Thư ký IMO đến Việt Nam; cảm ơn những đóng góp, hỗ trợ quý báu của Liên hợp quốc, trong đó có vai trò của IMO với Việt Nam.
Thủ tướng khẳng định
Việt Nam
là quốc gia thành viên có trách nhiệm trong thực thi các công ước quốc tế nói chung và công ước quốc tế về hàng hải nói riêng. Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều thay đổi với những xu hướng mới, trên tinh thần tôn trọng, hợp tác cùng phát triển, là đối tác tin cậy, Chính phủ Việt Nam mong muốn IMO tiếp tục là tổ chức quốc tế tiên phong, thúc đẩy sự hợp tác giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên trong lĩnh vực hợp tác hàng hải.
Theo Thủ tướng, Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi. Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại tự do với hơn 60 nền kinh tế trên thế giới. Kim ngạch thương mại Việt Nam trong năm 2022 đạt trên 732 tỷ USD. Việt Nam có bờ biển dài trên 3.000 km, nằm trên tuyến vận tải biển quốc tế quan trọng, nhiều cảng biển nước sâu. Do đó, Việt Nam có vị trí chiến lược, tiềm năng rất lớn để phát triển ngành hàng hải. Trong nhiều năm qua, ngành hàng hải Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự hỗ trợ của Tổ chức Hàng hải Quốc tế.
Để tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực biển, hàng hải, Thủ tướng đề nghị IMO và ngài Tổng Thư ký tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam nâng cao năng lực về hàng hải, biến tiềm năng phát triển hàng hải thành những lợi thế, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam và thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trên thế giới.
Đồng thời, hỗ trợ Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hàng hải và tham gia ký kết, triển khai các điều ước quốc tế về hàng hải nhằm bảo đảm an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và quyền tự do hàng hải, bảo vệ môi trường biển, đảm bảo quyền tự do đi lại trên biển được thông suốt, thuận lợi.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp ông Kitack Lim, Tổng Thư ký Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO). Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Tổng Thư ký IMO bày tỏ ngưỡng mộ và chúc mừng các thành tựu phát triển của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, ấn tượng mạnh mẽ trước tầm nhìn, quyết tâm, nỗ lực, giải pháp của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Ông Kitack Lim cho rằng, tuy là nước đang phát triển, nhưng Việt Nam đang quyết tâm và nỗ lực, hành động như một nước phát triển trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, ứng phó biến đổi khí hậu, mong muốn được Thủ tướng chia sẻ thêm về nội dung này; đề nghị Việt Nam tăng cường chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác với các nước thành viên, cùng IMO thực hiện các cam kết về giảm phát thải, phát triển ngành hàng hải bền vững.
Người đứng đầu Chính phủ chia sẻ những cơ sở thực tiễn và cơ sở khoa học để Việt Nam phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo. Nhấn mạnh tiềm năng lớn của Việt Nam trong phát triển năng lượng gió, mặt trời, điện sinh khối, hydrogen…, Thủ tướng cho biết, Việt Nam đã cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Gần đây nhất, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 42, Việt Nam cùng các nước ASEAN đã thông qua văn kiện về phát triển hệ sinh thái xe điện, cũng là để góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải carbon.
Thủ tướng đề nghị IMO nghiên cứu, có các chính sách hỗ trợ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam xây dựng chiến lược, quy hoạch, phát triển ngành hàng hải; xây dựng và hoàn thiện thể chế; cung cấp vốn, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, đào tạo nhân lực, nâng cao năng lực quản trị. Đặc biệt, đề nghị IMO hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành hàng hải, tiếp tục xem xét cấp học bổng cho các cán bộ ngành hàng hải Việt Nam để tham gia các khóa đào tạo nâng cao tại các cơ sở đào tạo của IMO trên thế giới.
Tổng Thư ký IMO đồng tình cao với các quan điểm và cho biết IMO sẽ tích cực triển khai các đề xuất hợp tác theo ý kiến của Thủ tướng, nhất là trong hỗ trợ đào tạo nhân lực.
|
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Tổng thư ký Tổ chức Hàng hải Quốc tế
| 899 | |
V
ới Ng
ân V
ịnh, thơ l
à duyên nghi
ệp, l
à nơi g
ửi gắm kh
át khao cu
ộc đời. Thơ khởi ph
át t
ừ t
âm nên không bao gi
ờ cũ.
Ngân Vịnh
đến với thơ từ khi còn là một thiếu niên ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng tình yêu thơ của chàng trai trẻ khi ấy giữ cho riêng mình, cháy bỏng mà thầm kín. Chỉ đến khi kinh qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, thơ Ngân Vịnh mới thực sự lên tiếng.
Sau khi tham gia trận Ba Gia – Vạn Tường nổi tiếng năm 1965, Ngân Vịnh được Quân khu điều động về Cục Chính trị làm phóng viên rồi biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Trung Trung Bộ. Từ người lính cầm súng, Ngân Vịnh trở thành người lính cầm bút trên mặt trận văn nghệ. Thơ Ngân Vịnh lúc ấy được viết qua từng trận đánh, từng chiến dịch, góp phần cổ vũ tinh thần chiến đấu của đồng bào, chiến sĩ Khu 5 lúc bấy giờ.
Nhưng phải đến năm 1977, sau khi đất nước thống nhất, Ngân Vịnh mới cho ra mắt tập thơ đầu tay:
T
ình yêu nh
ận từ đất
(in chung với nhà thơ
Thanh Quế
,
Ngô Thế Oanh
).
Điều người ta nhớ nhất về Ngân Vịnh không phải là những vần thơ hùng hồn về chiến tranh hay về người lính mà là một cái gì đó nằm ngoài sự khốc liệt, chát chúa, gai góc. Tiếng thơ giản dị, tự nhiên và sâu lắng mới là cái tạng của ông. Ngân Vịnh thường nói rằng, mỗi người sáng tác có một cái tạng riêng, ông cũng không ngoại lệ. Thơ Ngân Vịnh đằm sâu, chất chứa, như: Chút nồng nàn đã cạn, Nỗi đau lẳng lặng, Đôi điều bày tỏ, Tìm nhặt, Tự cảm, Tự tình, Chiều một mình tôi biết…
Đọc các tập:
B
óng r
ừng trong mưa
(1984),
Ho
àng hôn mây bay
(1991),
Cõi l
ục b
át
(2002) hay
L
ặng lẽ tường đ
á ong
(2007)…, có thể thấy xuyên suốt trong tiếng thơ khá đa dạng Ngân Vịnh là tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, từ miên man nỗi nhớ về làng Thạch Đà quê cũ với những
Ng
õ làng, Đêm quê, L
ối xưa bước cỏ, L
àng quê khu
ất phố
…, đến những thổn thức về
Đ
à L
ạt phố xa, Bến Ngự mưa, Chiều Huế, Đ
êm H
ồ T
ây, Sơn Trà…
Bằng cả nguồn cảm hứng chan chứa, đắm say, Ngân Vịnh vẽ ra trước mắt người đọc biết bao vẻ đẹp quyến rũ của thiên nhiên con người cùng đất nước.
Điều đặc biệt ở Ngân Vịnh là dù viết về đề tài gì, những thể thơ truyền thống vẫn được ông chọn lựa nhiều nhất. Chẳng thế mà có người đã gọi Ngân Vịnh là nhà thơ lục bát thời hiện đại. Phải, ông yêu thơ lục bát, yêu tiếng nói dân tộc và tự hào về những sáng tạo của cha ông: “Tôi thấy tôi hạnh phúc là người được cất cao tiếng nói của dân tộc và đóng góp cho dân tộc một chút ấm nồng của tâm hồn mình ẩn giấu như mùi hương cỏ ấu miền quê”, Ngân Vịnh từng nói.
Có người nhận xét rằng, phải đến tập
Lặng lẽ tường đ
á ong
(2007), thơ Ngân Vịnh mới có bước đột phá từ nội dung đến hình thức. Ở đây không còn một Ngân Vịnh với những vần thơ lục bát truyền thống, tiếng thơ được bộc thoát mới mẻ, hiện đại với thể thơ tự do phóng khoáng. Nhưng với Ngân Vịnh, sự đổi mới về thể loại chỉ là bề mặt trong những cách tân thơ, thơ có mới hay không phải từ tâm trạng. Tâm trạng mới, tư duy mới thì mới mong tạo nên những tiếng thơ mới mẻ. Và dù thơ có được khoác trên mình chiếc áo sặc sỡ, tân thời đến đâu, thơ vẫn chỉ là thơ khi nó cất lên tiếng nói, tình cảm chân thực của con người, của đời sống. Ở đó, số phận con người cần được tôn trọng và yêu thương. Mọi tình yêu chỉ thiêng liêng, và thực sự có giá trị khi gắn với hai tiếng con người. Khi ngừng viết về con người thì thơ không còn là thơ nữa.
Đọc
Ta t
ìm, Tôi ngư
ời đ
àn ông, Ngày tóc b
ạc, Đ
àn bà, Gió đàn ông
…, có thể thấy Ngân Vịnh lấy thơ để nhận diện mình và nhận diện người. Ông tâm sự, từng đi qua chiến tranh cùng những chiêm nghiệm quý giá về thời chiến, đặc biệt là thân phận con người trong chiến tranh đã cho ông những vần thơ đầy sức nặng trong thời bình khi viết về người mẹ, người vợ, về những được – mất, hạnh phúc – đau khổ, cả sự hy sinh muôn thuở của con người. Khi con người ta quay lại với những gì đã đến, họ sẽ nhìn mọi thứ với tấm lòng rộng mở, bao dung. Vậy nên một người thơ “hiền lành” như Ngân Vịnh đã khiến nhiều người bất ngờ khi lên tiếng bảo vệ Thị Mầu – nhân vật vốn bị những khuôn thước đạo đức truyền thống Việt Nam lên án: …
Này em m
ắt cứ đong đưa/ cứ b
ôi tr
ầu thắm bỏ b
ùa cho sư/ m
ấy khi đời được tương tư/ vầng trăng lẻ giữ khư khư l
àm gì… có chi là cái chính chuyên/ mà đem thân ph
ận buộc duy
ên n
ợ v
ào… Th
ị Mầu em vắng một ng
ày/ đàn ông trên th
ế gian n
ày ra sao?
(trích Này em Thị Mầu)…
Ngân Vịnh luôn ý thức rằng, viết văn, làm thơ là công việc tự thân đầy khó nhọc nhưng đầy tự nguyện. Chỉ có đam mê, sự chân thành sâu sắc thì những tâm sự của một người sẽ đi thẳng vào trái tim triệu triệu người. Dù theo trường phái nào, thơ xuất phát từ cái tâm trong sáng, không thách đố, thì người làm thơ sẽ luôn tự tìm cho mình được con đường riêng để đi mà không sợ mình cũ hay mới.
***
Nhà thơ Ngân Vịnh tên thật là Phùng Ngân Vịnh; sinh năm 1942; quê quán: Thạch Đà, Mê Linh, Hà Nội; hiện sống tại
Đà Nẵng
.
Giải thưởng văn học: Giải B cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội (1984). Giải nhì cuộc thi thơ báo Phụ nữ Việt Nam (1994); Giải thưởng văn học Quảng Nam – Đà Nẵng mười năm lần thứ nhất (1975-1985), lần thứ hai (1985-1995); Giải nhì cuộc thi thơ thành phố Đà Nẵng 1999-2000; Giải ba tác phẩm văn học 5 năm lần thứ nhất tỉnh Vĩnh Phúc (1995-2000) cho tác phẩm
Ng
ày thư
ờng đam m
ê
; Giải C văn học thành phố Đà Nẵng cho tác phẩm
Ph
ía hoàng hôn yên tĩnh
(1997-2005).
Tác phẩm
Con chuồn chuồn nghệ
, tập thơ xuất bản tháng 7-2013 cũng là tập thứ 3 ông viết cho thiếu nhi gồm 89 bài thơ là 89 khoảnh khắc bất chợt, ngộ nghĩnh về những sự vật, hiện tượng, tâm trạng gắn với tuổi thơ trong trẻo. Ẩn sau câu chữ hồn nhiên, dí dỏm là những bài học kín đáo, bổ ích. Tác giả hy vọng đây sẽ là món quà thú vị cho các độc giả nhí trong dịp Tết Trung thu này.
|
Nhà thơ Ngân Vịnh: Thơ là tiếng nói từ tâm – Tác giả: Thanh Tân
| 1,202 | |
Ngày của Mẹ sẽ là cơ hội để con cái bày tỏ lòng biết ơn, gửi gắm những lời chúc, món quà yêu thương nhất đến với người mẹ đáng kính của mình.
Ngày của Mẹ (Mother’s Day) là một ngày lễ nhằm để tôn vinh người mẹ trong gia đình, sự gắn kết của người mẹ và những ảnh hưởng của người mẹ trong xã hội. Ngày này sẽ là cơ hội để con cái bày tỏ lòng biết ơn, gửi gắm những lời chúc, món quà yêu thương đến với người mẹ đáng kính của mình.
Theo truyền thống của đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức hằng năm vào ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng 5. Theo đó, tại Việt Nam, Ngày của Mẹ năm 2023 rơi vào ngày 14/5.
Ngày của Mẹ có nguồn gốc vào thời kỳ Hy Lạp và La Mã. Lễ hội tri ân mẹ được tổ chức thường niên vào mùa xuân và thời đó người Hy Lạp thường cúng tế cho các nữ thần, đặc biệt là vị thần Rhea – Mẹ của nhiều vị thần trong thần thoại Hy Lạp.
Tuy nhiên, theo một tài liệu khác thì nguồn gốc Ngày của Mẹ được ghi lại thông tin như sau: cổ sử La Mã tổ chức lễ hội mùa xuân Hilaria để tưởng nhớ mẫu chúa Cybele vào ngày 15/3. Tuy nhiên lễ hội này khá tốn kém, và kéo dài ba ngày bao gồm: diễu hành, trò chơi và những dạ hội giả trang, nên lễ hội đã phải khép lại ngay sau đó không lâu.
Cũng có một tài liệu khác khẳng định rằng: Lịch sử Ngày Của Mẹ được tìm thấy ở nước Anh vào khoảng năm 1600. Ngày này được tổ chức hàng năm, trước lễ Phục Sinh 40 ngày để tri ân các bà mẹ. Vào Ngày của Mẹ, các em nhỏ, những người làm công, xa nhà được khuyến khích mang hoa, bánh bột nhân trái cây đến tặng và tri ân các bà mẹ của mình. Tuy nhiên, phong tục này bị quên lãng vào thế kỷ thứ 19.
Sau một thời gian dài bị bỏ quên, Ngày của Mẹ (Mother’s Day) được khởi xướng ở nước Mỹ nhờ hai người phụ nữ là bà Ann Maria Reeves Jarvis và con gái của bà là Anna Marie Jarvis.
Cách đây 100 năm, bà Ann Maria Reeves Jarvis – một phụ nữ ở Bang West Virginia, Mỹ đã lập ra một nhóm có tên gọi “Ngày của tình Mẹ” với mong muốn gắn kết lại tình cảm gia đình vốn đã bị chia cắt bởi nội chiến.
Sau khi thành lập nhóm, bà muốn tổ chức một ngày đặc biệt hàng năm để ghi nhớ kỷ niệm về những người mẹ. Nhưng không may, bà mất trước khi biến tâm nguyện này thành hiện thực.
Anna Jarvis – con gái của Ann Maria Reeves Jarvis sau đó đã dấn thân vào việc đấu tranh để đề nghị Thượng nghị viện Mỹ tổ chức Ngày của Mẹ trên toàn quốc nhằm hoàn thành mong muốn của mẹ. Sau nhiều nỗ lực, cô đã tổ chức lễ kỷ niệm “Ngày của Mẹ” (Mother’s Day) đầu tiên tại nhà thờ Andrew’s Methodist Church vào năm 1908.
Cùng với lễ kỷ niệm riêng của Anna Jarvis, các gia đình đã tụ tập tại nhiều điểm tổ chức sự kiện này ở quê hương của Jarvis ở Grafton, West Virginia và nhiều thành phố khác. Vào năm 1911, Ngày của Mẹ được tổ chức hầu hết các tiểu bang của liên bang Hoa Kỳ. Và vào ngày 8/5/1914, Tổng Thống Woodrow Wilson ký một nghị quyết ấn định ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng Năm làm Ngày của Mẹ.
Ngày của Mẹ được mọi người đón nhận bởi đây cũng là cơ hội để tôn vinh những công lao, đóng góp to lớn của những người mẹ đối với gia đình và toàn xã hội. Ngày Của Mẹ cũng là ngày những người con đi làm xa xứ trở về hoặc nhớ về mẹ của mình, thể hiện những tình cảm yêu thương, trân trọng và biết ơn nhất đến mẹ. Họ sẽ tặng mẹ của mình những món quà, những bó hoa tươi thắm; cũng có thể là chiếc bánh kem xinh xinh, những tấm thiệp tự chính tay làm cùng những lời chúc ý nghĩa Ngày của Mẹ được viết lên trên đó,… để thể hiện sự biết ơn vì những hy sinh thầm lặng của mẹ.
Ở mỗi quốc gia, Ngày của Mẹ được thể hiện theo nhiều cách khác nhau, nhưng vẫn mang ý nghĩa tôn vinh và bày tỏ lòng biết ơn đến người mẹ vĩ đại.
Các nước thế giới, đặc biệt là Mỹ, trong Ngày của Mẹ, họ thường mời mẹ của họ đi ăn tối vì họ không muốn mẹ phải nấu nướng hay bận rộn vất vả trong ngày đặc biệt này. Bên cạnh đó, những đứa trẻ nhỏ lại chọn cách thể hiện tình yêu bằng bữa ăn sáng trên giường do chính chúng tự tay chuẩn bị. Ngoài ra, vào Ngày của Mẹ, họ sử dụng Hoa Cẩm Chướng làm hình ảnh tượng trưng, thường sẽ mang sắc đỏ hoặc hồng. Cùng Hoa Cẩm Chướng màu trắng sẽ được đặt trên nấm mộ của những người mẹ đã qua đời…
Với sự giao thoa văn hóa cùng sự phát triển của xã hội, Ngày của Mẹ ở Việt Nam, ngoài những bông Hoa Cẩm Chướng, những người con còn dành tặng cho người mẹ nhiều món quà ý nghĩa và độc đáo hơn.
|
Nguồn gốc và ý nghĩa Ngày của Mẹ
| 942 | |
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa có các quyết định đưa thêm ba di sản vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Hội thi giã bánh dày tại Lễ hội Đền Hùng. (Ảnh: NGỌC LONG).
Đó là Mo Mường của các huyện
Mộc Châu
,
Vân Hồ
,
Bắc Yên
,
Phù Yên
(
Sơn La
), nghề dệt choàng (xã Long Khánh A,
huyện Hồng Ngự
,
Đồng Tháp
) và nghề làm bánh chưng bánh dày
huyện Tam Nông
,
huyện Cẩm Khê
,
thành phố Việt Trì
,
Phú Thọ
).
Mo Mường là những nghi lễ dân gian có tính thiêng được sử dụng trong tang lễ hay nghi lễ cầu mạnh khỏe của người Mường. Đây là di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, giàu giá trị nhân văn gắn liền đời sống tinh thần người dân xứ Mường bao đời nay.
Hiện nay, Mo Mường đang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với tỉnh, thành phố Hà Nội, Hòa Bình, Sơn La, Phú Thọ, Ninh Bình, Đắk Lắk xây dựng hồ sơ quốc gia Di sản văn hóa Mo Mường đệ trình UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Làng nghề dệt choàng xã Long Khánh A (huyện Hồng Ngự) đến nay đã gần 100 năm tuổi, nổi tiếng với các sản phẩm áo bà ba, khăn rằn. Ngày nay, làng nghề có gần 60 hộ theo nghề dệt khăn choàng truyền thống, sản xuất thêm nhiều loại sản phẩm mới như: áo dài, túi đựng đồ… đáp ứng nhu cầu của du khách trong và ngoài địa phương. Làng nghề dệt choàng xã Long Khánh A ngày nay đã trở thành một điểm du lịch hấp dẫn, không chỉ để tham quan, tìm hiểu nghề truyền thống mà còn giúp du khách có những trải nghiệm thú vị khi tự tay dệt nên những tấm vải.
Nghề làm bánh chưng bánh dày gắn liền với truyền thuyết Hùng Vương và lễ hội đền Hùng ở Phú Thọ. Hằng năm, tại Lễ hội Đền Hùng, hội thi gói, nấu bánh chưng, giã bánh dày luôn được tổ chức, vừa để lưu truyền lại những giá trị lịch sử, vừa để bảo tồn và giữ gìn nghề truyền thống về một món ăn gắn liền với đặc trưng văn hóa Việt.
HÀ CHI
|
Bổ sung thêm 3 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia
| 386 | |
Được tổ chức tại
Hà Nội
với sự góp mặt của 13 quốc gia đến từ châu Âu, Những ngày văn học châu Âu 2023 là chuỗi sự kiện bao gồm các buổi giới thiệu sách, đọc truyện, thảo luận văn học, ngày hội sách… Dịp này, Nhà xuất bản Kim Đồng giới thiệu tới độc giả thiếu nhi nhiều tác phẩm mới.
Ra mắt dịp này là những tác phẩm mới, nổi tiếng và được nhận những giải thưởng văn học. Đến từ nền văn học Pháp là “Chiến dịch giải cứu những vì sao” – tác phẩm khoa học viễn tưởng độc đáo, hài hước và đầy chất thơ của tác giả trẻ Benjamin Lesage. Tác phẩm được đề cử giải Prix Cendres năm 2020 của Pháp vinh danh các tiểu thuyết gia trẻ tuổi, Giải thưởng lớn của Hiệp hội Tác giả Bỉ (AEB) năm 2021, và với tác phẩm này, Benjamin Lesage đã được gọi là Jules Verne của thế kỉ XXI.
Cũng là tác phẩm của nền văn học Pháp, “Sinh vật kì lạ ở Mế-Hế-Hế-Hế-Hế” là tác phẩm vừa hài hước mà cũng thật bay bổng, nên thơ dành cho độc giả nhí thích phiêu lưu khám phá thế giới tự nhiên. Câu chuyện của 3 người bạn bạch tuộc bé xíu và vui nhộn ở một nơi rất xa của đại dương hài hước, dí dỏm đi kèm tranh minh họa màu bắt mắt.
NXB Kim Đồng giới thiệu một số cuốn sách châu Âu dành cho thiếu nhi.
Đến từ nước Anh, là tiểu thuyết của Stewart Foster mang tên “Cậu bé bong bóng” đã giành nhiều giải thưởng như Sách Thiếu nhi Sainsbury năm 2016 (lứa tuổi 9+), Giải thưởng Sách Carnegie (đề cử) và Giải thưởng Branford Boase.
Còn “Cuộc gặp gỡ tình yêu” của văn học Italia dành cho độc giả thanh thiếu niên là câu chuyện huyền ảo với nhân vật chính là Dante Alighieri, nhà thơ vĩ đại thời Trung cổ. Mỗi năm, nhà thơ Dante được trở lại với Roma trong một ngày dưới dạng tàng hình và được chứng kiến thành phố cổ kính mà anh yêu tha thiết trải qua những thăng trầm biến đổi suốt nhiều thế kỷ và gần nhất là đại dịch Covid-19… Sự xuất hiện của thi sĩ Dante ở thế kỷ XXI là chuyến du ngoạn say đắm, mãnh liệt với thơ ca và vẻ đẹp.
Cũng trong khuôn khổ Những ngày văn học châu Âu 2023, Nhà xuất bản Kim Đồng phối hợp cùng Viện Pháp tại Hà Nội, Đại sứ quán Italia và Cộng đồng Giáo dục Reggio Emilia tại Việt Nam (VIRES) tổ chức nhiều sự kiện giới thiệu sách, giao lưu với bạn đọc như “Ngày hội Astérix 2023”, “Phiêu lưu Vương quốc tại sao”, giao lưu với dịch giả cùng biên tập viên cuốn sách trong không gian vui chơi tương tác chủ đề về thế giới STEM quanh em.
|
Ra mắt nhiều tác phẩm văn học châu Âu dành cho thiếu nhi
| 488 | |
Những ngày gần đây, người dân và các nhân viên bảo tồn rùa Châu á liên tục trông thấy 2 cá thể rùa mai mềm với kích cỡ lớn khác nhau xuất hiện trên mặt hồ Đồng Mô.
Chia sẻ với phóng viên Báo Điện tử VOV, ông Nguyễn Tài Thắng – điều phối viên Dự án bảo tồn rùa Hoàn Kiếm của ATP, Chương trình Bảo tồn rùa Châu Á (ATP) cho biết, trong những ngày gần đây, người dân và các điều phối viên ATP đã liên tục phát hiện 2 cá thể rùa mai mềm với kích cỡ lớn bơi trên mặt hồ Đồng Mô.
Cá thể rùa mai mềm liên tục bơi trên mặt hồ Đồng Mô trong những ngày gần đây (Ảnh: ATP).
“Hai cá thể rùa mai mềm được chúng tôi trông thấy có một con lớn hơn cụ rùa Hoàn Kiếm 93kg mới qua đời ở hồ Đồng Mô mới đây và một con nhỏ hơn. Trước đây, cũng tại hồ Đồng Mô chúng tôi đã từng trông thấy 2 cá thể rùa tương tự, nhưng kích thước 2 cá thể mới trông thấy nhỉnh hơn”.
Theo ông Nguyễn Tài Thắng, hiện tại, các điều phối viên của ATP đang phối hợp với các cơ quan chức năng và người dân tiếp tục theo dõi và bẫy để nghiên cứu bảo tồn các con rùa mai mềm trong hồ Đồng Mô. Đối với “cụ rùa” Hoàn Kiếm mới qua đời hôm 23/4, ATP sẽ tiếp tục phối hợp mổ khám xác định nguyên nhân chết, kết hợp xét nghiệm mẫu nước tại hồ để có phương án bảo tồn tốt hơn.
Trước đó, trong sáng 23/4, điều phối viên Dự án bảo tồn rùa Hoàn Kiếm của ATP, Chương trình Bảo tồn rùa Châu Á (ATP) đã phát hiện một cá thể rùa mai mềm lớn tại hồ Đồng Mô nổi trên mặt nước và qua đời.
Cá thể rùa mai mềm ở hồ Đồng Mô vừa qua đời có chiều dài toàn thân 1,56m, chiều dài mai rùa 0,98m, chiều rộng mai rùa 0,76m và cân nặng là 93kg.
Cá thể rùa mai mềm liên tục bơi trên mặt hồ Đồng Mô được phát hiện trước đây.
Sáng 12/5, Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Xuân Đại xác nhận, cá thể rùa bị chết ở hồ Đồng Mô là loài rùa Hoàn Kiếm.
Hiện lãnh đạo UBND
TP. Hà Nội
yêu cầu các sở ban ngành có liên quan khám nghiệm, lấy mẫu xét nghiệm xác định nguyên nhân cá thể rùa nặng 93kg bị chết ở hồ Đồng Mô và biện pháp bảo quản xác cá thể rùa.
Giao Sở TN&MT Hà Nội phối hợp đơn vị liên quan đánh giá chất lượng nước, môi trường tại vị trí phát hiện rùa chết và tại các vị trí có nguồn xả thải lớn vào hồ (gần sân golf…). Báo cáo đánh giá kết quả quan trắc môi trường nước trên 2 hồ Đồng Mô và Xuân Khanh (thuộc TX.Sơn Tây).
UBND TP. Hà Nội cũng giao Sở NN&PTNT phối hợp với các sở, cơ quan liên quan đề xuất công tác bảo quản xác cá thể rùa.
Rùa Hoàn Kiếm ở hồ Đồng Mô được các nhà bảo tồn của Chương trình bảo tồn rùa châu Á (ATP) phát hiện lần đầu năm 2007. Năm 2008, một con rùa Hoàn Kiếm lọt ra ngoài hồ Đồng Mô và bị ngư dân bắt. Sau đó, con rùa này đã được gắn chip theo dõi và đưa trở lại hồ./.
|
Hai cá thể rùa mai mềm cỡ lớn liên tục xuất hiện trên mặt hồ Đồng Mô
| 584 | |
Thành phố Hải Phòng
còn được gọi với nhiều tên gắn với đặc thù địa lý như thành phố Cảng, thành phố nơi đầu sóng, thành phố miền cửa biển… Hải Phòng còn mang cái tên thân thương gắn với Ngày kỷ niệm giải phóng 13/5/1955 đó là ‘Thành phố Tháng Năm’.
Một góc thành phố Hải Phòng. Ảnh: An Đăng/TTXVN.
Theo cuốn Lịch sử Hải Phòng tập 3, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật xuất bản năm 2021, từ tháng 7/1954 đến tháng 5/1955, Hải Phòng bước vào giai đoạn 300 ngày. Đây là giai đoạn quân Pháp tập kết ở vùng duyên hải Bắc Bộ, trong đó có nhiều khu vực tại địa bàn Hải Phòng để thi hành các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Với bản chất phản động, ngoan cố, được đế quốc Mỹ tiếp tay nên quân Pháp tiếp tục tìm cách phá hoại vùng giải phóng, củng cố hệ thống do thám, gián điệp như tiến hành hơn 133 cuộc vây ráp, hơn 200 lần nổ súng vào các khu dân cư cùng các hoạt động bắt, bắt giam, bắn chết và làm bị thương nhiều người… Đế quốc Mỹ cũng cử một phái đoàn đến Hải Phòng cùng với Pháp tổ chức hoạt động phá hoại miền Bắc.
Nhận rõ tính chất đấu tranh quyết liệt trong khu vực tập kết, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (mở rộng) họp từ ngày 15 – 18/7/1954 về nhiệm vụ tiếp thu vùng mới giải phóng, đặc biệt là tiếp thu và quản lý đô thị, Trung ương Đảng quyết định thành lập Ban Chỉ đạo khu tập kết 300 ngày và phân công đồng chí Đỗ Mười làm Trưởng ban. Ban Chỉ đạo khu tập kết 300 ngày với sự tham gia của Tỉnh ủy Kiến An, Thành ủy Hải Phòng đã phân tích tình hình, đề ra những nhiệm vụ cấp bách như chỉ đạo tăng cường cán bộ cho nội thành Hải Phòng vì việc đấu tranh với địch tiếp quản một thành phố công nghiệp lớn là điều rất mới mẻ, phức tạp. Công tác tổ chức lực lượng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống địch cũng được triển khai. Trong giai đoạn từ 29/11/1954 đến ngày 12/5/1955, Hải Phòng đã sáng tạo nhiều hình thức đấu tranh để làm sụp đổ, tan rã tinh thần binh lính địch, tiến đến tiếp quản hoàn toàn thành phố.
Vẫn theo cuốn Lịch sử Hải Phòng tập 3, sáng sớm 13/5/1955, các cánh quân của Đại đoàn 320 và Trung đoàn 42 đội ngũ chỉnh tề vượt qua các cửa ô tiến về giải phóng thành phố trong tiếng reo hò của nhân dân. Chiều 13/5/1955, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trên đất Hải Phòng đứng gác ở bến Cảng giám sát chiếc tàu chở những tên lính Pháp cuối cùng rời bến. Cùng lúc, đoàn tàu hỏa với cờ đỏ sao vàng, treo chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Ga Hải Phòng kéo theo một hồi còi dài tiếng vào cảng. Ở tất cả các nhà máy, công sở cũng đồng loạt kéo còi chào mừng giờ phút lịch sử – thành phố Hải Phòng được hoàn toàn giải phóng, kết thúc 9 năm thực dân Pháp chiếm đóng thành phố. Ngày giải phóng Hải Phòng mở ra giai đoạn lịch sử mới với với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Cảng.
Một góc thành phố Hải Phòng. Ảnh: An Đăng/TTXVN.
Sau 68 năm ngày giải phóng, Hải Phòng mang một vóc dáng mới. Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng Lê Khắc Nam cho biết, kinh tế – xã hội của thành phố không ngừng phát triển, đạt nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Tiêu biểu như Hải Phòng là địa phương luôn nằm trong top đầu về giáo dục – đào tạo, đặc biệt là thành tích 24 năm liên tục có học sinh đoạt giải trong các kỳ thi quốc tế. Hải Phòng cũng là địa phương duy nhất triển khai đề án “Sân khấu truyền hình”, bắt đầu từ tháng 11/2019 đến nay. Đề án triển khai theo hình thức các buổi biểu diễn trực tiếp và truyền hình trực tiếp trên Đài Phát thanh và Truyền hình Hải Phòng. Các chương trình, vở diễn sân khấu truyền hình góp phần duy trì hoạt động của các đoàn nghệ thuật trên địa bàn thành phố, khơi dậy tiềm năng sáng tạo của các văn nghệ sĩ, mang đến cho công chúng Hải Phòng những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao.
Cùng với phát triển văn hóa, với lợi thế của một thành phố Cảng, Hải Phòng giữ vững và phát huy vị thế của cửa ngõ giao thương lớn nhất miền Bắc bằng đường biển, đặc biệt là sự hình thành của cảng nước sâu Lạch Huyện với 8 bến cảng đã được Chính phủ phê duyệt. Cụ thể, bến cảng số 1 và số 2 chính thức đi vào hoạt động từ năm 2018, đưa hàng hóa từ Việt Nam đến thẳng bờ Tây – Hoa Kỳ, rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa trên 10 ngày, tiết kiệm rất nhiều chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. Hiện bến cảng số 3,4,5,6 khu vực cảng nước sâu Lạch Huyện đang được xây dựng, dự kiến đi vào hoạt động đầu năm 2025.
Trong tháng 5/2023, Ban Quản lý Khu kinh tế Hải Phòng cấp giấy chứng nhận đầu tư cho bến cảng số 7 và số 8. Tại buổi cấp giấy chứng nhận đầu tư, Đại tá Nguyễn Năng Toàn, Chủ tịch Công ty TNHH MTV Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn (chủ đầu tư bến cảng số 7 và số 8) cho biết, sự kiện này đánh dấu thêm cột mốc quan trọng trên chặng đường thực hiện sứ mệnh kết nối lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế biển, nâng tầm thương hiệu quốc gia, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của những người lính Hải quân…
Trong dịp kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố Hải Phòng, nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật được tổ chức. Đến tham quan triển lãm hình ảnh, tư liệu “Hải Phòng – Tỏa sáng miền cửa biển” do Sở Văn hóa và Thể thao Hải Phòng tổ chức, diễn ra từ 7 – 13/5/2023, em Nguyễn Thị Minh Phương, học sinh lớp 11, Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền chia sẻ: Những hình ảnh lịch sử, trong đó có ngôi trường em đang theo học giúp em hình dung về những ngày tháng các thế hệ đi trước đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ thành phố; năng động, sáng tạo, dũng cảm trong giai đoạn mới xây dựng thành phố phát triển. Qua đó, em thêm yêu, thêm tự hào về thành phố Cảng – thành phố hiên ngang nơi đầu sóng, thành phố của tháng Năm lịch sử và tháng Năm của mùa hoa Phượng rực rỡ trên khắp các ngả đường.
|
Sức bật của ‘Thành phố Tháng Năm’
| 1,215 | |
Tự tin và quyết liệt là điều mà các tướng lĩnh Đại Việt qua nhiều thời kỳ đều thể hiện rõ nét.
Cuối năm 1788, lợi dụng lời cầu cứu của vua Lê Chiêu Thống, vua Càn Long đã sai Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân sang xâm lược nước ta.
Ðược tin, để tỏ rõ chính nghĩa và thể hiện danh nghĩa đối với cả nước, trách nhiệm với toàn dân, ngày 22-12-1788, Nguyễn Huệ lập đàn ở phía Nam núi Ngự Bình (Huế) tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung (ánh sáng ở trung tâm). Ngay trong lễ đăng quang, Nguyễn Huệ đã đọc bài “Hịch xuất quân”. Bài hịch chỉ có 35 chữ mà khái quát rất nhiều tầng ý nghĩa và mang một phong thái đĩnh đạc, hùng tráng:
Tượng đài Hoàng đế Quang Trung tại Bảo tàng Quang Trung (tỉnh Bình Định).
“Ðánh cho để dài tóc
Ðánh cho để đen răng
Ðánh cho nó chích luân bất phản
Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Bài hịch (còn có tên là “Hịch đánh Thanh” hoặc “Lời hiếu dụ tướng sĩ”) chỉ có 5 dòng mà chữ “đánh cho” được lặp lại đến 5 lần. Ðó là một lời kêu gọi đánh giặc, đúng hơn là phải đánh tan quân giặc. Ở đây ý thức quyết chiến, quyết thắng thể hiện nhất quán và vững chắc, bằng một quyết tâm sắt đá.
Vua Quang Trung
không kêu gọi đuổi quân Thanh về nước mà là phải đánh cho chúng tan tành, đại bại. Tinh thần đó thể hiện sự tự tin và quyết liệt, điều mà hầu hềt các tướng lĩnh Ðại Việt các thời kỳ đều thể hiện rõ nét.
Phân tích kỹ, ta thấy bài hịch tập trung nêu bật mục đích của chiến dịch Bắc tiến, cũng là lần thứ 3 Nguyễn Huệ ra Bắc. Có 3 mục đích chính: đó là “Ðánh cho để dài tóc”, “Ðánh cho để đen răng”. Cha ông ta ngày trước để tóc dài, búi tó, khác với quân xâm lược Thanh tết đuôi sam. Ðồng thời, cha ông ta trước đây có tục nhuộm răng đen. Vì vậy, ý 2 câu này là đánh để giữ phong tục, tập quán, truyền thống riêng của ta; tức là đánh giặc để ta được là ta, để ta không bị đồng hóa.
Ðó là “Ðánh cho chúng chích luân bất phản”, “Ðánh cho chúng phiến giáp bất hoàn”. Hai câu này có nghĩa là đánh cho giặc đến một bánh xe cũng không thể quay về nước, tức là đánh cho xe ngựa của chúng tan tác; đồng thời, một mảnh áo giáp cũng không còn nguyên vẹn. Như vậy, vị hoàng đế khích lệ, cổ vũ tinh thần tướng sĩ phải đánh cho bọn xâm lược đại bại, thất bại hoàn toàn.
Ðó là “Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Câu này có nghĩa là đánh để lịch sử (là các thế hệ sau của bọn giặc phương Bắc) biết nước Nam anh hùng có chủ, tức là đánh để bảo vệ độc lập, tự chủ của dân tộc, đánh để cho muôn đời thấy rõ tinh thần yêu nước, kiên cường, bất khuất của dân tộc ta.
Chúng ta cùng đọc lại đoạn trích trong “Hoàng Lê nhất thống chí”, hồi thứ XIV:
“Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Ðời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Ðinh Tiên Hoàng, Lê Ðại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Ðạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Ðinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước! Các quân lính đều nói: Xin vâng lệnh, không dám hai lòng!”.
“Hoàng Lê nhất thống chí” được viết trải qua nhiều đời của các danh sĩ dòng họ Ngô, có người cùng thời với vua Quang Trung, cũng có người đời sau. Ở đoạn trích này, ta thấy rõ các tác giả Ngô gia văn phái đã dành cho vua Quang Trung những trang đẹp nhất, hào hùng nhất, tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc. Ðoạn văn đó đã thể hiện được quan điểm, thái độ của vị hoàng đế đối với cuộc chiến chống quân xâm lược sắp diễn ra. Người tố cáo tội ác của giặc bằng giọng điệu chất ngất hờn căm: “Chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải…”. Nhà vua đồng thời viện dẫn về những anh hùng dân tộc trong quá khứ để thuyết phục binh sĩ và tuyên bố với binh sĩ về mục đích của cuộc tiến quân ra Bắc, ý nghĩa của ngọn cờ Tây Sơn: “Ðánh đuổi quân Thanh, đem lại thái bình thịnh trị cho non sông gấm vóc…”, đó là một mục đích cao cả mà trách nhiệm của mỗi người dân Việt đều phải ra sức thực hiện. Cuối cùng, vị hoàng đế cũng nghiêm khắc cảnh báo: không được ăn ở hai lòng, nếu không sẽ bị xử phạt nghiêm khắc! Trước những lời thấu động tâm can, quân sĩ đã đồng lòng hưởng ứng.
Ðọc lại “Hịch đánh Thanh”, chúng ta nhớ đến những áng thiên cổ hùng văn khác: bài thơ “Thần” thời nhà Lý với câu bất hủ “Sông núi nước Nam vua Nam ở”; “Cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi với những câu ngàn năm vẫn còn vang vọng:
“Như nước Ðại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác/ Từ Triệu, Ðinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương…”.
Nước Nam dù nhỏ nhưng chưa bao giờ là nước yếu, so với các nước vẫn luôn có chỗ đứng riêng, điều đó không chỉ được chứng minh trong lịch sử mà còn được ghi nhận như một sự thực hiển nhiên, được sách trời ghi lại.
Ở “Hịch đánh Thanh”, ta không thấy những đúc kết mang tính cao sâu mà rất giản dị, gần gũi nhưng cũng có ý nghĩa rất sâu sắc. Quyết đánh thắng giặc Thanh cũng là những lời khẳng định sắt đá về nền độc lập, tự chủ của nước nhà. Những điều đó chắc chắn đối với người dân Việt thời nào cũng có và luôn thể hiện bằng nhiều cách.
Riêng với vị vua có tinh thần độc lập và tự cường vô cùng mạnh mẽ Quang Trung – Nguyễn Huệ, tinh thần ấy dường như còn được thể hiện rõ nét hơn, cụ thể hơn và vì thế những lời ấy dù đã qua trên 230 năm vẫn như còn vang vọng đâu đây!
Lời hịch ấy thực sự là một áng hùng văn!
|
Áng hùng văn “Hịch xuất quân” – Tác giả: Nguyễn Minh Hải
| 1,381 | |
Công tích và sự tích đều lớn lao nhưng ông lại chỉ được biết đến với mỗi tước hiệu là Hùng Lộc hầu nên đã thành nỗi khắc khoải hơn 300 năm của người dân Việt.
Từ năm 1611, khi Chúa tiên Nguyễn Hoàng ban lệnh dựa trên công sức và công lao mở đất của Thượng tướng quân Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh thành lập “phủ” Phú Yên thì bản đồ nước Việt – với cuộc “Nam Tiến” thần thánh của dân tộc – đã rộng dài thêm về phương Nam, vươn qua đèo Cù Mông mà vào thấu tới đèo Đại Lãnh.
Tiếp tục công cuộc di dân lập ấp của Lương Văn Chánh từ trước đấy, nay dinh tạo được gần 100 ngôi làng trù phú để “lấp đầy khoảng trống” làm ăn sinh sống trên miền đất mới – có tên gọi là “vừa giàu có vừa yên ổn” đó.
Từ năm 1648, cuối đời trị vì của chúa Nguyễn Phúc Lan (1636 – 1648) – con là chúa Nguyễn Phúc Nguyên – cháu chúa Nguyễn Hoàng – nhân đánh thắng và bắt được 3 vạn “tù binh” của chúa Trịnh từ Đàng Ngoài vào làm cuộc “Trịnh – Nguyễn phân tranh” ở Quảng Bình, những người đứng đầu Đàng Trong của các chúa Nguyễn đã quyết định đưa số nhân lực quan trọng này chia thành từng nhóm 50 người, cấp lương ăn trong vòng nửa năm, cho đi lập thêm ấp khiến miền đất Phú Yên mới được mở mang, ngày càng thêm thịnh vượng.
TP Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) là một trong những vùng nằm trong phần đất dinh Thái Khang do Hùng Lộc hầu mở về phía Nam và làm quan trấn thủ (Ảnh: THÁI TĨNH).
Trong khi đó, ở mạn Nam Đèo Cả (Đại Lãnh), nước Chiêm Thành dưới quyền trị vì của quốc vương Pô RôMê (1627 – 1651), cũng có một thời gian bằng lòng với chủ trương yên hòa mà sinh sống trên lãnh thổ đã bị ép co lại khá nhiều, không gây sự tranh chấp nào nghiêm trọng với Đàng Trong của các chúa Nguyễn, lúc này đã mở rộng đất và di dân lập ấp tới sát mạn Bắc dãy Đèo Cả rồi.
Nhưng từ năm 1651, khi quốc vương Pô RôMê mất, người kế vị là Pô NơRốp lên ngôi thì nhân vật này (được các sử sách triều Nguyễn gọi bằng tên Việt là Bà Tấm) sau khi làm quốc vương Chiêm Thành được 1 năm thì vào năm 1653 đem quân vượt Đại Lãnh ra đánh phá đất Phú Yên.
Trước tình thế ấy, chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) – kế vị chúa Nguyễn Phúc Lan – đã phản ứng nhanh nhạy và quyết liệt: Cử ngay đại binh vào Phú Yên, đánh lại!
Cuộc chiến đã có kết quả chóng vánh: Đất Phú Yên được bảo vệ. Bà Tấm phải dẫn quân tháo chạy về nước, sau đấy khiếp sợ, sai con trai – được sử sách triều Nguyễn gọi bằng tên là “Xác Bà Ân” – viết thư đầu hàng và để “chuộc tội” đã xin dâng miền đất – khi ấy tiếng Chiêm gọi là “Kaut – Hara” nghĩa là “Đất của bộ lạc” chạy từ Đèo Cả tới Phan Rang.
“Chiến lợi phẩm” – là miền đất “Kaut – Hara” – được thu nhận ngay. Và nhân đấy, chúa Nguyễn Phúc Tần quyết định: Cho thành lập 2 phủ mới của Đàng Trong ở trên đất ấy. Đấy là: Thái Khang (tức Ninh Hòa về sau) và Diên Ninh (tức Diên Khánh về sau). Phủ Thái Khang có 2 huyện Quảng Phúc và Tân An. Phủ Diên Ninh có 3 huyện: Phúc Điền, Vĩnh Xương và Hoa Châu. Hợp 2 phủ ấy lại thành dinh Thái Khang, đặt chức Trấn thủ để trông coi.
Đất Khánh Hòa ngày nay đã được thành lập từ năm 1653, là như thế. Và người dẫn quân đi đánh bại vua Pô NơRốp, tâu trình với chúa việc đầu hàng – dâng đất của quốc vương Chiêm Thành, thực hiện việc thành lập dinh Thái Khang, rồi ở lại làm quan trấn thủ dinh ấy, không phải ai khác, mà chính là: Hùng Lộc hầu.
Nhưng sách “Đại Nam liệt truyện, tiền biên” ghi chép những điều này chỉ có 2 câu kết luận: “Hùng Lộc hầu không rõ họ” và “có công đấy, chỉ tiếc là không biết rõ họ tên, quê quán và tuổi thọ của Hùng Lộc”.
Trương Phúc (Phước) Hùng là trưởng nam của Phấn Quận công Trương Phúc Phấn – trấn thủ dinh Bố Chính về đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635), cũng là đời thứ tư của dòng họ gốc Nguyễn Phúc (Phước), theo Chúa tiên Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp ở Đàng Trong từ năm 1558.
Từng giữ chức Cai cơ, giống như chức của Hùng Lộc hầu (khi vị hầu tước mang hiệu là “Hùng Lộc” này đã được chúa Nguyễn Phúc Tần cử làm tướng, đem quân đi đánh quốc vương Chiêm Thành Pô NơRốp năm 1653) và cũng được phong tước hiệu là Hùng Oai hầu – với chữ “Hùng” ở đầu, giống như tước hiệu của Hùng Lộc hầu, Trương Phúc Hùng còn có phẩm chất rất hùng mạnh, được sách “Đại Nam liệt truyện, tiền biên” mô tả ở trận đánh giữ lũy Trường Dục năm 1648, khi ông cùng với cha chiến đấu chống lại đạo quân của chúa Trịnh từ Đàng Ngoài vào tấn công:
“Quân Trịnh đánh mạnh, sát ngay ngoài lũy, lũy ấy đắp bằng đất cát, không được bền cho lắm. Đạn giặc bắn vào, lũy bị lở vài mươi trượng. Quân lính sợ hãi, chạy trốn hơn 17, 18 người… Cha con ông đội tên đạn, đôn đốc quân lính lấy thuyền nan đổ đầy cát, lấp vào chỗ lũy bị sạt. Súng đạn của quân Trịnh cứ nhằm vào chỗ cắm lọng (chỉ huy) của cha con ông, bắn như mưa. Võ sĩ ở tả hữu vài trăm người, nhiều người bị thương và bị chết nhưng cha con ông vẫn không dao động, khiến bên địch cho là thần, không dám đến gần. Được một chốc, lũy đắp vá xong, không bị nhổ đi, giặc không đánh được”…
Hoặc như được sách “Trần Nhân tiền liệt biểu” ca ngợi ở trận Thạch Hà, năm 1655 khi ông đưa quân vượt sông Gianh, ra Đàng Ngoài tấn công quân Chúa Trịnh: “Ông kiên dũng thường đi trước, hãm trận, khiến cho không người Đàng Ngoài nào không khiếp sợ. Họ gọi ông là Hùng Thiết!” – rất giống với phẩm chất của Hùng Lộc hầu khi được lĩnh chức Cai cơ vào năm 1653, dẫn binh đi đánh quân Chiêm Thành của Pô NơRốp xâm lấn đất Phú Yên, qua sự ghi chép của sách “Đại Nam thực lục tiền biên”:
“Cai cơ Hùng Lộc (không rõ họ) được làm thống binh, Xá sai Minh Vũ (không rõ tên) làm tham mưu, lĩnh 3.000 quân đi đánh. Quân đến Phú Yên, các tướng đều muốn dừng lại để dụ địch. Hùng Lộc nói: “Ra quân lúc không ngờ, đánh giặc lúc không phòng bị, là mưu hay của nhà binh. Nay quân ta từ nơi xa đến, lợi ở sự đánh nhanh cần gì phải dụ?”. Bèn tiến quân vượt đèo Hồ Dương, đến núi Thạch Bi, tấn công thẳng vào thành giặc, nhân lúc đêm tối, phóng lửa đánh gấp. Cả phá được giặc”.
Người “mang gươm đi mở cõi” Khánh Hòa, công tích và sự tích đều lớn lao là thế nhưng lại chỉ được biết đến với mỗi một tước hiệu là Hùng Lộc hầu. Cho nên, đã thành nỗi khắc khoải hơn 300 năm của người dân Việt, đặc biệt là người dân “Xứ Trầm Hương” khi muốn được biết tường tận tính danh, quê quán, tuổi thọ…, để tưởng niệm tri ân.
Vì thế, khi xuất hiện những thông tin về danh tướng Trương Phúc Hùng thì trước hết, nhiều người đã nghĩ ngay đến cái phép tắc phong tặng tước hiệu ở cuối thời trung cổ nước nhà, là: Chữ đầu của tước hiệu, thường lấy ngay tên của nhân vật được phong mà đặt (như trường hợp tướng Trương Phúc Phấn – là cha của tướng Trương Phúc Hùng khi được phong tước hiệu, thì đó là: Phấn Vũ hầu, rồi là: Phấn Quận công). Từ đấy mà suy ra: Hùng Lộc hầu có thể chính là một tước phong của Trương Phúc Hùng!
Thêm vào đây, ai cũng có thể nhận ra: Tính cách, chiến công, chiến trường, thời gian hoạt động quân sự… của hai người – Hùng Lộc hầu và Trương Phúc Hùng – là khá gần gũi cùng nhau.
Anh linh ở chốn này?
Về nơi gửi lại thân xác của tướng Trương Phúc Hùng thì “Sống vì mồ vì mả/ Không sống vì cả bát cơm”, với ý thức và tâm thức này, trong dịp kỷ niệm 350 năm (1653 – 2003) thành lập tỉnh Khánh Hòa, nhiều người “Xứ Trầm Hương” tìm đến ngôi mộ ba tầng đắp đất mà theo tài liệu ghi chép tại Khánh Hòa: Mộ của tướng Trương Phúc Hùng ở đồi Cây Kéc, xã Trường Dục, huyện Khang Lộc – địa điểm bây giờ là xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Anh linh của người “mang gươm đi mở cõi” Khánh Hòa – Hùng Lộc hầu có đang phảng phất ở chốn này?
Nhà sử học
LÊ VĂN LAN
|
Hùng Lộc hầu – Người “mang gươm đi mở cõi” Khánh Hòa – Tác giả: Nhà sử học Lê Văn Lang
| 1,589 | |
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa có công điện về chủ động triển khai các biện pháp cấp bách ứng phó với nguy cơ nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ đầu năm đến nay, tổng lượng mưa trên toàn quốc phổ biến ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm.
Hiện nay, mực nước tại nhiều hồ chứa lớn ở mức rất thấp. Một số hồ chứa lớn lượng nước trữ trong các hồ chứa thiếu hụt từ vài chục đến hàng trăm triệu m3, cá biệt hồ Bản Vẽ (Nghệ An) thiếu hụt tới 389 triệu m3.
Với tình trạng thiếu hụt nguồn nước, đồng thời khả năng cao ảnh hưởng của hiện tượng El Nino vào nửa cuối năm 2023, nguy cơ xảy ra nắng nóng, hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng trong thời gian tới, nhất là tại các khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Trước tình hình trên, Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chủ động chỉ đạo, triển khai quyết liệt các giải pháp cấp bách phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn. Thủ tướng yêu cầu không để thiếu nước cho sinh hoạt, thủy điện và ảnh hưởng tới sản xuất, nhất là đối với các lĩnh vực trọng yếu.
.
Đồng lúa chết khô trong đợt hạn hán ở Thanh Hóa năm 2020. Ảnh: ĐẶNG TRUNG.
Giao nhiệm vụ cụ thể, Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, nhất là các tỉnh, thành phố khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ hướng dẫn người dân chủ động tích trữ nước ngọt, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nước, điện.
Cùng đó, đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm hoàn thành đưa vào sử dụng các công trình thủy lợi, cấp nước sinh hoạt; lắp đặt và vận hành trạm bơm dã chiến; kéo dài đường ống dẫn nước để kết nối nguồn nước từ đô thị phục vụ cho nông thôn.
Các tỉnh căn cứ tình hình cụ thể về nguồn nước và khả năng cấp nước điều chỉnh mùa vụ, cơ cấu cây trồng phù hợp, chuyển đổi diện tích trồng lúa ở vùng hạn hán, chưa bảo đảm cấp nước sang cây trồng cạn, không để thiếu nước cho sinh hoạt và chăn nuôi
Chủ động bố trí ngân sách địa phương để triển khai thực hiện các giải pháp cấp bách phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn; ưu tiên bố trí kinh phí đầu tư xây dựng, sửa chữa, nâng cấp công trình cấp nước tập trung.
Giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, Thủ tướng yêu cầu Bộ NN&PTNT phân công một lãnh đạo Bộ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo, đôn đốc các địa phương thực hiện phương án phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn, hướng dẫn điều tiết nước tại các hồ chứa thủy lợi, đánh giá cân đối nguồn nước để điều chỉnh kế hoạch sử dụng nước phù hợp đáp ứng tốt nhất nhu cầu nước sinh hoạt và sản xuất.
Bộ NN&PTNT tổng hợp tình hình hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn ở các địa phương, chủ động phối hợp với các bộ, ngành đề xuất Thủ tướng xem xét, hỗ trợ các địa phương, nhất là các tỉnh khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên.
Với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thủ tướng yêu cầu tăng cường dự báo, cảnh báo, nhận định về tình hình khí tượng thủy văn, kịp thời cung cấp thông tin phục vụ chỉ đạo sản xuất phù hợp với điều kiện nguồn nước và chủ động thực hiện các biện pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Bộ Công Thương chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam rà soát phương án sản xuất điện trong bối cảnh xảy ra thiếu nước tại các hồ thủy điện để có phương án chủ động bảo đảm cung ứng điện cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Đồng thời đề xuất vận hành linh hoạt các hồ chứa thủy điện lớn gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định, trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định nhằm khai thác hiệu quả, tiết kiệm nguồn nước.
Bộ Y tế chủ động hướng dẫn người dân các kỹ năng để bảo vệ sức khỏe khi nắng nóng gay gắt kéo dài.
Các Bộ, ngành khác chủ động chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ địa phương triển khai công tác phòng, chống, khắc phục tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn theo chức năng quản lý nhà nước được phân công.
|
Thủ tướng yêu cầu cấp bách ứng phó với nguy cơ nắng nóng, hạn hán
| 783 | |
Tương tự như các thể văn chiếu, cáo, nhưng hịch thường được dùng trong lĩnh vực quân sự có nội dung lên án, tố cáo kẻ thù, trên cơ sở đó mà răn dạy, kêu gọi, phủ dụ mọi người cùng đứng lên xóa bỏ tội ác. Người ta tìm thấy tên gọi của thể loại hịch sớm nhất có trong
Sử ký
của Tư Mã Thiên. Văn bản hịch sớm nhất có trong
Văn tuyển
của tác giả Tiêu Thống có tên
Dụ Ba Thục hịch
– tác giả Tư Mã Tương Như (đời Hán Vũ đế)… Từ đó về sau tên gọi, hình thức, nội dung của hịch hầu như không thay đổi.
Ở ta hịch còn được gọi
L
ộ bố
có nghĩa công khai, để ngỏ vấn đề cho mọi người biết, không phân biệt ai, cả ta, cả địch. Lý Thường Kiệt có
Lộ bố phạt Tống
tiêu biểu cho cấu trúc lời văn hịch: kể tội giặc Tống và tuyên bố đánh Tống để cứu dân.
Hịch tướng sĩ
của Trần Hưng Đạo có tên đầy đủ là
Dụ chư tỳ tướng hịch văn
là bài hịch tiêu biểu sinh động nhất, trong đó thể hiện khá đầy đủ các yêu cầu đặc trưng của hịch. Mục đích chính của hịch là kêu gọi, khích lệ nên bản chất của hịch phải mang tính
kích động
. Tất cả, từ câu văn đến chi tiết, cấu trúc văn bản đều nhằm toát lên tính
kích động
. Đọc xong một bài hịch người ta thấy như muốn vùng đứng dậy làm một việc gì đó mạnh mẽ, ý nghĩa… Thời hiện đại hịch chính là
Lời kêu gọi.
.. Ở thời điểm ra đời, các
Lời kêu gọi
… của Bác Hồ có tác động mạnh mẽ đến người đọc. Ta thấy cấu trúc các
Lời kêu gọi
của Bác cũng tương tự như hịch.
Hịch mang tính “liên văn hóa” rất rõ bởi các lý do: viết ra cho mọi người đọc, mọi người hiểu, phía ta đọc thì phấn khích, phía giặc đọc thì lo sợ. Tất yếu phải dùng “mã văn hóa” chung, từ kết cấu, nhân vật, hình tượng, lời văn… Ngoài các tư liệu cổ, hịch chỉ còn thấy trong các tiểu thuyết lịch sử, mà hiện nay một tác giả dùng thành công là nhà văn Phùng Văn Khai. Dưới đây là sự chứng minh ở một vài yếu tố cụ thể.
Bộ tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai.
1. Điểm tựa đạo lý:
Để kêu gọi, phủ dụ, huấn dụ, răn dạy người khác phải có điểm tựa cảm xúc, mà trong quân sự thì tốt nhất là điểm tựa đạo lý. Như là một mẫu mực, các thể thơ văn chiếu, cáo, hịch thường mở đầu là đạo lý (như trong
Cáo bình Ngô
: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”). Thường là đạo lý ở đời và làm người, phải “thay trời hành đạo”, làm người là phải gánh vác việc nước (Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách – Nước nhà mất còn trách nhiệm thuộc về người trai). Tác giả Phùng Văn Khai nắm chắc yêu cầu này nên có những “điểm tựa” thuyết phục:
“
…Nay ta vâng mệnh trời đất, tổ tiên, nòi giống An Nam quyết giương cờ nghĩa;
…Nay ta soạn hịch văn này, trước là kính cáo trời đất, tổ tông, anh linh các bậc tiên liệt từng dựng nước, đánh giặc mong đấng cao xanh phù trợ; sau là bày tỏ tấm lòng với muôn dân sĩ tốt hãy quyết chí bền gan vùng lên đánh đuổi giặc Đường.
(
Phùng Vương,
trang 394-395)
– Hỡi linh khí núi sông, tổ tiên đất trời sông biển!
– Hỡi các vị phụ lão hương thân châu mục bốn phương!
– Hỡi chúng tướng! Hỡi ba quân tướng sĩ!
– Hỡi muôn dân Giao Chỉ, An Nam!
(
Ngô Vương
,
trang 382-385)
Trời không dung, đất không tha kẻ ác.
Người Giao Châu quyết rửa mối cừu thù.
Nay ta vì nghĩa giương cờ phục quốc, trước là kính cáo các liệt tổ liệt tông anh hùng đất Giao Châu được biết; Sau quyết cùng muôn dân trong toàn cõi, cầm giáo gươm đánh đuổi lũ ác tặc tham tàn.
Người Giao Châu nòi giống Tiên – Rồng, quyết không chung trời với bọn cáo cầy phương Bắc.
Từ thượng cổ vua Hùng Vương dựng nước, mười tám đời đã trải mấy trăm năm.
(
Nam Đế Vạn Xuân
, trang 311-313)
Chúng ta thấy ba ví dụ trên đều đủ các “điểm tựa” cơ bản: Trời đất, tổ tiên, giống nòi… Đặt trong bối cảnh tiểu thuyết lịch sử này cần ghi nhận các ý thức nghệ thuật của tác giả: Một là, trong cấu trúc thể loại, các điểm tựa này thường đặt ở phần mở đầu bài hịch, nhưng với bạn đọc hiện đại, nhà văn linh hoạt để sự tiếp nhận thoải mái hơn, khi ở vị trí mở đầu, khi ở vị trí giữa, tùy vào nội dung và đối tượng (kẻ thù). Hai là, tạo dựng không khí cổ xưa qua ngôn từ mang sắc thái biểu cảm cao, đặc biệt là dùng nguyên các từ cổ và từ Hán Việt: anh linh, tiên liệt, đấng cao xanh…
2. Tố cáo tội ác “trời không dung, đất không tha” của quân xâm lược.
“
Nay ta vâng mệnh trời đất, tổ tiên, nòi giống An Nam quyết giương cờ nghĩa; lại xét thấy giặc Đường kia quá tham lam tàn bạo, ức hiếp dân ta trăm bề mà kể tội chúng, hiệu lệnh muôn dân đứng chung dưới cờ, cùng nhau đánh đuổi giặc Đường.
Trương Thuận, Trương Bá Nghi nửa đêm giết con đỏ cụ già ở Hoan Châu, Ái Châu khiến lòng dân phẫn uất. Thang Ân Bá, Trương Phóng ban ngày quật mồ mả tổ tiên các vua ta ở Phong Châu tội lỗi chất chồng. Tội ác giặc Đường đất trời không dung; nỗi nhục dân ta tới ngày phải rửa.
(
Phùng Vương,
trang 394-395)
Hán đế Lưu Cung ôm mộng bá vương, mấy lần vô cớ đem binh xuống tàn sát dân ta, bày đặt mưu gian bắt chúa ta đưa về Bắc quốc, nhục mạ tổ tiên chém giết người yêu nước, mượn cớ gian thần lộng hiểm gây nạn binh đao. Nay lại nghịch mệnh trời đem binh xuống An Nam cướp phá.
(
Ngô Vương,
trang 382-385)
Kể tội tức phải phơi bày ra những tội ác để mọi thấy mà ghê tởm, khinh ghét, căm hờn. Nhà văn đã “bắt” trúng cái “mạch” tội giặc, như ba ví dụ trên: Tội giết người lừa trời; tội tham hư danh; tội phản tặc; tội nhục mạ dòng giống tổ tiên vinh quang (của ta).
PGS.TS Nguyễn Thanh Tú tại hội thảo Phùng Hưng.
3. Nỗi khổ điêu linh của dân lành dưới ách ngoại xâm
An Nam ta mấy chục năm ròng xiết bao cơ cực, lầm than. Trước là nạn Trương Thuận bức dân đắp La Thành người chết hàng vạn, phu phen tạp dịch cùng đường phải trốn chạy nơi rừng xanh núi đỏ còn chưa dứt. Sau đến nạn Trương Bá Nghi đặt mưu gian kế hiểm bắt dân các vùng chặt gỗ đóng thuyền, xẻ núi đắp thành đồng ruộng bỏ hoang. Phàm những việc xuống biển, lên rừng coi mạng người như cỏ rác dân An Nam đều phải thực thi không được chậm trễ. Nào là sản vật, rượu ngon, thợ giỏi, gái đẹp, bạc vàng đều phải cống nạp về Đường triều không biết bao nhiêu cho đủ.
(
Phùng Vương,
trang 394-395)
Suốt mấy chục năm ròng, Vũ Lâm hầu Tiêu Tư thừa mệnh Lương triều xuống Giao Châu trị nhậm. Những tưởng Hầu gia theo gương Sĩ Vương thuở trước, kính Phật, yêu dân, mở rộng giao thương, trồng trọt cấy cày, khai khẩn đất hoang, dẹp trừ giặc cướp, đặng giúp chúng dân no đủ, yên hàn.
Nào ngờ cũng bấy nhiêu năm, họ Tiêu dung túng quan quân, đè đầu cưỡi cổ bách dân, phỉ báng chốn thiền môn, thuế khóa nặng nề, xa rời chính đạo, chỉ ưa riêng mình hưởng lạc xa hoa, bỏ mặc dân tình thập phần đói khổ.
Kìa bữa trước, người già không có tội, cũng giữa ban ngày vô cớ giết nơi cổ tự Luy Lâu.
Lại gần đây, bảy mươi ba hương trưởng có công, cũng ngầm sai lính đào hầm chôn sống hết
(
Nam Đế Vạn Xuân,
trang 311-313)
Chỉ cần qua các lời hịch này trong các tiểu thuyết lịch sử của
Phùng Văn Khai
cũng có thể hình dung thân phận dân ta bị các ách mà bọn xâm lược phương Bắc tròng vào cổ: vô cớ bị giết, có lối giết của quỷ dữ “bảy mươi ba hương trưởng có công, cũng ngầm sai lính đào hầm chôn sống hết” – Có công với chúng còn bị chúng giết, lại còn giết người già nơi linh thiêng, thì chỉ có ở quỷ dữ không còn tính người, tình người; bóc lột tàn hại nặng nề bởi thuế khóa; phu phen, tạp dịch làm cho “thập phần đói khổ”.
Các dẫn chứng này không cần nhiều về số lượng nhưng cần một giá trị biểu cảm cao, ở sự chọn lọc, ở sự tiêu biểu, ở lối hành văn giàu cảm xúc. Tác giả đã làm tốt tiêu chí ấy!
4. Quyết tâm tướng sĩ đồng lòng diệt giặc thù.
Bớ tướng sĩ ba quân!
Ta thân dẫn binh đi, chỉ hỏi tội phản thần Kiều Công Tiễn và đồng đảng, truyền kể hịch này phân rõ trắng đen. Người Phong Châu là cùng một nước không được giết bừa; binh tướng Phong Châu hiểu lẽ phải theo về đều là anh em một nhà với chúng ta không phân biệt đối xử. Các ngươi hãy ghi nhớ điều đó.
Binh tướng Ái Châu, Hoan Châu vì đại nghĩa thảo phạt nghịch thần.
Ngô tướng ta vì muôn dân quyết trừ phản tử.
Hẹn ngày ba quân cùng ta vào La thành tế chúa.
Khóc rỏ máu mắt, xin tỏ rõ tấc lòng riêng.
(
Ngô Vương,
trang 258-261)
Phần “quyết tâm” này, ở các văn bản cổ không nhất thiết phải có bởi nó đã toát ra từ sự kể tội, từ sự nêu ra nỗi khổ sở lầm than. Nhưng khi cần thiết phải tác động tức thời, mạnh mẽ, các tác giả vẫn cho xuất hiện “cái tôi”. Nhưng phải đảm bảo các yếu tố: chân thật, rung động, thuyết phục. Bởi nếu không dễ rơi vào thừa thãi, làm giảm sự hưng phấn có ở toàn bài. Dẫn chứng trên cho thấy sự ý thức “tiết chế” của Phùng Văn Khai, dùng ít nhưng đã dùng thì phải đảm bảo các yêu cầu phải có. Ví dụ trên đặt trong bối cảnh tiểu thuyết
Ngô
V
ương
, sự xuất hiện trực tiếp của “Ngô tướng ta” là cần thiết, vì: là chủ tướng trực tiếp cầm gươm ra trận. Sự có mặt này có tác dụng khích lệ “ba quân” rất lớn. Ngoài “thân”, tức trực tiếp ra trận, chủ tướng cần có “lời” (hịch) để “ba quân” “tiếp nhận” (về người chủ tướng) một cách đầy đủ, toàn diện hơn (cả thị giác, thính giác)…
5. Khích tướng (quân ta)
,
khiêu khích (quân giặc).
“
– Binh tướng An Nam ta nào đâu dám tranh hùng thiên hạ. Mới vừa rồi phải nghiến răng trừ phản thần họ Kiều, để tang Dương chúa. Chỉ mong được thái bình, đặng yên ổn nông tang. Dám đâu hám đao binh, để đói khổ cha già con đỏ.
– Kìa trước đó, vua Hùng Vương dựng nước, mười tám đời mở cõi hưng dân, quốc đô ngời sáng Phong Châu ngàn năm còn rực rỡ.
– Nối tiếp tiền nhân, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế xưng vương lập nước, mãi vang danh Vạn Xuân, Trấn Quốc trải trăm năm.
– Mai Hắc Đế Đại vương, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng đánh giặc Đường, giành quyền tự chủ. Đất An Nam, vua An Nam định rõ sách trời.
– Dương công nối mấy đời Khúc chúa, yên ổn bốn phương, khắp trong ngoài hương thôn làng xã, tháng ngày dài vui vẻ ấm no.
– Bỗng gặp nạn họ Kiều háo danh gây mầm loạn, lại cam tâm quỳ lạy Hán triều, đang yên ổn còn rước voi về giày mả tổ.
– Nay Hán đế Lưu Cung bỏ đạo trời gây nạn đao binh; lại phong con Hoằng Tháo làm Giao vương, đem chiến thuyền xuống phương Nam cướp phá.
– Lưu Hoằng Tháo là ai? Một kẻ nhãi ranh miệng còn hơi sữa. Tháo dẫu binh thuyền mười vạn, song bên trong họ Kiều đã bị ta bắt giết, bảy phần hồn mất bốn còn ba.
– Lưu Cung kia dẫu nham hiểm cáo già, dám đem binh đi xa ngàn dặm không tường thủy thổ, chỉ là đem dê non nuôi hổ.
– Thắng bại đã tự lẽ trời.
– An nguy được thua càng rõ.
– Nay ta lệnh cho chúng tướng, ba quân!
– Hãy lấy sức nhàn đánh quân xa vò võ!
– Lấy chính đánh tà!
– Lấy nghĩa nhân trừ quân phi nghĩa!
– Đánh cho chúng không còn manh giáp, hễ nghĩ đem binh xuống An Nam tất không có đường về.
– Đánh cho chúng phách tán hồn bay, chỉ nhìn núi sông ta biết rõ là có chủ.
– Đánh để sử sách An Nam muôn đời ghi công trạng, sóng nước Bạch Đằng đỏ tới ngàn năm.
– Đánh để phương Bắc muôn đời sau khôn rửa nhục bại vong, sách sử kẻ tham tàn vì điều ác mà hoen ố.
Cứ thế cứ thế, từng lời hịch hừng hực như từ tim óc của bao nhiêu đời người An Nam chất chứa bấy lâu nay được bung ra như sóng trào bờ. Chủ tướng Ngô Quyền đọc đến đâu, ba quân ầm ầm reo mừng đọc hùa theo như trời long đất lở. Lời hịch còn chưa dứt, các dũng sĩ đã chặt phăng đầu năm tên tù binh khiến chúng rú lên, cổ phọt máu thành vòi. Những tiếng thét ầm ầm vang lên không dứt. Từng lời hịch đuổi nhau vang mãi đến tận đêm khuya”.
(
Ngô Vương
,
trang 382-385)
PGS.TS Nguyễn Thanh Tú (đứng) tại Đình thờ Phùng Thanh Hoà.
Đến đây tôi xin lý giải rõ hơn tên bài viết vì sao lại gọi Các bài hịch trong tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai mang tinh thần “liên văn hóa”?
Cả thế giới đang bước vào kỷ nguyên cách mạng 4.0 với sự phát triển chóng mặt về kinh tế, khoa học, y tế,… nhất là trong Đại dịch covid 19 càng thấy rõ sự phụ thuộc, chi phối lẫn nhau giữa các quốc gia càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đó là tiền đề cho sự giao lưu văn hóa diễn ra như một tất yếu. Do vậy nghiên cứu liên văn hóa được đặt ra như là một nhu cầu tự thân. Văn học là thành tố cơ bản của văn hóa nên liên văn hóa biểu hiện sinh động nhất trong văn học. Đó cũng là một quy luật phát triển của văn chương với sự kế thừa, tiếp nối, phát triển và nâng cao. Có thể hình dung, như một cây xanh cắm sâu chùm rễ khỏe khoắn vào các mảnh đất truyền thống dân tộc và nhân loại và vươn cao lá cành quang hợp ánh sáng tư tưởng của thời đại, nên lẽ tự nhiên, những trái cây tác phẩm của nhà văn hóa đã kết tinh trong nó những giá trị tinh hoa. Quá trình ấy là liên văn hóa được biểu hiện tập trung trong tác phẩm. Cũng tất nhiên mức độ liên văn hóa đậm nhạt, giàu có, phong phú… khác nhau tùy thuộc vào cái tôi chủ thể nhà văn hóa. Lại có thể hình dung liên văn hóa như cấu trúc một tòa lâu đài có nền móng vững chắc là văn hóa dân tộc, cái thân lầu là tư tưởng, tâm hồn, trí tuệ nhà văn được trổ nhiều cửa sổ ngôn ngữ để đón các luồng gió văn hóa bốn phương, có nhiều cửa chính đón độc giả từ khắp nơi ghé thăm, chiêm ngưỡng, học tập… Cũng hình dung như vậy để khẳng định càng là nhà văn lớn càng rõ tính liên văn hóa. Thuật ngữ liên văn hóa (intercultural) mà thực chất là giao tiếp liên văn hóa (Intercultural communication) ra đời khoảng những năm 70 của thế kỷ XX để lý giải sự kết hợp, giao lưu, tiếp biến giữa các cộng đồng có những phương thức, tập quán, thói quen sống và quan niệm, nhân sinh quan khác nhau biểu hiện ở các khía cạnh quan hệ truyền thống và hiện đại, dân gian và bác học, bản địa cụ thể và nhân loại phổ quát. Liên văn hóa có ở nhiều cấp độ nhưng biểu hiện tập trung ở biểu tượng, nhân vật, ngôn ngữ.
Đối chiếu với các bài hịch trong tiểu thuyết Phùng Văn Khai, ta thấy ngay thể loại đã mang tính liên văn hóa. Trước hết là liên văn hóa theo chiều dọc lịch sử: truyền thống anh hùng và hiện tại đang kế thừa:
– Kìa trước đó, vua Hùng Vương dựng nước, mười tám đời mở cõi hưng dân, quốc đô ngời sáng Phong Châu ngàn năm còn rực rỡ.
– Nối tiếp tiền nhân, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế xưng vương lập nước, mãi vang danh Vạn Xuân, Trấn Quốc trải trăm năm.
– Mai Hắc Đế đại vương, Bố Cái Đại vương Phùng Hưng đánh giặc Đường, giành quyền tự chủ. Đất An Nam, vua An Nam định rõ sách trời.
– Dương công nối mấy đời Khúc chúa, yên ổn bốn phương, khắp trong ngoài hương thôn làng xã, tháng ngày dài vui vẻ ấm no.
Là “liên văn hóa” vừa theo chiều dọc lịch sử, vừa theo chiều ngang không gian: sự xâm lăng (là một dạng tiếp biến văn hóa cưỡng bức) của bè lũ phương Bắc và sự anh hùng chống trả của quân ta. Các cuộc xâm lăng này hầu hết thất bại nên sự “liên văn hóa” này có ý nhắc nhở kẻ thù: hãy ôn lại lịch sử!
Xin một ví dụ tiếp theo:
“Quân sư Tinh Thiều bước vào thư phòng nhìn thấy bức chiến thư nét mực còn tươi mới bèn nhấc viên sỏi trắng đặt sang một bên cầm lên đọc luôn một mạch. Quân sư đọc đến đâu, lửa giận bốc lên bừng bừng tới đó. Không ngờ vị lão tướng vốn luôn rất khiêm nhượng kiệm lời mà câu chữ sắc sảo sâu xa đến vậy. Từng lời, từng câu như chảy thẳng vào trong tim óc quân sư:
… Ta nay phụng mệnh quốc chủ Vạn Xuân Nam Việt Đế gửi chiến thư này cho đại tướng Tư mã Giao Châu Trần Bá Tiên!
Xưa nay, quý quốc vẫn ỷ thế nước lớn bỏ mặc đạo trời, chỉ lăm le đánh giết thống thuộc lân bang khiến không chỉ dân chúng Giao Châu lầm than cơ cực mà hàng vạn binh mã chiến giáp của quý quốc cũng phải gửi nắm xương tàn nơi đất khách thật đau xót lắm thay!
Những tưởng quý quốc mang danh thiên tử, thuận theo lẽ trời, lấy đức giáo hóa làm gương cho các nước nhỏ mới là vương đạo. Nay quý quốc năm lần bảy lượt mượn cớ đem binh lửa giá họa cho các nước nhỏ khiến người lành hiền tầm tang canh cửi phải bỏ cày bừa cầm lấy đao thương cũng là cực chẳng đã mà thôi.
Quốc chủ Vạn Xuân vốn xuất thân cửa Phật, yêu dân yêu lính không lỡ bị cuốn vào nước lửa binh đao mà quý quốc đã không xét đến còn hung hăng xua binh thuyền thủy bộ xuống làm điều càn rỡ quả không đất trời nào dung được.
Ta thay mặt các tướng gửi chiến thư này, trước là mong Trần Tư mã hãy cân nhắc phải trái nặng nhẹ mà tự rút quân về giữ nền thái bình cho hai nước mới chí lớn của bậc thánh tướng.
Nhược bằng bất chấp đạo lý, nhất nhất định hơn thua nơi chiến trường hãy sửa sang chiến thuyền binh giáp cho đầy đủ cùng binh tướng Vạn Xuân ta giao đấu.
Họ Trần ngươi hãy nhìn gương Mã Phương, Thạch Đạt, Ngụy Lãng, Lưu Long còn sờ sờ ra đó. Cái ấn tín Tư mã Giao Châu chỉ là hòn đá buộc cổ để họ Trần ngươi chìm nghỉm ở sông biển đất người mà thôi.
Mấy lời của kẻ làm tướng xin túc hạ hãy suy nghĩ kỹ…
Quân sư Tinh Thiều chỉ đọc một lượt đã thuộc lòng bức chiến thư trong lòng rất cảm phục lời lẽ cương cường mà thấm đẫm đạo lý, khí phách bang giao của nước nhỏ với nước lớn”.
(
Triệu Vương phục quốc
,
trang 43-45)
Ta thấy có các lớp “liên văn hóa” được đan cài trong văn bản: đạo Nho
(
danh thiên tử, thuận theo lẽ trời, lấy đức giáo hóa làm gương cho các nước nhỏ mới là vương đạo
, bậc thánh tướng, đạo lý)
, đạo Phật
(
Quốc chủ Vạn Xuân vốn xuất thân cửa Phật
)
. Tác dụng của “liên văn hóa” này: đạo Nho đề cao trung nghĩa, tín nghĩa, yêu người, đạo lý; đạo Phật với chủ trương yêu thương chúng sinh… Thế mà các ngươi sao nỡ gây chiến? Và các lớp “liên” theo chiều dọc lịch sử văn hóa: “
Họ Trần ngươi hãy nhìn gương Mã Phương, Thạch Đạt, Ngụy Lãng, Lưu Long còn sờ sờ ra đó. Cái ấn tín Tư mã Giao Châu chỉ là hòn đá buộc cổ để họ Trần ngươi chìm ngỉm ở sông biển đất người mà thôi
”
.
Đó là những cảnh tỉnh đích đáng nhất với kẻ thù: cha ông các ngươi đã từng thất bại. hãy dừng lại, đừng đi vào vết xe đổ ấy. Qua đó bật toát ra tinh thần yêu chuộng hòa bình của dân chúng Đại Việt!
Từ những nghiên cứu trên, ta ghi nhận thêm những đóng góp từ các tiểu thuyết lịch sử của
Phùng Văn Khai
.
|
Các bài hịch mang tinh thần “liên văn hóa” trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai – Tác giả: PGS.TS Nguyễn Thanh Tú
| 3,660 | |
Phiên bản 'Hoàng tử bé' do nhà văn Nguyễn Thành Long dịch. Ảnh: NXB Kim Đồng.
Vừa là phi công vừa là nhà văn, Antoine Saint-Exupéry có một cuộc đời thăng trầm cho tới khi ông mất.
Xuất bản lần đầu năm 1943 tại New York (
Mỹ
),
Hoàng tử bé
được yêu thích trên toàn cầu cho tới ngày nay. Trong 80 năm qua, đây là một trong những cuốn sách bán chạy nhất của nhân loại với 200 triệu bản dịch ra 250 ngôn ngữ khác nhau (bao gồm cả phương ngữ).
Hoàng tử bé
được bình chọn là tác phẩm hay nhất thế kỷ 20 ở Pháp.
Ở Việt Nam, sách đã xuất bản từ năm 1966 với hai bản dịch của Bùi Giáng, Trần Thiện Đạo và có thêm những lần in mới với một số dịch giả khác.
Trong khi
Hoàng tử bé
trở nên nổi tiếng khắp thế giới thì sự biến mất của tác giả Antoine Saint-Exupéry vào năm 1944 vẫn là một bí ẩn. Ông ra đi mãi mãi ở tuổi 44 mà chưa hề nhận được nhuận bút cho tác phẩm của mình.
“Chính tại chỗ này hoàng tử bé đã hiện ra trên Trái Đất rồi biến mất. Nếu bạn có đi qua đó, tôi cầu mong bạn đừng vội vã. Hãy đợi một lúc ngay dưới vì sao. Sau đó, nếu khi ấy có một cậu bé con đến bên bạn… hãy mau viết thư, báo cho tôi rằng em đã trở lại”, trích đoạn
Hoàng tử bé
.
Cuốn sách được Saint-Exupéry viết và vẽ tranh minh họa khi ông đang lưu vong tại Mỹ. Đó là câu chuyện kể về một hoàng tử nhỏ từ một tiểu cầu đến thăm nhiều hành tinh, gặp gỡ đủ kiểu người. Khi tới Trái đất, hoàng tử bé đã gặp tác giả, một phi công bị rơi máy bay xuống sa mạc. Tác phẩm mang phong cách sách thiếu nhi “ẩn giấu một triết lý quá đỗi nhẹ nhàng và thi vị” (
New York Times
) về bản chất con người, sự cô đơn, tình bạn, tình yêu và sự mất mát.
Bối cảnh câu chuyện liên hệ với một sự cố khi bay của tác giả vào 2h45 sáng 30/12/1935. Sau 19 giờ 44 phút bay trên không, Saint-Exupéry, cùng với người đồng hành André Prévot, bị rơi trên sa mạc Libya, trong nỗ lực phá kỷ lục tốc độ từ Paris đến Sài Gòn để giành giải thưởng 150.000 franc.
Cả Saint-Exupéry và Prévot đều sống sót một cách thần kỳ sau vụ tai nạn nhưng phải đối mặt với tình trạng mất nước nhanh chóng trong sa mạc nóng gay gắt. Bị lạc giữa những đụn cát, họ chỉ còn một vài quả nho, hai quả cam, một chiếc bánh ngọt, cà phê đựng trong chiếc bình đã cũ, nửa lít rượu vang trắng và ít thuốc men.
Đến ngày thứ hai và thứ ba, hai người mất nước đến mức ngừng đổ mồ hôi. Vào ngày thứ tư, một người dân bán du mục cưỡi lạc đà đã phát hiện và cứu sống họ.
Trải nghiệm cận kề cái chết được đưa vào cuốn hồi ký năm 1939 của Saint-Exupéry,
Gió, cát và các vì sao
.
Hoàng tử bé
cũng bắt đầu với cảnh một phi công bị mắc kẹt trong sa mạc.
Antoine de Saint Exupéry và André Prévot trước chuyến bay vào năm 1935. Ảnh: This Day in Aviation.
Sinh ngày 29/6/1900 tại Lyon (
Pháp
), Antoine Saint-Exupéry được biết đến nhiều với tư cách nhà văn cùng một số tác phẩm như
Phi công, Thư phương Nam, Bay đêm, Xứ con người, Gió, cát và các vì sao.
Saint-Ex, như cách gọi của bạn bè, cũng là một phi công thương mại tài ba suốt nhiều năm, tiên phong trong các tuyến đường hàng không khắp châu Âu, châu Phi và Nam Mỹ. Khi chiến tranh nổ ra vào năm 1939, ông gia nhập Lực lượng Không quân Pháp và thực hiện các nhiệm vụ trinh sát cho đến khi Pháp đình chiến với Đức vào năm 1940.
Trong khoảng thời gian vài năm ở Mỹ, ông sáng tác
Hoàng tử bé
. Trở lại quê hương, Saint-Ex tiếp tục tham gia cuộc chiến với tư cách là phi công thuộc lực lượng dự bị.
Năm 1943, ông được giao nhiệm vụ lái chiếc P-38 Lightning không vũ trang. Do sự cố động cơ, máy bay rơi và Saint-Ex bị đình chỉ hoạt động trong 8 tháng. Sức khỏe tinh thần và thể chất suy kiệt, trầm trọng hơn do ông uống nhiều rượu.
Sau đó, Saint-Ex được bay trở lại. 8h45 ngày 31/7/1944, ông cất cánh khỏi Corsica (hòn đảo thuộc Pháp) để chụp ảnh trinh thám, sau đó mất tích, nhiều khả năng bị đối phương bắn hạ.
Suốt nhiều thập kỷ qua, vẫn chưa có công bố chính thức về điều gì đã xảy ra với phi công – nhà văn nổi tiếng.
Chiếc vòng khắc tên Saint-Exupéry được tìm thấy ngoài khơi Marseille (Pháp). Ảnh: Plane and Pilot.
Năm 1998, một ngư dân tìm thấy chiếc vòng tay khắc tên Saint-Exupéry trong lưới của mình khi đánh cá ngoài khơi Marseille. Phát hiện đã thu hút sự chú ý của thế giới, đặc biệt là một người đàn ông lớn tuổi người Đức, Horst Rippert. Máy bay của Saint-Ex, xác nhận bằng số seri (2743L), cũng được tìm thấy gần đó.
Rippert cho biết, ngày 31/7/1944, đã bắn rơi một chiếc P-38 gần vị trí tìm thấy mảnh vỡ. Luôn thần tượng Saint-Ex, ông đã chôn giấu bí mật của mình hơn nửa thế kỷ.
Tuy nhiên, các nhà điều tra không tìm thấy dấu vết đạn bắn trong những mảnh sót lại và không có bằng chứng nào khác cho tuyên bố của ông Rippert. Họ chỉ có thể xác định, chiếc máy bay đã lao xuống nước theo phương thẳng đứng với vận tốc khoảng 800km/h.
“Bông hồng của tôi quan trọng hơn tất cả các cô, bởi lẽ chính nàng đã được tôi tưới nước cho. Bởi lẽ chính nàng đã được tôi chắn bình phong cho. Bởi lẽ chính nàng đã được tôi bắt sâu cho. Bởi lẽ chính từ nàng mà tôi đã nghe phàn nàn hoặc khoe khoang hoặc thậm chí đôi khi chẳng nói chẳng rằng. Bởi lẽ đấy là bông hồng của tôi”
,
trích dẫntừ
Hoàng tử bé
.
“Giống như hoàng tử bé yêu mến bông hồng của mình, thế giới yêu mến Antoine de Saint-Exupéry. Nỗ lực suốt nhiều năm để tìm hiểu về sự mất tích của ông là minh chứng cho điều đó. Bất kể điều gì đã xảy ra vào ngày hôm ấy, di sản của ông sẽ luôn là niềm vinh dự và cảm hứng cho chúng ta”, tạp chí
Plane and Pilot
đánh giá.
|
‘Hoàng tử bé’: Cuốn sách 200 triệu bản và sự biến mất kỳ bí của tác giả
| 1,115 | |
Sáng 13/5, Lễ khai mạc Những ngày Văn học châu Âu 2023 chính thức diễn ra tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ,
Hà Nội
.
Ông Thierry Vergon, Giám đốc Viện Pháp tại Hà Nội, Chủ tịch EUNIC. Ảnh: BTC.
Những ngày Văn học châu Âu do EUNIC – Hiệp hội các Viện văn hóa và các Đại sứ quán châu Âu phối hợp thực hiện hàng năm nhằm mục đích tôn vinh và chia sẻ những tinh hoa văn hóa từ châu Âu tới bạn đọc Việt Nam. Năm nay, Những ngày Văn học Châu Âu 2023 do Viện Pháp tại Hà Nội điều phối.
Phát biểu tại buổi lễ, ông Thierry Vergon, Giám đốc Viện Pháp tại Hà Nội, Chủ tịch EUNIC, hy vọng sự kiện sẽ cho người tham gia thêm kiến thức về nhiều nền văn hóa, lối sống và con người cùng nhiều khía cạnh khác của châu Âu.
Ông Vergon nói: “Chúng tôi mong đợi một năm thành công nữa của Những ngày Văn học châu Âu”.
Trong dịp này, 13 quốc gia – Vương quốc Anh, Ba Lan, Bỉ, Đan Mạch, Đức, Hungary, Pháp, Phần Lan, Cộng hòa Séc, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Italy – chung tay tổ chức nhiều sự kiện giao lưu với tác giả, dịch giả, các buổi hội thảo và các hoạt động tương tác khác, giới thiệu đến độc giả Việt đa dạng những nét văn hóa của châu Âu thông qua văn chương.
Ông Keijo Norvanto, Đại sứ Phần Lan, cho rằng qua những hoạt động văn hóa, người dân thuộc các quốc gia khác nhau có thể hiểu rõ hơn về nhau, từ đó, thắt chặt mối quan hệ giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia.
Ngài Đại sứ Phần Lan hào hứng chia sẻ về các tác phẩm đã hoặc chuẩn bị được dịch và giới thiệu tại Việt Nam, trong đó có cuốn
Varjo ja viileys
của tác giả Quynh Tran, một tác giả người Việt sinh sống tại Phần Lan. Ông Keijo Norvanto và phu nhân Teija Norvanto cho biết tác phẩm này rất đặc biệt, cho thấy một sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và Phần Lan.
Vợ chồng ngài đại sứ cho biết tác phẩm này đã giành giải thưởng lớn ở Phần Lan và hai ông bà rất mong chờ ngày cuốn sách được xuất bản tại Việt Nam.
Ông Keijo Norvanto, Đại sứ Phần Lan, hào hứng chia sẻ về các cuốn sách Phần Lan xuất bản tại Việt Nam. Ảnh: LL.
Trước ngày khai mạc, hai cuộc thi tìm hiểu về văn học châu Âu đã được phát động, thu hút rất nhiều thí sinh có đam mê về văn chương và hội họa tham gia, chất lượng bài dự thi ở mức cao.
Đại diện những người đoạt giải cuộc thi “Tìm hiểu về văn học châu Âu”, bạn Nguyễn Trần Nam Khánh chia sẻ cảm nghĩ: “Mình tin rằng đọc sách là một trong những hoạt động quan trọng và đem lại nhiều giá trị nhất mà con người có thể tham gia. Đọc sách cũng là hoạt động phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh. Mình muốn khuyến khích mọi người đắm chìm vào thế giới rộng lớn và kỳ diệu của văn học”.
|
Khai mạc Những ngày Văn học châu Âu 2023 tại Hà Nội
| 547 | |
Bước vào thị trường Việt Nam từ những năm 90, dòng truyện tranh Pháp – Bỉ vẫn còn một chặng đường dài để trở thành một phần trong văn hóa đại chúng trong nước.
Phần mới ra mắt trong bộ truyện Những cuộc phiêu lưu của Asterix.
Bên cạnh người hùng Asterix, những nhân vật như Tin Tin, Spirou… cũng đại diện cho văn học truyện tranh Pháp – Bỉ đã tiến vào thị trường Việt Nam. Mặc dù người đọc còn cảm thấy xa lạ với không gian văn hóa phương Tây mở ra trong các tác phẩm này, đơn vị xuất bản vẫn tin rằng thế hệ trẻ trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay sẽ dần cởi mở hơn với những hình tượng mới.
Đối với các nhà xuất bản, manga Nhật là “con gà đẻ trứng vàng”. Mỗi tập mới ra mắt, dù là bản thường hay bản đặc biệt, đều nhận được lượng đặt hàng trước rất lớn. Đông đảo bạn đọc tham gia sự kiện, xếp hàng dài để mua bản đặc biệt. Thậm chí, cộng đồng người hâm mộ tại Việt Nam đã hình thành các nhóm chính thức có hàng chục nghìn tài khoản theo dõi. Dòng truyện tranh Pháp – Bỉ, dù có mặt ở Việt Nam từ những năm 90, cho đến nay, chúng vẫn chưa thể tìm được chỗ đứng cho riêng mình.
Bạn đọc Việt có thể thấy khoảng thời gian năm 2015-2016, các bộ truyện khác được ra mắt như
Tin Tin
(22 tập),
Spirou và Fantasio
(25 tập),
Xì trum
(26 tập)… Đây đều là series truyện tranh nổi tiếng trên thế giới, một số đã được chuyển thể thành chương trình truyền hình, phim điện ảnh live-action. Tuy nhiên, so với các hình tượng như Conan hay Doraemon, những nhân vật này còn quá lu mờ.
Asterix lần đầu tiên đến Việt Nam từ năm 1998 với bộ năm tập được in bởi Nhà xuất bản Kim Đồng. Sau 20 năm vắng bóng, bộ truyện này mới có thể quay trở lại. Chia sẻ với
Zing
tại sự kiện Ngày hội Asterix sáng ngày 13/5, bà Hoàng Thanh Thủy (Trưởng ban biên tập sách khoa học của Nhà xuất bản Kim Đồng) nhận định rằng Asterix là một nhân vật không nổi bật như Conan hay Doraemon nhưng có một sức sống bền bỉ và là một gương mặt mới với độc giả nhí Việt Nam.
Chị Lê Thị Thùy Dương (Hà Nội) cùng con đọc tập truyện mới. Ảnh: Đức Huy.
“Khi độc giả tiếp cận các tác phẩm về Asterix, họ có thể cảm thấy một khoảng cách nhất định về văn hóa so với những câu chuyện như Doraemon hay Conan. Nhưng với tính đại chúng trong Asterix, bất kỳ đứa trẻ nào sinh ra trong thời đại toàn cầu hóa như hiện nay đều có yêu mến nhân vật. Tinh thần chung của Asterix không nằm ngoài tinh thần chung của nhân loại. Đó là nỗ lực bảo vệ chủ quyền vùng lãnh thổ, sự hào hiệp sẵn sàng giúp người thấp cổ bé họng….”, bà Hoàng Thanh Thủy cho biết.
Hiện bộ truyện
Những cuộc phiêu lưu của Asterix
tại Việt Nam đã ra mắt được 11 tập, thị trường gốc có 37 tập. Nét riêng của bộ truyện, được tạo ra bởi hai tác giả Albert Uderzo và René Goscinny, là sự dí dỏm đậm chất người Pháp. Ngoài ra, bộ truyện đem đến một góc tiếp cận gần gũi về văn minh của người Pháp thời kỳ trước công nguyên.
Các độc giả cho rằng Asterix tại Pháp và các vùng sử dụng ngôn ngữ Pháp như Quebec (Cananda) được ví như tượng đài truyện tranh của Marvel và DC ở Mỹ. Chúng đem đến những bài học gần gũi với trẻ em như lòng dũng cảm, tình bạn, sự hy sinh, tình yêu nước… Sức hút của cuốn truyện lớn đến mức một công viên lấy chủ đề Asterix đã được xây dựng. Nó nằm Cách trung tâm thành phố Paris 35 km hướng bắc.
Phiên bản hoạt hình của Asterix. Ảnh: Britanica.
Sau khi René Goscinny mất, nhiều độc giả tiếc nuối và cho rằng các câu chuyện sau đó không tạo được nét hóm hỉnh như nguyên tác. Dù rằng người minh họa vẫn là Uderzo.
Bộ truyện hiện đã được nhiều lần chuyển thể thành phim hoạt hình, chương trình truyền hình và bản live-action. Đầu năm 2023, bộ phim về Asterix mới đã được ra đời, tuy nhiên các chỉnh sửa về hình ảnh khác nhiều so với bản gốc khiến điểm đánh giá của người xem trên các trang bình chọn bộ phim này không cao. Theo góc nhìn khác, có thể người đọc đã kỳ vọng rất nhiều ở các phiên bản chuyển thể bởi đây là nhân vật họ dành sự yêu mến trong nhiều năm.
Dù vậy, các nhà khai thác phim hoạt hình đã đưa tác phẩm gần hơn với ranh giới hư cấu và hiện thực.
|
Dòng truyện tranh Pháp, Bỉ chinh phục độc giả Việt
| 827 | |
Tối 13/5,
thành phố Hải Phòng
khai mạc Lễ hội Hoa Phượng đỏ năm 2023 với chủ đề ‘Hải Phòng – Tỏa sáng miền cửa biển’.
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Lễ hội Hoa Phượng đỏ năm 2023 với chủ đề “Hải Phòng Tỏa sáng miền cửa biển”. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Dự Lễ hội có Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang; cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; các đồng chí lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương, bạn bè trong nước và quốc tế.
Phát biểu khai mạc, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng Nguyễn Văn Tùng khẳng định, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, thành phố Hải Phòng đặc biệt coi trọng giá trị văn hóa và đời sống tinh thần của người dân, vừa là động lực, là sức mạnh nội sinh, là mạch nguồn của mọi sự phát triển. Vì vậy, Lễ hội Hoa Phượng đỏ đã tổ chức từ năm 2012. Vào dịp lễ hội hàng năm có hàng trăm sự kiện được thực hiện, để lại những dấu ấn tốt đẹp cho người dân thành phố và du khách.
Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Văn Tùng ôn lại truyền thống vẻ vang của Hải Phòng. Theo đó, nhân dịp kỷ niệm 68 năm ngày giải phóng Hải Phòng, nhìn lại chặng đường lịch sử, Hải Phòng là nơi “đầu sóng ngọn gió”, là “phên dậu phía Đông” để bảo vệ Tổ quốc. Thành phố Hải Phòng luôn tự hào về truyền thống trung dũng quyết thắng, minh chứng từ thời Nữ tướng Lê Chân khai hoang lập Trang An Biên, nay là Hải Phòng đến dòng sông Bạch Đằng lịch sử gắn với nhiều chiến công hiển hách, oanh liệt của cha ông ta để giành độc lập cho dân tộc.
Những năm đầu thế kỷ 20, Hải Phòng là chiếc nôi hình thành giai cấp công nhân Việt Nam, là nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lựa chọn là “điểm cầu” để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lenin về nước ta. Những năm kháng chiến cứu nước, Hải Phòng vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương. Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, Hải Phòng là địa phương có nhiều đột phá nên đã gợi mở và góp phần với Trung ương ban hành Chỉ thị 100 và Nghị quyết 10 về “khoán trong nông nghiệp”.
Chương trình nghệ thuật tại Lễ hội Hoa Phượng đỏ năm 2023. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Các năm gần đây, dù bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 và xung đột ở châu Âu nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hải Phòng vẫn ở mức cao, 7 năm liền tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đạt 13,2%/năm. 3 tháng đầu năm 2023, GRDP của Hải Phòng gấp 3 lần bình quân chung của cả nước. Hải Phòng đã và đang tập trung đầu tư xây dựng hệ thống giao thông kết nối vùng để mở rộng không gian kinh tế, mở rộng đô thị hướng biển và di chuyển trung tâm Chính trị- Hành chính về phía Bắc sông Cấm vào năm 2025. Cùng với đó, Hải Phòng là địa phương đi đầu trong cả nước về giải quyết chung cư cũ và đang phấn đấu đi đầu về phát triển nhà ở xã hội, đồng thời đang tích cực xây dựng xã và huyện nông thôn mới kiểu mẫu với các tiêu chí tiệm cận với đô thị và sẽ hoàn thành năm 2025.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) các năm gần đây luôn được xếp trong top đầu cả nước, công tác chuyển đổi số được quan tâm đặc biệt. Hải Phòng tiếp tục đi đầu về việc chăm lo cho các gia đình có công cách mạng, hỗ trợ người nghèo, miễn học phí cho các bậc học và có nhiều hỗ trợ khác thiết thực cho nhân dân. Công tác xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng tiếp tục tăng cường; giữ vững quốc phòng và an ninh trật tự khu vực biên giới, biển đảo.
Chủ tịch UBND thành phố Nguyễn Văn Tùng khẳng định, với truyền thống lịch sử, cùng với những kết quả và mục tiêu như trên là tiền đề là động lực quan trọng để phấn đấu Hải Phòng đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực sự “trở thành động lực phát triển của cả nước”.
Chương trình nghệ thuật gồm 3 chương. Chương 1 với tên gọi “Thành phố mặt trời lên” là câu chuyện về vùng đất, con người Hải Phòng với bề dày lịch sử và văn hóa và những giá trị truyền thống với những con người dũng cảm kiên cường đã chung tay xây nên thương hiệu của thành phố cảng.
Chương 2 với tên gọi “Trái tim màu phượng đỏ” dành cho những người trẻ đang chung tay kế thừa những nền tảng được trao truyền để phát triển nên một thành phố Cảng trẻ trung và năng động với tầm nhìn vượt thời đại để tiếp nối những di sản của cha ông đi trước.
Chương 3 với tên gọi “Hải Phòng – Tỏa sáng miền cửa biển” là bức tranh về tương lai rực rỡ của một siêu đô thị cảng biển, một thành phố công nghệ 4.0, tượng trưng cho tầm nhìn và khát vọng của Hải Phòng với một diện mạo mới, hình ảnh mới về thành phố đầy sáng tạo của tương lai.
Tham gia chương trình nghệ thuật có các nghệ sỹ, ca sỹ nổi tiếng trong nước. Đặc biệt nhất là phần trình diễn ca khúc chủ đề được viết riêng cho Lễ Hội Hoa Phượng Đỏ với tên gọi “Hải Phòng – Tỏa sáng miền cửa biển” với hiệu ứng đặc sắc, mới mẻ từ máy bay không người lái. Đây cũng là tiết mục khép lại chương trình nghệ thuật mang tới thông điệp về một Hải Phòng phát huy truyền thống “Trung dung, quyết thắng”, những nỗ lực đổi mới, dám nghĩ, dám làm, khơi dậy được sức mạnh của toàn dân, đưa Hải Phòng bước vào thời kỳ phát triển mới với những dấu ấn mới, xứng đáng là “động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước”, sớm “trở thành thành phố công nghiệp phát triển hiện đại, văn minh, bền vững tầm cỡ khu vực Đông Nam Á”.
|
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự khai mạc Lễ hội Hoa Phượng đỏ Hải Phòng 2023
| 1,086 | |
Người dân Somalia phải sơ tán do lũ. (Nguồn: Getty Images).
Người dân tại thị trấn Beledweyne thuộc vùng Hiran (
Somalia
) đã buộc phải rời bỏ nhà cửa vì mưa lớn khiến mực nước dâng cao, trong khi có 3 người thiệt mạng vì lũ lụt hôm 12/5.
Ngày 13/5, phó Thống đốc phụ trách các vấn đề xã hội của vùng Hiran (Somalia), ông Ali Osman Hussein cho biết khoảng 200.000 người đã phải di dời do lũ quét ở miền Trung nước này khi sông Shabelle vỡ bờ và nước làm ngập các con đường.
Theo ông Hussein, người dân tại thị trấn Beledweyne thuộc vùng Hiran đã buộc phải rời bỏ nhà cửa vì mưa lớn khiến mực nước dâng cao.
Ông nói: “Khoảng 200.000 người hiện phải sơ tán do lũ quét trên sông Shabelle và con số này có thể tăng lên bất cứ lúc nào. Đây chỉ là con số sơ bộ. Chúng tôi đang làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ những người bị ảnh hưởng.”
Trước đó, ngày 12/5, phó Thống đốc khu vực Hassan Ibrahim Abdulle cho hay đã có 3 người thiệt mạng vì lũ lụt.
Thảm họa nêu trên xảy ra sau đợt hạn hán trầm trọng nhất từ trước đến nay ở Somalia khiến hàng triệu người dân nước này đứng trước nguy cơ lâm vào nạn đói trong bối cảnh quốc gia trên đang phải ứng phó với lực lượng nổi dậy Hồi giáo kéo dài nhiều thập kỷ.
Hồi tháng 4, Văn phòng Điều phối các vấn đề nhân đạo của Liên hợp quốc (OCHA) cho biết mưa lớn kéo theo lũ quét đã làm ít nhất 21 người thiệt mạng, hơn 100.000 người phải sơ tán trong 2 tuần qua ở khu vực miền Nam Somalia.
Theo OCHA, huyện Bardhere, vùng Gedo là nơi hứng chịu lượng mưa lớn nhất trong những ngày gần đây và cũng là địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, với nhiều người thiệt mạng, nhà cửa của gần 9.000 hộ dân bị hư hại.
Lũ lụt đã phá hủy 6 cơ sở y tế, 200 nhà vệ sinh và 4 trường học, nhấn chìm hơn 1.000ha đất nông nghiệp và hơn 3.000 trẻ bị gián đoạn việc học tập ở khu vực miền Nam Somalia.
Khu vực Đông và Trung Phi thường phải đối mặt với thời tiết khắc nghiệt vào mùa mưa. Đầu tháng này, 135 người đã thiệt mạng và hơn 9.000 người mất nhà cửa sau khi mưa lớn trút xuống Rwanda, gây ra lũ lụt và lở đất ở một số vùng của quốc gia nhiều đồi núi này.
Trong khi đó, tại miền Đông CHDC Congo, hơn 400 người đã thiệt mạng do mưa lớn, lũ lụt và lở đất trong tuần trước.
Theo các chuyên gia về khí hậu, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt đang xảy ra với tần suất và cường độ ngày càng tăng do biến đổi khí hậu. Châu Phi, nơi góp phần ít nhất vào việc làm cho Trái Đất nóng lên, đang gánh chịu hậu quả nặng nề nhất./.
|
200.000 người phải sơ tán do lũ lụt ở miền Trung Somalia
| 515 | |
Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa hiện đang lưu giữ một cổ vật quý, độc đáo là chiếc chuông đồng được đúc tại chùa Mèo vào ngày cuối xuân năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (tức năm 1718), thời vua Lê Dụ Tông
Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa hiện đang lưu giữ hơn 30 ngàn hiện vật, trong đó có 3 bảo vật quốc gia và hàng ngàn hiện vật quý, độc đáo, đại diện cho suốt chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc.
Trong số trên 30 ngàn hiện vật, không thể không nhắc tới chuông chùa Mèo, một quả chuông có kích thước khá lớn, có thể xếp vào loại Đại Hồng chung.
Chuông chùa Mèo đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa.
Cổ vật
này được đúc vào năm 1718 dưới triều Hậu Lê (thời Lê Dụ Tông trị vì) tại chùa Mèo (Đỉnh Miêu Tự, chùa trên đỉnh núi Mèo) xã Quang Hiến, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa. Ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ thứ XIII (dưới thời Trần) có địa thế chuẩn mực theo thuyết phong thủy khi nằm trên một quả đồi thuộc làng Chiềng Ban (xã Quang Hiến), có tả Thanh Long là dãy núi Pù Bằng, hữu Bạch Hổ là dãy núi Pù Rinh, trước mặt có dòng sông Âm chảy ngang qua.
Tuy nhiên, theo thời gian và chiến tranh, ngôi chùa bị tàn phá, chuông đồng vì thế cũng lưu lạc và được Công an huyện Lang Chánh thu giữ, bàn giao cho Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa năm 1992.
Ông Trịnh Đình Dương, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa, cho biết chuông đồng thân hình trụ, miệng loe, gần đỉnh chuông hơi thu lại, thân chia làm 2 phần ngăn cách nhau bằng 4 núm tròn nổi và một đường gờ nổi lớn.
Chiếc chuông đồng này được đúc hơn 300 năm trước, đến nay nó ngần như còn nguyên vẹn.
Quai chuông là đôi rồng đấu lưng vào nhau tạo dáng cong tròn, đỉnh quai có hình nậm rượu, bầu rượu chia thành nhiều múi nổi dọc xuống thân. Phía trên gần đỉnh chuông có 8 chữ Hán lớn đúc nổi “Chú tạo Miêu đỉnh thiền tự Hồng chung” (dịch: Chùa Đỉnh Miêu đúc quả chuông lớn).
Thân chuông có bài kim văn bằng chữ Hán, nội dung ca ngợi tiếng chuông và sự đóng góp của bà con ở nhiều bản hội xứ
Thanh Hóa
, tổ chức hưng công đúc quả chuông lớn ở chùa Đỉnh Miêu.
“Chiếc chuông còn nguyên vẹn này mang giá trị nghệ thuật cao, lại có niên đại rõ ràng như một dấu ấn di sản nghệ thuật một thời. Ngoài giá trị về mặt mỹ thuật, những dòng chữ khắc ghi trên thân chuông còn kể về vùng đất và con người ở nơi gắn với vua Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày kháng chiến chống quân Minh”- ông Dương nói.
Tin-ảnh: Tuấn Minh
|
Cổ vật hơn 300 năm tuổi độc đáo ở xứ Thanh
| 490 | |
Ngôi sao này có vị trí nằm gần trung tâm
dải Ngân hà
chúng ta, cách Trái đất khoảng 9.500 năm ánh sáng. Nằm trong chòm sao Scutum, UY Scuti là một ngôi sao Đại siêu khổng lồ (Hypergiants).
Khi nhắc đến sự vĩ đại, chúng ta thường đem Mặt trời ra so sánh. Điều này cũng không có gì là lạ vì Mặt trời là vật thể lớn nhất gần chúng ta với kích thước bằng 1 triệu lần so với Trái đất. Nhờ khối lượng khổng lồ đó, Mặt trời có lõi phản ứng nhiệt hạch để trở thành ngôi sao duy nhất cung cấp năng lượng cho Trái đất. Toàn bộ sự sống trên Trái đất đều do Mặt trời nuôi dưỡng nên Mặt trời là tất cả của nhân loại. Nhưng ở quy mô vũ trụ, hay chỉ quy mô ở Thiên hà thôi thì Mặt trời cũng chỉ là hạt cát nhỏ bé. Mặt trời có thể bị nuốt chửng bởi khoảng một nửa số ngôi sao được quan sát cho đến nay.
Ngôi sao lớn nhất trong vũ trụ mà chúng ta biết cho đến nay là UY Scuti. Đó là một ngôi sao siêu khổng lồ có thể có bán kính lớn hơn khoảng 1.700 lần so với bán kính của mặt trời. Nói một cách dễ hiểu, kích thước của gần 5 tỉ mặt trời có thể nằm gọn bên trong một quả cầu có kích thước bằng UY Scuti.
Năm 1860, các nhà thiên văn học người Đức tại Đài thiên văn Bonn lần đầu tiên xếp UY Scuti vào danh mục sao và đặt tên khai sinh cho nó khi đó là BD -12 5055. Trong lần quan sát thứ hai, các nhà thiên văn học nhận ra rằng nó phát sáng hơn rồi mờ hơn trong khoảng thời gian 740 ngày, dẫn đến việc nó được phân loại là một ngôi sao biến quang.
So sánh kích thước của Mặt trời và UY Scuti.
Ngôi sao này có vị trí nằm gần trung tâm dải Ngân hà chúng ta, cách Trái đất khoảng 9.500 năm ánh sáng. Nằm trong chòm sao Scutum, UY Scuti là một ngôi sao Đại siêu khổng lồ (Hypergiants). Đại siêu khổng lồ — lớn hơn siêu khổng lồ (Supergiants) và khổng lồ (Giants) — là những ngôi sao hiếm hoi tỏa sáng rực rỡ. Chúng thường không sống lâu do tốc độ đốt khối lượng rất nhanh.
Tuy nhiên, tất cả các kích thước sao là ước tính. Nhà thiên văn học Jillian Scudder của Đại học Sussex đã viết: “Sự phức tạp với các ngôi sao là chúng có các cạnh khuếch tán. Hầu hết các ngôi sao không có ranh giới rõ ràng, nơi phân chia giữa chất khí của sao và chân không trong không gian. Ranh giới đó sẽ đóng vai trò là đường phân chia để có thể xác định kích thước sao”.
Thay vào đó, các nhà thiên văn học dựa vào quang quyển của một ngôi sao để xác định kích thước của nó. Quang quyển là nơi ngôi sao trở nên trong suốt với ánh sáng và các hạt ánh sáng, hay photon, có thể thoát ra khỏi ngôi sao. Scudder nêu định nghĩa: “Đối với một nhà vật lý thiên văn, đây là bề mặt của ngôi sao, vì đây là điểm mà các photon có thể rời khỏi ngôi sao”.
Nếu UY Scuti thay thế mặt trời ở trung tâm của hệ mặt trời, quang quyển của nó sẽ vượt ra ngoài quỹ đạo của sao Mộc (5 lần khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trời). Tinh vân khí thoát ra từ ngôi sao vượt xa quỹ đạo của sao Diêm vương, vốn xa gấp 400 lần khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trời.
Bán kính lớn của UY Scuti không làm cho nó trở thành ngôi sao lớn nhất hoặc nặng nhất. Vinh dự đó thuộc về R136a1, dù chỉ nặng gấp khoảng 300 lần khối lượng mặt trời nhưng bán kính lại lớn khoảng 30 mặt trời. Trong khi đó, UY Scuti chỉ nặng hơn khoảng 30 lần khối lượng mặt trời, nhưng có kích thước lớn hơn nhiều.
So sánh kích thước vẫn còn phức tạp hơn vì UY Scuti luôn biến thiên. Nhà thiên văn Scudder chỉ ra rằng ngôi sao này thay đổi độ sáng khi nó thay đổi bán kính. Và phép đo chúng ta hiện có chỉ ra sai số của UY Scuti khoảng 192 bán kính mặt trời. Mỗi biến thể hoặc biên độ sai số có thể cho phép các ngôi sao khác đánh bại UY Scuti trong cuộc đua về kích thước. Trên thực tế, có tới 30 ngôi sao có bán kính gần bằng hoặc vượt qua kích thước ước tính nhỏ nhất của UY Scuti. Do vậy ngôi sao khổng lồ này không hẳn ngồi an toàn trên ngai vàng dành cho “hoàng đế của các ngôi sao”.
Các ứng cử viên cho sao có kích thước lớn nhất.
Vậy ngôi sao nào sẽ thay thế UY Scuti nếu kích thước của nó được đánh giá lại? Dưới đây là một số ứng cử viên có thể lấy vương miện từ người khổng lồ có bán kính hiện được ước tính lớn bằng 1.700 lần bán kính của Mặt trời:
WOH G64 từng được cho là có kích thước khổng lồ gấp 3.000 lần kích thước của mặt trời. Thay vào đó, các phép đo mới hơn đăng trên Tạp chí Thiên văn học năm 2009 cho thấy bán kính của nó lớn hơn khoảng 1.504 mặt trời. WOH G64 là một ngôi sao siêu khổng lồ màu đỏ trong Đám mây Magellan Lớn, là một thiên hà vệ tinh của dải Ngân hà chúngta. Giống như UY Scuti, WOH G64 có độ sáng biến thiên vô thường.
Theo NASA, một ứng cử viên khác là Westerlund 1-26, có kích thước lớn gấp hơn 1.500 lần Mặt trời.
Theo một bài báo năm 2012 trên tạp chí Thiên văn học và Vật lý thiên văn, NML Cygni có kích thước bằng 1.639 lần Mặt trời.
Theo một bài báo năm 2020 trên tạp chí Vật lý thiên văn của các thiên hà, KY Cygni có kích thước bằng 1.033 lần Mặt trời.
Trong một bài báo năm 2012 trên tạp chí Solar and Stella, VY Canis Majoris được đo có bán kính gấp khoảng 1.420 lần so với bán kính của
Mặt trời
.
Ngôi sao siêu khổng lồ màu đỏ có tên Astrophysics từng được ước tính có kích thước lớn gấp 1.800 đến 2.200 lần so với Mặt trời, nhưng các phép đo mới đã thu nhỏ kích thước của nó. Tuy nhiên, một số nguồn vẫn liệt kê Astrophysics là ngôi sao lớn nhất.
|
Đi tìm ngôi sao lớn nhất trong vũ trụ: Vua các vì sao
| 1,125 | |
Sáng 14/5, tại Trung tâm Nghệ thuật truyền thống tỉnh Nghệ An đã diễn ra lễ Khai mạc Liên hoan Tiếng hát làng Sen năm 2023. Đây là chương trình nghệ thuật do Sở Văn hóa và Thể thao
tỉnh Nghệ An
tổ chức nhằm Kỷ niệm 133 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2023).
Một tiết mục biểu diễn tại Liên hoan Tiếng hát Làng Sen tỉnh Nghệ An năm 2023.
Phát biểu tại lễ khai mạc, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Trần Thị Mỹ Hạnh nhấn mạnh, Liên hoan Tiếng hát Làng Sen tỉnh Nghệ An năm 2023 là một sinh hoạt văn nghệ, một hội thi nghệ thuật quần chúng truyền thống ra đời đã hơn 40 năm. Liên hoan đã trở thành ngày hội lớn, là nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, thể hiện tính nghệ thuật, mang sắc thái tâm linh thành kính trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân xứ Nghệ. Với chủ đề “Lời Người – Lời của nước non”, Liên hoan chính là bản hòa tấu ngân vang được cất lên bằng những lời ca, vũ điệu, ca ngợi công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ca ngợi những thành tựu đổi mới của quê hương, đất nước.
Theo Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Nghệ An, từ tháng cuối tháng 3 đến đầu tháng 5/2023, trên khắp tỉnh, từ đồng bằng đến miền núi, ngành văn hóa các địa phương đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát Làng Sen cấp cơ sở. Liên hoan của các huyện, thành phố, thị xã được kết hợp tổ chức dưới nhiều hình thức, đa dạng về loại hình, thu hút được đông đảo diễn viên tham gia biểu diễn, khán giả đón xem và cổ vũ, tạo được sự lan tỏa sâu rộng.
Thông qua Liên hoan Tiếng hát Làng Sen, các ngành chức năng tiếp tục bồi đắp, phát triển mạnh mẽ phong trào văn hóa, văn nghệ, sức sáng tạo nghệ thuật; góp phần gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, tiếp tục vì mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các tiết mục biểu diễn tại Liên hoan Tiếng hát Làng Sen tỉnh Nghệ An năm 2023.
Liên hoan Tiếng hát làng Sen gồm 21 chương trình đặc sắc nhất với sự tham gia biểu diễn của 600 nghệ nhân, diễn viên ưu tú nhất trong phong trào nghệ thuật quần chúng của tỉnh Nghệ An tham gia biểu diễn. Các diễn viên đã dày công luyện tập, đầu tư cẩn thận và kỹ lưỡng, hứa hẹn mang đến Liên hoan nhiều tiết mục ca múa nhạc chất lượng cao. Ngay trong buổi lễ khai mạc đã có một số huyện, thị xã tham gia biểu diễn gồm:
Quỳnh Lưu
,
Diễn Châu
,
Tân Kỳ
,
Quế Phong
,
Quỳ Châu
…
Trong chuỗi các hoạt động quan trọng của Lễ Hội Làng Sen 2023, bên cạnh Liên hoan Tiếng hát Làng Sen còn có chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp, triển lãm, Lễ hội đường phố, hoạt động thể thao, du lịch được đầu tư công phu…
Tin, ảnh: Tá Chuyên
|
Khai mạc Liên hoan Tiếng hát làng Sen năm 2023
| 545 | |
Một cấu trúc dạng bong bóng ma quái mang tên eROSITA gắn vào hai bên đĩa thiên hà chứa Trái Đất có thể không có nguồn gốc quái vật như suy nghĩ trước đây, mà ngược lại.
Theo
Science Alert
, dữ liệu từ vệ tinh Suzaku được đồng điều hành bởi hai cơ quan vũ trụ Mỹ – Nhật là NASA và JAXA đã ghi lại được điểm then chốt có thể giải thích cho eROSITA, vốn được nhận biết và gây hoang mang từ năm 2020.
Bong bóng eROSITA thật ra là một cặp, đối xứng, hình cầu và bên trong rỗng y như bong bóng, nằm lọt thỏm trong lớp vỏ khí khổng lồ vô hình của thiên hà chứa Trái Đất Milky Way (
Ngân Hà
), mở rộng khoảng 45.661 năm ánh sáng về hai phía của đĩa thiên hà trung tâm.
Cặp bong bóng eROSITA như hai bóng ma màu vàng và cam ma quái “ký sinh” lên đĩa trung tâm của thiên hà chứa Trái Đất – Ảnh: VIỆN MAX PLANCK VỀ VẬT LÝ NGOÀI TRÁI ĐẤT.
Các khí năng lượng tạo thành bong bóng được cho là có nhiệt độ khá đồng đều, hơi cao và trong suốt. Khám phá mới cho thấy chúng còn phức tạp hơn thế.
“Mục tiêu của chúng tôi là tìm hiểu về môi trường xung quanh thiên hà, rất quan trọng để hiểu về cách thiên hà của chúng ta hình thành và phát triển” – nhà thiên học Anjali Gupta từ Trường Đại học Cộng đồng Bang Ohio (
Mỹ
) cho biết.
Dữ liệu Suzaku cho thấy ánh sáng tia X mà các đài thiên văn Trái Đất ghi nhận ở bong bóng này không phải vì chúng nóng hơn môi trường xung quanh mà đơn giản vì các chất khí này có mật độ cao hơn.
Đối chiếu với 230 dữ liệu quan sát tia X, họ làm sáng tỏ cách bong bóng này hình thành, cho thấy nó không phải thứ phun ra từ dòng phản lực của lỗ đen quái vật như suy nghĩ trước đây.
Trái lại, chúng là biểu tượng của sự sống: Quá trình hình thành sao. Với giả thuyết mới này, có thể kết luật trung tâm thiên hà chứa Trái Đất là một vùng hình thành sao cực kỳ mạnh mẽ dù có một lỗ đen quái vật đầy chết chóc trấn giữ.
Bên trong eROSITA là một cặp bong bóng khí nhỏ hơn gọi là bong bóng Femi, được NASA phát hiện từ năm 2010. Nghiên cứu mới này gợi ý bong bóng Femi có thể được tạo ra theo cách tương tự.
Nghiên cứu vừa công bố trên tạp chí khoa học
Nature Astronomy.
|
Bong bóng khổng lồ ‘ký sinh’ thiên hà chứa Trái Đất: Thêm dấu hiệu lạ
| 443 | |
Hàng loạt phát hiện khảo cổ nối tiếp nhau bắt nguồn từ việc một người dò kim loại gặp may lớn hồi năm 2019 khi tìm kho báu trên cánh đồng xứ Wales nước Anh.
Theo
Ancient Origins,
người đàn ông may mắn tên Jon Mathews đã phát hiện ra kho báu vào tháng 3-2019. Nó gồm một chiếc bình gốm và một số đồ tạo tác nhỏ khác.
Nhìn kho báu có vẻ khiêm tốn nhưng người đàn ông vẫn quyết định liên hệ với giới khoa học bởi một linh cảm đặc biệt rằng nó phải là cái gì đó vô cùng quan trọng, theo Wales Online.
Một trong những món đồ tinh tế được khai quật tại kho báu xứ Wales – Ảnh: Amguedfa Cymru.
Với độ chính xác cẩn thận, các nhà khoa học địa phương đã khai quật tỉ mỉ 8 món đồ tạo tác khác nhau và vận chuyển đến Bảo tàng Quốc gia xứ Wales Amguedfa Cymru.
Cuộc phân tích sau đó đã phục hồi lại nhiều chi tiết tinh tế của kho báu và xác định nó là những món đồ La Mã lên tới 2.000 năm tuổi, tức có giá trị vô cùng lớn.
Các nhà khảo cổ tiếp tục quay về cánh đồng đặc biệt nói trên và đã tìm thấy thêm 8 chiếc bình, một chiếc xô thời kỳ đồ sắt được trang trí công phu bằng hợp kim đồng, cùng nhiều vật dụng khác được chế tác công phu theo cùng kiểu.
Nhiều món đồ – ít nhất là những chiếc bình – được xác định là vật phẩm tùy táng chôn theo một nhân vật quan trọng nào đó vào nửa sau của thế kỷ I sau Công Nguyên, một giai đoạn đầy biến động quanh thời kỳ mà sự đô hộ của quân La Mã ở Anh bị đẩy lùi.
Món đồ gây chú ý nhất là một chiếc chén gắn hình đầu bỏ mắt to, sừng cong bằng kim loại màu xanh lam đẹp mắt, có phần hàm dưới mở rộng thành vòng như tay cầm.
Chúng rất có thể là đồ tùy táng xa hoa của một vị quý tộc cổ đại – Ảnh: Amguedfa Cymru.
Số tiền xu nằm ở hai khu vực khác nhau trên cánh đồng và toàn bộ khu vực khai quật này thuộc vùng lân cận của thị trấn La Mã cổ đại Caerwent, khiến các nhà khoa học nảy ra mối hoài nghi lớn hơn.
Họ tin rằng rất có thể có cả một khu định cư, một thị trấn chưa từng biết ngự trị ở cánh đồng đặc biệt này, tất cả nhờ phát hiện ban đầu đầy may mắn của người dò kim loại.
Với niên đại, sự tinh tế và giá trị lịch sử, có thể nói chỉ riêng kho báu này đã là những bảo vật vô song. Các nhà khoa học sẽ tiếp tục kiểm tra khu vực để xác minh mối hoài nghi về khu định cư cổ đại.
|
Dò kim loại trên đồng, phát hiện kho báu kép làm “choáng” giới khoa học
| 493 | |
Nhà văn Nghiêm Thị Hằng.
Liên tiếp trong hai năm 2021 và 2022 nhân sự kiện UNESCO vinh danh “Danh nhân văn hóa” và UBND
tỉnh Nghệ An
tổ chức đón nhận danh hiệu “Danh nhân văn hóa” cho nữ sĩ Hồ Xuân Hương, báo chí trong nước đã đưa tin về hai sự kiện này và cuốn khảo cứu chuyên sâu
Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương
của nhà văn Nghiêm Thị Hằng.
Báo
Văn nghệ
điện tử đăng 3 số liên tiếp ngày 3,4 và 5/12/2021 bài của Hồ Xuân, giới thiệu “
Với tác phẩm này, thân thế của “Bà Chúa thơ Nôm” mờ mờ, tỏ tỏ, suốt 250 năm qua, đã được làm rõ bằng phương pháp nghiên cứu có sự hỗ trợ của các bộ môn “siêu thực”, từ trước tới nay giới nghiên cứu chưa ai thực hiện phương pháp này, do đó gây nên sự thu hút bạn đọc với tác phẩm
”.
Nhà báo Thái Sinh có bài
Nhà thơ Nghiêm Thị Hằng giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương
trên báo
Nông nghiệp Việt Nam
nhận xét: “
Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương” là công trình khoa học công phu mà Nghiêm Thị Hằng đã dày công sưu tầm, nghiên cứu dòng dã suốt 3 năm, từ 2019 đến 2021. Nghiêm Thị Hằng đã phải vận dụng tất cả vốn tri thức mình đã có, ngoài những tài liệu khảo cứu còn phải biết Tử vi, Kinh dịch, Ngoại cảm… là các bộ môn “siêu thực”.
PGS-TS Vũ Nho có bài
Bước tiến quan trọng nghiên cứu thân thế cuộc đời nữ sĩ Hồ Xuân Hương”
trên báo
Văn nghệ Công an
nhận xét đây là
“Bước tiến quan trọng nghiên cứu thân thế cuộc đời nữ sĩ Hồ Xuân Hương
”. Tác giả La Sơn nhận xét trên báo
Quân đội
Nhân dân
: “
Sau dư một thế kỷ, gần đây xuất hiện khảo luận Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương của Nghiêm Thị Hằng (NXB Hồng Đức, 2021) với định hướng nghiên cứu phi truyền thống…
”…
Dư âm về cuốn
Giải mã bí ẩn nữ sĩ Hồ Xuân Hương
chưa hết, thì giữa tháng 10/2022, nhà văn Nghiêm Thị Hằng lại trình làng cuốn tiểu thuyết lịch sử
Hồ Xuân Hương tiếng vọng.
Tiểu thuyết này như một bức tranh lịch sử, từ đây nữ sĩ Hồ Xuân Hương bước ra cuộc đời, kể lại dấu tích thân phận cuộc đời bà, vốn xưa nay vẫn mờ mờ tỏ tỏ.
Nội dung tiểu thuyết dày 342 trang
Hồ Xuân Hương tiếng vọng
gồm 5 phần: Quả Ngọt cuối mùa; Thời thiếu nữ kiêu sa; Lấy chồng làng Gáp; Chữ tài gắn với chữ tai; Họa tam tai…
Phần 1
Quả ngọt cuối mùa
gồm các chương
Thầy đồ dứt áo xa quê
;
Tìm em nhờ bạn tứ trấn
;
Hội hoa mẫu đơn – duyên trời định
;
Đầu thu hoa nở
;
Học theo cha thuộc lầu kinh sử
;
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
;
Thầy đồ về cõi phật.
Các chương nối kết nhau theo mạch kể thời gian. Bắt đầu từ gia phả Trung chi 2 họ Hồ ở Quỳnh Đôi. Hồ Xuân Hương có ông trẻ (em trai cụ Hồ Phi Cơ – cụ nội của nữ sĩ) là Hồ Phi Tích – Hoàng Giáp – Phó tể tướng và Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ là hậu duệ đời thứ 12, là anh họ nữ sĩ họ Hồ. Cụ Hồ Phi Gia có 2 người con trai là Hồ Phi Diễn (cha của Hồ Xuân Hương) và Hồ Phi Lãng lưu lạc theo nghĩa quân của Lê Duy Mật. Khi bố mẹ qua đời, người vợ của thầy đồ Hồ Phi Diễn cũng qua đời vì sinh nở, ở tuổi gần 60, nhớ lời cha mẹ dặn phải tìm người em trai Phi Lãng lưu lạc, Phi Diễn buông liếp mái tranh nghèo giao cho vợ chồng người em họ là Hồ Phi Thiện trông giữ, để ra kinh thành Thăng Long dạy học. Phi Diễn vừa dạy học, vừa nhờ bạn bè tứ trấn đi tìm tung tích của em trai. Trong lần đi tìm em trai, Phi Diễn đã gặp Hà Thị ở hội hoa mẫu đơn chùa Phật Tích.
Nhân duyên se cho thầy đồ xứ Nghệ với người phụ nữ miền Kinh Bắc. Họ cưới nhau năm nàng 36 tuổi, còn thầy đồ họ Hồ đã 68 tuổi. Hà Thị làm nghề trồng hoa ở làng Ngọc Hà và hay đi bán hoa ngày rằm muồng một ở các đền chùa. Nàng dâng lễ ở đền Quán Thánh cầu con và được thần Huyền Thiên Trấn Vũ báo mộng cho nàng sinh con gái, còn dặn rằng sau này con gái của nàng sẽ làm nhà ở cạnh nhà thần. Mùa Thu tháng Bảy, Hà Thị sinh con gái đặt tên là Hồ Phi Mai biểu tự là Hồ Xuân Hương, năm ấy Hà Thị 38 tuổi, cụ đồ 70 tuổi. Hồ Phi Mai là cô bé có cá tính, học giỏi hơn người, chỉ nghe lỏm cha dạy học mà tinh thông kinh sử. Năm Phi Mai 13 tuổi thì cụ đồ Hồ Phi Diễn về với tổ tiên…
Khép lại phần 1, mở ra phần 2
Thời thiếu nữ kiêu sa
với các chương
Vườn Xuân ong bướm dập dìu
;
Tình trong mộng
;
và Cao không tới thấp không vừa
, kể về thời thiếu nữ kiêu sa của nàng thơ. Danh tiếng của nữ sĩ, khiến cho các sĩ tử về kinh thành dự thi, đều muốn được đến hiệu sách phố Nam để ngắm dung nhan và để được đối thơ với nàng, đúng cảnh “
Vườn Xuân ong bướm dập dìu
”
.
Là con gái thầy đồ nghèo, cha mất sớm, Xuân Hương không được hứa hôn với con nhà gia thế, bởi vậy nàng không phải chịu cảnh lấy chồng theo xếp đặt của cha mẹ. Năm 1791 Nguyễn Du – cậu Bảy – con Tể tướng Nguyễn Nghiễm, lên kinh thành Thăng Long giúp anh trai là Nguyễn Nễ tu sửa lại dinh tự Gác tía của anh trai là Tiến sĩ –Tể tướng Nguyễn Khản, bị tàn phá sau họa kiêu binh 1780. Ở Gác tía làng Nghi Tàm, nhân duyên xui khiến cậu Bảy nhà Nguyễn Nghiễm, gặp thiếu nữ Xuân Hương 17 tuổi hồn nhiên tươi trẻ. Hai tâm hồn thơ đồng điệu cùng rung động, gắn kết với nhau qua mối tình thơ và một tình yêu trong mộng. Rồi cũng vì gia cảnh, cậu Bảy –Nguyễn Du trở về quê Tiên Điền xa cách. Nhân duyên không thành, để lại sự chống chếnh trong tâm hồn Xuân Hương. “Tình trong mộng” ấy, hình bóng của Nguyễn Du, nàng ví cao như núi, dài như sông, khó có hình bóng nào vượt qua. Thế nên Xuân Hương mới rơi vào cảnh “Kén cá chọn canh”, “Cao không tới thấp không vừa” trong nhân duyên…
Khép lại phần 2, mở ra phần 3
Lấy chồng làng Gáp
với các chương
Tình Xuân dẫn lối
;
Cho cả cành đa lẫn củ đa
;
Làm dâu làng Gáp
; và
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
. Khi tuổi thanh xuân của nữ sĩ tuột trôi theo năm tháng, thì nhân duyên gõ cửa nhà nàng, bằng cuộc đối thơ với ba chàng tú đất Phong Châu vào cuối mùa Đông năm 1801. Đội Kình đối được thơ của nữ sĩ, thua cuộc nữ sĩ trở thành vợ ba của ông Đội Kình vào năm nàng 29 tuổi. Từ một nữ sĩ ở đất kinh kỳ quen dạy học, làm thơ và buôn bán, giờ đây làm dâu làng Gáp, nàng phải quen dần với việc nhà nông, cắt cỏ nuôi cá, phải quen với cảnh ăn cơm trộn sắn khoai. Vất vả nàng dần quen, nhưng nàng không thể quen và chịu đựng nổi cảnh chồng chung “
kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
” và nàng đã phản kháng trong những bài thơ bảo vệ nữ quyền nàng làm ở làng Gáp. Nàng dám bỏ chồng về nhà mẹ. Bi kịch chồng chung khép lại ở câu thơ “
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
”
.
Phần 4
Chữ tài gắn với chữ tai
với các chương
Nghiệp thơ níu người
;
Cổ Nguyệt đường quán thơ
; và
Mai Sơn phủ thề non hẹn biển…
Theo mạch thời gian, chuyện kể tiếp nữ sĩ rời làng Gáp về kinh thành Thăng Long, nghiệp thơ lại níu người với bạn bè văn sĩ. Nàng dựng nhà Cổ Nguyệt đường ở bên Hồ Tây, giáp với đền Quán Thánh. Đây là nhà ở, là nơi nàng bán giấy bút, sách vở cho các sĩ tử về kinh thành dự thi và đây cũng là quán thơ, hội thơ nữ sĩ gặp bạn bè. Tại Cổ Nguyệt đường, nàng đã quen với tri phủ Tam Đái –Trần Phúc Hiển có biệt hiệu là Mai Sơn Phủ. Hai người đã hẹn cùng nhau, đợi khi chàng về miền Yên Quảng nhậm chức, năm 1814 sẽ cưới nàng làm thiếp.
Phần 5
Họa tam tai
với các chương
Bà Chúa vùng Đông Hải
;
Họa tam tai ập đến
;
Trời cao chẳng thấu oan chồng…
kể tiếp chuyện sau khi Hồ Xuân Hương đoạn tang mẹ, năm 1816 Quan tham hiệp Trần Phúc Hiển đã cưới nàng về làm “Bà chúa vùng Đông Hải”. Đây là những tháng ngày hạnh phúc nhất của nữ sĩ. Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Quan tham hiệp gặp phải oan án, bị bắt tháng 5/1818. Nữ sĩ đã chạy đôn chạy đáo từ Bắc vào Nam kêu án cho chồng. Ở Kinh thành Phú Xuân, lúc đó Hồ Xuân Hương gặp lại Nguyễn Du đang giữ chức Tham tri bộ lễ trong hàng quan văn. Thương cảm với Xuân Hương, giữ tình xưa nghĩa cũ, quan Tham tri bộ lễ đã dâng sớ kêu oan của Xuân Hương tới Đức Vua. Vua ban cho Phúc Hiển đặc ân sống thêm 60 ngày, được tự chọn nơi hành quyết và phương thức hành quyết. Tội nhân đã chọn hành quyết bằng dải lụa đào tự vẫn và mong muốn được chôn cất tại quê hương gần nơi phần mộ của Tiền hiền mở đất họ Trần làng Tam Kỳ.
Cuốn sách khép lại ở những trang sách nói về cuộc đời của người xưa nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Một trang sách mới mở ra, đúng 200 năm ngày mất và 250 năm ngày sinh của nữ sĩ, bà chúa thơ Nôm- Hồ Xuân Hương đã được UNESCO vinh Danh là danh nhân văn hóa.
|
Nữ sĩ bước ra trò chuyện cuộc đời – Tác giả: Kim Ngọc
| 1,723 | |
Một loài cá mập ‘quỷ’ mới với đôi mắt trắng sáng được tìm thấy ở vùng nước sâu ngoài khơi
Australia
.
Loài cá mập mới với đôi mắt trắng kỳ dị. Ảnh: Will White/CSIRO.
Loài cá mập được xác định là loài mới, nhiều thập kỷ sau khi các nhà khoa học thu thập được mẫu vật một con cái mang thai đã chết ngoài khơi bờ biển Tây Australia.
Cá mập “quỷ” ban đầu được xác định nhầm và chỉ được coi là một loài mới sau khi các nhà khoa học xem xét lại chiếc hộp trứng kỳ lạ của nó, vốn được lưu giữ trong kho bảo tàng trong nhiều năm.
Cụ thể, loài mới phát hiện có tên Apristurus ovicorrugatus và được mô tả trong một nghiên cứu mới đây trên Tạp chí Sinh học Cá.
Cái tên này bắt nguồn từ tiếng Latinh. “Apristurus” có nghĩa là trứng, “ovi” và “corrugatus” có nghĩa là gấp nếp, liên quan đến vỏ trứng gấp nếp đặc biệt của loài này. Cùng với vỏ trứng độc đáo, A. ovicorrugatus còn sở hữu tròng mắt trắng sáng khác thường.
Vỏ trứng với các xúc tu giúp chúng bám vào san hô, rong biển hoặc đá. Ảnh: Will White/CSIRO.
Apristurus là một chi cá nhám mèo. Chúng thường được gọi là cá mập mèo quỷ. Đây là một trong những chi cá mập đa dạng nhất trên thế giới, với khoảng 40 loài được biết đến.
Vỏ trứng của chúng còn được gọi là “vi của nàng tiên cá” – thường có các tua dài cho phép chúng bám vào rong biển hoặc đá.
Hồi năm 2011, nhóm nghiên cứu đã tình cờ phát hiện ra một trường hợp trứng cá mập độc đáo. Mặc dù con cá mập này đã được xác định thuộc chi Apristurus, vỏ trứng lại không khớp với bất kỳ loài nào đã biết.
Sau đó, cuộc tìm kiếm các trường hợp trứng cá mập đã biết đều không có kết quả. Điều đó khiến loài cá đẻ trứng chưa được xác định cho đến khi các nhà khoa học tìm thấy thêm hai quả nữa đang trong Bộ sưu tập Cá Quốc gia của Australia.
“Con cái đang mang một hộp trứng duy nhất và nó khớp với cái mà chúng tôi đã tìm thấy cách đây một thập kỷ. Thật may mắn là mẫu vật cái mà chúng tôi tìm thấy chứa một hộp trứng có rãnh giống hệt và xác nhận những nghi ngờ của chúng tôi”, Will White, đồng tác giả nghiên cứu, cho biết.
Ông White nhận xét rằng đặc điểm kỳ lạ nhất trên loài mới này là đôi mắt trắng sáng của chúng. Đây là một đặc điểm khác thường đối với các sinh vật sống dưới nước sâu.
Giả thuyết duy nhất được nhóm nghiên cứu đưa ra về đặc điểm kỳ lạ này là đôi mắt sáng giúp chúng nhìn rõ hơn trong bóng tối.
Trong tương lai, nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục tìm kiếm các bộ sưu tập cá của bảo tàng để tìm thêm nhiều loài mới.
|
Phát hiện loài cá mập ‘quỷ’ đẻ trứng với đôi mắt trắng sáng
| 509 | |
Việt Nam
có bề dày lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, cùng nền văn hóa đa dạng của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Đây là nguồn tiềm năng văn hóa to lớn để phát triển loại hình ‘du lịch văn hóa’, qua đó tạo một nhịp cầu kết nối với những nền văn hóa thế giới, đồng thời khẳng định bản sắc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
|
Infographic: Du lịch văn hóa lan tỏa bản sắc Việt
| 73 | |
Tối 14/5, tại Khu Du lịch Tam Chúc, UBND
tỉnh Hà Nam
đã tổ chức Lễ Khai mạc Tuần Văn hóa, Du lịch tỉnh Hà Nam năm 2023 và Chương trình Giao lưu Nghệ thuật Nhân dịp kỉ niệm 50 năm quan hệ Ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trao quyết định công nhận 2 Bảo vật Quốc gia cho tỉnh Hà Nam.
Dự buổi lễ có Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành, cơ quan trung ương.
Phía tỉnh Hà Nam có Bí thư Tỉnh ủy Lê Thị Thủy cùng các lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND, đại diện tỉnh bạn, đại biểu tôn giáo, tri thức văn nghệ sĩ và hàng ngàn người dân.
Về phía khách quốc tế có Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam Yamada Takio; đại diện Đại sứ quán một số nước Ấn Độ, Indonexia,…
Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Trương Quốc Huy phát biểu tại buổi lễ.
Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Nam Trương Quốc Huy nhấn mạnh: Hà Nam là vùng đất có bề dày lịch sử – văn hóa với kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ, quý báu mang đậm bản sắc vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Chương trình giao lưu biểu diễn nghệ thuật truyền thống Việt Nam – Nhật Bản được tổ chức với mong muốn tiếp tục tiếp tục giới thiệu, tôn vinh nét đẹp văn hóa truyền thống, mối quan hệ gắn bó, hữu nghị bền chặt giữa hai quốc gia, hai dân tộc, giữa tỉnh Hà Nam và các địa phương, tổ chức của Nhật Bản.
Trong khuôn khổ Tuần lễ Văn hóa – Du lịch Hà Nam 2023 cũng sẽ có nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch đặc sắc, mang đến cho người dân và du khách những trải nghiệm mới lạ và thú vị: Hội nghị xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực du lịch, Lễ hội khinh khí cầu lần đầu tiên được tổ chức ở Hà Nam.
Đại sứ Nhật Bản Yamada Takio phát biểu tại buổi lễ.
Phát biểu tại buổi lễ, Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Yamada Takio cho rằng hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao trong bối cảnh quan hệ song phương đang ở giai đoạn tốt đẹp nhất từ trước đến nay, gắn kết mạnh mẽ chưa từng thấy trong tất cả các lĩnh vực.
Ông Yamada Takio khẳng định Hà Nam là một trong những địa phương đã trở thành hình mẫu cho quan hệ hợp tác hữu nghị Nhật Bản – Việt Nam. Hà Nam đang thu hút nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đến hợp tác, đầu tư.
Cũng tại buổi lễ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã trao quyết định công nhận 2 Bảo vật Quốc gia cho tỉnh Hà Nam. Đó là Bảo vật Quốc gia Bia đá chùa Giàu (xã Đinh Xá, thành phố Phủ Lý) và Bảo vật Quốc gia Trống đồng Tiên Nội 1 (trong bộ sưu tập 16 chiếc của Bảo tàng tỉnh Hà Nam) thuộc Văn hóa Đông Sơn với niên đại được tính vào khoảng thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.
Thứ truởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông trao quyết định xếp hạng 4 di tích cấp Quốc gia cho tỉnh Hà Nam.
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông cũng trao quyết định xếp hạng Di tích Lịch sử cấp Quốc gia với 4 di tích của Hà Nam gồm: Di tích Lịch sử Căn cứ địa Lạt Sơn (xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng); Danh lam thắng cảnh Bát Cảnh Sơn (xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng); Quần thể Danh lam thắng cảnh Tam Chúc (thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng) và Di tích Lịch sử Mộ và Khu lưu niệm Nam Cao (xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân).
Ngay sau phần lễ, chương trình Nghệ thuật “Tự hào non nước Hà Nam” với nhiều tiết mục được chuẩn bị công phu, độc đáo cùng màn bắn pháo hoa đã để lại ấn tượng cho đông đảo người dân, khách du lịch trong nước và quốc tế.
Một số tiết mục nghệ thuật tại buổi lễ.
|
Khai mạc Tuần Văn hóa, Du lịch Hà Nam 2023 và Giao lưu Nghệ thuật Việt Nam – Nhật Bản
| 746 | |
Từ trước đến giờ, nhiều người nghĩ rằng sao lớn thì mới có hành tinh lớn, sao nhỏ thì chỉ có thể chứa hành tinh nhỏ xoay quanh. Tuy nhiên, quan điểm đó đang bị lung lay.
Một nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học từ Đại học College London (UCL) và Đại học Warwick tiết lộ, những ngôi sao có khối lượng nhỏ hơn một nửa so với khối lượng của Mặt trời có thể chứa những hành tinh khí khổng lồ tương tự như sao Mộc. Điều này mâu thuẫn với lý thuyết phổ biến về sự hình thành hành tinh và do đó buộc chúng ta phải xem xét lại lý thuyết này.
Theo quan điểm chung của các nhà thiên văn học trước giờ, các hành tinh khí khổng lồ, cùng với các thiên thể khác, bắt nguồn từ các đĩa bụi bao quanh các ngôi sao trẻ. Lý thuyết bồi tụ lõi cho rằng, các hành tinh này ban đầu phát triển lõi từ đá, băng và các chất liệu rắn nặng khác. Theo thời gian bồi tụ, khi các hành tinh này đạt khối lượng gấp 15 đến 20 lần khối lượng Trái đất, chúng sẽ hút vào một lớp khí ở phía bên ngoài.
Tuy nhiên, các ngôi sao khối lượng thấp vốn hình thành từ các đĩa bụi có tổng khối lượng thấp. Do đó, theo dự đoán của các mô phỏng, phần đĩa bụi còn lại sau khi hình thành ngôi sao sẽ không cung cấp đủ vật chất để hình thành một hành tinh khí khổng lồ theo cách này.
Trên thực tế, bán kính Mặt trời lớn hơn cả chục lần so với sao Mộc – Ảnh: Internet.
Trong nghiên cứu gần đây đã được công bố trên Thông báo hằng tháng của Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia (MNRAS) và được tài trợ bởi Hội đồng Cơ sở Khoa học và Công nghệ Vương quốc Anh (STFC), các nhà nghiên cứu đã xem xét 91.306 ngôi sao có khối lượng thấp, sử dụng các quan sát từ chương trình khảo sát ngoại hành tinh của NASA. Và trong đó, họ tìm thấy 15 trường hợp có sự giảm sút độ sáng của ánh sáng tương ứng với một khối vật thể khổng lồ di chuyển theo quỹ đạo chắn sáng phía trước ngôi sao.
Năm trong số 15 trường hợp đó đã được xác nhận là hành tinh bằng các phương pháp độc lập. Và một trong những hành tinh đã được xác nhận này quay quanh một ngôi sao có khối lượng bằng 1/5 Mặt trời – điều không thể xảy ra theo các lý thuyết mô hình hình thành hành tinh hiện giờ.
Tiến sĩ Ed Bryant (Phòng thí nghiệm Khoa học Vũ trụ Mullard tại UCL, trước đây là Đại học Warwick), người đã khởi xướng công trình nghiên cứu này cho biết: “Các ngôi sao có khối lượng thấp có khả năng hình thành các hành tinh khổng lồ tốt hơn chúng ta nghĩ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đặt ra những câu hỏi nghiêm túc cho các lý thuyết hình thành hành tinh. Đặc biệt, việc chúng tôi phát hiện ra các hành tinh khí khổng lồ quay xung quanh các ngôi sao có khối lượng chỉ bằng 20% khối lượng Mặt trời đặt ra mâu thuẫn với lý thuyết hiện tại”.
Đồng tác giả – Tiến sĩ Vincent Van Eylen (Phòng thí nghiệm Khoa học Vũ trụ Mullard tại UCL) cho biết: “Thực tế là, mặc dù rất hiếm nhưng những hành tinh khí khổng lồ tồn tại xung quanh các ngôi sao có khối lượng thấp là một phát hiện bất ngờ và có nghĩa là các lý thuyết mô hình về hình thành hành tinh sẽ cần phải được sửa đổi”.
Một cách giải thích có thể là những hành tinh khí khổng lồ không hình thành thông qua sự bồi tụ lõi mà thông qua sự mất ổn định của lực hấp dẫn, trong đó phần đĩa bụi bao quanh một ngôi sao bị phân mảnh thành các khối bụi và khí có sẵn khối lượng bằng một hành tinh. Trong trường hợp như vậy, ngôi sao mẹ có khối lượng thấp vẫn có thể chứa những hành tinh khí khổng lồ rất lớn, gấp hai hoặc ba lần khối lượng sao Mộc. Tuy nhiên, điều này được coi là khó xảy ra, vì các đĩa bụi xung quanh các ngôi sao có khối lượng thấp dường như không đủ lớn để phân mảnh theo cách này.
Các nhà nghiên cứu cho biết, một lời giải thích khác là các nhà thiên văn học đã đánh giá thấp mức độ lớn của đĩa sao, nghĩa là các ngôi sao nhỏ có thể hình thành các hành tinh khổng lồ thông qua sự bồi tụ lõi.
Điều này có thể là do chúng ta đã tính toán sai khối lượng của các đĩa bụi mà chúng ta quan sát qua kính thiên văn (vì chúng rất khó quan sát khi dưới dạng một đám bụi). Hoặc do các đĩa bụi khi bắt đầu vòng đời của một ngôi sao có khối lượng lớn hơn so với giai đoạn sau mà ta có thể quan sát, đo đạc chúng.
Tiến sĩ Dan Bayliss (Đại học Warwick), đồng tác giả nghiên cứu cho biết: “Có thể chúng ta không hiểu rõ về khối lượng của các đĩa bụi tiền hành tinh này như chúng ta tưởng. Các thiết bị mới hiện đại như Kính viễn vọng Không gian James Webb sau này có thể sẽ nghiên cứu các đĩa bụi này một cách chi tiết hơn”.
Trong báo cáo của mình, các nhà nghiên cứu đã tìm cách xác định tần suất xuất hiện của các hành tinh khổng lồ xung quanh ngôi sao mẹ có khối lượng thấp, kiểm tra xem tần suất xuất hiện này có phù hợp với kết quả mà lý thuyết mô hình bồi tụ lõi sẽ dự đoán hay không.
Họ đã sử dụng một thuật toán để xác định tín hiệu của những hành tinh khí khổng lồ đang chuyển tiếp trong ánh sáng phát ra từ các ngôi sao có khối lượng thấp. Sau đó, họ xem xét các tín hiệu này, loại bỏ một số kết quả không phù hợp.
Để xác định khả năng phương pháp của họ phát hiện ra những hành tinh khí khổng lồ thực sự quay quanh các ngôi sao này như thế nào, nhóm nghiên cứu đã thực hiện các mô phỏng với hàng nghìn tín hiệu của các hành tinh đang chuyển tiếp vào dữ liệu ánh sáng sao mà
NASA
đang có. Sau đó, họ chạy thuật toán để xem có bao nhiêu hành tinh kiểu này sẽ được phát hiện.
Hiện các nhà nghiên cứu đang làm việc để xác nhận (hoặc loại trừ) đối với 9 trong số 15 trường hợp nêu ở phần đầu để xem đó có phải hành tinh hay không (trong 15 trường hợp thì các nhà khoa học đã xác định được 5 là hành tinh, còn 1 bị loại trừ). Những ứng cử viên này cũng có khả năng là những ngôi sao đồng hành với sao mẹ (trong hệ sao đôi) hoặc có thể có một lý do khác khiến độ sáng giảm đi.
Nhóm nghiên cứu sẽ suy ra khối lượng của những vật thể này bằng cách đo sự “lắc lư” vị trí của ngôi sao mẹ, có thể do tác động từ lực hút của vật thể xoay quanh. Sự dao động này có thể được phát hiện thông qua phân tích quang phổ của ánh sáng sao, tức là đo các dải ánh sáng khác nhau để theo dõi chuyển động của ngôi sao lùi ra xa chúng ta hoặc tiến về gần phía chúng ta.
|
Một ngôi sao nhỏ có thể chứa một hành tinh khổng lồ hay không?
| 1,309 | |
Bão mạnh đổ bộ vào Myanmar, trong khi một số nước khác tại khu vực bị nắng nóng hoành hành.
Siêu bão Mocha ngày 14-5 đổ bộ gần TP Sittwe, bang Rakhine – Myanmar với sức gió lên đến 209 km/giờ, gây ra nhiều thiệt hại.
Giới chức địa phương thông tin bão đã làm hư hại nhiều ngôi nhà, hệ thống lưới điện, mạng di động tại TP Sittwe và 2 thị trấn Kyaukpyu, Gwa. Ngoài ra,
Reuters
cho biết một đoạn video đăng trên mạng xã hội cho thấy một phần TP Sittwe bị ngập lụt.
Theo Trung tâm Cảnh báo bão liên hợp Mỹ, siêu bão Mocha có lúc đạt sức gió lên tới 259 km/giờ trước thời điểm đổ bộ.
Theo AP, hơn 4.000 người trong số 300.000 cư dân ở Sittwe đã được sơ tán đến các địa phương khác từ ngày 12-5. Trong khi đó, 20.000 người khác đang trú ẩn trong các tòa nhà kiên cố như tu viện, chùa, trường học tọa lạc ở vùng cao của thành phố.
Từ sáng 14-5, người dân thành phố này đã đối mặt những cơn gió rất mạnh và mưa xối xả, trong lúc có các báo cáo tử vong liên quan đến thời tiết xấu.
Mưa to, gió lớn tại TP Sittwe, bang Rakhine – Myanmar hôm 14-5 Ảnh: REUTERS.
Tại Bangladesh, nhà chức trách TP Cox’s Bazar đã cho sơ tán 1,27 triệu người sau khi có dự báo địa phương này nằm trên đường đi của bão Mocha.
Ngoài ra, các cơ quan Liên Hiệp Quốc và nhân viên cứu trợ ở Bangladesh đã chuẩn bị hàng tấn lương thực, hàng chục xe cứu thương và các đội y tế lưu động khi mức cảnh báo cao nhất được đưa ra. Dù vậy, đến chiều 14-5 (giờ địa phương), giới chức Bangladesh cho biết mối đe dọa từ bão đã giảm đáng kể.
Nhà khoa học khí hậu Roxy Mathew Koll – Viện Khí tượng nhiệt đới Ấn Độ – cảnh báo các cơn bão ở vịnh Bengal đang trở nên mạnh hơn, một phần do biến đổi khí hậu. Theo chuyên gia này, các đại dương ấm áp và gió thuận lợi khiến bão duy trì cường độ trong thời gian dài hơn.
Trong khi đó, trang
Bloomberg
nhận định các cơn bão lớn và nắng nóng nghiêm trọng có thể diễn ra thường xuyên hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khả năng xảy ra hiện tượng El Nino.
Đáng chú ý, Myanmar không phải là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đối mặt thời tiết cực đoan. Cơ quan Môi trường quốc gia Singapore cho biết nhiệt độ ngày 13-5 là 37 độ C, cao nhất trong 40 năm qua. Đây cũng là ngày nóng nhất trong tháng 5 từng được ghi nhận, cao hơn kỷ lục năm ngoái là 36,7 độ C. Cơ quan này cũng cảnh báo các điều kiện khô và nóng sẽ tiếp tục trong thời gian tới.
Trong khi đó, tại Malaysia, 14 trường hợp say nắng được báo cáo hôm 12-5 và con số này có thể còn tăng khi thời tiết nắng nóng được dự báo kéo dài đến tháng 8.
“Tình hình vẫn đang được kiểm soát. Các bệnh viện và cơ sở y tế của bộ đã sẵn sàng tiếp nhận nạn nhân say nắng và bị chuột rút do nhiệt” – Thứ trưởng Bộ Y tế Malaysia Lukanisman Awang Sauni nói với hãng thông tấn nhà nước
Bernama
hôm 13-5. Nước này gần đây có một trẻ em tử vong do say nắng, khiến Bộ Y tế phải đưa ra khuyến cáo công khai.
Trước đó, Philippines đã phải cắt giảm giờ học khi nhiệt độ đạt mức cao nguy hiểm. Ngoài ra, Thái Lan cảnh báo nguy cơ hạn hán do
hiện tượng El Nino
vào cuối năm nay có thể đẩy giá lương thực lên cao.
|
Đông Nam Á hứng thời tiết cực đoan
| 640 | |
Chiều 14/5, Trung tâm Dự báo khí tượng Thủy văn Quốc gia vừa đưa ra bản tin dự báo hiện tượng El Nino (pha nóng). Nếu
hiện tượng El Nino
xuất hiện sẽ có thể gây những tác động tiêu cực đến thời tiết và đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân tại nhiều địa phương.
Theo đó, “El Nino” là từ được dùng để chỉ hiện tượng nhiệt độ nước biển bề mặt ở khu vực xích đạo trung tâm và phía Đông Thái Bình Dương (đặc trưng bởi khu vực Nino3.4 cao hơn so với trung bình nhiều năm (TBNN) từ 0,5 độ C trở lên, thường kéo dài 8-12 tháng, với tần suất lặp lại khoảng 3-4 năm 1 lần.
Chênh lệch nhiệt độ mặt nước biển khu vực Nino3.4 trung bình mùa 3 tháng 2-3-4/2023 đang thấp hơn TBNN là 0,2 độ C và tiếp tục tăng hơn so với mùa 03 tháng 1-2-3/2023 là 0,2 độ C.
Dự báo hiện tượng El Nino có khả năng sẽ xuất hiện vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 năm 2023 với xác suất khoảng 70-80% và có thể kéo dài sang đầu năm 2024.
Hiện tượng El Nino có thể gây ra những đợt nóng và hạn hán kéo dài. Ảnh: TL.
Nghiên cứu trước đây cho thấy sự xuất hiện của hiện tượng El Nino có thể ảnh hưởng tới điều kiện thời tiết, khí hậu ở
Việt Nam
.
Theo thống kê trung bình mỗi năm có 5-7 xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) bao gồm bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) ảnh hưởng đến nước ta, trung bình mỗi tháng có 0,58 cơn. Trong những năm El Nino trung bình mỗi tháng có 0,42 cơn, ít hơn TBNN khoảng 28%. Ngoài ra, trong điều kiện El Nino, xoáy thuận nhiệt đới thường tập trung vào giữa mùa bão (tháng 7, 8, 9).
Trong những năm El Nino số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến nước ta ít hơn bình thường. Số đợt front lạnh, đặc trưng của các đợt không khí lạnh, qua Hà Nội của các tháng trong năm chỉ bằng 70%. Thời gian kết thúc hoạt động của không khí lạnh ở Việt Nam sớm hơn bình thường.
Trong điều kiện El Nino nhiệt độ trung bình các tháng đều cao hơn bình thường, mùa đông chênh lệch rõ rệt hơn mùa hè, các khu vực phía Nam chịu ảnh hưởng nhiều hơn phía Bắc. Trong điều kiện có ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, nhất là các đợt El Nino mạnh có thể gây ra nhiều kỷ lục về nhiệt độ cao nhất tuyệt đối ở nhiều nơi./.
|
Hiện tượng El Nino có thể xuất hiện tại Việt Nam vào cuối tháng 5
| 439 | |
Một mạng lưới mương được đào từ thời Trung cổ đã cho phép nông dân ở ngôi làng Letur trên sườn đồi ở miền Nam Tây Ban Nha có thể trồng ô liu, cà chua và hành tây ở một trong những vùng khô cằn nhất châu Âu trong nhiều thế kỷ. Thế nhưng, hạn hán khốc liệt giờ đây đang lan rộng khắp lục địa, đe dọa đến cả ốc đảo cổ xưa này. Đây là ví dụ cho thấy sự khó khăn mà châu Âu đang phải đối mặt với tình trạng thời tiết ngày một khó lường trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Theo Bloomberg, hệ thống mương phức tạp đã giữ cho đất đai của ngôi làng Letur ẩm ướt và mát mẻ qua nhiều biến cố lịch sử, từ các cuộc chiến tranh, xâm lược của nước ngoài đến thiên tai. Nhưng 200 nông dân sống dựa vào nó giờ đây lần đầu tiên bắt đầu lo lắng, khi mực nước tại nhiều con đập khổng lồ của Tây Ban Nha giảm xuống mức thấp chưa từng có, và các kênh đào được xây dựng vào những năm 1970, vốn biến khu vực xung quanh thành cường quốc nông nghiệp, bắt đầu cạn kiệt. Nếu hạn hán kéo dài lâu hơn nữa, ông Luis Lopez, một nông dân trồng ô liu 43 tuổi, lo ngại “tôi cảm thấy như chúng tôi là ngôi làng Gaul cuối cùng trong truyện tranh Asterix”.
Châu Âu đang phải đối phó với hạn hán ngày càng khốc liệt.
Là nơi có sa mạc duy nhất của Liên minh châu Âu (EU), Tây Ban Nha trải qua hạn hán nghiêm trọng hơn và lâu hơn so với các nền kinh tế lớn khác của khối. Vị trí gần châu Phi khiến nước này vào thẳng đường đi của các luồng không khí nóng khi chúng di chuyển về phía Bắc từ sa mạc Sahara.
Nhưng sức nóng không dừng lại ở Tây Ban Nha, thời tiết nóng và khô hơn đang hoành hành khắp châu Âu. Dự đoán, những căng thẳng lên quan đến nguồn nước có thể sẽ diễn ra ở nhiều nơi tại lục địa già. Và bất cứ điều gì xảy ra với ngành nông nghiệp Tây Ban Nha, nguồn cung cấp thực phẩm chính cho các nước láng giềng, sẽ được cảm nhận khắp khu vực.
Bà Nathalie Hilmi, nhà kinh tế môi trường tại Trung tâm Khoa học Monaco cho biết: “Tây Ban Nha là vựa lúa mì của châu Âu, và việc thiếu nước ở đó, thiếu sản xuất nông nghiệp là vấn đề sống còn”. “Nó cũng trở thành vấn đề tài chính, bởi vì cần phải chi nhiều tiền hơn để tìm lương thực”.
Hạn hán kéo dài nhiều năm có thể tàn phá nặng nề vì các ngành như nông nghiệp không có thời gian để phục hồi, do đó tác động chồng chất hết mùa này qua mùa khác và tăng theo cấp số nhân. Theo ông Gabriel Trenzado, giám đốc của Cooperativas Agro-alimentarias de Espana, một nhóm ngành nông nghiệp, sản lượng dầu ô liu của Tây Ban Nha – chiếm 45% nguồn cung của thế giới – có thể sẽ giảm hơn một nửa trong mùa này, trong khi các loại ngũ cốc như lúa mì và lúa mạch được dự đoán sẽ giảm tới 60%.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa nghiêm trọng ở các khu vực khác của EU, nơi dự báo chính thức là tổng thu hoạch ngũ cốc sẽ phục hồi khoảng 7% so với vụ trước. Lượng mưa ở Pháp, nhà sản xuất ngũ cốc hàng đầu của khối, đã được cải thiện kể từ đợt khô hạn mùa Đông và xếp hạng cây trồng cho vụ thu hoạch lúa mì năm 2023 đang ở mức cao nhất vào thời điểm này trong hơn một thập kỷ.
Ở một số khu vực thậm chí còn có quá nhiều mưa, khiến việc trồng lúa mạch và củ cải đường ở một số vùng của Đức bị trì hoãn do tháng 3 ẩm ướt nhất kể từ năm 2001.
Nông dân trên toàn châu Âu không chỉ phải đối mặt với hạn hán mà còn phải đối mặt với thời tiết nói chung khó dự đoán hơn. Năm ngoái, Tây Ban Nha trải qua một đợt nắng nóng tương tự như đợt nắng nóng đã “thiêu rụi” đất nước vào tháng 4 này, cho đến khi bão Cyril khiến nhiệt độ giảm bất thường, dẫn đến thiệt hại hàng triệu euro cho các nhà sản xuất trái cây và ngũ cốc.
Sự chuẩn bị của châu Âu cho tương lai khô hạn hơn đang phải vật lộn để bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của khí hậu. Theo Tổ chức Khí tượng thế giới, lục địa này đã nóng lên nhanh gần gấp đôi so với phần còn lại của thế giới trong ba thập kỷ qua và tác động kinh tế là rất lớn.
Mực nước sông thấp kỷ lục gây ra thiệt hại hàng tỷ USD do việc vận chuyển hàng hóa bị tắc nghẽn. Nó cũng ảnh hưởng đến việc sản xuất điện từ các nhà máy thủy điện và hạt nhân, làm tăng thêm tình trạng thiếu năng lượng, đồng thời góp phần gây ra cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt tồi tệ nhất mà châu Âu phải đối mặt trong nhiều thế hệ. Mất mùa do hạn hán có thể khiến giá lương thực tăng cao hơn nữa.
Theo Dịch vụ Biến đổi khí hậu Copernicus, lượng nước chảy vào các hồ và biển ở châu Âu giảm dần cũng gây ra rủi ro môi trường do làm tăng nhiệt độ nước và gây hại cho các hệ sinh thái. Và sau đó là khả năng xảy ra cháy rừng cao hơn, thiêu rụi các cảnh quan châu Âu có diện tích lớn gấp ba lần diện tích của Luxembourg vào năm ngoái.
Đây là năm thứ hai liên tiếp thời tiết cực kỳ khô và nóng ở Tây Nam châu Âu, nguyên nhân bắt nguồn từ đợt nắng nóng trước mùa Hè bắt đầu sớm hơn ba tháng so với bình thường.
Tây Ban Nha vừa trải qua tháng 4 nóng nhất và khô nhất được ghi nhận. Ở những nơi khác, tuyết tích tụ trên dãy Alps – nguồn cung cấp nước chính cho Pháp và Italia – đang ở mức thấp nhất trong hơn thập kỷ, làm trầm trọng thêm nhiều năm có lượng mưa và tuyết rơi dưới mức trung bình. Xa hơn về phía Bắc, Đức và Vương quốc Anh cũng phải trải qua những cơn mưa dị thường nghiêm trọng.
Ông Andrea Toreti, nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm nghiên cứu chung của Ủy ban châu Âu, cơ quan khoa học độc lập tư vấn cho các quan chức của khối, cho biết những thay đổi về thời tiết phù hợp với các dự báo khoa học về lượng mưa ít hơn và nhiệt độ cao hơn ở châu Âu trong bối cảnh trái đất ấm lên.
Nhưng mức độ hạn hán này được cho là sẽ chỉ xảy ra thường xuyên vào năm 2043. “Nếu không có gì được thực hiện, chúng tôi cho rằng tình trạng này có thể xảy ra gần như hàng năm,” ông nói.
Ở Italia, nơi thiếu nước đang bóp nghẹt khu vực nông nghiệp năng suất cao nhất của đất nước, cuộc khủng hoảng đã trở thành mục tiêu ưu tiên quản lý của một cơ quan đặc biệt do Phó Thủ tướng Matteo Salvini đứng đầu. Pháp, quốc gia năm nay phải hứng chịu một mùa đông không mưa dài nhất được ghi nhận, đặt ra mục tiêu mới là cắt giảm 10% lượng nước tiêu thụ vào cuối thập kỷ này.
Chính phủ
Tây Ban Nha
thì nỗ lực tìm giải pháp. Mặc dù chi hàng tỷ euro trong vài thập kỷ qua để cải thiện hệ thống quản lý nước, nhưng lượng mưa thấp hơn 19% so với mức trung bình lịch sử kể từ tháng 10 năm ngoái đã khiến các hồ chứa của Tây Ban Nha chỉ còn khoảng một nửa công suất. Các biện pháp được lên kế hoạch để giải quyết tình trạng thiếu nước sẽ tiêu tốn hơn 22 tỷ euro.
|
Châu Âu oằn mình trước khô hạn
| 1,388 | |
Chúng ta tới đây bằng cách nào nhỉ? Chúng ta đang đi đâu vậy? Và vũ trụ sẽ biến mất trong bao lâu?
Những câu hỏi này lâu đời như chính loài người, và nếu tồn tại nền văn minh khác trong vũ trụ, thì có khả năng họ cũng đặt ra câu hỏi như vậy.
Đó cũng là một số câu hỏi cơ bản mà các nhà khoa học đang cố gắng trả lời trong nghiên cứu về vũ trụ, được gọi là Vũ trụ học. Một câu hỏi hóc búa về vũ trụ học là vũ trụ đang giãn nở nhanh như thế nào, được đo bằng một con số gọi là hằng số Hubble. Và có khá nhiều tranh cãi xung quanh nó.
Trong hai bài viết của Giáo sư Patrick Kelly tại Đại học Minnesota trên Tạp chí Khoa học và Vật lý thiên văn vừa phát hành, nhóm của ông đã sử dụng thành công một kỹ thuật mới – liên quan đến ánh sáng từ một ngôi sao đang phát nổ đến Trái đất qua nhiều tuyến đường quanh co xuyên qua Vũ trụ đang giãn nở – để đo hằng số Hubble.
Chúng ta từ những năm 1920 đã biết rằng vũ trụ đang giãn nở. Vào khoảng năm 1908, nhà thiên văn học người Mỹ Henrietta Leavitt đã tìm ra cách đo độ sáng nội tại của một loại sao gọi là biến quang Cepheid – không phải độ sáng của chúng khi ta nhìn từ Trái đất, vì điều này phụ thuộc vào khoảng cách và các yếu tố khác, mà là độ sáng thực sự của chúng. Cepheids có độ sáng hơn và mờ hơn trong một chu kỳ đều đặn, và Leavitt cho thấy độ sáng nội tại có liên quan đến độ dài của chu kỳ này.
Định luật Leavitt cho phép các nhà khoa học sử dụng Cepheids làm “ngọn nến tiêu chuẩn”: từ các vật thể có độ sáng nội tại đã biết, có thể tính được khoảng cách của chúng.
Điều này hoạt động ra sao? Hãy tưởng tượng bây giờ là ban đêm, và bạn đang đứng trên một con đường dài tối tăm chỉ có một vài cột đèn chiếu sáng bên đường. Bây giờ hãy tưởng tượng mọi cột đèn đều có cùng một loại bóng đèn, với cùng một công suất. Bạn sẽ nhận thấy những cái ở xa xuất hiện mờ hơn những cái ở gần.
Chúng ta biết rằng ánh sáng mờ dần tỷ lệ thuận với khoảng cách của nguồn sáng. Bây giờ, nếu bạn có thể đo độ sáng của từng bóng đèn đối với bạn và nếu bạn đã biết độ sáng thực của nó, thì bạn có thể tính được khoảng cách của mình tới mỗi cột đèn.
Năm 1929, một nhà thiên văn học khác của Mỹ, Edwin Hubble, đã có thể tìm thấy một số sao Cepheid này trong các thiên hà khác và đo khoảng cách của chúng – và từ những khoảng cách đó cũng như các phép đo khác, ông có thể xác định rằng vũ trụ đang giãn nở.
Phương pháp nến tiêu chuẩn này là một phương pháp tin cậy, cho phép chúng ta đo lường vũ trụ bao la. Chúng ta luôn tìm kiếm các “loại nến” khác nhau có thể đo lường tốt hơn và nhìn thấy ở khoảng cách xa hơn nhiều.
Một số nỗ lực gần đây để đo vũ trụ xa hơn từ Trái đất, như dự án SH0ES do người đoạt giải Nobel Adam Riess đứng đầu, đã sử dụng Cepheids cùng với một loại sao phát nổ được gọi là siêu tân tinh Loại Ia, cũng có thể được sử dụng như một nến tiêu chuẩn.
Ngoài ra còn có các phương pháp khác để đo hằng số Hubble, chẳng hạn như phương pháp sử dụng nền vi sóng vũ trụ – ánh sáng tàn dư hoặc bức xạ bắt đầu truyền qua Vũ trụ ngay sau Vụ nổ lớn.
Vấn đề là hai phép đo này, một phép đo gần sử dụng siêu tân tinh và Cepheids, và một phép đo xa hơn nhiều sử dụng nền vi sóng, có kết quả khác nhau gần 10%. Các nhà thiên văn học gọi sự khác biệt này là sức căng Hubble và đang tìm kiếm các kỹ thuật đo lường mới để giải quyết nó.
Gần đây, các nhà khoa học đã sử dụng thành công một kỹ thuật mới để đo tốc độ giãn nở này của Vũ trụ. Công trình dựa trên siêu tân tinh có tên Supernova Refsdal.
Vào năm 2014, họ đã phát hiện ra nhiều hình ảnh của cùng một siêu tân tinh – lần đầu tiên người ta quan sát thấy một siêu tân tinh “thấu kính” như vậy. Thay vì Kính viễn vọng Không gian Hubble chỉ nhìn thấy một siêu tân tinh, nhóm nghiên cứu đã thấy 5!
Làm thế nào để điều này xảy ra? Ánh sáng từ siêu tân tinh phát ra mọi hướng, nhưng nó truyền qua không gian bị bẻ cong bởi trường hấp dẫn khổng lồ từ một cụm thiên hà khổng lồ, làm cong hành trình một số tia ánh sáng trên đường đến Trái đất, khiến ánh sáng phải vòng vèo theo nhiều đường khác nhau trước khi đến với mắt chúng ta. Mỗi lần xuất hiện của siêu tân tinh, hình ảnh của nó đã đến với chúng ta theo những con đường khác nhau trong Vũ trụ.
Hãy tưởng tượng ba chuyến tàu rời cùng một nhà ga cùng một lúc. Tuy nhiên, một chuyến đi thẳng đến nhà ga tiếp theo, chuyến kia thực hiện một chuyến đi rộng qua những ngọn núi và một chuyến khác đi qua bờ biển. Tất cả chúng đều khởi hành và hướng đến cùng một ga, nhưng hành trình của chúng khác nhau. Do vậy, dù rời đi cùng một lúc, chúng lại đến ga cuối vào những thời điểm khác nhau.
Vì vậy, hình ảnh qua thấu kính hiển thị cùng một siêu tân tinh, đã phát nổ tại một thời điểm nhất định, nhưng mỗi hình ảnh đã đi một con đường khác nhau. Bằng cách quan sát sự xuất hiện của siêu tân tinh tại
Trái đất
– một trong số đó xảy ra vào năm 2015, sau khi ngôi sao phát nổ đã được phát hiện – nhóm nghiên cứu có thể đo thời gian di chuyển của chúng và do đó xác định được vũ trụ đã giãn nở bao nhiêu trong khi hình ảnh siêu tân tinh đang trong quá trình di chuyển.
|
Những phương pháp mới để đo độ giãn nở của vũ trụ: Thấu kính thay ngọn nến
| 1,104 | |
Đến năm 2028, Việt Nam sẽ vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức.
Việt Nam
đặt mục tiêu thí điểm sàn giao dịch carbon vào năm 2025 và vận hành chính thức vào năm 2028. Việc hình thành thị trường carbon giúp nước ta nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát thải carbon một cách hiệu quả, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá carbon quốc tế.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 nêu rõ, tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí CO2 hoặc một tấn khí CO2 tương đương. Để hướng dẫn cụ thể hơn về việc giảm phát thải khí nhà kính, ngày 7/1/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon.
Trên cơ sở đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển thị trường carbon tại Việt Nam”. Theo đó, đến năm 2025, Việt Nam sẽ bắt đầu thí điểm và đến năm 2028 sẽ vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon.
Theo dự thảo Đề án, đến hết năm 2027, nước ta tập trung xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025; triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon.
Bên cạnh đó Đề án cũng đề ra mục tiêu, đến năm 2028, nước ta sẽ vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức; quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường khu vực và thế giới.
Việc vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon góp phần cắt giảm lượng khí nhà kính theo hướng như cam kết khí hậu trước đây, đặc biệt là mục tiêu giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 theo thỏa thuận về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (
COP26
).
Nhìn nhận về thị trường carbon hiện nay, ông Nguyễn Thành Công – Phó trưởng Phòng Kinh tế và Thông tin Biến đổi khí hậu – Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết
,
thị trường carbon có 2 loại hàng hóa giao dịch.
Loại thứ nhất là hạn ngạch phát thải khí nhà kính. Chính phủ sẽ phân bổ hạn ngạch cho doanh nghiệp (DN) có quyền phát thải trong hạn ngạch mình sở hữu. Nếu phát thải thêm sẽ phải mua hạn ngạch từ các DN khác, vì thế giá hạn ngạch carbon tại thị trường như Liên minh châu Âu, Mỹ thường rất cao.
Loại thứ hai là tín chỉ carbon mang tính tự nguyện. Khi DN đầu tư vào công nghệ giảm phát thải, ví dụ như trồng rừng sẽ được các cơ quan quản lý phê duyệt, thẩm định lượng giảm phát thải và cấp tín chỉ. Tín chỉ đó vì mang tính tự nguyện nên mức giá dao động rất rẻ (trong ngưỡng 1 USD/tấn), nhưng cũng có thể có giá rất cao (ngưỡng 15 USD/tấn), tùy vào loại hình công nghệ và mức đầu tư.
Tại Việt Nam, hiện nay mới có 2 dự án bán tín chỉ carbon ra quốc tế là dự án ở Bắc Trung bộ giá khoảng 6 USD/tín chỉ; dự án ở Quảng Nam giá 10 USD/tín chỉ. Tuy nhiên, mức giá của dự án sẽ còn phụ thuộc vào các lợi ích khác cho cộng đồng, giá bán sẽ cao hơn khi những DN tự nguyện mua.
Khẳng định ngành Lâm nghiệp Việt Nam đang nắm giữ một lượng lớn tín chỉ carbon, ông Phạm Hồng Lượng – Chánh Văn phòng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, Việt Nam có tỷ lệ che phủ rừng khá cao so với thế giới, khoảng hơn 42%, trong khi trung bình thế giới khoảng 31%.
Với tiềm năng đó, mới đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các bộ, ngành, dưới sự hỗ trợ của tổ chức quốc tế như GIZ tham mưu trình Chính phủ về Luật Lâm nghiệp. Đây là luật đầu tiên đưa nội dung dịch vụ hấp thụ carbon vào khuôn khổ pháp lý cao nhất. Sau đó là các nghị định quy định chi tiết về dịch vụ hấp thụ carbon, để thúc đẩy thị trường giao dịch, trao đổi mua bán tín chỉ carbon và kết quả giảm phát thải.
Ở góc nhìn chuyên gia, ông Lê Xuân Nghĩa – nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia cho hay, tín chỉ carbon ngày càng khan hiếm vì quốc gia có rừng trên thế giới không nhiều.
Việt Nam có nhiều tiềm năng vì có 3/4 là đất rừng, tuy nhiên từ trước xảy ra tình trạng chặt phá rừng để trồng cây công nghiệp, do đó tỷ lệ rừng nguyên sinh còn ít, chỉ còn rừng trồng. Nếu chặt rừng làm cây công nghiệp chỉ đạt doanh thu 75 triệu/ha, nhưng nếu làm rừng để hấp thụ carbon với mức trung bình 150 tấn carbon/ha, tương đương khoảng 6.000 USD/ha/năm.
Theo thống kê của Công ước khung Liên Hợp quốc về Biến đổi Khí hậu, thị trường Việt Nam có khoảng gần 40 triệu tín chỉ carbon. Tuy nhiên, với thông tin tiếp cận về thị trường còn hạn chế, nhiều lĩnh vực sản xuất sử dụng công nghệ lạc hậu, khả năng chuyển đổi xanh còn chậm.
Trên thực tế, số tín chỉ carbon của Việt Nam cao hơn 40 triệu, bao gồm các loại hình như rừng, biển, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng… đều tạo ra tín chỉ carbon. Hiện nay, tình trạng phát thải carbon tại Việt Nam cao hơn nhiều nước trên thế giới, nên để giảm phát thải, nhu cầu hấp thụ carbon ở Việt Nam cũng rất cao.
Để giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, ông Nguyễn Tuấn Quang – Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho hay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-BTNMT quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và kiểm kê khí nhà kính lĩnh vực quản lý chất thải.
Theo đó, các DN thuộc lĩnh vực chất thải phải thực hiện trách nhiệm cung cấp số liệu thông tin liên quan đến phục vụ kiểm kê khí nhà kính; tổ chức thực hiện kiểm kê khí nhà kính và xây dựng báo cáo kiểm kê định kỳ 2 năm 1 lần từ năm 2024 trở đi. Đồng thời, các DN phải xây dựng, thực hiện các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính giai đoạn từ 2023-2025 phù hợp điều kiện sản xuất, kinh doanh của cơ sở…
Như vậy, việc hình thành thị trường carbon trong nước giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong giảm phát thải carbon một cách hiệu quả, cũng như tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.
|
Triển vọng phát triển thị trường carbon ở Việt Nam
| 1,300 | |
Ngày 21/5 tới, buổi trà chiều và thảo luận thơ sẽ được tổ chức tại Viện Goethe Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhà thơ Ba Lan Wislawa Szymborska.
Sự kiện là không gian dành cho những người yêu thơ với trà, hoa và những bài thơ của nhà thơ đoạt giải Nobel, do Đại sứ quán Ba Lan tổ chức, trong khuôn khổ Những ngày Văn học châu Âu 2023.
Tại đây, khách tham dự sẽ được đọc, cùng thảo luận và tìm hiểu về thơ cũng như phong cách thơ của bà dưới sự dẫn dắt của nhà văn, dịch giả
Lê Bá Thự
– một người yêu thơ Szymborska, người đã từng dịch nhiều thơ của bà và cũng từng có dịp gặp mặt bà trực tiếp.
Đồng thời, dịch giả Nguyễn Thái Linh – người đã dịch nhiều thơ của Szymborska, cũng sẽ chia sẻ những cảm nhận của mình về Szymborska.
Wislawa Szymborska là một trong những nhà thơ, nhà tiểu luận và dịch giả tài năng nhất của Ba Lan. Bà đã giành giải thưởng Nobel Văn học năm 2006. Bạn đọc có thể thấy ở bà một hồn thơ giản dị mà sâu sắc, đầy ẩn dụ và hóm hỉnh.
Năm 2023 đã được Quốc hội Ba Lan chọn là Năm của Wislawa Szymborska, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bà. Hiện tại, thơ của đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng.
Vào năm 2011, Szymborska đã được nhận bằng vinh dự cấp nhà nước cao nhất của
Ba Lan
, Huân chương Đại bàng trắng. Bà qua đời vào năm 2012.
|
Nhà thơ Ba Lan Wislawa Szymborska: Một hồn thơ giản dị mà sâu sắc
| 267 | |
Bộ ba cuốn sách Dân du mục của nhà văn Ilyas Yesenberlin. Ảnh: NXB PNVN.
Bộ tiểu thuyết – biên niên sử ‘Dân du mục’ là bộ sách kinh điển của Kazakhstan, kể câu chuyện lịch sử đã định hình nên đất nước này.
Chia sẻ tại buổi giao lưu ra mắt sách tại Phố sách Hà Nội ngày 14/5, ông Yerlan Baizhanov, Đại sứ Kazakhstan tại
Việt Nam
, cho biết
Dân du mục
là bộ sách quan trọng của đất nước ông. Ở Kazakhstan, ai chưa đọc bộ truyện của nhà văn Ilyas Yesenberlin bị coi là chưa đủ hiểu về đất nước mình.
Chính Tổng thống Kazakhstan Kassym-Zhomart Tokayev cũng từng nói: “Không thể nhận thức được lịch sử Kazakhstan nếu không nghiên cứu sâu về các tác phẩm của Ilyas Yesenberlin… Các tác phẩm của Ilyas Yesenberlin vốn ngợi ca tinh thần ái quốc của nhân dân Kazakh đã thể hiện thái độ tôn kính đối với lịch sử của miền đất thiêng liêng của chúng ta”.
Dân du mục
là bộ sách đầu tiên mang tính căn bản về lịch sử dân tộc Kazakh và sự hình thành quốc gia Kazakhstan. Sách đã đoạt Giải thưởng Nhà nước
Kazakhstan
. Ba thập kỷ kể từ khi ra mắt, bộ tiểu thuyết đã được tái bản 50 lần, in đến 3 triệu bản, được dịch ra 30 thứ tiếng.
Với
Dân du mục
, Yesenberlin đã góp phần lấp đầy những khoảng trống trong văn học Kazakhstan về đề tài lịch sử. Bộ sách hé lộ cuộc sống của những người du mục ở Đại Thảo nguyên thời tiền Mông Cổ, về thời Thành Cát Tư Hãn xâm chiếm miền Trung Á, về Hãn Quốc Kim trướng, về sự hình thành Hãn quốc Kazakh và cuộc đấu tranh lâu dài của người Kazakh với Dzungaria, về thời kỳ các thảo nguyên Kazakhstan bị sáp nhập vào Nga…
Cụ thể, trong tập 1 –
Thanh kiếm yêu thuật
, Yesenberlin mô tả thời gian hình thành của hãn quốc Kazakh vào thế kỷ XV-XVI. Khi ấy, các vị hãn Abulkhair, Dzhanybek và Kerey bắt đầu tranh giành ngai vàng.
Trong tập 2 –
Tuyệt vọng
, cuộc đấu tranh của người Kazakh chống lại các đạo quân xâm lược từ các nước khác trong thế kỷ XVII-XVIII được tác giả thuật lại đầy hào hùng. Đồng thời, những thăng trầm trong quá trình người Kazakh chuyển biến thành công dân của Đế quốc Nga cũng được tường thuật chi tiết.
Đến tập 3 –
Hãn Kene
, Yesenberlin kể câu chuyện về Kenesary Kasymuly – vị hãn cuối cùng của người Kazakh. Ông lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc chống lại việc chiếm các vùng đất Kazakh và các chính sách chia rẽ của nước ngoài trong thế kỷ XVIII và XIX.
Ông Yerlan Baizhanov, Đại sứ Kazakhstan chia sẻ về bộ sách. Ảnh: MH.
Theo bà Khúc Thị Hoa Phượng, Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam,
Dân du mục
là bộ tiểu thuyết đồ sộ, giàu tính văn chương, giúp cho không chỉ người dân Kazakhstan hiểu lịch sử của mình mà còn giúp thế giới hiểu và ngưỡng mộ lịch sử hào hùng và văn hóa độc đáo của đất nước này.
Bộ sách này được tác giả nghiên cứu tư liệu lịch sử kỹ càng trong hơn 2 thập kỷ mới có thể ra mắt độc giả. Sở dĩ ông phải chuẩn bị lâu như vậy là vì tư liệu lịch sử đòi hỏi sự kiên trì và tính chính xác cao. Bà Khúc Thị Hoa Phượng nhận định công trình của Ilyas Yesenberlin là một kho tư liệu đồ sộ về văn hóa thảo nguyên vùng Trung Á, một khu vực chưa có nhiều tài liệu giới thiệu tại Việt Nam.
Bà chia sẻ nhiều độc giả Việt Nam đã phản hồi với nhà xuất bản rằng họ thích đọc các tác phẩm về lịch sử, văn hóa từ những vùng đất xa lạ, chưa được giới thiệu nhiều ở Việt Nam. Theo giám đốc Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, qua bộ sách
Dân du mục
, độc giả Việt sẽ hiểu và trân trọng hơn đất nước này, đồng thời suy ngẫm bài học lịch sử về con đường đến với tự do, độc lập, đến với văn minh.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cho rằng những bộ sách như
Dân du mục
sẽ giúp độc giả Việt Nam biết thêm về các nước trên thế giới và tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị của người dân Việt Nam và người dân các nước khác.
Đây cũng là điều ngài đại sứ Yerlan Baizhanov mong muốn khi giới thiệu bộ sách này với đơn vị xuất bản. Ông cho biết sau khi đọc tác phẩm, độc giả chắc chắn sẽ có đủ kiến thức về lịch sử hình thành đất nước Kazakhstan. Ông mong rằng sau khi đã có cái nhìn toàn diện về dân tộc này, bạn đọc sẽ phát triển tình cảm cho Kazakhstan, từ đó, gắn kết tình bạn giữa Việt Nam và Kazakhstan.
Ông chia sẻ: “Mục tiêu lớn của chúng tôi là thúc đẩy quá trình truyền bá thông tin, văn hóa, lịch sử giữa hai nước với nhau”.
|
Khúc tráng ca thảo nguyên từ Trung Á
| 859 | |
Nhân kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 – 19-5-2023) và 80 năm ngày Bác Hồ viết tác phẩm
Ngục trung nhật ký
(1943- 2023), ngày 18-5, tại
Hà Nội
, Trung tâm Sách quốc gia, NXB Chính trị quốc gia Sự thật và sàn sách trực tuyến quốc gia book365 tổ chức tọa đàm ra mắt sách
Nhật ký trong tù
với sự tham gia của 3 vị diễn giả: nhà sử học Dương Trung Quốc; nhà nghiên cứu Hán học, PGS-TS Lê Văn Toan và nhà văn Quách Giao, con trai của nhà thơ Quách Tấn.
Tham dự tọa đàm, bạn đọc sẽ được nghe những chia sẻ thú vị, câu chuyện xúc động từ các vị diễn giả về ngọn nguồn, nguyên do thi sĩ Quách Tấn dịch
Nhật ký trong tù
, về hành trình với biết bao “duyên kỳ ngộ”, để rồi với sự ủng hộ của gia đình nhà thơ, sự giúp đỡ của nhà sử học
Dương Trung Quốc
– người được nhà thơ Quách Tấn gặp gỡ, cảm mến, giới thiệu bản dịch của mình và ông nhận thấy bản dịch này “chữ thật đẹp, dịch thật hay và lại muốn giới thiệu cho mọi người cùng đọc”, tác phẩm
Nhật ký trong tù
một lần nữa được đến với bạn đọc qua bản dịch mới của thi sĩ tài hoa nơi “Xứ trầm biển yến”.
Tác phẩm
Nhật ký trong tù
là tập thơ gồm 133 bài, viết bằng chữ Hán, ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt. Tháng 8-1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên Hồ Chí Minh với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam sang Trung Quốc công tác. Khi đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, và từ đây bắt đầu hành trình 13 tháng đầy gian nan, cực khổ trải qua 18 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong những tháng ngày đó (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943), Người đã sáng tác tập thơ
Ngục trung nhật ký
(
Nhật ký trong tù)
.
|
Tọa đàm ra mắt sách “Nhật ký trong tù”
| 352 | |
Năm nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 133 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại (19/5/1890 – 19/5/2023), là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức Đảng thấm nhuần tư tưởng, tự soi rọi lại mình, tiếp tục thực hiện nhằm tăng thêm ý chí, quyết tâm và sức mạnh đưa đất nước phát triển sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới như Bác hằng mong muốn. Cuộc đời 79 mùa xuân của Người là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh rạng ngời của tư tưởng đạo đức, trí tuệ, khí phách, lương tri của dân tộc và thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trong hang đá ở Việt Bắc (1951). (Ảnh tư liệu).
Chủ tịch Hồ Chí Minh
là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác xây dựng Đảng, để Đảng ta thật sự là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh. Trong những năm qua, thực hiện Di chúc của Bác, Đảng ta đã triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Theo đó, Đảng ta đã triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII và Kết luận số 21-KL của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới. Đây là việc làm vừa cơ bản, cấp bách vừa thường xuyên, lâu dài, kết hợp chặt chẽ giữa “
xây
” và “
chống
”, lấy “
xây
” làm nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, lấy “
chống
” làm nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, đột phá trên nguyên tắc giữ vững sự ổn định chính trị để phát triển đất nước; vừa đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vừa tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, bảo đảm quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; có chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm; ngăn chặn, đấu tranh, xử lý triệt để, đúng pháp luật các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, tư tưởng cục bộ, bè phái, chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy dự án, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng… Vừa tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng, vừa phát huy cao độ vai trò giám sát, phản biện của các tổ chức chính trị-xã hội, của nhân dân ngay từ khi xây dựng và trong quá trình thực thi chính sách, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa khi mới có dấu hiệu vi phạm. Trước mắt, cần tập trung kiểm tra, xử lý dứt điểm những vụ tham nhũng phức tạp, các vụ việc vi phạm trong thực thi quyền lực, nhất là các vi phạm trong công tác cán bộ đang gây bức xúc trong xã hội, bất bình trong nhân dân; đặc biệt, cần công khai các vụ việc phức tạp đã xử lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông. Ảnh TTXVN.
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời, mẫu mực về đạo đức cách mạng. Do vậy, học tập Người, toàn Đảng phải thường xuyên đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực tiễn xây dựng chính đảng Mác-xít đã chứng minh, đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước nếu không thực hiện tốt đạo đức cách mạng, không làm tốt nhiệm vụ chống tha hóa, hủ bại, suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống thì càng ngày sẽ càng trở nên khó khăn, có nhiều thách thức hơn. Muốn kiên định, kiên quyết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh thì mọi cán bộ, đảng viên càng cần phải nêu gương, đi đầu trong việc chống tha hóa, biến chất, thực hiện liêm, chính trong Đảng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Nếu Đảng ta không thực sự vững vàng về chính trị tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức lối sống; không chặt chẽ về tổ chức bộ máy; không được nhân dân đồng tình ủng hộ thì Đảng ta không thể đứng vững và đủ sức đưa đất nước đi lên”. Do vậy, cùng với việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản về trách nhiệm nêu gương, như: Quy định số 101-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XI, Quy định số 55-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII, đặc biệt tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII), Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 08-QĐ/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Việc thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên là tỏ rõ sự biết ơn Bác, tự hào và nguyện làm theo Bác. Nêu gương về lòng trung thành với lý tưởng cách mạng, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Nêu gương về đạo đức, lối sống trong sáng, về bản lĩnh, trách nhiệm, niềm tin. Nêu gương phải thực chất, tránh hình thức. Trên tinh thần đó, phải tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” có hiệu quả.
Thấm nhuần những lời dạy của Bác, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mục tiêu của Đảng ta là xây dựng nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là một dấu mốc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở ra những điều kiện mới, thuận lợi hơn cho việc tiếp tục xây dựng, phát triển đất nước lên tầm cao mới, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường thế và lực của đất nước trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Để đạt được mục tiêu ấy, cần phải nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng các quy luật phát triển, huy động được các nguồn lực của đất nước mà trước hết, quan trọng nhất là nguồn lực con người, phải có một lộ trình kế hoạch để thực hiện từng bước có hiệu quả cao nhất.
Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm của Bác “Dân là gốc”, Đảng ta xác định nhân dân là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, đối tượng của công cuộc đổi mới, đồng thời là động lực quyết định của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước của chúng ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và nhân dân là người làm chủ. Do vậy, mọi thành quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước đều vì hạnh phúc của nhân dân, vì mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Mọi nhiệm vụ cách mạng đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là yêu cầu xuất phát từ bản chất tốt đẹp và ưu việt của chế độ ta.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Thực hiện thắng lợi phương châm: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và xây dựng nền văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”. Đồng thời, Đảng ta cũng xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm, quan trọng nhất. Gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với kinh tế tri thức, kinh tế số, chuyển đổi số của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thực hiện tư tưởng của Bác phải tiếp tục tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện cán bộ, đáp ứng những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng nhằm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đạt hiệu quả; đảm bảo xây dựng đội ngũ kế cận vừa “
hồng
” vừa “
chuyên
”, hoàn thành tốt trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, cần phải chú trọng nguồn lực con người – coi con người là yếu tố cơ bản cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững; tập trung đổi mới, căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ trên cơ sở gắn với cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đồng thời, thấm nhuần lời dạy của Người, các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng từ Trung ương đến địa phương cần tập trung quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ, về đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho cán bộ, dảng viên, nhất là thế hệ trẻ… Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015-2030”. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – Đoàn Thanh niên – xã hội trong đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ toàn diện về mọi mặt; trong đó chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng giao việc, tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm, phấn đấu và trưởng thành; xây dựng người cán bộ trẻ, đảm bảo quy hoạch cho trước mắt và lâu dài như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Phải khéo léo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ”, “không nên coi thường cán bộ trẻ”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN.
Tiếp tục thực hiện tư tưởng của Người, Đảng ta không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tư tưởng chỉ đạo của Bác về “vấn đề đoàn kết quốc tế” mở ra khả năng rộng lớn để vận dụng, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối ngoại mà các Đại hội Đảng và Đại hội XIII của Đảng đề ra. Vì vậy, bước vào thời kỳ mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của hoạt động đối ngoại là “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại… Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”
(1)
. Thực hiện Lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của đất nước, đưa quan hệ đã được xác lập vào thực chất hiệu quả của sự hợp tác cùng có lợi. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là Liên hợp quốc, ASEAN và APEC. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh như tham gia Hội nghị cấp cao An ninh châu Á – còn gọi là Đối thoại Shangri-la tại Singapore hằng năm… Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại, cả về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Không ngừng nâng cao chất lượng tham mưu về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại để quảng bá những thành tựu, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra bên ngoài và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới./.
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
Nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 161, 162.
|
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam
| 2,366 | |
Không phải ngẫu nhiên trong thơ ca hiện đại Việt Nam, trong đó có thơ ca cách mạng và kháng chiến, thơ Hoài Vũ được các nhạc sĩ chọn phổ nhạc khá nhiều.
1.
Theo công bố trong tuyển thơ
Thì thầm với dòng sông
, (Nxb. Hội Nhà văn, 2023) phần thơ phổ nhạc có 34 bài, mở đầu là nhạc phẩm
Vàm Cỏ Đông
do nhạc sĩ Trương Quang Lục phổ nhạc và khép lại là
Sông Bé, chiều nay
do nhạc sĩ Kiều Tấn phổ nhạc, trong đó, có những thi phẩm sau khi phổ nhạc đã trở thành những bản tình ca nổi tiếng làm đắm say biết bao người và đi vào tâm thức của những người yêu thơ ca, âm nhạc bao thế hệ… Điều nầy có thể lý giải từ sự đồng cảm giữa thi sĩ và nhạc sĩ, khi họ tìm thấy ở nhau những “tiếng nói tri âm” trong cảm nhận về cuộc sống và con người. Nhưng theo tôi, “tiếng nói tri âm” đó còn bắt nguồn từ một nỗi niềm khác, đó là sự hợp hôn diệu kỳ giữa khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái trong thơ Hoài Vũ, điều mà không dễ tìm thấy trong thơ kháng chiến nên đã chạm đến trái tim của các nhạc sĩ và họ đã “tìm đến” thơ anh để trải lòng mình với cuộc đời, với con người…
2.
Là nhà thơ sống, gắn bó với vùng đất Nam Bộ suốt những năm kháng chiến cũng như trong hòa bình, Hoài Vũ không chỉ hiểu, yêu quí mảnh đất nầy mà còn dành cả tuổi thanh xuân của mình chiến đấu để gìn giữ với tình yêu và tinh thần kiên trung của người chiến sĩ – thi sĩ như anh đã xác quyết: “
Vàm Cỏ Đông đây, ta quyết giữ/ Từng mái nhà nép dưới rặng dừa/ Từng thửa ruộng ngời đen màu mỡ/ Từng mối tình hò hẹn sớm trưa…
” (Vàm Cỏ Đông). Như vậy, có thể nói, khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái đã trở thành một đặc điểm
riêng có
trong thơ Hoài Vũ và đây là một trong những cảm hứng chủ đạo chi phối hành trình sáng tạo thơ của anh, hình thành một dấu ấn thi pháp trong phong cách thơ Hoài Vũ: chân mộc, giản dị, hồn nhiên, thành thực, mạnh mẽ nhưng không kém phần lãng mạn và da diết mà khi đọc lên lòng ta không khỏi xốn xang: “
Ôi bát ngát chân trời miền Hạ/ Tím tình yêu tím cả ước mong/ Gió nhớ thương ai mà lay bờ lá/ Để bìm bịp kêu con nước lớn ròng
” (Anh ở đầu sông, em cuối sông). Trong những năm kháng chiến gian khổ, mất mát, hy sinh mà Hoài Vũ lại viết được những câu thơ đẹp và lãng mạn đến thế… Có thể nói, thơ Hoài Vũ là thơ của “một đời” chứ không phải thơ của “một thời”!?
Nói thơ Hoài Vũ là sự hợp hôn diệu kỳ giữa khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái. Cho nên trong thơ ông, khi nào nói đến tình yêu hoặc có “dấu hiệu” tình yêu, tất phải có sự hiện hữu của tự nhiên với những hình ảnh tiêu biểu của văn minh sông nước, văn minh miệt vườn, những biểu tượng văn hóa của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đó là hình ảnh
dòng nước, ruộng lúa, bờ ao, tôm cá, chiếc lá, bóng dừa, hương tràm
… luôn đong đầy trong những bài thơ như minh chứng cho sự gắn kết giữa con người với tự nhiên mà khi đọc lên ta có thể cảm nhận được hương vị của cỏ cây, hoa trái kết tinh trong thân thể mỗi con người, tạo nên một hương thơm đặc biệt đến ngỡ ngàng: “
Em gởi gì trong gió, trong mây/ Để sáng nay lên Vàm Cỏ Tây/ Hoa Tràm e ấp trong vòm lá/ Mà khắp trời mây hương tỏa bay!
” (Đi trong hương tràm). Vì thế, khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái trước tự nhiên đã trở thành một sự gắn kết của yêu đương, tạo nên sức sống nhiệm màu cho tình yêu lên ngôi…
Song, thiên nhiên trong thơ Hoài Vũ không chỉ có ý nghĩa gắn kết những khát vọng tình yêu mà còn là một chuẩn giá trị để đo hạnh phúc nồng nàn, da diết của tình yêu con người và đây cũng là một phương diện thể hiện sự hợp hôn diệu kỳ giữa khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái trong thơ Hoài Vũ mà những câu thơ sau đây là một chứng từ cho sự giao hòa ấy: “
Hạnh phúc đến xanh như màu lá/ Và nồng thơm mùi thơm của rạ/ Đêm xôn xao sao gắn đầy trời/ Tình anh là Vàm Cỏ em ơi
” (Anh ở đầu sông, em cuối sông)…. Vì thế, tình yêu trong thơ Hoài Vũ đã trở thành một nhân tố để trải lòng với tự nhiên như để nói rằng tình yêu đối với người yêu cũng chính là tình yêu của anh dành cho vùng đất nuôi sống, bao bọc mình trong những năm khó khăn, gian khổ… Vì vậy, có thể, nói khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái trong thơ Hoài Vũ đã trở thành một thi giới riêng, là một hằng số văn hóa của dòng sông thi ca chảy trong huyết quản và hiển hiện ở hầu hết các bài thơ của ông…
3.
Song, dù yêu nhau mãnh liệt, nhưng Hoài Vũ không đắm mình trong tình yêu mà quên đi sứ mệnh của mình, một nhà thơ – chiến sĩ đang dấn thân, tranh đấu cho độc lập tự do của quê hương đất nước. Vì vậy, dù lưu luyến, nhớ thương, thi nhân vẫn quyết tâm đi trên con đường mình đã chọn nên phải “thú nhận” một cách thành thật với người mình yêu: “
Anh phải về thôi xa em thôi/ Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi/ Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc/ Mà lời từ biệt chẳng lên môi/ Anh phải về thôi xa em thôi/ Xa vườn cây đêm chờ giặc, ta ngồi/ Hoa khế rụng tím ngần lối nhỏ/ Để mãi lòng ta xao xuyến bồi hồi…
” (Chia tay hoàng hôn). Đây cũng là một bình diện khác của những biểu hiện về sự hợp hôn giữa khát vọng tình yêu với cảm thức sinh thái trong thơ Hoài Vũ như ông đã tự nhận: “
Ôi vườn dâu, vườn dâu/ Nhớ nuôi ta tình đầu/ Chiến trường xa khó gặp/ Giữ giùm dấu chân nhau!
” (Dấu chân em đâu?). Và, như vậy, dù ở môi trường nào, trạng thái nào của đời sống, thơ Hoài Vũ vẫn luôn thể hiện sự giao hòa giữa con người và tự nhiên. Đây chính là căn tố tạo nên sự hợp hôn nhiệm mầu giữa khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái trong thơ Hoài Vũ, mà xét từ điểm nhìn của phê bình sinh thái, ta thấy thơ Hoài Vũ đã thể hiện khá sinh động sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, không những thế thi nhân còn trân quý tự nhiên, xem tự nhiên là một phần không thể thiếu trong tình yêu và cuộc sống của mình, dù trong chiến tranh hay những năm tháng hòa bình: “
Anh đứng bên sông Sài Gòn/ Muốn hoa sẽ là môi son/ Muốn em là vườn cây trái/ Cho anh hóa én lượn tròn
” (Gởi Khánh Hội yêu thương). Còn đây là tình yêu của thi nhân dành cho những cánh rừng: “
Ôi Đắc Nông, Đắc Min – những cánh rừng xa xôi/ Nơi đậu lại đàn chim bay từ thành phố/ Em giữ đất trồng rừng và trồng lên nỗi nhớ/ Để trái tim anh xanh biếc một vùng đồi!
” (Những cánh rừng xa xôi). Vì thế, cảm thức sinh thái trong thơ Hoài Vũ, xét về phương diện nào đó, là sự thể hiện tư tưởng “Thiên – Địa – Nhân” hợp nhất của triết học phương Đông. Điều nầy hoàn toàn xa lạ với thuyết “nhân loại trung tâm luận” của phương Tây, khi xem con người là “cái rốn” của vũ trụ, tự cho mình quyền uy là chúa tể của muôn loài. Vì vậy, họ chinh phục và tàn phá tự nhiên bằng bất cứ giá nào, buộc tự nhiên phải phục vụ cho những “ham muốn” vô hạn của con người. Thơ Hoài Vũ đi ngược lại những điều ấy, nên đã góp phần thức nhận cho ta tình yêu và sự trân quí tự nhiên. Bởi, trong cái nhìn của chủ nghĩa nhân văn sinh thái, con người không phải là một chủ thể quyền uy thống trị muôn loài, mà con người và tự nhiên phải hòa hợp, nương tựa vào nhau, gắn kết với nhau, hướng đến một sự hài hòa.
4.
Và trong dòng cảm thức ấy, một điều không thể không nói đến về sự hợp hôn giữa khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái trong thơ Hoài Vũ, đó là sự ám ảnh về dòng sông, nói như nhạc sĩ Hoàng Hiệp: “Trong tim ai cũng có một dòng sông riêng mình”, và Hoài Vũ cũng không phải là ngoại lệ!?
Sinh ra và lớn lên trên quê hương núi Ấn sông Trà, nhưng rồi cũng như nhà thơ Tế Hanh, từ ngày “xa nhà đi kháng chiến”, Hoài Vũ đã gắn bó đời mình với những dòng sông của vùng đất Nam Bộ, nơi cả tuổi trẻ và cho đến những ngày còn lại của cuộc đời, anh chưa bao giờ “chịu” xa cách. Bởi, dù thực tế, thi nhân có thể sống xa những dòng sông, nơi anh đã từng chiến đấu, hy sinh thì trong tâm thức anh, hình ảnh những dòng sông bao giờ cũng hiện hữu như một tâm thức hiện sinh. Phải chăng, vì vậy, ở tuyển thơ xuất bản lần này, Hoài Vũ lấy tiêu đề:
Thì thầm với dòng sông
. Không những thế, trong tuyển thơ có rất nhiều bài thơ hiển hiện hình ảnh dòng sông như:
Anh ở đầu sông em cuối sông
;
Xa rồi sông Hậu
;
Thì thầm với dòng sông
;
Em về bên kia sông
;
Vàm Cỏ Đông
;
Đi trong hương tràm
;
Chia tay hoàng hôn
;
Người ấy bây giờ đang ở đâu?
;
Dấu chân em đâu?
;
Qua cầu tre nghiêng nghiêng
;
Tượng đài tình yêu nơi cuối đất
;
Long An, ngày trở lại
;
Trời mênh mông, nước mênh mông
;
Tâm tình trước ngã ba sông…
mà ở đó, mỗi dòng sông được anh nhắc đến trong thơ luôn chuyên chở những khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái mà những câu thơ trong thi phẩm
Chia tay hoàng hôn
là một nỗi ám ảnh như thế: “
Xa em, anh như trưa nắng, đi trên cát/ Thèm một dòng sông, những cánh đồng
”…
Mặt khác, khi nói đến những ám ảnh về dòng sông trong thơ Hoài Vũ, bên cạnh những dòng sông của Nam Bộ, chúng ta còn thấy nỗi ám ảnh về những dòng sông khác của nước Việt dấu yêu, tiêu biểu là sông Hồng mà anh hằng thương nhớ: “
Ở Miền Nam, đêm nay, tôi bỗng nhớ sông Hồng/ Một nỗi nhớ mênh mông, từ khi nghe chị hát/ Chị đứng nơi đâu, hởi người chị Mỹ, tuy chưa hề biết mặt/ Mà vẫn thấy thân tình như nàng Quan họ bên sông
” (Tiếng hát Gien Phôn-đa); Hay dòng sông ở những nước mà thi nhân đã đi qua, trên những dặm đường phiêu linh trong tâm trạng của người viễn khách. Đó là nỗi niềm xao xác khi chia tay người “bạn tình” trên sông Hoàng Phố ở Trung Hoa: “
Em tiễn anh đi mấy dặm chiều tàn/ Sông Hoàng Phố cánh buồm xao xác quá!/ Hờn giận, yêu thương, sóng dễ gì phân biệt/ Chỉ riêng mình em đau, trên bến bãi bẽ bàng
” (Bến Thượng Hải); Hay dòng sông “Đa-nuýp uốn quanh” mà thi nhân đã chia sẻ: “
Tôi đến với các anh, giữa ngàn lau ngút mắt/ Càng yêu Đa-nuýp hôm qua, những con sóng bạc đầu!
” (Tình ca Đa-nuýp). Để rồi, nỗi ám ảnh trong tâm thức thi nhân về những dòng sông dù là của quê hương mình hay một vùng quê nào đó của những đất nước xa xôi thì dòng sông cũng là nơi hội tụ của tình yêu và nỗi nhớ để làm nên “những bản tình ca”: “
Ôi đất nước, khi trái tim người yêu tha thiết/ Đâu cũng Cửu Long, Hồng Hà, Đa- nuýp/ Trời cho ta những dòng sông bao la/ Chỉ để hát muôn đời những bản tình ca!
” (Tình ca Đa -nuýp). Phải chăng, đây chính là căn tố tạo nên những giá trị nhân văn trong thơ Hoài Vũ để kết tinh thành những khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái trong thơ anh.
5.
Thơ Hoài Vũ là sự kết tinh những cảm hứng về tình yêu của con người trong sự giao hòa với giới tự nhiên. Hay nói cách khác, chính anh đã đem đến cho cuộc đời và cho thơ những mỹ cảm của tình yêu trong sự hợp hôn diệu kỳ với mỹ cảm của tự nhiên để làm nên những giá trị nhân văn cho cuộc sống con nguời, vốn còn quá nhiều những điều bất an và bất toàn. Vì vậy, khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái, sự hợp hôn diệu kỳ trơng thơ Hoài Vũ là biểu hiện sự hài hòa giữa con người và tự nhiên đã hình thành nên phẩm tính của văn hóa sinh thái thấm đượm tinh thần nhân văn
.
Sống trong một thế giới không bao giờ bình yên, đọc những bài thơ của Hoài Vũ viết về tình yêu trong sự hòa quyện với thiên nhiên sẽ giúp chúng ta tin rằng những giá trị nhân bản ở cuộc đời sẽ không bao giờ mất đi, nhất là khi những giá trị đó được xây đắp trên nền tảng của tình yêu thương. Và khi nào còn tình yêu, trái đất vẫn còn là “vườn địa đàng” để con người sống và yêu, nếu họ biết yêu, biết sống cho tình yêu đích thực và khi đó, những khát vọng trong thơ tình Hoài Vũ cũng như thơ tình của các nhà thơ khác trên cõi nhân gian nầy sẽ là
hơi thở
không thể thiếu trong cuộc sống. Và, đây chính là cội nguồn thi hứng làm nên giá trị thơ Hoài Vũ mà anh đã dấn thân suốt cuộc đời trong hành trình sáng tạo…
______
* Tuyển thơ
Thì thầm với dòng sông
của Hoài Vũ, Nxb Hội Nhà văn, 2023
|
Sự hợp hôn diệu kỳ của khát vọng tình yêu và cảm thức sinh thái…* – Tác giả: Trần Hoài Anh
| 2,459 | |
Với tấm huy chương vàng SEA Games 32, đội tuyển nữ Việt Nam thiết lập cột mốc chưa từng có đội bóng nào chạm tới ở môn bóng đá nữ của đại hội.
Đội tuyển Việt Nam giành HCV SEA Games lần thứ tư liên tiếp. (Ảnh: Thế Sơn).
Đội tuyển nữ Việt Nam bảo vệ thành công tấm huy chương vàng SEA Games sau khi đánh bại Myanmar ở trận chung kết tối 15/5 trên sân vận động Olympic (Phnom Penh, Campuchia). Chiến thắng này giúp đội tuyển Việt Nam trở thành đội đầu tiên trong lịch sử vô địch bóng đá nữ SEA Games 4 lần liên tiếp.
Kể từ lần đầu tham dự đại hội thể thao Đông Nam Á, bóng đá nữ Việt Nam giành tổng cộng 8 huy chương vàng, vượt xa thành tích của Thái Lan (5 lần). Trong 8 lần đội tuyển nữ Việt Nam đăng quang, HLV Mai Đức Chung góp mặt tới 6 lần. Không có HLV nào giành huy chương vàng môn bóng đá nhiều hơn nhà cầm quân 71 tuổi.
Hành trình lên ngôi hậu của đội tuyển nữ Việt Nam ở Campuchia lần này có điểm khác biệt so với 3 lần gần nhất. Sau tròn 10 năm kể từ kỳ SEA Games năm 2013, đội tuyển Việt Nam không thể có thành tích bất bại trên suốt hành trình ở đại hội.
Sau 5 trận đấu ở SEA Games 32, đội tuyển Việt Nam giành 4 chiến thắng và thua một trận. Đó là thất bại trước đội tuyển Philippines ở vòng bảng. Tuy nhiên, trận đấu đó không ảnh hưởng tới vị trí đầu bảng của thầy trò HLV Mai Đức Chung.
Ở bán kết, đội tuyển Việt Nam vượt qua Campuchia với tỉ số 4-0 dù không sử dụng đội hình mạnh nhất. Trong trận chung kết, Huỳnh Như và đồng đội gặp lại Myanmar, đội từng thua đội tuyển Việt Nam ở vòng bảng với tỉ số 1-3.
Trong cuộc tái đấu, các học trò của HLV Mai Đức Chung vẫn làm chủ cuộc chơi, kiểm soát trận đấu. Huỳnh Như và Nguyễn Thị Thanh Nhã ghi bàn giúp đội tuyển Việt Nam thắng 2-0 và giành huy chương vàng.
|
Ngả mũ thán phục tuyển nữ Việt Nam: Lập kỷ lục SEA Games, khẳng định vị thế số 1
| 369 | |
Nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định 515/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 phê duyệt Chương trình tổng thể về phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2023 – 2025 (Chương trình).
Chương trình được thực hiện trên phạm vi cả nước và tại một số quốc gia có mối quan hệ văn hóa lâu dài với Việt Nam. Chương trình tập trung vào các hoạt động thuộc các lĩnh vực cụ thể, gồm: di sản văn hóa; văn hóa cơ sở; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; điện ảnh; thư viện; đào tạo; văn hóa dân tộc; văn hóa đối ngoại; công nghiệp văn hóa,…
Đối tượng của Chương trình bao gồm: 1- Di sản văn hóa thế giới, di tích được công nhận di tích quốc gia đặc biệt, di tích cấp quốc gia; 2- Di sản văn hóa phi vật thể được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận; di sản văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu hoặc nguy cơ mai một; 3- Các thiết chế văn hóa, không gian văn hóa sáng tạo; đội tuyên truyền lưu động; các đồn Biên phòng; các cơ sở, điểm vui chơi giải trí cho trẻ em; 4- Đội ngũ văn nghệ sỹ, đội ngũ trí thức, nhân lực quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực văn hóa; 5- Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
8 giải pháp chủ yếu
Chương trình đưa ra 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, bao gồm:
1- Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về văn hóa, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đồng thời phổ biến, truyền thông nâng cao nhận thức về Chương trình.
2- Bảo tồn, phát huy bền vững các giá trị văn hóa của dân tộc.
3- Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa.
4- Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao đời sống tinh thần, năng lực thẩm mỹ của nhân dân.
5- Phát triển đội ngũ văn nghệ sỹ, trí thức và nguồn nhân lực quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học chất lượng cao trong lĩnh vực văn hóa.
6- Phát triển các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam có giá trị đỉnh cao về nghệ thuật và tư tưởng.
7- Quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới.
8- Huy động nguồn lực và quản lý thực hiện Chương trình.
Cụ thể, nhằm bảo tồn, phát huy bền vững các giá trị văn hóa của dân tộc, sẽ triển khai các chương trình, nhiệm vụ bảo quản, tu bổ, phục hồi và tôn tạo cho khoảng 2 di sản văn hóa, thiên nhiên được UNESCO ghi danh; khoảng 15 di tích quốc gia đặc biệt có giá trị đang xuống cấp nghiêm trọng. Hỗ trợ chống xuống cấp, tu sửa cấp thiết khoảng 150 di tích cấp quốc gia.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh xây dựng hồ sơ khoa học các di sản văn hóa phi vật thể có giá trị tiêu biểu hoặc có nguy cơ mai một, cần được bảo vệ khẩn cấp để ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, di sản thế giới đẩy mạnh công tác sưu tầm tài liệu cổ, quý hiếm có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học; nâng cấp, cải tạo một số bảo tàng công lập cấp quốc gia. Nghiên cứu, thành lập các bảo tàng chuyên ngành cấp quốc gia về nghệ thuật đương đại, nghệ thuật nhiếp ảnh; trung tâm quốc gia về bảo quản hiện vật.
Ngoài ra, sẽ nghiên cứu, triển khai các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; phát triển các ứng dụng trải nghiệm thực tế ảo, nghiên cứu khai thác những giá trị về nghệ thuật truyền thống trong các kho dữ liệu đang có, hỗ trợ các hoạt động truyền dạy, bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận và bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một.
Xử lý các vướng mắc về cơ chế, chính sách
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan chủ trì thực hiện Chương trình, có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương liên quan xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình; chịu trách nhiệm về số liệu, tiến độ thực hiện, kết quả và hiệu quả của Chương trình. Hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện bảo đảm hiệu quả; sơ kết hằng năm, tổng kết việc thực hiện Chương trình, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổng hợp kế hoạch và đề xuất nhu cầu kinh phí sử dụng ngân sách trung ương thực hiện Chương trình hàng năm, theo giai đoạn gửi cơ quan có thẩm quyền; đề xuất dự toán và quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước giao để thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được giao trực tiếp thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công và ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổng hợp kiến nghị và đề xuất xử lý các vướng mắc về cơ chế, chính sách, cơ chế quản lý, giám sát, cơ chế huy động và quản lý các nguồn lực xã hội hóa trong quá trình thực hiện Chương trình; bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn, phổ biến thông tin, tuyên truyền dưới các hình thức, sản phẩm phù hợp nhằm nâng cao nhận thức, tư duy cho đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ quản lý, thực hiện Chương trình; chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức giám sát, đánh giá, tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện Chương trình.
Các Bộ, ngành liên quan theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình; bảo đảm tiến độ, hiệu quả, đúng quy định của pháp luật.
Dành quỹ đất hợp lý tại các vị trí thuận lợi để đầu tư mới các công trình văn hóa
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành theo thẩm quyền, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm: Chủ động cân đối, bố trí đủ nguồn vốn đối ứng từ ngân sách địa phương theo quy định, cũng như có giải pháp huy động hiệu quả các nguồn lực hợp pháp khác ngoài ngân sách để thực hiện Chương trình tại địa phương.
Trong quá trình lập quy hoạch sử dụng đất, xác định cụ thể nhu cầu về diện tích và vị trí đất dành cho xây dựng công trình văn hóa; dành quỹ đất hợp lý tại các vị trí thuận lợi để đầu tư mới các công trình văn hóa trong khuôn khổ Chương trình; đối với các khu đô thị mới, ưu tiên bố trí diện tích và vị trí đất cho xây dựng các công trình văn hóa trong khuôn khổ Chương trình.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức triển khai Chương trình trên địa bàn theo thẩm quyền, nhiệm vụ được giao; ban hành quy định về lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình, dự án khác có cùng nội dung, nhiệm vụ để thực hiện Chương trình trên địa bàn, bảo đảm không chồng chéo, trùng lắp về phạm vi, đối tượng, nội dung với các chương trình mục tiêu quốc gia, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ của Chương trình đã được phê duyệt; tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chương trình tại cơ sở, kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp để thất thoát, lãng phí kinh phí thực hiện của Chương trình…
|
Chương trình tổng thể về phát triển văn hóa Việt Nam 2023 – 2025
| 1,488 | |
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc rất nhiều nơi, trong đó
Thủ đô Hà Nội
là nơi Người gắn bó lâu nhất. Hà Nội ghi dấu 292 địa danh liên quan đến Bác.
Pano giới thiệu hình ảnh Bác Hồ tại trưng bày. (Ảnh: Bảo tàng Hà Nội).
Hà Nội là nơi ghi dấu tình cảm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
dành cho Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô. Bác luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa cho cả nước.
Điều đó được thể hiện rõ nét tại trưng bày chuyên đề
“Bác Hồ với Thủ đô Hà Nội”
khai mạc lúc 9h ngày 18/5 tại Bảo tàng Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2023).
Trưng bày do Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội phối hợp với Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch và Hội Di sản văn hóa Việt Nam thực hiện, giới thiệu đến công chúng hơn 200 tài liệu hiện vật về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tất cả tập trung làm rõ tư tưởng, tình cảm và những lời căn dặn ân cần, sâu sắc của Người – di sản vô giá, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng bộ, chính quyền, các tầng lớp nhân dân Hà Nội, góp phần xây dựng Thủ đô ngày càng văn hiến, văn minh, hiện đại.
Bác làm việc tại nhà 54 (Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch) từ 19/12/1945 đến 17/5/1958. (Ảnh: Bảo tàng Hà Nội).
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc rất nhiều nơi; trong đó Thủ đô Hà Nội là nơi Người gắn bó lâu nhất (17 năm, từ năm 1945 đến năm 1946 và từ năm 1954 đến năm 1969). Hà Nội ghi dấu 292 địa danh liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước.
Trưng bày chia thành 3 chủ đề.
Phần 1 – “Thủ đô Hà Nội với Bác Hồ” giới thiệu tài liệu, hiện vật về những địa điểm ghi dấu mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động các mạng của Bác Hồ tại Hà Nội: Hà Nội đón Bác; Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, Hà Nội đóng góp tinh thần vật chất cho kháng chiến thông qua các phong trào “Hũ gạo cứu đói”, “Diệt giặc dốt”, mít tinh, bầu cử…; Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Phủ Chủ tịch; Ngày Bác đi xa.
Phần 2 – “Bác Hồ với Thủ đô Hà Nội” nêu rõ sự quan tâm, chỉ đạo của Bác Hồ với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội trên các lĩnh vực: Xây dựng đảng, xây dựng chính quyền, an ninh quốc phòng; Phát triển kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục; Tình cảm của Người với các tầng lớp nhân dân (phụ nữ, công nhân, nông dân, nhi đồng).
Phần 3 – “Hà Nội làm theo lời Bác” thể hiện sự nỗ lực, cố gắng, đoàn kết một lòng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân không ngừng xây dựng Thủ đô ngày càng phát triển, văn minh và hiện đại theo lời dạy của Bác.
Nội dung trưng bày. (Ảnh: Bảo tàng Hà Nội).
Nhân dịp này, Bảo tàng Hà Nội cũng khai mạc không gian nghệ thuật
“Sen thư pháp”
giới thiệu gần 40 tác phẩm “Sen thư pháp” kết hợp với những bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những câu châm ngôn về cuộc sống.
Đây là những tác phẩm nằm trong bộ sưu tập
“Sen trong đời sống văn hóa Việt”
của bà Nguyễn Thị Thanh Tâm – kỷ lục gia được tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập vào ngày 17/4/2021 là người sở hữu bộ sưu tập đa dạng các tác phẩm có hình tượng sen và đã được triển lãm ở nhiều nơi trong nước.
Toàn bộ không gian trưng bày được trang trí theo nghệ thuật sắp đặt, như một lời tri ân và là tấm lòng của những người dân Hà Nội luôn biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Ban tổ chức cũng bố trí một góc thư viện để phục vụ khách tham quan nghiên cứu, tìm hiểu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trưng bày kéo dài đến hết năm 2023 tại Bảo tàng Hà Nội, đường Phạm Hùng, Mễ Trì, Nam Từ Liêm./.
Triển lãm giới thiệu 200 hiện vật liên quan đến tình cảm của Bác Hồ với Thủ đô và nhân dân Thủ đô với Bác Hồ. (Ảnh: Bảo tàng Hà Nội).
|
Trưng bày 200 tài liệu về quá trình 17 năm Bác Hồ gắn bó với Thủ đô
| 809 | |
Tối 15/5, tại xã Khâu Vai (Mèo Vạc), UBND
huyện Mèo Vạc
(
tỉnh Hà Giang
) tổ chức khai mạc Lễ hội chợ Phong Lưu Khâu Vai năm 2023.
Lãnh đạo tỉnh Hà Giang, huyện Mèo Vạc và các đại biểu, nhân dân địa phương và khách du lịch dâng hương miếu Ông, miếu Bà.
Tới dự có Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Văn Sơn; đại diện lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương; các sở, ngành, phòng, ban của tỉnh và huyện Mèo Vạc, cùng đông đảo bà con nhân dân, khách du lịch trong và ngoài tỉnh.
Tại Lễ khai mạc, Chủ tịch UBND huyện Mèo Vạc Nguyễn Huy Sắc cho biết, chợ Phong Lưu Khâu Vai (hay còn được gọi là chợ tình Khâu Vai) được hình thành từ năm 1919, là một truyền thuyết mang tính huyền thoại đã trở thành nét sinh hoạt đặc sắc, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa của nhân dân các dân tộc huyện Mèo Vạc nói riêng và của tỉnh Hà Giang nói chung. Mỗi năm được tổ chức duy nhất một lần vào ngày 27/3 âm lịch, Lễ hội chợ Phong Lưu Khâu Vai đã tôn vinh nét đẹp về mối quan hệ nhân văn giữa con người với con người, đặc biệt là ca ngợi tình yêu đôi lứa chân thành, trong sáng, lãng mạn, nồng nàn đến cháy bỏng.
Lễ hội chợ Phong Lưu Khâu Vai thực sự là một bức tranh sinh hoạt văn hóa độc đáo nhất của người dân vùng cao Mèo Vạc. Với ý nghĩa đặc sắc đó, ngày 24/6/2021, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 1952/QĐ-BVHTTDL đưa Tập quán xã hội và tín ngưỡng Chợ Phong Lưu (hay còn gọi là Háng Phúng Lìu) Khâu Vai, xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây chính là sự khẳng định về giá trị văn hóa tinh thần độc đáo, sự bảo tồn và phát triển của phiên chợ huyền thoại này. Chủ tịch UBND huyện Mèo Vạc Nguyễn Huy Sắc khẳng định.
Người dân địa phương thực hiện nghi thức dâng hương miếu Ông, miếu Bà.
Để tiếp tục giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, đậm đà bản sắc của các dân tộc sinh sống trên vùng Cao nguyên đá, năm 2023, huyện Mèo Vạc tiếp tục tổ chức Lễ hội chợ Phong Lưu Khâu Vai quy mô cấp huyện với chủ đề “Về nơi tình yêu bắt đầu”. Lễ hội diễn ra trong thời gian hai ngày 15-16/5/2023 (tức ngày 26-27/3 âm lịch), với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng.
Theo Phó Chủ tịch UBND huyện Mèo Vạc Ngô Mạnh Cường, đến với Lễ hội chợ Phong Lưu Khâu Vai, du khách sẽ được trải nghiệm nhiều hoạt động thú vị như xem chọi chim họa my, chinh phục đỉnh Mã Pì Lèng, đi thuyền trên sông Nho Quế ngắm hẻm Tu Sản, thăm mê cung đá, đi cầu tình yêu. Du khách cũng sẽ được tham gia các hoạt động trải nghiệm cùng người dân địa phương các trò chơi dân gian như địu nước qua cầu, bịt mắt bắt vịt…
Nhằm đảm bảo Lễ hội diễn ra an toàn, chu đáo, huyện cũng đã chỉ đạo đội liên ngành kiểm tra các cơ sở lưu trú, cơ sở kinh doanh hoạt động ăn uống. Ông Ngô Mạnh Cường cho biết, qua kiểm tra, các cơ sở này đều đảm bảo các điều kiện để đón du khách, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như các yêu cầu vệ sinh khác.
Tin, ảnh: Nam Thái
|
Lễ hội chợ Phong Lưu Khâu Vai – ‘Về nơi tình yêu bắt đầu’
| 618 | |
Thơ là tiếng nói của những biểu tượng. Điều đó đến từ cảm xúc, đưa những tuyệt đỉnh thăng hoa hội tụ trong một trang thơ. Khi thi ca đồng hành cùng cuộc kháng chiến, sự mỹ lệ, duy cảm ấy đã nhanh chóng nhường chỗ cho một cảm xúc khác: lòng yêu quê hương, đất nước thuần phác: ”Ngày kia tôi sẽ đến/ Lại cầm súng được ngay/ Tôi càng bắn đúng Tây/ Vì tay có hơi vợ” (“Nhớ vợ” – Cầm Vĩnh Ui).
Khi tình cảm riêng tư được gắn kết với tình cảm dân tộc, khát vọng hạnh phúc cá nhân và khát vọng tự do, độc lập ta bỗng nhận ra sự thiêng liêng của hồn sông núi thấm đẫm trong những điều bình dị: “
Chen nhau qua chiếc cầu xinh mới bắc/ dập dìu tự mùa bướm đua bay/ mừng hoa ban, buổi vừa giải phóng/ xe đạp anh lượn bánh từ phố chợ thẳng đến chân thang/ Chân thang em có trường mới dựng
” (“Cầu vào bản”- Cầm Biêu).
Điện Biên Phủ ngày chiến thắng.
Từ sức gợi câu thơ giản dị trong kháng chiến, đặc biệt nơi núi rừng Tây Bắc, người đọc bắt đầu một cuộc kiếm tìm về cội nguồn của mảng thi ca này để tự trả lời cho câu hỏi: Đâu là cội nguồn của niềm cảm hứng lạc quan cách mạng? Đâu là cái hồn vía Tây Bắc đã truyền lửa cho những chiến công ấy? Và câu trả lời thật giản đơn: Hãy nhìn vào
chiến thắng Điện Biên Phủ
– áng sử thi hào hùng, nơi bộc lộ đầy đủ nhất phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Bắc.
Kể từ khi Điện Biên Phủ được thành lập, ước vọng về một miền biên viễn vững vàng được gửi gắm trong tên gọi, cơ hồ như đã tạo ra sức vóc và khí phách của vùng đất này. Dân lành ở các nơi tụ về, xua tan họa binh đao, giữ yên bờ cõi. Vì lẽ đó mà ngay cả trong kháng chiến ta vẫn nhận ra vẻ đẹp nguyên sơ và mĩ lệ này: “
Sao đặc trời sao ngợp đỉnh Pha Đin/ Như thóc giống người Mông phơi trên rẫy/ Ôi nắm xôi nuôi quân từ thuở ấy!/ Mùi nếp thơm còn dậy đến bây giờ?
” (Nguyễn Đình Chiến).
Và, đến cả trong đêm vui tin thắng trận cũng là cảnh những chiến binh trong vóc dáng chiến sĩ cưỡi trên mình ngựa băng trên dốc núi như mang trong mình dũng khí của Phù Đổng, ánh đuốc như vệt sao băng: ”
Tin về nửa đêm /Hỏa tốc hỏa tốc/ Ngựa bay lên dốc/ Đuốc chạy sáng rừng/ Chuông reo tin mừng/ Loa kêu từng cửa/ Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa.
..” (“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”- Tố Hữu)
Những câu thơ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu tái hiện lại một xã hội thời chiến đơn sơ mà rất mực nghiêm trang. Nửa đêm nghe tiếng chân giao liên báo tin vui, tin vui đến tưởng như trong mơ làm bừng sáng cả một vùng rừng núi. Phải cảm nhận bằng tâm thế của thời điểm đó, trong không gian đó mới thấy hết được giá trị sống của con người nơi địa đầu Tổ quốc, nơi có tiếng gà gáy sáng ba nước cùng nghe, nơi con sông thiêng đổ vào đất Việt. Để rồi, mảnh đất này thành nơi hội tụ của những người anh hùng. Đất nước nhìn từ cuộc kháng chiến đâu chỉ là đất của vua chúa, tứ dân mà là tầng tầng, lớp lớp những lực lượng, tựa như những lớp lang của một chủ nghĩa yêu nước dày dặn, sâu sắc. Nào là những người dân công âm thầm:
Và những chị, những anh
Ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát.
(“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”- Tố Hữu)
Những dốc ấy, đèo Tây Bắc như không còn là nơi quạnh vắng, tiêu sơ hay rợn ngợp mà đã được đặt lại tên khi những bàn chân trẻ trung chinh phục, khi tuổi xuân đã có mặt ở đây và thiết lập một tầm vóc mới: tầm vóc của thế hệ Hồ Chí Minh. Để rồi, từ tuyến đầu, những chiến sĩ Điện Biên đã cảm nhận điều đó bằng quyết tâm chiến thắng, bằng tráng trí hun đúc từ truyền thống dân tộc. Dư âm của sức mạnh ấy còn vang vọng mai sau trong sự cảm nhận của thế hệ sau:
Tôi nghe lưỡi xẻng khoét hầm sâu
Năm lăm ngày đêm Điện Biên Phủ
Người ngã vẫn nằm nơi chiến hào
Người sống cầm cờ qua cửa mở
(“Khúc tâm tình”-Nguyễn Đức Mậu)
Chiến thắng Điện Biên Phủ đọng lại trong cảm quan của con người thời bình ở vẻ đẹp. Một giá trị hợp nhất mọi phạm trù cao cả, trác tuyệt, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước… Đẹp vì chiến thắng bằng sức mạnh của vũ khí thô sơ, trang phục, cốt cách chất phác và còn đẹp ở cả sự phản ánh chân thực của những câu thơ. Câu thơ cũng như người lính chưa trau truốt, hoa mĩ mà thật như sự thật ở đời:
Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội,
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội.
Đồng đội ta
là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
(“Giá từng thước đất”- Chính Hữu)
Dân công thồ hàng phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ – Ảnh: Tư liệu
Là nhà thơ tư duy về chủ nghĩa anh hùng cách mạng bằng sự gắn kết chặt chẽ, tường minh của những khái niệm đồng chí rồi đồng đội. Giọng thơ triết luận của Chính Hữu đã đưa những tượng trưng hiện thực vượt qua những ước lệ, thổi phồng thường thấy để đạt đến chân giá trị. “Hớp nước uống chung”; “nắm cơm bẻ nửa”; “trưa nắng”, “chiều mưa” nó cứ thật đến nỗi 60 năm sau còn thấy tự hào. Và minh triết hơn tất cả mọi quan niệm là bóng hình, là tư thế, vị trí của từng người chiến binh anh hùng như vẫn mãi đâu đây:
Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công!
Bên trái: Lò Văn Sự
Bên phải: Nguyễn Đình Ba,
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự,
Có phải các anh vẫn còn đủ cả
Trong đội hình đại đội chúng ta?
(“Giá từng thước đất” – Chính Hữu)
Và còn đây là một tượng đại bằng thi ca khác:
Tô Vĩnh Diện
Bế Văn Đàn…
Những cái tên thật đơn sơ giản dị
Những người anh từ biển sông xa sóng đổ cát bồi
Từ những xóm trung du, những bản làng dốc núi
Từ trăm nẻo đất quê mang hờn căm nhức nhối
Đã hành quân lên
Không có ngày về.
(Vũ Cao)
Nhớ về Điện Biên Phủ hôm nay không chỉ còn là những thước phim hồi ức. Trải qua một khoảng thời gian lắng đọng đủ để mỗi người dân Việt Nam suy cảm, chiêm nghiệm bằng một cách riêng của mình. Đã thấy chiến trường xưa khốc liệt giờ đã nhường chỗ cho sự hồi sinh quyết liệt của sức sống mới:
Sân bay đất lật ngửa lên
Hầm pháo nặng thành hố phân xanh
Con chim bạt ngàn ngày xuân nọ
Trở về nở trứng giữa chân ruộng mạ
Khu trục gỉ cánh quạt chìm dần
Sóng lúa Hồng Cúm vồng ngọn cao
Nông trang khắc thâu
Mõ trâu
(Điện Biên Phủ, 4/10/1958 – “Giăng liềm” – Nguyễn Tuân)
Tình cảm ấy lại được ứng chiếu với nhân cách, tài năng và đức độ của vị Đại tướng Võ Nguyên Giáp một huyền thoại sống. Để rồi khi “Thánh Gióng về trời, Thánh Giáp về quê” (Nguyễn Trọng Tạo), nhận thức về Điện Biên Phủ lại được nâng lên một tầm cao mới. Thế hệ hôm nay chợt nhận ra sức mạnh tinh thần của quá khứ đâu phải chỉ là quyết tâm tải lương, kéo pháo, công đồn… mà là cuộc chiến trong nội tâm: vượt qua cái lợi ích cá nhân, qua thói thường để đạt tới cái phi thường, để không hổ thẹn với nhân cách. Một khi đã vững vàng như thế, nhà thơ hôm nay sẵn sàng mượn cái tứ của chiến chinh xưa để giãi bày những nỗi niềm thế sự hôm nay:
Hò dô ta nào!
Cái dây tời các anh choãi chân đứng kéo
Bây giờ vẫn căng
Vịn vào tiếng hò xưa
Chúng tôi nắm những dây tời mới
Kéo qua mỗi ngày thường
Những vất vả nhọc nhằn chưa hết
Bao đỉnh cao mù sương
Trong lòng người
Phải vượt.
(“Hò dô ta nào”- Vũ Quần Phương)
Xưa kéo pháo vào chiến dịch có ngày có tháng, năm mươi sáu ngày đêm kiên gan “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” rồi vùng lên bằng cờ đỏ sao vàng trên nóc hầm Đờ-cát. Còn sự nhọc nhằn để vượt lên chính mình, chạm tay tới chân giá trị thì miên man, bất tận như những ngày thường.
Sẽ còn sớm để đưa ra một sự tổng kết với những cảm xúc viết về Điện Biên Phủ trong thơ. Cũng như sẽ vẫn còn là sơ lược khi phác thảo một chân dung ấy trong thi ca. Chỉ biết rằng dù đã dày dặn bằng một ấn tượng kì vĩ hay đơn sơ như nét phác họa thì Điện Biên Phủ nhìn từ thơ ca Việt Nam hiện đại vẫn rất gần gũi. Nó giống như một câu trả lời quen thuộc: những gì đã là chân giá trị thì ắt sẽ thành thơ.
|
Điện Biên Phủ trong thơ – Tác giả: Bùi Việt Phương
| 1,614 | |
Ngày 15 và 16/5 tại Paris, Phiên họp toàn thể của Kỳ họp lần thứ 216 Hội đồng Chấp hành của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã diễn ra với sự tham dự của 58 quốc gia thành viên. Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam đã tham dự và phát biểu tại Phiên khai mạc.
Đại biểu các nước thành viên Hội đồng Chấp hành đánh giá cao sự đóng góp và vai trò của Việt Nam trong thời gian vừa qua. (Ảnh: MINH DUY).
Tại phiên họp ngày 15/5, Tổng Giám đốc UNESCO và nhiều quốc gia thành viên đã đánh giá cao vai trò và những kết quả đạt được của UNESCO trong việc thực hiện 4 mục tiêu của Chiến lược trung hạn giai đoạn 2022-2029 và các mục tiêu Phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc.
Theo báo cáo, 94% công việc được triển khai đúng tiến độ, riêng các lĩnh vực chính như văn hóa, giáo dục, cũng như khoa học đạt 100% tiến độ.
Công ước về giáo dục đại học đã có hiệu lực từ tháng 3/2023 sau khi được 20 nước phê chuẩn.
Các khuyến nghị về Đạo đức trong trí tuệ nhân tạo, Khung toàn cầu về khoa học mở, Thập kỷ khoa học đại dương vì Phát triển bền vững, cũng như các sáng kiến hỗ trợ khủng hoảng tại nhiều quốc gia như: Haiti, Sudan, Afghanistan, Iraq, Lebanon, Ukraine… đạt kết quả tích cực.
Các phát biểu tại phiên khai mạc đều nhấn mạnh, thế giới đang đối diện với nhiều thách thức đa chiều hậu đại dịch, nhất là lạm phát, xung đột vũ trang, biến đổi khí hậu…
Tình hình như vậy đòi hỏi vai trò lớn hơn của chủ nghĩa đa phương, trong đó UNESCO cần tiếp tục phát huy vai trò, đổi mới phương thức làm việc, vượt qua thách thức thiếu hụt vốn, đoàn kết không để xung đột và khác biệt lấn át tiếng nói của hòa bình và ngoại giao.
Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc phát biểu tại phiên khai mạc. (Ảnh: MINH DUY).
Phát biểu tại Phiên khai mạc toàn thể, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc nhấn mạnh, trong bối cảnh có nhiều thách thức sau đại dịch Covid-19, hợp tác đa phương bao gồm UNESCO có tầm quan trọng vô cùng lớn trên tinh thần cởi mở, bao trùm, bình đẳng và cùng có lợi, đồng thời đánh giá cao nỗ lực của Tổng Giám đốc và Ban Thư ký UNESCO trong việc huy động nguồn lực, tiếp cận đa chiều, triển khai hiệu quả chương trình hoạt động, hỗ trợ kịp thời cho một số quốc gia thành viên gặp khủng hoảng.
Về định hướng thời gian tới, Trưởng đoàn Việt Nam đề nghị phân bổ nguồn lực thích hợp cho hai ưu tiên toàn cầu là châu Phi và bình đẳng giới, nhóm Tiểu quốc đảo đang phát triển (SIDS) và thanh niên, phân bổ nhân sự đồng đều giữa các khu vực địa lý.
Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc cũng khẳng định cam kết của Việt Nam thúc đẩy hợp tác đa phương và phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên để nâng cao vai trò của UNESCO.
Trong mấy năm qua, Việt Nam đã thể hiện vai trò tích cực và chủ động của một quốc gia thành viên, tổ chức một số hoạt động nổi bật như kỷ niệm 50 năm Công ước di sản thế giới và 20 năm Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể – Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc dẫn chứng
“Điều đó cho thấy Việt Nam hợp tác chặt chẽ với UNESCO và các nước thành viên để bảo đảm di sản văn hóa không chỉ là kho báu sống, nguồn sống cho sự đa dạng và sáng tạo văn hóa, mà còn là động lực cho sự phát triển bền vững và một nguồn cảm hứng cho tương lai” – Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc nói.
Với mong muốn đóng góp thực chất và hiệu quả hơn nữa vào công việc của UNESCO, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc thông báo quyết định của Việt Nam ứng cử làm thành viên Ủy ban Di sản Thế giới nhiệm kỳ 2023-2027.
Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc cũng thông báo về việc tổ chức Hội nghị quốc tế về phát huy vai trò danh hiệu UNESCO phục vụ phát triển bền vững tại Việt Nam dự kiến vào tháng 7/2023, với mục tiêu biến các danh hiệu UNESCO thành trợ lực cho phát triển bền vững và nguồn cảm hứng cho tương lai.
Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc gặp Chủ tịch Ủy ban Quốc gia UNESCO của Pháp. (Ảnh: KHẢI HOÀN).
Trong khuôn khổ của kỳ họp, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc có các cuộc gặp với Chủ tịch Hội đồng Chấp hành Tamarac Rastovac, Chủ tịch Đại hội đồng Santiago Irazabal Mourao, Chủ tịch Ủy ban Di sản Thế giới Haifa Al Morgin cùng trưởng đoàn các nước, như: Pháp, Nga, Trung Quốc, Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE)… để thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương với các nước này.
Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc gặp Chủ tịch Ủy ban Di sản Thế giới Haifa Al Morgin.
Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc sẽ có các cuộc gặp với Tổng Giám đốc UNESCO Audrey Azoulay, Phó Tổng Giám đốc UNESCO Xing Qu và Trợ lý Tổng Giám đốc phụ trách đối ngoại Edouard Firmin Matoko để thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và UNESCO.
Thứ trưởng Hà Kim Ngọc cũng sẽ gặp Giám đốc Trung tâm Di sản Thế giới Lazare Assomo, Tổng Giám đốc ICOMOS Marie Lavenir để trao đổi về tăng cường hợp tác trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị các di sản UNESCO tại Việt Nam, cũng như thúc đẩy các hồ sơ của Việt Nam về Hoàng Thành Thăng Long, Vịnh Hạ Long-Quần đảo Cát Bà, Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử-Vĩnh Nghiêm-Côn Sơn, Kiếp Bạc, Khu Di tích Óc Eo Ba Thê.
Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc và Đại sứ, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh UNESCO Lê Thị Hồng Vân trao đổi với đại biểu các nước thành viên tham dự kỳ họp. (Ảnh: KHẢI HOÀN).
Chia sẻ với phóng viên, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc nhận định, Kỳ họp lần thứ 216 Hội đồng Chấp hành của UNESCO đã diễn ra vào một thời điểm rất đặc biệt-Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vừa mới công bố đại dịch Covid-19 đã kết thúc.
“Do đó, UNESCO cùng với cộng đồng thế giới đang dần chuyển sang một giai đoạn đặc biệt không kém, vừa phải ứng phó với rất nhiều cách thức một lúc từ lạm phát, các vấn đề xung đột, biến đổi khí hậu, y tế, lương thực, năng lượng, chuyển đổi kỹ thuật số và các vấn đề an ninh toàn cầu khác, đồng thời là phải làm thế nào để phát huy vai trò của UNESCO với thế giới” – Thứ trưởng Hà Kim Ngọc nhận định.
Theo Thứ trưởng Hà Kim Ngọc, Việt Nam đã nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ trong nửa nhiệm kỳ làm thành viên Hội đồng Chấp hành, được đánh giá là một thành viên rất tích cực và có trách nhiệm tham gia hoạt động của UNESCO.
“Đây là một cơ hội rất lớn của Việt Nam để có thể gặp gỡ từ lãnh đạo Ban Thư ký và tiếp xúc với các nước thành viên để tăng cường hợp tác giữa Việt Nam với UNESCO, cũng như với các nước để cùng xử lý những vấn đề toàn cầu, đồng thời xử lý các vấn đề song phương. Việt Nam được tín nhiệm với nhiều đề cử danh hiệu trong thời gian gần đây” – Thứ trưởng Hà Kim Ngọc đánh giá.
Việt Nam
đã tham gia vào hầu hết những cơ chế quan trọng nhất của UNESCO, từ Hội đồng Chấp hành, cho tới Ủy ban liên chính phủ bảo vệ di sản phi vật thể, Phó Chủ tịch của Ủy ban liên chính phủ về bảo vệ và phát huy đa dạng về biểu đạt văn hóa. Có thể nói, trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã rất chủ động, tích cực và có trách nhiệm đóng góp vào các hoạt động của các cơ chế của UNESCO nói chung.
Đối với khóa 216 của Hội đồng Chấp hành, Việt Nam đã đóng góp vào từng chương trình, nội dung, kế hoạch hoạt động cụ thể cho tới kế hoạch ngân sách hay vấn đề nhân sự cho giai đoạn tới.
Thứ trưởng Hà Kim Ngọc cho biết, trong quá trình trao đổi với phái đoàn Việt Nam, lãnh đạo UNESCO, Ban Thư ký và phái đoàn các nước tỏ ra hào hứng và hoan nghênh đóng góp tích cực của Việt Nam, bày tỏ tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy được vai trò tích cực.
Sự hợp tác giữa Việt Nam và UNESCO mang tính hai chiều. UNESCO tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc cung cấp các kiến thức, tri thức, các công cụ hướng dẫn để giúp Việt Nam có thể tiếp cận với những tiêu chuẩn về văn hóa, giáo dục, khoa học ở quy mô toàn cầu.
Chính Việt Nam cũng đóng góp vào việc nâng cao vai trò của UNESCO, phát huy vai trò của tổ chức mang tầm vóc toàn cầu này đến gần hơn với người dân, cũng như là đối với thế giới.
Kỳ họp lần thứ 216 Hội đồng Chấp hành của UNESCO sẽ tiếp diễn đến ngày 25/5 tại Paris với chương trình nghị sự gồm gần 50 đề mục, trải rộng trên tất cả các lĩnh vực: giáo dục, văn hóa, khoa học, nhân sự, quản lý, quan hệ đối ngoại. Hội đồng Chấp hành dự kiến sẽ dành nhiều thời gian thảo luận về dự thảo Chương và Ngân sách giai đoạn 2024-2025 trong bối cảnh ngân sách hiện nay của UNESCO không đáp ứng được các chương trình và hoạt động đề ra.
Phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Pháp
|
Việt Nam tham dự Kỳ họp lần thứ 216 Hội đồng Chấp hành của UNESCO
| 1,739 | |
Từ quyển giúp bảo tồn sự sống của một hành tinh - Ảnh: Internet.
Khi chúng ta nghĩ về khả năng sinh sống của các ngoại hành tinh, vai trò của từ trường trong việc duy trì môi trường ổn định là điều cần xem xét bên cạnh những thứ như bầu khí quyển và khí hậu.
Vành đai bức xạ là những cấu trúc từ tính hình vành khuyên bao bọc một hành tinh chứa đầy các electron và hạt tích điện năng lượng cực cao.
Được phát hiện lần đầu tiên xung quanh Trái đất vào năm 1958 với các vệ tinh Explorer 1 và 3, vành đai bức xạ có ở khắp nơi trong hệ Mặt trời: Tất cả các hành tinh có từ trường quy mô lớn —gồm Trái đất, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương và sao Hải Vương – đều có chúng. Tuy nhiên trước giờ, không có vành đai bức xạ nào được quan sát rõ ràng bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta.
Phải đến hôm nay, một nhóm nhỏ các nhà thiên văn học, đứng đầu là Melodie Kao, trước đây thuộc Đại học Bang Arizona và hiện là Nghiên cứu tại Đại học California Santa Cruz, với sự cộng tác của cả Giáo sư Evgenya Shkolnik của Viện Khám phá Trái đất và Không gian của Mỹ, đã phát hiện ra vành đai bức xạ đầu tiên bên ngoài của hệ mặt trời của chúng ta. Kết quả được công bố trên tạp chí
Nature
hôm 15.5.
Khám phá được thực hiện xung quanh “sao lùn nâu” LSR J1835+3259, có kích thước tương đương sao Mộc nhưng đặc hơn rất nhiều. Nằm cách chòm sao Lyra chỉ 20 năm ánh sáng, nó không đủ nặng để trở thành một ngôi sao, nhưng lại thừa nặng để trở thành một hành tinh. Bởi vì các vành đai bức xạ trước đây chưa bao giờ được nhìn thấy rõ ràng bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta, nên chúng ta không biết liệu chúng có thể tồn tại xung quanh các vật thể khác như ngoại hành tinh hay không.
Giáo sư Evgenya Shkolnik, người đang nghiên cứu từ trường và khả năng sinh sống của các ngoại hành tinh trong nhiều năm, cho biết: “Đây là bước quan trọng đầu tiên trong việc tìm kiếm thêm nhiều vật thể như vậy và mài giũa kỹ năng của chúng tôi để tìm kiếm các từ quyển ngày càng nhỏ hơn, cuối cùng cho phép chúng tôi nghiên cứu các hành tinh có kích thước bằng Trái đất, có khả năng sinh sống được”.
Mặc dù vô hình với mắt người, nhưng vành đai bức xạ mà nhóm nghiên cứu này phát hiện là một cấu trúc khổng lồ. Đường kính ngoài của nó kéo dài ít nhất 18 đường kính sao Mộc và các vùng sáng nhất bên trong có kích thước bằng 9 lần đường kính sao Mộc (cần nhớ đường kính Mặt trời chỉ bằng 10 lần đường kính sao Mộc). Được tạo thành từ các hạt di chuyển gần tốc độ ánh sáng và phát sáng mạnh nhất ở bước sóng vô tuyến, vành đai bức xạ ngoài hệ Mặt trời mới được phát hiện này, có cường độ mạnh hơn gần 10 triệu lần so với sao Mộc. Đồng thời, bản thân nó cũng sáng hơn Trái đất hàng triệu lần và chứa nhiều hạt năng lượng nhất so với bất kỳ hành tinh nào trong hệ Mặt trời.
Nhóm nghiên cứu đã chụp được ba bức ảnh có độ phân giải cao về các electron phát xạ vô tuyến bị mắc kẹt trong từ quyển của sao lùn nâu LSR J1835+3259 trong vòng một năm bằng cách sử dụng một kỹ thuật quan sát trứ danh mà chúng ta đã dùng để chụp ảnh lỗ đen ở trung tâm dải Ngân hà.
Bằng cách phối hợp 39 đĩa vô tuyến trải dài từ Hawaii đến Đức để tạo ra một chiếc kính viễn vọng cỡ Trái đất, nhóm nghiên cứu đã giải quyết được môi trường từ tính động của sao lùn nâu, được gọi là “tầng từ”, để lần đầu tiên quan sát thấy từ quyền một vật thể bên ngoài hệ mặt trời. Họ thậm chí có thể nhìn thấy hình dạng của từ trường này đủ rõ ràng để suy luận rằng nó có khả năng là một từ trường lưỡng cực giống như của Trái đất và sao Mộc.
Giáo sư Jackie Villadsen của Đại học Bucknell thuộc nhóm nghiên cứu cho biết “Bằng cách kết hợp các đĩa vô tuyến từ khắp nơi trên thế giới, chúng tôi có thể tạo ra những hình ảnh có độ phân giải cực cao để nhìn thấy những thứ chưa ai từng thấy. Độ mạnh trong hệ thống quan sát của chúng tôi có thể so sánh với chiếc kính giúp một người đứng ở Washington D.C, đọc rõ hàng trên cùng của biểu đồ đo thị lực đặt tại California”.
Thực ra, nhóm của Kao trước đó đã có manh mối rằng họ sẽ tìm thấy một vành đai bức xạ xung quanh ngôi sao lùn nâu này. Vào thời điểm nhóm thực hiện các quan sát này vào năm 2021, các nhà thiên văn vô tuyến đã quan sát thấy sao lùn nâu LSR J1835+3259 phát ra hai loại phát xạ vô tuyến có thể phát hiện được. Bản thân Kao sáu năm trước, khi còn ở trong một nhóm nghiên cứu khác đã xác nhận rằng phát xạ vô tuyến nhấp nháy định kỳ của nó, tương tự như ngọn hải đăng, là cực quang ở tần số vô tuyến.
Nhưng sao lùn nâu LSR J1835+3259 cũng có phát xạ vô tuyến ổn định hơn và yếu hơn. Dữ liệu cho thấy những phát xạ mờ hơn này không thể đến từ các vệt sáng của sao và trên thực tế nó rất giống với các vành đai bức xạ của sao Mộc.
Phát hiện này của nhóm cho thấy hiện tượng như vậy có thể phổ biến hơn so với suy nghĩ ban đầu – xảy ra không chỉ trên các hành tinh mà còn trên các sao lùn nâu, các ngôi sao có khối lượng thấp và thậm chí có thể là các ngôi sao có khối lượng rất cao.
Vùng xung quanh từ trường của một hành tinh hay còn từ quyển —gồm cả từ trường của Trái đất, có thể bảo vệ bầu khí quyển và các bề mặt của hành tinh khỏi bị tàn phá bởi các hạt vi sóng của Mặt trời và vũ trụ.
Kao nói: “Khi chúng ta nghĩ về khả năng sinh sống của các ngoại hành tinh, vai trò của từ trường trong việc duy trì môi trường ổn định là điều cần xem xét bên cạnh những thứ như bầu khí quyển và khí hậu”.
Ngoài vành đai bức xạ đã được quan sát, nghiên cứu của nhóm Kao cho thấy sự khác biệt về “hình dạng” và vị trí không gian của cực quang (tương tự như cực quang của Trái đất) so với vành đai bức xạ từ một vật thể bên ngoài
hệ Mặt trời
của chúng ta.
Kao nói: “Cực quang có thể được dùng để đo cường độ từ trường, nhưng không đo được hình dạng. Chúng tôi đã thiết kế thí nghiệm này để giới thiệu một phương pháp đánh giá hình dạng của từ trường trên các sao lùn nâu và cuối cùng là các ngoại hành tinh.
Các tính chất cụ thể của mỗi vành đai bức xạ cho chúng ta biết điều gì đó về nguồn năng lượng, từ tính và hạt của hành tinh đó: nó quay nhanh như thế nào, từ trường của nó mạnh đến mức nào, nó ở gần sao mẹ đến mức nào, liệu nó có các mặt trăng có thể cung cấp nhiều hạt hơn không, hoặc liệu có các vành đai như kiểu sao Thổ sẽ hấp thụ chúng, v.v. Tôi rất vui mừng về ngày mà chúng ta có thể tìm hiểu về các ngoại hành tinh có từ quyển, đồng nghĩa với khả năng bảo tồn sự sống”.
|
Lần đầu tiên phát hiện từ quyển bảo tồn sự sống bên ngoài hệ Mặt trời
| 1,366 | |
Ngày 16/5, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam và Tập đoàn Airbus tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm ngày phóng thành công VNREDSat-1 – vệ tinh quan sát Trái đất đầu tiên của Việt Nam.
Đây là hoạt động chào mừng ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5 và 48 năm ngày thành lập Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (20/5/1975 – 20/5/2023), mở màn cho chuỗi sự kiện kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Pháp của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và các đối tác Pháp.
GS.VS Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phát biểu tại buổi lễ. Ảnh: Lê Vân.
GS.VS. Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhấn mạnh, sự kiện vệ tinh quan sát Trái đất đầu tiên của Việt Nam VNREDSat-1 được phóng thành công lên quỹ đạo vào ngày 7/5/2013 là dấu mốc quan trọng trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển công nghệ vũ trụ ở Việt Nam. Đây là kết quả của quá trình hợp tác chặt chẽ giữa Viện Hàn lâm và Tập đoàn Airbus, là biểu tượng của tình hữu nghị Việt Nam – Pháp.
“Sự thành công của dự án VNREDSat-1, những kế hoạch hướng tới tương lai của chiến lược phát triển công nghệ vũ trụ tại Việt Nam, cùng sự hợp tác hiệu quả với đối tác Pháp sở hữu nền khoa học vũ trụ tiên tiến và nền tảng của mối quan hệ hợp tác vững chắc 50 năm qua giữa Việt Nam – Pháp, việc kết nối tới tương lai của một kỷ nguyên không gian mới sẽ là hiện thực tươi sáng”, GS.VS Châu Văn Minh nhấn mạnh.
Theo báo cáo của Viện Công nghệ vũ trụ, đơn vị chủ trì thực hiện dự án, vệ tinh VNREDSat-1 cung cấp gần 160.000 cảnh ảnh trên các vùng lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam và trên toàn thế giới, đem lại sự chủ động hoàn toàn trong công tác giám sát từ xa tài nguyên thiên nhiên, môi trường, thiên tai, cũng như các khu vực quan tâm, từng bước ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong công tác giám sát và khẳng định chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.
Vệ tinh VNREDSat-1 hoạt động gấp đôi thời gian dự kiến không chỉ là minh chứng cho công nghệ tiên tiến của Pháp nói chung và Tập đoàn Airbus nói riêng, mà còn thể hiện sự đào tạo, chuyển giao và tiếp nhận hiệu quả giữa Airbus và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, sự hỗ trợ tích cực của Airbus trong quá trình bảo trì vệ tinh và sáng tạo của cán bộ Việt Nam trong quá trình vận hành vệ tinh.
Đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Nicolas Warnery cho biết: “VNREDSat-1 là ví dụ tiêu biểu cho sự hợp tác hết sức thành công trong lĩnh vực không gian vũ trụ và vệ tinh giữa Pháp và Việt Nam. Tuổi thọ đặc biệt của VNREDSat-1 là minh chứng về chất lượng của vệ tinh thương hiệu Pháp. Chính phủ Pháp mong muốn tiếp tục hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực chiến lược này, cũng như chia sẻ các kỹ năng và chuyên môn thông qua đào tạo các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu trẻ và chuyển giao công nghệ cho Việt Nam để Việt Nam có thể thiết lập một ngành công nghiệp vũ trụ tích hợp”.
|
Vệ tinh quan sát Trái đất đầu tiên của Việt Nam có ‘tuổi thọ’ đặc biệt
| 622 | |
Đoàn Thể thao Việt Nam đã lập nên kỳ tích tại Campuchia khi lần đầu tiên giành vị trí nhất toàn đoàn ở một kỳ SEA Games không phải là nước chủ nhà.
Đoàn Thể thao Việt Nam đã khép lại SEA Games 32 ấn tượng với thành tích 136 huy chương Vàng, 105 huy chương Bạc và 114 huy chương Đồng. Thành tích vượt chỉ tiêu để ra là giành từ 90 đến 120 huy chương Vàng.
Kết quả này giúp Đoàn Việt Nam lần thứ 3 trong lịch sử đứng đầu bảng tổng sắp huy chương SEA Games sau khi từng làm được vào các năm năm 2003 và 2021.
Tuy nhiên, đây mới là lần đầu tiên Thể thao Việt Nam xếp thứ nhất toàn đoàn trong một kỳ SEA Games không phải là nước chủ nhà./.
|
Đoàn Thể thao Việt Nam lập nên kỳ tích tại SEA Games 32
| 137 | |
Chỉ trong vòng 5 ngày, khu vực
huyện Kon Plông
(
Kon Tum
) xảy ra 12 trận động đất liên tiếp, trong đó trận động đất mạnh nhất có độ lớn 3.7 độ richter.
Ngày 16/5, Trung tâm Báo tin động đất và cảnh báo sóng thần – Viện Vật lý Địa cầu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phát đi thông báo về các trận động đất xảy ra vào sáng cùng ngày tại khu vực huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Theo đó, trận động đất mới nhất xảy ra lúc 12 giờ 21 phút 21 giây, có độ lớn 2.6 độ richter, độ sâu chấn tiêu khoảng 8km.
Trung tâm Báo tin động đất và cảnh báo sóng thần – Viện Vật lý Địa cầu vẫn đang tiếp tục theo dõi trận động đất này.
Vị trí tâm chấn trận động đất mạnh 3.7 độ richter, hôm nay 16/5. (Ảnh: Viện Vật lý địa cầu).
Cũng trong hôm nay 16/5, khu vực huyện Kon Plông liên tiếp ghi nhận 2 trận động đất vào lúc 7 giờ 52 phút 51 giây và 11 giờ 31 phút 44 giây, với độ lớn lần lượt là 3.0 độ richter và 3.7 độ richter.
Như vậy, chỉ tính trong 5 ngày qua (từ 12/5 đến 16/5), trên địa bàn huyện Kon Plông liên tiếp diễn ra 12 trận động đất.
Theo thống kê từ Viện Vật lý địa cầu, từ đầu năm đến nay trên địa bàn huyện Kon Plông xảy ra khoảng 100 trận động đất. Các trận động đất thường xảy ra xung quanh khu vực Thủy điện Thượng Kon Tum và Thủy điện Đắk Đrinh.
Động đất tại huyện Kon Plông được Viện Vật lý Địa cầu nhận định là động đất kích thích, xảy ra do hồ chứa thủy điện tích nước gây áp lực lên hệ thống đứt gãy hoạt động bên dưới, khiến động đất xảy ra sớm hơn so với quy luật tự nhiên. Để theo dõi và nghiên cứu động đất ở khu vực này, một hệ thống các trạm quan trắc đã được thiết lập, nhằm cung cấp thêm các số liệu về động đất trong khu vực.
|
Động đất 5 ngày liên tiếp ở Kon Tum
| 360 | |
Trong một bản ghi nhớ, chính phủ Thụy Điển đã trả lời đề nghị phản hồi của Cao ủy nhân quyền liên hợp quốc về nỗ lực bảo vệ văn hóa bản địa trước biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu là một trong những vấn đề cấp bách nhất của thời đại hiện nay. Thụy Điển đã có Khung chính sách về khí hậu, bao gồm một đạo luật khí hậu khẳng định chính phủ cam kết không phát thải khí nhà kính ròng vào năm 2045 và sau đó sẽ đạt được mức phát thải âm.
Chính phủ Thụy Điển cũng nhận thức được rằng di sản văn hóa cùng sự đa dạng của các giá trị văn hóa là nguồn tri thức và bản sắc quan trọng cho các cá nhân và xã hội, cũng như đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, hòa nhập xã hội và phát triển bền vững. Biến đổi khí hậu là một thách thức lớn có ảnh hưởng lớn đến các di sản văn hóa và thiên nhiên. Các tòa nhà và địa điểm cũng sẽ bị ảnh hưởng theo nhiều cách.
Ở Thụy Điển, Đạo luật Môi trường Lịch sử quy định rằng di sản văn hóa là vấn đề quan tâm của quốc gia và trách nhiệm đối với di sản văn hóa được tất cả mọi người cùng chia sẻ. Mục đích của các điều khoản trong đạo luật này là để đảm bảo rằng các thế hệ hiện tại và tương lai có thể tiếp cận với nhiều loại di sản văn hóa. Bảo vệ và quản lý di sản văn hóa ở Thụy Điển nhằm mục đích bảo tồn và quản lý các địa điểm có ý nghĩa lịch sử, kiến trúc hoặc khảo cổ học và trao quyền cho di sản văn hóa là một lực lượng trong sự phát triển của một xã hội dân chủ, bền vững.
Các giá trị văn hóa, trong đó có văn hóa bản địa của người Sami ở Bắc Cực, được Thụy Điển quan tâm bảo tồn trước biến đổi khí hậu. Ảnh: sweden.se
Ở Thụy Điển, các chuyên gia ở nhiều cấp độ khác nhau đang đóng góp vào việc quản lý rủi ro về di sản văn hóa. Vai trò và trách nhiệm thích ứng với biến đổi khí hậu ở Thụy Điển cũng được phân chia theo các cấp độ khác nhau, từ địa phương, khu vực đến quốc gia. Ở cấp địa phương, vai trò của chính quyền bao gồm một số hoạt động quan trọng, trong đó được lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu. Ở cấp khu vực, các cơ quan hành chính quận, huyện có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ thành phố thực hiện các chính sách bảo vệ môi trường. Là một phần của chính sách này, các địa điểm văn hóa, các tòa nhà và cảnh quan lịch sử có nguy cơ bị ảnh hưởng do biến đổi khí hậu được liệt kê ra và từ đó xây dựng cách thức để bảo vệ, bảo tồn. Có một số dự án quốc gia đang được triển khai liên quan đến quản lý rủi ro về khí hậu, ví dụ như dự án hợp tác giữa 15 quốc gia châu Âu nhằm tăng cường và phát triển quản lý các cảnh quan lịch sử ở Bắc Cực – nơi khí hậu thay đổi nhanh chóng.
Ở cấp quốc gia, Ủy ban Di sản Quốc gia Thụy Điển tìm cách bảo tồn và quản lý các cảnh quan và môi trường lịch sử, hợp tác rộng rãi với các cơ quan chức năng khác và đưa ra một kế hoạch hành động để quản lý rủi ro liên quan đến biến đổi khí hậu. Cơ quan này chịu trách nhiệm đối với khoảng 300 tòa nhà lịch sử thuộc sở hữu Nhà nước và có tham gia, các mức độ khác nhau, đối với việc quản lý 7 trong số 14 di sản thế giới được UNESCO công nhận của Thụy Điển. Ủy ban Di sản Quốc gia Thụy Điển đã phát triển một phương pháp phát hiện nguy cơ đối với các di sản và cách làm này đã được thực hiện trong ba dự án khu vực. Hầu hết các kết quả đều có giá trị phổ quát và do đó có thể được áp dụng trong cả nước.
Ở cấp độ khu vực, Ủy ban Di sản Quốc gia Thụy Điển cũng tham gia vào dự án Thích ứng Di sản Phương Bắc của EU. Đây là một dự án hỗ trợ di sản văn hóa của các cộng đồng và chính quyền địa phương thích ứng với các tác động môi trường của biến đổi khí hậu và các mối nguy hiểm tự nhiên thông qua sự tham gia của cả cộng đồng và việc lập kế hoạch bảo tồn.
Ở Bắc Cực, biến đổi khí hậu đang diễn ra nhanh hơn so với những nơi khác trên thế giới. Những thay đổi cũng diễn ra ngày càng nhanh và cực đoan hơn, ảnh hưởng lớn đến văn hóa bản địa của người Sami. Mức tăng nhiệt độ tại Bắc Cực dự kiến cao gấp hai đến ba lần so với mức trung bình.
Chính phủ Thụy Điển khẳng định tác động ngày càng tăng của biến đổi khí hậu là mối quan tâm lớn đối với tất cả mọi người. Nhưng ở Thụy Điển, tác động đối với người dân bản địa Sami là một vấn đề quan trọng sống còn. Và Thụy Điển đang nỗ lực bảo vệ văn hóa và quyền văn hóa của người Sami tại Bắc Cực.
Ở Bắc Cực, việc chăn tuần lộc là một trong những yếu tố quan trọng của nền văn hóa Sámi. Chăn nuôi tuần lộc bị tác động tiêu cực bởi biến đổi khí hậu do thay đổi đồng cỏ và đất chăn thả gia súc. Các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến các sinh kế truyền thống khác tạo nên văn hóa Sámi như ngành Duodji (thủ công truyền thống), săn bắn và câu cá. Những hoạt động này giảm sút cũng khiến việc trao truyền giá trị truyền thống giữa các thế hệ người Sámi và việc bảo tồn ngôn ngữ của người Sámi bị ảnh hưởng tiêu cực.
Trước tình hình này, cơ quan địa phương Sami đã báo cáo thường niên cho chính phủ về cách họ tìm cách bảo tồn tri thức truyền thống của người Sami, tầm quan trọng của những giá trị bản địa này đối với việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học cũng như vai trò của người bản địa trong việc đạt được Chương trình nghị sự bền vững vào năm 2030. Cơ quan địa phương cũng duy trì báo cáo hàng năm về việc thích ứng với biến đổi khí hậu, những điều gì đã và chưa làm được và nguy cơ nào cần ưu tiên đối phó. Quá trình này sẽ do một Hội đồng chuyên gia quốc gia về thích ứng của Thụy Điển đánh giá theo chu kỳ 5 năm.
Hoạt động bảo tồn của cơ quan địa phương Sami cũng gắn bó chặt chẽ với mục tiêu toàn cầu của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, Chương trình nghị sự môi trường năm 2030 và dựa trên tiến trình đối thoại với các cơ quan chức năng khác. Chính phủ Thụy Điển cũng đang cung cấp nhiều khoản hỗ trợ về văn hóa Sami để khuyến khích các dự án địa phương duy trì, phát triển và truyền kiến thức truyền thống cho các thế hệ sau.
|
Biến đổi khí hậu đang đe dọa thế giới: Đây là cách người Thụy Điển nỗ lực bảo vệ văn hóa bản địa
| 1,294 | |
Mặt trăng Io và sao Mộc.
Tàu vũ trụ Juno của NASA sẽ bay qua mặt trăng núi lửa Io của Sao Mộc vào hôm nay 16.5 (theo giờ
Mỹ
) và sau đó là bay qua hành tinh khí khổng lồ.
Quãng đường bay ngang qua mặt trăng của sao Mộc lần này sẽ là lần bay sát bề mặt nhất cho đến nay, ở độ cao khoảng 35.500km. Hiện giờ là năm thứ ba của Juno với sứ mệnh mở rộng điều tra bên trong sao Mộc. Tàu vũ trụ chạy bằng năng lượng mặt trời này cũng sẽ khám phá hệ thống vành đai nơi có sự hiện diện của một số mặt trăng bên trong hành tinh khí khổng lồ.
Cho đến nay, Juno đã thực hiện 50 lần bay ngang qua sao Mộc và cũng thu thập dữ liệu trong các lần tiếp xúc gần với ba trong số bốn mặt trăng chị em nhà Galilean —mặt trăng băng giá Europa và Ganymede, và Io rực lửa (mặt trăng còn lại chưa tiếp xúc là Callisto).
Scott Bolton, khảo sát viên chính của tàu Juno từ Viện Nghiên cứu Tây Nam ở San Antonio, cho biết: “Io là thiên thể có nhiều núi lửa nhất mà chúng ta biết trong hệ Mặt trời. Bằng cách quan sát nó theo thời gian trên nhiều lần đi qua, chúng ta có thể xem các núi lửa thay đổi như thế nào về: tần suất chúng phun trào, độ sáng và độ nóng của chúng, rồi liệu chúng có liên kết thành nhóm hay đơn lẻ hay không và liệu hình dạng của dòng dung nham có thay đổi hay không”.
Lớn hơn một chút so với mặt trăng của Trái đất, Io là một thế giới luôn bị dày vò. Không chỉ hành tinh lớn nhất trong hệ Mặt trời hút nó bằng lực hấp dẫn, mà những người chị em Galilean của nó như Europa và mặt trăng lớn nhất trong hệ mặt trời, Ganymede, cũng tác động nó như vậy. Kết quả là Io liên tục bị kéo ra và nén lại, dẫn đến ma sát bên trong tạo nhiệt thủy triều mà biểu hiện là các hoạt động liên quan đến việc tạo ra dung nham phun trào từ nhiều núi lửa của nó.
Mặc dù Juno được thiết kế để nghiên cứu sao Mộc, nhưng nhiều cảm biến của nó cũng đã thu thập thêm rất nhiều dữ liệu về các mặt trăng của hành tinh khí khổng lồ này. Các thiết bị chụp ảnh ánh sáng khả kiến JunoCam, JIRAM (Bộ lập bản đồ cực quang hồng ngoại Jovian), SRU (Thiết bị tham chiếu sao) và MWR (Máy đo bức xạ vi sóng) của tàu vũ trụ sẽ nghiên cứu các núi lửa trên Io và cách các vụ phun trào núi lửa tương tác với từ quyển và cực quang mạnh mẽ của sao Mộc.
Bolton nói: “Chúng tôi đang bước vào một phần tuyệt vời khác trong sứ mệnh của Juno khi chúng tôi ngày càng tiến gần hơn đến Io với các quỹ đạo nối nhau. Quỹ đạo thứ 51 này sẽ cung cấp cho chúng tôi cái nhìn cận cảnh nhất về mặt trăng bị hành hạ này. Các chuyến bay ngang qua sắp tới của chúng tôi vào tháng 7 và tháng 10 sẽ đưa chúng ta đến gần hơn nữa, tiếp theo 2 là cuộc gặp mặt của chúng tôi với Io vào tháng 12 năm nay và tháng 2 năm sau, khi chúng tôi bay trong phạm vi 1.500 km so với bề mặt của nó. Tất cả các chuyến bay này đều cung cấp khung cảnh ngoạn mục về hoạt động núi lửa của mặt trăng tuyệt vời này. Dữ liệu sẽ rất tuyệt vời”.
Trong các chuyến bay ngang qua Sao Mộc, Juno đã bay rất thấp qua các đỉnh mây của hành tinh này — ở khoảng cách gần 3.400km. Tiếp cận hành tinh mang tên thần Zeus từ phía bắc cực và đi ra phía nam trong những lần bay ngang này, tàu vũ trụ sử dụng các thiết bị để thăm dò bên dưới lớp mây che khuất, nghiên cứu bên trong và cực quang của sao Mộc để tìm hiểu thêm về nguồn gốc, cấu trúc, bầu khí quyển và từ quyển của hành tinh khí lớn nhất hệ Mặt trời.
Tàu Juno đã quay quanh sao Mộc trong hơn 2.505 ngày Trái đất và bay hơn 820 triệu km. Tàu vũ trụ đến sao Mộc vào ngày 4.7.2016. Nó thực hiện việc quay quanh quỹ đạo với chu kỳ 53 ngày và tàu vũ trụ tiếp tục với chu kỳ quỹ đạo đó cho đến khi bay ngang qua Ganymede vào ngày 7.6. 2021. Lực hút của mặt trăng lớn nhất sao Mộc khiến chu kỳ quỹ đạo của Juno giảm xuống còn 43 ngày. Chuyến bay ngang qua Europa vào ngày 29.9.2022, làm giảm chu kỳ quỹ đạo xuống còn 38 ngày. Sau hai lần bay ngang qua Io tiếp theo, vào ngày 16.5 và ngày 31.7, chu kỳ quỹ đạo của Juno sẽ cố định là 32 ngày.
Quyền giám đốc dự án Juno, ông Matthew Johnson thuộc Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA ở Nam California cho biết: “Io chỉ là một trong số các thiên thể tiếp tục xuất hiện dưới kính quan sát của Juno trong sứ mệnh mở rộng này. Cùng với việc liên tục thay đổi quỹ đạo của chúng tôi để tạo ra những góc nhìn mới về sao Mộc và bay thấp qua phần đêm của hành tinh, tàu vũ trụ cũng sẽ luồn lách giữa các vành đai của sao Mộc để tìm hiểu thêm về nguồn gốc và thành phần của chúng”.
Trong số bốn vệ tinh Galileo của sao Mộc, Io là vệ tinh tự nhiên nằm phía trong cùng. Với đường kính 3.642km, là vệ tinh lớn thứ tư bên trong hệ Mặt trời. Nó được đặt theo tên Io, người nữ tư tế của Hera và sau đó trở thành tình nhân của thần Zeus.
Với hơn 400 núi lửa đang hoạt động, Io là thiên thể có hoạt động địa chất mạnh nhất trong hệ Mặt Trời. Nhiều núi lửa phun ra khói lưu huỳnh và lưu huỳnh dioxide có độ cao lên tới 500km. Các cột khói núi lửa và các dòng dung nham trên Io tạo ra những thay đổi bề mặt lớn và tô lên đó nhiều màu sắc đỏ, vàng, trắng, đen và xanh, chủ yếu vì các hợp chất lưu huỳnh. Bề mặt Io cũng lấm chấm với hơn 100 ngọn núi, được nâng lên bởi lực nén mạnh tại đáy của lớp vỏ silicat của vệ tinh này. Vài đỉnh còn cao hơn cả Everest trên Trái đất.
Không giống hầu hết các vệ tinh ở phía ngoài hệ Mặt Trời có lớp băng bao phủ dày, Io chủ yếu gồm lớp đá silicat bao quanh một lõi sắt hay sulfide sắt nóng chảy. Đa phần bề mặt Io có đặc trưng là các đồng bằng rộng lớn được che phủ trong băng giá lưu huỳnh và lưu huỳnh dioxide.
|
Con người chuẩn bị ngắm rõ dung nhan mặt trăng nhiều núi lửa nhất hệ Mặt trời
| 1,201 | |
Các nhà thiên văn học đã phát hiện hơi nước khi quan sát một sao chổi hiếm gặp trong hệ Mặt Trời bằng Kính viễn vọng Không gian James Webb.
Đây là lần đầu tiên hơi nước được phát hiện xung quanh một sao chổi nằm trong vành đai tiểu hành tinh chính giữa quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc quanh Mặt Trời. Phát hiện này được đưa ra sau 15 năm nỗ lực của các nhà thiên văn học khi họ quan sát các sao chổi hiếm bằng những phương pháp quan sát khác nhau.
Nghiên cứu chi tiết về phát hiện được công bố hôm 15/5 trên tạp chí
Nature
.
Sao chổi thường tồn tại trong Vành đai Kuiper và Đám mây Oort, những vùng băng giá bên ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương, nơi đủ lạnh để có thể bảo quản một số vật liệu còn sót lại từ quá trình hình thành
hệ Mặt Trời
.
Nhưng một phân lớp sao chổi hiếm hoi được gọi là sao chổi vành đai chính là những vật thể trong vành đai tiểu hành tinh có quỹ đạo tròn quanh Mặt Trời. Thay vì giải phóng vật chất băng giá thông qua quá trình thăng hoa (chất rắn chuyển hóa thành khí) như sao chổi thông thường, các sao chổi vành đai chính dường như chỉ phóng ra bụi.
Với vị trí gần Mặt Trời hơn so với các sao chổi thông thường, các sao chổi vành đai chính không được cho là sẽ lưu giữ nhiều băng.
Vì vậy, khám phá về hơi nước xung quanh sao chổi vành đai chính có thể bổ sung thêm bằng chứng cho lý thuyết về việc nước có mặt trên Trái Đất như thế nào. Sao chổi và tiểu hành tinh giàu nước có thể đã va chạm với Trái Đất sơ khai và mang nước đến hành tinh của chúng ta.
Kính viễn vọng Không gian James Webb chụp lại hình ảnh của sao chổi 238P/Read bằng công cụ NIRCam của nó vào ngày 8/9/2022. Ảnh: NASA/ESA/CSA/M. Kelley/H. Hsieh/A. Pagan.
Các sao chổi vành đai chính được đồng tác giả nghiên cứu Henry Hsieh, nhà khoa học cấp cao tại Viện Khoa học Hành tinh ở Tucson, Arizona, đồng phát hiện lần đầu tiên vào năm 2006. Sao chổi Read, nơi phát hiện ra hơi nước, ban đầu chỉ là một tiểu mục trong nghiên cứu.
Dữ liệu chính xác do máy quang phổ cận hồng ngoại của kính James Webb thu thập đã giúp các nhà thiên văn học xác định dấu hiệu của hơi nước xung quanh sao chổi Read ngay sau khi nó tiếp cận Mặt Trời.
Michael Kelley, nhà thiên văn học và nhà khoa học nghiên cứu chính tại Đại học Maryland ở College Park, cho biết: “Với những quan sát của kính James Webb về sao chổi Read, giờ đây chúng ta có thể chứng minh rằng nước đóng băng từ Hệ Mặt Trời sơ khai có thể được bảo quản trong vành đai tiểu hành tinh”.
|
Lần đầu phát hiện hơi nước trong sao chổi hiếm
| 503 | |
Nhà thơ Lê Thái Sơn sinh năm 1949 tại
Diễn Châu
,
Nghệ An
, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội (1972), anh về công tác trong cơ quan văn nghệ tỉnh Nghệ An. Anh từng đảm nhận Phó Tổng biên tập Tạp chí Sông Lam (1973 – 1977) và Chủ tịch Hội VHNT Nghệ An (1997 – 2005). Tác giả của các thi phẩm: Gốc cây rừng trong mơ (1990), Mùa na chín (1997), Tháng Giêng xanh (2000), Cất nắng (2005), Lục bát sái vần (2005). Giải thưởng các cuộc thi thơ của báo Giáo dục thời đại (1997 – 1998), báo Tiền phong (1999 – 2000), Giải thưởng của Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (2000 và 2004). Bốn Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương (1987, 1997, 2002, 2005).
Thơ Lê Thái Sơn dạt dào tình yêu con người và thiên nhiên, đặc biệt thông cảm với thân phận của những lớp người vất vả, cơ nhỡ trong xã hội. Anh khá thành công ở thể thơ lục bát, nhuần nhuyễn với những tứ thơ đầy sáng tạo. “Khúc hát thầm của những người đào huyệt” là một trong số đó.
Khúc hát thầm
của những người đào huyệt
Cực chẳng đã, biết tính sao
Hay chi cái kiếp đi đào huyệt thuê
Nào thôi, tiếng khóc não nề
Da gà không nổi khi nghe lần đầu.
Nào thôi, cái sự nghèo giàu
Dữ lành chi cũng một màu cờ tang
Hai mét dọc, nửa mét ngang
Vùi cùng đất đá những sang với hèn.
Chai tay vì cuốc, vì vên
Ù tai vì trống, vì kèn nhạc tang
Mờ mắt vì khói, vì nhang
Lơ mơ tin cửa địa đàng đâu đây.
Nhìn người thăm viếng nơi này
Đoán kẻ dưới mộ những ngày trần gian.
Lê Thái Sơn
Sống giữa trần gian còn gì bất đắc dĩ hơn, còn gì vất vả hơn, còn gì trĩu nặng đau buồn hơn khi phải tròng vào cổ mình nghề đi đào huyệt thuê?
Nhiều khi bản thân những người trong cuộc cũng nghi ngờ chính cái nghề nửa thất nghiệp của mình. Đành rằng đã đi làm thuê thì dù chọn công việc gì mà chẳng rơi vào cảnh nửa thất nghiệp, nhưng đi đào huyệt thuê thì quả thực cực chẳng đã, chỉ những kẻ bị dồn đến chân tường mới chọn nghề này để tồn tại. Hình như nó không phải là cái nghề mà là cái kiếp đè lên vai lớp chúng sinh này. Một công việc quá đỗi cực nhọc về thể xác: Chai tay vì cuốc, vì vên/ Ù tai vì trống, vì kèn nhạc tang/ Mờ mắt vì khói, vì nhang… Sáu chữ vì đặt cạnh nhau cộng với nhịp đôi câu thơ tạo thành sáu tảng núi đá đè lên người đào huyệt thuê từng ngày, từng phút, từng giây. Nhưng những đau đớn về thể xác đó có thấm gì so với nỗi đau về tinh thần mà họ phải thường xuyên chịu đựng. Trước cảnh cha mất con, vợ mất chồng, bạn bè mất tri âm tri kỷ… luôn đập vào mắt, tâm hồn họ trở nên chai cứng: Nào thôi, tiếng khóc não nề/ Da gà không nổi khi nghe lần đầu. Trái tim họ ngỡ trở nên vô cảm trước những mất mát của con người. Chỉ còn lại trên “một màu cờ tang”, dưới “hai mét dọc nửa mét ngang” và đâu đây là “cửa địa đàng” đang chờ đợi những kẻ xấu số và chờ đợi bản thân họ.
Chứng kiến quá nhiều cái chết lành – chết dữ của quá nhiều hạng sang – hèn, dần dần họ trở thành những triết gia: Nhìn người thăm viếng nơi này/ Đoán kẻ dưới mộ những ngày trần gian. Câu thơ giản dị mà chứa biết bao nhận xét sâu sắc về sự đời – tình người và gửi gắm bao niềm tâm sự với những người đang sống. Chính nhờ thế, Khúc hát thầm của những người đào huyệt thuê dù cất lên khe khẽ vẫn đủ sức lay động đến những nơi sâu kín nhất trong tâm linh mỗi chúng ta.
|
Sức lay động từ một khúc hát thầm… – Tác giả: Lê Quốc Hán
| 686 | |
“Không một ai đến thăm nơi ở khiêm nhường này mà không trào dâng niềm xúc cảm trước sự vĩ đại của một nhân cách văn hoá lớn đã trở thành huyền thoại ngay trong cuộc sống đời thường của mình”.
Đơn sơ và giản dị, nhà sàn Bác Hồ trong Phủ Chủ tịch đã trở thành một biểu tượng của phong cách và đạo đức Hồ Chí Minh, để lại ấn tượng sâu sắc trong hàng chục triệu trái tim đã từng đến thăm nơi này.
Sau 4 năm ở tạm trong một ngôi nhà nhỏ của người thợ điện phục vụ cho phủ Toàn quyền Đông Dương cũ, tháng 5/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức chuyển sang ở ngôi nhà sàn bằng gỗ được xây dựng ở một góc vườn Phủ Chủ tịch.
Người thiết kế ngôi nhà sàn là Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nguyên là kiến trúc sư cung đình Huế. Theo gợi ý của Bác, ngôi nhà được làm giống như nhà sàn Bác đã làm việc ở chiến khu Việt Bắc, nhỏ đủ ở một người và sao cho phù hợp với hoàn cảnh nước nhà.
Nhà được làm bằng gỗ thường, mái lợp ngói, nhìn ra hồ nước theo hướng Đông- Nam, với 3 phòng nhỏ. Tầng dưới nhà không thưng vách mà chỉ treo mành tre cho thoáng mát, chính giữa phòng kê một bộ bàn ghế lớn dùng làm nơi họp Bộ Chính trị, nơi Bác làm việc với các cán bộ đầu ngành hoặc tiếp đồng chí, bạn bè.
Tầng trên có 2 phòng nhỏ: phòng ngủ và phòng làm việc, chiếc giá sách đặt ở giữa làm vách ngăn 2 phòng. Bác Hồ chọn sống ở nhà sàn là mong muốn được hòa mình với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, sống giản dị, tiết kiệm, gần gũi với quần chúng nhân dân lao động.
Ngày 17/5/1958, ngôi nhà sàn được khánh thành. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức một buổi liên hoan nhỏ để cảm ơn Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh và những người tham gia thi công. Ông Mai Xuân Khiêm (ở xóm 2, xã Ỷ La, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang), người trực tiếp tham gia thi công nhà sàn, nhớ mãi về buổi liên hoan đó. Hôm khánh thành nhà sàn, ông được ngồi liên hoan với Bác, Bác nói chuyện với anh em thân mật như cha với con. Được Bác chia bánh kẹo, ông ăn không hết để bỏ túi mang về.
Trong ngôi nhà sàn Bác đã sống và làm việc trong 11 năm cuối đời, chỉ có những vật dụng rất đơn sơ: một chiếc bàn, giá sách, tủ quần áo, giường gỗ cá nhân, tấm chăn đơn, chiếc chiếu cói, cây quạt cọ, chai nước lọc. Điều này đã được nhà thơ Tố Hữu khắc hoạ trong trường ca “Theo chân Bác”:
Nhà gác đơn sơ một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc chẳng mùi sơn
Giường mây chiếu cói, đơn chăn gối
Tủ nhỏ, vừa treo mấy áo sờn…
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhà sàn Bác Hồ đã trở thành một di sản văn hoá quí giá, biểu trưng sinh động cho phong cách sống của một con người vĩ đại: thanh tao, khiêm tốn, yêu lao động, không ham danh lợi, đạt đến độ mẫu mực, cảm hoá được tình cảm của con người.
Kể từ khi Bác mất đến nay, đã có hơn 55 triệu lượt khách đến thăm Khu di tích Phủ Chủ tịch, trong đó có gần 6 triệu lượt khách quốc tế. Mọi người đến thăm nhà sàn đều xúc động trước cuộc sống giản dị, mộc mạc, thanh cao của Bác.
Ngôi nhà sàn tại Phủ Chủ tịch tuy mộc mạc nhưng chứa đựng một tinh thần vô giá, đúng như những dòng cảm tưởng đầy xúc động của một vị khách quốc tế khi đến thăm Nhà sàn Bác Hồ: “Không một ai đến thăm nơi ở khiêm nhường này mà không trào dâng niềm xúc cảm trước sự vĩ đại của một nhân cách văn hoá lớn đã trở thành huyền thoại ngay trong cuộc sống đời thường của mình”.
|
Nhà sàn Bác Hồ – nơi toả sáng một nhân cách lớn
| 697 | |
Ở tuổi ngoài 70, nhà văn – dịch giả Đào Minh Hiệp vừa “leo lên đỉnh núi” khi dịch đầy đủ tiểu thuyết tự truyện
Thép đã tôi thế đấy
của nhà văn Nikolai Alekseyevich Ostrovsky từ bản gốc tiếng Nga.
Với gần 600 trang,
Thép đã tôi thế đấy
không chỉ là câu chuyện về niềm tin, lý tưởng, sức mạnh tinh thần của nhân vật Pavel Korchagin mà còn phản ánh chân thực, sinh động bức tranh xã hội Liên Xô (cũ) lúc bấy giờ.
Nhà văn – dịch giả Ðào Minh Hiệp sinh năm 1950, nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Phú Yên. Tên ông gắn liền với những tác phẩm văn học dịch:
Ðức Mẹ mặc áo choàng lông, Người giàu cũng khóc, Vĩnh biệt Machiora, Khát vọng đổi đời, Thám tử buồn, Những ngọn cờ trắng, Cuộc chiến đi qua, Thế giới trẻ em, Con gái Ivan, mẹ Ivan…
Ngoài niềm đam mê văn chương dịch thuật, nhà văn – dịch giả Đào Minh Hiệp còn đam mê hội họa, từng tổ chức triển lãm tranh…
Trong Lời giới thiệu bản dịch tiểu thuyết tự truyện
Thép đã tôi thế đấy
, nhà văn – dịch giả Đào Minh Hiệp đã phác thảo bức chân dung nhà văn Nikolai Alekseyevich Ostrovsky – một tấm gương sáng về niềm tin và nghị lực. Nhà văn Nikolai Alekseyevich Ostrovsky sinh năm 1904, trong một gia đình công nhân ở làng Vilia, huyện Governorat, tỉnh Volhynia, Ukraine. Ông từng làm thợ mộc, thợ đốt lò, thợ điện trước khi tham gia các hoạt động của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (Bolshevik) và gia nhập Hồng quân, trong lực lượng kỵ binh. Rời quân đội, ông được bầu làm Chủ tịch huyện Komsomol ở Izyaslav. Năm 1925, sức khỏe Nikolai Alekseyevich suy giảm nhanh chóng. Đến cuối năm sau, ông không thể đi lại, hầu như nằm liệt giường, cũng không thể nhìn được nữa. Năm 1930, trên giường bệnh, bóng tối bao trùm, Nikolai Alekseyevich bắt đầu viết tự truyện bằng cách đọc cho người khác ghi lại. Đó chính là tiểu thuyết
Thép đã tôi thế đấy
. Năm 1936, nhà văn qua đời, chưa kịp hoàn thành tác phẩm tiếp theo – tiểu thuyết
Sinh ra trong bão táp
.
Phóng viên đã trò chuyện với nhà văn – dịch giả Đào Minh Hiệp về công trình lớn của ông trong năm vừa qua: dịch tiểu thuyết
Thép đã tôi thế đấy.
Sách do NXB Văn học, Công ty TNHH Văn hóa và Truyền thông Trí Việt ấn hành.
* Thưa nhà văn, vì sao ông quyết định dịch một tác phẩm nổi tiếng, đã được dịch sang tiếng Việt lần đầu tiên cách đây gần 70 năm?
– Khi biết tôi có ý định dịch Thép đã tôi thế đấy, một người bạn thân nói: “Anh dịch cuốn này là leo lên đỉnh núi khá cao”. Vì cuốn này đã được dịch đi dịch lại mấy lần rồi. Và bây giờ, liệu cuốn này có còn thu hút sự quan tâm của độc giả không? Tôi gọi điện cho nhà xuất bản, nói với họ về những băn khoăn đó. Họ bảo: “Không, những cuốn trước dịch từ tiếng Trung và là bản dịch rút gọn. Nếu anh tìm được bản gốc thì dịch, không thì thôi, chứ bản lược dịch như ngày trước, chúng tôi không in lại”. Đúng là hồi trước, tôi cũng đọc một cuốn như vậy, chỉ hơn trăm trang thôi.
Họ nói vậy thì tôi phải tìm bản gốc. Tôi lên mạng cả tuần, tìm người sở hữu bản quyền cuốn tiểu thuyết này, vì nhà văn Nikolai Alekseyevich Ostrovsky đã qua đời gần 90 năm rồi. Và tôi tìm được hậu duệ của nhà văn. Tôi nói với ông ấy một câu dứt khoát: “Nếu anh có bản gốc và giữ bản quyền thì chúng ta sẽ làm việc với nhau”. Ông ấy bảo: “Đấy, bản gốc đấy. Chúng tôi là người thừa kế, nhưng chúng tôi cần biết anh là ai thì chúng tôi mới gửi cho anh”. Sau khi tìm hiểu, tra cứu trên mạng, họ đồng ý cho tôi dịch bản gốc Thép đã tôi thế đấy.
Về tranh bìa minh họa, tôi có bản minh họa gốc của một nhà xuất bản Nga. Họ cho mình bản minh họa luôn. Tôi rất mừng. Quý lắm!
* Ông mất bao nhiêu thời gian để dịch xong bản gốc Thép đã tôi thế đấy?
– Bắt tay vào làm chính thức thì trong vòng 2-3 tháng thôi. Trước kia, tôi cũng đã dịch một số chương của Thép đã tôi thế đấy để trích in báo, nhưng không xâu chuỗi tất cả lại. Những phần đó chủ yếu nói về tình yêu, lý tưởng. Còn trong bản gốc này, cả mặt tốt lẫn mặt hạn chế của nước Nga Xô viết được phơi bày, giống như Sông Đông êm đềm sau này tái bản. Ngày trước, người ta chỉ giữ lại những nội dung phục vụ nhiệm vụ chính trị. Còn đây là nguyên gốc tác phẩm.
* Đã từng đọc Thép đã tôi thế đấy nhưng khi tiếp cận bản gốc và dịch sang tiếng Việt, cảm xúc của ông như thế nào, thưa ông?
– Tôi hơi bất ngờ, vì bản gốc có rất nhiều nội dung so với những bản mình đã đọc, phản ánh trung thực, sinh động xã hội Nga lúc bấy giờ. Sau khi đọc bản gốc, tôi nói với nhà xuất bản và họ đồng ý ngay. Họ yêu cầu tôi dịch đúng như thế, đừng cắt xén gì, và dịch sớm cho họ.
* Điều gì thôi thúc một dịch giả hơn 70 tuổi dịch tiểu thuyết tự truyện này, thưa ông?
– Thật ra, tất cả những công việc mà người ta đam mê làm đều xuất phát từ tình yêu. Với tôi, đó là tình yêu văn học, thứ hai là tình yêu đối với nước Nga – dẫu có thăng trầm biến đổi như thế nào thì cũng đã in sâu trong ký ức mình, nhất là thời trai trẻ. Công việc mình làm là niềm đam mê, và trả một chút xíu món nợ cho nơi mình đã trưởng thành. Nhưng cái chính vẫn là sự đam mê.
* Xin cảm ơn ông!
|
Nhà văn – dịch giả Đào Minh Hiệp: Bất ngờ khi dịch bản gốc Thép đã tôi thế đấy
| 1,044 | |
Đoàn tàu thực hiện nghi thức lễ rước linh hồn Ông Nam Hải vào bờ.
Cứ ba năm một lần, ngư dân vùng biển xã Thanh Hải,
huyện Ninh Hải
(
Ninh Thuận
) tổ chức Lễ hội cầu ngư Lăng Thần Nam Hải Mỹ Tân (còn gọi là Lễ hội Nghinh Ông), nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, thuyền đầy tôm cá. Lễ hội đã thu hút đông đảo du khách trong nước và nước ngoài đến tham quan, tìm hiểu nét văn hóa đặc sắc của ngư dân nơi đây.
Lễ hội Nghinh Ông thường diễn ra trong thời gian năm ngày (từ 11-15/3 âm lịch hằng năm). Nhiều ngày trước đó, không khí chuẩn bị vui đón những ngày diễn ra lễ hội của ngư dân vùng biển rất nhộn nhịp.
Nhà nhà, người người tất bật tuyển chọn những chiếc tàu lớn nhất vùng để trang trí mầu sắc lộng lẫy, treo cờ, hình ảnh liên quan đến đời sống tâm linh của ngư dân và chọn những thanh niên khỏe mạnh để tập luyện những màn trình diễn múa lân, sư, rồng, múa náp… biểu diễn trong lễ hội, nhằm bày tỏ sự tôn kính, tri ân cá voi – loài cá được ngư dân gọi là “Ông” từ đời này qua đời khác. “Ông” đã cứu sống nhiều người dân gặp nạn trên biển, cho nên ngư dân luôn nhớ đến công ơn và lập lăng để thờ cúng.
Từ sáng sớm, khắp đường làng, ngõ xóm đều treo cờ Tổ quốc, cờ phướn…; nhà ở của ngư dân cũng được bài trí khang trang. Đúng 12 giờ, mọi người tập trung tại lăng ông Nam Hải để cúng lễ. Tiếp đó, đoàn cúng lễ hội đi về khu vực cảng cá Mỹ Tân để thực hiện nghi thức nghinh thần, phần nghi lễ đặc sắc, thu hút đông đảo du khách và người dân địa phương thưởng lãm.
Trong nghi thức này, ngư dân làng biển Mỹ Tân, xã Thanh Hải sẽ nghinh thần từ ngoài biển vào vùng dân cư (còn gọi là lễ rước linh hồn Ông Nam Hải). Theo phong tục, lễ rước được bố trí hàng chục chiếc tàu to nhất làng cùng với những ngư dân khỏe mạnh, can trường nhất, tinh thần sảng khoái nhất… đã được tuyển chọn đứng xếp hàng nghiêm trang trước mũi tàu và hai bên sườn tàu. Trong đó, ba chiếc tàu to được ghép chặt vào nhau, khởi hành từ lăng Ông Nam Hải hướng ra biển khơi.
Trên tàu ghép vị trí trung tâm, bà con lập hương án ở mũi tàu, chở theo ban nghi lễ cùng đội nhạc, chiêng trống, cờ phướn, lọng che rất uy nghiêm. Tàu bên trái và bên phải chở hai đoàn lân, sư, rồng, đoàn múa náp (múa siêu) cùng các bậc hào lão, kỳ mục. Theo sau là hàng chục tàu khác của ngư dân nối đuôi nhau vươn khơi theo hướng mặt trời mọc.
Khi đã vươn khơi hơn một hải lý, tàu chính rẽ phải chạy lên hướng Hòn Đỏ, rồi ngược lại đến Hòn Chông và dừng lại. Theo các cụ cao tuổi trong làng, kể từ lúc lập làng đến nay, đây là hai vị trí thường được “Ông” đưa người gặp nạn tấp vào và thoát chết mỗi khi gặp giông bão trong lúc ra khơi đánh bắt hải sản. Ghi nhớ công ơn đó, dân làng đã lập lăng để tưởng nhớ và thờ cúng.
Khi dừng lại ở Hòn Chông, trên tàu nổi lên một hồi trống hiệu, chủ tế sẽ thực hiện nghi thức dâng hương và cầu khấn theo lễ tục. Khoảng gần một giờ đồng hồ thì lễ cúng hoàn tất, cả đoàn người trên các tàu cùng hò reo vang dậy với tinh thần phấn khởi và cùng quay mũi tàu chạy hướng vào bờ.
Ông Nguyễn Khắc Thuận, Phó trưởng Ban tổ chức Lễ hội cầu ngư Lăng Thần Nam Hải Mỹ Tân ở xã Thanh Hải cho biết: Năm nay, cùng với lễ nghinh thần còn có nhiều nghi thức khác như: Lễ thỉnh sinh, lễ giỗ tiền hiền, lễ tế chánh Ông Nam Hải, lễ tế hội đồng khai tràng, ca diên, hát tuồng và cuối cùng là lễ tôn vương nhằm tôn vinh các giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp, tri ân các bậc tiền nhân và các chư vị Ngư Thần, thể hiện lòng thành kính, đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Đã bao đời qua, lễ hội cầu ngư là món ăn tinh thần không thể thiếu của cư dân vùng biển. Qua đó, bà con cầu mong “mẹ biển” phù hộ ngư dân khi vươn khơi khai thác hải sản được an toàn, thuận buồm xuôi gió, thuyền đầy cá, tôm…
Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngư dân địa phương còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, trò chơi mang đậm văn hóa vùng biển, giúp thắt chặt hơn nữa tinh thần đoàn kết, gắn chặt tình làng nghĩa xóm, cùng vươn lên trong cuộc sống.
Ngư dân Lê Trọng Hiền, ở làng biển Mỹ Tân, chia sẻ: “Nhờ thần biển phù hộ cho nên những tháng đầu năm 2023, tàu, thuyền ra khơi khai thác đều đạt sản lượng lớn với nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao, mọi nhà đều no ấm”.
Dịp này, bà con càng phấn khởi hơn khi Lễ hội cầu ngư Lăng Thần Nam Hải Mỹ Tân ở xã Thanh Hải được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
BÀI VÀ ẢNH: NGUYỄN TRUNG
|
Đặc sắc lễ hội cầu ngư
| 949 | |
Khí CO2 và methane do các công ty thuộc nhóm ‘Big 88’ thải ra chính là nguyên nhân gây ra hơn 1/3 số diện tích đất đai bị thiêu rụi vì cháy rừng ở khu vực phía Tây của Bắc Mỹ trong 40 năm qua.
Cháy rừng ở Foresthill, bang California, Mỹ. (Ảnh: AFP/TTXVN).
Trong một phân tích đăng ngày 16/5 trên tạp chí nghiên cứu môi trường Environmental Research Letters, các nhà khoa học khí hậu của
Mỹ
cho biết khí CO2 và methane do các công ty thuộc nhóm “Big 88” thải ra chính là nguyên nhân gây ra hơn 1/3 số diện tích đất đai bị thiêu rụi vì cháy rừng ở khu vực phía Tây của Bắc Mỹ trong 40 năm qua.
Đây là lần đầu tiên các nhà khoa học xác định mức độ khí gây hiệu ứng nhà kính do các công ty nhiên liệu hóa thạch hàng đầu thế giới thải ra đã làm gia tăng các vụ cháy rừng như thế nào.
Tác giả hàng đầu của nghiên cứu, bà Kristina Dahl, thuộc Liên hiệp các nhà khoa học UCS, cho biết cháy rừng ở miền Tây nước Mỹ và Tây Nam
Canada
đã tồi tệ hơn trong những thập kỷ qua: cháy lớn hơn, trong thời gian dài hơn, trên diện tích rộng hơn và ở cây tầm cao hơn.
Bà cho biết chi phí tái sinh rừng và tăng khả năng chống chịu chủ yếu do người dân đóng góp, “vì vậy chúng tôi muốn hiểu rõ hơn vai trò của khí thải từ công ty nhiên liệu hóa thạch đối với các vụ cháy rừng.”
Bà cho rằng cần nhấn mạnh rõ vai trò của các công ty nhiên liệu hóa thạch để họ có thể chịu trách nhiệm một cách công bằng và đóng góp các chi phí ứng phó.
Sử dụng mô hình khí hậu, nhóm nghiên cứu đã xác định khí thải từ các công ty Big 88 – trong đó có ExxonMobil, BP, Chevron và Shell – phải chịu trách nhiệm về việc khiến nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng thêm 0,5 độ C kể từ đầu thế kỷ 20.
Các tác giả nghiên cứu đã tính đến toàn bộ các khí thải trong chu kỳ sống của các nhiên liệu hóa thạch – từ khâu chiết xuất và đốt, lọc và sử dụng trong một phương tiện.
Sự góp phần của các công ty nói trên vào tình trạng ấm lên toàn cầu sau đó được sử dụng để tính mức độ làm gia tăng Sự thiếu hụt áp suất hơi (VPD – cách để tính khả năng không khí hút nước của cây và đất) tại khu vực phía Tây của Bắc Mỹ.
Vì không khí ấm hơn có thể chứa nhiều hơi nước hơn, nhiệt độ tăng do biến đổi khí hậu khiến VPD tăng. Khi VPD cao hơn khiến một khu vực dễ cháy hơn.
Các nghiên cứu gần đây đã thiết lập một mối liên hệ giữa việc tăng chỉ số VPD với khu vực bị cháy rừng.
Tổng hợp tất cả các yếu tố trên, nhóm nghiên cứu của bà Dahl phát hiện rằng khí thải của các công ty Big 88 đã gây ra 37% tổng diện tích đất đai bị thiêu rụi vì cháy rừng tại miền Tây nước Mỹ và Tây Nam Canada trong thời gian từ năm 1986-2021. Mức tăng này là 8 triệu ha, tương đương diện tích
Cộng hòa Séc
.
Nghiên cứu cũng phát hiện rằng các khí thải của các công ty trên chính là nguyên nhân gây ra một nửa mức tăng chỉ số VPD kể từ năm 1901.
Các nhân tố khác làm tăng điều kiện dễ cháy trong thế kỷ trước bao gồm hệ thống chặn cháy tăng cường, dẫn tới việc trồng quá nhiều loại cây vốn thường sẽ được đốt để ngăn chặn các đám cháy nhỏ hơn thường xuyên xảy ra.
Ngoài ra, các sự cố cháy cũng gia tăng khi con người xâm nhập vào khu vực dễ cháy./.
|
Xác định mối liên hệ về lượng giữa khủng hoảng khí hậu và cháy rừng
| 665 | |
Những dấu tay tí hon trong hang động Wadi Sura II 8.000 năm tuổi. Ảnh: Emmanuelle Honoré.
Theo một nghiên cứu từ Đại học Tự do Brussels (
Bỉ
), những dấu vết hình bàn tay trong hang đá Wadi Sura II ở Sahara không phải của con người.
Những dấu ấn do con người tạo ra trên đá luôn được xem là kho tài liệu quý giá trong ngành Khảo cổ học. Tuy nhiên, ít ai biết rằng tác giả của phần lớn dấu tay đó chính là trẻ em.
Theo một nghiên cứu từ Đại học Cantabria và Đại học Cambridge vào năm 2022, có tới 25% hình vẽ trong các hang động thời kỳ đồ đá ở
Tây Ban Nha
là của trẻ em, thậm chí cả trẻ mới biết đi.
Nhưng tự nhiên luôn ẩn chứa những điều bất ngờ thú vị. Chẳng hạn như trường hợp của hang động 8.000 năm tuổi Wadi Sura II, những dấu vết trông giống bàn tay trẻ nhỏ tại đây lại không phải do con người tạo ra.
Khi hang Wadi Sura II được phát hiện ở Sa mạc phía Tây của
Ai Cập
(một khu vực của sa mạc Sahara) vào năm 2002, các nhà nghiên cứu rất ngạc nhiên trước hàng nghìn dấu vết bên trong. Ngoài hình vẽ động vật hoang dã, con người và những sinh vật không đầu, hang động này còn có hàng trăm dấu giống như tay người. Những dấu vết kỳ quái khiến Wadi Sura II được gọi là “hang động của quái vật”.
Những “dấu tay” nhỏ này không phải của con người. Ảnh: Emmanuelle Honoré.
Điều bất thường hơn nữa là sự xuất hiện của 13 dấu vết giống như tay trẻ sơ sinh. Thậm chí, người ta còn tìm thấy dấu của một bàn tay “em bé” nép vào bên trong một đôi tay người lớn.
Trước khi tìm ra Wadi Sura II, con người từng phát hiện dấu tay và dấu chân trẻ nhỏ ở nhiều hang đá khác trên thế giới, nhưng chưa bao giờ thấy chúng ở Sahara – khu vực có khí hậu khắc nghiệt bậc nhất hành tinh.
Tuy nhiên, theo một nghiên cứu từ Đại học Tự do Brussels (Bỉ) vào năm 2016, những dấu vết hình bàn tay nhỏ trong hang đá Wadi Sura II ở Sahara không phải của con người.
Năm 2006, nhà nhân chủng học Emmanuelle Honoré thuộc Đại học Tự do Brussels đã ghé thăm Wadi Sura II và phát hiện điều bất thường về những dấu vết hình bàn tay trẻ nhỏ.
“Chúng nhỏ hơn nhiều so với tay trẻ sơ sinh, các ngón tay quá dài,” Honoré giải thích.
Cảm thấy nghi ngờ, Honoré quyết định so sánh kích thước của dấu tay trong hang động với bàn tay của trẻ sơ sinh và cả trẻ sinh non từ một bệnh viện ở Pháp. Kết quả cho thấy, khả năng cao những “dấu tay” nhỏ trong “hang quái vật” không phải là do con người gây ra.
Từ vị trí, đường nét cũng như hình dạng của các “ngón”, nhóm nghiên cứu kết luận rằng những “bàn tay” này rất linh hoạt và có khớp nối, đồng thời loại trừ khả năng chúng được in ra từ một khuôn bằng gỗ hoặc đất sét.
Những “dấu tay” tí hon có tỷ lệ gần nhất với chi trước của loài kỳ đà sa mạc. Ảnh: Live Science.
Honoré ban đầu nghi ngờ đó là dấu chân khỉ, nhưng so sánh cho thấy điều này không đúng. Các nhà nghiên cứu tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Paris đã đề nghị Honoré xem xét loài bò sát. Kết quả, “dấu tay em bé” có tỷ lệ gần nhất với chân trước của kỳ đà sa mạc, loài vẫn tồn tại trong khu vực Sahara cho đến ngày nay. Honoré đã xác định rằng những dấu “tay” trên đá được tạo ra bởi một con kỳ đà, cùng với ít nhất hai người cổ đại trưởng thành.
Phát hiện của Honoré cho thấy không chỉ con người mà các loài động vật cũng có thể tạo ra tranh vẽ trên đá.
“Chúng ta thường cho rằng thiên nhiên là thứ tách biệt với con người, nhưng qua phát hiện này, có thể thấy con người chỉ là một phần của thế giới tự nhiên rộng lớn”, Honoré nói.
|
Bí ẩn về những dấu tay trong ‘hang động của quái vật’ giữa Sahara
| 719 | |
Hàng nghìn con bò đã bị mất tích do lũ lụt ở lưu vực hồ Tulare. Ảnh: AP.
Những hình ảnh mới cho thấy sự xuất hiện trở lại của hồ Tulare ở California (
Mỹ
), giữa lúc người dân chuẩn bị đối phó lũ lụt khi băng tuyết bắt đầu tan chảy.
Những hình ảnh vệ tinh mới do NASA công bố trong tuần này cho thấy sự xuất hiện trở lại của hồ Tulare ở California, theo
Guardian.
Được chụp từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 4, và thêm màu sắc để phân biệt nước với thảm thực vật, mặt đất trống, hình ảnh này làm nổi bật quy mô của sự biến đổi trên khắp khu vực California. Nơi này vẫn đang vật lộn với hậu quả của mưa lớn và tuyết rơi trong mùa đông năm nay.
Đây không phải là lần đầu tiên “hồ ma” xuất hiện cùng với lũ lụt trên diện rộng, nhưng sự tấn công dữ dội của thời tiết khắc nghiệt kéo theo nhiều thiệt hại lớn cho cư dân, người lao động nông nghiệp và trang trại. Tồi tệ hơn, điều này còn kéo dài.
Bao phủ bởi những đỉnh núi phủ trắng Sierra Nevada, khu vực ở California sẽ phải đối mặt với đợt tuyết tan và một lượng nước lớn đổ vào các tuyến đường thủy khi thời tiết ấm lên.
Vào hôm 11/5, lớp tuyết ở miền Nam Sierra dày hơn đến 436% so với mức bình thường vào cùng thời điểm trong năm, theo cơ quan Thủy lợi (DWR) của California.
Giám đốc DWR, Karla Nemeth, cho biết trong tuyên bố bằng văn bản rằng: “Mưa tuyết khổng lồ năm nay đang đặt ra nguy cơ lũ lụt liên tục ở Thung lũng San Joaquin”. Đồng thời, bà cũng đề cập đến kết quả “vừa vui vừa buồn” sau nhiều năm hạn hán.
Lũ lụt xảy ra sau nhiều năm hạn hán nghiêm trọng cho thấy thời tiết khắc nghiệt điển hình ở bang California, dao động giữa hình thái quá ẩm ướt và quá khô. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể làm cho các trạng thái cực đoan trở nên dữ dội hơn.
Hình ảnh vệ tinh của NASA cho thấy khu vực lũ mở rộng ở lưu vực hồ Tulare. Ảnh: NASA.
Bà Nemeth cho biết băng tuyết sẽ dẫn đến dòng chảy lớn kéo dài qua các lưu vực San Joaquin và Tulare trong vài tháng.
Thiệt hại trên diện rộng đã diễn ra. Nước dâng cao nhanh chóng đã dẫn đến các cuộc sơ tán khắp khu vực vào đầu mùa xuân, buộc cộng đồng cư dân đổ xô lên vùng đất cao hơn.
Ở hạt Tulare – một trong những vùng sản xuất sữa lớn nhất thế giới – hàng nghìn con bò đã bị mất tích vì lũ lụt, trong khi khoảng 75.000 con được kéo đến nơi an toàn.
Nước cũng cuốn trôi các loại cây trồng chính và người lao động nông nghiệp mất việc làm trên khắp thung lũng ngập nước.
“Hồ ma” Tulare nằm tại hạt Tulare, thung lũng Central Valley và từng là hồ nước ngọt lớn nhất ở miền Tây nước Mỹ. Tuy nhiên, nước hồ cạn dần do khu vực này được phát triển cho nông nghiệp và các con sông được chuyển hướng để phục vụ tưới tiêu.
Nhiều thập kỷ trôi qua sau đó, Tulare trở thành vùng đất ngập nước trải dài trên gần 2.071 km2.
Được đào đắp bằng các con kênh và dọn sạch để lấy đất trồng trọt, đồng cỏ chăn nuôi vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, lưu vực này hiện trải dài trên nhiều hạt và là nơi sinh sống của khoảng 4 triệu người dân California.
Khu vực cũng sản xuất một tỷ lệ đáng kể nguồn cung hạnh nhân, quả hạt dẻ cười, sữa và trái cây tại Mỹ.
Tuy nhiên, một số thị trấn hiện đối mặt nguy cơ bị lũ lụt, bao gồm cả Corcoran – nơi các quan chức thành phố đang gấp rút nâng cao một con đê trước khi nước tiếp tục dâng.
Các con đường và trang trại đang bị ngập lụt bên ngoài Corcoran, California. Ảnh: New York Times.
Trải dài hơn 23 km, con đê bảo vệ chống lại nước lũ này cao hơn 57 m. Tuy nhiên, vào tháng 3, mực nước hồ Tulare đã tăng lên gần 54,2 m.
“Cộng đồng Corcoran chỉ có một khoảng thời gian ngắn với điều kiện khô ráo trước khi lượng tuyết tan chảy từ dãy núi Sierra Nevada hòa với dòng nước lũ hiện có ở Hồ Tulare, và chống lại đê Corcoran”, nhà chức trách đưa ra cảnh báo vào tháng 4.
Họ nói thêm tuyết tan “được dự đoán làm tăng lượng nước trong hồ Tulare lên mức cao nguy hiểm, làm tăng đáng kể nguy cơ tràn và xói mòn trên đê Corcoran”.
Hình ảnh vệ tinh của NASA cũng cho thấy những khu vực mà các nhà quản lý đang cố gắng chuyển hướng dòng chảy tới, để lấp đầy các ao hồ, cho phép nước thấm xuống lòng đất và cung cấp cho tầng ngậm nước cạn kiệt.
DWR đã bắt đầu công việc khẩn cấp để bơm dòng chảy lớn của sông ra khỏi vùng ngập lũ, vào các chỗ trũng như trên.
Thế nhưng, cùng với việc củng cố con đê và các biện pháp bảo vệ khác, một số người lại ủng hộ việc hồi sinh một phần Hồ Tulare vĩnh viễn.
Họ thúc đẩy việc chuyển hướng nhiều lượng nước hơn vào lòng hồ lịch sử trước khi tuyết tan, lập luận việc làm ngập lưu vực này sẽ giúp giảm bớt lũ lụt ở thượng nguồn.
“Năm nay sẽ chứng kiến lượng nước kỷ lục chảy vào Central Valley giữa Fresno và Bakersfield”, cư dân Martin Chavez viết trong bản kiến nghị trực tuyến được hàng trăm người ký tên. “Cộng đồng ở tuyến đầu sẽ phải đối mặt trước tiên với mối đe dọa này, vì nước được dẫn xuống hạ lưu các hồ chứa đang căng thẳng”.
Dù vậy, bất cứ sự thay đổi nào trong khu vực sẽ không đến nhanh chóng, hoặc ít nhất là dễ dàng. Hầu hết đất đai thuộc sở hữu tư nhân và ngành nông nghiệp chiếm ưu thế không muốn nhìn thấy thêm những cánh đồng bông, cà chua và quả hạt dẻ cười có giá trị cao ngập trong nước.
|
Ảnh vệ tinh cho thấy ‘hồ ma’ ở California xuất hiện trở lại
| 1,072 | |
Vườn Quốc gia Cúc Phương là khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận thuộc ba tỉnh:
Ninh Bình
,
Hòa Bình
,
Thanh Hóa
. Nơi đây có hệ động thực vật phong phú, đa dạng, mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới; là nơi phát hiện và bảo tồn nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao. Đây là Vườn Quốc gia đầu tiên của Việt Nam thực hiện nhiều sản phẩm du lịch có trách nhiệm với môi trường, được quốc tế bình chọn là điểm đến hàng đầu châu Á liên tiếp từ năm 2019 – 2022.
Tháng 5 là thời điểm đẹp nhất tại rừng Cúc Phương với hàng triệu con bướm khoe sắc ngợp trời. Ảnh: Minh Đức/TTXVN.
Du lịch kết hợp với các hoạt động thể thao là một trong những sản phẩm được đánh giá có nhiều tiềm năng mà Vườn Quốc gia Cúc Phương hướng đến khai thác và phát triển. Qua 2 năm tổ chức giải chạy “Cúc Phương Jungle Paths” đã góp phần quảng bá, giới thiệu vẻ đẹp, sức hấp dẫn của thiên nhiên, lịch sử, văn hóa, thực hiện chiến lược bảo tồn và phát triển bền vững Vườn Quốc gia đầu tiên của Việt Nam.
Nhằm tuyên truyền về công tác bảo tồn thiên nhiên, Vườn Quốc gia Cúc Phương đã tính toán các cự ly chạy phù hợp với vận động viên; bố trí khu vực chạy ở các cự ly khác nhau; trong đó, chủ yếu ở vùng đệm, phân khu phục hồi sinh thái, phân khu hành chính dịch vụ; chỉ bố trí khoảng 300 vận động viên chạy qua vùng lõi của Vườn. Ngoài vận động viên Việt Nam, giải chạy thu hút sự tham gia của hơn 100 vận động viên đến từ 26 quốc gia trên thế giới. Sau 2 mùa giải, công tác bảo tồn thiên nhiên cũng như bảo vệ các loài động vật hoang dã đã lan tỏa sâu rộng đến người dân trong nước và du khách quốc tế.
Vận động viên Vũ Tiến Việt Dũng (39 tuổi đến từ Hà Nội), đoạt giải Nhì cự ly 100 km tại giải chạy “Cúc Phương Jungle Paths 2023” chia sẻ, anh có 2 năm tham gia giải chạy vào năm 2022 và 2023. Năm nay, anh có hơn 16 tiếng chạy trải nghiệm các cung đường trong Vườn Quốc gia Cúc Phương, qua nhiều làng bản, có sông, suối, nhiều đá tai mèo, không khí trong lành, mang nét đặc trưng của Cúc Phương.
Bên cạnh đó, tour “Về nhà” (được Vườn Quốc gia Cúc Phương tổ chức từ tháng 3/2021) đã khiến nhiều du khách, nhất là các “du khách nhí” rất thích thú khi được trải nghiệm và đồng hành cùng công tác tái thả động vật hoang dã sau cứu hộ. Tour du lịch gắn với việc lần đầu tiên một vườn quốc gia cho phép du khách tham gia trải nghiệm và đồng hành cùng công tác này. Theo đại diện Vườn Quốc gia Cúc Phương, mục đích của tour “Về nhà” là lan tỏa tình yêu và sống có trách nhiệm với thiên nhiên hơn. Khi chứng kiến khoảnh khắc động vật được “hồi sinh” trở về “mái nhà” của tự nhiên, mỗi du khách như được đón nhận năng lượng từ rừng già bằng cảm nhận riêng của mình; đồng thời, xác định sứ mệnh chuyển tải thông điệp đến gia đình, người thân về trách nhiệm xã hội vì mục tiêu phát triển bền vững.
Du khách tham quan Động Người Xưa, nằm trong Vườn Quốc gia Cúc Phương thuộc huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Minh Đức/TTXVN.
Vườn Quốc gia Cúc Phương có diện tích 22.408 ha, là một trong những nơi có tính đa dạng sinh học cao của Việt Nam với nhiều loài động thực vật quý hiếm có tên trong Sách đỏ. Bên cạnh sự đa dạng của thảm thực vật, hệ động vật ở đây rất phong phú và độc đáo. Vườn Quốc gia còn là bảo tàng thiên nhiên tuyệt vời, lưu giữ nhiều dấu tích của sự sống từ thời tiền sử cho đến ngày nay. Trải qua các giai đoạn phát triển, Cúc Phương đã dần hình thành, xây dựng và vận hành thành công mô hình quản lý, bảo vệ, nghiên cứu, khai thác du lịch sinh thái nhằm giáo dục, nâng cao nhận thức bảo tồn thiên nhiên. Trên cơ sở tiềm năng về đa dạng sinh học, cảnh quan tự nhiên, Vườn Quốc gia đã tổ chức được “hệ sinh thái” du lịch với nhiều chương trình và sản phẩm có trách nhiệm với môi trường như: Hành trình hồi sinh, tour “Về nhà” dành để chăm sóc, cứu hộ các loài động vật hoang dã; trại hè “Lớn lên cùng đại ngàn” để giáo dục, nâng cao ý thức và tình yêu thiên nhiên tới các thế hệ học sinh, sinh viên… Đặc biệt, tour du lịch trải nghiệm “Về nhà” được các chuyên gia đánh giá là Top 10 du lịch độc đáo tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Chính, Giám đốc Vườn Quốc gia Cúc Phương chia sẻ, Cúc Phương lấy trọng tâm hướng đến là học sinh, sinh viên và các nhà nghiên cứu để phát triển định hướng du lịch sinh thái gắn với tuyên truyền thực hiện việc bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần sớm tự chủ tài chính và phát triển bền vững. Vườn Quốc gia sẽ khai thác sâu hơn những tour, tuyến mang đậm trách nhiệm với môi trường. Mỗi du khách đến đây đều được trải nghiệm, kể chuyện và truyền tải thông điệp về việc đồng hành cùng Vườn Quốc gia Cúc Phương trong nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Theo ông Gareth O’Hara, Giám đốc Lữ hành Á Châu, hàng năm, đơn vị phối hợp với Vườn Quốc gia Cúc Phương đưa khoảng 1.000 học sinh, sinh viên trong và ngoài nước tham quan, trải nghiệm tại khu vực động Người Xưa; cây cổ thụ, xem chim, thú đêm; chinh phục đỉnh cao Mây Bạc (là nóc nhà Cúc Phương); xuyên rừng ngủ bản; trải nghiệm tìm hiểu đời sống, văn hóa, tri thức bản địa và các hoạt động giao lưu văn nghệ… Qua đó, du khách có những trải nghiệm độc đáo, đồng thời lan tỏa được tinh thần, trách nhiệm trong việc bảo tồn thiên nhiên.
Ông Phạm Duy Phong, Phó Giám đốc Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình cho biết, những năm gần đây, tỉnh đã định hướng để phát triển thêm loại hình du lịch gắn với cứu hộ, bảo tồn thiên nhiên. Đây là một trong những xu thế trong tương lai được cư dân thành thị cũng như cư dân ở một số địa phương thích thú, muốn tìm hiểu. Thời gian tới, ngành du lịch tỉnh tiếp tục tập trung vào công tác quảng bá, xúc tiến đối với loại hình du lịch này để thu hút du khách quan tâm và trải nghiệm. Theo đó, ngành sẽ đẩy mạnh, tận dụng tối đa các loại hình quảng bá trên mạng thông tin xã hội, internet, hội nghị, hội thảo, ấn phẩm; tham gia các hội chợ du lịch quốc tế trong và ngoài nước để tiếp cận, chủ động đưa thông tin đến du khách cũng như các đối tác cung cấp dịch vụ du lịch nhằm phát triển loại hình du lịch này.
Phó Giám đốc Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình nhận định, đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái gắn với cứu hộ, bảo tồn cần có kế hoạch, chính sách bảo vệ rừng, tài nguyên thiên nhiên. Việc xây dựng thêm nhiều sản phẩm mang tính trải nghiệm cho du khách là cần thiết nhưng lưu ý không làm tổn hại đến thiên nhiên, hướng tới bảo vệ môi trường. Đó mới là cách làm du lịch sinh thái đúng, bền vững.
|
Phát triển du lịch sinh thái, bền vững ở Vườn Quốc gia Cúc Phương
| 1,341 | |
Trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam và nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ kiệt xuất, người chiến sỹ cộng sản lỗi lạc, người đồng chí, người thầy kính yêu, người bạn thân thiết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nhịp bài hát “Kết đoàn” trong buổi dạ hội của nhân dân Thủ đô chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, tháng 9/1960. (Ảnh: Lâm Hồng Long/TTXVN).
Chủ tịch Hồ Chí Minh
, cái tên không chỉ gợi nên tình cảm thành kính trong mỗi người dân Việt Nam mà còn tạo được ấn tượng đẹp với bè bạn quốc tế.
Ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là những nơi Người đã từng đặt chân qua, dấu ấn của Người luôn hiện hữu như biểu tượng về một lãnh tụ kiệt xuất của thế giới trong thế kỷ XX.
Theo thống kê chưa đầy đủ có trên 200 tác phẩm và các công trình nghiên cứu, hàng trăm tạp chí, hàng nghìn bài báo trên thế giới… viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bao trùm lên tất cả những bài viết, bài nói về Người, là một sự khâm phục, ngưỡng mộ, kính trọng về một con người “Đại nhân, Đại trí, Đại dũng.”
Trong trái tim nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ kiệt xuất, người chiến sỹ cộng sản lỗi lạc, người đồng chí, người thầy kính yêu, người bạn thân thiết. Vẻ đẹp của Bác trong lòng bạn bè quốc tế không chỉ là sự giản dị, khiêm tốn, giàu lòng vị tha, mà còn là trí tuệ uyên bác, tầm nhìn sâu rộng, lý tưởng và hoài bão cao đẹp “hiến dâng tất cả cho Tổ quốc, cho nhân dân.”
Cố Tổng thống Chile Xanvado Agiende đã phát biểu về Bác: “đằng sau vẻ bề ngoài mềm mỏng của Ông là một tinh thần quật cường, dũng cảm, bất khuất… Lúc đầu người phương Tây chỉ cười bộ quần áo của Ông, xong rồi nhiều người nhận rõ rằng bộ quần áo đặc biệt của Ông chứng tỏ cho dù bất cứ ở đâu, giữa những người thượng lưu hay giữa đám đông quần chúng, không bao giờ Ông quên mình là người trong quần chúng của đất nước Việt Nam yêu quý của mình… Nếu ai muốn tìm một từ có thể tóm gọn tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là một sự hết sức giản dị và hết sức khiêm tốn của Ông.”
Còn nhà văn nữ Blaga Dimitrova của Bulgaria lại viết trong “Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh”: “Niềm hy vọng cũng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh….”
Còn với Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới Romet Chandra: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao.”
Tháng 11/2013, Tổng thống Liên Bang Nga Vladimir Putin đã đến Hà Nội thăm chính thức Việt Nam. Ông đã đến thăm nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh và viết trong sổ lưu niệm: “Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ hòa bình tiến bộ và phồn vinh. Nhưng giá trị tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh vẫn là ngọn đuốc, là biểu tượng cho một nền văn hóa tương lai… Và vì thế lịch sử mãi mãi nhắc tới Người như một bậc thánh nhân.”
Thời gian qua đi, bóng tối chiến tranh cũng đã qua đi, nhưng những dấu chân của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn được lưu giữ tại nhiều nơi mà Người từng đi qua trong cuộc đời hoạt động cách mạng, tìm con đường giải phóng dân tộc.
Trên thế giới, có tới 29 công trình tượng, tượng đài, 11 khu tưởng niệm được xây dựng; 20 con đường, đại lộ và nhiều trường học được đặt tên Người. Có rất nhiều đất nước xa xôi khác nữa, có thể không dựng tượng Bác, nhưng trong lòng bạn bè quốc tế, luôn có một “tượng đài” Hồ Chí Minh vĩnh cửu.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đặt hoa tại Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Công viên Montreau, tại Paris, Pháp. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN).
Ở một số nước xuất hiện môn “Hồ Chí Minh học,” nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, chuyên gia, sinh viên chọn Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu…
Ở Pháp có khoảng 45 điểm di tích lưu giữ nhiều tài liệu và hiện vật quý liên quan đến sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác từ năm 1911 đến 1927. Trong đó, nổi bật là Ngôi nhà số 9, ngõ Compoint, quận 17, Paris. Dấu ấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp có thể kể đến “
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam
” do Nguyễn Ái Quốc ký tên gửi tới Hội nghị Versaille… Hay tại thủ đô Moskva nước Nga, có một quảng trường rất đặc biệt mang tên vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam: Quảng trường Hồ Chí Minh.
Tượng đài Bác Hồ tọa lạc tại trung tâm quảng trường rộng lớn, bên dưới có dòng chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” bằng tiếng Nga. Còn tại thành phố Saint Petersburg, Trường Đại học Tổng hợp Saint Petersburg, đã thành lập Học viện Hồ Chí Minh, nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử và văn hóa Việt Nam…
Tài năng và nhân cách cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là niềm cảm hứng của nhiều văn nghệ sỹ thế giới. Đã có nhiều bộ phim, nhiều bài hát của tác giả nước ngoài viết về Người, trong đó phải kể đến bài hát “
The ballad of Ho Chi Minh
” (Bài ca Hồ Chí Minh) của nhạc sỹ người Anh Ewan MacColl. Bài hát đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và trở nên thân thuộc trong các sự kiện quốc tế về Bác.
Bài hát đã đi vào trái tim, thấm vào tâm hồn của biết bao người. Có lẽ, bất kỳ ai khi nghe bài hát này đều không thể kìm được cảm xúc của mình, vì bài hát chứa đựng tình cảm sâu sắc của bạn bè thế giới dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh…
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trong trái tim của người Việt và nhân loại
| 1,134 | |
Nhà viết kịch Hoàng Luyện (Ảnh tư liệu gia đình cung cấp).
Đã hơn 20 năm kể từ khi nhà viết kịch Hoàng Luyện về với miền mây trắng, nhưng mỗi dịp giỗ ông (28/3 âm lịch), con gái của ông, Thạc sĩ Xuân Hồng vẫn không khỏi rưng rưng nhớ cha với lời khuyên: ‘Con gái à, con nên học nghề viết kịch vì tác giả dù nằm xuống thì tác phẩm vẫn không chết mà còn đó cho đời’.
Và quả thật, suốt cả cuộc đời, với tình yêu và niềm đam mê dành cho nghệ thuật truyền thống dân tộc, tác giả Hoàng Luyện đã nỗ lực thực hiện đúng theo lời khuyên ấy. Để rồi, dẫu năm tháng chảy trôi, nhiều vở diễn được dàn dựng từ kịch bản của cố tác giả Hoàng Luyện vẫn đang sáng đèn ở các nhà hát; giới mộ điệu sân khấu vẫn không ngừng nhắc, nhớ về những tác phẩm đặc sắc đã làm nên tên tuổi Hoàng Luyện và góp phần ghi dấu ấn cho sân khấu nước nhà.
Tác giả Hoàng Luyện (1925-2001) tên thật là Phạm Vũ La, sinh năm 1925 tại làng Thứa,
Mỹ Hào
,
Hưng Yên
. Ông tham gia kháng chiến từ năm 1943, làm báo rồi cán bộ tuyên huấn tỉnh Hưng Yên. Ông từng sáng tác nhiều kịch bản ngắn phục vụ phong trào du kích ven tả ngạn sông Hồng.
Sau Giải phóng Thủ đô, tác giả Hoàng Luyện về làm cán bộ Vụ nghệ thuật, Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tham gia công tác đào tạo sân khấu.
Có một điều đặc biệt là sinh ra trên đất chèo nhưng ông “phải lòng” cả cải lương và thành danh với hàng loạt tác phẩm cải lương. Trong gia tài sáng tác của ông, thành công nhất phải nói đến kịch bản “Bà mẹ sông Hồng”. Tác phẩm là kết quả của hàng chục năm ông hoạt động vùng tề bên kia sông Hồng, chứng kiến bao dũng cảm kiên cường, bao mất mát hy sinh của những người mẹ, người chị là du kích, là cơ sở cách mạng…
“Bà mẹ sông Hồng” cũng là vở cải lương đầu tiên có hình ảnh người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Được Đoàn cải lương Kim Phụng biểu diễn ra mắt từ năm 1959 nhân kỷ niệm giải phóng thủ đô, vở diễn đã khiến người xem vỡ òa trong xúc động và cảm phục. Với “Bà mẹ sông Hồng”, tác giả Hoàng Luyện đã nhận được Giải thưởng của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam năm 1960. Vở diễn cũng gắn liền thương hiệu Đoàn Cải lương Kim Phụng suốt 20 năm với trên 2000 đêm diễn từ bắc chí nam.
Cùng với “Bà mẹ sông Hồng”, tác giả Hoàng Luyện còn gây ấn tượng đặc biệt với “Nắng tháng Tám”, một tác phẩm khai thác về đề tài công nhân, đồng bào vùng than trong cuộc đấu tranh cam go với bọn chủ mỏ và thực dân thống trị trong những năm tiền khởi nghĩa.
“Nắng tháng Tám” được Đoàn cải lương Trung ương (nay là Nhà hát Cải lương Việt Nam) dàn dựng trong suốt những năm của thập niên 70 với kỷ lục lên đến 500 đêm diễn. Có những thời điểm, vở diễn giúp sân khấu Nhà hát sáng đèn suốt tuần, đêm diễn nào cũng chật kín người xem.
Với 2 kịch bản sân khấu đặc sắc “Bà mẹ sông Hồng” và “Nắng tháng Tám”, tác giả Hoàng Luyện đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2017.
Bên cạnh đó, với kịch bản cải lương “Kim Đồng” được Đoàn Cải lương Bắc Thái dàn dựng thành vở diễn, tác giả Hoàng Luyện đã được trao Bằng khen của Bộ Văn hóa Thông tin dành cho kịch bản về đề tài cách mạng tiêu biểu năm 1963.
Cảnh trong vở “Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm”.
Điều thú vị là không chỉ để lại dấu ấn ở lĩnh vực cải lương, tác giả Hoàng Luyện còn thể hiện được bản lĩnh của một cây bút đa tài với hàng chục kịch bản chèo lớn, nhỏ về đề tài chiến tranh chống Mỹ, tiêu biểu như “Trên đồi vinh quang”, “Nàng tiên thuở ấy”, “Bài thơ bên núi Cánh Diều”, “Cánh buồm nâu”…
Và nếu dõi theo hành trình sáng tác của cố tác giả Hoàng Luyện, sẽ không khó để nhận ra dù luôn theo đuổi nghệ thuật truyền thống nhưng ông không bao giờ chịu “đóng đinh” ngòi bút của mình vào những thứ cũ kỹ, sáo mòn. Ở bất kỳ tác phẩm nào, ông cũng cố gắng đưa vào những tìm tòi, cách tân mới. Có lẽ bởi thế mà sau nhiều năm ra đời, không ít tác phẩm của ông vẫn chở được hơi thở cuộc sống mới, được nhiều đơn vị lựa chọn dàn dựng để thi thố ở những sân chơi sân khấu chuyên nghiệp.
Mới đây nhất, 2 tác phẩm của ông là “Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm” và “Thiên duyên huyền tích” (Cây gậy thần) đã được Nhà hát Chèo Thái Bình dàn dựng để tham gia Liên hoan Chèo toàn quốc năm 2022 tại Hà Nam. Cả 2 tác phẩm đều được con rể ông, Thạc sĩ, tác giả Lê Thế Song chuyển thể và biên tập. Trong đó, vở diễn “Thiên duyên huyền tích” đã xuất sắc giành được Huy chương Vàng tại Liên hoan.
Trước đó, năm 2021, “Cây gậy thần” của tác giả Hoàng Luyện cũng đã được Nhà hát Cải lương Việt Nam và Liên đoàn Xiếc Việt Nam phối hợp dàn dựng trong dự án “Huyền sử Việt”, mang đến nhiều bất ngờ thú vị cho người xem về sự kết hợp giữa ngôn ngữ xiếc và cải lương. Khai thác huyền tích về mối tình Chử Đồng Tử-Tiên Dung, vở diễn chở đi nhiều chiêm nghiệm về triết lý nhân sinh cũng như khao khát được yêu, được tự do và hạnh phúc của con người…
Cảnh trong vở “Thiên duyên huyền tích”.
Cố tác giả Hoàng Luyện đã rời xa cõi tạm, nhưng rõ ràng, tác phẩm của ông vẫn đang sống. Và điều đáng trân trọng là tình yêu, niềm đam mê ông dành cho nghệ thuật sân khấu truyền thống vẫn đang được nối dài, lan tỏa bởi những người con yêu quý của ông. Thạc sĩ Xuân Hồng chia sẻ, sinh ra trong gia đình làm nghệ thuật, bố là tác giả sân khấu, mẹ là giọng ca cải lương có tiếng nên tình yêu sân khấu đã thấm đẫm trong huyết quản của chị từ thuở nhỏ.
Dù có lúc cuộc sống khó khăn, phải gác lại đam mê sân khấu cho công việc khác thì nghệ thuật vẫn như “thiên duyên” đối với chị. Chị cùng chồng là tác giả Lê Thế Song đã cùng đi học Biên kịch tại Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, sau đó là cùng học Thạc sĩ Nghệ thuật sân khấu, để tiếp nối tình yêu, tâm huyết với nghệ thuật truyền thống được trao truyền từ thế hệ đi trước.
|
Nhớ cố tác giả Hoàng Luyện, cả đời đam mê nghệ thuật truyền thống dân tộc
| 1,202 | |
Lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu các cơ quan chức năng khẩn trương xử lý sự cố chìm tàu cá đánh bắt xa bờ của nước này tại khu vực ngoài khơi Ấn Độ Dương.
Tân Hoa Xã đưa tin, khoảng 3 giờ sáng 16/5, tàu cá quốc tịch Trung Quốc mang số hiệu “LUPENGYUANYU028” bị chìm ở vùng biển ngoài khơi Ấn Độ Dương, khiến 39 người trên tàu mất liên lạc.
Trong đó, có 17 thuyền viên mang quốc tịch Trung Quốc, 17 thuyền viên mang quốc tịch Indonesia, 5 thuyền viên mang quốc tịch Philippines. Đến nay, toàn bộ thuyền viên vẫn chưa được tìm thấy, công tác tìm kiếm, cứu hộ vẫn đang được triển khai.
Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Thủ tướng Lý Cường đã chỉ đạo các cơ quan chức năng khởi động phương án ứng phó tình huống khẩn cấp, xác minh tình hình, tăng cường lực lượng, điều phối triển khai công tác cứu hộ, cứu nạn, giảm thiểu tối đa thương vong từ sự cố trên.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng yêu cầu tăng cường rà soát các nguy cơ và cảnh báo rủi ro liên quan hoạt động xa bờ, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của người dân.
Cơ quan chức năng Trung Quốc đã triển khai nhiều phương tiện đến khu vực xảy ra sự cố; đồng thời, thông tin đến các quốc gia liên quan, đề nghị phối hợp triển khai công tác tìm kiếm, cứu hộ.
|
Trung Quốc xử lý sự cố chìm tàu cá làm 39 người mất liên lạc ngoài khơi Ấn Độ Dương
| 255 | |
Nhà thơ Hữu Thỉnh.
Tôi có niềm vui ba lần viết về
nhà thơ Hữu Thỉnh
(
Ông sinh ngày 15-2-1942). Lần thứ nhất: đó là cuốn tiểu luận
Lý do của hy vọng
, 300 trang, tuyển chọn rất chặt chẽ 30 năm viết (1981-2010), ấn hành năm 2010. Lần thứ hai, một bài cho Tạp chí
Thơ
. Và lần thứ ba là bài này, nhân tập tiểu luận – phê bình có tên
Bến văn và những vòng sóng
, 455 trang khổ lớn, gồm 60 bài, chủ yếu được viết trong 10 năm (2010-2020); Nxb Hội Nhà văn ấn hành Quý I/2020, vừa được trao Giải A của Ban Bí thư TW Đảng năm 2021.
Để có thể nói được đầy đủ về Hữu Thỉnh, ở cả ba bài, tôi đều tìm đến ba khu vực, cả ba anh đều để lại nhiều dấu ấn: đó là nhà quản lý, nhà lý luận và nhà thơ. Có một chút băn khoăn trong trật tự sắp xếp, nhưng để cho tiện bàn, tôi chọn trật tự này.
Trước hết Hữu Thỉnh là người quản lý ở hai tổ chức quan trọng trong lĩnh vực văn hóa – tinh thần là Hội Nhà văn Việt Nam và Liên hiệp các Hội văn học – nghệ thuật Việt Nam. Với Hội Nhà văn, anh tham gia Ban Chấp hành Hội từ khóa III – 1983, ở tuổi ngoài 40, đến nay năm 2021 là tròn 38 năm, sau hơn 7 nhiệm kỳ, trong đó có 3 nhiệm kỳ là Chủ tịch Hội. Với Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật, anh là người kế nhiệm học giả Đặng Thai Mai, nhà văn – nhà thơ – nhạc sĩ – nhà văn hóa Nguyễn Đình Thi, nhà thơ – nhà văn hóa – chính khách Huy Cận, nhạc sĩ Trần Hoàn, họa sĩ Vũ Giáng Hương.
Có thể nói đó là những
trọng trách
, ở cả hai; và với
độ dài
vượt các bậc tiền nhân.
Sự bền lâu trong một vị trí xã hội và nghề nghiệp nơi một ai đó nói lên sự tin cậy ở trên và sự tín nhiệm từ dưới – cả hai, phải đạt một chuẩn mực nào đấy, nếu không sẽ bất ổn, nhất là với giới văn hóa, văn nghệ sĩ nhìn chung hoặc số đông vốn rất “khó tính” và “nhiều lời”.
Một bộ ba mang tính đặc thù, nếu so với các bậc tiền nhân trong vai trò quản lý ở Hữu Thỉnh, theo tôi nghĩ, đó là:
– Là người hiếm hoi, hoặc duy nhất từ “đầu trần, chân đất” mà lên (cũng như tôi trong một cơ quan nghiên cứu khoa học, cách đây hơn 30 năm). Từ là một người lính xe tăng, chưa qua Đại học, anh chưa thể có sẵn hoặc có sớm một cái “phông” văn hóa, hoặc một vị trí xã hội cao, hoặc một sự nghiệp lớn trước khi đến với các chức trách như Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Trần Hoàn… Cái “phông” đó rồi sẽ có trong quá trình hành nghề, vừa học, vừa làm, chăm chỉ và cần mẫn trong đọc và viết trên dưới 50 năm của anh.
– Thế nhưng anh vẫn đến được với sự tin cậy để nối dài vai trò quản lý trong nhiều chục năm, cùng với nhiều cương vị xã hội và nghề nghiệp được giao.
– Trong cốt lõi, anh là một nhà thơ; nhưng sự nghiệp viết (và nói) của anh trên nhiều loại hình vẫn không mỏng, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo một lĩnh vực rất đa dạng, rất bộn bề và rất phức tạp như văn học, nghệ thuật.
*
Phương diện thứ hai: nhà lý luận, tiểu luận, phê bình. Không thể không nói đến phương diện này, dẫu anh chỉ mới xuất hiện trong hai tuyển tập, nhất là ở tuyển tập thứ hai, có cái tên rất thơ
Bến văn và những vòng sóng
.
Không theo trật tự Mục lục sách (có phần hơi lộn xộn), tôi tiếp cận tư duy lý luận của Hữu Thỉnh ở sách này qua 3 khu vực – gắn với một năng lực phân tích và tổng hợp xuất phát từ vị trí xã hội và vị trí nghề nghiệp của mình.
a. Những bài tổng kết các nhiệm kỳ hoặc nhiều nhiệm kỳ của Hội nghề nghiệp. Những bài tổng kết các cuộc thi, hoặc các vùng đề tài, hoặc thể loại mà anh có trách nhiệm chỉ đạo. Những phát biểu, là đề dẫn hoặc tổng kết những chuyên đề mang tính lý luận, do yêu cầu của thực tiễn đời sống và sáng tạo văn học, nghệ thuật. Những phát biểu trong tiếp đãi hoặc tiếp xúc với bạn bè nước ngoài… Trên đại thể, đó là những bài mang tính tổng kết và định hướng mà bất cứ ai là người lãnh đạo chủ chốt cũng phải quan tâm, để nếu không vượt lên một tầm cao, thì cũng đạt được tầm chung mang tính lịch sử, qua các giai đoạn.
b. Những nghiên cứu sâu về tác giả, và đội ngũ các tác giả – nó là đơn vị cơ bản cho cả một nền văn học, qua nhiều giai đoạn lịch sử.
Tôi nhìn thấy ở đây một nỗ lực lớn, rất lớn của anh, để không bỏ sót hoặc bỏ qua những gì quan trọng nhất làm nên
các giá trị chung cho cả một nền và riêng cho từng người. Đây là khu vực tôi được sự cộng tác tin cậy của anh ít nhất trên dưới hai chục năm – kể từ nửa đầu thập niên 2000 khi một Thế hệ Vàng của văn học Việt Nam hiện đại, ở bộ phận chủ lực của nó, nhiều người bước vào tuổi 100 năm. “Trăm năm trong cõi…”. Đó là những tên tuổi khai sinh hoặc làm nên nền móng và vinh quang cho nền văn học mới chính thức khai sinh từ sau 1945, gồm từ Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Tô Hoài, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính… qua Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao, Vũ Bằng, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình Lạp, Bùi Hiển…
Dựng chân dung hoặc soi kỹ vào sự nghiệp của các tác giả trên, qua cả hai tập tiểu luận, ở vị trí Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam anh đều tham gia bằng các diễn văn khai mạc hoặc tổng kết, trong vai trò người chủ trì. Và đây là một nỗ lực rất đáng quý, nhằm thâm nhập sâu vào lịch sử văn học, có khác với những bậc tiền nhiệm của anh, để không là người đứng trên hoặc ngoài cuộc.
Bổ sung cho những diễn văn long trọng qua các Lễ kỷ niệm chẵn năm sinh, năm mất còn là các bài Điếu văn hoặc tưởng niệm cho các bậc trên hoặc bạn văn qua đời, được mở ra khá rộng gồm từ những cái tên quen với người đọc, như Nguyễn Sáng, Anh Đức, Lê Văn Thảo, Phạm Ngọc Cảnh, Hoàng Hữu, Nguyễn Đình Ảnh, Thu Bồn, Thanh Tùng, Dương Thị Xuân Quý… đến một số người còn ít được biết đến nhưng có nhiều kỷ niệm cảm động với anh…
Còn phải kể đến những bạn văn thuộc thế hệ sau còn trẻ, hoặc rất trẻ – như một điểm nhấn, hoặc một khoảng đậm ở tập tiểu luận mới này như Nguyễn Quang Thiều, như Đồng Đức Bốn và Mai Văn Phấn…
Xuất thân, rồi thành danh từ một người viết trẻ, là học viên khóa đầu Trường viết văn Nguyễn Du; được phân công phụ trách lực lượng trẻ trong Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam nhiều nhiệm kỳ, dĩ nhiên những ý kiến của anh về lực lượng viết trẻ có sự bảo đảm về kinh nghiệm, trên cả hai phương diện: cá nhân và phong trào. Thuộc trong số những tiểu luận hay trong tập, trên cả hai khu vực: lý luận và kinh nghiệm, đó là hai diễn văn anh viết cho hai cuộc họp các nhà văn trẻ lần thứ VII – năm 2000 và lần thứ VIII – năm 2005, cả hai tôi đều được dự. Tôi rất tán thành và thích thú cách tổng kết của anh, nó là cách tổng kết chính bản thân mình, một người đến với nghề văn bằng năng khiếu, nhưng quan trọng hơn còn là cả một sự dày công vượt qua nhiều cửa ải, để có một sự nghiệp viết tiêu biểu.
c. Sau hai khu vực trên là khu vực trực tiếp bàn về lý luận qua các hội thảo chuyên về lý luận mà anh có trách nhiệm đề xuất và chủ trì, trước các vấn đề đặt ra cho đời sống văn học, và văn hóa nói chung, như hai cuộc đã thành danh, mà tôi cũng có cơ hội tham gia, là Tam Đảo (2002) và Đồ Sơn (2006)…
*
Cuối cùng, hoặc khởi thủy, nói Hữu Thỉnh là nói đến thơ, đến một nhà thơ thuộc thế hệ thứ 3 nền thơ hiện đại Việt Nam thế kỷ XX. Và tư thế đó, tư chất đó, như thực tế đã cho thấy, không làm hạn chế, hoặc gây cản trở gì cho anh trong hai vai trò: nhà quản lý, nhà lý luận phê bình.
Với những Giải thưởng lớn cho thơ mà anh đã nhận.
Với những câu thơ, những bài thơ, những tập thơ sống bền lâu trong tâm trí bạn đọc nhiều thế hệ.
Một sự nghiệp gồm những tập thơ và trường ca, hai thể loại chính mà Hữu Thỉnh gặt hái được rất nhiều thành tựu.
Nhưng để có được thành tựu trên cả hai thể loại ngắn và dài, tác giả của nó phải là người có một tư duy thơ
đa chiều, sâu sắc
và
đồng bộ
, được chiêm nghiệm và tổng kết qua chính bản thân mình.
Như vậy là ở đây, với tôi, thành tựu thơ Hữu Thỉnh vẫn là ở cả ba phương diện.
Riêng với
tư duy thơ
tôi muốn tìm minh chứng ở những bài anh viết về thế hệ đàn anh như Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Huy Cận. Và về những bạn thơ cùng thế hệ như Thanh Thảo, Thanh Tùng, Nguyễn Quang Thiều.
Đặc biệt là tiểu luận rất công phu anh viết năm 2012 về thơ thời Đổi mới có tên
Một nền thơ đang chuyển
với ba điểm nhấn hoặc từ khóa là:
tiệm tiến, bản chất
và
toàn tuyến
trong so sánh với những mùa màng thơ về trước, với số lượng tác giả được anh bình luận, dẫn trích và thống kê lên đến con số trên dưới 100 người. Một lao động… khủng!
Bài viết gợi tôi nhớ đến
Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh và Hoài Chân, tổng kết 10 năm thơ Việt làm nên thương hiệu
Thơ mới
, với bài Mở đầu:
Một thời đại trong thi ca
cùng 45 tác giả được chọn, và 43 người có lời bình. Và, để làm được sách này, tác giả của nó đã phải đọc khoảng một vạn bài thơ, trong đó có “non một vạn bài dở”…
Thành tựu thơ gần đây của Hữu Thỉnh là trường ca
Trăng Tân trào
– nhận Giải A trong Cuộc vận động học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2020. Đây là sự tiếp tục ba trường ca nổi tiếng từng làm nên tên tuổi Hữu Thỉnh:
Đường tới thành phố
(1979),
Trường ca biển
(1994),
Sức bền của đất
(2004). Viết về Bác,
Trường ca Tân Trào
ấn hành 2016, cũng là một sự tiếp nối ba trường ca (hoặc truyện thơ) của Tố Hữu, Thanh Tịnh và Lê Đạt. Với Tố Hữu đó là
Theo chân Bác
viết ngay sau ngày Bác mất:
Tôi viết bài thơ mừng thọ Bác
Năm nay vừa chẵn tám mươi tròn
Tưởng như thường lệ
Người đi vắng
Để mọi lời ca tặng nước non.
Với Thanh Tịnh, đó là
Đi từ giữa một mùa sen
, viết năm 1980, gần với truyện thơ, kể chuyện thời thơ ấu của Bác cùng với song thân và gia đình trên hai địa chỉ Nghệ An và Huế trong 8 đoạn thơ gồm 1816 câu, với mỗi đoạn một điệp khúc theo lối kể truyền thống. “
Đó là cậu Nguyễn Sinh Cung/ Đoạn đầu thiên sử anh hùng vĩ nhân
”… “
Đẹp thay anh Nguyễn Tất Thành. Sử ca đoạn sáu lừng danh anh hùng
”…
Với Lê Đạt, đó là bài
Bác
viết năm 1970 nhân giỗ đầu của Bác, nhưng phải 20 năm sau, đến năm 1990, nhân ngày UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh là Danh nhân văn hóa thế giới, trường ca mới có thể ra đời. Một trường ca gồm 626 dòng theo lối thơ leo thang, mỗi dòng gồm từ 1,2 đến 3,4 chữ; thỉnh thoảng mới có dòng dài hơn, thường là một số trích dẫn lời Bác, hoặc lời thế giới viếng Bác…
Trở lại với
Trăng Tân trào
. Một trường ca Hữu Thỉnh viết ở tuổi ngoài 70, nhưng vẫn có nhiều tươi mới trong cách chọn chất liệu và chọn thể loại, để trước hết làm mới mình, và cuối cùng đem lại được nhiều xúc động thẩm mỹ cho bạn đọc nhiều thế hệ. Một trường ca với hai nhân vật chính là Lãnh tụ và Nhân dân, cả hai đều vĩ đại, nhưng đều ẩn mình – “như đỉnh non cao tự dấu mình”, bởi “viết về Bác Hồ chính là viết về Nhân dân” như chính quan niệm của Hữu Thỉnh
(1)
.
*
Trong đời nghề nghiệp của mình, ngoài ngày vào biên chế Viện Văn học, năm 1959, tôi có thêm một thời điểm: 1979 – vào Hội Nhà văn Việt Nam, qua đó thêm được những vỉa mới cho tri thức và kinh nghiệm ở nhiều bậc thầy, bậc đàn anh sáng giá. Tôi cũng nhận được sự cộng tác và tin cậy ở những bạn văn cùng thế hệ, kể từ cuối thập niên 1990, khi tôi trút được một gánh nặng quản lý có quá nhiều giông gió. Chọn Viết làm một nghề, với quy trình khép kín: “Đọc, Đi, Nghĩ, Viết, Nói” tôi có sự thiên vị trong học hỏi và tri ân những người chuyên tâm và chung thủy với nghề và nghiệp – “sinh ư nghệ, tử ư nghệ” dẫu bất cứ hoàn cảnh nào. Cơ hội để cho tôi cảm ơn các đồng nghiệp và nhận rõ hơn về mình là thời điểm 2008, trong một cuốn sách gần 700 trang cỡ lớn được một số bạn đồng nghiệp tổ chức cho tôi gồm chẵn 100 bài viết, trong đó có bài của anh Hữu Thỉnh, với hai ý chính: “Anh Phong Lê không mặc áo lính nhưng có chất lính. Đã nói là làm”… “Tỷ lệ thời gian hữu ích của anh là rất cao”. Đó là hai nhận xét đích đáng giúp tôi hiểu hơn về mình. Một kỷ niệm khác là bài tôi viết về anh Ma Văn Kháng gửi đăng trên 2 kỳ báo
Văn nghệ
năm 2005, với nhan đề:
Ma Văn Kháng – người đang viết
, được anh chữa là
Trữ lượng Ma Văn Kháng
; quả khó có tựa đề nào gợi dẫn và súc tích hơn!.
Mười ba năm đã qua, kể từ ngày ấy. Nay nhân đón Tết Nguyên tiêu – Xuân Nhâm Dần 2022 đúng vào dịp Kỷ niệm 80 năm sinh của nhà thơ, nhà lý luận, nhà quản lý Hữu Thỉnh, tôi muốn có thêm bài này để củng cố và bồi đắp thêm những gì đã có trong tình bạn và đồng nghiệp.
________
1.
Dẫn theo Thanh Thảo – bài trên Tạp chí Thơ số 1 và 2 – 2020.
|
Hữu Thỉnh Những bộ ba ấn tượng – Tác giả: GS. Phong Lê
| 2,613 | |
Hình ảnh ngoạn mục từ siêu kính viễn vọng James Webb do NASA phát triển và điều hành chính đã tiết lộ một đàn quái vật ẩn nấp ở vùng vũ trụ sơ khai, những siêu sao chưa từng thấy trong bất kỳ dữ liệu nào trước đây.
“Đàn quái vật” này ra đời chỉ vài trăm triệu năm sau khi vũ trụ hình thành và hình ảnh mà các nhà khoa học đang quan sát cũng là hình ảnh “xuyên không” từ thế giới sơ khai đó, vì ánh sáng cũng mất cùng thời gian để đi hết quãng đường 13,4 tỉ năm ánh sáng đến được kính viễn vọng đang bay quanh Trái Đất.
Hình ảnh thiên hà mẹ (màu đỏ) của đàn quái vật xanh bí ẩn trong dữ liệu Kính viễn vọng không gian Hubble. James Webb có tầm nhìn tốt hơn nên đã tìm thấy các “báu vật” bên trong vật thể xa xôi này – Ảnh: NASA.
Chúng là các “siêu sao” ngoài sức tưởng tượng, lớn và nóng hơn bất kỳ ngôi sao màu xanh lam (loại sao nóng nhất) nào nhân loại từng được biết.
Nếu so sánh với
Mặt Trời
– một ngôi sao màu vàng lớp G, tức loại có nhiệt độ “dưới trung bình” một chút – những quái vật này có khối lượng lớn hơn từ 5.000 đến 10.000 lần. Chúng cũng nóng tới 75 triệu độ C ở lõi, rất lớn so với con số 15 triệu độ C của lõi Mặt Trời.
Tuy nhiên bất chấp kích thước và nhiệt độ đáng sợ, những con quái vật này rất khó nắm bắt bởi chúng là loại sao có tuổi thọ rất ngắn.
Một nhóm khoa học gia dẫn đầu bởi giáo sư thiên văn học Corinne Charbonnel từ Đại học Geneva (Thụy Sĩ) đã tìm ra dấu hiệu của đàn quái vật này trong dữ liệu của James Webb.
Những con quái vật này tập hợp thành những cụm sao cầu, mỗi cụm chứa tới 1 triệu ngôi sao, sinh ra cùng nhau và sớm nhất là 440 triệu năm sau vụ nổ Big Bang khai sinh vũ trụ. Cụm sao cầu là một cấu trúc từng được quan sát nhiều trước đây, nhưng những cụm sao cầu cổ xưa đến vậy và loại quái vật siêu sao mà chúng sở hữu thì chưa từng được ghi nhận.
Để định vị các quái vật này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng phần dữ liệu hồng ngoại của James Webb, xoáy sâu vào ánh sáng từ một trong những thiên hà xa nhất là Gn-Z11, nằm cách chúng ta khoảng 13,3 tỉ năm ánh sáng.
Hình ảnh thu được là hình ảnh khi thiên hà này mới chỉ vài chục triệu năm tuổi, nên nó là nơi thú vị để săn các cụm sao trẻ. Thu thập ánh sáng từ thiên hà cổ đại, phá vỡ, sàng lọc, các nhà khoa học đã nắm bắt được dấu hiệu hóa học đặc biệt về đàn quái vật nói trên.
Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học
Astronomy and Astrophysics.
|
NASA chụp được ‘quái vật xanh’ chưa từng thấy, ra đời 13,4 tỉ năm trước
| 512 | |
Cao Xuân Thái
là nhà văn khá đa tài. Ngoài sáng tác thơ, ông còn viết ký, sáng tác cho thiếu nhi.
Vĩ thanh về con đèo sống mũi ngựa
(NXB Văn hóa dân tộc, 2022) là tập tạp văn mới nhất của ông. Chất liệu chính làm nên cuốn sách là vùng đất và con người Tuyên Quang cùng tình yêu của tác giả dành cho quê hương thứ hai của mình. Sách tập hợp gần 30 bài viết dưới dạng ký (Bút kí, Ký sự, Truyện ký, Tùy bút, Ghi chép…) về người thật, việc thật. Đó là những sự việc tác giả tham gia trực tiếp hoặc chứng kiến…
Qua những trang viết của Cao Xuân Thái, người đọc hẳn sẽ rất ấn tượng bởi khả năng quan sát tỉ mỉ, tinh tế, cách tả cảnh sinh động, sắc nét, cùng với lối kể và dẫn dắt rất tự nhiên, khéo léo của tác giả. Hãy nghe ông kể về cây bạc hà: “
Cây bạc hà thuộc loài cây thân cỏ, lá mọc so le, hình răng cưa. Cây nảy mầm từ mùa xuân, nhưng phải đến mùa thu cây mới ra hoa. Hoa bạc hà hình đuôi chồn, xung quanh gắn hàng ngàn cái chuông nhỏ. Mỗi quả chuông chứa rất nhiều mật. Quả chuông mở ra, mùa hoa nở, chính là mùa con ong đi lấy mật…
” (Mùa ong bạc hà). Và đây là vũ điệu của đá: “
Phía Vần Chải, núi non chất ngất như thể đàn voi chiến lổm ngổm trên lưng chừng trời. Trước mặt là những rừng đá tua tủa, nhọn hoắt, miên man hút tầm mắt. Nương đá gần thì hiện ra với trăm hình vạn dạng, nào là người đàn bà hóa đá chờ chồng, con tinh tinh ôm con trước bụng, rồi bầy hải cẩu quấn lấy nhau mùa hôn phối
…” (Mùa đông nơi em). Và cùng lắng nghe một trong những âm thanh đặc trưng của đại ngàn: “
Chỉ nghe tiếng chim lảnh lót mỗi sớm, đủ để tâm hồn con người trở nên trong trẻo yêu đời, yêu rừng hơn. Nào là giọng họa mi, chim khướu, sáo đá, chích chòe, tiếng gà gô, tiếng vượn hót…Một trời âm thanh trầm bổng, du dương như những hạt ngọc được xâu chuỗi lại rồi bất ngờ xổ tung ra giữa đại ngàn
” (Trầm trong cây).
Ký là thể loại văn xuôi đan xen với thi ca nên rất đậm chất trữ tình. Bởi thế, nhiều đoạn có cảm giác giống như bài thơ văn xuôi vậy: “
Riêng hàng cây gạo dọc bờ sông vẫn nguyên vẹn, tháng ba hoa cháy đỏ, vời vợi cả vùng trời. Dạ lan hương bồi hồi đêm vắng. Cây bàng già vẫn đỏ lá trên mái phố rêu phong mỗi độ thu về…
” (Vạm vỡ tuổi ba mươi). Những đoạn văn tương tự như thế ta có thể bắt gặp khá nhiều: “
Mùa thu trải màu “quan san” lên lớp ruộng bậc thang óng ả, hương lúa ngào ngạt như những cung bậc tình yêu khát vọng bay cao…
”. Là người làm thơ lâu năm (ông đã có 4 tập thơ), cho nên, trong nhiều bài ký, tác giả minh chứng hoặc dẫn dắt sự việc, hiện tượng bằng những câu thơ của mình, của người, tạo cảm giác mềm mại, uyển chuyển, hấp dẫn, gia tăng cảm xúc nơi người đọc.
Cao Xuân Thái từng trải qua binh nghiệp, chiến đấu ở Tây Nguyên, Trường Sơn và mặt trận Quảng Trị… Kết thúc chiến tranh, ông về công tác ở ngành Văn hóa tỉnh Hà Tuyên (Hà Giang – Tuyên Quang), giữ cương vị Chủ tịch hội Văn học Nghệ thuật Hà Giang. Bởi thế, dễ hiểu vì sao kinh nghiệm và vốn sống của ông dồi dào, phong phú đến vậy. Đọc ký của ông, ta được mở mang kiến thức, hiểu thêm những phong tục, tập quán (lễ cúng thần Rừng của người Pu Péo; cách làm đõ ong; Cách pha và thưởng thức trà Lũng Phìn; quy trình sản xuất trà Trảm Mã; Trà Shan Tuyết; tục gói bánh chưng ngày tết…), hiểu thêm tình đất, tình người mỗi nơi ông đặt chân đến, hiểu những gian nan vất vả của con người trong cuộc mưu sinh, mà thêm quý, thêm yêu cuộc sống… Ở
Văn nghệ Xứ Tuyên một thời gian khó
và
Vạm vỡ tuổi ba mươi
ta thấy được những khó khăn gian khổ (có cả máu và nước mắt) cùng với sự trưởng thành đi lên của đội ngũ văn nghệ sĩ Hà Giang nói chung và Hội Văn học nghệ thuật Hà Giang nói riêng: “
Mặc dù khó khăn thiếu thốn, sống trong đạn bom nhưng con người đối với nhau có nghĩa tình, thủy chung
”. Ta sẽ hiểu thêm nhiều điều về vùng đất lắm gian nan đã vươn lên thoát nghèo, qua
Đêm gió Thượng Phùng
; Cùng đi trên Con đường Hạnh Phúc đẹp như mơ, vượt ngọt 200 cây số đèo “sống mũi ngựa”, chứng kiến sự đổi thay kỳ diệu của Mèo Vạc và chứng kiến một Hà Giang đang vươn lên mạnh mẽ “mãi mãi là chấm son hồng vời vợi trên tấm bản đồ Tổ quốc”…
Trọng tâm của cuốn sách, ông dành nhiều tình cảm và tâm huyết cho Hà Giang – vùng đất địa đầu Tổ quốc, nơi có Cao nguyên đá Đồng Văn được UNESCO công nhận là Công viên địa chất toàn cầu. Bằng việc miêu tả, tường thuật, biện luận… qua những trang viết của ông, ta vừa hiểu được thực tại, vừa biết được quá khứ, bài nào cũng đem lại cho người đọc một điều gì đó mới mẻ trong cách nhìn nhận, phát hiện và lý giải hiện thực đời sống: “
Có phải hoa đẹp vì người. Trước con người, hoa đẹp như một lời đền đáp tri ân
” (Giữa mùa tam giác mạch); “
Như thể trên thế gian này, đá lớn, đá nhỏ… tất cả dồn tụ về đây, mặc sức cho con người nhìn ngắm, tưởng tượng mơ mộng
” (Mùa đông nơi em); “
… chạm tay vào cột mốc 422, điểm cao nhất của Tổ quốc Việt Nam. Từ đây tôi nhìn ngắm được dòng sông Nho Quế chảy vào Đồng Văn, dưới hàng ngàn thước sâu, nước sông xanh biếc như sợi chỉ mầu ai đó vừa đánh vương, mà cảm động trước vẻ đẹp kỳ vĩ có một không hai của Đồng Văn…
” (Những cột mốc chủ quyền); “
Thời gian như dòng sông cuộn sóng không một phút ngưng nghỉ, có sức mạnh làm đổi thay tất cả, nhưng kỷ niệm đẹp về vùng chè và hình bóng mẹ bên bếp lửa, thắp ban mai mỗi sớm vẫn nguyên vẹn trong tôi như thể ngày nào
…” (Bếp lửa ban mai).
Với cách dùng từ giản dị, trau chuốt, giầu hình ảnh, câu văn ngắn gọn, lưu loát, mỗi bài viết trong
Vĩ thanh về con đèo sống mũi ngựa
là một thông điệp yêu thương về vùng đất và con người Hà Giang. Những bài viết của Cao Xuân Thái nhìn chung đều có kết cấu chặt chẽ, sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật, nên dễ lôi cuốn người đọc. Viết về người thật việc thật, ông không dừng lại ở kể và tả mà suy ngẫm về sự kiện, sự việc với đầy ắp những số liệu, những tên đất, tên người… đan xen là những lời bình xúc động, có chiều sâu, giọng điệu thể hiện được các sắc thái tình cảm, cảm xúc. Thế nên, dưới trang viết của ông, thiên nhiên và con người khi hòa quyện, lúc đan chéo nhau, đậm chất trữ tình, đem đến cho người đọc những hiểu biết và trải nghiệm thú vị về cuộc sống và con người.
|
Ấn tượng từ những “Vĩ thanh”… – Tác giả: Nguyễn Thị Bình
| 1,304 | |
Hướng tới kỷ niệm 133 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2023) là dịp để chúng ta tưởng nhớ, biết ơn những tư tưởng tiến bộ, những đóng góp vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong đó, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị to lớn trong lịch sử, mà còn là kim chỉ nam soi sáng con đường bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay và mai sau.
Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại và là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đối ngoại của Mác, Ăngghen, Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh còn được hình thành từ việc tổng kết thực tiễn sự nghiệp giữ nước của dân tộc và là cơ sở cho đường lối chiến lược, sách lược đối ngoại của Đảng ta. Nét đặc sắc trong tư tưởng đối ngoại của Người đó là luôn thể hiện một tư duy sắc sảo, sáng tạo, linh hoạt, khôn khéo và toàn diện.
Trước hết
, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu đối ngoại phải bảo đảm lợi ích quốc gia; độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, hạnh phúc, tự do của nhân dân. Người nhấn mạnh, “muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm” (1). Qua hoạt động đối ngoại, Người muốn gửi đến các nước trên thế giới thông điệp khẳng định: Việt Nam là một nước độc lập; Việt Nam thực hành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình và hữu nghị với các nước “tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào các công việc nội bộ, bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hòa bình” (2). Trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, nguyên tắc bất biến là: “tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi và chung sống hòa bình” (3). Đồng thời, Người yêu cầu mọi người “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, tránh những hành động nóng vội; tránh ảo tưởng, trông chờ vào sự giúp đỡ của bên ngoài; phải luôn tỉnh táo để có những đối sách khôn khéo bảo đảm lợi ích của dân tộc cả trước mắt và lâu dài; vận dụng sáng tạo nghệ thuật ngoại giao tâm công của Hồ Chí Minh, “thuyết phục người, chinh phục người, tranh thủ người” bằng lẽ phải và đạo lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dự Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1961. (Ảnh: TTXVN).
Thứ hai
, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh thể hiện qua phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong đó, cần thấm nhuần quan điểm có tính nguyên tắc: chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước” (4). Thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nắm vững mục tiêu, bản lĩnh vững vàng, quyết đoán khôn khéo, mau lẹ và kịp thời để ứng phó trước hoàn cảnh, tình thế trong từng trường hợp cụ thể. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đối với hoạt động đối ngoại là sự kết hợp hài hòa giữa mềm dẻo và kiên quyết, giữa chiến lược và sách lược, giữa chủ động và sáng tạo trong nhận biết, tạo dựng và nắm bắt cơ hội để bảo vệ và thực hiện tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc. Cái “vạn biến” là sự linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo, khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh, Đảng ta nêu rõ: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển” (5).
Thứ ba
, xây dựng mối đoàn kết quốc tế thống nhất; đối ngoại rộng mở.
Theo Người, để tập hợp và lôi kéo lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt Nam, trước hết, phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về truyền thống yêu chuộng hòa bình, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Bác cho rằng, “nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta” (6). Do vậy, những hoạt động của nước ta luôn liên hệ với cuộc đấu tranh chung của lực lượng tiến bộ trên thế giới; nhưng phải độc lập, tự chủ, khôn khéo, bằng những biện pháp của riêng mình để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ lớn nhất của nhân dân tiến bộ. Song, “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” (7). Phải thực hành chính sách đối ngoại rộng mở, chính sách mở cửa và hợp tác, chính sách hòa bình và quan hệ tốt; tránh đối đầu và không gây thù oán. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều cấp độ. Trong hoạt động đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa… Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế” (8).
Thứ tư,
phát huy nội lực bên trong làm cơ sở tạo thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Hồ Chí Minh khẳng định, hoạt động đối ngoại phải dựa trên cơ sở sức mạnh bên trong, gồm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa của đất nước, đó là sức mạnh tổng hợp quốc gia (là thực lực). Muốn thắng lợi trên mặt trận ngoại giao phải có thực lực: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” (9). Ngoại giao phối hợp với chính trị, kinh tế, quân sự để bồi đắp thực lực, về phía ngoài nước, ngoại giao phải tạo điều kiện để gắn dân tộc với thời đại, tạo ra thế và lực mới nhằm đưa đến cải thiện so sánh lực lượng toàn cục giữa ta và các thế lực thù địch theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng nước ta. Ngoại giao góp phần quyết định làm thay đổi cục diện quốc tế của cuộc đấu tranh và góp phần tích cực vào thay đổi tương quan lực lượng ở chiến trường. Đó là nhiệm vụ, đồng thời là mục tiêu mà Người đặt ra và kiên trì phấn đấu từ khi khai sinh ra nền ngoại giao hiện đại Việt Nam. Mặt khác, thực lực ở đây không phải chỉ là sức mạnh quân sự hay sức mạnh của bản thân mỗi dân tộc. Đảng luôn coi trọng quy tụ “ý Đảng, lòng dân”, “xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân” (10).
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, là di sản tinh thần vô giá, là nền tảng sức mạnh và là “cẩm nang” để thực hiện thắng lợi, hiệu quả đường lối, chiến lược và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, đất nước đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế khi tình hình trong nước và quốc tế diễn biến hết sức phức tạp, việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết để mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường tiềm lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn dân để đối ngoại đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra./.
—————–
Tài liệu tham khảo:
(1). Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.112.
(2). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập10, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.114.
(3). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.12.
(4), (9). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.322, 147.
(5). Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2021, 156-157.
(6). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.346.
(7). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr.320.
(8), (10). Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.155-156, 157.
|
Nét độc đáo trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh
| 1,791 | |
Các đám cháy rừng lan rộng ở tỉnh Alberta, miền Tây Canada, đang ngày càng gây tác động xấu đến chất lượng không khí đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động khai thác dầu tại tỉnh này.
Ảnh minh họa: TTXVN phát.
Ngày 16/5, chính quyền thành phố Calgary, thủ phủ của tỉnh Alberta, nhận được cảnh báo về chất lượng không khí kém, tầm nhìn giảm do thời tiết khô hanh và gió đổi chiều làm tăng nguy cơ cháy rừng lan rộng ở tỉnh sản xuất dầu mỏ này. Cùng ngày, tập đoàn dầu mỏ và khí đốt Crescent Point Energy cho biết đã tạm dừng hoạt động của cơ sở sản xuất Kaybob Duvernay, có sản lượng 45.000 thùng dầu/ngày, để phòng ngừa rủi ro.
Trước đó, ngày 14/5, công ty Paramount Resources cho biết một nhà máy xử lý khí đốt bên thứ ba và một số mỏ của công ty đã phải đóng cửa do cháy rừng, trong khi sản lượng cũng bị cắt giảm 45.000 thùng dầu/ngày.
Có thời điểm, các đám cháy rừng ở Alberta buộc các nhà sản xuất dầu mỏ và khí đốt phải tạm ngừng hoạt động một số cơ sở, làm giảm sản lượng tương đương 319.000 thùng dầu/ngày, chiếm 3,7% sản lượng toàn quốc. Giá dầu thô nặng của Canada đã tăng lên các mức cao do những quan ngại về các vụ cháy rừng.
Chính quyền tỉnh Alberta cho biết trên toàn tỉnh đang xảy ra khoảng 90 vụ cháy rừng, trong đó 23 vụ ngoài tầm kiểm soát, buộc khoảng 20.000 người dân phải sơ tán. Trong khi đó, cơ quan thông tin thời tiết của Bộ Môi trường Canada dự báo thời tiết bất lợi diễn ra trong ngày 16/5 với không khí lạnh kéo theo gió Tây Bắc mạnh nhưng mưa ít. Theo người phát ngôn của Cơ quan thông tin cháy rừng Alberta, sự thay đổi hướng gió có thể gây trở ngại cho công tác cứu hộ khi hướng di chuyển của các đám cháy thay đổi đột ngột.
Trong khi đó, tỉnh British Columbia lân cận, nơi đang chứng kiến khoảng 60 vụ cháy rừng, cũng nhận được cảnh báo và lệnh sơ tán. Ngày 15/5, cơ quan thông tin cháy rừng British Columbia cho biết gió mạnh từ phía Bắc khiến các đám cháy rừng trở nên dữ dội hơn tại khu vực North Peace Region. Tỉnh British Columbia cũng đưa ra cảnh báo lũ lụt tại khu vực sông Skeena do nắng nóng, tuyết tan nhanh làm nước sông dâng cao.
Thủ tướng Justin Trudeau đã có chuyến đi thị sát đến tỉnh Alberta để chỉ đạo công tác đối phó cháy rừng.
|
Cháy rừng ở miền Tây Canada tác động xấu đến chất lượng không khí
| 447 | |
Gần 2 tháng trước khi qua đời, trả lời nữ nhà báo Cuba Mác-ta-Rô-hát, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Tôi hiến cả đời tôi cho nhân dân tôi (1)
Người đã chiến đấu, hy sinh, dấn thân và hiến dâng trọn vẹn cả đời hoạt động hơn 6 thập kỷ cho dân, cho nước, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc ta khỏi ách thống trị của đế quốc thực dân, phong kiến, đưa dân tộc ta từ nô lệ tới tự do, nhân dân trở thành người chủ của xã hội, đưa nước ta đi tới chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc đời và sự nghiệp của người anh hùng dân tộc vĩ đại và danh nhân văn hóa thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời tranh đấu vô cùng gian lao và anh dũng, vô cùng phong phú, cao thượng và đẹp đẽ. Sự nghiệp của Người là một sự nghiệp vĩ đại, gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc và Đảng ta.
Cuộc đời và sự nghiệp của Người đã để lại những dấu ấn không thể mờ phai trong lịch sử. Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh cũng như toàn bộ di sản của Người đã để lại cho dân tộc và nhân dân ta là tài sản tinh thần vô giá, có giá trị và ý nghĩa vô cùng to lớn, thiêng liêng đối với mọi thế hệ người Việt Nam, cho muôn đời sau. Đó là nguồn sáng bất diệt soi đường cho toàn Đảng, toàn dân đi tới tương lai, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn với hệ giá trị cốt lõi: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Sinh viên ở TP HCM tham quan, tìm hiểu tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Chi nhánh quận 4. Ảnh: HOÀNG TRIỀU.
Di sản mà Người để lại cho dân tộc ta là thời đại Hồ Chí Minh – thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Là nhà tư tưởng Mác xít sáng tạo, đầy bản lĩnh, Người đã có những cống hiến to lớn đối với sự phát triển của lịch sử thế giới hiện đại, làm phong phú và sâu sắc thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân (cũ và mới) của các dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Người còn nổi bật trong phương pháp tiếp cận khoa học về chủ nghĩa xã hội, tiếp cận đạo đức học đồng thời đem lại những kiến giải đặc sắc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn tính phổ biến với tính đặc thù để làm sáng tỏ những đặc điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội từ thực tiễn Việt Nam, quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước đi tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh là chủ nghĩa xã hội khoa học, đổi mới và phát triển, thông qua tiếp biến văn hóa bằng hội nhập quốc tế. Đó là chủ nghĩa xã hội thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công nhân và tinh thần thời đại, đồng thời thể hiện tính dân tộc và tính nhân dân, vừa truyền thống vừa hiện đại, một chủ nghĩa xã hội nhân văn và văn hóa, con người là mục tiêu, động lực và chủ thể của phát triển. Con người tự do và hạnh phúc là mối quan tâm thường trực, suốt đời và nhất quán của Người.
Lãnh đạo toàn dân tiến hành sự nghiệp vĩ đại ấy là Đảng Cộng sản tiêu biểu cho đạo đức và văn minh. Quản lý mọi lĩnh vực hoạt động sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp vĩ đại ấy là nhà nước dân chủ – pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhân dân là người chủ xã hội, có năng lực làm chủ, có quyền làm chủ, đồng thời tự giác thực hiện nghĩa vụ của người chủ.
Những luận đề tư tưởng đó của Người trở thành kim chỉ nam hành động của Đảng và nhân dân ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là những giá trị bền vững mãi mãi có tính thời sự, mới mẻ và hiện đại. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn, quan điểm phát triển và đổi mới sáng tạo. Người là con người hành động với phương pháp tư duy biện chứng đặc sắc. Người là nhà biện chứng thực hành:
“Thực hành sinh ra hiểu biết
Hiểu biết tiến lên lý luận
Lý luận lãnh đạo thực hành” (2)
Người luôn căn dặn chúng ta, lý luận phải liên hệ với thực tiễn, phải chú trọng nâng cao trình độ hiểu biết lý luận, trọng lý luận, chống bệnh coi khinh lý luận, phải khắc phục thói lý luận suông, chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh hình thức và giáo điều. Phải có tinh thần đổi mới sáng tạo, ham học, ham làm, ham tiến bộ, ham chuộng các công việc thực tế, luôn liên hệ mật thiết với quần chúng. Phải ra sức thực hành dân chủ – dân vận và đoàn kết. Có quyết tâm, tín tâm và đồng tâm, làm cho dân giác ngộ, dân tin tưởng, dân yêu mến, dân giúp đỡ, dân ủng hộ và dân bảo vệ thì cách mạng mới thành công. Muốn được như vậy thì phải ra sức làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân, không làm điều gì trái ý dân. Phải gương mẫu, tận tụy, hy sinh, “Dĩ công vi thượng”, gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, hợp lòng dân nhất, “một tấm gương sống còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Cũng theo Người, quan trọng nhất là phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, tẩy sạch quan liêu, đẩy lùi tham nhũng, nghiêm trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng thường xuyên, làm cho Đảng cầm quyền phải thật trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh để dân tin, dân theo. Phải có bản lĩnh không màng danh lợi, suốt đời ở ngoài vòng danh lợi để toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, làm đầy tớ trung thành và công bộc tận tụy của dân.
“Giữ chủ nghĩa cho vững”, “Ít lòng ham muốn về vật chất” là lẽ sống của người cách mạng (3). Có một Đảng chân chính cách mạng như vậy, một đội ngũ cán bộ đảng viên như vậy thì mới đủ uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, quy tụ được lòng dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết, sáng tạo vô tận của nhân dân. Nhờ đó, cách mạng mới phát triển và thắng lợi. Đảng lãnh đạo và cầm quyền bằng khoa học, bằng dân chủ và đoàn kết, bằng đạo đức và văn hóa… là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, mà “cách mạng là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” (4).
Đảng không có lợi ích riêng, chỉ một lòng một dạ vì Tổ quốc và nhân dân, làm tất cả chỉ vì hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng cao quý đó của Hồ Chí Minh luôn nhất quán và được chứng thực bằng hành động phấn đấu không mệt mỏi của Người, bởi Người đã hiến dâng cả đời mình, không một chút riêng tư cho hạnh phúc của nhân dân.
———–
Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
(1) “Hồ Chí Minh, Toàn tập”, Sđd. tập 15, tr.674
(2) “Hồ Chí Minh, Toàn tập”, 15 tập. CTQG. H2011. tập 7, tr.120
(3) “Hồ Chí Minh, Toàn tập”, Sđd. tập 2, tr.280
(4) “Hồ Chí Minh, Toàn tập”, Sđd. tập 2, tr.284
Thực hành dân chủ rộng rãi
Khát vọng, hoài bão trở thành ham muốn, ham muốn tột bậc của Người là Tổ quốc phải độc lập, hòa bình và thống nhất. Dân tộc phải tự do và nhân dân có hạnh phúc. Phải phát hiện và khai thác đúng động lực, hệ động lực của phát triển, trong đó “Dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân”, “Thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn”. Và “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học sẽ là nguồn sức mạnh vô tận”. Chỉ có đoàn kết, đại đoàn kết mới dẫn tới thành công, đại thành công.
Với Hồ Chí Minh, điều căn bản sâu xa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân; phải tuân thủ các yêu cầu: “Đúng quy luật, thuận lòng dân và hợp thời đại”.
Giới thiệu nhiều tư liệu quý về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày 17-5, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch tổ chức lễ phát hành đặc biệt bộ tem bưu chính “Nhà sàn Bác Hồ trong khu Phủ Chủ tịch”. Bộ tem gồm 1 mẫu tem và 1 block với giá mặt 4.000 đồng và 15.000 đồng. Mẫu tem có khuôn khổ 43 mm x 32 mm, block có khuôn khổ 100 mm x 70 mm do họa sĩ Lê Khánh Vương (Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam) thiết kế.
Cùng ngày, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch phối hợp với Trung tâm Lưu trữ III (thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước) khai mạc triển lãm “Sưu tập chữ ký và bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1945-1969”. Sự kiện tổ chức nhân kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890-19.5.2023), 80 năm “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943-2023), 65 năm Bác Hồ về ở và làm việc tại ngôi nhà sàn trong khu Phủ Chủ tịch (17.5.1958-17.5.2023). Triển lãm diễn ra tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch trưng bày, giới thiệu hơn 200 lệnh, sắc lệnh gốc tiêu biểu, chọn lọc từ hơn 1.400 văn bản lưu trữ cùng bút tích và gần 80 ảnh tư liệu minh họa cho giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến 1969, cũng là quãng thời gian 24 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở cương vị người đứng đầu nhà nước Việt Nam.
B.T.L
|
KỶ NIỆM 133 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19.5.1890 – 19.5.2023): Hiến dâng trọn đời cho dân, cho nước
| 1,861 | |
Sáng 17-5, tại Hà Nội, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII đã họp phiên bế mạc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng bế mạc hội nghị. Trân trọng đăng toàn văn bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 7 khóa XIII (Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ) – Ảnh: VGP/Nhật Bắc.
Kính thưa Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 2 ngày rưỡi làm việc khẩn trương, nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII của chúng ta đã thành công tốt đẹp. Trung ương đánh giá cao sự chuẩn bị và nhất trí cao với các nội dung nêu trong Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, và cho rằng, việc kiểm điểm của tập thể và cá nhân Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã được chuẩn bị rất nghiêm túc, chu đáo, bài bản, cầu thị và có tính tự phê bình sâu sắc; việc xem xét, cho ý kiến diễn ra trong không khí thẳng thắn, chân tình, trách nhiệm cao. Sau đây, tôi xin thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư phát biểu, tổng kết lại những kết quả chủ yếu của Hội nghị có ý nghĩa đặc biệt quan trọng này.
I- VỀ NHÌN LẠI NỬA ĐẦU NHIỆM KỲ KHÓA XIII
Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao cho rằng: Từ sau Đại hội XIII đến nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; khó khăn, thách thức mới xuất hiện, gay gắt, nặng nề hơn so với dự báo, cũng như so với cùng kỳ của một số nhiệm kỳ gần đây. Đại dịch Covid-19 kéo dài, gây hậu quả nặng nề; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; xung đột Nga – Ukraine diễn biến phức tạp; hầu hết các chuỗi cung ứng bị đứt gãy; lạm phát tăng cao, các nước thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất, dẫn đến suy giảm tăng trưởng và gia tăng rủi ro trên các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản quốc tế; các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống; biến đổi khí hậu, thiên tai, động đất… diễn ra với tần suất cao hơn, gây hậu quả nghiêm trọng tại nhiều quốc gia, khu vực; tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến an ninh chính trị, kinh tế, xã hội trên phạm vi toàn cầu. Ở trong nước, dưới tác động của tình hình thế giới và hậu quả nặng nề của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ…, kinh tế – xã hội nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, rất gay gắt, nặng nề; hầu hết các ngành, các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng; vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp mới phát sinh, vừa phải xử lý các yếu kém, tồn đọng kéo dài từ nhiều năm trước để lại. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch, phản động tiếp tục lợi dụng tình hình này để đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chúng ta, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Trong bối cảnh tình hình đó, với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đảng ta, Đất nước ta vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện và đáng mừng trên nhiều lĩnh vực. Nổi bật là:
1. Về kinh tế – xã hội:
Chúng ta đã cơ bản thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ: Vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh; vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả. Đến nay, dịch Covid-19 và các loại dịch bệnh khác đã cơ bản được kiểm soát; đời sống xã hội và các hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở lại tương đối bình thường. Trong bối cảnh tình hình kinh tế và thương mại toàn cầu suy giảm, có nhiều rủi ro, kinh tế nước ta vẫn tiếp tục tăng trưởng khá. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã nhận định: Việt Nam là một điểm sáng “trong bức tranh xám màu” của kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với kế hoạch 6 – 6,5%, và là mức tăng cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới; tăng trưởng GDP trong quý I năm 2023 tuy chỉ đạt 3,2% so với cùng kỳ, nhưng theo dự báo của nhiều tổ chức quốc tế, thì cả năm Việt Nam vẫn có thể đạt từ 6 đến 6,5%.
Các chỉ tiêu quan trọng về thu ngân sách nhà nước, tổng vốn đầu tư toàn xã hội vẫn tăng; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thương mại… đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Đặc biệt là, kinh tế vĩ mô vẫn cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát ở mức 4%; các cân đối lớn của nền kinh tế nhìn chung được bảo đảm; thị trường tài chính – tiền tệ vẫn cơ bản ổn định. Nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài, nhất là việc xử lý tình trạng các ngân hàng thương mại yếu kém; những doanh nghiệp, dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả được tập trung tháo gỡ, bước đầu đạt được kết quả tích cực.
Đặc biệt, có một điểm mới rất quan trọng của nhiệm kỳ này là, chúng ta đã ban hành và chỉ đạo tổ chức rất thành công các Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết mới của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở toàn bộ 6 Vùng kinh tế – xã hội của cả nước, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đại hội lần thứ XIII của Đảng về phát triển Vùng – một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, rất quan trọng, cả về lý luận và thực tiễn, trong việc phát triển nhanh, bền vững các vùng nói riêng và cả nước nói chung.
Trong khó khăn, các lĩnh vực văn hóa, xã hội vẫn tiếp tục được quan tâm chăm lo, đầu tư phát triển, đạt được nhiều kết quả quan trọng, rõ rệt. Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức rất thành công, đã tạo ra một nguồn sinh lực mới, khí thế mới cho sự nghiệp xây dựng, chấn hưng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, được dư luận rộng rãi trong cả nước hoan nghênh và đồng tình, ủng hộ cao. Qua đó, các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị ngày càng nhận thức đúng đắn hơn và hành động tích cực, có hiệu quả hơn đối với vấn đề phát triển văn hóa, xã hội theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Phát triển toàn diện, đồng bộ kinh tế và xã hội; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, từng bước đi.
Kết quả là: An sinh xã hội được bảo đảm; đời sống Nhân dân được cải thiện; đã triển khai thực hiện kịp thời các chính sách xã hội, nhất là chính sách đối với người có công với cách mạng; chính sách bảo trợ xã hội, và các chính sách, biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, người dân vùng sâu, vùng xa có hoàn cảnh khó khăn và bị ảnh hưởng nặng bởi đại dịch Covid-19. Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch Covid-19, truyền thống anh hùng, yêu nước, “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta và tính ưu việt của chế độ ta lại được phát huy lên một tầm cao mới (đã giải ngân 104 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ cho gần 58 triệu người dân, người lao động và 1,4 triệu người sử dụng lao động).
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự phiên bế mạc – Ảnh: VGP/Nhật Bắc.
2. Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại:
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại; từng bước hoàn thiện và phát triển tư duy lý luận, chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc theo hướng: Tăng cường thế trận lòng dân; chủ động, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy. Tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Xử lý linh hoạt, cân bằng, hài hòa quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước trong khu vực cũng như các tình huống phức tạp trên biển và tuyến biên giới. Bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh, an toàn cho các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Chủ động, tích cực đấu tranh, phản bác các luận điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đạt nhiều kết quả quan trọng; tiếp tục củng cố, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Hội nghị đối ngoại toàn quốc đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã quán triệt, nâng cao nhận thức, thống nhất hành động trong việc kế thừa, phát huy sức mạnh của trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”; thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường. Thành công của các chuyến thăm, các cuộc điện đàm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhất là chuyến thăm Trung Quốc, các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước láng giềng, các nước trong khu vực là minh chứng cho sự thành công của các hoạt động đối ngoại thời gian qua.
3. Về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và khối đại đoàn kết toàn dân tộc:
Chúng ta đã tổ chức rất thành công cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 trong điều kiện đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và rất nghiêm trọng, bảo đảm dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm, thực sự là ngày hội của toàn dân. Trên cơ sở đó, Quốc hội, Chính phủ khóa XV đã sớm kiện toàn bộ máy tổ chức và nhân sự các chức danh lãnh đạo của các cơ quan nhà nước nhiệm kỳ 2021-2026 ở Trung ương và địa phương, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” đã đề ra các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, phân cấp, phân quyền và kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự liêm chính, chuyên nghiệp; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045”.
Đặc biệt là, các hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Quốc hội, Chính phủ khóa XV và của các khối như: Nội chính, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quốc phòng, An ninh, Đối ngoại, Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực… được tổ chức rất đồng bộ, bài bản và thành công ngay từ đầu nhiệm kỳ đã sớm định hướng rõ ràng, đúng đắn cho việc tiếp tục đổi mới, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với 8 kỳ họp, trong đó có 4 kỳ họp bất thường, Quốc hội đã thảo luận, xem xét thông qua 16 dự án luật, 84 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 4 pháp lệnh, 29 nghị quyết. Chính phủ và chính quyền các cấp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính phủ, chính quyền điện tử; quyết liệt chỉ đạo, thực hiện thành công chương trình phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh và thúc đẩy phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống các cơ quan tư pháp đã có nhiều nỗ lực đẩy mạnh cải cách tư pháp; tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các hoạt động tư pháp, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội được đẩy mạnh, góp phần quan trọng tăng cường sự đồng thuận xã hội và phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc.
4. Về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực:
Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn luôn bám sát các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu, nhiệm vụ về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng để cụ thể hóa thành các chương trình làm việc hằng năm, hằng quý, hằng tháng, hằng tuần, và lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng triển khai thực hiện, đạt nhiều kết quả quan trọng. Đã có nhiều đổi mới rất tích cực trong lĩnh vực công tác này như: Ban hành quy định mới về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong đó đã bổ sung, mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo, bao gồm cả chỉ đạo phòng, chống tham nhũng và phòng, chống “tiêu cực”, trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, coi đây là gốc của mọi vấn đề. Đồng thời, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở toàn bộ 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bước đầu có kết quả tốt, từng bước khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” trước đây; ban hành quy định về kiểm soát quyền lực phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; trong kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; trong hoạt động thanh tra, kiểm toán và nhiều văn bản quan trọng khác có liên quan đến công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực…
Đồng thời, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý kinh tế – xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được chú trọng đẩy mạnh để từng bước tiến tới: “không dám”, “không thể”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng. Việc kiện toàn bộ máy tổ chức, cán bộ, cải cách hành chính, bảo đảm tính công khai, minh bạch; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và thông tin tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng có nhiều tiến bộ.
Đến nay, có thể khẳng định, chưa bao giờ công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta lại được chỉ đạo một cách mạnh mẽ, bài bản, đồng bộ, quyết liệt, và có hiệu quả rõ rệt như thời gian gần đây; để lại dấu ấn nổi bật, tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội và củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng đã được chỉ đạo và thực hiện một cách bài bản, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả, tạo bước đột phá trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; khẳng định quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, và “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; và không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào”.
Trung ương biểu quyết thông qua các văn kiện tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 7 (khóa XIII) – Ảnh: VGP/Nhật Bắc.
5. Về xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
Chúng ta cũng đã tạo ra được sự chuyển biến rất tích cực, với nhiều dấu ấn nổi bật trong việc kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn hơn giữa “xây” và “chống”, toàn diện hơn trên các mặt công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt là, công tác cán bộ tiếp tục được coi trọng hơn, đúng mức hơn với vị trí, vai trò là “then chốt của then chốt”; có nhiều cách làm, quy định mới, hiệu quả cao hơn, gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất kể người đó là ai; không có vùng cấm, không có ngoại lệ.
Đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xem xét cho thôi giữ chức vụ, cho nghỉ công tác, nghỉ hưu, bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý; các địa phương cũng bố trí công tác và thực hiện chính sách đối với 22 trường hợp cán bộ sau khi bị kỷ luật theo đúng chủ trương của Đảng về việc “có vào, có ra; có lên, có xuống”; thể hiện tinh thần kiên quyết, gương mẫu, nghiêm minh, nhân văn, có tác dụng giáo dục, cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe trong đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên; đồng thời đã khẩn trương chỉ đạo kiện toàn các nhân sự lãnh đạo thay thế, được dư luận cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, đánh giá rất cao. Chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên cũng từng bước được nâng lên, trên cơ sở thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, đặc biệt là Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về vấn đề này.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng tiếp tục được đổi mới, tăng cường trên cơ sở ban hành có chất lượng và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ nhiều quy định mới của Đảng, đã góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tư duy nhiệm kỳ”; “chủ nghĩa cá nhân”, “tha hóa quyền lực” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, kỷ cương, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Những kết quả, thành tựu chủ yếu đã đạt được từ đầu nhiệm kỳ đến nay, như vừa nêu trên đây, có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhưng quan trọng nhất là do có thành công rất tốt đẹp của Đại hội XIII của Đảng với những chủ trương, đường lối đã được thực tế thời gian qua chứng minh là đúng đắn, phù hợp; sự lãnh đạo, chỉ đạo vững vàng, sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức Đảng trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, xử lý kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chính quyền các cấp; sự nỗ lực đổi mới đồng bộ, có hiệu quả nội dung, phương thức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; sự đoàn kết thống nhất, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng của cả hệ thống chính trị; phát huy truyền thống yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự tín nhiệm, đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đã đạt được, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, như: Lãnh đạo, chỉ đạo công tác nắm tình hình; nghiên cứu chiến lược, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn có mặt, có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa mạnh mẽ và hiệu quả chưa cao. Lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế; tổ chức thực hiện một số chính sách phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội có lúc, có nơi còn chậm. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác cải cách hành chính, quản lý, sử dụng biên chế có mặt còn hạn chế, hiệu quả chưa cao; công tác xây dựng, hoàn thiện luật pháp, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, thậm chí sợ trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn là vấn đề rất đáng lo ngại, diễn biến phức tạp, không thể chủ quan, lơ là. Một số đồng chí lãnh đạo cấp cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận trách nhiệm chính trị, có vi phạm, có trường hợp cũng phải xử lý theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Từ thực tế lãnh đạo, chỉ đạo trong nửa đầu nhiệm kỳ khóa XIII vừa qua, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về việc đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm việc như sau:
Một là,
phải luôn luôn nắm vững và nghiêm túc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Quy chế làm việc và chủ trương, đường lối của Đảng; luật pháp, chính sách của Nhà nước. Thực hiện thật tốt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; đoàn kết thống nhất; kiên định, nhất quán, giữ vững nguyên tắc trước những vấn đề khó khăn, thách thức mới. Đối với những vấn đề lớn, khó, phức tạp, hệ trọng, cấp bách, nhạy cảm, chưa có tiền lệ, còn nhiều ý kiến khác nhau, thì cần phải đưa ra họp bàn, thảo luận một cách dân chủ, thẳng thắn; cân nhắc cẩn trọng, kỹ lưỡng để có những quyết định kịp thời, đúng đắn, chính xác và phù hợp với tình hình.
Hai là,
phải bám sát Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để xây dựng và thực hiện cho bằng được chương trình công tác hằng năm, hằng quý, hằng tháng, hằng tuần theo đúng kế hoạch; đồng thời nhạy bén, linh hoạt, kịp thời điều chỉnh, bổ sung vào chương trình công tác những công việc hệ trọng, phức tạp, mới phát sinh trên các lĩnh vực để kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả toàn diện mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Cần tiếp tục phát huy điểm mới trong nhiệm kỳ XIII, đó là: Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo tổ chức nhiều hội nghị cán bộ toàn quốc (trực tiếp, trực tuyến) để triển khai, quán triệt nhanh, đồng bộ Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị toàn diện ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, các địa bàn, theo cả chiều dọc và chiều ngang; thống nhất từ Trung ương đến địa phương và giữa các địa phương trong các vùng, miền.
Định kỳ hằng tháng, hoặc khi cần thiết, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt đều họp để nắm bắt toàn diện, cụ thể, thực chất tình hình; trao đổi, bàn bạc, thống nhất quan điểm, chủ trương, định hướng chỉ đạo những vấn đề lớn, hệ trọng, cấp bách của Đảng, của Đất nước; đôn đốc, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nhằm đẩy nhanh tiến độ, hiệu quả công việc đã đề ra. Sau mỗi cuộc họp đều ban hành kết luận chỉ đạo, phân công rõ trách nhiệm thực hiện đối với từng vấn đề; góp phần quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhất quán, thống nhất, kịp thời, chặt chẽ, đồng bộ, thông suốt, đặc biệt là trong bối cảnh phải phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và xử lý các tình huống phức tạp vừa qua; khắc phục những sự chồng chéo, trùng lắp trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; tạo sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trong các đồng chí lãnh đạo chủ chốt; tạo sự lan tỏa đến Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương và cả hệ thống chính trị.
Ba là,
tập trung ưu tiên ban hành đồng bộ và có chất lượng cao hơn nữa hệ thống pháp luật, các quy định, quy chế, quy trình công tác để thực hiện nghiêm túc, thống nhất trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, sự vào cuộc với quyết tâm cao, nỗ lực lớn của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết nhất trí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân theo đúng tinh thần “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”.
Bốn là,
tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải gương mẫu chấp hành nghiêm túc hơn nữa các quy chế, chế độ công tác; hoạt động trên cơ sở Quy chế làm việc, Chương trình công tác toàn khóa và hằng năm. Chuẩn bị kỹ nội dung, chương trình các cuộc họp; sắp xếp nội dung một cách khoa học, bài bản; thời gian tương đối hợp lý; mỗi phiên họp giải quyết được nhiều vấn đề; phát huy trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân, thảo luận dân chủ, cẩn trọng, kỹ lưỡng; văn bản hóa nhanh, kịp thời các kết luận của phiên họp.
Việc phân công, phân cấp trong giải quyết công việc giữa Bộ Chính trị và Ban Bí thư, giữa tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cá nhân các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phụ trách từng lĩnh vực và quan hệ lãnh đạo giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với các Đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, cấp ủy trực thuộc Trung ương cũng phải rõ ràng, cụ thể. Bộ Chính trị, Ban Bí thư giải quyết công việc theo đúng thẩm quyền; báo cáo kịp thời, đầy đủ với Ban Chấp hành Trung ương Đảng những vấn đề quan trọng trước khi quyết định và những công việc Bộ Chính trị đã giải quyết giữa hai kỳ hội nghị Trung ương.
Năm là,
từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần phát huy cao độ tinh thần nêu gương, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng; nghiêm túc tự soi, tự sửa, tự phê bình và phê bình; giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tự giác nhận trách nhiệm chính trị lĩnh vực mình phụ trách; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác; giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; tư tưởng, chính trị vững vàng, quan điểm đúng đắn; gương mẫu về đạo đức, lối sống trong công tác, trong cuộc sống của bản thân, gia đình và người thân. Hết sức tránh tình trạng “Chân mình còn lấm bê bê; Lại cầm bó đuốc đi rê chân người!”.
II- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TỪ NAY ĐẾN HẾT NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI KHÓA XIII
Dự báo tình hình thế giới, trong nước từ nay đến hết nhiệm kỳ bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cũng sẽ còn có nhiều khó khăn, thách thức lớn. Trên thế giới, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gay gắt; sự tranh chấp chủ quyền biển, đảo diễn biến phức tạp; cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine và các lệnh trừng phạt của Mỹ, Phương Tây đối với Nga có thể sẽ còn kéo dài, tác động đến địa chính trị, địa kinh tế, an ninh năng lượng và chuỗi cung ứng toàn cầu; khoa học – công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức mới đối với mọi quốc gia, dân tộc; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, có thể đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta…
Ở trong nước, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn: Để hoàn thành được chỉ tiêu tăng trưởng GDP 6,5% trong giai đoạn 5 năm 2021-2025 như đã đề ra từ đầu nhiệm kỳ thì tăng trưởng bình quân 3 năm 2023-2025 phải đạt khoảng 7,3%; đây là mức rất cao, đòi hỏi chúng ta phải có sự quyết tâm rất cao và nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được. Thị trường tài chính – tiền tệ, nhất là thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp sẽ diễn biến rất phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thanh khoản của một số ngân hàng thương mại yếu kém và doanh nghiệp, dự án lớn sẽ gặp nhiều khó khăn. Lãi suất ngân hàng vẫn ở mức cao, sức ép lạm phát còn lớn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh ở một số ngành, lĩnh vực có xu hướng suy giảm; số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng; nhiều doanh nghiệp phải giảm nhân công, giảm giờ làm, cho người lao động nghỉ việc; đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn. Giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt yêu cầu. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới, đăng ký bổ sung hoặc góp vốn, mua cổ phần giảm. Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước có dấu hiệu suy giảm; nợ xấu ngân hàng, nợ thuế nhà nước có xu hướng tăng; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh mạng, trật tự, an toàn xã hội, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân… hiện vẫn là những vấn đề lớn có nhiều khó khăn, thách thức cần khắc phục. Việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ vẫn là khâu yếu; kỷ luật, kỷ cương ở nhiều nơi chưa nghiêm, thậm chí còn có hiện tượng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; cái gì có lợi thì kéo về cho cơ quan, đơn vị và cá nhân mình; cái gì khó khăn thì đùn đẩy ra xã hội, cho cơ quan khác, người khác…
Tình hình trên đây đòi hỏi chúng ta tuyệt nhiên không được chủ quan, tự mãn, quá say sưa với những kết quả, thành tích đã đạt được, và cũng không quá bi quan, dao động trước những khó khăn, thách thức; mà trái lại, cần phải hết sức bình tĩnh, sáng suốt, phát huy thật tốt những kết quả, bài học kinh nghiệm đã có, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, nhất là từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, để tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, nỗ lực phấn đấu, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức, để triển khai thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho nửa cuối của nhiệm kỳ khóa XIII. Tập trung ưu tiên triển khai thực hiện thật tốt những nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là,
về phát triển kinh tế: Cần tiếp tục quán triệt thật sâu sắc, tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước về phát triển nhanh và bền vững. Chú trọng củng cố, tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế trên cơ sở lành mạnh hóa, giữ vững sự phát triển ổn định, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp. Tập trung ưu tiên cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; giải quyết có hiệu quả những khó khăn, hạn chế, yếu kém, cả trước mắt lẫn lâu dài, của nền kinh tế để giữ vững đà phục hồi, tăng trưởng nhanh và bền vững, thực chất hơn; tạo chuyển biến mạnh hơn trong việc thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… gắn với tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Hai là,
về phát triển văn hóa, xã hội: Cần quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, hài hòa và ngang tầm với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ người dân, người lao động mất việc làm và doanh nghiệp gặp khó khăn. Chăm lo đời sống người có công với cách mạng, người có hoàn cảnh khó khăn; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa nông thôn, đô thị, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững; ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các chương trình, đề án, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác phòng, chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Nâng cao hiệu quả của các thiết chế văn hóa, nhất là ở các khu công nghiệp, khu đô thị mới; bảo tồn và phát huy các giá trị di sản, văn hóa tốt đẹp. Xây dựng nếp sống văn hóa lành mạnh; ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức, lối sống và quan tâm hơn nữa đến việc phòng, chống bạo lực gia đình, xâm hại trẻ em và tệ nạn xã hội.
Ba là,
về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Cần tiếp tục củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tích cực đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; thực hiện các giải pháp bảo đảm an ninh mạng, an toàn giao thông, phòng, chống cháy, nổ.
Tổ chức thật tốt các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao; chủ động, tích cực, làm sâu sắc, thực chất hơn nữa quan hệ với các đối tác; đẩy mạnh đối ngoại đa phương; giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết. Triển khai thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký kết, tranh thủ tối đa lợi ích mà các hiệp định này có thể đem lại.
Bốn là,
về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Cần tiếp tục đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp từ Trung ương đến địa phương. Xây dựng Chính phủ, chính quyền các địa phương thật sự trong sạch, liêm chính, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cụ thể là, phải có chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, ráo riết, có kết quả cụ thể các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương về vấn đề này, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ để lựa chọn, bố trí đúng những người thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết; thật sự vì nước, vì dân vào các vị trí lãnh đạo của bộ máy nhà nước. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ ra khỏi đội ngũ những người sa vào tham nhũng, hư hỏng; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cục bộ, ưu ái tuyển dụng người nhà, người thân không đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương; tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ những người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực gắn với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn tham nhũng”. Đồng thời, chấn chỉnh, đấu tranh loại bỏ tư tưởng bàn lùi, lo ngại rằng nếu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực quá mạnh sẽ cản trở sự phát triển, làm nhụt chí, làm “cầm chừng”, “phòng thủ”, “che chắn”, giữ “an toàn”, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong một bộ phận cán bộ, công chức nào đó, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tôi đã nhiều lần nói rồi; nay xin nhắc lại: Những ai có tư tưởng ấy thì hãy đứng sang một bên để người khác làm! Tất cả chúng ta, nhất là những người trực tiếp làm công tác tổ chức, cán bộ, phải có ý chí, quyết tâm cao, có tấm lòng trong sáng, có con mắt tinh đời, đừng “nhìn gà hóa cuốc”!; “đừng thấy đỏ tưởng là chín”!
Năm là,
về chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng: Từ kết quả, kinh nghiệm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ lần này, chúng ta cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thật tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt là Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV nhiệm kỳ 2026-2031; chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Đồng thời, khẩn trương, nghiêm túc tiến hành tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới, tập trung vào 10 năm gần đây; thành lập các Tiểu ban chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng để các Tiểu ban này, nhất là Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Nhân sự, sớm đi vào hoạt động, đáp ứng tốt mục tiêu, yêu cầu đề ra.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến dự phiên bế mạc Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ – Ảnh: VGP/Nhật Bắc.
Thưa các đồng chí,
Với những kết quả, thành tựu đã đạt được và những kinh nghiệm đã tích lũy, rút ra được từ đầu nhiệm kỳ đến nay, tôi tin tưởng và tha thiết mong rằng, sau Hội nghị này, với niềm tin mới, khí thế mới, động lực mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẽ tiếp tục đoàn kết, phấn đấu với quyết tâm và nỗ lực cao hơn nữa; năng động, sáng tạo hơn nữa để sáng suốt nắm bắt mọi thời cơ, thuận lợi; vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức; hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho cả nhiệm kỳ khóa XIII, góp phần xây dựng Đất nước thân yêu của chúng ta ngày càng phát triển, cường thịnh; ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, như Bác Hồ muôn vàn kính yêu hằng mong đợi.
Nhân dịp này, tôi xin thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và với tình cảm cá nhân, một lần nữa chúc toàn thể các đồng chí Ủy viên Trung ương, các đại biểu tham dự Hội nghị và các cấp ủy, chính quyền, đồng bào, chiến sĩ cả nước tiếp tục phát huy những thành tích, kết quả và bài học kinh nghiệm đã đạt được; khắc phục bằng được những hạn chế, yếu kém còn tồn tại; lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, hoạt động quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả hơn nữa, hoàn thành xuất sắc trọng trách được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin cậy giao phó.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang kỳ vọng, đang đòi hỏi và trông chờ ở chúng ta, ở các đồng chí!
Chúc toàn thể các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công!
|
Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tổng kết Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
| 7,932 | |
Tại lễ kỷ niệm ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5), Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận thời gian qua, đội ngũ trí thức, khoa học công nghệ Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại sự kiện. (Ảnh: PV/Vietnam+).
Chiều 17/5 tại
Hà Nội
, Bộ Khoa học và Công nghệ đã long trọng tổ chức Lễ chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5) với chủ đề “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo – động lực phát triển bền vững.”
Sự kiện nhân kỷ niệm Ngày khoa học và công nghệ Việt Nam lần thứ 10 và 60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp mặt đội ngũ trí thức (18/5/1963 – 18/5/2023).
Sau 10 năm tổ chức, Ngày khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành ngày hội của lực lượng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của cả nước. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã chọn ngày này để vinh danh, trao các giải thưởng cho các nhà khoa học, các cán bộ quản lý khoa học và đông đảo người dân yêu khoa học, say mê nghiên cứu.
Phát biểu tại sự kiện, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trích dẫn câu nói: “Xã hội tồn tại nhờ niềm tin và phát triển nhờ khoa học.” Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang phát triển mạnh mẽ, vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng được thể hiện rõ nét.
Nhấn mạnh “khoa học công nghệ là con đường ngắn nhất để đạt đến mục tiêu thịnh vượng,” Thủ tướng và ghi nhận thời gian qua, đội ngũ trí thức, khoa học công nghệ Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học trẻ, nhà khoa học nữ có nhiều đóng góp cho ngành khoa học công nghệ. Thị trường khoa học công nghệ đã bước đầu hình thành và đạt được những kết quả tích cực.
Song song đó, khoa học xã hội và nhân văn cũng được đẩy mạnh với nhiều thành tựu. Cùng với đó là 3 trụ cột chính: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tranh thủ sức mạnh dân tộc và thời đại.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh ‘khoa học công nghệ là con đường ngắn nhất để đạt đến mục tiêu thịnh vượng.’ (Ảnh: PV/Vietnam+).
Thủ tướng cũng động viên, khuyến khích nhà khoa học mạnh dạn sáng tạo và đổi mới nhưng chấp nhận sự rủi ro. Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, làm khoa học đôi khi phải “chấp nhận cô đơn.”
Cũng tại sự kiện, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho hay 10 năm qua từ khi Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 được thông qua, Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã trở thành ngày hội của lực lượng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cả nước.
“Các hoạt động phong phú, thiết thực chào mừng Ngày Khoa học và công nghệ Việt Nam trong 10 năm qua đã khơi dậy, truyền cảm hứng và khát vọng sáng tạo trong cộng đồng; dần hình thành văn hóa đổi mới sáng tạo và nuôi dưỡng tình yêu khoa học trong giới trẻ, góp phần kiến tạo một xã hội tôn trọng khoa học và tư duy sáng tạo,” Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại sự kiện. (Ảnh: PV/Vietnam+).
Năm nay, ngành khoa học và công nghệ kỷ niệm tròn 60 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội lần thứ nhất Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Trong đó, Bác nhấn mạnh nhiệm vụ của khoa học và công nghệ là phải cải tiến lề lối sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Lời dạy của Bác đến nay vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu rộng, tư tưởng lớn đối với định hướng phát triển lâu dài của nền khoa học và công nghệ nước nhà, đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng.
Gần đây nhất, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.”
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt mong muốn Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam tiếp tục nhận được sự quan tâm, hưởng ứng tham gia tích cực hơn nữa từ các cơ quan, tổ chức và đông đảo các tầng lớp nhân dân. Niềm tin và kỳ vọng của Lãnh đạo Đảng, Chính phủ và người dân chính là nguồn động viên to lớn để các nhà khoa học kiên trì theo đuổi giấc mơ lớn và niềm đam mê khoa học, vượt lên các khó khăn, thách thức để tạo ra nhiều thành quả khoa học công nghệ thiết thực, mang lại lợi ích cho đất nước, người dân và xã hội, đóng góp cho kho tàng tri thức của nhân loại…
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cũng khẳng định với vai trò quản lý nhà nước Bộ Khoa học và công nghệ sẽ tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các cơ chế, chính sách tạo môi trường và điều kiện tốt hơn nữa cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo./.
|
‘KH-CN là con đường ngắn nhất để đạt đến mục tiêu thịnh vượng’
| 985 | |
TẦN HOÀI DẠ VŨ
– HỌ TÊN: NGUYỄN VĂN BỔN
– BÚT DANH: TẦN HOÀI DẠ VŨ, NGUYỄN GIAO THỦY
– NĂM SINH: 1.4.1946
– NHỮNG TRƯỜNG ĐÃ HỌC: Trường Nam Tiểu học Hội An (1954-1958); Trường Trung học Trần Quý Cáp, Hội An (1958-1962); Trường Trung học Quốc Học, Huế (1962-1965); Trường Đại học Văn khoa và Trường Đại học Sư phạm Huế (1965-1969, đỗ Cử nhân Văn khoa và Tốt nghiệp Ban Việt Hán Đại học Sư phạm Huế).
– ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC:
– EMAIL:
– ĐIỆN THOẠI: 0908.879.329
– QUÁ TRÌNH CÔNG TÁC: Đã dạy tại Trường Trung học TRẦN CAO VÂN (Tam Kỳ, tỉnh Quảng Tin- 1969-1971); Trung học Quảng Điền (Thừa Thiên Huế – làm Giám học, tức Hiệu phó Chuyên môn bây giờ – 1972-1975); Trường Quốc Học, Huế – Hiệu trưởng, 1.4.1975 – 5. 9.1976); Trường THPT Nguyễn Huệ (1976-1977 – Hiệu phó Chuyên môn); Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (1978-1988 – Trưởng ban Nghiên cứu Văn hóa Dân gian); Báo Thanh Niên, 1988 – 1993, Trưởng trang Văn học và Thư ký Tòa soạn); Tạp chí Kiến thức Ngày nay, 1993- 2012, Cộng tác và biên tập viên); Trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng (2012-2017, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế-Xã hội)…
– HỘI ĐOÀN NGHỀ NGHIỆP: Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam (1986); Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam (1989); Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2005).
I. THƠ
:
Trên cánh tay hừng đông
(in ronéo trước 1975)
Thơ tình Tần Hoài Dạ Vũ
(Nxb Hội Nhà văn, HN, 1992);
Ngọn lửa quạnh hiu
(Nxb Trẻ, TP.HCM, 1996);
Tình yêu và vầng trăng lửa
(Nxb Trẻ, 1997);
Suy niệm hoàng hôn
(Nxb Trẻ, 2005);
Tình ca trong mưa
(Nxb Văn hóa-Văn nghệ, TP.HCM, 2011);
Thơ Tần Hoài
Dạ Vũ
(Nxb Hội Nhà văn, 2016).
Bài thơ vui tặng cuộc đời tôi
(Nxb Hội Nhà văn, 2020)
Phút giây vĩnh cửu
(Nxb Hội Nhà văn, 2021
10.
Hãy chia tôi ra cho cuộc đời này
(Nxb Hội Nhà văn, 2022)
* Bắt đầu đăng thơ trên các báo, tạp chí ở Sài Gòn từ năm 1963, lúc đang học Lớp 10 tại Trường Quốc Học, Huế.
Đã có thơ trong hơn 60 tuyển tập thơ xuất bản trong nước và ở nước ngoài.
II. BIÊN KHẢO-NGHIÊN CỨU
:
11.12.
Văn nghệ Dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng
(Tập I, 1983; Tập II, 1984. Sở VHTT Quảng Nam – Đà Nẵng xuất bản)
Truyện cười Thủ Thiệm
(Sở VHTT Quảng Nam-Đà Nẵng, 1987 xuất bản);
Chân dung thơ
(Nhận định văn học, Nxb Trẻ, 1994);
Vươn tới tương lai
(ký sự nhân vật, ký tên Nguyễn Kim Văn, Nxb Trẻ, 1995);
Văn học Dân gian Quảng Nam (Miền biển
) (Sở VHTT Quảng Nam xuất bản, 2002)
Văn học Dân gian Quảng Nam
(Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền núi)
(Sở VHTT Quảng Nam, 2005)
Văn học Dân gian huyện Tiên Phước
(Sở VHTT Quảng Nam, 2005);
19.
Thủ Thiệm, tiếng cười dân gian độc đáo xứ Quảng
(Sở VHTT Quảng Nam xuất bản năm 2007; Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam in lại năm 2011; Nxb Đà Nẵng, tái bản, lần thứ ba, năm 2017);
20 – 23.
Văn học Dân gian Quảng
Nam – Đà Nẵng
(gồm 4 tập, với trên 2.000 trang in, đựng trong một hộp carton, do họa sĩ thiết kế La Thanh Hiền trình bày) – Nxb Hội Nhà văn, 2018).
III. HỒI KÝ, BÚT KÝ, TẢN VĂN:
24.
Phác họa chân dung một thế hệ
(Hồi ký lịch sử, Có sự cộng tác của Nguyễn Đông Nhật . Nxb Đà Nẵng, 2007; Nxb Trẻ in lại,lần thứ hai, năm 2012, Nxb Hội Nhà văn in lại ,lần thứ ba, năm 2015).
Giấc mơ
Duy Tân
( Tự sự – Viết chung với Lê Công Cơ – Nxb Hội Nhà văn, 2015)…
Cánh hoa điền dã
(Bút ký – Nxb Hội Nhà văn, 2019).
Nhìn qua năm tháng
(Tản văn – Tự sự; Nxb Hội Nhà văn, 2021)
Cỏ hoa dâng đời
(Lời Hay Ý Đẹp – Nxb Hội Nhà văn, 2023).
*
BIÊN SOẠN CHUNG
(Chủ biên – Tổ chức bản thảo và biên tập) :
Đại Lộc sáng ánh đèn
(Nhiều tác giả, Tản văn – Tự sự, Nxb Đà Nẵng, 1991)
Tiếng hát những người đi tới
(Biên khảo – Báo Thanh Niên – Báo Tuổi Trẻ – Nxb Trẻ phối hợp xuất bản, 1993)
Tháng Giêng Sài Gòn, anh làm thơ yêu em
(Tuyển tập Thơ – Tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Trẻ, 1994)
Thơ từ trường Quốc Học
(Tuyển tập Thơ – Nxb Văn Học, 1996)
Quốc Học trường tôi (Tuyển tập Thơ – Nxb Thuận Hóa, 1996)
Ngày quật khởi
(Nhiều tác giả – Hồi ký lịch sử – Nxb Trẻ, 2007);
Khát vọng Duy Tân
(Nhiều tác giả – Tản văn – Nxb Trẻ, 2013)
Những chân trời khát vọng
(Nhiều tác giả – Tản văn – Tự sự – Nxb Trẻ, 2014)
Yêu thương, thơ gọi
(Tuyển tập Thơ – Tổ chức bản thảo và biên tập)
* ĐÃ HOÀN TẤT BẢN THẢO – SẼ IN
Địa chí Tam Kỳ
(Chủ biên – Với sự cộng tác của NNC Hồ Xuân Tịnh, NGƯT Trần Đại Vinh, PGS.TS Nguyễn Văn Đăng, TS. Phạm Phú Quốc, TS.Trần Tấn Vịnh, TS.Nguyễn Thái Giao Thủy – Đã hoàn thành bản thảo, UBND TP Tam Kỳ sẽ in)…
Năm chữ thương đời (Thơ)
Lục bát cánh diều (Thơ)
Tự do, thơ gọi (Thơ)
Mắt huyền năm tháng (Thơ)
Tiếng hát yêu người (Thơ)
Thương nhớ làng xưa (Tản văn)
Tấm lòng gửi lại mai sau (Tự truyện)
NHỮNG CUỘC CHIA TAY VÀ TRỞ LẠI
Rất nhiều lần trước lúc ra đi
một góc phố, một khoảng trời xao xuyến
và cơn gió trong mắt chiều hò hẹn
thổi vào giấc mơ tôi suốt những đêm dài
Chúng ta đi qua những buổi mai
qua những buổi trưa của một thời đã mất
tiếng còi tàu ngưng lưng chừng tiếng hát
thành hợp âm rời ở cuối cuộc chia tay
Ngoài hai mươi, ngoài ba mươi, ở chặng đời này
lại gặp nhau tình cờ lại xa nhau rất vội
phút ra đi em ngập ngừng không nói
đã nói nhiều trong ánh mắt ưu tư
Cái nắm tay bên cửa sổ toa tàu
như nốt nhạc rơi bên ngoài nỗi nhớ
như thời gian rơi bên ngoài đổ vỡ
kỷ niệm đầy vị ngọt của tương lai
Những dòng sông trôi đi, cuộc sống vẫn còn dài
cơn gió cũ qua rồi đời vẫn mát
một góc phố một khoảng trời xanh ngát
lại đưa ta về trong mắt của tình yêu.
1982
Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ.
ĐÒ CHIỀU
Chiều gần. Chiều chậm. Chiều rơi
Tiếng chuông chùa ngắn như hơi thở chiều
Trên đò ngọn gió tịch liêu
Lạnh lùng thổi lại hồn chiều bơ vơ
Ta qua chưa hết chuyến đò
Thấy trăng đứng đợi bên bờ tử sinh
Thấy sông trôi lại bóng mình
Biết ta là bóng hay hình rong chơi
Tình xưa đã chết bên trời
Chiều nay sông nước đọc lời điếu tang
Hỏi quê nào biết đâu làng
Lòng không, còn lại mấy hàng mây trôi.
Bến đò Giao Thủy, 2004
CHIỀU MƯA UỐNG RƯỢU
Buồn xuống ngang vai chiều tới chậm
lòng tôi mưa bụi nữa đây em
không chắc đêm nay mà ngủ được
rượu tàn không ấm nhớ không tên
Tâm sự cứ như là áo rách
từng chiều chếnh choáng bước loanh quanh
hồn thôi bỏ mặc cho sương xuống
thương nhớ không vàng giọt nắng hanh
Dừng chân dưới cột đèn châm thuốc
không gió mà tay lạnh rất đầy
mùa thu về nữa trên cây lá
mai mốt sẽ buồn như heo may
Không biết tình xa chiều có lạnh ?
người về qua một bến sông xanh
áo bay hay lá rơi vào Nội
thương nhớ lòng theo mấy cửa thành
sao tôi cứ là mây viễn xứ
thèm về soi giữa mắt nhung xưa
mà không là một vầng trăng tỏ
nở giữa lòng em cả bốn mùa ?
Mưa rụng thêm hồn tôi nữa đây
Chiều tàn. Rượu hết. Sầu chưa say
mai về tay níu vai cầu cũ
cởi áo xưa buồn cho gió bay.
1969
———-
(Bài đã đăng trên Tạp chí Văn số 19
ở Sài Gòn, Ngày 1 tháng 4.1969)
PHÚT GIÂY VĨNH CỬU
Tôi không nhớ tôi đã bắt đầu yêu em tự bao giờ, chỉ biết rằng lòng tôi thổn thức trước gương mặt em ẩn hiện cả nỗi đau thương thầm lặng của cuộc đời.
Đêm tháng Giêng. Đêm nung nấu khát vọng. Em là nỗi cám dỗ tội lỗi đồng thời là nguồn cội của mọi ân huệ. Em tràn trề mời gọi và hứa hẹn mọi lãng quên.
Đôi môi em ngào ngạt hương hoa hồng, thơm lừng hơn sữa mật, em xinh đẹp biết bao. Này người bạn đời không hôn ước, em tươi đẹp biết bao. Mắt em là mặt biển dậy sóng, miệng em là hương rừng nồng cay, ngực em là hai chùm nho óng ả, rốn em là cốc rượu đầy ắp đắm say, thấm vào trái tim tôi run rẩy, chảy tràn qua môi răng, sực nức trong cổ họng tôi đã bao mùa cay đắng.
Hỡi em rạng rỡ như buổi bình minh, thanh khiết như ánh trăng, trong sáng như dòng suối và ma quái hơn đêm dày địa ngục. Hai đầu gối em là hai viên đá quý, công trình chạm trỗ của những bàn tay nghệ nhân tuyệt kỹ.
Tôi đánh mất cả thế giới – hiểu vì sao mình đánh mất – và tự nguyện lao vào ân sủng của tình em.
Tâm hồn ngây ngất tôi hiểu ra rằng phẩm hạnh duy nhất là được yêu người mình tôn quý và hạnh phúc cao cả là nắm bắt được hiện hữu này.
Trong phút giây tôi còn thoáng nhớ tới những buộc ràng tôn giáo nhưng ngay lập tức tôi cũng tin rằng chính điều tôi đắn đo mới là con quỷ của tri thức cám dỗ vì chẳng có gì tốt đẹp thiêng liêng hơn tình yêu đang vây bọc chúng tôi và men đời ngào ngạt đang mỗi lúc một dâng cao bất tận.
Toàn thân tôi biến thành một con mắt có thể nhìn thấu được mọi lẽ đời vinh nhục, quá khứ và tương lai cùng lúc phơi bày như một đoá hoa nở rộ, rồi đột nhiên tôi thấy rõ toàn bộ thế giới chung quanh.
Tình yêu đã phát sinh sự hợp nhất, vẻ dịu dàng, điều thiện, cái đẹp và cả sự viên mãn.
Có bao giờ tôi đã dại khờ nghi ngờ tình yêu ? Em là nơi ẩn náu, cõi lãng quên và là sức mạnh cho chính phút giây yếu đuối của đời tôi.
Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ.
DẠ KHÚC CỦA MỘT NGƯỜI HAY BUỒN
Thơ: Tần Hoài Dạ Vũ
Nhạc: Ngọc Bích (Gò Công)
Hòa âm, mix: BeaTBros Studio
Hát: Nguyễn Quang
|
Tác giả Tần Hoài Dạ Vũ
| 1,692 | |
Ngày 18/5, tại Hà Nội, Thời báo Văn học nghệ thuật đã tổ chức lễ phát động cuộc thi kiến thức ‘Tìm hiểu 75 năm xây dựng và phát triển Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam’.
Cuộc thi được tổ chức hướng đến kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/05/1890 – 19/05/2023), và kỷ niệm 75 năm thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam nay là Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (25/07/1948 – 25/07/2023).
Thông qua cuộc thi nhằm tuyên truyền rộng rãi trong toàn xã hội về ý nghĩa và vai trò nền tảng cũng như các nguyên tắc của Đề cương về văn hóa Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và tiến trình phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật Việt Nam 80 năm qua cùng những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận về văn hóa, văn học nghệ thuật hiện nay.
Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam Đỗ Hồng Quân phát biểu tại lễ phát động.
Đồng thời, đây cũng là dịp để tuyên truyền lịch sử hình thành và phát triển, những thành tựu to lớn của Hội Văn hóa Việt Nam, Hội Văn nghệ Việt Nam trước đây nay là Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Qua đó khơi dậy niềm tự hào và nêu cao trách nhiệm xã hội cũng như nghề nghiệp của lực lượng văn nghệ sĩ góp phần xây dựng Liên hiệp và các tổ chức thành viên ở Trung ương cũng như địa phương ngày càng vững mạnh, sáng tạo nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng và đáp ứng yêu cầu, niềm tin của nhân dân, vì sự phát triển văn hóa con người Việt Nam và sự phát triển bền vững của đất nước.
Phát biểu tại lễ phát động, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân cho biết: “Hiện nay Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đang gấp rút chuẩn bị các hoạt động kỷ niệm 75 năm thành lập. Đây là dịp để chúng ta ôn lại quá khứ hào hùng, truyền thống vẻ vang, khơi dậy niềm tự hào về sự đóng góp, hy sinh của lớp lớp các thế hệ văn nghệ sĩ tiền bối đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Việc Thời báo Văn học nghệ thuật có sáng kiến tổ chức một cuộc thi để văn nghệ sĩ và bạn đọc rộng rãi trong toàn xã hội cùng sưu tầm tài liệu, tư liệu, tìm hiểu lịch sử Liên hiệp và thử sức của mình với cuộc thi là rất đáng biểu dương”.
Qua đó, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân cũng đề nghị, ban tổ chức và ban giám khảo nêu cao trách nhiệm, làm hết sức mình để cuộc thi diễn ra thành công tốt đẹp, bảo đảm chính xác, công bằng, minh bạch tạo uy tín trong lòng bạn đọc, tạo tiền đề để tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động có ý nghĩa và thiết thực trong thời gian tới.
Không gian lễ phát động.
Đối tượng tham dự cuộc thi là những văn nghệ sĩ và công dân Việt Nam không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp.
Về hình thức dự thi là viết bài trả lời đầy đủ các câu hỏi do ban tổ chức đặt ra. Tác giả có thể sáng tạo trong trình bày hình ảnh, tư liệu minh họa. Bài dự thi được đánh máy hoặc viết tay, có hình ảnh tư liệu minh họa, viết trên một mặt giấy, ghi số trang, đóng thành tập; ghi rõ nguồn tài liệu tham khảo, họ tên, bút danh, nghề nghiệp, số căn cước công dân, địa chỉ cư trú, số điện thoại liên hệ.
Về cơ cấu giải thưởng, ban tổ chức sẽ trao 1 giải nhất, 2 giải nhì, 3 giải ba, 10 giải khuyến khích. Thời gian nhận tác phẩm dự thi và sơ tuyển từ ngày 18-5 đến ngày 10-7. Lễ trao giải thưởng cuộc thi dự kiến diễn ra vào ngày 24 hoặc 25-7.
Địa chỉ nhận tác phẩm dự thi: Thời báo Văn học nghệ thuật, nhà A, tầng 1, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia, 32 Hào Nam,
Đống Đa
,
Hà Nội
./.
|
Phát động cuộc thi Tìm hiểu 75 năm xây dựng và phát triển Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam
| 763 | |
Sau khi có ý kiến của Hội đồng thẩm định Nhà nước, Bộ GTVT yêu cầu các cơ quan trực thuộc, tư vấn nghiên cứu hai phương án đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc Nam để trình cấp trên xem xét lựa chọn.
Mới đây, Hội đồng thẩm định Nhà nước có văn bản đề nghị Bộ GTVT hoàn thiện phương án đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam đường đôi khổ 1.435mm để vận tải hành khách và hàng hóa, tốc độ thiết kế khoảng 200-250 km/h, tốc độ khai thác khoảng 200 km/h.
Về hướng tuyến, số lượng nhà ga và vị trí nhà ga, Hội đồng thẩm định Nhà nước khẳng định đây là yếu tố quan trọng nhằm bảo đảm tính khả thi và hiệu quả cũng như phát huy vai trò của dự án. Cơ quan thường trực của Hội đồng thẩm định Nhà nước đã xin ý kiến của 20 tỉnh, thành về hướng tuyến, số lượng nhà ga và vị trí nhà ga theo đề xuất của tư vấn thẩm tra.
Kết quả, tất cả 20 tỉnh, thành đồng thuận với phương án số lượng nhà ga. Tuy nhiên, chỉ có 8 tỉnh, thành đồng thuận với phương án hướng tuyến và vị trí nhà ga, 12 tỉnh chưa đồng thuận.
Vì vậy, hội đồng đề nghị Bộ GTVT phối hợp tư vấn thẩm tra, tư vấn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án làm việc cụ thể với 12 tỉnh này để rà soát, nghiên cứu và thống nhất hướng tuyến, vị trí nhà ga với phương án tối ưu nhất, đảm bảo phù hợp, khả thi, hiệu quả cũng như phát huy vai trò của dự án.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Về nguồn vốn, Bộ GTVT được đề nghị nghiên cứu phương án đề xuất của tư vấn thẩm tra để hoàn thiện phương án huy động vốn cho dự án, đảm bảo khả thi. Đồng thời, bổ sung nội dung nghiên cứu mô hình thực hiện dự án theo phương thức đối tác công – tư (PPP).
Trong đó, Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo trì và bảo dưỡng kết cấu hạ tầng. Tư nhân đầu tư phương tiện vận tải và nhà ga cao tầng. Sau đó, tư nhân thành lập bộ máy vận hành khai thác và trả phí khấu hao cơ sở hạ tầng đã đầu tư (dự kiến thời gian hoàn vốn 75 năm) và trả phí bảo dưỡng hạ tầng cho nhà nước. Mô hình triển khai dự án theo hình thức chìa khóa trao tay.
Tuy nhiên, hội đồng cũng lưu ý, đây là dự án có vốn đầu tư lớn để triển khai được cần phải có cơ chế đặc biệt báo cáo Chính phủ để xem xét trình Quốc hội. “Vì vậy, đề nghị Bộ GTVT nghiên cứu kết quả thẩm tra của tư vấn thẩm tra và xây dựng cơ chế đặc biệt của dự án”- Hội đồng thẩm định Nhà nước đề nghị.
Về tiến độ thực hiện dự án, hoàn thiện phương án phân kỳ đầu tư hợp lý, đảm bảo tính khả thi, hoàn thành dự án trước năm 2045.
Triển khai yêu cầu trên, Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy vừa họp với các đơn vị trực thuộc và tư vấn dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam.
Theo thông báo kết luận vừa được Văn phòng Bộ GTVT ban hành, lãnh đạo Bộ GTVT khẳng định dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam là dự án có quy mô lớn, công nghệ – kỹ thuật phức tạp, cần nhiều nguồn lực lớn để đầu tư, là động lực quan trọng để tạo đột phá phát triển kinh tế – xã hội cả nước và được Bộ Chính trị yêu cầu nghiên cứu cẩn trọng, toàn diện, kỹ lưỡng.
Vì vậy, ông Huy yêu cầu Ban Quản lý dự án Đường sắt, tư vấn và các đơn vị liên quan tiếp tục rà soát, tham khảo kinh nghiệm quốc tế; cập nhật, bổ sung nghiên cứu hoàn thiện báo cáo nghiên cứu khả thi dự án.
Trong đó, lãnh đạo Bộ GTVT lưu ý tập trung vào hai phương án là làm một tuyến đường sắt mới chỉ chở khách và tuyến đường sắt mới vừa chở khách vừa chở hàng. Trong đó, kịch bản đường sắt mới chỉ chở khách, bổ sung đường sắt hiện hữu cải tạo, nâng cấp, điện khí hóa phù hợp với lộ trình cam kết của Việt Nam tại COP26 để vận tải hàng hóa; kịch bản xây dựng mới đường sắt trên trục Bắc – Nam theo tiêu chuẩn đường đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa để vận tải hành khách và hàng hóa làm cơ sở để so sánh, lựa chọn.
Về hướng tuyến dự án, cơ bản giữ nguyên hướng tuyến đã thống nhất với các địa phương trước đây. Với một số địa phương có ý kiến điều chỉnh, yêu cầu Ban Quản lý dự án đường sắt, tư vấn triển khai ngay công tác rà soát và làm việc để thống nhất với các địa phương, đồng thời thống nhất phạm vi, vị trí bổ sung các ga hàng hóa đối với kịch bản vận tải chung hành khách và hàng hóa.
Ban Quản lý dự án đường sắt, tư vấn rà soát nhiệm vụ – dự toán hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án. Trong đó nếu cần thiết đề xuất một số chuyên gia nước ngoài có chuyên môn sâu về công nghệ – kỹ thuật tham gia dự án để bảo đảm tiến độ, chất lượng.
Viện Chiến lược và phát triển giao thông vận tải cập nhật, bổ sung số liệu, kết quả dự báo nhu cần vận tải cho hai phương án đầu tư đường sắt trên trục Bắc – Nam.
Bộ GTVT Vụ Kế hoạch – Đầu tư rà soát vốn chuẩn bị đầu tư, bổ trí bổ sung kinh phí khảo sát, hoàn thiện báo cáo nghiên cứu khả thi dự án.
Hai kịch bản đầu tư đường sắt
Theo dự thảo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, Bộ GTVT đề xuất đầu tư xây dựng mới tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam chỉ chở khách, có tốc độ thiết kế 350 km/giờ, tốc độ khai thác 320 km/giờ. Tổng mức đầu tư dự án ước khoảng 58,71 tỉ USD, trong đó vốn nhà nước chiếm 80%, vốn tư nhân khoảng 20% tổng mức đầu tư. Đường sắt hiện hữu cải tạo để chở hàng.
Trong khi đó, tư vấn thẩm tra dự án đề xuất, tốc độ thiết kế tối đa tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam là 250 km/h để vừa chở khách và vừa chở hàng. Đường sắt hiện hữu được nâng cấp để chở khách liên vùng và tàu hàng container.
|
Bộ GTVT hoàn thiện 2 phương án đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam
| 1,173 | |
Màn pháo hoa rực rỡ cùng kỹ xảo ánh sáng lung linh trên bầu trời sân Morodok Techo đánh đấu kỳ SEA Games 32 chính thức khép lại. Ảnh: Minh Quyết/TTXVN
Một ngày trước khi nhóm phóng viên đặt chân xuống Phnom Penh để chuẩn bị cho kỳ tác nghiệp dài ngày tại SEA Games 32, một cơn mưa lớn đã làm dịu đi cái nóng nhễ nhại của mảnh đất này, và cũng có thể coi là một lời chào mát lành mà Campuchia dành cho chúng tôi.
Ngày hôm qua (17/5), trước khi lễ bế mạc kỳ đại hội thể thao lần thứ 32 của khu vực Đông Nam Á bắt đầu, một cơn mưa nặng hạt tương tự đổ xuống khu liên hợp thể thao Morodok Techo chỉ 3 tiếng trước khi nghi lễ tạm biệt của nước chủ nhà dành cho các VĐV, HLV và tất cả những ai đã có mặt ở đây theo dõi và thông tin về SEA Games 32.
Một lần nữa, cơn mưa lại đẩy lùi cái nóng bức bối để nước chủ nhà Campuchia tổ chức một lễ hội ấn tượng nữa tại Morodok Techo như những kí ức còn nguyên về lễ khai mạc sống động và lung linh cách đây 12 ngày, nơi mà “xứ Chùa Tháp” đã cho chúng ta thấy họ tổ chức một kỳ đại hội thành công rực rỡ như thế nào.
Ở buổi tối cuối cùng của
SEA Games 32
, chúng tôi tình cờ gặp lại Vitou Pheananut – cô gái nhỏ bé đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong quá trình tác nghiệp ở Cung thể thao dưới nước – giữa đoàn tình nguyện viên đang di chuyển vào phía trong sân Morodok Techo.
Đó là khoảnh khắc thật sự xúc động khi gặp được một người bạn giữa hàng nghìn người mặc màu áo tím vây quanh mình, niềm hạnh phúc và niềm tự hào ánh lên trong mắt họ, khiến chúng tôi như được nhìn lại những ngày tranh tài sôi nổi đã qua, cùng với họ chứng kiến những giọt mồ hôi của các VĐV rơi xuống, sự quyết tâm được thể hiện trên gương mặt và giây phút ăn mừng chiến thắng hay những khoảng lặng sau mỗi thất bại.
Vitou Pheananut và những người bạn của mình là một phần không thể thiếu để tạo nên kỳ SEA Games 32 ấn tượng như vậy. Và cũng như thế, họ đã tạo nên một tình bạn đẹp với nhóm phóng viên. Thật vui vì đã có mặt ở đây để được chứng kiến những hình ảnh ấn tượng đến thế của lễ bế mạc, của tình đoàn kết, của niềm tự hào và sự sẻ chia.
Khi chúng tôi rời khỏi Morodok Techo sau lễ bế mạc, bầu không khí thật sự trong lành và tươi mát càng khiến cho cảm giác lưu luyến con đường Ly Yongphat – đã trở nên quen thuộc với chúng tôi sau nhiều ngày tác nghiệp ở đây – càng lớn hơn.
Chúng tôi sẽ nhớ mãi mùi ngai ngái của cỏ khô ở nơi đây, nhớ mãi hình ảnh cánh buồm vươn cao lên bầu trời được nhìn thấy từ xa của sân vận động Morodok Techo, sẽ nhớ về nhà thi đấu Chroy Changvar sôi động, nhớ về sân vận động Olympic với những trận cầu rực lửa, nhớ về sân tập Nipes hay tất cả những địa điểm đã đặt chân đến và rời đi sau đi một ngày làm việc mệt nhoài.
Những cuộc tranh tài ở SEA Games 32 đã lùi lại phía sau, những tấm huy chương đã được đeo lên trước ngực, những kỷ lục đã được lập ra và chắc chắn sẽ là cột mốc để các VĐV vươn tới những mục tiêu xa hơn ở kỳ SEA Games tiếp theo được tổ chức ở Thái Lan.
Một trong số những bài hát được sử dụng tại kỳ SEA Games 32 chính là “We did it” (Chúng ta đã làm được). Quả thực, Campuchia đã làm được nhiều điều hơn cả mong đợi trong lần đầu tiên tổ chức kỳ đại hội thể thao khu vực. Người dân của đất nước này có lý do để trân trọng và cảm thấy tự hào về những trải nghiệm đẹp đẽ, sự nồng hậu, thân thiện và mến khách mà “xứ Chùa Tháp” đã mang lại cho người hâm mộ thể thao khu vực trong những ngày qua.
|
SEA Games 32: Kỳ đại hội của tình đoàn kết, niềm tự hào và sự sẻ chia
| 742 | |
Trước thềm chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng và làm việc tại
Nhật Bản
từ ngày 19 đến 21/5, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã trả lời phỏng vấn của báo chí Nhật Bản.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn.
Xin Bộ trưởng đánh giá ý nghĩa của việc Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng tại Hiroshima, Nhật Bản?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn:
Nhận lời mời của Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng sắp tới tại Hiroshima, Nhật Bản. Việc Thủ tướng Việt Nam tham dự hội nghị này có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện đối với Việt Nam.
Trước hết, Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng là một diễn đàn quốc tế quan trọng, quy tụ các nhà lãnh đạo của 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu và các quốc gia, tổ chức quốc tế có uy tín để thảo luận thúc đẩy hợp tác xử lý các vấn đề toàn cầu. Đây là lần thứ 3 Việt Nam được mời tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng trong 7 năm trở lại đây. Điều này phản ánh sự ghi nhận tích cực của các nước G7 và cộng đồng quốc tế đối với vị thế, uy tín, cũng như những nỗ lực và đóng góp tích cực, có trách nhiệm của Việt Nam vào thúc đẩy hợp tác quốc tế trong giải quyết các thách thức toàn cầu trong thời gian qua.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng tới đây, Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trưởng nhất quán, nỗ lực hết sức mình cùng cộng đồng quốc tế đề xuất, triển khai các biện pháp thực chất, hiệu quả nhằm tăng cường hợp tác toàn cầu và khu vực trong việc duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững sau đại dịch COVID-19, cũng như xử lý các vấn đề toàn cầu trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, như bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, chống biến đổi khí hậu, phòng chống dịch bệnh, bình đẳng giới… Việt Nam quyết tâm thực hiện hiệu quả các cam kết của mình về chung tay giải quyết các vấn đề chung của thế giới và khu vực như cam kết giảm mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Qua tham dự hội nghị, chúng tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm phát triển của mình từ góc độ một quốc gia đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; đồng thời, cũng mong muốn các nước G7 và các nước dự hội nghị chia sẻ những bài học, thực tiễn tốt, cách làm hiệu quả trong xử lý các vấn đề toàn cầu cũng như các thách thức đối với phát triển bền vững, nhất là với các nước đang phát triển.
Trên bình diện quan hệ song phương, đây là lần thứ 2 Nhật Bản trên cương vị Chủ nhà của G7 mời Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng. Càng có ý nghĩa hơn, khi Việt Nam dự hội nghị này đúng vào dịp hai nước cùng kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Điều này là một minh chứng sinh động cho sự tin cậy chính trị cao giữa hai nước, cũng như sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam-Nhật Bản; đồng thời, thể hiện hai nước chia sẻ điểm đồng và lợi ích trong nhiều vấn đề quốc tế và khu vực.
Nhân dự hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ hội đàm với Thủ tướng Fumio Kishida, gặp gỡ các nhà lãnh đạo, doanh nghiệp và bạn bè Nhật Bản để cùng trao đổi các hướng đi, biện pháp nhằm tạo động lực mới cho quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam-Nhật Bản tiếp tục phát triển mạnh mẽ, hiệu quả hơn, phục vụ tốt hơn lợi ích của nhân dân hai nước, cũng như đóng góp tích cực hơn cho hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh đó, tham dự hội nghị cũng là dịp để Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp gỡ lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế để thúc đẩy hợp tác song phương và trao đổi các vấn đề cùng quan tâm.
Năm 2023 đánh dấu kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản. Xin Bộ trưởng cho biết Việt Nam mong muốn tiếp tục xây dựng và phát triển mối quan hệ giữa hai nước như thế nào trong tương lai? Lĩnh vực nào Việt Nam mong muốn hợp tác sâu rộng hơn nữa với Nhật Bản?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn:
Việt Nam và Nhật Bản có nhiều điểm tương đồng về văn hóa. Giao lưu giữa nhân dân hai nước đã hình thành và phát triển từ lâu trong lịch sử. Kể từ khi hai nước kiến giao cách đây 50 năm, dù thế giới và khu vực trải qua nhiều thăng trầm, nhưng quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản đã phát triển vượt bậc và sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa-xã hội, giao lưu nhân dân…
Đến nay, tình cảm chân thành, tin cậy lẫn nhau và tinh thần quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam-Nhật Bản đã lan tỏa sâu rộng trong hợp tác trên tất cả các lĩnh vực giữa các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân của hai nước. Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam, đối tác cung cấp ODA nhiều nhất cho Việt Nam, là đối tác lớn thứ 3 về đầu tư FDI và du lịch, lớn thứ 4 về trao đổi thương mại.
Chúng tôi mong muốn quan hệ hai nước tiếp tục phát triển sâu rộng và bền vững dựa trên nền tảng tin cậy về chính trị, hiệu quả về kinh tế và phong phú về giao lưu nhân dân, văn hóa-xã hội, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước.
Muốn vậy, hai nước cần tiếp tục tăng cường trao đổi các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước, làm sâu sắc hơn hợp tác chính trị-ngoại giao, quốc phòng, an ninh để củng cố vững chắc hơn tin cậy chính trị, đóng góp vào sự phát triển của mỗi nước cũng như cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Việt Nam đang nỗ lực thực hiện tầm nhìn, mục tiêu phát triển đến năm 2030 trở thành nước thu nhập trung bình cao, có công nghiệp hiện đại và đến năm 2045 là nước phát triển, thu nhập cao. Là bạn bè chân thành và đối tác tin cậy, Việt Nam mong muốn Nhật Bản tăng cường hợp tác và thiết thực hỗ trợ Việt Nam thực hiện các mục tiêu này.
Trước mắt, hai nước tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, nhất là hợp tác phục hồi kinh tế sau dịch COVID-19, đa dạng hóa các chuỗi cung ứng, tiếp tục thúc đẩy triển khai hiệu quả, thực chất các thỏa thuận, hiệp định song phương đã ký, nhất là Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản, CPTPP, RCEP…
Chúng tôi sẵn sàng cùng với Nhật Bản tìm những hướng đi mới và các cơ chế hợp tác mới trong các lĩnh vực hai nước có tiềm năng lớn như khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, năng lượng sạch.
Chúng tôi đánh giá cao việc Nhật Bản cam kết cung cấp ODA thế hệ mới cho Việt Nam để phát triển hạ tầng chiến lược về giao thông, chống biến đổi khí hậu và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và khuyến khích các doanh nghiệp Nhật Bản mở rộng đầu tư ở Việt Nam trong các lĩnh vực công nghiệp phụ trợ, công nghiệp công nghệ cao, hiện đại hóa nông nghiệp, môi trường…
Bên cạnh đó, cần tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc hơn hợp tác giáo dục-đào tạo, y tế, văn hóa, du lịch và giao lưu các địa phương, nhân dân hai nước với hình thức ngày càng phong phú, chất lượng và hiệu quả ngày cao. Trước mắt, hai nước phối hợp chặt chẽ tổ chức tốt các hoạt động giao lưu thiết thực kỷ niệm 50 năm ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.
Việt Nam kỳ vọng Nhật Bản sẽ đóng vai trò gì trong cộng đồng quốc tế? Hai nước có thể tăng cường phối hợp và hợp tác trong các lĩnh vực cụ thể nào phục vụ mục tiêu an ninh và phát triển của khu vực và thế giới?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn:
Nhật Bản đã có nhiều nỗ lực và đóng góp quan trọng cho an ninh và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Chúng tôi mong muốn Nhật Bản hiện là chủ nhà G7 và tới đây trên cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023-2024 tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò quan trọng và đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào củng cố môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác giải quyết các vấn đề chung của toàn cầu và khu vực, hỗ trợ các nước đang phát triển thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
Là đối tác chiến lược sâu rộng có độ tin cậy chính trị cao và chia sẻ điểm đồng về nhiều vấn đề quốc tế, Việt Nam và Nhật Bản tiếp tục phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm tại các diễn đàn đa phương, khu vực, nhất là Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, hợp tác tiểu vùng Mekong…
Việt Nam mong muốn cùng Nhật Bản và cộng đồng quốc tế nỗ lực đóng góp vào duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực; tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế; thúc đẩy liên kết kinh tế khu vực, kết nối cơ sở hạ tầng, nhất là ở Đông Nam Á và tiểu vùng Mekong, hợp tác phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực.
Với nền tảng vững chắc của tình hữu nghị, chân thành và tin cậy lẫn nhau cũng như quyết tâm và nỗ lực của lãnh đạo và nhân dân hai nước, quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam-Nhật Bản sẽ ngày càng bền chặt và hiệu quả, vì sự phồn vinh của mỗi nước và đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
|
Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng: Ý nghĩa quan trọng nhiều mặt với Việt Nam
| 1,918 | |
Chủ tịch Hồ Chí Minh
là nhà giáo dục vĩ đại, trong tư tưởng của Người về học tập suốt đời khái quát hết các lĩnh vực của học tập: trách nhiệm phải học tập; mục đích học tập, nội dung học tập và phương pháp, hình thức học tập suốt đời. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về học tập suốt đời còn nguyên tính thời sự và là cơ sở cho công tác xây dựng xã hội học tập ngày nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh cùng các em học sinh và giáo viên Trường Cấp I, II Móng Cái, ngày 19/02/1960. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Học tập suốt đời là nhiệm vụ của mỗi công dân, của tổ chức
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Mỗi công dân Việt Nam cần: “Biết ham học… Biết rồi, ta học thêm. Ngoài ra, còn biết bao điều cần học. Việc thế giới rất nhiều, học không bao giờ hết. Người có học mới có tiến bộ. Càng học càng tiến bộ” .“Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự đào thải mình” , vì vậy, mỗi người đều “Phải biết tự động học tập” ; “phải học nữa, học mãi trong khi đi làm việc” .“Trai, gái, trẻ, già, cán bộ, công nhân đều phải học cả” .“Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng” .
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ tổ chức cho đảng viên, thành viên của mình tự học suốt đời. Người chỉ thị lập ủy ban học tập ở mỗi cơ quan, đơn vị, đoàn thể, quy định thời gian học tập, tài liệu, cách thức học tập và kiểm tra việc học tập của mỗi người.
Học tập suốt đời để luôn tiến bộ, để phụng sự nhân dân tốt hơn
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Mục đích học tập suốt đời là để tiến bộ không ngừng; để phục vụ nhân dân tốt hơn. Người chỉ rõ, “Muốn tiến bộ mãi thì phải học tập. Học trong sách báo, học trong công tác, học với anh em, học hỏi quần chúng. Học tập để phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm” . “Muốn tiến bộ kịp sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập. Nghiên cứu, học tập lý luận và kỹ thuật” . “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm” . “Học để phụng sự Nhân dân, làm đầy tớ của nhân dân” . “Phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” .
Người xác định rất cụ thể bốn mục tiêu của tự học: Học để sửa chữa tư tưởng; học để tu dưỡng đạo đức cách mạng; học để tin tưởng và học để hành. “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới – trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình” .
Học tập suốt đời cả về chính trị, văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, học kinh nghiệm và phương pháp làm việc
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nội dung của học tập suốt đời đa dạng, phong phú, theo yêu cầu phát triển đất nước: “Chúng ta cần học nhiều thứ: học chính trị, học văn hóa, học kỹ thuật, nghiệp vụ” . “Nếu không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi” .
Hồ Chí Minh rất chú ý việc học hỏi kinh nghiệm: “đặc biệt phải chú trọng học tập kinh nghiệm và tác phong công tác tốt của các đồng chí chuyên gia bạn”; “bất kỳ việc gì có lợi là ta phải học”,“Khi xã thí điểm đã làm tốt, thì mời nông dân và thanh niên các xã khác đến tham quan, làm thử, thảo luận, phê bình, học tập, rồi về làm ở xã mình” .
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Nhà máy diêm Thống Nhất (năm 1956).
Phương pháp học tập suốt đời là học mọi lúc, mọi nơi, mọi người
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân; học tập trong việc làm hàng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ, việc cao cũng như việc thấp; vừa làm vừa học, nghiên cứu không những trong sách vở mà ngay trong những công tác của mình. Người chỉ rõ, “Một người phải biết học nhiều người” ; “học tập ngay trong sản xuất, học tập những người, những tổ, những đơn vị tiên tiến… Không những thế mà còn phải tìm học những cái hay mà mỗi người lao động trung bình hoặc chậm tiến đều có thể có” .
Hồ Chủ tịch hướng dẫn phương pháp học tập biện chứng và khoa học: phải xem xét toàn diện, xem quá khứ, nhất là xem hiện tại để hiểu biết và suy đoán tương lai. Có thế mới nhận định tình hình, mới nhận xét sự việc xảy ra được đúng đắn.
Người kể về kinh nghiệm tự học của bản thân: “… một là học trong đời sống của mình, hai là học ở giai cấp công nhân” ;“vừa học, vừa lao động” ; “học tập không ngừng và phải luôn khiêm tốn” ; “học hỏi nhân dân” .
Quán triệt sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm nhất quán của Đảng về xây dựng xã hội học tập, tập trung vào những nội dung sau:
Xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; là mục tiêu cơ bản nhằm tạo đột phá đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Đảng ta xác định, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”. Xây dựng xã hội học tập là một mục tiêu cơ bản trong chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta. Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo được tiến hành theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân. Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập tạo môi trường thuận lợi để mỗi người dân đều có cơ hội được học tập theo nhu cầu, được thụ hưởng công bằng thành quả của nền giáo dục.
Nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là: Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời; Đổi mới cơ chế tài chính, đẩy mạnh xã hội hóa công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng công dân học tập, đơn vị học tập và tỉnh, thành phố học tập; Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời; Xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động.
Xây dựng xã hội học tập nhằm đột phá đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phấn đấu “đưa nước ta thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế” ; “đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” .
Học sinh Trường trung học cơ sở Đại Tâm thuộc huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) tranh thủ ôn bài trước khi vào tiết học mới. Ảnh: An Hiếu
Xây dựng xã hội học tập nhằm nâng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế – xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Chỉ thị số 11-CT/TW Ngày 13/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập đã yêu cầu: “Vận động Nhân dân tích cực học tập nâng cao dân trí, nghề nghiệp, chuyên môn nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng công việc, chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đi đôi với hành, với phong trào làm kinh tế giỏi, xóa đói, giảm nghèo và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”. Kết luận số 49-KL/TW ngày 10/5/2019 của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X yêu cầu: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, người lao động trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, lao động năng động, sáng tạo trong điều kiện nền kinh tế số hiện nay. Khuyến khích các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ sở giáo dục nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề và kỹ năng sống cho người lao động”.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số, xã hội số, văn hóa số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã định hướng: “Phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số và coi đây là nhân tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Để đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy nhanh xây dựng xã hội số, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, mở các khóa học đại trà trực tuyến, đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số và chuyển đổi số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số.
Xây dựng xã hội học tập nhằm đào tạo công dân toàn cầu có kỹ năng số và ngoại ngữ; phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Xây dựng xã hội học tập nhằm phát huy tối đa nhân tố con người; nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân, để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng gắn việc phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập với xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; với xây dựng đời sống văn hóa mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng đã xác định rõ: Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam; Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên; Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo: Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là “nền tảng tinh thần”, “động lực phát triển”, và “soi đường cho quốc dân đi”; phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”.
Học sinh Khmer Trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú Huỳnh Cương ở (phường 3, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) trong giờ ra chơi. Ảnh: An Hiếu
Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập.
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị Khóa XI về hội nhập quốc tế có chủ trương lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảngkhóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo chỉ đạo: Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Ban Bí thư khóa XII đã kết luận:“Tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là đối với Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO); nghiên cứu, học tập, chia sẻ kinh nghiệm và tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế, các cơ quan nghiên cứu quốc tế về công tác khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập. Chủ động, tích cực tham gia mạng lưới “Thành phố học tập” do UNESCO điều hành.
Mở rộng, tăng cường liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo của nước ngoài có uy tín, đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo. Khuyến khích việc học và nghiên cứu ở nước ngoài bằng nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Vận động đội ngũ trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp với hoạt động khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII định hướng: “Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo”; “Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch và các lĩnh vực khác”.
Việc xây dựng xã hội học tập, tự học suốt đời là xây dựng thói quen mới cho công dân; khắc phục bệnh thành tích, bệnh hình thức, tâm lý trọng thi cử, trọng bằng cấp trong giáo dục, đào tạo.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với việc mỗi công dân ý thức được trách nhiệm của bản thân mình đối với việc tự học tập suốt đời. Mỗi công dân nhận thức được trách nhiệm của mình đối với công cuộc củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; từ đó có ý thức cập nhật tình hình thời sự; tự học tập, rèn luyện để khỏe mạnh hơn, có chất lượng sống tốt hơn, hạnh phúc hơn, hội nhập tốt hơn; chủ động hơn, có ý thức cảnh giác cao hơn để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với việc mỗi công dân xác định đúng đắn mục đích tự học suốt đời là để không ngừng tiến bộ, để trở thành công dân toàn cầu. Học để thêm yêu nước, yêu Đảng; thêm tự hào về lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng. Học để có khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Học để tu dưỡng đạo đức bản thân, gia đình, dòng họ, để hiểu biết và xây dựng truyền thống văn hóa dân tộc. Học để tin tưởng vào tương lai đất nước, tin tưởng vào đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Học để làm việc tốt hơn và đểhưởng thụ thành quả lao động tốt hơn.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với việc mỗi cấp ủy, tổ chức chính trị – xã hội, hội nghề nghiệp xác định rõ các nội dung học tập suốt đời cho cán bộ, đảng viên, thành viên; phát động thi đua, đánh giá, biểu dương, khen thưởng. Mỗi cấp ủy, tổ chức chính trị – xã hội, hội nghề nghiệp đều có chức năng, nhiệm vụ riêng, mục tiêu phát triển riêng nên có yêu cầu riêng đối với cán bộ, đảng viên, thành viên của mình. Nhìn chung, nội dung học tập mỗi cấp ủy, tổ chức chính trị – xã hội, hội nghề nghiệp đều cần đảng viên, thành viên của mình không ngừng học tập về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, kinh nghiệm làm việc và khả năng phối hợp trong tập thể để không ngừng nâng cao tính kỷ luật của tổ chức, năng suất lao động và phát huy sức mạnh tổng hợp.
Xây dựng xã hội học tập thành công gắn với tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy trong việc không ngừng tự học tập, tự cập nhật tình hình thời sự; nghiên cứu lý luận chính trị; nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ; tích cực tuyên truyền, vận động người thân, gia đình, dòng họ tự học tập suốt đời; quyết tâm xây dựng thành công xã hội học tập, nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng./.
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị,
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương
|
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời vào xây dựng xã hội học tập hiện nay
| 3,624 | |
Sáng 18/5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị tổng kết và trao Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội lần thứ 23 nhằm chào mừng kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu (19/5/1890 – 19/5/2023), Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5, hướng tới kỷ niệm 75 năm ngày Bác Hồ ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 – 11/6/2023).
Thủ tướng Phạm Minh Chính đến dự Chương trình tổng kết, trao Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội lần thứ 23. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Dự sự kiện còn có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai; Đại tướng Phan Văn Giang, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và Quân đội nhân dân Việt Nam; các tác giả, đại diện tập thể tác giả của 321 công trình được trao Giải thưởng tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội dự Hội nghị.
Phục vụ cả trong công tác Quân đội và phát triển kinh tế – xã hội
Những năm qua, công tác Đoàn và phong trào thanh niên nói chung, phong trào sáng tạo trẻ trong Quân đội nói riêng có sự phát triển toàn diện, vững chắc, lan tỏa sâu rộng trong mọi lĩnh vực, hoàn thành tốt các trọng tâm công tác, nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc. Phong trào Sáng tạo trẻ và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội được tổ chức từ năm 2000, qua 22 năm triển khai nghiêm túc, chặt chẽ và hiệu quả đã có hàng trăm nghìn công trình, sáng kiến ở cấp cơ sở, trong đó cấp toàn quân có 6.186 công trình, sáng kiến của trên 10.000 lượt tác giả tham gia.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu tham dự buổi lễ. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN.
Đại đa số công trình, sáng kiến được ứng dụng vào thực tiễn, hàng trăm công trình, sáng kiến tham gia giải thưởng toàn quốc đều đạt giải cao tại Festival Sáng kiến toàn quốc, Giải thưởng Quả cầu vàng, Giải thưởng Sao vàng đất Việt, Giải thưởng Sáng tạo Khoa học công nghệ Việt Nam VIFOTEC… được Đảng, Nhà nước, Chính phủ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ghi nhận. Qua từng năm, số lượng công trình, sáng kiến ngày càng tăng với xu hướng đa dạng hơn, độc đáo hơn và có tính ứng dụng cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng hoàn thành nhiệm vụ chính trị, làm lợi cho các cơ quan, đơn vị và Quân đội mỗi năm hàng trăm tỷ đồng.
Năm 2023 với chủ đề “Năm chuyển đổi số các hoạt động của Đoàn”, thanh niên Quân đội đã xác định rõ vai trò trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu, vượt lên trên tất cả mọi khó khăn gian khổ, trở ngại, để tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo nhiều công trình, sáng kiến xuất sắc tham gia Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo lần thứ 23. Theo đó, thanh niên Quân đội đã có 616 công trình nghiên cứu cơ bản tăng 65 công trình so với năm trước.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đến dự buổi lễ. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Các công trình, sáng kiến tham dự giải thưởng lần thứ 23 đều có chất lượng tốt, hiệu quả thiết thực về quốc phòng – an ninh, kinh tế – xã hội; nội dung nghiên cứu gắn với thực tế nhiệm vụ đơn vị, có khả năng phát triển và ứng dụng vào thực tiễn. Nhiều công trình, sáng kiến đặc biệt quan trọng mang yếu tố bí mật quân sự, bí mật quốc gia; nhiều công trình, sáng kiến đã đề xuất được giải pháp kỹ thuật mới, tiên tiến, ứng dụng chuyển đổi số, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, đề xuất giải pháp về giáo dục lý tưởng cách mạng, rèn luyện đạo đức, lối sống, bản lĩnh niềm tin, đấu tranh tư tưởng, lý luận, phòng chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã quyết định tặng Bằng khen cho 20 tập thể có thành tích xuất sắc trong tổ chức, tham gia Giải thưởng. Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị chứng nhận cho 321 công trình xuất sắc, với 10 giải Nhất, 53 giải Nhì, 121 giải Ba, 137 giải Khuyến khích. Trung ương Đoàn tặng Huy hiệu Tuổi trẻ sáng tạo cho tác giả, nhóm tác giả có công trình đạt giải Nhất. Chủ nhiệm các công trình đạt giải Ba trở lên được xem xét, đề nghị thăng quân hàm, nâng lương, bảo lưu thành tích trước thời hạn, xét nguyện vọng khi tốt nghiệp…
Tại Hội nghị, nhiều tác giả, công trình khoa học tiêu biểu của thanh niên Quân đội được giới thiệu, cho thấy tính đa dạng hơn, phong phú, có tính ứng dụng cao, thiết thực góp phần phục vụ công tác quân đội và phát triển kinh tế – xã hội.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại buổi lễ. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển đất nước, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội.
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững”; đồng thời chỉ rõ: “Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đảng, Nhà nước luôn đánh giá cao Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển khoa học công nghệ; coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng; thường xuyên quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân và tuổi trẻ Quân đội tham gia nghiên cứu, phát triển và ứng dụng hiệu quả khoa học công nghệ trong hoạt động quân sự, quốc phòng.
Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang và Đại tướng Lương Cường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam trao Bằng khen của Bộ Quốc phòng và Bằng khen của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam cho các cá nhân. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN
Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Bùi Quang Huy trao giải Nhất cho các cá nhân. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN
Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội đã khẳng định là sự kiện uy tín, nghiêm túc, tổ chức bài bản, khoa học, chặt chẽ; qua từng năm, các công trình tham gia Giải thưởng có sự phát triển cả về số lượng, chất lượng và tính hiệu quả. Giải thưởng đã tạo sức lan tỏa, góp phần khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, hiện thực hóa nhiệt huyết và khát vọng vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học, đồng thời sự ghi nhận xứng đáng công sức, trí tuệ của Tuổi trẻ Quân đội.
Các công trình tham gia Giải thưởng có sự phát triển cả về số lượng, chất lượng và tính hiệu quả; góp phần cung cấp những luận cứ khoa học quan trọng để Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có chủ trương, giải pháp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là đội quân chiến đấu, công tác và sản xuất; củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng nhiệt liệt chúc mừng, biểu dương tinh thần nỗ lực, cố gắng và kết quả của các tác giả, tập thể tác giả và tuổi trẻ toàn quân; ghi nhận, đánh giá cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương đối với công tác khoa học quân sự cũng như Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội những năm qua.
Đẩy mạnh nghiên cứu, sáng tạo cả khoa học công nghệ và khoa học xã hội nhân văn
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan trưng bày các sản phẩm sáng tạo của tuổi trẻ quân đội. Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Dự báo, phân tích tình hình trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ cho rằng, nhiệm vụ xây dựng Quân đội đang đặt ra yêu cầu mới, trọng tâm là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ quân sự, nâng cao tiềm lực quốc phòng, phát huy tiềm năng, nâng cao vị thế của Quân đội trong công tác khoa học công nghệ của cả nước, góp phần cho phát triển đất nước, Thủ tướng đề nghị Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo triển khai công tác khoa học quân sự.
“Quân đội phải đẩy mạnh nghiên cứu, sáng tạo cả khoa học công nghệ và khoa học xã hội nhân văn, cả khoa học quân sự và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng”, Thủ tướng chỉ rõ.
Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác khoa học công nghệ và công tác thanh niên; coi phát triển khoa học quân sự là một trong những động lực, yêu cầu tất yếu để xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đẩy mạnh phong trào nghiên cứu khoa học, phong trào đổi mới sáng tạo của Tuổi trẻ Quân đội; chú trọng phát huy vai trò của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy, cơ quan chính trị, cơ quan khoa học quân sự, tổ chức đoàn các cấp; quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất về mọi mặt để Tuổi trẻ Quân đội tích cực, chủ động nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, hướng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và toàn quân; xây dựng, nhân rộng các mô hình tuổi trẻ nghiên cứu khoa học.
Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu, tham mưu, hướng dẫn thực hiện công tác khoa học quân sự trong toàn quân; chú trọng phát triển khoa học công nghệ theo chiều sâu, bền vững, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội ta trong tình hình mới; tăng cường phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức của Trung ương, địa phương, các nhà khoa học trong và ngoài Quân đội để nâng cao chất lượng công tác khoa học quân sự.
Cùng với đó, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học công nghệ; đầu tư cơ sở vật chất và điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu khoa học trong Quân đội; chú trọng các công trình có tính lưỡng dụng để nâng cao hiệu quả sản phẩm nghiên cứu của Quân đội; kịp thời biểu dương, khen thưởng và có chế độ, chính sách ưu đãi xứng đáng đối với những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu tham dự buổi lễ. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN
Người đứng đầu Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục đổi mới công tác tổ chức Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong Quân đội để ngày càng có nhiều công trình chất lượng tốt, hàm lượng khoa học cao và giá trị thực tiễn phong phú, thiết thực, hiệu quả và thương mại hóa. Qua đó tạo động lực, truyền cảm hứng, lan tỏa khát vọng nghiên cứu sáng tạo; tạo phong trào, môi trường, tôn vinh, nuôi dưỡng, ươm mầm cho các ý tưởng nghiên cứu khoa học của Tuổi trẻ Quân đội.
Đối với các tác giả được nhận Giải, Thủ tướng yêu cầu tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, duy trì, nuôi dưỡng niềm đam mê nghiên cứu khoa học, phát triển, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn của cơ quan, đơn vị; chia sẻ kinh nghiệm, động viên đồng chí, đồng đội tham gia nghiên cứu khoa học, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa phong trào đổi mới sáng tạo của tuổi trẻ ở từng cơ quan, đơn vị và toàn quân.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định, lãnh đạo Đảng, Nhà nước luôn mong muốn và tin tưởng, thế hệ trẻ ngày nay với nhiệt huyết, năng động, đam mê, hoài bão, khát vọng, sẽ ngày càng có đóng góp quan trọng cho xây dựng đất nước Việt Nam phát triển hùng cường và thịnh vượng. Tuổi trẻ toàn quân tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa tài năng, sức trẻ, đạt nhiều thành tích cao hơn nữa, góp phần nhiều hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; để Quân đội và Tuổi trẻ Quân đội luôn xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; mãi mãi xứng danh là “Bộ đội Cụ Hồ” anh hùng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ.
|
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Quân đội phải đẩy mạnh nghiên cứu, sáng tạo cả khoa học công nghệ và khoa học xã hội nhân văn
| 2,480 | |
Tổng giải thưởng Cuộc thi vẽ tranh chủ đề Di sản văn hóa Việt Nam qua hội họa trị giá 960 triệu đồng.
Sáng 18.5, Hội Di sản Văn hóa Việt Nam phối hợp với Công ty Cổ phần Trịnh Gia tổ chức họp báo thông tin về Cuộc thi vẽ tranh chủ đề Di sản văn hóa Việt Nam qua hội họa.
Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam, PGS. TS Đỗ Văn Trụ cho biết để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, chúng ta phải luôn đa dạng hóa các hình thức, hoạt động. Cuộc thi vẽ tranh
Di sản văn hóa Việt Nam qua hội họa
sẽ góp phần cùng các tổ chức, đơn vị thuộc Hội có thêm hoạt động thiết thực, cụ thể, ý nghĩa, thể hiện sự năng động, sáng tạo vì mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
PGS. TS Đỗ Văn Trụ- Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam phát biểu tại họp báo.
Theo đó, Cuộc thi dành cho những người yêu hội họa, khuyến khích các họa sĩ trẻ, sinh viên mỹ thuật tại các trường đại học, cao đẳng chuyên mỹ thuật và các trường văn hóa, nghệ thuật trên phạm vi cả nước, du học sinh Việt Nam ở nước ngoài.
Đây là sân chơi cho các họa sĩ, đồng thời để các họa sĩ trẻ có cơ hội tìm hiểu, thể hiện tình yêu với di sản văn hóa, thể hiện ý tưởng, sự sáng tạo trong những sáng tác hội họa. Qua đó, khuyến khích, động viên và tạo nên phong trào yêu di sản văn hóa Việt, gìn giữ, tôn vinh những giá trị vô giá của di sản văn hóa dân tộc, lan tỏa tình yêu di sản văn hóa trong giới trẻ hiện nay.
Các tác giả tham gia Cuộc thi bằng tranh vẽ với nội dung thể hiện giá trị của các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các danh lam thắng cảnh trên mọi vùng miền của Việt Nam, với phong cách thể hiện tự do. Tranh dự thi được vẽ trên vải, vóc, bằng các chất liệu sơn dầu, sơn mài, acrylic, tranh lụa, tranh đồ họa… Cuộc thi không giới hạn số lượng tác phẩm dành cho mỗi tác giả.
Theo BTC, 100 tác phẩm được lựa chọn gồm 27 tác phẩm đạt giải và 73 tác phẩm được chọn vào vòng Chung khảo, sẽ được triển lãm tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và một địa điểm khác.
Tổng giải thưởng Cuộc thi trị giá 960 triệu đồng, gồm: 1 giải xuất sắc 100 triệu đồng; 1 giải Nhất 75 triệu đồng; 2 giải Nhì mỗi giải 50 triệu đồng; 3 giải Ba mỗi giải 40 triệu đồng; 20 giải khuyến khích mỗi giải 10 triệu đồng; 73 tác phẩm được chọn vào vòng Chung khảo mỗi tác phẩm 5 triệu đồng cùng Giấy chứng nhận của Ban tổ chức.
Cuộc thi được triển khai đến hết tháng 9.2023. Công bố giải thưởng, trao giải cho các tác giả có tác phẩm đạt giải dự kiến diễn ra dịp kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23.11.2023).
|
Gần 1 tỉ đồng giải thưởng cho Cuộc thi vẽ tranh Di sản văn hóa Việt Nam qua hội họa
| 543 | |
KỶ NIỆM 133 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH (19/5/1890-19/5/2023)
Sự nghiệp cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
điểm bắt đầu và kết thúc đều hướng đến giải phóng con người, chăm lo cho hạnh phúc của con người. Di sản Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Sinh thời, sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, người dân lầm than, cực khổ, Người đã ra đi tìm đường cứu nước. Trên hành trình bôn ba ấy, Người đã hoạt động tại nhiều quốc gia, tiếp xúc với nhiều nền văn minh và nhiều dân tộc trên thế giới. Kết tinh từ văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại đã mang đến cho Chủ tịch Hồ Chí Minh một thế giới quan độc đáo, để từ đó tư tưởng, giá trị nhân văn, đạo đức, nhân cách của Người lan tỏa mạnh mẽ, tạo ảnh hưởng tới các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, công lý, tiến bộ ở nhiều nơi trên thế giới. Những giá trị di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính phổ quát, vượt thời đại, là những vấn đề mà Việt Nam và nhân loại vẫn đang nỗ lực bảo vệ và theo đuổi. Những tư tưởng của Người về văn hóa, giáo dục cũng chính là sứ mệnh của UNESCO đang thúc đẩy như vai trò đa dạng văn hóa (diệt giặc dốt gắn liền với xóa nạn mù chữ, học tập suốt đời gắn với giáo dục toàn cầu; trồng cây gắn với bảo vệ môi trường). “Với những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1987, UNESCO đã thông qua Nghị quyết vinh danh, khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
“… Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội…”
Kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2023), sáng ngày 11/5, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch tổ chức Hội thảo khoa “Di sản Hồ Chí Minh toả sáng giá trị dân tộc và thời đại”. Hội thảo diễn ra theo hai phiên: Phiên 1 với chủ đề “Di sản Hồ Chí Minh đối với nhân loại”; và phiên 2 với chủ đề “Các hoạt động lan tỏa di sản Hồ Chí Minh”, góp phần làm rõ thêm công lao, cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc Việt Nam; góp phần thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW và Kết luận 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội thảo đã đi sâu phân tích, luận giải sâu sắc và làm sáng tỏ những giá trị bền vững của di sản Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Tiếp tục khẳng định, di sản Hồ Chí Minh mãi mãi tỏa sáng, có giá trị vĩnh hằng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong công cuộc đổi mới hiện nay, sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam và nhân loại. Chính vì vậy, công tác nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo di sản Hồ Chí Minh trong thời điểm hiện tại cũng như giai đoạn tiếp theo sẽ cho chúng ta có đầy đủ nhận thức hơn, sâu sắc hơn giá trị to lớn di sản của Người đối với dân tộc và nhân loại, đồng thời, làm cho giá trị bền vững của di sản Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại.
Di sản Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thức tỉnh dân tộc và nhân dân các nước thuộc địa vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh bại chủ nghĩa thực dân, góp phần vì những giá trị chung cao đẹp của nhân loại tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là biểu tượng của khát vọng hòa bình, của tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc. Người đề xuất nguyên tắc chung sống hòa bình giữa các nước có các chế độ xã hội khác nhau, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trên cơ sở hòa bình. Người đã bắc những nhịp cầu hữu nghị, giao lưu, hợp tác, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
Bằng tư tưởng tiến bộ, sự nhận thức sâu sắc về cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn xa trông rộng, đi tắt đón đầu và lường trước những xu thế chính trị sẽ xuất hiện trong tương lai, Người đã kiến tạo Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, một nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân tộc. Người đã xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm huy động, tập hợp sức mạnh từ các lực lượng, phát huy cao độ các nguồn lực để xây dựng và chấn hưng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ sau giá trị di sản quý báu về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị để vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với đặc điểm dân tộc và thời đại.
Di sản mang tính bền vững của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại đối với dân tộc và thời đại, tiêu biểu và thực sự nổi bật cho đất nước chính là việc lựa chọn, tìm ra, thiết kế và xây dựng con đường độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới của đất nước thì tìm hiểu về di sản Hồ Chí Minh để thấy được những tư tưởng, luận điểm, quan điểm của Người về đường lối đổi mới đã góp phần hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cần phải nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu, thực hiện tâm nguyện cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ những Hoạt động Hồ Chí Minh, cách nhìn Hồ Chí Minh, phong cách Hồ Chí Minh, suy nghĩ, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy: Hồ Chí Minh dùng văn hóa như một chất keo, sợi dây gắn kết các dân tộc, xóa đi tất cả những khoảng cách. Ngay cả khi người Pháp, người Mỹ xâm lược chúng ta, Người vẫn nói rằng: Xâm lược là phải đánh, nhưng máu nào cũng là máu, người nào cũng là người. Người quý sinh mệnh người Việt Nam cũng như quý sinh mệnh người Pháp, người Mỹ… Việc UNESCO thông qua nghị quyết vinh danh, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự đúng đắn, tính chính nghĩa của sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam do Người lãnh đạo; là sự công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp to lớn của Người vào sự nghiệp đấu tranh chung trên thế giới trước những áp bức, bất công; là sự ghi nhận, tôn vinh và đề cao lý tưởng cao đẹp, giá trị nhân văn sâu sắc và khát vọng của Người về một thế giới hòa bình, bình đẳng và hạnh phúc. Đó cũng là sự cổ vũ của bạn bè quốc tế đối với công cuộc đổi mới, phát triển đất nước trước những khó khăn trong thời kỳ đó để Việt Nam có được thành tựu ngày hôm nay.
|
Kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890- 19/5/2023): “Di sản Hồ Chí Minh toả sáng giá trị dân tộc và thời đại”
| 1,500 | |
LP 791-18 có kích thước bằng với Trái Đất và cũng sở hữu một báu vật y hệt Trái Đất – tuy chết chóc nhưng cần thiết cho sự sống.
Theo tờ
Space
, thứ đặc biệt đó là núi lửa. Ở Trái Đất, núi lửa – một phần của hoạt động địa chất – và toàn bộ những gì gọi là hoạt động địa chất đều rất quan trọng để hành tinh duy trì một bầu khí quyển ổn định.
Ở LP 791-18 cũng vậy. Đó là một hành tinh cực đoan bị khóa thủy triều với sao mẹ. Nhưng với những dấu hiệu đặc biệt cho thấy sự tồn tại của núi lửa, điều kỳ diệu có thể xảy ra.
Ngoại hành tinh bí ẩn LP 791-18 – Ảnh: NASA.
Hành tinh nói trên quay quanh một ngôi sao lùn đỏ cách Trái Đất khoảng 90 năm ánh sáng, ở phía Nam chòm sao Cự Tước.
Khóa thủy triều nghĩa là nó luôn chỉ quay về phía sao mẹ với một mặt duy nhất, y như cách Mặt Trăng bị khóa thủy triểu với Trái Đất. Vì vậy nó có hai mặt, một mặt ban ngày, một mặt ban đêm. Cả hai mặt đều được bao phủ bởi vô số núi lửa.
Nhóm nghiên cứu dẫn dầu bởi giáo sư thiên văn học Bjorn Benneke từ Viện Nghiên cứu ngoại hành tinh ở Montreal – Canada và tiến sĩ Jessie Christiansen từ Viện Khoa học ngoại hành tinh của NASA, những người đã tìm thấy núi lửa trên LP 791-18, đặt kỳ vọng vào mặt ban đêm.
“Mặt ban ngày có lẽ sẽ quá nóng để nước lỏng tồi tại trên bề mặt. Nhưng với số lượng hoạt động núi lửa mà chúng tôi nghĩ đang tồn tại trên khắp hành tinh, có thể cho phép nước ngưng tụ ở mặt ban đêm cũng như duy trì bầu khí quyển” – tiến sĩ Benneke nói.
LP 791-18 là hành tinh thứ 3 được xác định trong hệ sao đặc biệt này. Hai hành tinh còn lại lần lượt lớn hơn
Trái Đất
khoảng 20% và 2,5 lần. Cả ba đều được phát hiện bởi “thợ săn ngoại hành tinh” TESS của NASA.
Chắc chắn nó sẽ được nghiên cứu, vì mối tương quan giữa núi lửa và sự sống vẫn mãi là câu hỏi lớn và thú vị trong ngành sinh vật học vũ trụ.
“Ngoài khả năng cung cấp bầu khí quyển, các quá trình này có thể khuấy động các vật liệu mà nếu không có núi lửa sẽ chìm xuống và mắc kẹt trong lớp vỏ, bao goofm cả những thứ chúng ta cho là quan trọng với sự sống như carbon” – tiến sĩ Christainen nói.
Nghiên cứu vừa công bố trên tạp chí khoa học
Nature.
|
Phát hiện hành tinh giống Trái Đất, một nửa có thể sống được
| 457 | |
Sáng 18/5, tại Trụ sở Chính phủ,
Thủ tướng Phạm Minh Chính
tiếp Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới Ngozi Okonjo-Iweala đang có chuyến thăm làm việc tại Việt Nam.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới WTO Ngozi Okonjo-Iweal. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Thủ tướng đánh giá cao vai trò và nỗ lực của bà Tổng Giám đốc trong việc điều hành, thúc đẩy các hoạt động của WTO; chúc mừng bà vì những kết quả rất đáng ghi nhận đã đạt được từ khi nhậm chức Tổng Giám đốc WTO, tháng 3/2021.
Thủ tướng khẳng định Việt Nam luôn chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng một cách sâu rộng, toàn diện, ngày càng thực chất, hiệu quả. Sau hơn 35 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 409 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 160 USD lên 4.100 USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 371 tỷ USD năm 2022. Đến nay, Việt Nam đã nằm trong danh sách 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế; đã ký kết khoảng 100 hiệp định thương mại song phương và đa phương, hơn 60 hiệp định khuyến khích, bảo hộ đầu tư.
Chia sẻ về những thành công của Việt Nam theo đề nghị của Tổng giám đốc WTO, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Việt Nam có đường lối đúng đắn về phát triển đất nước dựa trên 3 trụ cột chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xuyên suốt trong quá trình đó, Việt Nam lấy nguồn lực bên trong là chiến lược, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; lấy con người là trung tâm, chủ thể, động lực và nguồn lực của sự phát triển; không hy sinh công bằng, tiến bộ xã hội, môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Cùng với đó, Việt Nam kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Thủ tướng khẳng định, là một thành viên có trách nhiệm của WTO, Việt Nam chủ trương phát huy vai trò chủ động, tích cực tại các khuôn khổ hợp tác của WTO, nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết và đóng góp tích cực trên tinh thần xây dựng đối với các vấn đề quan tâm chung tại WTO.
Việt Nam luôn ủng hộ một hệ thống thương mại đa phương mở, minh bạch, công bằng và dựa trên luật lệ với WTO đóng vai trò trung tâm nhằm thúc đẩy thương mại, đầu tư, đồng thời góp phần ứng phó hiệu quả với các thách thức đặt ra đối với các nước như kết nối các chuỗi cung ứng, loại bỏ các hàng rào thuế quan, chống chủ nghĩa bảo hộ thương mại; thúc đẩy trao đổi thương mại trong bối cảnh thương mại toàn cầu đang có dấu hiệu giảm sút hiện nay.
Thủ tướng mong muốn WTO tiếp tục phát huy vai trò điều phối nhằm thúc đẩy thương mại toàn cầu theo hướng bao trùm, cân bằng; hỗ trợ các nước thành viên nắm bắt các cơ hội của xu hướng dịch chuyển, tái định hình các chuỗi cung ứng, sản xuất, đầu tư… đặc biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển, phù hợp với tôn chỉ, mục đích của WTO.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới WTO Ngozi Okonjo-Iweal. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Để tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác giữa WTO và Việt Nam, Thủ tướng đề nghị WTO tiếp tục cải tổ mạnh mẽ và thực chất để khẳng định vai trò là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương minh bạch, công bằng, bảo đảm mang lại lợi ích, hiệu quả thiết thực cho các nước, nhất là những nước đang và kém phát triển, trong đó có Việt Nam; quá trình cải cách WTO cần bảo đảm cân bằng quyền lợi, nghĩa vụ, phù hợp với trình độ phát triển, năng lực thực thi của các thành viên, đặc biệt là các thành viên đang phát triển có trình độ thấp và kém phát triển.
Thủ tướng cho biết Việt Nam sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của mình thực hiện cam kết gia nhập WTO, thúc đẩy tăng trưởng thương mại, phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng trong xã hội và thúc đẩy trao quyền cho phụ nữ trong nền kinh tế; phối hợp cùng các thành viên đóng góp một cách thực chất, hiệu quả vào các hoạt động WTO trong thời gian tới, cụ thể là triển khai các cam kết của Hội nghị Bộ trưởng WTO 12 (tháng 6/2022); cũng như nỗ lực đạt được đồng thuận về hướng xử lý những vấn đề lớn còn tồn tại mà WTO và các nước thành viên sẽ cần tiếp tục thúc đẩy.
Thủ tướng mong bà Tổng Giám đốc và WTO tiếp tục ủng hộ thúc đẩy các chương trình hợp tác, hỗ trợ tài chính, kỹ thuật của WTO nhằm giúp Việt Nam nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục đóng góp thiết thực vào các hoạt động của WTO.
Tổng Giám đốc Ngozi Okonjo-Iweala chúc mừng thành tựu phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam; cho rằng thành công của Việt Nam đã truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho nhiều nước trên thế giới, nhất là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại phục vụ phát triển đất nước.
Đặc biệt, thời gian qua, trong khi kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, thách thức, thì kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức khá cao do Việt Nam có các định hướng lớn, song điều hành chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, hiệu quả.
Bà Ngozi Okonjo-Iweala nhất trí với các quan điểm của Thủ tướng Chính phủ trong việc cải tổ WTO cũng như việc tăng cường hợp tác giữa WTO với Việt Nam; mong muốn hợp tác với Việt Nam trong phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế bao trùm; tiếp tục quan tâm, chăm lo đời sống cho các đối tượng yếu thế, phụ nữ, trẻ em để không ai bị bỏ lại phía sau.
|
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới
| 1,121 | |
Phó Chủ tịch Đảng CCM khẳng định, chủ trương nhất quán của Đảng CCM, Nhà nước Tanzania trong việc củng cố quan hệ truyền thống tốt đẹp và thúc đẩy hợp tác thực chất với Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp ông Abdulrahman Omar Kinana, Phó Chủ tịch Đảng cách mạng cầm quyền Tanzania. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN).
Sáng 18/5, tại Phủ Chủ tịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đoàn đại biểu Đảng Cách mạng (CCM) cầm quyền tại Tanzania do Ngài Abdulrahman Omar Kinana, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Đảng CCM dẫn đầu đang thăm và làm việc tại Việt Nam.
Thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chào mừng Đoàn đại biểu Đảng CCM sang thăm, làm việc tại Việt Nam ngay sau Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng CCM; cho rằng đây là cơ hội để lãnh đạo hai Đảng, hai nước trao đổi ý kiến, đánh giá về tình hình quốc tế, quan hệ song phương và định hướng trọng tâm hợp tác trong thời gian tới.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng khẳng định,
Việt Nam
luôn theo dõi sát tình hình và vui mừng chứng kiến những thành tựu của
Tanzania
trong duy trì đà phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người dân, nâng cao uy tín, vai trò quốc tế tại khu vực Đông Phi nói riêng và tại châu Phi nói chung.
Chủ tịch nước bày tỏ tin tưởng, với bề dày kinh nghiệm cầm quyền suốt sáu thập kỷ, sự ủng hộ của nhân dân và bạn bè quốc tế, Đảng CCM và Nhà nước Tanzania sẽ giành thêm nhiều thành tựu to lớn trên con đường xây dựng và phát triển đất nước.
Phó Chủ tịch Đảng CCM Abdulrahman Omar Kinana trân trọng chuyển lời thăm hỏi, lời mời của Chủ tịch Đảng CCM, Tổng thống Samia Suluhu Hassan mời Chủ tịch nước sang thăm Tanzania; bày tỏ vinh dự được dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng CCM thăm, làm việc tại Việt Nam.
Ông chia sẻ những ấn tượng, sự ngưỡng mộ đối với truyền thống lịch sử đấu tranh hào hùng và những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của Việt Nam trong phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
Ông Abdulrahman Omar Kinana khẳng định, chủ trương nhất quán của Đảng CCM, Nhà nước Tanzania trong việc củng cố quan hệ truyền thống tốt đẹp và thúc đẩy hợp tác thực chất với Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp ông Abdulrahman Omar Kinana, Phó Chủ tịch Đảng cách mạng cầm quyền Tanzania. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN).
Nhân dịp này, lãnh đạo Tanzania đánh giá cao những đóng góp của Công ty Halotel, liên doanh viễn thông mà Tập đoàn Viettel đầu tư ở Tanzania vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của nước bạn; cam kết tạo mọi thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của Công ty Halotel nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tai Tanzania nói chung.
Hai nhà lãnh đạo nhất trí mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác song phương như trao đổi đoàn các cấp; chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo đất nước; hợp tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, đầu tư; hợp tác trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, khoa học-công nghệ, viễn thông, chuyển đổi số…; khuyến khích hợp tác văn hóa, giao lưu nhân dân; phối hợp chặt chẽ trên các diễn đàn đa phương quốc tế, là cầu nối cho nhau mở rộng quan hệ hợp tác với hai khu vực, vì lợi ích của mỗi Đảng, mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.
Nhân dịp này, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chuyển lời thăm hỏi và mời Chủ tịch Đảng CCM, Tổng thống Tanzania thu xếp sang thăm chính thức Việt Nam vào thời điểm thích hợp./.
|
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tiếp Đoàn đại biểu Đảng Cách mạng Tanzania
| 683 | |
Tuần lễ kỷ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2023) và kỉ niệm 112 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911 – 5/6/2023) được TPHCM tổ chức trang trọng.
Bìa cuốn sách “Từ Làng Sen đến Bến Nhà Rồng”.
Trong đó, từ ngày 19/5 đến hết ngày 21/5/2023, sẽ diễn ra các hoạt động như triển lãm sách, tư liệu, hình ảnh về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, giới thiệu Không gian văn hóa Hồ Chí Minh; Triển lãm, giới thiệu tư liệu, sách, các ấn phẩm về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng với đó có tọa đàm, giới thiệu cuốn sách “Từ Làng Sen đến Bến Nhà Rồng” của GS, nhà văn Trình Quang Phú.
“Từ Làng Sen đến Bến Nhà Rồng” được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản lần thứ 22. Bao gồm hai phần, phần thứ nhất với tên gọi “Từ Làng Sen đến Bến Nhà Rồng”, gồm các bài viết về thời niên thiếu của Bác, từ lúc ở Làng Sen cho đến lúc Người rời Sài Gòn ra đi tìm đường cứu nước. Phần thứ hai với tên gọi “Miền Nam trong trái tim Người” ghi lại những câu chuyện cảm động của một số người đã may mắn, vinh dự được gặp Bác Hồ.
Từ lần đầu tiên xuất bản vào năm 1996, cho đến nay, với 27 năm, cuốn sách đã được tái bản ở nhiều nhà xuất bản, trong đó có 5 lần được xuất bản và phát hành bởi Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật. Ở lần xuất bản thứ 22 này, “Từ Làng Sen đến bến Nhà Rồng” được bổ sung, chỉnh sửa nhiều nhất. Tác giả sắp xếp lại thứ tự các bài viết ở từng phần cho phù hợp hơn và bổ sung 5 bài viết, trong đó có bài “Một số tư liệu khảo cứu về Bác ở miền Nam”.
Cùng đó, cuốn sách “Hồi ức Đỗ Duy Liên – Cuộc đời của mẹ” (Nhà xuất bản Trẻ) cũng được ra mắt nhân dịp này. Đây là hồi ký về cuộc đời của nữ Phó Chủ tịch của TPHCM (2 nhiệm kỳ 1980-1989). Sau khi nghỉ hưu, năm 1992, bà Đỗ Duy Liên bắt đầu viết trang đầu tiên của cuốn “Cuộc đời của mẹ”. Trong cuốn sách, tình yêu thương tràn đầy qua mỗi câu chuyện, và cũng là nguồn sức mạnh lớn lao trong bà Đỗ Duy Liên.
Các con của bà Đỗ Duy Liên chia sẻ: “Xuất bản cuốn hồi ức này, trước hết, chúng tôi muốn nói lời tri ân đến người mẹ vô cùng yêu thương về tất cả những gì mẹ đã làm cho các con trong suốt cuộc đời của mình. Sau nữa, là mong muốn góp phần nhỏ bé vào trang sử hào hùng của phụ nữ Nam bộ nói chung, phụ nữ Sài Gòn nói riêng trong cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập dân tộc và những năm tháng tái thiết, xây dựng, phát triển Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh sau khi đất nước thống nhất”.
|
‘Từ Làng Sen đến Bến Nhà Rồng’
| 534 | |
Nhân kỉ niệm 133 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2023) Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt cuốn sách ‘Những thiếu nhi bên Bác ngày ấy’ gồm một số chuyện kể về những thiếu nhi được chụp ảnh cùng Bác Hồ.
Bác Hồ luôn dành cho trẻ thơ những tình cảm và sự quan tâm chăm sóc trìu mến nhất. Người từng nói: “Tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả trẻ em Việt Nam đều là con của tôi”. Đáp lại tình cảm thân thương đó, thiếu nhi Việt Nam rất kính yêu Bác Hồ và luôn rất vinh dự khi được chụp ảnh cùng Bác.
Chính vì vậy, những bức ảnh chụp Bác Hồ với thiếu nhi luôn là những khoảnh khắc trìu mến, yêu thương và thân thiết. Xem những bức ảnh ấy, chúng ta không khỏi tò mò muốn biết về xuất xứ bức ảnh và nhất là về những em bé được chụp ảnh cùng Người.
Trong nhiều năm, tác giả Kiều Mai Sơn đã gặp gỡ một số nhân vật thiếu nhi ngày ấy, những nhân chứng sống của những thời khắc khó quên bên Bác và được các nhiếp ảnh gia ghi lại để trò chuyện cùng họ.
Với 6 câu chuyện thú vị, “Những thiếu nhi bên Bác ngày ấy” sẽ kể lại cho chúng ta về những bạn nhỏ trong những bức ảnh kỉ niệm khó quên.
Có em bé được chụp trong những dịp đại lễ như lễ mừng thọ Bác 60 tuổi (lục tuần đại khánh), lễ kỉ niệm ngày thống nhất Mặt trận Việt Minh – Liên Việt… Có em bé được chụp khi Bác tới thăm trại thiếu nhi. Cũng có khi, Bác đến thăm nhà, thấy cháu bé, Bác đã bế lên dỗ dành hoặc bón cơm ăn. Những cử chỉ thân mật đó thể hiện tình cảm của người ông dành cho cháu nội, cháu ngoại trong gia đình.
Những em bé trong các bức ảnh ngày ấy, sau hơn bảy mươi năm, đến nay cũng đều đã trở thành ông bà nội, ông bà ngoại. Người cao tuổi nhất là bình luận viên bóng đá – nhà báo Trần Tiến Đức (sinh năm 1941). Có người cũng đã sắp bước sang tuổi tám mươi như bà Đặng Minh Châu, bà Vũ Thu Giang, bà Lê Thanh Định. Trẻ tuổi nhất có lẽ là ông Phan Tân Hội cũng đã dần tiến tới tuổi 75… Ba phần tư thế kỉ qua đi, cuộc sống có nhiều đổi thay đến không ngờ. Mỗi con người cũng có một cuộc sống riêng. Nhưng dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, cương vị nào, những em bé ‒ “Những thiếu nhi bên Bác ngày ấy” đều có chung niềm tự hào được chụp ảnh cùng Bác.
Niềm tự hào ấy đi theo các ông, các bà suốt chặng đường dài của một đời người. Một số người cũng không còn nữa để kể câu chuyện về mình trong những khuôn hình, những người còn sống giờ đây tóc đã bạc, tuổi đã cao, nhiều khi không khỏi tiếc nuối vì hồi đó còn bé quá nên trong kí ức non nớt của trẻ thơ đã không ghi lại được nhiều hơn, sinh động hơn những kỉ niệm về Bác Hồ. Cũng lại có người tiếc nuối vì còn một vài gương mặt trong ảnh mãi mà không nhận được ra. Nhưng dẫu thế nào thì tất cả vẫn là kí ức đẹp đẽ và đã trở thành điểm tựa để các nhân vật thiếu nhi trong ảnh suốt đời phấn đấu, học tập, xứng đáng với Bác Hồ kính yêu./.
|
Ra mắt sách ‘Những thiếu nhi bên Bác ngày ấy’
| 623 | |
Sau gần 4 giờ bay, vào lúc 13h55 (giờ địa phương) ngày 19/5, chuyên cơ chở Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới sân bay Hiroshima, bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng và làm việc tại Nhật Bản theo lời mời của Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio.
Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng và làm việc tại Nhật Bản từ ngày 19 – 21/5/2023. Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Đón Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tại sân bay có Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản Yamada Kenji; Thống đốc tỉnh Hiroshima Hidehiko Yuzaki; Liên lạc viên của Thủ tướng Nhật Bản Maeda Shunsuke; Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Phạm Quang Hiệu; Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Osaka, Tổng lãnh sự Việt Nam tại Fukuoka; cán bộ Đại sứ quán, Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Nhật Bản.
Trong chương trình công tác tham dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ dự 3 phiên thảo luận về các chủ đề “Cùng hợp tác xử lý đa khủng hoảng”, “Nỗ lực chung vì một hành tinh bền vững”, “Hướng tới một thế giới hòa bình, ổn định và thịnh vượng”; tham gia hoạt động về Sáng kiến Đối tác cơ sở hạ tầng và đầu tư toàn cầu của G7; gặp gỡ, tiếp xúc song phương với Lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh G7.
Tại các phiên thảo luận, hoạt động tiếp xúc đa phương, song phương, Thủ tướng Chính phủ sẽ tham gia đóng góp với cộng đồng quốc tế, gắn với các lợi ích của Việt Nam về nhiều vấn đề, nhất là các vấn đề liên quan trực tiếp đến an ninh – phát triển, phát triển bền vững, hợp tác y tế, ứng phó biến đổi khí hậu, môi trường, năng lượng… Thông qua đó truyền tải thông điệp về Việt Nam phát triển năng động, đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả; đóng góp tích cực, chủ động, có trách nhiệm vào các công việc chung của cộng đồng quốc tế, đồng thời bảo vệ và thúc đẩy các lợi ích chính đáng của đất nước.
Cũng trong chuyến công tác, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio để thảo luận về hợp tác song phương, cũng như các vấn đề khu vực, quốc tế cùng quan tâm; dự và phát biểu tại Tọa đàm với lãnh đạo các doanh nghiệp lớn Nhật Bản; tiếp các tổ chức kinh tế, tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Nhật Bản và gặp gỡ đại diện tiêu biểu cộng đồng và trí thức Việt Nam tại Nhật Bản.
Chuyến công tác của Thủ tướng Chính phủ tới Nhật Bản có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hai nước Việt Nam – Nhật Bản kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao (1973 – 2023); thể hiện sự coi trọng của cả hai bên đối với quan hệ song phương; khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi trọng quan hệ với Nhật Bản, mong muốn thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam – Nhật Bản phát triển hơn nữa, đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực hai bên có tiềm năng và thế mạnh.
Chuyến công tác của Thủ tướng Phạm Minh Chính với những hoạt động, nội dung cụ thể, thiết thực nhằm triển khai mạnh mẽ đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng XIII “độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”.
|
Thủ tướng tới Hiroshima bắt đầu dự Hội nghị thượng đỉnh G7 và làm việc tại Nhật Bản
| 649 | |
Đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay là nhờ sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam, tỏ rõ hồn cốt, bản sắc, nét riêng, là “Made in Việt Nam”.
Vậy nên hiện nay, để xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hùng cường, hạnh phúc, sải bước cùng thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện và khát vọng của Bác Hồ vĩ đại và của cả dân tộc, cần phải vun bồi văn hóa, đặc biệt là tu thân, rèn luyện theo văn hóa Hồ Chí Minh.
Bác Hồ với học sinh. (Ảnh tư liệu).
Chưa bao giờ góc nhìn văn hóa lại được bàn luận sôi nổi như hiện nay. Cũng dễ hiểu bởi thực tiễn cho thấy, văn hóa là cái vẫn thiếu khi đã học tất cả; là cái còn lại khi đã quên đi tất cả. Văn hóa lâm nguy còn đáng sợ hơn Tổ quốc lâm nguy. Văn hóa còn thì dân tộc còn. Gần một thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt gần bốn mươi năm đổi mới, thành tựu và hạn chế của đất nước đều do việc có hay không nhận thức đúng đắn và thực hành văn hóa Hồ Chí Minh.
QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA MANG TẦM VÓC VỀ MỘT TUYÊN NGÔN
Cách đây 80 năm (tháng 9/1943), khi UNESCO chưa ra đời, trong bóng tối của nhà tù đế quốc, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về văn hóa mang tầm vóc
một
Tuyên ngôn. Cần nhận thức sâu sắc quan niệm này để rèn luyện, tu dưỡng theo văn hóa Hồ Chí Minh.
Về ý nghĩa của văn hóa
Văn hóa là chìa khóa, động lực của sự phát triển. Cách diễn đạt ngày nay có thay đổi so với trước, nhưng khi nói văn hóa là nền tảng của sự phát triển kinh tế – xã hội là nhằm khẳng định vai trò, sứ mệnh, ý nghĩa của văn hóa trong đời sống xã hội và loài người. 80 năm trước, Hồ Chí Minh đã viết về ý nghĩa của văn hóa thể hiện một tư duy mở đường, soi đường về sứ mệnh của văn hóa cho nhận thức và thực hành của chúng ta hôm nay. Người khẳng định vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra các lĩnh vực của văn hóa. Tinh thần này được nhắc lại ở một cách tiếp cận khác: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
(1)
. Chỉ mấy từ ngắn gọn, nhưng mãi 55 năm sau, Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) mới đưa được nhận thức này vào nghị quyết. Từ đó đến nay, qua Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, Đại hội XIII và Hội nghị văn hóa toàn quốc (24/11/2021), nhận thức đó trở thành nhất quán, xuyên suốt và từng bước đi vào cuộc sống.
Về mối quan hệ giữa văn hóa với con người
Tiếng latinh
Cutus
(trồng) đi với hai từ khác có hai nghĩa:
Cutus agri
(trồng cây) và
Cultus animi
(vun bồi tinh thần). Với từ gốc đó, tiếng Anh và Pháp dùng
Culture
để chỉ văn hóa. Như vậy, văn hóa chứa đựng nội hàm “trồng người” mà sau này Hồ Chí Minh nói tới “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Quan niệm của Hồ Chí Minh chỉ rõ văn hóa là toàn bộ những sáng tạo và phát minh của con người, tức những giá trị vật chất, tinh thần và những sáng tạo, phát minh đó lại nhằm phục vụ cho cuộc sống con người. Quan niệm ngày nay, con người vừa là chủ thể (sáng tạo ra văn hóa), vừa là khách thể (thụ hưởng các giá trị văn hóa), đồng thời chuyển tải các giá trị văn hóa để truyền cảm hứng trong đời sống xã hội. Đảng ta nhấn mạnh tạo môi trường văn hóa để xây dựng con người và con người lại làm cho môi trường văn hóa ngày một tốt hơn. Nhiệm vụ quan trọng nhất của văn hóa là xây dựng con người.
Về loại hình của văn hóa
Cùng với ngôn ngữ, chữ viết, văn học, nghệ thuật, Hồ Chí Minh chỉ ra đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh có mấy điểm quan trọng cần thấu triệt.
Một là
, cách nhìn của Người là cơ sở để chúng ta đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu các loại hình văn hóa khác nhau như văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa tôn giáo, văn hóa văn nghệ….
Hai là
, Người khẳng định khoa học, tôn giáo là những khía cạnh thuộc văn hóa, điều mà một thời gian dài nhận thức của chúng ta chưa thể vươn tới. Coi tôn giáo là một khía cạnh thuộc văn hóa đã khẳng định một cách rõ ràng quan điểm của Đảng về tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi người có thể theo hay không theo một tôn giáo nào; đồng thời cũng tạo ra một sức mạnh nội sinh quan trọng khi tâm linh của con người được chú trọng và vun bồi.
Ba là,
văn hóa thể hiện ở phương thức sử dụng, ẩn chứa trong đó có mối quan hệ giữa văn hóa và văn minh, điều mà ngày nay vẫn còn có sự lẫn lộn. Văn minh không đồng nhất với văn hóa. Văn minh nghiêng về trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật, còn văn hóa là nét riêng, một kiểu quan hệ, ứng xử. Không phải cứ trình độ văn minh cao là đi kèm văn hóa cao. Vấn đề ở chỗ con người sử dụng trình độ phát triển của văn minh như thế nào thì đó là thước đo trình độ văn hóa. Một đảng trở thành đảng cầm quyền được hiểu là đạt tới một trình độ văn minh về chính trị, nhưng phương thức sử dụng quyền lực đó như thế nào lại thuộc phạm trù văn hóa chính trị. Nhìn từ hôm nay, cụm từ “phương thức sử dụng” có ý nghĩa lớn trong văn hóa giao tiếp, ứng xử, xử sự, xử thế và quan hệ giữa con người với con người, xã hội và thiên nhiên.
Về mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội
Một trong những hạn chế, khuyết điểm Đảng ta nhắc đến trong các nghị quyết gần đây là còn nặng tư duy “duy kinh tế”, chạy theo tăng trưởng đơn thuần, coi văn hóa như “cái đuôi” của kinh tế; chưa thấy rõ mối quan hệ, tác động biện chứng giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội, điều mà 80 năm trước, Hồ Chí Minh đã nêu lên cũng là bốn trụ cột để một đất nước phát triển mà UNESCO nhấn mạnh. Trong năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đặt
xây dựng tâm lý
của dân tộc với lõi cốt là tinh thần độc lập tự cường lên hàng đầu. Đây là cách tiếp cận đặc biệt và mới mẻ cho thấy ý nghĩa, vai trò, sức mạnh của tâm lý dân tộc. Một dân tộc không nuôi dưỡng, vun bồi và đặt lên hàng đầu khát vọng độc lập tự cường thì không làm nổi việc gì. Tâm lý độc lập tự cường của dân tộc trong văn hóa Việt Nam từ Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc, làm rạng rỡ lịch sử, vẻ vang giống nòi. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, tâm lý dân tộc phải được coi là tiêu chí, thước đo hàng đầu của văn hóa dân tộc. Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943) và Báo cáo Chính trị do Hồ Chí Minh đọc tại Đại hội II của Đảng (2/1951) đều nói tới ba nguyên tắc của nền văn hóa mới là dân tộc, khoa học, đại chúng. Ngày nay, chúng ta bàn tới việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nội hàm của hai chữ “dân tộc” không có gì sâu sắc bằng lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tự cường.
Sau xây dựng tâm lý là
xây dựng luân lý
(đạo đức) và
xây dựng xã hội
. Đây là những lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng liên quan tới văn hóa chính trị, nhân cách văn hóa của con người nói chung, của cán bộ, đảng viên nói riêng, mà quan trọng nhất là biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. Một nền văn hóa đích thực, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, khoa học, hướng đến chân – thiện – mỹ là phục vụ quần chúng, vì lợi quyền và gắn bó mật thiết với nhân dân; mọi sự nghiệp liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của nhân dân trong xã hội.
Hồ Chí Minh bàn đến
xây dựng chính trị
mà hạt nhân là
dân quyền
. Một nền chính trị dân quyền được đặt trong văn hóa nêu lên cách đây 80 năm khi chính quyền chưa về tay nhân dân là một suy nghĩ độc đáo, sâu sắc, vừa có ý nghĩa tạo động lực cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, vừa mang tầm chiến lược lâu dài, soi đường cho phát triển. Quan điểm về dân quyền sau này được Hồ Chí Minh nói tới nhiều như quan tâm dân sinh, nâng cao dân trí, thực hành dân chủ và ngày nay được Đảng ta coi là một trong những chìa khóa của sự phát triển đất nước.
Sau cùng là
xây dựng kinh tế
. Đây không chỉ là câu chuyện về mối quan hệ tác động qua lại, gắn bó mật thiết giữa văn hóa với chính trị, xã hội, kinh tế, mà còn cho thấy muốn phát triển văn hóa phải xây dựng kinh tế và kinh tế với ý nghĩa là cơ sở hạ tầng, bệ đỡ, nền tảng của thượng tầng kiến trúc gồm tâm lý, đạo đức, chính trị, xã hội. Từ di sản Mác – Lênin, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa. Theo Người, cơ sở hạ tầng có kiến thiết rồi thì kiến trúc thượng tầng mới phát triển được. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, một nước bị chế độ phong kiến chuyên chế hàng ngàn năm đè nén và gần một thế kỷ bị chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nô dịch, kìm hãm trong vòng ngu dốt theo phương châm “làm cho dân ngu dễ trị”, Hồ Chí Minh sau này nói rõ hơn, sau khi giành được độc lập tự do, có lẽ phải đặt văn hóa lên hàng đầu để xây dựng con người, phát triển khoa học – kỹ thuật, tạo nguồn lực cho phát triển đất nước. Theo Người, “văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”
(2)
.
Văn hóa với hạt nhân là tâm lý, đạo đức, tư tưởng chính trị trong cách nhìn của Hồ Chí Minh là thước đo, sự thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn mà theo UNESCO thì “sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển”. Hiện nay, nhận thức đó không phải đã thấm sâu vào từng người, từng cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, quản lý, đứng đầu; thấm vào tổ chức, cơ quan, đơn vị, đoàn thể, thôn bản; thấm vào gia đình, xã hội để biến thành niềm tin, thói quen, lối sống; thành hành động thực sự, hiệu quả hằng ngày. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải được nhận thức sâu sắc và hành động thực sự.
Đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay là nhờ sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam, tỏ rõ hồn cốt, bản sắc, nét riêng, là “
Made in Việt Nam”
. Vậy nên hiện nay, để xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hùng cường, hạnh phúc, sải bước cùng thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện và khát vọng của Bác Hồ vĩ đại và của cả dân tộc, cần phải vun bồi văn hóa, đặc biệt là tu thân, rèn luyện theo văn hóa Hồ Chí Minh.
THỰC HÀNH VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH
Đề cao văn hóa bổn phận, liêm chính
. Luôn luôn suy nghĩ và đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải thấu triệt và thực hành hằng ngày, suốt đời bốn chữ “Chí công vô tư”; trăn trở và hành động theo nhân cách Hồ Chí Minh phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân, luôn nghĩ về ích quốc lợi dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là
văn hóa liêm chính, văn hóa đạo đức
với ý nghĩa là gốc, nền tảng của cán bộ, đảng viên; là thước đo “trình độ người”, “chất người”, làm cho đất nước vững mạnh, trường tồn. Bởi vì “người mà không Liêm, không bằng súc vật”
(3)
. Cán bộ, đảng viên không được dính líu gì với vòng danh lợi, mỗi ngày phải làm được việc tốt, có ích cho dân, cho nước. Cần phải lên án, loại bỏ những loại cán bộ chạy theo chức quyền, danh lợi, mua chức, bán quyền. Bởi vì cán bộ “cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút,
có dịp “dĩ công vi tư”
(4)
. Thực tế cho thấy “ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”
(5)
.
Thực hành văn hóa nêu gương.
Đối với người phương Đông, một tấm gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Văn hóa nêu gương còn là một khía cạnh thuộc phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Những câu nói của cha ông “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, “nhà dột từ nóc dột xuống” chính là những lời răn dạy về việc người đứng đầu phải nêu gương. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở rằng nói miệng ai cũng nói được, ta cần phải thực hành. Người chỉ rõ: “Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích”
(6)
. Những lời răn dạy của cha ông và trong di sản Hồ Chí Minh mang giá trị trường tồn như ý kiến của Tổng Bí thư trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Ông lưu ý tránh tình trạng: “Chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người”; “cấp trên ở chẳng chính ngôi, cho nên ở dưới chúng tôi hỗn hào”
(7)
. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là những người lãnh đạo chủ chốt, đứng đầu phải là một tấm gương sáng theo tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đảng ta chỉ rõ sự gương mẫu của Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Thực hành văn hóa nêu gương có giá trị bền vững, trường tồn.
Thực hành văn hóa phê và tự phê bình.
Các nghị quyết về xây dựng Đảng những năm qua chỉ rõ tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Đây là một trong những nguyên nhân làm “Đảng hỏng”
(8)
, giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, một nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng.
Tự phê bình và phê bình là một nguyên tắc, quy luật phát triển Đảng, một thang thuốc hay nhất để chữa các bệnh trong Đảng. Hồ Chí Minh hiện thân của văn hóa phê và tự phê bình. Khi Đảng có khuyết điểm, cách mạng gặp khó khăn, Người tự nhận “chỉ vì tôi tài hèn đức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ sự mong muốn của đồng bào… Những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi”
(9)
. Có lần Người nói: “Tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, phải phê bình cho tôi sửa chữa ngay. Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người”
(10)
. Khuyến khích cán bộ “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”
(11)
, phê bình Đảng, Chính phủ và người lãnh đạo chính là một khía cạnh rất quan trọng của
văn hóa dân chủ
. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình trước Tổ quốc, nhân dân và Đảng trong việc rèn luyện văn hóa phê và tự phê bình. Theo tinh thần của Lênin, tiêu chuẩn của một đảng đúng đắn, chân chính cách mạng là không sợ bộc lộ khuyết điểm của mình, công khai thừa nhận sai lầm, vạch rõ nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh của sai lầm và kiên quyết sửa chữa sai lầm.
Từ cách tiếp cận dân là chủ, Đảng là đày tớ của dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ cần phải hoan nghênh sự phê bình của dân. Phê bình càng rộng, chính sách, đường lối càng đúng, uy tín càng cao. Đừng sợ phê bình mà mất uy tín. Người viết: “Quần chúng tinh lắm, quần chúng biết phân biệt thật giả. Dân sợ mình thù mà không dám nói đó thôi. Càng tự phê bình trước dân chừng nào dân càng bằng lòng và phục mình chừng ấy”
(12)
. Khơi dậy quyền làm, quyền nói của dân, “
làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm
”
(13)
thì mới xây dựng được một Đảng vững mạnh.
Rèn luyện văn hóa ứng xử
. Văn hóa là một kiểu quan hệ. Ở tầm vĩ mô, điều có ý nghĩa nhất, quan trọng nhất của văn hóa ứng xử là biết xử sự, xử thế một cách trí tuệ, bản lĩnh, sáng tạo trong cách mạng, đổi mới, chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong cuộc sống lao động, học tập hằng ngày, mỗi cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng tư cách của một người cách mạng thể hiện trong các mối quan hệ với nhân dân, với Đảng, với đồng sự, với công việc, với các hạng người khác, nhưng trước hết, hàng đầu, xuyên suốt là phải biết cách xử sự, xử thế với chính mình. Mình đối với mình phải “chính tâm tu thân” thành một người tử tế, đứng đắn thì mới “tề được gia, trị được quốc, bình được thiên hạ”
(14)
. Hồ Chí Minh chỉ rõ “tự mình không đánh thắng được khuyết điểm của mình, mà muốn đánh thắng kẻ địch, tự mình không cải tạo được mình, mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý”
(15)
. Chỉ có tự mình thành một người tốt thì mới có thể xử sự tốt với đồng bào, đồng chí, bạn bè; cương quyết và khôn khéo với kẻ địch./.
Phải làm cho văn hóa trở thành một yếu tố khăng khít của đời sống, của toàn bộ lĩnh vực hoạt động và ứng xử của con người. Chỉ có nhận thức dù sâu sắc đến mấy và nói thôi thì vẫn chưa là văn hóa. Chỉ khi nào nhận thức biến thành niềm tin, nếp sống, lối sống, hành động tự nhiên, thật sự hằng ngày thì mới trở thành văn hóa. Cán bộ, đảng viên phải nhận thức và rèn luyện theo tinh thần đó.
———–
(1) Hồ Chí Minh:
Toàn tập
, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.3, tr.458.
(2) (15) Hồ Chí Minh:
Toàn tập
, Sđd, t.7, tr.246, 82.
(3) (4) (5) (12) (14) Hồ Chí Minh:
Toàn tập,
Sđd, t.6, tr.127, 127, 127, 370, 130.
(6) (8) (10) (11) Hồ Chí Minh:
Toàn tập
, Sđd, t.5, tr.126, 301, 260, 319.
(7) Phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
(9) Hồ Chí Minh:
Toàn tập
, Sđd, t.4, tr.191-192.
(13) Hồ Chí Minh:
Toàn tập
, Sđd, t.15, tr.293.
|
Nhận thức và thực hành văn hóa Hồ Chí Minh – Tác giả: PGS. TS. Bùi Đình Phong
| 3,649 | |
Theo nghiên cứu gần đây của Trường Đại học Ohio (Mỹ) thì thai nhi tuy nằm trong nước ối và được bao bọc bởi nhiều lớp cơ, màng nhưng đã bắt đầu nghe được tiếng động từ tháng thứ 4 (dù đến tháng thứ 6 tai nghe mới hoàn thành). Nếu có sự kích thích của âm thanh 5 giây sẽ ảnh hưởng tích cực đến nhịp tim thai nhi dài 1 tiếng đồng hồ. Trong đó giọng của mẹ quan trọng nhất nhờ cường độ vừa đủ truyền theo cơ thể đi thẳng vào tử cung.
Lại có những thí nghiệm khác. Nếu trẻ sơ sinh thiếu tháng được nghe bài “Lullaby” (một bài hát ru nổi tiếng) 5 phút, 6 lần mỗi ngày sẽ lớn nhanh hơn những trẻ cùng hoàn cảnh. Với trẻ bắt đầu có nhận thức nếu được kích thích bằng hát ru 10 phút thì phản xạ vận động tốt hơn nhiều so với trẻ không được nghe. Kết quả các thí nghiệm đều khẳng định hát ru là những kích thích rất có lợi không chỉ cho sự phát triển ngôn ngữ, tâm lý mà còn cả phát triển thể chất nữa. Thì ra câu thơ của Nguyễn Duy “Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn” (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa) không chỉ hay về biểu cảm nghệ thuật mà còn đúng về khoa học.
“À ơi, cánh cò bay lả bay la”.
Lại nữa, một nghiên cứu khác cho thấy hát ru bằng những nguyên âm không thành câu tức hát không rõ lời sẽ dễ làm trẻ ngủ hơn là hát thành bài có câu cú rõ ràng. Lý do là não chưa phát triển nên trẻ tiếp nhận qua giai điệu chứ không phải bằng ca từ. Trẻ nhạy cảm với thứ âm thanh có nhịp điệu đều đặn, nhẹ nhàng gần với nhịp điệu từ trái tim người mẹ mà nó được nghe từ trong bụng mẹ. Thật đúng với triết lý sâu sắc của người Việt: “Mẹ sao con vậy”, “Giỏ nhà ai quai nhà nấy”… Vai trò của người mẹ với đứa con quả là vô cùng. Con có “trả ơn” mẹ “bằng giời bằng biển” cũng không sánh được với công lao bậc sinh thành. “Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con” còn là vậy!
Thế nên hầu như ngôn ngữ nào cũng có hát ru miễn là có trẻ em và người mẹ. Hầu như cũng có chung đặc điểm giai điệu du dương nhẹ nhàng sâu lắng. Về đặc trưng này, giới âm nhạc ghi nhận ngôn ngữ tiếng Tamil (miền Nam Ấn Độ) có lời hát ru tên là”Thaalattu” hay lời hát “Oyayi” ở Philippines,… rất quyến rũ. Phổ biến, bình dân như vậy nên hát ru còn lấn sang các thể loại âm nhạc (hiện tượng ru hóa) khác. Dòng nhạc pop trứ danh cũng có những bài hát ru nổi tiếng thế giới như “Good night” của nhóm The Beatles hay “Lullaby” của nhóm Billy Joel…
Theo nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc lời ru đóng vai trò quan trọng đối với sự hình thành nhân cách trẻ. Trong lời ru có lời răn dạy, cao hơn cả là sâu sắc, ấm áp một tình thương, trách nhiệm của cha mẹ đã nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm đứa con từ khi cất tiếng chào đời. Một văn bản lời ru tồn tại trong nó đa phong cách, vừa là nghệ thuật, vừa là tâm lý, là giáo dục, là lịch sử… Đó là một văn bản đa hướng (hướng tới nhiều đích), đa thoại (nhiều đối thoại) và liên văn hóa (thẩm thấu các tinh hoa văn hóa nhiều vùng miền qua sự tiếp biến)… Xin được phần nào chứng minh những điều này.
Hầu như là người Việt thì ai cũng thuộc bài hát “Ru con” vì lý do là các bà mẹ từ đồng bằng Bắc bộ đến đồng bằng Nam bộ đều thường dùng để hát ru con. Các khảo sát xã hội học cho thấy văn bản gốc bắt nguồn từ miền Bắc rồi đi vào miền Nam như một lẽ tự nhiên vì cùng một cơ thể Tổ quốc, cùng một tâm hồn…
Giai điệu lời hát mang tính kinh điển cho lối gieo vần bằng/ trắc để tạo lời ru trầm bổng: “
Gió mùa thu… mẹ ru mà con ngủ…/ Năm canh chày… năm canh chày… thức đủ vừa năm…/ Hỡi chàng chàng ơi… hỡi người người ơi…/ Em nhớ tới chàng… em nhớ tới chàng…/ Hãy nín nín đi con/ Hãy ngủ ngủ đi con/ Con hời mà con hỡi… con hỡi con hời…/ Con hỡi con hời…/ Hỡi con
…”.
Câu đầu có hai thanh trắc (gió, ngủ) ở vị trí đầu và cuối câu, giữa câu toàn thanh bằng (mùa thu… ru mà con) đột ngột nổi lên một thanh trắc (mẹ). Ở câu hai giữa câu toàn thanh bằng (Năm canh chày… năm canh chày… em… vừa năm…) nổi lên hai thanh trắc (nhớ tới) tạo ra một âm hưởng cao thấp đều đặn, du dương đưa trẻ vào giấc ngủ. Con ngủ rồi thì người mẹ “đối thoại” với “đối tượng” khác: “
Hỡi chàng chàng ơi… hỡi người người ơi…/ Em nhớ tới chàng… em nhớ tới chàng…
”. “Chàng” ở đây là người chồng, “Người” ở đây cũng là chồng. Gọi thế thì mới diễn tả được một hình ảnh người chồng vừa gần gũi (chàng) vừa xa lạ (người), vừa yêu thương vừa có gì đấy hờn dỗi… Bài này có tên “Ru con” nhưng gọi đúng với nội dung phải là “Ru chồng” (!?).
Cùng cấu trúc giai điệu, một bài ru con khác của dân ca Nam bộ cho thấy bóng dáng của một lịch sử chiến tranh giữ nước: “
Chí làm trai… say mê mà giữ nước…/ Em nỡ dạ nào… em nỡ dạ nào… trách mối tình ai…/ Hỡi chàng chàng ơi… hỡi người người ơi…/ Em nhớ tới chàng… em nhớ tới chàng…/ Hãy nín nín đi con
…”. Đối tượng hướng tới trong bài nổi lên trước hết là “chàng”, là “người”; sau là đứa con thơ rồi với cả chính người ru, tức người vợ. Điệp khúc “em nỡ dạ nào” không chỉ khẳng định với chồng, còn là lời nhắn nhủ với chính mình. Chỉ qua lời ru mà có thể hình dung ra những hình tượng người vợ, người mẹ thương con thương chồng, vị tha, vì nghĩa lớn mà chịu hy sinh…
Qua phép đối sánh dễ thấy một đặc điểm nội dung hát ru phương Tây thường hướng về đối tượng ru là đứa trẻ, tức một chiều nhưng lời hát ru Việt Nam thường đa chiều, tức hướng về nhiều đối tượng. Có một hướng rất đáng chú ý là hướng vào trong đáy lòng người ru, tức hướng nội. Cũng dễ cắt nghĩa, vì sống trong khuôn phép giáo lý phong kiến phương Đông người phụ nữ bị ràng buộc, bị o ép, bị tước quyền nói. Mà ai cũng có nhu cầu đối thoại, nên với họ ngả đường đối thoại hầu như duy nhất là hát ru, mượn lời ru để bộc bạch nỗi lòng.
Thế nên lời hát ru Việt giàu tình cảm nhưng đượm buồn, nhiều khi đến não nùng và đậm chất triết lý: “
Ầu ơ… Ví dầu cầu ván đóng đinh…/ Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi…/ Ầu ơ… Khó đi mẹ dắt con đi…/ Con đi trường học, mẹ đi trường đời
”. Trời đất, các con đường vào trường học và trường đời đều khó cả, tất nhiên vào “trường học” thì đầy tương lai. Nhưng bao nhiêu khó khăn mẹ giành hết để “dắt con đi”. Vì con, mẹ chấp nhận vượt “cầu” dù cầu có “đóng đinh”, có “lắc lẻo gập ghềnh” để đi “trường đời”… Người mẹ, người vợ ấy cao thượng đến quên mình nhưng có gì đấy cam phận, ngậm ngùi: “
Ầu ơ… Gió đưa bụi chuối sau hè…/ Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ…/ Ầu ơ…/ Con thơ tay ẵm tay bồng…/ Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông
”…
Ở Việt Nam, dân tộc nào cũng có hát ru, tiêu biểu như Hát ru (người Kinh), Ú lục (Thái, Tày), Um con (Bana), Khổng mí nhủa (Mông)… Nhiều dân tộc có chung đặc điểm không chỉ là hát ru cho trẻ thơ mà còn hát ru nhau, nhất là với những nam thanh nữ tú đang yêu, mượn lời ru làm cánh để trao gửi tình yêu. Lời ru lúc này tươi vui lạ thường: “
Cánh cò bay lả bay la/ Bay từ, từ cửa phủ bay ra, ra cánh đồng/ Tình tính tang, là tang tính tình/ Duyên tình rằng, ấy duyên tình ơi/ Rằng có nhớ, nhớ hay chăng?/ Rằng có biết biết hay chăng
?”. Cánh cò trắng chấp chới ngoài không gian đồng ruộng. Cánh cò tình yêu chấp chới bay trong bầu trời văn hóa, bay trong tâm hồn tuổi thơ rồi đậu vào những trái tim đang yêu…
Có nguồn gốc xã hội gắn liền với lao động, tập quán, đời sống sinh hoạt gia đình, hát ru thường mang tính chất ngụ ngôn, lời ca phong phú, mang nhiều hình ảnh, tâm trạng nỗi niềm. Với đặc tính ấy nên lời ru gắn liền với ca dao trữ tình. Cấu trúc lời ru thường có sự liên kết câu ru và tiếng đưa hơi. Chịu sự quy định của thổ âm mà hát ru miền Bắc tiếng đưa hơi là “à ơi”, miền Nam là “ầu ơ”. Ngoài ra sử dụng những tiếng đệm lót để tạo giai điệu (í a, ư ừ, hỡi hời…) cũng là cách tăng cường khả năng biểu cảm cho lời ru. Để làm phong phú kho tàng hát ru rất cần đến sự sáng tạo của những nhạc sĩ tài năng. Không chỉ riêng các bà mẹ và các em thơ mà tất cả chúng ta chờ đón thêm những bài tuyệt vời như bài “Mẹ yêu con” của Nguyễn Văn Tý.
Không chỉ hay về giai điệu, đẹp về ca từ, bài hát vẽ lên một hình tượng thiên thần: “
Miệng con chúm chím xinh xinh/ Như đài hoa đang hé trên cành/ Khát nắng mới và sương lành/ Lá thắm rung cánh tay ôm ấp lấy hòa bình/ A á ru hời ơi hời ru”. Bài hát mở ra cả một chân trời của hy vọng và tình thương: “Tương lai con đẹp lắm/ Mẹ hát muôn lần/ A á ru hời ơ hời ru
…”.
|
Lời ru – “Hát nuôi phần hồn”! – Tác giả: Nguyễn Thanh Tú
| 1,769 | |
Một nghiên cứu chỉ ra hơn một nửa số hồ nước và hồ chứa lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do khủng hoảng khí hậu và mức tiêu thụ của con người.
Ngôi chùa trên đảo Louxingdun thường ngập một phần dưới nước hồ Poyang, nhưng phải đối mặt với mực nước thấp do hạn hán khu vực ở Lộc Sơn, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc vào năm 2022. Ảnh: Reuters.
Một nhóm nhà nghiên cứu quốc tế báo cáo một số nguồn nước ngọt quan trọng nhất trên thế giới – từ Biển Caspi giữa châu Âu và châu Á, đến hồ Titicaca của Nam Mỹ – đã bị mất nước với tốc độ tích lũy khoảng 22 gigaton/năm trong gần 3 thập kỷ,
Guardian
đưa tin ngày 19/5.
Con số này tương đương với tổng lượng nước sử dụng ở Mỹ trong cả năm 2015.
Fangfang Yao, nhà thủy văn học tại Đại học Virginia, người đứng đầu nghiên cứu được công bố hôm 18/5 trên tạp chí
Science
, cho biết 56% sự suy giảm của các hồ tự nhiên là do sự nóng lên toàn cầu và mức tiêu thụ của con người. Sự nóng lên là nguyên nhân “phần lớn trong số đó”.
Các nhà khoa học về khí hậu thường cho rằng khu vực khô cằn trên thế giới sẽ trở nên khô hạn hơn do biến đổi khí hậu, trong khi khu vực ẩm ướt sẽ trở nên ẩm ướt hơn. Nhưng nghiên cứu cho thấy lượng nước mất đi đáng kể ngay cả ở những vùng ẩm ướt.
“Không nên bỏ qua điều này”, ông Fangfang Yao nói.
Các nhà khoa học đã đánh giá gần 2.000 hồ lớn bằng cách sử dụng phép đo vệ tinh kết hợp với mô hình khí hậu và thủy văn.
Họ phát hiện ra việc khai thác không bền vững của con người, những thay đổi về lượng mưa và dòng chảy, trầm tích và nhiệt độ tăng khiến mực nước hồ giảm trên toàn cầu. 53% số hồ cho thấy sự suy giảm từ năm 1992 đến năm 2020.
Gần 2 tỷ người trên thế giới bị ảnh hưởng trực tiếp và nhiều khu vực đã phải đối mặt với tình trạng thiếu nước trong những năm gần đây.
Nghiên cứu cũng cho thấy việc sử dụng không bền vững của con người làm cạn kiệt các hồ, chẳng hạn Biển Aral ở Trung Á và Biển Chết ở Trung Đông. Trong khi đó, các hồ ở
Afghanistan
,
Ai Cập
và
Mông Cổ
bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ tăng, có thể làm tăng lượng nước thất thoát vào khí quyển.
Mực nước dâng cao trong 1/4 số hồ, thường là kết quả của việc xây dựng đập ở những vùng xa xôi như Cao nguyên Nội Tây Tạng.
|
Phát hiện hơn một nửa số hồ trên thế giới bị thu hẹp
| 466 | |
Hình ảnh do tàu thám hiểm Perseverance của NASA gửi về Trái đất. Ảnh: NASA.
Xe tự hành Perseverance đã chụp được hình ảnh mới, tiết lộ bằng chứng địa chất về một dòng sông chảy xiết từng đổ vào miệng núi lửa Jezero trên Sao Hỏa.
Khoảng một năm trước, xe thám hiểm của NASA bắt đầu nghiên cứu một trầm tích hình quạt ở khu vực cao 250 m, có khả năng là tàn tích của một vùng châu thổ sông cổ,
CNN
đưa tin ngày 18/5.
Lớp cong của trầm tích cho thấy dòng nước chảy dường như đã định hình chúng, và những hình ảnh mới nhất do tàu tự hành chụp cho thấy đây có thể là một dòng sông sâu hơn, chảy nhanh hơn so với dự đoán của các nhà khoa học.
Những phát hiện mới nhất của Perseverance, được thu thập trong hai hình ảnh khảm, cho thấy những hàng đá trầm tích lượn sóng với tàn dư của thứ mà NASA gọi là “đá cuội và hạt trầm tích thô”.
“Điều đó cho thấy dấu vết một dòng sông năng lượng cao, vận chuyển và mang theo rất nhiều mảnh vụn”, Libby Ives, nhà nghiên cứu tại JPL của NASA, đơn vị vận hành tàu tự hành Perseverance, chia sẻ.
Ives cho biết dòng nước càng mạnh thì càng có thể di chuyển các mảnh vật liệu lớn dễ dàng hơn.
Trong khi đó, Katie Stack Morgan, phó trưởng nhóm khoa học dự án Perseverance tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA, cho hay các dòng sông có khả năng mang những tảng đá lớn và mảnh vụn từ các khu vực khác trên Sao Hỏa đến miệng núi lửa Jezero.
Đây là lần đầu tiên các nhà khoa học khám phá môi trường như thế này trên
Sao Hỏa
.
Perseverance bắt đầu khám phá những tàn dư của môi trường bên trong miệng núi lửa Jezero – giờ trông giống lòng hồ khô cạn – sau khi hạ cánh xuống Sao Hỏa vào tháng 2/2021.
Các nhà khoa học từ lâu đã tò mò về các loại đường thủy đa dạng từng tồn tại trên Sao Hỏa hơn 3 tỷ năm trước, khi hành tinh này ấm hơn và ẩm ướt hơn.
|
Xe thăm dò của NASA trên Sao Hỏa gửi về hình ảnh gây bất ngờ
| 372 | |
Suốt 2 triệu năm qua, nơi này chưa từng có một giọt mưa rơi xuống, vì sao vậy?
Vùng đất 2 triệu năm chưa từng có mưa này được gọi là Thung lũng khô (Thung lũng Mc Murdo). Thung lũng này còn được gọi là nơi khô hạn nhất trên Trái đất. Nó nằm ở Nam Cực và các nhà khoa học nhận định vùng đất này có điều kiện tự nhiên rất giống với sao Hỏa. Thậm chí, địa hình của thung lũng khô cũng khiến người ta liên tưởng tới việc đi dạo trên một hành tinh khác ngoài Trái đất.
Thung lũng Mc Murdo được mệnh danh là khô hạn nhất Trái đất bởi 2 triệu năm chưa từng có mưa. (Ảnh: Nat Geo).
Thung lũng khô diện tích 4.800 km2 với 3 thung lũng chính là: Taylor, Victoria và Wright. Thung lũng tuy nằm ở Nam Cực nhưng nơi này không hề có băng. Ngạc nhiên hơn là nhiệt độ của thung lũng khô rất thấp chứ không cao như sa mạc Nguyên nhân, không khí lạnh giữ hơi nước ít hơn 20 lần so với không khí nóng.
Lượng mưa trung bình khoảng 100mm mỗi năm song đều ở dạng tuyết. Tốc độ gió Katabatic thổi xuống nơi đây lên đến khoảng 322km mỗi giờ, có thể “thổi bay” băng và tuyết của miền Nam Cực, khiến độ ẩm ở đây thấp và băng tuyết không xuất hiện trong 8 triệu năm.
Khối băng duy nhất tồn tại ở đây lại nằm ở các sông băng, dọc theo thung lũng và hồ chứa. Lớp băng này dày 3-5m và tồn tại với dạng sông băng, là lớp băng vĩnh cửu bao phủ bề mặt sông hồ.
Vì điều kiện ở thung lũng Mc Murdo quá khắc nghiệt nên nơi này không hề có sự sống. Trong thung lũng này, các nhà khoa học không tìm thấy thực vật, động vật thân mềm hay động vật gặm nhấm.
Lớp băng duy nhất tồn tại ở đây dưới dạng sông băng. (Ảnh: Nat Geo).
Vùng đất kỳ lạ này cũng là nơi đầu tiên trên Trái đất chỉ một loại vi khuẩn angelito tồn tại được. Trên thực tế, loại vi khuẩn này sống ngay trong không gian vũ trụ. Vì địa hình và tự nhiên ở Thung lũng Mc Murdo tương tự như bề mặt Sao hỏa nên Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA ) đã thực hiện niều thí nghiệm ở khu vực này.
(Nguồn: Nat Geo)
|
Vùng đất đáng sợ nhất Trái đất: Hai triệu năm không có nổi một giọt mưa
| 417 | |
Thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ người dân Việt Nam mà còn để lại ấn tượng sâu sắc đối với giới học giả quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiếu nhi Liên Xô tại Trại hè Quốc tế Artek ngày 23/8/1957 (Ảnh: TTXVN).
Học giả Hàn Quốc đề cao tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giáo sư Im Jin-hô nhấn mạnh chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam; đồng thời cho rằng, tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” của Người luôn đúng với mọi thời đại và đã giúp dân tộc Việt Nam tập hợp sức mạnh, thống nhất đất nước.
Nhân dịp kỷ niệm 133 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2023), giáo sư Im Jin-ho, khoa Quốc tế (Trường Đại học Chodang, Hàn Quốc) đã có chia sẻ về những nghiên cứu và kế hoạch dịch thuật các tác phẩm về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giáo sư Im Jin-ho đang giảng dạy tại khoa Quốc tế, Đại học Chodang, Hàn Quốc. Ông đồng thời là người đứng đầu Trung tâm Giao lưu và Giáo dục quốc tế tại Đại học Chodang, và có nhiều cơ hội tìm hiểu nghiên cứu về Việt Nam. Đặc biệt, với vai trò người đứng đầu Trung tâm Giao lưu và Giáo dục quốc tế, từ hơn 20 năm qua, ông đã có nhiều hoạt động nghiên cứu trao đổi học thuật, kết nối giao lưu liên quan đến các trường đại học của Việt Nam, tham gia nghiên cứu và xuất bản các chuyên luận về Việt Nam. Nhân kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ hợp tác Hàn – Việt, năm 2022, giáo sư Im Jin-ho đã xuất bản 2 cuốn sách “Thần thoại và truyền thuyết Việt Nam, con Rồng cháu Tiên” và “Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh” bằng tiếng Hàn Quốc. Với tình cảm dành cho Việt Nam, giáo sư Im Jin-ho đã nhận lời làm cố vấn cho Hội người Việt Nam tại khu vực Gwangju-Jeonnam. Thời gian qua, ông đã tích cực tham gia nhiều hoạt động kết nối, hỗ trợ cho cộng đồng người Việt đang sống, làm việc và học tập tại khu vực các tỉnh phía Nam Hàn Quốc.
Nói về lý do khiến ông tiến hành các nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo sư Im Jin-ho cho biết, Việt Nam vốn có nền văn hiến và lịch sử lâu đời rất đặc sắc. Đặc biệt, những thăng trầm lịch sử của Việt Nam trong thời hiện đại có rất nhiều điểm tương đồng với lịch sử của Hàn Quốc khiến giáo sư Im Jin-ho vô cùng quan tâm đến Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong chuyến thăm Việt Nam vào đầu những năm 1990, giáo sư Im Jin-ho đã đến thăm Viện Khoa học Xã hội Quốc gia Việt Nam và nhận ra rằng các thế hệ trí thức hai nước Hàn – Việt có rất nhiều mối giao lưu trong quá khứ. Những kết nối này đã thu hút ông quan tâm đến Việt Nam và lãnh tụ của dân tộc Việt Nam – Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với chuyên ngành Hán học, khi đến thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh, ông tình cờ tìm thấy những cuốn sách viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tiếng Trung Quốc và đây chính là cơ duyên để ông bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu và giới thiệu về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với độc giả Hàn Quốc.
Theo giáo sư Im Jin-ho, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một chính trị gia, nhà hoạt động lỗi lạc của thế giới. Đặc biệt hơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một chiến lược gia quân sự, một nhà ngoại giao xuất chúng có cái nhìn tổng quan và đánh giá chính xác tình hình trong nước và quốc tế để đưa ra các giải pháp ngoại giao hiệu quả. Có nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp tìm đường giải phóng dân tộc Việt Nam, giáo sư Im mới hiểu rằng tại sao người Việt Nam lại thành kính gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh với danh xưng trìu mến là “Bác Hồ”. Cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi sinh thời đã trở thành tấm gương không chỉ cho người dân Việt Nam khi Người luôn sống thanh đạm, đặt lợi ích của dân tộc Việt Nam lên trên hết, thể hiện sâu sắc nhất tinh thần nhân văn trong tư tưởng, lối sống.
Giáo sư Im Jin-hô nhấn mạnh, chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời luôn nhấn mạnh mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, lấy người dân làm trung tâm. Tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” của Người luôn đúng với mọi thời đại và đã giúp dân tộc Việt Nam tập hợp sức mạnh, thống nhất đất nước. Cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết toàn dân, tự do và hạnh phúc của người dân đã thể hiện tính nhân văn vô cùng sâu sắc và đây chính là bài học cho tất cả chúng ta, không phân biệt biên giới, quốc gia.
Giáo sư Im Jin-ho cho biết tại Hàn Quốc, đã có nhiều học giả nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, qua sưu tập các tài liệu từ tiếng Hán, ông nhận thấy còn rất nhiều tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được giới thiệu. Đặc biệt, những tác phẩm văn học do Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trong thời gian Người hoạt động ở Trung Quốc mới được phát hiện sẽ là nguồn tư liệu quý cho những nghiên cứu về Hồ Chí Minh sau này. Đặc biệt, để tuyên truyền và vận động dư luận trong nước và quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất bản rất nhiều bài báo trong suốt thời gian hoạt động cách mạng. Các tài liệu này vô cùng đáng quý và chính vì thế ông đang tập hợp, dịch thuật để có thể xuất bản thành sách. Cùng với đó, giáo sư Im Jin-ho cũng đang dịch các cuốn sách đã xuất bản sang tiếng Hàn như “Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh” hay “Gia thế Chủ tịch Hồ Chí Minh”…
Giới học giả Bỉ ca ngợi vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam
Triển lãm về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở thủ đô Brussels đã thu hút đông đảo bạn bè Bỉ và quốc tế. Đây là dịp để những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới hiểu rõ hơn về vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc Việt Nam, người đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Ông Bert De Belder, Trưởng ban Quan hệ quốc tế, đảng Lao động Bỉ (PTB) cho biết với tư cách là người Bỉ quan tâm đến các cuộc đấu tranh giải phóng và đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới, từ khi còn là sinh viên, ông đã biết đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và rất ngưỡng mộ Người. Tuy nhiên, chỉ gần đây khi đọc nhiều tác phẩm để chọn lọc xuất bản những bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tiếng Hà Lan, tiếng Pháp, ông mới khám phá ra rất nhiều khía cạnh, tài năng và những đức tính quan trọng của Người. Vị lãnh tụ lỗi lạc là “kim chỉ nam” dẫn dắt không chỉ nhân dân Việt Nam mà nhân dân trên toàn thế giới dấn thân vào các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xã hội, vì sự tiến bộ, vì đoàn kết quốc tế, vì hạnh phúc của nhân dân, cũng như vì hòa bình và phát triển.
Ông Bert De Belder nhấn mạnh, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là quá trình rất phức tạp mà nhân dân Việt Nam phải trải qua với nhiều khó khăn và kẻ thù mạnh hơn nhiều lần nhưng họ đã chiến thắng nhờ tài năng và sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ông Bert De Belder cũng cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã truyền cảm hứng rất lớn và có vai trò quan trọng trong việc kết nối cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của các dân tộc ở thế giới thứ ba, cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự là một người theo chủ nghĩa quốc tế chân chính, người đã lấy sự nghiệp giải phóng và hạnh phúc của các dân tộc trên toàn thế giới làm trọng tâm và đoàn kết quốc tế là một giá trị quan trọng. Ông Bert De Belder cũng bày tỏ ấn tượng về cuộc sống giản dị của Người khi nhấn mạnh rằng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người rất giỏi với tất cả tài năng và vai trò lãnh đạo của mình nhưng vẫn là một người rất khiêm tốn và sống một cuộc đời giản dị. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương cho tất cả chúng ta”.
Đối với Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á, Cơ quan Đối ngoại châu Âu (EEAS), Barbara Plinkert, ấn tượng của bà về Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là cuộc đời hoạt động cách mạng đầy nhiệt huyết, đồng thời cảm phục cách mà Người truyền cảm hứng và gắn kết những người dân từ các quốc gia khác lại với nhau vì mục tiêu đấu tranh cho nền độc lập của Việt Nam.
Là người gắn bó với cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam từ năm 1964 khi còn là sinh viên Đại học Tự do Brussels (ULB), ông Ralph Coeckemberghs vẫn vẹn nguyên những tình cảm sâu đậm đối với đất nước này, đặc biệt, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với ông, Chủ tịch Hồ Chí Minh – người theo chủ nghĩa nhân văn, đã dành trọn cuộc đời cho độc lập dân tộc, là một trong những “vị lãnh tụ vĩ đại nhất của thế kỷ XX” mà ông luôn ngưỡng mộ.
Ông Ralph Coeckemberghs đã lưu giữ những tư liệu quý về Bác Hồ. Đó là số đặc biệt của tập bán nguyệt san “Planet Action” bằng tiếng Pháp xuất bản tháng 3/1970 dành toàn bộ để nói về cuộc đời và sự nghiệp của Người. Đây là tập hợp những bài viết của nhiều tác giả nổi tiếng về Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những năm tháng bôn ba khắp thế giới cho đến năm 1945 khi Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Ông khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương để các quốc gia ở châu Phi noi theo trên con đường giải phóng dân tộc.
Tập bán nguyệt san này đã được ông Ralph Coeckemberghs trao tặng cho đại diện Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp đoàn tham dự Triển lãm về Bác tổ chức ở Brussels.
Ông Ralph Coeckemberghs nhấn mạnh, mong muốn những tư liệu này sẽ là nguồn thông tin quý báu để các thế hệ trẻ ở Việt Nam và trên thế giới hiểu rõ hơn và trân quý những gì mà một vị lãnh tụ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc./.
|
Các học giả quốc tế ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh
| 2,035 | |
Nhạc sĩ Văn Cao viết những bản tình ca đầu tiên từ cuối thập niên 30, thế kỷ XX khi nền tân nhạc Việt Nam còn đang giai đoạn hình thành.
Nhân dịp kỷ niệm tròn 100 năm sinh Văn Cao: 1923 – 2023
Nhìn lại nền âm nhạc ca khúc Việt Nam thế kỷ XX, người ta thường nhắc đến ba tên tuổi được coi là nổi bật và tiêu biểu nhất, đó là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Mỗi người một vẻ, mỗi người một phong cách, song họ đều để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng, chinh phục người nghe nhạc bằng những ca khúc có sức sống vượt thời gian.
Trong ba tên tuổi kể trên,
Văn Cao
là nhạc sĩ có số lượng tác phẩm ít hơn cả nhưng ông lại là người có những tác phẩm nổi tiếng sớm nhất, đồng thời là tác giả của bản “Tiến quân ca” hào hùng đã trở thành Quốc ca chính thức của Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận thế giới nghệ thuật của một tác giả, nhưng trong khuôn khổ bài viết lần này, chúng tôi muốn đi vào hai cảm thức thời gian được trở đi trở lại trong nhiều ca khúc của Văn Cao, đó là mùa xuân và mùa thu.
Cảm xúc u hoài về mùa thu được nối dài từ thơ ca cổ điển cho tới Thơ Mới lãng mạn, nó cũng phản ánh không khí thời đại và tâm trạng con người trước bối cảnh nước nhà còn chìm đắm trong ách cai trị của ngoại bang: “
Sầu thu lên vút song song / Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
” (“Thu rừng” – Huy Cận), “
Tiếng buồn trong sương đục/ Tiếng hờn trong lũy tre/ Dưới trời thu man mác/ Bàng bạc khắp sơn khê
” (“Tình quê” – Hàn Mặc Tử). Thế nên, ta không lạ khi mùa thu đi vào trong khá nhiều ca khúc của Văn Cao trước 1945 với các mức độ khác nhau của nỗi buồn.
“Buồn tàn thu” (1939) là ca khúc được công bố sớm nhất của ông. Được ký âm ở giọng Rê thứ với một nhịp điệu chậm, “Buồn tàn thu” mang đến một không khí tê tái bi thương não nùng: “
Đếm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng…/ Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần/ Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng
”.
Sau “Buồn tàn thu”, “Suối mơ” là một ca khúc nổi tiếng cũng gắn với mùa thu được viết với nhịp điệu êm ái, trong sáng. Nỗi buồn ở bài này không quá bi thương như “Buồn tàn thu” mà man mác, nhẹ nhàng, như một hoài niệm về mối tình đã qua: “
Suối mơ! Bên rừng thu vắng, dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng/ Ngày chưa đi sao gió vương. Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương
”. Trong một tình khúc nổi tiếng khác – “Trương Chi”, mùa thu cũng được chọn làm thời gian nghệ thuật chung cho toàn bộ nhạc phẩm: “
Vương vất heo may hoa yến mong chờ/ Ôi tiếng cầm ca thu tới bao giờ/ Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang/ Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan…/ Sương thu vừa buông xuống bóng cây ven bờ sao mờ xóa giòng song
”.
Cũng giống như “Buồn tàn thu”, cả “Suối mơ” và “Trương Chi” đều được viết với điệu thức thứ. Nhưng cũng trong giai đoạn trước 1945, Văn Cao còn một ca khúc nữa về mùa thu được viết với điệu thức trưởng. Đó là bản “Thu cô liêu” (ký âm Đô trưởng), bài hát ngắn nhất nhưng theo tôi lại cũng là nhạc phẩm mùa thu độc đáo nhất về điệu thức của ông, được sáng tác năm 1944: “
Thu cô liêu tịch liêu, cô thôn chiều/ Ta yêu thu yêu thu yêu mùa thu. Vàng hoa đáy nước soi rọi đường đi
”. (Một mùa thi, một mùa thi). “Lá thu rơi rụng buồn chi lá vàng”.
Sau 1945, Văn Cao viết về mùa thu với tâm thế hoàn toàn khác. Trong bản ”Trường ca Sông Lô” sáng tác năm 1948, mùa thu xuất hiện ngay từ đầu nhạc phẩm với âm hưởng khoáng đạt, bay bổng, tráng ca và nhịp điệu phát triển nhanh dần trong những đoạn kế tiếp, càng ngày càng tươi vui: “
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu (…) Sông gầm âm vang súng trái phá/ Bao rừng thu như bát ngát cười
…”.
Trước 1945, mùa xuân trong ca khúc Văn Cao cũng thường buồn nhưng cách thể hiện về mùa xuân trong các nhạc phẩm của ông khác biệt nhiều so với mùa thu. Mùa xuân trong bài “Cung đàn xưa” được viết ở nhịp Valse với điệu thức trưởng khiến bản nhạc dù buồn bã mà vẫn tạo được cảm giác trong sáng và sang trọng: “
Hồn cầm phong hương hình bóng xuân tàn. Ngày dần buông trôi sầu vắng cung đàn…/ Chiều năm xưa gót hài khai hoa mắt huyền lưu xuân dáng hồng thơm hương
”.
Trong một ca khúc khác, mùa xuân là một chi tiết của tác phẩm và nhịp điệu của ca khúc được viết theo phong cách Blues nên tạo được những nét nhạc sáng và không rơi vào bi lụy: “
Tới đây chim thấy lòng ngập ngừng/ Nhớ ai trên mấy đồi Yên Thế/ Kìa nước xa xa sông Cấm còn mịt mùng ngoài bến xuân
” (Đàn chim Việt).
Thực ra “Đàn chim Việt” là phiên bản hai của ca khúc “Bến xuân”, do Văn Cao và Phạm Duy cùng viết lời, được công bố lần đầu năm 1942. Nếu như ca từ của “Đàn chim Việt” thiên về tình cảm quê hương thì ca từ của “Bến xuân” thiên về tình yêu đôi lứa, một tình yêu thật đẹp mà nay chỉ còn trong hoài niệm: “
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước/ Em đến tôi một lần/ Bao lũ chim rừng, họp đàn trên khắp bến xuân (…)/ Mắt em như dáng thuyền soi nước/ Tà áo em rung trong gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân
…”.
Sau 1945, mùa xuân trong ca khúc Văn Cao đầy khỏe khoắn, tươi sáng, rộng mở. Trong bản ”Trường ca Sông Lô” nổi tiếng, thời gian nghệ thuật của nhạc phẩm được mở ra bằng mùa thu và kết thúc bằng mùa xuân, như muốn diễn tả một sức sống bất diệt của thiên nhiên và con người Tây Bắc, cũng là sức sống bất diệt của cả dân tộc Việt Nam: “
Mùa xuân tới, nước băng qua ngàn nước in ven bờ xanh in bóng tre/ Dòng sông Lô trôi
“.
“Tiến về Hà Nội” là ca khúc mang đầy tính dự báo thiên tài của Văn Cao, được viết từ 1949, 5 năm trước khi Hà Nội hoàn toàn giải phóng. Nhịp điệu nhanh, lôi cuốn như một hành khúc được khép lại tác phẩm với những ca từ đầy ắp mùa xuân, mùa xuân của một bước chuyển mình lịch sử, mùa xuân của chiến thắng huy hoàng: “
Những bông hoa ngày mai đón tương lai vào tay, những xuân đời mỉm cười vui hát lên/ Khi đoàn quân tiến
về là đêm tan dần/ Như mùa xuân xuống cành, đường nghe gió về/ Hà Nội bừng Tiến quân ca”.
Cũng trong năm 1949, có một ca khúc đặc biệt của Văn Cao có sự hiện diện của cả mùa thu và mùa xuân với một cảm xúc trong trẻo tin yêu lạ thường. Đó là bài “Ca ngợi Hồ Chủ tịch”, một trong những ca khúc hay nhất về Bác Hồ kính yêu: “
Người về mang tới ngày vui. Mùa thu nắng tỏa Ba Đình với tiếng Người còn dịu dàng hơn tiếng đất trời. Người về đem tới xuân đời, từ đất nước cằn, từ bùn lầy, cả cuộc đời vùng lên
”.
Do những biến cố éo le và ngang trái của lịch sử mà Văn Cao đã tuyên bố gác bút, không viết thêm bất cứ một ca khúc nào trong vòng 20 năm. Mãi cho đến năm 1976, trong mùa xuân thống nhất đầu tiên của dân tộc, ông mới sáng tác trở lại và tặng cho cuộc đời một nhạc phẩm xuất sắc: ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”.
Theo lời tâm sự của Văn Cao, nếu như “Tiến quân ca” là bản nhạc đưa những người lính ra trận thì “Mùa xuân đầu tiên” là bản nhạc đón những người lính trở về trong một khát vọng sum họp và đoàn tụ. Cao hơn nữa, ca khúc còn gửi gắm một tư tưởng lớn về hòa hợp dân tộc, tôn vinh một hạnh phúc giản dị và đời thường của hòa bình: “
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về. Mùa bình thường mùa vui nay đã về/ Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông/ Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn
”.
“Mùa xuân đầu tiên” cũng là một ca khúc được viết theo điệu Valse, một điệu thức trước đó nhiều lần được Văn Cao sử dụng qua các nhạc phẩm như “Cung đàn xưa” hay “Ngày mùa”. Nhưng với bản Valse mùa xuân này, tưởng như đây là một điệu luân vũ dặt dìu bất tận trong niềm hạnh phúc khôn nguôi, khi những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống nghẹn ngào trong cả người nghe, người hát và chính người sáng tác: “
Nước mắt trên vai anh, giọt rơi ấm đôi vai anh/ Niềm vui phút giây như đang long lanh
”. Xóa bỏ thù hận, chỉ còn lại yêu thương, tin cậy và cùng nhau hướng về tương lai. Một tư tưởng sâu sắc được viết ra bằng những lời ca giản dị mà lay động lòng người: “
Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người/ Từ đây người biết yêu người
”. Mùa xuân đầu tiên cũng có thể xem là ca khúc nổi tiếng cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của Văn Cao, dù sau đó ông có viết thêm hai bài: “Hành khúc công nhân toa xe” (1983) và “Tình khúc trung du” (1984).
Nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Văn Cao, số lượng ca khúc của ông chỉ độ trên 30 tác phẩm nhưng dấu ấn của Văn Cao để lại là vô cùng to lớn. Trịnh Công Sơn đã từng nhận xét: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng”. Theo tôi, nhạc Văn Cao sang trọng cả về giai điệu lẫn ca từ, bởi bản thân Văn Cao cũng chính là một thi sĩ. Qua góc nhìn của bài viết này, chỉ đứng từ những cảm thức thời gian với mùa xuân và mùa thu, ta cũng thấy được một gương mặt âm nhạc Văn Cao với nhiều biến chuyển đa dạng, phong phú, gắn với những đổi thay lớn lao trong lịch sử dân tộc đồng thời gửi gắm những tư tưởng mang đầy tính nhân văn của người nhạc sĩ. Nhân dịp kỷ niệm tròn 100 năm sinh Văn Cao, bài viết nhỏ này cũng là nén tâm hương của một hậu sinh xin được tưởng nhớ ông.\
|
Cảm thức mùa trong ca khúc Văn Cao – Tác giả: Đỗ Anh Vũ
| 1,909 | |
Di sản Hồ Chí Minh là tổng thể bao gồm toàn bộ sự nghiệp vĩ đại của Người. Đó là tư tưởng ngời sáng; đạo đức, phong cách cao quý
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tên tuổi, sự nghiệp của Người còn mãi với thời gian, với non sông, đất nước. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam, thúc đẩy phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc nhiều nơi trên thế giới.
Di sản tinh thần vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên các vấn đề cơ bản, đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về vấn đề đạo đức cách mạng; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau và về xây dựng Đảng.
Bác Hồ thăm một đơn vị Bộ đội Phòng không bảo vệ thủ đô Hà Nội, ngày 25-9-1966. Ảnh: TTXVN.
Nội hàm của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Theo Bác, đạo đức là gốc của người cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng, phát triển con người, là chỗ dựa giúp con người vững vàng trong mọi thử thách.
Phẩm chất cơ bản của đạo đức thể hiện ở các mối quan hệ. Với đất nước, dân tộc: trung với nước, hiếu với dân, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Với con người: yêu thương, có nghĩa, có tình. Với mình: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Mở rộng quan hệ yêu thương đối với nhân loại là tinh thần quốc tế trong sáng.
Nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức theo Bác là: nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống và phải tu dưỡng suốt đời.
Phong cách Hồ Chí Minh thể hiện ở mọi lĩnh vực từ suy nghĩ (tư duy) đến nói, viết (diễn đạt), trong làm việc, lãnh đạo, ứng xử, sinh hoạt… Quan trọng đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, phong cách mà chúng ta luôn ghi nhớ và thực hành là phong cách dân chủ, quần chúng, nêu gương.
Là thành phố được vinh dự mang tên Người, Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân luôn có niềm tự hào, lòng biết ơn, trách nhiệm và khát khao vươn tới, nhất là trong giai đoạn phát triển mới, nhiều cơ hội và cũng nhiều khó khăn, thách thức.
Hiện nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP HCM đang triển khai thực hiện Nghị quyết 31 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP HCM đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đang ra sức thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội năm 2023 trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức.
Tình hình kinh tế thế giới có những biến động khó lường và có những ảnh hưởng bất lợi đối với TP HCM – nơi có độ mở lớn đối với kinh tế toàn cầu. Cùng với những nguyên nhân nội tại, những điểm nghẽn chậm tháo gỡ, những vụ việc tồn đọng chưa xử lý dứt điểm, những vấn đề mới phát sinh… khiến các chỉ số tăng trưởng kinh tế của TP HCM gần đây bị sụt giảm.
Theo Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên, nhiệm vụ, giải pháp trước mắt của TP HCM là chủ động phối hợp đề xuất cơ chế, chính sách mang tính đột phá, thông qua một nghị quyết mới thay thế Nghị quyết 54 của Quốc hội; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; cải cách hành chính, chuyển đổi số; khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung và đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát giúp tháo gỡ nhanh những điểm nghẽn.
TP HCM nơi có nhiều tiềm năng, nguồn lực, nơi hội tụ tinh hoa lao động, sáng tạo, với tinh thần vì cả nước, cùng cả nước, với truyền thống kiên cường, năng động, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP HCM sẽ đối diện và xử lý tốt những vấn đề đặt ra. Việc gì thuộc thẩm quyền sẽ phải làm hết trách nhiệm, việc gì vượt thẩm quyền thì mạnh dạn đề xuất và phối hợp xử lý nhanh.
Đáp ứng đòi hỏi thực tiễn sinh động của TP HCM cũng là đáp ứng yêu cầu của phát triển không chỉ cho TP HCM. Sự chậm trễ sẽ đánh mất cơ hội và trở nên trì trệ. Sứ mệnh của đầu tàu luôn đòi hỏi phải tiến nhanh về phía trước.
TP HCM đang triển khai chuyên đề năm 2023 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam tại TP HCM”. Đây được xem là việc làm thu hút sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân TP HCM nhằm cùng nhau tạo nên những chuyển biến mới trong nhận thức và hành động, phát huy mạnh mẽ nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức.
Trong quá trình học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấm thía tư tưởng phục vụ dân, tư tưởng đổi mới sáng tạo vì nước, vì dân. Theo Bác, “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”.
Nguyên Phó Bí thư Thành ủy, nguyên Chủ tịch HĐND TP HCM
|
Đạo đức, phong cách cao quý
| 1,124 | |
Theo Tân Hoa Xã, trường Đại học Địa chất Trung Quốc ở Vũ Hán cho biết các nhà nghiên cứu tại đại học này đã phát hiện bằng chứng trực tiếp chứng minh sự tồn tại của một đại dương cổ xưa ở đồng bằng phía Bắc Sao Hỏa.
Cơ quan Quản lý không gian quốc gia Trung Quốc công bố hình ảnh bề mặt Sao Hỏa do thiết bị tự hành Zhurong của tàu vũ trụ Thiên Vấn 1 chụp và gửi về, ngày 1/1/2022. Ảnh: THX/TTXVN.
Các nghiên cứu trước đây đã tìm thấy bằng chứng một lượng lớn chất lỏng trên Sao Hỏa thời kỳ sơ khai, tuy nhiên tính xác thực của các nghiên cứu này vẫn gây tranh cãi do thiếu phân tích tại chỗ.
Một nhóm nghiên cứu do Giáo sư Xiao Long thuộc Đại học địa chất Trung Quốc đứng đầu đã phân tích các dữ liệu khoa học từ camera đa phổ của xe tự hành Zhurong (Chúc Dung) trên Sao Hỏa, theo đó lần đầu tiên tìm thấy bằng chứng về đá trẩm tích biển trên bề mặt Sao Hỏa.
Giáo sư Xiao cho biết: “Khi chúng tôi nghiên cứu những hình ảnh từ camera gắn trên xe tự hành, chúng tôi phát hiện cấu trúc xếp lớp của đá lộ thiên khác đáng kể so với đá núi lửa phổ biến trên bề mặt Sao Hỏa cũng như cấu trúc xếp lớp hình thành từ cát qua quá trình trầm tích gió”.
Ông cho biết thêm rằng các đặc tính dòng hai chiều theo kiến thức về xếp lớp nói trên phù hợp với những dòng thủy triều năng lượng thấp ở môi trường đại dương nông gần bờ trên Trái Đất. Kết quả nghiên cứu chứng minh trực tiếp sự tồn tại của một đại dương cổ xưa trên Sao Hỏa.
Nghiên cứu được đăng trên tạp chí National Science Review.
|
Phát hiện bằng chứng về một đại dương cổ trên Sao Hỏa
| 316 | |
Thiên thể sáng nhất trên bầu trời Trái Đất đang thủng hai lỗ lớn, liên tục bắn về phía chúng ta những quả pháo sáng dữ dội, mà những đợt mất sóng vô tuyến liên tục hôm 19-5 là còi báo động.
Theo
Space,
các vụ mất điện vô tuyến sóng ngắn trên diện rộng xảy ra nhiều nơi trên Trái Đất trong ngày 19-5 là do những quả “pháo sáng vũ trụ”, tức các tia năng lượng mạnh mẽ từ Mặt Trời bắn thẳng về phía chúng ta và va chạm với từ quyển, gây ra bão địa từ (bão Mặt Trời).
Ít nhất 7 trong số các quả pháo sáng cấp M đã gây ra hiện tượng này được quy cho AR3311, một vết đen Mặt trời khổng lồ.
Hai vết đen Mặt Trời đang dần quay về phía Trái Đất, có thể sẽ bắn phá hành tinh của chúng ta bằng những quả pháo sáng dữ dội – Ảnh: SDO/NASA.
Đáng sợ hơn, trong ngày 19-5, nó chưa thực sự quay hẳn về phía Trái Đất, mà là các ngày nối tiếp sau đó, đồng nghĩa với nhiều cơn bão địa từ có thể ồ ạt tấn công địa cầu suốt cuối tuần.
Nó lại không chỉ có một mình, mà còn cùng song hành với một vết đen khổng lồ khác mang tên AR3310, chịu trách nhiệm về vết lóa Mặt Trời được ghi nhận bởi Đài quan sát Mặt Trời (SDO) của NASA. hôm 16-5
Vết lóa đó đã gây ra và khiến vô tuyến chập chờn ở nhiều vùng trên khắp châu Mỹ ít giờ sau đó, theo Trung tâm Dự báo thời tiết không gian thuộc Cơ quan Quản lý khí quyển và đại dương Mỹ (NOAA).
Tất cả các vụ mất sóng vô tuyến đã xảy ra chỉ mới là “còi báo động”, do ảnh hưởng “sơ sơ” của những quả pháo sáng chưa bắn trực tiếp vào Trái Đất, chỉ sượt qua một chút.
Nhưng trong cuối tuần này, người Trái Đất sẽ phải cẩn thận hơn khi hai “họng súng” này nhắm thẳng Trái Đất.
Bão địa từ không phải cơn bão mà bạn có thể nhìn thấy được, nhưng tác động đến các hệ thống của con người như hệ thống liên lạc bằng vô tuyến điện, hệ thống định vị… do từ trường Trái Đất bị nhiễu loạn khi năng lượng từ các quả pháo sáng đập vào các sức từ của từ quyển.
Một quả pháo sáng ở mức cao nhất của cấp X (mạnh nhất) hoàn toàn có thể đánh sập lưới điện trên diện rộng.
Với các quả pháo sáng loại M mà cặp vết đen Mặt Trời này dự kiến sẽ bắn ra, các cơ quan điều hành hàng không, vũ trụ và các hoạt động khác liên quan đến vô tuyến – định vị sẽ phải cẩn thận.
Bão địa từ thậm chí có thể khiến chim di trú lạc lối và cũng từng khiến 40 vệ tinh của Space X bị “ném ngược” về phía Trái Đất hồi tháng 2-2022 khi không may phóng lên đúng lúc bão địa từ mạnh ập tới.
|
24 giờ qua, sóng vô tuyến khắp thế giới chập chờn: Thủ phạm đang hiện ra trên trời
| 517 | |
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng
tin tưởng là vùng đất giàu truyền thống, tỉnh Nam Định sẽ thực hiện tốt hơn những lời Bác dạy, luôn đoàn kết, thống nhất, chung sức xây dựng Nam Định ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Tối 19-5, kỷ niệm 133 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890 – 19.5.2023),
tỉnh Nam Định
đã tổ chức trọng Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định (21.5.1963 – 21.5.2023). Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng dự và phát biểu tại buổi lễ.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng phát biểu tại Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Nam Định. Ảnh: TTXVN.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chúc mừng, biểu dương những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân Nam Định đã đạt được trong những năm qua, đồng thời nêu rõ bên cạnh những thành tích to lớn đã đạt được, còn không ít việc trăn trở, ưu tư; phải nỗ lực, cố gắng nhiều hơn nữa để xứng đáng lòng mong đợi của Bác đối với Nam Định.
“Kỷ niệm 60 năm Bác Hồ về thăm Nam Định là cơ hội để nhắc nhở, ôn lại truyền thống, tiếp thêm sức mạnh để quân và dân tỉnh nhà phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, đúng với tâm nguyện của Người khi về thăm Nam Định” – Chủ tịch nước nêu rõ.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, nhà nước dự Lễ kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định. Ảnh: TTXVN.
Từ đó, Chủ tịch nước đề nghị Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định cần nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí, tiềm năng, lợi thế, khó khăn, thách thức của tỉnh nhà và những bài học kinh nghiệm quý báu trong phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của tỉnh những năm qua; thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, những lời dạy của Bác qua 5 lần Người về thăm Nam Định; phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên phát triển quê hương, đất nước.
Đảng bộ và nhân dân Nam Định cần chủ động, sáng tạo hơn nữa, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, nỗ lực phấn đấu thực hiện lời Bác đã dạy: “Nam Định là một tỉnh ruộng đất phì nhiêu, tài nguyên phong phú, dân cần cù, có nhiều khả năng trở thành một tỉnh thật giàu có.”
Bí thư Tỉnh ủy Nam Định Phạm Gia Túc đọc diễn văn kỷ niệm. Ảnh: TTXVN.
Bên cạnh đó, tỉnh Nam Định cần tập trung chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ, gắn với đổi mới sáng tạo và tăng năng suất lao động; tiếp tục thực hiện tốt Chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với đô thị hóa…
Chủ tịch nước lưu ý các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh phải hết sức coi trọng quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống dịch bệnh, thiên tai, coi đây là vấn đề sống còn đối với quá trình phát triển của tỉnh.
Chủ tịch nước mong muốn là miền quê giàu truyền thống hiếu học, lịch sử, văn hóa, yêu nước và cách mạng, Nam Định cần tiếp tục giữ gìn, phát huy truyền thống cao quý đó cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, Nam Định cần tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh…
Các tiết mục nghệ thuật chào mừng kỷ niệm 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Nam Định. Ảnh: TTXVN.
Chủ tịch nước đề nghị Nam Định tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt lời dạy của Bác về công tác xây dựng Đảng khi Người về thăm Nam Định.
“Là một tỉnh có đông đồng bào theo đạo, Nam Định phải thật sự quan tâm đến phần đời và phần đạo của đồng bào, đoàn kết lương giáo, đoàn kết từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, vì sự giàu mạnh của tỉnh và hạnh phúc của nhân dân”- Chủ tịch nước nhấn mạnh.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tin tưởng phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương và 60 năm Bác Hồ về thăm, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Định sẽ thực hiện tốt hơn những lời Bác dạy đối với tỉnh nhà, luôn đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng xây dựng Nam Định ngày càng văn minh, giàu đẹp, cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
|
Chủ tịch nước: Xây dựng Nam Định ngày càng văn minh, giàu đẹp như kỳ vọng của Bác
| 876 |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.