text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Sau khi xã Mỹ Trà tách ra một phần địa giới hành chính để thành lập phường Mỹ Phú theo Nghị định số 194/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ, và được Ủy ban nhân dân thị xã Cao Lãnh (nay là Thành phố Cao lãnh ) công bố Nghị định vào ngày 25 tháng 4 năm 2005. Xã Mỹ Trà được biết đến là một xã Anh Hùng có truyền thống cách mạng, được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số: 374 KT/CTN, ngày 31 tháng 7 năm 1998, sau khi chia tách phần còn lại đa số người dân sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp và làm nghề truyền thống đan đác mê bồ. Đến nay xã đã chứng tỏ được vị thế của mình trong lòng thành phố qua một số lĩnh vực đời sống xã hội. 1. Vị trí địa lý xã Mỹ Trà Xã Mỹ Trà là xã ngoại ô của Thành Phố cao Lãnh (đơn vị hành chính loại 2) có diện tích tự nhiên 695,14 ha (Theo Nghị định 194/2004/NĐ-CP diện tích là 631,94 ha); có 2.317 hộ, 9.122 nhân khẩu; gồm 03 ấp: ấp 1, ấp 2 và ấp 3, chia thành 68 tổ Nhân dân tự quản; diện tích sản xuất lúa 400ha; vườn cây ăn trái và rau màu hơn 40ha; có 50% hộ nông nghiệp, còn lại là dịch vụ, mua bán nhỏ lẻ. Trên địa bàn xã có 02 khu dân cư Rạch Chanh, Quãng Khánh; 01 chợ Rạch Chanh và 02 Hội quán: Làng Tre và Tân quê Hội quán; 01 Hợp tác xã sản xuất và tiêu thụ lúa giống với 81 thành viên tham gia. – Phía Bắc: giáp Huyện Cao Lãnh. – Phía Đông: giáp Huyện Cao Lãnh. – Phía Nam: giáp Phường Mỹ Phú , Phường 1 , thành phố Cao Lãnh. – Phía Tây: giáp xã Mỹ Tân thành phố Cao Lãnh. 2. Điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội 2.1. Kinh tế Địa phương luôn tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Phát huy những thành tựu đã đạt được trong những năm qua về phát triển kinh tế – xã hội; cùng với những lợi thế nông nghiệp trong đó chủ yếu là trồng lúa và sản xuất lúa giống, nuôi thủy sản và sự đầu tư mạnh mẽ về kết cấu hạ tầng của Tỉnh, Thành Phố trên địa bàn xã, Làng nghề đan đác Mê bồ được duy trì thường xuyên với 68 hộ. Hệ thống giao thông nông thôn được đầu tư khá toàn diện góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế – xã hội. Công tác xây dựng đời sống văn hóa được thực hiện tốt, nhiều phong trào thi đua được tổ chức thực hiện đạt hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Hệ thống chính trị vững mạnh có kinh nghiệm trong lãnh đạo quản lý và sự đồng thuận của nhân dân, vận động quần chúng kết hợp với truyền thống xã Anh Hùng, cần cù, sáng tạo của nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ lãnh đạo thành công trên các lĩnh vực chính trị – kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh và xây dựng thành công xã nông thôn mới trong năm 2017 và đang dần hình thành các dự án khởi nghiệp trong thanh niên, nông dân. Xây dựng sản phẩm OCOP (chương trình mỗi xã một sản phẩm), xác định khô Sặc Rằn là đặc sản Mỹ Trà. 2.2. Văn hóa – xã hội Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được chính quyền quan tâm thông qua các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, Đại hội thể dục thể thao,… Nhằm duy trì và phát triển các loại hình văn hóa truyền thống của dân tộc, các câu lạc bộ đờn ca tài tử, câu lạc bộ bóng bàn, câu lạc bộ ông bà cháu, câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau…cũng được duy trì hoạt động, thu hút đông đảo các thành viên tham gia. Trên địa bàn xã có 04 điểm trường gồm trường Mầm non Mỹ Trà đạt chuẩn quốc gia mức độ 2(01 điểm chính, 01 điểm phụ), trường tiểu Học Lý Tự Trọng đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, trường tiểu học Mỹ Trà, trường THCS Nguyễn Tú. Tín ngưỡng chủ yếu của người dân nơi đây là thờ cúng ông bà tổ tiên. Tôn giáo chính là đạo Phật. Trên địa bàn xã có một bia lưu niệm khu căn cứ kháng chiến Thị xã ủy Cao và một đình thần (Mỹ Thạnh – Cái Môn), thông lệ hàng năm Ban quản lý đình tổ chức cúng Hạ điền (còn gọi là Lễ xuống giống) vào ngày 16 tháng 4 (Âm lịch) và Thượng điền (còn gọi là Lễ Thu hoạch) vào ngày 19 tháng 12 (Âm lịch) vào các dịp cúng đình luôn thu hút đông đảo người dân đến dâng hương, cầu phước được trúng mùa. Với những khái quát về vùng đất, con người của xã Mỹ Trà cũng đã nói lên người dân xã Mỹ Trà có truyền thống lao động cần cù và truyền thống cách mạng, không ngừng vươn lên để phát triển kinh tế để tạo dựng nên xã Mỹ Trà đạt chuẩn Nông thôn mới như hiện nay.
Giới thiệu khái quát xã Mỹ Trà
974
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH ĐỊA PHƯƠNG 1. Vị trí địa lý, dân cư Xã Tân Thuận Đông là một xã vùng ven nằm cách trung tâm thành phố Cao Lãnh khoảng 5km, được tách ra vào năm 1987 một phần nhập vào xã Hòa An, một phần nhập vào phường 6. Xã Tân Thuận Đông nằm trên 2 cù lao giữa sông Tiền là cồn Chài và cồn Lân, dân số có 3.098 hộ với 13.842 nhân khẩu, diện tích tự nhiên là 1.627,38 ha. Phía Đông: giáp phường 6 và xã Tân Mỹ, huyện Lấp Vò , tỉnh Đồng Tháp Phía Đông: giáp xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới , tỉnh An Giang . Phía Nam: giáp xã Mỹ An Hưng A, B huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp Phía Bắc: giáp xã Hòa An và xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh. 2. Cơ cấu tổ chức Số lượng cán bộ là 10, công chức là 09 trong đó có 01 đ/c là Trưởng công an chính quy; người hoạt động không chuyên trách ở xã là 11 trong có 02 Phó trưởng công an chính quy. II. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ- XÃ HỘI 1. Kinh tế – Người dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp là chính, chủ yếu trồng các loại cây như: Xoài, nhãn, mãng cầu, cam và một số loại cây ngắn ngày khác. Tổng diện tích vườn cây ăn trái: 791,01 ha (trong đó: Xoài: 584,41 ha; Nhãn 180,8ha; Cam Xoàn: 12ha, kiểng: 0,5ha, cây khác: 13,3ha). – Toàn xã có 22 tuyến đường giao thông được bảo trì, duy tu sửa chữa thường xuyên, đảm bảo an toàn giao thông. Công trình thủy lợi trên địa bàn xã tổng cộng có 30 tuyến kênh, rạch; cống các loại 27 cống. – Hệ thống điện được duy trì đạt chuẩn theo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện. Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn – Xã có 2 Hội quán: Đông Tân hội quán và Định Tân hội quán, 07 tổ hợp tác xoài, nhãn, 01 Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Tân Thuận Đông có 187 thành viên, hoạt động theo phương án sản xuất kinh doanh. 2. Văn hóa- xã hội – Xã có 04/05 trường có cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đạt chuẩn quốc gia (Trường THCS Tân Thuận Đông; Trường TH Lý Thường Kiệt; Trường TH Trần Phú; Trường Mầm Non Tân Thuận Đông, Trường TH Phan Đăng Lưu sáp nhập vào trường TH Lý Thường Kiệt trong năm 2021). – Tổng số hộ nghèo trên địa bàn xã là 48 hộ, giảm còn 1,81%. – Trạm Y tế hoạt động đảm bảo, thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn: 9,46%. – Xã 1 Trung tâm Văn hóa- học tập cộng đồng xã và 4 nhà văn hóa ấp đảm bảo phục các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao của địa phương. – Tín ngưỡng chủ yếu của người dân nơi đây là thờ cúng ông bà tổ tiên. Tôn giáo chính là đạo Phật. Ngoài ra, còn có các tín đồ theo tôn giáo khác như Hòa Hảo, Cao đài, Thiên chúa… Cơ sở thờ tự ở xã có một ngôi chùa Đông Hòa Tự tại ấp Đông Định, thông lệ vào các dịp rằm, ngày khai sáng Đạo Phật giáo Hòa Hảo18/5 âl và ngày Đản sinh Đức Huỳnh Giáo Chủ nơi đây luôn thu hút đông đảo các tín đồ đến dâng hương, cầu phước. Với những khái quát về vùng đất, con người của xã Tân Thuận Đông đã gợi lên cái nhìn toàn cảnh về một bức tranh mang đậm chất con người hiền lành, mến khách hứa hẹn một vùng đất phù sa ngày càng phát triển./.
Giới thiệu khái quát xã Tân Thuận Đông
630
Tây Bắc biết đến như một chặng đường mang nhiều cảm xúc, với đặc điểm là núi non hiểm trở thì những con đường đèo chính là điểm nhấn cho sự hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Một trong những cung đường đèo hiểm trở bậc nhất của núi rừng Tây Bắc không thể không kể đến đèo Ô Quy Hồ. Đèo Ô Quy Hồ giữ kỷ lục về độ dài tại vùng núi Tây Bắc. Đèo Ô Quy Hồ là cung đường đèo trải dài trên quốc lộ 4D, trong đó 2/3 quãng đường thuộc địa phận huyện Tam Đường , tỉnh Lai Châu ; 1/3 còn lại nằm ở phía Sa Pa, Lào Cai. Đây là một con đèo giữ kỷ lục về độ dài tại vùng núi Tây Bắc Việt Nam, với chiều dài lên tới gần 50 km, dài hơn đèo Pha Đin (32 km, nằm ở ranh giới tỉnh Sơn La và Điện Biên ) hay đèo Khau Phạ (40 km, thuộc tỉnh Yên Bái ). Độ cao, sự hiểm trở và chiều dài của Ô Quy Hồ khiến đèo được mệnh danh là “vua đèo vùng Tây Bắc”. Nằm ở độ cao hơn 2000m giữa mây núi ngút ngàn, cung đường đèo hiện ra mềm mại, trải dài như dải lụa uốn mình sát những vách núi dựng đứng. Đèo Ô Quy Hồ còn có tên gọi là đèo Hoàng Liên, do vượt qua dãy núi Hoàng Liên Sơn, hoặc đèo Mây do trên đỉnh đèo quanh năm mây phủ, nhưng ít ai biết rõ xuất xứ cái tên “Ô Quy Hồ”. Ô Quy Hồ chính là tiếng kêu da diết của một loài chim mỗi khi hoàng hôn rơi trên đỉnh núi và ẩn sau tiếng kêu ấy là một câu chuyện tình yêu không thành của đôi trai gái. Cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ô Quy Hồ. Ngoài con đường mê hoặc bởi những khúc cua tay áo liên tục, Ô Quy Hồ còn hấp dẫn ở sự khác biệt rất lớn về nhiệt độ ở hai phía của con đèo. Nếu du khách đang chịu cái nóng ấm hơi khô của sườn Tây dãy Hoàng Liên (thuộc địa phận Lai Châu) thì sẽ ngạc nhiên thích thú khi vượt qua đỉnh đèo Cổng Trời của Ô Quy Hồ để đón nhận hơi gió lúc nào cũng ẩm và mát lạnh bên phía Sapa ( Lào Cai ). Đứng trên đỉnh đèo hùng vĩ, cảnh sắc thiên thiên của đại ngàn được thu trọn vào tầm nhìn của du khách, khí hậu trong lành mang lại cho ta cảm giác thật dễ chịu. Đến Ô Quy Hồ vào mùa đông, nếu may mắn ta có thể được chiêm ngưỡng một cảnh tượng hiếm gặp ở Việt Nam đó là những bông tuyết và hiện tượng băng đá. Những giọt nước đọng lại trên những cành cây, bông hoa bị đóng băng tạo nên hình ảnh thật đẹp và độc đáo. Ở nơi cao hơn, ta có thể thấy được trên nền đất màu trắng xóa của những bông tuyết và bắt gặp hình ảnh của những đứa trẻ, các cặp tình nhân đang thích thú nô đùa cùng nhau và quên đi cái giá rét khắc nhiệt của thời tiết.
Chinh phục Ô Quy Hồ – ‘Vua đèo vùng Tây Bắc’
534
Boeing sẽ hợp tác một số lĩnh vực đặc thù, như máy bay trực thăng, vận tải và đầu tư phát triển chuỗi cung ứng phụ tùng, thiết bị hàng không tại Việt Nam. Đó là nội dung chính được Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên làm việc với ông Steve Biegun, Phó Chủ tịch cấp cao của Tập đoàn Boeing (Mỹ) bên lề Hội nghị Bộ trưởng Thương mại APEC và Hội nghị Bộ trưởng Thương mại Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (IPEF) tại thành phố Detroit, Mỹ. Tại cuộc gặp gỡ, ông Steve Biegun cho biết, Boeing đã mở văn phòng đại diện tại Việt Nam do tiềm năng và vị trí quan trọng của thị trường Việt Nam đối với chiến lược kinh doanh của Boeing. Trong thời gian tới, Boeing tại sẽ tập trung vào 3 định hướng chính tại Việt Nam, gồm: Nâng cao hơn nữa quan hệ thương mại trong lĩnh vực hàng không với các hãng hàng không tại Việt Nam; hợp tác trong một số lĩnh vực đặc thù, như máy bay trực thăng, vận tải; đầu tư phát triển chuỗi cung ứng phụ tùng, thiết bị hàng không tại Việt Nam. Lãnh đạo Bộ Công Thương làm việc với Tập đoàn Boeing (Hoa Kỳ) bên lề Hội nghị Bộ trưởng Thương mại APEC và Hội nghị Bộ trưởng Thương mại Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (IPEF) tại thành phố Detroit, Hoa Kỳ. Tại cuộc trao đổi, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đánh giá cao việc Tập đoàn Boeing mong muốn xây dựng quan hệ hợp tác mang tính chiến lược tại thị trường Việt Nam, mong muốn hợp tác sâu hơn với Việt Nam để phát triển hệ sinh thái hàng không. Điều này cũng sẽ góp phần giúp thúc đẩy trao đổi thương mại song phương giữa hai nước. Một số nhà cung cấp tại Việt Nam đã và đang hỗ trợ sản xuất một số thành phần máy bay thương mại của Boeing như một số bộ phận trong cấu trúc máy bay, linh kiện, nội thất máy bay và vật liệu tổng hợp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tham gia được vào chuỗi cung ứng hàng không vũ trụ vẫn chủ yếu đến từ khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Mỹ , Nhật Bản , Hàn Quốc … Các doanh nghiệp thuần Việt Nam mới chỉ sản xuất được những linh phụ kiện nhỏ, giá trị gia tăng chưa cao. Do đó, đầu tư của Boeing vào Việt Nam trong thời gian tới cần góp phần tích cực để tạo ra tác động lan tỏa mạnh mẽ hơn tới việc nâng cao năng lực sản xuất, chế tạo của các doanh nghiệp Việt Nam. Bộ trưởng cho biết, từ năm 2020, công nghiệp hàng không vũ trụ đã được đưa vào danh mục các ngành công nghiệp công nghệ cao được Việt Nam ưu tiên đầu tư phát triển. Trong ngành cơ khí chế tạo, tại Việt Nam đã hình thành những tập đoàn lớn thuần Việt có năng lực, và cũng sẵn sàng đầu tư cho công tác nghiên cứu – phát triển, máy móc thiết bị để theo đuổi các mục tiêu lớn hơn trong lĩnh vực công nghệ cao và hoàn toàn có thể trở thành những đối tác tiềm năng của Boeing trong tương lai. Hai bên thống nhất về nội dung làm việc và các bước tiến hành đầu tư của Tập đoàn Boeing tại Việt Nam thời gian tới. Do đó, Bộ Công Thương sẵn sàng phối hợp với các đối tác chiến lược như Boeing trong việc thiết kế được khung khổ hợp tác thuận lợi, đảm bảo sự phát triển bền vững cho ngành công nghiệp phụ trợ hàng không tại Việt Nam; giúp các nhà cung ứng Việt Nam có thể từng bước tham gia được vào chuỗi giá trị toàn cầu của Boeing, đồng thời giúp Boeing thực hiện được mục tiêu chiến lược, tầm nhìn dài hạn của mình. Bộ trưởng đề nghị Tập đoàn Boeing đẩy nhanh hơn nữa quá trình phát triển các nhà cung ứng tại Việt Nam, xây dựng các dự án kết nối và hỗ trợ cụ thể; dành thời gian khảo sát, làm việc, tư vấn cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có thể đáp ứng được các yêu cầu hãng đưa ra; cử chuyên gia đến để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo nhân sự, chuyển giao công nghệ khi đã đáp ứng đủ điều kiện. Cũng nhân dịp này, Tập đoàn Boeing đã nhận lời mời của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cử nhân sự cấp cao tham gia sự kiện kết nối các nhà cung ứng quốc tế – Viet Nam Sourcing 2023 do Bộ Công Thương tổ chức vào ngày 13-15/9 tới đây tại TP. Hồ Chí Minh để giới thiệu và tìm kiếm các cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu của Boeing.
3 định hướng hợp tác chính của Boeing tại Việt Nam
842
Tối 27/5, lễ khai mạc Ngày hội Du lịch – Văn hóa tỉnh Sơn La năm 2023 ‘Điểm đến thiên nhiên khu vực hàng đầu thế giới’ đã được UBND tỉnh Sơn La tổ chức long trọng tại Khu du lịch quốc gia Mộc Châu, Sơn La. Dự lễ khai mạc có các đồng chí: Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội; Tòng Thị Phóng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội; Y Thanh Hà Niê Kđăm, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; Nguyễn Hữu Đông, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La và ông Graham Cooke, nhà sáng lập, Chủ tịch thương hiệu giải thưởng du lịch Thế giới World Travel Awards. Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội cùng các đại biểu dự lễ khai mạc Ngày hội. Phát biểu khai mạc Ngày hội, đồng chí Hoàng Quốc Khánh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La cho biết, năm 2022, Khu du lịch quốc gia Mộc Châu của tỉnh Sơn La đã vượt qua nhiều đề cử là các địa danh nổi tiếng trên thế giới và được Giải thưởng Du lịch Thế giới vinh danh là “Điểm đến thiên nhiên khu vực hàng đầu thế giới năm 2022”. Đây là danh hiệu cao quý của ngành du lịch và được bình chọn bởi các chuyên gia du lịch, giới truyền thông và người tiêu dùng trên toàn thế giới; là niềm vinh dự và tự hào của khu du lịch quốc gia Mộc Châu nói riêng và tỉnh Sơn La nói chung. Theo đồng chí Hoàng Quốc Khánh, Ngày hội Du lịch Văn hóa tỉnh Sơn La được tổ chức với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, giàu bản sắc văn hóa các dân tộc như: Ngày hội hái quả của bà con nhân dân huyện Mộc Châu; Giải đua mô tô địa hình tại huyện Vân Hồ; trưng bày, giới thiệu quảng bá không gian văn hóa, đa dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; thi ảnh đẹp du lịch, du lịch thông minh, ẩm thực dân tộc, đồ lưu niệm, các gian hàng giới thiệu sản phẩm của Sơn La cũng như các tỉnh trong cả nước. Ông Graham Cooke, nhà sáng lập, Chủ tịch thương hiệu Giải thưởng Du lịch Thế giới World Travel Awards đã trao cúp vinh danh cho Khu du lịch Quốc gia Mộc Châu. Ngày hội cũng là nơi quy tụ, gặp gỡ của “Những sắc màu văn hóa”, là cơ hội kết nối các sản phẩm văn hóa – du lịch, góp phần đẩy mạnh liên kết phát triển du lịch nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh, thu hút đầu tư xây dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc và độc đáo, tạo bước phát triển mới cho ngành kinh tế du lịch Sơn La góp phần củng cố, nâng cao sự liên kết, hợp tác giữa tỉnh Sơn La với cả nước và quốc tế… Đồng chí Hoàng Quốc Khánh cũng bày tỏ mong muốn, thông qua các hoạt động của Ngày hội, du khách sẽ có những trải nghiệm, khám phá thú vị, ấn tượng sâu sắc với những sản phẩm du lịch độc đáo mang đậm bản sắc các dân tộc của tỉnh Sơn La; chứng kiến sự chuyển mình, đổi thay của Sơn La; người dân Sơn La mộc mạc, hồn hậu, mến khách. Biểu diễn nghệ thuật trong lễ khai mạc Ngày hội. Tại buổi lễ, ông Graham Cooke – nhà sáng lập, Chủ tịch thương hiệu Giải thưởng Du lịch Thế giới World Travel Awards đã trao cúp vinh danh cho Khu du lịch Quốc gia Mộc Châu. Cũng trong khuôn khổ lễ khai mạc Ngày hội, người dân và du khách đã có dịp thưởng thức chương trình nghệ thuật đặc biệt chủ đề “Hương sắc Mộc Châu”. Với sự tham gia của hơn 100 nghệ sĩ, diễn viên, chương trình đã khắc họa đậm nét, sinh động về văn hóa, con người vùng đất Sơn La. Chương trình khép lại với màn kết tưng bừng, để lại nhiều ấn tượng khó quên với người xem khi các đại biểu, người dân, du khách cùng toàn thể khối diễn viên quần chúng các dân tộc cùng hòa chung trong “Vũ điệu kết đoàn”, “Vòng xòe đoàn kết”, tham gia vào các vòng Xòe Thái, điệu nhảy Tha Khềnh dân tộc Mông, điệu múa Chuông của dân tộc Dao… Toàn cảnh sân khấu chương trình nghệ thuật khai mạc Ngày hội. Chương trình nghệ thuật do UBND tỉnh Sơn La chỉ đạo nội dung, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La chỉ đạo thực hiện; nhạc sĩ, NSƯT Hồng Thu chỉ đạo nghệ thuật kiêm tác giả kịch bản; NSƯT Thế Hùng tổng đạo diễn. Tham gia biểu diễn trong chương trình có NSƯT Hải Yến, ca sĩ Sèn Hoàng Mỹ Lam, Quỳnh Thị, Hà Thơm, Lê Minh Sơn, Đại Lộc, Hoàng Tùng… và đông đảo nghệ sĩ, diễn viên Nhà hát Ca múa nhạc tỉnh Sơn La, học sinh, sinh viên trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch tỉnh Sơn La.
Tôn vinh Mộc Châu – ‘Điểm đến thiên nhiên khu vực hàng đầu thế giới’
901
Các nhà văn – dịch giả Việt Nam tại buổi lễ tôn vinh. Tối 11 tháng 5 vừa qua, nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh Ba Lan, Đại diện lâm thời Cộng hòa Ba Lan tại Việt Nam , bà Justyna Pabian, đã công bố quyết định và trao Bằng khen của Bộ trưởng Ngoại giao Ba Lan tặng 7 dịch giả văn học Ba Lan vì “Những đóng góp đặc biệt cho sự phát triển các mối quan hệ Ba Lan-Việt Nam thông qua việc giới thiệu và quảng bá văn học Ba Lan tại Việt Nam”. Các dịch giả Việt Nam được nhận vinh dự đặc biệt này gồm: Lê Bá Thự , Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Thị Thanh Thư, Nguyễn Chí Thuật, Tạ Minh Châu, Nguyễn Văn Thái và Nguyễn Thái Linh. Đây là những dịch giả, bằng tình yêu văn học Ba Lan cháy bỏng, bằng tình cảm sâu nặng với đất nước và con người Ba Lan, đã lao động miệt mài, sáng tạo, mang đến cho bạn đọc Việt Nam tất cả những là tinh hoa của văn học Ba Lan, nền văn học Ba Lan đã sản sinh ra 5 nhà thơ, nhà văn được trao Nobel Văn học. Việc giới thiệu và quảng bá văn học Ba Lan tại Việt Nam đã được thực hiện ngay trong những năm tháng nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong chiến khu Việt Bắc, một số nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã viết bài ca ngợi sự hồi sinh của văn học Ba Lan sau chiến tranh thế giới thứ hai và trích dịch những tác giả quan trong nhất của thời kỳ này. Năm 1955, ngay sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của đại thi hào dân tộc Ba Lan, Adam Mickiewicz, một cuốn sách về ông gồm thân thế, sự nghiệp và trích dịch tác phẩm đã được ấn hành. Các nhà thơ lớn của Việt Nam như Tế Hanh, Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Trung Thông… đều tham gia dịch thơ Ba Lan qua tiếng Pháp. Năm 1985 đánh dấu sự kiện quan trọng trong việc dịch văn học Ba Lan tại Việt Nam. Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng cho in bản dịch tác phẩm Quo vadis nổi tiếng của Henryk Siekiewicz, mở đầu thời kỳ văn học Ba Lan chủ yếu được dịch trực tiếp từ tiếng Ba Lan, không qua ngôn ngữ trung gian như trước đây. Từ đó đến nay hàng chục tác phẩm văn học Ba Lan quan trọng, có giá trị văn học cao, đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam. Tất cả các tác giả Ba Lan được trao Nobel Văn học, thơ cũng như văn xuôi, đã lần lượt được giới thiệu. Đội ngũ những người dịch văn học Ba Lan tuy không đông đảo về số lượng, song tất cả đã hoặc đang có những năm tháng sinh sống, học tập, làm việc tại Ba Lan, có vốn sống, vốn kiến thức sâu rộng về văn học Ba Lan, tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong công việc lao động sáng tạo của mình. Phần lớn các dịch giả được nhận bằng khen đợt này đều có thành tựu dịch thuật đáng ghi nhận, thể hiện qua số lượng đầu sách được in ra. Dịch giả Lê Bá Thự có 30 đầu sách, các dịch giả Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Thị Thanh Thư và Nguyễn Chí Thuật đều đã xuất bản trên dưới hai mươi tác phẩm dịch văn học Ba Lan. Các dịch giả văn học Ba Lan ở Việt Nam có nguồn động viên lớn từ phía Viện Sách Ba Lan và Đại sứ quán Ba Lan tại Hà Nội. Viện Sách tổ chức 4 năm một lần Đại hội toàn thế giới những người dịch văn học Ba Lan nhằm tôn vinh các dịch giả và tạo điều kiện giao lưu giữa những người có chung đam mê dịch văn học Ba Lan trên khắp thế giới. Đại sứ quán Ba Lan tại Hà Nội thường xuyên tổ chức gặp gỡ, giao lưu, giới thiệu những cuốn sách Ba Lan được dịch ra tiếng Việt. Các dịch giả văn học Ba Lan ở Việt Nam tỏ ra rất “có duyên” với các giải thưởng văn học trong nước. Dịch giả Nguyễn Hữu Dũng hai lần được nhận Giải thưởng Văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam. Dịch giả Lê Bá Thự được trao Giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Hà Nội. Các dịch giả Nguyễn Văn Thái và Nguyễn Chí Thuật, mỗi người một lần được nhận Giải thưởng Văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam. Dịch giả Nguyễn Thị Thanh Thư và Nguyễn Chí Thuật được trao Giải Văn học dịch của Hội Nhà văn Hà Nội. Ngoài ra, tại Ba Lan, dịch giả Nguyễn Thị Thanh Thư được trao huy hiệu của Bộ trưởng Ngoại giao Ba Lan, dịch giả Nguyễn Chí Thuật được Thượng viện Ba Lan trao tặng danh hiệu “ Đại sứ tiếng Ba Lan ở nước ngoài ”. Ngoài ra các dịch giả Lê Bá Thự, Nguyễn Hữu Dũng, Tạ Minh Châu, Nguyễn Thị Thanh Thư đã được trao Huân chương công trạng của Tổng thống Cộng hòa Ba Lan. Đây là sự ghi nhận đầy đủ những đóng góp của họ cho việc giới thiệu và quảng bá văn học Ba Lan tại Việt Nam.
Ba Lan tôn vinh các dịch giả Việt Nam
911
Trong quá trình nghiên cứu về lỗ đen, các nhà khoa học châu Âu đã tìm thấy một vật thể đáng sợ và hiếm thấy hơn: Một ngôi sao chết biến hình thành chuẩn tinh chạy trốn. Theo Science Alert, “bóng ma” đó ra đời từ một siêu tân tinh, tức một ngôi sao chết và phát nổ. Nhưng với PSR J1914+1054g, chết chưa phải là kết thúc. Sau cái chết bùng nổ, một vật thể kỳ lạ đã thoát ra từ siêu tân tinh, bay nhanh như kẻ trốn chạy, để lại một vệt phát xạ vô tuyến dài như đuôi sao chổi. Đó là một chuẩn tinh vô tuyến phóng với vận tốc cao trong không giao. Trước vật thể ma quái này, chỉ có 3 cái tương tự từng được biết đến. Vệt sáng kỳ lạ tiết lộ về một “ngôi sao ma” là tàn tích của một ngôi sao vừa phát nổ – Ảnh: Motta et al., arXiv. Theo nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi nhà vật lý thiên văn Sara Elisa Motta từ Đài thiên văn Brera (Ý) và Đại học Oxford (Anh), vật thể mà siêu tân tinh bí ẩn – được đặt tên là tinh vân “Chuột Nhỏ” – phóng ra là đại diện cho một sao neutron siêu đậm đặc vừa ra đời. Một sao neutron trước hết là một chuẩn tinh – được dùng để gọi dạng vật thể phát sáng như sao khi con người nhìn chúng, nhưng không phải là sao. Chuẩn tinh có thể là sao neutron hay một lỗ đen đang ngấu nghiến vật chất cuồng nhiệt. Sao neutron là phần còn lại của một ngôi sao khổng lồ đã chết. Nó thường ở một chỗ chứ hiếm khi bỏ chạy như cái vừa phát hiện, phát sáng như hải đăng khi các chùm bức xạ bắn ra từ các cực của nó, được gia tốc bởi từ trường cực mạnh. Sao neutron vừa được phát hiện được cho là sao xung, một dạng sao neutron hoạt động cực mạnh. Nhóm nghiên cứu cho rằng siêu tân tinh phát triển không đồng đều là nguyên nhân tạo nên một cú hích mạnh dưới dạng cú sốc hình cung, làm rối loạn các làn gió của sao xung và bắn nó ra khỏi vị trí ban đầu. Chính gió sao mang năng lượng khổng lồ tạo nên chiếc đuôi phát sáng trong hình ảnh vô tuyến. Tiến sĩ Motta và các cộng sự đã tình cờ phát hiện ngôi sao ma quái này khi dùng kính viễn vọng vô tuyến MeetKAT đặt ở Nam Phi để nghiên cứu một cặp đôi mang tên GRS 1915+105, bao gồm một ngôi sao mà một lỗ đen. Nhưng khi quan sát chúng, họ đã nhận thấy vệt sáng lạ cắt ngang trời, dài 40 năm ánh sáng dường như xuất hiện từ một tinh vân mang tên “Con Chuột” (Mouse) được phát hiện từ năm 1987. Cuộc nghiên cứu cũng phát hiện một hình tròn mờ phía sau vệt sáng, chính là siêu tân tinh Chuột Nhỏ. Nghiên cứu đã được công bố trực tuyến trên arXiv và đã được phê duyệt để xuất bản trong số tiếp theo của tạp chí khoa học Monthly Notices of the Royal Astronomical Society.
Phát nổ xong, ngôi sao ‘hồi sinh’ thành bóng ma bay ngang trời
535
Việt Nam chỉ rõ các thành viên APEC cần tiếp tục nỗ lực để thực thi các kết quả của Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 12 (MC12), để hướng tới những kết quả thiết thực tại MC lần thứ 13 sắp tới. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên. (Ảnh: Trần Việt/ TTXVN). Phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Thương mại Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 29 (MRT 29), Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên đã nhấn mạnh các nền kinh tế thành viên APEC cần ưu tiên thảo luận về vấn đề cải cách Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức này. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, trưởng đoàn đại biểu nước ta tham dự hội nghị, cũng chỉ rõ các thành viên APEC cần tiếp tục nỗ lực để thực thi các kết quả của Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 12 (MC12), để hướng tới những kết quả thiết thực tại MC lần thứ 13 sắp tới. Tại phiên mở đầu của hội nghị diễn ra tại thành phố Detroit, bang Michigan của Mỹ, các Bộ trưởng APEC tập trung thảo luận cách thức ủng hộ Hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ và các biện pháp hữu hiệu thúc đẩy cải cách WTO. Các Bộ trưởng cũng đã nghe Tổng Giám đốc WTO, bà Ngozi Okonjo-Iweala, cập nhật những diễn biến mới tại Tổ chức này trong thời gian qua, đặc biệt là việc triển khai các kết quả của Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 12 (MC12) và chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 13 (MC13). Về phần mình, Tổng Giám đốc WTO Ngozi Okonjo-Iweala nhấn mạnh các thành viên WTO cần linh hoạt, thực tế và thể hiện quyết tâm chính trị trong giải quyết các vấn đề còn tồn đọng nhằm tăng cường vị thế trung tâm của WTO trong hệ thống thương mại đa biên, hoan nghênh APEC tiếp tục triển khai những sáng kiến, hoạt động góp phần thúc đẩy các nội dung thảo luận tương đồng trong WTO. Bà Okonjo-Iwweala và các Bộ trưởng APEC bày tỏ hy vọng cải cách và tiến bộ trong đàm phán WTO sẽ đem lại những kết quả tích cực, góp phần củng cố vai trò của hệ thống thương mại đa phương cũng như hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực. Bên lề Hội nghị MRT 29, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diễn đã tiếp và làm việc với Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Nishimura Yasutoshi, Giám đốc cấp cao phụ trách quan hệ Chính phủ toàn cầu của Tập đoàn bán lẻ Walmart, làm việc với Đại diện Hội đồng Tư vấn Kinh doanh APEC, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Hoa Kỳ, và các hoạt động song phương khác./.
Việt Nam nhấn mạnh APEC cần ưu tiên thảo luận vấn đề cải cách WTO
494
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ với đại biểu dự Hội nghị công bố quy hoạch tỉnh và xúc tiến đầu tư vào tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN. Sáng 28/5, tại tỉnh Hà Tĩnh , Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ dự Hội nghị công bố quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến thương mại vào Hà Tĩnh. Hội nghị do Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp tổ chức. Tham dự có: nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng; Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh Hoàng Trung Dũng; lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương; đại diện Đại sứ quán: Lào, Hoa Kỳ, Singapore, một số tổ chức quốc tế, một số tỉnh của Lào, Thái Lan, các hiệp hội, nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước… Tại hội nghị, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà đã trao Quyết định Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 cho lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh. Phát biểu khai mạc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Võ Trọng Hải cho biết, Hà Tĩnh nằm trên trục giao thông Bắc – Nam; là cửa ngõ giao thương trên tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây; với nhiều tiềm năng, lợi thế lớn để phát triển kinh tế – xã hội. Hà Tĩnh đã nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ lập Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; là tỉnh thứ hai của cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch. Với chủ đề “Hà Tĩnh – hiện thực hóa tiềm năng và khát vọng”, Hội nghị cung cấp những thông tin cơ bản về Quy hoạch tỉnh; giới thiệu, quảng bá tiềm năng, lợi thế, chính sách ưu đãi, các danh mục dự án ưu tiên của tỉnh tới nhà đầu tư. Trên cơ sở Quy hoạch tỉnh, những định hướng phát triển và thu hút đầu tư của Hà Tĩnh bao gồm: Lĩnh vực công nghiệp là các dự án hậu thép, cơ khí chế tạo; công nghiệp hỗ trợ; hạ tầng các khu – cụm công nghiệp; sản xuất điện; chế biến nông sản; dệt may. Lĩnh vực dịch vụ – du lịch là các dự án dịch vụ du lịch biển, du lịch sinh thái, tâm linh, dịch vụ cảng biển nước sâu và logistics… Lĩnh vực nông nghiệp là các dự án nông nghiệp công nghệ cao, chế biến sâu, phát triển nông nghiệp hữu cơ và các vùng chuyên canh. Đối với lĩnh vực đô thị là các dự án xây dựng khu đô thị, nhà ở quy mô lớn, đầu tư hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Sau khi đại diện lãnh đạo Chính phủ trao Quyết định Quy hoạch tỉnh cho lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, đại diện một số đại biểu trong nước và quốc tế đã phát biểu tham luận. Ông Arnaud Ginolin, thành viên Hội đồng Thành viên, lãnh đạo khối Tư vấn Chính sách công và khối ngành Công nghiệp BCG Việt Nam đã phát biểu tham luận về “Tính khả thi của các mục tiêu và lý do Hà Tĩnh lựa chọn để phát triển”. Ông Arnaud Ginolin đánh giá, Quy hoạch tỉnh là bản quy hoạch tiến bộ, cùng với lợi thế khác biệt (các ngành sản xuất chế tạo, kinh nghiệm phát triển nhanh và thành công các dự án quy mô lớn hàng đầu, các di sản văn hóa-lịch sử), Chiến lược kinh tế-xã hội rõ ràng cho năm 2030 và tầm nhìn 2050. Chiến lược và tầm nhìn “Tăng trưởng xanh Hà Tĩnh” hướng đến phát triển bền vững về cả kinh tế, xã hội và môi trường; tập trung vào 4 trụ cột tăng trưởng: Sản xuất thép và các ngành phụ trợ, Nông nghiệp, Logicstics và Du lịch. Các dự án “mỏ neo” đã được xác định cho phát triển đột phá, đó là mở rộng hơn nữa tổ hợp công nghiệp tại Vũng Áng, Năng lượng tái tạo và LNG, Cảng biển và các trung tâm logicstics, Phát triển đô thị và du lịch. Theo ông Arnaud Ginolin, đây là hành trình đầy hoài bão, theo hướng phát triển xanh, mang tính thực tiễn, tập trung vào những ngành chủ chốt, với việc lựa chọn những dự án “mỏ neo” sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư thời gian tới, cùng với đó là “xanh hóa” các ngành công nghiệp nặng, “sản xuất xanh”… Về logicstics, với việc hướng tới mở rộng cảnh Vũng Áng sẽ góp phần tăng cường xuất nhập khẩu hàng hóa, kết nối các nước láng giềng như Lào, Thái Lan, khu vực Đông Nam Á, châu Á và xa hơn. Với tham luận: “Biến đổi khí hậu: Cơ hội và Thách thức đối với tỉnh Hà Tĩnh – Quan điểm của Cơ quan Phát triển Pháp (AFD)”, ông Hervé CONAN, Giám đốc quốc gia AFD đã có những chia sẻ, bày tỏ tin tưởng, Quy hoạch tỉnh sớm là điểm nhấn quan trọng, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế, xã hội của Hà Tĩnh. Những tác động của biến đổi khí hậu có thể là cản trở trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội nói chung. Do đó phải tính tới các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, nhất là hình thái khí hậu cực đoan trong tương lai, ngoài đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp, quy hoạch vùng, quản lý lưu vực sông, phát triển đô thị phù hợp…., cần chuẩn bị cho việc quản lý giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu “dấu chân carbon” với môi trường… Đánh giá cao tiềm năng về năng lượng tái tạo, kinh tế biển… của Hà Tĩnh, trên tinh thần đồng hành cùng Việt Nam hướng tới phát triển nền kinh tế carbon thấp, bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển thế giới bền vững hơn, AFD sẵn sàng đồng hành chia sẻ những kinh nghiệm quốc tế để Hà Tĩnh thực hiện Quy hoạch này. Tham luận “Hợp tác giữa Đại học quốc gia Hà Nội với tỉnh Hà Tĩnh cùng các Doanh nghiệp trong thu hút đầu tư về khoa học – công nghệ, phát triển nguồn nhân lực để triển khai Quy hoạch tỉnh”, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Quân, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đã đưa ra một số bài toán chính và khung chương trình hành động để phát triển bền vững đối với tỉnh Hà Tĩnh như: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và kinh tế tri thức, phát triển đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp và đề xuất hợp tác với tỉnh Hà Tĩnh cùng các doanh nghiệp nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn tới như: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, phát triển văn hóa và phát huy các giá trị di sản, phát triển du lịch cộng đồng và lĩnh vực chuyển đổi số. Ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Tập đoàn FPT có tham luận về “Định hướng, giải pháp về chuyển đổi số để hiện thực hóa Quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050”. Theo ông Trương Gia Bình, Tập đoàn FPT sẽ trở thành một người bạn đồng hành, chung thủy, nghĩa tình đối với tỉnh Hà Tĩnh. FPT đề xuất một số giải pháp chuyển đổi số nhằm góp phần giúp tỉnh đạt được tầm nhìn, mục tiêu trong quy hoạch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 như: Xây dựng hệ sinh thái, chuỗi giá trị số cho ngành trọng điểm, đầu tư công nghệ và nền tảng dữ liệu, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực số, thúc đẩy sáng tạo… Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN.
Chủ tịch Quốc hội dự Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vào tỉnh Hà Tĩnh
1,374
Hiện tượng El Nino nóng lên dự kiến sẽ phát triển trong những tháng tới và điều này sẽ kết hợp với biến đổi khí hậu do con người gây ra để đẩy nhiệt độ toàn cầu lên một mức chưa từng có. (Nhấp chuột để xem kích thước chuẩn) Theo cảnh báo của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO), nhiệt độ toàn cầu có thể tăng lên mức kỷ lục trong giai đoạn từ năm 2023 đến năm 2027 do khí nhà kính giữ nhiệt và hiện tượng tự nhiên El Nino xảy ra. Điều này sẽ có những tác động sâu rộng đối với sức khỏe, an ninh lương thực, quản lý nước và môi trường./.
[Infographics] Nhiệt độ toàn cầu tăng kỷ lục mới trong vòng 5 năm tới
115
Cụm sao Messier 4, nơi kính Hubble phát hiện hố đen mới. (Nguồn: Live Science). Một hố đen với khối lượng trung bình, thuộc nhóm hố đen mà nhân loại chưa từng có bằng chứng về sự tồn tại của chúng, có thể đang ẩn nấp trong cụm sao Messier 4 của Dải Ngân hà . Kính viễn vọng không gian Hubble có thể đã tìm ra dấu vết một hố đen hiếm gặp, đang ẩn náu tại Dải Ngân hà. Hố đen này nằm cách Trái đất khoảng 6.000 năm ánh sáng, tại vùng lõi của cụm sao Messier 4 gần đó. Hố đen có kích cỡ trung bình này là một vùng không gian siêu đậm đặc, với có khối lượng nặng tương đương 800 Mặt trời, khiến cho các ngôi sao gần đó quay quanh nó như một “bầy ong. Theo Eduardo Vitral, người đứng đầu dự án nghiên cứu và là một nhà vật lý thiên văn tại Viện Khoa học Kính viễn vọng Không gian ở Maryland, Mỹ , hình ảnh thu được quá nhỏ để các nhà khoa học có thể đưa ra lời giải thích cụ thể nào, ngoài việc khẳng định đó là một hố đen. Ông cũng nói thêm về khả năng có một cơ chế sao đặc biệt đang tồn tại mà chúng ta không biết đến, ít nhất là qua những lý giải của vật lý hiện nay. Hố đen được sinh ra từ sự sụp đổ của các ngôi sao khổng lồ và phát triển bằng cách hấp thụ khí, bụi, sao cũng như các hố đen khác. Hiện tại, các hố đen mà nhân loại đã biết tới được được chia thành 2 loại chính, gồm hố đen có khối lượng bằng ngôi sao – tức có khối lượng từ vài lần đến vài chục lần khối lượng Mặt trời. Loại thứ hai là các hố đen siêu nặng – quái vật vũ trụ – với khối lượng lớn hơn từ vài triệu đến 50 tỷ lần Mặt trời. Theo lý thuyết, các hố đen khối lượng trung bình sẽ có khối lượng lớn hơn từ 100 đến 100.000 lần khối lượng Mặt trời. Đây cũng là những loại hố đen khó phát hiện nhất trong vũ trụ. Dù đã có vài “ứng cử viên tiềm năng”, nhưng cho tới nay chưa có hố đen khối lượng trung bình nào được xác nhận chắc chắn tồn tại. Điều này đặt ra một câu hỏi cho các nhà thiên văn học. Nếu các hố đen phát triển, từ chỗ có kích thước chỉ bằng một ngôi sao tới mức siêu lớn, bằng cách ngấu nghiến “nuốt chửng” hết mọi thứ trong một cơn thèm ăn điên cuồng và bất tận, thì việc thiếu những quan sát về hố đen ở giai đoạn “còn trẻ” sẽ làm lộ ra một lỗ hổng lớn trong hiểu biết của chúng ta về những con quái vật vũ trụ này. Để tìm kiếm dấu hiệu của một hố đen khối lượng trung bình đang ẩn nấp đâu đó, các tác giả của nghiên cứu mới đã hướng Kính viễn vọng Không gian Hubble về phía cụm sao Messier 4. Messier 4 là một cụm sao cầu, gồm từ hàng chục nghìn đến hàng triệu ngôi sao bị xếp chặt gần nhau. Nhiều ngôi sao trong cụm sao này đã được hình thành từ rất lâu, thuộc hàng cổ xưa nhất trong vũ trụ. Hiện Dải Ngân hà của chúng ta có khoảng 180 cụm sao cầu. Do có mật độ khối lượng cao ở trung tâm nên các cụm sao này cũng là nơi ẩn náu lý tưởng của các hố đen trong giai đoạn còn trẻ. Messier 4 hiện là cụm sao cầu gần Trái đất nhất. Thông qua việc sử dụng các Kính viễn vọng Không gian Hubble và Gaia, các nhà nghiên cứu đã dùng dữ liệu thu được suốt 12 năm qua để xác định chính xác các ngôi sao và nghiên cứu chuyển động của chúng xung quanh vùng tâm. Bằng cách áp dụng các mô hình vật lý để tính toán cách thức cách các ngôi sao này di chuyển, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chúng đang xoay quanh một thứ gì đó có khối lượng lớn, rất khó để phát hiện trực tiếp, và nằm ở trung tâm cụm sao. Để xác nhận việc đã phát hiện ra một hố đen có khối lượng trung bình, các nhà nghiên cứu sẽ phải thực hiện thêm nhiều quan sát tiếp theo. Có thể họ sẽ sử dụng Kính viễn vọng Không gian James Webb, hiện đại và mạnh hơn Hubble./.
Kính viễn vọng Hubble phát hiện ‘hố đen ẩn’ hiếm gặp trong Dải Ngân hà
771
Lực lượng cứu hộ làm nhiệm vụ tại hiện trường vụ lở tuyết ở Astore, Pakistan ngày 27/5/2023. (Ảnh: Reuters/TTXVN). Vụ tai nạn do lở tuyết xảy ra vào cuối ngày 26/5 trên đèo Shounter Top của Pakistan, nối huyện Astore thuộc khu vực Gilgit Baltistan với thung lũng Kashmir, khi một bộ lạc du mục đi qua đây. Ngày 27/5, Cơ quan quản lý thiên tai của Pakistan cho biết có ít nhất 11 người thiệt mạng và 13 người khác bị thương do tuyết lở khi các thành viên của một bộ lạc du mục đi qua một vùng núi ở phía Bắc nước này. Vụ tai nạn xảy ra vào cuối ngày 26/5 trên đèo Shounter Top của Pakistan, nối huyện Astore thuộc khu vực Gilgit Baltistan với thung lũng Kashmir. Cơ quan quản lý thiên tai cho biết đã tìm thấy thi thể các nạn nhân thiệt mạng, trong khi những người bị thương, trong đó có một trẻ em, đã được đưa đến một bệnh viện địa phương. Thời tiết khắc nghiệt đã cản trở hoạt động cứu hộ và gây khó khăn cho việc tiếp cận khu vực xảy ra tai nạn. Vào mùa Hè, những người du mục thường di chuyển đàn dê của họ từ vùng đồng bằng Punjab đến những đồng cỏ trên cao ở thung lũng Kashmir, sau đó đi qua đèo Shounter Top để tới Gilgit Baltistan. Theo Thủ tướng Pakistan Shehbaz Sharif, những sự cố như vậy đang gia tăng ở nước này do biến đổi khí hậu. Trong những năm gần đây, Pakistan đã phải đối mặt với lượng mưa kỷ lục do gió mùa và tình trạng băng tan chảy ở vùng núi phía Bắc. Hiện quốc gia này nằm trong nhóm 10 quốc gia có nguy cơ cao nhất bị ảnh hưởng bởi thiên tai do biến đổi khí hậu. Thủ tướng Sharif đã kêu gọi cộng đồng quốc tế làm tròn trách nhiệm cứu trợ các nước đang phát triển vốn đang phải đối mặt với các vấn đề về kinh tế do những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Trước đó, ngày 7/5, nhà chức trách Nepal cho biết một vụ lở tuyết đã xảy ra tại quận Mugu, Tây Bắc nước này làm ít nhất 3 người thiệt mạng và 12 người bị thương. Nguồn tin trên cho biết 15 người đến từ quận Jumla lân cận đã gặp phải một trận lở tuyết khi đến Mugu để tìm kiếm loại nấm sâu bướm quý hiếm yarsagumba, hay còn gọi là đông trùng hạ thảo. Cả 15 người đã bị chôn vùi trong tuyết, trong đó 3 người đã thiệt mạng./.
Pakistan: 11 người thiệt mạng do lở tuyết ở đèo Shounter Top
438
Phạm Duy Tốn (1883 - 1924). Ảnh tư liệu Phạm Duy Tốn (1883 – 1924) là một trong ‘tứ kiệt Hà thành’ – những trí thức tiên phong canh tân văn hóa đầu thế kỷ XX. Ông là nhà văn tài năng, tiên phong mở đường cho một nền văn học mới của đất nước và đã dùng văn chương để hoàn thiện chữ quốc ngữ. Phạm Duy Tốn quê ở làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Thường Tín, Hà Đông, sinh ra ở Hà Nội , năm 1883 (theo Phạm Duy là năm 1881). Cha là ông Phạm Duy Đạt, Chánh tổng; mẹ là bà Nguyễn Thị Huệ làm nghề buôn bán. Từ nhỏ, Phạm Duy Tốn được đi học chữ Nho rồi chữ Pháp, chữ quốc ngữ. Ông tốt nghiệp Trường Thông ngôn Hà Nội năm 1901 và được bổ làm thông ngôn ở Tòa sứ ở Ninh Bình rồi sau đó chuyển về Tòa sứ Bắc Ninh. Là một thông ngôn thông minh, rất được tín nhiệm nhưng không bao lâu thì ông bỏ việc, không rõ lý do. Sau khi bỏ nghề thông ngôn, việc đầu tiên ông làm là dạy học. Ông dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ ở Trường Trí Tri. Tiếp đó, ông tham gia Đông Kinh nghĩa thục. Ông cùng với Nguyễn Văn Vĩnh là người thảo đơn gửi chính quyền bảo hộ xin phép thành lập trường. Nhưng cuối năm 1907, chỉ sau mấy tháng hoạt động, Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa. Không còn dạy học, Phạm Duy Tốn mở tiệm cao lâu ở phố Cầu Gỗ nhưng nhanh chóng sập tiệm. Ông lại vay tiền mở tiệm vàng rồi cũng phá sản, nợ nần chồng chất. Tiếp đó ông lại theo bạn bè đi tìm mỏ ở Quảng Yên và lại nhanh chóng thất bại. Được bạn giúp đỡ, ông vào làm việc cho Ngân hàng Đông Dương ở Mông Tự (Trung Quốc). Nhưng chẳng được bao lâu, ông lại bỏ việc. Trở về Việt Nam, ông bắt đầu một hành trình mới, nghề mới, làm báo và viết văn cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi của mình. Ông mất ngày 22/5/1924, thọ 41 tuổi. Trong nghiệp báo của mình, với các bút danh Ưu Thời Mẫn, Đông Phương Sóc, Thọ An…, ông đã viết cho 11 tờ báo/tạp chí, ở cả Hà Nội và Sài Gòn như Đại Việt tân báo , Đông Dương tạp chí , Nam Phong tạp chí , Lục tỉnh tân văn , Nông cổ mín đàm , Thực nghiệp dân báo … Ở các báo/tạp chí, ông vừa làm biên tập, vừa viết bài. Ông viết luận thuyết (xã/bình luận) và viết văn. Nhiều bài báo của ông đã mạnh mẽ tố cáo chế độ thuộc địa hà khắc của người Pháp ở Việt Nam, sự thối nát của bộ máy quan lại, sự đói khổ cùng cực của người dân. Bài báo “Hồi giáo khổ nạn” của ông nói về trận lụt ở Bắc Kỳ năm 1915 làm hàng chục nghìn người chết đã tạo nên một chấn động xã hội to lớn. Bài xã luận Văn minh giả đăng trên Lục tỉnh tân văn , ngày 4/11/1915, Phạm Duy Tốn chỉ trích những kẻ học làm sang theo lối Tây nhưng nghèo nàn trong văn hóa. Hoặc bài Trách nhiệm người làm báo cũng đăng trên Lục tỉnh tân văn , là một trong những bài viết đầu tiên ở Việt Nam bàn về vai trò, trách nhiệm của báo chí trong xã hội và của người làm báo. Trước lúc mất, ông làm cho Học báo – hậu thân của Đông Dương tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ nhiệm, Trần Trọng Kim làm chủ bút. Là một trí thức tân học có tinh thần yêu nước, có tư tưởng cải cách, Phạm Duy Tốn quan tâm và trực tiếp tham gia vào đời sống chính trị của đất nước, trở thành một chính trị gia. Năm 1919, ông được bầu vào Hội đồng dân biểu TP Hà Nội. Từ năm 1920 đến 1923, ông là nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Chắc hẳn ông tham gia chính trường là để hướng đến cơ hội thực hiện những cải cách có lợi cho người dân và sự nghiệp chấn hưng văn hóa, giáo dục của đất nước trong hoàn cảnh thuộc địa. Khoảng hơn 10 năm cuối đời, Phạm Duy Tốn làm báo và viết văn. Ông viết văn ít, chỉ để lại 4 truyện ngắn: Câu chuyện thương tâm ( Đông Dương tạp chí số 55, Hà Nội, 1914); Sống chết mặc bay ( Nam Phong tạp chí , 1918); Nước đời lắm nỗi ( Nam Phong tạp chí , 1919); Con người Sở Khanh ( Nam Phong tạp chí , 1919). Ngoài ra ông còn có sưu tầm, biên soạn cuốn Tiếu lâm ký quảng (bút danh Thọ An, ba tập, nhà xuất bản Ích Ký, Hà Nội, 1924) được tái bản nhiều lần với nhan đề Tiếu lâm An Nam . Phạm Duy Tốn viết không nhiều nhưng ngay từ đầu đã được văn giới và bạn đọc đón nhận, quan tâm như một hiện tượng văn học mới lạ trong bối cảnh nền văn hóa, và văn học của dân tộc đang bắt đầu duy tân, chuyển mình sang hiện đại. Là một trí thức có trách nhiệm, một nhà báo nhạy bén, ông quan tâm sâu sắc đến hiện thực của đời sống xã hội từ cấu trúc thể chế đến sự thay đổi trong đời sống văn hóa, tâm lý, đạo đức của các tầng lớp xã hội, đến cuộc sống lầm than của người dân. Cũng như viết báo, văn chương của ông sắc sảo,mạnh mẽ, chạm đến nhiều vấn đề nhức nhối của xã hội đương thời. Truyện ngắn Sống chết mặc bay phản ánh sự đối lập giữa cuộc sống bọn quan lại và người dân bị đô hộ. Trong bối cảnh lũ lụt rất to, có nguy cơ vỡ đê, hàng trăm người dân đang cố sức giữ đê thì bọn quan lại vẫn bình thản chơi bài, mặc cho tiếng kêu gào đến xé lòng của người dân. Ông tố cáo bộ máy chính quyền vô đạo đức và thức tỉnh mọi người cần phải đứng lên chống lại cái ác để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc. Trong truyện ngắn Nước đời lắm nỗi , ông nói về số phận bi đát của con người; về sự cám dỗ của đồng tiền đã tha hóa nhân phẩm của con người, đẩy con người vào tội lỗi và xấu xa dưới chế độ thực dân phong kiến. Truyện ngắn là hồi chuông cảnh tỉnh con người trước thế lực đồng tiền và là khuyến cáo mọi người hãy quan tâm và nuôi dưỡng con trẻ trong tình yêu thương để lớn lên có cuộc sống lương thiện, tốt đẹp. Từ sự quan sát hết sức sâu sát, tinh tế, trong truyện ngắn “Con người sở khanh”, Phạm Duy Tốn cảnh báo hiện tượng lưu manh hóa trong xã hội đương thời; vì tiền mà con người có thể lường gạt lẫn nhau, dẫu là bạn bè, vợ chồng. Di sản văn học của Phạm Duy Tốn không đồ sộ về khối lượng tác phẩm nhưng lại có sự đặc sắc và đặc biệt là có ý nghĩa khai phá, mở đầu một thời kỳ mới cho văn học Việt Nam. Cách đây hơn 80 năm, Vũ Ngọc Phan đã nhận định: “Phạm Duy Tốn là một nhà tiểu thuyết đi vào đường mới nhất và những truyện ngắn của ông là thứ văn chương đã đánh dấu một quãng đường văn học của nước nhà”. Còn theo Thanh Lãng: “Muốn ước lượng vai trò của Phạm Duy Tốn chúng ta cần biết rằng: về mặt tư tưởng, nếu nhà văn cổ điển đòi hỏi con người ta phải thuận theo chiều xã hội, theo tập tục, theo giai cấp, theo tôn ti, thì Phạm Duy Tốn là người bất mãn, căm hờn nó, muốn đập vỡ cái hiện tại mà ông cho là thối nát. “Phạm Duy Tốn vì thế có một xu hướng xã hội rõ rệt: ông đứng về phía những người yếu đuối, bị bóc lột; ông đứng về phe ông cụ già kéo xe để chống lại cái bà phì nộn ngồi trên xe; ông bênh vực bọn dân đen sống nheo nhóc trên bờ đê Yên Phụ để phản đối thái độ vô nhân đạo của bọn quan lại ngồi trong sòng bạc. “Tất cả nghệ thuật của Phạm Duy Tốn vẽ nên những bức tranh xã hội đau thương. Mà cái đau thương đó không phải ở những lời lẽ xót xa, những tiếng kêu than thống thiết mà bao giờ cũng có cái tính cách tương phản nhau giữa hai thực tại mỉa nhau, rủa nhau, xung đột nhau. “… Chính Phạm Duy Tốn mới quả là người khai mở đầu tiên cho lịch sử tiểu thuyết tại Việt Nam. […]. Phạm Duy Tốn đã mới hoàn toàn trong công cuộc xây dựng các các truyện của ông. […]. Nhưng cuộc cách mạng lớn lao nhất của Pham Duy Tốn là nghệ thuật tả chân… Phạm Duy Tốn chủ trương tả thực: ông tả thực trong cách chọn đề tài trong đời sống hằng ngày, trong những tình tiết hay biến cố mà ông có dịp quan sát tỉ mỉ. Phải có óc quan sát tinh vi và óc tả thực như ông mới có thể diễn được tấn tuồng ván tổ tôm trên bờ đê sắp vỡ một cách linh hoạt, sống động…”. Phạm Quỳnh – đồng môn, đồng nghiệp với ông, nhận định: “Phạm Duy Tốn là một người rất nhiệt thành với văn quốc ngữ, và đã biệt lập ra một lối văn riêng, lấy sự tả chân làm tốt. Mỗi bài văn của ông như một tấm ảnh phản chiếu cái chân tướng y hệt”.
Phạm Duy Tốn – người của quốc văn – Tác giả: Vĩnh Khánh
1,610
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đặt vấn đề phải có giải pháp để xóa bỏ khoảng cách giữa những trẻ em được nuôi dạy ở trung tâm xã hội với trẻ em bên ngoài. Chiều 28-5, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã đến thăm, tặng quà cho thiếu nhi tại Trung tâm Nuôi dưỡng bảo trợ trẻ em Tam Bình ( TP Thủ Đức , TP HCM ). Phó Thủ tuớng đã nghe giám đốc trung tâm báo cáo tình hình hoạt động. Phó Thủ tướng cũng yêu cầu lãnh đạo trung tâm thẳng thắn trình bày những khó khăn cùng những đề xuất. Phó Thủ tuớng Trần Lưu Quang trao quà cho các em. Giám đốc Trung tâm Nuôi dưỡng bảo trợ trẻ em Tam Bình, ông Đinh Hữu Tuyến, cho biết đơn vị đang thiếu một máy nấu nước sôi để trụng bình sữa – khoảng 15 triệu đồng và một máy tạo oxy – khoảng 35-40 triệu đồng. Sau khi nghe báo cáo, Phó Thủ tướng quyết định tặng trung tâm số tiền 50 triệu đồng để mua các thiết bị này. Khi được Phó Thủ tướng hỏi về mong muốn, Hoàng Đức Tri (đang sống tại trung tâm, sinh viên năm 1) cho biết muốn các em được nuôi dưỡng tại đây có nhiều cơ hội giao lưu với môi trường bên ngoài. Tri cho biết khi đi học ở các trường bên ngoài, em hay bị bạn bè chế nhạo. Do đó, các em được nuôi dạy ở trung tâm cần được trang bị kỹ năng giao tiếp để khi tiếp xúc môi trường bên ngoài không bị bỡ ngỡ, nhanh chóng thích nghi và rút ngắn khoảng cách với các bạn. Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang cho rằng đây là vấn đề quan trọng và nghiêm túc. Ông đặt vấn đề phải làm sao để xóa bỏ khoảng cách giữa những trẻ em được nuôi dạy ở Trung tâm với những trẻ em bên ngoài. Trao quà cho trẻ em ở Trung tâm Nuôi dưỡng bảo trợ trẻ em Tam Bình. Theo Phó Thủ tướng, khoảng cách sẽ khiến các em tự ti, ngày càng không thích đi học, nguy cơ trốn học, lâu dài sẽ khiến các em không phát triển. Ông đề nghị lãnh đạo trung tâm cần làm việc với các trường đại học có các em của trung tâm theo học. Bên cạnh đó, cần chăm sóc về mặt vật chất để thu ngắn khoảng cách giữa các em của trung tâm và các em bên ngoài. Anh Bùi Quang Huy, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, trao quà cho trẻ em của trung tâm. Phó Thủ tướng bày tỏ xúc động với hoàn cảnh của các trẻ tại đây cùng sự chăm sóc tận tình, chu đáo của các thầy cô. Phó Thủ tướng đề nghị các ban, ngành, đoàn thể TP HCM quan tâm, đến thăm các em nhiều hơn chứ không chỉ “lâu lâu đến một bữa”. Bên cạnh đó, nâng cao điều kiện cơ sở vật chất phục vụ chăm sóc, nuôi dưỡng các em; kết nối các nguồn lực xã hội hóa. Phó Thủ tướng cũng mong các thầy cô ở đây là những người mẹ, người cha để mang đến tình yêu thương cho các bạn nhỏ; đồng thời mong các em cố gắng học tập để đền đáp công ơn của những người đã quan tâm chăm sóc mình. Dịp này, 186 phần quà, 20 xe đạp và 5 xe lăn đã được các đơn vị, tổ chức trao cho trẻ em của trung tâm. Trung tâm Nuôi dưỡng Bảo trợ trẻ em Tam Bình thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội TP HCM. Hiện trung tâm đang chăm sóc, nuôi dưỡng 186 trẻ từ sơ sinh đến trên 16 tuổi, trong số đó có 57 trẻ khuyết tật. Tổng số viên chức, người lao động của trung tâm là 102 người. Trung tâm có 6 phòng, khoa, gồm: Khoa Sơ sinh, Khoa Nhi đồng, Khoa Khuyết tật, Khoa Thanh thiếu niên, Phòng Y tế, Phòng Tổ chức hành chính – Kế toán.
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang xúc động trước tâm sự của trẻ có hoàn cảnh đặc biệt
680
Siêu bão Mawar tiến sát đất liền Philippines với sức gió lên đến 270 km/h và đang đe dọa tới nhiều quốc gia. Tờ New York Times dẫn nguồn từ Trung tâm cảnh báo bão chung thuộc Hải quân Mỹ cho hay, siêu bão Mawar đang di chuyển về phía Tây trên Thái Bình Dương và tiến về đất liền Philippines. Siêu bão đang di chuyển với tốc độ 22 km/h, sức gió tối đa duy trì ở mức 225 km/h. Hôm 28/5, Cơ quan khí tượng Philippines cho biết, sau khi càn quét đảo Guam, tâm bão Mawar cách Luzon, hòn đảo lớn nhất và đông dân nhất Philippines, khoảng 800 km về phía Đông. Dự kiến đường đi của siêu bão Mawar. (Ảnh: Hệ thống điều phối và cảnh báo thiên tai toàn cầu). Tại Philippines , bão Mawar được gọi với tên Betty. Theo các nhà dự báo thời tiết, bão Betty nhiều khả năng sẽ đổ bộ vào phía Bắc Philippines và bắt đầu suy yếu vào đầu tuần tới. Cơ quan thời tiết Philippines cho biết, phía bắc đảo Luzon có thể đối mặt với hiện tượng mưa lớn, lũ lụt, sạt lở đất và gió giật mạnh vào 28/5. Một số khu vực của Philippines cũng được dự báo sẽ có lượng mưa gần 100 mm vào sáng thứ 30/5. Sau đó, siêu bão Mawar nhiều khả năng tiếp tục đi về phía Bắc, Đông Bắc, tác động đối với Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc đại lục và Hàn Quốc. Tuy nhiên, tùy thuộc các yếu tố thời tiết, siêu bão có thể di chuyển xa hơn về phía Tây tới Đài Loan hoặc phía Tây Bắc tới Nhật Bản. Hiệp hội Khí tượng Nhật Bản nhận định, sức gió của siêu bão Mawar có thể đạt tối đa 194 km/h. Cơ quan Điện lực đảo Guam xác nhận gần như tất cả 52.000 hộ gia đình và doanh nghiệp trên đảo bị mất điện, chỉ 1.000 hộ có điện sau khi siêu bão Mawar tấn công nước này. Các chuyên gia cho hay, siêu bão Mawar cũng đã vượt qua sức mạnh của các cơn bão được ghi nhận vào năm 2022. Philippines được coi là quốc gia hứng chịu nhiều cơn bão nhiệt đới nhất trên thế giới khi nước này ghi nhận khoảng 20 cơn bão đổ bộ mỗi năm. (Nguồn: The New York Times)
Siêu bão Mawar tiến sát đất liền Philippines, đe dọa nhiều quốc gia
387
Bộ tiểu thuyết lịch sử ‘Dân du mục’ của tác giả Ilyas Yesenberlin là một trong những tác phẩm kinh điển của nền văn học Kazakhstan, tái hiện câu chuyện lịch sử đã định hình nên đất nước này. Bộ tiểu thuyết “Dân du mục”. Bộ tiểu thuyết – biên niên sử Dân du mục viết về thảo nguyên Kazakh trong thời kỳ khai sinh dân tộc (quốc gia) sau sự sụp đổ của Kim Trướng Hãn quốc. Những sự kiện lịch sử bi tráng và hào hùng xảy ra từ thế kỷ 15-19 trên lãnh thổ của nước Kazakhstan tương lai được nhà văn Ilyas Yesenberlin khắc họa chân thực, sống động. Bộ sách gồm 3 tập. Tập 1 Thanh kiếm yêu thuật mô tả thời gian hình thành của Hãn quốc Kazakh thế kỷ 15-16. Đó là thời các vị hãn Abulkhair, Dzhanybek và Kerey bắt đầu tranh giành ngai vàng, khi ý tưởng về sự đoàn kết chặt chẽ hơn giữa các bộ lạc, bộ tộc du mục sống trong lãnh thổ nay là Kazakhstan phát triển giữa những con người Kazakh tương lai. Tập 2 Tuyệt vọng là cuộc đấu tranh hào hùng của người Kazakh chống lại các đạo quân xâm lược từ các nước khác trong thế kỷ 17-18. Tập 3 Hãn Kene là câu chuyện về Kenesary Kasymuly – vị hãn cuối cùng của người Kazakh, cũng là người lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc chống lại việc chiếm các vùng đất Kazakh và các chính sách chia rẽ của nước ngoài trong thế kỷ 18 và 19. Trong 3 thập kỷ, bộ tiểu thuyết Dân du mục của nhà văn Ilyas Yesenberlin đã được xuất bản 50 lần, tổng số phát hành 3 triệu bản, được dịch ra 30 thứ tiếng khác nhau và được trao Giải thưởng Nhà nước Kazakhstan. Đánh giá về tác phẩm này, Tổng thống Kazakhstan Nursultan Nazarbayev đã ca ngợi: “Tác phẩm bộ 3 nổi tiếng Dân du mục nổi bật với phạm vi sử thi, tính linh hoạt của hành động, hình ảnh sống động và độc đáo về các nhân vật kiệt xuất của lịch sử Kazakhstan, ngôn ngữ chính xác và biểu cảm”. Bộ sách Dân du mục do các dịch giả Nguyễn Văn Chiến, Lê Đức Mẫn, Trần Bích Thư và Nguyễn Ngọc Hùng chuyển ngữ sang tiếng Việt, NXB Phụ nữ Việt Nam phát hành. Nhà văn Ilyas Yesenberlin (1915-1983) sáng tác thơ từ năm 1945, sau đó là viết kịch, dịch thuật văn học, viết tiểu thuyết… trong khi kinh qua nhiều nghề như kỹ sư, giảng viên, biên tập viên xưởng phim, giám đốc nhà hát, giám đốc nhà xuất bản, thư ký ban chấp hành Hội Nhà văn Kazakhstan. Kể từ năm 1975, ông dành toàn bộ tâm sức cho việc sáng tác và một số tác phẩm chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời.
Khúc tráng ca thảo nguyên từ Kazakhstan
467
Hướng tới Tết Thiếu nhi 1.6, Tháng hành động vì trẻ em và Ngày Gia đình Việt Nam (28.6), NXB Kim Đồng giới thiệu những tập thơ mới nhất dành cho thiếu nhi. 36 bài thơ của nhà thơ Thụy Anh thể hiện cái nhìn âu yếm trong quan sát lặng lẽ… Phù thủy sợ ma gồm 36 bài thơ của nhà thơ Thụy Anh thể hiện cái nhìn âu yếm trong quan sát lặng lẽ, sự yêu thương bao dung trong ghi nhận và dẫn dắt của cô giáo và tình yêu vô bờ bến của người mẹ được lên men bằng xúc cảm của một Nhà thơ nhiệt tâm với trẻ. Với tư cách một nhà giáo, nhà thơ Thụy Anh không lên gân, khuyên răn mà nhẹ nhàng thủ thỉ để các em có thể tự mình nhận ra các bài học đạo đức. Với tư cách một người mẹ, Thụy Anh không áp lên con những giấc mơ chưa thành của bản thân, yêu cả những điều chưa hoàn hảo của con. Phù thủy sợ ma của Thụy Anh là tập thơ mà các em có thể đọc lúc ở nhà một mình, đọc để nhìn vào chính mình, những cũng có thể đọc thật to cùng nhau và tạo thành các trò chơi như những bài đồng dao. 50 bài thơ theo bốn chủ đề gia đình yêu thương, thiên nhiên làm bạn, những người bạn và thế giới quanh em. Nhà mình vui nhất của Huỳnh Mai Liên là một bất ngờ trên kệ thơ Kim Đồng. Tập thơ gồm 50 bài thơ theo bốn chủ đề gia đình yêu thương, thiên nhiên làm bạn, những người bạn và thế giới quanh em. Độc giả của Nhà mình vui nhất là những em bé bắt đầu bi bô tập nói. Nhà thơ Huỳnh Mai Liên đã chọn nhịp điệu nhanh, vui tươi bằng cách ngắt nhỏ các câu thơ tạo thành thể thơ 2 chữ, 3 chữ là chủ yếu. Những bài thơ nhỏ xinh dễ dàng cho các bé nghe, hiểu và thuộc lòng. Nhà mình vui nhất cung cấp một kho từ vựng đáng yêu, giàu sắc thái biểu cảm, giàu nhạc điệu để các bé học nói và cảm thụ về thế giới xung quanh. Những tập thơ dành cho thiếu nhi được NXB Kim Đồng giới thiệu hè này. Tặng bé bốn mùa là tập thơ đầu tay của bà mẹ trẻ Lê Thị Thiên Hương gửi tặng bạn đọc nhỏ tuổi bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Bé sẽ vui cùng những nhân vật bé nhỏ và nghịch ngợm như cánh cam, ốc sên, cào cào, mèo nhỏ… trong một thế giới mang dáng dấp một khu vườn đầy hoa trái, mở ra cánh đồng xanh tươi. Chính giữa thế giới đó là gia đình ấm cúng, nơi bé lớn lên bình an… Cũng trong dịp này tủ sách Thơ hay viết cho thiếu nhi đón thêm các tác phẩm thơ kinh điển. Đó là các tập thơ: Làm anh của Phan Thị Thanh Nhàn, Bóng mây của Thanh Hào, Gửi gió về cho nội của Khánh Chi và Bầu trời trong quả trứng của Xuân Quỳnh. Đây là những tập thơ đã làm nên tên tuổi của các nhà thơ, có chỗ đứng trong nền văn học thiếu nhi và được thiếu nhi yêu thích.
Những tập thơ mới nhất dành cho thiếu nhi
541
– Diện tích: 5.407 km 2 – Số hộ: 2.234 hộ với 9.663 nhân khẩu. – Vị trí địa lý: Nằm ở Đông Nam của huyện Phú Lộc cách trung tâm huyện khoảng 15 km. Có tọa độ địa lý: 16°16’18.3″B 107°59’27.2″Đ. + Phía Đông giáp: Thị trấn Lăng Cô. + Phía Tây giáp thị xã Lộc Thủy. + Phía Nam giáp xã Thành phố Đà Nẵng + Phía Bắc giáp xã Lộc Vĩnh – Tiềm năng thế mạnh: Là một xã có nguồn lợi về lâm sản, nông sản và thủy sản tương đối phong phú, có thế mạnh trong hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất trong những năm qua luôn đạt ở mức khá, thu nhập và đời sống nhân dân ngày một cải thiện. Nguồn lao động tương đối dồi dào (gần 50% dân số), có khả năng chuyển dịch sang các ngành khác như dịch vụ, du lịch là nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội của xã. Xã Lộc Tiến nằm trên trục phát triển đô thị Chân Mây từ thành phố Huế đến thành phố Đà Nẵng, do đó, có những cơ hội để phát triển những ngành nghề kinh tế phi nông nghiệp như du lịch, dịch vụ… để từng bước có thể chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển đô thị. Hiện tại, trên địa bàn có Khu chức năng công nghiệp thuộc Khu kinh tế Chân Mây Lăng Cô. Do đó, rất thuận lợi cho việc chuyển đổi ngành nghề từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. – Địa chỉ cơ quan: UBND xã Lộc Tiến, xã Lộc Tiến, huyện Phú Lộc , tỉnh Thừa Thiên Huế – Điện thoại cơ quan: 02343872205 – Email:
Giới thiệu khái quát xã Lộc Tiến
280
Xã Vinh Hưng trong tổng thể huyện Phú Lộc. Xã Vinh Hưng có vị trí địa lý nằm ở phía Đông Bắc huyện Phú Lộc , có trục QL 49B chạy qua với chiều gần 6km. Phía Nam giáp xã Vinh Giang và đầm phá Cầu Hai; Phía Bắc giáp xã Vinh An – huyện Phú Vang ; Phía Đông giáp xã Vinh Mỹ; Phía Tây giáp đầm phá cầu Hai – huyện Phú Vang. – Dân số: 8.510 người. – Tổng diện tích: 1606 ha Xã Vinh Hưng trong tổng thể Thừa Thiên Huế. NỮ KHAI QUỐC CÔNG THẦN THỜI CHÚA NGUYỄN Trong đợt khảo sát làng xã ven biển – đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế tháng 8-2015 vừa qua, chúng tôi có duyên tiếp cận nhiều di sản văn hóa độc đáo qua hệ thống đình chùa miếu vũ, lăng mộ, lễ nghi tế tự và văn bản Hán Nôm. Đặc biệt ở đây, chúng tôi muốn giới thiệu về một nữ khai quốc công thần thời chúa Nguyễn ở làng Diêm Trường (Vinh Hưng, Phú Lộc). Chúng tôi bị hấp dẫn từ lời kể của các vị bô lão (Trưởng làng Bùi Ngọc, thủ bộ Đoàn Văn Hưu, Trần Đình Thăng…) về vai trò của Bà Trà – Trà Quận công phu nhân. Dân gian truyền khẩu dù tình tiết, bối cảnh có khác nhau nhưng thống nhất về công lao đánh giặc, bắt cướp của Bà, lúc bán hàng ăn, hoặc đánh cá trên đầm phá. Tất cả được thể hiện rõ nét dần qua di tích Am Bà Trà, nghi lễ cúng tế và nhất là văn bản Hán Nôm từ đầu đời Gia Long, văn bản tự điền của Bà ở Lương Văn trước năm 1975 … giúp phác họa rõ nét thân thế sự nghiệp một bậc nữ lưu đặc biệt hiếm hoi được xếp vào hàng khai quốc công thần thời chúa Nguyễn. Am Bà Trà vốn tọa lạc tại vị trí nay đã bị ủi thành hồ, làm lò vôi, thuộc địa giới làng Phụng Chánh. Do xuống cấp nghiêm trọng nên từ năm 1963, dân làng cung thỉnh Bà về để thiết trí ngôi miếu nhỏ phía trước nhà thờ làng. Bài vị ghi rõ: “Phụng vị bổn thổ Vũ thụy Trà quận công phu nhân tôn thần”. Lăng mộ Ông, Bà nằm xa nhau, trên đất của làng Phụng Chánh, được tái thiết năm 2013, theo dạng lục giác, bằng xi măng kiên cố và vẫn giữ lại hai tấm bia cổ mang phong cách Nguyễn, nổi bật họa tiết trang trí long, phụng trên trán bia. Văn bia cho biết toàn thể chức sắc, thân hào, binh lính và dân chúng xã Diêm Trường kính ghi vào ngày tốt tháng 10 Đinh Hợi (1827 hay 1887, thuộc Hoàng triều – triều Nguyễn), cho Ông là “Hoàng triều cáo thụ Chỉ huy sứ Thanh Hà quận Trương quý công, thụy Trung Lương” và Bà là “Hoàng triều cáo thụ Chỉ huy sứ Kinh Triệu quận Trà quận công phu nhân, thụy Trinh Uyển”. Theo các bậc cao niên, làng từng có 6 mẫu tự điền của Bà ở Lương Văn (Thủy Lương, Hương Thủy), để làng lo cúng tế trọng thể. Từ cuối những năm 1970, bởi khó khăn nên lễ nghi có phần giản tiện, thường hiệp tế vào đại lễ thu tế và đông chí tảo mộ. Rõ ràng với phẩm tước đó, được triều đình thiết trí tự điền thì Trà quận công phu nhân phải là bậc đại công thần lưu danh sử sách, triều đình phong tặng. Nhiều truyền khẩu, giai thoại dân gian về công lao của Bà Trà được làm rõ qua cả nghìn trang tư liệu Hán Nôm, đặc biệt là chiếu của vua Gia Long, kiểu của Bộ Hộ đương thời. Ngày 02/10, Gia Long 4 (tức 22/11/1805), vua đặc biệt ban chiếu khẳng định Trà quận công phu nhân là bậc nữ lưu, gánh vác chí lớn của kẻ trượng phu, đem thân lâm trận, bắn giết quân giặc rất cừ. Công lao to lớn vĩnh viễn lưu truyền, danh thơm chẳng mất. Đến ngày thống nhất hải vũ, triều đình khảo cứu những sự tốt lành của các bậc thạc đức xưa, ghi vào điển chế các bậc anh tài có công trạng. Chuẩn theo Hội nghị Công đồng định lệ cho Bà được dự tòng Khai quốc Công thần đệ nhị cấp, cho 1 hậu duệ chánh phái họ Trương giữ chức Thứ đội trưởng, cấp cho sái phu, ruộng thờ cúng theo cấp bậc. Nhờ đó, chuẩn cho Trương Văn Chuột (xã Diêm Trường, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong) được làm Thứ đội trưởng, tước Thuật Tài bá, coi sóc thờ tự Bà, được miễn nạp thuế, quy tập 3 suất dân ở ngoài làng làm sái phu (miễn việc tòng quân). Hằng năm, chỉnh sửa sổ bộ gia đình gửi lên quan có thẩm quyền để lãnh nhận bằng cấp. Lại cấp cho 6 mẫu ruộng thờ, gồm 2 mẫu nhất đẳng điền, 2 mẫu nhị đẳng điền, 2 mẫu tam đẳng điền. Theo lệ, hậu duệ phải gửi đơn trình bẩm lên quan Hộ bộ để được xét cấp theo thứ hạng. Mỗi năm đều được miễn tô thuế, và nhận cấp tiền, vật hạng để cúng tế thờ phụng. Lại được đời đời nối tiếp tập ấm, ghi vào điển chế thờ tự vĩnh viễn. Từ đó, theo kiểu của Hộ bộ về việc thi hành chiếu ban cấp cho Trà quận công phu nhân ngày 13/12.Gia Long 4 (tức 02/01/1806), Bà là bậc Khai quốc công thần của Tiền triều, được dự tòng làm Khai quốc công thần đệ nhị cấp, Thuật Tài bá có đơn xin cấp 6 mẫu quan điền (ruộng quan), trang điền (ruộng nhà) ở xã Lương Văn làm tự điền. Bộ Hộ phụng mệnh ban Kiểu cấp tại xã Lương Văn 6 mẫu quan điền làm tự điền cho Trà quận công phu nhân, từ năm Bính Dần (1806) trở về sau được chuẩn miễn thuế lệ, lấy đó lo việc thờ tự (Võ Vinh Quang dịch). Lần tìm trong sử liệu, mới thấy rõ công lao rỡ ràng của ông bà Trà quận công. Trong sự biến tháng 7 Tân Mùi (1571), anh em Mỹ Lương, Văn Lan và Nghĩa Sơn ở Khang Lộc (Quảng Bình) cấu kết với họ Trịnh nổi loạn, định đánh úp Vũ Xương nên cho quân mai phục ở Minh Linh và Cầu Ngói (Hải Lăng). Chúa Tiên Nguyễn Hoàng biết được, thân chinh ngầm đánh Mỹ Lương ở Cầu Ngói, sai phó tướng Trương Trà đánh Minh Linh. Giao tranh ác liệt, Mỹ Lương trốn chạy bị chém; Trương Trà tiến quân đến Phúc Thị, đánh nhau với giặc, bị Nghĩa Sơn bắn chết. “Vợ Trà là Trần thị (người xã Diêm Trường) nghe tin nổi giận, mặc quần áo đàn ông thúc quân đánh, bắn chết Nghĩa Sơn tại trận. Quân Văn Lan thua, trốn về với Trịnh. [Thế là] dẹp hết đảng giặc. Chúa đem quân về. Phong Trần thị làm quận phu nhân” (Thực lục tiền biên, QSQ triều Nguyễn, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Giáo dục, 2002, tập I, tr. 29-30). Nhờ công lao to lớn trong trận thắng chiến lược đầu tiên (năm sau 1572 mới thắng Lập Bạo trên sông Ái Tử), Bà được ân điển huân công. Từ tháng 8. Ất Sửu (1805), triều đình ban cấp mộ phu, tự điền cho công thần thời quốc sơ, phân định thành 4 bậc: thượng đẳng (Tổng trấn Tôn Thất Khê, Thiếu úy Tôn Thất Hiệp, Nội tán Đào Duy Từ, Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính – con cháu được ấm thụ đội trưởng 1 người, mộ phu 6 người, tự điền 15 mẫu), nhất đẳng(Khám lí Trần Đức Hòa – con cháu được ấm thụ đội trưởng 1 người, mộ phu 4 người, tự điền 9 mẫu),nhị đẳng (Chưởng cơ Nguyễn Hữu Hào, Trấn phủ Tống Phước Trị, Chưởng dinh Tống Hữu Thanh, Thái giám Nguyễn Đình Quý, Trà quận công phu nhân Trần thị – con cháu được ấm thụ thứ đội trưởng 1 người, mộ phu 3 người, tự điền 6 mẫu), tam đẳng (Thiếu sư Tôn Thất Diễn, Chưởng dinh Tôn Thất Tráng, Chưởng cơ Tống Phước Đào – con cháu được ấm thụ thứ đội trưởng 1 người, mộ phu 2 người, tự điền 3 mẫu) (Tiền biên, Tlđd, tr. 638-639). Công trạng của Bà Trà, ngoài chiến thắng trên xa trường, còn có ý nghĩa phò giá Chúa Tiên buổi đầu đầy gian nan, nên mới được hiếm hoi ân điển dự hàng Khai quốc công thần tiền triều. Trên sinh lộ về Nam sau sự kiện Mậu Ngọ 1558, chúa Nguyễn Hoàng chính thức mở ra trang sử mới cho quốc gia dân tộc, với sự giúp rập của nhiều nữ thần, nữ ân nhân: từ Bà Trão Trão (sông Ái Tử) đến Bà Thiên Mụ (sông Hương); từ Bà Trà cho đến Bà Tơ ở An Mô (Ái Tử), ở Bác Vọng (Quảng Điền). Để ghi nhớ công ơn tiền nhân và giáo dục hậu thế, quốc gia dân tộc nói chung và Thừa Thiên Huế, huyện Phú Lộc, xã Vinh Hưng, làng Diêm Trường nói riêng cần có phương thức vinh danh công lao đặc biệt của Bà Trà một cách xứng đáng. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt này cho lần tiếp theo tôi nhận xét. Δ document.getElementById( "ak_js_1" ).setAttribute( "value", ( new Date() ).getTime() );
Giới thiệu khái quát xã Vinh Hưng
1,594
Mô phỏng gần đây của các nhà khoa học chỉ ra rằng trong một thế giới không có Nghị định thư Montreal, mùa hè không có băng đầu tiên của Bắc Cực sẽ đến sớm hơn khoảng 15 năm so với thế giới thực. Trái đất cần được bảo vệ trước biến đối khí hậu. Nghị định thư Montreal 1987 được biết đến rất nhiều trong việc cứu tầng ô-zôn. Bây giờ các nhà khoa học cho biết nó cũng trì hoãn sự biến mất của băng biển ở Bắc Cực. Thỏa thuận quốc tế nhằm loại bỏ dần chlorofluorocarbons (CFC) làm suy giảm tầng ô-zôn được coi là một trong những hiệp ước môi trường thành công nhất mọi thời đại. Nghị định thư Montreal đã bảo vệ hiệu quả tầng ô-zôn mỏng manh của Trái đất, lớp bảo vệ hành tinh chúng ta khỏi bức xạ tia cực tím có hại từ mặt trời và “lỗ thủng ô-zôn” trong khí quyển đang trên đà phục hồi hoàn toàn trong vòng vài chục năm tới. Nghị định thư Montreal cũng mang đến những lợi ích khí hậu ngoài mong đợi. CFC là khí nhà kính mạnh và sự nóng lên toàn cầu sẽ tồi tệ hơn đáng kể nếu chúng ta vẫn sử dụng chúng tràn lan. Nói cách khác, Nghị định thư Montreal đã giúp làm chậm quá trình tan chảy mất kiểm soát ở Bắc Cực. Một nghiên cứu mới cho thấy, tác dụng của Hiệp ước quốc tế này có khả năng đã ngăn chặn được hơn nửa triệu km vuông băng biển khỏi bị mất. Điều đó không có nghĩa là Nghị định thư Montreal đã cứu Bắc Cực, như cách hiệp ước này đã cứu tầng ô-zôn. Trái đất vẫn đang nóng lên đều đặn và Bắc Cực vẫn đang nóng lên với tốc độ nhanh hơn 3 lần so với tốc độ trung bình toàn cầu. Băng trên biển đã suy giảm dần trong nhiều thập niên và các nhà khoa học ước tính rằng Bắc Băng Dương có thể chứng kiến mùa hè không có băng đầu tiên trong vòng vài thập niên tới. Một số nghiên cứu thậm chí tính toán viễn cảnh kinh khủng đó có thể xảy ra vào năm 2035. Nghiên cứu mới, được công bố trên Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ, phát hiện ra rằng Nghị định thư Montreal chỉ có thể giúp trì hoãn sự xuất hiện của mùa hè không băng tới 15 năm. Các nhà nghiên cứu Mark England và Lorenzo Polvani đã sử dụng các mô phỏng khí hậu để điều tra tác động khí hậu lâu dài của Nghị định thư Montreal. Họ đã so sánh hai kịch bản trong các mô phỏng của mình — một kịch bản trong thế giới thực và một kịch bản mô phỏng những gì sẽ xảy ra nếu Nghị định thư Montreal chưa từng tồn tại. Vẫn chưa chắc chắn chính xác các loại khí nhà kính khác – đặc biệt là carbon dioxide – sẽ tăng hay giảm như thế nào trong bầu khí quyển trong những thập niên tới. Điều đó phụ thuộc vào hành động mà các nước trên thế giới thực hiện để hạn chế biến đổi khí hậu. Nghiên cứu mới giải thích cho những điều không chắc chắn này bằng cách áp dụng 2 giả định trong các mô phỏng khí hậu. Đầu tiên là một kịch bản “hoạt động như bình thường” giả định rằng ít có hoặc không có hành động bảo vệ khí hậu nào xảy ra từ nay đến cuối thế kỷ, đây là kịch bản nghiêm trọng nhưng khó xảy ra vì hiện giờ tất cả đều có ý thức chống biển đổi khí hậu. Kịch bản thứ hai giả định rằng có những hành động bảo vệ khí hậu vừa phải trong những thập niên tới, mặc dù chưa đủ để đáp ứng mục tiêu ngăn nhiệt độ Trái đất tăng không vượt quá 2 độ C. Ở kịch bản giả định thứ hai này, trong một thế giới không có Nghị định thư Montreal, nhiệt độ toàn cầu sẽ ấm hơn gần 1 độ F (khoảng một nửa độ C) vào giữa thế kỷ này. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng mỗi tấn chất khí thải làm suy giảm tầng ô-zôn mà thế giới đã tránh được nhờ có Nghị định thư Montreal có thể đã cứu được khoảng 7.000 km vuông băng biển khỏi bị tan chảy. Tuy nhiên, nghiên cứu không tính đến những sửa đổi gần đây nhất của Nghị định thư Montreal, cụ thể là bản cập nhật năm 2019 được gọi là Sửa đổi Kigali. Bản cập nhật nhằm mục đích loại bỏ dần việc sử dụng hydrofluorocarbons HFC, một loại hóa chất thay thế CFC sau khi Nghị định thư Montreal có hiệu lực. HFC không phá hủy tầng ô-zôn như CFC, nhưng lại làm khí hậu Trái đất ấm lên. Bản sửa đổi Kigali dự kiến sẽ ngăn chặn việc Trái đất nóng lên thêm 1 độ F từ nay đến cuối thế kỷ. Nhưng nghiên cứu mới lưu ý việc áp dụng Bản sửa đổi Kigali được cho là quá muộn để có ảnh hưởng đến mùa hè không có băng ở Bắc Cực đang đến rất nhanh. Đây không phải là nghiên cứu đầu tiên chỉ ra những lợi ích về khí hậu của Nghị định thư Montreal. Một nghiên cứu khác cũng đã kết luận rằng Nghị định thư Montreal đã kìm hãm đáng kể tốc độ Trái đất nóng lên trong nhiều năm qua – có lẽ còn nhiều hơn những gì nghiên cứu mới chỉ ra. Một bài báo trên tạp chí Environmental Research Letters năm 2021 ước tính rằng nhiệt độ toàn cầu có thể cao hơn tới 1,8 độ F vào năm 2050 nếu Thỏa thuận về khí hậu này không tồn tại. Các nhà khoa học khác đã xem xét cụ thể tác động của hiệp ước đối với Bắc Cực. Một nghiên cứu năm 2020 trên tạp chí Nature Climate Change gợi ý rằng các chất làm suy giảm tầng ô-zôn có thể là một nửa nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên ở Bắc Cực từ năm 1955 đến năm 2005. Polvani, một trong hai tác giả nghiên cứu, cho biết: “Những phát hiện của chúng tôi chứng minh rõ ràng rằng Nghị định thư Montreal là một hiệp ước bảo vệ khí hậu rất mạnh mẽ và đã làm được nhiều hơn là việc chỉ chữa lành lỗ thủng tầng ô-zôn ở Nam Cực. Tác động của nó đang được cảm nhận trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Bắc Cực ”. Nghị định thư Montreál về các chất làm suy giảm tầng ôzôn (một nghị định thư của Công ước Vienna về bảo hộ của các tầng ô-zôn) là một hiệp ước quốc tế được thiết kế để bảo vệ tầng ô-zôn bằng cách loại bỏ dần việc sản xuất nhiều các chất được cho là chịu trách nhiệm về sự suy giảm ô-zôn. Hiệp ước này được mở cho việc ký kết vào ngày 16.9.1987, và đã có hiệu lực từ ngày 1.1.1989, theo sau một cuộc họp đầu tiên tại Helsinki, tháng 5.1989. Kể từ đó, nó đã trải qua 9 lần xem xét và chỉnh sửa lại vào các năm 1990 (London), 1991 (Nairobi), 1992 (Copenhagen), 1993 (Bangkok), 1995 (Vienna), 1997 (Montreál), 1998 (Úc), 1999 (Bắc Kinh), 2016 (Kigali). Nghị định đã được 196 quốc gia phê duyệt. Người ta tin rằng nếu các thỏa thuận quốc tế được tôn trọng, tầng ô-zôn dự kiến sẽ phục hồi vào năm 2050. Do thông qua thực hiện rộng rãi và đã được ca ngợi là một ví dụ về hợp tác quốc tế đặc biệt, với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc lúc đó là Kofi Annan được trích dẫn nói rằng “có lẽ thỏa thuận quốc tế thành công nhất cho đến nay đã đạt được trên thế giới là Nghị định thư Montreal”.
Một hành động đã giúp ngăn tốc độ băng tan ở cả Nam cực và Bắc cực
1,341
Nhà thơ Nguyễn Ngọc Oánh (1937-2023). Vĩnh biệt nhà thơ Nguyễn Ngọc Oánh Nhà thơ Nguyễn Ngọc Oánh sinh 1937, Quê quán xã Quỳnh Bá, huyện Quỳnh Lưu , tỉnh Nghệ An . Ông là Phó Giáo sư – Tiến sĩ Kinh tế, Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Nguyên Tổng thư ký hiệp Hội Ngân hàng Việt Nam; Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Chủ nhiệm khoa KT-TC-NH Trường Đại học Thành Tây, Hà Nội. Xuất thân là một nhà làm kinh tế, song Nguyễn Ngọc Oánh lại “bén duyên” với văn chương. Tuy nhiên, không như một số tác giả sau sau một thời gian chuyển hẳn sang lĩnh vực hoạt động văn học, Nguyễn Ngọc Oánh là một trong số các tác giả vẫn trụ lại ở lĩnh vực chuyên môn của mình, vừa làm khoa học, làm quản lý, vừa làm thơ. Ông tâm sự về điều này trong cuốn N hà văn Việt Nam Hiện đại (NXB Hội Nhà văn, 2007): “ Tôi làm ngh ề ngân hàng, một nghề đòi hỏi phải nhạy cảm, quyết đoán và giàu ước mơ… Hằng ngày sống với những con số, những tư duy chính xác, có bản lĩnh trong quản lý và kinh doanh, càng cần đến thơ… Thơ như của nhặt được, nhiều khi tự dưng mà có… ”. Nguyễn Ngọc Oánh trở thành nhà thơ, là Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, rồi Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, với “gia tài” văn chương gồm gần 20 tập thơ, trong đó có lẽ tác phẩm được ông đầu tư nhiều công sức, tâm huyết nhất, kể cả ở việc sáng tác lẫn tổ chức bản thảo, tư liệu, là cuốn NGUYỄN NGỌC OÁNH – THƠ – TÁC PHẨM & DƯ LUẬN, do Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội xuất bản tháng 12 năm 2009, dày gần ngàn trang khổ 14,5×20,5cm. Trong bài Bạt của tập sách này, nhà phê bình văn học Thái Doãn Hiểu viết: “ Giữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ta một nhà thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh… ”. Đánh giá của nhà phê bình Thái Doãn Hiểu quả là đã chấm phá nên những nét khái quát lớn bức chân dung của một Nhà khoa học – nhà thơ mang tên Nguyễn Ngọc Oánh. Song tách biệt từng lĩnh vực, cũng không khó để nhận ra những lấp lánh từ con người và tâm hồn ông: Trong Điếu văn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại lễ truy điệu Phó Thống đốc Nguyễn Ngọc Oánh có đoạn viết: “… Hơn 45 năm công tác, dù ở bất cứ hoàn cảnh, cương vị công tác nào, đồng chí Nguyễn Ngọc Oánh cũng luôn thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao nhất đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của đất nước của dân tộc. Trong ngành Ngân hàng, với tài năng và đức độ của mình, Đồng chí Nguyễn Ngọc Oánh đã được giao nhiều trọng trách trong công việc và lần lượt giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng các cấp, trong đó có 10 năm giữ vị trí Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước . Qua những trọng trách được giao, Đồng chí Nguyễn Ngọc Oánh đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và và phát triển của ngành Ngân hàng, luôn là người lãnh đạo cấp cao mẫu mực, cần kiệm, liêm chính để đồng chí, đồng nghiệp trong ngành luôn tin tưởng phấn đấu, noi theo… Với những công lao to lớn của mình, Đồng chí Nguyễn Ngọc Oánh đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tặng kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Ngân hàng”, danh hiệu Chiến sĩ thi đua Ngành Ngân hàng nhiều năm và nhiều Bằng khen, Giấy khen cao quý khác… ” Và kết luận: “… Những hình ảnh của đồng chí, một con người tài năng, đức độ, sống giản dị, thân ái với mọi người, chí tình chí nghĩa với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp sẽ luôn được ghi sâu trong tâm trí của mỗi chúng tôi, của cán bộ Ngành Ngân hàng các thế hệ …” Còn trong lĩnh vực văn chương, cũng có thể kể ra không ít những trân trọng của bạn bè dành cho nhà thơ Nguyễn Ngọc Oánh: “… Phạm Tiến Duật có lý khi anh gọi Nguyễn Ngọc Oánh là người làm thơ “cả nghĩ”, Bằng Việt thì trầm trồ “Tài hoa và phóng túng”. Tôi thêm: “đa tình” nữa! Nguyễn Ngọc Oánh thuộc nòi tình. Cặp mắt thi sĩ của anh hễ liếc vào chỗ nào thì chỗ đó lung linh lên, chới với …” (Thái Doãn Hiểu)… Còn nhà thơ Võ Văn Trực thì đánh giá: “… Dẫu ở núi rừng, ở đồng bằng, hay thành phố, tâm hồn nhà thơ tràn ngập hương hoa. Thiên nhiên luôn luôn ấp iu và làm nảy nở trong hồn những ý thơ tươi non: Cái đuôi của chú chìa vôi/ Quệt vào nỗi nhớ của tôi, suốt chiều… Và không thể không gợi nhớ hình ảnh lầm lũi và vất vả của người mẹ: Gót chân nứt nẻ đông hè/ Ruộng sâu bấm mãi đã tòe ngón chân… ” * Nguyễn Ngọc Oánh sở trường về thơ ngắn. Những bài tứ tuyệt, thơ hai câu và thơ lục bát của ông viết nhiều và khá thành công. Thơ ông không cầu kỳ khó hiểu mà vẫn sâu đậm chất triết lý dân dã trong trẻo, chất tình tứ của hội làng; đằm thắm nét truyền thống và bộn bề cốt cách hiện đại. Nhiều bài đạt đến độ toàn bích, có nhiều câu, đoạn gây xúc động, tạo được cái vỡ òa về cảm xúc và thẩm mỹ đối với người đọc… Là người làm thơ “tay ngang”, song so với nhiều nhà thơ “chuyên nghiệp” khác, mật độ những bài hay, câu hay trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Oánh khá dày, thậm chí còn vượt trội bởi sự độc đáo. Cái độc đáo không nằm ở sự cầu kỳ câu chữ, hay trong những ý tưởng tìm tòi bí hiểm, mà nằm ở chính những rung động trong cuộc sống thường ngày: “ Vòm trời se lạnh rộng thênh/ Để ai mượn cớ nép mình vào ai ” (Sapa mùa trăng) ; Hay “ Niềm vui đi gặp nỗi buồn / Vầng trăng côi cút tủi luồn chân mây ” (Chợ tình Khau Vai). Những câu thơ tạo được sự duyên dáng trong đời thực, song cũng lại nhuần nhuyễn, mờ ảo trong những tiếng ngân mà nó tạo nên… Có lẽ bởi đặc điểm này mà có người đã ví thơ ông giống như những châm ngôn lịch lãm được đúc kết từ những trải nghiệm, và được trau chuốt bằng sự từng trải của một người có cả một quá trình tư duy dầy dặn: “ Nước mắt tuôn trong veo/ Hỏi rằng nguồn có sạch ?”; “ Sao nỡ đập vỡ kính/ Để nhận về muôn gươm !”; “ Dẫu là đỡ kịp hoa rơi/ Thì làn hương vẫn chơi vơi cuối cành ”; “ Hoa rơi trên đất vẫn hoa/ Hoa thơm lạc tận xó nhà vẫn thơm ”; “ Núi cao không phải nhiều lời/ Nụ cười chẳng phải phiên dịch ”; “ Đầu nguồn nước mặn tiếng chim/ Cuối sông nước mặn nỗi niềm phù sa ”… là những câu thơ như vậy. * Nguyễn Ngọc Oánh đã đi từ một “Chàng trẻ Oánh” cho đến “Ông lão Oánh” theo cách nói của Thái Doãn Hiểu: “ Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già! ”. Cả hai con người này, trong thơ, đều da diết một tình yêu nồng nhiệt. Trẻ thì: “… Em như tai vạ khó ngừa / Bỗng đâu giáng xuống không chừa anh ra / Em như chuông vẳng mây xa / Lòng anh khắc khoải thánh ca không lời … ” (Một thoáng Tây Hồ). Đển tuổi già: “ Nhỡ nhàng từ thuở giêng hai / Cái tình vẫn trẻ, cái vai đã gù ”… Câu thơ như chạm tới tận tâm can mỗi người. Cứ tưởng là hạnh phúc mà đầy truân trải. Cười đấy mà đau đến tận cùng. Thế nhưng tuổi già không khiến cho Nguyễn Ngọc Oánh bớt sự đam mê yêu thương, mà ngược lại, chính tình yêu đã vun vén, đã truyền lửa cho nhà thơ vượt lên trên khỏi tuổi già. Chỉ có điều… “ Tháng năm xanh ai đốt Tàn tro bay trắng đầu Về quê thăm bạn cũ Mây bồng bềnh mắt nhau…” (Thăm bạn) Bài thơ chỉ có bốn câu, 20 chữ, nhưng thật ám ảnh bởi sự tài hoa khi nhà thơ lấy khoảng thời gian một sợi tóc từ xanh hóa bạc rồi biến nó thành mảy may, thế mà vẫn gói ghém được cái ngắn ngủi phù du đến mỏng tang của cả một kiếp người… Và rồi, chính nhà thơ cũng không vượt khỏi được cái quy luật nghiệt ngã ấy. Đến một ngày, ông cũng trở thành mỏng tang trong cõi phù du… Nhà thơ đã thanh thản đi vào cõi vô cùng vào hồi 12 giờ 40 phút ngày 24 tháng 5 năm 2023 (tức ngày 06 tháng 4 năm Quý Mão) tại nhà riêng, nơi có “Thi Viên Các” thanh cao mà dân dã của ông, hưởng thọ 87 tuổi. Lễ tang nhà thơ Nguyễn Ngọc Oánh được tổ chức ngày 29/5/2023, tức ngày 11 tháng 4 năm Quý Mão, tại Nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông Hà Nội, Mặc dù ông quan niệm “ Thơ như của nhặt được, nhiều khi tự dưng mà có ”, song cho đến lúc ra đi, nhà thơ Nguyễn Ngọc Oánh cũng đã kịp để lại cho cuộc đời một gia tài thi ca đầy đam mê và chiêm nghiệm đáng để mỉm cười. Ngoài 16 tập thơ đã được thống kê, cùng nhiều câu thơ, bài thơ được bạn đọc ghi nhớ, Nguyễn Ngọc Oánh còn sở hữu nhiều giải thưởng văn học chính thức và trong lòng người đọc: Giải thưởng báo Người Hà Nội (1994); Giải thưởng Văn học thiếu nhi – Hội Nhà văn Việt Nam (1994); Giải thưởng báo Phụ nữ Việt Nam (1994); Giải thưởng cuộc thi Thơ Tuổi hoa do Hội đồng Văn học thiếu nhi – Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức (1994); Giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn nghệ (1995); Giải thưởng cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội (1996); Giải thưởng cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do NXB Kim Đồng tổ chức (2021-2022)… Ngoài ra, bài thơ Mẹ của ông cũng được bình chọn là một trong 100 bài thơ hay của thế kỷ XX… Vâng. “ Thơ – với Nguyễn Ngọc Oánh tất cả đang phía trước ”. Khi ông in tập sách cuối cùng cách đây gần 15 năm trước khi ngã bệnh, có nhà phê bình đã đánh giá như vậy. Còn bây giờ, thơ với ông đã trở thành người bạn tình chung thủy đi bên ông suốt cả cuộc đời. Bởi vì bây giờ nhắc đến Nguyễn Ngọc Oánh, người ta không thể không nhắc đến những câu thơ Và tất nhiên là cả tình người…
Còn một Nguyễn Ngọc Oánh khác trong thơ
1,874
Dân gian gọi vị trạng nguyên này là ‘Trạng Lường’. Nhờ tài năng của mình, ông được vua vô cùng yêu quý. 1. Vị trạng nguyên nào từng khiến vua hai lần bật khóc? Lương Thế Vinh (1441 – 1496) sinh ra tại Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản , tỉnh Nam Định ). Ông đỗ Trạng nguyên và làm quan dưới triều Lê Sơ. Ông từng hai lần khiến vua phải bật khóc. Lần đầu, ông ở dưới nước, giả vờ chết đuối khi bị vua thử lòng. Lần thứ hai, vua khóc vì Lương Thế Vinh đột ngột qua đời ở tuổi 55. Vua Lê Thánh Tông có làm một bài thơ khóc Trạng: “Khí thiên đã lại thu sơn nhạc Danh lạ còn truyền để quốc gia Khuất ngón tay than tài cái thế Lấy ai làm Trạng nước Nam ta”. 2. Vì sao dân gian gọi ông là Trạng Lường? Trạng nguyên Lương Thế Vinh rất giỏi về toán học và đo lường, vì vậy nhân dân gọi ông là Trạng Lường. Lương Thế Vinh làm quan tới chức Trực học sĩ, Thị thư và Chưởng viện sự ở viện Hàn lâm. Ngoài các tác phẩm toán học, ông cũng nghiên cứu âm nhạc dân gian, ví dụ hát chèo. Vua Lê Thánh Tông từng giao cho ông trọng trách đặt ra các quy định về lễ nhạc triều đình. 3. Trạng Lường Lương Thế Vinh nổi tiếng với tác phẩm toán học nào? Đại thành toán pháp là cuốn sách toán học được Trạng nguyên Lương Thế Vinh biên soạn từ giữa thế kỷ XV. Hiện nay, Việt Nam vẫn còn lưu giữ được những bản in từ thời Lê trung hưng và thời nhà Nguyễn. Sách Đại thành toán pháp đề cập tới phép nhân, chia, bảng cửu chương, các phép đặt ẩn, tìm ẩn, giải toán đại số. Ngoài ra, Lương Thế Vinh còn nói về số Pi, cách tính diện tích hình phẳng, tính chiều cao vật thể theo độ dài bóng nắng… Đặc biệt, Đại thành toán pháp còn có nội dung tính thể tích, khai căn của một con số, phép quy đổi tỷ giá tiền tệ. 4. Lương Thế Vinh từng tạo ra vật dụng nào? Một số tài liệu xem Lương Thế Vinh là nhân vật chế tạo ra bàn tính gẩy cho người Việt. Ban đầu, ông làm bàn tính bằng đất, rồi thay bằng trúc, gỗ. Ông cho sơn màu khác nhau để người dùng dễ ghi nhớ con số. Dân gian cũng ghi lại nhiều câu chuyện về trí tuệ của Trạng Lường Lương Thế Vinh. Ví dụ, khi còn nhỏ, quả bóng bằng bưởi của ông lăn xuống một cái hố sâu, Lương Thế Vinh bèn kêu gọi các bạn đổ nước vào để quả bưởi nổi lên và dễ dàng lấy ra. Về sau, sứ thần nhà Minh vì muốn thử tài dân nước Việt đã yêu cầu Lương Thế Vinh cân một con voi. Trạng Lường nghĩ ra cách dẫn voi xuống thuyền, đánh dấu mực nước dâng lên bên mạn thuyền. Cuối cùng, ông thay voi bằng các khối đá, sao cho mực nước dâng lên mốc cũ, chỉ cần cân hết khối đá là có được cân nặng của voi. 5. Đương thời, đối thủ cạnh tranh với Lương Thế Vinh về đạo học là ai? Tương truyền, Quách Đình Bảo cũng là người nổi tiếng thông minh, ham học tại vùng Sơn Nam (Thái Bình, Nam Định ngày nay). Đây cũng là quê của Trạng Lường, vì vậy, hai người có sự cạnh tranh trong khoa cử. Năm đó, khi sắp đến kỳ thi do triều đình tổ chức, Quách Đình Bảo ngày đêm dùi mài kinh sử đến mức quên ăn quên ngủ. Về phía Lương Thế Vinh, ông lại ung dung thả diều cùng bạn bè. Kết quả, những bài thi đầu Quách Đình Bảo vượt trội, tuy nhiên, đến kỳ thi Đình năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên, còn Quách Đình Bảo chỉ đỗ thám hoa.
Vị trạng nguyên nào từng khiến vua hai lần bật khóc?
670
Siêu bão Mawar đã suy yếu khi đến gần Philippines nhưng dự kiến vẫn mang theo mưa lớn và gió mạnh. Cơ quan dự báo thời tiết quốc gia Philippines cho biết bão Mawar đang tiến gần hơn về phía Philippines với sức gió gần tâm bão đạt 165 km/giờ, giật trên 205 km/giờ. Nó dự kiến suy yếu dần cho đến ngày 30-5. Một số khu vực ở phía Bắc Philippines nhận được cảnh báo gió bão, trong khi một số cư dân địa phương đã đi sơ tán. Dù suy yếu nhưng siêu bão Mawar được dự báo vẫn gây ra mưa lớn và gió mạnh ở các khu vực phía Tây Philippines cùng với khả năng gây ra lũ lụt và lở đất. Chuẩn bị hàng cứu trợ trước siêu bão Mawar tại TP Quezon – Philippines hôm 27-5. Ảnh: EPA. “Lượng mưa và sức gió của Mawar ở Philippines sẽ phụ thuộc vào việc cơn bão này tiếp cận gần đến đâu trước khi nó dự kiến chuyển hướng về phía Bắc tới quần đảo Ryukyu của Nhật Bản và phía Đông Đài Loan (Trung Quốc)” – trang AccuWeather cho biết. Nhà chức trách Philippines đã yêu cầu đình chỉ các chuyến đi biển, đồng thời cảnh báo các thuyền nhỏ không đánh bắt ngoài khơi. Cách đây ít ngày, Mawar gây thiệt hại trên diện rộng cho đảo Guam – Mỹ. Nó đã tăng cường sức mạnh lên mức siêu bão, ngang cấp độ 5 của bão ở Đại Tây Dương khi di chuyển về phía Philippines . Cơ quan Điện lực đảo Guam cho biết gần như toàn bộ hòn đảo gồm 52.000 ngôi nhà và doanh nghiệp bị mất điện. Không có báo cáo về số người thiệt mạng nhưng Mawar gây ra thiệt hại nặng về vật chất. Đài CNN dẫn lời Thống đốc Lou Leon Guerrero cho hay phần lớn đảo Guam bị hư hại. Nhiều cư dân địa phương không có điện hoặc nước sạch sử dụng. Hiện siêu bão này tiếp tục di chuyển về phía Bắc, sau đó là Đông Bắc, dự kiến tác động tới Đài Loan (Trung Quốc) và Hàn Quốc. Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết của khu vực, Mawar có thể di chuyển về phía Tây về phía Đài Loan hoặc Tây Bắc về phía Nhật Bản và có thể suy yếu dần khi gặp các vùng biển có không khí mát mẻ hơn. Các chuyên gia thời tiết xác nhận với trang The Independent rằng sức mạnh của Mawar đã vượt qua bất kỳ cơn bão nào trong năm 2022 trước đó.
Diễn biến mới nhất của bão Mawar sau khi áp sát Philippines
426
Nhận giải thưởng Đạo diễn xuất sắc tại Liên hoan phim Cannes 2023, đạo diễn Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng cho biết anh luôn tự tin phim của mình sẽ ăn khách. Sau ba thập niên đoạt giải Caméra d’Or (Camera Vàng) ở Cannes với Mùi đu đủ xanh (1993), đạo diễn Trần Anh Hùng tiếp tục làm nên chiến thắng lịch sử tại sự kiện điện ảnh danh giá của thế giới. The Pot au Feu (tên khác là La Passion de Dodin Bouffant ) lấy bối cảnh thế giới ẩm thực Pháp năm 1885. Bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết năm 1924 của Marcel Rouffe là The Passionate Epicure kể về một nhân vật hư cấu, được truyền cảm hứng từ nhà ẩm thực nổi tiếng người Pháp Jean Anthelme Brillat-Savarin. Đạo diễn Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng nhận giải thưởng Cannes 2023. Bộ phim xoay quanh chuyện tình giữa đầu bếp Eugenie (Juliette Binoche) và người khách sành ăn Dodin Bouffant (Benoît Magimel). Ngày càng yêu mến nhau, mối quan hệ của họ tạo ra những món ăn ngon gây ấn tượng ngay cả với những đầu bếp lừng lẫy nhất thế giới. Trong cuộc phỏng vấn với Variety , đạo diễn Trần Anh Hùng đã thảo luận về những thách thức khi làm phim về ẩm thực, cùng ước mơ làm một bộ phim về Đức Phật.. Anh có mong đợi “Pot au Feu” sẽ nhận được nhiều lời khen ngợi từ Cannes không? Hãy thứ lỗi cho sự thẳng thắn của tôi, nhưng mỗi lần tôi làm một bộ phim, tôi đều tin rằng nó sẽ ăn khách. Tôi luôn nghĩ mọi người sẽ yêu thích nó. Tại sao anh muốn làm một bộ phim về ẩm thực? Thử thách đầu tiên của tôi là làm một bộ phim không giống bất kỳ bộ phim nào khác. Ý tưởng là kết hợp ẩm thực thành một câu chuyện tình yêu, cũng như xem cách một người đàn ông và một người phụ nữ có chung niềm đam mê nghệ thuật ẩm thực hơn 25 năm hình thành nên mối liên kết thiêng liêng này như thế nào. Tại sao anh muốn chuyển thể tiểu thuyết của Marcel Rouffe? Khi tôi đọc cuốn tiểu thuyết này, có một vài trang anh ấy nói về thức ăn khiến tôi cảm động và truyền cảm hứng cho tôi. Bộ phim bắt đầu từ nơi cuốn sách bắt đầu, nó giống như một phần tiền truyện. The Pot au Feu nổi bật với chuỗi 40 phút mô tả quá trình chuẩn bị bữa ăn tỉ mỉ. Thực sự chưa bao giờ thấy điều đó, ngay cả trong một chương trình nấu ăn? Mục tiêu rõ ràng của tôi là thể hiện thứ gì đó mà chúng ta chưa từng thấy trước đây, đồng thời là thứ cực kỳ bình thường, không có thêm bất kỳ yếu tố ngoạn mục nào. Tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi quay vũ đạo này theo cách điện ảnh thì nó sẽ trở nên lộng lẫy, giống như một vở ballet vậy. Pierre Gagnaire và Michel Naves – cố vấn của chúng tôi trên phim trường, rất lo lắng khi thấy chúng tôi bắt đầu bằng cách quay các bữa ăn đã nấu chín và sau đó quay các nguyên liệu thô. Chúng tôi đã tiêu tốn rất nhiều thức ăn. Ví dụ, đối với nồi Pot au feu (món hầm kiểu pháp) chúng tôi đã sử dụng tới 40 kg thịt. Anh đã làm gì với tất cả những thực phẩm đó? Chúng tôi đã ăn tất cả. Vì vậy, chúng tôi đã có những bữa ăn ngon nhất trên phim trường. Làm thế nào để tái hợp cặp diễn viên Juliette Binoche với Benoît Magimel, sau nhiều năm? Họ đều là những diễn viên tuyệt vời và hoàn toàn chuyên nghiệp. Họ đã nhanh chóng hóa thân vào nhân vật của họ. Trong quá trình quay phim, có một số khoảnh khắc đáng kinh ngạc, chẳng hạn như khi Juliette hôn Dodin mặc dù điều đó không có trong kịch bản. Benoît đã bị choáng ngợp và đến gặp tôi để hỏi: “Nó không có trong kịch bản, phải không?”. Hoặc đôi khi, Benoît quên lời thoại của mình và nói với tôi: “Ồ xin lỗi, tôi bị lạc trong mắt cô ấy”. Cảnh phim “The Pot au Feu” của đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng. (Nguồn: Écran total). Sau thành công từ bộ phim này, anh có dự án mơ ước nào khác? Tôi ước mơ làm một bộ phim về Đức Phật. Vì ông rất ít được biết đến và tôi nghĩ sẽ rất thú vị vì di sản tinh thần của ông kéo dài 25 thế kỷ. Điều đó thật phi thường. Đức Phật đã chữa lành cho rất nhiều người trên trái đất này và học thuyết của ông xứng đáng được biết đến. Ngoài ra, tôi cũng muốn làm một bộ phim ở Việt Nam với dàn diễn viên hoàn toàn là nữ! (theo Variety)
Đạo diễn Trần Anh Hùng: Mỗi lần làm một bộ phim, tôi đều tin rằng nó sẽ ăn khách!
815
Tây Du Ký là một bộ tiểu thuyết lớn đồ sộ của Ngô Thừa Ân, nội dung của truyện Tây Du Ký, gồm toàn những truyện thần tiên, yêu tinh ma quỷ, diêm vương, Quan âm bồ tát, và cuối cùng là thầy trò Đường Tăng đã vượt qua được 81 kiếp nạn và đem được kinh phật về nước Đại Đường. Truyện Tây Du Ký dựa trên sự tưởng tượng phong phú táo bạo và đa dạng, nhưng nó đã thu được sự cuốn hút, lôi cuốn của người đọc. Ngô Thừa Ân tên chữ là Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn Nhân, sinh năm Canh Thân 1500, quê ở Sơn Dương, phủ Hoài An (ngày nay thuộc tỉnh Giang Tô). Ngô Thừa Ân là con của một người lái buôn nhỏ chuyên bán chỉ màu, đồ thêu. Bộ tiểu thuyết Tây Du Ký. Ngay từ thuở nhỏ, Ngô Thừa Ân đã nổi tiếng là thông minh, học giỏi, nhưng khi lớn lên, ông lại lận đận với con đường khoa bảng. Ông đi thi nhiều lần nhưng đều bị đánh trượt, mãi đến năm 1543 khi đã 43 tuổi, ông mới đỗ “Tuế cống sinh”, và sau đó làm Thừa Lại ở huyện, nhưng không được bao lâu thì ông phải bỏ việc về nhà, vì ông không chịu được nhục nhã phải vào luồn ra cúi. Về sau này, Ngô Thừa Ân được tiến cử giữ chức trong kinh vương phủ, chuyên coi việc lễ nhạc và văn thơ, nhưng công việc này ông cũng chỉ làm được vài năm. Và khi đã ngoài 50 tuổi, ông đã quyết định về quê sinh sống, và sống cuộc đời ẩn dật, trong thời gian còn lại của đời mình từ lúc đó, Ngô Thừa Ân chuyên vào việc viết văn, chủ yếu là viết truyện thần tiên kỳ quái. Vì ngay từ thời còn bé, ông đã ham mê thể loại truyện này. Ngô Thừa Ân. Cuối cùng sau một thời gian miêt mài biên soạn viết lách vất vả, do nhà nghèo lại không có con cháu phục vụ nên mọi việc rất khó khăn đối với ông. Tuy cuộc sống vất vả khổ cực, nhưng cuối cùng ông đã biên soạn sáng tác ra nhiều tác phẩm văn học có giá trị cao, trong đó nổi bật nhất là bộ tiểu thuyết trường thiên bất hủ Tây Du Ký. Tây Du Ký được Ngô Thừa Ân hoàn thành khi ông đã ngoài 70 tuổi. Ngoài Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân còn viết Vũ Đỉnh Chí, đây cũng là một bộ truyện chí quái, và nhiều tác phẩm văn thơ khác. Về sau này các truyện của Ngô Thừa Ân viết được tập hợp lại thành Xạ Dương tiên sinh tồn cảo (gồm bốn quyển), nhưng cho đến ngày nay các bộ sách đó đã bị thất lạc, và tác phẩm còn lại duy nhất của Ngô Thừa Ân là bộ Tây Du Ký. Nội dung chính của Tây Du Ký được bắt đầu từ một câu chuyện có thật: Nhà sư trẻ Đường Huyền Trang, thời vua Đường Thái Tông (599 – 649), vào năm 628, Đường Huyền Trang đã một mình sang Ấn Đô xin kinh phật, đường đi dài 5 vạn dặm, vượt qua tất cả 128 nước lớn nhỏ, và thời gian cả đi và về hết đúng 17 năm. Vào năm Ất Tỵ 645, Trần Huyền Trang đã đem được kinh phật về cho vua Đường Thái Tông. Câu chuyện có thật đó vốn dĩ đã mang màu sắc huyền thoại, và được truyền tụng trong dân gian, lâu ngày nó trở thành truyền thuyết, và được thần thoại hóa. Đến thời kỳ nhà Tống (960 – 1279), những nghệ nhân kể chuyện đã phát triển câu chuyện trên thành một câu chuyện hoàn chỉnh, và về sau này đến thời Ngô Thừa Ân đã dựa vào đó để làm nền tảng cho bộ tiểu thuyết Tây Du Ký . Đến thời kỳ nhà Nguyên (1279 – 1368) lại xuất hiện bộ Tây Du Ký bình thoại, ngoài ra trong tạp kịch đời Nguyên cũng đã xuất hiện một số vở kịch về đề Tây Du, và đến thời nhà Minh, Ngô Thừa Ân đã dày công thu thập truyền thuyết, dã sử dựa vào tác phẩm vốn có trước đó, phát huy thiên tài sáng tạo, hoàn thành bộ tiểu thuyết trường thiên Tây Du Ký, với toàn bộ cốt truyện bao gồm 100 hồi. Tây Du Ký là một bộ tiểu thuyết lớn đồ sộ của Ngô Thừa Ân, nội dung của truyện Tây Du Ký, gồm toàn những truyện thần tiên, yêu tinh ma quỷ, diêm vương, Quan âm bồ tát, và cuối cùng là thầy trò Đường Tăng đã vượt qua được 81 kiếp nạn và đem được kinh phật về nước Đại Đường. Truyện Tây Du Ký dựa trên sự tưởng tượng phong phú táo bạo và đa dạng, nhưng nó đã thu được sự cuốn hút lôi cuốn của người đọc. Cuối đời nhà Minh, đầu thời nhà Thanh, xuất hiện Hậu Tây Du Ký, nhưng chưa rõ tác giả là ai. Nhưng trước khi Hậu Tây Du Ký ra đời thì tác giả của bộ Tây Du Ký đã mất vào năm Tân Tỵ 1581, hưởng thọ 81 tuổi. Ngày nay Tây Du Ký được lưu truyền rộng rãi và nó được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Với công sức biên soạn bộ tiểu thuyết Tây Du Ký – Một trong tám bộ tiểu thuyết trường thiên bất hủ của tiểu thuyết Minh – Thanh. Ngô Thừa Ân xứng đáng là một trong những tác gia lỗi lạc xuất sắc của văn học Trung Quốc .
Tây Du Ký – Tác phẩm bất hủ của Ngô Thừa Ân
954
Những bài học của cuộc đổi mới lần một của thế hệ Tổng cục trưởng Đặng Văn Thân sẽ vẫn còn nguyên giá trị cho đổi mới lần hai và thế hệ sau tiếp tục tiến bước với tinh thần đó. Đồng chí Đặng Văn Thân, Anh hùng Lao động (AHLĐ) thời kỳ đổi mới, người đã có những đóng góp quan trọng, đưa ngành Bưu điện trở thành lĩnh vực tiên phong trong công cuộc Đổi mới đất nước, đã đi xa. Sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, tập thể các giáo sư, bác sĩ và gia đình tận tình chăm sóc, cứu chữa, song do tuổi cao, sức yếu, đồng chí đã từ trần hồi 21 giờ 37 phút, ngày 24/5/2023 (tức ngày 06 tháng 4 năm Quý Mão) tại nhà riêng, hưởng thọ 92 tuổi. Tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” là những giá trị quý giá mà Thế hệ AHLĐ Đặng Văn Thân và các Lãnh đạo Ngành đã để lại. Đồng chí Đặng Văn Thân, sinh ngày 06/11/1932 tại xã Phước Long, huyện Giồng Trôm , tỉnh Bến Tre (nay là xã Phước Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) trong một gia đình, quê hương giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng. Năm 1967, sau khi tốt nghiệp đại học tại Liên Xô cũ trở về nước, đồng chí công tác tại Viện Khoa học – Kỹ thuật Bưu điện thuộc Tổng cục Bưu điện. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, đồng chí được cử trở lại miền Nam công tác với cương vị Giám đốc Trung tâm viễn thông III. Năm 1984, đồng chí được điều động ra Hà Nội và giữ trọng trách Quyền Tổng cục trưởng, rồi Tổng cục trưởng Tổng Cục Bưu điện, Bí thư Ban cán sự Đảng Tổng cục Bưu điện, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Đại biểu Quốc hội khóa VII. Đây cũng là thời kỳ đất nước ta bắt đầu bước vào công cuộc Đổi mới trong điều kiện bị bao vây cấm vận, nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất của ngành Bưu điện vừa thiếu thốn vừa có trình độ kỹ thuật thấp, doanh thu chủ yếu đến từ các dịch vụ phát hành báo chí và bán tem thư… Đây chính là những khó khăn, thách thức lớn cho ngành Bưu điện. Năm 1986 là thời điểm viễn thông Việt Nam đứng trước đòi hỏi quyết liệt về đổi mới công nghệ và dịch vụ. Sự đòi hỏi quyết liệt đó đặt người tổng tư lệnh ngành trước sự lựa chọn sống còn là tiếp tục sử dụng công nghệ analog hay đi thẳng vào công nghệ số. Muốn có công nghệ mới thì phải có nguồn lực, cụ thể là ngoại tệ. Nhưng lúc đó, Việt Nam đang bị cấm vận, ngành Bưu điện càng không có ngoại tệ. Trong khi mạng analog tại Việt Nam vẫn còn khá hiện đại so với các nước xã hội chủ nghĩa, đúng thời điểm không có vốn đầu tư mà lại bỏ đi mua thiết bị mới nên nhiều người băn khoăn. Tổng Cục trưởng Đặng Văn Thân ký kết Hợp đồng liên doanh sản xuất viba số giữa Tổng cục Bưu điện với Hãng AWA (Australia) đánh dấu bước số hoá hệ thống truyền dẫn của Việt Nam (năm 1989). Chỉ có một cách là hợp tác với các hãng công nghệ lớn cũng đang nhìn thấy tiềm lực của Việt Nam là một thị trường hấp dẫn. Nhưng ở thời điểm đó, hợp tác các nước phát triển là việc nhạy cảm, nên thuyết phục để thuận trên, thuận dưới, thuận trong, thuận ngoài là việc dường như bất khả thi, nhưng Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Đặng Văn Thân đã vượt qua. Với tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, đồng chí Đặng Văn Thân đã cùng với tập thể lãnh đạo ngành Bưu điện dũng cảm lựa chọn bước đi chiến lược, mang tính đột phá, phá được thế bao vây cấm vận, đưa công nghệ hiện đại nhất vào Việt Nam, đó là: Bỏ qua công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ hiện đại theo hướng số hóa, tự động hóa và đa dịch vụ. Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện Đặng Văn Thân đã quyết định chọn công nghệ digital, đi thẳng vào hiện đại hóa. Sau này, lịch sử đã chứng minh quan điểm, tầm nhìn của đồng chí Đặng Văn Thân là đúng, đã tạo nên cuộc cách mạng trong ngành Bưu điện. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng Vượt qua nhiều quan điểm cho rằng, Việt Nam còn nghèo, không có tiền đầu tư, nên tận dụng hệ thống tổng đài analog của một số nước chuyển giao, Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện Đặng Văn Thân đã quyết định chọn công nghệ digital, đi thẳng vào hiện đại hóa. Sau này, lịch sử ngành đã chứng minh quan điểm, tầm nhìn của đồng chí Đặng Văn Thân là đúng, đã tạo nên cuộc cách mạng trong ngành Bưu điện. Những giải pháp mà đồng chí Đặng Văn Thân cùng với tập thể lãnh đạo Tổng cục Bưu điện kiên quyết thực hiện đã tạo tiền đề cho các kế hoạch tăng tốc phát triển ngành thắng lợi, góp phần để ngành Bưu điện đạt được những kết quả đột phá về phát triển cơ sở hạ tầng thông tin, đặc biệt là các chỉ tiêu về tăng trưởng tài sản, doanh thu, nộp ngân sách. Ngành Bưu điện là một trong những ngành đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vị thế của ngành Bưu điện Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tại thời điểm đồng chí Ba Thân và lãnh đạo Tổng cục Bưu điện quyết định sử dụng công nghệ digital, có tới 90% mạng điện thoại cố định trên thế giới đang sử dụng công nghệ analog, nhưng chúng ta đã quyết định chuyển sang công nghệ digital. Trong thời kỳ ngành Bưu điện thực hiện đổi mới, tiến thẳng vào công nghệ digital, đất nước ta vẫn bị Mỹ áp dụng bao vây, cấm vận. Lúc này, trở ngại lớn nhất để ngành viễn thông phát triển, tiến lên chính là vốn đầu tư, công nghệ và con người. Trong đó, đặc biệt là vốn đầu tư. Vấn đề đặt ra là phải tìm giải pháp tạo vốn để đầu tư phát triển ngành trong lúc đất nước còn rất nghèo, điều kiện bảo lãnh qua ngân hàng để vay vốn nước ngoài chưa có, tài sản thế chấp không có gì. Bên cạnh đó cũng phải tính đến việc phải làm thế nào để các thế hệ sau khỏi chịu nợ nần,… Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, đồng chí Đặng Văn Thân cùng tập thể lãnh đạo ngành bưu điện đã cùng bàn bạc, quyết định các giải pháp chính cần phải thực hiện: Một là, mạnh dạn xin và được Nhà nước cho phép hoạt động theo cơ chế tự vay, tự trả với sự bảo lãnh của Nhà nước. Hai là, mạnh dạn tìm các đối tác nước ngoài, những tập đoàn viễn thông mạnh, có tiềm lực về vốn và công nghệ cao để hợp tác; lấy viễn thông quốc tế làm khâu đột phá để thu hút vốn nước ngoài phục vụ đầu tư phát triển trong nước. Nghĩa là thực hiện phương châm “lấy ngoài nuôi trong”. Với tinh thần bứt phá khỏi tư tưởng ỷ lại, chờ đợi cấp trên, chờ đợi đầu tư của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo quyết liệt của đồng chí Đặng Văn Thân, ngành Bưu điện đã thông qua hợp tác quốc tế, thông qua cơ chế tự vay tự trả để tạo nguồn vốn phát triển ngành Bưu điện; nhạy bén, kịp thời vận dụng phương thức thu cước các cuộc gọi từ người bị nhận ở nước ngoài để tăng nguồn ngoại tệ; lấy viễn thông quốc tế làm khâu đột phá để phát triển ngành, tranh thủ được viện trợ ODA và đề xuất một số cơ chế tạo vốn nhanh chóng từ các khoản vay nước ngoài được Nhà nước bảo lãnh và do ngành Bưu điện tự trả. Chính nhờ chủ trương này mà ngành Bưu điện đã bứt phá, huy động được nguồn lực để hiện đại hóa mạng lưới và xây dựng các doanh nghiệp viễn thông lớn mạnh sau này. Nếu chỉ làm những gì an toàn, ít rủi ro sẽ không thể có đổi mới hay kết quả đột phá. Đây không chỉ là vấn đề có tầm nhìn của đồng chí Ba Thân và tập thể Lãnh đạo Ngành giai đoạn đó mà còn là vấn đề về bản lĩnh, dám dấn thân chấp nhận cái mới, dám chịu trách nhiệm. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng Đầu tư nước ngoài không chỉ để lấy vốn mà còn cả về công nghệ, dịch vụ và quản trị. Nhưng cho phép đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực viễn thông là rất nhạy cảm trong giai đoạn đó. Nếu chỉ làm những gì an toàn, ít rủi ro sẽ không thể có đổi mới hay kết quả đột phá. Đây không chỉ là vấn đề có tầm nhìn của đồng chí Ba Thân và tập thể Lãnh đạo Ngành mà còn là vấn đề về bản lĩnh, dám dấn thân chấp nhận cái mới, dám chịu trách nhiệm. Tinh thần dám thử nghiệm cái mới không chỉ thể hiện ở việc lựa chọn công nghệ digital để phát triển mạng lưới mà còn thể hiện trong việc chúng ta có hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) giữa Tổng cục Bưu điện với Telstra (Australia) vào năm 1988, một hình thức đầu tư nước ngoài chưa từng được áp dụng ở Việt Nam. Tiếp đó, năm 1995, Tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt Nam cũng ký một hợp đồng hợp tác kinh doanh với hãng Comvik (Thụy Điển) để xây dựng nên mạng Mobifone hiện nay. Đây chính là tinh thần Nhà nước tiên phong thử nghiệm các mô hình mới, dẫn dắt thay đổi và mở lối cho các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phát triển trong giai đoạn sau này. Sự đúng đắn và thành tựu của những quyết định mang tính lịch sử của ngành Bưu điện đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao với nhiều phần thưởng cao quý, đặc biệt Bưu điện là ngành kinh tế kỹ thuật đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Sao vàng với thành tích tiên phong, đi đầu trong Đổi mới với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ, dịch vụ và đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, cá nhân đồng chí Đặng Văn Thân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Đổi mới viễn thông lần thứ nhất cách đây đã hơn 35 năm. Là chuyển đổi thiết bị viễn thông, hạ tầng viễn thông từ thế hệ cũ, lạc hậu analog sang thế hệ số. Cuộc đổi mới lần một đã xây dựng hạ tầng viễn thông Việt Nam hiện đại, đã giải quyết bài toán thông tin liên lạc cho toàn dân. Linh hồn, hạt nhân lãnh đạo của đổi mới lần một là Tổng cục trưởng Đặng Văn Thân – Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Đại biểu Quốc hội, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Người trong ngành gọi một cách rất thân thương là anh Ba Thân, chú Ba Thân. Đổi mới viễn thông lần thứ hai là chuyển đổi hạ tầng viễn thông thành hạ tầng số – hạ tầng của nền kinh tế số. Đây là sự chuyển dịch quy mô lớn nhất, thay đổi bản chất của ngành Viễn thông, mở ra không gian mới vô cùng to lớn cho ngành Viễn thông, lớn hơn rất nhiều lần không gian thông tin liên lạc. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng Đổi mới viễn thông lần thứ hai là chuyển đổi hạ tầng viễn thông thành hạ tầng số – hạ tầng của nền kinh tế số. Có thể coi đổi mới lần hai này là sự chuyển dịch qui mô lớn nhất, thay đổi bản chất của ngành viễn thông, mở ra không gian mới vô cùng to lớn cho ngành viễn thông, lớn hơn rất nhiều lần không gian thông tin liên lạc. Ý nghĩa của ngành viễn thông đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng vì thế mà lớn hơn rất nhiều. Cơ hội cũng lớn hơn rất nhiều. Thị trường cũng lớn hơn rất nhiều. Trách nhiệm cũng lớn hơn rất nhiều. Ngành viễn thông đảm nhận một sứ mệnh mới: Xây dựng hạ tầng số hiện đại, bao gồm hạ tầng viễn thông và hạ tầng dữ liệu, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng, phổ cập, bền vững, xanh, mở, thông minh và an toàn. Đổi mới lần 2, ngành viễn thông đảm nhận sứ mệnh xây dựng hạ tầng số hiện đại. Trong ảnh: Trung tâm dữ liệu lớn CMC Data Centrer Tân của Tập đoàn CMC tại quận 7 (TP.HCM) vừa khánh thành năm 2022. Ảnh tư liệu. Những bài học của cuộc đổi mới lần một của thế hệ Tổng cục trưởng Đặng Văn Thân sẽ vẫn còn nguyên giá trị cho lần hai này, đó là: Hạ tầng phải đi trước và đi nhanh, đi thẳng vào công nghệ hiện đại, đi trong nhóm đầu của thế giới, làm chủ công nghệ, quyết sách sáng suốt có tầm nhìn xa, huy động mọi nguồn lực, điều hành quyết liệt và qua thử thách này mà hình thành một thế hệ cán bộ giỏi cho ngành, cho đất nước. Kế thừa quá khứ và mở ra tương lai. Mỗi thế hệ phải kể được câu chuyện của mình. Đó là cách mà chúng ta phát triển. Đó là cách mà dòng chảy lịch sử được tạo ra. Tạo ra sự phát triển mới, đột phá mới cho ngành Thông tin và Truyền thông là cách tốt nhất để thế hệ chúng ta nói lời cảm ơn với thế hệ đi trước. Ngành viễn thông đảm nhận một sứ mệnh mới: Xây dựng hạ tầng số hiện đại, bao gồm hạ tầng viễn thông và hạ tầng dữ liệu, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng, phổ cập, bền vững, xanh, mở, thông minh và an toàn. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng 10 năm, 20 năm tới sẽ là những chuyển dịch quan trọng: Từ hạ tầng viễn thông sang hạ tầng số; từ công nghệ thông tin sang công nghệ số; từ ứng dụng công nghệ thông tin sang chuyển đổi số; từ xử lý thông tin hữu hạn sang xử lý dữ liệu số vô hạn để sinh ra giá trị mới; từ phần mềm riêng lẻ sang nền tảng số; từ gia công, lắp ráp sang Make in VietNam; từ thị trường trong nước là chính sang thị trường quốc tế là chính; từ báo chí sang truyền thông số; công nghệ số trở thành lực lượng sản xuất cơ bản, nhân tài số trở thành nguồn lực cơ bản, đổi mới số trở thành động lực cơ bản cho sự phát triển. Việc thì mới, thách thức thì mới, nhưng cách mà chúng ta tạo ra những chuyển dịch này thì không mới. Vẫn là tinh thần, đạo đức và phong cách của chú Ba Thân: “dám dấn thân”, “dám nghĩ”, “dám làm”, “dám đổi mới”, “dám chịu trách nhiệm”. Chúng tôi, những người đồng chí, đồng nghiệp thế hệ sau xin tiếp bước các thế hệ đi trước, sẽ luôn đoàn kết nhất trí, cùng nhau xây dựng ngành Thông tin và Truyền thông ngày càng phát triển, vững mạnh, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp Đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông
AHLĐ Đặng Văn Thân, người tạo cú huých quan trọng cho ngành viễn thông Việt Nam
2,792
Công nhân đang khẩn trương xây dựng, gia cố kè bảo vệ đê biển Tây ở Cà Mau. Công nhân xây dựng, gia cố kè đê biển Tây đang làm việc hết công suất để công trình sớm đưa vào sử dụng nhằm bảo vệ sản xuất của hàng chục ngàn hộ dân. Cà Mau có 3 mặt giáp biển với chiều dài bờ biển hơn 254 km, được đánh giá là một trong những ngư trường trọng điểm của cả nước. Biển đã mang lại nguồn thu nhập khá cho người dân. Tuy nhiên, biển cũng đặt người dân sống trong cảnh “đứng ngồi không yên” do tình trạng sạt lở đê biển diễn ra ngày càng phức tạp và khó lường. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã làm cho tình trạng sạt lở bờ biển và bờ sông tại Cà Mau diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Theo UBND tỉnh Cà Mau, chiều dài bờ biển trên địa bàn bị sạt lở là 188/254 km, mất 5.250 ha diện tích đất rừng ven biển trong 10 năm (2011-2021). Bên cạnh đó, tình trạng sạt lở bờ sông cũng báo động khi hàng trăm căn nhà, nhiều km đường giao thông bị nuốt chửng, ước tính tổng thiệt hại khoảng 1.100 tỉ đồng. Với sự quan tâm hỗ trợ của trung ương, Cà Mau đã xây dựng và hoàn thành được 56,7 km kè bảo vệ bờ biển với tổng kinh phí trên 1.848 tỉ đồng. Những công trình được đầu tư bước đầu đã phát huy được hiệu quả tích cực như: làm giảm sóng, chống sạt lở, tạo bãi bồi và khôi phục gần 1.000 ha rừng phòng hộ. Địa phương cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tiếp tục triển khai thực hiện gần 31,2 km kè đê biển tại những đoạn sạt lở đặc biệt nguy hiểm. Tuy nhiên, trước tình trạng sạt lở phức tạp như hiện nay sẽ có nhiều hơn diện tích rừng bị mất đi nếu không có giải pháp bảo vệ kịp thời trong thời gian tới. Bởi lẽ, sạt lở lấn sâu vào trong, không những gây mất đất, mất rừng mà còn đe dọa trực tiếp đến cuộc sống, sản xuất của người dân. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong phòng chống sạt lở nhưng với nguồn kinh phí có hạn nên Cà Mau cần sự hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan. Từ đó, tỉnh nằm ở vùng cực Nam của Tổ quốc đã kiến nghị Chính phủ cho phép tỉnh xây dựng đề án đầu tư kè phòng chống sạt lở bờ biển và bờ sông; hỗ trợ vốn để thực hiện mục tiêu đến năm 2025 hoàn thành các công trình kè đê biển tại những đoạn bờ biển, bờ sông bị sạt lở nguy hiểm. Những năm gần đây, vào mùa mưa, nhiều lần đê biển Tây bị uy hiếp do sạt lở ăn sâu vào chân đê mỗi khi gặp sóng to, gió lớn. Ngành chức năng tỉnh Cà Mau đã huy động lực lượng cùng hàng trăm phương tiện để hộ đê nhằm bảo đảm an toàn cuộc sống và sản xuất của hàng chục ngàn hộ dân bên trong bờ đê. Những ngày này, tại xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời , tỉnh Cà Mau có hàng chục công nhân đang ngày đêm gia cố kè bảo vệ đê biển Tây, nhằm hạn chế tình trạng sóng đánh tràn qua kè, tác động đến chân đê. Ông Nguyễn Văn Tuyển, một công nhân ở xã Khánh Bình Tây, cho biết việc thi công kè đê biển gặp nhiều khó khăn do phải đợi nước ròng và ít sóng. “Có những lúc bảo đảm điều kiện thi công rơi vào ban đêm nhưng chúng tôi vẫn làm để công trình sớm hoàn thành, đưa vào sử dụng trước mùa mưa bão nhằm bảo vệ cuộc sống bình yên cho mọi người” – ông Tuyển tâm sự. Tiếp lời ông Tuyển, lão nông Đỗ Viết Thảo (ngụ xã Khánh Bình Tây) cho hay ông và nhiều hộ dân lân cận phải sống trong cảnh hồi hộp mỗi khi mùa mưa bão đến gần. Những khi đê biển bị uy hiếp, người dân nơi đây luôn chủ động phối hợp cùng các ngành chức năng để hộ đê. “Nhìn những đợt sóng cao đánh qua kè bảo vệ đê mà lòng tôi không yên. Bởi không may đê gặp sự cố thì toàn bộ nhà cửa, lúa và rau màu của chúng tôi sẽ bị cuốn trôi theo dòng nước. Hy vọng Cà Mau có thêm nguồn vốn để hoàn thiện hệ thống kè bảo vệ đê biển Tây cho nhân dân được yên tâm sản xuất” – ông Thảo bộc bạch. Mới đây, tại buổi làm việc với tỉnh Cà Mau, ông Lê Minh Hoan – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – nhận định vùng bán đảo Cà Mau là địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Trước thực trạng trên, trung ương đã hỗ trợ đầu tư hạ tầng đê biển nhằm giảm thiểu tác động, thiệt hại do sạt lở. “Cà Mau cần có kế hoạch, tầm nhìn dài hạn cho việc ứng phó với tình trạng sạt lở. Cụ thể, bên cạnh giải pháp “cứng” thì cần giải pháp “mềm”, phi công trình, thích ứng với chủ trương “thuận thiên” của Nghị quyết 120″ – ông Lê Minh Hoan nhấn mạnh. Thiếu vốn để xây kè chống sạt lở Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Bạc Liêu cho biết tuyến đê biển Đông đi qua địa bàn tỉnh có chiều dài 52,4 km. Trong đó, 15 km đê biển có nguy cơ sạt lở do không còn sự bảo vệ của đai rừng phòng hộ. Địa phương đang thiếu nguồn vốn để xây dựng kè chống sạt lở. Trước đó, tuyến đê biển Đông đi qua địa bàn TP Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu bị sạt lở nghiêm trọng với tổng chiều dài 46 m. Những đoạn sạt lở móc sâu vào chân đê, gây nguy cơ vỡ đê, đe dọa trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người dân. Ngay lập tức, lãnh đạo UBND tỉnh Bạc Liêu đã trực tiếp xuống hiện trường nắm tình hình, động viên và chỉ đạo các lực lượng khẩn trương hộ đê để người dân yên tâm lao động sản xuất. Bài và ảnh: VÂN DU
Bảo vệ đê biển Tây
1,090
Biến đổi khí hậu luôn là vấn đề nghiêm trọng đối với Đồng bằng sông Cửu Long, tác động tiêu cực tới sinh kế của người dân, thúc đẩy di cư và cản trở phát triển đô thị… Do vậy, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường cũng như việc tận dụng hết những lợi thế, tiềm năng năng lượng tái tạo… trở thành ưu tiên chiến lược hàng đầu của các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long vừa để đảm bảo sự phục hồi bền vững vừa phù hợp với xu thế toàn cầu. Trụ turbin điện gió thuộc Nhà máy Điện gió số 6 tại ấp Mỹ Thanh, xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN. Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã cam kết mạnh mẽ Việt Nam giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Chuyển dịch năng lượng là yếu tố không thể thiếu để đạt được mục tiêu phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam nói chung và Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Vì vậy, cần tận dụng hết những lợi thế, tiềm năng năng lượng tái tạo để phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với những sự thay đổi từng ngày, từng giờ của biến đổi khí hậu. PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường cho rằng, Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có lợi thế về năng lượng tái tạo nên đây chính là khu vực trọng điểm để Việt Nam có thể đạt được kết quả như Thủ tướng cam kết tại COP26 . Ông Nguyễn Đình Thọ kiến nghị Bộ Công Thương hoàn thành Quy hoạch điện VIII giúp khu vực có thể thực hiện các dự án năng lượng tái tạo bởi năm 2021 là năm bản lề để các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long phát triển quy hoạch tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thực tế, với lợi thế đường bờ biển dài, dư địa cho phát triển điện gió ngoài khơi ở Đồng bằng sông Cửu Long rất rộng mở, đặc biệt ở các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh… Tại Bạc Liêu, tỉnh đặt mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững, chọn năng lượng tái tạo (trong đó có điện gió, điện mặt trời, hydrogen…) là một trong những lĩnh vực ưu tiên phát triển hàng đầu nhằm trở thành một trong những trung tâm năng lượng sạch của quốc gia. Theo Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu Phạm Văn Thiều, tỉnh có bờ biển dài hơn 56 km, hội tụ những điều kiện tốt lý tưởng và tiềm năng để trở thành nơi phát triển điện gió. Theo quy hoạch phát triển điện gió giai đoạn đến 2020, có xét đến năm 2030, tổng công suất tiềm năng về điện gió của Bạc Liêu lên đến 3.500MW. Hiện trên địa bàn có 8 dự án điện gió đã đi vào hoạt động chính thức. Các dự án này có tổng công suất 469MW (đứng thứ 3 trên cả nước) gồm 176 trụ turbine, với tổng mức đầu tư gần 23.900 tỷ đồng. 8 dự án điện gió đã đi vào hoạt động ổn định chính thức cũng giúp tăng nguồn thu cho ngân sách của Bạc Liêu 450 tỷ đồng/năm. Ông Phạm Văn Thiều cũng cho biết, Bạc Liêu đã đề nghị Chính phủ tạo điều kiện cho tỉnh sớm được bổ sung quy hoạch điện gió của địa phương giai đoạn đến 2025 tổng cộng 2.000 MW (gồm 500MW điện gió trên bờ và 1.500MW điện gió ngoài khơi) nhằm phát huy đúng mức tiềm năng gió của tỉnh theo quy hoạch của Bộ Công Thương. Cùng đó, Bạc Liêu cũng đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành chức năng xem xét, sớm phê duyệt quy hoạch đường dây truyền tải 500kV Bạc Liêu đi Thốt Nốt, Cần Thơ; đồng thời, chấp thuận đưa dự án đầu tư đường dây truyền tải này vào danh mục các dự án đầu tư được phê duyệt trong quy hoạch điện VIII… Trong những năm qua, tỉnh Trà Vinh thực hiện chính sách pháp luật về phát triển năng lượng, đặc biệt về chính sách phát triển năng lượng tái tạo. Hiện nay, tỉnh có 5 nhà máy điện gió, tổng công suất là 256,8 MW (4 nhà máy đấu nối cấp 110kV và 1 nhà máy đấu nối cấp 220kV). Gần đây, Trà Vinh đã khởi công xây dựng Nhà máy sản xuất hydro xanh với diện tích đất trên 20ha, tổng vốn đầu tư gần 8.000 tỷ đồng. Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Lê Văn Hẳn cho biết, việc sản xuất hydro xanh từ năng lượng tái tạo đã được định hướng phát triển theo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040. Trong những năm gần đây, hydro xanh được kỳ vọng là nguồn năng lượng tương lai, là chìa khóa cho chiến lược chuyển đổi năng lượng của thế giới theo xu hướng bền vững và thân thiện với môi trường, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu hóa thạch cũng như cắt giảm tác động của khí thải carbon. “Việc đầu tư dự án nhà máy sản xuất hydro xanh trên địa bàn giúp tỉnh thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, trở thành một trong những trung tâm năng lượng xanh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Đây là cơ hội để Trà Vinh phát triển, khẳng định sự vươn lên theo hướng xanh và bền vững trong tương lai”, ông Lê Văn Hẳn khẳng định. Mô hình nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao của người dân thị xã Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh). Ảnh: Thanh Hòa/TTXVN. Để tạo động lực cho chuyển đổi sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu đúng hướng và hiệu quả cao, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã coi trọng chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản mà chủ yếu là công nghệ cao và công nghệ sinh học; đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng nông sản hàng hóa, nâng khả năng cạnh tranh… Về sản xuất lúa, Tiến sĩ Dương Hoàng Sơn (Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long) khẳng định ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong phát triển lúa gạo chất lượng cao hiện nay là điều cực kỳ quan trọng. Trong 10 năm gần, Viện đã kết hợp giữa phương pháp giữa lai tạo truyền thống với phương pháp công nghệ hiện đại (kỹ thuật sinh học phân tử, kỹ thuật di truyền, kỹ thuật nuôi cấy mô tạo biến dị soma, nuôi cấy túi phấn, đột biến phóng xạ, nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử, lập bản đồ gen, giải trình tự, chuyển nạp gen và gần đây là công nghệ chỉnh sửa gen…) cho chương trình lai tạo các giống lúa mới đa mục tiêu: ngắn ngày, năng suất, phẩm chất, kháng sâu bệnh (rầy nâu, đạo ôn, bạc lá…), chống chịu điều kiện bất lợi của môi trường (phèn, mặn, khô hạn, ngập…). Đơn vị đã chọn tạo ra trên 160 giống lúa mới, hơn 20 quy trình được công nhận tiến bộ kỹ thuật mới; ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, ủy quyền sản xuất kinh doanh khoảng 30 giống lúa cho các doanh nghiệp và chuyển giao quyền sử dụng chung giống lúa OM cho gần 60 đơn vị là doanh nghiệp, trung tâm giống các tỉnh trong khu vực nhằm thúc đẩy việc mở rộng diện tích sản xuất lúa. Đến nay, diện tích gieo trồng các giống do Viện chọn tạo chiếm 60 – 70% tại Đồng bằng sông Cửu Long. Một số giống nổi bật như: OM18, OM5451, OM380, OM4900, OM7347, OM6976… phát triển ra các khu vực miền Trung, miền Bắc và một số nước khác như: Campuchia, Lào, Brunei, Indonesia, Cu Ba… Đối với phát triển giống cây ăn quả chủ lực, Tiến sĩ Võ Hữu Thoại, Viện Cây ăn quả miền Nam cho biết, Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 70% các loại trái cây của cả nước với diện tích trồng cây ăn quả trên 360.000 ha, đây được xem là vùng sản xuất và xuất khẩu trái cây nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. Hiện nay, Viện đã tiến hành phục tráng giống và bình tuyển các cây đầu dòng đặc sản, bản địa như bưởi da xanh, sầu riêng Ri6, chôm chôm Java, xoài Cát Chu, xoài cát Hòa Lộc, nhãn xuồng cơm vàng… qua đó, nâng cao chất lượng quả, chống thoái hóa vườn cây. Thời gian tới, Viện đề xuất tiếp tục thực hiện các chương trình lai tạo giống mới theo nhu cầu đa dạng của thị trường có khả năng chống chịu với nhóm bệnh lây lan qua đất và chống chịu điều kiện bất thuận của môi trường; tạo giống chống chịu một số dịch hại quan trọng, thích ứng với biến đổi khí hậu; tập trung ưu tiên những cây trồng chủ lực, có lợi thế vùng miền, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, gắn với việc bảo hộ giống mới của Việt Nam. Tại Bạc Liêu, việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào nuôi tôm được xem là khâu đột phá nhằm tăng năng xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu có 25 công ty, đơn vị và hơn 800 hộ dân đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh và nuôi tôm 2 giai đoạn, tập trung chủ yếu tại vùng ven biển thành phố Bạc Liêu , huyện Hòa Bình và huyện Đông Hải . Gắn bó với nghề nuôi tôm nhiều năm nay, ông Ngô Quang Hùng (huyện Đông Hải) cho biết, việc nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao rút ngắn được thời gian nuôi, cho năng suất trung bình từ 30 – 50 tấn/ha, tăng từ 10 – 15 lần so với nuôi tôm thông thường. Ngoài ra, việc áp dụng các công nghệ cao còn giúp thực hiện nuôi quay vòng, gối vụ liên tục, ao này tôm chưa lên thì ao kia tôm đã xuống giống. Tiến sĩ Lê Anh Xuân, Tổng giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Công nghệ Sinh học Trúc Anh (Bạc Liêu) nhận định, việc nghiên cứu, cải tiến và hoàn thiện các quy trình kỹ thuật, xây dựng nhiều mô hình nuôi tôm đạt năng suất cao, giảm rủi ro, giảm chi phí đầu vào và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay được cho là bài toán hữu ích. Đơn vị đã nghiên cứu và hoàn thiện một số quy trình nuôi hiệu quả đã và đang được chuyển giao đồng hành cùng với nông dân trong toàn quốc như: quy trình nuôi tôm Quảng canh cải tiến áp dụng trong mô hình Tôm – Lúa đạt năng suất 500 – 700 kg/ha/năm; quy trình nuôi tôm sú bằng các chế phẩm sinh học của công ty Trúc Anh; tuy trình nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn đạt năng suất 30 – 50 tấn/ha/năm… đạt hiệu quả cao và bền vững… Như vậy, khoa học và công nghệ đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất vô cùng quan trọng trong việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; đồng thời, mở ra triển vọng to lớn cho ngành nông nghiệp và thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long . ———– Phát triển kinh tế thích ứng biến đổi khí hậu – Bài 1: Giảm phát thải, tăng khả năng phục hồi
Phát triển kinh tế thích ứng biến đổi khí hậu – Bài cuối: Xu hướng xanh
2,062
Vụ Thị trường châu Á – châu Phi (Bộ Công Thương) cho biết, để đáp ứng nhu cầu về gạo ước đạt trên 42,2 triệu tấn trong năm 2023, châu Phi dự kiến nhập khẩu khoảng 17,7 triệu tấn gạo. Thời gian tới, nguồn cung cấp gạo chính của châu Phi vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào các nước Ấn Độ, Pakistan, Thái Lan và Việt Nam. Chủng loại gạo nhập khẩu chính của các nước châu Phi bao gồm gạo thơm, gạo trắng và gạo tấm. Việt Nam xuất khẩu gạo sang 54 quốc gia châu Phi với khối lượng đạt trên 600 nghìn tấn, trong đó, các thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất gồm Ghana, Bờ Biển Ngà, Senegal, Mozambique, Cameroon, Gabon, Tanzania, Ai Cập. Đối với thị trường châu Phi, định hướng phát triển thị trường của Việt Nam cần củng cố thị phần các loại gạo trắng, hạt dài, rời hạt, gạo cứng, gạo đồ, gạo thơm; nâng cao năng lực cạnh tranh về giá, chất lượng và các điều kiện thanh toán, giao thương tại các nước châu Phi.
Việt Nam xuất khẩu gạo sang 54 quốc gia châu Phi
184
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước, song cũng là vùng đất chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Do đó, trong thời gian tới, việc tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi phải có sự điều tiết hài hòa với bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường – đây là những vấn đề nổi bật mà chính quyền các địa phương trong vùng cùng với các chuyên gia, nhà hoạch định chính sách phải đặc biệt quan tâm để có những định hướng quy hoạch, phát triển lâu dài, thiết thực, ổn định. Cống thủy lợi Cái Lớn (Kiên Giang) chủ động điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Ảnh: Lê Huy Hải/TTXVN. Bài 1: Giảm phát thải, tăng khả năng phục hồi Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều cơ hội phát triển song cũng đang phải đối mặt với ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu do đây là vùng đất mẫn cảm với thay đổi của tự nhiên. Do đó, để phát triển kinh tế – xã hội bền vững trong thời gian tới, các địa phương trong vùng cần xây dựng chiến lược thích ứng với những cực đoan của thời tiết nhằm giảm phát thải và tăng khả năng phục hồi. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, biến đổi khí hậu và nước biển dâng diễn ra nhanh hơn dự báo, gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của người dân. Việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, đặc biệt là xây dựng đập thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy, giảm lượng phù sa, suy giảm nguồn lợi thủy sản, xâm nhập mặn sâu vào nội vùng, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội. Cùng với đó, mặt trái từ hoạt động phát triển kinh tế với cường độ cao ở nội vùng bộc lộ ngày càng gay gắt, gây nhiều hệ lụy như: ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, sụt lún đất, suy giảm mực nước ngầm, xâm thực bờ biển, nhiều diện tích rừng tự nhiên, nhất là rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng phòng hộ bị chặt phá, chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác hoặc bị suy thoái nặng nề. Ngoài ra, việc khai thác bùn cát quá mức, xây dựng nhà cửa và hạ tầng sát bờ sông, kênh, rạch làm gia tăng nguy cơ sạt lở… Theo kịch bản biến đổi khí hậu năm 2016, nếu mực nước biển dâng 100 cm và không có các giải pháp ứng phó, Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có nguy cơ ngập gần 39% diện tích; trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (hơn 80%), Kiên Giang (gần 77%) và Cà Mau (khoảng 58%). Cùng với đó, trung bình hằng năm, xói lở đã làm mất khoảng 300 ha đất, rừng ngập mặn ven biển. Hiện, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có 564 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên 834 km; trong đó, sạt lở bờ sông 512 điểm với tổng chiều dài khoảng 566 km (chủ yếu diễn ra dọc theo sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây và các nhánh chính của hệ thống kênh, rạch), sạt lở bờ biển 52 điểm với tổng chiều dài 268 km. Với vai trò là thành phố trung tâm, kết nối vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Cần Thơ chịu nhiều tác động nặng nề của biết đổi khí hậu như: triều cường, sạt lở đất, nắng nóng, bão, lốc xoáy… kéo theo những hiểm họa khác như: xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường và dịch bệnh… Trong đó, sạt lở bờ sông là một trong những hiện tượng biến đổi khí hậu xuất hiện thường xuyên trong những năm gần đây, gây thiệt hại tài sản, sản xuất của người dân. Diễn biến sạt lở bờ sông, kênh rạch trên địa bàn thành phố ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, gia tăng cả về cường độ và số lượng. Ngoài ra, quá trình đô thị hóa của thành phố diễn ra tương đối mạnh làm gia tăng hiện tượng sụt lún mặt đất và công trình ở những khu vực có mật độ xây dựng cao, đồng thời việc khai thác nước ngầm phục vụ cấp nước đô thị cũng là nguyên nhân gây sụt lún cục bộ mặt đất… Đối với Cà Mau, tổng chiều dài bờ biển đang tiếp tục bị sạt lở khoảng 100 km, tình trạng này đối với bờ sông vào khoảng 365 km với các mức độ sạt lở khác nhau. Cụ thể, sạt lở bờ biển ở mức đặc biệt nguy hiểm có chiều dài khoảng 35 km, tốc độ sạt lở hàng năm bình quân từ 25m – 50m, đặc biệt có những nơi lên đến 50m – 80m. Trong khi đó, với khoảng 65 km bờ biển đang sạt lở ở mức nguy hiểm, thì tốc độ sạt lở hàng năm bình quân từ 20m – 40 m. Kiên Giang là tỉnh cuối nguồn sông Mekong, tình trạng ngập lụt do lũ và xâm nhập mặn từ biển gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân. Theo đó, tại thành phố Rạch Giá, nước mặn đã xâm nhập sâu vào đất liền, đẩy nước ngọt trên sông Cái Sắn và kênh Rạch Giá – Hà Tiên ra xa hơn. Các khu vực trồng rau màu dọc theo hai tuyến này đang đứng trước nguy cơ thiếu nước tưới tiêu và phải kết thúc sớm mùa vụ. Khu vực trồng rau ở phường Vĩnh Hiệp, thành phố Rạch Giá cũng đang gặp khó khăn về nước tưới vì nước mặn đã xâm nhập đến kênh thủy lợi phía Nam. Riêng thành phố Hà Tiên, diện tích lúa vừa thu hoạch ở khu vực biên giới với Campuchia gần như phải phơi đất hoàn toàn vì không còn nước tưới tiêu do hạn và xâm nhập mặn… Thành phố Sóc Trăng (Sóc Trăng) là một trong những đô thị chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN. Theo chuyên gia Kinh tế Môi trường – Tiến sĩ Muthukumara Mani (Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam), có hai hướng ứng phó với biến đổi khí hậu cần thiết cho Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là giảm phát thải và tăng khả năng phục hồi của nền kinh tế. Hướng thứ nhất, giảm phát thải (ước tính cần 114 triệu USD đến năm 2040) phải diễn ra đồng thời ở các lĩnh vực giao thông, nông nghiệp, công nghiệp thông qua các cơ chế định giá phát thải, đánh thuế phát thải. Hướng thứ hai, cần ngân sách ước tính 254 triệu USD trong giai đoạn 2022 – 2040 để tăng khả năng phục hồi của nền kinh tế nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên, cơ sở hạ tầng và nhân lực trước các rủi ro khí hậu, nhất là ở những ngành và cộng đồng dễ tổn thương. Để phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, ông Trương Đức Trọng (Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) đưa ra giải pháp nhìn nhận môi trường là “tài sản” quan trọng hàng đầu của địa phương để từ đó gắn kết các mục tiêu bảo vệ môi trường, ứng phó thiên tai và biến đổi khí hậu vào các chương trình hành động phát triển kinh tế. Cùng với đó, thúc đẩy các nỗ lực liên kết vùng trong phát triển dịch vụ liên quan đến môi trường cũng như xây dựng các tiêu chí đánh giá dự án đầu tư ở địa phương với trọng tâm là sàng lọc, lựa chọn các dự án kinh doanh bảo vệ môi trường, có tiềm năng đóng góp hiệu quả cho phát triển kinh tế – xã hội. Theo quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, hệ thống đô thị đồng bằng sông Cửu Long sẽ được xây dựng theo hướng phân bố hợp lý tại các vùng đô thị, dọc theo các hành lang phát triển chính của vùng thích ứng với biến đổi khí hậu. Cụ thể, thành phố Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc Trung ương, là trung tâm hành chính, dịch vụ, thương mại, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, du lịch, công nghiệp chế biến của toàn vùng. Thành phố Rạch Giá (Kiên Giang) là trung tâm kinh tế biển, thương mại dịch vụ tại khu vực ven biển phía Tây của vùng, là trung tâm nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thủy hải sản. Thành phố Cà Mau là trung tâm tiểu vùng ven biển tại khu vực bán đảo Cà Mau, là trung tâm năng lượng và dịch vụ dầu khí quốc gia, trung tâm dịch vụ du lịch sinh thái… Trong sản xuất nông nghiệp, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh (Đại học Fulbright Việt Nam) cho rằng, chiến lược chuyển đổi nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần bắt đầu bằng sự thay đổi tầm nhìn, qua đó xác định được đích đến một cách đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển nông nghiệp hiện đại nhằm phát triển nền kinh tế nông nghiệp theo cơ chế thị trường, tăng thu nhập ổn định cho nông dân và phát triển nông nghiệp bền vững theo mô hình “thuận tự nhiên”; trong đó, các mục tiêu kinh tế – xã hội – môi trường có tính cân bằng và hài hòa. Với chủ trương phát triển theo hướng “thuận thiên”, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120 về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết cũng đã chỉ rõ cần phải thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa sang tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng, đáp ứng nhu cầu của thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng. Xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển mạnh mẽ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch gắn với chuỗi giá trị và xây dựng thương hiệu, đồng thời chú trọng phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp không chỉ để bảo đảm an ninh lương thực mà còn có giá trị dinh dưỡng cao, phục vụ công tác phòng, chữa bệnh tạo nên những thương hiệu nổi tiếng. Để chuyển đổi nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long khả thi, hiệu quả và bền vững, cần đặt người dân ở vị trí trung tâm và tận dụng được các cơ hội thị trường cũng như thích ứng được với những biến động về môi trường. Với cách tiếp cận này, có 4 bốn mục tiêu chính của chuyển đổi nông nghiệp gồm: tăng thu nhập một cách ổn định bền vững cho nông dân, hiện đại hóa nền nông nghiệp, phát triển nền kinh tế nông nghiệp theo cơ chế thị trường, phát triển nông nghiệp bền vững theo mô hình “thuận tự nhiên”. Việc tái cấu trúc sản xuất nông nghiệp vừa phát huy tối đa tiềm năng tự nhiên của vùng; đồng thời, đáp ứng tiêu chí “thuận tự nhiên” nhờ giảm tối đa nhu cầu can thiệp của con người. Như vậy, trọng tâm phát triển không chỉ là thích nghi với các điều kiện môi trường thay đổi mà còn hạn chế các tác động bất lợi cho con người và cả việc khôi phục môi trường tự nhiên đã bị biến dạng và suy thoái trong một thời gian dài do những can thiệp về chính sách cũng như tập quán canh tác thiếu bền vững. “Khi quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long , các nhà hoạch định chính sách cần gắn với phương án sử dụng tài nguyên nông nghiệp tự nhiên (nước và đất) một cách phù hợp với từng vùng và tiểu vùng, cũng như gắn chặt với nhiệm vụ cải thiện quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường”, Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh nhấn mạnh. —————- Bài cuối: Xu hướng xanh
Phát triển kinh tế thích ứng biến đổi khí hậu – Bài 1: Giảm phát thải, tăng khả năng phục hồi
2,153
Cảng Bến Kéo trên sông Vàm Cỏ Đông cách thành phố Tây Ninh 5km. Những kênh rạch vào thành phố Tây Ninh bắt nguồn từ cửa sông này. Nhưng đầu nguồn nước Vàm Cỏ Đông lại từ sông Prek Kamprong Spean (Campuchia) chảy sang. Dòng sông Vàm Cỏ Đông chảy qua 5 huyện của Tây Ninh (dài 100km) rồi tràn về Long An (dài 86km) và hợp nhất với dòng Vàm Cỏ Tây (phân lưu sông Tiền Giang) thành sông Vàm Cỏ. Sau đó dòng nước Vàm Cỏ (Long An) đổ vào sông Soài Rạp (Cần Giờ – Sài Gòn) trôi ra biển Đông. Tôi đứng trên cửa sông Bến Kéo thật ngỡ ngàng trước mặt nước mênh mang hiền dịu. Những con thuyền trôi từ phía xa vọng lên những câu hát của một thuở khói bom. Giai điệu mang âm hưởng dân gian của nhạc sĩ Trương Quang Lục như ru lòng người qua câu hát: “ Ở tận sông Hồng em có biết/ Quê hương anh cũng có dòng sông/ Anh mãi gọi tấm lòng tha thiết/ Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ Đông …” (Lời thơ Hoài Vũ). Ngã năm trung tâm thành phố Tây Ninh. Đầu nguồn sông chạy dọc biên giới vào đất Tây Ninh còn được gọi là sông Suối Mây. Dải sông này có phần chảy ngang qua vườn quốc gia Xa Mát – Lò Gò. Đây chính là khu di tích “Trung ương Cục Miền Nam”. Cánh rừng nguyên sinh nơi đây rộn ràng chim ca tỏa bóng cây xanh đến mê tơi bên dòng sông Vảm Cỏ Đông. Hình ảnh hậu phương của những chiến sĩ giải phóng quân năm xưa ghi dấu lại trong giai điệu da diết: “ Hò ơ dòng sông chảy xiết lái thuyền chèo đi/ Trên sông Vàm Cỏ Đông nước chảy ngược dòng/ Nước ngược dòng hò ơ/ Em chèo thuyền đi lên rẫy Trảng Còng/ Cắt lúa thay chồng, thay chồng nuôi con… ” (Lên ngàn – Hoàng Việt). Đây là khúc tráng ca về hình ảnh người phụ nữ thời chiến. Đồng thời sông Vàm Cỏ Đông gắn bó với đời sống chiến sĩ miền Nam trong những ngày chiến đấu quyết liệt với giặc xâm lược Pháp và Mỹ một thời sinh tử. Trong những bài hát phổ cập ở Tây Ninh , dòng sông Vàm Cỏ Đông còn hiện lên thật mơ mộng qua âm điệu của nhạc sĩ Hoàng Hiệp. Hình ảnh chiến khu cùng trảng nước sông Vàm Cỏ Đông lấp lánh hiện về trong lời ca: “ Đêm Xa Mát gió đùa qua Trảng Lớn/ Nhớ Tua Hai công đầu sáng niềm tin…/ Đường năm xưa đã in dấu chân em .” (Vì ngày mai Tây Ninh). Riêng với nhạc sĩ Xuân Hồng người con của đất Tây Ninh thể hiện cảm xúc với dòng Vàm Cỏ Đông thật lạc quan đằm thắm. Với tiết tấu vui tươi nhạc sĩ đã dẫn dắt người nghe bằng con thuyền trên dòng sông yêu thương. Bài hát có đoạn tự sự hiện lên như một bức tranh: “ Người quen mến khách/ Đón anh đến Tầm Long/ Vàm Cỏ Đông đẹp như tiếng hát/ Xuôi con nước ta xuống Bến Cầu/ Qua Gò Dầu đến Vàm Trảng nước sâu “. Bài hát như một khúc đồng dao trong giai điệu dân gian kỳ thú. Trong những giai điệu dậy sóng Vàm Cỏ Đông hàng chục nhạc sĩ đã có những ca khúc thể hiện tình cảm sâu nặng với Tây Ninh. Một trong những người con của Tây Ninh là cố nhạc sĩ kiêm nhà văn Vân An (1925-2005). Ông là một trong những Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đầu tiên ở Tây Ninh và là Phó Chủ tịch Hội VHNT tỉnh. Nhà văn, nhạc sĩ Vân An từng làm Giám đốc Đài Phát thanh Truyền hình và Tổng Biên tập Báo Tây Ninh. Đầu tiên phải kể đến bài hát “Về giữa đôi dòng sông vàng” và “Chiến thắng Bùng Binh” của Vân An. Với tâm hồn phơi phới của tuổi trẻ vác ba lô lên đường, nhạc sĩ luôn nhớ về quê hương cách mạng. Người chiến sĩ hát vang lời ca từ trái tim: “ Mặt trời lên từ trên dòng sông Sài Gòn rợp cây xanh uốn quanh Vàm Cỏ Đông nước trong …”. Đặc biệt, bài “Chiến thắng Bùng Binh” của ông được chọn làm nhạc hiệu Đài Phát thanh Truyền hình Tây Ninh từ năm 1977 cho tới nay. Bài hát ca ngợi chiến thắng vang dội của quân và dân ta tại Bùng Binh, một trận địa tại Trảng Bàng, nơi có dòng sông Vàm Cỏ Đông chảy qua trước khi xuôi về Long An. Thật may sao tôi được gặp lại họa sĩ Võ Đồng Minh (ở huyện Tân Biên) trong đợt xuôi thuyền về khu rừng Lò Gò-Xa Mát. Ông là chiến sĩ cảm tử vừa cầm súng vừa cầm cọ trên chiến hào trong chiến dịch Joncson City (1967) kéo dài 82 ngày đêm. Khi đó quân Mỹ đổ bộ và đánh vào Trung ương Cục Miền Nam, trung tâm đầu não của Mặt trận Giải phóng Miền Nam nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Họa sĩ cho biết dòng sông Suối Mây không chỉ là biên giới hữu nghị giữa hai nước mà còn là dấu ấn minh chứng cho sự đoàn kết của hai dân tộc. Hàng nghìn bà con Khmer đùm bọc, bảo vệ quân giải phóng và còn đóng góp xây dựng căn cứ Trung ương Cục Miền Nam. Cũng chính dòng sông này lại chở che cho những người Khmer chạy nạn diệt chủng của bọn Pôn Pôt sống yên ổn bên biên giới Việt Nam. Họa sĩ còn kể người dân sống bên sông Vàm Cỏ Đông tại huyện Hòa Thành luôn say mê với điệu múa Trống Chhay-đăm (di sản phi vật thể quốc gia). Họ múa trống như trình diễn võ thuật minh họa cho đời sống săn bắt, hái lượm của người Khmer Tây Ninh thuở khai thiên lập địa. Trong dân gian vẫn truyền tụng: “Hãy vỗ Chhay-đăm vang dội rừng xanh/ Trống dồn dập săn con nai con hoẵng/ Vàm Cỏ Đông mênh mông đồng lau trắng/ Mây chập chờn bay trên đỉnh Bà Đen”. Sông Vàm Cỏ Đông. Dòng sông lung linh huyền thoại ẩn giấu những chứng tích ngàn năm. Đúng như lời thơ Hoài Vũ cất tiếng yêu thương: “ Đây con sông như dòng sữa mẹ/ Nước về xanh ruộng lúa vườn cây/ Và ấm áp như lòng người mẹ/ Chở tình thương trên sóng nước chơi vơi ” (Vàm Cỏ Đông). Họa sĩ Võ Đồng Minh kể thêm, các di tích đậm dấu ấn văn hóa Óc Eo (muộn) ở Tây Ninh (khoảng 1200 năm) được phân bố phần lớn thuộc vùng cận kề sông Vàm Cỏ Đông. Rải rác trên các huyện như Tân Biên, Châu Thành, Gò Dầu và Trảng Bàng. Riêng ở Tân Biên nơi họa sĩ sinh sống hiện nay vẫn còn di tích tháp Chót Mạt. Điều kỳ lạ cuộc chiến tranh khốc liệt đã xảy ra quanh khu vực này cận kề chiến khu nhưng ngôi tháp này vẫn được bà con Khmer bảo vệ giữ nguyên khá hoàn chỉnh. Những vần thơ còn khắc ghi bên tháp cổ ngàn năm luôn vang vọng hồn thiêng sông núi bao đời nay, Không gian văn hóa Óc Eo được khảo sát qua nhiều vỉa tầng đất đá bên lưu vực sông Vàm Cỏ Đông. Cũng như tháp Chót Mạt ở Tân Biên, ta có thể ngắm nhìn tháp Bình Thạnh (Trảng Bàng) lấp lánh hồng tươi trong lớp lớp rêu phong. Còn nữa, trong quần thể khu di tích Cổ Lâm (Châu Thành) lồ lộ ngổn ngang những phế tích kiến trúc đền tháp được xây bằng gạch cổ. Rải rác hiện còn những đầu tượng, thân tượng cùng những di vật như Yoni, Linga. Đây chính là một trung tâm thờ các vị thần Vishnu và Shiva, hiển hiện bóng dáng của một thời huy hoàng của đế chế Vương quốc Phù Nam. Một mảnh eo vũ nữ Apsara còn dính trên bức tường đổ vỡ. Sự níu kéo thời gian gấp gáp bên sông Vàm Cỏ. Lời thơ của Ngọc Apsara thật đam mê: “ Em là đá, là mây hay lửa/ Ngàn năm xưa bất chợt hiện về/ Mặc ma hời than khóc u mê/ Vũ điệu nõn nà bên tường đá ” (Vũ điệu Khmer). Biết bao ký ức chiến tranh khốc liệt một thuở đã được họa sĩ Võ Đồng Minh thể hiện trên những bức tranh còn ám mùi khói đạn. Ông đã vẽ hàng trăm ký họa chiến sĩ anh dũng chiến đấu và hy sinh trên các mặt trận. Đặc biệt, tác phẩm “Vàm Cỏ Đông quyết giữ” của ông vẫn còn dính vết máu của đồng đội. Đó là những tác phẩm thấm đẫm hơi thở chiến trường, trong thời kỳ tổng tiến công năm 1968 ở Tây Ninh. Ông còn nhớ khi nghe tin Bác Hồ mất cả đơn vị đã phải vượt qua sông Suối Mây để tổ chức lễ truy điệu. Giai điệu “Hồn tử sĩ” đã vang lên trong nỗi xúc động đẫm nước mắt của mọi người. Một âm hưởng xao động trong tâm hồn tôi qua câu chuyện của họa sĩ Võ Đồng Minh. Lúc này đây, đứng trên ngã ba sông đổ vào thành phố tôi bồi hồi ngắm Cầu Quan vượt kênh Tây Ninh (phụ lưu sông Vàm Cỏ Đông) nhộn nhịp tàu xe. Cụm tượng đài chiến thắng soi bóng xuống dòng sông trong xanh như một lời nhắn nhủ: “ Vàm Cỏ Đông ghi chiến công chói sáng/ Ngọt phù sa thơm hương lúa xuôi dòng ” (Đan Thụy). Phía xa kia những con thuyền đang tung lưới trên sóng nước. Một giọng hò trong trẻo vang lên từ rặng dừa ngả bóng nghiêng soi: “ Sông Vàm Cỏ quê hương ta đó/ Hoàng hôn về sắc đỏ trên sông/ Thuyền ai rẽ nước xuôi dòng/ Ngân nga điệu hát cho lòng vấn vương ” (Hồng Cẩm).
Vàm Cỏ Đông đẹp như trong tiếng hát – Tác giả: Vương Tâm
1,672
Sa Pa đã trở thành thị xã du lịch của tỉnh Lào Cai , điều dễ nhận thấy là tốc độ đô thị hóa đang diễn ra một cách chóng mặt. Rất nhiều vẻ đẹp hoang sơ, những hàng thông cổ thụ, nếp nhà cổ đã không còn, nhiều quán hàng được bố trí na ná đô thị lớn như Hà Nội. Làm sao để gìn giữ bản sắc độc đáo trong phát triển du lịch là một thách thức lớn cho chính quyền và bản thân con dân của thị xã non trẻ này. Khi đến Sa Pa , tôi vẫn giữ thói quen dạo bộ buổi sớm như đã từng thực hiện cách đây hai mươi năm. Nhưng có lúc, cảm giác lành lạnh buổi sáng không còn nữa. Cũng có năm thật khó tìm được cảm giác một ngày trải qua bốn mùa xuân buổi sáng, hạ buổi trưa, thu buổi chiều, đông buổi tối. Những ngày đầu hè năm 2023, Sa Pa trải qua cảnh nắng nóng kinh khủng, gây ra sự thất vọng cho khách đến du lịch nơi đây. Ở lại lâu, thể nào cũng tìm được buổi sương rơi mùa hè, nhưng sương sớm đâu còn đẹp khi nhà cửa chen chúc. Những nếp nhà bản địa xa xưa của đô thị này hoàn toàn biến mất. Tôi từng tìm hiểu và được biết, tại Sa Pa từng có sự hiện diện của khoảng 240 căn biệt thự cổ nằm dưới những tán cây lãng mạn, cạnh con dốc liêu xiêu. Từ năm 1990, Sa Pa phát triển du lịch, đến năm 2010 phát triển mạnh và mấy năm nay phát triển nhanh khủng khiếp. Nhà cũ bị đập đi, biết bao cây thông bị đốn hạ. Các đại gia địa ốc đầu tư mua đất san đồi xây nhà nghỉ khách sạn. Những quả đồi xanh bị băm nát, được xây dựng những khối nhà tuy đẹp nhưng lại kém duyên nơi núi rừng. “Nàng công chúa” đã không được cưng chiều như trước, mà thay vào đó là sự khai thác triệt để. Cần gìn giữ những nét đẹp hoang sơ và văn hóa Sa Pa. Ở khu chợ được bày bán nông sản, thực phẩm đa số là người dân ở Phú Xuyên (Hà Nội), Thái Bình, Hà Nam lên mua chỗ, kinh doanh. Người bản địa trở thành đối tượng được phục vụ. Bởi họ có tiền từ bán đất, từ phục vụ du lịch. Những khách sạn lớn được đầu tư xây dựng từ năm 2016, 2017, đến nay đã hoàn thành và tiếp tục các khách sạn lớn, khu vui chơi được xây dựng, khiến nơi đây trở thành đại công trường xây dựng. Khách du lịch bây giờ lội bộ dọc các chân dốc khi hai bên là vật liệu xây dựng và lán trại của công nhân. Ngay cả chợ Tình, vốn được tổ chức vào tối thứ bảy, thì khu chợ ấy cũng không còn. Người dân tộc phải vào bìa rừng để họp chợ, giao duyên. Có một điều đáng phải bàn là tình trạng sốt đất, vốn là tất yếu của các đô thị đang phát triển. Từ năm 2020 đến 2022, giá đất ở Sa Pa trở nên “sốt nóng sốt rét”, khi một đoạn đường Điện Biên Phủ (đầu thị xã theo hướng từ Lào Cai lên) cắm la liệt cọc. Trên những cái cọc đó treo biển bán đất, ghi thêm số điện thoại. Và những người có điều kiện sẽ chớp luôn thời cơ đón đầu sự phát triển, mua luôn, dựng nhà, làm cửa hàng kinh doanh. Nào là làm đậu, kinh doanh tạp hóa, cây cảnh, sửa chữa ô tô, nhà nghỉ, quán ăn…. Bà con bán đất có tiền làm nhà và những thửa đất vừa được giao dịch cũng biến thành nhà. Có hộ bán đất mặt đường, khuân đống tiền lớn tiến vào trong chân núi xây nhà. Đến nay, khi giá đất ở nhiều nơi đã hạ nhiệt, thì ở Sa Pa cũng không còn quá “nóng”, nhưng vẫn còn hiện tượng “ngáo giá đất”. Tại các xã ven tỉnh lộ 152 đi Bản Dền vẫn nhiều nơi treo biển bán đất và được “hét” với giá cao. Ở khu vực này, nhiều mô hình homestay phát triển, đời sống người dân được nâng lên, đó là điều không phải bàn cãi. Nhưng có một thứ cũng đang âm thầm đe dọa đến địa tầng, khí hậu và vẻ đẹp văn hóa của huyện Sa Pa là các nhà máy thủy điện. Đã có thời kỳ cơ quan chức năng cấp phép cho hơn 100 dự án thủy điện nhỏ và vừa, rồi bị “dẹp” bớt bởi dư luận “kêu” quá nhiều. Tất nhiên, nhiều dự án đã được thực hiện và thời điểm ấy, những cánh rừng đã rùng mình sợ hãi bởi máy móc ngoạm vào núi, đốn ngã nhiều cổ thụ. Cũng có những ý kiến cho rằng đô thị hóa là tất yếu và người dân có quyền được hưởng điều kiện nhờ đô thị hóa và những tiện lợi, cuộc sống đủ đầy hơn từ quá trình phát triển ấy. Quả vậy trong thời buổi công nghệ, đô thị hóa nhanh chóng, Sa Pa không thể đứng im. Nếu buộc Sa Pa phải đứng im để “thủ thế” như một bảo tàng thì có phần nhẫn tâm. Huyện Sa Pa trước đây và nay là thị xã sẽ bị bỏ lại phía sau. Thị xã sở hữu kho tàng di sản thiên nhiên và văn hóa độc đáo và cần biến di sản đó thành tài sản. Trong bối cảnh hiện nay, làm sao để đô thị này phát triển du lịch, đồng thời giữ gìn được bản sắc, đó mới là điều đáng bàn. Hiện nay, thị xã đang phát triển khá mạnh du lịch cộng đồng. Theo UBND thị xã Sa Pa, địa phương có hơn 360 cơ sở kinh doanh homestay, 126 cơ sở dịch vụ ăn uống tại các điểm du lịch cộng đồng; 157 cơ sở quà tặng lưu niệm, 39 dịch vụ tắm thuốc và 222 dịch vụ khác. Còn theo ông Lê Mạnh Hào, Chủ tịch UBND xã Tả Van, hiện ở địa phương có hơn 50 hộ đăng ký làm mô hình du lịch cộng đồng (homestay), mỗi nhà có sức chứa từ 10 đến 20 người, trung bình vào mùa cao điểm, mỗi ngày phục vụ từ 200 đến 300 khách. Giá lưu trú một đêm tại Tả Van khá rẻ, dao động từ 100 đến 150 nghìn đồng, tùy từng hạng phòng. Thị xã bị đô thị hóa nhanh chóng. Cũng phải thấy rằng, nghề thủ công truyền thống của các dân tộc trên địa bàn thị xã khá phong phú và đa dạng như: nghề thổ cẩm của người Dao, Tày, Mông, nghề rèn đúc của người Mông, nghề đan lát của người Phù Lá, nghề chạm khắc bạc và làm đồ trang sức của dân tộc Dao, Mông; trang phục truyền thống của các dân tộc cũng tạo nên sức hấp dẫn. Tuy nhiên, hầu hết các điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn thị xã mới chỉ khai thác dịch vụ ăn, nghỉ và biểu diễn văn nghệ phục vụ khách du lịch, còn thiếu các hoạt động thu hút và kéo dài thời gian lưu trú của du khách tại địa phương. Các nghề thủ công truyền thống mới chỉ dừng lại ở những mô hình thí điểm nên chưa tạo được sức lan tỏa. Họa sĩ Bùi Mai Hiên, người từng có nhiều thời gian nghỉ dưỡng, sáng tác tại Sa Pa, cho hay: “Thị xã này sở hữu những vẻ đẹp tuyệt vời, tuy nhiên nhiều vẻ đẹp đang bị đánh mất. Bây giờ, để tìm một khung cảnh trầm lắng dưới hàng thông là không thể nữa. Do ở vùng trung tâm đô thị, tốc độ xây dựng nhanh khủng khiếp”. TS Dương Văn Sáu, Trưởng Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho rằng, cần có giải pháp để khôi phục lại bản sắc văn hóa thông qua ứng xử của người dân bản địa. Bởi, hiện nay, sự bùng nổ của du lịch đã làm thay đổi rất nhiều đến cách sinh hoạt, cách sống của người dân bản địa và sự tăng trưởng về kinh tế đối với các điểm du lịch cần được kiểm soát để phát triển bền vững vừa không làm mất đi các giá trị văn hóa đậm bản sắc. Sa Pa, cũng như các đô thị du lịch khác là Đà Lạt, Tam Đảo đang “thay da đổi thịt”. Nhưng đang có sự đánh đổi quá đắt. Muốn có kinh tế, người ta đã đầu tư xây dựng dày đặc công trình. Nếu nhìn vào bản quy hoạch từ cách đây hơn 100 năm, sẽ thấy mật độ xây dựng chỉ chiếm chưa đầy 30% so với hiện tại – đây là con số người ta đã tính toán đến ngày nay, chứ không phải trước đây. Vậy là hôm nay con người đang “ăn” vào tự nhiên quá nhiều. Bây giờ là lúc cần bình tĩnh, đánh giá lại, chúng ta đã được gì và mất gì, để có cách ứng xử với đô thị du lịch một cách hợp lý. Không nên biến “nàng công chúa” trong rừng thành một đô thị quá hiện đại và ngột ngạt như đô thị vùng xuôi. Sẽ có lúc, người ta ước giá đô thị này đừng phát triển quá nóng như thế, để chầm chậm tiến trong bền vững, trong tăng trưởng xanh, và khoa học.
Nghĩ trong sương sớm Sa Pa – Tác giả: Diên Khánh
1,608
Sau cuộc bầu cử vòng 2 diễn ra hôm 28/5 (giờ địa phương), ông Recep Tayyip Erdogan chính thức đánh bại ứng viên đối lập Kemal Kilicdaroglu, tái đắc cử cương vị Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ lần thứ ba trong lịch sử nước này. Theo số liệu do Hội đồng Bầu cử Tối cao Thổ Nhĩ Kỳ công bố, ông Erdogan đã nhận về hơn 27,5 triệu phiếu bầu (tương đương 52,14%), trong khi đó ứng viên đối lập Kemal Kilicdaroglu chỉ giành được hơn 25,2 triệu phiếu (tương đương 47,86%). Như vậy, ông Erdogan chắc chắn tái đắc cử nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài 5 năm tiếp theo tại Thổ Nhĩ Kỳ. Chia sẻ trên Twitter sau khi kết quả kiểm phiếu được công bố, ông Erdogan viết: “Với chiến thắng vĩ đại của Thổ Nhĩ Kỳ … hãy cùng bắt đầu một thế kỷ dành cho Thổ Nhĩ Kỳ”. Tổng thống Erdogan phát biểu sau chiến thắng ngay bên ngoài tư dinh ở Istanbul Ảnh: Reuters. Về phần mình, trong một bài phát biểu từ trụ sở đảng ở Ankara, ông Kemal Kilicdaroglu không thẳng thắn thừa nhận thấp bại những cam kết sẽ tiếp tục đấu tranh cho nền dân chủ thực sự tại Thổ Nhĩ Kỳ. Theo truyền thông địa phương, những người ủng hộ ông Erdogan và đảng Công lý và Phát triển đã đổ ra đường ăn mừng ở cả Istanbul và Ankara. Trước đó, phát biểu trước đám đông bên ngoài dinh thự tại Istanbul, ông Erdogan đã gửi lời cảm ơn tới những người ủng hộ đã tin tưởng trao trách nhiệm điều hành đất nước cho mình trong 5 năm tới. Những người ủng hộ ông Erdogan đổ xuống đường ăn mừng. Ảnh: Reuters. Ông Erdogan tuyên bố, chiến thắng này thuộc về người dân Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: CNN. Ông Erdogan nhấn mạnh: “Tôi muốn gửi lời cảm ơn tới từng người trong số các bạn. Mong rằng, tôi cùng đảng Công lý và Phát triển sẽ tiếp tục xứng đáng với sự tin tưởng mà các bạn trao tặng trong suốt 21 năm qua. Cảm ơn đất nước đã mang lại cho chúng tôi một ngày dân chủ như hôm nay”. “Tôi cùng đảng Công lý và Phát triển không phải là những người chiến thắng duy nhất. Chiến thắng này thuộc về người dân Thổ Nhĩ Kỳ và nền dân chủ của đất nước. Bây giờ là lúc để gác lại mọi tranh luận và xung đột liên quan đến vấn đề bầu cử. Đoàn kết sẽ mang lại sức mạnh để chúng ta có thể thực hiện được các mục tiêu quốc gia. Chúng tôi kêu gọi các bạn hãy đoàn kết bằng cả trái tim mình”, ông Erdogan kêu gọi người dân. Cũng theo ông Erdogan, chủ đề cấp bách nhất mà chính phủ của ông phải đối mặt hiện nay chính là vấn đề lạm phát. Bên cạnh đó, việc “chữa lành” và hồi sinh các thành phố bị phá huy do động đất kép tiếp tục là ưu tiên hàng đầu. Ông Erdogan đồng thời tuyên bố sẽ tái định cư, giúp hồi hương khoảng 1 triệu người tị nạn Syria về khu vực an toàn. Được biết, các nhà lãnh đạo từ khắp nơi trên thế giới liên tục gửi lời chúc mừng tới ông Erdogan, như Tổng thống Nga Putin, Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Anh Rishi Sunak,Tổng thống Ukraine Zelensky, Thủ tướng Thụy Điển Ulf Kristersson, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Thủ tướng Viktor Orban.
Ông Erdogan tái đắc cử Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ nhiệm kỳ 3
586
Vụ phun trào núi lửa tại Tonga được đánh giá là vụ nổ "nghìn năm có một". Ảnh: ustas / Adobe. Vụ phun trào núi lửa tại Tonga diễn ra đầu năm 2022 đã gây ra hiện tượng ‘bong bóng plasma xích đạo’. Theo nghiên cứu mới của các nhà khoa học Nhật Bản , vụ phun trào núi lửa tại Tonga diễn ra đầu năm 2022 đã gây ra hiện tượng “bong bóng plasma xích đạo”, thậm chí làm mất tín hiệu sóng vô tuyến. Vào tối 15/1/2022, người dân đảo quốc Tonga ở nam Thái Bình Dương chứng kiến vụ núi lửa phun trào khủng khiếp chỉ vài mét trên mực nước biển ở giữa các đảo nhỏ Hunga Tonga và Hunga Ha’apai, cách thủ đô Nuku’alofa trên đảo chính Tongatapu khoảng 50 km về phía bắc. Theo , hoạt động của núi lửa tại Tonga tạo ra những cột khói cao kỷ lục, có cột cao gần 60 m. Vụ phun trào cũng gây ra loạt sóng thần trải dài từ vùng biển Tonga tới tận khu vực Caribê. Đây được coi là vụ nổ tự nhiên mạnh nhất trong hơn một thế kỷ, ngang ngửa sức công phá của một quả bom hạt nhân lớn của Mỹ . Các nghiên cứu trước đó cho thấy thảm họa núi lửa tại Tonga đã tạo ra những đợt sóng khí quyển đủ mạnh làm xáo trộn tầng điện ly. Nhưng chưa dừng lại ở đó, theo nghiên cứu mới của các nhà khoa học Nhật Bản, mức độ tác động của những đợt sóng đó còn lớn hơn và vụ nổ còn tàn phá tín hiệu vệ tinh trong không gian. Vụ phun trào núi lửa đã tạo ra các vùng trong không gian mà tín hiệu vệ tinh không thể xuyên qua. Ảnh: JohanSwanepoel / Adobe. Về lý thuyết, những vụ trào phun núi lửa đủ mạnh có thể làm xáo trộn vùng F của tầng điện ly – khu vực chứa hàm lượng ion cao nhất trong bầu khí quyển. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm gặp trong thực tế. Nghiên cứu mới cho thấy, núi lửa Tonga dường như phun trào mạnh đến mức gây hiện tượng “bong bóng plasma xích đạo” trong tầng điện ly, tạo ra các vùng mà tín hiệu GPS và vệ tinh không thể xuyên qua. Hơn nữa, những bong bóng này có thể đạt độ cao ít nhất 2.000 km, vượt xa những gì được suy đoán trước đây. Các nhà khoa học cũng phát hiện vụ phun trào đã khiến mật độ electron tăng vọt, cũng như làm tăng độ cao của tầng điện ly. Họ cho rằng phản ứng này xảy ra do sóng khí quyển cực mạnh đã tương tác với các ion mang điện trong tầng điện ly. Do đó, có khả năng vụ phun trào núi lửa tại Tonga năm 2022 đã gây ra tình trạng mất tín hiệu trong GPS và thậm chí cả tín hiệu giao tiếp, hiện tượng thường xảy ra trong các vụ “lóa Mặt Trời” (Solar flare). Nghiên cứu được công bố ngày 22/5 trên tạp chí Scientific Reports .
Hậu quả khi 146 triệu tấn nước phun trào vì núi lửa tại Tonga
514
Một bìa sách phản cảm từng gây tranh cãi Đối với “đứa con tinh thần” của người cầm bút, diện mạo của nó rất quan trọng. “Diện mạo” ở đây, hiểu theo nghĩa đen, chính là bìa của tác phẩm. Vì sao lại có người khi in sách lại chăm chút cho bìa đến như vậy, thậm chí phải thay đổi nhiều lần, toàn bộ hoặc một vài chi tiết trên bìa, phông chữ hoặc màu sắc? Bởi bìa sách không đơn giản chỉ là hình thức bên ngoài mà còn toát ra tinh thần bên trong quyển sách. Như chúng ta luôn chọn cho mình bộ trang phục chẳng những đẹp mà còn phải phù hợp, đồng thời toả ra khí chất con người; thì quyển sách cũng cần được chú trọng đến chiếc bìa bên ngoài để tạo ấn tượng ban đầu đối với độc giả, mang tính thẩm mỹ và phần nào giúp tác giả chuyển tải thông điệp cốt lõi từ trong những dòng viết công phu, tâm huyết. Ở bất kỳ thời đại nào, trong quá trình xuất bản sách, khâu trang trí bìa sách cũng được tác giả và nhà xuất bản đặc biệt chú trọng. Thời hiện đại, khi đã có sự hỗ trợ của những thiết bị khoa học kỹ thuật, vi tính, các phần mềm đồ hoạ, trang trí… việc có một chiếc bìa ấn tượng không phải là chuyện quá khó khăn. Tưởng chừng vấn đề bìa sách đơn giản và chẳng có gì để đem ra tranh luận hay bày tỏ quan điểm riêng, nhưng không, với nhu cầu thể hiện “cái tôi” – bản ngã của người cầm bút, nhiều quyển sách văn chương (truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn, thơ…) lại có diện mạo không phù hợp, thậm chí phi thẩm mỹ. Liệu rằng, có cái “chuẩn” nào đó cho những chiếc bìa của dòng sách văn chương hay không? Hay ai cũng có thể yêu cầu một chiếc bìa theo đúng ý mình, với lý lẽ: đó là sách của mình thì việc chiều chuộng bản thân vẫn là điều quan trọng nhất?! Trong những năm gần đây, trên thị trường sách Việt Nam xuất hiện ngày càng nhiều các bìa sách không phù hợp, hay nói một cách nhẹ nhàng hơn là “đẹp mà không đẹp”. Thực tế, con người thời đại hôm nay đã dần cởi mở, phóng khoáng hơn nhiều. Vấn đề riêng tư, dung tục, tính dục… chẳng còn là xa lạ hay khiến con người phải “đỏ mặt tía tai” nữa, thậm chí có người còn hứng thú, tò mò với những điều đó. Nắm bắt được thị hiếu của một bộ phận độc giả, tác giả khi in sách (thường theo hình thức tự in ấn, còn khi sách được đầu tư bởi Nhà xuất bản thì phải qua quá trình kiểm duyệt kỹ càng, từ nội dung đến khâu vẽ bìa, in ấn) thường trang trí bìa sách theo phong cách gợi tình, phô bày vẻ đẹp của cơ thể, mang tính phồn thực cao độ. Năm 2010, tiểu thuyết Sợi xích của LKN ra đời, với một diện mạo rất sex . Tiểu thuyết này chẳng những mô tả tính dục một cách thô tục, kém văn hoá mà còn có diện mạo chẳng khác gì minh hoạ của những trang web khiêu dâm. May mắn là sách đã ngưng phát hành sau khi gây ra những ồn ào dư luận. Nude tình yêu của VHT, Sex và những thứ khác của TP… cũng có diện mạo tương tự như vậy. Dẫu rằng ngày nay, viết về tính dục là điều bình thường, tính dục trở thành một lý thuyết hẳn hoi trong lĩnh vực phân tâm học. Tuy nhiên, không phải cứ bất kỳ tác phẩm nào có đề cập đến yếu tố dục cũng cần phải có diện mạo mô phỏng “vùng cấm”, “da thịt” của con người, đặc biệt là phụ nữ. Có nhiều nguyên do khiến cho những chiếc bìa sách văn học xuất hiện, trà trộn và làm “bẩn” đi bầu không khí trong lành của văn chương. Một trong những nguyên nhân quan trọng, mang tính thực dụng nhất là “câu” độc giả. Những tác phẩm đó bỗng nhiên trở thành một món hàng rẻ tiền có diện mạo được vẽ vời hình ảnh mô phỏng những chỗ nhạy cảm, xác thịt của người phụ nữ, đậm chất khiêu gợi chỉ để thu hút công chúng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Thực tế thì giá trị của văn chương không nằm ở bìa sách (dù bìa sách là phần quan trọng phản ánh tinh thần của tác phẩm, cái vỏ bọc của “đứa con tinh thần” – niềm tự hào của người cầm bút). Giá trị văn chương nằm ở những gì mà tác giả viết bên trong quyển sách, ở tinh thần nhân văn, nhân đạo, góc nhìn của người viết về cuộc sống và con người, những thông điệp cao quý được người nghệ sĩ gửi gắm. Đã từng có rất nhiều tác phẩm, mặc dù chất chứa rất nhiều yếu tố tính dục (tất nhiên là tính dục nhân văn chứ không thô thiển, tục tĩu) nhưng không cần phải cài cắm sex vào bìa sách cũng trở thành tác phẩm được mong đợi, được đón nhận và công nhận giá trị. Có thể kể đến I am Đàn bà (Y Ban) – bản in năm 2019 của Nhà xuất bản Phụ Nữ, Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư) – bản in năm 2017 của Nhà xuất bản Trẻ, Miền hoang (Sương Nguyệt Minh) – bản in năm 2014 của Nhà xuất bản Trẻ, Hoang tâm (Nguyễn Đình Tú) – bản in năm 2012 của Nhà xuất bản Hội Nhà văn… Đó là minh chứng cho sự thu hút của tác phẩm nằm ở cái lõi bên trong chứ không phải thông qua những trò câu khách bằng một chiếc bìa giật gân, khiêu gợi. Giữa bối cảnh “nhà nhà in sách, người người in sách”, chỉ cần viết được vài dòng, mặc dù cẩu thả, lỏng lẻo và có điều kiện kinh tế thì mỗi người đều có thể sở hữu cho mình quyển sách riêng, đôi khi bị đánh tráo khái niệm là “tác phẩm văn học”. Thông thường, nếu không thể liên kết xuất bản hoặc được các Nhà xuất bản, Công ty phát hành sách đầu tư in ấn thì tác giả có thể tự bỏ kinh phí ra để in ấn bản thảo thành sách. Hình thức in ấn đó thường “dễ thở” hơn, tác giả cũng có quyền thiết kế bìa, trang trí sách theo sở thích, cá tính riêng của mình. Đó cũng là nguyên nhân khiến cho nhiều quyển sách văn học chẳng khác gì một quyển tạp chí thời trang ra đời. Vì sao gọi những quyển sách đó là tạp chí thời trang trá hình? Bởi trong sách, tác giả cố tình đưa vào những hình ảnh thuộc cá nhân của mình, đó là chưa nói đến trong số hình ảnh đó có cả những tấm hình không phù hợp, nói đúng hơn là hở hang, khoe khoang cái đẹp của xác thịt. Là sách văn học nhưng chữ ít hơn hình, nhìn vào chỉ thấy những màu rối rắm, thấy chân dung tác giả “thả dáng” trên trang sách, còn chữ thì hoàn toàn “lép vế”. Nghệ thuật và cái đẹp không có biên giới, nhưng phải đúng chuẩn mực và phù hợp với thuần phong mỹ tục. Tất nhiên việc đưa hình ảnh cá nhân vào sách thì không vi phạm pháp luật hay ảnh hưởng đến một ai, nhưng khi đã xác định mình là một tác giả sáng tác văn chương, in sách văn học và để cho “đứa con tinh thần” của mình sống trong bầu không khí văn học nước nhà thì người nghệ sĩ cần ý thức được thế nào là phù hợp và không phù hợp. Những quyển sách như thế, có thể lấy lòng được những người có cùng niềm đam mê, sở thích “thời trang” hoặc tôn sùng vẻ đẹp của người phụ nữ mà bất chấp sự lố lăng, thô thiển; nhưng khó có thể tạo được ấn tượng tốt đối với những người yêu văn chương thực sự, nghiêm túc với văn chương và xem văn chương là môi trường trong lành không có chỗ cho những khoe khoang đời tư, phô diễn hình thể. Văn chương cần hơn những tinh hoa, sự sáng tạo, góc nhìn mới mẻ của người nghệ sĩ, sự bứt phá thoát khỏi giới hạn vốn có của bản thân để đưa ra những trang văn có giá trị cao. Văn chương không phải là mảnh đất để người ta tự do dùng chiêu trò “câu khách”, càng không phải là môi trường để tác giả PR bản thân, khoe mẽ, thể hiện niềm đam mê bất tận những phồn thực thô thiển, kém văn hoá. Ý thức được điều đó, một bộ phận tác giả sẽ biết cách tiết chế bản thân, kìm chế sở thích cá nhân và tuân theo những “cái chuẩn ngầm” của một quyển sách văn học, để sách văn học sẽ đúng “chuẩn” là sách văn học chứ không phải là tạp chí thời trang, poster phim hay mang bóng dáng của những “web đen” phi thẫm mĩ. Sáng tác được một tác phẩm thật đáng quý, vì thế, hãy khoác lên “đứa con tinh thần” của mình một tấm áo vừa đẹp, vừa phù hợp, vừa nhân văn chứ đừng dìm chết đứa con ấy chỉ bằng cái vỏ bọc thiếu đứng đắn bên ngoài hay những hình ảnh lố lăng, kém tinh tế ở trong sách.
Cái “Chuẩn” hình thức sách văn học – Tác giả: Phạm Khánh Duy
1,618
Cuốn sách “85 chân dung văn hóa, văn chương Việt” tôn vinh nhiều tên tuổi lớn từ văn học trung đại đến hiện đại. 85 chân dung văn hóa, văn chương Việt của Giáo sư Phong Lê đã dựng lại cuộc đời và sự nghiệp của 85 tác giả tiêu biểu của nền văn chương Việt Nam. Họ gồm những tên tuổi làm nên chuyển động lớn trong văn học trung đại kể từ Chu Văn An , Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm …, đến những gương mặt thế kỷ XX khi văn học chuyển vào quỹ đạo hiện đại. Trong số 85 nhân vật, GS Phong Lê đặc biệt ấn tượng và tập trung đầu tư vào 3 tác giả mà ông cho là quan trọng nhất, gồm Nam Cao , Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nguyễn Du . Cuốn sách “85 chân dung văn hóa, văn chương Việt” do Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phát hành (Ảnh: NXB cung cấp). GS Phong Lê rất linh hoạt trong việc sử dụng đôi mắt xanh tinh tế và ngòi bút sắc sảo để khắc họa những chân dung văn học. Với mỗi tác giả, ông lựa chọn cách khai thác riêng. Đôi khi chỉ vài nét phác họa, hoặc những cảm nhận, suy ngẫm cá nhân… song đều toát lên con người cuộc đời và con người văn chương của từng nhân vật, qua đó thấu hiểu những bài học nhân sinh và thế thời. Tác giả đã dồn hết tâm huyết, tình cảm và rung động vào mỗi chân dung. Ông chưa bao giờ lảng tránh thổ lộ chính kiến ngay thẳng của mình bằng một tình yêu thật sự với các nhân vật. Một tình yêu sôi nổi và nhiệt thành khiến độc giả phải rung động, kinh ngạc và thán phục trong từng câu chữ. Giáo sư Phong Lê, tên thật Lê Phong Sừ, sinh ngày 10/11/1938, tại xã Sơn Trà, huyện Hương Sơn , tỉnh Hà Tĩnh . Ông nguyên là Viện trưởng Viện Văn học kiêm Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Nghiên cứu viên cao cấp, Ủy viên Hội đồng khoa học Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. GS Phong Lê đã viết riêng và chủ biên khoảng 30 công trình lý luận và nghiên cứu văn học, văn hóa Việt Nam, một trong số đó là: Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945-1970; Văn và người; Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa; Văn học Việt Nam hiện đại – Lịch sử và lý luận (1980 – 1987, 7 tập); Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn học Việt Nam hiện đại; Văn học và công cuộc đổi mới (1994); Văn học trên hành trình của thế kỷ XX;… Năm 2005, ông được trao tặng giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ.
Tôn vinh 85 tên tuổi lớn của văn hóa, văn chương Việt Nam
460
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GÁNH NƯỚC SÔNG Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy Những người đàn bà xuống gánh nước sông Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi Bàn tay kia bấu vào mây trắng Sông gục mặt vào bờ đất lần đi Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ Những con cá thiêng quay mặt khóc Những chiếc phao ngô chết nổi Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi Đã năm năm, mười năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy Sau những người đàn bà gánh nước sông và lũ trẻ cởi truồng Chạy theo mẹ và lớn lên Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ Và cá thiêng lại quay mặt khóc Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi. (Nguyễn Quang Thiều) Tôi nghe nói đây là một bài thơ được viết theo bút pháp siêu thực! Còn tôi, tôi chỉ đọc thấy từ văn bản một câu chuyện đời buồn. Là câu chuyện thì đương nhiên phải có nhân vật và hình hài, tâm trạng, có sự việc và diễn tiến sự việc… Nhân vật chính của “bài thơ – câu chuyện đời buồn” này đã hiện hữu trong trọn vẹn nhan đề, đó là “ những người đàn bà gánh nước sông ”! Họ được khắc họa ngay từ câu thơ đầu tiên, với “ Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái ”! Cô Kiều xưa được Nguyễn Du khắc họa duy nhất với “ Làn thu thủy, nét xuân sơn ”, một vẻ đẹp mềm mại, ngọt sắc, tươi mát, trong lành, kiều mị… khiến mê đắm lòng người suốt mấy trăm năm! Những người đàn bà gánh nước sông cũng chỉ được khắc họa đậm nhất trong một nét ngoại hình, có ai nỡ khen đó là vẻ đẹp nữ tính hay không? Tôi thì chỉ muốn khóc khi hình dung những trầy trật, vẹo xiêu, nghiêng ngả, bầm dập đã tạo thành nét “ ngoại hình nhìn từ chân” này – tôi nhớ tới người đàn bà hàng chài thô kệch, bạc phếch, rách rưới của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà có “ bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn vào đám đông ” lầm lụi – họ, những người đàn bà ấy không mong manh như hoa khói để được chiều chuộng, nâng niu; họ sinh ra để gánh vác, chống chọi, chịu đựng – những bàn chân gót hồng xinh nhỏ không giúp gì được cho đời họ, thật ra là cho chồng con họ – bàn chân phải “ tõe ra như móng chân gà mái” để đứng cho vững, để bước cho nhanh, để kịp làm những việc vẫn làm suốt cuộc đời, mà chẳng biết sao lúc nào cũng vội! Minh họa: Hoàng Nguyên. Sau nét vẽ ngoại hình về bàn chân là một chi tiết khá ấn tượng về “ Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt ”. Phụ nữ ở làng ngày xưa hay búi tóc, những búi tóc tròn, dầy, đầy đặn, hoặc cao gọn, hoặc trễ nải sau gáy, tạo nét duyên thấp thoáng nõn nà phía sau. Với những người đàn bà gánh nước sông, đường trơn, chân bấm móng, gánh nặng vẹo xiêu, búi tóc xổ vỡ, nắm dài nắm ngắn, kết dính sũng nước, hay mồ hôi, rơi như nước xối trên “ lưng áo mềm và ướt ”, hình ảnh gợi xót nhiều hơn gợi cảm… Khiến nghĩ ngợi day dứt nhất lại là cử chỉ của bàn tay: “ Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi/Bàn tay kia bấu vào mây trắng ”! Để giữ thăng bằng cho hai thùng nước đầy sóng sánh trên con đường bờ sông trơn trượt, những người đàn bà phải bám chặt một tay vào đầu đòn gánh – cái đòn gánh dẻo thắt, lẳn chai bờ vai, trong một góc nhìn nào đó, in bóng trên nền trời mênh mông, rợn ngợp – góc tạo hình ngẫu nhiên mà như tạo hóa sắp đặt, khác hằn những thân phận bé nhỏ nhọc nhằn cùng cái mệt mỏi buồn bã khi chỉ gồng gánh thôi mà rồi cũng hết cuộc đời. Nhưng bàn tay kia mới thật xót lòng khi “ bấu vào mây trắng ” – khi người đàn bà gánh nặng, một tay bám chắc đầu đòn gánh, tay kia không bám được vào đâu nên phải vung với theo nhịp bước đi, trong một góc nhìn nào đó, bàn tay họ như chạm, như bấu vào mây trắng ! Có lời bình cho rằng bàn tay “ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi” là hiện thực, còn bàn tay “ bấu vào mây trắng ” thì bay bổng lãng mạn – tôi lại chỉ thấy một hiện thực tội nghiệp. Tự bao giờ người đàn bà mặc định là phái yếu, mặc định cần một bờ vai để dựa, một cánh tay để víu – nhưng trong thực tế, họ víu vịn vào đâu, “ vào mây trắng ” sao? Đó đâu phải cái đẹp, đó là cái rỗng không, bồng bềnh, hư ảo, hữu hình mà vô thể, ảo thể, nhìn tưởng có đấy mà hóa ra lại không! (Tự nhiên nảy ra một câu hỏi có thể tạo niềm phẫn nộ chính đáng cho nửa thế giới còn lại: có ai trong các anh tự thấy mình là “ ông chồng mây trắng ”? Hình như có ông Tú nói ra điều đó trong một câu thơ làm điệu, dùng chút vốn tự trào để thu lãi ròng cao thượng!) Có một câu thơ khiến tôi nghĩ mãi, và sợ nữa, đó là “ Sông gục mặt vào bờ đất lần đi ”. Nhà thơ muốn nói điều gì đây, trong hình hài siêu thực này? Tôi không thấy “sông”, chỉ thấy những người đàn bà gánh nước sông, năm này qua năm khác, suốt cả cuộc đời, đưa những nhánh sông nhọc nhằn chảy về nhà về bếp họ, mà đâu có chảy như một sự dễ dàng, những nhánh sông xiêu vẹo, trầy trật nghiêng ngả, gục mặt vào bờ đất mà lần từng bước về nhà trên “ Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái ”. Và từ đó, tôi thấy mẹ tôi, thấy tôi, con gái tôi, những người đàn bà chúng tôi, gục mặt vào cái bất trắc, gập ghềnh, ngang ngửa của đời, lần bước đi trong trơn trượt; cái gục mặt không lý trí trong cõi vô thức mông lung, mù mịt, cứ lần bước đi như một thói quen, một ràng buộc… Dù, gia đình tôi không ai biết gánh nước, không sống ở làng quê, bên một dòng sông, và cũng không ai có ngón chân “ xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái” ! Chồng con của những người đàn bà gánh nước sông cũng được khắc họa trong những điệp khúc ám ảnh, trước hết là “ Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ ”. Họ hiện ra trong hình hài của sự thất bại cay đắng giữa một vòng tròn mưu sinh lần hồi với quy luật nghiệt ngã khi hạnh phúc/ miếng ăn là cái chăn hẹp, người này co thì người kia đói, rét. Có điều, trong vòng tròn mưu sinh này, cả người câu và đối tượng câu đều đau khổ vì sự thất bại. Người để lưỡi câu lộ mồi, cá đói, nhìn thấy mồi mà không thể ăn; người đói vì khờ dại, cá đói vì khôn ngoan, và cả khờ dại lẫn khôn ngoan đều không lại với trời/ với đời. Đặc biệt day dứt là đàn con của họ: “ lũ trẻ cởi truồng/Chạy theo mẹ và lớn lên ”. Chúng bất hạnh một cách hồn nhiên, trụi trần, thơ dại; những mầm cây cha mẹ chỉ gieo hạt, rồi chúng tự lớn lên, tự mặc dần áo quần, giữa gió và nước sông. Để rồi, như thân phận những hài nhi trong “cái lò gạch cũ” của làng Vũ Đại, chúng lại sống tiếp cuộc đời buồn của cha mẹ: “ Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến/ Con trai lại vác cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ/ Và cá thiêng lại quay mặt khóc/ Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi ”! Có thể tìm thấy dấu hiệu của thơ siêu thực từ rất nhiều những bất ngờ, sai biệt và phi lý trong các hình ảnh được sinh ra “ từ sự xích lại gần nhau của hai hiện thực ít nhiều xa nhau ” (Reverdy), từ hình ảnh bàn tay “ bấu vào mây trắng ” của những người đàn bà, hình ảnh “ Những đàn ông mang cần câu và cơn mưa biển ra khỏi nhà lặng lẽ/ Những con cá thiêng quay mặt khóc ” hay hình ảnh “ Sông gục mặt vào bờ đất lần đi ”… Nhưng khi lọc qua những phi lý của hình tượng ngôn từ, sao tôi vẫn chỉ đọc ra sự hợp lý, đọc ra cái thực còn thực hơn cả hiện thực của đời. Đó là cái thực chưng cất từ rất nhiều cuộc đời, nước mắt, mồ hôi, nắng gió…, nén chặt trong 18 câu thơ và bung tỏa thành ngàn vạn mảnh nước mắt – thủy tinh khi chạm cứa vào lòng người đọc. Nhất là những người đàn bà!
Những người đàn bà gánh nước sông – Tác giả: Trịnh Thu Tuyết
1,608
Bên trong nhà máy khử mặn lớn nhất châu Âu ở Barcelona. (Nguồn: AP). Barcelona, thành phố lớn thứ hai của Tây Ban Nha, đang sống dựa vào hệ thống cấp nước từ nhà máy khử mặn nước biển thành nước ngọt để vượt qua đợt hạn hán kéo dài. Trước đây, cư dân thành phố Barcelona ( Tây Ban Nha ) từng sử dụng nguồn nước chủ yếu từ các giếng và sông hồ. Nhưng hiện thành phố lớn thứ hai của Tây Ban Nha này đang sống dựa vào hệ thống cấp nước từ nhà máy khử mặn nước biển thành nước ngọt để vượt qua đợt hạn hán kéo dài. Nhà máy khử mặn nước biển Llobregat nằm trên một bãi biển tách biệt ở Địa Trung Hải. Nước được bơm vào nhà máy ở khu vực cách đó 2km. Sau khi đi qua một số hệ thống làm sạch và lọc, nước được chuyển đến điểm cuối cùng: các ống nước nhiều màu sắc, vặn xoắn để loại muối ra khỏi nước biển và cho ra những giọt nước ngọt. Nhà máy này gần như không được sử dụng sau khi hoàn thành xây dựng vào năm 2009. Nhưng hiện nhà máy khử mặn nước biển lớn nhất châu Âu này đang hoạt động hết công suất để giúp vùng đô thị Barcelona rộng lớn với khoảng 5 triệu dân thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu. Theo các chuyên gia, nắng nóng kéo dài và hạn hán gia tăng do hiện tượng Trái Đất nóng lên khiến trữ lượng nước ngọt của Nam Âu cạn kiệt. Công ty cấp nước thành phố của Barcelona cho biết, vào tháng 4/2021 – thời điểm trước khi xảy ra hạn hán, các con sông cung cấp 63% lượng nước sinh hoạt cho Barcelona, các giếng nước cung cấp 34% và nhà máy khử mặn nước biển chỉ 3%. Hai năm sau, quá trình khử mặn nước biển đóng góp 33% lượng nước sạch của Barcelona, trong khi các giếng cung cấp 23% và lượng nước mà các dòng sông cung cấp giảm xuống chỉ còn 19%. Khu vực Địa Trung Hải đang nóng lên với tốc độ nhanh hơn so với nhiều khu vực khác trên thế giới. Năm 2022, Tây Ban Nha ghi nhận nắng nóng kỷ lục và hạn hán diện rộng gây tổn hại đến nông nghiệp. Tình trạng thiếu nước đặc biệt trầm trọng ở vùng Đông Bắc Catalonia. Cơ quan cấp nước Catalonia dự báo nguồn nước của vùng này sẽ giảm 18% trước năm 2050. Cũng theo cơ quan này, lượng mưa từ nay đến hết tháng Năm dự kiến sẽ cao hơn mức trung bình, nhưng không thể bù đắp và giải quyết được vấn đề sau 32 tháng hạn hán. Trong khi đó, khu vực Barcelona được dự báo sẽ trải qua tình trạng khẩn cấp do hạn hán, theo đó sẽ chính thức áp đặt các biện pháp hạn chế nghiêm ngặt hơn vào tháng Chín tới. Trong khi các hồ chứa nước được các lưu vực sông phía Bắc của Catalonia cung cấp chỉ đạt công suất 25%, lượng nước có sẵn cho hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và một số mục đích sử dụng khác của thành phố bị hạn chế. Tuy nhiên, nhà chức trách hiện không phải hành động quyết liệt như trong đợt hạn hán năm 2006-2008. Nhà máy Llobregat được xây dựng nhờ các nhà chức trách chú ý đến các cảnh báo của giới chuyên gia khí hậu và lập kế hoạch trước để thích ứng với biến đổi khí hậu. Khử mặn nước biển là một phần quan trọng trong chính sách cấp nước của Tây Ban Nha trong hơn nửa thế kỷ. Đảo Lanzarote thuộc quần đảo Canary của Tây Ban Nha đã xây dựng nhà máy khử mặn nước biển đầu tiên của châu Âu vào năm 1964 và ngành công nghiệp này tiếp tục phát triển tại quốc gia Nam Âu có mùa Hè khô và kéo dài này. Khi kỹ thuật thẩm thấu ngược trở nên phổ biến trong những năm 1980 và 1990, cùng với chi phí giảm, nhiều nhà máy khử mặn nước biển đã mọc lên tại nhiều nơi của lục địa Tây Ban Nha. Theo Hiệp hội Khử muối và Tái sử dụng nước Tây Ban Nha, hiện nước này đang đứng thứ tư trên thế giới về công suất khử mặn nước biển, chiếm khoảng 5% tổng công suất toàn cầu, sau Saudi Arabia, Mỹ và Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất. Hoạt động khử mặn nước biển đã tăng dần trên toàn thế giới trong thập kỷ qua, với châu Âu và châu Phi chứng kiến công nghệ phát triển mạnh mẽ hơn. Tây Ban Nha có khoảng 800 nhà máy khử mặn nước biển có thể sản xuất 5 triệu lít nước ngọt mỗi ngày để phục vụ sinh hoạt, nông nghiệp và công nghiệp. Nếu chỉ dành riêng cho con người sử dụng, lượng nước này sẽ đủ cung cấp nước ăn uống cho 34 triệu người,tức hơn 70% dân số Tây Ban Nha. Trong khuôn khổ gói ứng phó với hạn hán có trị giá 2,2 tỷ euro (2,4 tỷ USD), Chính phủ Tây Ban Nha cho biết sẽ dành 220 triệu euro để xây thêm một nhà máy khử mặn nước biển ở phía Bắc Barcelona và dành 200 triệu euro cho một nhà máy ở bờ biển phía Nam của Tây Ban Nha. Chính phủ cũng cam kết chi 224 triệu euro nhằm cải tạo các hệ thống lọc nước ở miền Nam nước này./.
Khử mặn nước biển – giải pháp cho tình trạng khan hiếm nước
926
Một quyết định sai lầm sau khi hoàn tất thiết kế con tàu vũ trụ này đã góp phần gây ra thất bại trong lần đổ bộ vừa qua. Cuối tháng trước, chuyến đổ bộ lịch sử của công ty Nhật Bản lên Mặt Trăng đã thất bại khi gần đến đích, tàu đổ bộ đột nhiên mất tín hiệu và mọi nỗ lực phục hồi liên lạc đều không thành công. Nhưng giờ đây, sau một thời gian điều tra, nguyên nhân của sự cố này dường như đã được tìm ra. Theo báo cáo của cuộc điều tra, nhiều khả năng một lỗi trong phần mềm đã khiến cho tàu vũ trụ tự động của Nhật Bản đánh giá sai độ cao khi tìm cách hạ cánh xuống bề mặt Mặt Trăng. Cuối cùng điều này gây ra vụ tai nạn và mất liên lạc với Trái Đất. Trong cuộc họp báo vừa qua, công ty Ispace của Nhật Bản cho biết, trước đó tàu đổ bộ Hakuto-R Mission 1 đã hoàn thành trình tự hạ cánh theo kế hoạch, bằng cách giảm tốc độ đi 2 dặm sau mỗi giờ. Nhưng đến lúc này, tàu đổ bộ vẫn còn cách bề mặt Mặt Trăng khoảng 3 dặm. Sau khi hết nhiên liệu, tàu vũ trụ lao xuống đâm vào núi lửa Atlas với tốc độ hơn 200 dặm/giờ và bị phá hủy hoàn toàn. Tàu đổ bộ Mặt Trăng tự động Hakuto-R của Ispace. Nếu thành công, chuyến đổ bộ của Hakuto-R không chỉ là lần hạ cánh lịch sử đối với Nhật Bản mà còn cả với thế giới, khi lần đầu tiên một công ty hàng không vũ trụ tư nhân hạ cánh xuống bề mặt Mặt Trăng. Rất tiếc nỗ lực này đã không thành công. Dù sao đi nữa nó cũng cho thấy xu hướng các công ty tư nhân đang ngày càng nhiệt tình tham gia và dẫn dắt lĩnh vực hàng không vũ trụ, chứ không chỉ các cơ quan chính phủ như trước đây. Việc đánh giá dữ liệu cho thấy phần mềm dẫn đường trong quá trình hạ cánh dường như không xác định được độ cao của tàu đổ bộ khi nó đi qua vành miệng núi lửa trên bề mặt Mặt Trăng – vốn cao hơn khoảng 2 dặm so với địa hình xung quanh. Do vậy phần mềm kết luận sai rằng cảm biến gặp trục trặc và từ chối tiếp nhận các phép đo độ cao chính xác. Trong khi đó, động cơ, máy đo độ cao và các phần cứng khác hoạt động bình thường cho thấy thiết kế tổng thể của tàu vũ trụ là hợp lý. Việc sửa lỗi phần mềm chắc chắn sẽ dễ hoàn thành hơn so với tinh chỉnh lại thiết kế phần cứng. Giám đốc công nghệ của Ispace, Ryo Ujiie, cho biết: “ Đây không phải là lỗi phần cứng. Do vậy chúng tôi không cần phải chỉnh sửa lại phần cứng .” Ảnh chụp miệng núi lửa Atlas của vệ tinh NASA cho thấy thay đổi trên bề mặt khu vực, trước và sau vụ tai nạn của tàu đổ bộ Hakuto-R, cho thấy nhiều khả năng đây là địa điểm xảy ra vụ va chạm. Tuy nhiên, thất bại trong lần đổ bộ này cũng chỉ ra các thiếu sót trong quá trình thử nghiệm của Ispace đối với phần mềm hạ cánh tàu vũ trụ, vốn được phát triển bởi Phòng Thí nghiệm Draper của Cambridge, Massachusetts. Một quyết định thay đổi địa điểm hạ cánh – sau khi thiết kế tàu vũ trụ được hoàn thiện vào đầu năm 2021 – rất có thể đã góp phần gây ra vụ tai nạn này. Ban đầu các lãnh đạo của Ispace chọn hạ cánh ở Lacus Somniorum, một vùng đồng bằng bằng phẳng. Tuy nhiên, sau đó họ lại chọn Atlas, một hố va chạm rộng hơn 50 dặm, sẽ là địa điểm hạ cánh thú vị hơn. Điều đó cũng có nghĩa phần mềm hạ cánh không được thiết kế để xử lý sự thay đổi độ cao khi tàu vũ trụ vượt qua vành miệng núi lửa và các hệ thống mô phỏng trước đó cũng không nhận ra sai sót này. Ông Takeshi Hakamada, nhà sáng lập và CEO của Ispace, cho biết, lịch trình cho 2 sứ mệnh sắp tới của công ty – bao gồm một tàu đổ bộ tương tự vào năm tới và hạ cánh một tàu vũ trụ lớn hơn xuống phía xa của Mặt Trăng vào năm 2025 – vẫn sẽ không thay đổi. CEO Ispace, Takeshi Hakamada. “ Chúng tôi có được bức tranh rõ ràng về cách cải thiện các sứ mệnh tương lai của mình như thế nào “. Ông Hakamada cho biết. Bên cạnh Ispace, nhiều tàu vũ trụ khác đang lên kế hoạch đổ bộ lên Mặt Trăng trong năm nay. Các công ty bao gồm Astrobotic Technology đến từ Pittsburgh và Intuitive Machines đến từ Houston đều lên kế hoạch gửi tàu vũ trụ tới Mặt Trăng trong năm nay. Điều này là một phần trong chương trình vũ trụ của NASAnhằm huy động được nhiều công ty tư nhân đưa các thiết bị khoa học lên Mặt Trăng. Bên cạnh đó, cơ quan hàng không vũ trụ Ấn Độ cũng thông báo sứ mệnh có tên Chandrayaan-3 của họ có thể sẽ được phóng lên vào ngày 12 tháng Sáu tới đây. Trong những năm gần đây, nhiều tổ chức bao gồm cả các cơ quan hàng không vũ trụ quốc gia cũng như các công ty tư nhân, đều nỗ lực quay trở lại Mặt Trăng. Nhưng dường như việc hạ cánh xuống bề mặt Mặt Trăng khó hơn kỳ vọng của nhiều người. Trong thời gian gần đây, chỉ có tàu đổ bộ tự động của Trung Quốc đã hạ cánh xuống được Mặt Trăng, còn các nỗ lực khác của Israel, Ấn Độ đều không đạt được kết quả như ý muốn.
Tiết lộ nguyên nhân tàu đổ bộ Nhật Bản thất bại khi hạ cánh xuống Mặt Trăng, hóa ra không phải lỗi phần cứng
995
Nhạc sĩ Thanh Sơn và vợ ông - bà Lê Thị Hương - lúc trẻ. Nhạc sĩ Thanh Sơn kể ‘Trước ngày chia tay, Hoa Phượng có tìm gặp tôi nơi sân trường để nói lời từ biệt. Hai đứa buồn xo, chẳng nói gì nhiều, chỉ lặng nhìn nhau…’. “Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn. Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương. Ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần gũi nhau mất rồi, tạ từ là hết người ơi…”, những ca từ này đã trở nên quen thuộc với rất nhiều người. Vâng, quen lắm! Bởi tiếng hát Thanh Tuyền đã song hành cùng với ca khúc Nỗi buồn hoa phượng suốt gần nửa thế kỷ. Đây là một trong rất nhiều ca khúc của nhạc sĩ Thanh Sơn viết về đề tài tuổi học trò. Trước đây (năm 2002), nhạc sĩ từng tâm sự với người viết: “Thời niên thiếu, nhà tôi nghèo lại đông con nên tôi phải bỏ học giữa chừng để mưu sinh. Phải bỏ học, tôi tiếc lắm, cho nên quãng đời rất đẹp của tuổi học trò cứ lưu trong ký ức của tôi với những kỷ niệm xao xuyến. Tôi trang trải những kỷ niệm ấy vào ca khúc…”. Thế nên, ai cũng ngỡ rằng Nỗi buồn hoa phượng cũng chỉ là một ca khúc nằm trong mảng đề tài này và chẳng có gì đặc biệt… Có đấy: Năm 1951, cậu học trò Lê Văn Thiện (tên thật của nhạc sĩ Thanh Sơn) học trường Trung học Hoàng Diệu (Sóc Trăng) đã “hết sức quan tâm” đến cô bạn cùng lớp. Cô ấy khá nhí nhảnh, dễ thương, có cái tên ngồ ngộ: Nguyễn Thị Hoa Phượng. Vì thế các thầy cô và bạn bè trong trường không bao giờ gọi tên cô “gọn lỏn” bằng một chữ “Phượng”, mà lúc nào cũng là “Hoa Phượng” một cách vừa thân thương vừa trân trọng. Hoa Phượng là con của một gia đình công chức từ Sài Gòn về làm việc tại Sóc Trăng. Nhạc sĩ Thanh Sơn hồi tưởng: “Hai đứa học chung được hơn một năm (hai niên khóa), tình cảm đang dần trở nên thắm thiết thì bất ngờ mùa hè năm sau Hoa Phượng cho biết gia đình cô đã được điều chuyển về lại Sài Gòn. Trước ngày chia tay, Hoa Phượng có tìm gặp tôi nơi sân trường để nói lời từ biệt. Hai đứa buồn xo, chẳng nói gì nhiều, chỉ lặng nhìn nhau… Khi tôi hỏi xin địa chỉ để sau này liên lạc thì nàng cúi xuống nhặt một cánh phượng trao cho tôi, nói: “Em tên là Hoa Phượng, mỗi năm đến hè nhìn hoa phượng nở thì hãy nhớ đến em…”. Từ đó chúng tôi bặt tin nhau! Ba năm sau (1955), Lê Văn Thiện phải bỏ học giữa chừng để chen chân vào cuộc mưu sinh. Anh quyết định lên Sài Gòn, trước là tìm kiếm việc làm, sau nữa nhen nhóm cơ hội tìm lại “người xưa”. Phiêu dạt giữa chốn phồn hoa đô hội, với không ít bầm dập, tủi hờn nhưng rồi nhờ tính tình hiền lành, siêng năng, anh thanh niên tên Thiện cũng may mắn lọt vô cánh cổng của một nhà trọc phú, dù chỉ làm gia nhân với mức lương khá hậu hĩnh so với thời giá lúc đó: 150 đồng/tháng. Mê nhạc, lại được lòng ông chủ cho nên anh được phép tranh thủ những giờ rảnh để theo học lớp nhạc của nhạc sĩ Lê Thương. Dạo ấy, mỗi năm Đài phát thanh Sài Gòn đều có tổ chức cuộc thi “Tuyển lựa ca sĩ”, điều đó đã nhen nhóm vào lòng chàng trai “ở đợ” một khát vọng đổi đời. Năm 1959, Lê Văn Thiện “liều mạng” đăng ký dự thi tuyển lựa ca sĩ với nghệ danh Thanh Sơn qua bài hát Chiều tàn của Lam Phương. Đến bây giờ anh vẫn còn nhớ từng thành viên giám khảo, đó là những nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Võ Đức Thu, Nghiêm Phú Phi. Ngồi ghế chánh chủ khảo là nhạc sĩ Thẩm Oánh. Cái sự “liều mạng” đã được sao hộ mệnh chiếu mạng: thí sinh Thanh Sơn đoạt giải nhất! Phần thưởng là chiếc máy radio và cây đàn guitar. So với phần thưởng của các giải âm nhạc bây giờ thì quá “hẻo”, nhưng chừng đó cũng đủ đưa Thanh Sơn lên tận… núi xanh! Quan trọng hơn, giải thưởng này chính là đòn bẩy đưa anh vào thế giới ca nhạc. Anh từ giã “nghề” gia nhân để đến với “Ông hoàng Tango” (tức nhạc sĩ Hoàng Trọng). Chính xác là giờ đây ca sĩ Thanh Sơn đã được ban nhạc Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng mời về cộng tác. Không chỉ có thế, giọng hát của anh còn được nhiều nơi chào mời (bây giờ gọi là “chạy sô”)… Thời gian này Thanh Sơn bắt đầu tập tành sáng tác. Ca khúc đầu tay của anh là bài Tình học sinh (1962), nhưng bài hát này chẳng tạo được chút dư âm. Thế rồi một buổi trưa đi ngang qua một ngôi trường đang mùa phượng nở, những kỷ niệm của thuở học trò có thấp thoáng bóng dáng của Nguyễn Thị Hoa Phượng ùa về… và ca khúc Nỗi buồn hoa phượng ra đời năm 1963. Nhạc sĩ tâm sự: “Tôi tìm thấy cảm xúc bởi sắc màu đỏ thắm của hoa phượng mỗi khi hè về. Bài hát này tôi viết về một cuộc tình học trò rất đẹp. Lời chia tay của cô bạn gái cùng trường đã khiến tôi xao xuyến, bâng khuâng. Màu hoa phượng như những giọt máu đỏ tươi minh chứng một cuộc tình chung thủy… Bài hát lập tức được chấp nhận và mọi người yêu thích, làm động lực cho tôi chuyên tâm vào sáng tác. Có thể nói đó là “thời hoàng kim” của tôi, bởi tiền tác quyền lúc đó tôi nhận khoảng 6.000 đồng mỗi tháng. Nó không chỉ giúp gia đình tôi vượt qua nghèo khó mà sau đó tôi còn mua được nhà, xe, cưới vợ… Nói một cách nào đó, “hoa phượng” là ân nhân của gia đình tôi”.
Nhạc sĩ Thanh Sơn đổi đời nhờ ‘Nỗi buồn hoa phượng’
1,033
Trong một cảnh báo mới, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) cho biết các khu vực ven biển phía nam của Nhật Bản có thể hứng chịu biển động, thủy triều dâng cao, gió dữ dội và mưa xối xả khi bão Mawar tiến đến tỉnh Okinawa của nước này. Quỹ đạo của siêu bão Mawar hiện đang di chuyển từ phía đông Philippines lên hướng bắc Thái Bình Dương, dự báo sẽ đổ bộ Đài Loan (Trung Quốc) và Nhật Bản trong những ngày tới. Cơ quan khí tượng Philippines (PAGASA) dự báo, bão Mawar bắt đầu suy yếu khi di chuyển và gặp vùng nước lạnh hơn. Tuy nhiên, tốc độ di chuyển chậm của bão đang khiến các chuyên gia khí tượng lo ngại về khả năng bão sẽ “mắc kẹt” trong khu vực, ảnh hưởng đến thời tiết ở cả Đài Loan (Trung Quốc) và Nhật Bản trong vài ngày tới. Cơn bão mạnh dự kiến sẽ tiến gần hơn đến quần đảo Sakishima, ngoài khơi đảo chính Okinawa (Nhật Bản) và cách Đài Loan (Trung Quốc) 360 km từ ngày mai (Thứ Tư, ngày 31/5). Hình ảnh từ cơ quan khí tượng Philippines (PAGASA) dự kiến đường đi của bão Mawar (tại Philippines còn gọi là bão Betty). Mặc dù đã suy yếu dần trong vài ngày qua, bão Mawar vẫn có sức gió 155 km/h và gió giật lên tới 190 km/h ở gần tâm bão. Hiện, bão Mawar đang di chuyển với tốc độ khoảng 10 km/h. Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) cho biết, dự báo mưa lớn sẽ gây ngập cả miền đông và miền tây Nhật Bản trong những ngày tới. Dự báo, sóng dâng cao tới 5m trên đảo chính Okinawa và cao tới 7m gần quần đảo Sakishima. Nhật Bản cũng cảnh báo người dân cần cảnh giác sạt lở đất và lũ lụt ở các vùng trũng thấp, đồng thời cần cảnh giác với sét đánh xảy ra trong bão vài ngày tới.
Siêu bão Mawar dự báo gây ra mưa lớn ở Nhật Bản, sóng dâng cao 7m gần Sakishima
329
Theo AFP, các quốc gia vật lộn với nhiệm vụ chấm dứt ô nhiễm nhựa đã bắt đầu một vòng đàm phán mới tại Paris từ ngày 29/5. Đại diện của 175 quốc gia với những tham vọng khác nhau đã nhóm họp tại trụ sở của UNESCO tại Paris với mục tiêu đạt được nhận thức chung để hướng đến một thỏa thuận lịch sử về toàn bộ vòng đời của nhựa vào năm tới. Khi tiến trình đàm phán bắt đầu, người lãnh đạo tiến trình đàm phán, ông Gustavo Meza-Cuadra Velazquez đại diện cho Peru, cho biết thách thức là “rất lớn, như tất cả chúng ta đều biết ở đây, nhưng không phải là không thể vượt qua”. Ông nói: “Cả thế giới đang hướng về chúng ta”. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cũng kêu gọi các quốc gia đối thoại chấm dứt mô hình sản xuất nhựa “toàn cầu hóa và không bền vững”, theo đó các nước giàu đang xuất khẩu rác thải nhựa sang các nước nghèo hơn. Ông Macron cho biết trong một thông điệp video: “Ô nhiễm nhựa là một quả bom hẹn giờ và đồng thời cũng là một tai họa ngày nay”, đồng thời nói thêm rằng các vật liệu sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch có nguy cơ làm gia tăng nhiệt độ toàn cầu cũng như có hại cho đa dạng sinh học và sức khỏe con người. Banner về cuộc đàm phán được treo tại trụ sở UNESCO tại Paris, Pháp. Ảnh: Reuters. Tổng thống Pháp cũng nhận định ưu tiên của các cuộc đàm phán trước tiên nên là giảm sản xuất nhựa và cấm “càng sớm càng tốt” các sản phẩm gây ô nhiễm nhất như nhựa sử dụng một lần. Rủi ro về ô nhiễm nhựa đang rất cao, do sản lượng nhựa hàng năm đã tăng hơn gấp đôi trong 20 năm qua. Sản lượng nhựa đã vượt mức 460 triệu tấn và đang trên đà tăng gấp ba lần trong vòng bốn thập kỷ tới. Hai phần ba sản lượng nhựa này bị loại bỏ sau khi một hoặc một vài lần sử dụng và trở thành rác thải khó phân hủy. Chưa tới 10% số rác này được tái chế, trong khi hơn 1/5 bị đổ hoặc đốt trái phép. Các nhóm môi trường cũng kêu gọi nhanh chóng đạt được thỏa thuận về ô nhiễm nhựa. Vào ngày thứ 2, họ đã tập trung bên ngoài trung tâm tổ chức cuộc họp và hô vang: “Chúng ta muốn gì? Hiệp ước nhựa toàn cầu! Khi nào chúng ta muốn? Ngay bây giờ”. Trong tự nhiên, hạt vi nhựa đã được tìm thấy trong băng gần Bắc Cực và trong cá sống ở những nơi sâu nhất của đại dương. Trong cơ thể con người, các mảnh nhựa siêu nhỏ cũng đã được phát hiện trong máu, sữa mẹ và nhau thai. Theo tổ chức OECD, nhựa cũng góp phần làm Trái Đất nóng lên, hiện chiếm 3,4% lượng khí thải toàn cầu vào năm 2019. Vào tháng 2 năm 2022, các quốc gia đã đồng ý về mặt nguyên tắc rằng cần phải có một hiệp ước ràng buộc về mặt pháp lý của Liên Hợp Quốc để chấm dứt ô nhiễm nhựa trên toàn thế giới. Các nước tham gia cũng đặt ra thời hạn đầy tham vọng là năm 2024 phải đạt được thỏa thuận. Các chính sách được đưa ra thảo luận trong tiến trình đối thoại hiện nay là lệnh cấm toàn cầu đối với các mặt hàng nhựa sử dụng một lần và hạn chế sản xuất nhựa mới. Các đại biểu ở Paris phải thu hẹp những nội dung nào sẽ được đưa vào văn bản dự thảo hiệp ước cuối cùng. Và hiện nhiều nhóm môi trường lo ngại hiệp ước này có thể không đề cập đến mục tiêu giảm sản xuất nhựa nói chung. Giảm sản xuất và sử dụng nhựa là một phần trong kế hoạch của Liên minh tham vọng lớn với khoảng 50 quốc gia do Rwanda và Na Uy đứng đầu. Liên minh này cũng có sự tham gia của Liên minh châu Âu EU, Canada, Chile và Nhật Bản. Tuy nhiên, một số quốc gia không muốn cắt giảm sản xuất nhựa hoàn toàn. Họ cho rằng tái chế và cải thiện quản lý chất thải là phù hợp với tình hình hiện tại. Các nước này là Mỹ, Saudi Arabia, Trung Quốc và nhiều nước khác thuộc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC, tất cả đều có ngành công nghiệp hóa dầu lớn. Người đứng đầu Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc, bà Inger Andersen, phát biểu với các đại biểu rằng văn hóa vứt bỏ đồ nhựa đang “gây ra vô số ô nhiễm, bóp nghẹt hệ sinh thái của chúng ta, làm khí hậu nóng lên, gây hại cho sức khỏe của chúng ta và những người dễ bị tổn thương nhất chính là những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất”. Cuộc họp ở Paris hiện tại dự kiến kéo dài đến ngày 2/6 và là phiên họp thứ hai trong số năm phiên họp của tiến trình đối thoại. Một cuộc họp nữa sẽ được tổ chức trong năm nay và hai cuộc họp vào năm 2024 trước khi hiệp ước được thông qua vào giữa năm 2025, ông Jyoti Mathur-Filipp, Thư ký điều hành của ủy ban đàm phán cho biết. Ông cũng nói thêm rằng đây sẽ là một “cuộc chạy nước rút”.
175 quốc gia đối thoại về ô nhiễm nhựa: Hướng tới một thỏa thuận lịch sử
917
Nhà thơ Từ Nguyên Tĩnh ở Thanh Hóa vừa được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2022. Từ Nguyên Tĩnh thành danh như ngày hôm nay không phải bởi thơ. Tôi biết ông là một nhà văn “chuyên canh” thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, nhưng thơ ông quả thực đã làm cho tôi xúc động. Bắt đầu là một tráng ca mang tên Trái tim nhịp cầu [1] , tôi đã hứng thú tìm đọc Tuyển tập Từ Nguyên Tĩnh [2] . Tập sách đẹp, công phu, thể hiện những thành tựu quan trọng của Từ Nguyên Tĩnh trong hoạt động nghệ thuật. Trong tiểu luận này, tôi muốn nói về thơ ông – thứ thơ của một người không thật sự chuyên nghiệp về thơ, nhưng có nhiều điều đáng để độc giả suy ngẫm và trân trọng. Như đã nói, ấn tượng đầu tiên của tôi về thơ ông là với Trái tim nhịp cầu . Khúc tráng ca là cảm xúc đau xé của người lính trước cảnh cầu Hàm Rồng – cây cầu huyết mạch chi viện cho tiền tuyến trong chiến tranh chống Mỹ – bị giặc ném bom tàn phá. Nhà thơ ngỡ ngàng thốt lên: “Ôi cái phút sinh tử/Trái tim tôi tan vỡ/Tôi lặn vào tim mình mà gọi/Nhịp cầu ơi!”. Nỗi đau đớn tột cùng khiến người viết không kịp dùng kỹ thuật, thủ thuật, chỉ dùng một thứ duy nhất là trạng thái xúc động mãnh liệt. Bởi thế, tiếng nói nghệ thuật của Từ Nguyên Tĩnh ở đây trở nên mới lạ, không lặp lại, không mòn cũ: “Kìa đôi Mắt Rồng vẫn mở trơ trơ Mở mắt Như chưa bao giờ biết ngủ Và Hòn Ngọc sáng bừng bên kia sông Chứa chất ngọc vào trong tim tôi … Nòng pháo trên đồi cao suy ngẫm Trận đánh thương vong ban chiều Những hố bom quân thù loang lổ Chạy vào trong tim” (Trái tim nhịp cầu) Chiến tranh, ranh giới giữa sự sống và cái chết là gang tấc. Vậy nên, chỉ trong phút chốc, dòng sông Mã, nhịp cầu Hàm Rồng oai hùng, sừng sững là thế, trở thành những sinh thể đầy đau đớn, bật lên những phức cảm làm rung động trái tim nhà thơ, trái tim độc giả. Người lính giữ cầu bằng tất cả tình yêu và nỗi lo lắng, dường như không đêm nào yên giấc ngủ. Mọi diễn biến liên quan đến cây cầu đều được anh dùng tất cả giác quan để tri nhận với hy vọng giữ bình yên trong mỗi phút, mỗi giờ: “Dòng sông Mã không ngớt thở dài Hình hài tóc bạc Hàng dừa đôi bờ lao xao hư thực Chưa bao giờ có giấc ngủ yên Đâu đây xạc xào cánh chim Bay đi tìm tổ” Vậy nên, khi trận bom làm cây cầu bị thương, người lính như thấy trái tim mình bị thương tổn nghiêm trọng. Anh chất vấn chính mình: “Tiếng nổ có làm sai nhịp tim không” và dùng hình ảnh trái tim chứa hố bom để biểu đạt một nỗi đau quá lớn: “Tôi bước vào tim mình Lạ. Rất lạ Hố bom sao nhiều quá Mà trái tim lại nhỏ Có chứa nổi được không Tôi chưa gặp một căn hầm Vững chãi như trái tim Chưa gặp ở đâu một tình thương Như tình yêu của trái tim mở cửa” Những hình ảnh “đôi Mắt Rồng vẫn mở trơ trơ”, dòng sông Mã thở dài, trái tim mở cửa… là những sáng tạo mang ý nghĩa biểu tượng. Cây cầu Hàm Rồng với những nhịp bằng sắt, trải qua năm tháng, nhìn bên ngoài xù xì, cũ kỹ mà trong mắt nhà thơ, trong tình yêu mãnh liệt của người lính giữ cầu, trở nên có sinh mệnh, có tâm hồn, có sức sống mãnh liệt vượt lên tất cả đạn bom, “sừng sững hiên ngang đứng giữa trời”. Tương tự, những hình ảnh “Hố bom ngày xưa và hố bom bây giờ chồng lên nhau”, “Hố bom cụp mắt lại/Cỏ đang lan trên miệng hố bom” không chỉ dừng lại ở ý nghĩa tả thực. Hố bom là biểu tượng của tội ác, của sự hủy diệt. Hình ảnh hố bom chồng lên nhau hàm nghĩa vết thương cũ chưa liền, vết thương mới lại làm cho cây cầu đau đớn. Nhưng thời gian sẽ chữa lành các vết thương, bởi tội ác rồi cũng có khi phải tự thấy xấu hổ trước những tâm hồn thánh thiện, trước tình yêu tha thiết, từ sâu thẳm trái tim mỗi chàng pháo thủ dành cho cây cầu yêu dấu. Có lẽ vì tình yêu với cây cầu có thật ấy, nhà thơ – chủ thể trữ tình ngay lập tức nghĩ đến một cây cầu có thể đưa người vợ mới cưới đến với tình yêu nếu chẳng may trong trận đánh sau cùng anh ngã xuống: “Nếu anh ngã xuống Vào trận đánh sau cùng Sẽ làm một đoạn cầu bắc trên đường Cho em đi đến tình yêu.” Đọc toàn bộ phần thơ và trường ca của Từ Nguyên Tĩnh trong tập 5 của bộ Tuyển tập Từ Nguyên Tĩnh , dễ dàng nhận thấy ông thiên về tạo dựng những diễn ngôn tư tưởng, triết luận. Từ Nguyên Tĩnh luận bàn nhiều vấn đề: thượng đế, trời, Phật, thánh thần, nhân tình thế thái… Tư duy thơ của Từ Nguyên Tĩnh khoáng đạt, linh động. Ông không dừng lại ở một vài đề tài/chủ đề quen thuộc như quê hương, đất nước, tình yêu, tình bạn…, mà mở rộng chiều kích của không gian và thời gian, lịch sử và văn hóa. Từ thời gian hiện tại, ông quay về quá khứ, rồi lại từ quá khứ kết nối hiện tại. Từ không gian có thực, ông liên tưởng đến những miền không gian tâm tưởng, tâm linh, không gian văn hóa. Tôi đặc biệt thích những bài ông lấy cảm hứng từ lịch sử như: Ninh Bình , Chè lam Thành Nhà Hồ , Viếng mộ Nguyễn Du , Đào Duy Từ , Giấc mơ Cồn Cỏ … Dù kiến thức lịch sử phong phú nhưng Từ Nguyên Tĩnh không chủ trương phô bày mà dùng cách của người họa sĩ vẽ truyền thần, chỉ một vài nét đủ để gợi cho người đọc hứng thú tìm kiếm, khám phá, đồng sáng tạo. Từ góc nhìn khác, cũng có thể nói, ông đã dùng cả các thủ pháp của chủ nghĩa hậu hiện đại như phúng dụ, liên văn bản để sáng tạo hình tượng trong những thi phẩm này. Bày tỏ niềm cảm thương và ngưỡng mộ thiên tài Nguyễn Du, ông viết: “ Trong khói hương/ Tôi nghe ông nói/ Ba trăm năm/ Thơ ông đà rất cũ/ Khuôn mặt Tú Bà, Hoạn Thư, Sở Khanh và Thúy Kiều…/ Tránh trần gian chẳng được nên nhận kiếp phiêu diêu .” ( viếng mộ Nguyễn Du ). Ám ảnh về thân phận Đào Duy Từ, ông băn khoăn: “ Dấn thân vào chốn binh đao ấy/ Không ngoái đầu nhìn lại đất Văn Trai/ Đào Duy Từ ông là ai?/ Ông vì ai? Biển Quảng Bình thở dài/ Cát Quy Nhơn trắng phau thương tiếc/ Ông là ai? Chúa Nguyễn gọi bằng Thầy/ Chúa Trịnh gọi là đồ “xướng ca vô loài”/ Ông là ai mà như không có thực/ Cưỡi trâu lên tận mây xanh/ Trăm năm sau/ Thành lũy không còn/ Người đời tìm ông như tìm câu hát/ Sao thiên hạ gọi ông là thầy/ Biển trắng xóa trùng khơi ” ( Đào Duy Từ )… Bằng những cách ấy, ông, một lần nữa đã huyền thoại hóa các danh nhân, thôi thúc người đọc vén màn sương mờ của thời gian để tiếp tục suy tư cùng lịch sử. Từ Nguyên Tĩnh nói nhiều điều liên quan đến nhà Phật. Các từ ngữ, hình ảnh của thế giới Phật giáo như Phật ngàn mắt ngàn tay, nhà sư, chuông chùa, từ bi, hỉ xả, vô lượng, tham, sân, si… xuất hiện khá dày trong thơ ông, nhưng có một điều lạ, sau cùng và trên hết, với ông vẫn là cuộc đời thực với những con người có thực. Đó là mẹ, là cha, anh chị em, vợ con, là người chú thương binh nặng, là người bạn thơ vừa rời cõi thế, là những người lang thang kiếm ăn nơi thành phố đông người… Chiêm nghiệm về nhân thế sau nhiều hành trình, Từ Nguyên Tĩnh đã thức nhận về một vùng mỹ cảm riêng. Với ông, không có cõi tiên, cõi Phật nào huyền diệu, đáng sống hơn cuộc đời trần thế. Tư tưởng này xuất hiện trong nhiều bài, bằng những cách thể hiện không lặp lại ( Thượng đế , Tế thần , Tâm , Tu tiên …). Thực ra, đây không phải là tư tưởng độc sáng của Từ Nguyên Tĩnh. Ngay từ khi Thế Lữ còn “thoát lên tiên”, Lưu Trọng Lư còn “phiêu lưu trong trường tình”, Xuân Diệu đã thấy cuộc sống trần thế là một thiên đường trên mặt đất: “ Của ong bướm này đây tuần tháng mật/ Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này đây lá của cành tơ phơ phất …” ( Vội vàng ). Nhưng có lẽ Từ Nguyên Tĩnh đã không tiếp thu trực tiếp tinh thần của Xuân Diệu – nhà thơ của “niềm khát khao giao cảm với đời”, mà chiêm nghiệm từ chính những trải nghiệm của mình. Ông đi nhiều nơi, nếm trải nhiều vui buồn, cả vinh quang lẫn khổ đau, cô đơn, thậm chí cô độc, nhưng trước sau vẫn chỉ muốn làm một con người trần thế dù ông nhận thức rõ cuộc đời vô thường, ngay cả những thứ đẹp nhất mà ông từng có rồi sẽ mất. Trong cuộc sống thế gian nhiều vui buồn, ông dành những tình cảm trong trẻo, thương mến nhất cho quê hương dấu yêu – Bàn Thạch (Xuân Quang, Thọ Xuân, Thanh Hóa). Từ Nguyên Tĩnh cũng dành hẳn một phần trong tuyển tập thơ và trường ca (Phần II) cho những bài thơ mang tính tự thuật để nói về quê hương, gia đình, người thân và những tình cảm ông dành cho quê nhà. Với một nhà văn đã thành danh, có nhiều cách để tự họa chân dung. Từ Nguyên Tĩnh cũng không thể không để lộ ít nhiều con người tiểu sử trong các truyện ngắn và tiểu thuyết, nhưng có lẽ với ông, thơ mới là nơi ký thác những chỉ dấu thân phận. Phần thơ tự thuật của Từ Nguyên Tĩnh làm xúc động người đọc bởi giọng tự sự mộc mạc, chân thành. Chân thành giới thiệu: “ Tôi là đứa trẻ mồ côi/ Mẹ ủ tôi trong rơm rạ/ Nhiều đêm dài đói khát ” ( những ngôi sao ở phía chân trời ). Chân thành thú nhận: “ Ngôi nhà ấy giờ không còn nữa/ Chủ mới đang phá đi để xây lầu/ Ở thành phố đất con cũng rất chật/ Không đủ tiền chuộc lại dựng lên đâu ” ( ngôi nhà xưa ). Trong mặc cảm về thân phận mồ côi, nhà thơ một đời “ lang thang tìm bóng dáng cha mình ”, không ngừng khắc khoải về một người cha mất từ khi ông chưa đủ trí khôn để nhớ mặt. Bức chân dung về người cha trong hình dung của Từ Nguyên Tĩnh thật đặc sắc: “ Người làng bảo/ Tôi giống cha mình/ Dáng đi mặt mũi thật y hệt/ Ngồi uống rượu/ Một cút tàn cả đêm không hết/ Say/ Rót nước lã cũng bảo là rượu ngọt ” ( Cha ). Không phải là một tiếng nói, ông vẽ hình cha mình từ nhiều quan chiếu khác nhau, chủ yếu là lối nói phúng dụ, tạo nên một hình dung dài rộng theo năm tháng cuộc đời và những mối quan hệ của cả cha và con. Những tiếng nói, dù đôi khi không mấy thiện cảm, vẫn đủ để ông phác họa chân dung người cha trong niềm nhớ tiếc và tự hào, bởi ông cho rằng chính ông, bằng việc tạo dựng những giá trị của mình, đã làm nên giá trị của đấng sinh thành. Cũng bằng giọng mộc mạc, chân thành ấy, những tự thuật của Từ Nguyên Tĩnh đã làm sống lại, theo một cách riêng, không chỉ ký ức của nhà thơ, mà cả một thời xa xưa của nhiều số phận, từ thời kháng chiến chống Pháp, rồi chống Mỹ, cả một không gian nông thôn vùng Bắc Trung bộ – mảnh đất “lắm người nhiều ma” nhưng cũng giàu trầm tích văn hóa, lịch sử, phong tục… Bài thơ Làm người Thanh Hóa đi em dùng hình thức đối thoại trong tự tình để giới thiệu một cách đầy tự hào về đất và người Thanh Hóa. Bao nhiêu tên đất, tên người là bấy nhiêu nét đặc sắc riêng có của một vùng quê – đặc sắc trời phú và người phú, thiên tạo và nhân tạo: “ về làm người Thanh Hóa đi em/ Qua Neo/ Bàn Thạch/ Quần Tín/ Hậu Hiền/ Qua sông Mã, sông Chu/ Lên miền Tây Bắc/ Qua Vạn Hà/ Ngã Ba Bông/ Nhớ chè lam Phủ Quảng (…) Về Thanh Hóa làm dâu đi em/ Lên núi Nưa/ Có gặp bóng tiều phu hái củi/ Mới thương người con gái/ Cỡi voi dẹp giặc/ Cứu nước non ” ( Làm người Thanh Hóa đi em ). Điều thú vị là Từ Nguyên Tĩnh liệt kê mà không rơi vào kể lể đơn điệu, vốn tri thức bản địa phong phú cùng sự trải nghiệm sâu sắc cho phép ông nhắc đến mà như gợi dẫn, điểm tên mà như vẽ ra cả không gian lẫn thời gian, nhẹ nhàng đánh thức quá khứ trở về đầy yêu thương, gắn bó trong hiện tại. Nghĩa là, từ những cái cụ thể, ông hay liên tưởng đến cái vĩnh hằng, cũng như từ những chuyện cá nhân, ông thường suy tư đến cái nhân loại rộng lớn. Câu chuyện người chú thương binh được ông chia sẻ vừa như là niềm tự hào mãnh liệt, vừa như là một nỗi đau khó có thể nguôi ngoai. Trở về sau chiến tranh, người cựu chiến binh với thương tật nặng nề, trở nên tàn phế, thành gánh nặng của vợ con: “ Lúc lên cơn thần kinh, sa sẩm mặt mày/ Nhưng không xé áo quần/ Không đánh đập một ai/ Chỉ khóc, cười…/ Hô: – Bắn! Bắn! ” ( chú tôi ). Nhưng từ câu chuyện tưởng của riêng một gia đình, từ thân phận của người lính bước ra khỏi chiến tranh, Từ Nguyên Tĩnh suy ngẫm sâu xa hơn về mối quan hệ giữa chiến tranh và hòa bình, về vấn đề hòa hợp, hòa giải… sau chiến tranh – những vấn đề mang tầm nhân loại. PGS-TS Lê Tú Anh – tác giả bài viết. Thơ của Từ Nguyên Tĩnh thường dùng lối diễn đạt “điệu nói” với những đặc điểm phổ biến của loại hình thơ này [3] : câu thơ không đồng nhất với dòng thơ, dùng nhiều ngôn ngữ lời nói, dùng nhiều kiểu dấu câu, nhiều kiểu câu, nhất là câu dùng trong hội thoại… Dù vậy, điểm khác dễ thấy là ông không dùng hư từ, không “à”, “ư”, “nhỉ”, “nhé”, nghĩa là không để câu chữ dư thừa. Thậm chí, động thái tỉnh lược câu chữ còn khiến nhiều bài thơ của ông mang hơi hướng hậu hiện đại ( từ bi , Ninh Bình , chiều đền Hùng , Hàn Mặc Tử , Hữu Loan …). “Điệu nói” riêng của ông theo tôi, còn là cách buông lời rất tự nhiên, như lời nói thường của chủ thể trữ tình, nó khiến cho những cách phối thanh truyền thống bị phá vỡ: “ Tu hiện đại thì tu thôi không sợ/ Lên tiên thì chưa chắc được đâu .” ( tu tiên ), “ Bây giờ con không sợ gặp ma/ Về đêm con mơ chuộc lại ngôi nhà/ Gặp được người thân trong giấc ngủ/ Ngôi nhà/ Con chuộc lại/ Trong mơ …” ( ngôi nhà xưa )… Nhưng quan trọng hơn, thơ điệu nói của Từ Nguyên Tĩnh được thể hiện trong tư duy thơ. Từ Nguyên Tĩnh thường dùng thơ để tư duy về cái thường ngày, về đời sống đang chảy trôi. Đọc thơ Từ Nguyên Tĩnh có thể thấy ở ông thường trực tư duy, mỹ cảm và trách nhiệm nghệ sĩ trước cuộc đời. Ông trăn trở nhiều vấn đề: sự mai một của thuần phong mỹ tục, sự thay đổi của cảnh cũ người xưa, thân phận con người trong cơn lốc đô thị hóa, những thách thức trong bối cảnh mở cửa hội nhập… Điều này hẳn nhiên là một thử thách đối với nhà thơ, bởi tư duy về cái hàng ngày đã khó, diễn tả những bề bộn, phồn tạp của đời sống đương đại càng khó hơn rất nhiều lần. Người đọc chuyên tâm cũng có thể nhận thấy những nỗ lực của Từ Nguyên Tĩnh, nhưng tiếc là nhà thơ vẫn hơi ôm đồm, chưa chú trọng lập tứ, hình ảnh đôi chỗ còn mờ nhạt, thiếu sức sáng tạo bởi rung cảm và mỹ cảm. Bên cạnh một số bài như vậy, thơ Từ Nguyên Tĩnh cơ bản vẫn thể hiện một tư duy trẻ trung, năng động, bắt nhịp với hơi thở của đời sống đương đại, thơ đương đại. Ông cũng có nhiều sáng tạo độc đáo về hình ảnh. Hình ảnh người bà với tấm lưng “ cong như chiếc mo cau ” và “ Chiếc lưng còng xuống cùng với đất/ Để nước mắt rơi không ai nhận được ra ” ( bà ngoại ) đem lại nhiều xúc cảm: vừa hồi nhớ về tuổi thơ với những kỷ niệm thân thương với bà, với quê qua hình ảnh chiếc mo cau; vừa gợi lên sự hy sinh thầm lặng của bà – biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam, những người đã chịu đựng quá nhiều cơ cực, lam lũ, mất mát mà vẫn kiên cường, bao dung và kiêu hãnh giữa cuộc đời. Cùng cảm xúc đó, trong bài sao anh không về Bàn Thạch , người đọc sẽ không khỏi bất ngờ khi nhà thơ ví von: “ Nơi có mẹ ta già/ Lưng còng như bờ sông/ Gánh làng quê nghèo khó ”. Và đây là một liên tưởng khác: “Nhà sư du khúc gỗ nện vào chuông Chuông buông ra lời: – Biiinh!… Bôông!… Đầu nhà sư như chiếc dùi gõ vào da trời không thành tiếng” (từ bi) Dù thành tựu thơ ca của Từ Nguyên Tĩnh chưa ấn tượng như văn xuôi, nhưng có thể thấy ông là người nghệ sĩ có tố chất thi ca đẹp đẽ. Quan tâm đến nhiều chủ đề, ông không dùng thơ luật mà hứng thú theo đuổi các dạng thức thơ tự do. Bằng cảm xúc chân thành, bằng trải nghiệm và tri thức phong phú, ông có nhiều sáng tạo về hình ảnh nhưng không phải là những tân kỳ, khác biệt mà chân thực, tươi mới, giàu khả năng biểu đạt, suy tưởng và liên tưởng. Nắm rõ những đặc trưng thẩm mỹ của thơ nhưng Từ Nguyên Tĩnh không dùng một giọng chủ quan nào mà đưa vào thơ nhiều tiếng nói khác, kết hợp với việc sử dụng nhiều kiểu câu, nhiều thủ pháp như so sánh, phúng dụ, liên tưởng, tỉnh lược, điệp từ/ngữ/cú pháp… tạo nên sự linh hoạt của giọng điệu, ngôn ngữ. Và như thế, tôi gọi Từ Nguyên Tĩnh là nhà thơ có tư duy thơ hiện đại.
Từ Nguyên Tĩnh – Một tư duy thơ hiện đại – Tác giả: PGS-TS Lê Tú Anh
3,211
Nhà chức trách TP Venice ( Ý ) cho biết chất fluorescein là nguyên nhân khiến một phần nước kênh đào Lớn chuyển sang màu xanh huỳnh quang. Chính quyền TP Venice (Ý) đã đưa ra kết luận về nguyên nhân khiến nước một phần kênh đào Lớn (Grand Canal) chuyển sang màu xanh huỳnh quang. Theo đó, nhà chức trách cho biết đã tìm thấy chất fluorescein trong nước. Theo hãng tin AFP , fluorescein là chất không độc, dùng để truy tìm dòng chảy của nước thải từ các đường ống bị rò rỉ. Theo cơ quan phòng ngừa và bảo vệ môi trường khu vực Veneto (Arpav), kết quả phân tích cho thấy “sự hiện diện của fluorescein trong các mẫu nước”. Arpav không nêu rõ chất này từ đâu mà có nhưng khẳng định không có chất độc hại trong các mẫu nước phân tích. Nước một phần kênh đào Lớn ở Venice (Ý) chuyển sang màu xanh huỳnh quang. Ảnh: AP. Trước đó, sáng 28-5, người dân Venice chứng kiến một cảnh tượng khác thường khi một phần nước trong kênh đào Lớn đã chuyển sang màu xanh huỳnh quang. Cảnh sát đã thu thập mẫu nước và xem lại camera để điều tra nguyên nhân của vụ việc. Theo tờ La Nuova Venezia , người dân địa phương rất quan tâm sự việc kỳ lạ này. Cảnh sát đang xem xét việc nước kênh bị đổi màu có liên quan đến hoạt động của các nhà vận động khí hậu hay không, vì trước đó, các nhà vận động này cũng từng nhuộm đen nước tại một đài phun nổi tiếng của Ý. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên kênh đào Lớn chuyển màu. Theo đài BBC , nhiều người dùng mạng xã hội cho biết hình ảnh mảng nước xanh huỳnh quang gợi nhớ đến tác phẩm trình diễn của nghệ sĩ Nicolás García Uriburu vào năm 1968. Khi ấy, ông đã nhuộm xanh nước Kênh đào Lớn ở Venice để nâng cao nhận thức về các vấn đề sinh thái.
Đã làm rõ tại sao nước kênh ở Venice chuyển màu xanh huỳnh quang
336
Sáng 30/5, Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức lễ công bố thành lập Giải thưởng văn học Kim Đồng và phát động cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi 2023 – 2025. Phó Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng Vũ Thị Quỳnh Liên cho biết, đã gần 10 năm kể từ cuộc vận động sáng tác năm 2015, Nhà xuất bản chưa tổ chức một cuộc thi sáng tác nào. Đây là khoảng thời gian đủ để một thế hệ tác giả mới có thể xuất hiện. Đây cũng là thời kỳ chúng ta bước vào và chứng kiến nhiều biến chuyển sôi động của ngành xuất bản trong nước với nhu cầu của bạn đọc ngày càng rộng mở về đề tài, thể loại. Chúng ta cũng từng bước thấy được những thách thức của công nghệ và các ứng dụng trí tuệ nhân tạo tác động lên các hoạt động sáng tạo văn hóa nghệ thuật và lên thói quen đọc sách của người trẻ. Bí thư T.Ư Đoàn, Chủ tịch Hội Đồng đội T.Ư Nguyễn Phạm Duy Trang phát biểu tại buổi lễ. “Với mong muốn phát hiện thêm những cây bút mới viết cho thiếu nhi, có thêm các tác phẩm văn học mới, có chất lượng, truyền tải nhiều thông điệp ý nghĩa về con người, đất nước Việt Nam, Nhà xuất bản Kim Đồng quyết định thành lập một giải thưởng cho các sáng tác văn học dành cho thiếu nhi mang tên Kim Đồng. Giải thưởng văn học Kim Đồng lần thứ nhất được gắn với cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi 2023 – 2025 do Nhà xuất bản tổ chức”, bà Vũ Thị Quỳnh Liên chia sẻ. Phát biểu tại buổi lễ, Bí thư T.Ư Đoàn, Chủ tịch Hội Đồng đội T.Ư Nguyễn Phạm Duy Trang nhấn mạnh: “Sáng tác văn học cho thiếu nhi chính là nguồn dưỡng khí nuôi tâm hồn hướng thiện, lành mạnh, vị tha, giàu lòng nhân ái, hun đúc ý chí, nghị lực vươn lên của con người ngay từ lứa tuổi nhỏ”. Chính vì thế tác phẩm văn học cho thiếu nhi ngày nay cần được viết với góc nhìn mới, cách viết mới, mang đến trải nghiệm sống để trưởng thành và đặc biệt cần nhận được sự hưởng ứng của độc giả nhỏ tuổi. “Việc công bố giải thưởng Văn học Kim Đồng giống như ươm và gieo những hạt mầm, tuy nhiên để có một vụ mùa bội thu cần có sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng, bồi đắp”, Bí thư Nguyễn Phạm Duy Trang nói. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chia sẻ tại buổi lễ. Ghi nhận, đánh giá cao việc Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức giải thưởng văn học mang tên Anh hùng liệt sĩ Kim Đồng, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn cho rằng, giải thưởng sẽ cùng với cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam, giải thưởng thiếu nhi Dế Mèn tạo sự khích lệ, động viên lớn với những cây bút. “Viết về thiếu nhi thực sự không dễ, nhất là thời buổi hôm nay cuộc sống có những đổi thay. Nhưng tôi tin rằng, với tình yêu với con trẻ, trách nhiệm nghề nghiệp lớn lao cùng sự ra đời của nhiều giải thưởng, cuộc vận động, chúng ta sẽ có thêm nhiều tác phẩm xuất sắc, phục vụ tốt nhất nhu cầu của con trẻ”, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn chia sẻ. Khi nhận được câu hỏi có “bí quyết” nào để viết sách thiếu nhi bán chạy như hiện nay, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cho rằng, thật khó để đưa ra “bí quyết” cụ thể nào, có chăng là nhà văn phải thực sự say mê, tâm huyết, phải “đóng vai” vào con trẻ để hiểu về thế giới của chúng. Giải thưởng văn học Kim Đồng dành cho tất cả các cây bút chuyên và không chuyên, với ba thể loại truyện ngắn, truyện dài và thơ. Các tác phẩm dự thi hướng tới đối tượng nhi đồng (6 – 10 tuổi) và lứa tuổi thiếu niên (11 – 15 tuổi). Tổng trị giá giải thưởng lên tới 360 triệu đồng. Cụ thể, Ban tổ chức sẽ trao 1 giải Nhất trị giá 100 triệu đồng, 2 giải Nhì trị giá 60 triệu đồng/giải, 3 giải Ba trị giá 30 triệu đồng/giải và 5 giải Khuyến khích trị giá 10 triệu đồng/giải. Hội đồng Chung khảo gồm các nhà văn nổi tiếng có nhiều đóng góp cho văn học thiếu nhi Việt Nam: Chủ tịch Hội đồng, nhà văn Trần Đức Tiến và các thành viên: Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh , Nhà văn Lý Lan, Nhà thơ – Tiến sĩ Giáo dục Nguyễn Thụy Anh và Tổng Biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng Vũ Thị Quỳnh Liên. Thời hạn nhận tác phẩm từ 17/6/2023 đến hết ngày 31/3/2025. Lễ tổng kết Cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi 2023 – 2025 và trao Giải thưởng văn học Kim Đồng lần thứ nhất dự kiến vào tháng 6/2025 (dịp kỉ niệm ngày thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng)./.
Thành lập Giải thưởng văn học Kim Đồng lần thứ nhất
866
Khi quyển sách không còn được viết nữa cũng là lúc cả cô bé Anne Frank và những người còn lại cận kề cái chết. Do vậy, tôi không mong chờ cái kết. Sách Nhật ký Anne Frank. Ảnh: Thanh Loan. Chưa có quyển sách nào mà tôi lại không mong kết thúc đến vậy. Từng trang nhật ký là những chuỗi ngày mà 8 người Do Thái lẩn trốn, họ trốn cuộc truy lùng của quân Phát xít, họ cùng nhau trải qua cuộc sống ở nơi trú ẩn. Mà khi quyển sách không còn được viết nữa cũng là lúc cả cô bé Anne Frank và những người còn lại cận kề cái chết. Họ bị bắt đưa đến trại tập trung, bị chia cắt với gia đình, và cuối cùng là cái chết. Anne Frank viết nhật ký vào ngày đầu cô bé cùng gia đình đi trú ẩn vào năm 1942, khi đó cô bé 13 tuổi, đến năm 1944 thì kết thúc cũng là lúc cô bé tròn 15 tuổi. Ngày 1/8/1944 là ngày cuối cùng cô bé viết trong nhật ký. Ngày 4/8/1944, tức sau đó 3 ngày, cả 8 người bị bắt giữ, đưa đến trại tập trung, trong 4 người giúp đỡ che giấu họ có 2 người bị bắt vào tù, nhưng sau đó họ được thả ra và trốn thoát. Trong 8 người bị đưa đến trại tập trung thì 7 người chết, chỉ có một người duy nhất sống sót là ông Otto Frank, cha đẻ của Anne Frank. Và cô bé Anne cũng chỉ vừa mới trải qua sinh nhật lần thứ 15 của mình. Ông đã đưa quyển sách đến với độc giả, như muốn để hoàn thành ước mơ của cô con gái nhỏ, muốn trở thành một nhà văn. Đọng lại trong tâm trí tôi là một cô bé với tình yêu thiên nhiên xiết bao, qua những lần cô bé ngắm nhìn bầu trời xanh, những đám mây, khao khát được hòa mình với thiên nhiên, lắng nghe tiếng chim hót, cô bé có thể ngồi nhiều giờ trên gác mái để ngắm nhìn bầu trời, cả buổi ngày hay buổi đêm mà không biết chán, có những lúc cửa sổ cũng không được phép mở ra để tránh sự chú ý của người khác. Vì như cô bé nói (tôi gọi là cô bé vì nhân vật lúc này mới 13,14 tuổi) đó là lúc trái tim và tâm hồn cô bé được chữa lành, nó còn hữu hiệu hơn cả những thang thuốc nữa, nó rất hữu hiệu cho người đau khổ. Cả 8 người sống ở nhà phụ, là 3 tầng lầu trên một công ty sản xuất gia vị nơi bố Anne Frank làm việc, 8 người với những tính cách khác nhau, họ phải đặt ra các quy tắc chung, buộc phải tuân thủ để tránh bị phát hiện. Ra ngoài là điều tuyệt đối không thể, đôi lúc cũng không được ồn ào, không được xả nước, không được gây tiếng động khi có người lạ, và nhiều quy tắc khác. Ở đây không thiếu những xung đột, cãi vã, chật vật để thích nghi với hoàn cảnh, những tình huống họ trải qua, mối nguy hiểm từ bên ngoài, việc sống nhưng phải giả vờ để những người bên ngoài không biết họ tồn tại. Không thiếu những trận cãi nhau kịch liệt, giữa những người hàng xóm với nhau, giữa vợ chồng, giữa bố mẹ với con cái. Tôi như bị cuốn đi trong những cảm xúc của họ. Bên dưới họ là công ty sản xuất gia vị vẫn hoạt động bình thường, và có 4 người nhân viên tốt bụng thường xuyên cung cấp thực phẩm, chăm lo cho cuộc sống của họ. Anne đã rất biết ơn những người giúp đỡ gia đình cô trong cơn nguy khó. Tôi không đánh giá ai, bởi trong hoàn cảnh như vậy, làm sao đòi hỏi họ phải cư xử như thế này, hay thế kia. Anne bị coi là cô bé ương bướng, hay cãi, hay nói luyên thuyên, cư xử không phải phép. Cô bé cũng có những xung đột với mọi người trong nhà phụ, cả bố, mẹ, chị gái, hàng xóm của cô. “Không ai hiểu con hết”, sau những xung đột cãi vã là một tâm hồn muốn sửa lỗi, muốn hoàn thiện chính mình, muốn nhìn hết mọi khía cạnh của mình và đánh giá khách quan. Càng về sau, cuốn nhật ký càng sâu sắc và rất giá trị bởi thông điệp nó đưa ra. Phải mất gần nửa cuốn sách để dẫn dắt mọi người vào bối cảnh của Nhà Phụ, rất chầm chậm, làm sao đòi hỏi sự sôi động hấp dẫn khi họ đang đi trốn kia chứ. Nhưng nhờ vậy lại càng khắc họa được tính cách của từng nhân vật trong sách. Càng về sau, tôi càng cuốn theo từng lời văn của tác giả. Sách Nhật ký Anne Frank. Ảnh: Thanh Loan. Quyển nhật ký không thiếu những câu chuyện thể hiện tính cách của một cô bé, những câu chuyện xung đột của nhân vật chính và bố mẹ, câu chuyện học hành, chia sẻ về quá khứ, về mơ ước, về các tác phẩm truyện mà cô bé sáng tác, cả những thay đổi cơ thể ở tuổi dậy thì, những tìm hiểu về giới tính, về hoàn cảnh cô bé đang sống, cuộc chinh chiến, những trận đánh, những điều tự học, về sở thích, suy nghĩ của cô bé về những người khác, cả chuyện tình cảm cá nhân, cô bé chẳng kể cho ai ngoài quyển nhật ký “người bạn yêu dấu của mình, bạn thật là nhẫn nại và biết lắng nghe, còn ai nhẫn nại hơn những trang giấy chứ”. Ngoài ra, không thiếu những suy nghĩ của cô bé về tình hình chính trị, bối cảnh của thời kỳ cô bé đang sống. Quyển sách này tôi đọc được một nửa, rồi tạm ngưng, sau đó mới tiếp tục dành thời gian đọc hết nửa còn lại. Khi đã hòa với giọng văn của tác giả, tôi như sống trong những hoàn cảnh mà nhân vật trải qua, hoàn toàn cuốn theo nhân vật. Không đánh giá hay xen ý kiến chủ quan của mình vào. Có những quyển sách tôi có thể bắt nhịp và đọc say mê ngay từ khi mở đầu nhưng có những quyển phải đọc dần dần mới cảm nhận được cách viết của tác giả. Nếu như Chiến binh cầu vồng là Lòng dũng cảm, thì với Nhật ký của Anne Frank không có từ nào mô tả vì nó khá đa dạng. Ước muốn của cô bé hoàn thiện chính mình, nhiều lần cô bé đề cập luôn muốn mình trở thành người tốt đẹp. Có lần đọc lại quyển nhật ký của mình, cô bé còn tự trách bản thân bởi những tật xấu và những lời gay gắt khi nói về người khác. Khám phá quyển sách, đôi lúc chúng ta sẽ thấy mình trong đó. Chúng ta chỉ là những người đọc nhật ký của cô bé, thậm chí còn không biết cô bé có đồng ý chưa, dù lúc còn sống cô bé cũng có ý “ biết đâu sau này con sẽ công bố”.
‘Nhật ký của Anne Frank’ – cuốn sách tôi không mong kết thúc
1,219
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh trong buổi công bố Giải thưởng Văn học Kim Đồng. Theo nhà văn được độc giả nhỏ tuổi yêu mến hàng đầu hiện nay, điều quan trọng nhất đối với người viết cho thiếu nhi là yêu trẻ, yêu nghề và tâm huyết với nghề. Ngày 30/5/2023, tại Hà Nội , NXB Kim Đồng tổ chức lễ công bố thành lập Giải thưởng Văn học Kim Đồng và phát động cuộc Vận động sáng tác cho thiếu nhi 2023 – 2025. Mục đích của giải thưởng là phát hiện thêm những cây bút mới viết cho thiếu nhi, có thêm các tác phẩm văn học mới, có chất lượng, truyền tải nhiều thông điệp ý nghĩa về con người, đất nước Việt Nam. Hội đồng Chung khảo Giải thưởng Văn học Kim Đồng gồm các nhà văn nổi tiếng có nhiều đóng góp cho văn học thiếu nhi Việt Nam: Nhà văn Trần Đức Tiến (Chủ tịch Hội đồng), nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, nhà văn Lý Lan, nhà thơ – tiến sĩ Giáo dục Nguyễn Thụy Anh và Tổng Biên tập NXB Kim Đồng Vũ Thị Quỳnh Liên. Chia sẻ tại chương trình, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh nhận định: Nhà văn viết cho thiếu nhi hiện nay gặp rất nhiều thách thức vì phải cạnh tranh với nhiều loại hình giải trí khác đang thu hút trẻ nhỏ. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của những giải thưởng văn học cho thiếu nhi là rất kịp thời, đúng lúc để động viên tinh thần người viết. Bộ sách “Kính vạn hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh được nhiều thế hệ độc giả thiếu nhi yêu thích. Theo nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, nếu không có giải thưởng thì nhà văn vẫn viết, nhưng có giải thưởng thì sẽ khích lệ, kích thích hơn tinh thần của người cầm bút. Ông nhớ lại 40 năm trước, vào năm 1983, khi ông tham gia một cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi và được giải Khuyến khích. “Giải thưởng nhỏ thôi, nhưng khiến tôi sung sướng vô bờ”, ông hồi tưởng. Giải thưởng đã khiến ông thêm hân hoan, hứng khởi với việc viết cho trẻ nhỏ, là khởi đầu quan trọng để có một Nguyễn Nhật Ánh như hiện tại. Khi được hỏi về bí quyết viết cho thiếu nhi, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh trả lời: Theo ông, viết cho thiếu nhi không có bí quyết gì cả ngoài yêu trẻ, yêu nghề và tâm huyết với nghề. “Tình yêu đó sẽ tạo nên đam mê và thành quả trong quá trình sáng tạo”, nhà văn nói. Giải thưởng Văn học Kim Đồng dành cho tất cả các cây bút chuyên và không chuyên, với ba thể loại: Truyện ngắn, truyện dài và thơ. Các tác phẩm dự thi hướng tới đối tượng nhi đồng (6-10 tuổi) và lứa tuổi thiếu niên (11-15 tuổi). Tổng trị giá giải thưởng lên tới 360 triệu đồng, trong đó giải Nhất trị giá 100 triệu đồng. Thời hạn nhận tác phẩm từ ngày 17/6/2023 đến hết ngày 31/3/2025.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh tiết lộ bí quyết viết cho thiếu nhi
511
Ngày 30/5, lãnh đạo UBND tỉnh Ninh Thuận cho biết, trong dịp Lễ đón nhận Bằng của UNESCO ghi danh ‘Nghệ thuật làm gốm của người Chăm vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp’ và khai mạc Lễ hội Nho – Vang sắp diễn ra, tỉnh sẽ tổ chức bắn pháo hoa tầm thấp tại Quảng trường – Tượng đài 16 tháng 4 (thành phố Phan Rang-Tháp Chàm), tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho nhân dân, đồng thời, quảng bá, thu hút du khách đến địa phương. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Long Biên cho hay, Lễ đón nhận Bằng của UNESCO ghi danh “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm vào Danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp” và Lễ hội Nho – Vang năm 2023 là sự kiện quan trọng và có ý nghĩa đối tỉnh. Bằng kinh phí từ nguồn vận động xã hội hóa và các nguồn hợp pháp khác, địa phương sẽ tổ chức bắn pháo hoa tầm thấp trong thời gian 15 phút sau thời điểm diễn ra Lễ khai mạc. Chương trình bắn pháo hoa được thực hiện với chủ đề “Ninh Thuận – Miền đất hội tụ những giá trị khác biệt” với 180 giàn pháo tầm thấp cùng hai bộ thiết bị bắn bán tự động đúng chủng loại do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Hóa chất 21 – Bộ Quốc phòng cung cấp. UBND tỉnh yêu cầu, Bộ Chỉ huy Quân sự, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Công an tỉnh và chính quyền địa phương nơi tổ chức cùng phối hợp triển khai tốt kế hoạch, bảo đảm an toàn tuyệt đối về người, phương tiện; tổ chức tốt công tác phòng, chống cháy, nổ; bố trí lực lượng, phương tiện y tế trực sẵn sàng khi có tình huống xảy ra; bảo đảm tốt vệ sinh môi trường sau khi bắn pháo hoa. Theo UBND tỉnh, đến thời điểm này, mọi công tác chuẩn bị cho Lễ đón nhận Bằng của UNESCO và Lễ hội Nho – Vang năm 2023 được Ban Tổ chức và các địa phương tiến hành rất khẩn trương, chu đáo. Sự kiện sẽ diễn ra từ ngày 13 – 18/6; trong đó, Lễ khai mạc được tổ chức vào tối 16/6 tại Quảng trường – Tượng đài 16 tháng 4. Ông Nguyễn Văn Hòa, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận cho biết, trong khuôn khổ hai sự kiện quan trọng trên, nhiều hoạt động về văn hóa, thể thao và du lịch mang thế mạnh đặc trưng, khác biệt cũng được tổ chức như: Hội chợ Công Thương khu vực Nam Trung bộ – Ninh Thuận 2023; Lễ hội ẩm thực; chương trình biểu diễn nghệ thuật đường phố; chương trình nghệ thuật; Hội thảo phát triển giá trị cây nho và sản phẩm từ nho; Hội thảo bảo tồn và phát huy giá trị “Nghệ thuật làm gốm của người Chăm”; tham quan, trải nghiệm vườn nho, làng gốm Bàu Trúc, dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp và hành trình khám phá Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Núi Chúa; thi giàn nho đẹp; Giải đua xe đạp đường trường Ninh Thuận – Bình Thuận; Giải đua xe ô tô – mô tô địa hình trên cát Ninh Thuận – Bình Thuận mở rộng; Hội thi nét đẹp văn hóa các dân tộc Ninh Thuận lần thứ II/2023… Với các sự kiện đặc sắc trên, đây là cơ hội, điều kiện để du khách trong và ngoài nước đến thưởng ngoạn, tìm hiểu về Ninh Thuận – miền đất hội tụ những giá trị khác biệt. Đây cũng là cơ hội để địa phương thu hút đầu tư vào du lịch; qua đó, sớm đưa ngành Du lịch của tỉnh trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển bền vững trong những năm tới.
Ninh Thuận tổ chức bắn pháo hoa sau khai mạc Lễ hội Nho – Vang 2023
667
Cháy rừng nghiêm trọng tại thành phố Halifax thuộc bang Nova Scotia, miền Đông Canada, trong những ngày gần đây đã buộc hàng nghìn hộ dân phải đi sơ tán. Khói bốc lên từ đám cháy rừng tại Alberta, Canada ngày 8/5/2023. Ảnh: AFP/TTXVN. Lệnh sơ tán được ban bố tại các vùng ngoại ô Hammonds Plains, Upper Tantallon và Pockwock, cách trung tâm thành phố Halifax khoảng 24 km. Theo Thị trưởng Halifax – ông Mike Savage, lệnh này sẽ ảnh hưởng tới khoảng 18.000 người dân địa phương, đa số là các công nhân làm việc trong thành phố. Ngày 29/5, Phó Giám đốc Cơ quan Cứu hỏa và Dịch vụ khẩn cấp thành phố Halifax – ông Dave Meldrum cho biết cháy rừng vẫn đang diễn ra dữ dội và dự kiến sẽ còn kéo dài trong nhiều ngày tới tại các vùng Tantallon và Hammonds Plains. Khoảng 100 lính cứu hỏa đã được huy động để kiểm soát các đám cháy, trong khi công tác điều tra đang được triển khai nhằm làm rõ nguyên nhân. Thủ tướng Canada Justin Trudeau đánh giá tình trạng cháy rừng tại Nova Scotia là “cực kỳ nghiêm trọng”, đồng thời khẳng định chính phủ sẵn sàng hỗ trợ bang này trong trường hợp cần thiết. Trước đó, ngày 28/5, thành phố Halifax đã phải ban bố tình trạng khẩn cấp kéo dài 7 ngày do mất điện, hàng nghìn người dân phải sơ tán và một số trường học phải đóng cửa. Cháy rừng cũng buộc khoảng 400 hộ dân sinh sống tại bang New Brunswick phải sơ tán cuối tuần qua. Thị trưởng thị trấn Saint Andrews thuộc bang này, ông Brad Henderson, cho biết vẫn chưa kiểm soát được các vụ cháy. Các tỉnh phía Tây Canada như Alberta và British Columbia đang trải qua một mùa Xuân ấm áp bất thường gây cháy rừng nghiêm trọng, song hầu hết đã được kiểm soát, giúp khôi phục hoạt động sản xuất dầu và khí đốt tại địa phương.
Hàng nghìn hộ dân phải sơ tán do cháy rừng tại Canada
333
Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội 1. Điều kiện tự nhiên 1.1. Vị trí địa lý: Bình Điền là một xã vùng núi thị xã Hương Trà , nằm trên trục quốc lộ 49 từ thành phố Huế đi A Lưới và cửa khẩu biên giới Việt – Lào, cách thành phố Huế 22 km về phía Tây Nam, cách trung tâm huyện lỵ Hương Trà 25 km về phía Đông Nam. Bình Điền có vị trí địa lý như sau: – Phía Bắc giáp xã Hương Vân, xã Hương Bình và xã Hồng Tiến thị xã Hương Trà. – Phía Nam và phía Tây giáp xã Hương Nguyên, huyện A Lưới , xã Hồng Tiến, thị xã Hương Trà. – Phía Đông giáp xã Bình Thành, thị xã Hương Trà. 1.2. Địa hình, địa mạo Địa hình của xã là vùng núi thấp dần từ Tây Bắc sang Đông Nam, địa hình dốc. Về phía Tây và Tây Bắc là các dãy núi cao, có độ cao trung bình từ 300 – 500 m, có độ dốc trên 150. Địa hình bị chia cắt bởi các khe suối, là trục thoát nước chính đổ về khe Điêng và sông Hữu Trạch. 1.3. Khí hậu – thời tiết Bình Điền chịu ảnh hưởng chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa và nằm trong tiểu khí hậu của vùng núi, có lượng mưa và độ ẩm cao nhất toàn tỉnh. Mùa Đông chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, mùa hạ có gió Tây Nam khô nóng. Lượng mưa phân bố không đều trong năm và thường bị hạn hán, úng lụt ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt. – Nắng: Tổng số giờ nắng hàng năm (theo trạm khí tượng thủy văn Huế) xấp xỉ 2.000 giờ/năm. Số giờ nắng phân bố không đều, cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 hàng năm (250 – 280 giờ/tháng), thấp nhất vào tháng 12 (45 giờ/tháng), vì vậy cần phải lập kế hoạch thời vụ chặt chẽ, tránh thời tiết bất lợi để đảm bảo kế hoạch sản xuất và tăng vụ. – Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm là 25,20C, biên độ nhiệt dao động khá lớn, nhiệt độ cao nhất là 41,80C, thấp nhất là 10,50C. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông là 23,40C, mùa hạ 28,50C. Tổng tích nhiệt lớn, trung bình năm là 1.9520C, đủ ánh sáng cho cây trồng phát triển quanh năm. – Mưa: Tổng lượng mưa bình quân năm khá lớn 3.171 mm, phân bố không đều từ tháng 9 đến tháng 11 lượng mưa chiếm từ 61 – 65% lượng mưa cả năm nên thường gây ra lũ lụt, ngược lại về mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8 thường gây ra hạn hán. – Độ ẩm: Độ ẩm tương đối bình quân là 84,5%, độ ẩm tuyệt đối 15%, mùa đông là thời kỳ mưa nhiều nhất và độ ẩm cao. Với thời tiết khí hậu như trên cho thấy Bình Điền nằm trong vùng có điều kiện tương đối thuận lợi cho phát triển đa dạng nông – lâm nghiệp đặc biệt là cây ngắn ngày, cây ăn quả. 1.4. Thuỷ văn Bình Điền nằm bên nhánh sông Hữu Trạch chảy qua địa bàn xã dài 18 km, hiện tại đang đầu tư xây dựng công trình thủy điện tại thác Ông ngay sau cửa ra khe Cù Mông với độ cao mặt nước 85 m vì vậy tạo nguồn nước mặt phong phú. Ngoài ra còn có nhiều khe suối như rào Bình Điền dài 6 km, khe Cù Mông dài 12 km,… tạo cho xã một nguồn nước dồi dào, thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và đời sống.
Giới thiệu khái quát xã Bình Điền
608
Phong Hải là xã bãi ngang ven biển, Phía Đông Bắc giáp biển đông, phía Đông Nam giáp xã Quảng Ngạn huyện Quảng Điền , phía Tây Nam giáp xã Điền Hải huyện Phong Điền, phía Tây Bắc giáp xã Điền Hoà, huyện Phong Điền. Xã Phong Hải là đơn vị hành chính loại I, cách trung tâm huyện lỵ Phong Điền 27km về phía đông bắc, diện tích tự nhiên 555,64ha, dân số 1.184 hộ, 5.212 người. 1. Các cơ quan Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã hội: – Đảng bộ: đảng bộ xã đã qua 11 lần đại hội, gồm có 10 chi bộ trực thuộc (5 Chi bộ thôn, 3 Chi bộ Trường học và 1 Chi bộ quân sự) – Hội đồng nhân dân: 25 đại biểu – Uỷ ban nhân dân: có 5 thành viên (gồm: Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch, 2 Uỷ viên UBND) và 7 ban ngành trực thuộc – Mặt trận và các đoàn thể: Ban thường trực MTTQVN xã 3 người, các Tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội: Đoàn thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh. Hội người cao tuổi, Hội chử thập đỏ, Hội khuyến học, Chi hội nghề cá. 2. Địa chỉ cơ quan: thôn Hải Phú, xã Phong Hải, huyện Phong Điền , TT Huế 3. Đội ngũ cán bộ: Tổng số cán bộ 50 người Trong đó: – Cán bộ chuyên trách: 11 người – Công chức xã: 11 người – Cán bộ không chuyên trách: 28 người 4. Cơ cấu kinh tế: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2010-2015 xác định mục tiêu phát triển kinh tế địa phương theo hướng “Thuỷ sản-Dịch vụ-Tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề”.
Giới thiệu khái quát xã Phong Hải
278
Điều kiện tự nhiên: 1. Vị trí địa lý: Phường Hương Xuân thuộc thị xã Hương Trà , cách trung tâm thành phố Huế 11 km về phía Tây Bắc, có ranh giới: – Phía Bắc giáp xã Quảng Phú , xã Quảng Thọ , huyện Quảng Điền . – Phía Nam giáp xã Hương Bình. – Phía Đông giáp xã Hương Toàn, phường Hương Chữ. – Phía Tây giáp phường Hương Văn. * Đặc điểm địa hình: Phường Hương Xuân có vùng đồng bằng và vùng đồi, trong đó: Vùng đồng bằng chạy dài từ phía Bắc của phường tới hết Thanh Khê (tổ dân phố 1), diện tích 1.025 ha chiếm 68,65 % diện tích tự nhiên của phường. Độ cao trung bình so với mặt biển 2,5 m. Đây là vùng sản xuất chính và dân cư tập trung. Vùng đồi tập trung ở phía Nam sông Bồ với tổng diện tích 468 ha, chiếm 31,35 % diện tích tự nhiên của phường, địa hình đồi bát úp. Độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 100m, độ cao lớn nhất 285m 2. Đất đai: Diện tích tự nhiên 1.493 ha, trong đó: – Đất nông nghiệp: 820 ha, gồm đất sản xuất nông nghiệp 416,91 ha, đất lâm nghiệp 395,76 ha, đất nuôi trồng thủy sản 7,33 ha; – Đất phi nông nghiệp 626,19, gồm đất ở đô thị 170,78 ha, đất chuyên dùng 113,09 ha, đất tôn giáo, tín ngưỡng 12,1 ha, đất nghĩa trang, nghĩa địa 138,44 ha, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 191,78 ha; – Đất chưa sử dụng: 46,81 ha, gồm đất đồi núi chưa sử dụng 29,11 ha, đất rừng chưa sử dụng 17,7 ha. Dân số và lao động: – Tổng dân số: 1.829 hộ với 8.628 khẩu. – Tổng lao động trong độ tuổi tham gia làm việc 5.953 người, trong đó: Lao động nông nghiệp 1.409 người (chiếm 23,7%), lao động phi nông nghiệp 4.544 người (chiếm 76,3%); Giới thiệu về phường Hương Xuân Hương Xuân là một trong 15 phường, xã của thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Phường nằm cách trung tâm thành phố Huế 11km về phía Tây Bắc. Địa giới của phường được phân định ở phía Bắc giáp xã Quảng Phú và xã Quảng Thọ (huyện Quảng Điền); phía Nam giáp xã Hương Bình; phía Đông giáp xã Hương Toàn và phường Hương Chữ; phía Tây giáp phường Hương Văn (đều thuộc thị xã Hương Trà). So với nhiều làng quê khác trên vùng đất Thừa Thiên Huế, Hương Xuân có lịch sử tụ cư lập làng hàng thế kỉ, trong đó sớm nhất là làng Liễu Cốc và Thanh Lương. Ở thời điểm năm 1555, khi soạn sách Ô châu cận lục, Dương Văn An đã đề cập đến những làng cổ có tên Liễu Cốc và Thanh Kệ (trước có tên Trà Kệ, nay là Thanh Lương). Có thể đây cũng là huyện đường Trà Kệ (nay là huyện Quảng Điền) thời Trần. Cả hai làng (Trà Kệ và Liễu Cốc) đều được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển làng cũ của người Chăm trước đó, trong đó dấu tích Champa còn lại ở tháp đôi Liễu Cốc (nay thuộc tổ dân phố Xuân Tháp). Lúc này, Liễu Cốc thuộc huyện Kim Trà, Thanh Lương thuộc huyện Đan Điền. Quá trình thay đổi địa danh và địa giới ở Hương Xuân diễn ra ở hầu hết các triều đại. Cuối thời chúa Nguyễn (1774), huyện Hương Trà có 9 tổng, 82 làng, 7 thôn, 1 giáp, 18 phường và 1 châu, trong đó Liễu Cốc Thượng và Liễu Cốc Nam thuộc tổng An Vân. Thanh Kệ thuộc tổng Hạ Lang, huyện Quảng Điền. Khoảng thời Minh Mạng, dòng họ Phan với 25 gia đình tách ra khỏi Văn Xá để lập làng riêng, lấy tên là Tiên Lộc gồm một phần đất của giáp Nhì và giáp Ba (nay nhập vào Hương Xuân). Thời Đồng Khánh (1886), Liễu Cốc Thượng thuộc tổng Phú Ốc; các làng Thanh Lương, Tiên Lộc và Xuân Đài thuộc tổng Hương Cần, huyện Hương Trà. Năm 1892, ấp Thanh Khê hình thành trên cơ sở do ông Đặng Huy Cát tập hợp người khai phá vùng chân núi Thất Giới. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, dưới thể chế Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hương Xuân lúc này có tên là Hương Kinh, gồm 5 thôn: Thanh Lương, Xuân Đài, Liễu Thượng, Liễu Nam và Thanh Khê. Tháng 7-1947, xã Hương Kinh sáp nhập với xã Hương Xá thành xã Hương Thạnh. Trong khi đó, phía chính quyền thực dân Pháp vẫn giữ nguyên. Năm 1950, tổng Phú Ốc có 11 làng, trong đó có Liễu Cốc Thượng và Thanh Khê. Tổng Hương Cần có các làng Thanh Lương, Tiên Lộc và Xuân Đài. Từ năm 1954, dưới chính quyền Việt Nam cộng hòa, các thôn Tiên Lộc, Liễu Nam, Liễu Cốc Thượng, Thanh Lương và Xuân Đài thuộc xã Hương Việt, quận Hương Trà. Đến ngày 9-8-1960, Bộ Nội vụ Việt Nam cộng hòa ra Nghị định số 1011/BNV-BNV-NC8-NĐ chia xã Hương Việt làm hai xã: Hương Phú và Hương Xuân. Hương Xuân gồm các thôn Tiên Lộc, Liễu Nam, Liễu Cốc Thượng, Thanh Lương và Xuân Đài. Sau ngày thống nhất đất nước 1975, Hương Thạnh đổi tên thành Hương Xuân thuộc huyện Hương Trà. Ngày 15-11-2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP về thành lập thị xã Hương Trà và các phường thuộc thị xã Hương Trà. Theo nghị quyết này, “thành lập phường Hương Xuân thuộc thị xã Hương Trà trên cơ sở toàn bộ 1.493 ha diện tích tự nhiên và 8.784 nhân khẩu của xã Hương Xuân”. Hiện nay Hương Xuân có các tổ dân phố sau: Thượng Khê (sáp nhập Thanh Khê và Thượng Thôn), Trung Thôn, Liễu Nam, Thanh Tiên (sáp nhập Thanh Lương 1 và Tiên Lộc), Thanh Lương 2, Thanh Lương 3, Thanh Lương 4, Xuân Tháp (sáp nhập Xuân Đài và Xóm Tháp). Về diện tích, Hương Xuân rộng 1501,72 ha (Kết quả kiểm kê đất đai năm 2019), trong đó có 1.030,17ha đất nông nghiệp (gồm 615,10 ha đất sản xuất nông nghiệp, 410,93 ha đất lâm nghiệp, 4,14 ha đất nuôi trồng thủy sản); 415,65 ha đất phi nông nghiệp (gồm 61,82 ha đất ở đô thị, 209,33 ha đất chuyên dùng, 13,87 ha đất tôn giáo và tín ngưỡng, 96,33ha đất nghĩa trang và nghĩa địa, 51,45 ha đất sông suối và 18,83 ha đất có mặt nước chuyên dùng); 19,90 ha đất chưa sử dụng (gồm 17,51 ha đất bằng chưa sử dụng, 2,39 đất đồi núi chưa sử dụng). Về dân số, đến năm 2019 Hương Xuân có 2.126 hộ với 9.297 khẩu, trong đó có 6.235 người trong độ tuổi lao động (gồm 1247 người sản xuất nông nghiệp (chiếm 20%), 4.988 người lao động phi nông nghiệp (chiếm 80%). Qua thời gian, dù sớm muộn khác nhau, nhưng các dòng họ của các làng thuộc phường Hương Xuân đã cùng “chung lưng đấu cật”, góp phần tạo dựng nên mảnh đất Hương Xuân ngày càng trở nên giàu đẹp. Về địa thế, Hương Xuân hẹp bề ngang theo hướng Bắc – Nam nhưng trải dài theo hướng Đông – Tây. Nhìn trên bản đồ, về phía Đông dòng sông Bồ uốn khúc tạo cho Hương Xuân như mãnh hổ đang lựa thế vươn lên. Có lẽ vì thế, trải qua bao đời, những người dân Hương Xuân luôn mang trong mình khát vọng và hoài bão lớn trước thời cuộc. Về địa hình, Hương Xuân có cả đồng bằng và vùng đồi, trong đó vùng đồng bằng chạy dài từ phía Bắc của phường tới hết làng Thanh Khê (tổ dân phố Thượng Khê), diện tích 1.025ha (chiếm 68,65% diện tích tự nhiên) có độ cao trung bình so với mặt biển là 2,5m. Đây là vùng sản xuất chính và dân cư tập trung. Vùng đồi tập trung ở phía Nam sông Bồ với tổng diện tích 468ha, chiếm 31,35% diện tích tự nhiên của phường, địa hình đồi bát úp, có độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 100m (cao nhất là 285m). Về khí hậu, nằm trong tiểu vùng Bắc Hải Vân, vùng đất Thừa Thiên Huế nói chung và Hương Xuân nói riêng, là nơi thường xuyên xảy ra nhiều thiên tai, bão lụt. Vào mùa nắng, gió mùa Tây Nam nóng rát, làm khô cháy ruộng đồng. Từ tháng 7 âm lịch trở đi, đặc biệt cao điểm vào cuối tháng 10: “Ông tha mà bà chẳng tha/ Trời cho cái lụt hai ba tháng Mười”, vùng này phải hứng chịu “thiên tai kép” do nhiều cơn bão lớn từ biển, đi kèm là lũ từ thượng nguồn sông Bồ đổ về. Hương Xuân có hệ thống giao thông đa dạng, thuận lợi để tỏa đi các địa phương trong và ngoài thị xã cũng như rộng ra cả nước. Về đường bộ, có Quốc lộ 1A và đường tránh Huế phía Tây thuận tiện cho việc đi lại, buôn bán của nhân dân đến các địa phương trong cả nước; Tỉnh lộ 8A và Tỉnh lộ 16, chưa kể các tuyến đường liên tổ, liên phường đã được bê tông hoặc nhựa hóa nối liền các tổ dân phố trong phường cũng như với các phường – xã bạn. Về thủ công nghiệp, cũng như nhiều làng quê khác, tranh thủ những lúc nông nhàn, người dân Hương Xuân còn làm thêm nhiều ngành nghề thủ công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống hàng ngày. Trước hết là bà con tận dụng những lũy tre quanh nhà để tạo vật liệu cho nghề đan lát từ các vật dụng sử dụng trong sản xuất như thúng mủng, rổ rá, quang gánh, sọt, bồ đựng lúa…, đến những dụng cụ đánh bắt cá tôm như nơm, dũi, đăng, đó… và những vật dụng trong gia đình như giường chõng, bàn ghế, nhà cửa,… Để tạo nông cụ, nghề rèn Thanh Lương một thời nổi tiếng, sản xuất ra các loại cuốc, xẻng, cày bừa, liềm hái, dao rựa… Truyền thống văn hóa, Hương Xuân là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, người dân hiền hòa, chất phác, yêu lao động, trọng lễ nghĩa và đoàn kết giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Ngay từ khi lập làng, những cư dân đầu tiên đã ra sức giữ gìn và phát huy những vốn văn hóa mang theo từ quê cũ, kết hợp với kế thừa những tinh hoa văn hóa bản địa để sớm tạo lập cho mình lối sống đẹp, nề nếp gia phong trên vùng đất mới. Tiêu biểu như làng Liễu Cốc được ca ngợi có “nền nếp nho phong”, “phong hóa thanh cao”. Sự “hoài niệm” về quê hương bản quán còn thể hiện ở sự “sao chép” nguyên mẫu làng cũ miền Bắc trong việc tạo lập cấu trúc làng xã. Rõ nhất là đi kèm với khai phá đất đai, lập làng lập xóm, trong buổi đầu dù còn gian khó nhưng những cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và quản lý xã hội cũng đã được chú ý. Có làng là phải có đình làng, chùa làng, trong đó Thanh Lương là một trong số ít làng ở xứ Thuận Hóa vào thời điểm đó có công trình mang tính biểu tượng của làng: “Thanh Kệ bên sông đình một mái”. Hương Xuân cổ còn có chợ Thanh Kệ một thời khá nổi tiếng. Chợ Kệ được Lê Quang Định mô tả: “950 tầm, bên trái từ đây đi xuống đều có cư dân và đất khô, bên phải có chợ Thanh Lương, tên cũ là chợ Thanh Kệ, chợ đông vào buổi trưa”. Chợ Kệ không chỉ là nơi trao đổi mua bán giữa dân làng Thanh Kệ với các làng kề cận mà còn là nơi cung cấp nhu yếu phẩm sinh hoạt cho các tầng lớp quan lại, binh lính ở phủ Phước Yên nằm cách đó 900 tầm. Về đời sống tinh thần, nhân dân Hương Xuân vốn có đức tính cần cù và nhẫn nại, một nắng hai sương, chịu thương chịu khó. Trong sinh hoạt, bà con luôn luôn giản dị khiêm tốn, tiết kiệm, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng đùm bọc, cưu mang giúp đỡ lẫn nhau khi gặp thiên tai, hoạn nạn, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, có tinh thần chan hoà bình đẳng trong đời sống cộng đồng. Con dân của làng dù sinh sống nơi đâu cũng luôn luôn hướng về cội nguồn, tha thiết thuỷ chung và có ý thức xây dựng quê hương. Nổi bật nhất ở Hương Xuân là lễ Thu tế làng Thanh Lương vào hai ngày 11 và 12-7 âm lịch hằng năm để tế các vị thần khai canh lập làng tại đình làng. Ngày chính hội là ngày 12-7 âm lịch. Thanh Lương là một trong ba làng khoa bảng nổi tiếng nhất của không chỉ Hương Trà mà của cả tỉnh Thừa Thiên Huế (Thanh Lương, La Chử và Minh Hương). Qua nhiều thời kì, với 19 cử nhân, Thanh Lương là làng có số cử nhân cao nhất Thừa Thiên Huế, trong đó nổi tiếng nhất là dòng họ Đặng, được lưu truyền trong câu ca “Nhất Thân, nhì Đặng, tam Hà/ Thứ tư mới đến dòng nhà Nguyễn Khoa”. Truyền thống khoa bảng của Hương Xuân được thể hiện ở chỗ làng sớm xây dựng nhà Thánh, là một biểu tượng tôn vinh truyền thông hiếu học, tôn sư trọng đạo của nhân dân. Qua nhiều thời kì, Hương Xuân là nơi sản sinh ra nhiều người con ưu tú có những đóng góp lớn đối với quê hương và đất nước, tiêu biểu như Đặng Văn Hòa, Đặng Huy Trứ, Đặng Huy Cát, Đặng Hữu Phổ… Trên địa bàn phường hiện có 2 di tích lịch sử cấp quốc gia: Nhà thờ danh nhân Đặng Huy Trứ và phế tích tháp đôi Liễu Cốc. Về phát triển kinh tế – xã hội: năm 2019, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành kinh tế bình quân trong năm đạt 15,76% tăng 0,24% so cùng kỳ năm trước, thu nhập bình quân đầu người/năm 56 triệu đồng; an sinh xã hội bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; cơ bản đã thực hiện đạt và vượt 19/19 chỉ tiêu đề ra. Đảng bộ Hương Xuân hiện có 231 đảng viên, sinh hoạt tại 15 chi bộ, bao gồm: 8 chi bộ Tổ dân phố, 4 chi bộ trường học, chi bộ Quân sự, chi bộ Công an và chi bộ Trạm Y tế.
Giới thiệu khái quát phường Hương Xuân
2,454
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN Tứ Hạ là vùng đất bán sơn địa của thị xã Hương Trà , tỉnh Thừa Thiên Huế . Có tọa độ 16 0 31’33” độ vĩ Bắc; 107 0 27’52” độ kinh Đông, cách thành phố Huế chừng 16km về phía Bắc. +Phía Đông Bắc giáp với xã Quãng Phú , huyện Quảng Điền (qua sông Bồ) +Phía Đông Nam giáp phường Hương Văn, thị xã Hương Trà +Phía Tây Bắc giáp xã Phong An, huyện Phong Điền (qua cầu An Lỗ) +Phía Tây Nam giáp với phường Hương Vân, thị xã Hương Trà. Tổng diện tích tự nhiên của phường 845,4 ha, trong đó: Đất nông nghiệp: 317,85 ha, chiếm 37,59% tổng diện tích tự nhiên Đất lâm nghiệp: 80,64 ha, chiếm 9,53% tổng diện tích tự nhiên Đất phi nông nghiệp: 476,26 ha, chiếm 56,33% tổng diện tích tự nhiên Tứ Hạ là vùng đất hình thành khá sớm, cách ngày nay hơn 600 năm. Về địa hình, Tứ Hạ thuộc vùng đất bán sơn địa, nếu nhìn theo mặt cắt ngang, địa hình hơi nghiêng về vùng đồng bằng, có chiều dài theo hướng Bắc – Nam khoảng 4,5 km và chiều rộng theo hướng Đông – Tây chừng 3 km. Về hệ thống giao thông, Tứ Hạ là địa bàn có trục đường Quốc lộ 1A và đường sắt đi qua, có dòng sông Bồ nằm về phía Đông và phía Bắc ôm lấy Tứ Hạ từ hai phía. Trong những năm trước thế kỷ XX, khi mà hệ thống giao thông chưa phát triển, thì trục đường số 1, đường sắt và sông Bồ là hệ thống giao thông thuận lợi cho sinh hoạt của nhân dân trong Phường và giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với các xã, phường trong vùng. Trong những năm gần đây, bằng nguồn ngân sách của nhà nước cấp cùng với sự đóng góp của nhân dân, hệ thống giao thông dần dần được cải thiện, đó là các trục đường nội thị được mở rộng, được nhựa hóa và bê tông hóa, tạo ra các trục ô hình bàn cờ mới để phát triển đô thị Tứ Hạ nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa của vùng duyên hải Trung Trung Bộ, theo Dương Văn An nhà nghiên cứu nổi tiếng thời phong kiến Việt Nam, thời tiết của thị xã Hương Trà nói chung, Phường Tứ Hạ nói riêng là: “Vào mùa Xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông thường mưa. Về khí hậu, rét ít ấm nhiều, có nhiều bão lớn” . Tứ Hạ là phường có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15 0 C đến 20 0 C vào mùa đông và từ 30 đến 36 0 C vào mùa hè, hàng năm có khoảng 2.100 giờ nắng, lượng mưa vào khoảng 2.000mm, độ ẩm không khí trung bình 84%. Trong năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, mùa mưa từ tháng 9 năm trước kéo dài đến tháng ba năm sau, mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8. Mặt khác Tứ Hạ còn hứng chịu nhiều cơn bão, lũ lụt gây nhiều thiệt hại cho nhân dân. Do đặc thù của tự nhiên nên hệ động, thực vật trên cạn của Tứ Hạ không phong phú, chủ yếu là do con người thuần chủng, lai tạo, nuôi trồng. Bù đắp lại, trước đây nhờ sông Bồ nằm về phía Đông và phía Bắc của phường nên hàng năm thiên nhiên đã mang lại cho nhân dân trong phường lượng thủy sản, cá nước ngọt khá dồi dào, phục vụ sinh hoạt của nhân dân. II. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI Nếu so với các tỉnh Bắc Bộ, thời gian và quá trình ra đời của làng xã người Việt ở vùng đất Bình Trị Thiên muộn hơn, gắn liền với hai sự kiện, vào năm 1306 vua Trần Nhân Tông gã con gái của mình là Huyền Trân cho vua Chămpa là Chế Mân với sính lễ mang màu sắc chính trị là vua Chế Mân nhường hai châu Ô và Lý cho Đại Việt, và sự kiện năm 1558 khi nhà Lê đồng ý cho Thái úy Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (vùng đất Quảng Trị và Thừa Thiên Huế hiện nay). Kể từ hai sự kiện đó, cùng với quá trình di cư là sự ra đời làng xóm mới của người Việt diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn. Theo Ô Châu Cận lục của Dương Văn An, làng Khúc Ốc là một trong 59 làng của huyện Đan Điền. Như vậy, ngót 6 thế kỷ người Việt đến khai phá đất đai, lập nên làng xóm đã nếm trãi các vận hạn của cuộc sống, nhưng rồi những vận hạn bị khuất phục bởi những con người kiên cường trên vùng đất đầy nắng gió. Truyền thống cần cù, chịu thương, chịu khó đã hình thành cho con người Tứ Hạ ngày nay một bản lĩnh kiên cường không chịu khuất phục trước khó khăn, gian khổ để vượt lên chiến thắng thiên tai, địch họa. Quá trình tồn tại và phát triển là quá trình con người tự chinh phục, đấu tranh , sáng tạo để khẳng định mình. Ý thức tin tưởng vào ngày mai “còn da lông mọc, còn chồi nãy cây” đã trở thành nền tảng cho con người nơi đây vượt lên tất cả để chiến thắng. Đất và người Tứ Hạ ngày nay cứ thế chạm khắc vào lịch sử dân tộc với biết bao biến cố thăng trầm. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, Phường Tứ Hạ ngày nay đã trãi qua nhiều lần tên gọi và thay đổi địa giới hành chính như sau: Thời các Chúa Nguyễn, trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn biên soạn vào năm 1776, làng Phú Ốc năm 1553 được đổi thành xã Phú Ốc, thuộc huyện Quảng Điền, Phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa. Năm 1802, Vua Gia Long của triều Nguyễn chia vùng đất từ Quảng Bình vào đến Thừa Thiên Huế ngày nay thành 3 doanh, Phú Ốc thuộc doanh Quảng Đức (Thừa Thiên Huế hiện nay). Năm 1835 dưới thời Minh Mạng thứ 16, ba huyện cũ của Thừa Thiên chia làm 6 huyện, huyện Hương Trà được thành lập, Phú Ốc thuộc tổng Phú Ốc, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên. Sau Cách mạng tháng 8/1945, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, tỉnh Thừa Thiên giải thể cấp tổng, thành lập cấp xã là cấp hành chính cơ sở để thống nhất trên toàn quốc, huyện Hương Trà hình thành 10 xã, 89 thôn. Thôn Phú Ốc là một trong 8 thôn của xã Hương Vân. Sau năm 1954, Chính quyền Sài Gòn luôn luôn thay đổi địa giới hành chính cấp xã. Năm 1955, hai thôn Phú Ốc và Lai Thành lập thành xã Hương Ốc. Năm 1956, lập xã Hương Việt gồm các thôn Phú Ốc, Lai Thành, Văn Xá, Tiến Lộc, Thanh Lương, Xuân Đài Liễu Nam và Liễu Thượng. Năm 1960, lập xã Hương Phú gồm các thôn Phú Ốc, Lai Thành và Văn Xá. Thôn Phú Ốc có 4 giáp là Nhất, Nhì, Tam, Tứ. Riêng giáp Tứ chia làm hai là Tứ Thượng và Tứ Hạ. Địa danh Tứ Hạ được sử dụng chung cho địa phận hành chính Phú Ốc trước đây. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, năm 1977 ba huyện Phong Điền, Quảng Điền và Hương Trà sát nhập thành huyện Hương Điền, tỉnh Bình Trị Thiên. Tứ Hạ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng an ninh của huyện Hương Điền. Đến ngày 12/01/1984 Tứ Hạ trở thành thị trấn của huyện Hương Điền. Năm 1990, sau khi tách Bình Trị Thiên thành ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, ngày 29/9/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 345 – HĐBT chia huyện Hương Điền thành 3 huyện Hương Trà, Quảng Điền và Phong Điền. Tứ Hạ trở thành thị trấn của huyện Hương Trà. Ngày 15/11/2011, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 99/ QĐ-CP thành lập thị xã Hương Trà gồm có 7 phường, 9 xã, Tứ Hạ trở thành Phường của thị xã cho đến đầu năm 2015, Phường Tứ Hạ có 11 tổ dân phố, toàn phường có 9.182 hộ thường trú, với 2.325 khẩu, trong đó số người trong độ tuổi lao động 7.202 người, chiếm 78,4%, trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ, nông nghiệp, … Về kinh tế, do đặc điểm về địa hình và thổ nhưỡng, ngay từ khi khai canh lập làng , ông cha chúng ta đã biết dựa vào lợi thế của từng vùng để phát triển kinh tế. Nếu như ở vùng đồng bằng, nhân dân thường trồng cây lúa nước, thì ở vùng trung du, gò đồi lại phát triển cây hoa màu, cây ăn quả, ngoài các loại cây trồng , nhân dân còn phát triển các loại gia súc, gia cầm để cải thiện đời sống và tăng thu nhập cho gia đình. Để có được hạt lúa, củ khoai, củ sắn, ông cha chúng ta đã cật lực lao động, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, thức khuya dậy sớm, gắn bó với đồng ruộng, chế ngự thiên tai hạn hán, lũ lụt, đào kênh, chống úng, … Vào đầu thế kỷ XX, khi mà nền kinh tế tư bản thâm nhập vào nước ta ngày càng mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp, nghề buôn bán cũng bắt đầu phát triển, nhân dân ta có câu: “Nghênh ngang như Hạ Lang xuống nước, lộc tộc như con gái Phú Ốc đi buôn” . Trong những năm gần đây, với sự phát triển của kinh tế thị trường, trên địa bàn Phường Tứ Hạ xuất hiện thêm nhiều ngành nghề mới như xây dựng, cơ khí, nhà nghĩ, nhà hàng, … theo hướng cơ cấu của nền kinh tế địa phương dịch vụ – Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp. Về văn hóa, cũng như bao làng quê khác, ở Phường Tứ Hạ quan hệ họ hàng cũng được coi trọng và tồn tại lâu đời, điều đó được thể hiện qua việc xây dựng nhà thờ họ. Ngay từ khi dựng làng, Phú Ốc có 12 họ: Hoàng, Hà, Trịnh, Nguyễn, Trương, Ngô, Hồ, Đổ, Đoạn, Cao, Trần và Lê, đến nay hai họ Đổ và Đoạn không còn dân sinh sống, sau này còn có thêm ba họ Phạm, Võ và Tạ, về họ khai canh, tại đình làng có câu: “Tộc truyền thập nhị ngó dân thỉ Miêu xưởng tùng tân Phước Chỉ đường”. Việc giáo dục con cháu “uống nước nhớ nguồn”, nhất là sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống giữa những người cùng họ hàng. Mặt khác, tuy có lúc va vấp, xung đột, nhưng để tồn tại trong điều kiện thiên nhiên khá khắc nghiệt, chiến tranh liên miên, các dòng họ ở Tứ Hạ luôn giữ mối đoàn kết trên tinh thần cộng đồng khá bền chặt. Do sinh sống trên vùng đất mà nguồn lợi từ thiên nhiên không mấy phong phú, điều kiện khí hậu, thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ngay từ buổi đầu khai phá vùng đất mới, với đôi bàn tay khéo léo, cần cù, chịu thương, chịu khó, một nắng hai sương cha ông chúng ta đã khai phá đất đai, mở rộng diện tích, phát triển kinh tế, hết sức quý trọng tình làng nghĩa xóm, không ích kỷ, hẹp hòi, lúc buồn vui tối lửa tắt đèn có nhau, sẳn sàng nhường cơm xẻ áo giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn. Những đức tính trên đã góp phần hình thành tính cách kiên cường trong sản xuất và xây dựng cuộc sống, có tâm hồn trong sáng và bình dị, khí khái mà bộc trực, thẳng thắng mà cũng rất mực thủy chung của con người Tứ Hạ. Về đời sống tâm linh, nhân dân Phường Tứ Hạ xưa nay vẫn có những tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, ông bà, các bậc tiền nhân có công với quê hương đất nước. Hàng Năm, để tưởng nhớ các bậc tiền nhân khai phá ra vùng đất, lập nên làng xóm, cầu mong cho quê hương bình yên và những người đã khuất không nơi nương tựa, nhân dân Tứ Hạ đã tổ chức lễ tế Xuân Thủ (lễ Kỳ an) vào ngày mồng 7 tháng giêng âm lịch, lễ Thanh minh vào ngày 27 đến 29/3 dương lịch, lễ Thu tế (lễ kỵ ngài khai canh, khai khẩn) vào ngày 15 và ngày 16 tháng 7 âm lịch, tết nguyên đán, … Trong những ngày lễ của quê hương, đất nước, nhân dân Tứ Hạ còn tổ chức đua ghe, kéo co, bơi lội, … tạo nên nếp sống văn hóa lành mạnh. Về tôn giáo, nhân dân Tứ Hạ chủ yếu theo đạo Phật, hiện nay Đảng bộ và chính quyền địa phương đang tạo mọi điều kiện thuận lợi để bà con giáo dân trong mọi hoạt động. Phường Tứ Hạ còn là địa bàn có khá nhiều di tích lịch sử – văn hóa, như Cồn Tháp, Cửa Thiền, lổ vàng, lổ bạc của người Chiêm Thành. Miếu Vua, Cửa Tàu, Cồn Phàn trận dưới thời Nguyễn Huệ – Quang Trung, Chùa Cổ ở Cồn Chùa, Phủ thờ Dẩn Khánh – Chương Trạch, Giếng trấn hỏa, miếu thờ đền Cầu bông, … Mặc dầu các di tích hiện nay không còn, chỉ còn lại phế tích, nhưng đây là niềm tự hào của nhân dân Tứ Hạ trong quá trình xây dựng và phát triển quê hương đất nước Về truyền thống đấu tranh cách mạng, trong suốt hàng trăm năm sống dưới chế độ phong kiến, nhân dân Tứ Hạ phải chịu cảnh đói nghèo và lạc hậu, nhất là tư tưởng nho giáo và các hủ tục nặng nề luôn ràng buộc nhân dân vào các khuôn phép của phong kiến. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Tứ Hạ phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”, nạn sưu cao, thuế nặng, chính sách phu phen tạp dịch của thực dân, phong kiến đã đẩy nhiều gia đình lâm vào cảnh khó khăn, bần cùng, không lối thoát, nhiều người dân Tứ Hạ phải rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn đi làm ăn nơi khác để kiếm kế sinh nhai. Không cam chịu cuộc sống nô lệ, cùng với nhân dân Hương Trà, nhân dân Tứ Hạ đã vượt qua những khó khăn và thử thách, vượt qua bao nỗi gian truân của đời thường, đoàn kết kiên cường đấu tranh chống lại ách thống trị của thực dân, phong kiến. Đặc biệt, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần và khí phách quả cảm của nhân dân Tứ Hạ đã trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chống lại sự cai trị hà khắc của chế độ quân chủ phong kiến, cũng như sự đàn áp bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai, đưa quê hương đi theo con đường mà Đảng, bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Giới thiệu khái quát phường Tứ Hạ
2,561
1. Đặc điểm tự nhiên 1.1 Vị trí địa lý – Phường Hương Chữ nằm ở phía Nam của thị xã Hương Trà ở cửa ngõ phía bắc của Thành phố Huế, có quốc lộ 1A và đường tránh phía Tây thành phố Huế đi qua rất thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, giao lưu thương mại. Địa bàn có nhiều di tích lịch sử cấp Tỉnh như Đình, Chùa làng La Chữ, Xưởng Phú Lâm, Dốc Ông Ầm. – Về địa giới hành chính: Phía Đông giáp phường Hương An, phường An Hòa (thành phố Huế), phía tây giáp phường Hương Xuân , phía Nam giáp Hương Hồ, phía Bắc giáp Hương Toàn. 1.2. Diện tích tự nhiên : 1585 ha 1.3. Đặc điểm địa hình: Địa hình thuộc vùng đồng bằng, phía Tây thuộc địa hình đồi núi. 2. Đất đai: Tổng diện tích tự nhiên 1585 ha (Trong đó: Diện tích nông nghiệp: 1044,63 ha, Diện tích phi nông nghiệp: 534,37 ha, Diện tích chưa sử dụng: 6ha) 3. Dân số, lao động – Số hộ: 2.471 hộ – Nhân khẩu: 9.105 người – Lao động trong độ tuổi: 4326 người – Mật độ dân số: 5.200 người/km 2 Người dân Hương Chữ có truyền thống hiếu học, cần cù trong lao động, nơi đây truyền thống sản xuất rau màu, như hành lá, cải, rau đặc biệt cây Kiệu La Chữ đã trở thành thương hiệu của địa phương.
Giới thiệu khái quát phường Hương Chữ
220
I. Đặc điểm tự nhiên 1. Vị trí địa lý: Hương Toàn là xã nằm cách trung tâm thị xã Hương Trà khoảng 6km về phía Đông Bắc, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía Tây Nam. *Ranh giới hành chính xã Hương Toàn được xác định như sau: Phía Đông giáp xã Hương Toàn, TX Hương Trà và phường Hương Sơ, TP Huế; Phía Tây giáp phường Hương Xuân ; Phía Nam giáp phường Hương Chữ ; Phía Bắc giáp xã Quảng Thọ , huyện Quảng Điền . 2. Khí hậu: Hương Toàn có đặc điểm khí hậu chung với khí hậu của thị xã Hương Trà là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa và chịu tác động của khí hậu biển nên tạo cho xã có một số đặc trưng khí hậu như sau: Nhiệt độ: nhiệt độ trung bình: 25,4 o C Nhiệt độ cao nhất vào tháng 5,6,7,8 và thấp nhất vào các tháng 2 năm sau. Độ ẩm trung bình: 84,5% các tháng có độ ẩm cao là 9,10,11. Bốc hơi: Lượng bốc hơi trung bình hàng năm: 1000mm. Lượng bốc hơi cao nhất là từ tháng 5 đến tháng 8 và thấp nhất vào tháng 2. – Mùa nắng từ tháng 3 đến tháng 8 nhiệt độ trung bình các tháng mùa khô 30-32 0 c có khi lên đến 39 0 c. Đặc biệt có khi lên đến 41,3 0 c đồng thời chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam nên khô và nóng ảnh hưởng rất lớn gieo trồng và chăn nuôi. – Mùa mưa :. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm: 2.600-2.800 mm, tập trung vào các tháng 9,10 và 11. Số ngày mưa trung bình năm: 115 ngày Gió bão: Hương Toàn chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính sau: Gió mùa Đông Bắc từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau với tốc độ gió trung bình 4 – 6 m/s và gió mùa Tây Nam ảnh hưởng từ tháng 4 đến tháng 8 với tốc độ gió trung bình từ 2 – 4 m/s. Bão thường xuất hiện vào tháng 8 hàng năm, cao điểm từ tháng 9- 10 hàng năm với tốc độ gió bình quân 30 – 40 m/s Với chịu sự tác động của khí hậu nhiệt đới gió mùa có lượng mưa lớn, nền nhiệt tương đối cao, lượng bốc hơi mạnh thì đây là lợi thế cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra do sự chênh lệch lớn về lượng mưa và quá trình phân bố dễ gây lũ lụt ngập úng gây khó khăn cho đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất và gây ra những thiệt hại đáng kể về kinh tế. 3.Tài nguyên: 3.1. Đất đai: Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 1220 ha. Địa hình của xã là một vùng đồng bằng với bề mặt tương đối bằng phẳng có giới hạn độ cao so với mặt nước biển cao nhất không quá 2,2m, thấp nhất 0,2m, được cấu tạo bởi lớp trầm tích trẻ gồm chủ yếu là phù sa được bồi đắp, thành phần cơ giới thịt trung bình, tầng canh tác thường dày trên 20 cm rất thuận lợi cho cây trồng phát triển. *Đất nông nghiệp: Diện tích 739,50 ha chiếm 60,61% diện tích đất tự nhiên. Đất trồng lúa nước là 658,70 ha , chiếm 53,99 % diện tích đất tự nhiên. Đất trồng cây hằng năm diện tích 66,91ha, chiếm 5,48 % diện tích đất tự nhiên, chủ yếu nằm các vùng đất biền ven sông Bồ, từ thôn Dương Sơn đến thôn Vân Cù. Đất trồng cây lâu năm (cây ăn quả, chủ yếu ở thôn Giáp Kiền) diện tích 6,08 ha, chiếm 0,50 % diện tích đất tự nhiên. Diện tích nuôi trồng thủy sản diện tích 7,81 ha, chiếm 0.64% diện tích đất tự nhiên.. *Đất phi nông nghiệp: Diện tích 480,50 ha chiếm 39,39% diện tích đất tự nhiên. Trong đó: Đất ở: 164,63 ha chiếm 14,31% diện tích đất tự nhiên; Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp: Diện tích có 5,81 ha, chiếm 0,48 % tổng diện tích đất tự nhiên. Đất sản xuất vật liệu gốm sứ: diện tích là 0.06 ha. Đất có mục đích công cộng: diện tích có 87,13ha, chiếm 7,14% tổng diện tích tự nhiên trong toàn xã. Trong đó: +Đất giao thông có diện tích 40,30ha chiếm 3,30% diện tích đất tự nhiên. +Đất thủy lợi có diện tích 41,30ha chiếm 3,36% diện tích đất tự nhiên. +Đất bưu chính viễn thông diện tích 0,02 ha +Đất cơ sở văn hóa: diện tích 0,16 ha. +Đất cơ sở y tế có diện tích 0,32 ha. +Đất cơ sở giáo dục đào tạo có diện tích 4,46 ha +Đất cơ sở thể dục thể thao có diện tích 0,60 ha – Đất chợ có diện tích 0,22 ha Đất tôn giáo, tín ngưỡng: 130,79 ha chiếm 10,72% Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng: 64,20ha chiếm 5,26%. *Nhận xét và đánh giá về hiện trạng sử dụng đất: Hương Toàn có quỹ đất trồng lúa chiếm tỉ lệ lớn, đất màu và câu ăn quả nằm ven sông thuận tiện việc canh tác, đất dành cho nghĩa địa chiếm khá nhiều và manh mún. Đất chưa sử dụng hầu như không còn. Do đó chuyển đổi mục đích sử dụng chủ yếu lấy từ quỹ đất trồng lúa và trồng cây hàng năm. Đất dân cư phân bố tập trung và thuận lợi để quy hoạch phát triển. Nhìn chung hiện trạng sử dụng đất khá thuận lợi cho việc phát triển của xã trong tương lai 3.2 Tài nguyên nước: Về nước mặt chủ yếu là nguồn nước ở Sông Bồ, chảy qua xã dài 9,5km, trữ lượng 22,8 triệu m3; hệ thống hói dài hơn 30km, trữ lượng 1,5 triệu m3; trong những năm gần đây, nhờ có đập Thảo Long nên lượng nước ngọt dùng sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt tương đối đầy đủ không còn thiếu nước ngọt như những năm hạn mặn trước đây. III. Nhân lực : Dân số toàn xã năm 2013 là 2.891 hộ với 13.657 nhân khẩu, lao động trong độ tuổi: 6.774 người trong đó: lực lượng lao động dưới 35 tuổi là 3668 lao động Nguồn lao động xã Hương Toàn khá dồi dào, phần lớn là lao động trẻ, lao động phổ thông, có sức khỏe tốt, lực lượng lao động của địa phương về cơ bản đã qua các lớp đào tạo phổ cập trung học và nghề. Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản của địa phương trong công tác phát triển nâng cao nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, nhu cầu lao động trong nông nghiệp giảm dần. IV. Thực trạng kinh tế: 4. 1 Kinh tế: Trong những năm qua nền kinh tế của xã có tốc độ tăng trưởng khá Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn toàn xã năm 2013 ước đạt 305 tỷ 916 triệu đồng. * Tổng giá trị về lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp – xây dựng đạt 125,923 tỷ đồng. Nhìn chung các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vẫn duy trì giữ vững tốc độ phát triển và ngày càng được mở rộng về quy mô như: Sản xuất bún tươi, nấu rượu gạo, mộc dân dụng, xây dựng, nước đá … Đến nay xã đã có 376 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp – xây dựng hoạt động có hiệu quả góp phần tăng thu nhập và giải quyết việc làm cho người dân trên địa phương. * Tổng giá trị về lĩnh vực Dịch vụ thương mại đạt 66,764 tỷ đồng; số hộ kinh doang trên toàn xã là 726 hộ. *Nông nghiệp: Tổng giá trị về lĩnh vực nông nghiệp đạt 112,525 tỷ đồng. – Trồng trọt: thu nhập từ trồng trọt xã Hương Toàn với cây trồng chính và chủ lực vẫn là cây lúa, màu và cây ăn quả. Tuy quá trình sản xuất gặp không ít khó khăn do thời tiết và sâu bệnh, giá vật tư phân bón tăng cao…, nhưng trong quá trình sản xuất với sự cố gắng không ngừng của cán bộ và nhân dân xã, với quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất lúa, màu sử dụng các giống mới, cải thiện hệ thống thủy lợi, dự báo phòng trừ sâu bệnh, vì vậy năng suất và sản lượng ngày càng tăng. – Chăn nuôi: chủ yếu với hình thức chăn nuôi theo quy mô hộ gia đình và gia trại. Tổng đàn trâu bò: 289 con tăng 33 con so với năm 2012. Đàn lợn: 5735( lợn nái: 874 con, lợn thịt: 4861con) giảm 630 con so với năm 2012. Đàn gia cầm: 49.000 con, tăng 9.000 con so với năm 2012, tổng lồng cá 238 cái tăng 19 lồng so năm 2012. Ước sản phẩm trong chăn nuôi: 45.141 triệu đồng. Tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp là 31,22%. 4.2. Thu nhập bình quân đầu người: Năm 2012 đạt 18,2 triệu đồng/ người/năm; Năm 2013 đạt 22,5 triệu đồng/ người/năm. 4.3. Tỷ lệ hộ nghèo: qua kết quả khảo sát, điều tra hộ nghèo của xã vào cuối năm 2013 đạt 5,59% (theo chuẩn mới) V. Đánh giá tiềm năng của xã: Nằm tiếp giáp với thành phố Huế, có đầu mối giao thông quan trọng ( TL8B, TL 19), có xu thế đô thị hóa, một số ngành nghề phát triển, dịch vụ phát triển, trên địa bàn có các làng nghề bún Vân cù, rượu Dương Sơn, cốm An Thuận, nón lá Hương Cần…; con sông Bồ đi qua hầu hết các thôn trong xã tạo cảnh quan ven sông để phát triển dịch vụ du lịch ; là xã đồng bằng có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp đặt biệc là cây lúa, rau màu, cây ăn quả đặc sản quýt Hương Cần và chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại thủy sản nước ngọt. hệ thống hạ tầng xã hội và hạ tầng kỷ thuật tương đối ổn định và đầy đủ. Nền kinh tế tiếp tục phát triển theo cơ cấu NN-TTCNXD- TMDV. Về NN tiếp tục duy trì và giữ vững diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực và cây ăn quả; đầu tư cơ sở vật chất, kỷ thuật để đẩy mạnh chăn nuôi; ngành TTCN -TMDV ngày càng được đầu tư máy móc, thiết bị để nâng cao năng suất và chất lượng, hạ giá thàng sản xuất nâng cao thu nhập người dân; Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá và cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu hướng tích cực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Đảng bộ và nhân dân Hương Toàn không ngừng phấn đấu tháo gỡ khó khăn, nhanh chóng hoà nhập cơ chế mới đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đảng bộ và chính quyền xã luôn ưu tiên đầu tư cho sự nghiệp giáo dục cả 3 bậc học: THCS, Tiểu học, Mầm non, xã có 3 trường đạt chuẩn quốc gia. Sự nghiệp giáo dục đào tạo của xã có những chuyển biến rất đáng kể về qui mô trường lớp cũng như chất lượng dạy và học; Cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên được tăng cường, công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được giữ vững và nâng cao về chất lượng. Trạm y tế được đầu tư cơ sở khám chữa bệnh đảm bảo yêu cầu của nhân dân. Trong các năm đến tiếp tục duy trì, giữ vững đạt chuẩn quốc gia các trường học và trạm y tế; đầu tư xây dựng cơ sở hại tầng trường lớp để phấn đấu thêm 01 trường đạt chuẩn quốc gia. tiếp tục duy trì và giữ vững danh hiệu cơ quan văn hóa và làng văn hóa. An ninh trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quy chủ dân chủ được phát huy.
Giới thiệu khái quát xã Hương Toàn
2,001
Dương Hòa là một xã nằm về phía Tây Hương Thủy. Phần lớn đất Dương Hòa nằm ở hai bờ sông Tả Trạch, thượng nguồn sông Hương , vùng có dân tập trung dọc theo hai bờ nhánh Tả Trạch. Phía Bắc giáp với xã Thủy Bằng, phía Đông giáp xã Phú Sơn , phía Nam giáp huyện Nam Đông , phía Tây giáp xã Bình Thành ( thị xã Hương Trà ). Tổng diện tích Dương Hòa là 26.171,92 ha. Trong đó đất nông nghiệp chiếm 23.170,90 ha; đất phi nông nghiệp 2.661,54 ha; đất chưa sử dụng 339,48 ha. Dương Hòa là xã thuộc vùng gò đồi của Hương Thủy vừa chịu sự chi phối của khí hậu vùng chí tuyến nhiệt đới gió mùa, vừa mang đặc điểm riêng của vùng khí hậu gò đồi. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25,3 o C, cao nhất là 40 o C, thấp nhất là 10,5 o C; tổng nhiệt hằng năm là 9150 o C, số giờ nắng trung bình năm là 1925 giờ. Lượng mưa phân bố không đều trong năm, tập trung mưa bắt đầu từ tháng 8 và kết thúc vào cuối tháng 12, cao nhất là từ tháng 9 đến tháng 11 hằng năm (chiếm 70 – 75% lượng mưa cả năm) nên thường xảy ra lũ lụt trong những tháng này. Lượng mưa trung bình 2995mm, lượng mưa thấp nhất 1882mm, số ngày mưa trung bình hằng năm là 153 ngày. Chế độ gió diễn biến theo mùa và phân thành 2 mùa rõ rệt: + Gió Tây Nam khô nóng xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 8 hằng năm, vận tốc trung bình từ 3 – 4m/s (cực đại 9m/s). + Gió Đông Bắc lạnh ẩm kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, tốc độ gió trung bình 3,5 – 4m/s (cực đại 10m/s). Tháng 1 là thời kì gió Đông Bắc hoạt động mạnh nhất (1) . Bão thường xuyên xuất hiện từ tháng 9 đến tháng 12. Tần suất bão khá lớn, có lúc đến 4 cơn/năm. Độ ẩm tương đối bình quân là 84,5%, độ ẩm tuyệt đối là 15%; tính chất của các dòng khí khác nhau trong các mùa tạo nên thời kì khô và ẩm khác nhau, mùa đông có độ ẩm lớn và có mưa nhiều nhất. Địa hình của xã Dương Hòa có nhiều khe, động, núi, sông, có ưu thế trong việc bố phòng để xây dựng chiến khu, là vùng hậu cứ của cách mạng ở phía Tây – Nam thành phố Huế và các xã giáp ranh, đồng bằng. Trong hai cuộc kháng chiến, Dương Hòa (theo nghĩa rộng) là hậu cứ của ta còn địch thì bố phòng một hệ thống đồn bốt, chiếm đóng các điểm cao để khống chế và liên tục tổ chức các cuộc hành quân càn quét, chống phá căn cứ địa cách mạng ở đây. Toàn xã có 5 thôn: thôn Hạ, Buồng Tằm, thôn Hộ, Thanh Vân và Khe Sòng. Về cư dân, toàn xã có 509 hộ với số dân là 1910 khẩu. Trong đó Căn cứ vào tài liệu thư tịch cổ, những lớp người đầu tiên đến định cư sinh sống trên địa bàn Dương Hòa là vào cuối nhà Trần. Tuy nhiên, phải đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa (1558), với ý đồ xây dựng lực lượng cát cứ ở Đàng Trong để đối đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài thì số người di cư vào đây mới ngày càng đông hơn. Các họ, tộc, chi phái ở Dương Hòa ngày nay đều có nguồn gốc từ những lớp người theo các chúa Nguyễn vào sinh sống, định cư ở đất Thuận Hóa. Theo gia phả họ Phan có ghi chép, năm 1721, ngài Khai canh của làng Dương Hòa, húy Phan Đại Lang được Vua sắc phong “Nẫm Trước Linh Ứng, Dực Bảo Trung Hưng, Linh Phò Tôn Thần” có nguồn gốc ở Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là con cháu ngài Toàn Đức Hầu (Phan Văn Du), được nhà nước phong kiến phong tước là “Toàn Đức Hầu” vào năm 1634, ngài Khai canh cùng con, cháu họ Phan đặt chân đầu tiên tại vùng đất này để khai điền, khai thổ, lập ấp, lập làng. Trải qua bao gian nan, vất vả và được nhiều ưu đãi của thiên nhiên và sự ra sức xây dựng của con, cháu họ Phan, kế đó là họ Nguyễn (Buồng Tằm) và các họ đời sau nên làng Dương Hòa được vun đắp và phát triển cho đến hôm nay. Gia phả họ Nguyễn cũng khẳng định họ Nguyễn là tộc họ đầu tiên đến định cư tại làng Lương Miêu vào năm 1841. Các thời kì tiếp theo, cư dân nhiều nơi với nhiều lí do khác nhau cũng đến định cư ở Dương Hòa. Nhưng do ảnh hưởng bởi tập tục phong kiến, nên những người ngụ cư đều bị bọn cường hào địa phương đè nén, bóc lột thậm tệ, đây là một trong những mâu thuẫn chủ yếu dẫn đến sự giác ngộ cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, do sự càn quét khủng bố và quy dân lập ấp của địch nên dân số Dương Hòa thường xuyên biến động. Trong thời Mỹ ngụy tạm chiếm, ở vào thời kì cao điểm của các cuộc “bình định” và dồn dân của địch vào các năm 1964, 1967 toàn xã chỉ còn 7 hộ gia đình kiên trì bám trụ ở lại quê hương trong một thời gian dài. Sau ngày quê hương giải phóng (3/1975), dân số Dương Hòa tăng lên nhanh chóng do có nhiều dân cư trở về quê hương và do thực hiện chủ trương của tỉnh điều cư dân đồng bằng lên miền núi xây dựng vùng kinh tế mới ở đây, nên dân số Dương Hòa đã tăng lên 721 hộ với số dân 3442 khẩu. Ngày nay, qua nhiều biến động, nhất là sau năm 2004, do yêu cầu xây dựng công trình hồ chứa nước Tả Trạch, một số dân phải di dời đến nơi ở khác, nên đến năm 2015 dân số Dương Hòa giảm xuống còn 509 hộ với số dân là 1910 khẩu.
Giới thiệu khái quát xã Dương Hòa
1,031
– Dân số: 7.930 người (Theo số liệu thống kê năm 2014) – Phường Thủy Lương nằm phía Đông Nam thị xã Hương Thủy, có diện tích tự nhiên là 861,36 ha. Ranh giới hành chính: + Phía Bắc giáp thị trấn Phú Đa – huyện Phú Vang + Phía Nam giáp phường Phú Bài- thị xã Hương Thủy + Phía Đông giáp xã Thủy Tân – thị xã Hương Thủy + Phía Tây giáp phường Phú Bài, phường Thủy Châu- thị xã Hương Thủy – Địa chỉ cơ quan: 235 Thuận Hóa, phường Thủy Lương, thị xã Hương Thủy , tỉnh Thừa Thiên Huế . – Điện thoại cơ quan: .0234.3861028 – Email:
Giới thiệu khái quát phường Thủy Lương
98
– Xã Thuỷ Thanh nằm ở phía Đông Bắc Thị xã Hương Thuỷ , cách trung tâm thị xã Hương Thuỷ theo hướng Tây Nam khoảng 6 km, cách Trung tâm Thành phố Huế theo hướng Tây khoảng 8 km. Có tọa độ vị trí địa lý từ 16 0 26 ’ 30 ” đến 16 0 29 ’ 30 ” vĩ độ Bắc, 107 0 37 ’ 10 ” đến 107 0 39 ’ 13 ” kinh độ Đông. – Ranh giới hành chính: + Phía Bắc giáp xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang , + Phía Nam giáp phường Thuỷ Phương, Thuỷ Dương, Thuỷ Châu, thị xã Hương Thủy. + Phía Đông giáp xã phú Hồ, huyện Phú Vang, + Phía Tây giáp phường An Đông, thành phố Huế. – Thủy Thanh là vùng thấp trũng, chuyên độc canh cây lúa, các ngành nghề dịch vụ đang có chiều hướng phát triển; Đảng bộ xã Thủy Thanh là một tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Thị ủy Hương Thủy, toàn xã có diện tích đất tự nhiện 849,16 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp 616,27 ha; xã Thủy Thanh không có rừng và khoáng sản; dân số 9.831 khẩu gồm 2.735 hộ, trên địa bàn xã có 05 khu di tích lịch sử văn hóa, 04 niệm phật đường, 02 HTX nông nghiệp, 05 trường học (02 trường Mầm non, 02 trường Tiểu học, 01 trường THCS); 01 trạm Y tế và 9 thôn. Đảng bộ xã có 19 chi bộ trực thuộc gồm 264 đảng viên. – Trong xây dựng đời sống văn hóa xã hội, kinh tế: đời sống nhân dân khá ổn định, năng suất lúa hàng năm đạt từ 60-80 tạ/ha/năm; thu nhập bình quân đầu người 50-52 triệu đồng/người/năm; kết cấu hạ tầng ngày càng được đầu tư nâng cấp tạo diện mạo mới ở nông thôn mới. Từng bước góp phần vào việc thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới nâng cao tạo nền tảng cho Thủy Thanh trở thành trực thuộc thị xã vào cuối năm 2023. – Đảng bộ xã Thủy Thanh là một tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Thị ủy Hương Thủy, toàn Đảng bộ có 19 chi bộ trực thuộc gồm 264 đảng viên. Công tác xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể trong hệ thống chính trị luôn được coi trọng, tổ chức được kiện toàn củng cố, duy trì hoạt động thường xuyên, nề nếp. Các tổ chức đảng, đoàn thể hoạt động đạt kết quả tốt. Tổng số cán bộ, công chức hiện nay: 23 người (Trong đó có 01 Công an chính quy); Tổng số những người hoạt động không chuyên trách ở xã: 5 người; cán bộ thôn: 27 người (Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn, Trưởng BCTMT). Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh hàng năm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân thị xã phê duyệt; tổ chức thực hiện kế hoạch; Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết và lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp; Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa phương; xây dựng và quản lý các công trình công cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện, nước theo quy định của pháp luật; Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện. Việc quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có kiểm tra, kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định của pháp luật. Thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục, các chương trình y tế cơ sở, dân số, kế hoạch hoá gia đình được giao ở địa phương. Xây dựng phong trào và tổ chức các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao; Thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật. Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự và tuyển quân theo kế hoạch; đăng ký, quản lý quân nhân dự bị động viên; tổ chức thực hiện việc xây dựng, huấn luyện, sử dụng lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương. Thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc vững mạnh; thực hiện biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật ở địa phương. Ủy ban nhân dân xã Thủy Thanh hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò của tập thể. Bên cạnh đó cũng đề cao trách nhiệm cá nhân của chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên của ủy ban nhân dân xã. Mỗi thành viên sẽ chịu trách nhiệm về từng chức năng và nhiệm vụ được giao.
Giới thiệu khái quát xã Thuỷ Thanh
955
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN: 1. Điều kiện tự nhiên: 1.1. Vị trí: Xã Hương Bình có ranh giới hành chính như sau: – Phía Bắc giáp phường Hương Văn , Hương Xuân , Hương Chữ ; – Phía Nam giáp xã Bình Tiến – Phía Đông giáp xã Hương Thọ, phường Hương Hồ, xã Bình Thành ; – Phía Tây giáp phường Hương Vân. – Tổng diện tích tự nhiên toàn xã: 6258,53ha. Trong đó xã Hương Bình sử dụng 2344,46 ha, chiếm 37,41%. Số còn lại do Công ty TNHH NN 1TV lâm nghiệp Tiền Phong, Trại giam Bình Điền và BLQ TRPH Sông Bồ sử dụng. 1.2. Khí hậu: Xã Hương Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam, Đông Bắc,Tây Nam; có 02 mùa rõ rệt (mưa và nắng). – Nhiệt độ trung bình hàng năm 28 0 C, nhiệt độ cao nhất khoảng 35-39 0 C, thấp nhất 14-18 0 C. – Lượng mưa: + Từ tháng 8 đến tháng 01 năm sau lượng mưa chiếm 78% cả năm. + Mưa lớn nhất là tháng 10,11 trung bình 591-760 mm/tháng, đây cũng là mùa lụt chính ở Thừa Thiên Huế. + Mùa khô nóng ẩm, từ tháng 2 đến tháng 8 chiếm 22% lượng mưa cả năm, ít mưa nhất là tháng 02 đến tháng 4. + Nắng trung bình có từ 1800-2000 giờ nắng/năm, cao nhất tháng 5 – 7. – Độ ẩm trung bình: 80% – Gió: Chịu ảnh hưởng của 03 loại gió chính. + Gió mùa Đông Bắc: Từ tháng 9 đến tháng 02 năm sau. Trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11 thường xuất hiện những cơn bão kèm theo mưa lớn gây lũ lụt. + Gió Đông Nam, Tây Nam xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm. + Địa bàn cũng nằm trong vùng chịu tác động của bão trung bình với tần suất 4 trận bão/năm. 1.3. Thủy văn: Trên địa bàn xã Hương Bình không có sông lớn chảy qua, chỉ có các con suối lớn: Khe Điêng, Khe Tâm Tình, Khe Ổi. Nhìn chung suối địa hình tương đối bằng nhưng dòng chảy quanh co nên khả năng dồn nước nhanh, gây ngập úng cục bộ trên địa bàn xã. Trước đây, vào mùa khô lượng nước các con suối xuống rất thấp, vì thảm che rừng tự nhiên trên địa bàn xã đã bị tàn phá toàn bộ. Hiện nay diện tích rừng trồng và cây cao su đã góp phần rất lớn vào việc che phủ hơn nửa lòng hồ thủy điện Hương Điền với cao trình 80m cũng góp phần làm tăng độ ẩm cho đất. 1.4. Tài nguyên thiên nhiên: a. Tài nguyên đất: Với địa hình gò đồi, địa bàn của xã nằm giữa vùng thung lũng xung quanh có các dãy núi bao bọc. Mặc dù là vùng gò đồi, tuy nhiên, ở đây có tầng đất dày, khá màu mỡ thành phần cơ giới đại bộ phận là thịt nhẹ, thịt trung bình. Trong tổng diện tích nói trên có gần 1200 ha là đất khá bằng phẳng phù hợp cho việc sản xuất cây công nghiệp, còn lại là diện tích có độ dốc bình quân từ 8 – 25o. b. Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt xã Hương Bình có nguồn nước mặt không nhiều. Hiện tại toàn xã chỉ có 2,19ha hồ nuôi cá của các hộ gia đình, chủ yếu ở các khe suối, chỉ chiếm 0,09% tổng diện tích trên địa bàn toàn xã sử dụng . Tuy nhiên, hiện nay thủy điện Hương Điền đã tích nước đưa vào hoạt động nên trên địa bàn xã đã tăng nguồn nước mặt lên đáng kể với diện tích 319,50ha, góp phần làm tăng độ ẩm vào mùa khô, đồng thời là tiềm năng để phát triển nuôi cá lồng. Nguồn tài nguyên nước ngầm của xã khá phong phú, hiện là nguồn nước quan trọng nhất cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. b. Tài nguyên rừng: Xã Hương Bình có 2921,12 ha (bao gồm các diện tích do các cơ quan đơn vị quản lý) đất lâm nghiệp chiếm 46,61% tổng diện tích toàn xã. Trong đó, có 2721,82 ha đất rừng sản xuất, 199,30 ha đất có rừng tự nhiên phòng hộ. Hàng năm việc trồng rừng vẫn được duy trì theo hai hướng là trồng rừng tập trung và trồng phân tán, nâng độ che phủ của rừng ngày càng cao, rừng trồng với các loại cây chủ yếu như cây keo, tràm v. v… 1.5. Tình hình dân số và lao động: Dân số xã Hương Bình tính đến tháng 8/2017 là 787 hộ, 3230 khẩu; trong đó số người trong độ tuổi lao động là 2050 người chiếm 63,47% dân số toàn xã. Nguồn lao động xã Hương Bình khá dồi dào, phần lớn là lao động trẻ, có sức khỏe tốt, lực lượng lao động về cơ bản đã qua các lớp đào tạo nghề như: kỹ thuật khai thác mủ cao su; trồng và chăm sóc cao su, rừng trồng, cây ăn quả; chăn nuôi…. học nghề, trung học chuyên nghiệp, đại học. Cơ cấu lao động trong các ngành nghề kinh tế có sự chuyển dịch, trong đó lao động Dịch vụ thương nghiệp, vận tải, dịch vụ 65/787hộ, chiếm 8,25%; lao động Tiểu thủ công nghiệp, xây dựng: 6/787hộ, chiếm 0,77%; lao động Nông, lâm nghiệp: 576/787hộ, chiếm: 73,2%; ngành nghề khác: 140/787hộ, chiếm 17,78%. Tổng số lao động qua đào tạo: 864/2050, chiếm 42,14% là điều kiện thuận lợi cơ bản của địa phương trong công tác phát triển nâng cao nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. 1.6. Tình hình cơ sở hạ tầng: – Giao thông: Hệ thống giao thông trên địa bàn xã phát triển đồng bộ, có tuyến đường Tỉnh lộ 16 chạy dọc chiều dài của xã, phía Bắc tiếp giáp phường Tứ Hạ, phía Nam tiếp giáp Quốc lộ 49 với xã Bình Điền có chiều dài 24,5km được nhựa hóa; hệ thống cầu, cống thuận lợi, các tuyến đường liên thôn, trục thôn, trục xóm, các tuyến đường nội vùng sản xuất được bê tông , cứng hóa chất lượng đảm bảo, thuận lợi cho việc sinh hoạt, và đời sống, phục vụ sản xuất, vận chuyển hàng hóa, tiêu thụ nông sản, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh – xã hội, tạo diện mạo nông thôn mới ở địa phương. – Giáo dục và y tế: + Trên địa bàn xã có 01 trường Mầm non; 01 trường Tiểu học và THCS Lê Quang Bính, năm 2016 Trường Mầm non được công nhận đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1. Xã đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục Mầm Non cho trẻ 5 tuổi; đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi mức độ 3 và đạt chuẩn Quốc gia phổ cập giáo dục THCS mức độ 1; hàng năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS đạt trên 99%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt trên 97%, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng ngày càng cao. + Trạm y tế xã đạt chuẩn Quốc gia từ năm 2008 đến nay vẫn duy trì và giũ vững; công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được thực hiện tốt; các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế được triển khai đồng bộ và đảm bảo yêu cầu công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Giới thiệu khái quát xã Hương Bình
1,247
– Vị trí địa lý: Phú Sơn được thành lập vào ngày 19/8/1981, là xã vùng gò đồi, nằm về phía Tây Nam của thị xã Hương Thủy, cách trung tâm thị xã từ 10-12 km. Địa bàn rộng (3269,7 ha), gồm có 04 thôn, dân cư ít (1905 khẩu/480 hộ), mật độ 58 người/km 2 . Địa hình cách trở, có nhiều khe suối, đi lại gặp nhiều khó khăn đặc biệt là vào mùa lụt, bão. Diện tích của xã chủ yếu là đồi dốc, có tuyến đường quốc phòng 16km chạy dọc từ Thôn 4 đến Thôn 1, có 02 tuyến đường tỉnh lộ 7 và tỉnh lộ 15 nối với đường tránh Huế. Địa giới hành chính như sau: + Phía Đông: Giáp xã Lộc Bổn , huyện Phú Lộc . + Phía Tây: Giáp thôn Tân Ba, xã Thuỷ Bằng, thị xã Hương Thuỷ. + Phía Nam: Giáp thôn Hai Nhánh thuộc xã Dương Hoà, thị xã Hương Thuỷ. + Phía Bắc: Giáp phường Phú Bài, thị xã Hương Thuỷ. – Tiềm năng, thế mạnh: Với diện tích tự nhiên lớn: 3.269,7 ha. Trong đó: – Diện tích đất lâm nghiệp: 2.726,3 ha; + Diện tích rừng trồng: 2.687,8 ha; + Rừng tự nhiên: 38,5 ha. – Diện tích ngoài LN: 543,4 ha; Xã có tiềm năng, lợi thế phát triển trong ngành lâm nghiệp như trồng, chăm sóc rừng kinh tế (trồng cây Keo lai làm nguyên liệu gỗ dăm và trồng rừng gỗ lớn làm nguyên liệu sản xuất công nghiệp) và các dịch vụ liên quan đến nghề rừng, như vận tải, khai thác, sản xuất giống… Bên cạnh đó, với tiềm năng đất đai hiện có, hiện nay xã đang phát triển mạnh các mô hình gia trại chăn nuôi như nuôi bò lai bán thâm canh, nuôi gà ta, nuôi lợn, dê. – Là một xã vùng gò đồi của thị xã Hương Thuỷ, được phân thành 04 thôn, chủ yếu là diện tích đồi dốc, có tuyến đường quốc phòng 16km chạy dọc từ Thôn 4 đến Thôn 1, có 02 tuyến đường tỉnh lộ 7 và tỉnh lộ 15 nối với đường tránh Huế. Khí hậu thời tiết của xã cũng mang tính chất chung thời tiết của thị xã Hương Thuỷ, nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu Bắc Trung Bộ, nóng vừa và ít lạnh. Nhiệt độ thấp nhất có thể xuống dưới 15 0 C, cao nhất là 40 0 C. Mùa gió bão thường xảy ra trong năm từ tháng 9 đến tháng 11. Lượng mưa phân bố không đều bình quân cả năm là 2.867,7mm. Trên địa bàn xã có mạng lưới các khe suối phân bố rộng khắp. Tại Thôn 1, các khe suối nhỏ đều tập trung chảy về hướng Đông ra xã Lộc Bổn huyện Phú Lộc, còn các Thôn 2, 3 và 4 các khe suối nhỏ tập trung chảy về hướng Tây ra Thôn Tân Ba, xã Thuỷ Bằng, thị xã Hương Thuỷ. Ngoài ra trên địa bàn xã còn có các ao hồ chứa nước và có 13 thuỷ lợi là đập dâng nước phục vụ cho việc tưới tiêu và PCCCR. Với địa hình gò đồi, địa bàn xã đại bộ phận dân cư ở rãi rác khắp các triền đồi. Phía Tây có các đồi núi cao như đồi 320, động Voi… Địa bàn phức tạp, diện tích rừng lớn, dân cư sống rãi rác, không tập trung. * Diện tích tự nhiên: Tổng diện tích tự nhiên: 3.2 69,7 ha. Trong đó: – Tổng diện tích đất lâm nghiệp: 2.726,3 ha; – Diện tích ngoài LN: 543,4 ha; – Diện tích rừng trồng: 2.687,8 ha; – Rừng tự nhiên: 38,5 ha; – Địa chỉ cơ quan: Tỉnh lộ 15, Thôn 2, xã Phú Sơn, t thị xã Hương Thủy , tỉnh Thừa Thiên Huế . – Loại đơn vị hành chính: Loại II theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ, thuộc xã khó khăn theo Quyết định số 1010/QĐ-TTg ngày 10/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ. – Điện thoại cơ quan: 0234.3861363 – Fax: 0234.3861363 – Email:
Giới thiệu khái quát xã Phú Sơn
651
– Tổng diện tích: 22,99 km2. – Dân số: 2292 hộ với 8190 nhân khẩu. – Loại đơn vị hành chính: Loại II – Vị trí địa lý: + Phía Đông giáp với phường An Tây ( thành phố Huế ) và phường Thủy Dương , phường Thủy Phương (thị xã Hương Thủy); + Phía Tây giáp với xã Hương Hồ và xã Hương Thọ (thị xã Hương Trà); + Phía Nam giáp với xã Phú Sơn và xã Dương Hòa (thị xã Hương Thủy); + Phía Bắc giáp với phường Thủy Xuân, phường Thủy Biều – thành phố Huế. – Địa chỉ cơ quan: UBND xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy , tỉnh Thừa Thiên Huế (thôn Bằng Lãng, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế) . – Điện thoại cơ quan: 0234. 3855099 – Email:
Giới thiệu khái quát xã Thủy Bằng
112
– Quá trình thành lập và phát triển: Phường Đông Ba được thành lập vào 1/7/2021 theo Nghị quyết 1264 ngày 27 tháng 4 năm 2021của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về việc điều chỉnh địa giới hành chỉnh các đơn vị cấp huyện và sắp xếp, thành lập các phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. – Những đặc điểm chính của đơn vị, địa phương: + Phường Đông Ba có diện tích tự nhiên 2,09 km2, quy mô dân số : 13.975 + Phía Bắc giáp phường Thuận Lộc, Tây Lộc. + Phía Đông giáp phường Gia Hội. + Phía Nam giáp sông Hương, phường Phú Hội, Vĩnh Ninh. + Phía Tây giáp phường Thuận Hòa, Tây Lộc. – Địa bàn phường có địa hình dài và rộng bao gồm 1/2 Đại nội – Kinh Thành nằm trung nguồn sông Hương, sông Đông Ba, sông Ngự Hà, có khí hậu gió mùa, chịu ảnh hưởng bởi thiên tai lũ, lụt. + Tình hình kinh tế của phường đang trên đà phát triển, văn hóa – xã hội – thể dục thể thao có nhiều bước chuyển biến, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; chất lượng giáo dục ở các trường trên địa bàn phường ngày càng được chú trọng và nâng cao. Tình hình chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. + Về cơ cấu tổ chức bộ máy: tổng số cán bộ, công chức của đơn vị: 29 người (UBND phường gồm 17 cán bộ công chức, trong đó: 1 chủ tịch, 2 phó chủ tịch và 14 công chức).
Giới thiệu khái quát phường Đông Ba
265
Phường Gia Hội là phường nằm phía Đông Bắc Thành phố Huế trên cơ sở sáp nhập 2 phường là Phú Cát và Phú Hiệp từ ngày 01/7/2021 theo Nghị quyết 1264/NQ-UBTVQH. – Phía Bắc giáp phường Phú Hậu. – Phía Nam giáp sông Đông Ba, phường Đông Ba . – Phía Tây giáp sông Đông Ba, phường Thuận Lộc. – Phía Đông giáp sông Hương, phường Vỹ Dạ. Diện tích toàn phường là 1,46 km2 bao gồm 18 tổ dân phố với 5.554 hộ, 25.256 nhân khẩu, đa số nhân dân làm nghề lao động phổ thông, tiểu thủ công nghiệp thợ mộc, thợ nề, cơ khí, chằm nón, may mặc …. còn lại làm nghề buôn bán nhỏ, dịch vụ. Trên địa bàn phường có nhiều công trình di dích văn hóa có bề dày lịch sử như: – Chùa Diệu Đế là 1 trong 4 Quốc Tự của Việt Nam. – Hệ thống Phố cổ Gia Hội. – Thanh Bình Từ Đường là di tích lịch sử cấp Quốc Gia là nhà thờ tổ ngành nghệ thuật hát Tuồng truyền thống còn lại ở cố đô Huế. – Đình và Miếu Thế Lại Thượng là một cụm di tích chứa đựng nhiều giá trị nổi bật về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật và văn hóa xã hội thuộc di tích lịch sử cấp Quốc Gia. – Nhiều Hội quán người Hoa được xây dựng như Hội quán của người Hải Nam, Hội quán Quảng Đông, Hội quán người Hoa… Các hội quán được bảo tồn rất tốt nên vẫn giữ được vẻ đẹp như xưa.
Giới thiệu khái quát phường Gia Hội
255
1. Thông tin về vị trí địa lý: Hương An là một phường cách trung tâm thành phố Huế 10km về phía Tây Băc, cách trung tâm thị xã Hương Trà 8km về phía Đông nam. Có vị trí địa lý như sau: + Phía Đông Bắc giáp phường An Hòa ( thành phố Huế) + Phía Đông giáp phường Hương Long ( thành phố Huế) + Phía Nam giáp phường Hương Hồ ( thị xã Hương Trà) + Phía Tây bắc giáp phường Hương Chữ ( thị xã Hương Trà) + Phía Bắc giáp Phường Hương Chữ ( thị xã Hương Trà); phường An Hòa. Diện tích tự nhiên: 1101,25 ha Đặc điểm địa hình: Địa hình thuộc vùng Bán sơn địa chịu tác động ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu hai mùa rỏ rệt nắng nóng và mưa lụt. Đất đai: Tổng diện tích tự nhiên 1100,25 ha ( trong đó đất nông nghiệp 739,86 ha, phi nông nghiệp 294,47 ha, đất chưa sử dụng 11,92 ha). Đất nông nghiệp: 739,86 ha. Trong đó: + Đất sản xuất nông nghiệp: 431,94 ha + Đất lâm nghiệp: 328,55 ha + Đất nuôi trồng thủy sản: 22,08 ha + Đất nông nghiệp khac 8,98 ha Đất phi nông nghiệp: 294,47 ha. Trong đó: + Đất ở đô thị: 53 ha + Đất chuyên dùng: 121,56 ha + Đất tôn giáo: 1,96 ha + Đất tín ngưỡng: 5,4 ha + Đất nghĩa trang, nghĩa địa: 85,75 ha + Đất sông suối, kênh rạch: 19,44 ha + Đất mặt nước chuyên dùng: 7,35 ha Đất chưa sử dụng: 11,92 ha 2. Dân số, lao động: – Số hộ: 1,680 hộ – Nhân khẩu: 6,574 người. – Lao động trong độ tuổi: 3.456 người 3. Tổ chức bộ máy của địa phương: – Địa điểm trụ sở: Số 57 Cao Văn Khánh, phường Hương An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế . Điện thoại: 0234.3557330, email: + Cơ cấu tổ chức: 01 chủ tịch ( kiêm PBT. Đảng ủy), 01 phó chủ tịch và 02 ủy viên UBND; 19 cán bộ, công chức, chuyên trách và 11 cán bộ không chuyên trách. Các bộ phận công chức chuyên môn: 01 Tài chính – Kế toán, 01 Tư pháp – Hộ tịch, 02 Văn phòng – Thống kê, 02 Địa chính – Xây dựng, 02Văn hóa – Xã hội, 01 Ban CHQS phường. + Các tổ chức đảng, đoàn thể: Đảng ủy phường gồm có 01 Bí thư ( Kiêm CT.HĐND), 02 Phó bí thư (01 phó bí thư thường trực); 01 ủy viên thường vụ; 01 PCT. HĐND. Đoàn thể phường: gồm có UBMTTQVN phường, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh. Ban chấp hành Đảng bộ gồm có 15 người. + Cơ sở vật chất: Trụ sở làm việc UBND phường Hương An: gồm có 14 phòng làm việc và 01 hội trường để hội họp; các phòng làm việc được sắp xếp gọn gàng, sạch đẹp, được trang bị đầy đủ phương tiện làm việc như máy vi tính, máy photo copy, máy Fax đảm bảo cho công tác lưu trữ hồ sơ và in ấn tài liệu. Cảnh quan môi trường của cơ quan thông thoáng, sân vườn, cây xanh, đèn chiếu sáng, nhà xe, tường rào được xây dựng đảm bảo. 4. Tình hình cơ sở hạ tầng: Phường Hương An gồm có 03 trường học: 01 Trường trung học cơ sở Nguyễn Đăng Thịnh 01 Trường Tiểu học Hương An có 2 cơ sở ( cơ sở chính tại TDP Bồn phổ; cơ sở lẽ tại TDP An Vân). 01 trường Mầm Non Hương An có 2 cơ sở (cơ sở chính tại TDP Bồn phổ; cơ sở lẽ tại TDP Thanh Chữ) 01 trạm y tế; 01 Hợp tác xã nông nghiệp; 01 Bưu điện văn hóa; 01 chợ; 07 nhà sinh hoạt cộng đồng của 7 tổ dân phố. Phường Hương An có hệ thống điện đường chiếu sáng dài 5,5km trong đó ( Đường Cao Văn Khánh dài 3,4km; Đường khu quy hoạch Ân Nam 2,1km). Đặc thù của phường Hương An có 01 giáo xứ An Vân; 04 niệp phật đường (Phổ Trì ;Trầm Hương; Cổ Bưu; Bồn Trì).
Giới thiệu khái quát phường Hương An
661
Hương Hồ là một vùng bán sơn địa nằm dọc theo bờ Bắc ven sông Hương , trải dài gần 07 km từ núi Hòn Chén (đồi Ngọc Trản) đến núi Hà Khê (Chùa Linh Mụ).Có tổng diện tích đất tự nhiên là 3.346,95 ha. Được phân bổ theo mục đích sử dụng đất các loại: Đất nông nghiệp 2.712,24 ha; Đất phi nông nghiệp 621,64ha; Đất chưa sử dụng 13,07ha. Hương Hồ có địa hình nghiêng dần từ Tây Nam đến Đông Bắc. Phía Tây Tây Nam của phường là vùng đồi có độ dốc bình quân từ 15 0 đến 25 0 , độ cao tuyệt đối cao nhất là 365m, thấp nhất là 10m so với mặt nước biển. Ở giữa vùng gò đồi chạy theo hướng Tây Bắc là dãi đất thuộc khu vực Hà Rồ, Lim, Mé Tré, Boòng Boong, Vàng Bạc địa hình tương đối bằng phẵng, độ dốc bình quân từ 5 0 ­ đến 7 0 , nghiêng dần và đổ nước ra hồ Khe Ngang. Phía Tây Bắc của phường(vùng gò đồi) chủ yếu là đất xói mòn trơ sỏi đá, tầng đất mỏng, thành phần cơ giới sét nặng. Loại đất này chỉ có thể trồng cây Lâm nghiệp như: Thông, keo, cây bản địa v.v… Đất đai khu vực từ Hà Rồ đến Vàng Bạc thuộc loại đất Feralit phát triển trên đá sét. Phía Đông là dãi đồng bằng nhỏ hẹp chạy dọc theo sông Hương và men theo Tỉnh lộ 12b, địa hình tương đối bằng phẳng, độ chênh cao tuyệt đối nhỏ hơn 10m, độ dốc nhỏ hơn 7 0 là khu dân cư và đồng ruộng tập trung. Dọc ven sông Hương là đất phù sa bồi có tầng đất trung bình và dày thuận lợi cho việc sản xuất rau, màu, cây lúa và cây đặc sản Thanh trà, bưởi (Bưởi đỏ Hương Hồ đặc sản xứ Huế)… phát triển tương đối tốt và cũng thuận tiện cho việc đầu tư, bố trí cơ sở hạ tầng. Trước ngày giải phóng năm 1975, Hương Hồ là một vùng ngoại ô thành phố Huế; Hương Hồ được xác định là Phường nội thị thuộc thành phố Huế theo Nghị quyết số 1264/NQ-UBTVQH14ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về việc điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính cấp huyện và sắp xếp, thành lập các phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngày nay, Hương Hồ đang vươn lên theo hướng đô thị văn minh; Phường nằm cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Tây, có trục đường Tránh phía Tây Thành phố Huế chạy qua là một trong những cửa ngõ phía Tây của Thành phố Huế nên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giao lưu thương mại. Hương Hồ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm là 300 đến 350c, nhiệt độ biến đổi theo mùa. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 02 năm sau, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên mưa nhiều. Lượng mưa trung bình năm 3.000mm. Mưa tập trung vào 03 tháng: 9, 10,11 chiếm tới trên 50% lượng mưa cả năm. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa mưa 20-220c, có khi xuống dưới 150c, ảnh hưởng đến gieo trồng và chăn nuôi. Mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, nhiệt độ bình quân các tháng mùa khô là 35-370c, có khi lên đến 390c đồng thời chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam thổi qua nên gây khô hạn. Ranh giới phía Đông của phường là sông Hương bao bọc địa bàn gần 07km. Lòng sông uốn khúc, lưu lượng nước về mùa mưa lớn nên thường gây ngập lụt vùng hạ lưu và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân Hương Hồ vào mùa mưa lũ. Phía Bắc của phường gồm nhiều nhánh sông nhỏ: Sông Tư Ca, sông Bạch Yến, sông Tiểu Giang, Hói năm Xã. Dòng Sông ngắn, gấp khúc quanh co khả năng thoát lũ chậm vì vậy thường xuyên xảy ra ngập lụt cục bộ. Là một phường nội thị có quy mô diện tích vào loại trung bình của thị xã Hương Trà. Hương Hồ có một nền văn hóa tương đối lâu đời với nhiều truyền thống và phong tục tập quán cần được phát huy để góp phần vào sự phát triển chung của toàn thị xã. Trên địa bàn phường có khu di tích Văn Thánh, có các chùa có cấu trúc văn hóa như: Chùa Khánh Vân, chùa Kim Sơn, chùa Huyền Không và chùa Huyền Không Sơn Thượng; có 02 Niệm phật đường Long Hồ Thượng và Hương Vân; 01 Nhà thờ giáo xứ Ngọc Hồ; là phường nằm gần các khu di tích văn hóa như Chùa Linh Mụ, Điện Hòn Chén, lăng Minh Mạng và các lăng tẩm khác trên địa bàn Thành phố Huế rất thuận lợi cho phát triển du lịch. Tổ chức bộ máy- Đơn vị hành chính: Hương Hồ là phường loại 01 có 20/22 cán bộ, công chức; 10 người hoạt động không chuyên trách; là 1 trong 36 phường, xã thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế tiếp giáp với các đơn vị sau: – Đông giáp phường Hương Long và sông Hương phường Thủy Biều, thành phố Huế. – Tây giáp xã Hương Bình , thị xã Hương Trà . – Nam giáp phường Thủy Biều, thành phố Huế và một phần xã Hương Thọ, thành phố Huế. – Bắc giáp phường Hương An, thành phố Huế và phường Hương Chữ , thị xã Hương Trà. Địa bàn phường Hương Hồ có 09 Tổ dân phố. Dân số: Gồm 2.403 hộ. (Số liệu điều tra năm 2019). – Nhân khẩu: 10.285 người. – Lao động trong độ tuổi : 6.287 người. – Mật độ dân số bình quân: 307người/km2 Địa bàn phường có 2.403 hộ và 10.285 khẩu; Lao động trong độ tuổi 6.287 người, Mật độ dân số bình quân 307 người/km2, được chia thành 09 Tổ dân phố, trong đó: Tổ dân phố An bình; Long hồ hạ 1; Long hồ hạ 2; Nham Biều – Lựu bảo; Xước Dũ; Long hồ thượng 1; Long hồ thượng 2; Ngọc Hồ; Chầm. Hệ thống Giao thông Giao thông đường bộ: Đường cao tốc Cam lộ- La sơn, đường quốc lộ, tỉnh lộ dài 7km. Đường liên phường, liên tổ, liên xóm 40km đã được bê tông hóa 100% Giao thông nội đồng: 19,5km. hiện chưa được bê tông hóa, xe cơ giới đi lại không thuận tiện vào mùa mưa và khi thu hoạch mùa vụ. – Cầu cống: Trên toàn xã có trên 40 cầu cống tạm và 30 cầu cống kiên cố. Hệ thống Giao thông Giao thông đường bộ: Đường cao tốc Cam lộ- La sơn, đường quốc lộ, tỉnh lộ dài 7km. Đường liên phường, liên tổ, liên xóm 40km đã được bê tông hóa 100% Giao thông nội đồng: 19,5km. hiện chưa được bê tông hóa, xe cơ giới đi lại không thuận tiện vào mùa mưa và khi thu hoạch mùa vụ. – Cầu cống: Trên toàn xã có trên 40 cầu cống tạm và 30 cầu cống kiên cố. *Sông ngòi Sông Hương Sông Bạch Yến * Thủy lợi: Trên địa bàn phường gồm có 02 hồ chứa nước và 01 đập dâng (Hồ Khe Ngang, Hồ khe Nước và đập Bàu Thông) và 07 trạm bơm (01 Trạm bơm điện và 6 trạm bơm dầu) Hệ thống kênh mương dài 21,32km trong đó: Mương cấp I là 5,32km; mương cấp II là 7,86km; mương cấp III là 8,13km. (Tổng kênh mương đã kiên cố hóa là 18km). Chất lượng phục vụ sản xuất khá tốt. Ngoài ra còn có Hồ chứa nước Khe Ngang, phục vụ cho 3 phường Hương hồ, Hương An, Hương Chữ * Cơ sở giáo dục-y tế : Trường hoc: Có 4 trường ( từ Mầm Non đến Trung học cơ sở) Y tế: 01 trạm y tê. Thiết chế văn hóa: Có 01 sân vận động phường. 09 nhà sinh hoạt cộng đồng.
Giới thiệu khái quát phường Hương Hồ
1,315
Hương Vinh có diện tích tự nhiên khoảng 7,14km 2 , quy mô dân số 15.671 người, sinh sống ở 08 thôn trên địa bàn. Đảng bộ có 17 chi bộ với 240 đảng viên, trong đó có 8 chi bộ khu dân cư, 05 chi bộ trường học, 01 chi bộ Quân sự, 01 chi bộ Công an, 01 chi bộ HTX Nông nghiệp, 01 chi bộ Y tế. 1. Vị trí địa lý Phường Hương Vinh Bắc thành phố Huế , cách trung tâm thành phố 4km. Nằm trên dải đồng bằng nhỏ hẹp, phía Bắc giáp xã Hương Phong và xã Quảng Thành ( huyện Quảng Điền ); Phía Nam giáp phường Phú Bình, Phường Phú Thuận; Phía Đông giáp phường Phú Thượng (thành phố Huế) ranh giới là sông Hương ; Phía Tây giáp xã Hương Toàn ( thị xã Hương Trà ) và phường Hương Sơ. 2 . Địa hình: – Là phường đồng bằng với địa hình tương đối bằng phẳng, có độ cao tuyệt đối trung bình 1,2m, chia thành hai vùng: vùng cao nằm về phía Nam và phía Đông chạy dọc theo các con sông là nơi tập trung dân cư sinh sống và các công trình kinh tế, văn hoá xã hội của phường; vùng thấp nằm về phía Tây và phía Bắc chủ yếu là đồng ruộng. Nói chung so với địa bàn toàn thành phố Huế, Hương Vinh thuộc vùng thấp trũng, hằng năm lũ, lụt ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển kinh tế và dân sinh. 3. Khí hậu: Phường Hương Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, khí hậu khắc nghiệt, do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên mưa nhiều, đồng thời chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam nên khô và nóng ảnh hưởng rất lớn gieo trồng và chăn nuôi, địa bàn cũng nằm trong vùng chịu tác động của bão trung bình với tần suất 4 trận bão/năm. 4 . Tình hình dân số và lao động: Dân số phường Hương Vinh tính đến tháng 06/2021 là 3.560 hộ, 15.761 khẩu; trong đó số người trong độ tuổi lao động là 9.431 người chiếm 61% dân số toàn phường. Nguồn lao động phường Hương Vinh khá dồi dào, phần lớn là lao động trẻ, có sức khỏe tốt; lực lượng lao động về cơ bản đã qua các lớp đào tạo nghề, trung học chuyên nghiệp, đại học và một số có trình độ cao học là điều kiện thuận lợi cơ bản của địa phương trong công tác phát triển nâng cao nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương 5. Tình hình cơ sở hạ tầng – Giao thông Hệ thống giao thông trên địa bàn phường phát triển đồng bộ; được nhựa hóa, bê tông hóa chất lượng đảm bảo, thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa, tiêu thụ nông sản, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển. – Giáo dục và y tế +Trên địa bàn phường có 05 trường học gồm: 01 trường Mầm non; 03 trường tiểu học: trường Tiểu học số 1 Hương Vinh, trường Tiểu học số 2 Hương Vinh, trường Tiểu học số 3 Hương Vinh và 01 trường Trung học cơ sở Đặng Vinh. + Trạm y tế phường: mới được nâng cấp, sữa chữa nhà 02 tầng với 10 phòng. Trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia từ năm 2008 đến nay vẫn duy trì và giữ vững; công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được thực hiện tốt; các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế được triển khai đồng bộ và đảm bảo yêu cầu. 6. Tổ chức bộ máy: (có sơ đồ cụ thể kèm theo)
Giới thiệu khái quát phường Hương Vinh
624
1. Tổng diện tích: 588,35 ha 2. Dân số: 19.945 người. (Theo cuộc Tổng điều tra nhà ở và dân số năm 2019) 3. Vị trí: + Phía Bắc giáp xã Phú Dương, Thành phố Huế + Phía Nam giáp Phường Vỹ Dạ và phường Thủy Vân (Thành phố Huế). + Phía Tây giáp xã Phú Mậu, Phường Vỹ Dạ, TP Huế + Phía Đông giáp xã Phú Mỹ , huyện Phú Vang 4. Một số đặc điểm nổi bật về kinh tế – văn hóa – xã hội: Phú Thượng là một địa phương có lịch sử hình thành từ thời kỳ phong kiến.Từ khi hình thành cho đến nay, toàn phường có 09 TDP, gồm: TDP Lại Thế 1, TDP Lại Thế 2, TDP Tây Thượng, TDP Nam Thượng, TDP Trung Đông, TDP Ngọc Anh, TDP Chiết Bi, TDP Tây Trì Nhơn và TDP La Ỷ. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân phường Phú Thượng luôn phát huy nội lực cũng như thế mạnh của địa phương để tập trung phát triển kinh tế theo hướng: Dịch vụ – Tiểu thủ Công nghiệp – Nông nghiệp ; trong đó, chú trọng phát triển mạnh các ngành dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp theo hướng bền vững, hiệu quả, phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương. Tốc độ kinh tế hàng năm có bước tăng trưởng khá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực; thương mại – dịch vụ trên địa bàn phường từng bước có sự chuyển biến đáng kể; bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc; văn hóa tinh thần của nhân dân không ngừng nâng cao; môi trường được giữ vững; quốc phòng – an ninh ổn định; trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh. Chú trọng công tác phát triển dịch vụ quy mô vừa và nhỏ, địa phương luôn tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân mở ra các loại hình kinh doanh dịch vụ như: dịch vụ khách sạn 04 cơ sở, nhà nghỉ 38 cơ sở và 106 nhà trọ, có 189 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, ngoài ra còn có các cơ sở kinh doanh dịch vụ y tế, dịch vụ công nghiệp, nông nghiệp là đòn bẩy để thúc đẩy việc hoàn thành một số chỉ tiêu chủ yếu, đồng thời là lĩnh vực mũi nhọn có vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế ở địa phương. Giá trị sản xuất nghành dịch vụ ước đạt 562,305 tỷ đồng, chiếm 64% cơ cấu kinh tế của địa phương. Đồng thời đẩy mạnh phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, ngành nghề nông thôn góp phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, xây dựng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông thôn. Vận động nhân dân có điều kiện đẩy mạnh các loại hình phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng cường giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường để sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao thu nhập, ổn định đời sống của nhân dân. Giá trị sản xuất nghành dịch vụ ước đạt 305,654 tỷ đồng, chiếm 32% cơ cấu kinh tế của địa phương. Trong những năm qua địa phương đã tập trung kinh phí, đầu tư các công trình xây dựng cơ bản trên địa bàn nhằm chỉnh trang nông thôn, xây dựng xã nông thôn mới nâng cao. Hiện nay 04 trường học trên địa bàn được đầu tư đảm bảo cho công tác dạy và học, môi trường xanh, sạch , đẹp (trong đó có trường THCS Phú Thượng và tiểu học Phú Thượng 1 đã đạt chuẩn quốc gia, trường Mầm non Hoa Hồng đang trình thẩm định để công nhận). Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, các nhà văn hóa thôn đều bảo đảm cho sinh hoạt cộng đồng, các tuyến đường giao thông nông thôn trên địa bàn được cứng hóa 100%, trong đó 99,98% đã được đầu tư bê tông, đặc biệt hệ thống thoát nước được đầu tư đồng bộ nhằm từng bước giải quyết vấn đề về môi trường và chỉnh trang nông thôn. Công tác thu gom, vận chuyển rác thải trên địa bàn xã luôn bảo đảm phục vụ tốt cho nhân dân. 5. Tổ chức bộ máy: Số lượng, cơ cấu, chất lượng thành viên UBND phường. Về số lượng, chất lượng, cơ cấu thành viên UBND các cấp xã được thực hiện đúng quỵ định của Trung ương. Số lượng thống kê thành viên UBND: – Về thành viên: 23 thành viên. Trong đó: nữ 8, chiếm 34,8%; – Về độ tuổi: dưới 35: 07, chiếm 30,4%; từ 35 đến 50: 13, chiếm 56,5%; trên 50 tuổi: 02, chiếm 8,7%. – Về trình độ: Sau ĐH: 01, chiếm 4,3%: Đại học 20, chiếm 87%. Trung cấp và cao đẳng 02, chiếm 8,7%; – Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp 01, chiếm 4,3%; trung cấp 15, chiếm 65,2%. Tổ chức các chức danh chuyên môn của UBND cấp xã. Thực hiện Nghị định số 92/2009/ND-CP ngày 22/10/2009, và Nghị định 34/2019/NĐ-CP ngày 24/04/2019 của Chính phủ. Đối với các chức danh cán bộ chuyên trách cấp xã: Đảng uỷ, HĐND và UBND xã đã có sự chỉ đạo, theo dõi sâu sát trong công tác nhân sự của bộ máy chính quyền địa phương. Trước các kỳ bầu cử, công tác chuẩn bị nhân sự các chức danh cán bộ chuyên trách đã được quan tâm thực hiện tốt, rà soát và lựa chọn theo tiêu chuẩn quy định. Việc bầu cử các chức danh cán bộ chuyên trách được thực hiện công khai, dân chủ, đảm bảo theo đúng luật và các điều lệ. Quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện thành công các kỳ bầu cử đại biểu HĐND và tổ chức Đại hội Đảng bộ ở cơ sở đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã. Đối với công chức chuyên môn cấp xã: Đến nay 100% số công chức cấp xã được tuyển dụng có trình độ từ trung cấp trở lên, đúng chuyên ngành chuyên môn theo tiêu chuẩn chức danh và ngạch công chức quy định tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Nghị định 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ và Nghị Quyết 06 của HĐND tỉnh. Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện kịp thời, đúng quy định; tổ chức xét duyệt, điều chỉnh lương và thực hiện giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ nghỉ việc. Tổng số cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã hiện nay là: 23 người, trong đó cán bộ chuyên trách là: 11 người, công chức chuyên môn là: 12 người. Việc bố trí cán bộ chuyên trách, tuyển dụng công chức cấp xã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. 6. Khái quát truyền thống văn hóa, đấu tranh cách mạng của địa phương: Phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, sau khi đất nước thống nhất, nhân dân Phú Thượng tiếp tục đoàn kết, khắc phục khó khăn, từng bước vươn lên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lớp lớp cán bộ, đảng viên trên vùng đất Phú Thượng đã không ngừng trưởng thành, xây dựng tổ chức Đảng ngày càng lớn mạnh, lãnh đạo nhân dân ra sức thi đua lao động, sản xuất, đạt nhiều thành tích cao trong lao động, sản xuất. Trên địa bàn xã hiện nay có 62 gia đình chính sách, 09 bà mẹ VNAH (đã mất), 114 liệt sỹ. 7. Các di tích lịch sử, văn hóa, tôn giáo tiêu biểu: Trên địa bàn xã có 03 Nhà thờ đạo Thiên Chúa (Nam Phổ, An Nhơn, La Ỷ), 09 Chùa (Ba La Mật, Tịnh Nghiêm, Phổ Minh, Nam Phổ, Pháp Hoa, Ngọc Anh, Giác Thế, Long Tuyền, Chiết Bi), 08 đình Làng. Tiêu biểu như:
Giới thiệu khái quát phường Phú Thượng
1,340
I. Đặc điểm tự nhiên: 1. Vị trí địa lý: Thuỷ Vân là một phường đồng bằng thuộc thành phố Huế , Thuỷ Vân nằm ở phía Đông cách trung tâm thành phố 10 km. Ranh giới hành chính của phường được xác định như sau: + Phía Bắc giáp xã Phú Thượng, xã Phú Mỹ , huyện Phú Vang . + Phía Đông giáp xã Thuỷ Thanh , Hương Thuỷ . + Phía Tây giáp phường Vỹ Dạ, thành phố Huế. + Phía Nam giáp phường An Đông và phường Xuân Phú, thành phố Huế. Thuỷ Vân là phường giáp ranh với nhiều phường của thành phố Huế, có hơn 2/3 diện tích đất được quy hoạch xây dựng khu đô thị An Vân Dương, còn lại gần 1/3 diện tích nằm trong quy hoạch khu E, khu dự trữ đô thị của tỉnh, do đó tốc độ đô thị hoá trong những năm tới sẽ rất nhanh, sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn phường. 2. Diện tích tự nhiên: Tổng diện tích tự nhiên: 492,66 ha. Trong đó: – Đất nông nghiệp: 204,24 ha chiếm 41,45 % tổng diện tích đất tự nhiên. – Đất phi nông nghiệp: 267,9 ha chiếm 54,42 % tổng diện tích đất tự nhiên. – Đất chưa sử dụng : 23,52 ha chiếm 4,77 % tổng diện tích đất tự nhiên. 3. Đặc điểm địa hình, khí hậu: – Về địa hình: Thuỷ Vân có địa hình chính là vùng đồng bằng ít bị chia cắt. Độ cao trung bình từ 1 – 1,5m so với mặt nước biển và có độ dốc <5%. Địa hình của phường Thủy Vân mang đặc điểm chung của vùng canh tác lúa nước và hoa màu. Hàng năm thường bị ngập úng về mùa mưa lũ nên có ảnh hưởng về xây dựng hạ tầng và giao thông nông thôn. Cấu trúc địa hình tương đối bằng phẳng, hàng năm phù sa bồi đắp nên thành phần cơ giới đất chủ yếu là đất sét và sét pha thịt phù hợp cho trồng lúa, rau màu và cây thực phẩm. – Về Khí hậu: phường Thủy Vân nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang những đặc điểm như sau: + Chế độ nhiệt độ trung bình năm là 28 – 30oC nhiệt độ biến đổi theo mùa. + Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 02 năm sau; do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên mưa nhiều, nhiệt độ trung bình các tháng mùa mưa từ 20 – 22oC có khi xuống 120C ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. + Mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8 nhiệt độ trung bình các tháng mùa khô 35 – 37oC có khi lên đến 40oC, đồng thời chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam. + Chế độ mưa ẩm mùa mưa kéo dài, lượng mưa trung bình trong năm đạt 2.995 mm; số ngày mưa trong năm lớn trên 150 ngày/năm; độ ẩm bình quân 85%, độ ẩm cao nhất 93%, thấp nhất 70%. + Chế độ thủy văn của phường chịu ảnh hưởng sông Như ý và sông Cùng. Hai nhánh sông này tuy nhỏ nhưng đóng vai trò rất quan trọng cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng xuất cây trồng. II. Tài nguyên: 1. Đất đai: Diện tích tự nhiên, diện tích đất đai các loại (căn cứ vào phân loại đất theo quy định của Bộ Tài nguyên và môi trường để đánh giá). 2. Tài nguyên nước: Tài nguyên nước của xã khá phong phú và đa dạng, chủ yếu được cung cấp từ 3 nguồn chính là nước sông ngòi (Sông Như Ý, Sông Cùng), nước mưa và nước ngầm. nguồn nước được cung cấp dồi dào và ổn định đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất, chất lượng nguồn nước tưới cho nông nghiệp đảm bảo, song việc khai thác vẫn còn chưa hợp lý dẫn đến tình trạng lãng phí và gây ô nhiễm nguồn nước. Vì vậy trong tương lai cần khai thác hợp lý, tiết kiệm hơn. Chú trọng nâng cao chất lượng nước sinh hoạt để đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng của người dân. 3. Nhân lực, lao động: 3.1. Dân số: Phường Thủy Vân có 2.110 hộ, 7.850 khẩu, trong đó có 3.849 nam và 4.001 nữ. Dân cư sinh sống trên địa bàn 4 tổ dân phố được bố trí dọc theo sông Cùng và sông Như Ý dài 7.2 km, thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp. Mật độ dân số 1.596 người/km 2 . Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 1%. 3.2 Lao động: Tổng số lao động trong độ tuổi có 4.272 người, chiếm 53,33% tổng dân số toàn phường. Gồm có 2301 lao động nam chiếm 53,86% , 1971 lao động nữ chiếm 46,13%. III. Cơ sở hạ tầng . Giao thông: Đường liên xã: Tổng số 7,2km đã được nhựa hóa 7,2km đạt 100%, đường trục xã: Tổng số 9.020m đã được bê tông hóa 9.020 đạt 100%. – Đường trục thôn: Tổng số 3,8km, đã được bê tông hóa 3,8km đạt 100%. – Đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa: Tổng số 19,2km, trong đó bê tông hóa 15,2km, đường nhựa 2,3km đạt 91,5%, còn lại1,7km đường cấp phối nhưng đã được cứng hóa 100% đảm bảo đi lại không lầy lội vào mùa mưa. 2.Thủy lợi: Cải tạo, nâng cấp và xây mới các trạm bơm điện; cải tạo, nâng cấp và xây mới hệ thống kênh mương, hệ thống đê bao, cống đóng mở để cấp, thoát nước… 3. Điện: – Hệ thống cấp điện toàn phường đạt yêu cầu kỹ thuật về điện. Tuyến đường Thủy Dương – Thuận An, đường 100m, các tuyến đường liên thôn, ngõ xóm đã có điện chiếu sáng do UBND phường và người dân tự đầu tư, chiều dài tuyến điện đường được chiếu sáng trên 70%. – Tỷ lệ hộ dùng điện 100%, chất lượng điện cung cấp trên địa bàn phường tương đối đảm bảo. Mạng lưới điện trên địa bàn phường do điện lực Nam sông Hương quản lý.
Giới thiệu khái quát phường Thuỷ Vân
999
1. Thông tin về vị trí địa lý Hải Dương là xã biên giới biển của thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế , nằm ở phía Bắc cửa Thuận An là cửa ngõ phía Đông của thành phố Huế, thuộc hệ thống phá Tam Giang, có bờ biển và bờ phá Tam Giang dài 7km; cách trung tâm thành phố khoảng 25 km. – Phía Đông giáp với Biển Đông. – Phía Nam giáp với cửa biển Thuận An và phường Thuận An . – Phía Tây giáp với phá Tam Giang và xã Hương Phong. – Phía Bắc giáp với xã Quảng Công , huyện Quảng Điền . 2. Điều kiện tự nhiên và khí hậu Tổng diện tích đất tự nhiên của xã Hải Dương là 1.029,9 ha, trong đó đất Nông nghiệp 181,01 ha, đất Lâm nghiệp 189,80 ha, đất chuyên dùng 78,71 ha, đất ở chiếm 23,78 ha và 553,80 ha còn lại là đất chưa sử dụng. Cạnh bờ biển có động cát, rừng phòng hộ chạy song song và có hồ nước ngọt tự nhiên với diện tích 02 ha là điều kiện tốt để phát triển du lịch và dịch vụ tắm biển và chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa. 3. Dân số, lao động Toàn xã có 1.560 hộ, 6.269 khẩu, số người ở độ tuổi lao động: 2.852 người; được phân bố trên phạm vi 6 thôn; người dân chủ yếu sản xuất bằng nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và trồng trọt và ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng gần 50% trong tổng thu nhập từ sản xuất của toàn xã.Có thương hiệu sản phẩm mắm và nước mắm Làng Dừa và sản phẩm mắm Hương Giang chương trình OCOP (mỗi xã một sản phẩm) được công nhận đạt chất lượng 3 sao. 4. Cơ sở hạ tầng Kết cấu cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng như hệ thống lưới điện, Bưu chính viễn thông, Cầu Tam Giang, Đê kè biển, các Khu tái định cư, hệ thống nước sạch, hạ tầng phát triển kinh tế, đường giao thông nông thôn được bê tông hóa trên 98% đã tạo động lực kích cầu phát triển tế – xã hội ở địa phương; cơ sở vật chất của Trường học, Trạm y tế, các thiết chế văn hóa vật thể được xây dựng hoàn thiện đáp ứng được nhu cầu dạy và học, khám chữa bệnh và hoạt động văn hóa TDTT của nhân dân, Xã đạt chuẩn quốc gia về y tế và xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tổng số nhà: 1449 nhà; Trong đó nhà kiên cố 650 nhà, Nhà bán kiên cố: 795 nhà và Nhà đơn sơ: 04 nhà. 5. Công tác tổ chức cán bộ: Đảng bộ xã Hải Dương hiện có 112 đảng viên, sinh hoạt tại 12 Chi bộ; trong đó có 06 Chi bộ dân cư, 03 Chi bộ trường học, 01 Chi bộ Quân sự, 01 Chi bộ Công an, 01 Chi bộ y tế. Đội ngũ cán bộ công chức hiện có 21/23 đồng chí; trong đó cán bộ chuyên trách 11 đ/c, cán bộ công chức 10/11 đ/c.Công tác hoạt động điều hành của Chính quyền, Mặt trận các đoàn thể ngày càng có hiệu quả, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ theo đúng quy định.
Giới thiệu khái quát xã Hải Dương
542
Theo nội dung Nghị quyết 1264 ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về việc điều chỉnh địa giới hành chính các đơn vị hành chính cấp huyện và sắp xếp, thành lập các phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế . có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2021. a . Vị trí địa lý : Xã Hương Phong là xã vùng đầm phá, cách trung tâm thành phố 10 km về phía Đông Bắc, có điều kiện tiểu vùng sinh thái đặc trưng vùng duyên hải Bắc Trung bộ. Ranh giới hành chính của xã được xác định như sau: + Phía Bắc giáp xã Hải Dương , Thành phố Huế; + Phía Nam giáp xã Phú Mậu và xã Phú Thanh, Thành phố Huế; + Phía Đông giáp Phường Thuận An , Thành phố Huế; + Phía Tây giáp xã Quảng Thành , huyện Quảng Điền và Phường Hương Vinh , Thành phố Huế. b. Diện tích tự nhiên : Xã có diện tích tự nhiên là 1.570 ha. Được chia thành 6 thôn: Thôn Thanh Phước, Thuận Hòa, Vân Quật Đông, An Lai, Vân Quật Thượng và Tiền Thành. c. Đặc điểm địa hình, khí hậu : * Địa hình: Xã Hương Phong nằm trong địa hình đồng bằng ven biển, khá bằng phẳng, địa hình thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và xây dựng. Hướng dốc chính từ Tây Nam lên Đông Bắc, về phía sông Hương và phá Tam Giang, độ dốc địa hình <1%. Cao độ địa hình phổ biến (0,8¸1,5)m so với mực nước biển. Có những vùng gò cao (1,8¸2.5)m, thường là vùng nghĩa trang, nghĩa địa bao quanh các các điểm dân cư trong vùng. Do địa hình thấp, trũng nên xã Hương Phong thường xuyên bị úng ngập, lụt lội, bị chia cắt và cô lập vào mùa mưa bão. * Khí hậu: Hương Phong nằm ở vị trí tiếp giáp giữa hai vùng khí hậu Nam và Bắc, nên chịu ảnh hưởng khí hậu hai miền. Nhiệt độ trung bình hàng năm của xã giống như của chung toàn Thị xã là 25,3ºC. – Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm là 25,3ºC; tương đương với tổng nhiệt hàng năm khoảng 9.150ºC, số giờ nắng hàng nắng trung bình 5-6 giờ/ngày. Biên độ nhiệt giữ các tháng trong năm chênh lệch từ 7ºC đến 9ºC. Nhiệt độ cao nhất vào các tháng 5,6,7,8; nhiệt độ cao tuyệt đối năm: 40,1ºC; nhiệt độ thấp nhất vào tháng 12;1;2; nhiệt độ thấp tuyệt đối năm: 10,2ºC. Với nền nhiệt độ này, Hương Phong thường bị khô hạn từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm. – Mưa: Do địa hình đồng bằng ven biển nên có lượng mưa thấp, số ngày mưa ngắn hơn so với vùng miền núi của tỉnh. Lượng mưa trung bình năm khoảng 2500mm. Mùa mưa bắt đầu vào tháng 9, kết thúc vào tháng 2 năm sau. Tháng 11 là thời gian mưa nhiều nhất, chiếm 30% lượng mưa cả năm. Do lượng mưa tập trung kết hợp triều cường khi có bão nên gây ngập úng tại Hương Phong. d. Tình hình dân số và lao động: Dân số toàn xã năm 2019 là 2.783 hộ với 11.728 nhân khẩu, lao động trong độ tuổi: 7.460 người. Nguồn lao động xã Hương Phong khá dồi dào, phần lớn là lao động trẻ, lao động phổ thông, có sức khỏe tốt, lực lượng lao động của địa phương về cơ bản đã qua các lớp đào tạo phổ cập trung học và nghề. Vì địa phương tiếp giáp với nhiều phường, xã, đồng thời có các ngành nghề truyền thống nên ngành dịch vụ thương mại và tiểu thủ công nghiệp phát triển, nhu cầu lao động trong nông nghiệp giảm dần, số lao động trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu là số lao động quá tuổi học nghề. Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản của địa phương trong công tác phát triển nâng cao nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. đ.Tình hình cơ sở hạ tầng Hiện nay trên địa bàn xã có 01 chợ chính: Chợ Hương Phong, nằm ở thôn Vân Quật Đông, với diện tích: 5.851,5 m2; với 227 gian hàng, trong đó có 50 gian hàng cố định và 177 gian hàng không cố định; diện tích đình chợ 204 m2, được bố trí khoản 20 lô, mỗi lô 9m2 và hai chợ tạm là Chợ Thuận Hoà với diện tích: 785 m2 với 67 lô, diện tích 01 lô 4m2, Chợ Thanh Phước với diện tích 1.026 m2. e. Về tổ chức bộ máy. Hiện cán bộ công chức trên địa bàn xã có: 21 Cán bộ, công chức. Trong đó:
Giới thiệu khái quát xã Hương Phong
774
1. Đặc điểm tự nhiên: 1.1. Vị trí địa lý Xã Hương Thọ nằm ở phía Nam Thị xã Hương Trà. Ranh giới hành chính được xác định như sau: – Phía Đông giáp xã Thuỷ Bằng , Thị xã Hương Thuỷ – Phía Tây giáp xã Bình Thành và xã Hương Bình , Thị xã Hương Trà – Phía Nam giáp xã Dương Hoà , Thị xã Hương Thuỷ – Phía Bắc giáp Phường Hương Hồ , Thị xã Hương Trà 1.2.Diện tích tự nhiên Diện tích tự nhiên: 4.690,55 ha, chiếm …. % diện tích tự nhiên của TP. 1.3. Các đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn * Về địa hình : địa hình gồm vùng gò đồi và núi thấp: – Vùng gò đồi nằm phía bắc của xã phân bố chủ yếu dọc sông hữu trạch, độ dốc bình quân 20o , độ cao bình quân từ 100 – 150m. phần lớn diện tích này đã được đưa vào sản xuất nông, lâm nghiệp. – Vùng núi thấp phía nam và phía tây của xã có dộ dốc bình quân 25o , độ cao trung bình 300 – 350m. Địa hình bị phân chia rõ rệt bởi hai nhánh của sông Hương. *Khí hậu : Hương Thọ chịu ảnh hưởng chung của thời tiết khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt. – Mùa mưa: từ tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa trung bình 2500mm. tháng 10 và tháng 11 thường bị ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và bão. Lượng mưa của hai tháng này thường bằng 60 -70% lượng mưa cả năm. Đây là thời gian thường hay xảy ra lũ lụt và bão. – Mùa nắng: từ tháng 1 đến tháng 8, thời gian khô hạn kéo dài, thiếu nước gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân. Độ ẩm trung bình: 85% Nhiệt độ trung bình: 25o C *Thổ nhưỡng: Qua khảo sát trên địa bàn xã diện tích đất đá sét và biến chất có độ dày tầng đất 50 – 100 cm chiếm trên 65% diện tích, diện tích đất còn lại là đất đồi núi, đất phù sa có độ dày tầng đất >100cm, độ dốc nhỏ thích hợp cho trồng cây công nghiệp và lập trang trại. Điều kiện khí hậu thời tiết khá thuận lợi cho ngành nuôi trồng , nhiệt độ cao đều, bức xạ dồi dào nên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. 2. Đặc điểm dân sinh , kinh tế -xã hội và cơ sở hạ tầng Xã Hương Thọ có đường quốc lộ 1A đi qua địa bàn xã với chiều dài là 4,7km, rộng 10m và đường Quốc lộ 49A dài 5,3km rộng 6m, mặt đường trải nhựa. Đây là những tuyến đường giao thông quan trọng nhất cho phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của xã. Ngoài ra, xã còn có 13,2km đường liên xã. Đã có nhiều đầu tư vào các tuyến đường giao thông, hiện tại tổng số tuyến đường giao thông của xã tổng chiều dài: 91.6/94,58km. Trong đó: + Đường trục xã, liên xã đã được nhựa hóa, bêtông hóa: 23,2/23,2 km; + Đường trục thôn, liên thôn được nhựa hóa, cứng hóa: 9/11,98 km. + Đường giao thông nội đồng đi lại thuận lợi : 12/12km, + Đường ngõ, xóm không lầy lội vào mùa mưa: 47,4/47,4 km
Giới thiệu khái quát xã Hương Thọ
537
a . Vị trí địa lý : Phường Thuận An là phường ven biển và đầm phá, cách trung tâm thành phố 12 km về phía Đông. Thuận An có Cảng và cảng cá Thuận An, nên lưu lượng tàu thuyền ra vào cửa lạch hàng ngày khá đông, là điểm du lịch nghỉ mát tắm biển lý tưởng, cho mọi du khách trong và ngoài nước, là trung tâm trao đổi mua bán hàng hóa các xã vùng biển, đầm phá và ven thành phố Huế. Ranh giới hành chính của xã được xác định như sau: + Phía Bắc giáp xã Hải Dương, Thành phố Huế; + Phía Nam giáp xã Phú Thuận , xã Phú An, huyện Phú Vang ; + Phía Đông giáp Biển Đông; + Phía Tây giáp xã Hương Phong, Phú Thanh, Phú Dương, Thành phố Huế . b. Diện tích tự nhiên : Có diện tích tự nhiên là 1628,52 ha. Được chia thành 12 Tổ dân phố gồm: Hải Thành, Minh Hải, An Hải, Hải Bình, Hải Tiến, Tân Cảng, Tân Lập, Tân Bình, Tân Mỹ, Tân An, Tân Dương và Diên Trường c. Đặc điểm địa hình, khí hậu : * Địa hình: Phường Thuận An nằm trong địa hình đồng bằng ven biển và đầm phá, khá bằng phẳng, địa hình thuận lợi cho khai thác đánh bắt, NTTS, sản xuất nông nghiệp và xây dựng. Do địa hình một số Tổ dân phố thấp, trũng nên thường xuyên bị úng ngập, lụt lội, bị chia cắt vào mùa mưa bão. * Khí hậu: Thuận An nằm ở vị trí tiếp giáp giữa hai vùng khí hậu Nam và Bắc, nên chịu ảnh hưởng khí hậu hai miền. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Phường giống như của chung toàn thành phố. – Mưa: Do địa hình đồng bằng ven biển nên có lượng mưa thấp, số ngày mưa ngắn hơn so với vùng miền núi của tỉnh. Lượng mưa trung bình năm khoảng 250mm. Mùa mưa bắt đầu vào tháng 9, kết thúc vào tháng 2 năm sau. Tháng 11 là thời gian mưa nhiều nhất, chiếm 30% lượng mưa cả năm. Do lượng mưa tập trung kết hợp triều cường khi có bão nên gây ngập úng tại Thuận An. d. Tình hình dân số và lao động: Dân số toàn Phường năm 2020 là 5.054 hộ với 21.005 nhân khẩu, lao động trong độ tuổi: 8.109 người. đ.Tình hình cơ sở hạ tầng Hiện nay trên địa bàn Phường có 10 Trường học: 02 Trường THCS, 03 Trường Tiểu học, 02 Trường Mầm non, 01 Trường THPT và 02 cơ sở Mầm non tư thục. Phường Thuận An có 02 chợ chính Thuận An và Phú Tân. Có Trung tâm Văn hóa thể thao
Giới thiệu khái quát phường Thuận An
437
1. Vị trí địa lý: Xã Phú Dương nằm cách trung tâm thành phố Huế 6 km về phía đông và có vị trí điạ lý như sau: + Phía Bắc: Giáp với xã Phú Thanh- TP Huế + Phía Nam: Giáp với xã Phú Mỹ – huyện Phú Vang và phường Phú Thượng – TP Huế. + Phía Đông: Giáp với phường Thuận An – TP Huế và xã Phú An- huyện Phú Vang + Phía Tây: Giáp với xã Phú Mậu – thành phố Huế – tỉnh Thừa Thiên Huế- TP Huế. 2. Tình hình dân số và lao động: Toàn xã có 2.954 hộ và 12.878 khẩu. Người trong độ tuổi lao động chiếm 58%; Nhân dân trong xã chủ yếu hoạt động các nghề như buôn bán nhỏ, ngành nghề- tiểu thủ công nghiệp và Nông nghiệp (làm ruộng và chăn nuôi). 3. Địa hình: Xã Phú Dương có địa hình thấp trũng; Vì vậy, về mùa mưa, nước chảy trên thượng nguồn đổ về dễ gây ngập lụt cho khu vực hạ lưu. Hằng năm lũ lụt diện tích trồng hoa, rau màu đều bị ngập úng. Khu dân cư tập trung đa số tại các vị trí cao phần nào hạn chế do lũ lụt gây ra. 4. Khí hậu: Phú Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm của vùng ven biển, có hai mùa mưa, nắng rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 8 năm trước đến tháng giêng năm sau, lượng mưa hàng năm khá lớn, trung bình khoảng 3.000mm. Mưa phân bố không đều trong năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 9,10,11 và 12 chiếm 75-80% lượng mưa cả năm, gây úng lụt ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, cũng như đời sống của nhân dân. 5. Tình hình cơ sở hạ tầng: Xã Phú Dương có trục giao thông quan trọng như Quốc lộ 49A, Tỉnh lộ 2. Có Chợ Nọ là trung tâm mua bán của các xã lân cận. Có đầy đủ các trường học từ Mầm non đến Trung học phổ thông. Nhà ở kiên cố và bán kiên cố chiếm 99,32%, nhà thiếu kiên cố và đơn sơ chiếm 0,68%. 6. Tiềm năng, thế mạnh: Trên địa bàn xã Phú Dương có một số điểm là nơi tham quan du lịch của khách trong và ngoài nước. Đặc biệt có nhà lưu niệm Bác Hồ và đình làng Dương Nổ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia và Am Bà được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh. Ngoài ra, Phú Dương còn có khu nghỉ dưỡng Kawara My An Onsen Resort đạt tiêu chuẩn quốc tế tọa lạc tại thôn Mỹ An, xã Phú Dương, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế.
Giới thiệu khái quát xã Phú Dương
448
1. Vị trí địa lý Xã Phú Mậu là xã đồng bằng năm ở hạ lưu sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 8 km và nằm về phía Nam thành phố Huế, có đường tỉnh lộ 02 và tuyến đường WB2 đi qua, địa bàn có vị trí địa lý như sau: – Phía Đông giáp xã Phú Dương và phường Phú Thượng – Phía Tây giáp xã Hương Phong và phường Hương Vinh với ranh giới là sông Hương – Phía Nam giáp phường Phú Hậu với ranh giới là sông Hương – Phía Bắc giáp xã Phú Thanh 2. Đặc điểm địa hình, khí hậu Xã Phú Mậu là vùng đồng bằng thấp trũng , địa hình tương đối bằng phẳng nên khi đến mùa mưa bão hay gặp tình trạng xói lở, xâm thực, lũ lụt gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và công việc của nhân dân. Xã Phú Mậu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, có hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 năm trước kéo dài đến tháng 3 năm sau. Đồng thời chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió Tây Nam. Gió mùa đông bắc gây mưa và lũ lụt trong khi gió Tây nam gây nắng nóng, khô hạn. 3. Đặc điểm dân sinh: Xã Phú Mậu có diện tích 7,17 km 2 , toàn xã có 2.518 hộ với tổng số dân 12.464 (năm 2020) phân bố ở 6 thôn: Mậu Tài, Vọng Trì, Tiên Nộn, Thanh Vinh, Lại Ân, Lại Tân. 4. Đặc điểm kinh tế – xã hội: – Cơ cấu kinh tế của xã “Dịch vụ – Ngành nghề, TTCN và nông nghiệp” Dịch vụ, thương mại: Có chợ Phú Mậu được phân loại 3, có 02 điểm mua bán là tại thôn Tiên Nộn và thôn Lại Ân, và nhiều quán kinh doanh nhỏ lẻ dọc đường tỉnh lộ 02 và đường WB2. Dịch vụ vận tải, vật tư nông nghiệp phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy việc giao lưu trao đổi, mua bán hàng hóa trên địa bàn, dịch vụ du lịch, các lễ hội, vật truyền thống làng sình, du lịch nhà rường … tiếp tục phát triển. Về sản xuất nông nghiệp, nông thôn: Chủ yếu trồng lúa, và rau hoa màu. Năng suất hàng năm đều đạt khá cao. Có 02 HTX DV NN chuyên cung ứng các giống cây trồng, dịch vụ vật tư nông nghiệp,… 5. Đặc điềm cơ sở hạ tầng: Địa bàn xã có 01 trạm y tế, 04 trường học trong đó 01 trường THCS, 01 trường tiểu học, 02 trường mầm non; 02 HTX DV NN; 01 điểm bưu điện điện văn hóa, 01 trung tâm học tập cộng đồng, 01 nhà văn hóa xã và 06 nhà văn hóa thôn. Hệ thống truyền thanh đảm bảo. Nước sạch, vệ sinh và môi trường: 100% hộ sử dụng nước máy và các thôn có các nhân viên hợp đồng thu gom rác thải.
Giới thiệu khái quát xã Phú Mậu
488
– Tổng diện tích: 22,99 km2. – Dân số: 2292 hộ với 8190 nhân khẩu. – Loại đơn vị hành chính: Loại II – Vị trí địa lý: + Phía Đông giáp với phường An Tây (thành phố Huế) và phường Thủy Dương, phường Thủy Phương ( thị xã Hương Thủy ); + Phía Tây giáp với xã Hương Hồ và xã Hương Thọ (thành phố Huế); + Phía Nam giáp với xã Phú Sơn và xã Dương Hòa (thị xã Hương Thủy); + Phía Bắc giáp với phường Thủy Xuân, phường Thủy Biều – thành phố Huế. – Địa chỉ cơ quan: Thôn Bằng Lãng, xã Thủy Bằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế . – Điện thoại cơ quan: 0234. 3855099 – Email:
Giới thiệu khái quát xã Thủy Bằng
102
A. Đặc điểm tình hình: Phú Thanh là một xã thuộc vùng hạ lưu sông Hương , có địa hình thấp trũng, chịu ảnh hưởng tác động nhiều của biến đổi khí hậu, là địa bàn hàng năm thường chịu thiên tai, bão lụt, đe dọa đến tài sản và tính mạng của người dân, kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Đời sống người dân chủ yếu là độc canh cây lúa, có 95% dân số sống bằng nghề làm ruộng, địa bàn xã có 4 thôn, thành phần dân cư chủ yếu là lao động nông nghiệp và lao động phổ thông. Cơ cấu dịch vụ -tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm, đời sống kinh tế của nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn.Tỷ lệ hộ nghèo còn cao chiếm 6,68%, hộ cận nghèo 8,24%. Phú Thanh được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn Nông Thôn Mới năm 2020. Tổng diện tích: đất tự nhiên 766,56 ha trong đó: – Đất nông nghiệp: 444,53 ha, chiếm 57,99% diện tích tự nhiên. – Đất phi nông nghiệp: 314,23 ha, chiếm 40,99% diện tích tự nhiên. – Đất chưa sử dụng: 7,8 ha; chiếm 1,01%diện tích tự nhiên. Dân số:Toàn xã có 04 thôn với 1.072 hộ,5462 nhân khẩu, 2.015 lao động, trong đó: Thôn Lại Lộc: có 230 hộ, 1.110 khẩu. thôn Hoà An: có 186 hộ, 947 khẩu. thôn Quy lai: có 442 hộ, 2.225 khẩu.thôn Hải Thanh: có 214 hộ, 1160 khẩu. I. Tình hình tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống chính trị: Đảng bộ xã Phú Thanh có 10 chi bộ trực thuộc (103 đảng viên), gồm 4 chi bộ thôn (Lại Lộc, Hòa An, Quy Lai, Hải Thanh), 3 chi bộ trường học (THCS, Tiểu Học, Mầm Non), 1 chi bộ Y tế, 1 chi bộ Công An, 1 chi bộ Quân sự. Thời gian qua hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương đạt kết quả, đã góp phần quan trọng vào ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội tiếp tục được củng cố, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, bám sát địa bàn khu dân cư; Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nông thôn mới. Tích cực phối hợp với các tổ chức, cá nhân thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tặng quà cho người nghèo, neo đơn, giữ gìn an ninh trật tự và phong trào ngày Chủ nhật xanh… hàng năm đếu được cấp trên đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ. *Hoạt động của chính quyền : Về số lượng, chất lượng, cơ cấu thành viên UBND xã được thực hiện đúng quy định. Số lượng thống kê thành viên UBND xã nhiệm kỳ 2021-2026: + Về thành viên: 20 thành viên. Trong đó: nữ 6, chiếm 30%; + Về độ tuổi: dưới 35 là: 06 người, chiếm 30%; từ 35 đến 50 là: 11 người, chiếm 55%; trên 50 tuổi là: 03, chiếm 15%. + Về trình độ: Trung học phổ thông 01, chiếm 5%; Đại học 17, chiếm 85%. Trung cấp và cao đẳng 02, chiếm 10%; + Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp 02, chiếm 0,09%; trung cấp 10, chiếm 47,6%. Việc bố trí cán bộ, công chức được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. * Thuận lợi: Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Đảng bộ và nhân dân xã Phú Thanh đã tập trung đoàn kết, thống nhất cao trong việc phát triển kinh tế – xã hội, Quốc phòng an ninh, tăng cường sự chỉ đạo của các cấp, các ngành cơ chế chính sách của xã luôn được đổi mới, bổ sung kịp thời và phù hợp đã tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài địa phương, tạo thêm động lực mới cho sự phát triển trên địa bàn xã. * Khó khăn: Trong đầu nhiệm kỳ tình hình trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, tình hình thiên tai dịch bệnh, đặc biệt là Đại dịch Covid 19, thiên tai, lụt bão xảy ra liên tục đã làm ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế xã hội, cũng như ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của xã và đời sống của nhân dân trên địa bàn xã. II. Tổng quan tình hình kinh tế-xã hội: hực hiện Nghị quyết của Đảng ủy, nghị quyết của HĐND xã về phát triển kinh tế xã hội đầu năm2021. UBND xã đã tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội; QPAN tại địa phương; 2.1 Về phát triển kinh tế: a) Các ngành dịch vụ : Công tác phát triển dịch vụ tại địa phương chủ yếu các dịch vụ buôn bán nhỏ lẽ, tại địa bàn có 01 chợ Quy Lai, có 2 HTX nông nghiệp, các ngành dịch vụ chủ yếu phục vụ nông nghiệp là chính, b) Sản xuất tiểu thủ công nghiệp: Đẩy mạnh và phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn mang tính tự phát, chưa có hướng đầu tư phát triển, chủ yếu việc đầu tư tiểu thủ công nghiệp theo hướng nông nghiệp hóa trong nông nghiệp nông thôn; c) S ả n xuất nông nghiệp, chăn nuôi : Sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã được duy trì phát triển ổn định, diện tích đất trồng lúa 359 ha,chiếm 46% tổng diện tích đất tự nhiên, năng suất đạt bình quân từ 62-65 tạ/ha, vụ Đông xuân năm 2021 đạt 69tạ/ha, sản lượng hàng năm đạt từ 4250-4500 tấn, địa phương có 2 HTX nông nghiệp, các ngành dịch vụ chủ yếu phục vụ nông nghiệp là chính. Chăn nuôi chủ yếu gia cầm như vịt đàn, chăn nuôi bò.vv.. Thủy sản diện tích 8 ha nuôi tôm, cá xen ghép, một số hộ nuôi lồng bè trên Sông Hương.(cá Diêu Hồng). d) Xây dựng Nông thôn mới: Thực hiện Chương hình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. tháng 12 năm 2020 xã Phú Thanh được UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. * Hạ tầng đô thị: – Giao thông đường bộ liên xã Phú Thanh dài 5,5km điểm đầu nối xã Phú Mậu, điểm cuối thông với TT. Thuận An (đoạn qua Hương Phong) và QL49 thông qua đập Thảo Long dài 1,5 km, giao nhau với Tỉnh lộ 2. Hiện tại đường đã nhựa hóa, đạt cấp 4 đồng bằng, nền đường rộng 9m, mặt đường rộng 7m. Giao thông trong địa bàn xã: + Đường liên thôn: Tổng chiều dài 6,8km, nền đường 4-5m. Đã Bêtông hóa 100%, bề rộng mặt đường 3m, bề dày mặt đường 0,15 m, lề đường đấp đất mỗi bên 0,5 – 1m. + Đường thôn xóm: Tổng chiều dài 14km, nền đường 4m. Đã Bêtông hoá được 13,2km đạt 95%, bề rộng mặt đường 2,5-3m, bề dày mặt đường 0,15m lề đường đấp đất mỗi bên 0,5m. + Đường trục chính nội đồng: Tổng chiều dài 19,8 km, nền đường rộng 5-6m. Hiện đã được bêtông hoá 17,2km, đạt 86,8% mặt đường rộng 2,5-3m, mặt cắt 2,0m, bề dày mặt đường 0,15m, lề đường đấp đất 1-2m. Ngoài ra các trục đường giao thông khác đều được đổ đất cấp phối, sà bần đảm bảo giao thông đi lại trong mùa mưa, tỉ lệ cứng hóa và xe cơ giới đi lại thuận tiện đạt 90%. – Thủy lợi: + Từ năm 2011-2019 đã đầu tư 04 trạm bơm phục vụ cho tưới tiêu cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất của người dân. + Hệ thống kênh tưới tiêu nội đồng: Tổng chiều dài 17km; Hiện đã cứng hóa 14,77 km đạt 86%. + Hệ thống đê bao canh tác có tổng chiều dài: 12,16 km, bao gồm đê Quy lai Tân mỹ, đê Dương Thanh Mậu và đê Đầm nậy đã được nâng cấp, lát đoanh đảm bảo chức năng ngăn triều cường, chống lũ tiểu mãn, lũ sớm. – Điện: Hệ thống cấp điện toàn xã đạt yêu cầu kỹ thuật về điện. Tuyến đường Tỉnh lộ 2, Các tuyến đường liên thôn, ngõ xóm đã có điện chiếu sáng do UBND xã và người dân tự đầu tư, chiều dài tuyến điện đường được chiếu sáng 12km. Tỷ lệ hộ dùng điện 100%, chất lượng điện cung cấp trên địa bàn xã tương đối đảm bảo. Mạng lưới điện trên địa bàn xã do điện lực Phú Vang quản lý. * Công tác quản lý trật tự đô thị: – Hiện tại UBND xã chưa có đội quản lý trật tự đô thị, trật tự xây dựng. – Công tác vệ sinh môi trường: UBND xã phối hợp cùng Công ty Hằng Trung tổ chức thu gom rác thải trên địa bàn xã, tầng xuất thu gom 2 lần/tuần. Kinh phí thu gom do người dân tự đóng 20.000 đồng/tháng và kinh phí hổ trợ của UBND huyện. đ. Công tác thu ngân sách tại địa phương: Nguồn thu ngân sách ở địa phương hàng năm bình quân 1 tỷ đồng, chủ yếu tập trung vào nguồn thu hoa lợi công sản (cho thuê đất nông nghiệp 5% UBND xã quản lý) ngoài ra địa phương có nguồn thu cho thuê bãi tập kết cát, sỏi trên địa bàn. Nguồn thu cố định 6 tháng đầu năm 2021 cơ bản đạt gần 50% kế hoạch của HĐND xã đề ra, phần thu thuế thu nhập cá nhân đạt được 25% kế hoạch; nguồn thu thấp chưa đạt so với kế hoạch đề ra. 2.2 V ề văn hoá – xã hội: a. Về giáo dục đào tạo: Địa phương có 1điểm trường THCS; Tiểu học có 2 cơ sở; Mầm Non; 03 cơ sở; về cơ sở hạ tầng được tầng hóa của 3 trường học; cả 3 trường đạt chuẩn Quốc gia cấp độ 1. Sự nghiệp giáo dục – đào tạo xã nhà tiếp tục phát triển khá toàn diện. Chất lượng giáo dục – đào tạo được nâng lên; cơ sở – vật chất và đội ngũ được tăng cường; ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong các hoạt động giảng dạy; tích cực triển khai thực hiện các cuộc vận động của ngành giáo dục phát động. tỷ lệ trẻ em và học sinh huy động đến lớp đạt 100%, xét hoàn thành chương trình tiểu học, THCS hàng năm đạt 100%. b. Sự nghiệp y tế, dân số – KHH gia đình: – Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được thường xuyên, Thực hiện tốt các chương trình Quốc gia như: tiêm chủng mở rộng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, KHHGĐ, vệ sinh an toàn thực phẩm. Công tác truyền thông và các hoạt động nâng cao chất lượng dân số được chú trọng. Cơ sở vật chất được đầu tư, chất lượng khám chữa bệnh và các dịch vụ y tế được cải thiện. Đến nay, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi đạt 9,6%. c. Hoạt động văn hóa: – Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” tiếp tục được đẩy mạnh nâng cao chất lượng, tạo chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội, góp phần làm chuyển biến tích cực đời sống văn hóa. d. Công tác an sinh xã hội, lao động việc làm và đền ơn đáp nghĩa: – Công tác giảm nghèo được triển khai thường xuyên và đạt kết quả đáng kể; thực hiện tốt lồng ghép chương trình giảm nghèo với chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, huy động được nhiều nguồn lực trong nhân dân tham gia. Tỷ lệ hộ nghèo toàn xã chiếm 6,68%, hộ cận nghèo 8,24%. Công tác vay vốn được quan tâm, tạo điều kiện vay vốn với lãi suất ưu đãi để phát triển kinh tế. đ. Công tác quốc phòng, an ninh: Công tác Quốc phòng an ninh luôn được quan tâm tình hình ANCT-TTATXH ổn định và giữ vững, hiện nay công an xã có 5 thành viên công an chính quy về làm nhiệm vụ, về tình hình làm CCCD trên địa bàn xã; 3000/3993 người. đạt 75%; III. Công tác phòng chống bão lụt, cứu hộ cứu nạn: Xác định Phú Thanh là địa bàn thấp trũng, nằm hạ lưu Sông Hương, hằng năm chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai lụt bão; từ đầu năm UBND xã đã xây dựng kế hoạch và triển khai phương án phòng chống lụt bão – TKCN, bằng các giải pháp để chủ động đối phó với tình hình thiên tai lụt bão xảy ra. Cũng cố và kiện toàn Ban Chỉ huy PCLB và TKCN xã, xây dựng phương án phòng, chống, lụt bão theo phương châm “4 tại chổ”. Phân công các thành viên Ban Chỉ huy PCLB và TKCN xã phụ trách trên địa bàn 4 thôn về trực tiếp các thôn chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai phương án phòng, chống lụt bão của các thôn. Xây dựng phương án di dời, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân đối với địa bàn thấp trũng như Hải Thanh khu định cư Quy Lai và một số hộ dân ở ven sông, chuẩn bị các phương tiện, trang thiết bị cứu hộ, cứu nạn trên địa bàn 4 thôn. .Các cơ quan trường học, trạm Y tế, hai đơn vị HTXNN, 4 thôn trên địa bàn xã đã chỉ đạo xây dựng phương án PCBL- TKCN của từng đơn vị, từng thôn với phương châm phòng là chính,; bám sát theo tình hình thực tế của từng đơn vị, từng thôn để xây dựng kế hoạch. Chuẩn bị đầy đủ phương tiện, lực lượng cơ động, vị trí sơ tán di dời dân, theo phương án giằng chống nhà cửa, kho tàng, bảo vệ nhân dân. Củng cố hệ thống đài tuyền thanh của xã, máy phát điện, chỉ đạo cán bộ VHTT nắm bắt thông tin, cập nhật tình tình thời tiết để có kế hoạch tuyên truyền cho nhân dân chủ động để phòng, tránh an toàn khi có thời tiết xấu xảy ra. IV. Những nhiệm vụ, giải pháp; 1. Về phát triển kinh tế 1.1. Phát triển dịch vụ. Đẩy mạnh và phát triển thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, hộ gia đình để tập trung đẩy mạnh kinh doanh phát triển ngành dịch vụ, theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng. Khuyến khích tạo mọi điều kiện để các loại hình dịch vụ như thương mại, xây dựng, dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vận tải… phát triển. Phát huy nội lực tập trung cải thiện môi trường đầu tư để khai thác các lợi thế của địa phương. 1.2. Phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn ổ chức quy hoạch phát triển ngành nghề chú trọng đào tạo nghề, nâng cao tay nghề, ứng dụng khoa học kỹ thuật và máy móc vào sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Ổn định diện tích trồng lúa cả năm 681ha/năm, phấn đấu sản lượng lương thực có hạt đạt từ 4.300-4500 tấn/năm trở lên (bình quân năng suất đạt từ 63-65 tạ/ha), 1.3 Thu ngân sách Tăng thu ngân sách hàng năm để thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, thu hút đầu tư, thực hiện tiết kiệm, chi ngân sách đúng theo dự toán phân bổ. 1.4. Tài nguyên môi trường Thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, tiếp tục quy hoạch chuyển mục đích đề xuất thành phố bán đấu giá. 2.Về xây dựng và phát triển văn hóa Quan tâm đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, Nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hóa ở cơ sở. 3. Về xây dựng, phát triển giáo dục Nâng cao chất lượng dạy học, đội ngũ giáo viên: đạt chuẩn, trên chuẩn.Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cấp học, tiếp tục giữ danh hiệu đạt chuẩn Quốc gia cả 3 cấp học. 4. Về xây dựng và phát triển y tế Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế và các chỉ tiêu cơ bản, làm tốt công tác khám và chữa bệnh cho nhân dân, Chủ động ngăn ngừa công tác phòng dịch. 5.Về đảm bảo an sinh xã hội. Thực hiện tốt công tác tạo việc làm, xuất khẩu lao động, thông qua các chương trình mục tiêu, Thực hiện tốt công tác chính sách xã hội trên địa bàn. 6. Công tác quốc phòng, an ninh. “ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”. 7. Về xây dựng chính quyền. Nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền, Tiếp tục nâng cao năng lực điều hành, quản lý của UBND xã phát triển KT-XH, giữ vững ANQP, ổn định chính trị tại địa phương. Chú trọng các lĩnh vực quản lý về đầu tư xây dựng, đất đai và ngân sách, kịp thời phát hiện xử lý nghiêm mọi vi phạm. Tăng cường giải quyết khiếu nại của công dân, thực hiện đồng bộ công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng thực hành tiết kiệm 8. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể Tiếp tục tăng cường củng cố vững mạnh để tổ chức tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Gắn nhiệm vụ chính trị với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội để tập hợp quần chúng, *Kết luận: – Trong đầu nhiệm kỳ mặc dù tình hình xã trong điều kiện gặp nhiều khó khăn và thách thức như thiên tai khắc nghiệt, đặc biệt là bệnh dịch Covid 19 đã ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế – xã hội của nhân dân trên địa bàn; Song dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy nhờ sự nỗ lực phấn đấu, và sự đồng tình nhất trí của nhân dân, Do đó, tình hình kinh tế xã hội tạo được những chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả nhất định trên tất cả các mặt, một số lĩnh vực đạt mức tăng trưởng khá; các hoạt động giáo dục, y tế và chăm sóc sức khoẻ, văn hóa thông tin, bảo đảm an sinh xã hội đạt nhiều kết quả thiết thực. Kết cấu hạ tầng về điện, đường, trường, trạm được đầu tư với tốc độ nhanh hơn trước. các loại hình dịch vụ phát triển, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; tình hình an ninh quốc phòng được giữ vững, ổn định. * Một số tồn tại và hạn chế: 1. Thực trạng địa phương tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm do đặc thù vị trí địa lý ở địa phương cho nên các dịch vụ, TTCN khó phát triển chủ yếu là độc canh cây lúa. 2. Đối với sản xuất nông nghiệp còn mang tính nhỏ lẻ, nguồn lực tiềm năng đất đai chưa được khai thác và sử dụng tốt, các nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh còn hạn chế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng chưa mạnh, chưa khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của địa phương. 3. Chất lượng giáo dục đào tạo được đẩy mạnh, có thành tích nhưng chưa tương xứng với truyền thống của địa phương. Việc thực hiện xã hội hóa chưa mạnh, chưa huy động được nhiều nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để đầu tư cho giáo dục – đào tạo. 4. Công tác Y tế ngày càng được quan tâm đầu tư về cơ sở sở vật chất, tuy nhiên việc đầu tư trang thiết bị còn thiếu chưa đáp ứng yêu cầu trong công tác khám chữa bệnh, 5. Công tác đảm bảo Quốc phòng – an ninh còn tiềm ẩn, an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo; công tác giáo dục tuyên truyền pháp luật, công tác quản lý Nhà nước về trật tự an toàn xã hội có mặt còn hạn chế nhất định.
Giới thiệu khái quát xã Phú Thanh
3,457
Các vành đai của Sao Thổ đang biến mất và chúng ta không biết chúng sẽ tồn tại bao lâu nữa. Không giống như những vòng tròn mỏng chứa đầy bụi và đất đá bay lơ lửng xung quanh Sao Mộc, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương, hệ thống vành đai bao quanh Sao Thổ vô cùng ấn tượng, và được coi như một biểu tượng khi nhắc tới hành tinh này. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới đây cho thấy các vành đai của Sao Thổ đang dần biến mất và chúng ta không biết chúng sẽ tồn tại bao lâu nữa. Từ những năm 1980, các nhà thiên văn học đã biết rằng các vành đai băng giá trong cùng của Sao Thổ đang dần dần bị ăn mòn bởi bầu khí quyển phía trên của hành tinh này. Tốc độ ăn mòn diễn ra với tốc độ cao đến mức, một khối lượng nước tương đương một bể bơi chuẩn Olympic đã rơi xuống hành tinh khí này mỗi ngày. Tuy nhiên, hệ thống vành đai mang tính biểu tượng của Sao Thổ đang co lại nhanh như thế nào – vốn cũng chính là yếu tố quyết định khi nào vành đai này sẽ biến mất – tiếp tục là một câu hỏi bỏ ngỏ. Hệ thống vành đai bao quanh Sao Thổ vô cùng ấn tượng, và được coi như một biểu tượng khi nhắc tới hành tinh này. Ảnh: Internet. Để hiểu rõ hơn về vành đai Sao Thổ, kính viễn vọng Không gian James Webb (JWST) mới nhất của NASA sẽ được sử dụng trong một nghiên cứu đang được cơ quan này thực hiện. Theo đó, để ước tính tốt hơn thời gian tồn tại của các vành đai mang tính biểu tượng này, kính JWST và Đài quan sát Keck ở theo dõi hiện tượng “mưa vành đai Sao Thổ” dao động như thế nào trong suốt một mùa trên Sao Thổ – tương đương khoảng 7 năm trên Trái Đất. Các nghiên cứu trước đây cho thấy một lượng lớn vật chất từ vành đai liên tục rơi xuống Sao Thổ. Ví dụ: dữ liệu được gửi về từ tàu vũ trụ Cassini của NASA (vốn đã bay xuyên qua khoảng cách giữa Sao Thổ và các vành đai 22 lần trong khi nó lao xuống hành tinh này vào năm 2017) cho thấy khoảng 400 kg đến 2.800 kg băng giá đã và đang rơi xuống Sao Thổ mỗi giây và làm nóng bầu khí quyển phía trên của nó. Với tốc độ này, các vành đai có thể biến mất trong khoảng 300 triệu năm nữa. Mặc dù điều đó có vẻ như còn lâu mới xảy ra, nhưng nếu xét trong thang thời gian vũ trụ, hệ thống vành đai này đã phải đối mặt với “cái chết tương đối nhanh chóng”. Tuy nhiên, bản thân các nhà khoa học vẫn chưa chắc chắn về khoảng thời gian nói trên. Một số tính toán cho thấy vành đai Sao Thổ có thể biến mất nhanh chóng sau 100 triệu năm, trong khi một số tính toán khác khẳng định vành đai này có thể tồn tại trong 1,1 tỷ năm. Trong khi nghiên cứu mới sẽ giúp dự đoán số phận của các vành đai, các nhà thiên văn học nghiên cứu về Sao Thổ vẫn tiếp tục cuộc tranh luận kéo dài hàng thập kỷ về cách thức và thời điểm các vành đai này được sinh ra ngay từ đầu. Nhiều mô hình khác nhau đã chỉ ra rằng các vành đai là cấu trúc cố định xung quanh Sao Thổ từ 4,5 tỷ năm trước – khi hệ Mặt trời đang hình thành, nhưng dữ liệu từ tàu vũ trụ Cassini cho thấy chúng chỉ mới tồn tại từ 10 triệu đến 100 triệu năm. Tham khảo
Vành đai Sao Thổ đang dần biến mất, đã tính toán được thời khắc cuối cùng sẽ diễn ra sau bao lâu
643
Nghiên cứu của một nhóm các nhà khoa học hàng đầu thế giới cho thấy nhiệt độ tăng, sự gián đoạn hệ tuần hoàn nước và sự phá hủy môi trường sống tự nhiên đã bị đẩy đến giới hạn. Nhiều quốc gia tại khu vực Đông Nam Á tiếp tục phải đối mặt với thời tiết khô hạn và nhiệt độ cao kỷ lục. Ảnh: Reuters. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature hôm 31/5 đã xác định 8 ranh giới của Trái Đất bao gồm khí hậu, đa dạng sinh học, nước, hệ sinh thái tự nhiên, sử dụng đất và ảnh hưởng của phân bón, theo Financial Times. Đánh giá của các nhà khoa học khẳng định hoạt động con người đã đẩy 7 ranh giới này vượt quá giới hạn an toàn, đe dọa nghiêm trọng đến hành tinh và con người. Các nhà nghiên cứu truyền thống thường tập trung vào tác động của biến đổi khí hậu hoặc mất đa dạng sinh học, nhưng nhóm nghiên cứu của Ủy ban Trái Đất đánh dấu nỗ lực xác định những giới hạn mà con người nếu vượt quá sẽ chịu tác hại đáng kể. Johan Rockström, giám đốc Viện Nghiên cứu Tác động Khí hậu Potsdam và đồng tác giả của báo cáo, cho biết “rất đáng lo ngại” khi hầu hết ranh giới đã bị vượt qua. “Trái Đất đã bắt đầu tổn thương, gây ra các sự kiện cực đoan và tác động đột ngột, không những gây ra sóng nhiệt, hạn hán và lũ lụt, mà còn làm mất an ninh lương thực, ảnh hưởng đến chất lượng nước và tác động đến điều kiện sinh kế của những nhóm dân cư dễ bị tổn thương trên thế giới”, ông nói. Nghiên cứu nhận định giới hạn an toàn về sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu là 1 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu cho biết mức tăng nhiệt độ thực tế là 1,1 hoặc 1,2 độ C. Các nhà nghiên cứu của Ủy ban Trái Đất cho biết ở mức tăng 1,5 độ C, hơn 200 triệu người sẽ phải tiếp xúc với nhiệt độ trung bình hàng năm cao chưa từng có và hơn 500 triệu người có thể phải đối mặt với nguy hiểm từ mực nước biển dâng. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá Trái Đất cần được các hệ sinh thái nguyên sinh bao phủ khoảng 50-60%. Dù vậy, hoạt động của con người đã khiến tỷ lệ thực tế giảm đến mức đáng báo động. Ông Rockström cho biết các ranh giới của Trái Đất được nêu trong nghiên cứu “có liên kết với nhau”. Một ranh giới bị vượt qua giới hạn có thể gây tác động dây chuyền đến những ranh giới khác. “Nếu muốn giải quyết khí hậu, chúng ta cũng cần các ranh giới còn nguyên vẹn. Khi đối mặt với một cuộc khủng hoảng khí hậu, chúng ta sẽ muốn một hành tinh khỏe mạnh. Nhưng chúng ta có một hành tinh yếu hơn bao giờ hết”, ông nói. Nghiên cứu từ Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu năm nay cho thấy 1% dân số giàu nhất thế giới chịu trách nhiệm cho lượng khí thải CO2 gấp đôi so với 50% người nghèo nhất.
Trái Đất đã vượt qua giới hạn an toàn đối với con người
554
Ngày 31/5, tàu vũ trụ SpaceX Crew Dragon chở một nhóm phi hành gia tư nhân đã đáp xuống bờ biển bang Florida (Mỹ) một cách an toàn, hoàn thành sứ mệnh nghiên cứu kéo dài 8 ngày Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS). Tàu vũ trụ Dragon tự động rời khỏi ISS vào lúc 16h05 giờ GMT (23h05 – giờ Việt Nam) ngày 30/5. Sau khoảng 12 giờ di chuyển, tàu vũ trụ đã quay trở lại bầu khí quyển của Trái Đất và hạ cánh xuống bờ biển Florida lúc 4h04 ngày 31/5. Phi hành đoàn Axiom Mission 2 (Ax-2) bao gồm 4 thành viên: Peggy Whitson – phi hành gia đã nghỉ hưu của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA), phi công John Shoffner (người Mỹ), phi công Ali Alqarni và nhà khoa học Rayyanah Barnawi. Ali Alqarni và Rayyanah Barnawi là những phi hành gia người Saudi Arabia đầu tiên lên ISS. Nhà khoa học Barnawi còn là người phụ nữ Arab đầu tiên được bay vào quỹ đạo Trái Đất. Ngày 21/5 vừa qua, công ty hàng không vũ trụ thương mại Axiom Space đã triển khai sứ mệnh Ax-2. Đây là sứ mệnh thứ hai của Axiom Space chở phi hành đoàn tư nhân tới ISS sau sứ mệnh đầu tiên vào năm 2022. Tập đoàn SpaceX của tỷ phú Elon Musk cũng đã cung cấp tên lửa Falcon 9 và khoang phi hành đoàn để đưa nhóm Ax-2 đến và đi từ quỹ đạo, cũng như điều khiển chuyến bay. NASA chuẩn bị địa điểm phóng tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy, bang Florida và đảm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ phi hành đoàn trong thời gian ở trên ISS – quay quanh Trái Đất từ độ cao khoảng 400 km. Các phi hành gia này thực hiện hơn 20 thí nghiệm khóa học trong khoảng thời gian 10 ngày ở trên ISS, trong đó có một nghiên cứu liên quan đến phản ứng của các tế bào gốc trong môi trường không trọng lực. Toàn bộ chi phí cho chuyến bay đều được Axiom Space chi trả, trong khi NASA đang tìm cách mở rộng khả năng thương mại hóa du hành tới quỹ đạo Trái Đất tầm thấp. Axiom Space cũng đã ký hợp đồng với cơ quan vũ trụ để xây dựng phần bổ sung đầu tiên cho phòng thí nghiệm trên quỹ đạo. Đối với Axiom Space, những nhiệm vụ này là bước đầu tiên hướng tới mục tiêu đầy tham vọng xây dựng trạm vũ trụ riêng, dự kiến bắt đầu khởi công từ năm 2025. NASA cũng có kế hoạch ngừng hoạt động ISS vào năm 2030, thay vào đó sẽ đưa các phi hành gia đến trạm tư nhân.
Tàu Crew Dragon hạ cánh an toàn
460
‘Gừng Xứ Nghệ’ là đóng góp rất riêng của PGS.TS Đỗ Lai Thúy khi khắc họa 20 học giả – trí thức thông qua việc đưa văn chương vào trong nghiên cứu. Bằng ngòi bút xuất sắc của mình, ông đã thành công khi khắc họa những chân dung cá nhân mà ẩn sâu trong đó chính là chân dung của một vùng văn hóa. PGS – TS Đỗ Lai Thúy từ lâu đã được biết đến là một nhà nghiên cứu phê bình nổi tiếng. Các sách của ông nhiều cuốn đã trở thành sách công cụ để người viết tra cứu, trích dẫn như: “Từ cái nhìn văn hóa, tập tiểu luận”; “Văn hóa dân tộc, 1999”; “Tri thức, 2018”; “Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, chuyên luận, 1999”; “Văn học, 2010”; “Chân trời có người bay, tập chân dung học thuật, 2003, 2005”; “Văn hóa Việt Nam, nhìn từ mẫu người văn hóa, chuyên luận, 2005”; “Tri thức, 2018”;… PGS.TS Đỗ Lai Thúy. Với “Gừng Xứ Nghệ, 2022”, ngay trang đầu tiên, ông đã đặt ra tiêu chí, khung khổ riêng nhưng cũng rất mở với vùng địa văn hóa – chính trị – xã hội rất thú vị: “Việt Nam có nhiều địa danh nổi tiếng được gọi bằng xứ, như xứ Bắc, xứ Đoài, xứ Thanh, xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Quảng, thậm chí xứ Đồng Nai. Xứ vốn là một đơn vị hành chính, sau trở thành một vùng địa – văn hóa. Đất đai, sông núi, phong tục tập quán, lịch sử, văn hóa của một vùng đất đã tạo ra những anh hùng, nhà thơ, nhà tư tưởng không chỉ của vùng đất ấy”. Xứ Nghệ (gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh) có sông Lam, núi Hồng và biển cả. Đứng ở đồng bằng, chỉ liếc mắt đã thu gọn cả nước non. Tuy nhiên, đây cũng là vùng đất cằn cỗi, khí hậu gió Lào khắc nghiệt. Xứ Nghệ trước đây vốn là vùng giáp ranh giữa Đại Việt và Chăm Pa. Chiến tranh giữa hai nước trước hết xảy ra trên đất này. Nên, nơi đây ngoài chiến địa, cũng là đất lưu đày của những dòng họ phạm tội với triều đình, nhưng cũng là mảnh đất tự do cho tay anh chị, những kẻ hành tung bất hảo trú ngụ. Con người sống trong một môi trường thiên nhiên và xã hội hoang dã và khắc khổ như vậy lâu dần hình thành nên tính cách Nghệ: bền bỉ, kiên cường, bất khuất đến duy ý chí, ham học, thích làm giàu, làm quan, nhưng cũng không kém phần mơ mộng”. Điều đó đã cho thấy, với “Gừng Xứ Nghệ”, những gương mặt tiêu biểu nhất của giới học giả – trí thức đã được Đỗ Lai Thúy tường minh với các cung bậc khác nhau. Những nhân vật được ông lựa chọn viết, đều có những dấu ấn rất riêng và về cơ bản là tiếp cận từ vấn đề học thuật, có tư tưởng, và hơn thế nữa họ song hành với những hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ những tính cách đặc biệt, thân phận đặc biệt. Họ có thể là những trí thức, nhà khoa học, học giả, tác gia có dấu ấn đậm nét trong hành trình tư tưởng và sáng tạo của dân tộc. Và, những chân dung nhân vật tưởng như riêng lẻ này, lại như những mảnh ghép để cho thấy bức tranh văn hóa. Trong cuốn sách, tác giả tập trung viết về 20 tên tuổi và họ vẫn luôn là cái tên gắn liền với bạn đọc như: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Tâm Tuyền, Hoài Thanh, Phan Ngọc, Trần Đình Hượu, Hoàng Ngọc Hiến, Thái Bá Vân, Trương Đăng Dung, Nguyễn Trường Tộ, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Huy, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Hà Văn Tấn, Nguyễn Tài Cẩn, Từ Chi. Với Đỗ Lai Thúy, ông vận dụng các lý thuyết linh hoạt với phong cách rất khác, đi sâu tìm đến bản chất và nét riêng của từng nhân vật, trong đó nhân vật nào cũng có những phát hiện thú vị. Đến với “Gừng Xứ Nghệ” chỉ cần đọc tít các bài viết, chúng ta có thể dễ dàng hình dung, nắm bắt những ý chủ chốt nhất của chân dung các vị học giả – trí thức đáng kính của vùng đất xứ Nghệ như: Hồ Xuân Hương – Cọ tình vào đá; Xuân Diệu – Nỗi ám ảnh thời gian; Hoài Thanh – Tôi lấy hồn tôi để hiểu hồn người; Nguyễn Khắc Dương – Tìm mình qua những xung đột văn hóa; Hà Văn Tấn – Theo dấu các văn hóa cổ;… Trong chuyên luận “Phan Ngọc – Tấm huy chương nhìn từ mặt trái”, bằng giọng văn thủ thỉ tạo nên sự thân quen mà làm nổi bật góc nhìn không kém phần khách quan về con người và cuộc đời Phan Ngọc: “Với Phan Ngọc, tôi nghĩ, nhược điểm của ông là do sự bành trướng không kiểm soát nổi ưu điểm mà thành. Bởi vậy, đến với Phan Ngọc từ những ưu điểm bị đẩy đến thái quá, trở thành nhược điểm, một nét nghệ sĩ trong con người của ông, sẽ làm cho người đọc dễ hình dung ra diện mạo và tầm vóc của ông hơn”. Hay, trong “Hà Văn Tấn – Theo dấu các văn hóa cổ”. Đỗ Lai Thúy đã có một cái nhìn khát quát về cuộc đời và sự nghiệp của Hà Văn Tấn từ suốt những ngày bắt đầu tự học, bắt đầu dạy, và bắt đầu từ khoa sử bước chân sang nhân học hình thể: “Về nhân học hình thể, ông viết “Vấn đề người Indonesien và loại hình Indonesien trong thời đại nguyên thủy Việt Nam” được các nhà nhân chủng học nổi tiếng thời đó của Liên Xô là M.G.Levin và N.N.Cheboksarov đánh giá cao. Về toán học thống kế, có “Ứng dụng thống kê toán học trong khảo cổ học”, thậm trí còn có quá trình giảng dạy toán thống kê trong khảo cổ học cho sinh viên. Ở nhiều lĩnh vực khác cũng thế, Hà Văn Tấn không bao giờ học để học, mà học để ra sản phẩm dưới dạng này hoặc dạng khác. Từ đó ông rút ra hai kinh nghiệm quý giá cho các nhà khoa học sau ông là “muốn học có kết quả môn nào thì phải biết gắn những điều đã học với nghiên cứu giảng dạy” và “say mê không đủ, phải bền gan, và có chút ít liều mạng, liều mạng một cách nghiêm túc!”…”. Bìa cuốn sách “Gừng Xứ Nghệ”. Có thể thấy rằng, một trong những đặc sắc nhất của “Gừng Xứ Nghệ” là tác giả vừa khái quát thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của các học giả – trí thức, đồng thời cũng bày tỏ quan điểm cá nhân của mình với thời cuộc, thời đại tương đồng với các vị ấy còn liên thông tới hôm nay. Đây chính là sự cần thiết, công cụ hiệu quả của thế hệ sau khi tìm hiểu về các nhân vật kể trên. Đây cũng là công phu, những đóng góp về học thuật của PGS.TS Đỗ Lai Thúy. PGS.TS Đỗ Lai Thúy thời gian gần đây chủ trì, làm Viện trưởng Viện Nhân học Văn hóa đã chủ biên nhiều cuốn sách có giá trị như: “Truyện ngắn Phùng Cung”; “Nhà văn Lê Lựu – văn chương và số phận”; “Ba vị họ Phùng với Hồ Chủ tịch”; “Gừng Xứ Nghệ”; “Trưng Nữ Vương”,… đã thấy được sự chú tâm về văn hóa – lịch sử – con người của viện trong hành trình phát triển. Đây cũng là một trách nhiệm hết sức đáng quý trong việc góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với “Gừng Xứ Nghệ”, những đóng góp về lịch sử văn hóa của các học giả – trí thức trong tập sách qua lăng kính Đỗ Lai Thúy là vô cùng to lớn. Dưới góc nhìn của ông chính các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ được khái quát tưởng như là chung về văn hóa xứ Nghệ nhưng giữa họ lại mang đậm nét riêng. Từ đó, nhờ lối kể riêng của mình để làm nổi bật những sự kiện cuộc đời, những đóng góp của các nhân vật từ trung đại, cận đại đến hiện đại, tạo sự cuốn hút cho người đọc. Một cuốn sách được viết ra trước tiên và sau cùng đều là vì phục vụ nhu cầu bạn đọc. “Gừng Xứ Nghệ” đến tay bạn đọc không chỉ hữu ích cho nhu cầu giải trí mà còn giúp bạn đọc có thêm nền tảng kiến thức từ những bộ óc lớn đã được chưng cất, nghiền ngẫm, thể hiện thành văn của một bộ óc lớn. Vùng đất xứ Nghệ từ thượng cổ với biết bao thăng trầm của lịch sử, biết bao anh hùng hào kiệt, danh nhân, danh tướng, danh thần, các anh hùng liệt sĩ có công với nước đến hôm nay đã và đang tiếp tục có những đóng góp, cống hiến lớn lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời đại Hồ Chí Minh. “Gừng Xứ Nghệ” chính là nơi khơi dẫn những mạch nguồn văn hóa, những tư duy canh tân đổi mới, những nghiên cứu sâu sắc trên toàn lĩnh vực của những học giả – trí thức tiêu biểu nhất với giới trẻ hiện nay. “Gừng Xứ Nghệ” xứng đáng là một cuốn sách hay, quan trọng, bổ ích với nhiều khu vực độc giả nhất là trong việc nghiên cứu học tập.
‘Gừng Xứ Nghệ’ – Thông điệp mới của PGS.TS Đỗ Lai Thúy – Tác giả: Lâm Như Quỳnh
1,636
Nhân Ngày Quốc tế Thiếu nhi 1-6, chúng ta thử mạnh dạn nhìn lại trẻ em nước mình bây giờ ra sao, các cháu “đang ở đâu” trên Tổ quốc yêu dấu này. Những gì gia đình, nhà trường và xã hội đang dành cho trẻ em đã tương xứng với mong muốn của bao lớp người đi trước, của chúng ta bây giờ và đúng với thực trạng, nhu cầu của lớp măng non đất nước hay chưa? Việt Nam là một trong các quốc gia đầu tiên ở châu Á và trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em năm 1990. Sòng phẳng mà nói thì những gì phần đông trẻ em Việt Nam được hưởng trong cuộc sống bây giờ, thì các thế hệ trước đây chưa bao giờ có được. Đấy chính là một phần giấc mơ đẹp đẽ của quá khứ đã thành hiện thực. Việt Nam, một đất nước vốn nghèo nàn, lại bị chiến tranh hủy hoại bao phen, còn thêm thiên tai tàn phá nữa… mà trẻ em đã được quan tâm chăm sóc như hiện nay là điều rất đáng mừng. Trong hơn 26 triệu trẻ em nước ta hiện nay, hầu hết đã được tung tăng đến trường; từ tiểu học tới trung học cơ sở và được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Chẳng so sánh đâu xa, nhìn các cháu bây giờ phần lớn hồng hào cân đối, nghĩ lại lớp người như chúng tôi vốn đói ăn thiếu mặc xanh xao, gầy gò… thấy đã khác nhau xa lắm. Tuy nhiên, đấy mới chỉ là cái nhìn tổng thể, bao quát và bề ngoài. Thực chất cuộc sống của trẻ em hiện nay ra sao ta nên bình tĩnh đi vào chiều sâu của nó để đánh giá một cách trung thực và đầy đủ. Có lẽ, đừng quá tin vào những con số báo cáo đẹp đẽ và cũng nên chịu khó xuyên qua “mặt tiền” sáng sủa để biết được những ngóc ngách bên trong của ngôi nhà ấy, xem nó còn có góc khuất tăm tối nào nữa? Những gì làm cho trẻ em phải đích thực nhất, tốt đẹp nhất, bền vững nhất, thể hiện rõ ràng và đầy đủ tầm cao tính nhân văn của xã hội. Một xã hội bị coi là xấu xí, tàn nhẫn khi không đặt trẻ em vào trung tâm của sự chăm sóc, phát triển thường xuyên và lâu dài. Định hướng an sinh xã hội gắn liền với mục tiêu chăm sóc, bảo vệ trẻ em sao cho Tổ quốc, quê hương, nhà trường, gia đình là “tổ ấm” của các cháu. Trẻ em được hạnh phúc, trước hết phải được bình yên sau đó là ăn no, ăn ngon, mặc ấm, mặc đẹp, được học hành và vui chơi trong yêu thương trìu mến của mọi người… Với mong mỏi ấy, chúng ta chắc chẳng yên lòng khi biết hiện nay 1/5 trẻ em Việt Nam đang chưa được đáp ứng đầy đủ những nhu cầu chủ yếu. Những khác biệt ngày càng gia tăng trong đời sống của trẻ em bởi các tác động tiêu cực từ các yếu tố vùng miền, thành thị, nông thôn, giới tính, dân tộc, sức khỏe… và cả sự biến đổi khí hậu nữa. Theo số liệu từ UNICEF tại Việt Nam , thì ở nước ta có khoảng 5,5 triệu trẻ em bị thiếu thốn ít nhất là một trong các lĩnh vực: giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nơi ở, nước và vệ sinh môi trường hoặc hòa nhập xã hội. Với những gia đình nghèo thì việc lo cho con cái có cái ăn, cái mặc luôn là việc khó, thì nói gì đến chuyện học hành, vui chơi của trẻ em? Tôi đã từng thấy những đứa trẻ áo mặc phong phanh trong mùa đông hun hút gió ở những nẻo đường cheo leo trên vùng cao phía bắc; những lớp học không đủ ấm; những bữa ăn thiếu thịt của học trò vùng sâu, vùng xa; những thư viện thiếu sách; những đô thị thiếu sân chơi cho trẻ nhỏ… Xót xa hơn, khi chúng ta được nghe, được thấy cảnh trẻ em bị bạo hành, đánh đập, xâm hại, ngược đãi… đó đây trên đất nước này. Đây nữa, những thông tin, những con số làm chúng ta lo lắng: nhiều trẻ em vẫn không có được sự khởi đầu tốt nhất và không được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng; có khoảng 1,9 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị còi cọc, để lại tổn thương não và thể chất vĩnh viễn; hiện nay có hơn 170 nghìn trẻ em không có sự chăm sóc của cha mẹ, nhiều em sống bần cùng hoặc bị bỏ rơi… (Nguồn dẫn từ UNICEF Việt Nam). Mỗi hành vi làm tổn thương thể xác và tinh thần trẻ em là một vết thương của xã hội, là một khiếm khuyết mà cộng đồng cần phải soi chiếu, sửa chữa. Hơn thế nữa, người lớn cần biết sám hối khi trẻ em còn cơ cực, đau khổ. Hãy mang lại những điều tốt lành cho trẻ em từ những cái bé nhỏ nhất. Không phải bây giờ chúng ta mới nói tới điều đó. Ngày 21/9/1941 trên báo Việt Nam độc lập (số 106) Hồ Chí Minh đã có bài thơ viết về trẻ em rất xúc động: Trẻ em như búp trên cành/ Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan/ Chẳng may vận nước gian nan/ Trẻ em cũng bị bận thân cực lòng/ Học hành, giáo dục đã không/ Nhà nghèo lại phải làm công, cày bừa/ Sức còn yếu, tuổi còn thơ/ Mà đã khó nhọc cùng như người già!.. Ước mơ của Bác Hồ là sau khi đánh đuổi được giặc ngoại xâm thì Trẻ em ta sẽ là bầy con cưng. Làm sao để trẻ em Việt Nam được thực sự là bầy con cưng của đất nước này như khát khao cháy bỏng của Bác Hồ? Tôi nghĩ rằng, không thể nào khác, mỗi gia đình, nhà trường và xã hội phải hết sức chăm lo đến trẻ em. Chăm lo cho thế hệ trẻ là chăm lo cho hiện tại và tương lai. Sự chăm lo đó không còn là những lời nói chung chung nữa mà nó phải được luật hóa, thể chế hóa, quy định hóa, chương trình hóa, kế hoạch hóa…Nó phải trở thành những điều bắt buộc xã hội người lớn phải làm, cần làm một cách tự giác nhất. Nó phải biến thành cuộc sống thường ngày của trẻ em, từ cái ăn cái mặc đến chuyện học hành, vui chơi. Phải dừng ngay những công trình chưa cần thiết để đất nước được mọc thêm nhiều ngôi trường khang trang, nhiều công viên, khu vui chơi tươi đẹp cho trẻ em. Mỗi gia đình phải là một tổ ấm, là nơi hân hoan, chan hòa thương yêu. Mỗi mái trường là nơi tràn ngập niềm vui của các cháu. Đi học không còn là gánh nặng của học trò. Những bài học trong sách giáo khoa sẽ lưu giữ lâu bền trong ký ức tuổi thơ… Muốn vậy, rất cần giảm tải chương trình phổ thông. Giáo dục nên hướng tới điều này, với trẻ em học để biết nhưng không phải đánh mất tuổi thơ. Tuổi thơ là tài sản vô cùng quý báu của trẻ em, đừng để gánh nặng học hành oằn trên đôi vai của con em chúng ta. Đừng để sự quá tải trong học tập làm cho trẻ em không có thời gian vui chơi, đùa giỡn, đọc sách… Cần có cánh diều bay liệng giữa bầu trời lộng gió cho những đôi mắt trẻ trong veo, có cây xanh rì rào cho trẻ em hình dung ra tiếng bốn mùa đi qua, có công viên cho tuổi ngây thơ hình dung được những bước đi của bầy khủng long thời xa lắc, có những trang sách hay để các cháu được tung tăng trong đó. Hội Nhà văn Việt Nam đang rất quan tâm đến văn học thiếu nhi. Những công việc cụ thể đang hướng tới điều đó. Hy vọng nhiều tác phẩm dành cho tuổi nhỏ sẽ ra đời và nhận được sự đón nhận nhiệt tình của các cháu bây giờ như thế hệ chúng tôi từng yêu thích Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi… Tuy nhiên, các nhà văn, nhà thơ nên nhớ rằng trẻ em hiện nay đang sống trong thời 4.0, hiểu biết và tư duy của các cháu không hoàn toàn giống như thời con nít của chúng ta. Những bài thơ gọi là viết cho thiếu nhi thừa ngây ngô hay giả bộ ngây thơ như ta đang thấy nhan nhản trên nhiều trang báo, tạp chí chắc chắn sẽ vô cùng xa lạ với bạn đọc nhỏ tuổi. Thế giới trẻ thơ hiện đại là thế giới của sự liên tưởng nhiều màu sắc, hình ảnh, âm thanh mới lạ. Đấy là thế giới của những biến hóa khôn lường và đầy sức mạnh phi thường hấp dẫn. Cũng là cuộc sống đong đầy muôn vàn yêu thương, tinh tế đầy tính tự do và sáng tạo. Ngụ ngôn của thời cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không thể vắng bóng siêu nhân, người máy. Không thể viết hay cho trẻ em khi không yêu các cháu hết lòng và luôn thấu hiểu các bạn ấy. Mùa hè ngồi bên lũ trẻ/ Nối dây cho diều lên cao/ Mùa hè bay lên thật dễ/ Với cùng tiếng sáo xôn xao… Vâng, chắc người cầm bút nào cũng đều có hạnh phúc trong sáng ấy bởi chúng ta biết rằng góp một cái gì đó dù là nhỏ nhoi nhất cho tuổi thơ đều đáng trân trọng cả. Trẻ em được bình yên và hạnh phúc ngay trong ngôi nhà mình đang ở, trong mái trường mình đang học và trên Tổ quốc Việt Nam thân yêu… là ước vọng và hành động tốt đẹp không của riêng ai.
Nhân ngày quốc tế Thiếu nhi 1/6: Trẻ em nước mình đang ở đâu?
1,710
Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh (bên trái) chào xã giao lãnh đạo thành phố Frankfurt. Trong khuôn khổ chuyến công tác tại Cộng hòa Liên bang Đức, ngày 30-5, đoàn công tác thành phố Đà Nẵng do Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh làm trưởng đoàn làm việc với chính quyền thành phố Frankfurt. Thị trưởng thành phố Frankfurt Mike Josef bày tỏ vui mừng được đón đoàn công tác thành phố thăm và làm việc tại Frankfurt; cho biết, Frankfurt là thành phố ở phía tây nam, nằm dọc hai bờ sông Main. Đây là thành phố lớn thứ 5 của Đức có diện tích gần 250km2. Frankrurt là trung tâm tài chính, ngân hàng của cả châu Âu và thế giới, là nơi đặt trụ sở chính của Ngân hàng Trung ương châu Âu và các ngân hàng lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán Frankfurt là một trong những thị trường chứng khoán lớn của thế giới. Ngoài ra, Frankfurt được xem là thành phố hội chợ và là trung tâm trung chuyển giao thông quan trọng của Đức và châu Âu. Phát biểu tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh chúc mừng ông Mike Josef vừa nhận chức Thị trưởng thành phố Frankfurt và bày tỏ sự vinh dự khi được thị trưởng đón tiếp và làm việc với đoàn. Đồng thời giới thiệu về Đà Nẵng – thành phố biển ở miền Trung của Việt Nam, có hạ tầng đô thị tương đối đồng bộ, đang tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như: dịch vụ du lịch, công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, logistics và hình thành trung tâm tài chính quốc tế. Đoàn công tác chụp ảnh lưu niệm cùng lãnh đạo thành phố Frankfurt. Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố chia sẻ mục đích chuyến công tác của đoàn tại Vương Quốc Anh, Thụy Sĩ và Đức. Đoàn công tác giới thiệu, quảng bá tiềm năng, lợi thế, môi trường đầu tư, kinh doanh của Đà Nẵng. Đặc biệt, giới thiệu đề án Trung tâm tài chính quốc tế Đà Nẵng với mô hình dựa trên 3 chức năng chính gồm: cung cấp dịch vụ tài chính offshore (OFC); Trung tâm công nghệ tài chính (fintech) và các hoạt động bổ trợ cho hoạt động tài chính. Trung tâm tài chính quốc tế Đà Nẵng được quy hoạch xây dựng tại khu đất gần 6,2 ha, vị trí sát biển, có các điều kiện về kết nối, hạ tầng tốt nhất thành phố, sở hữu tiềm năng của một không gian sống, làm việc đẳng cấp quốc tế, đáp ứng yêu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp, nhà đầu tư tại tại Vương Quốc Anh, Thụy Sĩ và Đức. Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố đánh giá cao những hỗ trợ của các tổ chức, Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức đối với Đà Nẵng trong thời gian qua. Hiện Đà Nẵng đang tiếp nhận một dự án ODA về thúc đẩy sử dụng hiệu quả nguồn lực và các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong bối cảnh liên kết ngành, liên kết vùng – emplement do Bộ Nghiên cứu và Giáo dục Đức tài trợ. Song song đó, nhiều doanh nghiệp lớn của Đà Nẵng có quan hệ thương mại tốt đẹp với các đối tác Đức. Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố mong muốn chính quyền thành phố Frankfurt tạo điều kiện để các doanh nghiệp tại Frankfurt đến Đà Nẵng tìm hiểu cơ hội hợp tác, đầu tư trên các lĩnh vực Frankfurt có thế mạnh như tài chính quốc tế, ngân hàng, fintech, du lịch, thương mại và dịch vụ logistics. Trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh của mỗi địa phương, với tinh thần đối thoại để thúc đẩy mối quan hệ giữa hai thành phố, Thị trưởng thành phố Frankfurt Mike Josef và Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố Hồ Kỳ Minh thống nhất trong thời gian tới hai thành phố sẽ xúc tiến đường bay thẳng Đà Nẵng – Frankfurt để kết nối giữa hai địa phương tạo điều kiện thúc đẩy phát triển du lịch, thương mại, hợp tác đào tạo, giao lưu văn hóa và thu hút các doanh nghiệp, nhà đầu tư tại Frankfurt và vùng phụ cận đến Đà Nẵng đầu tư, kinh doanh. Phó Chủ tịch Thường trực UBND thành phố mời Thị trưởng Mike Josef đến thăm Đà Nẵng. Thị trưởng vui vẻ nhận lời và cho biết sẽ thu xếp trong thời gian tới. Trước buổi làm việc, đoàn công tác được TS. Marcus Gwechenberger, Sở Quy hoạch, Nhà ở và Thể thao Frankrurt và GS.TS. Michael Peterek, Đại học Khoa học ứng dụng Frankfurt giới thiệu khu trung tâm tài chính, chứng khoán, khu trung tâm thương mại và khu phố cổ tại trung tâm thành phố Frankfurt…
Xúc tiến đường bay thẳng Đà Nẵng – Frankfurt
831
Từ năm 2001, Tổ chức Nông lương thế giới (FAO) đã chọn ngày 1/6 hằng năm là Ngày Sữa Thế giới để nâng cao nhận thức về sự quan trọng của sản phẩm sữa đối với sức khỏe con người cũng như sự đóng góp của ngành sữa trên toàn thế giới. Sữa được coi là “thực phẩm lành mạnh”. Tất cả các loại chất dinh dưỡng đều được tìm thấy trong sữa. Các vitamin, khoáng chất, protein, carbohydrate và chất béo thiết yếu có trong sữa làm cho nó trở thành một thực phẩm hoàn hảo cho tất cả mọi người. Vì vậy, sữa là thực phẩm vô cùng quan trọng trong chế độ ăn uống hàng ngày của mỗi người.
Ngày Sữa Thế giới 1/6: Tầm quan trọng của sữa đối với sức khỏe
121
Giải thưởng thiếu nhi Dế mèn lần thứ tư trao giải tối 31/5. Sau hai mùa giải không tìm được người vinh danh, giải Hiệp sĩ Dế Mèn năm nay trao cho nhà văn Trần Đức Tiến. Hai cuốn sách thiếu nhi của nhà văn Trần Đức Tiến. Ngày 31/5/2023, báo Thể thao và Văn hóa (Thông tấn xã Việt Nam) tổ chức Lễ trao Giải thưởng Thiếu nhi Dế Mèn lần thứ tư – 2023 tại Trung tâm Thông tấn Quốc gia, số 5 Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Đây là một mùa giải phong phú, vượt dự đoán, khi có 7 giải thưởng và tặng thưởng được trao, trong đó có 2 tác giả là thiếu nhi; và lần đầu tiên sau 2 năm vắng bóng, đã tìm được “Hiệp sĩ Dế Mèn”. Giải thưởng Thiếu nhi Dế Mèn là giải thưởng nghệ thuật thường niên do báo Thể thao và Văn hóa sáng lập từ năm 2020, nhằm trao cho các sáng tác, trình diễn nghệ thuật xuất sắc “của” thiếu nhi, hoặc “vì” thiếu nhi. Các hạng mục của giải gồm: 1 Giải thưởng Lớn mang tên Hiệp sĩ Dế Mèn (Cricket Knight); một số giải đồng hạng mang tên Khát vọng Dế Mèn (Cricket Desire), cùng các tặng thưởng khác do Hội đồng Giám khảo đề xuất từng năm. Trải qua 3 mùa giải, đã có một giải Hiệp sĩ Dế Mèn được trao cho nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (2020) và 14 giải Khát vọng Dế Mèn được trao cho các văn nghệ sĩ trong và ngoài nước, trong đó có 4 tác giả là thiếu nhi. Mùa giải lần thứ tư năm nay đã thu hút 121 tác phẩm/chùm tác phẩm được sáng tác, hoàn thiện hoặc công bố trong khoảng thời gian từ 1/1/2022 đến 20/4/2023. Qua 2 vòng chấm từ 25/4 đến 11/5, Ban sơ khảo gồm 8 thành viên đã thảo luận và cho điểm để công bố Top 10 tác phẩm xuất sắc nhất vào Vòng Chung khảo. Ngày 22/5, Hội đồng Giám khảo do nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam làm Chủ tịch, cùng 5 thành viên gồm: PGS.TS Văn Giá, nhà thơ – nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha, họa sĩ Thành Chương, họa sĩ Lê Linh và nhà báo Lê Xuân Thành, đã tổ chức phiên chấm chung khảo cuối cùng, thảo luận về từng tác phẩm và cho điểm để chọn ra các giải thưởng. Có thể thấy, giải Dế Mèn năm nay đã phát hiện và vinh danh hai tác giả nhí với những tác phẩm được đánh giá cao, những phẩm chất sáng tạo chuyên nghiệp sớm được bộc lộ. Về bộ tranh của Hoàng Nhật Quang (11 tuổi), họa sĩ Thành Chương, thành viên Hội đồng Giám khảo, nhận xét: “Tôi xem bộ tranh này hơi bất ngờ. Bởi tạo hình cũng như các ý tưởng của tác giả nhí này rất phong phú. Không nghĩ cháu còn ít tuổi như thế. Việc đánh giá cháu ở hiện tại chỉ là một phần nhỏ, cái chính là thấy được tương lai cháu sẽ phát triển. Với họa sĩ nhí này, năng lực (năng khiếu) về tạo hình, trí tưởng tượng cũng như sự làm việc với những bức tranh lớn, tôi nghĩ cháu sẽ còn đi rất xa. Đây là trường hợp tôi đánh giá rất cao và tôi rất thích loạt tranh của cháu”. Với các tác phẩm của Thụy Phương (10 tuổi), nhà phê bình, PGS.TS Văn Giá, thành viên Hội đồng Giám khảo, nhận xét: “Thụy Phương có sức viết đáng nể so với độ tuổi, văn phong chỉn chu, kỹ lưỡng, với những câu văn chững chạc, chuyên nghiệp. Đây cũng là tín hiệu đáng quý cho tương lai của tác giả nhí này”. Họa sĩ nhí Xèo Chu (sinh năm 2007) từng đoạt giải Khát vọng Dế Mèn lần 2 – 2021 nghe tin năm này có hai tác giả nhí đoạt giải, đã nhờ mẹ trích từ tiền bán tranh gửi tặng mỗi tác giả 10 triệu đồng. Điều này cho thấy sức lan tỏa, sự đồng hành, chia sẻ của những tác giả từng có dấu ấn với giải Dế Mèn. Nhà báo Vũ Việt Trang – Tổng giám đốc TTXVN trao giải “Hiệp sĩ Dế Mèn” cho nhà văn Trần Đức Tiến. Đáng chú ý nữa, sau giải Hiệp sĩ Dế Mèn đầu tiên (lần 1 – 2020) được trao cho nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, và sau 2 năm liên tiếp (2021 – 2022) không tìm được “Hiệp sĩ”, thì năm nay đã có giải Hiệp sĩ Dế Mèn thứ 2 được trao nhà văn Trần Đức Tiến. Trần Đức Tiến sinh năm 1953 tại huyện Lý Nhân , tỉnh Hà Nam , hiện sống ở Bà Rịa – Vũng Tàu . Ông viết cho cả thiếu nhi và người lớn. Khá nhiều tác phẩm của ông đã được đưa vào sách giáo khoa như Giọt sương đêm (Ngữ Văn 6, tập 1, bộ Chân trời sáng tạo), Cá chuồn tập bay ( Tiếng Việt 2 , tập 2, bộ Chân trời sáng tạo), Bạn nhỏ trong nhà ( Tiếng Việt 3 , tập 1, bộ Kết nối tri thức), Hoa cúc áo (Tiếng Việt 4, tập 2, bộ Chân trời sáng tạo), Chân trời cuối phố (Tiếng Việt 4, tập 1, bộ Kết nối tri thức)… A lô!… Cậu đấy à? – tác phẩm mới nhất của ông được đưa vào xét giải Dế Mèn năm nay (lọt vào Top 10 chung khảo) – là sáng tác tiếp theo của cuốn đồng thoại nổi tiếng Xóm Bờ Giậu (2019). Theo tiêu chí của giải Dế Mèn được công bố trong Báo cáo Tổng kết của Hội đồng Giám khảo mùa giải thứ nhất năm 2020 thì hạng mục Giải thưởng Lớn – Hiệp sĩ Dế Mèn vẫn giữ tiêu chí quan trọng nhất là trao cho tác giả có “sáng tác, trình diễn nghệ thuật – giải trí xuất sắc trong năm”, đồng thời có bề dày sáng tác, cống hiến cho thiếu nhi trong cả sự nghiệp của mình. Sự nghiệp sáng tác văn học thiếu nhi của Trần Đức Tiến đã được ghi nhận bằng các giải thưởng như: Giải Nhì cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi của Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Việt Nam & Hội Nhà văn Việt Nam (1992); Giải Nhì cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi của Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Việt Nam & Hội Nhà văn Việt Nam (1997); Giải Nhất cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi của Bộ Giáo dục & Đào tạo & Hội Nhà văn Việt Nam (2005); Giải Nhất cuộc vận động sáng tác Bước qua hai thế giới do Dự án hỗ trợ văn học thiếu nhi Việt Nam – Đan Mạch tổ chức; Giải B, Giải thưởng Sách quốc gia cho tác phẩm Xóm Bờ Giậu (2019). Gia tài tác phẩm cho thiếu nhi của Trần Đức Tiến, bên cạnh A lô!… Cậu đấy à? (Nhà xuất bản Kim Đồng, 2022), còn có 10 cuốn giúp ông đủ điều kiện để được “tấn phong” Hiệp sĩ Dế Mèn – giải thưởng danh giá dành cho cả sự nghiệp vì thiếu nhi của một nghệ sĩ. Đó là: 1. Ốc mượn hồn , Nhà xuất bản Kim Đồng, 1992; 2. Vương quốc vắng nụ cười , Nhà xuất bản Kim Đồng, 1993; 3. Dế mùa Thu , Nhà xuất bản Kim Đồng, 1997; 4. Thằng Cúp , Nhà xuất bản Kim Đồng, 2001; 5. Làm mèo , Nhà xuất bản Kim Đồng, 2003 (tái bản 2015, 2023 – Nhà xuất bản Thời Đại, Dân Trí in lại); 6. Trăng vùi trong cỏ , Nhà xuất bản Kim Đồng, 2006; 7. Chiếc lông ngỗng trời , Nhà xuất bản Kim Đồng, 2011; 8. Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Trần Đức Tiến, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2013; 9. Trên đôi cánh chuồn chuồn , Nhà xuất bản Kim Đồng, 2015 (tái bản 2020); 10. Xóm Bờ Giậu , Nhà xuất bản Kim Đồng, 2019 (tái bản 2020, 2021, 2022). Khi được hỏi “Ông vẫn tiếp tục sáng tác cho thiếu nhi chứ?”, “Hiệp sĩ Dế Mèn” Trần Đức Tiến khảng khái: “Chắc chắn rồi! Chừng nào còn gõ ra chữ thì còn viết cho thiếu nhi”. Đánh giá chung về giải thưởng năm nay, nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Giám khảo, khẳng định: “Việc giải năm nay tìm được 1 Hiệp sĩ Dế Mèn, 4 Khát vọng Dế Mèn và 2 Tặng thưởng của Hội đồng Giám khảo là một kết quả khá toàn diện. Qua 4 mùa tổ chức, Giải thưởng Thiếu nhi Dế Mèn ngày càng chuyên nghiệp hơn, thu hút được sự chú ý, sự sáng tạo của đông đảo văn nghệ sĩ và thiếu nhi. Có rất nhiều tác phẩm tốt từ giải thưởng này đã góp thêm sự phong phú vào kho tàng nghệ thuật thiếu nhi. Và cứ mỗi năm, tác phẩm lại nhiều hơn, người tham gia đông đảo hơn và tác phẩm xem ra cũng chất lượng hơn. Đó là điều rất đáng mừng”.
Nhà văn Trần Đức Tiến nhận giải Hiệp sĩ Dế Mèn
1,490
Tranh: Sangeetha Bansal. Truyện ngắn “Trên gối đá” do Trương Thùy Linh dịch được in trong cuốn “Ngôi thứ nhất số ít”, mới xuất bản tại Việt Nam. Chuyện mà tôi sắp kể ở đây là về một cô gái. Nói vậy chứ tôi hoàn toàn chẳng có kiến thức nào về cô. Đến cả tên lẫn mặt cô tôi cũng không còn nhớ. Tôi chắc là cô cũng không nhớ cả tên lẫn mặt của tôi. Khi gặp cô, tôi chưa tới hai mươi, đang là sinh viên năm hai, còn cô thì tôi nghĩ là khoảng hai nhăm, hai sáu. Chúng tôi làm thêm tại cùng một nơi, cùng một thời điểm. Và do hoàn cảnh đưa đẩy, đã trải qua một đêm cùng nhau. Sau đó chúng tôi không gặp nhau lần nào nữa. Tôi hồi mười chín tuổi chẳng biết mấy về những rung động trong tâm hồn mình, đương nhiên, cũng không hiểu những rung động trong tâm hồn người khác. Mặc dầu vậy, riêng trạng thái vui buồn thì tôi nghĩ là mình nắm bắt được phần nào. Chỉ là chưa nhìn thấu được nhiều hiện tượng ở giữa vui và buồn và mối quan hệ giữa chúng. Việc này luôn khiến tôi có cảm giác bất lực, bồn chồn không yên. Mặc dầu vậy, tôi vẫn muốn kể về cô. Điều tôi biết về cô là cô sáng tác thơ tanka* và đã xuất bản một tập thơ. Gọi là tập thơ nhưng chỉ là một cuốn sách đơn giản với những tờ giấy in được đóng lại bằng dây dù rồi gắn thêm một tờ bìa sơ sài, thậm chí khó có thể nói đó là sách tự xuất bản. Nhưng một số bài trong tập thơ đó đã hằn sâu đến mức kỳ lạ trong tâm trí tôi. Hầu hết bài cô viết là về tình yêu đôi lứa và cái chết của con người. Như để chỉ rằng, tình yêu và cái chết nhất quyết không bao giờ chịu tách rời – ly tán. Anh và em Có ở xa nhau Không nhỉ? Lẽ nào nên nối chuyến Bằng Sao Mộc? Áp một bên tai Vào gối đá Nghe thấy Vô thanh, Vô thanh của máu chảy “Này, lúc lên đỉnh , có thể tôi sẽ gọi tên người đàn ông khác, cậu không phiền chứ?”, cô hỏi. Chúng tôi đang trần truồng nằm trong chăn. “Không sao”, tôi đáp. Dù không chắc lắm nhưng tôi nghĩ việc nhỏ như vậy chắc không sao. Chỉ là cái tên thôi mà. Sẽ chẳng có gì thay đổi chỉ vì một cái tên. “Có thể tôi sẽ hét to đấy”. “Thế thì sẽ hơi rắc rối”, tôi vội nói. Bởi lẽ căn phòng cũ kỹ bằng gỗ tôi đang ở có tường mỏng và yếu như miếng bánh xốp tôi ăn hồi nhỏ. Lúc này cũng đã khuya rồi, cô mà hét to thì phòng bên cạnh sẽ nghe thấy hết. “Vậy tôi sẽ cắn vào khăn bông”, cô nói. Tôi chọn chiếc khăn sạch và chắc chắn nhất từ chỗ rửa mặt đem ra đặt cạnh gối. “Thế này chắc được nhỉ?”. Cô cắn thử chiếc khăn vài lần, hệt như chú ngựa thử chiếc hàm thiếc mới. Xong rồi cô gật đầu. Ý bảo được rồi. Lần quan hệ đó chỉ là do hoàn cảnh đưa đẩy. Không phải tôi ham muốn cô, cũng chẳng phải cô ham muốn tôi (tôi nghĩ vậy). Chúng tôi làm chung chỗ được khoảng nửa tháng nhưng vị trí làm việc lại hơi xa nhau nên hầu như tôi không có cơ hội nói chuyện đàng hoàng với cô. Suốt mùa đông năm ấy, tại một quán ăn Ý bình dân ở gần ga Yotsuya, tôi làm chân phụ bếp và rửa bát, còn cô thì chạy bàn. Những người làm thêm ở đó đều là sinh viên, chỉ riêng cô thì không. Có lẽ vì thế mà cách cư xử của cô có chút gì đó xa cách. Vì cô sẽ nghỉ làm vào giữa tháng mười hai nên một hôm, sau khi quán đóng cửa, vài nhân viên rủ nhau đi uống tại một quán rượu gần đó. Tôi cũng được rủ đi. Cũng không hoành tráng tới mức gọi là tiệc chia tay. Mọi người chỉ uống bia, nhắm mấy món đơn giản, nói chuyện linh tinh trong khoảng một tiếng. Lúc đó tôi mới biết trước khi làm tại quán ăn này, cô từng làm ở một công ty bất động sản nhỏ và làm nhân viên hiệu sách. Cô bảo chỗ nào cô cũng không hợp với cấp trên và chủ. Ở quán ăn này, tuy không đụng chạm với ai nhưng lương thấp quá, cứ thế này thì khó mà sống tiếp nên dù không muốn, cô buộc phải tìm việc mới. Ai đó hỏi cô muốn làm công việc gì. “Việc gì cũng được”. Cô vừa nói vừa lấy ngón tay gãi cánh mũi (trên cánh mũi cô có hai nốt ruồi nhỏ, đứng cạnh nhau như một chòm sao). “Bởi làm gì có việc nào ra hồn dành cho tôi”. Hồi đó tôi sống ở Asagaya, còn nhà cô ở Koganei. Thế nên chúng tôi cùng lên chuyến tàu nhanh Chuo ở ga Yotsuya để đi về. Hai chúng tôi ngồi cạnh nhau trên băng ghế. Lúc này đã hơn 11 giờ. Một buổi tối lạnh buốt, nhiều gió. Thoáng chốc đã tới mùa phải dùng đến găng tay và khăn quàng. Khi gần đến Asagaya, tôi đứng dậy chuẩn bị xuống tàu thì cô ngẩng lên nhìn tôi, khẽ nói: “Này, nếu không phiền thì hôm nay tôi ngủ lại chỗ cậu được không?”. “Được, nhưng tại sao?”. “Vì tới Koganei còn xa quá”, cô nói. “Phòng em chật lắm, lại bừa bộn nữa”, tôi nói. “Tôi không bận tâm đâu”, cô nói rồi túm lấy tay áo khoác của tôi. Về tới phòng trọ chật chội và tồi tàn của tôi, cô và tôi cùng uống bia. Thư thả uống bia xong, cô lập tức trút bỏ quần áo ngay trước mặt tôi như thể đó là chuyện đương nhiên, trong chớp mắt, cô khỏa thân hoàn toàn rồi chui vào chăn. Tôi cũng làm theo, cởi quần áo rồi chui vào chăn. Tuy đã tắt đèn nhưng căn phòng vẫn sáng nhờ chiếc lò sưởi ga. Nằm trong chăn, chúng tôi lóng ngóng làm ấm cơ thể nhau. Chẳng ai nói năng gì suốt một lúc lâu. Biết nói gì bây giờ khi bỗng dưng khỏa thân đây. Nhưng chúng tôi có thể cảm nhận được qua làn da, đúng theo nghĩa đen, rằng cơ thể cả hai đang dần ấm lên và bắt đầu thả lỏng. Một cảm giác gần gũi có phần kỳ lạ. Đó là lúc cô hỏi tôi câu: “Này, lúc lên đỉnh , có thể tôi sẽ gọi tên người đàn ông khác, cậu không phiền chứ?”. “Chị thích người đó à?”. Tôi hỏi sau khi chuẩn bị xong khăn tắm. “Ừ, rất thích”, cô nói. “Cực, cực thích. Không thể ngừng nghĩ đến. Nhưng anh ấy thì không thích tôi đến vậy. Nói đúng hơn là anh ấy có người yêu rồi”. “Nhưng hai người vẫn qua lại?”. “Ừ. Khi nào thấy thèm cơ thể tôi, anh ấy sẽ gọi cho tôi”, cô nói. “Giống như nhấc điện thoại lên và gọi giao hàng vậy”. Vì chẳng biết phải nói gì nên tôi im lặng. Cô dùng đầu ngón tay vẽ hình gì đó lên lưng tôi. Hoặc có thể là chữ viết theo lối thảo thư**. “Anh ấy nói mặt tôi thô nhưng cơ thể thì hoàn hảo”. Tôi không nghĩ mặt cô thô nhưng có lẽ để gọi là đẹp thì quả thật hơi khiên cưỡng. Giờ tôi không còn nhớ gương mặt cô cụ thể trông thế nào nên không miêu tả được chi tiết. “Nhưng chị sẽ đi khi anh ấy gọi?”. “Thì bởi tôi yêu mà, nên đâu còn cách nào khác”, cô nói như thể đó là chuyện đương nhiên. “Dù bị nói gì đi nữa thì thi thoảng tôi vẫn muốn được đàn ông ôm ấp”. Tôi thử suy nghĩ một chút về điều cô nói. Nhưng tôi hồi ấy không hình dung được cụ thể “thi thoảng muốn được đàn ông ôm ấp” là trạng thái cảm xúc thế nào đối với cô (ngẫm thử thì ngay cả bây giờ tôi cũng cảm giác là mình vẫn chưa hiểu). “Yêu một người giống như mắc một căn bệnh tâm thần không được bảo hiểm y tế ấy”, cô nói. Giọng bình thản như thể đọc chữ viết trên tường. “Ra là vậy”. Tôi thán phục. “Vì thế cậu cũng nghĩ tôi là người khác đi”, cô nói. “Cậu có người mình yêu mà, đúng không?”. “Em có”. “Vậy thì lúc lên đỉnh , cậu cứ gọi tên người đó, không sao đâu. Tôi cũng sẽ không bận tâm”. Nhưng tôi đã không gọi tên cô gái đó – cô gái mà tôi yêu nhưng vì hoàn cảnh, mối quan hệ của chúng tôi không tiến xa. Tôi đã định gọi nhưng rồi lại cảm thấy ngớ ngẩn sao đó… Quả nhiên, cô toan hét to tên người đàn ông nên tôi phải vội chặn cái khăn vào giữa hai hàm răng của cô. Hàm răng cô có vẻ rất chắc khỏe. Đến mức nếu nha sĩ nhìn thấy thế nào cũng xúc động. Tôi cũng không nhớ cái tên mà cô đã gọi khi ấy. Chỉ nhớ là một cái tên phổ biến, không nổi bật. Tôi còn nhớ mình đã rất thán phục trước việc một cái tên tẻ nhạt như vậy lại có ý nghĩa lớn đối với cô. Đôi lúc, một cái tên thôi cũng có thể khiến trái tim người khác rung động mạnh mẽ. Đúng ra thì hôm sau tôi có giờ học từ sáng sớm và phải nộp một báo cáo quan trọng thay cho bài thi giữa kỳ, nhưng tất nhiên là tôi mặc kệ (hậu quả là sau đó tôi gặp đủ mọi rắc rối, nhưng thôi, đó là chuyện khác). Mãi gần trưa chúng tôi mới tỉnh dậy, đun nước pha cà phê và nướng bánh mì ăn. Còn mấy quả trứng trong tủ lạnh, tôi cũng đem luộc nốt. Trời trong vắt không một gợn mây, ánh nắng chói chang buổi sáng càng khiến tôi thêm uể oải. Vừa cắn miếng bánh mì phết bơ, cô vừa hỏi tôi học ngành gì ở đại học. Tôi đáp là khoa văn. Cô hỏi tôi muốn trở thành nhà văn à. Tôi thành thật đáp là không. Hồi đó, tôi hoàn toàn không có ý định trở thành nhà văn. Cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó (dù trong lớp có khối kẻ tuyên bố rằng sẽ trở thành nhà văn). Nghe tôi đáp vậy, có vẻ như cô mất luôn hứng thú với tôi. Dù vốn dĩ có thể cô chẳng hứng thú với tôi đến thế. Dưới ánh sáng rực rỡ ban ngày, chiếc khăn tắm còn hằn vết răng của cô trông thật kỳ lạ. Hẳn là cô đã nghiến mạnh lắm. Ngay cả bản thân cô khi nhìn vào ban ngày cũng có cảm giác không phù hợp . Thật khó hình dung cô gái nhỏ nhắn, gầy gò, nhợt nhạt đang ngồi trước mặt lại chính là cô gái đã ở trong vòng tay tôi đêm qua, hét lên những tiếng hân hoan nhục cảm dưới ánh trăng mùa đông rọi vào từ cửa sổ. “Tôi làm thơ tanka đấy”, cô đột nhiên nói. “Thơ tanka?”. “Cậu biết thơ tanka mà?”. “Tất nhiên”. Một kẻ ngu ngơ sự đời như tôi cũng biết thơ tanka là gì. “Nhưng ngẫm thử thì đây là lần đầu em gặp một người làm thơ tanka ngoài đời”. Cô cười sảng khoái. “Nhưng trên đời này có người như vậy mà”. “Chị tham gia trong câu lạc bộ à?”. “Không, không phải kiểu đó”, cô nói rồi nhẽ nhún vai. “Vì tanka là thứ có thể làm một mình được. Chẳng phải vậy sao? Có phải chơi bóng rổ đâu”. “Thơ tanka của chị như thế nào?”. “Cậu muốn nghe không?”. Tôi gật đầu. “Thật chứ? Không phải là cậu chỉ đang hùa theo câu chuyện?”. “Thật”, tôi nói. Tôi không nói dối. Tôi tương đối nghiêm túc khi muốn biết cô gái mới vài giờ đồng hồ trước còn thở hổn hển trong vòng tay tôi và hét to tên người đàn ông khác rốt cuộc làm những bài thơ tanka thế nào. Sau một hồi lưỡng lự, cô nói: “Giờ mà đọc ở đây thì ngại lắm, tôi không làm được. Vẫn còn đang buổi sáng mà. Nhưng tôi đã ra một tập thơ rồi nên nếu cậu thực sự muốn đọc thì tôi sẽ gửi tặng cậu. Cho tôi tên và địa chỉ của cậu nhé?”. Tôi ghi tên và địa chỉ vào tờ giấy nhớ rồi đưa cho cô, cô nhìn mẩu giấy rồi gấp lại làm tư, nhét vào túi áo khoác. Chiếc áo khoác màu xanh lá cây nhạt đã sờn cũ. Ở cổ áo tròn có cài chiếc ghim màu bạc hình hoa huệ tây. Tôi vẫn còn nhớ chiếc ghim ấy đã sáng lấp lánh khi ánh nắng từ cửa sổ hướng nam rọi vào. Tuy không am hiểu về hoa nhưng không hiểu sao riêng hoa huệ tây thì từ bé tôi đã thích. “Cảm ơn cậu cho tôi ngủ lại. Tôi không muốn đi tàu một mình về Koganei đâu, thật đấy”. Cô nói khi chuẩn bị rời khỏi phòng trọ của tôi. “Con gái thi thoảng lại như vậy”. Khi ấy, hai chúng tôi đều biết rõ. Rằng cả hai sẽ không gặp lại nhau nữa. Rằng buổi tối hôm ấy, chỉ là cô không muốn đi tàu một mình về Koganei… Chỉ thế thôi. ___ Chú thích: *Tanka (đoản ca): một thể thơ cổ của Nhật, mỗi bài thơ gồm năm dòng, lần lượt có số lượng âm tiết là 5-7-5-7-7. **Lối viết chữ theo phong cách phóng khoáng, giản lược. —————— Truyện ngắn Haruki Murakami: Trên gối đá (kỳ 2) – Trương Thùy Linh dịch
Truyện ngắn Haruki Murakami: Trên gối đá (kỳ 1) – Trương Thùy Linh dịch
2,297
Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) ngày 31/5 cho biết các nhà khoa học tại cơ quan này đang thử nghiệm một cách tiếp cận mới nhằm phát hiện sóng thần qua tiếng ầm mà hiện tượng này tạo ra trong khí quyển. Ảnh minh họa: NASA/TTXVN. Theo thông báo của NASA, công nghệ mới giám sát mối nguy hiểm nói trên được gọi là GUARDIAN (Mạng lưới thông tin thảm họa và cảnh báo dựa trên thời gian thực khí quyển tầng cao GNSS). Công nghệ này sử dụng các tín hiệu từ hệ thống định vị toàn cầu (GPS) để phát hiện sóng ở Vành đai lửa Thái Bình Dương. GUARDIAN sàng lọc các tín hiệu để tìm kiếm dấu hiệu một cơn sóng thần đang hình thành ở đâu đó trên Trái Đất. Nhà khoa học Leo Martire tại NASA cho biết trong khi các công cụ điều hướng thường tìm cách khắc phục các nhiễu loạn của tầng điện ly, các nhà khoa học sử dụng các nhiễu loạn này làm dữ liệu để phát hiện thiên tai, qua đó đưa ra cảnh báo sớm. Theo NASA, mục tiêu dài hạn của GUARDIAN là tăng cường các hệ thống cảnh báo sớm.
NASA thử nghiệm phương thức mới giúp phát hiện sớm sóng thần
203
Một vật thể không gian bí ẩn đã âm thầm bám theo Trái Đất từ năm 100 trước Công Nguyên, hoạt động như một mặt trăng không toàn vẹn. Theo Live Science, đó là một tiểu hành tinh chỉ vừa mới được phát hiện và được đặt tên là 2023 FW13. Các nhà khoa học coi nó như một loại “chuẩn trăng” hay “bán mặt trăng”, vì nó không hoạt động như một vệ tinh hoàn hảo như thiên thể mang tên Mặt Trăng mà chúng ta vẫn thấy trên bầu trời. Ảnh đồ họa mô tả một tiểu hành tinh đồng hành với Trái Đất – cách mà “bán mặt trăng” 2023 FW13 đã làm – Ảnh: Zoonar GmbH/Alamy Stock Photo. 2023 FW13 thực ra không quay quanh Trái Đất mà quay quanh mặt trời, nhưng với quỹ đạo gần như song song với Trái Đất nên trở thành người bạn đồng hành với chúng ta. Nó cũng đã bị một chút lực hấp dẫn của Trái Đất tác động, điều góp phần giữ trạng thái đồng hành. Các ước tính cho thấy 2023 FW13 có đường kính 15 m và cách Trái Đất 14 triệu km, nhỏ và gần hơn nhiều so với Mặt Trăng (đường kính 3.474 km, cách Trái Đất 364.000 km), theo NASA. “Mặt trăng thứ 2” này được nhận thấy lần đầu hồi tháng 3 năm nay bởi đài quan sát Pan-STARRS nằm trên đỉnh núi lửa Haleakala ở Hawaii (Mỹ); sau đó được xác nhận bởi Kính viễn vọng Canada – Pháp – Hawaii (Hawaii) và 2 đài quan sát khác ở bang Arizona – Mỹ. Theo nhà thiên văn học – nhà báo Adrien Coffinet từ Đài thiên văn Geneva (Thụy Sĩ), người đầu tiên phân loại 2023 FW13 là một “bán mặt trăng”, thiên thể này đã âm thầm bám theo Trái Đất từ năm 100 trước Công Nguyên. Nó có thể tiếp tục đi theo quỹ đạo này và đồng hành với Trái Đất cho đến tận năm 3700. Sau phát hiện ban đầu, các nhà khoa học đã lật lại dữ liệu quan sát từ nhiều đài thiên văn khắp thế giới và nhận thấy nó đã ẩn hiện trong các ống kính từ năm 2012, nhưng không được chú ý, theo Space. Mặc dù bay gần Trái Đất nhưng nó sẽ không va chạm với chúng ta nhờ một quỹ đạo tương đối an toàn và ổn định, theo nhà thiên văn học Alan Harris từ Viện Khoa học không gian (Colorado – Mỹ).
Mặt trăng thứ 2 của Trái Đất xuất hiện: ‘Bóng ma’ 2.100 tuổi
412
Nỗi buồn giống một đứa trẻ hiếu động, thích núp trong bóng tối, thỉnh thoảng làm người ta giật mình. Nếm trải đau buồn là cách để những đứa trẻ trưởng thành thật mạnh mẽ. Tiểu thuyết Bọ tuyết của Yasushi Inoue. Ảnh: N.N. Bọ tuyết là tiểu thuyết tự truyện của nhà văn Nhật Bản Yasushi Inoue. Thời thơ bé được ông tái hiện một cách tài tình bằng giọng văn trong trẻo, cùng bút pháp miêu tả sinh động, giàu sức gợi, gắn liền với những hình tượng thẩm mỹ truyền thống của đất nước Mặt Trời mọc. Tác phẩm như khúc ca về tình yêu quê hương, xứ sở và mong ước được sống hòa mình cùng thiên nhiên. Ngoài những kỷ niệm êm đềm của thời thơ ấu vô ưu, Yasushi Inoue còn mang tới cho người đọc nhiều câu chuyện về nước Nhật đầu thế kỷ XX, với những xung đột thế hệ luôn tiềm ẩn trong mỗi gia đình. Sự luyến tiếc với quá khứ huy hoàng kìm hãm con người ta đi tìm những chân trời mới. Cậu bé Kousaku, nhân vật chính của tác phẩm đã có một tuổi thơ đầy ắp tiếng cười ở vùng núi Izu thanh bình. Khi mới lên năm, anh bạn nhỏ này đã sống cùng bà lão Onui trong căn nhà được trát bằng đất bình dị. Kousaku và bà Onui vốn không có quan hệ máu mủ, nhưng người phụ nữ ấy vẫn chăm sóc cậu bé hết lòng, dành trọn trái tim để nuôi dưỡng đứa trẻ đáng yêu. Khi còn trẻ, bà Onui vốn là một geisha, được ông cố của Kousaku chuộc về làm vợ bé. Khi chồng mất, bà Onui nhận một người cháu ngoại của chồng làm con nuôi, đó chính là Nanae, mẹ của Kousaku. Vì phải sống xa quê, lại sinh liền hai đứa con, nên mẹ của Kousaku giao cậu bé cho bà Onui chăm sóc. Nơi ở của hai bà cháu được gọi là “nhà dưới”, gần đó là “nhà trên” nơi ông bà ngoại của cậu bé sinh sống. Với bà Onui, được chăm sóc Kousaku là một đặc ân. Nhờ vậy, bà có chỗ đứng trong gia đình và không sợ bị bỏ rơi khi tuổi cao sức yếu. Vì không thích những người ở nhà trên, nên người đàn bà tội nghiệp ấy thường nói những lời khó nghe về họ. Tương tự, những người cậu và dì của Kousaku cũng coi thường bà Onui. Tuy còn nhỏ, nhưng Kousaku là một đứa trẻ khá hiểu chuyện. Cậu bé luôn yêu quý mọi thành viên trong gia đình, dù suốt ngày phải nghe những lời lẽ không mấy tốt đẹp khi họ nói chuyện về nhau. Chính Kousaku đã trở thành cầu nối giữa bà Onui và những người ở nhà trên. Sống giữa những xung đột của thành viên trong một đại gia đình, Kousaku luôn cảm thấy hoài nghi vì sao thế giới của người lớn lại phức tạp như vậy. Bằng cái nhìn non nớt của một đứa bé, anh bạn nhỏ đã chọn một cách giải quyết rất đơn giản, đó là đối xử với mọi người theo đúng những gì trái tim cậu mách bảo. Bọ tuyết không chỉ có những hoài niệm tinh khôi của tuổi thơ. Nó còn chứa đựng nhiều câu chuyện cảm động về tình mẫu tử. Mỗi người mẹ trong tác phẩm mang trong mình những nỗi niềm riêng. Bà Onui không có con cái, người đàn bà tội nghiệp ấy đã chăm sóc Kousaku bằng tấm lòng của một người mẹ. Bà lão nâng niu cậu bé cẩn thận như cách người ta giữ gìn một viên ngọc quý. Khi đem Kousaku tới thăm cha mẹ, bà Onui lo sợ rằng đứa trẻ mà mình nuôi nấng bấy lâu sẽ chọn ở lại bên mẹ đẻ, rời xa bà và căn nhà được trát bằng đất lúc nào cũng toát ra mùi ẩm mốc. Nhà văn Yasushi Inoue. Ảnh: Pangea. Tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng. Sự gắn kết diệu kỳ giữa người mẹ và đứa con sẽ tồn tại vĩnh viễn, dù họ phải sống xa nhau. Chọn về quê với bà Onui, nhưng hình bóng mẹ Nanae vẫn tồn tại trong trái tim Kousaku. Biết mẹ sắp về nhà ngoại dự đám tang, cậu bé háo hức suốt đêm. Ngay cả những chuyện giản đơn như được tắm cùng mẹ cũng khiến Kousaku hồi hộp. Bà ngoại Tane lại là một người mẹ mang trong lòng nhiều tâm sự. Gia cảnh sa sút, cô con gái thứ là Saiko có mang trước khi cưới khiến bà rất đau lòng. Dù đau khổ nhưng Tane không nỡ trách mắng cô con gái dại dột. Bởi bà biết, đây là lúc con gái cần sự che chở của người mẹ. Chứng kiến sự xung đột giữa hai đứa con gái, người mẹ tội nghiệp chỉ biết tự trách mình. Còn người dì Saiko của Kousaku lại là một người mẹ rất đáng thương. Cô làm mẹ trước khi trở thành một cô dâu. Ở thời điểm đó, đây được coi là một chuyện trái với đạo lý. Dù người đời chỉ trích, chịu sự mắng mỏ của chị gái, hay phải đón nhận sự lạnh nhạt của chồng, nhưng Saiko vẫn yêu đứa con bé bỏng của mình tha thiết. Đáng thương thay, người mẹ trẻ ấy sớm phải rời xa con mình mãi mãi. Saiko qua đời vì bệnh lao. Điều buồn nhất là trước khi rời xa nhân thế, cô không có cơ hội gặp mặt con lần cuối. Bọ tuyết không chỉ chứa đựng những kỷ niệm ngọt lành của tuổi thơ giản đơn được hòa mình cùng thiên nhiên. Khi đã bước qua nhiều cay đắng của đời người, nhà văn đã bình tâm lại, nhìn cuộc đời bằng trái tim vô ưu của một đứa trẻ để học cách tha thứ cho những lỗi lầm của quá khứ. Đời người vốn qua nhanh như một cơn gió mùa hè, tâm cứ mang ưu phiền sẽ uổng phí một kiếp. Nhà văn Yasushi Inoue có một bút pháp miêu tả tài tình, từ cảnh vật đến con người đều hiện lên trong tác phẩm của ông một cách sắc nét và có hồn. Nhân vật của ông dù chỉ xuất hiện trong thoáng chốc nhưng để lại ấn tượng khó phai với người đọc. Tác phẩm là một câu chuyện không quá bi lụy nhưng vẫn khiến người ta day dứt.
Những hoài niệm tinh khôi của tuổi thơ
1,086
Ngày Quốc tế Thiếu nhi được tổ chức hàng năm ở nhiều nơi trên thế giới như một sáng kiến vì quyền lợi và hạnh phúc của trẻ em. Và mỗi nước lại có những cách khác nhau để ngày này trở nên đặc biệt. Ngày 1/6 hàng năm đã trở thành một ngày đặc biệt dành cho trẻ em ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới (Ảnh minh họa: iStock Images). Nguồn gốc ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6 Ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6 bắt nguồn từ một sự kiện đau lòng trong lịch sử. Đó là vào ngày 1/6/1942, quân phát xít Đức bao vây làng Lidice (Tiệp Khắc) và đã bắt giữ 173 người đàn ông, 196 người phụ nữ và trẻ em. Tại đây, quân phát xít đã tàn sát 66 người và đưa 104 em thiếu nhi vào trại tập trung, 88 em bị chết trong các phòng hơi độc, 9 em khác bị đưa đi làm tay sai cho quân phát xít. Hai năm sau, vào ngày 10/6/1944, phát xít Đức lại bao vây thị trấn Oradour (Pháp), chúng dồn 400 người vào nhà thờ, trong đó có nhiều phụ nữ và hơn 100 trẻ em, phóng hỏa đốt cháy một cách thảm thương. Để tưởng nhớ đến hàng trăm trẻ em vô tội đã bị Đức Quốc xã sát hại nhẫn tâm, năm 1949 Liên đoàn Phụ nữ dân chủ Quốc tế đã quyết định lấy ngày 1/6 hàng năm làm ngày quốc tế bảo vệ thiếu nhi, nhằm đòi chính phủ các nước phải nhận trách nhiệm về đời sống thiếu nhi, đòi giảm ngân sách quân sự để tăng ngân sách giáo dục, bảo vệ và chăm sóc thiếu niên, nhi đồng. Kể từ năm 1950, ngày 1/6 hàng năm trở thành ngày của thiếu nhi ở nhiều nước trên thế giới. Có phải ngày của thiếu nhi ở nước nào cũng là ngày 1/6? Ngày 1/6 hàng năm đã trở thành một ngày đặc biệt dành cho trẻ em ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, không phải nước nào cũng lấy ngày 1/6 là ngày Quốc tế Thiếu nhi. Vào năm 1954, nhằm khuyến khích các nước ghi nhớ về trẻ em và bảo vệ quyền lợi trẻ em, Liên hợp quốc đã đề xuất Ngày Thiếu nhi Thế giới tổ chức vào ngày 20/11 mỗi năm. Mặc dù đề nghị ngày 20/11, nhưng Liên hợp quốc lại để cho các quốc gia thành viên có thể tổ chức Ngày Thiếu nhi của riêng nước mình vào các ngày tự chọn khác nhau. Trong đó, Australia chọn ngày thứ tư tuần cuối cùng của tháng 10 hằng năm là Ngày Trẻ em ở nước này. Ở Brazil, ngày hội cho thiếu nhi chính là ngày Đức Mẹ Aparecida 12/10, đây là ngày nghỉ toàn quốc tại quốc gia Nam Mỹ này. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, 23/4 là Ngày lễ Chủ quyền quốc gia và Ngày Trẻ em. Đây cũng là ngày nghỉ lễ toàn quốc. Ngày quốc tế thiếu nhi ở Ấn Độ lại là ngày 14/11. Ở Nhật, Ngày quốc tế thiếu nhi là ngày nghỉ toàn quốc và được tổ chức vào ngày 5/5 hàng năm. Trong khi đó, có khoảng 30 nước chọn Ngày Quốc tế Thiếu nhi là ngày 1/6 như: Nga, Trung Quốc, Bulgaria, Lào, Campuchia, Việt Nam…. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực châu Á và là nước thứ hai trên thế giới đã phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990. Ngày Thiếu nhi được tổ chức như thế nào ở các nước? Tại Trung Quốc, Ngày Thiếu nhi là một ngày lễ được các trường tổ chức nhiều hoạt động vui chơi khác nhau, chẳng hạn như biểu diễn văn nghệ, các chuyến cắm trại, các trò chơi dân gian,… Vào dịp này, một số rạp chiếu phim cũng cung cấp vé miễn phí cho trẻ em và một số điểm du lịch cung cấp giảm giá hoặc miễn phí cho trẻ em vào ngày này. Tại Bulgaria, Ngày Thiếu nhi là một dịp đặc biệt, khi trẻ em là trung tâm của sự chú ý. Các gia đình thường kỷ niệm ngày này bằng cách tặng những món quà tương tự như những gì trẻ em nhận được vào ngày sinh nhật và tụ tập cùng nhau trong một bữa tối đặc biệt để thể hiện sự may mắn khi có con trong gia đình. Ngày Quốc tế Thiếu nhi tại Nga được tổ chức với nhiều hoạt động như trò chơi, tham quan, đọc sách và lớp học tại các cơ sở văn hóa khác nhau, bao gồm bảo tàng và thư viện. Ngoài ra, các nhà hát và phòng hòa nhạc sẽ có các sự kiện hấp dẫn dành cho trẻ em. Tại Ba Lan, Ngày Thiếu nhi là một ngày vui chơi và giải trí dành cho trẻ em. Nhiều cuộc thi, giải đấu, dã ngoại và chuyến đi được tổ chức để đảm bảo họ có một ngày đáng nhớ. Thổ Nhĩ Kỳ chọn 23/4 làm Ngày lễ Chủ quyền quốc gia và Ngày Trẻ em. Đây là ngày nghỉ lễ toàn quốc, các bạn nhỏ có thể có cơ hội “kiếm” một vị trí trong Quốc hội và tham gia việc nước một cách tượng trưng như bầu ra một “tổng thống” thay mặt trẻ em phát biểu trên truyền hình. Tại các sự kiện vui chơi, văn nghệ, mọi người biểu diễn những điệu múa, hát truyền thống. Ở Nhật Bản, Ngày Thiếu nhi là một ngày lễ quốc gia, được tổ chức hàng năm vào ngày 5 tháng 5. Vào ngày này, các gia đình thường trưng bày những bức tượng nhỏ các chiến binh Samurai, tượng trưng cho sức mạnh và lòng dũng cảm, với mong muốn các bé lớn lên thành công, khỏe mạnh, dũng cảm. Tại Ấn Độ, Ngày Thiếu nhi là 14/11, trùng với ngày sinh của Thủ tướng đầu tiên của quốc gia này, ông Jawaharlal Nehru. Đây là vị Thủ tướng nổi tiếng vì tình thương yêu dành cho trẻ em. Ở Việt Nam, sau khi đất nước giành được độc lập, ngày 1/6 và Tết Trung thu (15/8 âm lịch) hàng năm đã thật sự trở thành ngày hội vui chơi tưng bừng của thiếu nhi cả nước. Ngày Quốc tế Thiếu nhi đầu tiên (1/6/1950) trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trải qua thời kỳ cam go ác liệt nhất, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn nghĩ tới thiếu nhi cả nước và gửi thư chúc mừng các cháu thiếu niên, nhi đồng. Kể từ đó đến nay, ngày 1/6 đã trở thành ngày Tết dành cho trẻ em Việt Nam . Trong ngày này, các em không chỉ được nhận những lời chúc mừng, những món quà đầy yêu thương của ông bà, cha mẹ, người thân mà còn được nhận sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức trên khắp cả nước. Rất nhiều hoạt động ý nghĩa vào dịp Ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6 đã được tổ chức với mong muốn mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tất cả trẻ em./.
Bạn biết gì về Ngày Quốc tế Thiếu nhi?
1,212
Phát biểu tại Hội nghị, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng đoàn Việt Nam nhấn mạnh, là một trong số các quốc gia hứng chịu thiên tai và ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu nhiều nhất thế giới, Việt Nam luôn coi trọng việc thực hiện các cam kết toàn cầu để giảm thiểu rủi ro thảm họa. Trong hai ngày 18/05 và 31/05, Hội nghị cấp cao kiểm điểm giữa kỳ việc thực hiện Khung hành động Sendai về giảm thiểu rủi ro thảm họa với chủ đề “Cùng nhau hành động để giảm thiểu rủi ro vì một tương lai tự cường” đã diễn ra dưới sự chủ trì của Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Khóa 77. Đại sứ Đặng Hoàng Giang. Tham dự hội nghị có lãnh đạo, quan chức cao cấp và đại diện 192 quốc gia thành viên cùng nhiều tổ chức quốc tế liên quan. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chính trị thể hiện cam kết mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với các giải pháp cần ưu tiên triển khai nhằm cụ thể hóa 4 ưu tiên của Khung hành động Sendai từ nay đến năm 2030. Phó Tổng thư ký LHQ Amina Mohammed đánh giá việc thực hiện Khung Sendai thời gian qua chưa đạt tiến độ và hiệu quả như mong muốn, trong khi thế giới đang đối mặt nhiều thách thức do biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, mất đa dạng sinh học và bất bình đẳng ngày càng gia tăng. Lãnh đạo LHQ kêu gọi tăng cường hợp tác đa phương nhằm nâng cao tính tự cường và khả năng phục hồi thông qua việc nâng cao nhận thức về rủi ro thảm họa, nâng cấp hệ thống quản trị và tài chính ở cấp độ quốc gia và quốc tế, thực hiện chuyển đổi từ “quản lý thiên tai sang quản lý rủi ro” và tập trung vào phòng ngừa. Đại diện của 129 quốc gia và tổ chức đã phát biểu tại phiên họp, trong đó đều ghi nhận vai trò quan trọng của Khung hành động Sendai đối với các nỗ lực của quốc tế nhằm ngăn ngừa, ứng phó và giảm thiểu rủi ro thảm họa trong giai đoạn 2015-2030. Phát biểu tại Hội nghị, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng đoàn Việt Nam nhấn mạnh, là một trong số các quốc gia hứng chịu thiên tai và ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu nhiều nhất thế giới, Việt Nam luôn coi trọng việc thực hiện các cam kết toàn cầu để giảm thiểu rủi ro thảm họa. Với phương châm chuyển đổi từ “thụ động ứng phó” sang “chủ động phòng ngừa” trong quản lý rủi ro thảm họa, Việt Nam ưu tiên triển khai các biện pháp nâng cao nhận thức, luật hóa, huy động tối đa nguồn lực sẵn có trong nước cũng như sự ủng hộ, hỗ trợ của quốc tế để nâng cao năng lực ứng phó thảm họa và đảm bảo tiến độ đạt được các mục tiêu của Khung hành động Sendai. Đại sứ Đặng Hoàng Giang khẳng định, Việt Nam ngày càng tham gia, đóng góp tích cực vào các nỗ lực quốc tế và khu vực nhằm giảm thiểu rủi ro thảm họa, thể hiện qua việc đảm nhiệm tốt vai trò Chủ tịch Ủy ban quản lý thảm họa ASEAN năm 2023, lần đầu tiên cử các đội tìm kiếm, cứu nạn quốc gia đến giúp Thổ Nhĩ Kỳ khắc phục thảm họa động đất kép tháng hồi tháng 02/2023. Trên cơ sở kết quả kiểm điểm giữa kỳ và kinh nghiệm thực tế thu được thời gian qua, Trưởng đoàn Việt Nam đề xuất 03 giải pháp lớn nhằm thúc đẩy thực hiện hiệu quả Khung hành động Sendai trong thới gian tới. Thứ nhất, cần đặt giảm thiểu rui ro thảm họa ở vị trí trung tâm trong các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, hướng tới hoàn thành các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG), trong đó bảo đảm đầu tư thỏa đáng cho cơ sở hạ tầng phòng chống và quản lý rủi ro thảm họa. Thứ hai, tăng cường các mối quan hệ đối tác toàn cầu và khu vực về giảm thiểu rủi ro thảm họa, nhất là trong việc chia sẻ thông tin và công nghệ, hướng tới xây dựng các trung tâm dữ liệu và cảnh báo sớm về thảm họa ở các cấp độ. Thứ ba, tiếp tục cải thiện các cơ chế đa phương hiện có nhằm ứng phó hiệu quả hơn với thảm họa, nhất là trong các tình huống khẩn cấp, cùng lúc xảy ra thiên tai và thảm họa do con người gây ra./. PV/VOV-Washington
Việt Nam ủng hộ thúc đẩy thực hiện Khung hành động Sendai về giảm thiểu rủi ro thảm họa
797
Thể loại Truyện cực ngắn đến nay vẫn là một thể loại thịnh hành trong văn học Trung Quốc (và thời gian qua cũng có nhiều tác giả Việt Nam thử sức ở lĩnh vực này). Hàng năm, Tác gia hiệp hội Trung Quốc đều có các tuyển tập chọn lọc Truyện Cực Ngắn của năm, cùng với Tiểu thuyết, Truyện ngắn, Thơ… Bài viết sau đây của Uông Tăng Kỳ, một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, người được coi là đi đầu trên phương diện viết tiểu thuyết bằng ngòi bút tản văn, sẽ cung cấp một góc nhìn về thể loại văn học này… Truyện cực ngắn (hay Truyện ngắn mini) vốn vẫn có từ xưa. Nước ngoài cũng có. Nhưng ở Trung Quốc thời gian gần đây, truyện cực ngắn đặc biệt phổ biến, diện độc giả cũng rất rộng. Vì vậy, truyện cực ngắn lại trở thành một hiện tượng mới đáng chú ý; truyện cực ngắn trên thực tế cũng hình thành một khái niệm mới. Truyện cực ngắn là gì? Khái niệm này bao gồm những nội dung gì? Tìm hiểu một chút về vấn đề này sẽ giúp ích cho sự phát triển trong sáng tác truyện cực ngắn. Truyện cực ngắn thịnh hành, không chỉ là vì tiết tấu khẩn trương của cuộc sống hiện nay, khiến cuộc sống trở nên gấp gáp, thiếu thời gian rảnh rỗi. Nếu đúng như thế thì những tiểu thuyết dài ắt hẳn sẽ không có ai đọc nữa. Nguyên nhân quan trọng hơn chính là yêu cầu của độc giả đối với hình thức của tiểu thuyết ngày càng nhiều hơn. Họ đòi hỏi có những sản phẩm mới, hình thức mới, hương vị mới. Thừa nhận điểm này, thì truyện cực ngắn mới có thể thực sự chiếm được một chỗ ngồi trong bàn tiệc văn học, tác giả của truyện cực ngắn mới có thể có những tìm kiếm đặc biệt riêng có của mình. Truyện cực ngắn không phải chỉ là một câu chuyện ngắn. “Ngắn” không phải là đặc trưng bên ngoài duy nhất của nó. Truyện cực ngắn vẫn có thể được coi là một nhánh của truyện ngắn, nhưng nó lại đứng bên lề của truyện ngắn. Truyện cực ngắn nên có đầy đủ những tính chất bình thường của truyện ngắn. Truyện cực ngắn và truyện ngắn xét về bản chất vừa tương cận lại vừa có những khác biệt. Nói một cách đại thể: trong truyện ngắn có nhiều thành phần tản văn hơn, còn trong truyện cực ngắn thì nên có nhiều thành phần thơ hơn. Truyện cực ngắn là một sản phẩm kết hợp hòa trộn giữa truyện ngắn và thơ. Nó không có sự hoành tráng của thơ tự sự, cũng không có tính âm nhạc mạnh mẽ như thơ trữ tình. Có thể nói, nó là một sản phẩm được viết bằng tản văn, mờ ảo hơn so với thơ tự sự, và có tính tình tiết hơn thơ trữ tình. Nó lại không phải là thơ tản văn, bởi vì rốt cuộc nó vẫn là một truyện ngắn. Truyện cực ngắn có “bốn cái không giống” ấy, vì vậy nó mới có ý nghĩa, mới “hay ho”, mới khiến người ta thích thú. Truyện cực ngắn thì phải “ngắn”. Ngắn thì là ngắn thôi: từ ngoài vào trong đều ngắn. “Trong nhỏ thấy lớn” là câu cửa miệng của những nhà bình luận, nhưng những ai có một chút kinh nghiệm sáng tác truyện cực ngắn thì đều biết, trên thực tế điều đó không thể làm nổi. Ai cũng không thể thực sự từ một giọt nước mà nhìn ra biển lớn được. Hình thế lớn, vấn đề lớn, đề tài lớn đều là những cái mà truyện cực ngắn không thể dung nạp được. Yêu cầu truyện cực ngắn phải có cảm súc lịch sử to lớn dày nặng, khái quát cả một thời đại, thì không khác nào ép một con lừa đi kéo một đoàn tàu hỏa cả. Điều mà tác giả truyện cực ngắn phát hiện, suy nghĩ, thể hiện chỉ có thể là một phiến đoạn, một mảnh ghép nho nhỏ trong cuộc sống. Mảnh ghép ấy người khác chưa từng thể hiện qua, chưa từng suy nghĩ đến, chưa từng phát hiện ra. Quan trọng nhất là phát hiện. Phát hiện tất nhiên là đi cùng với suy nghĩ, cùng với đó cũng sẽ khá dễ dàng tìm thấy một hình thức biểu hiện thích hợp một cách tự nhiên. Văn học vốn đều là sự phát hiện. Nhưng, tác giả truyện cực ngắn càng cần phải có “mắt nhìn” hơn, bởi những điều thu hút sự chú ý của tác giả truyện cực ngắn thường là những chuyện nhỏ mà người bình thường dễ dàng bỏ qua. Chuyện nhỏ ấy phải là nguyên liệu tự nhiên cho một truyện cực ngắn. Một nguyên liệu như vậy, không phải cứ cúi xuống nhặt mà được, tiện tay vơ là có thể vơ được. Có được nguyên liệu cho một truyện cực ngắn thường là việc mang tính ngẫu nhiên, thiên duyên kỳ ngộ, chẳng hẹn mà gặp. Hơn nữa, thường thường phải lưu giữ một thời gian, tác giả mới có thể hiểu ra được ý nghĩa của chuyện nhỏ ấy một cách đại khái. Viết truyện cực ngắn quả thực cần phải có một chút “thiên cơ”. Truyện cực ngắn không có nhiều khả năng mang tư tưởng gì quá sâu sắc, và cũng không nên có tư tưởng sâu sắc gì. Truyện cực ngắn có thể có một chút triết lý, nhưng không thể tiến hành một tư biện triết học nghiêm túc gì trong đó (truyện vừa, và trường thiên tiểu thuyết thì có thể). Đặc điểm của truyện cực ngắn là tư tưởng sáng rõ. Nửa mẫu mặt hồ, một vụng nước khe, nông mà chẳng lộ. Truyện cực ngắn nên phải có tính mờ ảo ở một trình độ nhất định. Mờ ảo không phải là thủ pháp, mà chính là tư tưởng của tác giả vốn không phải là quá rõ ràng. Có một chút ý tứ như vậy, nhưng hoàn toàn không hề thấu triệt. “Trong đây có chân ý; Muốn nói đã quên lời” (Câu thơ của Đào Uyên Minh – N.D) . Trên thế giới không có một ai thực sự hiểu rõ một cách triệt để và toàn diện về thế giới cả, mà họ chỉ có thể hiểu về phần thế giới mà họ cảm biết được. Hemingway nói, những tiểu thuyết gia thế kỷ XIX tự coi mình là Thượng đế, cái gì cũng biết. Balzac thì cho là cái gì ông cũng biết, độc giả chỉ cần nghe ông nói. Vì vậy, độc giả liền trở thành một kẻ thật thà nghe thế nào thì biết như thế, còn bản thân ông ấy thì đã nói rất nhiều cái mà kỳ thực ông cũng không biết. Tác giả truyện cực ngắn phải thực sự thành khẩn thể hiện cho độc giả biết rằng: về câu chuyện nhỏ này, ý nghĩa của nó, đến nay tôi vẫn mới chỉ có thể nghĩ được đến mức độ này thôi. Một thiên truyện cực ngắn được viết ra, thì quá trình sáng tác vẫn còn chưa kết thúc. Tác giả vẫn còn có thể suy nghĩ tiếp, độc giả cũng sẵn lòng cùng tác giả tiếp tục suy nghĩ. Như vậy, độc giả mới có thể vừa có được khoái cảm thưởng thức, vừa có được khoái cảm của suy tưởng. Tìm tòi, là vẫn còn chưa đạt được. Tìm tòi là việc của tác giả, cũng là việc của độc giả. Truyện cực ngắn không cần nhiều nhiệt tình quá, thậm chí không cần nhiệt tình. Hô hào, hò hét, hoa tay múa chân, sẽ khiến độc giả chán ngấy. Tác giả truyện cực ngắn trước mảnh ghép cuộc sống mà anh ta phát hiện, tốt nhất hãy vượt lên trên một chút, giữ một thái độ khách quan, hết sức để không thể hiện lên tiếng bày tỏ riêng gì. Truyện cực ngắn luôn có thái độ của nó, nhưng phải hết sức thu gọn. Có thể thể hiện sự mến mộ đối với một người, nhưng không thể khoa trương thành một đóa hoa; có thể châm biếm đối với một sự việc, nhưng không sâu cay. Điều mà một tác giả truyện cực ngắn cần là: thông minh, an tĩnh, thân thiết. Truyện cực ngắn là một dây hoa anh đào, là một cành bạch lan đượm sương, bản sắc thiên nhiên, đầy đặn hoàn mỹ. Truyện cực ngắn không phải là một cái bánh lương khô ép nhỏ, không phải rau sấy khô, không thể đem một truyện ngắn vắt khô hết nước đi, ép chặt lại trong khuôn khổ nhỏ nhoi, để biến thành một thiên truyện cực ngắn. Tất nhiên, cũng chẳng có ai đi làm một việc ngốc nghếch không ai nghĩ đến ấy. Truyện cực ngắn không thể viết một cách quá khô khan, quá bó chặt, quá chật hẹp. Càng trong một khuôn khổ có hạn, càng cần phải ung dung thoải mái. Truyện cực ngắn tự thành một kiểu, với kỹ năng riêng. Truyện cực ngắn giống như một bức tranh khổ nhỏ hình vuông, hình quạt, hay sách gấp. Cách vẽ bức tranh với khuôn khổ như thế, khác hẳn với cách vẽ một bức tranh lớn hay cuộn dài. Bố cục, dùng mực, bố trí màu sắc cũng hoàn toàn khác nhau. Một bức tranh sơn thủy hoành tráng rất khó thu nhỏ lại vẽ vào một bức tranh nhỏ. Đời Tống từng có vẽ những khung cảnh lớn như tranh đua thuyền rồng – “Long chu cạnh độ đồ”, tranh núi non lầu gác – “Tiên sơn lâu các đồ” vào những chiếc quạt lụa, dụng bút tuy cực kỳ tinh tế kỹ thuật, nhưng nhất định phải để lại những khoảng trống lớn, chứ không thể vẽ chen chúc đầy kín vào đó được. Khoảng trống, là đặc điểm của truyện cực ngắn. Có thể nói, truyện cực ngắn là nghệ thuật của khoảng trống. Trung Quốc họa coi trọng việc cân đối giữa hình vẽ và khoảng trống. Truyện cực ngắn không phải là cắt bỏ bớt mà thành. Một câu truyện mà cắt bỏ quá tàn nhẫn thì có thể nhìn ra được ngay, thường nó sẽ không thuận, không hài hòa, không “tròn”. Nên ngay trong lúc viết khống chế ngòi bút của mình, mỗi khi viết một câu đều phải suy nghĩ xem: câu này có thể không cần viết hay không? Hết sức viết ít, để những gì viết ra đều là những cái cần phải viết, một câu là một câu. Những cái không viết ra cũng vẫn có mặt, có ở “trên dưới tả hữu” của mỗi một câu. Như thế mới có thể đạt đến việc mỗi câu có dư vị, mỗi truyện có dư ý. Những bức tranh nhỏ thì càng cần phải chú ý “bút mặc tình thú”. Còn truyện cực ngắn thì cần phải chọn lựa ngôn ngữ. Người xưa luận về thơ rằng: “Thơ thất ngôn tuyệt cú như hai mươi tám hiền nhân, lẫn một kẻ đồ tể, hàng rượu vào là không thể được.” Viết truyện cực ngắn cũng nên như vậy. Truyện cực ngắn tốt nhất chớ để có khí vị của bình sách, của tấu hài, chớ nên dùng lối văn chương nhờn nhã, nửa sống nửa chín. Truyện cực ngắn nên có cảm xúc hóm hỉnh, nhưng không phải là văn chương bỡn cợt. Truyện cực ngắn không nên dùng những câu hiểm hóc kỳ quái, như người đời Tống nói là “lời khù khoằm”. Ngôn ngữ của truyện cực ngắn phải giản dị, bình đạm, nhưng có vận vị. Dẫu không thể hoàn hảo, song lòng phải luôn hướng tới vậy.
Đôi điều về truyện cực ngắn – Tác giả: Châu Hải Đường dịch
1,976
Một số người đôi lúc chợt hỏi: Ma quỷ đang trú ngụ ở đâu và Thiên thần đang trú ngụ ở đâu? Câu hỏi đó tưởng khó mà trả lời được nhưng lại đơn giản: cả ma quỷ và Thiên thần đều trú ngụ trong chính mỗi con người đang hiện diện trong đời sống này. Bạn đừng bao giờ nghĩ Ma quỷ ở ngoài bạn và trong bạn chỉ có Thiên thần. Bạn cũng đừng nghĩ rằng cả Ma quỷ và Thiên thần đều ở ngoài bạn và những gì bạn phải gánh chịu là do Ma quỷ mang đến và những gì bạn may mắn là do Thiên thần cứu giúp. Tất cả chính là do bạn. Bạn và tôi và tất cả những người đang sống đều mang trong mình cả hai thế lực đó. Tôi luôn có cảm giác trong mỗi chúng ta, Ma quỷ và Thiên thần đi lại tấp nập ngày đêm. Mỗi thế lực đó đều tìm cách thực thi kế hoạch của mình. Ma quỷ tìm cách phủ đầy bóng tối lên đời sống con người. Các Thiên thần tìm cách thắp sáng đời sống. Cả hai thế lực này có sức mạnh khủng khiếp. Nhưng sức mạnh của mỗi thế lực lại hoàn toàn phụ thuộc vào con người. Nếu con người hướng tới những điều tốt đẹp thì các Thiên thần mới đủ sức mạnh để chiến thắng. Còn không thì Ma quỷ sẽ thống trị. So với tổ tiên, ông bà và cha mẹ mình, chúng đang sống trong một thời đại mà có không ít người chật ních của cải, vật chất. Nhưng trong con người chúng ta cũng chật ních những ham muốn tồi tệ mà chúng dễ dàng tàn phá nhân tính của chúng ta, biến cuộc sống của chúng ta thành vô nghĩa và nhiều lúc đen tối. Tôi luôn tin chắc chắn rằng trong mỗi con người chúng ta đều chứa đựng những thứ giống nhau: lòng tham, sự ích kỷ, thói ngạo mạn, sự hèn yếu, thói đố kỵ, ảo tưởng, nỗi sợ hãi, sự ác độc… Tôi đang nói về những điều này không phải nhằm vào một ai đó bên cạnh tôi, ngoài tôi mà đang nói trước hết với chính tôi và về chính tôi. Sự thật là trong con người tôi chứa đầy đủ những thứ mà không ai trong chúng ta muốn thừa nhận điều đó trước bất cứ một ai đó. Nhưng khi chúng ta ở trong một không gian mà chúng ta tin chắc rằng không ai có thể phát hiện được mình thì lúc đó chúng ta mới tự thú với chính lương tâm mình rằng: những con thú dục vọng đen tối đang gào thét bên trong con người chúng ta. Những con thú mà mỗi chúng ta hoặc chiến thắng nó bằng cách bắt nó ngủ yên trong chúng ta, hoặc chúng ta thất bại trước chúng và phục tùng mọi mệnh lệnh của chúng. Giống như nhiều người, cá nhân tôi đã và đang tìm cách chống lại những con thú dục vọng trong tôi. Hay nói một cách khác: tôi đang chống lại chính một tôi khác trên một đấu trường cô đơn và thách thức. Có những nhà văn viết về những diễn biến thú tính trong con người một cách sâu sắc và chính xác đến kinh hãi. Vì sao nhà văn ấy làm được điều đó ? Hiện thực và những trải nghiệm về những diễn biến thú tính ấy không chỉ là của những người bên cạnh mà đầu tiên nó từ chính con người tác giả. Chỉ có nhà văn mới hiểu biết chính con người mình sâu sắc đến như vậy để rồi biến nó thành nhân vật của mình và mang tính khái quát nhân loại. Lúc này xuất hiện một điều: bản chất mang tính nguồn gốc của văn chương. Đó là cuộc đấu tranh giữa những “con người” trong thân xác một con người. Những con người này đã hiện diện trên những trang giấy của nhà văn giống như trên một đấu trường. Cuối cùng, con người của những vẻ đẹp nhân tính chiến thắng hoặc gục ngã trước con người của những dục vọng đớn hèn. Đấy là điểm đến cuối cùng của một tác phẩm văn chương hay nói cách khác là lẽ sống của một con người mang tên NHÀ VĂN. Sự chiến thắng hay thất bại này chính là sự chiến thắng hay thất bại của một con người với chính họ. Chiến thắng hay gục ngã trước Ma quỷ (thú tính) của một con người cụ thể có thể chỉ là vấn đề cá nhân người đó, nhưng chiến thắng hay gục ngã trước Ma quỷ trong tác phẩm của nhà văn lại trở thành chiến thắng hay gục ngã của nhân loại. Sự thật đã và mãi mãi như vậy. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Điểm đến cuối cùng của một tác phẩm văn chương – Tác giả: Nguyễn Quang Thiều
824
Theo Thứ trưởng Bộ GTVT sau gần 20 năm triển khai, mới có 1.163km đường cao tốc được đưa vào khai thác. Mục tiêu nhiệm kỳ 2021 – 2025 phải xây dựng, hoàn thành gần 2.000km đường cao tốc. Ngày 1/6, Bộ GTVT tổ chức Hội nghị trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với các địa phương trong triển khai các dự án đường bộ cao tốc. Phát biểu khai mạc hội nghị, Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Đình Thọ cho biết, Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã xác định xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn với mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu cả nước có khoảng 5.000km đường cao tốc và đến năm 2025, hoàn thành đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông. Bộ Chính trị khóa XIII cũng ra 6 Nghị quyết về phát triển vùng, xác định phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó có đường bộ cao tốc. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ đã có những chương trình hành động, đưa ra mục tiêu cả nước phấn đấu đạt trên 3.000km đường cao tốc đến năm 2025. Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Đình Thọ (Ảnh: N. Huyền). “Đây là nhiệm vụ hết sức to lớn, bởi đến năm 2020, sau gần 20 năm triển khai, mới có 1.163km đường cao tốc được hoàn thành đưa vào sử dụng. Như vậy, trong nhiệm kỳ 2021 – 2025 phải xây dựng hoàn thành gần 2.000km đường cao tốc”, Thứ trưởng Thọ nhấn mạnh. Làm rõ hơn, Cục trưởng Cục Quản lý đầu tư xây dựng Lê Quyết Tiến cho biết, giai đoạn 2001 – 2010, cả nước chỉ đưa vào khai thác được 89 km đường cao tốc. Giai đoạn 2011 – 2020, thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng XI, đưa vào khai thác thêm 1.074 km, nâng tổng số chiều dài đường bộ của nước ta đến hết năm 2020 lên 1.163 km. Từ năm 2020 đến nay Quốc hội, Chính phủ đã dành nguồn lực lớn để đầu tư các đường cao tốc và đã hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng thêm 566 km nâng tổng số đường cao tốc của cả nước đến nay lên 1.729 km. “Như vậy chỉ trong 3 năm đã hoàn thành bằng 1/2 số km đường cao tốc triển khai trong 10 năm trước đây”, ông Tiến nói. Theo Bộ GTVT, trước đây bình quân 1 dự án quan trọng quốc gia, sau khi chủ trương đầu tư được phê duyệt, tổng thời gian triển khai lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, lựa chọn nhà thầu và khởi công mất khoảng 2 năm. Thế nhưng đối với dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông có quy mô lớn, nhiều công trình cầu, hầm có yêu cầu kỹ thuật cao, với tư duy mới, cách làm mới đã tiết kiệm, rút ngắn thời gian phê duyệt dự án. Điều này mang lại hiệu quả rất lớn cho việc phát triển kinh tế – xã hội. Chia sẻ kinh nghiệm từ địa phương đang khẩn trương triển khai xây dựng dự án đường Vành đai 3, đại diện TP.HCM cho biết, lần đầu tiên triển khai đường cao tốc do đó kinh nghiệm chưa nhiều. Dù đảm bảo đúng tiến độ sẽ khởi công trước ngày 30/6, nhưng TP.HCM nhận thấy khâu chuẩn bị dự án là khâu mất rất nhiều thời gian, cần phải được quan tâm rà soát chặt chẽ, kỹ lưỡng ngay từ đầu. Chính phủ xác định đến năm 2025 phải hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc (Ảnh: N. Huyền). Bổ sung thêm, ông Lê Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Quản lý đầu tư xây dựng nhấn mạnh có được kết quả như vừa qua, Bộ GTVT đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết trong đó có một số cơ chế đặc thù để đẩy nhanh tiến độ triển khai như cho phép triển khai sớm, đồng thời các công việc của bước lập dự án đầu tư; bước lập thiết kế kỹ thuật, dự toán. Ngoài ra, Bộ GTVT cũng phối hợp chặt chẽ với địa phương, thực hiện các công việc liên quan đến công tác GPMB nhằm đảm bảo bàn giao 70% mặt bằng, đủ điều kiện triển khai thi công dự án… Đáng lưu ý, Bộ cũng tăng cường kiểm tra hiện trường, đôn đốc các Chủ đầu tư/Ban quản lý dự án, tư vấn, nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công; kiên quyết xử lý các nhà thầu vi phạm. Thậm chí đối với các nhà thầu vi phạm nghiêm trọng, không có khả năng hoàn thành hợp đồng đúng tiến độ sẽ xem xét chấm dứt hợp đồng. Đến năm 2025 có 3.000km đường cao tốc Chính phủ xác định đến năm 2025 phải hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc. Đến nay, đã đưa vào khai thác sử dụng khoảng 1.729 km đường bộ cao tốc như vậy trong 3 năm tới phải tiếp tục hoàn thành thêm khoảng 1.270 km. Thực hiện mục tiêu này, trong năm 2022, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư của 6 dự án đường cao tốc (cao tốc Bắc Nam giai đoạn 2021 – 2025, Biên Hòa – Vũng Tàu, Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột, Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng , Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh và vành đai 4 Hà Nội) với tổng chiều dài khoảng 1.300 km, tổng vốn đầu tư gần 400.000 tỷ đồng. Hiện, Cao tốc Bắc – Nam phía Đông đã triển khai 11 dự án, đưa vào khai thác 6 dự án. Đặc biệt, tháng 6 này, một loạt những dự án phân cấp cho địa phương sẽ tổ chức khởi công, xây dựng như: Châu Đốc – Cần Thơ – Cần Đề, Đồng Nai – Vũng Tàu, Nha Trang – Buôn Ma Thuột…
Sau gần 20 năm mới có 1.163km đường cao tốc đưa vào khai thác
1,005
Tiểu sử nhà thơ Svetlana Melnikova-Pivovarova Nhà thơ Svetlana Vladimirovna Melnikova-Pivovarova sinh tại Lida, thuộc Cộng hòa Belarus. Chị là hội viên Liên minh Văn học Belarus “ Chi nhánh Polotsk “. Hội viên Hiệp hội Sáng tạo “ Bông hồng Thi ca ” (thuộc thành phố St. Petersburg). Chị cũng là người đồng sáng lập cộng đồng văn học mạng, mang tên “Hội trường của nhà thơ” . Đồng tổ chức các cuộc thi văn học quốc tế “Cảm hứng thân yêu” và “Ôi, ngôn ngữ Nga có bao nhiêu sức mạnh…” . Chị đã đoạt một số giải thưởng quốc tế, vào chung kết các cuộc thi văn học. Từng nhận bằng Giải thưởng Văn học quốc gia “Cây bút vàng nước Nga” năm 2019, nhận bằng chứng nhận cuộc thi “Phong cách tiếng Nga – 2019” với danh hiệu “Tác gia – Cây bút sành điệu” , nhận bằng của Hiệp hội “Sắc màu nghệ thuật” ( CHLB Đức ), nhận bằng danh dự của tạp chí “Metamorphoses” (Belarus) dành cho tác giả xuất sắc nhất. Thơ của chị được xuất bản trong 9 tuyển tập quốc tế của Belarus , Nga , Đức, Ukraine , Serbia , và được công bố trên các tạp chí của Nga, Belarus, Serbia, Turkmenistan . Tác phẩm của chị được in trong niên giám “Con tàu Nô-ê mới” của hiệp hội các nhà thơ Nga, mang tên “Tôi là”. Thơ của Svetlana đã được dịch sang tiếng Ả Rập, tiếng Đức, Belarus, Serbia, Turkmen và tiếng Ukraina. Nhà thơ Svetlana Vladimirovna Melnikova-Pivovarova. Ta là tiếng vọng của mình Muốn thưa với bạn bao nhiêu Nhưng không thể chọn giữa nhiều từ hay Tạ ơn Thượng Đế mỗi ngày Tình yêu thoắt đã nở đầy nhân gian. Tâm hồn nồng hậu chứa chan Cùng nhau sánh bước dịu dàng yêu thương Trái tim nhạy cảm vấn vương Cho ta vượt mọi nẻo đường gian lao. Chung nước mắt, chung niềm đau Ngược bao lý lẽ mượn màu khôn ngoan Sợi dây bền chặt buộc ràng Định mệnh xin chớ thở than nỗi niềm. Dở cười dở khóc liên miên Dường như số phận kêu rên quá nhiều Rồi ta chiêm nghiệm mọi điều Tìm trong dấu vết bao nhiêu song trùng. Đâu còn trở ngại mung lung Không thời gian, chẳng hận cùng u minh. Ta là tiếng vọng của mình Thêm yêu cuộc sống vô tình đẹp sao… Mùi hương anh… Hít hà lần nữa và thêm Mùi hương điên đảo lả mềm em theo Lặng yên chân bước như mèo Bóng đêm chẳng có phương chiều len qua. Yêu tin rồi cũng hóa ra Em đâu sợ hãi, mù lòa mung lung Gần nhau xóa những riêng chung Càng thêm bối rối ngại ngùng lạ không Lời yêu nóng bỏng trong lòng, Bao nhiêu ý nghĩa mà không tỏ bầy Nhưng vừa chạm đã ngất ngây Gầm vang cơ thể tựa ngày sóng dâng. Hòa tan, hợp nhất muôn phần Mà không cổ tích, xoay vần giấc mơ Thương nhau dù tóc bạc phơ Cùng anh giữ trọn bến bờ trăm năm. Phòng đợi Biên giới, sân ga, phòng đợi, bến tàu… Chứng nhân gặp gỡ, chia ly tiếc nuối. Bắc cầu qua vực, dù khoảng cách nào, Khởi đầu cuộc đời hay đã chặng cuối. Trọng tài số phận, đền thờ hy vọng, Phòng đợi tình yêu tâm hồn an nhiên. Nơi dịu dàng và vô hình mong ngóng Hiện rõ khi cởi lớp vỏ ngụy trang. Mở rộng vòng tay, thì thầm run rẩy, Cho trái tim anh không thể đổi thay. Mùa đông trong mắt, thầm thì câu hỏi Chỉ dòng lệ tuôn, từng giọt lăn dài. Tựa cái chết là lời nguyền ly biệt. Mỗi cuộc đời thành tàn nhẫn bộ phim. Như người phụ nữ độc ác, không thể biết. Sống không nguyên tắc, vậy có thể tin? Biên giới, sân ga, phòng đợi, bến tàu… Những nơi ấy đều là phòng đợi lớn, Không cần vé, không dự định ban đầu… Vậy đâu là khởi đầu, đâu là kết thúc. 04/01/2018 Hãy cho em Hãy cho em, mà không ai có thể… Đến trước em, trọn vẹn như em Cùng anh như thiên thần bảo vệ, Cùng lên đường và mãi ở bên. Em yêu bằng trái tim bỏng cháy Anh thấy em nồng nàn, xin hãy… Chỉ tin rằng duy nhất với anh, Dâng hiến trọn mà không e lệ. Cho em là người mà anh có thể Là chính mình, sáng tạo, ước mơ. Tỏa sáng tài năng anh hằng ấp ủ Trong tâm hồn và số phận bất ngờ. Em là cô gái anh hằng tin tưởng Chính là người hạnh phúc nhất trần gian. Tình yêu em không gì sánh được… Mãi bên anh khi đêm cạn trăng tàn. Hãy cho em, mà không ai có thể… Khơi ngọn lửa hồng giữa trái tim anh. Đứng trước anh tâm hồn em nhỏ bé Như xòe bàn tay run rẩy thiện lành. 24.12.2017 Mọi điều… chỉ là mơ ước của anh Khi tia sáng cuối cùng Chạm vào trái đất, rồi quên lãng, Đừng phàn nàn về số phận của anh Chỉ anh tự nghĩ câu trả lời cho mình Cứ thốt lên đi, đừng sợ Rằng con đường anh đi đã lỡ Qua cuộc đời này, hạ gục đôi chân, Không phải lối đi ấy riêng mình, hay cũng của bao nhiêu người khác; Và, nhìn chung tất cả hành trình, Hầu như anh cũng muốn trở lại. Nơi mặt trời tỏa ánh sáng vô cực Nơi nghẹn thở vì bao điều hạnh phúc, Đang hòa tan trong sâu thẳm tình yêu Lên hay xuống và bao nhiêu hối tiếc, Anh sẽ tìm thấy những câu trả lời. Và có một bầu trời dành cho hai người Mưa sẽ ấm thêm và sao sáng hơn thế, Thảm cỏ nhung ngày lại càng mềm… Chuyện đã thế! Và không còn ngoại lệ! Mọi điều… Cũng chỉ là mơ ước của anh… 20.04.21 Mai Văn Phấn & Nguyễn Hồ Thái dịch từ tiếng Nga
Chùm thơ của Svetlana Melnikova-Pivovarova
876
Thông tin về các hình thái thời tiết tháng 6/2023, ngày 1/6, Phó Trưởng phòng Dự báo khí hậu, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia Nguyễn Đức Hòa cho biết, bão, áp thấp nhiệt đới có khả năng hoạt động trên Biển Đông và ảnh hưởng đến khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Đề cập đến xu thế nhiệt độ và lượng mưa trong tháng 6, Phó Trưởng phòng Nguyễn Đức Hòa cho rằng, nhiệt độ trung bình tháng tại các khu vực trên phạm vi toàn quốc phổ biến ở mức cao hơn từ 0,5-1 độ C, có nơi cao hơn so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ. Khu vực Bắc Bộ xảy ra nắng nóng trong những ngày đầu tháng, sau đó cường độ nắng nóng tạm thời suy giảm. Khoảng từ giữa tháng 6, nhiệt độ có xu hướng cao hơn trung bình nhiều năm khoảng 0,5-1 độ C, nắng nóng gia tăng trở lại. Khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ có khả năng xảy ra nhiều ngày nắng nóng, số ngày nắng nóng ở mức cao hơn so với trung bình nhiều năm. Ông Nguyễn Đức Hòa lưu ý, do tác động của nắng nóng tập trung nhiều ở Bắc Bộ và Trung Bộ, nên người dân cần đề phòng nguy cơ xảy ra cháy nổ ở các khu vực dân cư, sản xuất do nhu cầu sử dụng điện tăng cao và nguy cơ cao xảy ra cháy rừng. Trong tháng 6/2023, lượng mưa tại khu vực Bắc Bộ, Bắc và Trung Trung Bộ phổ biến ở mức thấp hơn so với trung bình nhiều năm từ 10-20%. Khu vực Nam Trung Bộ ở mức xấp xỉ trung bình nhiều năm. Khu vực Tây Nguyên và Nam Bộ phổ biến cao hơn từ 5-20% so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ. Ngoài ra, khu vực Tây Nguyên, Nam Bộ xuất hiện nhiều ngày mưa rào và dông; khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ mưa có xu hướng tập trung vào giữa và cuối tháng, tuy nhiên tổng lượng mưa cả tháng vẫn có xu hướng thấp hơn trung bình nhiều năm. “Trên phạm vi toàn quốc tiếp tục xuất hiện các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như dông, lốc, sét, mưa đá có thể ảnh hưởng lớn đến sản xuất và các hoạt động dân sinh. Các hiện tượng này tập trung nhiều hơn ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ”, ông Nguyễn Đức Hòa nhấn mạnh. Trước hình thái thời tiết trên, chuyên gia khí tượng thủy văn khuyến cáo, chính quyền và các đơn vị chức năng cần cung cấp nhanh, kịp thời thông tin dự báo thiên tai cho người dân, chỉ đạo công tác phòng, chống thiên tai bằng các hình thức khác nhau; vận động, tuyên truyền cũng như thực hiện lệnh cấm tuyệt đối người dân hoạt động tại các khu vực có nguy cơ rủi ro cao dễ xảy ra dông, lốc, sét, mưa đá… Người dân cần tuân thủ chặt chẽ hướng dẫn công tác ứng phó, phòng tránh thiên tai của chính quyền địa phương; cập nhật thường xuyên thông tin dự báo khí tượng thủy văn mới nhất trên các phương tiện truyền thông đại chúng chính thống của Trung ương và địa phương để chủ động ứng phó.
Tháng 6/2023, bão, áp thấp nhiệt đới có khả năng hoạt động trên Biển Đông
562
Cuốn sách "Đại bàng tái sinh" của của tác giả Phạm Thị Thanh Hà. Đại bàng tái sinh dành cho mọi đối tượng độc giả yêu thích các tác phẩm văn học thể loại phiêu lưu, đặc biệt là các bạn đọc nhỏ yêu thích cách viết hài hước. Loài đại bàng luôn tin vào một huyền thoại, rằng khi già đi, đại bàng có thể lột xác, trở thành một đại bàng trẻ trung kiêu hùng như xưa. Đại bàng là loài chim có tuổi thọ cao nhất, cuộc đời của chúng có thể kéo dài tới 70 năm. Nhưng một con chim đại bàng thông thường chỉ sống được khoảng 40 năm. Để sống được quãng đời dài nhất, chim đại bàng phải vượt qua một giai đoạn thay đổi khó khăn, có ý nghĩa sống còn. Đó là tự “lột xác”, vượt qua một quá trình biến đổi đau đớn kéo dài 150 ngày để có thể tiếp tục làm “chúa tể bầu trời”. Xuất hiện mới toanh trên kệ sách dịp Tết Thiếu nhi 1-6 năm nay là cuốn sách “Đại bàng tái sinh” kể về một chú đại bàng choai. Đại Bàng Trắng rất kiêu ngạo và tự hào mình là chúa tể của bầu trời. Bắt nguồn từ truyền thuyết về đại bàng tái sinh nhưng câu chuyện của tác giả Phạm Thị Thanh Hà đưa đến cho bạn đọc một câu chuyện mới vừa hài hước vừa thấm đẫm tính nhân văn. Với nhân vật Đại Bàng Trắng, vì tin vào khả năng tái sinh nên chàng ta tự mãn, coi thường tất thảy, ngày ngày trêu đùa các con vật nhỏ, khiêu khích, tranh đua với các con vật khác. Với bản tính kiêu hùng, Đại Bàng Trắng rất yêu thích các cơn bão, thường trêu đùa cùng những cơn giông gió và sấm chớp. Nhưng rồi, Đại Bàng lại gặp nạn. Nó bị thương ở chân và ở cánh, không thể bay được nữa. Không thể bay lượn nên cuộc sống của Đại Bàng hết sức thảm hại. Mặc dù sống trong hang đá, trốn tránh, không dám tiếp xúc với bên ngoài nhưng Đại bàng vẫn luôn bị các con vật mà trước đây nó coi thường cười chê, bị các con vật có sức mạnh tấn công… May mắn thay, những người bạn nhân hậu và độ lượng như Sẻ Nâu và Rùa Núi luôn bên cạnh chăm sóc, động viên. Trong thảm cảnh, Đại Bàng đã có những suy ngẫm mà trước đây, khi còn ở đỉnh cao, chú không hề nghĩ đến. Đặt mình ở vị trí của người khác, Đại Bàng đã có cái nhìn thấu hiểu, biết cảm thông và nhận thức được sự trân quý của tình thân, tình bạn. Đại bàng đã lựa chọn nỗ lực rèn luyện để trở lại bầu trời, thay vì sống cuộc sống mòn mỏi chờ đến ngày tái sinh, mà chính bản thân cũng không chắc sẽ diễn ra như trong truyền thuyết hay không. Tác giả Phạm Thị Thanh Hà và tác phẩm “Đại bàng tái sinh”. Ngoài việc cung cấp cho các em một câu chuyện có nội dung hấp dẫn và những bài học quý giá của cuộc sống, tác giả đã mang đến những kiến thức về các loài vật và những điều độc đáo của thế giới tự nhiên đầy kỳ thú. Sử dụng lối viết thiên về hình ảnh, giàu màu sắc, chú trọng đến điểm nhìn của nhân vật, tác giả Phạm Thị Thanh Hà bày tỏ chị mong muốn kích thích trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng xa để độc giả có thể thực sự hóa thân vào nhân vật, sử dụng góc nhìn của một đại bàng từ trên cao nhìn xuống mặt đất, hay từ dưới thấp hướng lên bầu trời rộng lớn. Đồng thời, với cách viết hài hước, câu chuyện đã khắc họa các nhân vật một cách sinh động, chân thực với cách nghĩ, cách hành xử phù hợp với lứa tuổi và tâm lý của trẻ nhỏ. Tác giả Phạm Thị Thanh Hà (SN 1976) hiện là Trưởng phòng Kịch bản Hãng phim Hoạt hình Việt Nam. Gắn bó với công việc làm phim hoạt hình gần 30 năm, chị đã tham gia biên tập và biên kịch 120 bộ phim hoạt hình do Hãng sản xuất, trong đó có nhiều bộ phim đoạt Giải Bông Sen, Cánh Diều, Bạc, Liên hoan phim Hàn Quốc, Liên hoan phim môi trường… Chị đã đoạt giải thưởng đồng Biên kịch xuất sắc nhất Liên hoan phim Việt Nam XIX; Biên kịch xuất sắc nhất Liên hoan phim Việt Nam XXI; Dành trọn tình yêu với các tác phẩm nghệ thuật cho thiếu nhi, chị còn phụ trách nội dung một số kênh Youtube cho trẻ em và là tác giả truyện tranh của Tạp chí “Văn tuổi thơ”; Báo Nhi đồng, Báo Thiếu niên… cũng như nhiều truyện tranh khác.
Huyền thoại ‘Đại bàng tái sinh’ và câu chuyện ngày 1-6
820
Tại Rome dẫn kết quả một nghiên cứu của tổ chức World Weather Attribution (WWA) cho biết một hiện tượng thời tiết lạ mới chính là nguyên nhân gây ra trận lũ lụt chết người vừa qua tại khu vực Emilia-Romagna, phía Đông Bắc Italy . Cảnh ngập lụt tại Bologna, thuộc vùng Emilia-Romagna, Italy, ngày 17/5/2023. Ảnh: THX/TTXVN. Nghiên cứu cho rằng vào tháng 5 vừa qua, khu vực này đã chứng kiến một hiện tượng thời tiết “200 năm mới có một lần”, gây mưa lớn chưa từng thấy trong hai thế kỷ. Ngày 31/5, tại một cuộc hội thảo, đồng tác giả và là nhà nghiên cứu về vật lý khí hậu tại Viện Pierre-Simon Laplace (Pháp), ông Davide Faranda cho biết: “Hiện tượng này quá hiếm gặp. Trước đợt mưa lớn đầu tiên ngày 2/5, Italy đã trải qua một đợt hạn hán xảy ra do biến đổi khí hậu”. Ông Faranda đề cập đến hai năm ít mưa, thậm chí không có mưa đã khiến cho đất đai tại vùng Emilia-Romagna khô cằn đến mức không thể hấp thụ được lượng nước. Ngoài ra, tình trạng hạn hán phần lớn bắt nguồn từ việc thiếu tuyết rơi trên núi Alpine, vốn thường bổ sung nước cho sông Po và các tuyến đường thủy nhỏ khác ở phía Bắc Italy. Người sáng lập tổ chức WWA, ông Friederike Otto từ Đại học Hoàng gia London nhấn mạnh, nghiên cứu này thực hiện để tìm ra sự liên kết giữa biến đổi khí hậu và tình trạng lũ lụt tại vùng Emilia-Romagna. Sử dụng các mô phỏng trên máy tính và các quan sát trước đó, nhóm các nhà nghiên cứu của WWA đã tìm kiếm, nhưng không thấy bằng chứng nào về sự nóng lên do con người gây ra đằng sau hiện tượng thời tiết trên, không giống như trong nhiều nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, việc liên tiếp xảy ra ba trận mưa đặc biệt lớn, diễn ra trong một khoảng thời gian 3 tuần ngắn ngủi là rất hiếm, vì vậy các chuyên gia khí hậu cảnh báo rằng họ cần thêm thời gian để nghiên cứu thêm về vấn đề này. Theo nghiên cứu, mặc dù vùng Emilia-Romagna có lịch sử bị lũ lụt và sạt lở đất nghiêm trọng, tuy nhiên khu vực chưa từng phải hứng chịu đợt mưa dữ dội như trong 3 tuần đầu của tháng 5. Các nhà khoa học cũng cho biết, trong số 19 mô phỏng được sử dụng, không có trường hợp nào cho thấy khả năng xảy ra một hiện tượng thời tiết cực đoan như vậy, đồng nghĩa với việc không có dấu hiệu cho thấy mưa lớn có thể diễn ra ở vùng phía Bắc Italy vào mùa xuân. Tuy nhiên, phát hiện này đã giúp chứng thực một nghiên cứu trước đó, cho rằng do biến đổi khí hậu, số lượng các hệ thống áp suất thấp ở trung tâm Địa Trung Hải đã giảm, dẫn đến việc giảm lượng mưa, bù đắp cho lượng mưa dự kiến tăng do sự nóng lên toàn cầu. Trận lũ lụt lịch sử vừa qua tại Italy đã cướp đi sinh mạng của 15 người, gây ra khoảng 300 trận lở đất và khiến gần 20 con sông bị tràn bờ. Emilia-Romagna là một trong những khu vực sản xuất nông nghiệp và chế tạo lớn nhất tại Italy. Giống như những nơi khác ở vùng phía Bắc, trong thời kỳ bùng nổ kinh tế sau Thế chiến thứ hai, phần lớn khu vực này đã được đô thị hóa nhanh chóng, lấy đi diện tích cần thiết cho hệ thống thoát nước, khiến cho hầu hết cơ sở hạ tầng không được chuẩn bị để chống lại các trận mưa lớn và làm tăng nguy cơ lũ lụt.
Lũ lụt kinh hoàng tại Italy là do một hiện tượng thời tiết lạ
636
Nhà văn Đào Bá Đoàn. Tôi đã viết nhiều về anh, nhưng phần lớn ẩn trong các sáng tác của mình. Những mảnh vụn nhỏ li ti nhưng luôn lấp lánh, ám ảnh và dằn vặt trong các truyện ngắn, tiểu thuyết, thậm chí chỉ là những phác họa về chân dung ai đó, vấn đề gì đó, thậm chí cả những liệt sĩ mới hy sinh hoặc đã khuất núi từ tám hoánh tưởng chẳng liên quan đến anh thì vẫn luôn thập thò cái con người tưởng như đã bỏ mặc nhân gian này. Biết nhau khá lâu, thoạt tiên là cùng học bốn năm của Khóa VI Trường Viết văn Nguyễn Du nhưng thời gian đầu thú thực tôi không hào hứng với anh và văn chương của anh. Văn thì rõ là do tôi không đọc. Khi ấy tôi lười nhác thậm chí có phần tinh tướng và phách lối với các sáng tác trang lứa, một ấu trĩ hạng bét may mà đã nhận ra và sửa chữa ngay. Thực ra kể cả những dở hơi của bè bạn trong sáng tác cũng rất cần học tập. Nhà văn Đào Bá Đoàn (Bìa trái) và Nhà văn Phùng Văn Khai (Bìa phải) tại buổi tọa đàm giới thiệu tiểu thuyết Nam Đế Vạn Xuân & Triệu Vương Phục Quốc. Sau này thì khác, do vị trí địa lý (cùng quê) và nhất là tâm tính cộng với những gì mà người đời gọi là có duyên với nhau nhưng theo tôi, một nguyên nhân sâu xa và căn bản, đó là tôi đã nhận ra chân tài thực học của anh, không riêng ở những sáng tác (khá dày dặn nhưng luôn khó in ấn), mà cả ở những ứng xử đời sống, những hành vi sâu sắc (nhưng người đời lại cho là dị thường dị mọ) mà tôi đã phải sững sờ trước một cá tính, trước một con người hết lòng vì văn chương. Tranh luận về văn chương học thuật một cách thẳng thắn và đến cùng với anh may ra chỉ có độ chục người, trong đó không chắc đã có tôi mặc dù không ít lúc tôi đã lợi dụng việc tranh luận văn chương để truy bức anh một cách quá cực đoan về những việc rất nhảm khác khiến đôi bên giận dỗi nhau không cần thiết. Nhưng tôi còn truy bức anh trong đời sống, những trịch thượng, những áp đặt vô lý và có lúc là tai ngược cũng chẳng biết tại sao lại thế. Thời gian đã khiến chúng tôi dần dần trở nên điềm đạm (hay mỏi mệt hoặc khôn ngoan hơn cũng không biết nữa), nhưng rõ ràng là, theo thời gian, văn chương của chúng tôi đã chín chắn và dường như có gặt hái hơn. Anh đã in một tiểu thuyết khá ấn tượng có tên Mảnh vỡ nhưng người đời hầu như không biết đến. Lý do ư? Khi không phải là chúng ta toàn được nhồi nhét để ưa thích những thứ trung tính, trung bình, chung chung, nói một chiều theo một hướng thì những gì khác nhưng kín, lạ nhưng ẩn sâu, mới nhưng không dễ nhận biết, là những thứ mà bạn đọc tinh tường chứ đừng nói đến bạn đọc phổ thông cũng rất dễ bỏ qua thì điều đó là dễ hiểu. Tôi đã từng biên tập và in ấn một tập truyện ngắn của anh cái dạo anh tham gia cùng tôi gây dựng nhà sách Như Quỳnh. Nhà sách tí nữa thì đi vào ngõ cụt, và hoàn toàn có thể phá sản, một mặt do yếu kém của việc lựa chọn những người làm công tác quản lý, một mặt do những hồn nhiên bồng bột của những người chủ trì chỉ ưa thích văn chương. Chúng tôi đã làm những bộ sách phải nói là rất đáng tự hào nhưng vẫn bị lỗ vốn như: Bộ tiểu thuyết bốn tập có kèm theo biếu không một phụ bản in những bài dư luận về nó mang tên Bão táp triều Trần; tiểu thuyết gần 900 trang khổ lớn bìa cứng mang một cái tên rất gợi Di chúc hoa Ti Gôn…, các tập sách về liệt sĩ, chân dung văn học, và đặc biệt hứng khởi khi làm gần một trăm đầu sách cho bè bạn, thậm chí chả thân quen gì khi họ nhờ vả để đến khi thấy rằng mình đã đứng trước bờ vực với áp lực trên một tỷ đồng tiền sách không bán được nằm trong kho mới ngơ ngác nhìn nhau. Nhưng do thói quen của những người coi văn chương và bè bạn trên hết cho nên chúng tôi chỉ còn một thái độ duy nhất là mặc kệ. Đó là thái độ của anh. Nhưng tôi, sau những suy nghĩ tiêu cực ấy, tôi nhận ngay ra một điều rằng muốn sống muốn tốt thì phải cứu lấy ngay cái nhà sách mà mình đầu têu gây dựng và xui khiến một số đàn anh, bạn hữu thậm chí cả những bậc thầy vào chốn lao lung. Bằng những mối quan hệ của mình, bằng mẫn cảm tinh tường và lòng tự trọng cao độ khi bẻ ghi, chuyển lái, cộng với may mắn và dường như có một đấng cao xanh nào đó luôn phù trợ tôi trong bước đường gian nan của mình, nhà sách dần dần lùi xa được cái bờ vực do chính những chủ nhân có thừa lòng nhiệt tình nhưng không hề am tường kinh tế bày ra. Câu nói của anh khi ấy là: Mình đã bày ra rồi, nếu dọn được thì dọn không thì cứ để mặc kệ muốn ra sao thì ra. Rốt cuộc, đám cháy do tôi gây nên cũng đã được chính tôi cơ bản dập tắt. Chuyện ấy thực ra cũng chẳng có gì đáng nói nhưng cái ràng buộc ở đây là nhân cách và thái độ của người cầm bút qua những biến động bất lợi nó như thế nào. Khi giao cho anh biên tập tiểu thuyết Di chúc hoa Ti Gôn dày ngót 900 trang khổ lớn, lại là của một tác giả mới, dù chữ nghĩa và sự từng trải của ông phải là nói lịch duyệt trong khi ấy anh đang phải thuê nhà, một phòng trọ tồi tàn ọp ẹp, một mức lương thảm hại của một nhà xuất bản bao cấp, bản thân đã gần bốn mươi tuổi nhưng không vợ không con cộng với những sức ép vô hình hoặc hữu hình khác thì việc dốc sức cho tập bản thảo này là vô cùng khó khăn. Nhưng anh đã hoàn thành xuất sắc công việc của mình mà chúng tôi hầu như không trả được đồng biên tập nào, chỉ là những bữa rượu uống như giết chính mình để cũng lại là bàn về văn chương nghệ thuật. Trong những lúc hăng nghề như thế, tôi mới nảy nòi ra cái ý định in toàn bộ các tác phẩm của anh. Tôi tuyên bố như một tên cuồng tín rằng: Tất cả các tác phẩm của ông, tôi sẽ in sạch. Anh mỉm cười, cái đầu bù xù từ từ rũ xuống. Không phải anh không tin lời bè bạn, nhất lại là những tuyên bố của tôi nhưng anh cũng hiểu văn chương không bao gồm sự ồ ạt như thế. Tôi bèn đổi sang việc tạm thời hãy gom in một tập truyện ngắn cái đã. Tập truyện sẽ do chính anh tùy ý lựa chọn, muốn bao nhiêu truyện thì tùy, không ấn định số trang, không ấn định quan điểm hay bất cứ điều kiện gì khác. Nghĩa là anh tự do thoải mái, điều mà anh rất thích, điều mà các nhà xuất bản rất ngại. Nhà văn Đào Bá Đoàn (Áo trắng thứ nhất từ trái sang). Sau những xục xịch của việc xuất bản một tập sách thì tập truyện ngắn Rượu của thời chưa sinh cũng ra mắt độc giả. Chúng tôi cũng có một số thương lượng nhỏ với nhà xuất bản để đảm bảo tính pháp lý cho tập sách. Đến cái bìa tôi cũng mặc để anh tự do vì họa sĩ làm bìa cho chúng tôi cũng là một người bạn. Anh vốn ưa thích màu đen nên cuốn sách đương nhiên đen đặc từ bìa 1 đến bìa 4. Anh vốn ưa thích rượu (chẳng thế mà tên sách đã dính đến rượu đấy thôi) thì chình ình một chai rượu đã được gã họa sĩ dựng nghiêng vào góc bìa chập chờn ẩn hiện như đôi mắt lúc nào cũng hân hoan của anh khi nhìn thấy đấng Lưu Linh. Điều này cũng phải nói thật ra chứ, anh ưa thích đàn bà, càng loại ác chiến càng tốt nên cũng trong cái vùng đen đặc chỉ he hé chút ánh sáng ma quái thì đó lại là phần ngực của một ả đàn bà thoáng nhìn đã biết là tứ chiếng. Nhưng cái bìa thì có nói lên điều gì. Cái quan trọng là bên trong nó, gần 300 trang sách ấy nó là cái gì mới đáng kể. Với hai mươi truyện ngắn mà chỉ nghe tên đã thấy có điều gì đó không bình thường: Nàng ơi…; Im lặng; Hiện tại; Con gián; Hãy bò đi…; Kiếm tiền; Người đi bỏ mặc nhân gian; Choáng…; Mộng du; Đoàn tàu xanh; Rượu của thời chưa sinh; Tôi…; Một buổi sáng không có tiếng gà; Kẻ mất bóng; Chỉ để bay qua một bình minh; Gục đóa trà my; Một giờ trong công sở; Không nở hoa hồng; Một cơn ám thị; Bà quản lý – ông học đường đã cho thấy một thế giới quan lạ lẫm của anh, một nẻo vào văn học khác người, một ý thức văn chương nghiêm chỉnh nhưng tại làm sao mà người đời không đằm thắm lại là một câu chuyện khác. Những truyện ngắn này, từ trước đó anh đã cho in rải rác trên trang web Văn chương Việt do nhà văn Nguyễn Hòa chủ trương, một người nổi tiếng kỹ tính và cả khó tính với văn chương tuyển chọn. Người ta đọc thế nào, hồi âm thế nào tôi không biết nhưng chỉ bằng vào những cảm nhận và đánh giá bằng ngay trên trang web đó của tác giả Phạm Lưu Vũ, một con người cực kỳ thông minh sắc sảo và có phần quỷ quái thần sầu khi thẩm định văn chương chỉ biết đến chữ tâm chữ tài còn thì mặc kệ những phán xét của cây đa cây đề khác. Gần như truyện ngắn nào của anh xuất hiện nơi đây Phạm Lưu Vũ đều viết lời bình phẩm. Ở các truyện ngắn của anh, văn chương luôn được đặt lên hàng đầu, tiếp đó mới đến phần của nội dung và hình thức thể hiện. Văn anh là thứ văn của không gian ba chiều với những hình ảnh tương hỗ với nhau một cách liên hoàn đã làm thỏa mãn những người đọc khó tính nhất. Nó thể hiện nội lực sâu đậm của ngòi bút từng trải nhưng không phô diễn, hiểu rộng biết nhiều nhưng không khoe khoang. Nó luôn gây thích thú và xa xót cho người đọc. Cách tổ chức câu văn của Đào Bá Đoàn nhiều lúc khá ngẫu hứng dường như bất chấp cả ngữ pháp nhưng đặt trong văn cảnh của câu chuyện được mô tả lại thấy ổn thỏa và thấy thêm sự sáng tạo trong ngôn ngữ luôn là vô biên và sẽ dẫn đến thành công cho nhà văn khi anh đi đến cùng của sự sáng tạo: … Có phải em mơ không khi trong vòng tay em là anh với một mùi đàn ông rạo rực em bàng hoàng trong giây lát rồi siết chặt lấy anh không muốn rời nữa cảm giác nhói đau ở nơi đó lại ập đến mỗi lúc một rộ hơn và vòng tay anh quàng xuống dưới em cũng riết chặt đôi môi anh áp vào đôi môi em rồi quấn riết như tìm như đòi như cơn khát uống trong cơn mê cuồng rồ dại em mê đi lả đi đầu óc trống hoác với cảm hứng và cơn khát dâng cao em chới với hoang hoải sục tìm một mê muội vội vàng tham lam bứt rứt có tiếng thở sôi động dần một hoang vu chạy trốn em thích chí cất một tiếng kêu than loài kiếp cảm giác như bị đánh lại được vuốt ve êm dịu vô ảnh vô ảnh những xứ sở không tên em tin rằng có chuyện thần tiên em tin mình vừa mới hồi sinh trẻ trung và mãnh liệt như cuộc chạy ma-ra-tông vừa mới cán đích chồm tới vinh quang một phát hiện điên cuồng khoái ngất như cái chết nào đó của ảo mộng của miền giả tưởng hoặc vọng tưởng của đam mê bột phát em quay cuồng và gào thét ngất lịm em tan ra trong anh niềm mê sảng chôn vùi thời gian và phá vỡ cái khung không gian phi lý em phát hiện những điều mới mẻ mà em lầm tưởng mình đã từng đầy đủ đến mức chán phè em lên cơn điên huyền ảo rồi lũ nước lũ ào tung một tuôn chảy vô cùng… (Rượu của thời chưa sinh) Văn xuôi của chúng ta kể từ cái mốc sau đổi mới (1986) về cơ bản đã có những tìm tòi thể hiện nhưng thực sự đổi mới về thi pháp thì còn khá tự phát và từ đó dường như chưa có được thành tựu nào nổi trội ở mặt này. Với hai tiểu thuyết Những mảnh vỡ và Đường không hết lối đã hoàn thiện và ra mắt độc giả cùng vài chục truyện ngắn trong tập Rượu của thời chưa sinh và một số truyện ngắn in rải rác trên các tạp chí, báo trong và ngoài nước, các trang báo mạng đã cho thấy rõ ràng một nỗ lực cách tân về thi pháp của Đào Bá Đoàn trong từng đoạn văn, truyện ngắn, tiểu thuyết. Văn chương Đào Bá Đoàn đã bứt phá về mặt hình thức vượt lên những người đồng thời với anh nhưng không vì thế mà nó gây được sự chú ý lập tức của giới phê bình, những người sáng tác trong giới. Tôi không trả lời được câu hỏi này. Văn chương ở chúng ta có những lúc rất kỳ cục và những gì lấp lánh thực sự, đáng ghi nhận thực sự lại thường rơi vào im lặng còn những thứ la làng, rỗng tuếch, dị hợm lại dường như được tung hô. Nhưng thực ra tôi gắn với anh nhiều nhất, thuộc nhất, bộc lộ đến đáy nhất lại là ở trong đời sống thường nhật. Điều đó cũng khá lạ lùng. Khác cơ quan, khác nhiều thứ như gia đình, sở thích, tính nết, quan điểm, bè bạn… nhưng cũng chẳng hiểu bằng lý do nào lại cứ luôn dính dấp vào nhau, có những lúc như những kẻ đồng tính đến thế. Một cuộc chơi thường kéo dài có khi đến cả tuần, lê la, lang bang vùng đất này sang vùng đất khác. Có khi hứng chí bắt xe, nhảy tàu vào tận Tây Nguyên, đi biên giới nằm nghe mang tác chán lại xuống suối bắt cá rồi thì đêm đi săn ngày uống rượu mãi cũng nhàm lại xuôi xuống Sài Gòn đèn xanh đèn đỏ áo dây áo mảnh tùm lum văn nghệ cũng lại chán lại bắt xe ôm ra bến tàu cưỡi tàu cánh ngầm xuống Vũng Tàu leo lên xe của nghệ sĩ bạn bè học Đỗ Mão lượn mấy vòng bán đảo cởi quần áo nhao xuống biển bơi loanh quanh mấy hôm ngắm Tây ta nồng nỗng rồi thì nào có bớt được cô đơn cô độc cho cam dẫn đến ông chẳng bà chuộc dằn dỗi bỏ vé máy bay bắt xe định chia loan rẽ thúy rồi thì xé vé xe ô tô nâng chén rượu làm lành thảy là đã biết bao lần. Anh đã có những ứng xử tinh tế, thậm chí tài tình với những người chiến sĩ nơi biên giới. Khi ấy trong đêm rừng mưa rét thời khắc cuối năm, những người lính chụm vào nhau bên gộc củi cháy hồng. Những câu chuyện cuộc đời được đem ra rí rách bên những ché rượu khi thơm nồng khi đắng chát. Nước mắt đàn ông rơi lèo xèo xuống tàn lửa bỏng. Họ kể về một đồng đội của họ, một gã đàn ông ưa thích săn bắn đã bị rừng thẳm báo thù bằng cách tước đi toàn bộ phần làm giống làm má của con người. Bi kịch từ đó cứ liên tiếp giáng xuống con người táo tợn ấy. Mất việc làm, mất nhà cửa, mất những người thân yêu nhất và cuối cùng là mất niềm tin và cuộc sống. Tôi không tham gia vào câu chuyện chỉ nằm im nhìn ra phía ngoài trời đang ngày càng đen đặc và gió vùng biên ải thổi dồn mỗi lúc gào rú đập thình thình trên những mái tôn rách nát. Những người lính ở đây luôn ít nói. Nhiều người đã lớn tuổi nhưng chưa có gia đình riêng và hoàn toàn có thể khó thực hiện điều ấy vì những lý do khách quan và chủ quan và cơ bản nhất là do chính họ. Họ dần dần như rời khỏi những ồn ào náo nhiệt, tranh giành, vồ vập sống còn của cuộc sống. Anh ngồi im, lúc này sao tôi thấy anh giống họ quá. Họ như lẫn vào nhau, lẫn vào sương khói nơi biên giới hoang vu. Đêm dần tàn. Tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi cặp mắt cay xè líp nhíp mở ra vẫn thấy bóng những con người in sững trên vách gỗ. Họ đã thì thầm trò chuyện với nhau suốt đêm. Về nỗi cô đơn tiền kiếp của con người? Về một tương lai, một chân trời mới? Chỉ biết rằng trong suốt hành trình dọc tuyến biên giới những ngày đông giáp tết ấy, những người lính như bị anh hấp dẫn và chính họ hấp dẫn lại anh đến mức có lúc tôi như phát ghen lên. Như mọi chuyến đi, cuối cùng chúng tôi cũng phải trở về nhà. Nhưng anh sẽ trở về đâu trong cái thành phố hỗn độn mênh mông ấy? Tôi thấy anh lần chần, nấn ná, tuồng như không muốn trở về nữa. Tôi bàng hoàng. Con người khi không còn muốn trở về nơi ra đi của mình, cho dù chỉ là một chuyến đi, cho dù nơi trở về cũng chỉ là một điểm thuê mướn bọt bèo thì cũng là một điều khủng khiếp. Gánh nặng cô đơn và cao hơn thế, sự cô độc lúc nào cũng như săn tìm truy bức anh. Trong các sáng tác của mình, điều đó luôn hiện lên lồ lộ. Anh bộc lộ cái tôi rất quyết liệt nhưng luôn theo cách riêng của mình và không lẫn với ai. Nhà văn Đào Bá Đoàn (thứ nhất từ trái sang). * * * Trong các cuộc đi, một cuộc chúng tôi bị kẹt ở một ngôi đình cổ trong một trận lụt khiến tôi bắt đầu rộn lên những thắc mắc và muốn tìm hiểu về tính bí ẩn và kỳ quái của anh. Chúng tôi đốt những bó rơm còn sót lại trên sàn căn phòng nơi mé sau của đình. Cô gái cao lêu đêu như một cây sào và anh đã bằng một tài vặt tóm được những chú cá mê mải giỡn nước ngao du trên sân đình quăng vào đám lửa. Tôi và một anh bạn Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ địa phương mải chuyện với cụ thủ từ về những đặc điểm của chùa vùng châu thổ. Cơn chuyện đang xoắn bện thì phát hiện ra đôi kia đã dắt nhau đi đâu mất và mùi cá chín thơm lừng ở ngay bên cạnh. Trên tàu lá chuối rách tướp nham nhở do bão đánh, hai con cá quả chín vàng cùng một nắm muối và nậm rượu như hiện từ dưới đất lên. Quà hối lộ của lũ kia đấy. Chúng tôi sà vào và bắt đầu nhâm nhi trong bóng tối chạng vạng bốn bề đổ xuống. Nhìn từ ngoài, chỉ thấy hơi nước bốc nghi ngút và mùi cá nướng thơm lừng và nếu ai chỉ nhìn lướt sẽ tưởng như một ban thờ với mấy ông tượng động đậy trong mờ mịt khói hương. Nhưng đôi kia dắt nhau đi về đâu? Một gã nhà văn tính nết ẩm ương và một cô gái quê chất phác hiền lành cả đời không bước chân khỏi phố huyện dắt nhau đi trong một đêm nước vây tứ phía thì chuyện gì sẽ xảy ra. Tính gã này lại rất ưa thích đàn bà con gái. Đây lại là chốn thanh bình của vùng quê cổ vẫn sót lại tàn dư phong kiến. Tôi và anh Tổng Biên tập thấy khó xử quá. Chỉ cụ thủ từ cứ ngồi im lặng, mắt dõi ra phía ngoài hồ nơi nước dâng ngập sân đình bình thản như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đứa cháu cụ, kẻ mồ côi từ tấm bé ấy được cụ giáo dưỡng không bằng những lề thói hà khắc mà luôn được bồi đắp bằng sự khai tâm, dưỡng thiện ở đời. Chúng tôi chưa đạt được sự tĩnh lòng như ông cụ và đằng nào thì cái gã trời đánh kia thì cũng đã rời khỏi đây rồi. Chúng có cuộc đời của chúng. Chúng có niềm tin và trách nhiệm với cuộc đời. Chúng tôi cứ ngồi thế cho đến sáng. Rồi thì cũng chả cháy nhà chết người gì. Buổi sáng, gã trời đánh và cô gái tươi mởn bên nhau trở về căn nhà nhỏ của anh Tổng Biên tập. Thấy bọn chúng có vẻ thách thức cả trời đất như thế chúng tôi bèn xách xe máy tránh đi, nhằm nơi phố huyện, nhằm nơi ồn ào nhất mà tiến đến mặc kệ đôi mình trong căn nhà nhỏ với những xử lý sinh hoạt tùy thích. Gã vốn thích tự do thì đây coi như một món quà mà con người mạn phép thay mặt tạo hóa kính dâng chúng. Công cuộc mưu sinh kéo chúng tôi đi. Một tháng, rồi hai tháng, không thấy gã nhắc gì về cô gái nơi thôn mạc kia. Một cuộc tình chớp nhoáng? Một bông hoa bất chợt dọc đường hay muốn cho nhau một bất ngờ, một niềm vui có tính toán? Chịu. Với gã này, tất cả phỏng đoán chỉ là thừa. Và tôi, tôi cũng chẳng tội gì đi sâu vào đời riêng của gã. Tôi chỉ quan tâm đến văn chương gã, cái đã khuất phục tôi và không ít bạn bè sáng tác đồng thời. Bây giờ, đã gần mười năm tôi cũng chưa hỏi gã cái việc đêm hôm ấy. Tại sao chúng ta phải thóc mách vào những riêng tư của nhau trong khi cuộc sống còn có nhiều hấp dẫn, vật lộn để sinh tồn. * * * Anh là người rất nghiêm túc với văn chương. Với cuộc đời Đào Bá Đoàn xuề xòa dễ dãi bao nhiêu thì văn chương anh khe khắt bấy nhiêu. Anh em sáng tác trẻ rất thích được anh đọc các sáng tác mới của mình khi còn ở dạng bản thảo, kể cả một số đã khá thành danh trên văn đàn. Anh đọc nghiêm túc và luôn phát biểu chân thành. Do có một nền tảng triết học khá vững nên Đào Bá Đoàn luôn nhìn tác phẩm dưới lăng kính triết học. Có khắt khe đấy. Có đớn đau đấy, thậm trí có thể gây buồn phiền, đứt gãy mạch cảm xúc của người viết nhưng anh luôn thẳng thắn và chúng tôi cảm phục về điều đó. Hay ho gì khi cứ khen chê nhau một cách chung chung, nhợt nhạt, đàng điếm và xu thời lố bịch để hậu quả cuối cùng là làm tổn hại văn học. Nhưng anh thường không mấy khi nhận lời đọc và nhận xét vì biết chúng tôi phần nhiều cũng là loại háo danh nhiều khi chỉ ưa thích được khen, muốn được bơm thổi một cách phù phiếm. Không phải ai cũng trở thành chính nhân quân tử được, đặc biệt trong giới văn đàn vốn không hiểu sao luôn giả nhiều hơn thật, dở nhiều hơn hay, chỉ giỏi lợi dụng văn chương để mưu cầu những lợi ích khác. Với cá tính của mình, anh luôn lảng xa chốn ồn ào mà lặng lẽ rút mình về những thiệt thòi của giới cầm bút đích thực. Giới cầm bút cũng rất nhiều hạng nhưng những người thiệt thòi và tài danh thực sự họ luôn tìm đến nhau. Không phải là những động viên suông mà là cảm hiểu bằng tâm thức của người đồng cảnh ngộ. Tôi nhớ một cuộc anh phỏng vấn nhà thơ Dương Tường và thấy ngay điều đó. Cuộc phỏng vấn rất ít chữ, đôi lúc tưởng như hai người hỏi nhau rất bâng quơ về những việc đẩu đâu nhưng nếu đọc thật kỹ văn bản thì bài viết ấy đã đạt được một độ sâu đáng thán phục của thể loại. Thực ra họ trò chuyện với nhau cơ bản bằng im lặng và chỉ có thể trong im lặng, ngôn ngữ của họ mới bộc lộ hết được vẻ đẹp của nó để sau đó mới là văn bản. Đúng như tác giả Phạm Lưu Vũ đã từng nói, đại ý: Đào Bá Đoàn có những câu văn chúng ta khó có thể theo được, nó là một thứ văn của không gian ba chiều, của một thẩm mĩ thăng hoa nhưng luôn sâu đằm và chín nục, thực ra nó là văn của thứ giời cho. Nhiều lúc tôi cũng ngạc nhiên về cái sự im lặng lâu bền của anh trong giới và trong cuộc sống. Có những điều chúng ta không thể hiểu nổi như việc không ít tài năng khi chết đi mới được công nhận, thậm chí là sau hàng trăm năm còn bị nguyền rủa trước khi những đóng góp nghệ thuật của họ được vinh danh. Tôi không dám hồ đồ hô hoán anh là một tài năng nhưng những đóng góp bằng các sáng tác của mình bởi anh luôn khiến tôi phải ngẫm ngợi. Tại sao các tác phẩm trung bình, thậm chí non yếu khác cứ luôn được tung hô và nhận các giải thưởng để rồi sau đó rơi và sự im lặng, thậm chí chúng ta thấy xấu hổ khi nhắc đến chúng. Tại sao nhiều người ngoài cái tên trống rỗng ra thì thực sự chỉ là một con số không lại luôn tô son chát phấn, com lê cà vạt di động từ diễn đàn này sang diễn đàn khác rao giảng văn chương cho khắp thiên hạ, mà chúng ta, ai cũng biết điều đó là lố bịch nhưng cứ để mặc kệ điều đó diễn ra. Điều này chúng ta ai cũng biết nhưng lại luôn luôn lảng tránh câu trả lời. Nhà văn Đào Bá Đoàn (Bìa trái) và Nhà thơ Bùi Xuân Mẫn. * * * Trong một sáng tác của anh, có một người hấp hối không ai cứu. Họ sợ người nọ chết trên địa phận của mình nên đùn đẩy nhau, người này dưa người kia, cuối cùng người ta quyết định thuê một anh kéo xe bò chở người hấp hối đến một trạm xá hẻo lánh vùng giáp ranh. Chiếc xe bò chở người hấp hối lọc cọc đi trong đêm, suốt đêm, hết nơi này nơi khác cũng chả đâu nhận. Nơi nào cũng có lý lẽ riêng để không nhận. Họ còn đòi đánh người kéo xe và thủ tiêu người hấp hối trên xe. Cùng quẫn, không đường về, không đường đến, người kéo xe và người hấp hối ôm nhau khóc, nước mắt đỏ như máu nhỏ sang nhau. Trong suốt chặng đường gập ghềnh gian khó cái đêm ấy, anh kéo xe tâm sự với bạn mình, là người hấp hối kia rằng, anh ơi, tôi mệt quá rồi, ước sao tôi được như anh, cứ hấp hối chết dần thế lại hay, ước gì tôi được chết, được hấp hối cho dù chả ai kéo tôi đi đâu cả. Mà kéo tôi thì ích gì. Thôi, để tôi kéo anh ra sông. Chúng ta cùng chết. Dù sao thì chết ở sông cũng mát mẻ hơn, đỡ tù túng hơn. Cũng có khi không một ai đùn đẩy nhau vớt tôi với anh lên đâu. Chúng ta trôi dạt nay đây mai đó ở cõi đời này, trên dòng sông này. Khi đã chết rồi chả ai mắng mỏ, tị nạnh, ghét bỏ chúng ta. Ô hay, chính cái chết là tự do, không còn phiền toái gì nữa. Tôi và anh cùng chết. Tôi cũng đã muốn kết thúc cuộc đời mình, anh bạn ạ. Cứ thế hai con người lạc lõng tâm sự với nhau trong im lặng. Một điểm mạnh của Đào Bá Đoàn là luôn để nhân vật của mình tự sự trong im lặng. Anh có biệt tài (sáng tạo hay tối tác?) là để cho các nhân vật của mình luôn độc thoại và những độc thoại ấy thường không liên quan gì đến nhau. Trong câu chuyện, cách kể chuyện như thế tưởng chừng rất rời rạc nhưng nó chỉ rời rạc với những người non tay, còn với anh lại khác. Tôi đã thấy rằng, trong các truyện ngắn mà anh viết, hễ các nhân vật, các tình thế trong câu chuyện mà cảm thông hoặc liên kết được với nhau y như rằng câu chuyện kết thúc hoặc nếu không thì là một câu chuyện hết sức dở. Đúng là sáng tác mỗi người mỗi khác và chính cái dị biệt đã làm lên thành công những sáng tác của anh. Nhưng cũng phải nói rằng, trước hết, trên hết là cái giọng văn của anh. Không giống ai đã đành. Mới mẻ kỹ lưỡng đã đành nhưng phải nói thẳng ra là, đó là một thứ văn chờn vờn ma mị được ẩn giấu dưới cái vẻ bề ngoài lam lũ, xộc xệch như một ông hoàng khoác áo hành khất. Viết đến đây, tôi chợt thấy văn chương của anh phảng phất hơi hướng của thi sĩ Bùi Giáng. Cũng rất triết học. Cũng rất hiện sinh. Tưởng lánh đời nhưng hết sức nhập thế. Tưởng luênh loang diệu vợi nhưng luôn cô đúc đằm đẵm chất người. Sống với anh thời gian dài, nhân đây tôi cũng xin nói ra, về đời sống và cá tính anh khá giống trung niên thi sĩ. Cũng luôn có những cơn điên điên chập chập như thế. Một lần, sau khi uống liên miên cùng với nhiều tốp văn nghệ sĩ ở nhà tôi bỗng anh đi đâu mất. Mọi người mặc kệ vì cũng đã quen như thế. Anh thường đi bất đồ và chúng tôi cứ việc câu chuyện văn nghệ trên trời dưới bể quanh chiếu nhậu đến nửa đêm thể nào đói bụng anh cũng trở về. Tôi chỉ việc để cửa và để ra đấy một rổ rau bên nồi cháo cùng bình nước lạnh là ngài ưng ý lắm. Thế mà đến tảng sáng vẫn không thấy chó hàng xóm cắn như mọi lần, chỉ tiếng gà thanh thản, nhu nhơ báo sáng. Đang lơ mơ nửa thức nửa ngủ thì có tiếng chuông điện thoại reo. Chẳng khó khăn gì tôi đã nhận ra ngay được sự việc. Tôi xách xe máy đi ra chân cầu sông Lăng, bên bốt điện, cám ơn mấy tay bảo vệ tuần đêm rồi đánh thức anh dậy, đưa anh về. Vừa thay bộ đồ ướt sũng bèo tấm bèo cái quấn đầy vừa không hết ngạc nhiên và cả kinh hãi khi mấy tay bảo vệ cho biết suốt đêm qua anh cứ bơi từ bên này sông sang bên kia sông đến tảng sáng mới leo lên chân cầu thiếp giấc. Mới đầu họ tưởng có con cá lớn trở trời đốc chứng hoặc gia súc nhà nào ngộ dại trên sông nhưng khi biết đó là một người đàn ông vừa hăm hở bơi vừa trò chuyện một mình thì họ cho là người khùng cứ để mặc kệ. Khi anh lên bờ thiếp giấc, họ mới đến gần xem và trong toán bảo vệ có người nhận ra là bạn tôi bèn rút điện thoại. Đến mười giờ anh tỉnh, sau khi ăn bát cháo hành và tắm táp sạch sẽ đồng thời nghe tôi thuật lại, thoạt đầu anh không tin nhưng nhìn ra sân, bộ đồ của anh còn dày đặc những bèo tấm bèo cái anh chỉ tủm tỉm cười. Tôi nói cách sống anh giống Bùi Giáng là ở nhiều những chi tiết như trên. * * * Văn chương của anh là một thứ văn chương luôn đối kháng với một cái gì đó. Sự nửa vời chẳng hạn. Sự màu mè chẳng hạn. Sự giả tạo, gân cốt, làm hàng, ôi a, tuyên huấn, giáo điều, dễ dãi, khụng khiệng, la làng, làm dáng, điệu đàng, phô diễn, giả cổ, trang kim… tóm lại văn anh luôn tự tìm ra những địch thủ khác nhau để lập chiến tuyến. Nhưng cách khai chiến của anh cũng rất khác người. Không ầm ĩ, không chỉ mặt đặt tên, không ưa thích tàn sát đối phương mà thật kỳ lạ, anh khom mình lại và tạo lên những tầng sâu lớp lớp khiến kẻ kia hoảng sợ. Nhưng đó chỉ là mong muốn tốt lành và khờ khạo của anh mà thôi. Những kẻ kia, đời nào chúng hoảng sợ, chúng còn đang giương ra những vây vảy của mình. Đừng tưởng bở. Bọn giả dối, bọn gân cốt, làm hàng, ôi a, tuyên huấn, giáo điều, dễ dãi, khụng khiệng, la làng, làm dáng, điệu đàng, phô diễn, giả cổ, trang kim… mưu mô giảo quyệt lắm đấy. Chính chúng chớ còn ai khác, đã, đang và sẽ chiếm lĩnh đăng đàn còn anh mới là kẻ thất bại. Chúng sẽ xua đuổi anh vào rừng thẳm với những suy nghĩ cao siêu của mình. Hoặc chúng sẽ đẩy anh xuống sông xuống biển mặc xác bơi lội như loài cá. Hoặc chúng sẽ cô lập anh, bủa vây anh cho đến khi anh giã từ mặt đất về sinh học. Chúng nhạo báng và khinh khi anh, thậm chí chúng kết luận anh là kẻ điên rồ. Điều này anh có biết không? Tôi cho rằng điều này anh rất biết nhưng anh không thể đứng về phía chúng. Có lẽ nào khi còn có một mình ta lại ra hàng. Quay giáo trở cở là điều anh không làm nổi. Đó là một nỗi đau truyền kiếp của anh nhưng đó cũng là thứ ánh sáng cuối cùng le lói trong đường hầm chưa tìm được lối ra. Các nhân vật của anh luôn ưa độc thoại và không dám liên kết với nhau bởi còn vì lẽ ấy. Trong thâm tâm, với những gì anh trình bày ra bằng văn chương, bằng đời sống trong đó có sự dấn thân của cá nhân anh tôi luôn tin anh đến với văn chương bằng một nỗi đau nhân thế và tấm lòng trong sáng kiệt cùng của người cầm bút. Thứ văn chương mà anh hướng tới là một thứ văn chương thuần khiết được thể hiện mới mẻ cả hình thức và nội dung. Chúng không chịu bất kỳ một sức ép phi nghệ thuật nào. Chúng có đời sống riêng của chúng và chúng góp vào đời sống con người những thanh âm hữu ích. Ao ước của anh, ôi sao giản dị và trong sáng quá chừng nhưng trong lúc này đây, điều giản dị và trong sáng ấy tại sao khó có thể thực hiện được. Điều này tôi không đủ sức trả lời cũng như tôi không có trách nhiệm phải trả lời. Chính tôi cũng đang phải luồn lách, chống đỡ, hãi sợ những thứ mơ hồ phi văn chương nhưng luôn neo cột, nhắc nhở thậm chí dọa nạt ngòi bút của mình. Những ràng buộc biến chúng tôi trở lên ngày càng nhỏ bé xiết bao trước sôi động của cuộc sống, trước sự thật buốt lòng của con người mà lẽ ra một ngòi bút có lương tâm phải nên tiếng. Tôi luôn day dứt khi nghĩ đến điều đó. Tôi luôn day dứt khi thời gian cứ trôi vùn vụt mà lũ cầm bút chúng tôi chỉ trình ra được những sản phẩm làng nhàng, những sản phẩm như là để dâng hiến, làm vừa lòng một thế lực xa lơ lắc nào đó chứ không phải quần chúng cần lao đang đêm ngày vật lộn mưu sinh tha thiết mong muốn chúng tôi lên tiếng về những khốn khó, thiếu thốn, tối tăm mông muội mà họ đang phải gánh chịu một cách khó hiểu. Cũng như anh, tôi luôn mong muốn văn chương của chúng ta phải khác, phải giải quyết và làm bổn phận đúng chức năng xã hội của nó, chức năng góp một tiếng nói để con người ngày càng hoàn thiện hơn, những dự báo mà lương tâm từng day dứt, nghiền ngẫm và vật vã mà chúng tôi thì cứ loay hoay trong những khuôn phép vớ vẩn do chính sự hèn nhát và yếu kém của mình đặt ra. Cũng như anh, có không ít lúc tôi rơi vào bế tắc và khủng hoảng nội tâm, luôn cảm thấy như mình có lỗi với ngòi bút, với con người và như càng hiểu những cố gắng chuyển xoay tình thế của anh, của văn chương anh trong cuộc trường chinh chữ nghĩa dằng dặc mà chúng tôi như là những tội đồ. Chúng tôi quý trọng anh và văn chương của anh cũng bởi vì lẽ ấy.
Đào Bá Đoàn: Người đi bỏ mặc nhân gian – Tác giả: Phùng Văn Khai
6,442
Theo Từ điển Tiếng Việt, ngồi được định nghĩa là ‘tư thế đặt mông trên mặt nền hoặc chân gập lại để đỡ toàn thân, phân biệt với đứng, nằm’. Như vậy, trong các tư thế không dời khỏi vị trí ban đầu, ngồi được xem là một trong ba tư thế cơ bản, có thể là làm việc mà cũng có thể là nghỉ ngơi, suy nghĩ. 1. Trong đời sống người Việt, cùng là một tư thế ngồi nhưng có rất nhiều cách biểu hiện/ miêu tả khác nhau. Ngồi xổm (ngồi chồm hổm) là tư thế ngồi gập hai chân lại, mông không chạm đất, thường gắn với việc người ngồi vẫn thực hiện một hoạt động nào đó. Khác với ngồi xổm, ngồi bệt hoặc ngồi dãi thẻ có tính nghỉ ngơi cao hơn. Nếu như ngồi bệt (ngồi phệt) là cách ngồi sát mông xuống đất (sàn), không kê lót gì bên dưới thì ngồi dãi thẻ là cách ngồi duỗi thẳng hai chân, thường nói về việc phụ nữ không phải làm gì cả. Lại có những cách ngồi lộ rõ tâm trạng của chủ thể, thường gắn với những suy tư, chẳng hạn ngồi bó gối . Ngồi cũng có thể biểu hiện những cảm xúc khác nữa như sự ngại ngần, lo lắng hay e sợ. Ta có một loạt các đơn vị định danh như: ngồi khép nép, ngồi thu lu, ngồi rúm ró … Có những cách ngồi biểu thị sự tĩnh lặng ở cấp độ cao như: ngồi kiết già, ngồi thiền, ngồi đồng . Có những tư thế ngồi được cho là không đẹp mắt, đáng bị chê cười như ngồi dạng háng . Nhìn vào hành động ngồi có thể đánh giá được tầm văn hóa của chủ thể hành động. Vì thế, ngồi cũng được xem là một việc cần phải dạy bảo, từ thế hệ trước nhắc nhở thế hệ sau, như tục ngữ đã có câu: Ăn trông nồi ngồi trông hướng . Ngồi còn đi vào nhiều thành ngữ, kéo theo những nhận định, đánh giá của người sử dụng. Chẳng hạn ngồi lê mách lẻo (ngồi lê đôi mách) là câu phê bình những kẻ hay nghe ngóng hóng hớt những chuyện của người này rồi đem mách cho người khác, thường là những chuyện riêng tư. Hay như câu Ngồi mát ăn bát vàng thường dùng để phê phán những kẻ bóc lột, không lao động mà lại được hưởng mọi sự sung sướng. Ngoài ra, còn có câu thành ngữ Hán Việt Tọa sơn quan hổ đấu (ngồi trên núi xem hai hổ đánh nhau) để nói về những kẻ tinh khôn, có phần ranh ma, chờ kết thúc một sự việc căng thẳng rồi nhảy vào hưởng lợi. 2. Trong thi ca Việt, ngồi đã đi vào vô số các tác phẩm từ cổ điển cho đến hiện đại, biểu hiện muôn vàn các trạng thái cảm xúc khác nhau của con người. Từ trong ca dao, ngồi đã biểu thị những những mong nhớ, đợi chờ, phấp phỏng của những kẻ yêu nhau: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than. Các thành ngữ như đứng lên ngồi xuống, ra đứng vào ngồi cũng biểu hiện sự lo lắng không yên của chủ thể. Trong những trường hợp thế này, ngồi rõ ràng không có chút nào của sự thả lỏng hay nghỉ ngơi. Trong phần cuối của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du tả Kiều ngồi đó mà lo lắng không yên, dự cảm về bao nhiêu bão giông sắp sửa kéo đến: “ Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh / Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi ” . Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có đoạn tác giả tả Mã Giám Sinh mua Kiều. (Ảnh minh họa). Bàn về ngồi trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, cũng không thể quên sáng tạo độc đáo của tác giả trong đoạn tả Mã Giám Sinh mua Kiều, chỉ qua một chữ mà lột tả được bản chất vô học, thất lễ, con buôn của gã họ Mã: “ Ghế trên ngồi tót sỗ sàng ”. Sang thơ Việt thời hiện đại, vẫn là một chữ ngồi đã kéo theo bao nhiêu tâm trạng của chủ thể hành động. Phải chăng nếu so sánh trong tương quan với hai trạng thái không rời vị trí còn lại là đứng và nằm, ngồi dễ dàng được sử dụng để bộc lộ nhiều cảm xúc hơn. Trong Thơ Mới lãng mạn (1932 – 1945), ta có một động từ ngồi trong thơ Nguyễn Bính để diễn tả nỗi nhớ mong trong tình yêu: “ Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông / Một người chín nhớ mười mong một người ” . Cũng vẫn là chữ ngồi ấy, trong Lỡ bước sang ngang lại hiện lên hình bóng đáng thương của người chị cô đơn, tuyệt vọng đến héo hon: “ Tháng ngày qua cửa buồng the / Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa ” . Nguyễn Bính cũng dùng chữ ngồi để nói về chính ông, một lãng tử giang hồ, một nghệ sĩ khát khao tìm kiếm tri âm, giăng mắc trong đó những nỗi buồn thời đại trong Hành phương Nam : “ Ta đi những biết về đâu chứ / Đã dấy phong yên khắp bốn trời / Thà cứ về đây ngồi giữa chợ / Uống say rồi gọi thế nhân ơi! “ Trong Ông đồ của Vũ Đình Liên, ta cũng bắt gặp một nghệ sĩ cô đơn với nỗi buồn về một vẻ đẹp văn hóa có tự ngàn đời nay bỗng bị lãng quên: “ Ông đồ vẫn ngồi đó / Qua đường không ai hay / Lá vàng rơi trên giấy / Ngoài trời mưa bụi bay ” . Ngồi không chỉ được miêu tả như tư thế/ biểu hiện của một cá thể. Ngồi có lúc còn gắn với sự có mặt của nhiều người, cũng là một cách để sẻ chia tâm sự: “ Tối đen thành phố đêm lưu lạc / Máy bay giặc rít ở trên đầu / Ba đứa da vàng ngồi uống rượu / Mặt buồn như sỏi dưới hang sâu (Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn – Lưu Quang Vũ ). Trong thơ ca Việt Nam sau năm 1975, ngồi còn gắn với tử biệt sinh ly: “ Mẹ ngồi bên nấm mộ con / Là ngồi bên tấm nôi tròn ngày xưa / Xót đau biết mấy cho vừa / Hoàng hôn đời mẹ cơn mưa lại về ” (Lời ru cỏ non – Kim Châu) Còn với Nguyễn Bính, thi sĩ phải mất một đêm thao thức để tìm ra một chữ ngồi đắc địa, miêu tả việc mầm mạ được gieo xuống rồi bén rễ trỗi dậy: “ Mộng một đêm qua mạ đã ngồi ” .
Về một chữ ‘ngồi’ – Tác giả: TS. Đỗ Anh Vũ
1,076
Một cơn lốc xoáy tấn công miền Bắc Trung Quốc, làm hư hại nhà cửa, đường dây điện và gây gián đoạn giao thông. Đoạn video được quay ở tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc vào ngày 1/6 cho thấy, sức tàn phá kinh khủng của cơn lốc, nó nhanh chóng quét qua mặt nước, để lại những cái cây trơ trụi và gây ra thiệt hại đáng kể khi tiến vào các ngôi làng. Hậu quả của cơn lốc xoáy đã làm gián đoạn giao thông địa phương, với nhiều chuyến tàu cao tốc phải dừng lại như một biện pháp phòng ngừa. Theo nhân viên cứu hộ, cơn lốc xoáy chủ yếu ảnh hưởng đến khu vực xung quanh làng Tianjia. Nhà cửa, cây cối và đường dây điện đã bị hư hại nghiêm trọng do hậu quả của thảm họa thiên nhiên này. Các nhà chức trách đã nhanh chóng bắt đầu các nỗ lực có tổ chức sau thảm họa để giải quyết hậu quả và khôi phục lại trạng thái bình thường cho khu vực bị ảnh hưởng.
Video: Lốc xoáy mạnh quét qua miền Bắc Trung Quốc
176