text
stringlengths
78
4.36M
title
stringlengths
4
2.14k
len
int64
18
943k
gen
stringclasses
1 value
Nghiên cứu mới của Trường ĐH Dartmouth ( Mỹ ) cho thấy thiệt hại kinh tế do hiện tượng thời tiết cực đoan El Nino có thể lên đến hàng ngàn tỉ USD. Phân tích được công bố hôm 19-5 sử dụng mô hình kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và biến đổi khí hậu từ năm 1960 đến 2019, đồng thời so sánh tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên toàn thế giới trước và sau các sự kiện El Nino. Theo hãng tin Bloomberg , các nhà nghiên cứu phát hiện biến đổi khí hậu từ năm 1997 – 1998 đã khiến GDP thế giới giảm 5.700 tỉ USD và tăng trưởng toàn cầu giai đoạn năm 1982 – 1983 giảm khoảng 4.100 tỉ USD. Hai nhà khoa học thực hiện nghiên cứu nói trên, gồm Christopher Callahan và Justin Mankin, ước tính thiệt hại từ El Nino trong thế kỷ này có thể lên đến 84.000 tỉ USD, tương đương 1% GDP toàn cầu. Báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới hôm 17-5 cho rằng khoảng 98% khả năng có ít nhất một trong 5 năm tới và cả giai đoạn 5 năm nói chung sẽ là khoảng thời gian nóng nhất từng được ghi nhận. Theo nghiên cứu trên tạp chí Science hôm 18-5, việc con người sử dụng nước thiếu tính bền vững, những thay đổi về lượng mưa, dòng chảy, bồi lắng và nhiệt độ tăng cao khiến mực nước tích trữ của khoảng 53% hồ toàn cầu suy giảm, với tốc độ mất nước lên tới 24 tỉ tấn/năm trong giai đoạn 1992-2020. Tình trạng này làm gia tăng mối lo ngại về thiếu nước sử dụng cho nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt. Dòng sông Rio Grande khô nước từ đập Elephant Butte được xả vào sông Rio Grande khô cạn ở bang New Mexico – Mỹ hôm 13-5 Ảnh: REUTERS. Gần 2 tỉ người bị ảnh hưởng trực tiếp và nhiều khu vực phải đối mặt tình trạng thiếu nước trong những năm gần đây. Các nhà khoa học từ lâu đã cảnh báo cần phải ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu vượt quá 1,5 độ C để tránh những hậu quả thảm khốc nhất của biến đổi khí hậu. Hiện thế giới đã nóng lên khoảng 1,1 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Tại châu Á, tình trạng nắng nóng gay gắt đã kéo dài trong những tuần qua do ảnh hưởng của El Nino. Nhiệt độ tăng lên mức cao kỷ lục ở Việt Nam và Lào vào đầu tháng 5 trong khi Singapore chứng kiến nhiệt độ lên đến 37 độ C – mức cao nhất trong 40 năm qua. Trong khi đó, các nhà khí tượng học cũng cảnh báo các vụ cháy rừng sẽ diễn ra thường xuyên hơn và có sức tàn phá lớn hơn khi nhiệt độ tăng lên. Theo Tổ chức Y tế thế giới, khói từ cháy rừng là một phần của tình trạng ô nhiễm không khí toàn cầu, góp phần gây ra 7 triệu ca tử vong sớm mỗi năm. Hỗn hợp khí độc và các hạt bụi trong không khí đủ nhỏ để xâm nhập vào máu là một yếu tố rủi ro gây ra bệnh suy tim và bệnh phổi, đồng thời có thể dẫn đến suy giảm khả năng nói ở trẻ nhỏ và yếu cơ. Các vấn đề sức khỏe dai dẳng cũng sẽ làm tăng thêm chi phí, gây áp lực lên hệ thống y tế và tăng trưởng kinh tế.
‘Sát thủ thầm lặng’ khiến thế giới mất hàng ngàn tỉ USD
588
Đã là một cuộc chiến tranh, tất nhiên nhân vật trung tâm phải là người lính. Tuy nhiên, các thế hệ anh hùng ca và trường ca trước đó ít tập trung phản ánh tập thể “quần chúng lính” mà tập trung ở những nhân vật cá nhân anh hùng. Đều xuất thân từ lính nên các tác giả trường ca sau 1975 đều đã phản ánh rất thành công đời sống, tâm tư, tình cảm, tư tưởng của người lính trong và sau chiến tranh. Tuy nhiên, không phản ánh đơn giản bằng những khoảnh khắc xúc cảm như hình ảnh người lính trong thơ; trường ca, với lợi thế của yếu tố tự sự và độ dài cho phép, đã phản ánh người lính ở nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là chất bi ca trong từng số phận cụ thể nhằm làm toát lên cái tinh thần chính mang tính sử thi bi hùng. Thu Bồn và Thanh Thảo là hai nhà thơ thế hệ thơ chống Mỹ viết nhiều trường ca nhất trong thơ ca Việt Nam (Thu Bồn 8 trường ca, và Thanh Thảo 14 trường ca). Bằng thế mạnh của nội dung cốt truyện, Thu Bồn, trong Bài ca chim chơ rao đã miêu tả những bi thương mà người chiến sĩ gánh chịu trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù: Tên quan hét lính dùng búa sắt/ Đập gãy mấy chiếc răng còn lại của Rin/ Rin đứng lên mấy lần ngã xuống/ Tên quan đắc chí trễ môi cười/ Bỗng Rin chồm lên chiếc ghế/ Nhổ vào ảnh Diệm bãi máu tươi (Bài ca chim chơ rao – Thu Bồn). Rõ ràng nếu đặt đoạn thơ này vào một bài thơ trữ tình thì nhất định sẽ không đủ dung lượng để Thu Bồn thể hiện hết những cực hình tra tấn mà kẻ thù mang đến. Toàn bộ trường ca kể lại rất nhiều những trường đoạn bi thương của những người dân miền núi trong vòng vây trói buộc của phong kiến, thực dân, đặc biệt là mối bi tình của Y Rin và Mai Sao. Hoàn cảnh đẩy xô cùng với sự giác ngộ, họ đã trở thành hai người chiến sĩ, chiến đấu ngoan cường và cùng gặp nhau trong nhà tù thực dân, đế quốc. Hoàn cảnh hội ngộ khá bi thương trong mối nghi ngờ của Rin đối với Sao, nhưng cũng là một khúc tình ca tráng lệ: “ Giữa tàn phá âm u bừng cháy/ Tình yêu vẫn nở giữa thương đau ” (Bài ca chim chơ rao – Thu Bồn). Trường đoạn cao trào của trường ca chính là giờ phút hai chiến sĩ Hùng, Rin bước ra pháp trường; giờ phút kẻ thù đốt lên ngọn lửa thiêu cũng là lúc hai ngọn lửa thiêng anh hùng rực cháy, soi sáng cả một vùng rừng núi Tây Nguyên, soi sáng cả một miền Nam đang chiến đấu. Người nữ chiến sĩ trong Chim vàng chốt lửa được Thu Bồn chắt chiu dồn hết cả tình thương yêu xây dựng nên như một đóa hoa tươi trong bầu trời đạn lửa. Cái đẹp của phái yếu xưa nay vốn lạ xa với chốn ba quân, vậy mà trước sự kêu đòi của lịch sử, sự tàn bạo của quân thù, đôi bàn tay nhỏ nhắn yêu thương đã “vẫy” nên tín hiệu và làm ra “sấm chớp”; đôi hàm răng trắng nõn tiếng cười trở thành chìa khóa khai thông những cơn bão dữ, đôi làn môi chín mọng yêu thương giờ cũng đang “tóe máu” giữa chiến trường: Hàm răng đẹp xinh em cắn từng chốt bão/ máu tóe làn môi/ bàn tay em tung sấm chớp xuống chân đồi (Chim vàng chốt lửa – Thu Bồn). Thơ Thu Bồn vốn rậm rạp, vạm vỡ như những cánh rừng già đại ngàn; vốn dữ dội, trào tuôn như dòng thác xiết; nên bi ca của Thu Bồn cũng đầy âm vang sử thi như thể hùng ca. Nước mắt, máu, mồ hôi hòa lẫn tiếng cười kiêu ngạo làm nên một “cõi Thu Bồn”. Cuộc chiến càng dữ dội, ác liệt, trường ca Thu Bồn càng tạo nên những phức điệu đầy bi tráng. Đứng giữa đồi núi đất badan lộng gió hòa bình, cô gái Tây Nguyên ngậm ngùi nhớ lại: Chúng tôi chôn anh/ không có chiếu có giường/ chỗ anh nằm rơi một giọt sương/ một bông hoa nở muộn/ chảy qua mộ anh có bài ca sông Đuống/ giải khát nghìn đời cho tuổi trẻ chúng tôi (Badan khát – Thu Bồn). Chỗ nằm cuối cùng của người lính âm thầm và có phần âm u, lạnh lẽo “không chiếu, không giường”, nhưng có “một giọt suơng” rơi nhẹ xuống, “một bông hoa” dù “nở muộn”, một bài ca “sông Đuống” quê hương vọng đến… đã xua tan cái bi ca âm u, “giải khát” nỗi đau nghìn đời cho muôn thế hệ. Ngày mới lên đường đánh Pháp, Hữu Loan vì giữa bước đường hành quân mà nhớ thương những nỗi đau tư riêng nên bị cho là “tội lỗi”, giờ thì Thu Bồn tung ngập cả nỗi nhớ thương, trằn trọc, suy tư vào ngay từng trận đánh để biến nhớ thương thành sức mạnh dội lửa căm hờn xuống đầu giặc. “Trận nhớ” càng dài thì “trận đánh” càng dữ dội, đánh cho “đỡ mỏi nỗi nhớ em”: Chỉ có trận đánh là nơi tôi được nghỉ ngơi cho đỡ mỏi nỗi nhớ em, trận nhớ dài lê thê qua sa mạc có cây xương rồng tôi trồng trong ký ức (Người vắt sữa bầu trời – Thu Bồn). Trong cuộc chiến tranh giúp nhân dân Campuchia diệt trừ bọn diệt chủng, người lính tình nguyện Việt Nam cũng được Thu Bồn khắc họa khá đầy đủ trong một tầm nhìn rộng lớn mang tầm quốc tế; nhưng, dù đã làm nên thắng lợi huy hoàng, giải thoát cả một dân tộc khổ đau, Thu Bồn vẫn không “lớn tiếng” ngợi ca vinh quang, mà tự giấu cái vinh quang ngay chính trong lòng những câu chữ bi thương: tấm vải trắng tinh gói tròn giấc ngủ/ đưa anh về đất mẹ bình yên/ anh gối đầu lên Châu Đốc Tân Biên/ sông Vàm Cỏ quanh năm xanh mát (Campuchia hi vọng – Thu Bồn). Vượt lên cái “cũ mèm” của những “tráng ca” về người lính thường gặp, Thanh Thảo đã tìm nẻo đi riêng cho thơ mình bằng cách nói thật hết, phơi trần hết những “cái – trần – trụi – lính” từ hành động đến nghĩ suy: “ thế hệ chúng tôi không chỉ sống bằng kỉ niệm/ không dựa dẫm những hào quang có sẵn ” (Một người lính nói về thế hệ mình – Thanh Thảo). Cần lưu ý, đây là những câu thơ Thanh Thảo viết vào thời điểm năm 1972. Và cứ thế, dù trải qua hoạn nạn văn chương ban đầu, ông vẫn đi trọn và làm trọn những bài thơ, những trường ca “kiểu lính”. Những số phận bi hùng được Thanh Thảo khắc họa khá đa dạng. Từ những người “nghĩa quân Cần Giuộc” thời kỳ đầu chống Pháp: “ họ lấm láp sình lầy bước vào thơ Đồ Chiểu ” (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc – Thanh Thảo). Chính sự hi sinh cao cả của những “chiến hữu” mình mà cụ Đồ đã “ nhìn thấy đường đi ngòi bút mình ” để tạc hình ảnh người lính vô danh vào một áng văn chương bất hủ. Đó còn là những người du kích Ba Tơ dám làm cuộc quật cường ngay trong nhà tù an trí. Họ vô danh, tuổi tên chỉ được đánh bằng số áo: “ bầu trời rách tả tơi chiếc áo độc nhất/ chiếc áo in số tù dính chặt vào da ” (Bùng nổ của mùa xuân – Thanh Thảo). Từ trong bóng tối bi thương của nhà tù thực dân, họ âm thầm nhóm lửa. Và ngày 11/3/1945, kiếp nổ đã châm ngòi, từ tù nhân họ trở thành người lính vùng lên với sức mạnh căm thù bao nhiêu năm ngục tù tăm tối. Tập trung cao nhất vẫn là những người lính Trường Sơn đánh Mỹ. Cũng là cuộc chia tay như bao cuộc chia tay để những đứa con thân yêu lên đường vào Nam đánh giặc, nhưng gắn cuộc chia tay cụ thể ở cái đêm cuối cùng của tình mẹ con; gắn tuổi trẻ với cuộc đời, gắn cuộc đời với chiếc áo mẹ trao cho, khiến những dòng chia tay này chứa bên trong một sức mạnh nghệ thuật ghê gớm. Từ chuyện cỏn con của “chiếc áo” hôm người lính chia tay, Thanh Thảo đã khái quát được bản chất ác liệt, bi tráng của một giai đoạn lịch sử lớn, chứa chất bên trong cả âm vang của một thời đại lớn bằng câu thơ khái quát đến nao lòng: “ những năm – một chiếc áo có thể sống lâu hơn một cuộc đời ”. Cuộc đời “chiếc áo” vốn đã quá “ngắn” theo cái nhịp thơ hối hả: “ dính chặt vào thân – bạc màu – ngắn nhanh – rồi rách ”, vậy mà “ sống lâu hơn một cuộc đời ” của người mặc nó thì rõ ràng Thanh Thảo đã lột tả hết được sức khốc liệt của một cuộc chiến tranh mang tầm thời đại. Họ đã ra đi, chiến đấu “không tiếc đời mình” điều này thật dễ tìm gặp trong trường ca và thơ chống Mỹ nói chung, nhưng cái cách nói “không tiếc” của Thanh Thảo vẫn cứ lạ lẫm mà sâu sắc: chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/(nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc/ cỏ sắc mà ấm quá phải không em? (Những người đi tới biển – Thanh Thảo). Đó là anh Sáu Như “ người xã đội trưởng không bằng cấp/ ngay tên mình anh viết cũng chẳng xuôi ”, là anh Tư Tròn “ có thể bất thần leo tuốt ngọn trâm/ mắt bao hết cuộc càn của giặc ”, là anh Ba Tốt – người thương binh “ dấu chân gỗ tròn hằn trên đất phù sa/ những con dấu lặng ”, là Tám Hùng “ màu mắt đen dồn hết cho ánh sáng ”, còn là… “ bao nhiêu các anh các chị ”- “ những người tôi quen biết/ những người tôi chưa một lần gặp mặt/ mỗi cuộc đời như quyển sách mở ra/ không tài nào ta đọc xong trang chót ” (Những người đi tới biển – Thanh Thảo)… Miêu tả sự hi sinh âm thầm của người lính bằng hình ảnh những “chiếc võng mục” khiến ta vừa cảm thấy rờn rợn vừa thấm thía đến bề sâu tận cùng của ý nghĩa hi sinh: “ những chiếc võng mục giữa rừng nguyên thủy/ còn ôm bạn ta cơn sốt rét cuối cùng ” (Những người đi tới biển – Thanh Thảo). Và đây là một người lính điên trên Trường Sơn năm ấy. Dám đưa vào trường ca “sử thi anh hùng” tâm trạng một người lính bị tâm thần để tìm cho ra chân lý mang tính triết luận giản đơn về lính, chứng tỏ bản lĩnh sử thi Thanh Thảo : Đi dọc Trường Sơn gặp nhiều người bị tâm thần,… Những người tốt, dù lúc bị điên, hoàn toàn không làm chủ được mình, vẫn còn những biểu hiện của lòng tốt. Nó là cái gì sâu xa, dai dẳng hơn ta tưởng (Khối vuông rubich – Thanh Thảo). Cứ thế cái “bi”, cái “hùng” đầy chất lính cứ đan xen, quyện chặt lấy nhau trong suốt trường ca Thanh Thảo. Người lính sau chiến tranh trở về với đời sống hòa bình vẫn chưa thật sự được nghỉ ngơi đúng nghĩa, họ lại tiếp tục lên đường đến những vùng đất hoang vu khai phá để dựng xây đất nước. Ở đó họ lại tiếp tục viết những trang sử mới: 1976 – đứa bé ra đời/ trong tiếng nổ phá mìn/ hàng sư đoàn đi vỡ đất/ cờ đuôi nheo đánh dấu lại những cánh đồng (Badan khát – Thu Bồn). Tuy nhiên, cuộc sống khó khăn đang đặt ra những vấn đề mới buộc người lính phải trăn trở nghĩ suy. Vui với niềm vui hồi sinh, xây dựng đó, nhưng hình như niềm vui chưa trọn, vẫn nghe trong thơ thoảng đôi chút ngậm ngùi: “ Con trở lại túp lều xưa của mẹ qua bao năm cỏ dại mọc đầy” (Người vắt sữa bầu trời – Thu Bồn). Họ lặng người đi khi hay tin vết thương thời chiến đã hành hạ và nhẫn tâm hạ sát đồng đội mình ngay giữa thời bình: “ Anh không về để kịp ngắm em lần cuối, lời trối trăn em gửi lại cỏ cây ” (Người vắt sữa bầu trời – Thu Bồn). Trường ca viết về thời bình đã giảm nhiều chất sử thi hùng tráng, nhưng lại trăn trở lo toan những vấn đề to tát của giai đoạn lịch sử mới bằng những chiêm nghiệm sâu sắc và bình tĩnh hơn. Đó là đời thường của những đồng đội thương binh đem sức lực còn lại của mình góp phần mang lại cho đời niềm vui cùng những ước mơ: Người bạn tôi đã mất một cánh tay/ vùi trong lòng địa đạo/ mà địa đạo cũng không tìm thấy nữa/ đã mười năm…/ anh bây giờ thành một giáo viên/ lên lớp cho các em về quả đất tròn/ quả đất không phút giây ngừng nghỉ (Trẻ con ở Sơn Mỹ – Thanh Thảo). Các tác giả trường ca đều là “những người trong cuộc bi hùng”, với tư cách và trách nhiệm một người lính làm thơ, giữa thời bình, họ cũng bắt đầu xác định cho thơ mình những nhiệm vụ mới để kịp thời bắt nhịp với bao lo toan, vật vã thời bình: ta lột hết những ngữ ngôn bóng bẩy, những áo xống triều thần trong những tụng ca, khám sức khỏe toàn năng cho những bài thơ mới, những bài thơ trẻ trung cởi áo trước mặt trời làm nghĩa vụ công dân (Người vắt sữa bầu trời – Thu Bồn). Không còn chấp nhận sự xuôi chiều do chung một dòng lý tưởng của thơ ca thời chiến, những người lính làm thơ lao vào một khám phá mới để theo kịp nhu cầu phản ánh cuộc sống thời bình đa chiều kích và cũng để nhìn lại cái đã qua bằng cái nhìn sâu xa hơn: Câu thơ hay không phải mục đích bài thơ, như một năm sống không phải mục đích cả đời người… Cảm giác về cái đẹp thường gắn liền với cảm giác nuối tiếc, nó hướng ta nhìn lại cái đã qua bằng cái nhìn sâu xa hơn (Khối vuông rubich – Thanh Thảo). Chỉ cần nhìn thoáng qua hình thức thể hiện của hai đoạn thơ trên, ta đã thấy cái chất thơ lính thời bình cũng đã có rất nhiều chuyển đổi. Như vậy, người lính hiện lên trong trường ca Thu Bồn và Thanh Thảo với rất nhiều số phận khác nhau. Tuy nhiên, người lính trong trường ca Thu Bồn dù đã được miêu tả đúng bản chất hơn, đúng chất lính hơn với tất cả tính cách bi hùng của từng số phận so với thơ ca trước đó. Mặc dù vậy, người lính trong trường ca Thu Bồn vẫn chuẩn mực và lý tưởng hơn. Còn lính trong trường ca Thanh Thảo, chất lý tưởng lại được thể hiện một cách trần trụi, có “tính cách đặc trưng thế hệ” với độ lắng của những suy nghĩ, trở trăn; không mang những nét tính cách chung chung về hình tượng người chiến sĩ cách mạng ta thường gặp trong thơ.
Người lính trong trường ca Thu Bồn và Thanh Thảo – Tác giả: Mai Bá Ấn
2,626
Chiều 19/5/2023, tại Hà Nội , Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Chỉ đạo Công tác thông tin đối ngoại Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức Lễ công bố, giới thiệu sách ‘Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam’ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, xuất bản bằng 7 ngoại ngữ (Anh, Trung Quốc, Lào, Nga, Pháp, Tây Ban Nha và Hà Lan). Cuốn sách là tài liệu quý, tổng kết lý luận về đường lối đổi mới, những phát triển sáng tạo riêng có của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi vậy ngay sau khi ra mắt bạn đọc, cuốn sách đã nhận được những đánh giá tích cực và sự quan tâm sâu rộng của dư luận trong và ngoài nước.
Xuất bản cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bằng 7 ngoại ngữ
178
Nhân dịp dự Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng và làm việc tại Nhật Bản, sáng 20/5, tại thành phố Hiroshima, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã gặp Thủ tướng Canada Justin Trudeau để trao đổi, thảo luận về hợp tác song phương, cũng như các vấn đề khu vực, quốc tế cùng quan tâm.
Video: Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp Thủ tướng Canada
65
Grazia Deledda thường được nhắc đến là tác giả đoạt giải Nobel bị quên lãng, nhưng theo TS Trần Ngọc Hiếu, tác phẩm ‘Người mẹ’ đáng đọc và dễ kết nối với độc giả trẻ ngày nay. Một phần tranh Saint Catherine in prayer của Plautilla Nelli. Ảnh: AWA. Nhà văn Grazia Deledda là người phụ nữ thứ hai và là người phụ nữ người Italy duy nhất đoạt giải Nobel Văn chương cho đến nay. Bà được Viện hàn lâm Thụy Điển vinh danh vì “những tác phẩm được truyền cảm hứng duy tâm, mô tả rõ nét về cuộc sống trên hòn đảo quê hương của bà và giải quyết các vấn đề của con người nói chung với chiều sâu và sự cảm thông”. Dù vậy, Grazia Deledda thường được nhắc đến là một tác giả đoạt giải Nobel bị quên lãng. Trong buổi giao lưu ra mắt tác phẩm đầu tiên của Grazia Deledda được dịch sang tiếng Việt – Người mẹ , TS Trần Ngọc Hiếu phản bác rằng tác phẩm Người mẹ vẫn đáng đọc và dễ kết nối với độc giả trẻ ngày nay. Người mẹ kể câu chuyện về mối tình cấm kị đẩy vị cha xứ trẻ vào thế tiến thoái lưỡng nan, kẹt giữa tình yêu và sự giày vò, nỗi sợ sự ô nhục và nỗi ăn năn khi phụ lòng đấng sinh thành – người mẹ vị cha xứ đã hy sinh tất cả cho mong muốn con trai mình trở thành linh mục. Ngay ở chương đầu tiên, độc giả thấy hình ảnh người mẹ nằm trong bóng tối, chua xót nghe tiếng người con trai lẻn ra khỏi nhà, đi gặp một cô gái. “Trước đó, người mẹ đã đóng cửa nhà và chẹn bằng hai then gỗ để chặn ma quỷ xâm nhập vào nhà. Cái con quỷ đó vào những đêm trở gió vẫn thường sục sạo bên ngoài để tìm kiếm linh hồn còn váng vất tuy nhiên, trong sâu thẳm, bà ít tin vào những điều này, còn bây giờ bà lại chua chát và mơ hồ xem thường chính mình, nghĩ rằng linh hồn ma quỷ kia đã hiện hữu bên trong giáo xứ nhỏ bé; rằng nó uống nước từ chiếc bình của Paulo và lởn vởn quanh chiếc treo bên cửa sổ”, trích trang 6. Chỉ trong đoạn văn này, ta thấy tài năng của tác giả Grazia Deledda khi miêu tả tâm lý nhân vật phức tạp kết hợp được cả yếu tố văn hóa, gợi mở cho những giằng xé mãnh liệt hơn sau này. Theo TS Trần Ngọc Hiếu, chủ đề trong Người mẹ mang tính vĩnh cửu. Đó là vấn đề nan giải giữa đức tin và nhu cầu của con người trần thế. Ông Trần Ngọc Hiếu cho rằng có lẽ nhà văn Deledda có nền tảng về phân tâm học khi trong sách bà, có những phân tích rất sâu những ẩn ức của nhân vật – người mẹ trong tác phẩm là một người thất học, muốn con mình trở thành linh mục, thành người có địa vị cao trong xã hội, kinh hãi trước khả năng bị lung lay địa vị xã hội nếu con trai mình chọn chạy theo tình yêu trai gái. Mọi dằn vặt phức tạp, mọi đấu tranh về mặt tư tưởng ở nhân vật đều được Grazia Deledda miêu tả một cách tinh vi. Ông Trần Ngọc Hiếu cho rằng nhà văn người Italy này như một bậc thầy trong việc mổ xẻ tâm lý nhân vật. Mặc dù Deledda nổi bật với những tác phẩm giàu truyền thống, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi đọc kỹ, ta nhận ra Deledda gần với Virginia Woolf hơn vẻ bề ngoài. Dịch giả Trần Thị Khánh Vân cho rằng bản thân nhà văn Grazia Deledda cũng là một đại diện của phong trào nữ quyền (ngày 8/3/2022, Chính phủ Italy đã vinh danh Deledda là biểu tượng của phong trào đấu tranh giải phóng phụ nữ). Dù vậy, Deledda tiếp cận những chủ đề gai góc một cách hài hòa, chinh phục được cả giới phê bình khó tính lúc bấy giờ. Có lẽ, bề ngoài giàu tính truyền thống ở các tác phẩm của Grazia Deledda khiến cho một thời gian dài, độc giả ngó lơ bà. Nhưng nếu đọc sâu, ta nhận ra tư tưởng tiên tiến của Deledda vẫn trụ vững được theo thời gian. Câu chuyện bà kể có độ đồng vọng lớn với nhiều thế hệ, mang tính vĩnh cửu. Dịch giả Trần Dương Hiệp khẳng định Người mẹ dù có vẻ ngoài cổ kính nhưng không hề mang lại cảm giác xa rời đối với văn hóa Việt Nam. Từ trái sang phải: TS Trần Ngọc Hiếu, dịch giả Trần Thị Khánh Vân, dịch giả Trần Dương Hiệp. Ảnh: M.H. Một trong những vấn đề nổi bật trong cuốn tiểu thuyết Người mẹ là mối quan hệ phức tạp giữa mẹ và con trai. Người mẹ trong chuyện tìm cách thúc ép con mình theo con đường trở thành linh mục để thay đổi cuộc sống, thoát khỏi những công việc chân tay. Các diễn giả cho rằng dù bối cảnh khác nay, câu chuyện trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị. Những mong mỏi, những hy sinh của người mẹ xuất phát từ khát khao con mình có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Dù vậy, TS Trần Ngọc Hiếu cho rằng thái độ của Grazia Deledda trước mối quan hệ này không hẳn là ca ngợi. Điều này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Có khi nào tình yêu lại trở thành gánh nặng? Và khi đã là gánh nặng, đó có còn là tình yêu không? Điều này cũng xảy ra ở nhiều gia đình Á Đông, khi cha mẹ đặt nhiều kỳ vọng vào con cái, mong muốn con phải học thành tài. Ở tác phẩm của Grazia Deledda, ta bắt gặp hình ảnh người mẹ yêu con đến mù quáng, tin rằng những gì mình làm là tốt cho con, dẫn đến vô tình “giam cầm” người con của mình. Người mẹ trong câu chuyện này mang dáng dấp của nhiều người mẹ Việt Nam ngày nay. Phải chăng, sau hơn một thế kỷ, con người vẫn đối mặt với những xung đột như nhau? Liệu có thể giải thích những xung đột này là do khoảng cách thế hệ, khủng hoảng đức tin, hay đây là cuộc chiến dai dẳng giữa bổn phận và ái tình, đạo hiếu và nhục cảm? Tác phẩm của Grazia Deledda xoáy sâu những ẩn khuất muôn thuở của con người. Bà mổ xẻ những cảm xúc thường thấy, trưng ra những mạch máu chằng chịt, phức tạp bên trong, để rồi nỗ lực hiểu kỹ từng khía cạnh nội tâm con người.
Câu chuyện đáng nhớ của nhà văn đoạt giải Nobel bị lãng quên
1,129
Phù điêu bằng gốm nặng 1 tấn có kích thước 1.8m x 1.5 m có niên đại gần 3.000 năm. Ảnh: TTXVN phát. Ngày 19/5, Mexico tiếp nhận bức phù điêu Fauces de la Tierra – cổ vật đóng vai trò vô cùng quan trọng của nền văn minh Olmec cổ đại mà nước này đã cất công tìm kiếm khắp thế giới trong hơn nửa thế kỷ qua. Tại Mexico, lễ tiếp nhận Fauces de la Tierra (Hàm của Trái Đất) diễn ra tại thành phố Denver, bang Colorado (Mỹ), địa điểm mà bức phù điêu gốm có niên đại gần 3.000 năm tuổi này được tìm thấy trong một bộ sưu tập cá nhân. Phát biểu tại buổi lễ, Ngoại trưởng Mexico Marcelo Ebrard nêu rõ đây là sự kiện đầy ý nghĩa bởi việc tìm lại Fauces de la Tierra giúp cho người dân Mexico tìm lại hồn cốt của tổ tiên từ hàng nghìn năm trước, tựa như một vết thương lâu ngày nay đã lành. Đây được xem là một trong những sự kiện lớn nhất trong hàng chục năm liên quan đến công tác thu thập và bảo tồn hiện vật lịch sử. Theo Viện Nhân chủng học và Lịch sử Mexico (INAH), với kích cỡ cao 1,8m rộng 1,5 m, Fauces de la Tierra khắc họa khuôn mặt của loài báo với với phần miệng rộng có hình dáng của một chiếc hang lớn. Xung quanh bức phù điêu là những nét được khắc theo phong cách đặc trưng của Olmec – một trong những nền văn minh vĩ đại nhất tồn tại từ hàng nghìn năm trước trên các bình nguyên thuộc khu vực Trung Mỹ. Cổ vật này được một nông dân phát hiện tại Morelos – bang giáp ranh với thủ đô Mexico City về phía Nam sau khi đào vườn. Người nông dân này được cho là đã bán bức phù điêu nặng gần 1 tấn cho một nhà sưu tập. Bức phù điêu sau đó được trao đổi qua tay nhiều người cho đến khi bị vận chuyển trái phép sang Mỹ vào năm 1968. Theo thông tin từ American Antiquity – tạp chí chuyên ngành cổ vật của Mỹ, trong giai đoạn 1968 – 1994, Fauces de la Tierra được trưng bày tại Bảo tàng nghệ thuật New York. Hiện chưa rõ lý do bức phù điêu này sau đó được di chuyển về bang Colorado. Thu thập và bảo tồn những hiện vật lịch sử là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của chính quyền Tổng thống Mexico López Obrador. Kể từ khi đảm đương vai trò người đứng đầu chính phủ năm 2018, ông Obrador đã yêu cầu các phái đoàn ngoại giao Mexico tại nước ngoài tiến hành các chiến dịch tìm kiếm cổ vật của nước này bị thất lạc trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Bên cạnh đó, Chính phủ Mexico trong nhiều năm qua đã tăng cường tuyên truyền trên quy mô toàn cầu về bề dày lịch sử-văn hóa đầy bản sắc của Mexico, qua đó góp phần thuyết phục chính phủ nhiều quốc gia cũng như các nhà sưu tập cá nhân chủ động trao trả lại những cổ vật của quốc gia Mỹ Latinh này. Theo INAH, trong gần 5 năm dưới thời của Tổng thổng Obrador, Mexico đã tiếp nhận 11.505 cổ vật, trong đó có nhiều hiện vật lịch sử có giá trị lớn từng được trưng bày tại các viện bảo tàng nổi tiếng cũng như trong các bộ sưu tập cá nhân trên toàn thế giới.
Mexico tiếp nhận cổ vật quý sau hơn nửa thế kỷ tìm kiếm
595
Ganymede là vệ tinh tự nhiên lớn nhất của Sao Mộc và cũng là vệ tinh lớn nhất trong hệ Mặt Trời. Thậm chí, nó còn lớn hơn cả Sao Thủy, vốn đã từng được coi là một hành tinh. Mặt trăng Ganymede của Sao Mộc gần như là một hành tinh theo đúng nghĩa đen. Thế giới xa xôi này không chỉ là vệ tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời mà kích thước của nó còn lớn hơn hành tinh Sao Thủy. Ganymede đã thu hút trí tưởng tượng của mọi người trên Trái Đất trong nhiều thập kỷ, khiến nơi đây trở thành bối cảnh phổ biến cho nhiều tác phẩm khoa học viễn tưởng, từ tiểu thuyết của Robert A. Heinlein đến loạt phim hoạt hình Cowboy Bebop. Nhưng sự thật về Ganymede có thể còn thú vị hơn cả những câu chuyện hư cấu. Ganymede chính thức được phát hiện vào năm 1610 bởi nhà thiên văn học người Ý Galileo. Tuy nhiên, có một khả năng là nó có thể đã được quan sát lần đầu tiên sớm hơn rất nhiều. “Bách khoa toàn thư về lịch sử khoa học, công nghệ và y học ở các nền văn hóa phi phương Tây” đề cập đến nhà thiên văn học cổ đại Trung Quốc, Gan De, người có ghi chép cho thấy ông có thể đã phát hiện ra mặt trăng này vào năm 365 TCN. Trong các bài viết của mình, ông đề cập đến việc nhìn thấy một mặt trăng – “ngôi sao nhỏ màu đỏ” ở cạnh Sao Mộc. Đáng chú ý, Gan De đã thực hiện các quan sát của mình mà không sử dụng kính thiên văn; trong khi đó, về mặt lý thuyết thì Ganymede đủ sáng để có thể nhìn thấy bằng mắt thường, tuy nhiên nó thường bị ảnh sáng của Sao Mộc làm cho mờ đi. Vào tháng 4 năm 2023, ESA đã phóng tàu vũ trụ tới Sao Mộc. Được đặt tên là Nhà thám hiểm mặt trăng băng giá của Sao Mộc (Juice), Ganymede vừa là mục tiêu chính vừa là đích đến cuối cùng trong hành trình dài 500 triệu dặm của nó. Khi đến nơi, nó sẽ mang đến cho nhân loại cái nhìn cận cảnh hơn về thế giới bí ẩn đầy hấp dẫn này. Nếu Ganymede quay quanh Mặt Trời thay vì Sao Mộc, nó gần như chắc chắn được coi là một hành tinh thực sự vì nhiều lý do. Một trong những lý do chính là kích thước của nó. Nó có đường kính 3.270 dặm, lớn hơn khoảng 8% so với đường kính 3.032 dặm của Sao Thủy. Hành tinh được chú ý nhiều nhất hiện nay với tư cách là điểm đến cho các nhà thám hiểm tàu vũ trụ và robot là Sao Hỏa cũng chỉ có đường kính 4.212 dặm, không lớn hơn quá nhiều khi so với Ganymede. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn giữa Ganymede và các hành tinh là nó nhẹ hơn đáng kể so với Sao Thủy hoặc Sao Hỏa. Giống như mặt trăng Europa, phần lớn khối lượng của Ganymede là nước và băng. Kết quả là lực hấp dẫn bề mặt của nó thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ đường kính lớn của nó. Do đó, khi đặt chân lên Ganymede các phi hành gia chắc chắn sẽ có cảm giác rất giống với việc đi trên Mặt Trăng của Trái Đất. Ganymede quay chậm hơn rất nhiều so với Trái Đất. Một ngày tại mặt trăng này kéo dài khoảng 7 ngày trên Trái Đất. Lý do tại sao ngày của Ganymede lại chậm như vậy là vì nó bị khóa chặt với Sao Mộc. Cũng giống như Mặt Trăng của Trái Đất, Ganymede gần như bị khóa chặt một mặt vào hành tinh mẹ của nó, trong khi phía bên kia của nó luôn quay mặt đi. Nói cách khác, một ngày trên Ganymede trùng với quỹ đạo của nó. Trên bầu trời của Ganymede, Sao Mộc là vật cố định vĩnh viễn không bao giờ di chuyển khỏi vị trí của nó. Khóa thủy triều xảy ra với bất kỳ mặt trăng nào quay quanh hành tinh của nó đủ gần. Khi lực hấp dẫn trên mặt trăng đủ mạnh, mặt gần hơn sẽ cảm thấy lực hút mạnh hơn mặt hướng ra ngoài. Ở bên trong, Ganymede giống Trái Đất một cách đáng kinh ngạc. Sâu bên dưới bề mặt, hành tinh của chúng ta được chia thành nhiều lớp vật chất riêng biệt khác nhau. Khi hành tinh vẫn còn trẻ và chưa hoàn thành quá trình nguội đi, vật chất nặng hơn chìm sâu hơn vào trung tâm, đó là lý do tại sao Trái Đất có lõi làm bằng sắt. Theo một bài báo đăng trên tạp chí Nature, đặc điểm này cũng tồn tại ở Ganymede. Mặt trăng lớn nhất của Sao Mộc cũng được cấu tạo theo cách gần như tương tự. Nếu bạn có thể cắt đôi nó, bạn sẽ tìm thấy một số lớp với các thành phần riêng biệt của chúng. Lõi của Ganymede được làm bằng sắt, giống như lõi của các hành tinh thực sự như Trái Đất. Một số nhà khoa học hành tinh nghi ngờ rằng lõi của Ganymede thậm chí có thể bị nóng chảy. Dường như, mặt trăng lớn nhất của Sao Mộc có nhiều điểm chung với Trái Đất hơn chúng ta nghĩ. Tuy nhiên, cách duy nhất để chắc chắn về điều này là xem xét kỹ hơn bằng các dụng cụ chuyên dụng. Đây là một trong những điều mà tàu vũ trụ Juice của ESA muốn tìm hiểu thêm. Khi đến Ganymede, tìm hiểu về lõi của mặt trăng là một trong những mục tiêu khoa học chính của nó. Lõi sắt của Trái Đất là thứ tạo ra từ trường của hành tinh chúng ta, bảo vệ bề mặt của nó — và chúng ta — khỏi bức xạ vũ trụ gây hại. Vì Ganymede cũng có lõi sắt nên nó cũng có từ trường. Trên thực tế, như NASA giải thích, đó là mặt trăng duy nhất trong Hệ Mặt Trời có từ trường giống như một hành tinh. Từ trường của Ganymede rất có thể được tạo ra bởi lõi của nó, nhưng một số quan sát cho thấy có thứ gì đó khác trên mặt trăng này đã ảnh hưởng đến từ tính của nó. Các quan sát về từ trường của Ganymede gợi ý rằng nó có thể ẩn chứa một lượng nước lỏng khổng lồ dưới bề mặt, ảnh hưởng đến hình dạng từ trường của mặt trăng này. Tuy nhiên, không giống như Trái Đất, từ trường của Ganymede khá yếu. Ngay cả ở mức mạnh nhất, nó vẫn yếu hơn từ trường mỏng manh của Sao Hỏa. Trong khi đó, Sao Hỏa có từ trường yếu hơn Trái Đất khoảng 40 lần. Từ tính của Trái Đất giữ cho bề mặt của nó được che chắn, thì từ trường của Ganymede dường như quá yếu để thực hiện nhiệm vụ tương tự. Nó có thể sẽ không làm được gì nhiều để bảo vệ bất kỳ nhà du hành vũ trụ nào trong tương lai có thể hạ cánh ở đó. Nguồn: Earthlymission; Nature; NASA
Khám phá bí ẩn của vệ tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời – Ganymede
1,218
Tàu vũ trụ Cassini của NASA ghi lại cảnh các chùm hơi nước phun lên từ bề mặt Mặt Trăng Enceladus của Sao Thổ. Ảnh: NASA/Nature. Kính viễn vọng James Webb đã phát hiện Mặt Trăng Enceladus của Sao Thổ phun ra luồng hơi nước khổng lồ, lớn hơn nhiều so với bất kỳ luồng hơi nước nào trước đây. Vào năm 2005, tàu vũ trụ của NASA đã phát hiện các hạt băng phun ra từ đại dương ở bề mặt của Enceladus qua các vết nứt. Tuy nhiên, kính James Webb vừa phát hiện các hạt băng này đang phun xa hơn nhiều so với ước tính trước đây, Nature đưa tin ngày 18/5. “Nó thật bao la”, nhà thiên văn Sara Faggi nói. Bà cho biết nghiên cứu khoa học về vấn đề này sẽ sớm được công bố. Mặt Trăng Enceladus kích thích các nhà sinh vật học vũ trụ vì đây là một trong số ít những nơi tốt nhất để nhân loại có thể tìm kiếm sự sống ngoài Trái Đất. Đại dương mặn nằm bên dưới lớp băng bao phủ bên ngoài của Enceladus có thể là nơi trú ẩn cho các sinh vật sống. Các đại dương có thể được duy trì nhờ năng lượng hóa học tại các lỗ thông thủy nhiệt dưới đáy đại dương. Vật chất phun ra từ Enceladus, chủ yếu thông qua các vết nứt ở cực Nam, là một liên kết trực tiếp đến khả năng tồn tại hệ sinh thái ngoài Trái Đất . Phát hiện từ kính James Webb có thể cung cấp thêm cơ sở cho các sứ mệnh của NASA đến Mặt Trăng Enceladus nhằm tìm kiếm dấu hiệu sự sống. Một đề xuất được đưa ra là phát triển robot rắn tự hành có thể trườn dưới các lớp băng của Enceladus để khám phá đại dương.
Kính James Webb phát hiện cảnh hiếm thấy từ Mặt Trăng của Sao Thổ
305
Nhân Ngày Đại dương thế giới – ‘Hành tinh đại dương: Thủy triều đang thay đổi’, Bộ TN&MT phát động Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (1 – 8/6) năm 2023 với chủ đề ‘Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo’. Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) vừa ban hành công văn về việc tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Đại dương thế giới (8/6) năm 2023. Trong cao điểm Tháng môi trường từ cuối tháng 5 đến hết tháng 6 năm 2023, Bộ TN&MT đề nghị các Bộ, ngành, địa phương đồng loạt tổ chức các hoạt động cộng đồng về bảo vệ môi trường, giảm rác thải nhựa. Đồng thời, 28 tỉnh/thành phố có biển trên toàn quốc có các hoạt động ra quân làm sạch bờ biển, đáp ứng yêu cầu sau thời gian ra quân hưởng ứng Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (1 – 8/6) không còn tình trạng rác thải trôi dạt bờ biển. Năm 2023, chủ đề của Ngày Đại dương thế giới được Liên hợp quốc phát động “Hành tinh đại dương: Thủy triều đang thay đổi” (Planet Ocean: Tides are Changing). Nhân dịp này, Bộ TN&MT phát động Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (1 – 8/6) năm 2023 với chủ đề “Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo”. Nhân Ngày Đại dương thế giới – “Hành tinh đại dương: Thủy triều đang thay đổi”, Bộ TN&MT phát động Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (1 – 8/6) năm 2023 với chủ đề “Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo”. Bộ TN&MT đề nghị các Bộ, ban, ngành, đoàn thể và UBND các tỉnh, thành phố tập trung tuyên truyền quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, luật pháp quốc tế về biển, đảo; các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam trên biển; vị trí, vai trò và tầm quan trọng của biển, đảo và đại dương; của tài nguyên, môi trường biển, đảo trong phát triển bền vững. Công tác tuyên truyền biển đảo năm 2023 theo Hướng dẫn số 94-HD-BTGTW ngày 23 tháng 12 năm 2022 của Ban Tuyên giáo Trung ương. Trong đó, tiếp tục tuyên truyền và thực hiện hiệu quả “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Nghị quyết số 26/NQ-CP ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số 48/NQ-CP … Căn cứ điều kiện thực tế, trong Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam hưởng ứng Ngày Đại dương thế giới năm 2023, các cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức treo băng rôn, pano, áp phích về chủ đề Tuần lễ. Tổ chức các hội thảo, hội nghị, tọa đàm, diễn đàn về công tác quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, công bằng, bền vững tài nguyên biển, hải đảo; kiểm soát ô nhiễm môi trường biển; bảo vệ, duy trì và phục hồi đa dạng sinh học biển, ven biển và hải đảo; bảo tồn và phát huy các giá trị di sản thiên nhiên, di sản văn hóa biển; khai thác, đánh bắt thủy sản an toàn, bền vững, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; điều tra, nghiên cứu khoa học về biển, hải đảo cũng như hệ thống thông tin thủy triều, hải văn để phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Bộ TN&MT cũng đề nghị tăng cường kiểm soát việc thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, rác thải nhựa ven biển và trên các hải đảo; khuyến khích các nghiên cứu về biển, đảo, hoạt động sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường biển; tổ chức các hoạt động có sự tham gia của cộng đồng. Phát động các phong trào cộng đồng, ra quân làm vệ sinh môi trường biển, thu gom xử lý rác thải, không thải rác thải nhựa ra môi trường. Tổ chức khởi công, xây dựng, bàn giao các công trình bảo vệ môi trường phục vụ lợi ích cộng đồng và phát triển bền vững kinh tế biển, thích ứng với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, truyền thông và thông tin đối ngoại về biển, đảo Việt Nam. Tổ chức các chương trình bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, cập nhật kiến thức cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền, các cơ quan thông tấn, báo chí; mở rộng hơn nữa lực lượng làm công tác tuyên truyền về biển, đảo. Bộ TN&MT cũng đề nghị các cơ quan truyền thông đại chúng tăng thời lượng, tần suất tuyên truyền về các hoạt động, nhiệm vụ, nội dung, chủ đề về bảo vệ môi trường và các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, Ngày Đại dương thế giới năm 2023. Trước đó, tại cuộc họp về Kế hoạch tổ chức các hoạt động tại Tháng hành động vì môi trường và Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới và Ngày Đại dương thế giới năm 2023, Thứ trưởng Bộ TN&MT Võ Tuấn Nhân yêu cầu kế hoạch tổ chức phải làm nổi bật chủ đề chống rác thải nhựa gắn với bảo vệ biển và đại dương. Đồng thời, nhấn mạnh mối quan tâm của Việt Nam trong bảo vệ môi trường và bám sát chủ đề Ngày Môi trường thế giới, Ngày đại dương thế giới dự kiến diễn ra vào đầu tháng 6 tới. Ngày Đại dương Thế giới là sáng kiến được Chính phủ Canada đề xuất vào năm 1992 tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất ở Rio de Janeiro; sau đó được Ủy ban Hải dương học liên Chính phủ (IOC) của UNESCO thừa nhận vào Năm quốc tế đại dương 1998 tổ chức tại Lisbon ( Bồ Đào Nha ). Từ năm 2009, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã chính thức chọn ngày 8/6 hàng năm là Ngày Đại dương Thế giới. Ngày kỷ niệm này được tổ chức nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của các đại dương trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Là lá phổi xanh của hành tinh, các đại dương cung cấp hầu hết oxy mà chúng ta thở. Thêm vào đó, Ngày Đại dương Thế giới cũng là dịp để thông tin cho công chúng về hiệu ứng mà các hoạt động của con người tạo ra trên biển; đồng thời để phát triển một phong trào toàn cầu về đại dương.
Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo
1,206
Chùa Phổ Quang (di tích Quốc gia) được người làng Dòng đóng góp tu tạo qua nhiều thế hệ. Cách Đền Hùng chỉ vài km, một Bảo vật Quốc gia quý hiếm được người dân lưu giữ, bảo quản nguyên vẹn qua 700 năm từ thời Trần. Cổ vật độc nhất vô nhị được chế tác từ nhiều phiến đá xanh có nhiều họa tiết chạm khắc tinh xảo chứa những thông điệp bí ẩn. Một bệ đá hình khối chữ nhật nhưng mang dáng hoa sen được làm bàn thờ Phật đặt trong ngôi cổ tự chùa Phổ Quang (làng Dòng, xã Xuân Lũng, Lâm Thao , Phú Thọ ) đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia cuối năm 2021. Theo nhà văn hóa Lê Thoa (Bảo tàng Hùng Vương), bệ đá làm bàn thờ Phật được chế tác vào năm 1387 dưới triều đại vua Trần Phế Đế. Chùa Phổ Quang được xây dựng từ thời Lý – Trần có kiến trúc cổ, gác chuông 2 tầng, 8 mái, nhà bia ở hai bên sân. Cả tòa Thiêu hương và tòa Thượng điện đều có hoa văn chạm khắc tinh xảo, còn lưu giữ đến tận ngày nay nhiều tượng Phật cổ, đồ vật quý giá từ thuở dựng chùa (cuối thế kỷ XIV). Và quý nhất là “bệ đá hoa sen” ở chính điện cổ tự. Phó Chủ tịch UBND huyện Lâm Thao, ông Ngô Đức Sáu dẫn chúng tôi vào thăm chùa. Tiết trời nóng như đổ lửa cuối tháng Năm, nhưng trong chùa vẫn mát dịu nhờ lớp ngói âm rất dày và hệ thống cột, vì kèo, xà ngang bằng gỗ lim đồ sộ. Bàn thờ Phật bằng đá hình chữ “Công” dài 3,3m, cao và rộng hơn 1m, có kết cấu 5 tầng được lắp ghép lại từ 71 phiến đá xanh, trông rất vững chãi. Bốn bề chạm khắc cánh sen nhiều lớp cách điệu, sống động mà tinh hoa khiến bàn thờ đá trở nên khá đặc biệt, như đóa sen vuông đang nở. Những cánh sen đá có diềm khắc chìm, và ở giữa có những chấm tròn, phải chăng các nghệ nhân xưa đã khéo léo mà bí ẩn cài một ý tưởng “bốn phương tám hướng” của đạo Phật? Những phiến đá xanh không rõ nguồn gốc, lại xếp lên nhiều tầng khác nhau, ngoài ra còn có những họa khắc chưa thể giải mã, như “Độc long”, “Cá hóa rồng”, “Sư tử vờn hoa”…, cứ vừa thực, lại phi hiện thực. Bệ đá Hoa sen làm bàn thờ Phật được công nhận di sản “Bảo vật Quốc gia”. Đặc biệt nhất, hình tượng những con rồng được chạm khắc trong một vòng tròn khép kín như hình lá đề cách điệu với trung tâm là tia mặt trời. Rồng hiện ý “Lưỡng long chầu nhật” với dáng vẻ khỏe mạnh khiến du khách đến chiêm ngưỡng cảm nhận ý tưởng về lịch sử cha ông ta như muốn thể hiện sức mạnh dân tộc, sức mạnh của Đại Việt hào hùng. Ông Ngô Đức Sáu khẳng định, bệ đá hoa sen độc bản này là tài sản vô giá của Quốc gia mang giá trị độc đáo, có tính văn hóa và mỹ thuật rất cao. Bệ đá được nhân dân làng Dòng bảo quản nguyên vẹn qua 7 thế kỷ, và có giá trị cao về thực tiễn, đóng góp tích cực đối với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết, đây là hiện vật đầu tiên xuất hiện hình tượng “Sư tử hí cầu” và “Cá hóa rồng” trong mỹ thuật cổ, và đến nay, chưa từng phát hiện thêm hiện vật thứ hai có cùng niên đại. Hoa văn hiện lên hình ảnh hươu cặp hoa hải đường, loài hoa đặc trưng của vùng trung du Tây Bắc. Một kết hợp hài hòa trong nghệ thuật chạm khắc cổ với những họa tiết hoa văn trang trí gắn với thế giới Phật giáo để mô tả cuộc sống cư dân, lại linh thiêng nơi cửa Phật, và rất điển hình quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh, nơi phát tích cội nguồn dân tộc. Cũng đã 7 thế kỷ đi qua, cổ vật bệ đá hoa sen ngự tại chùa Phổ Quang chưa một lần bị dịch chuyển vị trí. Làng Dòng không chỉ tự hào gìn giữ được báu vật, đây cũng là vùng đất học có 3 danh nhân nổi tiếng được vinh danh bia đá Quốc Tử Giám , Hà Nội. Đó là các cụ Nguyễn Chính Tuân, Nguyễn Doãn Cung và Nguyễn Mẫn Đốc. Thời kỳ kháng chiến đến nay, làng Dòng đã có hơn 1.000 người có bằng đại học trở lên, trong đó 47 giáo sư, tiến sỹ, phó tiến sỹ, và có 4 vị tướng. Đây cũng chính là ngôi làng góp nhiều công sức nhất để xã Xuân Lũng cán đích nông thôn mới năm 2018. Hiện nay trên Đất Tổ có tới 5 bảo vật Quốc gia, gồm Trống đồng Đền Hùng, Bộ khóa đai lưng bằng đồng (thuộc Khu di tích Đền Hùng), tượng Mẫu Âu Cơ (thuộc Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ), sưu tập Nha Chương (thuộc Bảo tàng Hùng Vương), và Bệ đá hoa sen (chùa Phổ Quang). Tất cả được lưu truyền bảo quản, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu được gìn giữ qua nhiều đời nay… Tại Bảo tàng Hùng Vương cũng đang trưng bày gần 700 hiện vật và tư liệu hình ảnh, tài liệu, thuộc các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Trong đó quý nhất là trống đồng Đền Hùng được tìm thấy ngày 5/8/1990 ở mạn Tây núi Nghĩa Lĩnh, cách Đền Hùng gần 500m. 5 bảo vật Quốc gia ở Đất Tổ thuộc các giai đoạn lịch sử khác nhau, có ý nghĩa, giá trị rất đặc biệt. Bệ đá hoa sen làm bàn thờ Phật có thể còn những bí ẩn chưa phát lộ nhưng là minh chứng lễ đạo gắn liền với cuộc sống nhân sinh, lại toát lên sức mạnh dân tộc Việt. Tại Bảo tàng Hùng Vương cũng đang trưng bày hơn 12.000 hiện vật, tư liệu hình ảnh, tài liệu gốc về văn hóa và lịch sử, trong đó Nha Chương, công cụ cầm tay thể hiện uy quyền của các thủ lĩnh xa xưa, là bảo vật bằng đá ngọc độc đáo nhất của văn hóa Phùng Nguyên có niên đại vào khoảng 3.700 đến 3.400 năm. Từ thuở xa xưa ấy, người Việt cổ đã biết lựa chọn chất liệu đá và sử dụng kỹ thuật chế tương thích, chứng tỏ sự phát triển đỉnh cao của cư dân Phùng Nguyên trong việc chế tác đá. Mang dấu ấn văn hóa, giá trị thẩm mỹ đặc sắc qua mỗi thời kỳ lịch sử, bảo vật Quốc gia không chỉ khẳng định sự giàu có về văn hóa mà còn hội tụ những tinh hoa trí tuệ của các bậc tiền nhân. Du khách về Đất Tổ chiêm ngưỡng bảo vật Quốc gia, cũng góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ trong hành trình trở về với nguồn cội. Ông Nguyễn Đắc Thủy – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ khẳng định, việc quản lý, bảo quản các bảo vật Quốc gia đã và đang phát huy giá trị lịch sử, góp phần khơi dậy niềm tự hào truyền thống, văn hóa, đồng thời đảm bảo quyền hưởng thụ văn hóa của người dân. Ngành Văn hóa đã thực hiện phiên bản các bảo vật Quốc gia với tỷ lệ 1/1 và trưng bày, quảng bá, giới thiệu tại Bảo tàng tỉnh Phú Thọ để người dân và du khách tham quan, tìm hiểu. Sở Văn hóa cũng đã tổ chức nhiều cuộc trưng bày chuyên đề giới thiệu về di sản văn hóa tiêu biểu, trong đó có bảo vật Quốc gia. Nhằm bảo vệ an toàn cho các bảo vật Quốc gia, tỉnh Phú Thọ đã lắp đặt hệ thống camera giám sát, hệ thống báo động chống trộm, và các phương tiện phòng chống cháy nổ. Một số bảo vật như Trống đồng, Bộ khóa đai lưng, Nha Chương đều được đặt trong tủ kính 5 mặt, trong tủ lắp đặt thiết bị báo động, và bố trí người trực gác 24/24h. Các bảo vật được trưng bày ở vị trí dễ thấy để người dân và du khách đến tham quan.
Bí ẩn bảo vật Quốc gia 700 năm tuổi
1,427
Nguyễn Bắc Sơn bắt tay viết Bảy nổi ba chìm khi sắp tuổi 80, đã có 24 đầu sách sau hơn 20 năm nhịp bước cùng văn đàn và đã được mấy giải thưởng. Ông là người thành đạt (khá vang dội) khi đã cầm sổ hưu, đấy là sự hiếm trên đời. Vậy mà trong hồi ký, nhà văn không xưng tôi hay mình theo lẽ thường, cũng chẳng nhận là y, là gã như trong tiểu thuyết mang tính tự truyện Gã tép riu mà ngay từ đầu, đã xưng chú. Cái tên sách gợi vẻ gian truân mới thành, cái ngôn phong trình thuật lại bắt đầu bằng chú, đấy là do ông nhún nhường theo lối của cụ Tú thành Nam, của cụ Tam nguyên Yên Đổ xứ Sơn Nam hạ hơn 100 năm trước đấy ư? … Nhà văn sáng tác đều đều và hay được, không chỉ do tài năng và nội lực bản thân, mà do họ có được một mối quan hệ thường xuyên với cuộc đời, trước hết, là ở những người thân và bạn bè. Nguyễn Bắc Sơn là người có vốn sống dồi dào, truyện và ký của ông thường có rất nhiều chi tiết sống động là vì thế. Họ – những bè bạn văn chương, quả thực, dù ít dù nhiều, đã gợi ý cho ông về đề tài và cách viết, có người – rất tự nhiên, ngỡ như vô tình, đã hướng suy nghĩ của ông đến một dụng ý sáng tác với một số sự việc – chi tiết cụ thể… Đọc Bảy nổi ba chìm, ta sẽ lý giải được sự có mặt của một loạt nhân vật công chức – trí thức – thị dân thật sinh động, có sức cuốn hút là thế nào, có nguyên mẫu từ đâu… … Nhà văn đích thực, trước hết là người cần cù vào loại nhất, thủa ấu thơ, là những chú bé ham quan sát, ưa tìm hiểu, rồi lớn dần lên, tự có thêm sự điềm tĩnh, lịch duyệt. Khi có cái gốc bản ngã ấy, với tư tưởng dấn thân cho cộng đồng và nhân quyền và với cả sự am tường về các mặt khác nhau của đời sống tự nhiên, đời sống xã hội, bằng sự trung chính như được truyền lại, dồn tụ lại của bao kiếp cần lao trong mình, họ – những nhà văn chính danh, sẽ tự tìm ra được cách đối thoại với xã hội trong các loại tác phẩm của mình. Còn sự tài hoa? Vâng, nhà văn nhà thơ, tự trong bản chất, là những người tài hoa. Qua bao trải nghiệm, rèn luyện thì tư tưởng và nghệ thuật tài hoa của họ đã thêm vững vàng, khiến cho tác phẩm của họ được bạn đọc yêu mến, tin cậy. … Nguyên An Nhà văn Nguyễn Bắc Sơn. Nguyễn Bắc Sơn là một hiện tượng văn chương độc đáo. Nói thế có quá không? Thưa không. Bởi vì mãi đến năm 1998, khi đã 57 tuổi, anh mới trình làng tập truyện ngắn đầu tiên. Khi được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam là khi anh đã về hưu được hơn một năm, vì đã 61 tuổi. Chỉ 4 năm sau khi in tập sách đầu đã được vào Hội. Chưa hết. Từ khi in tập đầu đến khi in hồi kí, nhà văn đã kịp sản xuất và công bố 24 cuốn truyện ngắn, tùy bút, bút kí, tiểu thuyết và cuốn thứ 25 Bảy nổi ba chìm 496 trang khổ to 15 x23 cm chữ cỡ vừa. Chưa hết, nhà giáo, nhà quản lí (chức bé thôi – Trưởng phòng) lĩnh 9 giải thưởng to đùng, đặc biệt là giải tiểu thuyết danh giá của Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyên những chuyện đó đã hứa hẹn hồi kí của Nguyễn Bắc Sơn chắc chắn sẽ thú vị. Tôi đã đọc một số hồi kí của nhà văn, nhà chính trị. Sức hấp dẫn của loại văn này trước hết là độ tin cậy, tính trung thực. Bạn đọc muốn biết hoàn cảnh lịch sử, sự kiện xảy ra với những ai, kết quả thế nào? Người viết hồi kí đã suy nghĩ thế nào, xử lí ra sao, kết cục? Một vài người viết khi tuổi đã cao, trí nhớ giảm sút; lại có người đưa sự kiện, nhưng người trong cuộc thì đã mất, bạn đọc không thể kiểm chứng được. Chính việc thiếu chính xác do trí nhớ, việc không kiểm chứng được đã làm giảm tính thuyết phục của tác phẩm. Với nhà văn Nguyễn Bắc Sơn, đây không chỉ là dạng hồi kí thuần túy. Tôi cho rằng đây là TỰ TRUYỆN của tác giả viết khi tuổi đã cao, nhưng trí nhớ vẫn hoàn toàn minh mẫn. Mặt khác tất cả các chuyện được kể đều là chuyện của nhà văn với các thành viên gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, học sinh cũ… Không có “sự kiện” gì to tát, lớn lao. Tôi có biết một số nhân vật như con gái chị Vĩnh Nga, anh Kim Hệ nhà ở 5 Quang Trung (cùng cơ quan Vụ Giáo dục trung học), anh Đinh Văn Định ở Thái Nguyên, em trai anh Đinh Quang Ấn… Tôi thấy tác giả Bắc Sơn kể chuyện về họ rất trung thực và sinh động. Đấy là cái duyên trời phú cho anh. Vấn đề không phải là Hồi kí thuần túy, mà là tự truyện. Vì vậy truyện có sự hấp dẫn riêng của nó. Và độc đáo của hồi kí này chính là nó gồm hàng loạt những truyện trong đời sống thường nhật, đời sống giáo dục, đời sống văn hóa và đời sống văn chương… Cũng là độc đáo khi người viết hồi kí thường xưng tôi, hoặc kể lại ở ngôi thứ ba “biết tuốt”. Còn nhà văn Bắc Sơn thì xưng “chú”. Vì anh vốn là thành viên út ít của Đoàn thiếu nhi nghệ thuật Lưu Hữu Phước từ thời kháng chiến chống Pháp mà khi tham gia mới 9 tuổi (năm 1950, phải khai tăng 1 tuổi). Nay anh làm Trưởng ban liên lạc gồm 11 người và đã viết cuốn Đoàn thiếu niên nghệ thuật do Bác Hồ đặt tên (NXB Quân Đội Nhân Dân, 2019). Nhà văn có vẻ hơi phàn nàn về tiểu thuyết Gã Tép riu : “ 16 báo in, một báo hình (chuyên mục mỗi ngày một cuốn sách VTV1), không kể báo điện tử không theo dõi được, tịnh không nhắc đến tính tự chuyện của Gã tép riu” (tr.424). Nhưng không thể trách các tác giả. Vì dù các truyện có thật 100% nhưng đã được tiểu thuyết hóa rồi. Gã tép riu đó nếu có những gì liên quan thì chỉ là “yếu tố” có tính tự truyện, chứ không phải là TỰ TRUYỆN. Chính vì lí do đó mà mới còn đất cho hồi kí TỰ TRUYỆN này. Tôi cũng không đồng tình khi ai đó cho rằng “hồi kí là tập văn để tác giả nói thêm cho rõ về mình…”. Với ai đó thì đúng. Còn với Nguyễn Bắc Sơn thì không. Đây là một tác phẩm độc lập, có giá trị như mọi tác phẩm khác của nhà văn, thậm chí còn hơn nữa… Tác phẩm này cho biết Nguyễn Bắc Sơn thế nào và tại sao Nguyễn Bắc Sơn? Nguyễn Bắc Sơn tự nhận “ Không có chí làm quan, không có gan làm giàu ”. Bởi thế mà chức vụ cao nhất bên Giáo dục là Phó hiệu trưởng cấp 3 mà giờ là Trung học phổ thông (Dân gian cười rằng phó có như không ). Bên văn hóa là Trưởng phòng của Sở. Có thể gọi là quan đấy, nhưng tác giả tự nhận là “đầu binh cuối cán” thôi! Nhưng Nguyễn Bắc Sơn vừa có gan, vừa có chí làm nhà báo, nhà văn. Anh tự đánh giá “ Chỉ miệt mài chữ nghĩa, lại hay quan sát tỉ mỉ chi tiết, thích tò mò khám phá, không ngờ đó lại là phẩm tính cần thiết của một nghề – không, hai nghề: viết báo, sau đó là viết văn ” (tr.48). Một con người bình thường, tự nhận là tép riu, nhưng là người sống nghiêm túc, kỉ luật, không ai có thể chê trách. Tạt về nhà đêm 30 Tết, giữa thời buổi chiến tranh, nhưng vẫn dứt áo ra đi vì tôn trọng kỉ luật quân đội. Vì thể thủ trưởng cũng tôn trọng người lính mang một ba lô tiền cho đơn vị có mặt sáng mùng Một Tết… Không hiếm những đoạn vui khi tác giả khá hài hước. Ví dụ vừa khoe, lại vừa tự diễu mình về chuyện “nghiện”: “ Hơn sáu mươi năm rồi như vẫn còn dư vị trên đầu lưỡi (ăn xu hào thái chỉ xào với trứng – VN chú) Bởi nó là chỉ dấu khi lần đầu tiên nhìn thấy em – mối tình đầu cũng là mối tình cuối để bây giờ 80 tuổi vẫn không nghiện rượu, bia, thuốc lá, chè, cà phê. Không xổ số, không lô đề, cờ bạc. Chỉ nghiện em – vợ chú bây giờ. Việc này hơn nửa thế kỉ nay, em là nhân chứng ” (tr.184). Vâng, nghiện thì có cai lắm. Ấy vậy mà anh chàng nghiện Bắc Sơn vẫn đủ lí trí, nghị lực để cai, để vợ đi chuyên gia nước ngoài cứu nhà… Dù sau này anh tự đánh giá là một sai lầm không sửa chữa được… Cái anh giáo cấp 3 tưởng hiền lành nhưng cũng rất đáo để. Gặp lại người cũ ( một anh bánh mì bình phương ) giờ làm Hiệu trưởng, chào hỏi, có Quyết định nhưng không chìa ra. Rồi không bắt tay, đi thẳng. Gặp Trưởng phòng Tổ chức anh phân bua: “ Tôi không xin về gần với bất kì giá nào… Về đấy để làm việc dưới quyền một Hiệu trưởng như thế thì thà không về còn hơn […] Anh có biết tôi với ông ấy từng cùng một phòng ở Trường Sư phạm Trung cấp không? Và tôi từng dạy ông ấy học đấy ạ! ” (tr.210)… Cái chi tiết này không có gì lớn, nhưng tôi rất chú ý, vì nó liên quan đến tính cách, đến nhân cách của Nguyễn Bắc Sơn. Ấy là khi Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội về hưu. “ Tân quyền Giám đốc bảo: “Bác Bắc Sơn gặp tôi có việc!”. Không đợi mọi người ra khỏi phòng, mặt đối mặt, nói ngay: – Tôi biết bác là người của bác Vĩnh Cát. Tôi cũng biết bác có ý định xin đi… Cũng trả lời ngay, không chậm một giây: – Anh Vĩnh Cát xin tôi về đây. Nhưng tôi không phải là người của anh ấy mà là người của công việc. Tôi có ý định xin đi, nhưng chưa có chỗ phù hợp. Khi nào thích, tôi sẽ đi! ” (tr.357) Thật tự tin và đường hoàng. Nhà văn là người của công việc. Chính vì làm tốt công việc và chức trách của mình, đặc biệt là giải quyết vấn đề “xin họp báo” một cách có lí có tình, đúng luật. Với một quan chức cỡ Phó thủ tướng và con trai cụ Trịnh Văn Bô thì khá đơn giản. Gay cấn và thú vị nhất là trả lời đơn xin họp báo của ông P.Q.D, người đại diện cho làng Tử Dương, tục gọi làng Tía (tr.343-344). Nhân chuyện chuyên môn, phải đọc kĩ Hiến Pháp để xem công dân có quyền biểu tình không, thì lại phát hiện sách Hiến Pháp nhà in đóng lầm tay sách. Thế là lại thu hồi tất cả các bản in sai… Không phải ngẫu nhiên mà ông Lê Xuân Tùng, Bí thư thành ủy Hà Nội đưa Nguyễn Bắc Sơn vào tổ “Biên tập văn kiện Đại hội Đảng thành phố lần thứ XII” (tr.347-350). Cuốn sách chỉ có một chương ngắn vỏn vẹn 42 trang nói về những người bạn văn chương. Nhưng ở đây cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bắc Sơn với bạn và bạn với Nguyễn Bắc Sơn. Mức độ đậm nhạt khác nhau, nhưng những cái tên trong phần này đều được nhà văn nhắc đến với tất cả sự trân trọng, mến yêu của những người cùng làm công việc chữ nghĩa. Có thể nói cuốn tự truyện hồi kí của Nguyễn Bắc Sơn là một cuốn sách thú vị, hấp dẫn. Cuốn sách cung cấp nhiều tư liệu quý để chúng ta hiểu một nhà văn đã sống, đã tích lũy, đã mơ ước, đã viết như thế nào, đã “lên bờ xuống ruộng” ra sao. Nó sẽ có ích cho các nhà nghiên cứu, cho bạn đọc. Đặc biệt là nếu có thời gian, ta hãy đọc cuốn sách này như lời khuyên của nhà văn đàn anh Ma Văn Kháng “ cần phải đọc nhẩn nha, đọc không vội vàng, vừa đọc vừa thưởng thức, vừa ngẫm ngợi suy xét ” (tr.417). Chắc chắn là sẽ tìm thấy thêm nhiều điều hấp dẫn và thú vị. ______ * Hồi kí của Nguyễn Bắc Sơn, Nxb Đà Nẵng, 2022
Thú vị “Bảy nổi ba chìm”…* – Tác giả: Vũ Nho
2,179
Vụ nổ của một ngôi sao lùn trắng. Ảnh: NASA. Khi những ngôi sao như Mặt Trời chết đi, chúng có xu hướng phát ra tiếng thút thít chứ không phải tiếng nổ. Theo Science Alert , lần đầu tiên các nhà thiên văn học phát hiện ra dấu hiệu vô tuyến của một sự kiện nêu trên trong một thiên hà là cách Trái Đất hơn 400 triệu năm ánh sáng. Phát hiện này được công bố vào ngày 18/5 trên tạp chí Nature cho thấy những manh mối thú vị về việc ngôi sao đồng hành bị tác động như thế nào. Theo đó, khi các ngôi sao nặng hơn Mặt Trời 8 lần bắt đầu cạn kiệt nhiên liệu hạt nhân trong lõi, chúng sẽ bung ra các lớp bên ngoài. Quá trình này tạo ra những đám mây khí đầy màu sắc và để lại một lõi nóng đặc được gọi là sao lùn trắng. Mặt Trời sẽ trải qua quá trình chuyển đổi này trong khoảng 5 tỷ năm nữa, từ từ nguội đi và biến mất. Tuy nhiên, nếu một sao lùn trắng bằng cách nào đó tăng khối lượng lên, cơ chế tự hủy sẽ khởi động khi nó nặng hơn khoảng 1,4 lần khối lượng Mặt Trời. Sau đó, vụ nổ nhiệt hạch sẽ phá hủy ngôi sao được gọi là siêu tân tinh loại Ia. Thế nhưng, câu hỏi được đặt ra là khối lượng tăng thêm sẽ đến từ đâu để cung cấp năng lượng cho vụ nổ như vậy. Các nhà khoa học từng nghĩ rằng đó có thể là khí thoát ra khỏi một ngôi sao đồng hành lớn hơn trên quỹ đạo gần. Tuy nhiên, các ngôi sao thường có xu hướng lộn xộn, tràn khí ra khắp nơi. Một vụ nổ siêu tân tinh sẽ gây sốc cho bất kỳ khí tràn nào và khiến nó phát sáng ở bước sóng vô tuyến. Dẫu vậy, bất chấp hàng thập kỷ tìm kiếm, không một siêu tân tinh trẻ loại Ia nào được phát hiện bằng kính viễn vọng vô tuyến. Do đó, các nhà nghiên cứu bắt đầu nghĩ rằng siêu tân tinh loại Ia phải là các cặp sao lùn trắng quay vào trong và hợp nhất với nhau theo kiểu tương đối rõ ràng, không để lại khí gây sốc và không có tín hiệu vô tuyến. Một ngôi sao đồng hành mất vật chất ngay trước vụ nổ. Ảnh: Science Alert. Siêu tân tinh 2020eyj được phát hiện bởi một kính viễn vọng ở Hawaii vào ngày 23/3/2020. Trong khoảng 7 tuần đầu tiên, nó hoạt động giống như những siêu tân tinh loại Ia khác. Nhưng trong 5 tháng tiếp theo, nó không bị mờ đi về độ sáng và bắt đầu thể hiện các đặc điểm cho thấy khí heli tăng lên một cách bất thường. Các nhà nghiên cứu bắt đầu nghi ngờ siêu tân tinh 2020eyj thuộc về một phân lớp hiếm hoi của siêu tân tinh loại Ia. Để cố gắng xác nhận, họ quyết định kiểm tra xem có đủ khí bị sốc để tạo ra tín hiệu vô tuyến hay không. Vì siêu tân tinh ở quá xa về phía bắc để quan sát bằng các kính thiên văn như Australia Telescope Compact Array gần khu vực Narrabri, nên họ phải sử dụng một loạt kính viễn vọng vô tuyến trải khắp Vương quốc Anh để quan sát siêu tân tinh khoảng 20 tháng sau vụ nổ. Lần đầu tiên, họ đã phát hiện rõ ràng siêu tân tinh loại Ia thuộc diện rất trẻ ở bước sóng vô tuyến. Điều này tiếp tục được xác nhận bởi lần quan sát thứ 2 khoảng 5 tháng sau đó. Đây là bước ngoặt quan trọng cho thấy không phải tất cả siêu tân tinh loại Ia đều được tạo ra bởi sự hợp nhất của 2 sao lùn trắng. Một trong những đặc tính đáng chú ý hơn của siêu tân tinh loại Ia là dường như tất cả đều đạt được độ sáng cực đại giống nhau. Điều này phù hợp với việc chúng đều đạt đến một khối lượng nhất định trước khi phát nổ. Chính thuộc tính này đã giúp nhà thiên văn học Brian Schmidt và các đồng nghiệp đạt được kết luận đoạt giải Nobel vào cuối những năm 1990. Kết luận cho rằng sự giãn nở của vũ trụ kể từ vụ nổ Big Bang không chậm lại dưới tác dụng của lực hấp dẫn (như mọi người dự đoán), trái lại nó đang tăng tốc do các hiệu ứng gọi là năng lượng tối. Đó là lý do siêu tân tinh loại Ia là những vật thể vũ trụ quan trọng và mọi người vẫn chưa biết chính xác cách thức, thời điểm những vụ nổ sao này xảy ra. Điều gì khiến chúng ổn định như vậy trở thành một mối lo ngại đối với các nhà thiên văn học. Bên cạnh đó, nếu các cặp sao lùn trắng hợp nhất có tổng khối lượng gấp 3 lần khối lượng Mặt Trời, tại sao chúng lại giải phóng cùng một lượng năng lượng? Các nhà khoa học đặt ra giả thuyết rằng siêu tân tinh 2020eyj xảy ra khi đủ lượng khí heli thoát ra khỏi ngôi sao đồng hành và đưa lên bề mặt của sao lùn trắng, từ đó đẩy nó vượt qua giới hạn khối lượng. Tuy nhiên, câu hỏi bây giờ là tại sao trước đây mọi người chưa từng thấy tín hiệu vô tuyến này trong bất kỳ siêu tân tinh loại Ia nào khác. Lời giải thích hợp lý nhất có lẽ là sự kiên nhẫn và bền bỉ đôi khi được đền đáp theo cách mà không ai ngờ tới. Trong trường hợp này, sự kiên nhẫn đã giúp các nhà nghiên cứu nghe thấy lời thì thầm của một ngôi sao xa xôi sắp chết.
Tín hiệu vô tuyến từ một ngôi sao sắp chết sẽ như thế nào?
980
Nguồn: ITN Mỗi quốc gia và khu vực có quy định pháp luật bảo vệ các dòng sông khác nhau, nhưng mục tiêu bao trùm và có tính phổ quát là bảo vệ các dòng sông và hệ sinh thái của chúng khỏi ô nhiễm, suy thoái và bị khai thác không bền vững. Các dòng sông cung cấp nước và phù sa cho đất nông nghiệp, vùng đồng bằng ngập lũ và châu thổ, nuôi dưỡng đa dạng sinh học to lớn, mang lại nước và thức ăn cho hàng trăm triệu người trên khắp thế giới. Các dòng sông còn là nguồn gốc của đức tin, truyền thống tâm linh, nghi lễ, bài hát và câu chuyện dân gian. Thực sự, chúng ẩn chứa lịch sử của nền văn minh nhân loại trong những vùng nước gợn sóng của mình. Các nền văn hóa bản địa từng trân trọng những dòng sông như sinh vật sống từ thời xa xưa. Rất lâu trước khi Mỹ thông qua Đạo luật Kiểm soát ô nhiễm nước, hay Đạo luật Nước sạch (1948) hoặc Đạo luật Về các dòng sông hoang dã và là danh lam thắng cảnh (1968), các nền văn hóa bản địa đã tôn vinh và bảo vệ các dòng sông của họ. Ở Nam Á, các nền văn hóa đã xây dựng những ngôi đền gần đầu nguồn của những con sông lớn trong khu vực, sau đó chảy qua những khu rừng được bảo vệ. Các địa điểm đa dạng sinh học như hợp lưu, vực sâu và rừng ngập mặn được tôn kính, bảo vệ và tôn vinh. Tại Colombia, đầu nguồn của sông Magdalen được đánh dấu bằng những tác phẩm điêu khắc cổ tráng lệ; dòng sông chính của đất nước này hiện được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Tương tự, ở Campuchia, những hình chạm khắc cổ trên các ngôi đền Angkor tôn vinh nền văn minh đánh cá và sông nước ở đây. Trong khi đó, các tác phẩm nghệ thuật trên đá của người bản địa Australia cách đây hàng chục nghìn năm tuổi, ghi lại sự hiện diện của cá và động vật thủy sinh tại các dòng sông vừa là vật tổ vừa là nguồn thức ăn thiết yếu. Tuy các dòng sông là “động mạch” của trái đất, nhưng mối đe dọa đối với chúng và nguồn nước ngọt của hành tinh đang tăng lên gấp bội. Sự kết hợp nguy hiểm của biến đổi khí hậu, tình trạng xây đập, phân nhánh sông và đặc biệt là tình trạng xả nước thải gây ô nhiễm đang biến các dòng sông từ những tuyến đường thủy sôi động thành các vùng nước tù đọng. Vào năm 2016, Quỹ Động vật hoang dã thế giới và Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên phát hiện ra rằng, chỉ có “một phần tương đối nhỏ các quốc gia trên thế giới có các cơ chế pháp lý chính thức dành riêng cho việc bảo vệ các dòng sông”. Vì thế, các biện pháp bảo vệ pháp lý lâu dài để bảo đảm các chức năng hệ sinh thái quan trọng của sông được bảo tồn và công nhận quyền của các cộng đồng ven sông là hết sức cần thiết trên toàn cầu. Theo các chuyên gia, những biện pháp này phải được xem xét trên quy mô lưu vực để bảo đảm bao gồm cả môi trường núi và rừng đầu nguồn, cũng như vùng đồng bằng ngập nước, vùng đất ngập nước, đồng bằng châu thổ, cửa sông và môi trường sống ven biển gần bờ… Ở Mỹ, Đạo luật Nước sạch là luật liên bang toàn diện điều chỉnh tình trạng ô nhiễm nước ở xứ sở cờ hoa. Đạo luật này thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng nước, yêu cầu phải có giấy phép xả chất gây ô nhiễm, nhằm mục đích khôi phục và duy trì sự toàn vẹn của vùng biển quốc gia, bao gồm cả các con sông. Đạo luật do Cơ quan Bảo vệ môi trường (EPA) và các cơ quan nhà nước thực thi. Tại châu Âu, Liên minh châu Âu (EU) có Chỉ thị khung về nước là bộ luật quan trọng của khối, đề cập đến việc bảo vệ và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên nước, trong đó có các con sông. Chỉ thị đặt ra mục tiêu và chỉ tiêu để đạt được trạng thái sinh thái tốt cho tất cả các vùng nước của EU. Các quốc gia thành viên được yêu cầu thực hiện các kế hoạch quản lý lưu vực sông, cũng như các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm và tăng cường hệ sinh thái sông. Ở Anh, ngay từ năm 1489, việc bảo vệ các dòng sông bắt đầu có ngôn ngữ thể hiện rõ ràng rằng bảo tồn là mối quan tâm chính. Một đạo luật từ những năm đầu tiên dưới triều đại của Vua Henry VII đã biến sông Thames và việc bảo vệ nó thành nhiệm vụ của Thị trưởng London với tư cách là “người bảo quản”. Nhìn sang châu Á, Trung Quốc là quốc gia có nhiều luật và quy định khác nhau để bảo vệ các dòng sông. Luật Phòng chống và kiểm soát ô nhiễm nước ban hành năm 1984 và sửa đổi năm 2008 nhằm mục đích ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm nước, kể cả ở các dòng sông. Luật đặt ra các tiêu chuẩn xả thải, thiết lập các hệ thống giám sát và báo cáo ô nhiễm, đồng thời đưa ra hình phạt thích đáng đối với việc không tuân thủ. Trung Quốc cũng đã ban hành Luật Bảo vệ sông Dương Tử năm 2020. Mới đây nhất, Luật Bảo vệ sông Hoàng Hà, con sông dài thứ hai của đất nước, chính thức có hiệu lực từ ngày 1.4.2023. Luật nhấn mạnh giới hạn lượng nước ngầm có thể rút khỏi lưu vực, lưu ý rằng các thị trấn nhỏ, với quy mô dân số không vượt quá 150.000 người, trong lưu vực không được vượt quá giới hạn rút nước ngầm do Chính phủ phân bổ. Tại Ấn Độ, Đạo luật Ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước năm 1974 có nội dung giải quyết ô nhiễm nước ở các dòng sông. Luật này thành lập các ban kiểm soát ô nhiễm ở cấp trung ương lẫn bang, đồng thời cung cấp các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm nước. Nó trao quyền cho các cơ quan chức năng thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ và phục hồi các dòng sông, đồng thời đưa ra hình phạt đối với các vi phạm. Ở Australia, Đạo luật Về nước năm 2007 cung cấp khuôn khổ cho việc quản lý và bảo vệ nguồn nước của quốc gia, bao gồm cả các con sông. Nó thiết lập các giới hạn phân nhánh sông bền vững để bảo đảm sức khỏe lâu dài của hệ thống sông, thúc đẩy sử dụng nước hiệu quả, đồng thời đặt ra yêu cầu đối với việc bảo vệ và phục hồi dòng chảy môi trường. Chính quyền các bang chịu trách nhiệm thi hành các biện pháp bảo vệ sông cụ thể. Nhìn sang khu vực Mỹ Latin, Brazil có nhiều quy định tập trung vào bảo vệ và quản lý sông. Chính sách tài nguyên nước quốc gia thiết lập các hướng dẫn sử dụng bền vững và bảo vệ tài nguyên nước, trong đó có các con sông. Các ủy ban lưu vực sông đóng vai trò quan trọng trong quy hoạch và quản lý tài nguyên nước, bao gồm cả việc bảo vệ sông. Còn tại châu Phi, Nam Phi có Đạo luật Nước quốc gia năm 1998 cung cấp khuôn khổ cho việc quản lý tài nguyên nước và bảo vệ sông. Đạo luật nhấn mạnh việc sử dụng tài nguyên nước một cách công bằng và bền vững, bảo vệ hệ sinh thái dưới nước và sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình ra quyết định.
Bảo vệ các ‘động mạch’ của trái đất
1,360
Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà thơ Tế Hanh : Bài “Những ngày nghỉ học”. Cùng với “ Quê hương “, đây là “hai bài thơ hay của thi ca Việt Nam và hai bài đó xác định giá trị về nhà thơ Tế Hanh” (nhận xét của nhà văn Nhất Linh trên báo Ngày Nay năm 1939). Bài thơ này ít nhiều có “dây mơ rễ má” với bài thơ của một thi sĩ Pháp sáng tác vào thế kỷ XIX. Đó là Sully Prudhomme với bài thơ “ Chiều dài bến cảng “. Sau đây là bản dịch bài thơ “ Chiều dài bến cảng ” của nhà thơ Ngô Văn Phú: Con tàu lớn đậu bên bờ cảng Sóng trắng đu đưa, giữa lặng tờ Để ý gì đến những nôi đưa Từ những bàn tay những người vợ trẻ. Nhưng đã đến những ngày từ giã Bởi ước ao đất lạ, trời xa Những người vợ, thêm một lần lệ ứa Khi đám đàn ông háo hức phong ba Và buổi ấy, những con tàu lớn Chạy trốn dần bến cảng yêu thương Bỗng cảm thấy thân hình vạn tấn Có những vành nôi níu giữ linh hồn Đọc “ Những ngày nghỉ học ” của Tế Hanh, tôi cũng như nhiều bạn yêu thơ rất lấy làm tâm đắc với hai câu tác giả tả sự ly biệt, trong đó ông cảm nhận về tiếng còi tàu: Lâu lâu còi rúc nghe rền rĩ Lòng của người đi réo kẻ về Thật bất ngờ, trong một lần trò chuyện với tác giả, nhà thơ Tế Hanh tâm sự: Khi viết hai câu này, ông thầm nhớ tới hình ảnh những bàn tay vẫy của những người vợ trẻ tiễn chồng đi biển (những bàn tay như thể đưa nôi) – hình ảnh rất cảm động trong bài thơ của thi sĩ Pháp Prudhomme (sau này, trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí về ảnh hưởng của thơ Pháp đối với các nhà Thơ Mới, tôi thấy ông có nhắc lại chuyện đó). Nhà thơ Pháp Sully Prudhomme. Nhưng phải đến năm 1995 tôi mới được đọc toàn văn bài thơ qua bản dịch của nhà thơ Ngô Văn Phú. Bài thơ ghi lại thật cảm động buổi tiễn biệt xảy ra trên cảng. Con tàu – mà trên đó là những người đàn ông đang háo hức sắp được chiêm ngưỡng những vùng đất lạ, trời xa – tưởng như nằm giữa một sự giằng níu: một bên là sóng biển đu đưa, một bên là sóng của những bàn tay đưa vẫy (của những người vợ trẻ). Và vô hình trung, con tàu “với thân hình vạn tấn” ấy bỗng chốc như thể đứa trẻ được nằm trong vành nôi chở che, yêu thương của người thân. Đất liền (trong đó có những người vợ hiền) bấy giờ như một nguồn động viên, một sự đảm bảo bình an cho con tầu trước một chuyến ra khơi đối mặt với đại dương mênh mông bão tố. Từ những ý tưởng này mà nảy nở, mà thoát thai ra những câu thơ kia của Tế Hanh, đó quả là sự bí ẩn kỳ diệu của sáng tạo nghệ thuật. Sully Prudhomme là nhà thơ nổi tiếng của nước Pháp. Ông sinh năm 1839, mất năm 1937. Thuở nhỏ, ông rất giỏi toán và đã từng có ý định thi vào Đại học Bách khoa để trở thành kỹ sư. Nhưng vì mắc bệnh nặng nên ông phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Ở tuổi ba mươi, ông bị liệt và phải cắt bỏ hai chân. Có lẽ vì thế mà sự khát khao bay bổng thể hiện đậm nét trong những câu thơ trên. Prudhomme là người cổ vũ cho thơ truyền thống, phản đối lối thơ theo Chủ nghĩa Tượng trưng, suy đồi. Năm 1901, ông được trao giải Nobel Văn học, trở thành người đầu tiên trên thế giới được trao tặng giải thưởng danh giá này. Tuy nhiên, vì lý do bệnh tật, ông đã không đến Thụy Điển để nhận giải. Prudhomme được xem là một sự “trớ trêu” của giải Nobel. Trong khi có những nhà văn mà tác phẩm đã tạo nên một sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả, song lại không được giải Nobel thì ngược lại, Prudhomme là người đầu tiên được nhận giải thưởng này nhưng bản thân tác phẩm của ông hiện rất ít người còn nhắc nhớ, ngay cả tại nước Pháp, quê hương ông. Ở Việt Nam, thơ Prudhomme từng có mặt ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX. Bài thơ “ Chiếc bình vỡ ” nói nỗi đau của trái tim con người khi đến với tình yêu đã được nhà thơ Đông Hồ dịch. Một bản dịch được đánh giá là tương đối “thoát nghĩa”
Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme – Tác giả: Nguyễn Đức Long
794
Theo Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia, trong ngày hôm nay (21/5), chỉ số cực đại bức xạ tia cực tím (tia UV) ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước đều ở ngưỡng nguy cơ gây hại rất cao. Trong ba ngày tới, chỉ số UV cực đại các tỉnh, thành phố trên cả nước có dao động nhẹ từ (7-10), ở ngưỡng nguy cơ gây hại cao đến rất cao.
[Infographic] Dự báo chỉ số cực đại bức xạ tia cực tím và tiềm năng nhiệt ngày 21/5/2023
78
Mua to làm ngập nặng nhiều tuyến phố tại vùng Emilia-Romagna của Italy. Ảnh: AFP/TTXVN. Tại Italy , những cơn mưa xối xả sau nhiều tháng khô hạn đã gây ngập lụt diện rộng ở các vùng Emilia Romagna và Marche, Đông Bắc Italy, khiến ít nhất 14 người thiệt mạng và gần 20.000 người phải sơ tán. Nguyên nhân trực tiếp của trận lũ lụt gây chết người là hiện tượng thời tiết cực đoan, với lượng mưa trút xuống trong 48 giờ tại vùng này tương đương với tổng lượng mưa của 6 tháng, sau đợt hạn hán kéo dài 2 năm, khiến hàng chục con sông và nhánh sông bị vỡ bờ. Lực nước đã nhấn chìm hàng chục thành phố và thị trấn, gây ra hàng nghìn vụ lở đất, tạo ra những dòng bùn tràn qua các thị trấn làm ngập các mặt tiền cửa hàng và tầng hầm. Ngày 19/5, các nhà chức trách tại Ravenna đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức thêm 2 thị trấn nhỏ nữa và đưa ra lời kêu gọi “cực kỳ khẩn cấp”, cảnh báo người dân hạn chế di chuyển trong khu vực vẫn đang trong tình trạng báo động thời tiết “đỏ”, mức cao nhất. 43 thị trấn đã bị ảnh hưởng bởi lũ lụt và lở đất, và hơn 500 con đường đã bị đóng cửa hoặc bị phá hủy. Thiệt hại vì lũ lụt có thể lên đến nhiều tỷ euro, mà Chủ tịch vùng Emilia Romagna Stefano Bonaccini đã so sánh với một trận động đất. Đây là trận lụt nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm qua và cũng là lần thứ 2 trong tháng này vùng Emilia-Romagna hứng chịu thiên tai. Hồi đầu tháng, mưa bão tại đây cũng đã cướp đi sinh mạng của 2 người. Vùng Emilia Romagna đặc biệt dễ bị tổn thương vì biến đổi khí hậu, do vị trí nằm giữa dãy núi Apennine và biển Adriatic. Viện nghiên cứu và bảo vệ môi trường Italy (ISPRA) đã xác định Emilia-Romagna là một trong những khu vực có nguy cơ lũ lụt cao nhất tại Italy. Trong điều kiện khí hậu thay đổi, lượng mưa sẽ nhiều hơn, nhưng mưa sẽ rơi vào ít ngày hơn và gây ra những trận mưa như trút nước, ít có ích và nguy hiểm hơn. Ông Antonello Pasini, nhà khoa học khí hậu tại Hội đồng nghiên cứu quốc gia của Italy, cho biết một xu hướng đã tự hình thành khi “lượng mưa tổng thể tăng lên mỗi năm, nhưng số ngày mưa giảm và cường độ mưa tăng lên”. Mặt đất khô, không thấm nước đồng nghĩa với việc mưa lớn khó có thể giúp ích, mà còn gây hại cho khu vực này. Miền Bắc Italy đã bị hạn hán trong 2 năm qua do lượng tuyết rơi ít hơn mức trung bình trong những tháng mùa Đông. Tuyết tan từ các dãy núi Alps, Dolomites và Apennines thường cung cấp dòng chảy ổn định trong suốt mùa xuân và mùa hè, làm đầy song, hồ của nước này, tưới tiêu cho vùng trung tâm nông nghiệp và giữ nước cho sông Po, cũng như các sông nhánh quan trọng khác. Không có tuyết rơi bình thường ở vùng núi, đồng bằng trở nên khô hạn và nước ở các lòng sông, hồ và hồ chứa đã rút đi. Ông Pasini cho biết vùng khô hạn không thể phục hồi ngay cả khi trời mưa vì mặt đất về cơ bản là “không thấm nước” và mưa chỉ rửa trôi lớp đất mặt và chảy ra biển. Các chuyên gia cho biết lũ lụt chết người tại Italy là một ví dụ khác về sự cực đoan của biến đổi khí hậu. Các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt ở Địa Trung Hải trở thành điều bình thường mới, đòi hỏi Italy phải thích nghi và suy nghĩ lại về các biện pháp phòng chống lũ lụt trên toàn quốc. Ngày 20/5, vùng Emilia-Romagna vẫn trong tình trạng báo động đỏ, khi mưa quay trở lại. Các trận mưa mới có thể khiến mực nước sông dâng cao và tràn trở lại, trong bối cảnh nhiều khu vực vẫn còn chìm trong nước và sạt lở đất là một vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là ở các khu vực thuộc vùng núi Apennines. Hơn 27.000 người đã được sơ tán khỏi nhà riêng ở tỉnh Ravenna, nơi bị ảnh hưởng nặng nhất, với tình trạng thiếu nước uống và lương thực ở một số khu vực.
Italy: Vùng Emilia-Romagna bị ngập lụt nghiêm trọng nhất trong 100 năm
760
Trước khi bị quỷ bụi làm tắt nguồn, robot InSight của NASA đã có phát hiện để đời ở hành tinh láng giềng của Trái Đất. Nghiên cứu vừa công bố trên tạp chí Geophysical Research của NASA đã nghiên cứu trận động đất mạnh nhất từng được ghi nhận trong 4 năm InSight, tàu đổ bộ thăm dò Sao Hỏa của NASA, hoạt động như một robot thăm dò địa chấn. Đó là một trận động đất mạnh tới 4,7 độ (thang Moment của Mỹ), tức tương ứng với nhiều trận động đất cấp độ trung bình trên Trái Đất, đủ khiến nhà cửa rung chuyển. Chiến binh InSight của NASA – Ảnh: NASA. Điều đó có vẻ bình thường trên Trái Đất, nhưng vô cùng bất thường ở một hành tinh khác, vốn từng bị cho là có lớp vỏ liền và không thể hoạt động địa chất. Theo Science Alert, dữ liệu này đã cung cấp các ước tính về độ dày lớp vỏ toàn cầu của Soa Hỏa, cũng như cách hành tinh tạo ra nhiệt từ bên trong. “Từ trận động đất này, chúng tôi đã quan sát thấy sóng bề mặt bao quanh Sao Hỏa tận 3 lần” – nhà địa chấn học Doyeon Kim từ Viện Địa vật lý của ETH Zurich ( Thụy Sĩ ), cho biết. Kết hợp dữ liệu về các trận động đất trước, dữ liệu về lực hấp dẫn và địa hình Sao Hỏa, họ ước tính được độ dày trung bình của lớp vỏ toàn cầu của hành tinh này là từ 42-56 km, tức dày hơn nhiều so với vỏ Trái Đất (trung bình 24 km) hay Mặt Trăng (34-43 km). Nơi mỏng nhất của vỏ Sao Hỏa là khoảng 20 km, ở lưu vực va chạm Hellas, còn nơi dày nhất lên tới 90 km là ở cao nguyên núi lửa Tharsis. Lớp vỏ ở bán cầu Nam mở rộng sâu xuống dưới hơn so với bán cầu Bắc, giúp các nhà khoa học định hình được cách mà vỏ hành tinh đã phát triển. Nhiều nguyên tố phóng xạ sinh nhiệt khi phân rã cũng được tìm thấy nhiều trong lớp vỏ và cả lớp phủ, bao gồm uranium, thori và kali, giải thích cho các điểm tan chảy cục bộ bên trong Sao Hỏa. Những yếu tố trên góp phần cho thấy một điều quan trọng: Sao Hỏa có thể vẫn đang hoạt động địa chất trong hiện tại. Hoạt động địa chất là một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với sự sống một hành tinh, do giúp ổn định môi trường, khí hậu, cung cấp sự trao đổi hóa học cần thiết cho các chu trình của hành tinh nhằm kích hoạt phản ứng sinh ra sự sống ban đầu lẫn nuôi dưỡng sự sống đó. Sao Hỏa là hành tinh mà NASA chú trọng nhất trong chuỗi nhiệm vụ săn tìm sự sống, với nhiều robot tìm bằng chứng về sự sống cổ đại – hoặc may mắn hơn là một cái gì đó của hiện tại hoặc gần với hiện tại – như Curiosity hay Perseverance. Phát hiện mới đem thêm cho họ một niềm hy vọng lớn.
Phát hiện ‘rung chuyển’ ở hành tinh mà NASA tin chắc có sự sống
521
Một trong những dấu chân được mô tả trong nghiên cứu. Ảnh: Senckenberg. Theo Science Alert, những dấu chân cách đây 300.000 năm của người Heidelberg cổ đại cho thấy họ từng sống ở quanh các bờ hồ và sông có vùng nước nông. Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra những ví dụ về dấu chân của con người ở Đức . Trải dài khoảng 300.000 năm trước, các nhà nghiên cứu cho rằng những dấu chân này không phải do Homo sapiens (người tinh khôn) tạo ra mà chúng được hình thành bởi người Heidelberg cổ đại đã tuyệt chủng (Homo heidelbergensis). Những ấn tượng nêu trên cung cấp cho các nhà nghiên cứu cái nhìn sinh động về cách sống của con người sơ khai. Ngoài ra, chúng cũng được phát hiện cùng lúc với dấu chân động vật tại địa điểm thời kỳ đồ đá cũ Schöningen ở Lower Saxony (phía tây bắc nước Đức). Homo heidelbergensis là những thợ săn tài ba và tổ tiên của họ thậm chí còn xa xưa hơn cả người Neanderthal. Trên thực tế, họ được coi là tổ tiên chung cuối cùng của người Neanderthal và con người ngày nay. “Lần đầu tiên, chúng tôi đã tiến hành một cuộc nghiên cứu chi tiết về dấu chân hóa thạch từ hai địa điểm ở Schöningen”, nhà khảo cổ học Flavio Altamura từ Đại học Tübingen ở Đức nói. Ông Altamura cho biết những dấu vết này cùng với thông tin từ các phân tích trầm tích, khảo cổ học, cổ sinh vật học và cổ thực vật học đã cung cấp những hiểu biết sâu rộng về môi trường cổ sinh và các loài động vật có vú từng sống ở khu vực này. Dựa trên nghiên cứu và sự xem xét từ các lớp trầm tích đến xương được bảo tồn tại địa điểm, các nhà khoa học nhận định đây từng là một hồ nước được bao quanh bởi cảnh quan tươi tốt với nhiều hàng cây bạch dương, cây thông và cỏ. Chỉ 3 dấu chân Homo heidelbergensis được xác định, điều này không giúp các nhà nghiên cứu quá nhiều. Tuy nhiên, bằng cách so sánh với quan sát trong các nghiên cứu khác, nhóm ước tính rằng 3 dấu chân bị bỏ lại này là một người lớn và hai trẻ vị thành niên, khả năng cao đây là một chuyến đi chơi của gia đình. Môi trường xung quanh có nhiều bằng chứng cho thấy voi, tê giác và động vật guốc chẵn thường xuyên lui tới hồ, tất cả đều sử dụng nước để tắm rửa hoặc uống. “Tùy theo mùa, cây cối, trái cây, lá, chồi và nấm sẽ xuất hiện quanh hồ. Những phát hiện của chúng tôi xác nhận rằng loài người đã tuyệt chủng từng sống ở bờ hồ hoặc sông có vùng nước nông. Điều này tương tự như các địa điểm khác ở thời kỳ Hạ và Trung Pleistocen có dấu chân người”, ông Altamura nói. Cảnh sinh sống của người Heidelberg được mô phỏng lại. Ảnh: Benoît Clarys. Theo các nhà khoa học, dưới lớp trầm tích tại địa điểm này cũng có một số lượng lớn công cụ bằng gỗ được bảo quản tốt, nó cung cấp thêm thông tin chi tiết về cách thức hoạt động của tổ tiên loài người Heidelberg cổ đại. Khó để chắc chắn những công cụ này sẽ được sử dụng trong 300.000 năm sau, nhưng chúng có thể dùng để săn bắn, thu hoạch hoặc xây dựng. Ngoài ra, tại nơi nghiên cứu còn có bằng chứng về loài voi đã tuyệt chủng Palaeoloxodon antiquus. Loài voi này có thể cao tới 4,2 m và nặng 13 tấn. Bên cạnh đó, một dấu chân tê giác, loại đầu tiên được tìm thấy ở châu Âu, cũng được xác định. Những phát hiện nêu trên là một kho báu ở khu vực vốn nổi tiếng với việc bảo tồn lịch sử loài người cổ đại. Nó cho thấy tiềm năng của công nghệ học, nghiên cứu về dấu vết để lại từ dấu chân người đến hang động vật. “Công nghệ học đang nổi lên như một công cụ mạnh mẽ để tái tạo bức tranh môi trường, sinh thái và khảo cổ học. Nó có độ phân giải cao về các địa điểm thời tiền sử, đặc biệt là khi được đưa vào như một phương pháp tiếp cận đa ngành”, các nhà nghiên cứu viết trong bài báo đã xuất bản trên tạp chí Quaternary Science Reviews .
Phát hiện dấu chân tiết lộ cuộc sống con người cách đây 300.000 năm
757
Pháp luật ở nhiều nước về bảo vệ sông đều nhằm mục đích bảo vệ nguồn nước và hệ sinh thái của các dòng sông, do vậy thường có ‘mẫu số chung’ ở một số khía cạnh chính – từ tiêu chuẩn chất lượng nước, ngăn ngừa kiểm soát ô nhiễm đến dòng chảy của sông… Nguồn: ITN. Về tiêu chuẩn chất lượng nước , pháp luật bảo vệ sông nói chung thường thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng nước, xác định mức độ ô nhiễm có thể chấp nhận được trong nước. Các tiêu chuẩn này giúp điều chỉnh lượng nước thải công nghiệp và đô thị đổ vào sông, bảo đảm rằng chất lượng nước được duy trì ở mức phù hợp cho các mục đích sử dụng khác nhau, bao gồm nước uống, đời sống thủy sinh và các hoạt động giải trí… Bên cạnh đó, pháp luật cũng chú trọng đến các điều khoản để ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm trên các dòng sông. Các nhà chức trách có thể yêu cầu giấy phép xả chất gây ô nhiễm vào sông, đặt tiêu chuẩn xả thải cho các ngành công nghiệp khác nhau và điều chỉnh các hoạt động như nạo vét, khai thác mỏ và nông nghiệp để giảm thiểu tác động của chúng đối với chất lượng nước. Các cơ chế thực thi, chẳng hạn như giám sát, báo cáo và xử phạt đối với việc không tuân thủ, thường được thiết lập để bảo đảm tuân thủ các biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Đối với dòng chảy môi trường , nhiều luật bảo vệ sông công nhận tầm quan trọng của việc duy trì đủ dòng chảy trong sông để hỗ trợ các hệ sinh thái lành mạnh. Các văn bản pháp lý này có thể yêu cầu xác định và phân bổ dòng chảy môi trường, là lượng nước tối thiểu cần thiết để duy trì hệ sinh thái sông và môi trường sống liên quan của chúng. Các luật thường ưu tiên bảo vệ và phục hồi các chế độ dòng chảy tự nhiên, cũng như xem xét nhu cầu của cả người sử dụng lẫn môi trường. Liên quan đến quản lý lưu vực sông , pháp luật thường thúc đẩy việc áp dụng các phương pháp quản lý tích hợp lưu vực sông. Nhiều luật có thể yêu cầu phát triển các kế hoạch quản lý lưu vực sông, vạch ra chiến lược, mục tiêu để bảo vệ và phục hồi các dòng sông trong một khu vực địa lý cụ thể. Các kế hoạch này thường có sự tham gia của các bên liên quan, thu thập dữ liệu, giám sát và phối hợp giữa các cơ quan chính phủ và tổ chức có liên quan. Về bảo tồn hệ sinh thái, các luật về bảo vệ sông trên thế giới thường nhấn mạnh đến việc bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái ven sông. Các văn bản này có thể chỉ định những khu vực được bảo vệ, chẳng hạn như các vùng ven sông và vùng đất ngập nước, đồng thời áp đặt quy định để ngăn chặn sự xuống cấp hoặc phá hủy của chúng. Các luật cũng có thể thúc đẩy nhiều sáng kiến phục hồi môi trường sống, bảo tồn đa dạng sinh học và bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng sống dựa vào sông. Đặc biệt, sự tham gia và nhận thức của công chúng cũng là một yếu tố quan trọng trong pháp luật bảo vệ sông ở nhiều quốc gia. Nhiều luật có thể yêu cầu sự tham gia của cộng đồng địa phương, các bên liên quan và người dân bản địa trong quá trình ra quyết định, bao gồm cả việc phát triển các kế hoạch lưu vực sông và cấp giấy phép. Các chương trình giáo dục và tiếp cận cộng đồng có thể được giao nhiệm vụ nâng cao nhận thức về giá trị của các dòng sông lẫn sự cần thiết phải bảo vệ chúng.
‘Mẫu số chung’ của pháp luật bảo vệ sông
674
Các chương trình bảo vệ pháp lý cho các dòng sông chảy tự do ở châu Âu được thiết kế để bảo vệ và duy trì tính toàn vẹn sinh thái cũng như hoạt động tự nhiên của các dòng sông, không để chúng bị cản trở bởi các đập thủy điện hoặc nhiều công trình nhân tạo khác. Một trong những chương trình bảo vệ pháp lý đáng chú ý ở châu Âu là Chỉ thị Khung về nước của Liên minh châu Âu (WFD), được thông qua năm 2000. WFD thiết lập khuôn khổ bảo vệ và sử dụng bền vững tất cả các vùng nước bao gồm sông, hồ, vùng nước chuyển tiếp và ven biển. Nó nhấn mạnh việc bảo tồn, phục hồi các đặc điểm và quá trình tự nhiên của hệ sinh thái nước, trong đó có cả việc thúc đẩy các dòng sông chảy tự do. Sông Danube đoạn chảy qua Hungaria. Nguồn: Theo WFD, các quốc gia thành viên được yêu cầu đạt được tình trạng sinh thái và hóa học tốt cho tất cả các vùng nước của họ. Điều này bao gồm các biện pháp ngăn chặn những thay đổi vật lý có thể cản trở sự di chuyển của cá và các sinh vật dưới nước khác, chẳng hạn như xây dựng các rào cản hoặc khai thác nước quá mức. Chỉ thị cũng yêu cầu xây dựng các kế hoạch quản lý lưu vực sông, trong đó hướng dẫn bảo tồn và phục hồi cho từng lưu vực. Ngoài WFD, một số quốc gia ở châu Âu còn thực hiện nhiều công cụ pháp lý cụ thể để bảo vệ các dòng sông chảy tự do. Ví dụ, Đức có hệ thống “sông hoang dã” (Wilde Flüsse) được thiết kế nhằm mục đích bảo vệ và khôi phục các đoạn sông với sự can thiệp tối thiểu của con người. Các phần này được cấp trạng thái bảo vệ đặc biệt, bảo đảm sự tồn tại động lực tự nhiên của chúng. Một sáng kiến khác mang tên “những dòng sông vì sự sống” được triển khai tại Áo, tập trung vào việc bảo tồn, khôi phục tính liên tục sinh thái của các dòng sông. Nó khuyến khích việc chỉ định “cảnh quan sông”, nơi các đoạn sông và vùng ngập lũ của chúng được bảo vệ, phục hồi, đồng thời cho phép quá trình tự nhiên hình thành các hệ sinh thái ven sông. Hơn nữa, một số quốc gia còn thành lập các công viên quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên hoặc khu vực bảo vệ bao gồm các hệ thống sông chảy tự do. Những khu vực này phải tuân theo các quy định và kế hoạch quản lý cụ thể nhằm duy trì tính toàn vẹn sinh thái của chúng. Ngoài ra, EU còn nhiều sáng kiến đáng chú ý khác, như Natura 2000, vốn là mạng lưới các khu bảo tồn được thành lập theo Chỉ thị Về các loài chim và môi trường sống của EU. Nó bao gồm nhiều môi trường sống trên sông và các loài có tầm quan trọng ở châu Âu. Thiết kế các địa điểm Natura 2000 giúp bảo tồn các hệ sinh thái sông, cũng như đa dạng sinh học liên quan đến chúng. Trong khi đó, Mạng lưới sông ngòi châu Âu (ERN) là liên minh gồm các tổ chức hoạt động nhằm bảo vệ và quản lý bền vững các con sông ở châu Âu. Nó tạo điều kiện cho các nỗ lực hợp tác, chia sẻ kiến thức và vận động chính sách giữa các thành viên nhằm thúc đẩy bảo tồn sông cũng như nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các dòng sông chảy tự do. Tương tự, Living Rivers Europe (các dòng sông sống châu Âu) là liên minh gồm các tổ chức môi trường chuyên bảo vệ, phục hồi các dòng sông và hệ sinh thái nước ngọt trên khắp châu Âu. Ngoài ra còn có Hội nghị Phục hồi sông châu Âu (ERRC), được tổ chức hai năm một lần, quy tụ các chuyên gia, học viên và nhà hoạch định chính sách từ khắp châu lục để thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm về phục hồi sông hiệu quả. Đặc biệt, Công ước Bảo vệ sông Danube là thỏa thuận quốc tế giữa các quốc gia có chung lưu vực sông Danube. Nó tập trung vào việc quản lý, bảo vệ bền vững sông Danube và các nhánh của nó… Ở Slovenia, Luật Bảo vệ sông Soča và các nhánh sông năm 1976 đã giúp bảo vệ hệ sinh thái thượng lưu sông Soča một cách toàn diện. Nó bao gồm các đặc điểm vật lý, hóa học và sinh học của hệ thống sông. Luật thiết lập khu vực được bảo vệ “bao gồm lòng sông, vùng nước và đất ven sông giữa nguồn và nơi hợp lưu với sông Idrijca”. Đây có thể được coi là kế hoạch bảo vệ hợp pháp, nghiêm ngặt đầu tiên đối với các dòng sông chảy tự do ở châu Âu. Phần Lan thì thiết lập kế hoạch bảo vệ pháp lý cho các dòng sông chảy tự do vào những năm 1980. Nó bao gồm ba luật riêng lẻ, trong đó Đạo luật Bảo vệ ghềnh năm 1987 là phần trung tâm. Kế hoạch bảo vệ pháp lý được thiết lập đặc biệt để cấm phát triển thủy điện ở các ghềnh, sông hoặc hệ thống sông được chọn. Thụy Điển xây dựng kế hoạch bảo vệ pháp lý cho các dòng sông chảy tự do vào năm 1987. Bốn con sông lớn phía Bắc là Torneälv, Kalixälv, Piteälv và Vindelälv, cùng với 22 con sông hoặc đoạn sông khác đã được bảo vệ khỏi sự phát triển thủy điện mới thông qua Đạo luật Quản lý tài nguyên (tự nhiên). Thuật ngữ “sông quốc gia” được đưa ra cho bốn con sông nói trên, giúp chúng được hưởng mức độ bảo vệ như nhau. Năm 1999, khi Đạo luật Quản lý tài nguyên bị bãi bỏ, kế hoạch bảo vệ được tích hợp vào Bộ luật Môi trường, bảo đảm các con sông hoặc đoạn sông nói trên không bị khai thác thủy điện, không bị điều tiết hoặc chuyển hướng cho mục đích này… Trong khi đó, tại Pháp , Kế hoạch Quản lý lưu vực sông bao gồm danh sách các con sông không phát triển thủy điện và bảo vệ dòng chảy tự do. Kế hoạch ưu tiên loại bỏ các rào cản trên sông nhằm khôi phục tính liên tục, động lực học của sông và dòng chảy tự do. Pháp coi tính liên tục sinh thái của các dòng sông là yếu tố trung tâm trong chính sách và quy hoạch sông ngòi. Trong nhiều thập kỷ qua, Pháp đạt được thành công khá đáng kể trong việc bảo vệ và khôi phục các dòng sông chảy tự do thông qua việc dỡ bỏ nhiều con đập, đáng chú ý nhất là trên sông Loire và sông Allier hồi những năm 1990, cũng như trên sông Sélune vào năm 2020.
Để các dòng sông chảy tự do
1,192
14h chiều 21/5 (giờ Nhật Bản) Hội nghị thượng đỉnh G7 tại Hiroshima, Nhật Bản đã bế mạc sau phiên thảo luận cuối với chủ đề Hướng tới một thế giới hòa bình, ổn định và phồn vinh. Sau bế mạc, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã chủ trì cuộc họp báo, thông báo kết quả của Hội nghị. Trong phiên thảo luận cuối với chủ đề Hướng tới một thế giới hòa bình, ổn định và phồn vinh, Tổng thống Ukraine Zelensky đã phát biểu và mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ trong bối cảnh nước này đang bị ảnh hưởng do cuộc xung đột với Nga. Thủ tướng Kishida Fumio họp báo công bố kết quả của hội nghị. Lãnh đạo các nước G7 cam kết sẽ xem xét việc tiếp tục hỗ trợ tài chính và quân sự đối với Ukraine. Đây cũng là thông tin được dư luận trong và ngoài Nhật Bản hết sức chú ý, nhất là giới truyền thông các nước tham dự Hội nghị G7. Phát biểu trong buổi họp báo thông báo kết quả Hội nghị, Thủ tướng Kishida Fumio đã nhấn mạnh đặc biệt tới ý nghĩa quan trọng của các vấn đề mà các nhà lãnh đạo G7 đã thống nhất, vai trò chủ đạo của G7 trong các vấn đề quốc tế. Trước đó, Hội nghị đã đưa ra Tuyên bố chung nhấn mạnh đến lập trường của các nước là tăng cường trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, tiếp tục viện trợ cho Ukraine, nỗ lực thực hiện thế giới không vũ khí hạt nhân. Các hoạt động diễn ra tương đối bình thường trong dịp hội nghị diễn ra. Liên quan đến xung đột Nga-Ukraine, Tuyên bố nêu rõ tiếp tục thực hiện các biện pháp trừng phạt Nga, tiếp tục viện trợ cho Ukraine. Liên quan đến Trung Quốc, Tuyên bố bày tỏ sự lo ngại sâu sắc đối với tình hình của khu vực Biển Đông và Hoa Đông, phản đối mạnh mẽ hành vi đơn phương thay đổi hiện trạng nói chung bằng bạo lực và uy hiếp, đồng thời xác nhận tầm quan trọng của hòa bình và ổn định tại eo biển Đài Loan. Trong nội dung về cấm sử dụng vũ khí hạt nhân, tuyên bố nhấn mạnh những nỗ lực của các bên nhằm thực hiện một thế giới không hạt nhân. Liên quan đến kinh tế thế giới, các nhà lãnh đạo G7 thống nhất tập trung chú ý tới sự biến đổi của nền tài chính thế giới, đưa ra biện pháp thích hợp để duy trì ổn định hệ thống tài chính. An ninh kinh tế được nhấn mạnh nổi bật trong tuyên bố. Trong bối cảnh xu hướng một số nước sử dụng đe dọa kinh tế gây ảnh hưởng tới quyết định chính sách kinh tế của các nước khác thông qua nhiều hình thức bao gồm cấm nhập khẩu đang gia tăng, nỗ lực nhằm thúc đẩy hợp tác trong các thành viên G7 nhằm đối phó với xu hướng trên là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, nguy cơ lương thực và chính sách cụ thể hỗ trợ các nước đang phát triển và mới nổi, “tiến trình AI Hiroshima”…cũng đã được lãnh đạo G7 đặc biệt quan tâm. Tại Hiroshima, các biện pháp hạn chế liên quan đến giao thông, dịch vụ…vẫn được duy trì và sẽ được dỡ bỏ vào ngày mai. Theo ghi nhận của phóng viên thường trú tại Nhật Bản thì trong 3 ngày diễn ra Hội nghị, an ninh đã được đảm bảo tuyệt đối, sinh hoạt của người dân và khách du lịch quốc tế không quá bị ảnh hưởng mà chỉ bị ảnh hưởng vào những khung giờ qui định. Tuy nhiên, khu vực Công viên Hòa bình và khu vực nơi diễn ra hội nghị bị cấm hoàn toàn do các hoạt động thường xuyên xảy ra tại đây. Người dân Hiroshima cho rằng, họ đã rất tự hào khi hội nghị được tổ chức tại đây và hy vọng khách quốc tế hài lòng về sự đón tiếp của người dân Nhật Bản./.
Hội nghị G7 bế mạc với chủ đề Hướng tới một thế giới hòa bình, ổn định và phồn vinh
691
Trong thời gian tham dự Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) mở rộng và làm việc tại Hiroshima, Nhật Bản, ngày 21/5, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio. Thủ tướng Phạm Minh Chính hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida. Ảnh: Dương Giang/TTXVN. Đây là cuộc hội đàm cấp cao Việt Nam – Nhật Bản đầu tiên diễn ra tại Hiroshima, quê hương của Thủ tướng Kishida và là hội đàm thứ 5 của Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Kishida trong hơn một năm. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chúc mừng Thủ tướng Kishida và nước chủ nhà Nhật Bản đã tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh G7 và G7 mở rộng; đánh giá cao vai trò điều phối của Nhật Bản để đạt thống nhất trong việc giải quyết các thách thức mang tính chất toàn cầu như an ninh lương thực, giảm phát thải… Thủ tướng Kishida bày tỏ vui mừng gặp lại Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và hoan nghênh sự tham gia, đóng góp tích cực và hiệu quả của đoàn Việt Nam, góp phần vào thành công của Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng; khẳng định Việt Nam có vị thế quan trọng hàng đầu trong việc triển khai chính sách đối ngoại của Nhật Bản tại khu vực. Trong bầu không khí hữu nghị, thân tình và tin cậy, hai nhà lãnh đạo bày tỏ hài lòng về sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện, thực chất của quan hệ hai nước trong thời qua; nhất trí về phương hướng lớn và các biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam – Nhật Bản vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á lên tầm cao mới. Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn Việt Nam hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida. Ảnh: Dương Giang/TTXVN. Hai Thủ tướng nhất trí tăng cường sự tin cậy chính trị thông qua thúc đẩy các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao trong năm 2023 – năm kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản. Thủ tướng Phạm Minh Chính chuyển lời mời thăm Việt Nam của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam tới Nhà Vua và Hoàng hậu Nhật Bản. Hai bên nhất trí thúc đẩy hợp tác quốc phòng-an ninh trong các lĩnh vực khắc phục hậu quả chiến tranh, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ quốc phòng, an ninh mạng; thúc đẩy trao đổi về các nội dung Nhật Bản hỗ trợ Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; khẳng định tăng cường liên kết hai nền kinh tế thông qua đẩy mạnh hợp tác đầu tư, thương mại. Hai nhà lãnh đạo đánh giá cao việc hai bên hoàn thành thủ tục cam kết vốn chương trình viện trợ phát triển chính thức (ODA) thế hệ mới cho phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19 với quy mô 50 tỷ yen và nhất trí sẽ giao các bộ, ngành phụ trách trao đổi về khả năng Nhật Bản cung cấp ODA thế hệ mới với tính ưu đãi cao, thủ tục đơn giản, linh hoạt cho các dự án phát triển hạ tầng chiến lược quy mô lớn của Việt Nam như đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, xây dựng đường sắt đô thị, chống biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và y tế; khẳng định sẽ chỉ đạo các bộ, ngành hai nước thúc đẩy tiến độ một số dự án hợp tác ODA như Bệnh viện Chợ Rẫy 2, dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị số 1 Bến Thành-Suối Tiên. Về dự án Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị doanh nghiệp hai nước tích cực trao đổi trên tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, tháo gỡ các khó khăn của dự án. Thủ tướng Phạm Minh Chính hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida. Ảnh: Dương Giang/TTXVN. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị hai bên phối hợp thúc đẩy làn sóng đầu tư mới của Nhật Bản vào Việt Nam trong các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi năng lượng, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh cho Việt Nam để tham gia sâu, rộng hơn vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp Nhật Bản và chuỗi cung ứng toàn cầu; đề nghị Nhật Bản khuyến khích nhà đầu tư chiến lược trong lĩnh vực năng lượng sạch, năng lượng tái tạo của Việt Nam; hỗ trợ Việt Nam gia tăng chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp thông qua chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực trong lĩnh vực phân phối, chế biến; thúc đẩy thủ tục và phối hợp thời điểm sớm công bố quả nho Nhật Bản vào Việt Nam và quả bưởi da xanh Việt Nam vào Nhật Bản. Thủ tướng Chính phủ cũng đề nghị Chính phủ Nhật Bản tạo điều kiện thuận lợi, đơn giản hóa thủ tục trong cấp thị thực tiến đến miễn thị thực nhập cảnh cho công dân Việt Nam để thúc đẩy hợp tác du lịch giữa hai nước; sớm triển khai hình thức du lịch học tập, quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng gần 500.000 người Việt Nam sinh sống, học tập, làm việc thuận lợi tại Nhật Bản, trở thành cầu nối trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Hai bên khẳng định phối hợp lập trường trong các vấn đề cùng quan tâm trên các diễn đàn đa phương, khu vực như ASEAN, Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC)… Thủ tướng Kishida mời Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm lại Nhật Bản và dự Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN-Nhật Bản vào tháng 12/2023. Về vấn đề Biển Đông, hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải, hàng không, giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982; thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sớm hoàn tất Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) hiệu quả, thực chất. Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida chứng kiến trao đổi văn kiện ký kết các văn bản hợp tác ODA thế hệ mới giữa Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phước và Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản. Ảnh: Dương Giang/TTXVN. Trước hội đàm, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Kishida Fumio đã chứng kiến trao đổi văn bản ký kết 3 dự án hợp tác ODA với tổng trị giá 61 tỷ yen (khoảng 500 triệu USD) gồm: Chương trình hỗ trợ ngân sách ODA thế hệ mới cho phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội hậu COVID-19, dự án cải thiện hạ tầng giao thông công cộng tại tỉnh Bình Dương, dự án cải thiện hạ tầng phát triển nông nghiệp tại tỉnh Lâm Đồng. Đây là hoạt động cuối cùng của Thủ tướng Phạm Minh Chính trong chuyến công tác tham dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng và làm việc tại Nhật Bản. Chiều tối cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam lên đường về nước, kết thúc tốt đẹp chuyến công tác.
Thủ tướng Phạm Minh Chính hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio
1,322
Khai mạc Hội nghị Quảng bá Văn học Việt Nam lần thứ III (Tháng 3/2015). Ảnh: Phan Giang. Trong thời đại hội nhập toàn cầu về mọi mặt như hiện nay, thì bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia trên thế giới luôn góp một phần quan trọng trong việc khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, từng bước kiến tạo nên một “thế giới phẳng”. Trong bối cảnh chung đó, việc hợp tác, giao lưu, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài là hết sức quan trọng, có ý nghĩa rất thiết thực, giúp cho độc giả quốc tế có nhiều cơ hội làm quen, tiếp xúc và thấu hiểu về văn hóa và con người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Văn học là một bộ phận của ngoại giao văn hóa, là tiếng nói tâm hồn, là cầu nối văn hóa để các quốc gia trên thế giới sống hòa bình, hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau, gắn kết mọi lương tâm, đẩy lùi mọi hiểm họa, bắt đầu từ con người, vì con người… Bởi vậy, việc dịch và giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài là một phần rất quan trọng trong những hoạt động mang tầm chiến lược ngoại giao đa diện đặc biệt, tạo nên một luồng sinh khí mới, không chỉ vì lợi ích riêng của Việt Nam mà còn đáp ứng được nguyện vọng của độc giả quốc tế trong việc tìm hiểu văn học Việt Nam một cách nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Những năm gần đây, được sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, Hội Nhà văn Việt Nam… việc dịch và giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài đã có nhiều hoạt động tích cực cả bề rộng lẫn chiều sâu, đem lại nhiều tín hiệu khởi sắc, có những bước tiến dài. Hội nghị Quảng bá văn học Việt Nam, Liên hoan thơ quốc tế, Hội thảo quốc tế Việt Nam – Liên Bang Nga: giao lưu, đối thoại văn học và văn hóa, Hội thảo Văn học Việt – Mỹ v.v… được tổ chức là những “điểm sáng” về quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài, đã mở ra một con đường hội nhập văn học Việt Nam với văn chương thế giới ngày càng nhiều hơn, rộng rãi hơn. Các hoạt động trên đây đã góp phần khắc phục, lấy lại sự hài hòa tình trạng “nhập siêu” văn hóa, văn học của Việt Nam. Hội Nhà văn Việt Nam, các đơn vị xuất bản liên kết với đại diện các hiệp hội văn học của các quốc gia để dịch và giới thiệu các tác phẩm có giá trị của nền văn học Việt Nam từ cổ điển đến đương đại, hầu mong hiện diện, đến gần hơn với bạn đọc trên toàn thế giới như thơ văn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… cùng các tác phẩm của nhiều nhà văn Việt Nam đương đại. Trong đó, nhiều tác giả và tác phẩm cũng đã nhận được các giải thưởng quốc tế như: Thơ Mai Văn Phấn được giải thưởng Văn học Cikada của Thụy Điển năm 2017; tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được dịch sang tiếng Hàn giành giải thưởng Văn học châu Á lần thứ hai được tổ chức tại Gwangju (Hàn Quốc) năm 2018; Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư được dịch sang tiếng Đức, giành giải thưởng Literaturpreis năm 2018 do Litprom, Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi và Mỹ Latin ở Frankfurt; nhà thơ Nguyễn Quang Thiều được trao giải thưởng văn học Changwon KC international Literary (Hàn Quốc) năm 2018 nhằm ghi nhận những đóng góp của tác giả với văn chương quốc tế v.v… Không chỉ bạn đọc quốc tế, mà những người gốc Việt trên thế giới cũng được đọc tác phẩm văn học Việt Nam để hiểu biết thêm về đất Tổ của mình. Đó không chỉ là văn hóa, là các giá trị nghệ thuật mà còn là sự sẻ chia những câu chuyện ân nghĩa cuộc đời của người dân sống trong nước. Cùng với các hoạt động dịch thuật, xuất bản và giới thiệu – quảng bá văn học, hàng năm Hội Nhà văn Việt Nam, Viện Văn học và nhiều tổ chức văn hóa cũng đã tổ chức, gặp mặt, trao đổi giữa các phái đoàn thăm và viết về đất nước, con người của nhau. Điển hình như phái đoàn cựu chiến binh Mỹ đã từng tham chiến tại Việt Nam đã nhiều lần sang giao lưu theo chương trình làm việc của Trung tâm William Joiner đã và đang thực hiện rất có hiệu quả, phục vụ nhu cầu của công chúng Mỹ trong việc tìm hiểu văn hóa và con người Việt Nam qua tác phẩm văn học, đem đến niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn về mối quan hệ hữu nghị, hợp tác vững bền giữa hai nước Việt – Mỹ. Việc dịch và giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài trong thời gian qua đã “ra khơi”, có những tín hiệu, những tiến bộ, tiến triển tích cực, đạt được những thành tựu nhất định, phù hợp với xu thế, với con đường quảng bá văn học của các nước trên thế giới. Nhà thơ Hữu Thỉnh – nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã từng khẳng định: “Ngày nay, văn học Việt Nam từng ngày đổi mới để phản ánh sâu sắc hiện thực đất nước và khám phá chiều sâu của con người Việt Nam hiện đại đang đồng hành với nhân loại trong một thế giới phẳng. Đồng thời vẫn gắn bó bền chặt với những giá trị nguồn cội của dân tộc, làm nên tính đặc thù, những giá trị bổ sung làm giàu cho thơ ca thế giới”. Tuy nhiên, nhìn tổng thể việc dịch và giới thiệu, quảng bá Văn học Việt Nam ra nước ngoài hiện nay vẫn còn rất ít ỏi, rất khiêm tốn, chưa thật sự tương xứng với những giá trị của nền văn học Việt Nam do công tác quảng bá chưa được thực hiện một cách bài bản, không có tính hệ thống, chủ yếu vẫn thông qua con đường tiểu ngạch, lẻ tẻ, bằng các mối quan hệ cá nhân, chưa phải là những hoạt động mang tính Nhà nước, thiếu sự chủ động, thiếu một chiến lược, chiến dịch truyền bá xứng tầm, xuất sắc. Để các dân tộc, quốc gia trên thế giới có một cái nhìn toàn diện, đúng đắn, sâu sắc hơn về diện mạo của văn học Việt Nam, về văn hóa và con người Việt Nam thì việc dịch và giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài rất cần một cơ chế, một lộ trình, một chính sách, chiến lược cụ thể lâu dài, một giải pháp hữu hiệu, một kế hoạch tổng thể, rõ rệt và dài hạn. Cụ thể như: Dịch và giới thiệu, quảng bá Văn học Việt Nam ra nước ngoài cần được làm theo con đường ngoại giao chính thống, nằm trong những dự án giao lưu văn hóa cấp quốc gia, bởi nếu tập trung vào các hoạt động dịch thuật qua con đường ngoại giao, văn hóa thì mới xác lập được gương mặt của nền văn học Việt Nam trên bản đồ của văn học thế giới; Có những chính sách để tôn vinh văn học và quảng bá những giá trị văn học Việt Nam ra với thế giới thông qua tổ chức các Hội chợ sách quốc tế; tổ chức Đại hội dành cho các dịch giả trong nước và quy tụ những dịch giả đã dịch văn học Việt Nam trên toàn thế giới về dự và giới thiệu những tác phẩm văn học tiêu biểu; tạo điều kiện để các nhà văn đang sống ở nước ngoài hướng về quê hương, Tổ quốc, góp phần xây dựng nền văn học nước nhà… Thực tế cũng cho thấy cần thiết phải thành lập một đơn vị chuyên môn để các dịch giả nước ngoài có điều kiện thâm nhập môi trường, cảnh quan văn hóa Việt Nam. Đồng thời các ngành chức năng và hội nghề nghiệp cần chủ động tham các giải thưởng quốc tế như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, hoạt động của Hội Nhà văn Á – Phi – Mỹ Latinh v.v… Hoạt động dịch và giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam cần phải trở thành một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và được triển khai trên cơ sở chiến lược quốc gia về quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra với thế giới chứ không thể coi đó là trách nhiệm riêng của Hội Nhà văn Việt Nam. Vì vậy, cần một chiến lược dài hơi của nhiều cơ quan, ban ngành có liên quan phối hợp; đồng thời huy động các nguồn kinh phí xã hội hóa từ các tập thể, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các mạnh thường quân… Trong đó, Hội Nhà văn Việt Nam là cơ quan chủ lực, chủ trì, hợp tác, huy động, kết nối giữa các tổ chức, cá nhân. Cùng đó phải quan tâm đến thị hiếu bạn đọc ở các quốc gia khác nhau, chú trọng đến việc tuyên truyền, quảng bá những tác phẩm văn học Việt Nam có giá trị đích thực, cung cấp thông tin, kiến thức về văn học Việt Nam ra nước ngoài một cách hiệu quả bằng các hình thức tương tác, giao lưu sinh động,… Con đường ngắn nhất để dân tộc Việt Nam quảng bá về hình ảnh của đất nước và con người, đồng thời kết nối giữa các dân tộc, quốc gia với nhau chính là con đường văn hóa, văn học nghệ thuật. Sẽ là kỳ vọng cho những quyết định có tính đột phá, một chiến lược xứng tầm để nhằm kiến tạo, thúc đẩy văn hóa, văn học Việt Nam phát triển, hội nhập sâu rộng, trở thành như một phần của văn hóa, văn chương thế giới, thật sự xứng tầm với một dân tộc đã trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử, góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ giá trị chung về bức tranh văn hóa, văn học rộng lớn chung của nhân loại.
Con đường ngắn nhất chính là con đường văn hóa… – Tác giả: Bùi Như Hải
1,768
Triển lãm áp phích ‘Petőfi: Vòng quanh thế giới’, sẽ diễn ra từ ngày 29.5 – 5.6, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, giới thiệu 19 áp phích phác họa cuộc đời và nhiều đóng góp của Sándor Petőfi – nhà thơ, nhà cách mạng vĩ đại của Hungary. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Quyết định số 1264/QĐ-BVHTTDL về việc tổ chức triển lãm áp phích “Petőfi: Vòng quanh thế giới”, cho phép Thư viện Quốc gia Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Hungary tại Việt Nam tổ chức triển lãm từ ngày 29.5 – 5.6. Triển lãm chỉ được tổ chức khi đã có Giấy phép của Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm. Triển lãm tôn vinh di sản của nhà thơ, nhà cách mạng Sándor Petőfi – Ảnh: ITN Triển lãm sẽ giới thiệu 19 áp phích in màu khổ lớn gồm 15 bản bằng tiếng Việt và 4 bản có nội dung lặp lại bằng tiếng Anh, phác họa cuộc đời và nhiều đóng góp của Sándor Petőfi – nhà thơ, nhà cách mạng vĩ đại của Hungary . Sự kiện diễn ra nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông (1823 – 2023). Di sản thơ ca mà Sándor Petőfi để lại cho hậu thế với 800 bài thơ, 3 trường ca, 2 truyện thơ. Ông được coi là nhà thơ đầu tiên của Hungary được thế giới biết đến và là đại diện có ảnh hưởng nhất của chủ nghĩa lãng mạn Hungary. Không những thế, ông đã gắn bó cuộc đời mình với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân Hungary. Triển lãm sẽ giúp công chúng, bạn đọc Thư viện Quốc gia Việt Nam và những người yêu thích văn học có cơ hội tìm hiểu thêm về một trong những biểu tượng thi ca lãng mạn của đất nước Hungary, cùng với đó là những đóng góp của ông cho cách mạng Hungary thế kỷ XIX.
Giới thiệu di sản của nhà thơ Hungary Sándor Petőfi tại Hà Nội
334
Tiểu thuyết mới nhất dài 1200 trang của Murakami. Tuy có số lượng đáng kể những tiểu thuyết/ truyện ngắn từng được chuyển thể thành phim, thế nhưng không nhiều đạo diễn đã gợi lên được những điều phi lí thú vị trong các tác phẩm văn chương của Murakami . Đối với người hâm mộ Haruki Murakami, tháng trước có 2 sự kiện tương đối quan trọng. Một là tiểu thuyết mới nhất Machi to Sono Futashika na Kabe (tạm dịch: Thành phố và những bức tường mơ hồ ) vừa được xuất bản ở Nhật. Và hai là việc ra mắt bộ phim đồ họa Saules Aveugles, Femme Endormie (tạm dịch: Cây liễu mù, Người đàn bà ngủ trong rừng ) ở Hoa Kì. Trong đoạn trailer của tác phẩm này, ta có thể thấy những điểm rất Murakami được tái hiện lại: những con mèo thấp thoáng, các cảnh quay quấn quít, cảnh quan đô thị dày đặc, một người vợ vắng mặt hay là… một con ếch hình người biết nói. Sinh vật “kì lạ” nói trên đã từng xuất hiện trong truyện ngắn Siêu ếch cứu Tokyo , và do đạo diễn Pierre Földes cầm trịch, người sinh ra ở Mĩ với cha mẹ là người Hungary/Anh nhưng lớn lên ở Paris, và có thể thấy là không có mối liên hệ rõ ràng nào với Nhật Bản – quê hương của Murakami. Vì vậy có thể nói rằng Földes có nhiều khả năng được truyền cảm hứng chỉ từ tác phẩm của nam nhà văn. Do vậy không quá khó hiểu khi trong quá trình chuyển thể, ông đã thêm vào nhiều yếu tố mới, từ đó làm thành những chuỗi tình tiết luôn luôn phức tạp và đầy kì quặc trong các tiểu thuyết của Murakami. Murakami thật ra đã đưa chính sự phi lí đó vào tác phẩm của mình ngay từ ban đầu. Vào những năm cuối ở tuổi đôi mươi, khi đang điều hành một quán bar nhạc jazz ở Tokyo, ông đã quyết định trở thành một tiểu thuyết gia. Chán nản vì thứ mình viết thật là buồn tẻ, trong vài tháng đầu, ông đã thử nghiệm viết bằng tiếng Anh và sau đó “dịch” nó lần nữa lại sang tiếng Nhật. Và “kết quả là thứ văn xuôi thô kệch” như ông viết trong hồi kí về nghề viết của mình. Tuy vậy ông cũng nói thêm “khi tôi cố gắng thể hiện bản thân theo cung cách đó, thì một nhịp điệu bắt đầu hình thành.” Kết quả là cuốn tiểu thuyết đầu tay làm nên sự nghiệp Lắng nghe gió hát đã được xuất bản tại Nhật vào năm 1979, và 2 năm sau, là bản chuyển thể điện ảnh vào năm 1981. Khi đạo diễn của bộ phim đó, Kazuki Ōmori, gặp nhiều khó khăn trong việc chuyển thể, ông cũng làm giống Murakami là chuyển ngữ nó. Bởi lẽ “không thể để các diễn viên đọc thuộc lòng các câu thoại trong tiểu thuyết gốc, vì không người Nhật nào nói chuyện với nhau giống như các nhân vật ấy”. Đối thoại của Murakami khiến Kazuki có cảm giác như đang đọc phụ đề tiếng Nhật bên dưới một phim phương Tây, và từ các chương sách ngắn, rời rạc, Kazuki cuối cùng cũng đã làm nên một tác phẩm có tính liên kết, tuy vậy đáng buồn là nó không được thành công về mặt doanh thu. Sau Ōmori, Murakami cũng đã đồng ý cho chuyển thể thêm các truyện ngắn khác. Vào năm 1982 và 1983, nhà làm phim trẻ Naoto Yamakawa đã biến The Second Bakery Attack và On See the 100% Perfect Girl One Beautiful April Morning thành hai phim ngắn hấp dẫn. Và giống với phim trước đó, cả hai không quá khác biệt so với bản gốc. 20 năm sau, khi Jun Ichikawa chuyển thể truyện ngắn Tony Takitani vào năm 2004, ông cũng gần như tôn kính một cách cực đoan đối với văn bản của tiểu thuyết gia. Năm 2008, đạo diễn người Canada gốc Thụy Điển – Robert Logevall cũng đã trở thành người tiếp theo biến tác phẩm ngắn All God’s Children Can Dance thành phim cùng tên. Đây là bộ phim không phải tiếng Nhật đầu tiên dựa trên tác phẩm của Murakami, và khi lời thoại của tiểu thuyết gia nghe có vẻ không được tự nhiên khi được các diễn viên Nhật Bản đảm nhận, thì giờ đây nó được cải thiện khi do ai không phải người Nhật đóng chính. All God’s Children Can Dance để lại ấn tượng với sự pha trộn giữa buồn tẻ và mơ mộng, mặc dù cũng có tương đối hạn chế trong nguồn lực dành cho những phim độc lập. Vài sự vụng về có thể vẫn được tha thứ vì lí do đó, nhưng Rừng Na Uy – chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên năm 2010 đã đưa Murakami trở thành một siêu sao văn học – lại không thể nào có thể bào chữa. Là một tác phẩm hoài cổ có phần tinh tế và có tính thẩm mĩ cao, bộ phim của Trần Anh Hùng đã tái tạo lại Nhật Bản vào cuối những năm 1960 đầy sôi động. Tuy nhiên với một người xem chưa đọc Rừng Na Uy, thì hô sẽ thấy bộ phim hầu như không thể hiểu nổi. Trong tác phẩm này, hiệu ứng sâu cay của tiểu thuyết gốc đã được tái hiện một cách nghiêm túc, do đó nó không tạo ra điều gì khác biệt đối với những ai yêu thích Murakami. Liệu đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng (một nhà làm phim “song tịch” khác có khuynh hướng Murakami) có phải là ứng cử viên sáng giá nhất để chuyển thể Rừng Na Uy không vẫn còn là một vấn đề cần phải tranh luận, thế nhưng ít nhất ông đã cho thấy được lượng độc giả hùng hậu của Murakami ở cả châu Âu cũng như châu Á. Và từ trường hợp kể trên, có thể nói rằng Murakami cũng đã thu hút được lượng lớn những người theo dõi đặc biệt nồng nhiệt ở Hàn Quốc . Nơi đây cũng từng sản xuất Burning , một phim ra mắt vào năm 2018, do một trong những đạo diễn được giới phê bình đánh giá cao là Lee Chang-dong thực hiện. Có thể thấy rằng ở bản chuyển thể, Burning cung cấp cho các nhân vật một danh tính rõ ràng hơn và đã được Hàn Quốc hóa, và cũng là lần đầu tiên đánh dấu việc một nhà làm phim nỗ lực đổi mới cách thức tiếp cận với kịch bản gốc từ Murakami, khi không còn bám một cách sát sao với bản gốc. Và nếu một tác phẩm văn học khi sử dụng nhiều loại ngôn ngữ thì có nguy cơ khiến độc giả “bỏ chạy”, thì một tác phẩm điện ảnh không cần như thế, bởi nó luôn có phụ đề. Drive My Car của Ryuusuke Hamaguchi, tác phẩm giành giải Oscar cho phim nước ngoài xuất sắc nhất vào năm 2022, là một trong những bộ phim hiếm hoi mà không một ai có thể xem nó trọn vẹn nếu không có phần phụ đề. Đây là bộ phim chuyển thể vô cùng tham vọng 2 truyện ngắn của Murakami trong tập Những người đàn ông không có đàn bà , cũng như một phần vở kịch Cậu Vanya của Chekov. Khoan bàn về 2 tác phẩm của Murakami, thì dù Cậu Vanya chỉ được ông nhắc thoáng qua trong sách của mình, thì giờ trong phim chuyển thể đã chiếm một vị trị thật quan trọng hơn, khi trở thành một sự hợp tác quốc tế với việc tham gia của các diễn viên từ khắp Đông Á – Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… cũng như khiếm thính. Mặc dù không phải là một “phát minh” của Murakami, nhưng vở kịch Cậu Vanya “đa ngôn ngữ” vẫn mang cảm giác hỗn loạn như một đặc trưng của nam tác giả. Đặt mình trên con đường trở thành tiểu thuyết gia Nhật Bản thành công nhất còn sống bằng cách viết văn bằng tiếng Anh thường xuyên, Murakami hiểu được giá trị của việc vượt qua không chỉ ranh giới văn hóa, mà còn là cả ngôn ngữ. Sách của ông hiện đã được xuất bản bằng 50 thứ tiếng, điều này cho thấy sức hấp dẫn trong cách viết của ông không hề phụ thuộc vào các loại hình ngôn ngữ khác nhau. Do đó những sự “tôn kính” như đã nói trên, đã ngăn không cho tiểu thuyết của Murakami được chuyển thể một cách thành công sang ngôn ngữ điện ảnh mà về cơ bản là phi ngôn ngữ. Mặc dù tất cả những bộ phim này đều mang lại điều gì đó thú vị cho người hâm mộ, tuy vậy lại có rất ít đạo diễn đạt được đến sự tồn tại hoàn toàn độc lập với văn bản gốc. Dù vậy những phim gần đây và đặc biệt là Burning và Drive My Car đã chứng minh rằng, ít nhất là dưới bàn tay của những đạo diễn phù hợp, thì các chủ đề đặc biệt của Murakami có thể vẫn được kết hợp và được nhào nặn thành một hình thức điện ảnh mạch lạc, thậm chí là còn mạnh mẽ. Liễu mù, Người đàn bà ngủ trong rừng ra mắt mới đây cũng có cơ hội chứng minh điều này, cũng như củng cố một lí thuyết khác rằng truyện ngắn thì dễ chuyển thể hơn là tiểu thuyết. Do đó công việc chuyển thể thành TV series Thành phố và những bức tường mơ hồ được cho là dài 1.200 trang trong thời gian tới là hoàn toàn có thể. Việc ta cần làm chỉ là chờ đợi, và thưởng thức nó. LINH TRANG lược dịch từ bài viết của Colin Marshall trên The New Yorker
Murakami trên màn ảnh rộng – LINH TRANG lược dịch
1,625
Hai đồng xu bạc được đúc vào thời Đế chế La Mã đã được tìm thấy trên một hòn đảo xa xôi và không có người ở ở biển Baltic. Các nhà khảo cổ không biết làm thế nào chúng có thể đến đó được. Hai đồng xu La Mã bằng đồng và bạc. Đồng xu bên trái là đồng denarius bằng bạc được đúc dưới triều đại của Antonius Pius, từ năm 138 đến năm 161 sau Công nguyên. Chỉ có thể nhìn thấy đầu của hoàng đế và một số ký tự Latinh. Đồng xu bên phải là đồng denarius bằng bạc được đúc dưới triều đại của Trajan, từ năm 98 đến năm 117 sau Công nguyên. Nó cho thấy đầu của hoàng đế và một phần của dòng chữ Latinh. Các nhà khảo cổ bối rối nhưng phấn khích trước việc phát hiện ra hai đồng xu bạc từ thời Đế chế La Mã trên một hòn đảo xa xôi ở Biển Baltic, nằm giữa Thụy Điển và Estonia . Không có manh mối nào tiết lộ làm thế nào mà những đồng tiền này đến được đó, nhưng chúng có thể đã được các thương nhân Bắc Âu để lại, bị mất trong một vụ đắm tàu hoặc được mang đến đó trên một con tàu La Mã đi về phía bắc xa xôi. Johan Rönnby, nhà khảo cổ học tại Đại học Södertörn ở Stockholm, Thụy Điển là thành viên của nhóm tìm thấy những đồng tiền xu bằng máy dò kim loại vào tháng 3, tại một bãi biển được đánh dấu bằng những lò sưởi cũ trên đảo Gotska Sandön. Hai đồng bạc được tìm thấy trên đảo đều là “denarii” của La Mã – một chiếc từ triều đại của hoàng đế Trajan, từ năm 98 đến 117 sau Công nguyên, và chiếc còn lại từ triều đại của hoàng đế Antoninus Pius, từ năm 138 đến 161 sau Công nguyên. Mỗi đồng xu nặng chưa đến 4 gam và có giá trị bằng khoảng một ngày lương cho một người lao động khi chúng được đúc. Denarii là đồng xu tiêu chuẩn của La Mã cổ đại, và tên của chúng vẫn tồn tại cho đến ngày nay trong từ “tiền” trong một số ngôn ngữ dựa trên tiếng Latinh, chẳng hạn như “denaro” trong tiếng Ý và “dinero” trong tiếng Tây Ban Nha. Rönnby cho biết, những đồng xu từ Đế chế La Mã có thể đã được lưu hành trong một thời gian dài, bởi vì bạc bên trong chúng luôn có giá trị. Chúng có thể đã được đưa đến Gotska Sandön bởi các thương nhân Bắc Âu, những người đã trú ẩn ở đó để tránh những cơn bão biển. Thế nhưng, cũng có thể chúng được những người sống sót sau vụ đắm tàu mang đến đó, mặc dù vùng biển xung quanh hòn đảo nổi tiếng nguy hiểm và khu vực này tràn ngập xác tàu. Một khả năng khác là những đồng xu đã được người La Mã đưa đến Gotska Sandön trên một con tàu La Mã, mặc dù không có ghi chép nào về chuyến đi như vậy đến Baltic. Gotska Sandön, hay “Đảo Cát”, là một trong những hòn đảo xa xôi nhất ở Biển Baltic. Đồng xu La Mã cũng đã được tìm thấy trên hòn đảo lớn hơn Gotland khoảng 40 km về phía nam, nhưng điều đó có lẽ đã được dự đoán trước vì đây là vị trí của một số thị trấn. Tuy nhiên, Gotska Sandön không có thị trấn hay làng mạc. Gotska Sandön – có nghĩa là “Đảo Cát” – ngày nay không có người ở nhưng từng là nơi ở của những người canh giữ ngọn hải đăng vào thế kỷ 19. Trước đó, nó được biết đến là nơi xảy ra các vụ đắm tàu và là nơi ám ảnh của cướp biển. Nhà khảo cổ Daniel Langhammer, người giám sát di sản văn hóa trên Gotska Sandön cho Hạt Gotland, nói rằng phát hiện mới lặp lại tuyên bố của một người canh giữ ngọn hải đăng thế kỷ 19 rằng ông đã tìm thấy một đồng xu La Mã trên đảo. Nhưng bí ẩn về những đồng xu có thể không bao giờ được giải đáp. Ông nói, hòn đảo xa xôi này cũng từng là nơi lui tới của những người săn hải cẩu – việc săn hải cẩu hiện bị cấm, nhưng hải cẩu vẫn ở đó – và bởi những người đánh cá trong những tháng mùa hè. Rönnby và các đồng nghiệp của ông, bao gồm Sabine Sten, một nhà xương khớp tại Đại học Uppsala, sẽ quay lại địa điểm này vào cuối năm nay. Họ hy vọng sẽ tái tạo lại lịch sử của hòn đảo xa xôi.
Bí ẩn về những đồng xu La Mã được phát hiện trên hòn đảo xa xôi nhất ở biển Baltic
796
Hệ thống cầu bến tại Cảng Đà Nẵng. Ảnh: PV Từ quá khứ đến hiện tại, vịnh cảng vùng biển Đà Nẵng luôn có vị trí chiến lược, vị thế giao thương quan trọng. Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng xác định, xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành thành phố cảng biển, đô thị biển quốc tế với vị trí là hạt nhân của chuỗi đô thị và cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên. Thông tin tại buổi triễn lãm “Đà Nẵng nhìn từ biển qua Di sản tư liệu thế giới Châu bản triều Nguyễn” do Nhà Trưng bày Hoàng Sa, huyện đảo Hoàng Sa tổ chức cuối tháng 3 vừa qua, Giám đốc Sở Nội vụ, Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa Võ Ngọc Đồng cho biết, giữa thế kỷ XVI, Đà Nẵng là tiền cảng trung chuyển hàng hóa, sửa chữa tàu thuyền, đến thế kỉ XIX, đã trở thành thương cảng lớn nhất miền Trung. Đà Nẵng vừa là tâm điểm của những chuyến hàng hải vừa là nơi diễn ra quan hệ ngoại giao không chính thức giữa triều đình Huế (triều Nguyễn) với các nước phương Tây. Đồng thời, Đà Nẵng là nơi “hải cương trọng địa”, có cửa biển “tối vi xung yếu”, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong quân sự, quốc phòng. Với vị thế đó, Đà Nẵng có vai trò đặc biệt về kinh tế, quân sự, quốc phòng dưới triều Nguyễn. Dưới triều Nguyễn, vùng biển Đà Nẵng có vai trò đặc biệt quan trọng vì “có vùng biển lớn, vừa rộng vừa sâu có thể chứa được hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió”. Do đó, các thuyền vận tải công, thuyền tuần tra, thuyền đánh cá và thuyên buôn các nước thường vào cửa biển này trú ẩn khi qua hải phận gặp phải gió lớn. Bên cạnh đó, Đà Nẵng có vị trí cách kinh đô không xa nên rất thuận tiện cho việc vận chuyển, liên lạc, quản lý và kiểm soát của triều đình Huế. Vì vậy, vua Minh Mạng lệnh cho “phàm thương thuyền các nước Tây dương đến buôn bán chỉ được đậu ở cửa biển Đà Nẵng”. Cũng bởi có vị trí địa chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế và quốc phòng, nên từ thời nhà Nguyễn đã sớm cho xây dựng hệ thống phòng thủ ở vùng ven biển với các thành đài, đồn bảo kiên cố và trang bị vũ khí, súng pháo, đại bác để phòng bị. Theo Tiến sĩ Lê Tiến Công, Giám đốc Nhà Trưng bày Hoàng Sa, trong tranh cuộn (emaki) Nhật Bản, vẽ vào thời Edo (1603-1868), miêu tả cảnh thương thuyền Nhật Bản vượt biển đến buôn bán với xứ Đàng Trong (tranh Chaya Shinroku Kochi toko zukan). Hình vẽ trên tranh miêu tả hành trình của thương nhân Chaya Shinroku (Trà Ốc Tân Lục) từ Nhật Bản vượt biển đến Hội An; cảnh sinh hoạt tại phố người Nhật ở Hội An, cảnh phái đoàn của thương nhân Chaya Shinroku đến yết kiến tổng trấn Quảng Nam tại dinh trấn Thanh Chiêm, cảnh thuyền Chaya đi theo một dòng sông nhỏ tới một cửa biển lớn, rồi theo một dòng sông khác đi đến một dinh phủ có lũy tre bao bọc và dãy súng thần công bảo vệ. Bên ngoài dinh phủ là cảnh dòng sông, đồng ruộng và làng mạc trù phú; trên bờ sông có ba con voi với quản tượng trên lưng… Trong cuốn “Lược sử Đà Nẵng 700 năm” của nhà nghiên cứu Lê Duy Anh có ghi, Đà Nẵng nếu không có con vịnh, thì chẳng có gì là quan trọng. Vịnh Đà Nẵng đã tạo nên một vóc dáng giao lưu về hàng hải của cả miền Trung Việt Nam. Kể từ khi trở thành nơi hội tụ của cư dân, nhất là có sự lui tới của người nước ngoài vào hải cảng buôn bán, Đà Nẵng càng có vị thế thương mại lớn, cho đến đầu thế kỷ 19 thì Đà Nẵng chiếm lĩnh, thay thế vai trò của Hội An về thương mại. Theo ông Võ Ngọc Đồng, nhìn lại lịch sử, Đà Nẵng ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nước ta. Với việc công bố lần đầu gần 100 văn bản lưu hình dấu và bút tích vua phê tại triển lãm nêu trên là những sử liệu tín thực góp phần làm sáng tỏ vai trò, vị thế của vùng biển Đà Nẵng trong lịch sử. Chiến lược và các chính sách phát triển thành phố Đà Nẵng được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung – Tây Nguyên; có sự kết nối chặt chẽ với các cục tăng trưởng, các trung tâm phát triển, các thành phố lớn trong cả nước và khu vực Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương; dựa trên việc khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế, nhất là về tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng kinh tế biển, vị trí địa kinh tế và địa chiến lược quan trọng của thành phố Đà Nẵng trong vùng và cả nước. Nghị quyết số 43-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phần quan điểm, mục tiêu nêu: Phát triển thành phố Đà Nẵng theo hướng đô thị sinh thái, hiện đại, thông minh, mang tầm quốc tế và có bản sắc riêng; phát triển kinh tế nhanh và bền vững, coi việc nâng chất lượng cuộc sống của người dân đạt ở mức cao là nhiệm vụ trung tâm; tập trung phát triển 3 trụ cột chính: du lịch, công nghiệp công nghệ cao và kinh tế biển; bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển, đảo, trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế – xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á với vai trò là trung tâm về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, du lịch, thương mại, tài chính, logistics, công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghiệp hỗ trợ; là một trong những trung tâm văn hóa – thể thao, giáo dục – đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học – công nghệ phát triển của đất nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế; thành phố cảng biển, đô thị biển quốc tế với vị trí là hạt nhân của chuỗi đô thị và cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên… Lịch sử cảng Đà Nẵng thành lập từ năm 1901. Sự phát triển của cảng Đà Nẵng luôn gắn liền với sự phát triển của thành phố, góp phần chung vào công cuộc bảo vệ an ninh Tổ quốc, phát triển kinh tế-xã hội địa phương và miền Trung. Cảng Đà Nẵng hiện là một khâu quan trọng trong chuỗi dịch vụ logistics của khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Cảng Đà Nẵng cũng được chọn là điểm cuối cùng của tuyến Hành lang Kinh tế Đông Tây, nối liền 4 nước Myanmar, Thailand, Lào và Việt Nam, là cửa ngõ chính ra Biển Đông cho toàn khu vực. Với lịch sử hơn 120 năm hình thành và phát triển, cảng Đà Nẵng hiện là cảng biển container lớn nhất miền Trung hiện nay, sở hữu gần 1.700m cầu bến với khả năng tiếp nhận các tàu hàng tổng hợp lên đến 70.000 DWT, tàu container đến 4000 Teus và tàu khách đến 170.000 GRT, cùng với các thiết bị xếp dỡ và kho bãi hiện đại.
Vịnh cảng vùng biển Đà Nẵng – Vị thế giao thương quan trọng
1,355
Trái Đất thuở sơ khai đã sớm có hoạt động kiến tạo - Ảnh đồ họa từ SCITECH DAILY Bằng chứng về lần biến hình đầu tiên của Trái Đất vừa được tiết lộ, có thể dẫn đến những khám phá quan trọng về cách sự sống bắt đầu trên địa cầu cũng như các hành tinh khác. Trong nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Nature Communications, các nhà nghiên cứu từ Đại học Rochester ( Mỹ ) đã sử dụng các tinh thể zircon nhỏ bé để “mở khóa” thông tin về magma và hoạt động kiến tạo mảng ở Trái Đất sơ khai. Kiến tạo mảng – hoạt động địa chất quy mô lớn mà trong đó các mảnh vỏ của Trái Đất không ngừng chìm xuống, trồi lên, trượt lên nhau – cung cấp các nguyên tố quan trong tự bên trong sâu thẳm lên bề mặt Trái Đất, kiểm soát chu trình nước và carbon của hành tinh, giúp sự sống được ra đời và bảo tồn. Nó khiến bề mặt hành tinh liên tục thay đổi, với các lục địa được gom thành một rồi lại phân tách, các đại dương cũng vậy. Nó cũng để lại dấu vết thông qua cách các loại đá nóng chảy thành magma, trộn lẫn vào nhau. Thành phần hóa học của magma có thể kể ra lịch sử chi tiết của hoạt động kiến tạo. Chúng biến thành đá theo thời gian, và bên trong đó có các tinh thể nhỏ bé gọi là zircon. Các zircon lâu đời nhất mà họ phân tích cho thấy tuổi đời đáng kinh ngạc, từ 3,8 đến 4,2 tỉ năm. Điều này cho thấy Trái Đất bắt đầu có hoạt động kiến tjao lâu hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây. Vậy giả thuyết sự sống có thể ra đời từ hơn 4 tỉ năm trước từng được một số nhà khoa học Úc chỉ ra khi nghiên cứu các phiến đá cổ chứa vật liệu sinh học, là hoàn toàn có cơ sở. Cách mà Trái Đất bắt đầu kiến tạo mảng và phương pháp mà các nhà khoa học đang dùng để nắm bắt các sự kiện kiến tạo cổ xưa đó cũng là nền tảng để nhân loại có thể tìm kiếm điều tương tự ở một hành tinh khác: Nếu có bằng chứng về kiến tạo, có thể nó có sự sống. Ngoài ra, điều này cũng cho thấy một hành tinh hoàn toàn có thể sinh ra sự sống khi còn là một khối cầu non trẻ nóng rực. Nghiên cứu được thực hiện dưới sự tài trợ của Quỹ khoa học quốc gia Mỹ và NASA.
4,2 tỉ năm trước, Trái Đất ‘biến hình’: Thêm hy vọng tìm sinh vật ngoài hành tinh
441
Đa dạng sinh học là khái niệm mô tả tất cả các hình thái sự sống trên Trái Đất, trong đó bao gồm quá trình tiến hóa của mọi sinh vật, tập tính giúp các loài duy trì sự sống, cũng như sự tương tác giữa trong thế giới động – thực vật. Hàng nghìn con cò bay lượn trên Đầm Vân Long, Ninh Bình (Việt Nam). Ảnh: Minh Đức/TTXVN. Giáo sư David Macdonald (trường Đại học Oxford, Anh) khẳng định “không có đa dạng sinh học thì không có tương lai cho nhân loại”. Theo ông, tài nguyên đa dạng sinh học là trụ cột để nhân loại xây dựng các nền văn minh. Ví dụ, cá cung cấp 20% protein động vật cho khoảng 3 tỷ người; hơn 80% chế độ ăn uống của con người dựa trên thực vật; có tới 80% dân số ở các nước đang phát triển chăm sóc sức khỏe với thảo dược truyền thống… Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), Hành tinh Xanh đang đối mặt cuộc khủng hoảng đa dạng sinh học chưa từng có. Báo cáo Rủi ro toàn cầu năm 2023 của WEF xếp tình trạng mất đa dạng sinh học và sụp đổ hệ sinh thái là một trong những nguy cơ lớn nhất mà thế giới phải đương đầu trong 10 năm tới. Báo cáo nêu rõ: “Do hơn 50% sản lượng kinh tế của thế giới phụ thuộc thiên nhiên ở mức trung bình đến nhiều, nên sự sụp đổ của các hệ sinh thái sẽ gây ra hậu quả kinh tế-xã hội sâu rộng”. Dù ngày càng có nhiều người công nhận rằng đa dạng sinh học là tài sản toàn cầu, có giá trị rất lớn đối với các thế hệ tương lai, nhưng số lượng các loài động-thực vật vẫn đang tiếp tục suy giảm đáng kể. Một báo cáo khoa học đăng trên Capital Monitor hồi đầu tháng này cho thấy tốc độ tuyệt chủng của các loài động-thực vật trên Trái Đất hiện ở mức rất cao, gấp 1.000 lần so với trước thời kỳ con người xuất hiện. Mới chỉ có 5% số các loài sinh vật được Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) đánh giá và đưa vào Sách Đỏ, trong khi giới khoa học tin rằng vẫn còn hơn 25% số động vật có vú, 41% số động vật lưỡng cư và 13% số các loài chim đang bị đe dọa. Báo cáo Hành tinh sự sống (Living Planet Report) năm 2022 của Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) cho thấy quần thể động vật hoang dã đã suy giảm tới 69% chỉ trong 50 năm qua. Trong khi đó, các khoản đầu tư cho đa dạng sinh học ở thời điểm hiện tại chỉ chiếm 0,1% Tổng sản phẩm nội địa (GDP) toàn cầu. . Tháng 12 năm ngoái, Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước LHQ về đa dạng sinh học (COP 15) đã thông qua Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh – Montreal. Với sự nhất trí của gần 190 quốc gia, thỏa thuận mang tính bước ngoặt này đưa ra một loạt mục tiêu cần đạt được vào năm 2030, như: cắt giảm 50% lượng thực phẩm lãng phí trên toàn cầu; bảo tồn hiệu quả 30% diện tích đất và biển trên thế giới; phục hồi hiệu quả ít nhất 30% diện tích các hệ sinh thái bị suy thoái; chấm dứt nguy cơ tuyệt chủng của các loài vật nguy cấp do hành vi của con người; duy trì sự đa dạng của các nguồn gene… Thỏa thuận cũng bao gồm cam kết huy động ít nhất 200 tỷ USD mỗi năm từ nguồn công và tư để tài trợ cho thiên nhiên và giảm các khoản trợ cấp có hại cho thiên nhiên ít nhất 500 tỷ USD vào năm 2030. Trên cơ sở Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh – Montreal, LHQ chọn chủ đề Ngày Quốc tế về Đa dạng sinh học 22/5 năm nay là “Từ thỏa thuận đến hành động: Phục hồi đa dạng sinh học” nhằm kỳ tăng cường tinh thần xung kích và thúc đẩy những quyết tâm chính trị nhằm thực hiện các cam kết và mục tiêu về bảo tồn đa dạng sinh học. Trong thông điệp nhân Ngày Quốc tế về Đa dạng sinh học 2023, Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres kêu gọi: “Mỗi người hãy suy ngẫm về mối quan hệ của mình với hệ thống hỗ trợ sự sống của nhân loại. Từ không khí chúng ta hít thở, thực phẩm chúng ta ăn, cho đến năng lượng mà chúng ta sử dụng và các loại thuốc để chữa bệnh, cuộc sống của chúng ta hoàn toàn lệ thuộc và cần có hệ sinh thái lành mạnh. Tuy nhiên, hành động của chúng ta đang tàn phá mọi ngóc ngách của hành tinh. Một triệu loài có nguy cơ bị tuyệt chủng, đó là kết quả của sự suy thoái môi trường sống, ô nhiễm tăng vọt và khủng hoảng khí hậu ngày càng trầm trọng. Chúng ta phải chấm dứt ngay cuộc chiến với thiên nhiên”. Là một trong 16 quốc gia sở hữu sự đa dạng sinh học cao nhất thế giới và cũng đang phải đối mặt tình trạng suy giảm đa dạng sinh học, Việt Nam cam kết cùng các nước trên thế giới hợp tác nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đề ra trong Khung đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh – Montreal. Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 khuyến khích các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, người dân tham gia thực hiện các hoạt động bảo tồn, sử dụng bền vững đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái, phát huy vốn tự nhiên lần đầu tiên được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, mạnh dạn mở rộng cho khối tư nhân tham gia công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Cho đến nay, Trái Đất đã trải qua 5 lần tuyệt chủng hàng loạt, chủ yếu là do các hiện tượng tự nhiên như núi lửa phun trào, kỷ băng hà, tác động của thiên thạch và sự va chạm các lục địa. Giới chuyên gia cảnh báo đợt tuyệt chủng thứ sáu sắp xảy ra và nguyên nhân là do con người, thông qua những hành động trực tiếp và gián tiếp tàn sát thiên nhiên…, bởi vậy, chìa khóa giải quyết cuộc khủng hoảng đa dạng sinh học chính là hành động của con người. LHQ kêu gọi cộng đồng quốc tế thúc đẩy thực hiện những giải pháp và hành động sáng tạo để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy giảm đa dạng sinh học, hướng tới xây dựng một tương lai “Sống hài hòa với thiên nhiên” vào năm 2050.
Từ thỏa thuận đến hành động
1,173
Theo Địa chí Long An, là vùng tiếp giáp giữa miền Đông và miền Tây Nam bộ, Long An ngày nay không có những rừng gỗ lớn bạt ngàn như Đồng Nai , Bình Phước và cũng không có loại rừng ngập mặn như Bến Tre. Rừng ở đây còn lại chủ yếu là cây tràm cừ, tràm gió và cây bàng phát triển ở vùng đất chua phèn tập trung ở các huyện vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM). Hình ảnh cây tràm đã gắn liền với Long An, đặc biệt là vùng ĐTM từ những ngày mở đất. Cây tràm cùng người dân Long An đi qua 2 cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đến ngày nay, cây tràm tiếp tục đồng hành trong công cuộc dựng xây quê hương. Tràm là loại cây thích hợp với vùng đất chua, phèn, ngập nước và được xem là một đặc trưng của vùng ĐTM. Từ hàng trăm năm trước, cây tràm có mặt ở ĐTM, tồn tại, phát triển cho đến ngày nay. Địa chí Long An có đoạn chép: “Dấu vết những dải rừng tràm nguyên sinh bị vùi sâu dưới lớp bùn, phù sa do thiên tai, bão lụt được phát hiện ở ĐTM mà người dân địa phương thường gọi là “tràm lụt” chứng tỏ rằng nơi đây, từ nhiều thế kỷ trước là những khu rừng rộng lớn”. Sinh viên tìm hiểu về phân bố rừng tràm của Khu Bảo tồn đa dạng sinh học – cây dược liệu Đồng Tháp Mười. Trong suốt những năm kháng chiến, cánh rừng tràm bạt ngàn ở ĐTM là nơi chở che cho các chiến sĩ cách mạng ta. Trong 8 chuyên đề tái hiện một phần hoàn cảnh sống và chiến đấu của cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Long An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại tầng hầm khu Công viên tượng đài Long An Trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc có 4 chuyên đề miêu tả hoàn cảnh sống, chiến đấu của cán bộ cách mạng ta dưới tán rừng tràm: Nhân dân dùng xuồng đưa bộ đội vượt sông đánh giặc; Sản xuất vũ khí tại Công binh xưởng; Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân sống, chiến đấu trong mùa nước lũ và Dân công hỏa tuyến Long An làm “cầu người” vận chuyển thương binh. Căn cứ Xứ ủy và Ủy ban Hành chính – Kháng chiến Nam bộ và Căn cứ Bình Thành đều là những căn cứ quan trọng của ta, được chở che bởi những tán rừng tràm. Kể cả Đài Tiếng nói Nam bộ kháng chiến và cả ngành Điện ảnh cách mạng Việt Nam cũng được khai sinh dưới những tán tràm của vùng ĐTM, tạo nên một huyền thoại mang tên Điện ảnh bưng biền. Chiến tranh kết thúc, cây tràm vẫn kiên gan bám đất, cùng người dân dựng xây cuộc sống. Sau ngày giải phóng, diện tích rừng ở ĐTM (phần thuộc Long An ) còn lại khoảng 3.000ha, chủ yếu là tràm cừ và tràm gió. Cây tràm cừ thân thẳng, cao hàng chục mét, thường dùng làm đòn tay, kèo, cột nhà và đóng cừ trong xây dựng. Cây tràm gió thân khẳng khiu, lá chứa nhiều tinh dầu. Tràm gió là nguyên liệu chiết xuất tinh dầu tràm, đang được nhiều doanh nghiệp khai thác hiệu quả, chế tạo nhiều loại sản phẩm chất lượng, được thị trường ưa chuộng. Ngoài việc cung cấp gỗ, tinh dầu, rừng tràm còn có tác dụng chắn gió, ngăn tốc độ dòng lũ, cải tạo môi sinh. Rừng tràm là nơi cư trú của rắn, rùa, chim,… Nấm tràm và mật ong tràm cũng là những đặc sản chỉ có ở vùng ĐTM. Du lịch sinh thái dưới tán rừng tràm là một đặc trưng nổi bật của Long An. Trong giai đoạn mới, cây tràm lại đồng hành cùng người dân Long An trong hành trình phát triển du lịch. Du lịch sinh thái tại vùng ĐTM là điểm nhấn của du lịch Long An với Làng nổi Tân Lập và Cánh Đồng Bất Tận. Ngoài tận dụng cảnh quan dưới tán tràm xanh mát, Cánh Đồng Bất Tận còn kết hợp khai thác du lịch chăm sóc sức khỏe và cung cấp các sản phẩm được chế tạo từ tinh dầu tràm. Ngày nay, Long An còn khoảng gần 22.000ha rừng, cây tràm vẫn là loài chiếm đa số diện tích. Khoảng một nửa diện tích rừng thuộc sở hữu hộ gia đình và dùng vào mục đích sản xuất với loại tràm được trồng chủ yếu là tràm cừ. Thạnh Hóa và Đức Huệ là 2 địa phương còn nhiều diện tích tràm nhất hiện nay. Tuy nhiên, giá cây tràm có thời điểm sụt giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến thu nhập của người dân, dẫn đến việc nông dân chuyển đổi cây trồng. Những năm gần đây, diện tích rừng tràm có dấu hiệu giảm do khai thác chưa trồng lại và rừng đặc dụng bị chết. Tháng 3/2023, UBND tỉnh có Đề án Phát triển lâm nghiệp bền vững trên địa bàn tỉnh Long An năm 2023 nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; tăng độ che phủ, bảo tồn đa dạng sinh học; bảo tồn nguồn gen của các loài động, thực vật; góp phần tăng trưởng kinh tế; tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh. Theo đó, đề án đặt ra mục tiêu trồng thêm 650ha rừng tập trung trong năm 2023. Tràm đến nay vẫn là loài cây gắn bó với đất và người Long An, trở thành một phần đặc trưng không thể thiếu của tỉnh./.
Cây tràm trên đất Long An
965
Tối 21-5, tại di tích quốc gia đền Đồng Cổ, Quận ủy, HĐND, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quận Tây Hồ ( Hà Nội ) long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 995 năm Hội thề trung hiếu đền Đồng Cổ (1028-2023) và Lễ công bố quyết định ghi danh Hội thề trung hiếu vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Dự lễ có các đồng chí: Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Nguyễn Thị Tuyến, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội; Hà Minh Hải, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội. Lễ kỷ niệm 995 năm Hội thề Trung hiếu đền Đồng Cổ (1028-2023) và Lễ công bố quyết định ghi danh Hội thề Trung hiếu vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia diễn ra với các nghi thức dâng hương, màn khai từ, công bố quyết định ghi danh Hội thề Trung hiếu vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Các đồng chí lãnh đạo Trung ương, thành phố Hà Nội dâng hương tại đền Đồng Cổ (quận Tây Hồ). Phát biểu tại sự kiện, Phó Bí thư Quận ủy, Chủ tịch UBND quận Tây Hồ Nguyễn Đình Khuyến khẳng định: Lễ kỷ niệm 995 năm Hội thề Trung hiếu đền Đồng Cổ và Lễ công bố quyết định ghi danh Hội thề Trung hiếu đền Đồng Cổ vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là dịp tôn vinh di sản với giá trị vững bền và sức sống mãnh liệt; ghi nhận và biểu dương những nỗ lực của cấp ủy, chính quyền phường Bưởi, các phòng, ban, ngành liên quan của quận và cộng đồng nhân dân trong việc gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa đền Đồng Cổ và Hội thề Trung hiếu. Đồng thời thúc đẩy trách nhiệm bảo tồn, phát huy di sản phục vụ phát triển kinh tế – xã hội quận trong những năm tiếp theo. Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương trao quyết định ghi danh Hội thề Trung hiếu đền Đồng Cổ vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cho quận Tây Hồ. “Lễ hội truyền thống đền Đồng Cổ thể hiện sự gắn kết cộng đồng, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Trải qua 995 năm, lễ hội đã và đang được cộng đồng duy trì, thực hành, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, có tính lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng nơi đây”, ông Nguyễn Đình Khuyến khẳng định. Tại buổi lễ, chương trình nghệ thuật đón bằng chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được tổ chức long trọng, do Thạc sĩ Lê Thế Song làm Tổng đạo diễn. Với phần biểu diễn do các nghệ sĩ nhà hát Tuồng Việt Nam thể hiên, chương trình đã kể truyền tích của ngôi đền Đồng Cổ, vua Lý Thái Tông khai mở ra Hội thề trung hiếu, sau sự kiện loạn tam Vương. Chương trình nghệ thuật đã gây xúc động cho người xem với màn tái dựng Hội thề trung hiếu gần 1.000 năm trước. Lúc bấy giờ thái tử Lý Phật Mã sau khi dẹp loạn tam vương, được phong “Thiên hạ minh chủ”, lên ngôi, lấy hiệu Lý Thái Tông (đầu thế kỷ XI), đã mở hội thề này để răn dạy các quần thần tướng sĩ và con dân trong thiên hạ giữ trọn đạo hiếu trung. Đó là cái đạo nhằm gìn giữ kỷ cương đất nước, đất nước thái bình hưng thịnh. Lễ hội này cũng được tổ chức tại đền Đồng Cổ ở làng Đan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Chương trình nghệ thuật chào mừng lễ kỷ niệm. Ngoài trích đoạn tái hiện Hội thề trung hiếu đầu tiên do vua Lý Thái Tông khởi xướng, đạo diễn Lê Thế Song còn đưa vào chương trình các bài hát xẩm, chèo chủ đề tô đậm nét đẹp độc đáo của đền Đồng Cổ và vị thần nơi đây. Hôm nay 22-5, chính hội sẽ diễn ra với nhiều hoạt động sôi nổi do nhân dân đứng ra tổ chức.
Hội thề trung hiếu đền Đồng Cổ là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
757
Dấu ấn sâu đậm với tôi về phố Lý Quốc Sư (phường Hàng Trống – Hoàn Kiếm – Hà Nội ) chính là hình ảnh cố nghệ sĩ Trần Vân (Nhà hát Kịch Hà Nội) một thuở. Tôi với anh thường ngồi rượu vỉa hè cuối phố vào cái đận sôi động nhất năm 1985 khi nhà nước đổi tiền. Có lần gặp một thiếu nữ gánh hàng cốm đi qua, anh đột nhiên đọc thơ: “ Em rẽ lối phố chùa/ Minh Không chùm hoa nắng/ Nụ cười em tỏa rạng/ Hương cốm thơm đường tơ ”. Bởi phía đó chính là ngôi nhà anh trong ngõ nhỏ đối diện chùa Lý Quốc Sư. Đây là phố có lịch sử hình thành cả ngàn năm theo di tích ngôi đền của thôn Tiên Thi, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (năm 1131-Nhà Lý). Xưa, đây là ngôi nhà mà thiền sư Nguyễn Minh Không (1065-1141) trú ngụ mỗi khi về kinh chữa bệnh cho vua. Ngài được coi là thần y có công chữa bệnh “hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông và được trọng thưởng phong là Quốc Sư và đổi sang họ Lý (Lý Quốc Sư). Ngôi nhà ngài ở đã được lập đền thờ sau khi mất. Vị trí ngôi đền vẫn ở chỗ cũ cho đến nay tại 50 phố Lý Quốc Sư. Sau này chùa Lý Quốc Sư cũng được hình thành bên cạnh ngôi đền cổ cùng tên. Đây là di tích quốc gia thờ Phật cùng ba vị thiền sư Lý Quốc Sư, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Giác Hải. Góc phố Lý Quốc Sư. Phố tuy chỉ rộng chừng 6m nhưng lại là nơi nằm trong khu vực hành chính phủ huyện cổ. Bởi thế phố đã giao cắt với sáu con đường như Ngõ Huyện, Chân Cầm, Ấu Triệu, Nhà Thờ, Nhà Chung và phố Hàng Bông. Rải rác trên phố ngoài đền và chùa Lý Quốc Sư còn có đền Phạm Ngũ Lão (số nhà 25) và cuối phố còn có chùa Báo Thiên (nay chính là vị trí Nhà thờ Lớn). Các cụ xưa kể lại một thuở nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã mở quán nước bên Ngõ Huyện. Đồng thời quán cũng là nơi các nho sĩ cùng quan văn lui tới đàm đạo và thử tài cao thấp về chữ nghĩa. Minh Mạng năm thứ 14 (1833) trụ sở của tri huyện Thọ Xương được dọn tới khu vực này (di chứng còn lại là phố Phủ Doãn). Mãi tới năm 1888, khi nhà Nguyễn nhượng địa cho thực dân Pháp huyện mới bị giải thể. Hình ảnh thiếu nữ gánh hàng cốm vào phố mà cố nghệ sĩ Trần Vân đọc thơ đã là dĩ vãng nhưng vẫn còn phảng phất đâu đây: “ Dóng dả chuông nhà thờ/ Theo dấu son gót nhỏ/ Đòn gánh cong vai phố/ Lá sen xanh gọi mùa/ Lời rao gọi tuổi thơ/ Hòa lời kinh, tiếng mõ/ Cây đa xòe búp đỏ/ Gió dịu dàng thôn xưa ”. Lý Quốc Sư còn được mệnh danh là phố “Hàng Văn” sóng đôi cùng phố Hàng Trống. Tôi có dịp gặp ông Nguyễn Việt Hùng ở số nhà 3 Lý Quốc Sư, một người đã sinh trưởng và lớn lên 60 năm trên con phố này. Ông nhớ bố mình kể lại rằng số nhà 24-26 chính là ngôi trường Trung Bắc được nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh thành lập vào năm 1920. Nhưng ông Vĩnh bị chính quyền Pháp o ép phá sản nên phải bán lại cho nhà in Ngô Tử Hạ. Ông chủ nhà in Ngô Tử Hạ có rất nhiều hoạt động hữu ích cho xã hội vào thời gian kháng chiến. Đây là nhà in đã ủng hộ hàng tạ chì để in ấn những truyền đơn của Việt Minh. Chẳng những thế nơi đây còn in những đồng bạc đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945). Sau này ông còn hiến tặng chính quyền mới hàng ngàn mét đất ở các phố Lý Quốc Sư, Ngõ Huyện, Hàng Bông… Sau cách mạng thành công, ông Ngô Tử Hạ là đại biểu lớn tuổi nhất của Quốc hội khóa đầu tiên của nước ta. Ông còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử tham gia đoàn thương thuyết với Vua Bảo Đại làm lễ thoái vị. Nhà in của ông Ngô Tử Hạ hoạt động sôi nổi và tồn tại cho tới năm 1955 thì vào hợp doanh trở thành Công ty in Thống Nhất. Ông Nguyễn Việt Hùng còn kể chính nhà in này đã hợp tác cùng nhà sách Tân Việt (ở số nhà 29) xuất bản khá nhiều sách văn thơ vào thời kỳ tiền chiến. Đặc biệt, cùng với những tác phẩm văn học Trung Quốc, nhà sách Tân Việt còn có đặc san in các tác phẩm của Nguyễn Tuân, Trương Tửu, Đinh Hùng… và cả sách triết học của Nguyễn Đình Thi. Nói đến ví von phố Lý Quốc Sư là phố “Hàng Văn” cũng có cái lý khi trên phố còn có những địa chỉ văn hóa khác độc đáo và sôi nổi ghi dấu ấn sâu đậm trong cuộc sống hiện đại. Trước hết phải nói tới ngôi nhà số 43 nơi mà cố thi sĩ Hoàng Cầm (1922-2010) đã sống và đã mất tại đây. Chính tại ngôi nhà sâu trong ngõ thân thương này ông đã khởi thảo những thi phẩm thơ tình như “Lá diêu bông”, “Gọi đôi”, “Cây tam cúc”, “Cất cánh thời gian”, “Mê không em”… Có thể coi phố Lý Quốc Sư đánh dấu mốc cho sự nghiệp thi ca của Hoàng Cầm sau thuở “Kiều Loan” (kịch thơ-1942) và thi phẩm “Bên kia sông Đuống” (Việt Bắc tháng 4/1948). Đây là nơi thi sĩ ở từ năm 1955 cho tới khi mất (2010). Ký ức của “Lá diêu bông” như đang lang thang đâu đây. Đó là vào một đêm mất ngủ thao thức tới canh ba ông bất ngờ thấy có tiếng ai đó đọc mấy câu thơ vẳng lên trong tâm thức nửa mơ nửa tỉnh rằng: “ Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng …”. Thế thôi và nhà thơ viễn du trong giấc mộng thi ca. Ông ngồi cầm bút thẫn thờ với mối tình câm của tuổi 13 một thuở với “Chị em xanh”. Những câu thơ thiên mệnh thần bí tuôn chảy bồi hồi từ mầm hạnh phúc viển vông: “ Chị thẩn thơ đi tìm/ Đồng chiều/ Cuống rạ/ Chị bảo/ Đứa nào tìm được lá diêu bông/ Từ nay ta gọi là chồng …”. Đền chùa Lý Quốc Sư. Lại nhớ có lần cùng người bạn uống rượu đậu rán tại số nhà 43 do nhà thơ Hoàng Cầm bán. Khi đã ngà ngà lên hương men rượu làng Vân, ông bạn tôi đòi Hoàng Cầm đọc thơ. Bởi ai cũng nghe nói giọng ngâm thơ của Hoàng Cầm như mật ngọt và hấp dẫn. Để chiều lòng khách Hoàng Cầm nổi cơn hứng vì thấy ông bạn tôi cứ lim dim mắt đợi chờ. Quả nhiên âm sắc ấm áp và dịu dàng đã trình bày những câu thơ đẫm lệ. Đó là những vần thơ trong bài “Xa…” (7/1985) với phụ đề “Khóc LHY”. Đây là chữ viết tắt tên vợ thứ ba của ông, người đẹp Lê Hoàng Yến. Bà sống với chồng được ba mươi năm thì rời cõi tạm (1955-1985). Có thể nói người đẹp Hoàng Yến là vị cứu tinh đời sống thơ Hoàng Cầm sau khi ông bị dính vào vụ Nhân văn Giai phẩm một thời (1956). Những tập thơ “Tiếng hát quan họ” (1956), “Về Kinh Bắc” (Xuất bản 1959, tái bản 1994) và “Bên kia sông Đuống” (1970, tái bản 1993) là kết quả “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” Trịnh Công Sơn của cuộc tình hạnh phúc thứ ba này. Những năm tháng bĩ cực nhà thơ tưởng như trao thân gửi xác cho cô đơn. Nhưng vợ ông đã cứu rỗi cuộc đời chồng bằng tấm lòng yêu thương bao dung và trở thành điểm tựa cho nguồn cảm xúc thi ca Hoàng Cầm bùng cháy. Ông viết hàng trăm bài thơ tình xuất sắc trong suốt ba mươi năm đầy khắc khoải ấy và đến ngày ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn hóa nghệ thuật năm 2007 (cho hai tập thơ “Bên kia sông Đuống”, in năm 1970 và “Lá diêu bông”- in năm 1993). Khái niệm về phố “Hàng Văn” dành cho Lý Quốc Sư vẫn còn đầy ắp trong tôi. Dường như hơn 20 năm qua, làng hội họa và văn chương không ai không nhớ đến Gallery 39A Lý Quốc Sư của họa sĩ tài hoa Lê Thiết Cương. Đây là một địa chỉ văn hóa sớm có tiếng vang ở trong nước và quốc tế. Diện tích Gallery 39A không rộng nhưng lại ở vị trí đắc địa, đối diện với Nhà thờ Lớn và đền chùa Lý Quốc Sư. Tại đây họa sĩ Lê Thiết Cương đã tổ chức hàng chục triển lãm hội họa cho bạn bè và cũng là nơi trưng bày nghệ thuật. Anh được coi là một nghệ sĩ với nghệ thuật tối giản nhưng lại tràn ngập cảm xúc trong mọi lĩnh vực hoạt động. Họa sĩ Lê Thiết Cương có sức thu hút nhiều văn nhân, nghệ sĩ tới ngôi nhà nghệ thuật của anh. Hầu hết những người nổi tiếng trong các lĩnh vực văn hóa ở Hà Nội đều tới đây đàm đạo và tranh luận với anh về văn chương, hội họa. Anh đã từng được nhà thơ Hoàng Cầm chép tặng bài thơ “Về với ta” khi còn trẻ. Hơn nữa gần đây anh còn có dự án vẽ hàng chục bức tranh mực nho trên giấy dó phết điệp Đông Hồ từ cảm hứng thơ Hoàng Cầm. Tôi chậm rãi đi trên phố trong ánh nắng mơ màng và hình dung họa sĩ đang phác thảo đường nét theo câu thơ “ Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ/ Vừa rụng chiều nay dềnh mặt nước hương sen ”. Thật thi vị làm sao.
Đòn gánh cong vai phố – Tác giả: Vương Tâm
1,694
Cụm sao R136 ở khu vực trung tâm của tinh vân Tarantula. Ảnh: NASA, ESA, P. Crowther/ University of Sheffield. Kính viễn vọng Không gian James Webb đã tìm thấy dấu vết hóa học của các ngôi sao siêu lớn, gấp 10.000 lần Mặt Trời, hình thành 440 triệu năm sau Vụ nổ lớn Big Bang. Ra đời chỉ 440 triệu năm sau Vụ nổ lớn, các ngôi sao khổng lồ này có thể là nguồn gốc của các nguyên tố nặng trong vũ trụ. Các nhà nghiên cứu đằng sau phát hiện gọi những ngôi sao này là “quái vật vũ trụ”. Phát hiện được công bố trên tạp chí Astronomy and Astrophysics . “Nhờ dữ liệu được thu thập bởi JWST, chúng tôi tin rằng đã tìm thấy manh mối đầu tiên về sự hiện diện của những ngôi sao phi thường này”, Corinne Charbonnel, nhà thiên văn học tại Đại học Geneva ( Thụy Sĩ ), tác giả chính của nghiên cứu, cho biết. Nhóm Charbonnel đã tìm thấy dấu vết hóa học của các ngôi sao khổng lồ bên trong các cụm sao cầu, cụm gồm hàng chục nghìn đến hàng triệu ngôi sao gần nhau. Có khoảng 180 cụm sao hình cầu nằm rải rác trong Dải Ngân hà. Nhiều ngôi sao trong các cụm này là những ngôi sao cổ xưa nhất trong vũ trụ, thường được các nhà thiên văn coi là “cửa sổ thời gian” giúp nhìn về những giai đoạn sớm của vũ trụ. Điều bí ẩn là các ngôi sao trong các cụm này có tỷ lệ các nguyên tố oxygen, nitrogen, sodium và aluminum khác nhau, mặc dù hình thành gần như cùng thời điểm và từ cùng một đám mây khí và bụi cách đây 13,4 tỷ năm. Các nhà thiên văn học tin rằng nguyên nhân là các ngôi sao siêu nặng, những ngôi sao khổng lồ, sinh ra đầu tiên, trong điều kiện dày đặc của vũ trụ sơ khai. Những ngôi sao này có thể đã đốt cháy các nguyên tố ban đầu ở nhiệt độ cao, tạo ra các nguyên tố nặng hơn, ảnh hưởng đến những ngôi sao nhỏ hơn, hình thành sau. Nhưng không dễ tìm thấy những ngôi sao khổng lồ cổ xưa này. Với kích thước gấp 5.000-10.000 lần Mặt Trời của, chúng cháy ở 75 triệu độ C. Ngôi sao càng lớn, sáng và nóng sẽ chết đi càng nhanh. Do đó, những con “quái vật vũ trụ” này từ lâu đã chết trong những vụ nổ cực kỳ dữ dội được gọi là siêu tân tinh. “Các cụm sao cầu có tuổi đời từ 10-13 tỷ năm, trong khi tuổi thọ tối đa của các ngôi sao khổng lồ là 2 triệu năm. Do đó, chúng biến mất rất sớm khỏi các cụm hiện còn có thể quan sát được. Chỉ còn lại dấu vết gián tiếp”, Mark Gieles, nhà vật lý thiên văn tại Đại học Barcelona, cho biết. Để phát hiện các ngôi sao khổng lồ qua dấu vết gián tiếp, hay dư lượng hóa chất, các nhà nghiên cứu cho camera hồng ngoại của JWST theo dõi thiên hà GN-z11. Đây là một trong những thiên hà cổ xưa và xa xôi nhất từng được phát hiện, cách Trái Đất 13,3 tỷ năm ánh sáng. Các chất hóa học khác nhau hấp thụ và phát ra ánh sáng ở các tần số khác nhau. Qua phân tích ánh sáng phát ra từ các cụm sao cầu khác nhau trong GN-z11, các nhà thiên văn học đã phát hiện ra hàm lượng nitrogen cao, là dấu hiệu của các ngôi sao khổng lồ cổ xưa. “Sự hiện diện rõ ràng của nitrogen chỉ có thể được giải thích bằng quá trình đốt cháy hydrogen ở nhiệt độ cực cao, chỉ lõi của các ngôi sao khổng lồ mới có thể đạt tới”, Charbonnel cho biết. Từ dấu hiệu đầu tiên này, các nhà nghiên cứu cho biết sẽ chụp ảnh nhiều cụm sao cầu hơn trong nhiều thiên hà khác nhau để xác minh và tìm kiếm các dấu hiệu khác mà các ngôi sao khổng lồ để lại.
Tìm được ngôi sao ‘quái vật vũ trụ’ lớn gấp 10.000 lần Mặt Trời
687
SINAPROC khuyến cáo người dân hạn chế các hoạt động ngoài trời, đóng kín cửa nhà, đeo khẩu trang khi ra ngoài trời, đồng thời tạm dừng mọi hoạt động di chuyển trong phạm vi 12km kể từ miệng núi lửa. Núi lửa Popocatépetl. (Nguồn: AP). Cơ quan Bảo vệ dân sự Mexico (SINAPROC) ngày 21/5 đã nâng mức cảnh báo về núi lửa Popocatépetl (miền Trung nước này) từ mức 2 lên mức 3, sau khi núi lửa này hoạt động mạnh hơn trong những ngày qua, phun nhiều dung nham và tạo nên những cột tro bụi và mạt vụn lớn. SINAPROC đánh giá các hoạt động của núi lửa Popocatépetl chưa đe dọa tính mạng người dân, theo đó chưa cần tiến hành các biện pháp sơ tán. Tuy nhiên, SINAPROC khuyến cáo người dân hạn chế các hoạt động ngoài trời, đóng kín cửa nhà, đeo khẩu trang khi ra ngoài trời, đồng thời tạm dừng mọi hoạt động di chuyển trong phạm vi 12km kể từ miệng núi lửa. Chính quyền các bang Puebla, Morelas và Mexico – những khu vực chịu ảnh hưởng của núi lửa Popocatépetl – cũng đã dựng 25 khu nhà tạm để phòng trường hợp cần sơ tán khẩn cấp cư dân. Kể từ giữa tuần trước, nhiều cơ sở giáo dục nằm trong phạm vi ảnh hưởng của núi lửa đã phải đóng cửa và chuyển sang hình thức học trực tuyến. Trong ngày 20/5, 2 sân bay quốc tế tại thủ đô Mexico City và 1 sân bay quốc tế tại bang Pueble đã phải tạm dừng hoạt động do khói bụi từ núi lửa Popocatépetl làm giảm tầm nhìn trên không. Hiện tro bụi từ núi lửa cũng đã lan đến thủ đô Mexico City và có thể quan sát bằng mắt thường trên kính xe ôtô, cũng như những vật dụng để ngoài trời. Tại những địa phương gần núi lửa Popocatépetl hơn như Puebla và Morelos, tro bụi phủ một lớp khá dày trên mái nhà và đường phố tại nhiều khu vực dân cư. Popocatépetl là núi lửa cao thứ hai ở Mexico – cao 5.550m so với mực nước biển. Đây là một trong những núi lửa hoạt động mạnh nhất ở nước này và cũng là một trong những núi lửa được giám sát chặt chẽ nhất trên thế giới. Núi lửa này chỉ cách thủ đô Mexico City 72km về phía Tây Nam, nơi có gần 9 triệu người sinh sống. Trước đó, tại một quốc gia Nam Mỹ khác là Guatemala, núi lửa Fuego – ngọn núi lửa hoạt động mạnh nhất Trung Mỹ – phun trào ngày 4/5, tạo những đám mây tro bụi dày đặc trên các nông trại và các thị trấn cách không xa thủ đô Guatemala City. Núi lửa Fuego phun trào nham thạch với tốc độ lớn xuống sườn núi. Cột tro bụi bốc lên cao hơn 6.000m so với mực nước biển. Hãng tin AFP dẫn lời một quan chức bảo vệ dân sự, ông Rodolfo Garcia cho biết khoảng 350 người ở các cộng đồng gần chân núi lửa đã được sơ tán. Ông ước tính có 130.000 người sống trong các khu vực tro bụi rơi xuống, cách miệng núi lửa khoảng 100km. Tháng 12 năm ngoái, núi lửa Fuego phun trào dung nham và tro bụi khiến Guatemala phải tạm thời đóng cửa sân bay lớn nhất nước này. Núi lửa cao 3.763m này thường phun trào trung bình sau 4 đến 5 năm. Vào năm 2018, dung nham phun trào từ núi lửa Fuego đã tàn phá ngôi làng San Miguel Los Lotes khiến 215 người thiệt mạng và nhiều người mất tích. Guatemala có hai ngọn núi lửa đang hoạt động khác là Santiaguito ở miền Tây và Pacaya ở miền Nam nước này./.
Mexico: Núi lửa Popocatépetl hoạt động mạnh, phun nhiều dung nham
628
Tặng VŨ MỸ LƯƠNG Thời xưa, khi loài người chưa đến nỗi phải sống chen chúc nhau trong những căn nhà rộng như hang chuột của cái thế kỷ tiến bộ này, cổ nhân cũng đã có những câu như “trạch lân xử” và “bán anh em xa mua láng giềng gần” để thuyết minh về cái liên lạc hệ trọng giữa những người sống gần gũi nhau, đề phòng những lúc nguy nan, tối lửa tắt đèn, hoạn nạn, dễ cầu cứu nhau. Ngày nay, nhờ nạn nhân mãn, những thuế thổ trạch quá nặng, bọn người ít tiền chúng ta đã không còn biết cái tình liên lạc của “láng giềng”, để mà hiểu rõ cái gì là cái hệ trọng của người “ở chung” đối với ta, lại thân mật hơn ông láng giềng thuở trước. Vì những lẽ cần kính trọng nhau, để dễ cần dùng lẫn nhau, cần lấy lòng nhau vào nhiều dịp, nhất là không thể giấu giếm, đậy điệm những cái xấu đi, cho nên những gia đình kim thời phải ở thuê chung nhau một nhà, đối với nhau quả là thân thiết hơn cả họ hàng nữa. Nói thế rồi, bây giờ tôi mới xin kể một chuyện của tôi đối với một gia đình đã “trạch lân xử” với gia đình nhà tôi. Đọc rồi, độc giả nên sẽ tha thứ cho tôi, vì tôi đã là một kẻ khốn nạn. ° ° ° Kể từ khi ấy đến nay, tính ra đã bốn năm tròn. Nghĩa là sau khi sống chung đụng nhau một thời gian khá dài, hai gia đình chúng tôi mỗi bên dọn nhà đi một phương, đã bốn năm nay cách biệt hẳn nhau. ở cái thời buổi mà ai cũng sống hấp tấp, vội vàng này, những điều thiêng liêng đáng ghi nhớ thế nào đi nữa, thì rồi người ta cũng dễ quên khuấy ngay đi… Có phải thế không? Cho nên bốn năm trời xa nhau, tôi chẳng còn nhớ gì đến người ta nữa, mặc lòng xưa kia tôi đã cư xử và được đáp lại như anh em ruột thịt, tưởng chừng cái thân tình quý hóa ấy sẽ sống trường cửu trong ký ức của đôi bên mãi mãi. Còn về phần người ta, liệu người ta có nhớ gì đến chúng tôi chăng? Có lắm. Bởi cớ nếu không, ắt đã chẳng có câu chuyện này… Chỉ phiền một nỗi là khi người ta làm cái việc để tỏ rằng còn nhớ đến chúng tôi, thì người ta đã túng bấn, nghèo khổ, chẳng còn được như trước nữa. Vả lại, theo thường lệ, sở dĩ loài người ăn ở tử tế được với nhau, ấy chỉ là vì chưa làm gì đến nỗi để cho quyền lợi xung đột nhau mà thôi. Nếu cả hai bên ai cũng theo đuổi được cái điều kiện nay ăn miếng chả mai trả miếng bùi, một bên có đi thì bên kia cũng phải có lại để cho được toại lòng nhau, thì làm gì xã hội lại sẽ chẳng cứ mãi mãi là cảnh Bồng lai? Than ôi, cái áo rách nó mới đắc tội làm sao, và khi người ta tìm đến chúng tôi, thì chẳng may cái áo người ta đã rách! Những tư tưởng ái nhân như kỷ cũng đôi khi làm rung động lòng tôi, lúc ấy nó mới biến mất đi đâu, để nhường chỗ lại cho cái tính đa nghi, cân nhắc, cái ích kỷ tổ truyền!… Vì chưng nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến mình và quyền lợi của mình, sự ấy nó cũng tự nhiên và có nhiều thú vị riêng của nó, thí dụ nói xấu và vu oan là một cách giồng cây đức của nhiều nhà làm báo chân chính chẳng hạn , cho nên khi người ta mặc áo rách và mang trên mặt tất cả những nét lo âu của sự túng bấn thì tôi chỉ còn kịp so vai một cái để lẩm bẩm rằng: “Lại tống tiền là cùng đây chứ gì!” y như một tay nhà giàu đã thấy phiền và chán nản ở cái sự cứ phải bỏ tiền ra thi ân… Nhưng, bạn đọc đại lượng ơi, hãy khoan một chút, để tôi được thuật ra đây ít ra một vài điều gì nó tỏ cái thân tình của chúng tôi ngày trước đã. ° ° ° Người chồng là một thiếu niên đồng tuế với tôi. Địa vị trong xã hội thì thường thường bực trung, vì là một thư ký nhà buôn lương tháng độ bốn chục. Lối đánh giá con người vào thời buổi bây giờ chỉ là lục lọi đến số tiền lương tháng nhiều hay ít, chứ có phải kể đến học thức, nhân phẩm gì đâu! Nhưng nếu phải giới thiệu ông láng giềng của tôi kỹ hơn nữa, thì tôi xin nói đó là một người học thức trung lưu, đạo đức trung lưu, tài sản trung lưu; nghĩa là, nói tóm lại, là một người chẳng đủ làm cho ai sợ nhưng cũng chẳng để cho ai khinh được. Còn người vợ, thì rất xứng đôi với chồng: nhan sắc bình thường, nhân phẩm trung đẳng, còn học thức thì, theo như công lệ, cố nhiên là không có chút nào rồi. Cặp vợ chồng ấy rất tương đắc với vợ chồng chúng tôi. Tình lân lý của đôi bên cứ theo thời gian mà càng ngày càng thêm bền chặt bằng cách biếu xén nhau mọi của ngon vật lạ, mời mọc, thết đãi nhau luôn luôn, và cả hai bên đều lấy thế làm thỏa mãn, dẫu rằng sau khi tôi thấy vợ tôi được nhận một thứ thực phẩm đầu mùa hoặc hóa vật kỷ niệm gì, thì tôi lại giật mình đánh thót một cái, băn khoăn kiếm cách đền lại. Và khi được trả lại, tôi cũng chỉ thấy họ tươi cười cảm ơn mà nhận, ra vẻ sung sướng một cách rất thành thực, thế thôi. Thật vậy, những trò giả dối ấy, chúng tôi vui lòng tự mình lừa dối mình để coi nó là những hành vi chân thật. Không bao giờ chúng tôi lại chịu thú nhận rằng thế là đã làm khổ nhau, và chỉ có thể tử tế được bằng cách cứ làm khổ nhau mãi mãi mà thôi. Điều chẳng cần nói ra đây, là sau những cử chỉ rất anh hùng ấy, thì cả hai bên đều mắc nợ, vì lương tháng hai bên cố nhiên không đánh thăng bằng được cột thu và cột chi. Do những lẽ ấy, trước còn xưng hô nhau: thưa ông, thưa bà. Rồi, sau một thời kỳ “bác bác tôi tôi” đến cách gọi nhau là anh chị, như ruột thịt chân tay. Cuối cùng, hai thằng nam nhi chúng tôi lại thân mật đến “mày tao” với nhau nữa, những khi không có mặt hai người đàn bà. Ký Bích – tên người bạn – với tôi tưởng chừng đã có thể từ đó sẽ sống chết có nhau. Tôi còn nhớ rõ như mới hôm qua, một lần phát tài, vợ chồng ký Bích mời vợ chồng chúng tôi đi lễ chùa Hương mà anh thì có bộ Âu phục màu gỗ hồng rất đúng mốt, mà chị thì nhờ cái áo nhung đỏ mới may, tự nhiên xinh đẹp khác thường như là đột nhiên biến thành cô tiên, tuy đó có thể chỉ là một tiên nga trung lưu. Chúng tôi đã đủ sung sướng, hả hê vì thấy được quý hoá, để hai tháng sau phải lo méo mặt thết lại bạn thân ba ngày nghỉ mát Sầm Sơn rồi mới ăn ngon, ngủ yên được. Nhưng mà… cảm động và đáng nhớ hơn nữa, là thái độ của anh và chị Bích đối với con tôi, đứa con gái đầu lòng. Chị Bích thường chểnh mảng cả việc bếp nước để lên giúp vợ tôi, hoặc kiên tâm ngồi ẵm con tôi như một người vú em có lương. Khi con tôi đến lúc biết hóng chuyện, những khi đi làm việc, anh Bích đã nhiều phen để nguội cả cơm canh vì mải lên “yêu cháu một lát”. Bao giờ tôi lại quên được những lời thông thường rất thi vị mà anh “nói ngọng” sau khi quệt ngón tay trỏ vào má con bé, đại khái những: – Cháu gái tôi, ồ là, tôi “êu” nó lắm cơ! à, cháu tôi cười rồi! Bác “êu” cái má bánh “đúng” này này! Bác “êu” cái miệng bé bé này này! Bác “êu” cái cằm quả táo này này! Bé ơi, bé êu êu quí quí của bác ơi!… A hà cười! Thích quá, thích quá! Rồi anh ký Bích hôn hít con bé mãi không thôi, làm nó cứ cười toe toét, và làm cho tôi cảm thấy cả cái hạnh phúc của một thằng đã là “bố trẻ con” mà con gái lại trông hay hay, mẫm mụi, nghĩa là tóm lại theo một câu nói riêng thì là “trông cứ như con chó Cún”. Những lúc như thế, tôi đã rõ rằng tình bằng hữu, tình lân lý của con người ở đời, dẫu sao, cũng chẳng phải chỉ là những danh từ điêu trá của văn chương đâu! ° ° ° Thế rồi, ngày hôm ấy… Giữa lúc tôi đương đứng cạo râu trước gương, sắp sửa để đến chỗ hẹn với một người bạn ở tỉnh xa về chơi mà tôi có bổn phận tiếp đãi thật long trọng, thì chị Bích bước vào nhà. Vợ tôi lúc ấy lại đi đâu vắng… Chị Bích làm cho tôi giật mình… Thật là bất ngờ quá đỗi! Cái áo the nâu của chị, vừa rách lại vừa bạc, trông mới thảm hại làm sao! Đôi guốc mòn gót, quai cao su lốp ôtô lộn ngược mà chị kéo lê sền sệt, cả gót chân thừa ra ngoài, trông mới khổ sở làm sao! Thật là khác hẳn bà ký Bích ngày xưa, bao giờ ra phố cũng áo lụa hoặc áo nhung rất lịch sự. Tôi ngạc nhiên đến nỗi cứ ngẩn mặt ra, quên cả cạo râu, quên cả mời khách ngồi. Tưởng bị tôi khinh, chị ta sau khi hỏi rằng vợ tôi có nhà không, cũng đứng đấy, mặt cúi xuống để lúng túng, để bẽn lẽn và có lẽ để khổ sở nữa. Tôi bèn đẩy ghế mời chị ta ngồi, và không gọi pha nước mới, tôi chỉ rót ra đấy một chén nước chè cũ pha đã hai lần. Tôi bực mình cũng như bao nhiêu người đương lúc vội ra đi mà bị có khách đến ám. Rồi tôi cứ tự do cạo râu trước gương, sau khi hỏi qua loa một câu vô duyên: – Thế nào, dạo này hai bác có phát tài không? Thấy chị Bích hổ thẹn đáp cũng vô lý như câu hỏi: – Không dám ạ, cảm ơn bác. Đến lúc ấy tôi mới nhớ ra không biết ai đã nói với tôi rằng vợ chồng ký Bích, từ khi không còn ở chung với tôi, đã lâm vào cảnh khổ sở, và đã có hai con… Chồng thì đương làm ăn yên lành bỗng bị sở loại, vợ thì cứ ốm luôn, hai đứa con cũng lại hay sài… Nghe đồn hình như bây giờ cái gia đình ấy đem nhau ra nheo nhóc ở một gian nhà lá ngoài bãi Phúc Xá, và anh ký Bích bây giờ phải bán bánh tây cà phê ban đêm, và chỉ ban đêm thôi: Anh hổ thẹn, sợ cắp thúng và xách lò đi ban ngày gặp bạn hữu, họ mạc… Phải, phải chính thế, tôi nhớ ra rồi! Người đã thuật chuyện ấy là bạn của cả Bích, lẫn tôi. Và nói thế là để thương hại chứ không phải để nói xấu… Nhớ lại như thế, tôi bỗng lại giật mình. Tôi tự nhủ: “Liệu hồn! Lại bị tống tiền rồi đây!” Rồi tôi thấy phiền quá, vì chị Bích làm cho tôi sợ hãi quá, nhất là không biết đến bao giờ mới để tôi ra đi cho thoát. Khổ thật! Râu cạo mãi cố nhiên cũng phải đến lúc hết nhẵn, tôi đành cất dao đi, và quay lại, ngồi xuống ghế đối diện chị ta. Và chẳng nhẽ lại không nói gì, tôi đành mở mồm: – Mời bác xơi tạm chén nước. – Dạ, vâng. Đáp xong, chị Bích uống chén nước một hơi, y như một người đương đói lắm. Chẳng phải là một kẻ vô lương tâm hoàn toàn, tôi bỗng thấy hổ thẹn về cái lãnh đạm của tôi. Và thay đổi thái độ: – Thế ít lâu nay hai bác làm ăn ra sao? Tôi chẳng biết nhà đâu mà đến chơi! Mà hai bác cũng không năng đến chơi với chúng tôi, thì tôi còn biết gì được! Mắt chị ta bỗng quắc lên vì sung sướng và hy vọng. Than ôi, con người ta khi đã lâm vào cảnh nghèo, có ai mà lại không hèn! Cái hạnh phúc của chị ta, lúc ấy nó có được chỉ vì thấy tôi nói một câu giả dối ra vẻ săn sóc, là chẳng kém một cung phi đã già đời nằm dài trong lãnh cung mà một hôm được thấy cái xe dê của vị quân vương. Đối với chị ta, lúc ấy tôi là một vị thiên phúc chi tinh vậy! Bây giờ chị mới đủ can đảm ngập ngừng kể lể: – Thưa bác, một hôm em gặp bác gái ở Đồng Xuân, nói rõ phố và số nhà rồi hẹn lại chơi, cho nên hôm nay em mới dám đến đây… Thưa bác, từ dạo ấy thì nhà em mất việc vì sở loại bớt người… Từ đấy tìm mãi việc làm không được. Em thì cứ hay ốm yếu luôn, lại đẻ được hai cháu, mà hai cháu cũng cứ sài đẹn luôn luôn… Hiện giờ thì túng kiết khổ sở lắm. Xưa kia, ở chung với bác, được trăm phần thì nay không được lấy một phần… Chẳng dám nhìn mặt ai nữa, chẳng dám tìm đến ai nữa. Nếu bác gái không bảo lại đây thì em cũng không dám đường đột lại đây thế này đâu… Dạ bẩm thế bao giờ bác gái mới về ạ? Tôi đáp cho phải phép: – Đến chiều nhà tôi mới về… Chết nỗi, thế mà tôi không biết rằng hai bác vận hạn nhiều thế. Chị Bích giương to đôi mắt đăm đăm nhìn mãi tôi. Có lẽ đương cầu Trời cho tôi bảo cứ ngồi đấy mà đợi vợ tôi vì thấy tôi thắng bộ vào như thế, chị rất hiểu là tôi sắp ra đi có việc. Còn tôi, lúc ấy, thì tôi nghĩ gì? Tôi có nhớ đến cái tình chung chạ nặng hơn hàng xóm láng giềng của chúng tôi khi xưa không? ừ, cái thân tình gần như ruột thịt những ngày vui cũ, tôi có còn nghĩ gì đến hay không? Tuy cũng có đấy, nhưng nhớ để rồi quên ngay. Vì tôi còn bận tâm lo bạn tôi đương vì đợi tôi mà sốt ruột, bận tâm giận vợ tôi sao lại hẹn nguy hiểm thế, và nhất là bận tâm vì áy náy không biết khu xử ra sao… Tiền! Than ôi, lại chỉ những chuyện tiền! Bao nhiêu cái gì là ích kỷ, là đê hèn, là chó má, là tàn nhẫn, lúc ấy đều thức dậy cả trong cái tấm lòng khốn nạn của tôi. Cúi đầu xuống, tôi bĩu môi nghĩ về vợ chồng ký Bích: “Sướng lắm thì khổ nhiều!” ấy thế là những sự thù tạc, biếu xén, quà bánh, thết đãi của vợ chồng ký Bích khi xưa đã làm cho tôi thấy là vinh dự, đáng quý hoá, thì bây giờ chỉ khiến tôi thấy đó là kiểu cách, lôi thôi, phiền phức, giả dối, khó chịu, và nhất là tai hại, hầu như là đã khiến cho vợ chồng tôi vì đối đáp lại những cái ấy mà đã có hồi khuynh gia bại sản nữa! Tôi thấy họ đáng kiếp, không đáng thương tí nào. Nhưng mà vợ tôi đã gọi người ấy đến; rõ mới tội nợ! Thì… không mất tiền không xong! Tôi đành hỏi ngay: – Bác cần tiêu bao nhiêu? Cố nhiên là chị Bích nghĩ mãi mới đáp: – Nếu được bác giúp cho độ ba đồng bạc thì cháu bé cũng sống mà vợ chồng tôi cũng đỡ phải lo trong một tháng. Lúc ấy, túi tôi có thừa năm đồng. Nhưng mà, như trên đã nói, tôi còn phải thết đãi người bạn. Ngay bây giờ, chúng tôi rất cần đi ăn, đi chơi! Nếu không, tôi sẽ chẳng ra giống người, vì ông bạn tỉnh xa của tôi đã đối với tôi chu đáo, ân cần lắm! Thế rồi đáng lẽ đưa ra cho chị Bích vay hai đồng thì, không hiểu sao tôi chỉ đưa ra có một đồng. Và tôi bỗng nói khác hẳn như đã muốn: – Thôi đây này, có đồng bạc cho cháu ăn quà, bác cầm lấy… Chúng tôi tuy vậy dạo này cũng túng, chẳng có gì đâu… Đây là tôi cho cháu nhé, chứ không phải chuyện nợ nần gì cả. Tôi đã dùng cái lối rất cổ điển: cho hẳn, để mà “rào đường”. Vì tôi sợ nhất cái chuyện sẽ bị quấy nhiễu về sau! Vì cho thì một đồng đã là to: còn cho vay thì lại là ít quá, không được tử tế như cho hẳn. Chị Bích cầm tiền, cảm ơn, bẽn lẽn ra về. Chị hài lòng chưa? Đủ sướng rồi hay còn cho là ít? Tôi cũng không biết. Chỉ biết hôm ấy, tôi đã tự đắc như một nhà từ thiện, vì lẽ cố nhiên tôi coi đồng bạc ấy của tôi là rất to! Quả như vậy, từ đấy trở đi, không bao giờ chị Bích còn dám bén mảng đến cửa nhà tôi nữa. Tôi đã rất thành công trong cái sự rào đường một người bạn nghèo. Rồi thì, chẳng cần phải lâu ngày, chuyện ấy cũng chóng bị quên đi… Nhưng về phần chị Bích thì không. Chưa có nghìn vàng dễ thường không bao giờ chị ta dám nghĩ đến sự đền ơn bát cơm Siếu mẫu, dẫu rằng người thi ơn kia, quả thật đã chẳng có cái từ tâm của Siếu mẫu. Vài tháng sau đó… Bữa ấy nhằm một buổi sáng chủ nhật, tôi cùng mấy người bạn đã lên một toa xe điện chạy từ Bạch Mai về Bờ Hồ. Khi đến chợ Hôm, chợt thấy chị Bích ẵm con, bước lên. Đêm trước chúng tôi vừa mới thực hành cái truỵ lạc chủ nghĩa. Vừa đem thi thố mấy ngón tài hoa, như nốc rượu, hút thuốc phiện, đùa gái, văng tục, và nói xấu những người bạn thân vô phúc đêm ấy không có mặt tại một tổ quỷ nào đó ở xóm Vạn Thái, cho nên sáng hôm nay, mặt chúng tôi đều bơ phờ, hốc hác, thiên hạ cứ thoáng nhìn cũng đủ rõ là bọn này đã từ cái chốn ác hại nào mà chui ra… Lại thêm lúc chi tiền, chúng tôi đã bị một ả đào lè nhè xin thêm mãi, cho nên lúc ấy tôi đương bực mình cực điểm, thấy rằng cuộc đời đã bị đầu độc, mà chưa biết bao giờ mới có một cuộc vui nào khác nữa đến tẩy độc cho… Âu cũng là nhằm ngày đen đủi của chị Bích vậy. Trông thấy chị lên xe, tôi lại giật mình, nhưng không thể lánh mặt được, tôi đành ngả mũ chào chị, và cố nhiên cái vẻ mặt lúc ấy là phải lãnh đạm. Cái áo the nâu của chị lại rách hơn trước một chút nữa. Và bây giờ thì chân chị – hai bàn chân xưa kia xinh và trắng – xéo lấm, vì chắc đôi guốc đã không còn dùng được rồi. Còn đứa con chị ẵm trong tay thì xanh xao, gầy quá, đầu thì lấm tấm có mụn trốc, cặp môi thì đã thâm như của một dân bẹp tai! Lúc chị Bích sắp nâng một bên vạt áo lên để giới thiệu con, tôi bỗng có cái cảm tưởng lạ lùng y như người ta lúc sắp được thấy, trong cuốn sách phóng sự, bao nhiêu điều xấu xa bí mật sắp bị phơi ra dưới ánh sáng vậy. Thật thế, không gì thất vọng bằng một cái mặt trẻ con mà lại không đủ cái hay, cái kháu, để mời chào ta một cái hôn… Tuy vậy, tôi cũng nhớ ngay đến thời xưa, khi con gái tôi mới đẻ, nó đã được chị Bích quý hóa như thế nào. Và tôi đã hỏi mấy câu qua loa về đứa bé, để rồi ngắt chuyện, xin diêm thuốc các bạn hữu cùng ngồi quanh đấy, ý muốn cho chị Bích mau lấy áo đậy con lại. Xe điện chạy chậm quá thật! Mười cây số mỗi giờ, giữa một tỉnh to như Hà Thành! Thật là một cái hổ thẹn của văn minh! Vì rằng, than ôi! Tuy tôi đã im lặng lờ hẳn đi, nhưng chị Bích đã bắt đầu kể lể!… Chị nói rõ về cảnh nheo nhóc, mọi điều tai biến, mọi sự đói khát, đau khổ, mà cái số phận ác hại đã hành hạ gia đình nhà chị từ bấy đến nay… Tôi thở dài. Tuy chị không kết luận bằng cách xin giúp đỡ, nhưng tôi cũng đủ thông minh để hiểu lắm. Lúc bấy giờ thì tôi phẫn uất đến cực điểm. Tôi cho tôi như một con giun, ai xéo lắm ắt tôi cũng biết quằn! Đi hát, lúc chi tiền bị kè nhè là đồ keo, lúc về giữa đường lại bị có kẻ muốn tống tiền, tôi tưởng như vậy thì từ tâm đến bằng Đức Phật Tổ cũng phải cáu, dẫu rằng Phật Tổ không đời nào đi hát… Đáng lẽ có thể bảo chị Bích là không biết điều, ở chỗ “cứ thấy bở thì đào” như một kẻ bất nhã nào khác, tôi chỉ muốn nhắc cho chị đừng quên cái đồng bạc trước của tôi. Chẳng nghĩ xa xôi, tôi hỏi thẳng: – Từ lần ấy, bác có gặp nhà tôi nữa không? Vô tình chị đáp ngay: – Dạ, có gặp một lần ạ. – Bác không nói gì cho nhà tôi biết về cái đồng bạc tôi giúp bác đấy chứ? Chị Bích ngơ ngác nhìn tôi mãi như ngạc nhiên vì sợ tôi lại nỡ ngờ cái lòng thực thà hoặc biết nhận ơn của chị. Rồi chị tức khắc đáp: – Dạ, có đấy ạ. Tôi có nói ngay rằng đã được bác cho vay một đồng. Tôi sung sướng lắm, và cau mặt hỏi nữa: – Bác đã nói là tôi cho vay à? Chị Bích liền gật đầu: – Bẩm vâng. Tôi tắc lưỡi, cau mặt hơn nữa, khẽ nói tha thiết: – Rõ khổ quá! Thì sao bác lại không nói là tôi cho hẳn cháu? Mà tốt hơn nữa thì bác đừng nói gì, có hay không! Chẳng nói bác ắt cũng thừa biết đấy, bụng dạ đàn bà nhỏ nhen như cái lỗ kim… Thế là rồi nhà tôi nó sẽ không bao giờ quên là bác đã nợ nó cái đồng bạc ấy. Tôi kết luận bằng cái so vai, và một cái thở rất dài. Từ đấy, chị Bích có một nét mặt ủ rũ đặc biệt nó khiến chị ta không ngồi thẳng lên được nữa, như một con chim bị đạn. ắt đó là chị hối hận, tiếc rẻ cái lòng nhân đức ghê gớm của tôi, và phân vân lo sợ về cái “bụng dạ lỗ kim” của vợ tôi. Đến chợ Đồng Xuân, chị ẵm con bước xuống. Trong cả thời gian ngồi cạnh nách tôi, chị ta tịnh không dám bén mảng đả động đến chuyện tiền. ° ° ° Cách đấy sáu tháng nữa, quả vậy, đúng sáu tháng. Nhằm lúc cuối năm, vợ chồng tôi đi lên chợ Đồng Xuân mua vài giò thuỷ tiên… Đương lúi húi mặc cả trước một bàn hoa, tình cờ lúc nghển lên, chúng tôi trông thấy chị Bích đương đi từ cổng chợ ra, cách chỗ chúng tôi đứng độ mươi thước. Tức thì vợ tôi vui vẻ gọi: – Bác Bích! Bác Bích ơi!… Bích! Một tay bế con, một tay cắp cái rổ trong đó có vài cây dưa cải và một cái mũ thổ công đáng giá hai xu, tuy chỉ có thế thôi, chị Bích cũng quay lại một cách rất khó khăn, chỉ vì buổi chợ quá đông người. Đến khi nhìn thấy rõ chúng tôi rồi, thì… Thì chị Bích lại vờ như không nhìn thấy nữa, ôm con và ôm rổ cúi đầu quay đi thẳng, trước còn bước chậm, sau thoăn thoắt rõ nhanh, và sau cùng, thì chạy hẳn! Than ôi, chỉ vì một đồng bạc! Cái đồng bạc nhân đức rất đắc tội ấy! Chị Bích lẩn mặt, chạy trốn, sợ bị đòi tiền. Một đồng bạc! Chỉ vì nó, mà một người đã có cái can đảm chạy trốn một người, sau khi cả hai người, vào lúc còn như nhau, đã sống bao nhiêu năm trời chung đụng với nhau, rau cháo có nhau, yến tiệc có nhau, thân thiết với nhau hơn ruột thịt, tay chân! ° ° ° Bạn đọc ơi, viết đến dòng này, tôi lại thấy cả tấm lòng khốn khổ và khốn nạn của tôi nôn nao lên… Chính thế đó, vì trước bàn giấy của tôi có một cái gương Psyché, và khi tôi chợt ngưng bút để nhìn cái hình thù và cái người ngợm của tôi trong gương, thì tôi buồn nôn, thì tôi ghê tởm cả cho chính tôi, vì rằng, trừ một bọn nịnh sằng vẫn gọi tôi là danh sĩ, là văn hào, thì, trong thiên hạ, than ôi lại vẫn có một số người đứng đắn kia nỡ lòng khen tôi là “một người tử tế”. Tôi hối hận lắm, tôi khổ sở lắm, vì rằng từ đấy, không bao giờ chúng tôi còn dịp nào gặp vợ chồng Bích đâu nữa, và nhất là vì giữa cái hôm chị ta chạy trốn vợ chồng chúng tôi ấy, thì lại nhằm vào một bữa hãn hữu mà vợ tôi đã nói: “Rõ tội nghiệp chị Bích quá nhỉ? Cậu ạ, em chỉ định tâm hễ gặp chị ấy thì thế nào cũng giúp thêm chị ấy vài đồng, nhất là vào dịp Tết này”. Nhưng mà từ bấy đến nay, thời gian đã đem đến cho lòng người cái gì là cái quên. Sự gì thì rồi ta cũng có ngày quên đi, cho dẫu là ái ân, cho dẫu là đau thương, cho dẫu là hối hận. Bởi cái cớ ấy, cho nên tuy lương tâm tôi đã mang nặng một vết thương tình cảm để đôi khi bứt rứt hàng giờ, mà từ đó, tôi cũng chẳng làm nổi một việc thiện nào thiện hơn cái việc ác này, tuy rằng nếu cố gắng tinh thần thêm chút nữa, tôi chẳng thiếu gì những dịp để thực hiện rất nhiều cái đức ái nhân như kỷ mà tôi có thể có được, hơn ai… Vì sao? Vì khi ta có tiền thì ta chẳng nghĩ đến cái nhân, và khi phải nghĩ đến cái nhân, thì ta lại chẳng có tiền. Cho nên sự đời chung qui chỉ là những vòng chạy trong đèn cù, luẩn quẩn, loanh quanh, vì ta không thể nào khác được, nếu không cứ việc sống thản nhiên để mà tầm thường và khốn nạn. 1939
Một đồng bạc – Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng
4,627
Crabit Kidbooks vừa ấn hành hai cuốn sách của hai dịch giả nhí vừa giành giải cao nhất tại cuộc thi tìm kiếm dịch giả trẻ năm 2023 ‘Kafka và cô búp bê’ và ‘Cô gà mái của bác Izzy Pippick’. Dịch giả nhí Trần Quân. (Ảnh: Crabit Kidbooks) Hai dịch giả nhí xuất sắc giành giải trong cuộc thi là Trần Quân, lớp 3A5, trường Vinschool Metropolis và Phạm Thị Ngọc Hòa, lớp 9, trường THCS Hà Huy Tập, Thành phố Hồ Chí Minh . Dịch giả Trần Quân dự thi với phần chuyển ngữ truyện “Kafka và cô búp bê” (tác giả Larissa Theule, minh họa: Rebecca Green). “Kafka và cô búp bê” là câu chuyện được sáng tác dựa theo một giai thoại có thật về cuộc gặp gỡ đầy cảm động giữa nhà văn đại tài Franz Kafka và cô bé Irma. Mùa thu năm 1923, Kafka đang dạo bộ trong công viên thì nhìn thấy Irma ngồi khóc rấm rứt vì mất đi bạn búp bê Soupsy yêu dấu. Sức mạnh của một nhà văn đã giúp biến nỗi mất mát ấy trở thành hành trình dài những chuyến phiêu lưu ly kỳ. Kafka thuyết phục cô bé rằng búp bê Soupsy chỉ du hành vòng quanh thế giới mà thôi. Để chứng minh, ông đều đặn gửi cho cô bé những lá thư từ Soupsy – về những vùng đất xa xôi, những cuộc gặp gỡ ly kỳ – tiệc trà cùng thỏ Peter, hay chuyện trò với Antonio Gaudí. Cuốn sách là một bản ghi đầy xúc động về sự phi thường của lòng tốt và cử chỉ nhân ái mà con người có thể trao cho nhau. Cuốn truyện “Cô gà mái của bác Izzy Pippick” được vẽ minh họa ngộ nghĩnh, sinh động. Dịch giả nhí Trần Quân cho thấy khả năng rung cảm tinh tế của bản thân trước những chi tiết sâu sắc trong câu chuyện thông qua ngôn từ trong trẻo và giàu cảm xúc của em. Không cần đến những từ ngữ hoa mỹ hay câu văn rườm rà, chỉ với những dòng viết gãy gọn và trong sáng, Trần Quân chuyển tải đúng tinh thần của câu chuyện đời thường nhưng có sức lạy động trái tim mãnh liệt này. Trong bản dịch của mình, em cũng thể hiện được màu sắc riêng của nhà văn Kafka khi trò chuyện trực tiếp tới Irma và khi anh đóng giả cô búp bê Soupsy tâm sự qua những cánh thư. Cuốn sách “Cô gà mái của bác Izzy Pippick”. Dịch giả nhí Phạm Thị Ngọc Hòa chuyển ngữ cuốn “Cô gà mái của bác Izzy Pippick” (tác giả: Aubrey Davis, minh họa: Marie Lafrance). “Cô gà mái của bác Izzy Pippik” là câu chuyện dựa trên một tích cổ từ kinh của đạo Do Thái và Hồi giáo nhằm giáo dục nhân cách cho trẻ em. Thời thế thật khó khăn, nhưng khi Shaina bắt gặp một cô gà mái lạc chủ trên phố, em cương quyết phải trả con gà về cho chủ của nó – bác Izzy Pippik. Nhưng biết đến bao giờ Izzy Pippik mới quay trở lại? Quan trọng hơn là, liệu Izzy Pippik có quay trở lại không? Một cô gà, rồi một quả trứng, và chẳng mấy chốc, một đàn gà tràn ngập thị trấn. Mặc cho mọi người khuyên nhủ, than phiền, phản đối, Shaina vẫn kiên định với lựa chọn chính trực của mình. Câu chuyện thoạt tưởng đầy lạ thường này chứa đựng vô vàn thông điệp nhân văn, về tính trung thực, lòng khoan dung; và Shaina nhỏ bé nhưng kiên định đã dạy cho chúng ta bài học đầy thấm thía để tin tưởng và luôn làm những điều đúng đắn. Bản dịch của Ngọc Hòa có nhiều từ tượng thanh và tượng hình, tuy không mới nhưng được vận dụng một cách thuần thục, khiến lời văn trở nên sống động hơn rất nhiều, nhất là những đoạn mô tả sự hỗn loạn do bầy gà gây ra: “Vậy là chẳng bao lâu sau, lũ gà trống gáy inh ỏi trên mái nhà, đàn gà mái làm tổ ở mọi ngóc ngách và hàng trăm con gà vỗ cánh phành phạch khắp nơi trong thị trấn.” Cuốn sách có nhiều tình tiết lặp lại – chẳng hạn như đoạn hội thoại đòi làm thịt cô gà, nếu dịch không khéo, sẽ rất nhàm chán. Nhưng Ngọc Hòa đã khéo léo biến tấu để mỗi tình tiết tuy giống nhau nhưng được kể một cách mới mẻ và thú vị. “Chạm chữ” – Cuộc thi tìm kiếm dịch giả trẻ năm 2023 là một cuộc thi do Crabit Kidbooks tổ chức dành cho các em nhỏ từ 6-15 tuổi đam mê dịch thuật trên toàn quốc. Cuộc thi có sự đồng hành của các Trường Tiểu học Jean Piaget, Liên cấp Wellspring, Sentia School, Maya Shool và Olympia và Ban giám khảo: Nhà văn, dịch giả sách thiếu nhi Nhã Thuyên cùng tiến sĩ văn học Nguyễn Thị Ngọc Minh. Chỉ trong vòng hơn 4 tháng phát động, cuộc thi đã thu hút gần 500 bài dự thi từ các bạn học sinh trên toàn quốc. Mỗi một bản dịch các em gửi về đều cho thấy niềm say mê tìm tòi khám phá ngôn ngữ, năng lực sử dụng từ ngữ thuần thục và tiềm năng dấn thân vào ngành xuất bản để góp phần mang đến nhiều tác phẩm hay cho người đọc. Hai tác phẩm đoạt giải đã đáp ứng được các tiêu chí về độ chính xác, độ uyển chuyển, phong cách cá nhân, và đều được hiệu đính, biên tập trước khi xuất bản để bảo đảm yêu cầu về chuyên môn.
Phát hành sách của hai dịch giả nhí đoạt giải dịch thuật trẻ em
951
Lũ lụt khiến cả khu vực Lugo chìm trong biển nước. Đây được coi là thảm họa lũ lụt nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm qua tại Italia . Tuần qua, khu vực Emilia-Romagna thuộc miền Bắc Italia đã bị tàn phá nặng nề bởi lũ lụt chưa từng có trong 100 năm trở lại đây. Được biết, thảm họa này đã gây hại nặng nề khi khiến khoảng 100 thành phố và thị trấn trong vùng bị ảnh hưởng, gấp 3 lần số lượng khu vực bị ảnh hưởng do trận động đất kinh hoàng xảy ra ở khu vực này vào năm 2012. Bên cạnh đó, lũ lụt cũng đã gây ra hơn 305 vụ lở đất, gây thiệt hại nhiều công trình như đường sá, nhà thờ, nhà ở của người dân. Theo chính quyền vùng Emilia-Romagna, đã có ít nhất 14 người thiệt mạng do thảm họa này và hàng ngàn người mất nhà cửa; số người phải sơ tán vì lũ lụt cũng đã tăng lên hơn 36.600 người. Ước tính, thiệt hại của thảm họa này sẽ lên tới hàng tỷ euro. Do mức độ nghiêm trọng của thảm họa, thủ tướng Italia Giorgia Meloni đã phải cắt ngắn lịch trình của mình tại Hội nghị thượng đỉnh G7 ở Nhật Bản để trở về giải quyết tình hình. “Đây là một thảm kịch nhưng chúng ta luôn có thể phục hồi mạnh mẽ sau các khủng hoảng” – bà Meloni chia sẻ tại thành phố Ravenna, một trong những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất do lũ lụt. Nguồn: Reuters, The Guardian
Chùm ảnh: Lũ lụt lịch sử càn quét quốc gia châu Âu, tàn phá khủng khiếp khiến nhiều người thiệt mạng
262
Cảnh quay trên không tuyệt đẹp được ghi lại ngoài khơi Bờ biển Barrington ở New South Wales của Úc cho thấy một đàn cá heo đang chơi lướt ván đầy ngoạn mục. Cảnh tượng đàn cá heo chơi “lướt ván” gần bờ.
Video: Cảnh tượng đàn cá heo chơi ‘lướt ván’ gần bờ
40
Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ Tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn nhằm tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc: Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra vào ngày mồng 10-3 âm lịch hàng năm tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Trước đó hàng tuần, lễ hội đã diễn ra với nhiều hoạt động văn hóa dân gian và kết thúc vào ngày 10-3 âm lịch với Lễ rước kiệu và dâng hương tại Đền Thượng. Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ Tổ Hùng Vương, diễn ra vào ngày mồng 10-3 âm lịch hàng năm tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ (ảnh Internet). Từ xa xưa, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người Việt. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “…Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi”. Như vậy, có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính. Tấm “Hùng miếu điển lệ bi” do Hội đồng Kỷ niệm tỉnh Phú Thọ lập năm Khải Định thứ 8 (1923) có hai phần: Phần thứ nhất, chép lại công văn của Bộ Lễ triều Nguyễn, ngày 25-7 năm Khải Định thứ nhất (1917) gửi các vị ở phủ viện đường đại nhân tỉnh Phú Thọ cùng nhau tuân thủ điều sau đây: “Xã Hy Cương, phủ Lâm Thao có miếu lăng phụng thờ Hùng Vương ở núi Hùng, trải các năm, cả nước đến tế, thường lấy kì mùa thu, chọn vào ngày tốt làm lễ, chưa có việc định rõ ngày, mà tục lệ của dân xã đó lấy ngày 11-3, kết hợp với thờ thổ kỳ, làm lễ riêng… (Sự thể này dẫn tới chỗ) thường hứng bất kì, hội họp cũng lãng phí theo sở thích, còn lòng thành thì bị kém đi… (Vì thế) cẩn thận định lại rằng, từ nay về sau, lấy ngày 11-3, lĩnh tiền chi vào việc công, phụng mệnh kính tế trước một ngày so với ngày hội tế của bản hạt, khiến nhân sĩ mọi miền đến đây có nơi chiêm bái…” Phần thứ hai của văn bia “Hùng miếu điển lệ bi” dành cho việc quy định “Đệ niên kỉ niệm hội nhật lễ nghi” (Nghi lễ ngày hội kỷ niệm hằng năm) với những câu như sau: “Nay phụng mệnh theo Bộ Lễ, chuẩn định ngày quốc tế tại miếu Tổ Hùng Vương là ngày 10-3. Chiều ngày mồng 9-3 hằng năm, các quan liệt hiến trong tỉnh, cùng các quan viên trong cả phủ huyện của tỉnh, đều phải mặc phẩm phục, tề tựu túc trực tại nhà công quán. Sáng hôm sau, tới miếu kính tế…” Như vậy, trước đây, Lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương chọn nhật kỳ tiến hành vào mùa thu, cụ thể tháng Tám Âm lịch, là mùa tổ chức các lễ hội có lịch sử cổ xưa hơn các lễ hội mùa xuân. Đến năm 1917 mới có quy định chính thức của triều Nguyễn (năm Khải Định thứ 2) lấy ngày mồng 10-3 âm lịch hàng năm làm ngày “quốc tế” (Quốc lễ, quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng 10-3 hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11-3) do dân sở tại làm lễ”. Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10-3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng 10-3 hằng năm làm ngày Quốc lễ, tức trước ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11-3) do dân sở tại làm lễ”. Kể từ đây, Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10-3 âm lịch hàng năm được chính thức hóa bằng luật pháp. Lễ rước kiệu Vua (ảnh Internet). Sau Cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm tới Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều đã về thăm viếng tại đây. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ nguồn”, ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của Chủ tịch nước số 22/SL-CTN ngày 18-2-1946 cho công chức nghỉ ngày 10-3 âm lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương – hướng về cội nguồn dân tộc. Trong ngày Giỗ Tổ năm Bính Tuất (1946) – năm đầu tiên của Chính phủ mới được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng – Quyền Chủ tịch nước đã dâng một tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và một thanh gươm quý nhằm cáo với tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã có hai lần về thăm Đền Hùng (19-9-1954 và 19-8-1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước – Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham quan”. Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thông báo là ngày lễ lớn trong năm. Ngành văn hóa thông tin – thể thao phối hợp với các ngành chức năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ ngày 1-3 đến ngày 10-3 âm lịch). Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 6-11-2001 về Nghi lễ Nhà nước, trong đó có nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, cụ thể như sau: – “Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các đoàn thể dự lễ dâng hương. – “Năm tròn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “5”; UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các đoàn thể dự lễ dâng hương. – “Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) dự lễ dâng hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội. Ngày 2-4-2007, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Bộ luật Lao động cho người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (ngày 10-3 âm lịch). Kể từ đây, ngày 10-3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn – Quốc lễ mang ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc. Ngày 6-12-2012, UNESCO đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng là dịp để giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, đồng thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng ngàn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài. Tế lễ trong Giỗ Tổ Hùng Vương (ảnh Internet). Tế lễ là hoạt động tín ngưỡng có tính cách tập thể cùng thể hiện một sự tôn thờ và sự kính trọng, biết ơn đến 18 chi đời các Vua Hùng đã có công dựng nước Văn Lang- Nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam và các đấng Thần linh, Thành hoàng, Thổ địa. Tập thể ở đây có thể là quốc gia ( quốc lễ), làng xã; có thể là một cộng đồng dân cư cùng chung một nơi thờ tự các Vua Hùng, hay một hội gồm nhiều hội viên cùng có chung tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng và cùng tổ chức tế lễ Vua Hùng tại lễ hội có di tích tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Như vậy, Tế lễ cũng là cúng lễ nhưng với hình thức và nghi thức có quy mô to lớn hơn đáp ứng nhu cầu thực hành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương cho một cộng đồng của một hay nhiều địa phương. Tế thường có âm nhạc, lễ vật, trang phục và có một ban Tế gồm nhiều người, nhiều chức sắc, có chúc văn Giỗ Tổ Hùng Vương được chủ tế đọc và hóa… Tế lễ có 2 điểm khác với khấn và cúng : – Tế lễ là cuộc dâng lễ vật một cách long trọng lên những các vị Vua Hùng và các vị Thần lớn như: Trời, Đất, Mùa Màng, Đức Khổng Phu Tử, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần, các bật tiên liệt có công với quê hương đất nước, các vị Thần linh, Thành Hoàng, Thổ địa của làng xã… – Tế lễ còn được tổ chức một cách trọng thể với cờ xí, nhạc lễ và phẩm phục, phẩm vật tế lễ là vật tam sinh: bò, dê, heo (lễ mặn); hoa quả, bánh chưng, bánh giầy, xôi, chè, kẹo…( lễ chay). Theo phong tục truyền thống, lễ Giỗ Tổ thường gồm 2 phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm: Lễ rước kiệu Vua: Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những tán lá cây để tới đỉnh núi Thiêng. Lễ tế và dâng hương: Thực hiện lễ cúng tế sau đó, mỗi người đều thắp lên đền vài nén hương. Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương. Phần hội có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến. Tương truyền vào thời nhà Nguyễn, lễ vật trong nghi thức tế lễ Hùng Vương gồm có heo, bò và dê. Trên tấm bia đá tại đền Thượng (Khu di tích lịch sử đền Hùng) cũng đề cập đến những lễ vật tương tự. Về sau, việc dâng lễ được cải biên một phần nhưng cơ bản vẫn giữ được ý nghĩa chung của lễ vật dâng cúng trong mùng 10/3 Âm lịch. Bộ tem “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”, được phát hành ngày 23/4/2015. Theo hướng dẫn nghi thức tưởng niệm các Vua Hùng trong Công văn số 796/HD-BVHTTDL ngày 18/3/2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lễ vật dâng cúng trong ngày Giỗ Tổ Hùng Vương cần phải có: – 18 cái bánh dày – 18 cái bánh chưng – Hương, hoa, nước, trầu, cau, rượu và ngũ quả Trong đó, con số 18 đại diện cho 18 đời Vua Hùng đã có công xây dựng và giữ gìn đất nước. Theo quan niệm dân gian, hai loại bánh trên tuy đơn giản nhưng ẩn chứa ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Cụ thể, bánh dày có hình tròn, thuộc hệ dương, không có góc cạnh, hình khối cụ thể, có thể giãn nở mọi phía, tượng trưng cho trời nên có màu trắng và không nhân. Trong khi đó, bánh chưng có hình vuông, thuộc hệ âm, có góc cạnh, hình khối cụ thể, tượng trưng cho đất đai, hoa cỏ, cây cối nên có màu xanh, bên trong có nhân thịt và đậu xanh đãi vỏ. Sự đối lập giữa âm và dương, trời và đất, vuông và tròn nói lên biết bao điều tốt đẹp của dân tộc, đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn, tình nghĩa vợ chồng son sắc, đó là công ơn sinh thành, dưỡng dục lớn lao của cha mẹ. Bên cạnh đó, theo tín ngưỡng phồn thực và triết lý “Nõ – Nường – Chày – Cối -Chưng – Dày”, hai hình ảnh trên còn biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở. Theo đó, bánh Chưng biểu tượng cho cha Rồng, bánh Dày biểu tượng cho mẹ Tiên. Cha Rồng, mẹ Tiên chính là khởi thủy cho cộng đồng dân tộc Lạc Việt sau này. Ngoài những lễ vật nêu trên, mâm cúng trong ngày Giỗ tổ Hùng Vương ở các địa phương còn có xôi, oản, hoa quả, rượu, hương, gạo muối, bánh chưng bánh dày, gà trống thiến luộc, thịt bò, thịt dê và thịt heo đen. Tác giả trước tấm bia ghi lời căn dặn của Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” tại Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng (thuộc núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Lễ giỗ Tổ Hùng Vương và Tuần Văn hóa – Du lịch Đất Tổ năm 2023 sẽ được tổ chức từ ngày 20/4 đến 29/4 (tức ngày 01/3 đến hết ngày 10/3 năm Quý Mão) tại tỉnh Phú Thọ với đầy đủ phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm: Giỗ Quốc tổ Lạc Long Quân và Dâng hương tưởng niệm Tổ mẫu Âu Cơ; lễ Giỗ Tổ Hùng Vương và Dâng hoa tại bức phù điêu “Bác Hồ nói chuyện với Đại đoàn quân tiên phong”; lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng của các huyện, thành, thị và cộng đồng. Phần hội (Tuần văn hóa – Du lịch Đất Tổ) gồm các hoạt động: Khai mạc “Lễ hội Đền Hùng và Tuần lễ di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh”; Hội thảo quốc tế “Diễn đàn du lịch, văn hóa, di sản và sự phát triển bền vững Việt Nam”; tổ chức Giải bơi chải và trình diễn ván chèo đứng trên hồ Công viên Văn Lang; Giải bóng đá Cúp Hùng Vương; Giải bóng chuyền các đội mạnh toàn quốc tranh Cúp Hùng Vương; Liên hoan văn hóa ẩm thực Đất Tổ và một số hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch khác. Các hoạt động phần hội gắn kết chặt chẽ với du lịch, tạo thành chuỗi các hoạt động Tuần văn hóa – Du lịch Đất Tổ, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo vùng Đất tổ, tạo sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch, quảng bá rộng rãi tiềm năng, thế mạnh tài nguyên du lịch văn hóa Phú Thọ. Tác giả trước nơi thờ Vua Hùng và Bác Hồ tại Đền tưởng niệm các Vua Hùng và Bác Hồ (xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) . Bên cạnh đó còn có các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch khác như: Triển lãm “Di sản văn hóa, du lịch các vùng kinh đô Việt Nam”; trưng bày tư liệu, hiện vật về lễ hội và Tín ngưỡng thời đại Hùng Vương; triển lãm ảnh nghệ thuật với chủ đề “Quê hương, con người Phú Thọ”; Chương trình “Hát Xoan làng cổ” phục vụ khách du lịch; biểu diễn múa rối nước; trình diễn đâm đuống, đánh trống đồng; hội thi gói nấu bánh chưng, giã bánh giầy; Lễ hội áo dài trẻ em Việt Nam “Hướng về nguồn cội”; trình diễn trang phục áo dài dân tộc Việt Nam; thi đấu các môn thể thao truyền thống; giải đua xe đạp phong trào các câu lạc bộ Việt Trì mở rộng; tổ chức đoàn famtrip “Hành trình du lịch sắc màu Trung du”. Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng là dịp để giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, cùng nhau hướng về nguồn cội, tri ân công đức Tổ tiên; đồng thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng ngàn năm, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên quê hương Đất Tổ. .
Giỗ Tổ Hùng Vương – Di sản văn hóa độc đáo của người Việt – Tác giả: Nhà báo Phan Thanh Đà Hải
3,238
Sách Man mác Vàm Nao của Trương Chí Hùng. Khép lại cuốn sách của Trương Chí Hùng với nhiều cung bậc cảm xúc, tôi tin chắc rằng sau khi đọc xong, mỗi người sẽ yêu mến hơn vùng đất An Giang xinh tươi này. Ngày tôi có được quyển sách, tôi không vội vàng mở ra xem, thay vào đó các ngón tay tôi bắt đầu chạm bìa sách, thích thật! Chưa gì đã “ghiền”, tôi đặt cả lòng bàn tay mình từ từ chạm vào và bắt đầu mân mê nhè nhẹ. Bìa sách thật đẹp! Nó không quá đỗi trang hoàng nhưng gợi một cảm giác dễ chịu. Cuốn sách Man mác Vàm Nao của tác giả Trương Chí Hùng là tập bút ký chứa đầy trải nghiệm được ghi chép lại của nhà văn. Nhà văn Trương Chí Hùng quê ở huyện Phú Tân , An Giang , các tác phẩm trước đó đã được xuất bản như: Tập thơ Một nửa nhà quê (2014); tản văn Trong sương thương má (2019) đều nhận được nhiều sự yêu thích của bạn đọc. Thông qua các câu chuyện, nhà văn luôn chất chứa những tình cảm thiết tha trong sáng đối với quê hương xứ sở, cảm xúc hoài niệm với khoảng thời gian hào hùng đã qua, sự bùi ngùi giữa các cuộc tương ngộ éo le và sự lạc quan trong tháng ngày rong ruổi khám phá điều mới lạ. Ngay từ trang đầu sách đã gây chú ý với người đọc: “ Dân quê tôi đảm bảo ai cũng từng nghe qua địa danh Vàm Nao, nhưng khi hỏi Vàm Nao nghĩa là gì, chắc chắn 99,99% người dân không biết”. Vàm Nao nghĩa là gì? Tôi quyết tâm đọc để tìm ra đáp án, mới hay đã có rất nhiều sách vở lý giải cái tên Vàm Nao ấy, lý giải từ nguồn sách Gia Định thành thông chí đến Đại Nam nhất thống chí hoặc lại cho rằng nói từ Vàm Nao xuất phát từ tiếng Khmer là “ Peam Ta Nau” nghĩa là “Vàm sông ông Nau”. Tất nhiên những những lý giải trên đều có căn cứ, tuy vậy, sách đưa ra một kết luận từ một nhân vật tên Hữa Hiệp khiến tôi rất tán đồng: “Thật ra Vàm Nao chỉ là cái nơi cửa sông nước chảy làm “nao lòng” người mà thôi”. Tôi nghe trong lời nói như có chút gì của dư âm cuộc sống bề bộn, không phải là lãng quên mà là cất giấu nó vào trong sâu thẳm tâm trí người dân nên không cần nhắc đến. Quả thật tôi sinh ra và lớn lên ở đất An Giang nhưng có khi nào đi hết những địa danh, thắng cảnh quê mình, nổi tiếng nhất là vùng Thất Sơn Bảy Núi. Nhưng những trang sách của nhà văn đã đưa tôi phần nào đi đến những ngọn núi ấy, biết thêm rất nhiều thứ mới mẻ, đồng thời là sự cảm thông thương xót cho những con người bươn chải lo toan cho cuộc sống. Tôi không khỏi rùng mình trong hàng trăm nghề nghiệp lại có nghề gánh đá, có thể hiểu những người phu phải gánh những viên đá to đùng từ bến xuống ghe phải đi qua tấm ván có chiều dài hai tấc rưỡi, nguy hiểm vô cùng. Nhưng dù thế Bảy Núi vẫn là nơi thiêng liêng chứa nhiều bí ẩn. Từ biệt vùng núi cao, ta “theo chân” tác giả… xuống nước. Như đã nói quyển sách Man mác Vàm Nao mang đậm chất Miền Tây sông nước, cái dân dã thẩm thấu đến từng câu chữ, núi non hùng vĩ là thế và sông nước cũng mượt mà là thế. Tôi như sống lại với con nước nổi trong hồi ức, quê ngoại tôi sống gần sông nên việc đánh bắt cá như một nghề truyền thống, các trang sách trong phần Bấp bênh mùa nước nổi của nhà văn Trương Chí Hùng gợi lại nhiều hình ảnh gần gũi biết bao. Một lần nữa nhà văn đưa tôi phiêu lưu trong miền ký ức: “Nghề hạ bạc xôm tụ nhất vào thời điểm nước mới chụp lên và khi nước rút gần cạn đồng, chứ lúc nước bêu thì chịu. Nước bêu là thời kỳ nước đạt đỉnh cao nhất của mùa nước nổi. Khi ấy cánh đồng mênh mông nước, cây cỏ ngập hết, cả những thân cây gỗ lớn như cây còng hay cây gáo cũng bị ngập gần tới đọt”. Thời nước ngập, nhìn đâu cũng là nước thử hỏi lũ trẻ chúng tôi sao không thích được chứ, bày ra nhiều trò nghịch nước, tắm sông. Trái lại với gương mặt đầy nghịch ngợm của lũ trẻ, khi đó tôi để ý thấy gương mặt các phụ huynh ai nấy cũng buồn xo, lớn thì hiểu vì nước lớn rồi giông bão cuốn trôi nhiều của cải. Những trang viết về nước lũ này khiến ta liên tưởng đến tác phẩm Ông Cá Hô của nhà văn Lê Văn Thảo, cũng là khung cảnh sông nước dập dờn, con cá hô mà Lê Văn Thảo khắc họa như là một con vật huyền thoại, nặng gần trăm kí, vảy bạc, mắt sáng rực ở Cồn Te và nhân vật chú Dương sinh sống bằng việc bắt cá hô đem ra chợ bán, nếu nói cá hô kia là thử thách thì chú Dương là người vươn lên, vượt mọi thử thách, chú Dương câu được con cá hô trăm kí thật. Ngư dân sống bằng nghề hạ bạc cũng như vậy luôn phải đối đầu với thử thách khó khăn. Cuốn sách là sự kết tinh của tri thức lẫn trải nghiệm của tác giả, nhà văn cho tôi cảm xúc ngọt ngào, mang dư vị quê hương với những thú vui tao nhã đời thường như đờn ca tài tử, đến những cuộc hành trình ghé thăm nước bạn Lào. Tràn đầy những điều lý thú, trong phần Chiều mưa thánh đường , nhà văn Trương Chí Hùng đã về thăm Châu Giang với Châu Phong liền kề nhau, đây là nơi những người bạn dân tộc Chăm sinh sống. Trương Chí Hùng đã miêu tả xác thực về văn hóa Chăm, người Chăm với đôi mắt đen láy, đôi mi cong vút… Tôi tin chắc ai yêu mến An Giang khi đọc cuốn Man mác Vàm Nao ngay phần này sẽ ngỡ ngàng vì người Chăm có rất nhiều điểm lý thú. Khép lại trang 169 của quyển sách với nhiều cung bậc cảm xúc, tôi tin chắc rằng sau khi đọc xong, mỗi người sẽ yêu mến hơn vùng đất An Giang xinh tươi này. Đâu đó trong trái tim tôi cũng dâng lên một tình yêu quê hương. Cuối cùng nhà văn chia sẻ: “Tôi viết cuốn sách này là muốn lưu giữ những giá trị thiêng liêng của miền sông nước đang đứng trước bao biến thiên thế cuộc”. Tôi thầm nghĩ, vậy là những “giá trị” này sẽ tồn tại mãi với thời gian sẽ không xóa nhòa đâu anh nhỉ?
Man mác Vàm Nao – khung trời sông nước
1,158
Trong số 380 loài mới được các nhà khoa học phát hiện tại khu vực tiểu vùng sông Mekong của Đông Nam Á, có tới 158 loài tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam. Số liệu trên vừa được WWF công bố sau khi tập hợp hàng trăm công trình nghiên cứu của các nhà khoa học từ các trường đại học, tổ chức bảo tồn và viện nghiên cứu trên thế giới trong năm 2021, 2022. Theo đó, 290 loài thực vật, 19 loài cá, 24 loài lưỡng cư, 46 loài bò sát và một loài động vật có vú đã được tìm thấy ở Campuchia , Lào , Myanmar , Thái Lan và Việt Nam . Các phát hiện góp phần nâng tổng số loài được tìm thấy trong khu vực lên tới 3.390 loài kể từ 1997 đến nay. Ếch rêu khôi mang trên mình màu xanh rêu, giúp loài này hòa lẫn vào các tảng đá phủ đầy rêu và địa y. Một số loài được phát hiện và mô tả ở Việt Nam gồm: Rhododendron tephropeploides – loài hoa trắng được phát hiện ở Phan Xi Păng, đỉnh núi cao nhất Việt Nam, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Xephoanthus nubigenus – “hoa mây”, được phát hiện trong các khu rừng có mây bao phủ tại cao nguyên Lang Biang ở tỉnh Lâm Đồng. Theloderma khoii – ếch rêu khôi, loài ếch lớn tuyệt đẹp mang trên mình màu xanh rêu, giúp loài này hòa lẫn vào các tảng đá phủ đầy rêu và địa y. Bậc thầy ngụy trang này được tìm thấy tại các thung lũng sâu hẹp ở các vùng rừng núi đá vôi khu vực Đông Bắc Việt Nam. Subdoluseps vietnamensis – loài thằn lằn bóng được phát hiện ở các khu rừng quanh các rừng keo và đồn điền cao su ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tỉnh Bình Thuận, miền Nam. Nhờ khả năng đào hang dưới cát mà loài này có thể tránh được những kẻ săn mồi và các đám cháy. Xenopeltis intermedius – loài rắn được đặt tên theo lớp vảy óng ánh trên thân, được phát hiện ở độ cao 2.500m so với mực nước biển ở vùng trung núi Trường Sơn. “Hoa mây” được phát hiện ở cao nguyên Lang Biang, Lâm Đồng. Ông Nguyễn Văn Trí Tín, Quản lý Chương trình Bảo tồn Động vật Hoang dã của WWF-Việt Nam cho biết: “Những loài mới này đang chịu áp lực rất lớn từ nạn phá rừng, môi trường sống bị phá hủy, phát triển đường sá, ô nhiễm, dịch bệnh lây lan. Nguyên nhân được xác định do các hoạt động của con người, phải cạnh tranh với các loài xâm lấn và chịu tác động tàn phá của nạn buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp. Thậm chí, nhiều loài đã tuyệt chủng trước khi chúng được phát hiện”. WWF – Việt Nam kêu gọi hành động cấp bách để ngăn chặn sự tuyệt chủng các loài hoang dã bằng cách bảo vệ sinh cảnh sống của chúng, hỗ trợ khôi phục quần thể các loài tự nhiên, tái hoang dã và ngăn chặn các hoạt động săn bắt mua bán động vật hoang dã trái phép. Tiến sĩ Trương Q. Nguyên thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cũng nhấn mạnh, cần hành động ngay lập tức và tăng cường sử dụng các công nghệ mới như âm thanh sinh học và công nghệ giải trình tự gen để giúp các nhà khoa học khám phá thêm nhiều loài trong điểm nóng đa dạng sinh học này. “Để đảo ngược tình trạng suy thoái đa dạng sinh học đang ở mức báo động trong khu vực, chúng ta cần những nỗ lực khẩn cấp, dựa trên cơ sở khoa học và đồng bộ cũng như các giải pháp bảo tồn cần được chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và công chúng quan tâm nhiều hơn”, ông nói.
158 loài mới được phát hiện ở Việt Nam
659
Lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá ý nghĩa chuyến thăm của ông Dmitry Medvedev là dịp để trao đổi định hướng trong hợp tác Việt Nam – Nga . Chiều 22/5, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã tiếp Chủ tịch Đảng nước Nga Thống nhất, Phó Chủ tịch Hội đồng an ninh Nga Dmitry Medvedev đang có chuyến thăm Việt Nam. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đánh giá ý nghĩa chuyến thăm của ông Dmitry Medvedev là dịp để hai bên trao đổi về những định hướng trong hợp tác Việt Nam – Nga, trong đó có hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước. Chủ tịch Đảng nước Nga Thống nhất Dmitry Medvedev khẳng định, Liên bang Nga rất coi trọng quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Lãnh đạo cấp cao Nga, trong đó có Đảng nước Nga Thống nhất quan tâm phát triển mối quan hệ với Việt Nam như một trong những ưu tiên hàng đầu và là đối tác quan trọng tại khu vực. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Chủ tịch Đảng nước Nga Thống nhất. Ảnh: TTXVN Chủ tịch nước cho biết, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; luôn ghi nhớ sự ủng hộ và giúp đỡ mà nhân dân Liên Xô trước đây dành cho Việt Nam. Việt Nam coi trọng quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga, mong muốn cùng Nga tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác chiến lược toàn diện vì lợi ích của hai quốc gia, vì sự thịnh vượng của hai dân tộc. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và Chủ tịch Đảng nước Nga Thống nhất Dmitry Medvedev hoan nghênh kết quả chính trong hợp tác, nhất là kinh tế – thương mại, khoa học, GD&ĐT, hợp tác địa phương… Nhân dịp này, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cảm ơn Nga tiếp tục dành học bổng hàng năm cho sinh viên Việt Nam tại các cơ sở GD&ĐT của Nga. Lãnh đạo Việt Nam tin tưởng phiên họp lần thứ 4 Ủy ban hợp tác Việt Nam – Nga về giáo dục, khoa học và công nghệ dự kiến tổ chức vào cuối năm nay sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác mới. Hai nhà lãnh đạo nhất trí sẽ tiếp tục thúc đẩy giao lưu nhân dân, trong đó có thế hệ trẻ; phát huy vai trò của các hội Hữu nghị giữa hai nước, nhằm tăng cường hiểu biết, lưu giữ những giá trị tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị truyền thống với bề dày lịch sử gần 75 năm. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng gửi lời chào thăm hỏi đến Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin. Ảnh: TTXVN Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cảm ơn và đề nghị lãnh đạo, chính quyền Nga và Đảng nước Nga Thống nhất tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam tại Nga sinh sống, làm ăn, học tập lâu dài, ổn định.
Chủ tịch nước tiếp Chủ tịch Đảng nước Nga Thống nhất Dmitry Medvedev
517
Hướng tới Kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Thời báo Văn học Nghệ thuật (Cơ quan ngôn luận của Liên hiệp) vừa tổ chức lễ phát động Cuộc thi tiểu thuyết Thời báo Văn học Nghệ thuật lần thứ nhất năm 2023-2025 tại Hà Nội . PGS. TS, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân phát biểu khai mạc lễ phát động. Cuộc thi hứa hẹn thu hút đông các nhà văn mong muốn thử sức ở một thể loại đòi hỏi tài năng, vốn sống và độ tập trung cao tham gia. Cuộc thi tiểu thuyết Thời báo Văn học Nghệ thuật huy động các nhà văn chuyên nghiệp và không chuyên, người yêu văn học ở trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam tham gia sáng tác tác phẩm, phản ánh chân thực và sinh động hiện thực công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khắc họa hình tượng con người Việt Nam, nhất là công nhân, nông dân, lực lượng vũ trang, trí thức, doanh nhân; góp phần xây dựng hình tượng và hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Cuộc thi cũng nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước và trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, người yêu văn học nghệ thuật sáng tạo các tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị đáp ứng mong muốn của Đảng, Nhà nước và nhu cầu thưởng thức văn học nghệ thuật của nhân dân; đồng thời phát hiện, bồi dưỡng các cây bút, nhất là các cây bút trẻ để đóng góp vào sự phát triển của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Phát biểu khai mạc lễ phát động, PGS. TS. nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đánh giá cao sáng kiến của Thời báo Văn học Nghệ thuật trong việc tổ chức cuộc thi tiểu thuyết này. Trong giai đoạn từ năm 2023 đến năm 2025, ở nước ta sẽ diễn ra nhiều lễ kỷ niệm lớn của dân tộc và các sự kiện lịch sử-văn hóa của đất nước nói chung và của nền văn học nghệ thuật nước nhà nói riêng, đặc biệt là kỷ niệm: 80 năm cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, 50 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, 75 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Với những sự kiện này, hy vọng cuộc thi sẽ lan tỏa trong giới văn sĩ, và nói như PGS. TS. nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân là “tiếng chuông trước những thời cơ mới, những vận hội mới và cũng là niềm cảm hứng mới khi đất nước đang bước vào giai đoạn mới với những cơ hội mới”. Các tác giả gửi tác phẩm trực tiếp bằng sách đã in và nộp lưu chiểu, bản thảo giấy hoàn chỉnh in trên giấy khổ A4 hoặc file bản thảo qua internet với 2 tác phẩm mỗi người. Các tác phẩm được sáng tác từ ngày 10/12/2022 đến hết ngày 1/3/2025, chưa gửi tham dự và nhận giải ở các cuộc thi khác. Tác giả phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của bản quyền tác giả và sở hữu trí tuệ. Các đại biểu văn nghệ sĩ dự lễ phát động. Các tác giả gửi tác phẩm dự thi về địa chỉ: Tòa soạn Thời báo Văn học nghệ thuật, Nhà A, tầng 1, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, số 32 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội hoặc email: Thời gian công bố giải thưởng cuộc thi dự kiến vào ngày 28/4/2025. Theo Trưởng Ban tổ chức cuộc thi, nhà văn, nhà báo Hoàng Dự, Tổng Biên tập Thời báo Văn học Nghệ thuật, cuộc thi có tổng giá trị giải thưởng 270 triệu đồng, trong đó có 1 giải Nhất, 2 giải Nhì, 3 giải Ba, 5 giải Khuyến khích. Ban Giám khảo uy tín đã được thành lập với sự tham gia của nhà văn Hoàng Quốc Hải , nhà văn Khuất Quang Thụy ; nhà văn, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng ; nhà văn, nhà lý luận phê bình Nguyễn Thanh Tú ; Nhà văn, nhà lý luận phê bình Bích Thu.
Phát động cuộc thi tiểu thuyết Thời báo Văn học nghệ thuật lần thứ nhất
724
Bẫy săn mang hình dáng giống chiếc diều khi nhìn từ trên cao. Ảnh: O. Barge/CNRS. Các bản khắc được tìm thấy ở Saudi Arabia và Jordan dường như khớp với bẫy đá khổng lồ cổ đại gần đó, được gọi là ‘diều sa mạc’ vì hình dáng khi nhìn từ trên cao. Các nhà khảo cổ học làm việc tại Saudi Arabia và Jordan cho biết họ đã phát hiện ra sơ đồ cấu trúc lâu đời nhất từng được biết đến, CNN đưa tin. Theo nghiên cứu mới được công bố hôm 17/5 trên tạp chí khoa học PLOS One , “những mô tả cực kỳ chính xác” về chi tiết công trình bẫy khổng lồ đã được khắc trên các phiến đá. Công trình này được sử dụng để bẫy các loài động vật hoang dã, như linh dương, lùa chúng vào nơi cả đàn có thể bị giết thịt. Bẫy săn thời kỳ đồ đá có niên đại khoảng 9.000 năm và mang hình dáng giống chiếc diều khi nhìn từ trên cao. Hình vẽ chính xác về công trình “diều sa mạc” cho thấy từ xa xưa, những người chế tạo và sử dụng bẫy đã có kiến thức tiên tiến và tinh vi về nhận thức không gian và có thể xử lý thông tin không gian phức tạp. “Về mặt phát triển nhận thức, điều này khá là tuyệt vời”, nhà khảo cổ học Wael Abu Azizeh, nói. Trước đó, các nhà khảo cổ đã báo cáo việc phát hiện hai phiến đá khắc được tìm thấy vào năm 2015 ở Jordan và Saudi Arabia. Ông Abu Azizeh, thành viên trong nhóm, đã phát hiện ra một trong số chúng tại khu định cư cũ ở khu vực Jibal al-Khashabiyeh ở Jordan, nơi có 8 bẫy đá. Ông chia sẻ “trong vài giây”, ông nhận ra các dấu hiệu được tạo ra trên phiến đá dài 80 cm, được cho là 7.000 năm tuổi, đại diện cho một công trình bẫy đá khổng lồ gần đó. “Tôi đã nghĩ đến ý tưởng về những ‘con diều sa mạc’ gần đó và nó đến rất đột ngột, rất nhanh”, Abu Azizeh nói. Các đồng nghiệp của ông ở Saudi Arabia đã khai quật được một viên đá khắc lớn hơn ở vùng Jebel az-Zilliyat dài gần 4 m. Phiến đá mô tả hai bẫy đá khác nhau chỉ cách nhau 120 m. Bản khắc được cho là đã được thực hiện cách đây 8.000 năm. Nghiên cứu cho thấy hình dạng, bố cục và tỷ lệ của các hình khắc phù hợp với phần còn lại thực tế của những bẫy đá khổng lồ hiện nay. “Các bản khắc chân thực và chính xác một cách đáng kinh ngạc, hơn nữa còn có tỷ lệ lớn”, theo nghiên cứu. Bản khắc được tìm thấy ở Saudi Arabia được tạo ra ở tỷ lệ xấp xỉ 1:175, nghĩa là bẫy đá thực tế lớn hơn bản khắc 175 lần. Những chiếc bẫy cổ xưa lần đầu tiên được phát hiện ở sa mạc Trung Đông vào những năm 1920 bởi các phi công lái máy bay. Những bức tường tụ lại, dài từ hàng trăm mét đến 5 km, sẽ giúp lùa động vật về phía một bãi quây lớn được bao quanh bởi một số hố sâu tới 4 m. Không có nhiều thông tin về những người đã làm ra bẫy đá. Đây có thể là một công trình lớn liên quan đến nỗ lực tập thể. Những bẫy đá, đôi khi được tổ chức thành chuỗi, sẽ cho phép các cộng đồng săn bắt một số lượng lớn động vật cùng lúc.
Phiến đá tiết lộ kế hoạch xây dựng ‘siêu cấu trúc’ cổ đại
594
Lửa đỏ bùng nổ khắp Io trong hình ảnh của JIRAM - Ảnh: NASA. Tàu vũ trụ trụ Juno của NASA đã chụp được khoảnh khắc hỏa ngục đáng sợ của mặt trăng mang tên nữ thần Hy Lạp xinh đẹp Io. Theo tờ Space , hình ảnh được chụp trong chuyến bay thứ 51 của tàu Juno quanh Sao Mộc. Trong chuyến đi này, Juno đã đến gần mặt trăng núi lửa Io của Sao Mộc hơn bao giờ hết – với khoảng cách chỉ 35.500 km – và chụp được những hình ảnh rõ nét nhất về nó. Tuyên bố của NASA cho biết vẻ ngoài đôi khi yên tĩnh của hành tinh này là một cú lừa lớn. Nó không chỉ liên tục hoạt động núi lửa, mà còn là thiên thể có nhiều núi lửa nhất trong hệ Mặt Trời dù nhỏ hơn hành tinh của chúng ta nhiều. Một số hình ảnh chi tiết được thiết bị chụp ảnh ánh sáng khả kiến JunoCam của tàu Juno ghi lại cho thấy bề mặt màu đỏ của Io khi nhìn từ xa là do các núi lửa đang bốc cháy. Những bức ảnh chụp bằng hồng ngoại bởi thiết bị JIRAM của tàu vũ trụ này thì cho thấy rõ ràng những “điểm nóng” dày đặc trên mặt trăng. Io dưới ánh sáng khả kiến – Ảnh: NASA. “Bằng cách quan sát nó theo thời gian trong nhiều lần Juno đi qua, chúng ta có thể xem các núi lửa khác nhau như thế nào – tần suất chúng phun trào, độ sáng và độ nóng, liệu chúng có liên kết thành nhóm hay đơn lẻ và liệu hình dạng của dung nham có thay đổi hay không” – trưởng nhóm điều hành Juno Scott Bolton cho biết. Gọi Io là “mặt trăng bị tra tấn” vì các nghiên cứu của NASA cho thấy hoạt động núi lửa thảm khốc này chính là do tác động cực mạnh của lực thủy triều từ hành tinh mẹ khổng lồ của nó và cả các mặt trăng khổng lồ khác. Sao Mộc đã bóp méo mặt trăng này theo nghĩa đen, chưa kể nó còn lọt trong một “trò chơi kéo co” tử thần bởi lực hấp dẫn từ các mặt trăng Sao Mộc khổng lồ khác như Europa và Ganymede cũng rất mạnh. Tất cả các lực liên tục giằng xé Io đã khiến bề mặt của mặt trăng lồi lõm một cách bất thường và hoạt động bên trong cũng trở nên đầy cuồng nộ.
NASA chụp cận cảnh ‘mặt trăng bị tra tấn’ bởi hành tinh mẹ
417
Umberto Eco chiếm một vị trí đặc biệt trong nền văn học và lí luận đương đại. Ông nghiên cứu nhiều lĩnh vực: kí hiệu học, triết học, mĩ học, văn học, phê bình văn học, dịch thuật, phê bình dịch thuật. Ông tham gia giảng dạy và thuyết trình tại nhiều trường đại học danh tiếng như Yale, Cambridge, Oxford và Harvard. Cuốn sách Lịch sử Cái đẹp của Umberto Eco sau khi được phát hành đã thu hút sự quan tâm của đông đảo độc giả bởi dung lượng kiến thức đồ sộ và hình thức trình bày công phu, đẹp mắt. Trong đó, Umberto Eco dày công khai phá một chủ đề khó: Cái Đẹp dưới góc nhìn của phương Tây xuyên suốt từ thời Hi Lạp cổ đại tới ngày nay. Hiếm có một cuốn sách nào có thể cắt nghĩa được phạm trù Cái Đẹp tỉ mỉ và cẩn trọng như vậy. Trong cuốn bách khoa thư đồ sộ với hơn 200 bức tranh và tiểu hoạ, hơn 50 tác phẩm điêu khắc, bình gốm cùng rất nhiều hình ảnh tái hiện các công trình kiến trúc, khảo cổ, nghệ thuật thời trang, độc giả còn bắt gặp một khối lượng lớn những bài luận của Eco, các trích dẫn tác phẩm văn học, nghị luận, triết học, âm nhạc và khoa học với nỗ lực kiến giải phạm trù Cái Đẹp đa diện nhất. Cái Đẹp chưa bao giờ là tuyệt đối và bất biến, mà mang nhiều diện mạo khác nhau tùy thời kì lịch sử và tùy quốc gia. Điều này được áp dụng không chỉ cho Cái Đẹp hình thể (của đàn ông, phụ nữ hay phong cảnh thiên nhiên), mà cả Cái Đẹp tâm linh, ý niệm, đấng cứu thế hay thần thánh. Bởi vậy, theo dòng thời gian, cuốn bách khoa thư Lịch sử Cái Đẹp của Umberto Eco sẽ đưa độc giả đi từ thời Hi Lạp cổ đại tới tận ngày nay, để hé mở cánh cửa của sự Đẹp dưới quan điểm của thời đại. Chương I và chương II tập trung vào lí tưởng thẩm mĩ thời Hi Lạp cổ đại, trong đó tác giả phác họa khái niệm sơ khởi của con người đương thời về Cái Đẹp là một thứ thường gắn liền với các môn nghệ thuật thể hiện nó và chưa có vị thế thống nhất: trong các bản tụng ca, Cái Đẹp được thể hiện bằng sự hài hòa của vũ trụ, trong thơ ca, nó được thể hiện qua kích thước tương ứng và sự đối xứng giữa các bộ phận, còn trong thuật hùng biện, nó được thể hiện qua nhịp độ phù hợp. Chương III xem xét Cái Đẹp như là tỉ lệ và sự hài hòa, thể hiện ở các yếu tố như: cân đối về số học, hài hòa về nhịp điệu âm nhạc, hợp lí về tỉ lệ trong kiến trúc dưới góc nhìn của hình học không gian và biểu tượng học. Eco cũng đánh giá tầm quan trọng của tỉ lệ đối với thẩm mĩ ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, và đi đến kết luận rằng ở mỗi thời kì, tỉlệ lí tưởng lại mang một định nghĩa khác: nếu như ở thời Hi Lạp cổ lí tưởng là tỉ lệ chính xác giữa các bộ phận thì tỉ lệ tiêu chuẩn của người Ai Cập phải liên quan tới toàn bộ kết cấu, tỉ lệ giữa các bộ phận phụ thuộc vào cử động của cơ thể, sự thay đổi của phối cảnh. Giai đoạn này cũng sinh ra những khái niệm về tỉ lệ hoàn hảo có tác dụng đến tận ngày hôm nay trong các lĩnh vực mĩ thuật cũng như thiết kế như tỉ lệ vàng hay sự tương phản giữa các mặt đối lập. Chương IV tác giả đặc biệt bày tỏ lòng yêu thích của mình với giai đoạn Trung cổ bằng cách đi sâu vào phân tích Cái Đẹp của thời kì này, dưới góc độ ánh sáng và màu sắc. Mặc dù tồn tại tới tận ngày nay một định kiến phổ biến rằng Trung cổ là một thời đại “tối tăm”, “thời đại đen tối” thì người Trung cổ lại tự coi mình sống trong một môi trường đầy ánh sáng. Điều này phần nào thể hiện qua thơ và hội họa đương thời. Tại chương này, Eco đã sử dụng màu sắc để kể cho độc giả của mình câu chuyện về đời sống Trung cổ: màu sắc sáng rọi của Chúa, màu sắc rực rỡ và xa xỉ của người giàu (phản ánh chân thực sự thật rằng kĩ thuật nhuộm màu rực rỡ ở thời đó vô cùng đắt đỏ), sự gắn liền với màu sắc mà thiên nhiên ban tặng của những người nghèo khó, màu sắc trong thơ ca và thần bí học cùng với màu sắc trong cuộc sống thường nhật. Các chương V-VI-VII-VIII đề cập đến nét đẹp của một đối tượng nghiên cứu cụ thể: Cái Đẹp của Cái Xấu, người phụ nữ, Vệ nữ, các quý nương và anh hùng,… Mỗi đối tượng ở vào mỗi thời kì lại được con người khắc họa theo một tiêu chuẩn riêng. Đến Cái Xấu cũng có nét đẹp của riêng nó. Ở đó, tác giả chỉ rõ rằng “Cái Xấu cần cho Cái Đẹp”, rằng “vũ trụ được tạo như một tổng thể thống nhất và cần phải được nhận thức giá trị một cách trọn vẹn, là nơi mà ngay cả bóng tối cũng góp phần làm cho ánh sáng trở nên rạng rỡ hơn và ngay cả cái có thể bị coi là xấu cũng có thể được coi là đẹp trong khuôn khổ của Trật tự chung”. Umberto Eco đã dành cả chương IX để khắc họa Cái Đẹp dưới thời kì Phục Hưng – giai đoạn lịch sử mang đậm tính cổ điển và có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống trí thức Châu Âu đương thời. Các phần còn lại của cuốn bách khoa thư được Umberto Eco dành cho ba giai đoạn quan trọng: Thế kỉ 18, thế kỉ 19 và thế kỉ 20. Thế kỉ 18 đánh dấu sự đổi mới của chủ nghĩa Cổ điển và Tân cổ điển, thể hiện rõ ràng nhất trong các tác phẩm hội họa hay kiến trúc. “Kiến trúc Anh thế kỉ 18 thể hiện trước hết tính trang nhã điều độ và khiếu thẩm mĩ tốt, khẳng định bước đi tách biệt hoàn toàn khỏi các dư thừa của Baroc”. Nhắc đến Cái Đẹp của thế kỉ 19, tác giả đi sâu vào Cái Đẹp lãng mạn trong Chủ nghĩa lãng mạn, Cái Đẹp trong tôn giáo và những Cái Đẹp mới. Chuyển giao giữa thế kỉ 19 và thế kỉ 20, lịch sử ghi nhận những đối tượng đẹp mới mẻ và đột phá hơn, có thể kể đến là Cái Đẹp từ sắt và thuỷ tinh (như Tháp Eiffel ở Paris hay Toà nhà pha lê của Joseph Paxton), nghệ thuật Deco, Cái Đẹp từ kiến trúc “hữu cơ”. Umberto Eco cũng chỉ rõ một vấn đề của thời đại để độc giả của mình tự vấn: Từ thế kỉ 20, dễ nhận thấy rằng thế giới đang chuyển mình để trở thành một nơi bị chi phối hoàn toàn bởi giá trị trao đổi. Đồ vật phải “ngon-bổ-rẻ” và được sản xuất hàng loạt, đồng nghĩa với việc Cái Đẹp mới có thể được tái tạo dễ dàng, nhưng cũng mang tính tạm thời và dễ hư hỏng. Liệu tính chất sản xuất hàng loạt có phải là số phận của Cái Đẹp trong thời đại tái tạo kĩ thuật của nghệ thuật? Umberto Eco (1932 – 2016), là nhà văn, nhà lí luận, triết gia, nhà kí hiệu học lừng danh. Tên tuổi của Eco gắn liền với cuốn tiểu thuyết đầu tay Tên của đóa hồng – xuất bản lần đầu năm 1980. Cuốn sách đã trở nên nổi tiếng toàn cầu và được dịch sang 47 ngôn ngữ, bán được hơn năm mươi triệu bản. Ngoài ra, ông còn là tác giả của một số tác phẩm như: Con lắc Foucault , Nghĩa địa Praha , Số không .
Những góc nhìn về Cái Đẹp – Tác giả: Thu Lan
1,374
Nhà văn Nga Anton Tsekhov. Không ai biết trong đời mình, một nhà văn đã từng yêu bao nhiêu người. Nhưng chúng ta có thể biết, nhà văn ấy đã từng đau đớn vì những ai trên tình trường. Với văn hào Nga Anton Tsekhov, nhận định này càng đúng. Ông từng nổi tiếng thế giới với những truyện ngắn và kịch về tình yêu. Tuy nhiên, cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, Tsekhov vẫn chưa viết xong nổi tác phẩm nhiều dư vị nhất của mình: mối tình giữa ông với nữ nghệ sĩ sân khấu Olga Knipper. Lần đầu tiên Tsekhov nhìn thấy người vợ tương lai là vào năm 1898. Khi đó, ông tới xem vở diễn Sa hoàng Fiodor Ioannovich trên sân khấu của Nhà hát nghệ thuật hàn lâm Mátxcơva (MKHAT) mà hai tên tuổi lẫy lừng Stanislavsky và Nemirovich – Danchenko vừa lập ra. Ấn tượng còn lại trong lòng nhà văn đa cảm về vở diễn như sau: “Tôi cảm thấy khá xúc động với giọng điệu trí thức của vở diễn và hơi hướng của một thứ nghệ thuật đích thực phảng phất từ sân khấu, dẫu rằng những diễn viên tham gia không phải là những tài năng lớn. Chân thành, thanh cao, tử tế – thật thú vị, thậm chí trong họng còn cảm thấy nghèn nghẹn. Nếu tôi ở lại Mátxcơva, có lẽ là tôi sẽ phải lòng nàng Irina ấy”. Irina, hoàng hậu của ông vua chập mạch Fiodor là vai của nữ nghệ sĩ vừa bước vào tuổi tam thập Olga Knipper trên sàn diễn MKHAT hôm ấy. Tsekhov, lúc đó 38 tuổi, vẫn còn ở trong tình trạng sức khoẻ chưa đến nỗi nào dù ông đã bị mắc bệnh lao. Bác sĩ chữa bệnh cho ông, Isaak Naymovich Altsshuller, kể lại rằng, Tsekhov “vẫn giữ được vẻ ngoài khá hồ hởi, và dẫu đi lại hơi bị cóm róm một chút nhưng dáng vẻ vẫn tương đối thanh thoát. Chỉ có những nếp nhăn hiện lên ở khóe miệng và góc đôi mắt, cái nhìn đôi khi mỏi mệt, và nhất là hơi thở dốc mỗi khi phải bước lên cao một chút cùng những cơn ho độc địa mới làm lộ ra căn bệnh quái quỷ”. Bệnh lao đã không cho phép Tsekhov sống ở Mátxcơva nên ông đã rời khu trang trại ngoại ô Malekhovo, xuống Yalta tạo dựng “tổ ấm” mới của mình với cái tên “ Ngôi nhà trắng ”. Xa mặt mà chẳng cách lòng, trong nỗi nhớ thành phố Mátxcơva thân thuộc, Tsekhov bỗng thấy thích thú với hình ảnh người vợ ngoan hiền nhẫn chịu của Sa hoàng Fiodor trên sàn diễn MKHAT và dần dà, từ chỗ yêu nhân vật Irina, ông cũng bắt đầu quyến luyến người diễn viên đã tạo dựng nên nhân vật đó… Lửa đổ thêm dầu là việc người em gái Maria của Tsekhov lại gửi thư khuyên ông “nên làm quen với Olga Knipper, vì đó là một phụ nữ rất thú vị”. Số là, Maria cũng rất mê sân khấu, mà Olga Knipper lúc đó đang được lãnh đạo MKHAT là Danchenko “sủng ái”. Maria hy vọng rằng, nếu anh trai mình gây được cảm tình với “ái nữ” của Danchenko thì mình cũng sẽ có thể nhờ nói đôi lời với ông để ông lưu tâm và dành cho vai diễn nào đó đáng kể. Về sau, Maria đã rất ân hận vì mình đã hành động như thế… Tsekhov đến với Olga Knipper thoạt đầu cũng chỉ là chơi chơi thôi. Nhà văn viết thư gửi cho nàng luôn với giọng hơi hài hước: “Xin chào, trang cuối cùng của cuộc đời tôi, người nữ diễn viên vĩ đại của đồng quê Nga!”. Olga Knipper được mời tới khu trang trại Melikhovo và nàng đã ở chơi tại đó ba ngày với những dự tính xa xôi… Mùa hè năm 1899, hai người cùng đi du lịch tàu thủy từ Novorosisk tới Yalta, rồi từ đó lại trở về Mátxcơva. Bỗng nhiên, tại đây, Tsekhov được nghệ sĩ Vishnievsky, đồng hương của ông, cũng đang làm tại MKHAT, kể lại lời Olga diễn tả về nỗi thất vọng khi đi du lịch cùng ông. Tsekhov cảm thấy kinh ngạc khi biết Olga đã than thở: “Người đang ngồi tại đây chỉ là cô Knipper bất hạnh, một nghệ sĩ đầu và tim rỗng tuếch, lại còn đầy những vết quầng thâm hằn dưới đôi mắt láu lỉnh”. Ông không hiểu nổi, tại sao Olga lại nói với đồng nghiệp của mình về ông bằng cái câu: “Đừng kể với tôi về cái cụ chết tiệt đó nữa”. Ông có làm gì nên tội đâu?! Hóa ra là, Olga Knipper rắp tâm “hạ gục” ông nhưng ông lại dửng dưng, không tỏ tình với nàng. Thế là để “kích động” nhà văn, Olga Knipper đã làm như vô tình nói với người đồng hương của ông rằng, cô đang dan díu rất mặn nồng cùng Danchenko (cái thói kích động tình yêu rất đàn bà này tới nay vẫn có người áp dụng!). Thế nhưng, cuộc trăng hoa đó từ lâu đã còn là bí mật với ai nữa đâu, kể cả với Tsekhov. Nhà văn vốn có những mối giao lưu bằng hữu với gia đình Dancheko, biết rõ cả hai vợ chồng họ nên ông cũng không quá quan tâm tới “cuộc tình công vụ” giữa Danchenko với Olga Knipper. Và chính ông lúc đó cũng chỉ định quan hệ với cô một cách “hoa lá cành” thôi. Với một nữ diễn viên tỉnh táo và đầy tính toán như Olga Knipper, nếu được trở thành hôn thê của một nhà văn lớn, một kịch tác gia như Tsekhov thì đó sẽ là một công giải quyết luôn nhiều việc. Chính vì thế nên nàng đã bày tỏ dồn dập những mối quan tâm của mình đối với nhà văn đang đau yếu. Tsekhov thoạt đầu nhìn mọi sự như một hoạt cảnh mới có thể giúp ông quên được bệnh tật. Thế nhưng, cái duyên dáng tới ma mị của một nữ diễn viên bẩm sinh đã dần dà làm cho nhà văn lớn trở nên quyến luyến nàng hơn. Sau chuyến du diễn của MKHAT xuống Yalta với các vở Cậu Vabnia và Hải âu của ông, Olga Knipper đã trở lại sống với Tsekhov tới cả tuần. Và nàng đã làm được một việc “kỳ vĩ” (!): từ chỗ chỉ coi mối quan hệ giữa hai người là chuyện chơi bời, Tsekhov đã thực sự đam mê nàng, bỏ qua cho nàng không ít vụ trăng hoa nghệ sĩ – khi ta yêu, ta hay tìm đủ mọi lý lẽ để bào chữa cho những điểm yếu của ý trung nhân. Trở về Mátxcơva, nàng nhận được những lá thư mà Tsekhov gửi tới với lời mở đầu đã mang hới hướng âu yếm: “Olga thân yêu của tôi! Niềm vui của tôi, xin chào em!”. Mọi sự cứ thế mà ngày một thắm thiết. Tuy nhiên, nếu Tsekhov vì nhiều lý do không muốn công khai hóa mối quan hệ giữa hai người bằng một đám cưới thì Olga Knipper lại vô cùng muốn được mang họ của ông. Nàng viết cho ông: “Em cứ nghĩ mãi về anh, về bản thân mình và về cả tương lai nữa… Chúng ta ít nói với nhau về tương lai quá, mà mọi sự lại cứ chẳng rõ ràng gì cả… Anh có thấy như vậy không?”. Tsekhov không thấy như vậy vì ông mải sáng tác. Lúc đó, ông đang mải mê viết tác phẩm sân khấu bất hủ của mình, kịch bản Ba chị em. Vai chính trong vở kịch này ông muốn dành cho chính Olga Knipper… Trong khi đó, nàng lại luôn luôn làm ông phiền nhiễu bởi những trò giận dỗi rất đàn bà. Nàng trách ông hững hờ, bỏ rơi nàng… Những lá thư nàng viết cho ông khi đó đầy những hờn tủi: “Anh biết không, ở Mátxcơva người ta ai cũng quấn lấy em mà hỏi. Họ cứ nghĩ là anh và em đã làm lễ đính hôn trong nhà thờ rồi. Họ tới chúc mừng gia đình em, làm ai cũng ngớ người ra…”. Rồi trong lá thư tiếp theo, Olga Knipper tuyên bố rằng nàng sẽ không xuống Yalta nữa “vì em không biết mình xuống đó với tư cách gì”. Tsekhov có lẽ là cáu lắm nên mới trả lời: “Em yêu à, em không muốn xuống thì thôi, anh không ép em đâu”. Viết thì viết vậy nhưng ông thực sự đã cảm thấy gắn bó với nàng: “Hãy giữ gìn sức khỏe, em yêu, đừng giận anh, đừng phản bội anh!”. Chao ôi, một nhà văn hiểu tâm hồn con người như thế mà khi yêu vẫn trở nên ngây thơ: làm sao một nữ nghệ sĩ như Olga lại có thể chung thủy với người tình ở xa của mình?! Tuy nhiên, có lẽ ông cũng không quá coi trọng những lúc “thân xác làm chủ tâm linh” của Olga. Thậm chí, có lúc ông còn viết đùa cợt trong thư: “Em ít viết thư cho anh rồi, điều này chứng tỏ là em đã chán anh. Còn nhiều người khác tán tỉnh em nữa. Thế cũng được, em giỏi lắm, gái ạ!”. Trong một cuộc gặp gỡ với nhà văn Ivan Bunin, Tsekhov cứ trăn trở: “Này ông, liệu ông có thể cưới một nữ nghệ sĩ làm vợ được không?”. Bunin biết bạn đồng nghiệp định nói tới ai nên tế nhị không trả lời… Tình yêu quả thực quái ác, ngay cả một người anh minh như Tsekhov cũng đã có lúc không biết mình phải ứng xử như thế nào với cô nghệ sĩ oái oăm nhất của đời mình. Ngày 7.1.1901, Tsekhov viết thư cho Olga Knipper: “…Anh nhận được một lá thư nặc danh nói rằng em ở thành Piter mê ai đó tới ngất ngây. Chuyện này thì chính bản thân anh từ lâu cũng đã nghi rồi… Anh yêu em mà… Em hãy nhớ điều đó…”. Olga trả lời: “Em hay phải lòng giai và phản bội anh ở mọi nơi mọi chỗ,- điều này đúng. Nhưng vì thế em là con người và là phụ nữ”. Tsekhov cay đắng đáp lại: “Em phản bội anh thường xuyên, như em viết, vì em là con người và là phụ nữ. Thôi cũng được, cứ phản bội đi… Anh già rồi, không thể không phản bội anh. Điều này anh hiểu rất rõ…”. Tệ hại vậy nhưng cuối cùng thì Tsekhov cũng vẫn không tránh khỏi cuộc hôn nhân mà thực tâm có lẽ ông không muốn. Ma lực của Olga Knipper đã làm mụ mị nhà văn đang ngày một đau yếu. Có điều, sau đám cưới chỉ có hai tháng thôi, ông đã buồn bã viết: “Ta hiện đang phải sống cô đơn, hệt như khi ta một mình trong mộ”… Cô em gái Maria của ông đã rất ân hận vì cô đã từng góp tay vào để Tsekhov làm quen thân với Olga Knipper. Còn nhà văn Ivan Bunin hay tin Tsekhov đã làm đám cưới, thốt lên: “Sự tự sát này tồi tệ hơn tất cả!”. Tình yêu, ngay cả của một văn hào như Tsekhov, cũng không thể làm thay đổi được bản chất trăng hoa của một nữ nghệ sĩ như Olga Knipper. Hai người sống như vợ chồng ngâu: Tsekhov dưỡng bệnh ở Yalta, còn Olga ở lì tại Mátxcơva, ngay cả khi tình hình sức khoẻ của chồng trở nên nguy kịch cũng không buồn bỏ việc xuống chăm sóc. Lý do thì nhiều, có thể nàng bận thực, nhưng có thể là nàng đã không được Danchenko, vị thủ trưởng hay ghen, cho phép (có những ông sếp nghệ thuật như thế, không muốn cưới nghệ sĩ dưới quyền làm vợ nhưng lại muốn bắt họ “thủ tiết” với mình như vợ!)… Không có gì lạ là sức khoẻ của Tsekhov giảm sút nhanh chóng với một người vợ như Olga Knipper. Tuy nhiên, ông vẫn làm việc. Mùa hè năm 1903, Tsekhov bắt tay vào viết Vườn anh đào theo yêu cầu rất khẩn thiết của MKHAT và của cả Olga Knipper. Lúc này bệnh ông đã rất nặng. Vậy mà vợ ông cứ giục giã: “Anh ơi, cả Mátxcơva đang chờ vở kịch mới của anh, anh hãy viết nhanh lên!”. Vườn anh đào thêm một lần mang lại vinh quang cho MKHAT và cả Olga Knipper. Còn Tsekhov thì đã gần đất xa trời: ông đã vắt sạch cả tâm hồn và thân xác cho những tham vọng và tội lỗi của vợ mình. Tháng 4/1904, theo lời khuyên của bác sĩ gia đình, Olga Knipper cực chẳng đã phải đưa chồng mình sang Đức dưỡng bệnh. Nhưng mọi sự đã trở nên quá muộn màng… Ngày 15.7.1904, gần một giờ đêm, Tsekhov chợt mở mắt và yêu cầu gọi bác sĩ tới. Bác sĩ người Đức bước vào. “Tôi đang hấp hối”- nhà văn nói bằng tiếng Đức. Vị bác sĩ liền tiêm một liều thuốc an thần cho ông và gọi mang sâmpanh tới. Văn hào Nga cầm ly rượu đầy lên và mệt mỏi mỉm cười: “Lâu rồi tôi không uống sâmpanh”. Ông làm một hơi cạn ly, rồi nằm nghiêng về phía bên trái và thiếp đi… Lúc đó đã là ba giờ sáng… Không ai nhớ là có giọt nước mắt nào lăn trên má Olga Knipper hay không…
Văn hào Nga Anton Tsekhov: Niềm yêu không thỏa – Tác giả: Huyền Anh
2,266
Thủ tướng yêu cầu các địa phương bố trí các điểm chốt chặn, tuần tra canh gác ở những khu vực trọng điểm, kiểm soát chặt chẽ người ra vào những khu vực rừng có nguy cơ cháy cao. Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện về việc tăng cường các biện pháp cấp bách phòng cháy, chữa cháy rừng. Công điện nêu rõ, nắng nóng gay gắt đang diễn ra ở nhiều địa phương trên cả nước, nhiệt độ cao nhất phổ biến từ 37-39 độ C, có nơi trên 40 độ, đặc biệt là tại các tỉnh khu vực Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nam Bộ. Nguy cơ cháy rừng rất cao tại nhiều địa phương, đã có một số vụ cháy rừng xảy ra ở Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Quảng Trị, Quảng Nam, Lâm Đồng,… gây thiệt hại lớn về rừng, môi trường sinh thái và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Theo dự báo của Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, trong thời gian tới, do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino nên nắng nóng gay gắt hơn, với số ngày nắng cao hơn trung bình nhiều năm và có nhiều diễn biến bất thường. Nắng nóng kèm theo thiếu hụt lượng mưa làm nguy cơ xảy ra cháy rừng ở nhiều nơi là rất cao, gây thiệt hại về rừng, môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe, tài sản, tính mạng và đời sống của người dân. Lửa đỏ rực bao trùm rừng thông ở TP Đà Lạt hồi đầu tháng 4/2023. Ảnh: N.N. Để chủ động phòng cháy, chữa cháy rừng, giảm thiểu thiệt hại do cháy rừng gây ra, Thủ tướng yêu cầu các địa phương tăng cường công tác kiểm tra, giám sát về phòng cháy, chữa cháy rừng, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, tuyệt đối không được chủ quan, lơ là, mất cảnh giác. Các cơ quan chức năng lưu ý kiểm tra, rà soát lực lượng, phương tiện, vật tư; xây dựng phương án phòng cháy, chữa cháy rừng đảm bảo đầy đủ, sát thực tiễn, đủ khả năng ứng phó với tình huống cháy rừng xảy ra; chủ động bố trí kinh phí dự phòng của địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để đảm bảo thực hiện tốt công tác phòng cháy, chữa cháy rừng. Đồng thời, phân công lực lượng ứng trực 24/24 giờ trong suốt mùa khô và các ngày nắng nóng; bố trí các điểm chốt chặn, tuần tra canh gác ở những khu vực trọng điểm dễ xảy ra cháy rừng, kiểm soát chặt chẽ người ra vào những khu vực rừng có nguy cơ cháy cao; kịp thời phát hiện điểm cháy, huy động lực lượng tham gia khống chế và dập tắt cháy rừng trong thời gian ngắn nhất… Các địa phương có phương án sẵn sàng, chủ động di dời dân ra khỏi khu vực nguy hiểm khi cần thiết, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân và nhà nước. Thủ tướng nhấn mạnh, các cơ quan liên quan cần tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án Nâng cao năng lực cho lực lượng kiểm lâm trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng giai đoạn 2021 – 2030 được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 177. Ngoài ra, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng; kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn kiểm soát việc sử dụng lửa trong rừng và gần rừng của người dân, nhất là hoạt động đốt nương làm rẫy; dừng ngay việc dùng lửa để xử lý thực bì và những hành vi dùng lửa khác có nguy cơ gây cháy rừng. Thủ tướng yêu cầu Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức phòng cháy và chữa cháy rừng trên phạm vi toàn quốc. Cử ngay lãnh đạo và cơ quan chức năng xuống hỗ trợ các địa phương ứng trực và chỉ huy chữa cháy rừng, duy trì nghiêm chế độ trực ban 24/24. Rà soát, hoàn thiện Quy chế chỉ đạo, điều hành và phối hợp trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng. Theo dõi chặt chẽ các diễn biến của thời tiết; phối hợp với các địa phương rà soát, xác định các vùng trọng điểm có nguy cơ cháy rừng cao. Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ cao trong dự báo, cảnh báo nguy cơ cháy rừng và phát hiện sớm cháy rừng, đảm bảo phù hợp, sát thực tiễn, hiệu quả, sẵn sàng hỗ trợ các địa phương khi xảy ra cháy rừng. Bên cạnh đó, Thủ tướng lưu ý các Bộ, ngành liên quan chủ động chỉ đạo, phối hợp, hỗ trợ địa phương triển khai công tác phòng cháy, chữa cháy rừng theo chức năng quản lý nhà nước được phân công. Cụ thể, Bộ Công Thương, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chỉ đạo ngành điện và Tập đoàn Điện lực Việt Nam chủ trì, phối hợp với chính quyền các địa phương và các cơ quan liên quan đảm bảo an toàn tuyệt đối của hệ thống điện quốc gia, không để xảy ra sự cố về truyền tải, cung cấp điện phục vụ sản xuất và đời sống của người dân. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an rà soát, chủ động các phương án hỗ trợ chữa cháy rừng trên địa bàn các đơn vị đóng quân, sẵn sàng huy động lực lượng, phương tiện tham gia chữa cháy rừng khi có yêu cầu. Bộ Tài nguyên và Môi trường đảm bảo chất lượng công tác dự báo, kịp thời cung cấp thông tin về thời tiết và các hiện tượng thời tiết cực đoan đến các cơ quan liên quan và người dân phục vụ công tác phòng, chống cháy rừng…
Thủ tướng chỉ đạo tăng cường các biện pháp cấp bách phòng cháy rừng
996
Nếu Quốc hội Mỹ và chính quyền của Tổng thống Biden không thể đạt được thỏa thuận về vấn đề trần nợ công, chính phủ Mỹ có thể sẽ vỡ nợ vào đầu tháng 6. Theo The Economist, viễn cảnh nước Mỹ vỡ nợ đang trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Nếu Quốc hội Mỹ và Nhà Trắng không đạt được thỏa thuận nâng mức trần nợ công trước ngày 1/6, nước này sẽ mất toàn bộ số tiền mặt để chi trả cho mọi nghĩa vụ, từ trả lương quân đội, trả lương hưu cho tới trả lãi trái phiếu. Trên thực tế, nước Mỹ đã từng phải đối mặt với tình cảnh tương tự trong quá khứ, khiến nhiều nhà phân tích kỳ vọng vào một thỏa hiệp được đưa ra vào phút cuối. Tuy vậy, các cuộc thảo luận giữa Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy và Tổng thống Joe Biden đang không đạt được tiến triển nào. Tình trạng này thể hiện rõ quan điểm trái ngược của Đảng Cộng hòa và Dân chủ, một bên muốn cắt giảm chi tiêu lớn, bên còn lại nhất quyết không thỏa hiệp. Theo The Economist, trần nợ công là giới hạn số tiền mà chính phủ Mỹ có thể vay để chi trả cho các dịch vụ công của nước này. Trần nợ công hiện tại của nước Mỹ là 31.400 tỷ USD, và để tăng mức trần nợ công, chính phủ Mỹ phải nhận được sự chấp thuận từ cả Thượng viện và Hạ viện. Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy. Ảnh: WP. Việc tăng mức trần nợ công cũng không đồng nghĩa với việc chính phủ Mỹ có thêm ngân sách để chi trả cho các hạng mục mới, mà chỉ giúp cho chính phủ nước này có thể vay thêm để thanh toán các hạng mục được Quốc hội thông qua. Theo Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen, nước Mỹ đã chạm đến trần nợ vào tháng 1, và phải thực hiện nhiều “biện pháp đặc biệt” để tạm thời giúp chính phủ thanh toán các hóa đơn và tránh vỡ nợ. Trần nợ công của Mỹ đã được nâng tổng cộng 78 lần kể từ năm 1960, lần nâng cuối cùng là vào năm 2021. Hội đồng Cố vấn Kinh tế thuộc Nhà Trắng dự báo, nếu Mỹ thực sự vỡ nợ, thị trường chứng khoán sẽ sụt giảm 45% trong vài tháng đầu tiên. Tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s dự báo mức sụt giảm là 20%, trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng thêm 5% – đồng nghĩa với khoảng 8 triệu người Mỹ sẽ mất việc. Về phía chính phủ Mỹ, do bị hạn chế bởi trần nợ, không thể thực hiện các biện pháp kích thích tài chính, khiến cho tình trạng suy thoái trở nên trầm trọng hơn. Trong trường hợp thông thường, giá trị tiền tệ của các quốc gia vỡ nợ sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Nếu Mỹ vỡ nợ, các nhà đầu tư sẽ mất niềm tin vào đồng USD, đồng thời tìm kiếm những đơn vị tiền tệ khác để thay thế. Điều này sẽ khiến cho đồng USD khó lấy lại niềm tin từ các đối tác sau khi phục hồi. Chính phủ Mỹ chưa đạt được thỏa thuận về trần nợ công. Ảnh: AP. Bên cạnh đó, việc chính phủ vỡ nợ cũng sẽ tạo ra các nguy cơ về lĩnh vực bất động sản, tạo ra tình trạng thiếu hụt tiền mặt, đe dọa khoản tiền tiết kiệm của người dân Mỹ. Thực tế, Bộ tài chính và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã lên kế hoạch dự phòng nếu Quốc hội không tăng trần nợ. Biện pháp này được gọi là “Kế hoạch ưu tiên thanh toán”, tập trung vào việc bán trái phiếu để trả nợ gốc từ trái phiếu đáo hạn và cắt giảm các nghĩa vụ khác. Tuy vậy, các quan chức Bộ tài chính Mỹ thừa nhận với The Economist rằng kế hoạch này không thực sự bền vững và tồn tại nhiều rủi ro. “Giải pháp ưu tiên nắm giữ trái phiếu lên trước công chức, người hưu trí và quân nhân sẽ gây ra nhiều sự tranh cãi. Hơn nữa, không có gì đảm bảo các cuộc đấu giá trái phiếu liên tục sẽ diễn ra ổn định”, ông Bill Dudley – cựu Chủ tịch FED New York nói.
Điều gì sẽ xảy ra nếu nước Mỹ vỡ nợ?
735
Dù đã nghỉ hưu, bà Iris vẫn tích cực làm việc. Ảnh: Dujour Chế độ ăn uống đơn giản nhưng lành mạnh giúp bà Iris không chỉ sống thọ mà còn đủ năng lượng làm người mẫu, thiết kế. Iris Apfel sinh ngày 29/8/1921 ở New York ( Mỹ ). Bà là doanh nhân, nhà thiết kế và biểu tượng thời trang người Mỹ. Bà cùng chồng lập công ty dệt may, làm trong lĩnh vực thiết kế nội thất, phục chế cho nhiều đời Tổng thống Mỹ.Khi nghỉ hưu, bà tiếp tục thu hút sự chú ý sau buổi trình diễn bộ sưu tập tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan vào năm 2005. Khi 97 tuổi, bà ký hợp đồng làm người mẫu. Bà còn xuất hiện trong bộ phim tài liệu về chính cuộc đời của bà có tên Iris vào năm 2014. Ở tuổi 101, bà Iris có lượng người theo dõi khổng lồ (2,6 triệu) trên Instagram và danh sách dài những lần hợp tác với các hãng thời trang cao cấp. Mới đây, bà vừa tung ra một bộ sưu tập thảm trải. Bà từng tâm sự: “Với tôi, tuổi tác chỉ là con số”. Chồng của bà là Carl Apfel, mất năm 2015, thọ 101 tuổi. Họ đã chung sống với nhau 67 năm.Theo Healthy Long Life, bữa ăn đầu tiên của bà Iris bắt đầu lúc 9h với một cốc nước cam vắt và một bát ngũ cốc, bột yến mạch cung cấp carbs giúp bà đủ năng lượng cho cả buổi sáng. Bột yến mạch chứa vitamin B ngăn ngừa nhiễm trùng, thúc đẩy sự phát triển của tế bào, tốt cho thị giác, giúp tiêu hóa tốt. Trong khi nước cam có nhiều vitamin C tốt cho da, mạch máu, xương.Sau đó, bà Iris uống cà phê không caffeine thêm chút sữa tách béo. Người phụ nữ sành điệu này chứng minh một điều rằng giữ thói quen tốt giúp bạn có sức khỏe và tuổi thọ. Sau nhiều năm, bà Iris đã đúc rút kinh nghiệm trong ăn uống: “ít hơn sẽ tốt hơn”. Thường xuyên phải di chuyển khắp thế giới, bà luôn giữ lịch trình đơn giản, ưu tiên bữa ăn giản dị nhưng nhiều dinh dưỡng để có năng lượng làm việc. Những bàn tiệc đầy ắp khiến bà sợ hãi. Bà Iris thuộc nhóm người mẫu cao tuổi nhất thế giới. Ảnh: Ciate London. Bữa trưa và bữa tối của bà thường gồm cá trắng hoặc các loại thịt nạc cùng rất nhiều rau. Bà đưa ra tiêu chuẩn cao khi lựa chọn thực phẩm như không bao giờ dùng thịt xay mà chọn thịt tảng. Theo nghiên cứu đăng trên tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng , nguồn thịt nạc cung cấp protein tốt, vitamin B12, axit béo omega-3. Khi tráng miệng, bà lựa chọn các loại trái cây. Tuy nhiên, đôi khi vào dịp lễ, bà cũng nhâm nhi một miếng bánh bí đỏ. Các nghiên cứu cho thấy ăn nhiều loại rau củ quả giúp ổn định huyết áp, giảm nguy cơ đau tim và đột quỵ. Chế độ ăn thực vật giúp bạn giảm cân, tránh xa các tình trạng bệnh mạn tính. Chồng của bà Iris cũng sống thọ, ông qua đời năm 101 tuổi. Ảnh: Guardian. Một loại thực phẩm yêu thích khác của bà Iris là nghệ. Loại gia vị này chứa curcumin có khả năng chống viêm, ngăn ngừa lão hóa bằng cách trung hòa các gốc tự do trong cơ thể. Curcumin còn có khả năng thúc đẩy sự sản sinh của các chất chống oxy hóa cần thiết để bảo vệ tế bào. Bà Iris không bao giờ ăn cá sống và các thực phẩm chưa chín kỹ do ám ảnh về dịch tả. Bà cũng kiêng kỵ tuyệt đối đồ ăn vặt chứa đường, nước soda có thể dẫn tới bệnh tim mạch, tiểu đường, huyết áp cao.
Kinh nghiệm sống thọ của cụ bà 101 tuổi có 2,6 triệu người theo dõi trên mạng
649
Vùng đất từng bị hủy diệt trong hai cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua nay là huyện A Lưới ở phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế , có hai địa danh A Sầu (A So) và A Bia – còn có tên là “Đồi Thịt Băm”, nơi xảy ra trận huyết chiến 5/1969 nổi tiếng cả thế giới. Có lẽ đây cũng là địa phương có nhiều gia đình mang họ Hồ nhất trong nước. Tác giả cuốn sách là một nhân vật khá đặc biệt – một bà lão 88 tuổi, người có cuộc đời khác biệt và sống “xa cách” với đồng bào A Lưới về nhiều phương diện. Có thể nói như vậy vì bà từng là một tiểu thư tham gia hoạt động ủng hộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp khi đang là nữ sinh trường Đồng Khánh (Hà Nội) rồi du học Pháp, trở về nước công tác truyền thông nhiều năm cho Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Do giỏi ngoại ngữ, quen giao tiếp với nhiều nhà báo quốc tế, nên hai tổ chức CEDRATE (Nghiên cứu và hành động chống những chấn thương hồi chiến tranh) do các trí thức Pháp tổ chức, và CGFED (Nghiên cứu về giới, gia đình và môi trường trong phát triển ở Hà Nội) khi quyết định vào A Lưới nghiên cứu đã mời bà làm phiên dịch, liên hệ với bà con địa phương, bắt đầu từ năm 2002. Bà “dám” nhận công việc khó khăn này cũng vì từng công tác ngành lâm nghiệp, rồi dạy môn hóa – làm chủ nhiệm lớp có con em ở Trường Sơn và Tây Nguyên ra Bắc học những năm từ 1962-1970, nên rất quan tâm đến cuộc sống bà con dân tộc ít người… Ban đầu là vậy, nhưng bà không ngờ mình lại gắn bó với vùng đất này như vậy. Năm ngoái, do nghĩ mình đã già yếu, không còn đủ sức hoàn thiện bản thảo, bà đã ủy quyền cho tôi công bố tư liệu về Chuyện người họ Hồ mang “tiếng nói” của Bác Hồ lên A Lưới hơn sáu thập kỷ trước (Tạp chí Nhà văn & cuộc sống , số 10, tháng 9-10/2022). Vậy mà thật bất ngờ, tôi vừa gặp lại bà lão 88 tuổi này tại Huế, sau mấy ngày bà từ Thành phố Hồ Chí Minh trở lại A Lưới thăm những nhân vật mà bà đã gặp phỏng vấn, tìm hiểu đời sống của những nạn nhân chất độc da cam trong 7 lần bà lên A Lưới trước đây, đồng thời để thấy tận mắt những thay đổi của A Lưới hôm nay. Người “vệ sĩ” tháp tùng bà lên A Lưới và giúp bà hoàn chỉnh bản thảo trên máy vi tính là Anh Thư – cô con gái công tác ở Hà Nội, phải bay vô Huế và cùng bà lên A Lưới. Một nhân vật nữa nhiệt tình ủng hộ bà ra cuốn sách đặc biệt này là Quỳnh Tường, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ A Lưới. Chị đã cung cấp nhiều ảnh giới thiệu sự đối thay của A Lưới trong thời gian gần đây in trong Phần Phụ lục cuốn sách. Cuốn sách in khổ lớn 20x28cm gồm đến 20 bài viết (trong đó có một số bài do nhà giáo Trần Nguyễn Khánh Phong thực hiện khi được mời tham gia chương trình nghiên cứu về A Lưới) và hơn trăm bức ảnh chụp trong nhiều giai đoạn, nên việc trình bày, hoàn chỉnh bản thảo không hề đơn giản. Vậy nên vừa gặp tôi, bà Đạm Thư thốt lên vui vẻ: “Cuốn sách coi như đã xong anh ạ. Tôi quá mừng thấy bà con dân tộc A Lưới ngày nay sống văn minh, kinh tế phát triển khá lắm…” Bà quyết tâm làm cuốn sách vì “ cảm nhận thấy quỹ thời gian sống của mình không còn bao lâu, trong khi những kỉ niệm sâu về vùng A Lưới… nặng lòng không thể quên vì thời gian trải dài 10 năm… ” (Trích Thay lời mở đầu sách ). Trong cuốn sách, bà đã cho in lại các bài phóng sự và phỏng vấn các cựu chiến binh, các già làng, các nữ TNXP, dân công hỏa tuyến, giao liên… kèm ảnh minh họa, giúp bạn đọc hôm nay hiểu rõ hơn sự hy sinh vô bờ của bà con các dân tộc A Lưới trên một địa bàn chiến tranh khốc liệt. Bà và các chuyên gia Pháp đã gặp già làng Quỳnh Hiêm trên 100 tuổi; “ cụ suốt ngày chỉ đóng khố và cởi trần… nói mãi cụ mới chịu mặc chiếc áo phông, vẫn đóng khố để lộ cặp đùi săn nâu bóng. Tôi nghĩ thầm, cụ kiên quyết gìn giữ bản sắc văn hoá dan tộc Tà Ôi của mình… Cụ ung dung ngồi bó gối kể rành rọt với trí nhớ tuyệt vời như một cuốn từ điển sống… Cụ tự hào đã làm già làng hơn 20 năm, ủng hộ cách mạng, kêu gọi bà con đóng góp sức người, sức của cho bộ đội… ” (Trích bài Nhớ rừng xanh cây cao bóng cả… viết từ năm 2003). Cụ là nhân chứng trong cuộc khủng bố kinh hoàng của bọn lính Pháp 50 năm trước đây, lúc chúng lên xây dựng lại sân bay dã chiến đã bị bỏ hoang. Nay 6 người con trai có nhà gỗ xung quanh nhà cụ, trong đó người con thứ 4 của cụ hiện là công an ở thị trấn, có vợ là bà Nguyễn Thị Sửu, tiến sĩ ngôn ngữ học, đại biểu Quốc hội khóa XV… Còn già làng Hồ Ki (bố của ông Hồ Xuân Chêm, Trưởng Ban Dân số và kế hoạch hóa gia đình A Lưới) dân tộc Pa Cô, 80 tuổi, từng “ chỉ huy voi vận tải súng đạn cho bộ đội do nhu cầu cấp bách khi chưa có đường ô tô tài súng đạn vào Nam. Cụ đã tặng bộ đội 2 con voi nhà… Cụ thở dài nhớ tiếng hổ gầm, voi hí trong rừng khuya. Vùng này trước có 10 con voi vận tải, song chúng dần dần chết hết vì bom đạn… ” (Trích bài viết năm 2003 kèm ảnh chụp). Trong chuyến trở lại A Lưới lần này, bà Đạm Thư đã tìm gặp lại anh hùng Kan Lịch mà bà đã gặp lần đầu trong chuyến lên A Lưới năm 2004. Trong bài Kan Lịch, bày lần được gặp bác Hồ – Chuyện đời tự kể , nữ anh hùng đã phác họa bối cảnh cuộc chiến đấu ở A Lưới, khi bà tiếp bước người chú ruột là anh hùng Hồ Vai, tham gia chiến đấu từ năm 1964; đến năm 1968, khi bị sốt rét ác tính phải chuyển ra Hà Nội cứu chữa tại Viện Quân y 108; sức khỏe hồi phục, bà xin trở về A Lưới tiếp tục chiến đấu, nhưng Bác Hồ bảo: “ Cháu phải ở lại miền Bắc tiếp tục học tập chính trị và văn hoá. Không nâng cao trình độ làm sao cháu có thể giúp ích cho đồng bào trong tương lai được hiệu quả… ”. Hai người con của anh hùng, Hồ Thị Kim Thắng và Hồ Văn Lợi, đều tốt nghiệp đại học, có công việc ổn định… Cũng trong chuyến trở lại A Lưới cuối tháng 3/2023, bà đã đến thăm gia đình Quỳnh Thu, dân tộc Tà Ôi, tham gia bộ đội từ 1965, năm 1972 là Đại đội phó, Chính trị viên ở vùng A Lưới. Ông có hai người con trai nhiễm chất độc da cam đã mất sớm, dù gia đình và bệnh viện hết lòng cứu chữa. Điều an ủi là ông còn một người con trai sinh năm 1983 khỏe mạnh, hiện là sĩ quan biên phòng… Bà Đạm Thư đã gặp phỏng vấn ông năm 2004; nay trở lại thì ông đã mất năm 2013 do bị ung thư gan… Bà đã tìm gặp lại Kăn Lây, nhiều năm làm dân công hỏa tuyến cho bộ đội. Gần chục năm trước bà đã gặp chị mấy lần cùng giúp bác sĩ Doray (người Pháp) và đoàn làm phim của Pháp tìm hiểu cuộc đời bà để tố cáo trước thế giờ về ảnh hưởng lâu dài của chất độc da cam đối với vùng đất này. Chồng bà mất vì ung thư gan từ năm 1994; đứa con đầu mất sau khi sinh vài giờ cũng do ảnh hưởng của chất dộc da cam. Năm 1995, người con trai nữa của bà là Kê Văn Bắc cũng phát bệnh vì chất độc da cam, nằm liệt giường cho đến nay… Khó kể hết tình cảnh khốn khổ và sự đổi đời của những nhân vật mà bà Đạm Thư gặp lại trong chuyến trở lại A Lưới cuối tháng 3/2023. Bài Hai chuyến đi A Lưới với một đoàn làm phim Pháp cùng chùm ảnh kèm theo ghi lại rất nhiều cảnh cảm động giữa những người bạn quốc tế đối với người dân tộc tại một vùng đất chịu nhiều thiệt thòi: Bà Leslie Wiener, người trong đoàn làm phim tài liệu Vụ Kiện đòi công lý cho các nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam của Đài Truyền hình France-5 tặng gia đình Kăn Lây một cặp dê và nhiều đồ chơi cho các trẻ nhỏ, thân ái xoa tay chân và hỏi han (bằng cử chỉ, dáng điệu) với nạn nhân Kê Văn Bắc nằm liệt trên giường và em tỏ ra rất thích thú.. Có lẽ cũng cần nói thêm, nội dung chủ yếu trong những bài viết kể trên, sau khi bà Đạm Thư và cộng sự dịch ra tiếng Pháp, đã được đưa vào cuốn sách do ông J.Maitre chủ biên ra mắt tại Paris tháng 10/2013. Ông J.Maitre là chủ nhiệm nghiên cứu ở CNRS – Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp, là bạn của bà Nguyễn Thị Bình từ khi bà sang Paris dự Hòa đàm về Việt Nam. Ông dù tuổi cao những vẫn cùng bà Đạm Thư lên A Lưới mấy lần từ năm 2002… Thật tiếc là khi cuốn sách này hoàn thành được gửi sang Pháp thì ông J.Maitre không còn nữa để thấy những hình ảnh tươi đẹp đầy sức sống ở A Lưới mà ông cùng những người bạn quý của Việt Nam từng kỳ vọng được in phần sau cuốn sách – những trẻ em Trường Mầm non A Lưới ca hát, các em học sinh cấp 3 sinh hoạt văn nghệ ở hạ lưu thác A Nôr, phụ nữ A Lưới dệt Dèng, nghệ nhân Mai Thị Hợp quảng bá đặc sản Dèng tại Nga… (Ông mất 2013, thọ 88 tuổi). Tuy vậy, cuốn sách với rất nhiều “hình ảnh biết nói” đã đến được với bạn bè ông J.Maitre và với bà con dân tộc ở A Lưới (mà không phải ai cũng đọc thạo tiếng Kinh), tiếp thêm sức sống cho một vùng đất từng bị hủy diệt đang không ngừng đổi sắc thay da… ________ * Tiếng vọng Trường Sơn , Tập Ghi chép & ảnh của Nguyễn Hạc Đạm Thư
Sức sống mới từ vùng đất bị hủy diệt* – Tác giả: Nguyễn Khắc Phê
1,867
Chiều 23/5, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã tiếp Phó Chủ tịch Hạ viện Cộng hòa Séc Jan Bartosek. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tiếp Phó Chủ tịch Hạ viện Séc Jan Batosek. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN. Chủ tịch Quốc hội nhiệt liệt chào đón Ngài Jan Bartosek, Phó Chủ tịch Hạ viện Séc sang thăm làm việc tại Việt Nam. Đánh giá cao kết quả cuộc hội đàm giữa Ngài Phó Chủ tịch Hạ viện và Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải diễn ra sáng cùng ngày, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh chuyến thăm của ngài Jan Bartosek và Đoàn tiếp tục góp phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp nói riêng, giữa hai đất nước nói chung. Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Việt Nam luôn coi trọng phát triển quan hệ với các nước bạn truyền thống tại khu vực Trung – Đông Âu, trong đó, Séc là một trong những đối tác rất quan trọng. Thời gian qua, hai nước có quan hệ chính trị, ngoại giao rất tốt đẹp, các cơ quan Chính phủ, Quốc hội liên tiếp trao đổi đoàn cấp cao, các cấp. Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội trân trọng cảm ơn các nước bạn bè truyền thống, trong đó có Cộng hòa Séc đã ủng hộ Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. Hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, người lao động Việt Nam đã được Cộng hòa Séc giúp đỡ sang học tập và lao động. Nhiều người trong số đó đang giữ trọng trách trong bộ máy Nhà nước cũng như trong đời sống kinh tế – xã hội của Việt Nam. Đánh giá cao Cộng hòa Séc công nhận cộng đồng người Việt Nam là dân tộc thiểu số tại Séc, Chủ tịch Quốc hội cho rằng, đây là điều kiện căn bản, góp phần tăng cường quan hệ giữa hai đất nước nước, hai dân tộc. Phó Chủ tịch Hạ viện Cộng hòa Séc Jan Bartosek cảm ơn Chủ tịch Quốc hội đã dành thời gian tiếp, đồng thời nhấn mạnh mối quan hệ hữu nghị truyền thống, sự hợp tác hai nước phát triển được hàng chục năm nay đã đem đến những “trái ngọt”, đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhắc lại chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Cộng hòa Séc Petr Fiala vào tháng 4/2023 vừa qua, Phó Chủ tịch Hạ viện Séc cho rằng, các cuộc trao đổi đoàn cấp cao, các cấp đã minh chứng cho sự quan tâm, nỗ lực của lãnh đạo hai nước để có thể nâng tầm quan hệ ngoại giao. Ngài Jan Bartosek mong muốn hai nước sớm mở đường bay thẳng để thúc đẩy hợp tác du lịch; thúc đẩy hợp tác thương mại hai nước theo hướng cân bằng hơn, Séc sớm xuất khẩu sang Việt Nam các sản phẩm như thịt bò, thịt lợn…; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh, hợp tác phòng, chống các loại tội phạm, nhất là tội phạm ma túy… Tại cuộc tiếp, Chủ tịch Quốc hội nhất trí với Phó Chủ tịch Hạ viện Séc, cho rằng hợp tác du lịch là một trong những lĩnh vực rất tiềm năng nếu hai nước sớm mở đường bay thẳng. Việc này sẽ đồng thời đẩy mạnh hợp tác thương mại, đầu tư, giao lưu nhân dân. Đây cũng là mong muốn của cộng đồng người Việt Nam tại Séc. Năm 2022, kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Séc đạt 848 triệu USD, tăng 15% so với năm 2021. Tuy nhiên, con số này vẫn còn khiêm tốn so với tiềm năng và mong muốn của hai nước. Nhấn mạnh hai nền kinh tế có tính bổ sung cho nhau, Chủ tịch Quốc hội cho rằng Cộng hòa Séc là nước có tiềm lực phát triển nông nghiệp, có thể đầu tư tại Việt Nam nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu. Việt Nam mong muốn có nhiều hàng hóa vào thị trường EU, trong đó có Séc trên cơ sở Hiệp định Tự do thương mại Việt Nam-EU (EVFTA); ngược lại, Việt Nam tạo điều kiện tăng sản lượng hàng hóa của Séc vào Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tiếp Phó Chủ tịch Hạ viện Séc Jan Batosek. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN. Về hợp tác Nghị viện/Quốc hội hai nước, Chủ tịch Quốc hội đề nghị hai bên tiếp tục đẩy mạnh việc trao đổi Đoàn; tiếp tục thực hiện Thỏa thuận hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Hạ viện Séc đã ký năm 2009, đồng thời xem xét ký mới Thỏa thuận hợp tác cho phù hợp với tình hình hiện nay. Phó Chủ tịch Hạ viện Jan Bartosek nhấn mạnh, cộng đồng người Việt Nam được công nhận là dân tộc thiểu số tại Séc, là một phần không tách rời của xã hội Séc, góp phần vào xây đắp nhịp cầu hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Nhấn mạnh sự quan tâm đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo, ngài Jan Bartosek mong muốn tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực này và cho biết, Séc cấp học bổng nghiên cứu sinh cho Việt Nam. Giáo dục, đào tạo cũng là nền tảng phát triển tình hữu nghị giữa hai đất nước. Bày tỏ đồng tình với Phó Chủ tịch Hạ viện Séc về việc sớm mở Trung tâm văn hóa Séc tại Việt Nam, theo Chủ tịch Quốc hội, trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động khó lường, trên cơ sở của mối quan hệ hữu nghị truyền thống, việc tăng cường hợp tác giữa hai bên là rất quan trọng. Chủ tịch Quốc hội đề nghị Séc thúc đẩy các nước còn lại trong EU sớm phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVIPA) để mở rộng hơn nữa cơ hội hợp tác đầu tư giữa hai bên; thúc đẩy Hội đồng châu Âu (EC) sớm gỡ “thẻ vàng” IUU đối với thủy sản Việt Nam. Tại cuộc tiếp, Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Hạ viện Séc trao đổi một số vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. Về Biển Đông, Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Hạ viện Séc khẳng định ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Nhân dịp này, qua Ngài Phó Chủ tịch Hạ viện Jan Bartosek, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã gửi lời thăm hỏi và lời mời Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện Séc thăm chính thức Việt Nam; mời Nghị viện Séc cử Đoàn tham dự Hội nghị nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9 dự kiến từ ngày 15-17/9/2023 tại Việt Nam. Tiếp đó, Phó Chủ tịch Hạ viện Séc Jan Bartosek và các thành viên Đoàn đã dự khán phiên họp toàn thể của Quốc hội Việt Nam.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tiếp Phó Chủ tịch Hạ viện Cộng hòa Séc Jan Bartosek
1,205
Một dòng suối ngược phun hàng trăm km vào không gian, có thể mang dấu hiệu rõ ràng của sự sống, đã được siêu kính viễn vọng James Webb bắt được từ miền đất hứa của NASA. Theo Live Science, đó chính là Enceladus, mặt trăng băng giá đầy thú vị của Sao Thổ mà NASA đang chuẩn bị một con robot mãng xà để gửi đến tìm sinh vật ngoài hành tinh. Thứ mà James Webb – kính viễn vọng hàng đầu thế giới do NASA phát triển và điều hành chính – ghi lại được là một chùm nước khổng lồ, phun thẳng vào không gian, được các nhà khoa học từ Trung tâm Chuyến bay vũ trụ Goddard của NASA cho rằng có khả năng chứa nhiều thành phần hóa học đại diện cho sự sống. Bề mặt Enceladus với những “dòng suối ngược” – Ảnh: NASA. Đây không phải lần đầu tiên những chùm nước phun ra từ khe nứt trên mặt trăng băng giá của NASA, nhưng góc nhìn rộng hơn và độ nhạy cao hơn của James Webb cho thấy cái nhìn chưa từng có về hiện tượng. “Dòng suối ngược” của vũ trụ này phun cao hơn cả đường kính của chính Enceladus (khoảng 504 km). Đây không phải lần đầu tiên chùm tia nước được ghi nhận ở Enceladus. Lần đầu là năm 2005, khi một chùm… phun thẳng vào Cassini, là tàu vũ trụ thăm dò Sao Thổ của NASA. Một nghiên cứu công bố vào năm ngoái từ dữ liệu Cassini cho thấy nước này chứa methane, carbon dioxide và amoniac, là các chất hữu cơ chứa khối xây dựng hóa học cần thiết cho sự sống phát triển. Các vụ nổ nước này từng được cho là mạnh đến nỗi có thể cung cấp vật chất cho các vành đai trứ danh của Sao Thổ. Phát hiện mới nhờ “mắt thần” của James Webb có thể hoàn thành bức tranh về quy mô của sự kiện và giúp giải thích cách mà các dòng suối vũ trụ này tuôn trào. Nước cũng là bằng chứng quan trọng về khả năng tồn tại sự sống trên Enceladus, mà NASA tin rằng sở hữu một đại dương ngầm dưới vỏ băng, được sưởi ấm bởi hệ thống thủy nhiệt giống hệ thống ở Hawaii hay Nam Cực của Trái Đất. Có tới hai sứ mệnh nhắm tới Enceladus đang được NASA chuẩn bị. Một là Enceladus Orbilander, một tàu sẽ hoạt động như tàu quỹ đạo bay quanh mặt trăng này khoảng 6 tháng để thu thập mẫu từ các dòng suối ngược. Sau đó nó sẽ đáp xuống bề mặt, mang theo các dụng cụ để phân tích mẫu trực tiếp. Một nhiệm vụ khác là con robot hình rắn tự hành, dự định được thả xuống Enceladus, chui xuống những khe nứt để săn sự sống. Nó được đặt tên là Exobiology Extant Life Surveyor, đang được Goddard thử nghiệm. Robot rắn mà NASA đang thử nghiệm – Ảnh: NASA. Phát hiện về dòng suối ngược mạnh mẽ được kỳ vọng cung cấp bước đột phá lớn trong hành trình mơ ước này, cũng như góp phần làm nền tảng cho các sứ mệnh trực tiếp.
Robot NASA chưa kịp đến, tín hiệu ‘vàng’ từ nơi có thể có sự sống đã xuất hiện
530
Không chỉ có giá trị lớn về bảo tồn gien, rừng sến Tam Quy còn có giá trị lớn trong y học khi lá và quả có rất nhiều công dụng trong điều trị bệnh và chăm sóc sức khỏe. Khu bảo tồn thiên nhiên rừng sến Tam Quy thuộc địa phận 3 xã Hà Tân, Hà Lĩnh, Hà Đông, huyện Hà Trung , tỉnh Thanh Hóa . Đây là cánh rừng quý trong Sách đỏ Việt Nam, có diện tích lớn nhất Đông Nam Á và cũng là nơi bảo tồn loài sến mật duy nhất ở nước ta. Rừng sến có tên khoa học là Madhuca pasquieri thuộc họ hồng xiêm (Sapotaceae), bộ hồng xiêm (Sapotales), được phân bố chủ yếu trên những quả đồi thấp có độ cao 50 – 350 m của huyện Hà Trung. Đây là loài sến mật, thân gỗ lớn thuộc nhóm gỗ quý (đinh, lim, sến, táu) nên thường được dùng trong xây dựng, đóng các vật dụng trong nhà, đặc biệt do có nhiệt lượng cao nên gỗ sến thường được dùng để làm than rèn các dụng cụ nông nghiệp. Là loài gỗ tốt nên không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, sến đang bị đe dọa do khai thác quá mức, dẫn tới cạn kiệt. Để bảo tồn, năm 1986, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ký quyết định thành lập khu bảo tồn quốc gia rừng sến Tam Quy, với diện tích lúc đầu là 350 ha. Rừng sến Tam Quy nhìn từ trên cao. Ông Nguyễn Văn Chương, Trạm trưởng Trạm Bảo vệ rừng sến Tam Quy, bên một cây sến cổ thụ gần 100 năm tuổi. Sau hàng chục năm bảo tồn, hiện rừng sến Tam Quy đã mở rộng diện tích lên khoảng 520 ha và trở thành “lá phổi xanh” cho hàng ngàn hộ dân sống quanh rừng sến này. Không chỉ tạo không khí trong lành, rừng sến còn giúp nguồn nước ngầm quanh vùng luôn được trong mát và rất ít khi cạn, dù hạn hán kéo dài. Ông Nguyễn Văn Chương – Trạm trưởng Trạm Bảo vệ rừng sến Tam Quy, Ban Quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) tỉnh Thanh Hóa – cho biết sến ở nước ta được phân bố nhiều nơi nhưng mọc tập trung và có diện tích lớn nhất chỉ còn ở Hà Trung (Thanh Hóa). Ngoài giá trị là cây lấy gỗ, theo ông Chương, quả và lá của sến mật có giá trị rất lớn trong chế biến thực phẩm (dầu ăn), lá có công dụng làm thuốc trị bệnh. Quả sến ăn có vị ngọt, mùi thơm như mật ong, hạt sến được ép dầu có công dụng rất tốt đối với người mắc bệnh tim mạch. Lá cây có công dụng chữa lành vết thương, trị nhiễm khuẩn rất tốt. “Bằng chứng là Viện 103 nhiều lần về lấy lá bào chế thuốc chữa lành vết thương, chữa bỏng” – ông Chương khẳng định. Lá và quả của cây sến mật có rất nhiều công dụng. Mặc dù có giá trị lớn về bảo tồn loài, dinh dưỡng, y học nhưng rừng sến Tam Quy đang đứng trước thách thức rất lớn bởi sự cạnh tranh, vươn lên mạnh mẽ của cây lim xanh. Theo ông Chương, ngoài cây sến, khu bảo tồn còn có lim xanh, giẻ, trâm… Trong đó, sến mật là cây ưa sáng nhưng chiều cao tối đa chỉ khoảng 9 m, trong khi lim xanh thường cao trên 13 m, có tán rộng nên chỗ nào cây lim xanh vượt lên thì sến phát triển chững lại. Được biết, năm 2015, UBND tỉnh Thanh Hóa đã cho thí điểm đề tài nghiên cứu khoa học là chặt lim xanh nhằm mở không gian ánh sáng bảo tồn loài sến mật. Tuy nhiên, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ lâm nghiệp (Sở NN-PTNT tỉnh Thanh Hóa) mới đốn hạ được 25 cây lim đã gặp phải sự phản đối của người dân. Dự án sau đó dừng triển khai cho tới nay. Ông Lê Đức Thuận, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Thanh Hóa, cho biết việc cây sến bị cây lim cạnh tranh dinh dưỡng, sở đã biết nhưng đây là rừng đặc dụng phải bảo vệ nguyên vẹn, không được tác động gì. “Rừng tự nhiên là phải sống dựa vào nhau, lim và sến đã chung sống với nhau hàng mấy chục năm như thế. Hiện nay, chúng tôi đang báo cáo Bộ NN-PTNT cho phép mở các đường băng ở rừng keo, rừng thông để trồng sến xen vào nhằm mở rộng diện tích để bảo tồn theo phương châm giữ nguyên rừng già, tăng diện tích trồng mới” – ông Thuận cho hay. Tiềm năng du lịch đang bỏ ngỏ Ngoài những giá trị kể trên, rừng sến Tam Quy còn có tiềm năng rất lớn để khai thác du lịch trải nghiệm. Bởi khu vực này có cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, xung quanh rừng sến có những ngôi làng sống xen kẽ; dưới chân đồi có hồ nước mênh mông. Thậm chí, trên đỉnh núi, giữa rừng sến có một hồ nước không bao giờ cạn. Tuy nhiên, theo ông Lê Đức Thuận, khu vực rừng sến này đã được quy hoạch đưa vào đất quốc phòng nên không được làm gì, kể cả du lịch. Bài và ảnh: Thanh Tuấn
Giá trị lớn từ rừng sến Tam Quy
914
Trong thơ Thi sĩ Nguyễn Thánh Ngã rất nhiều câu có biểu tượng như một “Sologan”, có giá trị khơi nguồn năng lượng tâm linh… Ông chứng nhập tinh thần Phật giáo vào ngôn ngữ thơ ca thanh thoát, bay bổng, biến ảo lạ thường. Nhiều câu thơ giống như công án thiền. Người đọc cứ loay hoay với những đáp án mà không chọn được đáp án nào khả dĩ có thể làm thỏa mãn cảm xúc của mình. Bởi công án thiền không có đáp án.Ngôn ngữ mang hơi thở thiền làm cho hơi thơ càng đa âm, đa thanh hơn khi rót vào trạng thái thụ cảm của người đọc. Tôi thích những bài thơ ngắn của ông, ngắn mà không ngắn, càng đọc càng thăm thẳm…Có nhà thơ nói “Tôi không có thời gian viết ngắn”. Viết ngắn nhưng trường năng lượng của người viết rất dài, nội lực rất sâu, như một đĩa nén tâm thức, thấu triệt, minh triết. “Hãy buồn đi em Vì nỗi buồn như chiếc nón Có thể che mát bầu trời” (Buồn) Năng lượng thiền có khả năng đưa ta đến những cảnh giới ta muốn. Nó cũng có khả năng “điều tiết”cả vũ trụ này khi nó đạt đến một cấp độ cần thiết, trong một “sát- na tâm”là “ý”: “Ý nghĩ Ôi ý nghĩ linh thiêng Nếu ý nghĩ là cánh chim Dù bầu trời cao rộng mấy Nó cũng bay về đồng xanh Nhặt thóc Nhưng nếu ý nghĩ chỉ là giọt nước Nó sẽ bốc hơi Và khiến cả bầu trời giông tố” (Ý) Năng lượng thiền có khả năng “kích hoạt” tâm thức, đánh động tâm thức, bùng vỡ tâm thức; làm thăng hoa những câu thơ, thoạt nghe có vẻ nghịch lý nhưng chẳng khác nào như một sự “mặc khải” làm khó chịu những suy nghĩ nông cạn hời hợt: “càng giàu có chúng ta càng rỗng túi niềm tin” ( Rỗng túi) “Đứa trẻ” là bài thơ đoạt giải nhất cuộc thi Hai-ku năm 2009 của ông như một lát cắt cuộc đời, nhẹ , chậm…tuy ít chi tiết nhưng giống như một truyện ngắn cô đặc lại. Có thể dàn dựng thành một bộ phim thú vị! “Xó chợ Chiếc lon trống Hạt mưa mồ côi” Chín chữ thôi nhưng ta có cớ để “bàn”. Chín chữ thôi mà đeo mang bao thân phận nỗi niềm, nhân sinh, thế sự. Có người cho rằng bài thơ không thuần túy phong vị thơ “haiku” Nhật Bản. Nhưng thử hỏi một nhà thơ Việt Nam, sống và cảm nhận hương sắc cuộc đời trên đất nước của mình, làm sao có thể viết thơ “haiku” mang hơi thở của xứ sở hoa anh đào, của đất nước “mặt trời mọc”? Xét kỹ, nếu đặt bài thơ vào mọi “xó chợ” trên mặt đất này, dù ở đất nước nào cũng có phần đúng với tất cả.Với tôi, bài thơ thành công và nói được nhiều điều hơn những gì mong đợi! Thơ ngắn nhưng mang lại cho người đọc sự suy tưởng và chiêm nghiệm không có điểm dừng.Tố chất này có được là do thi sĩ của chúng ta biết thực hành “thiền”, ông biết tiết chế, dừng lại đúng lúc mà vẫn có khả năng làm cho câu thơ lan tỏa: “khi chúng ta ký họ tên mình vào những đám mây mây sẽ mang mưa xuống lưu vào đất đai chờ ngày nhận diện” (Hóa thân) Nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã. Cái nhìn của thi sĩ là cái nhìn của con mắt “thứ ba”. Cái nhìn trực diện mà không lộ diện trong thơ. Sự tiết chế ngôn ngữ là một dụng công để “treo” sự cảm nhận của bạn đọc lên cành cây nghệ thuật; tạo ra cảm giác vừa thích thú, vừa hồi hộp trong trò chơi ngôn ngữ “mạo hiểm” cho điểm rơi của tứ thơ được “bọc lót” rất dễ chịu! Với thể thơ ngắn, kiệm lời, mỗi câu chữ, mỗi dấu chấm câu… là một “mã khóa” đặc biệt được cài cắm không dễ tìm. Đọc hết bài thơ, phải quay lại điểm xuất phát xâu chuỗi những ký tự, giải mã, nhận diện bài thơ ; có khi “chìa khóa” nằm trong nhan đề, “nhan sắc” bài thơ lúc này mới “xuất đầu lộ diện” : “sẽ không có gì quan trọng nếu em không yêu tôi sẽ chẳng có gì trầm trọng nếu em không lấy tôi nhưng vườn cây của hồn tôi đã đơm hoa kết trái và mùa màng đã cưới nhau từ lúc giao mùa” (Tiệc cưới) “Tiệc cưới” chính là chìa khóa của bài thơ, mở ra cánh cửa tình yêu vô tận, mà ở đó không đợi “người tình” thiên nhiên ban tặng; “gã thi sĩ hoang” đã phiêu tự lúc nào…với lễ hội hóa trang phồn sinh, làm cuộc truy hoan bản thể. Khai sinh và đơm hoa kết trái yêu thương. Khai phóng đam mê cùng vạn vật đất trời, vượt thoát bản năng rồi lại hòa nhập trở về với chính mình! Bạn đọc, nếu bạn có cùng nhãn quan và cảm quan thấu triệt với cái nhìn của thi sĩ thì bạn mới thấy thích thơ loại này. Điểm tương đồng này trong thiền học được nhận dạng bằng “đẳng cấp tâm linh”. Dĩ nhiên bạn phải có một chút am hiểu về thiền và có chút “ tuệ giác”… Tôi cũng thích những bài thơ tự do của ông, nó phóng khoáng, như một vườn hoa nhiều hương sắc, nhưng lại được trồng tỉa, xếp đặt rất chỉnh chu. Có những cánh cửa mở ra, đóng lại đúng lúc. Gợi mở nhiều hơn, nói được nhiều hơn. Ấy cũng là do sự thăng hoa của tài hoa. Phẩm chất tài hoa người làm thơ nào cũng có. Ở Nguyễn Thánh Ngã, tôi thấy tố chất tài hoa của ông đậm đặc hơn, làm cho mỗi câu thơ “có chất” hơn, dù đề tài không phải chuyện to tát. Bởi văn chương có điều kỳ lạ làm mê đắm trái tim bạn đọc, không phải là viết về cái gì mà là viết như thế nào.Viết như thế nào chính là bí mật tuyệt vời của thi nhân khi hạ bút: “Một giọt nước dành cho một đóa hoa sắp nở Trên mặt đất trống hoác cằn khô… Bầy kiến kéo đến âm thầm Và cành cây run lên Sự khao khát khiến chúng tranh nhau Giọt nước! Chỉ một giọt thôi Rơi nhoài theo bầy kiến Ôi bông hoa hé nở đón nụ hôn từ trời…” (Sống như giọt nước) Lấy chất liệu từ thiên nhiên, dựng lập cảm hứng sáng tạo từ thiên nhiên, có thể nói Nguyễn Thánh Ngã đã mở hết biên độ hồn mình hòa nhập với thiên nhiên. Ngược lại, thiên nhiên cũng cho ông những tứ thơ, những câu thơ, bài thơ sang trọng nhất. Để cuối cùng Thơ là vật “bảo chứng” số một làm sáng lên tên tuổi và phẩm cách một Thi sĩ đích thực. Nói thế không có nghĩa ông hướng ngoại xa xôi, chính lúc nhận được của “tứ đại” nguồn năng lượng tối ưu đó, thơ ông lại tìm cách quay về nhìn sâu vào nội tâm mình một cách chân thật nhất mà không kém phần “phiêu hốt”, bảng lảng khói sương, hư hư thực thực…! Thơ ông đưa ta gần đến trạng thái “sống với” nhiều hơn “sống cùng”; tương tác nhiều hơn thụ cảm. Tên các bài thơ phần nào đã nói lên điều đó : “đưa mây qua sông”, “tiếng nước vang”, “chiếc bóng rách”, “buổi sáng uống tiếng chim”… Điều đó thể hiện rõ phong thái sống đúng chất mà ông đã chọn cho mình; khi dành gần như cả đời để làm thơ, theo trường phái thơ “haiku” nói ít gợi nhiều, chấm phá tối giản mà bức tranh thơ đầy sắc màu, hàm ngôn sâu lắng… “Buổi sáng uống tiếng chim Chùm véo von trôi vào cổ họng Mới hay lòng mình vườn hoang… Cỏ dại Không ai phát dọn Lối mòn thành hang ổ cáo chồn Ta thành kẻ ẩn nấp trong ta Tiếng chim Như những cung bậc thanh âm Lắng vào cây cỏ Ta uống say những nốt lặng tự do Hang ổ sáng trong Cáo chồn ngửa mặt Lòng mình rửa sạch Uẩn khúc trôi đi trên cung dây Hồn bừng lên thánh thót Ôi vườn hoang /vườn hoang Năm giác quan mở cửa chân trời Đôi mắt vẽ đường bay đến hương thơm vô tận Tai có thể nghe tia ánh sáng … Thèm tiếng chim trong từng tế bào gội rửa Và lời mách bảo của trái tim Về tiếng nói trong hoang lặng đã bị đánh cắp… (Buổi sáng uống tiếng chim) Mở năm cửa giác quan để cảm nhận từ trường vũ trụ, thu hết mọi kích cở âm thanh sống động của đất trời cốt chỉ để gột rửa hồn mình. Phải chăng đây là cách “sám hối” để lắng lọc thân tâm giữa “uất nghẹn tiếng ồn ô nhiễm”, giữa “cơn ói trào ngược”, giữa “những sáng buồn nôn” đời thường pha tạp? Chỉ còn cách luyện thở này mới làm cho hồn thơ trong trẻo quay lại với chính mình. Khi mà “tiếng nói trong hoang lặng đã bị đánh cắp…”. Vâng đúng vậy! Con người hiện đã bị “đánh cắp” nhiều thứ vì không đủ sức giữ mình trước cám dỗ nhiều chiều của đời sống. Ai đủ tỉnh táo để tìm ra bầu sinh quyển trong lành cho lá phổi xanh của chính mình và thiên nhiên quanh mình?! Khi mà con người hiện đại đã hướng ngoại tìm cầu rồi lạc lối, không nhớ nẻo quay về, để mặc hồn mình cằn khô. Khi mà đời sống văn minh quay cuồng với nhịp sống gấp, bất chấp tất cả, con người có nguy cơ dẫm đạp lên nhau để tồn tại. Khi mà nhân tính, nhân văn, nhân bản bị hạ thấp, may mắn còn tiếng nói của nhà thơ – người mang sứ mệnh tỉnh thức con người. Thông điệp thơ ca đi trước và có giá trị cảnh báo những lệch lạc trong đời sống, trong nhận thức con người. Bằng cảm quan nghệ thuật nhà thơ lặng lẽ lên tiếng. Đó chính là tiếng nói tạ lỗi với thiên nhiên. Bằng bầu nhiệt huyết yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ thốt lên. Đó chính là tiếng nói của lương tri thời đại. Con người muốn trường cửu hãy để mẹ thiên nhiên cũng phải tự nhiên trường cửu! Nguyễn Thánh Ngã – nhà thơ được mệnh danh là “Gã thi sĩ hoang” nhưng chất thơ trí tuệ; chất đời sống động mà chân tình. Có lúc ngỡ như ông viết ngẫu hứng, trong guồng quay bất tận của “vô thường”. Nhưng không hẳn thế, ông lập tứ rất kỹ, khéo vun vén điều muốn tỏ bày, khéo tránh sự thô lậu tỏ lộ…Tuy nhiên có lúc ông cũng bị rơi vào sự trùng lắp của câu chữ trong một bài thơ. Nên diễn đạt dài dòng, lẽ ra cần phải “tỉa gọt” gọn hơn. Thơ chỉ cần cắm lại chi tiết đặc sắc, hình tượng đặc sắc. Nhưng đó chỉ là tiểu tiết. Tổng thể, đọc thơ ông, ta luôn nhận được năng lượng tích cực! Ông có hỏi tôi nghĩ thế nào về chữ “hoang”? Tôi cố tình không trả lời trực tiếp như cách thông thường hỏi, đáp.Tôi nói hãy để cho bạn đọc “đồng sáng tạo” là thêm một trường nghĩa, là chắp thêm đôi cánh liên tưởng cho thơ, là mở ra cánh cửa “Windows” vô tận ý…! Con chữ nằm trên văn bản là con chữ chết. Con chữ đi qua đôi mắt bạn đọc là con chữ có linh hồn. Nếu muốn thì ta có thể tra từ điển để truy nghĩa của một con chữ. Nhưng tôi biết ông cũng như tôi, hỏi chỉ là hỏi, và trả lời chỉ để trả lời. Bởi lúc này con chữ đã có đời sống khác. Thi sĩ hay bạn đọc không còn khả năng “gò cương” níu giữ nó được nữa… “Tôi-gã thi sĩ hoang Như bông cỏ dại Nở mặt sương mù Màu là giấc mơ Bông cỏ dại bị dẫm đạp Hòn đá lăn Tứ thơ dập nát ven đường …… Thi sĩ loài không mọc tóc Loài không đội mũ trên đầu Chỉ có nắng ngang tàng và mưa bao dung ôm chầm bông cỏ Ôi bông cỏ hoang, Mi là quê hương của tứ thơ ta – gã thi sĩ đồng làng, xó núi Mọc là mọc một tình yêu hoang dại Trước gian trá lọc lừa Ta có thể bị vất đi dưới lưỡi cuốc ranh ma Nhưng loài cỏ âm thầm sức chịu Câu thơ có thể nằm nghiêng trổ một đóa nỗi buồn…” (Gã thi sĩ hoang) Khi “câu thơ có thể nằm nghiêng”, hoặc trong trường đoạn nào đó buộc phải nép mình nằm nghiêng ; ta mới hiểu được sức chịu đựng của thi sĩ trước bao nhiêu “bức ngặt” của cuộc đời. Hạnh phúc và may mắn vô cùng ! Chính lúc ấy có một đóa “vô ưu” đã trổ…! Sài Gòn 4/6/2022 V.T
Phiêu hoang cùng “gã thi sĩ hoang” – Tác giả: Vũ Tuấn
2,102
Tình trạng sạt lở được dự báo sẽ tiếp tục diễn ra ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Xây kè là biện pháp phải làm ở những nơi xung yếu. Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng, không nên làm kè tràn lan và nếu như cứ làm kè thì không thể đủ tiền để ‘chạy’ theo sạt lở. Sạt lở gây đổ sập nhiều căn nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long. Hơn 1 tháng qua, các địa phương tại ĐBSCL ghi nhận hàng chục vụ sạt lở bờ sông, khiến nhiều căn nhà bị nhấn chìm, công trình giao thông bị chia cắt. Tại TP Cần Thơ , từ đầu tháng 4 đến nay, nhiều điểm sạt lở nghiêm trọng xuất hiện trên các tuyến sông ở quận Bình Thủy và các huyện Thới Lai , Phong Điền làm hư hỏng đường giao thông, ảnh hưởng đến nhà cửa, tài sản của người dân. Gần đây nhất, vào lúc 2 giờ ngày 20/5, tại sông Ô Môn, ấp Thới Phước 1, xã Tân Thạnh xảy ra sạt lở, sụp lún với chiều dài 55m, ăn sâu vào bờ 8m và có nguy cơ tiếp tục sạt lở thêm một đoạn dài 50m. Vụ sạt lở làm tuyến đường bê tông rộng 4m bị sụp xuống sông, gây chia cắt giao thông qua khu vực này. Tại huyện Phong Điền, rạng sáng 8/5, 7 căn nhà thuộc ấp Mỹ Phước, xã Mỹ Khánh bất ngờ nứt toác, chìm xuống sông Cần Thơ. Thiệt hại ước tính ban đầu khoảng 10 tỷ đồng. “Khoảng 2 giờ sáng, con gái tôi nghe tiếng kêu răng rắc ngoài cửa, nền nhà rung mạnh nên đánh thức cả nhà. Lúc này tôi kiểm tra thì thấy tường nhà nứt nên hô hoán, cả nhà chạy thoát ra khỏi nhà. Ngay sau đó, căn nhà phía sau đổ sụp xuống sông” – bà Đỗ Thị Hồng (57 tuổi) nói. Trong khi đó, theo Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Hậu Giang, tính từ đầu năm đến nay, địa phương xảy ra 23 điểm sạt lở, với tổng chiều dài sạt lở hơn 500m; diện tích mất đất hơn 2.500m2. Theo Đài Khí tượng – Thủy văn tỉnh Hậu Giang , những ngày gần đây, mực nước chân triều ở mức thấp, tốc độ dòng chảy mạnh, các trận mưa chuyển mùa đã sinh dòng chảy mặt và kết hợp với đất ở bờ sông, kênh đang tơi xốp, nứt, nẻ. Từ đó khả năng sạt lở bờ sông, kênh, rạch đang ở mức độ cao. Địa phương có nguy cơ cao xảy ra sạt lở là huyện Châu Thành , TP Ngã Bảy và huyện Châu Thành A . Còn tại Cà Mau , trong vòng 10 ngày qua, tại khu vực chợ Nhà Lồng (ấp Kinh 17, xã Tam Giang, huyện Năm Căn ) xảy ra 2 vụ sạt lở, khiến 6 hộ dân bị ảnh hưởng, thiệt hại tài sản khoảng 240 triệu đồng. Ông Nguyễn Hữu Thiện phân tích nguyên nhân sạt lở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các chuyên gia nhận định, theo quy luật tự nhiên, sạt lở diễn ra vào cuối mùa khô. “Bờ sông trước đó bị đứt chân kiểu hàm ếch một cách âm thầm mà bên trên không hề hay biết. Cuối mùa khô, mực nước sông thấp, bờ rất cao, rất nặng, bờ phía trên chịu áp lực qua một mùa khô dài, cho nên cuối mùa khô sẽ liên tiếp xảy ra sạt lở. Đó là nói theo mùa còn theo diễn tiến chung thì sạt lở ở đồng bằng sẽ còn diễn ra thêm hàng chục năm nữa. Bởi vì nguyên nhân còn đó thì hậu quả còn tiếp diễn” – ông Nguyễn Hữu Thiện – người có nhiều nghiên cứu về hệ sinh thái ĐBSCL nói. Theo ông Thiện, có 2 nguyên nhân chính dẫn đến sạt lở ở ĐBSCL là do lòng sông thiếu phù sa và thiếu cát. Và việc sông thiếu cát và thiếu phù sa xảy ra do tác động của thủy điện và do ảnh hưởng từ tình trạng khai thác cát dọc sông Mekong. “Thiếu phù sa làm cho nước “đói”. Nước “đói” thì phải “ăn” vào bờ, “ăn” vào đáy sông. Thiếu cát làm cho lòng sông bị sâu hơn. Điều này đồng nghĩa với bờ sông cao hơn, nặng hơn và mái dốc dẫn đến bờ sông dễ trượt xuống. Các nghiên cứu cũng chỉ ra, hiện nay sông Tiền , sông Hậu sâu hơn 3 đến 4m so với thời điểm cách đây khoảng 20-30 năm. Đây là 2 con sông chính ở ĐBSCL. Khi mà đáy sông chính sâu nó sẽ rút đáy của sông nhánh ra. Các con sông nhánh lại tiếp tục rút đáy các nhánh của nó. Từ đó, sạt lở lan tỏa khắp nơi. Kết luận, không phải khai thác cát ở nơi nào thì sạt lở ở nơi đó mà khai thác cát làm ảnh hưởng cả một hệ thống sông” – ông Thiện phân tích. Nói về giải pháp ứng phó, ông Thiện cho rằng, xây kè chống sạt lở là biện pháp bất đắc dĩ phải làm ở những nơi xung yếu, không thể nào không bảo vệ. Tuy nhiên, không nên làm kè tràn lan. “Biện pháp kè không đảm bảo an toàn tuyệt đối và rất là tốn kém. Chỉ có những nơi nào buộc phải bảo vệ thì mới nên làm kè bảo vệ nhưng chúng ta không nên làm một cách tràn lan. Bởi, thứ nhất kè có tuổi thọ, thứ 2 làm kè sẽ chống lại tự nhiên, thứ 3 khi làm kè sẽ làm sạt lở ở nơi khác. Dòng sông phải cân bằng, khi điểm này quá kiên cố thì nó sẽ tấn công điểm khác để cân bằng” – ông Thiện cho hay, đồng thời thông tin thêm, tình trạng kè bị sụp đổ đã xảy ra nhiều nơi. Như kè ở chợ Bình Thành, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp đã sạt 5 lần. Cho nên nếu chúng ta cứ làm kè thì không bao giờ đủ tiền để chạy theo sạt lở. “Chúng ta nên sử dụng tiền làm kè để thực hiện tái định cư và thiết lập, hỗ trợ sinh kế cho người dân” – ông Thiện đề xuất. Theo ông Thiện, ngày nay với máy móc thiết bị hiện đại, cơ quan chức năng có thể dễ dàng siêu âm lòng sông hàng tháng để đưa ra các cảnh báo sớm và di dời người dân khi phát hiện nguy cơ sạt lở. PGS. TS Lê Anh Tuấn – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu, Đại học Cần Thơ cho biết, Chính phủ có ban hành Quyết định 957/QĐ-TTg ngày 6/7/2020 về phê duyệt “Đề án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030”. Quyết định phê duyệt Đề án này mang tầm quốc gia với 6 giải pháp chính: Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển; Tổ chức điều tra cơ bản, xây dựng cơ sở dữ liệu, thiết kế quy hoạch; Triển khai thực hiện các giải pháp cấp bách trước mắt, giải pháp căn cơ lâu dài, các công trình, phi công trình để phòng, chống sạt lở; Khoa học công nghệ: Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ phòng, chống sạt lở; Hợp tác quốc tế; và Huy động nguồn lực. Tuy nhiên, theo ông Tuấn, các giải pháp này khó có thể ngăn chặn hoàn toàn nguy cơ sạt lở, cốt yếu là giảm thiểu và hạn chế thiệt hại vì nguyên nhân lớn nhất là nguồn cát và các chất trầm tích suy giảm từ thượng nguồn không thể kiểm soát và khống chế. “Hiện nay, các công trình lớn như cầu đường, khu phức hợp các tòa nhà lớn, đê sông… có nhu cầu cát xây dựng và san lấp rất lớn, trong khi giá cát vẫn đều đặn tăng vì nguồn cung khan hiếm. Nhiều nơi san lấp phải sử dụng vật liệu rất yếu so với cát như đất bùn cát nạo vét, xỉ than, rác thải… Điều này làm công trình mau sụt lún và xuống cấp. Việc nhập cát từ các nơi khác và sử dụng cát nhân tạo (đá núi, bê tông tháo dỡ công trình xay nhỏ,) thay thế cát cần phải tính đến cho dù chi phí cao hơn. Ngoài ra, trong công nghệ vật liệu xây dựng, phải tính đến giảm khối lượng sử dụng cát và xi măng như làm các tòa nhà, cầu bằng thép chịu lực, sử dụng vách nhôm, kính, nhựa tổng hợp… Kiên quyết không phê duyệt các dự án sân goft dùng cát san lấp (trung bình khoảng 1 triệu – 1,5 triệu m3 cát cho một sân goft 18 lỗ), vừa lãng phí cát vừa gây nguy cơ ô nhiễm hóa chất” – ông Tuấn nói và cho rằng các địa phương phải có bản đồ nguy cơ sạt lở. Việc quản lý sông rạch phải chặt chẽ hơn, không bố trí khu định cư mới gần bờ sông, từng bước giải tỏa các công trình và nhà cửa ven sông để hạn chế sạt lở. Các vùng có nguy cơ sạt lở phải hạn chế tốc độ tàu thuyền và cắm bảng cảnh báo. “Nan giải nhất là hiện nay chưa có giải pháp và thương thảo kinh tế hữu hiệu để ngăn việc phát triển các công trình thủy điện ở thượng nguồn. Việc phối hợp với Ủy ban sông Mekong chỉ dừng lại ở mức theo dõi và thống kê khối lượng bùn cát. Bài toán khó này, cho đến nay, vẫn chưa có lời giải đáp ổn thỏa…” – PGS. TS Lê Anh Tuấn nhận định.
Đồng bằng sông Cửu Long: Sạt lở bủa vây
1,627
Theo nữ nhà văn người Mỹ, người càng trải đời thì càng đạt tới một cảnh giới tâm trí cao hơn, từ đó góp phần thay đổi số mệnh cuộc đời. Tina Fey (SN 1970) là nữ diễn viên, nhà văn, nhà biên kịch, nhà sản xuất nổi tiếng người Mỹ. Cô được biết đến với vai trò là nhà biên kịch và diễn viên chính trong chương trình “Saturday Night Live” (SNL) từ năm 1997. Ngoài ra, Tina còn là người sáng lập blog Love Connection, cô đã có quá trình nghiên cứu tâm lý học và có bằng Thạc sĩ về tư vấn hôn nhân, gia đình và các mối quan hệ. Tina Fey cũng được biết đến với vai trò là nhà văn khi cô đã viết cuốn tự truyện mang tên “Bossypants” (2011), nằm trong top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times . Hiện tại, Tina tiếp tục có nhiều vai diễn cùng dự án sản xuất nghệ thuật riêng và được coi là một trong những người phụ nữ có tầm ảnh hưởng lớn trong ngành công nghiệp giải trí ở Mỹ . Nữ nhà văn, nhà biên kịch Tina Fey. Chia sẻ trên trang Hackspirit , Tina Fey giãi bày: “Nếu bạn là một người tự nhận thức được bản thân, có lẽ bạn đã thấy mình trong một khoảnh khắc yên tĩnh để xem xét về nội tâm, suy nghĩ về hành động, hành vi và ý định của mình. Có đôi lúc bạn sẽ tự hỏi mình rằng liệu bạn có đo lường được các tiêu chuẩn mà bạn đặt cho chính mình hay không. Rất có thể, bạn đang nghĩ rằng mình vẫn chưa giỏi hay hoàn hảo như bạn mong muốn. Đó là xu hướng tiêu cực tự nhiên của bạn tại nơi làm việc. Bộ não của chúng ta có xu hướng tập trung vào những sai sót của chính mình thay vì những điểm mạnh của chúng ta. Vì vậy, cho dù chúng ta đang làm tốt như thế nào trong cuộc sống, chúng ta cũng không thực sự thấy được hay công nhận điều đó Đó là lý do tại sao tôi biên soạn một danh sách 10 điều mà nếu bạn thực hiện chúng hàng ngày, bạn sẽ thấy rõ hơn bản thân mình là một người tốt như thế nào. Hãy tham khảo nhé!”. Dưới đây là 10 điều cô khuyên nhủ người trẻ, giúp cuộc sống tốt đẹp và có định hướng hơn. 1. Bạn thực hành lắng nghe những điều tích cực Hãy bắt đầu với một thứ đơn giản nhưng hiệu quả đó là luôn lắng nghe tích cực. Bạn có thấy mình thực sự say mê trong các cuộc trò chuyện, hoàn toàn chú ý đến người đang nói không? Nếu vậy, đó là minh chứng cho sự đồng cảm và tôn trọng của bạn dành cho người khác. Tôi luôn thấy rằng những cuộc trò chuyện hay nhất mà tôi có là những cuộc trò chuyện mà người khác không chỉ đợi đến lượt mình nói mà còn thực sự tiếp thu những gì người khác nói. Tôi tin vào điều này: một người có thể ngừng suy nghĩ về bản thân trong 1 phút và thực sự dành thời gian để khiến ai đó cảm thấy được lắng nghe và trân trọng – đó chính là một người có phẩm chất! 2. Bạn giúp đỡ người khác mà không cần sự ràng buộc Khi người khác gặp khó khăn hay vướng mắc nào đó, điều mà bạn làm thể hiện sự đồng cảm của bạn đối với người đó là như thế nào? Tôi chỉ muốn hỏi rằng: Liệu bạn làm điều đó bằng tấm lòng hay làm trên danh nghĩa để mong nhận lại được bất cứ điều gì từ mọi người? Giúp đỡ ai đó khi bạn mong đợi được đền đáp là một chuyện, nhưng làm như vậy mà không có bất kỳ kỳ vọng nào như vậy lại là chuyện khác. Đó là một trong những biểu hiện mạnh mẽ nhất của lòng tốt! Có một câu trích dẫn cổ của tác giả người Anh John Bunyan đã gói gọn điều này một cách hoàn hảo: “Bạn chưa sống ngày hôm nay cho đến khi bạn làm được điều gì đó cho một người không bao giờ có thể trả ơn bạn”. Điều đó không đúng sao? Đó là tình yêu và sự cảm thông vô điều kiện. Điều đó có nghĩa là bạn có một trái tim rộng lớn có khả năng yêu thương tất cả nhân loại, cho dù bạn có biết họ hay không. Tin tôi đi, mỗi lần bạn giúp một ai mà không mong đợi được đền đáp thì đó là bạn đang kết nối với toàn thể nhân loại. Bạn đang làm cho thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn! 3. Bạn biết chọn sự tử tế Trong khi chúng ta nói về lòng tốt, hãy nghĩ về cách chúng ta giải quyết những bất đồng. Bạn có biết làm thế nào để ngăn chặn những lời nói gây tổn thương hoặc tự cao tự đại thoát ra khỏi miệng của bạn để thể hiện sự tử tế và tôn trọng không ? Có lần tôi đang thảo luận về sách với một người bạn. Cô ấy nói rằng cuốn sách yêu thích của cô ấy là cuốn mà tôi cực kỳ ghét. Bây giờ, tôi phải nói rằng tôi đam mê sách nên tôi có chính kiến rất mạnh mẽ. Thành thật mà nói, tôi suýt ngã khỏi ghế với cái này. Tôi muốn hét vào mặt cô ấy vì sự lựa chọn tồi tệ đó. Nhưng may mắn thay, lúc đó, tôi đã đủ trưởng thành để biết rằng sự tôn trọng phải được đặt lên hàng đầu. Thậm chí qua những lựa chọn mà bản thân bạn không thích. Vì vậy, tôi đã kiềm nén những sự bức xúc của mình. Cuối cùng điều tôi nhận lại là tình bạn được gìn giữ và nguyên vẹn. Tôi không nói đây là cách tiếp cận tốt nhất trong mọi tình huống. Một số tình huống đòi hỏi bạn phải đứng lên vì lẽ phải. Nhưng nếu bạn có thể chọn những trận chiến của mình và bỏ qua những điều nhỏ nhặt vì hòa bình, đó là dấu hiệu cho thấy bạn đã là một người tốt hơn bạn nghĩ. 4. Bạn tha thứ và buông tay Giữ mối hận thù và nuôi dưỡng sự oán giận cũng giống như mang một gánh nặng, nó đè nén và làm chúng ta chậm lại. Nó ngăn chúng ta trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình. Nhưng nếu bạn là người biết tha thứ và buông bỏ , bạn không chỉ trút bỏ được gánh nặng cho bản thân mà còn thể hiện khả năng thấu hiểu và đồng cảm to lớn. Bạn đang cho phép bản thân chữa lành và phát triển. Điều đó khiến bạn trở thành một người thực sự mạnh mẽ. 5. Bạn chấp nhận chịu trách nhiệm cho hành động của mình Nếu bạn là người đã làm tổn thương người khác thì sao? Bạn có xin lỗi không? Nó không phải lúc nào cũng dễ dàng, tôi biết. Tôi đã có lúc ước mình có thể đổ lỗi cho người khác. Nhưng thực sự, chịu trách nhiệm khiến bạn khác biệt với phần còn lại. Nó cho thấy bạn có một mức độ trưởng thành và chính trực nhất định. Trái với suy nghĩ của nhiều người, thừa nhận lỗi lầm không khiến chúng ta trông yếu đuối. Hoàn toàn ngược lại, nó cho thấy chúng ta có sức mạnh và cá tính. Luôn sẵn sàng học hỏi và phát triển! 6. Bạn cố gắng học hỏi và phát triển Bạn có phải là kiểu người luôn tìm kiếm học hỏi điều gì đó mới mẻ không ? Để phát triển, cả cá nhân và chuyên nghiệp? Vậy thì, bạn của tôi, bạn là một người học suốt đời, và bạn nên tự hào về điều đó! Tư duy phát triển của bạn đảm bảo bạn luôn đi trước một bước vì bạn có lợi thế rất lớn. Bạn có: – Thêm động lực và khả năng phục hồi – Hiệu suất tốt hơn – Ít sợ thất bại – Sáng tạo và đổi mới hơn – Sức khỏe tinh thần tốt hơn mối quan hệ tốt hơn … và nhiều hơn nữa! 7. Bạn tôn trọng những quan điểm khác nhau Tư duy phát triển đó cũng giúp bạn trở nên cởi mở hơn. Vì bạn luôn tò mò, hứng thú với rất nhiều thứ, nên bạn biết giá trị của việc hướng ngoại và đón nhận những quan điểm khác nhau. Trong một thế giới tràn ngập niềm tin, văn hóa và quan điểm đa dạng, tôn trọng sự khác biệt là một đặc điểm khiến mọi người trở nên khác biệt. Bạn hiểu rằng người khác không nghĩ theo cách của bạn. Điều đó không nhất thiết có nghĩa là bạn luôn đồng ý với họ, nhưng cảm giác tôn trọng và đồng cảm luôn tồn tại. Điểm mấu chốt: bạn đang tạo ra một môi trường nơi mọi người cảm thấy được nhìn thấy, lắng nghe và được đánh giá cao. Và bản thân điều đó đã là một đóng góp to lớn cho một thế giới toàn diện hơn. 8. Bạn trung thực và đáng tin cậy Tôi đã từng nghĩ mình không phải là một người bạn tốt. Là một người hướng nội, tôi rất hiếm khi đi chơi với bạn bè và thực sự kén chọn các sự kiện xã hội mà tôi tham gia. Nhưng có một điều khiến tôi suy nghĩ lại về giá trị của mình với tư cách là một người bạn, đó là điều mà tôi nhận thấy, mặc dù tôi ít tham gia các buổi họp mặt bạn bè hơn nhưng họ vẫn đến gặp tôi để giải quyết các vấn đề của họ. Một người bạn nói: “Đó là vì tôi biết bạn có thể giữ bí mật và tôi biết bạn sẽ thẳng thắn với tôi”. Tôi không có ý định nâng bản thân mình lên, tôi chỉ muốn nói rằng sự trung thực và đáng tin cậy có thể giúp ích rất nhiều trong việc nuôi dưỡng các mối quan hệ của bạn. Đừng bận tâm nếu bạn không phải là người hoàn hảo mà bạn muốn trở thành hay hướng đến. Vì vậy, nếu bạn trung thực và sống một cuộc sống chính trực, hãy coi đó là dấu hiệu cho thấy bạn là một người tốt hơn những gì bạn nghĩ. 9. Bạn thường xuyên bày tỏ lòng biết ơn Bạn có thường thấy mình suy ngẫm về những điều tốt đẹp trong cuộc sống của mình không? Đó là thói quen của những người hạnh phúc và mãn nguyện. Nếu bạn có thể thấy mình may mắn như thế nào bất chấp những vấn đề của mình, thì bạn đã tiến xa hàng dặm rồi! Như tác giả Rhonda Byrne đã nói, “Lòng biết ơn sẽ đưa bạn đến một tần số cao hơn, và bạn sẽ thu hút được nhiều điều tốt đẹp hơn”. Đối với tôi, học cách biết ơn thực sự đã thay đổi trọng tâm của tôi và giúp tôi trưởng thành hơn. Tôi trở nên kiên cường hơn, tin tưởng rằng cuối cùng mọi thứ sẽ ổn thỏa. Nói tóm lại, lòng biết ơn giúp chúng ta trở nên lạc quan hơn, biến chúng ta từ kẻ chua ngoa thành kẻ gieo rắc niềm vui! 10. Bạn lãnh đạo bằng tình yêu và lòng trắc ẩn Cuối cùng, bạn có lãnh đạo bằng tình yêu không? Hành động và quyết định của bạn có được hướng dẫn bởi lòng tốt, lòng trắc ẩn và sự tôn trọng đối với người khác không ? Đối với tôi, đây là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy bạn là một người tốt. Rằng bạn tốt hơn bạn nghĩ. Trên thực tế, một trong những nguyên tắc chỉ đạo của tôi trong cuộc sống là luôn xem xét mọi người đang hoạt động từ đâu. Họ có thể phạm sai lầm hoặc nói điều gì đó gây tổn thương, nhưng nếu họ xuất phát từ tình yêu thương và ý định tốt, thì những sai lầm đó sẽ dễ được tha thứ hơn nhiều. Lãnh đạo bằng tình yêu không có nghĩa là trở nên hoàn hảo, đó là nỗ lực mang lại lòng tốt và sự đồng cảm trong mọi tương tác. Đó là về: Chọn tình yêu thay vì hận thù… Thấu hiểu hơn phán xét… Lòng nhân ái hơn sự thờ ơ. Nó không chỉ là về những cử chỉ lớn. Nó quan trọng hơn về những hành động tử tế hàng ngày, những lời khích lệ mà chúng ta chia sẻ, sự kiên nhẫn và hiểu biết mà chúng ta thực hành. Tôi có thể tiếp tục, nhưng điều quan trọng chính là thừa nhận được những chia sẻ của chúng ta và đối xử với mọi người xung quanh bằng phẩm giá mà họ đáng được hưởng. Vì vậy, nếu bạn đang thực hành yêu thương trong cuộc sống hàng ngày, chắc chắn bạn là một người tốt hơn bạn nghĩ. Thế giới cần nhiều người như bạn!”. Nguồn: Hackspirit
10 lý do quan trọng để sống hạnh phúc
2,186
Những con đường ngập nước ở Lugo (Italia) nhìn từ trên không. Ảnh: Getty Images. Lũ lụt trong tuần qua là thảm họa thời tiết mới nhất tấn công Italia và các nhà hoạch định chính sách cuối cùng cũng bắt đầu có những động thái ứng phó với thảm họa. Theo tờ The Guardian, tuần qua, một phần của vùng Emilia-Romagna ở miền Bắc Italia đã hứng chịu lượng mưa tương đương mức trung bình 6 tháng chỉ trong 36 giờ. Nước sông tràn bờ và hàng ngàn mẫu đất nông nghiệp bị nhấn chìm. Ước tính có khoảng 36.000 người mất nhà cửa và 14 người được xác nhận đã chết. Đây chỉ là thảm họa thời tiết mới nhất tấn công Italia. 6 tháng trước, 12 người đã thiệt mạng trên hòn đảo Ischia ở miền Nam nước này trong một trận lở đất do mưa lớn. Tháng 9 năm ngoái, 11 người khác đã thiệt mạng do lũ quét ở Marche thuộc miền Trung nước này. Tháng 7 năm ngoái, giữa đợt nắng nóng và hạn hán tồi tệ nhất ở Italia trong ít nhất 70 năm, một trận tuyết lở ở dãy núi Alps của Italia đã giết chết 11 người. Theo tờ The Guardian , vẫn còn quá sớm để một nghiên cứu quy kết nguyên nhân của trận lũ lụt trong tuần qua là do sự nóng lên toàn cầu do con người gây ra. Nhưng trên khắp châu Âu, khi nồng độ carbon dioxide trong khí quyển tăng lên, thời tiết khắc nghiệt cũng tăng theo – những năm hạn hán liên tiếp đã ảnh hưởng đến nông dân ở Tây Ban Nha và miền nam nước Pháp, trong khi năm ngoái đã có những đợt nắng nóng chưa từng có trên khắp lục địa này. “Biến đổi khí hậu đang diễn ra ở đây và chúng ta phải gánh chịu hậu quả” , Paola Pino d’Astore – chuyên gia tại Hiệp hội Địa chất Môi trường Italia (SIGEA) nói rằng, đó không phải là một viễn cảnh xa vời nào đó, mà là một điều bình thường mới. Các chuyên gia cho biết, điều kiện địa lý của Italia khiến nước này đặc biệt dễ bị tổn thương trước các thảm họa khí hậu: địa chất đa dạng khiến nước này dễ bị lũ lụt và sạt lở đất; bên cạnh đó, các vùng biển ấm lên nhanh chóng trong bối cảnh nhiệt độ tăng cao khiến nước này dễ bị tổn thương trước những cơn bão ngày càng mạnh. Hai người dìu nhau đi qua con đường ngập nước ở Lugo (Italia). Ảnh: AP. Tờ The Guardian nhận định, “tiền tuyến” của cuộc khủng hoảng khí hậu cho đến nay vẫn nằm ở phía Nam bán cầu, dẫn đến điệp khúc thường được lặp đi lặp lại rằng những người ít chịu trách nhiệm nhất về khủng hoảng khí hậu đang phải đối mặt với những tác động tồi tệ nhất. Nhưng đối với Italia bây giờ, và có lẽ sắp tới là phần còn lại của châu Âu, “kẻ thù đang ở trước cổng” . Tháng 8 năm ngoái, một trạm thời tiết gần Syracuse trên đảo Sicily ở miền nam Italia đã ghi nhận nhiệt độ 48,8 độ C, được cho là mức nhiệt cao nhất từng đo được ở châu Âu. Trong khi thế giới đang vật lộn để giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới 1,5 độ C, thì ở Italia, nhiệt độ trung bình trong 10 năm qua đã cao hơn 2,1 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Coldiretti – một hiệp hội nông dân quốc gia của Italia – cho biết, số lượng các hiện tượng thời tiết cực đoan được ghi nhận vào mùa hè năm ngoái, bao gồm lốc xoáy, mưa đá cỡ lớn và sét đánh, cao gấp 5 lần so với con số được ghi nhận cách đây một thập kỷ. Và giống như ở nhiều nơi trên thế giới đã cảm nhận được tác động của biến đổi khí hậu, nông dân là đối tượng phải chịu đựng nhiều nhất: đợt hạn hán nghiêm trọng năm ngoái khiến năng suất cây trồng tại Italia giảm tới 45%. Tổ chức Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) tại Italia cho biết, việc mất đi các khu rừng và thảm thực vật hút nước dọc theo bờ sông ở Emilia-Romagna đã làm trầm trọng thêm thảm họa trong tuần qua: 23 dòng sông đã vỡ bờ. Các chuyên gia cho rằng, đó là hệ quả của nhiều năm xây dựng không theo quy hoạch và phát triển nông nghiệp với quy mô công nghiệp. Bất chấp sự gia tăng của các thảm họa thời tiết cực đoan, các nhà hoạch định chính sách của Italia chỉ mới bắt đầu can thiệp. Sau gần 4 năm trì hoãn, vào tháng 12/2022, Bộ Môi trường nước này đã công bố kế hoạch quốc gia đầu tiên về thích ứng với biến đổi khí hậu. WWF Italia cho biết trong một tuyên bố: “Chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu vượt ra ngoài cách xử lý các trường hợp khẩn cấp, và việc xem xét các tác động của quy hoạch thông thường đang ngày càng trở nên cấp thiết”. Nguồn:
Lũ lụt nghiêm trọng tại Italia: Khủng hoảng khí hậu đã tới châu Âu?
867
Ông Lê Hoàng phát biểu khai mạc Hội sách Thiếu nhi châu Á tại Singapore. Ảnh: Yến Vũ. Hoạt động xuất bản sách cho thiếu nhi thời gian qua khá sôi động với những dòng sách hay, đẹp và có sức hấp dẫn với đông đảo bạn đọc nhỏ tuối. Trong dòng chảy lịch sử, nghề làm sách mà sau này phát triển thành ngành xuất bản đã xuất hiện ở Việt Nam khá sớm, từ triều Lý khoảng thế kỷ X, cùng sự ra đời của làm giấy và khắc ván in gỗ. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, bước vào thời kỳ hiện đại, song hành cùng bước phát triển của đất nước Việt Nam, ngành Xuất bản, In và Phát hành đang có bước chuyển mình mạnh mẽ thực hiện chuyển đổi số, phát triển bền vững. Năm 1986 đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời mở ra cơ hội cho sự phát triển của ngành xuất bản Việt Nam. Đặc biệt trong 10 năm trở lại đây, dù đối mặt nhiều thách thức lớn do tình hình biến động kinh tế, chính trị toàn cầu, cạnh tranh thương mại thế giới, dịch bệnh Covid và những tác động tiêu cực của văn hóa nghe nhìn, mạng xã hội, xuất bản Việt Nam vẫn đạt bước phát triển khá tốt với mức tăng trưởng trên 5%/năm. Riêng năm 2022, tốc độ tăng trưởng của ngành xuất bản Việt Nam đạt gần 27% về sản lượng, 9% về doanh thu. Năm 2022, ngành xuất bản Việt Nam đã xuất bản được trên 40.000 tựa sách; gần 600 triệu bản sách; đưa tỷ lệ sách sản xuất bình quân/người/năm đạt 6 bản. Hệ thống xuất bản Việt Nam ngày càng phát triển mạnh với 57 nhà xuất bản của Nhà nước; trên 550 doanh nghiệp kinh doanh xuất bản. Nhiều loại hình xuất bản phẩm điện tử hiện đại được xuất bản, đặc biệt là việc áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) vào việc phát hành sách nói đã đem lại những hiệu quả đặc biệt ấn tượng. Trong khi số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất bản phẩm điện tử không tăng, nhưng sự hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp công nghệ đã cho thấy tính hiệu quả cùng sự tăng trưởng ấn tượng của một số startup như: Công ty TNHH WeWe với ứng dụng sách nói Voiz FM, Công ty Cổ phần Fonos với nền tảng sách điện tử Fonos, Công ty Cổ Phần Đầu Tư Và Phát Triển Giải Pháp Công Nghệ V&V với các nền tảng quảng bá và phát hành sách trên Internet… cùng nhiều doanh nghiệp khác đã và đang tạo dựng diện mạo mới cho ngành xuất bản trên không gian số. Tuy nhiên, doanh thu ngành xuất bản Việt Nam chưa cao như kỳ vọng, với khoảng trên 150 triệu USD/năm. Thị trường sách nói khoảng 5 triệu USD. Hoạt động xuất bản sách cho thiếu nhi thời gian qua khá sôi động với những dòng sách hay, đẹp và có sức hấp dẫn với đông đảo bạn đọc nhỏ tuổi. Hiện có trên 20 nhà xuất bản và doanh nghiệp xuất bản tham gia xuất bản sách thiếu nhi. Chất lượng, kỹ, mỹ thuật sách thiếu nhi Việt Nam đang ngang tầm các nền xuất bản phát triển khu vực và thế giới. Ông Lê Hoàng, Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam Các nhà xuất bản và đơn vị làm sách đã không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để tạo ra những cuốn sách, bộ sách đủ sức cuốn hút đối với các em nhỏ thông qua khả năng kích thích các giác quan và trí tưởng tượng, khơi dậy niềm đam mê của trẻ em. Nhiều cuốn sách, bộ sách đã thực sự gây ấn tượng với muôn hình, muôn vẻ không chỉ nói được nỗi lòng của trẻ em mà còn mở ra không gian trải nghiệm văn hóa truyền thống đặc sắc thông qua ngôn ngữ hài hước, dí dỏm. Nhiều nhà xuất bản đã mạnh dạn đầu tư, kỳ công tạo dựng những diện mạo mới cho tác phẩm văn học thiếu nhi, đem đến trải nghiệm đọc sách không giới hạn cho trẻ thông qua các cuốn sách lật mở, sách có mùi hương, sách chiếu bóng, sách chuyển động đa ngữ… Lượng sách thiếu nhi được xuất bản tại Việt Nam trong 5 năm qua: Để nâng cao chất lượng sách thiếu nhi, đòi hỏi các nhà xuất bản phải không ngừng nỗ lực tìm kiếm, đặt hàng những tác giả viết hay với nhiều ý tưởng mới, sáng tạo. Đồng thời cần phải hướng tới phát triển các dòng sách đẹp, hiện đại như artbook (sách tranh), pop-up (sách 3D, dựng hình), sách đa phương tiện (sách chuyển động, sách nói, sách song ngữ kèm phần đọc)… để có thể hấp dẫn các thế hệ độc giả nhỏ tuổi. Chất lượng, kỹ, mỹ thuật sách thiếu nhi Việt Nam đang ngang tầm các nền xuất bản phát triển khu vực và thế giới. Ngoài khu vực sách thiếu nhi trên, Việt Nam còn có khoảng 600 tựa sách giáo khoa, bổ trợ giáo khoa với số lượng gần 260 triệu bản/năm. Tranh minh họa từ Việt Nam được sử dụng trên các xuất bản phẩm ở hội sách. Ảnh: AFCC. Việt Nam có 100 triệu dân trong đó có 25,2% là dưới 15 tuổi. Tỷ lệ trẻ em học tiểu học đạt 98%, trung học cơ sở chiếm 93,1% và trung học phổ thông chiếm 79,1%. Kỹ năng đọc cơ bản (đọc hiểu 90% số từ, trả lời 3 câu hỏi và trả lời câu hỏi suy luận) ở lứa tuổi 10-14 của Việt Nam là 90,4%. Việt Nam rất quan tâm phát triển văn hóa đọc. Việt Nam có Ngày sách và Văn hóa đọc Việt Nam vào 21/4. Có nhiều đường sách, phố sách đẹp. Có trung tâm sách lớn, hiện đại. Ông Lê Hoàng Việt Nam đứng thứ 12 trên thế giới với trên 72 triệu người (chiếm 70,3% dân số) sử dụng Internet. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin (sử dụng 1/9 hoạt động cụ thể liên quan đến máy tính) ở độ tuổi 15-19 là 42% với nữ, 44% với nam. Kinh tế Việt Nam có mức tăng trưởng tốt, kể cả những năm chịu tác động của đại dịch Covid-19. Năm 2022 đạt 408,8 tỷ USD; nếu tính theo tỷ giá sức mua ở mức khoảng 997 tỷ; đứng thứ 3 ở Đông Nam Á, đứng thứ 11 ở Châu Á, đứng thứ 33 ở thế giới. Lãnh đạo Việt Nam rất quan tâm đến hoạt động xuất bản, tạo nhiều điều kiện để xuất bản có sự phát triển tốt. Ở Việt Nam, xuất bản được xác định là một lĩnh vực tư tưởng – văn hóa của Đảng, Nhà nước, là một bộ phận của nền văn hóa Việt Nam. Việt Nam là một trong ít quốc gia có Luật Xuất bản; có chiến lược phát triển xuất bản và chuyển đổi số trong xuất bản. Dù chưa phát triển như kỳ vọng nhưng với năng lực hiện nay (Việt Nam có nhiều doanh nghiệp phát hành sách lớn, trong đó có những doanh nghiệp như FAHASA nằm trong top 500 đơn vị bán lẻ hàng đầu Châu Á suốt nhiều năm) đủ khả năng đưa sách đến bạn đọc. Việt Nam rất quan tâm phát triển văn hóa đọc. Việt Nam có Ngày sách và Văn hóa đọc Việt Nam vào 21/4. Có nhiều đường sách, phố sách đẹp, có trung tâm sách lớn, hiện đại. Với lý do trên, xuất bản Việt Nam nói chung, thị trường sách thiếu nhi Việt Nam nói riêng đang mở cơ hội lớn cho các nhà xuất bản Việt Nam; đồng thời cũng là cơ hội cho các nhà xuất bản các nước trong cộng tác với các nhà xuất bản Việt Nam trên các phương diện, đặc biệt giao dịch bản quyền.
Thị trường sách thiếu nhi Việt Nam – châu Á đang rộng mở
1,341
Những câu chuyện giản dị, gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc được gói gọn trong ấn bản đặc biệt ‘Hạt giống tâm hồn’, đem lại nhiều bài học ý nghĩa, truyền cảm hứng cho người đọc. First News – Trí Việt vừa ra mắt cuốn sách đặc biệt Hạt giống tâm hồn – Bản giao hưởng cuộc sống gồm 127 câu chuyện chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, tuyển chọn từ hơn 200 tựa sáchđã xuất bản. Tác phẩm được sắp xếp theo từng phần như: Sống yêu thương, Vượt lên nghịch cảnh, Sống với ước mơ, Mở rộng tâm trí, Vươn lên từ nỗi đau… Với hơn 530 trang sách, độc giả như lắng lại trước những thông điệp nhân văn, câu nói hàm ý sâu sắc về cuộc đời được đúc kết sau mỗi câu chuyện. Đó là lòng tốt, sự tử tế giữa người với người; tình yêu thương vô điều kiện của gia đình, bạn bè; cách vượt qua thử thách trên từng chặng đường đời; cách chúng ta đối mặt với đau thương, mất mát… Hay câu chuyện của Winston Churchill – người từng thi trượt kỳ thi tuyển vào lớp 6 nhưng trở thành Thủ tướng nước Anh khi đã 62 tuổi, sau cả một đời chỉ toàn gặp thất bại; nhà bác học Albert Einstein đến năm lên 4 tuổi mới biết nói, bị từ chối nhận vào trường Bách khoa Zurich; nhà hóa học Louis Pasteur chỉ là một sinh viên bình thường chưa tốt nghiệp, xếp thứ hạng 15/22 ở môn Hóa… Cũng trong ấn bản mới nhất này, bạn đọc yêu thích bộ sách Hạt giống tâm hồn sẽ có cơ hội lắng nghe những câu chuyện xúc động phía sau ánh hào quang của nhiều người nổi tiếng như: Hành trình vượt lên số phận của Chris Gardner – nhà sáng lập kiêm CEO Công ty môi giới chứng khoán Gardner Rich & Co.; Cuộc đời đầy thăng trầm của “người hùng giữa đời thực” Keanu Reeves hay “phép màu kỳ lạ” giúp chàng kỹ sư Washington Roebling vượt qua tật nguyền để xây dựng nên cây cầu Brooklyn… Như Max Muller từng nói: “Hoa không thể nở nếu thiếu ánh nắng, con người không thể sống nếu thiếu tình yêu thương”, ấn bản đặc biệt Hạt giống tâm hồn – Bản giao hưởng cuộc sống sẽ là cuốn sách gối đầu giường giúp chúng ta có thêm niềm tin và tình yêu thương. Không chỉ trẻ em mà ngay cả người lớn cũng có thể nhận được nhiều bài học ý nghĩa về ý chí quyết tâm cũng như thái độ tích cực đón nhận cuộc sống.
‘Bản giao hưởng cuộc sống’ từ tủ sách Hạt giống tâm hồn
439
Cái tên Lý Lan không còn xa lạ với công chúng văn học Việt Nam. Bà là một nhà văn đã thành danh với những tác phẩm như “Ngôi nhà trong cỏ” (1984, Giải thưởng Văn học thiếu nhi), “Là mình” (2005, Giải thưởng Thơ – Hội Nhà văn Tp Hồ Chí Minh), “Tiểu thuyết đàn bà” (2008, Giải thưởng Tiểu thuyết – Hội Nhà văn Tp Hồ Chí Minh), “Chút lãng mạn trong mưa” (Tập truyện ngắn, 1987), “Đất khách” (Tập truyện ngắn, 1995), “Một góc phố Tàu” (Tập truyện – ký, 2001), “Người đàn bà kể chuyện” (Tập truyện ngắn, 2006), “Miên man trong mưa” (Tùy bút, 2007), “Từ Dòn Mé Sán đến…” (Tùy bút, 2014). Lý Lan còn được biết đến trong vai trò dịch giả của bộ tác phẩm “Harry Potter”. Nhà văn Lý Lan. Tiểu thuyết “Bửu sơn kỳ hương” xuất bản lần này (2022) đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn với số phiếu bình chọn tuyệt đối (11/11 thành viên Hội đồng chung khảo tán thành) đã phần nào nói lên độ thuyết phục của tác phẩm. Từ một người đọc, hoàn toàn không tham chiếu các quan điểm của Hội đồng sơ khảo – chung khảo, không được tiếp cận đầy đủ các tác phẩm tham dự xét giải, nhưng tôi vẫn nhận thấy, việc trao giải cho “Bửu sơn kỳ hương” là có cơ sở. Cơ sở này đặt trên niềm tin rằng các hội đồng đánh giá từ sơ đến chung đã làm tốt phần việc của mình. “Bửu sơn kỳ hương” viết về lịch sử vùng đất Lục Châu (Nam bộ) giai đoạn cuối thế kỉ XIX, thông qua biến cố của gia đình họ Huỳnh (Phước Xuân Đường) cùng những người có liên quan tạo nên thời gian – không gian truyện kể vừa rất cụ thể vừa khá dài rộng, bao quát. Đây có lẽ là điểm thuyết phục đầu tiên khi ở đó chúng ta nhận ra quan niệm về tiểu thuyết của tác giả, nhất là tiểu thuyết lịch sử. Rõ ràng, biến cố của thân phận cá nhân hay một gia đình, một dòng họ đã là hạt nhân của câu chuyện, tỏa ra những mạch nhánh liên kết, dẫn người đọc đến câu chuyện lớn hơn về lịch sử, thời đại, vùng đất hay đức tin, tôn giáo… Cách nhìn này không đặt người đọc vào một đại tự sự có tính chất sử thi vốn hay xuất hiện trong những tạo dựng mang tầm vóc thời đại. Nói cách khác, tiểu thuyết bắt đầu bằng thân phận con người đời thường, soi thời đại qua/ từ cá nhân, gia đình. Giải bỏ áp lực sử thi, xác lập điểm nhìn từ bên dưới, từ các tiểu tự sự, vi lịch sử với tinh thần thế tục hóa, dân sự hóa là điểm cộng cho “Bửu sơn kỳ hương” (Điều này ta sẽ bắt gặp trong các tiểu thuyết thành công trước đó như “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Đội gạo lên chùa” của Nguyễn Xuân Khánh,…). Xem xét cấu trúc tự sự này, người đọc sẽ bắt đầu với câu chuyện của gia đình họ Huỳnh (Huỳnh Ứng Xương, Huỳnh Tế Xương, Huỳnh Vĩnh Xương) và hiệu thuốc Phước Xuân Đường, theo đó mà lan tới thân bằng cố hữu, thâm sơ (Ông Hòa, Ông Thiềm, Chị Hai, Bình, Thành, Thầy Tỉnh, Người đàn bà bán khoai, Hà Bá Long, Tấn, Tuấn, Ông bà Tứ, Cố Từ…). Mạch chuyện sẽ không dừng lại khi từ biến cố cá nhân – gia đình bắt đầu thấm vào những sự kiện – nhân vật có tính chất lịch sử – thời đại – tôn giáo – văn hóa – lãnh thổ – quốc gia (Lê Văn Khôi, Phan Thanh Giản, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Tri Phương, Tây Sơn, Nhà Nguyễn, Pháp, Phật Giáo, Thiên Chúa giáo, Chữ Hán, Chữ Nôm, Chữ Quốc ngữ, Tiếng Pháp, Tân thư, Bắc Hà, Huế, Lục tỉnh, Quảng Châu, Tân Gia Ba, Penang…). Trên một nền tảng có thể dẫn dắt hư cấu, ta thấy bóng dáng những nhân vật như Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy Tây An – Sáng lập Đạo Bửu Sơn Kì Hương), Quản cơ Trần Văn Thành (Thủ lĩnh Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa), thậm chí thấp thoáng Nguyễn Đình Chiểu hay Trương Vĩnh Ký… Người đọc, tùy vào tri thức cá nhân mà tiếp nhận câu chuyện của Lý Lan, để từ đó hình thành một cấu trúc tự sự của riêng mình. Bìa tiểu thuyết “Bửu sơn kỳ hương” của nhà văn Lý Lan (Giải thưởng Hội Nhà văn, 2022). “Bửu sơn kỳ hương” hấp dẫn về chuyện. Điều đó được thể hiện ngay từ đầu tác phẩm bằng việc tạo dựng không khí có tính huyền bí về vùng đất và nhân vật. Có thể nói, đây là điểm thành công đáng kể khi Lý Lan đã giữ người đọc ở lại với từng trang viết, từng chi tiết, sự kiện. Lớp màn huyền bí bao quanh nhân vật người núi – Phật Thầy quả đã phát huy tác dụng kích thích trí tò mò của người đọc để từ đó lớp lang của chuyện được khai diễn. Đuổi theo sự kiện để biết kết cục của nhân vật vốn là sức mạnh của lối tự sự kinh điển (kể cái gì?). Đây là điều Lý Lan đã làm rất tốt trong một tiết điệu chậm rãi, chắc chắn, mạch lạc. Dẫu có đôi lần ngoảnh lại để quá khứ chồng lên hiện tại, nhưng mạch chính của chuyện vẫn theo trật tự thời gian tuyến tính gắn với quá trình: “ Gặp nhau, quen nhau, ơn nhau, rồi lạc nhau, tìm nhau, gặp nhau, rồi lại lạc nhau, lại tìm nhau …” (tr. 219). Gió bụi của thời cuộc thổi suốt chiều dài tác phẩm làm nên “vòng xoắn vô tận những hợp tan…”. Tâm thức lưu dân và kí ức lịch sử vùng đất (từ thời mở cõi) cứ chùng chình ẩn hiện, tạo thành không khí truyện kể rất đặc trưng. Điểm này không dễ nhận ra nếu chỉ mải mê theo đuổi sự kiện, nhân vật. Ngôn ngữ kể không cầu kì mà chân chất, thật thà, nhiều phương ngữ gắn với lời ăn tiếng nói, trang phục, sinh hoạt hàng ngày của cư dân vùng sông nước Lục Châu đã góp phần đắc lực vào việc tạo dựng bầu khí quyển này. Rõ ràng, sự thành công trong việc tạo dựng tính hợp lí của ngôn ngữ kể với câu chuyện, nhân vật, vùng đất… đã cho thấy Lý Lan biết rất rõ vấn đề của câu hỏi: kể như thế nào? Không thể mang ngôn ngữ quá hiện đại, lối tư duy siêu hình hay những cung cách biểu hiện xa lạ cầu kì đặt vào nhân vật, vốn là những kiếp người bé nhỏ, dạt trôi giữa thời loạn lạc này được. Nhân vật của Lý Lan mang mã gen (nhân vật hành động) từ lối viết của Nguyễn Đình Chiểu hay Hồ Biểu Chánh với vẻ dân dã thực thà rất Nam bộ. Tư tưởng cốt lõi của “Bửu sơn kỳ hương” là đức tin và lòng yêu thương. Đó là thứ “Kì Hương” được gìn giữ trong cơn dâu bể. Không nặng nề đao to búa lớn với những trường đoạn độc thoại, triết lí; mở lòng mình ra cảm nhận những cuộc đời bèo nước hợp tan trên xứ sở này, mới hay rằng, tư tưởng nằm trong những điều thật bình dị, lắm khi không được nói ra (giống như là năng lượng cảm hóa, chữa lành, định tâm tỏa ra từ sự im lặng, bình thản của Phật Thầy). Sẽ có người chưa hài lòng với “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Chắc chắn là thế. Bản thân người viết bài này, cũng cảm nhận đôi chỗ chưa được. Ví như, những chi tiết hợp tan đôi khi hơi sắp đặt và gượng ép. Nhân vật tỏ ra bị tác giả thao túng khi không dám lên tiếng, không nói ra những câu chuyện mà rất dễ từ đó người ta tìm thấy nhau một cách đỡ nhọc nhằn hơn (Câu chuyện của ông Thiềm với Bình – tr.231 – 232). Có những chi tiết không cần – không nên, như cuộc trò chuyện của Vĩnh Xương và Phật Thầy. Đây là lần duy nhất Phật Thầy bị tước đi lớp màn huyền bí để được gọi bằng một cái tên (Hưng – do Vĩnh Xương tự đặt). Giá thử, cứ để Phật Thầy trong lớp sương huyền bí ấy nói chuyện với Vĩnh Xương, tính chỉnh thể của hình tượng sẽ được duy trì, thậm chí là gia tăng (tr.123 – 124). Có những đòi hỏi khác, chờ đợi khác mà ta biết rằng rất khó để Lý Lan có thể đáp ứng, ví như một cấu trúc tự sự đa tầng hơn, sâu hơn cùng kĩ thuật viết phức tạp hơn nữa, nhằm mang đến khoái cảm thưởng thức cho người đọc (không chỉ là chuyện mà còn là văn chương, chữ – nghĩa). Tuy nhiên, như đã nói, mã gen truyện kể định hình trên sông nước Lục Châu tự nó tìm đến lối viết, lối kể bình dị này. Trật ra khỏi thổ nhưỡng, khí quyển ấy, có khi “Bửu sơn kỳ hương” lại trở thành làm dáng một cách nông nổi.
Bửu sơn kỳ hương – Mã gen truyện kể trên vùng đất Lục Châu – Tác giả: Nguyễn Thanh Tâm
1,572
“Chiến binh cầu vồng” là bức tranh chân thực về hố sâu ngăn cách giàu nghèo, là tác phẩm văn học truyền tải sâu sắc nhất ý nghĩa đích thực của việc làm thầy, việc làm trò và việc học. Chiến binh cầu vồng kể về câu chuyện có thật của những con người sống dưới đáy xã hội tại hòn đảo Belitung (I ndonesia ). Nghèo đói bủa vây người lớn khiến những đứa trẻ không được đến trường. Chúng phải lựa chọn: hoặc đi học hoặc kiếm tiền nuôi sống gia đình. Nếu từ bỏ quyền đi học, những đứa trẻ sớm sẽ trở thành công nhân, như thế hệ cha mẹ chúng, lao vào công cuộc kiếm tiền khốc liệt. Nếu không, những đứa trẻ buộc đánh cược cả tính mạng để đến trường. Mỗi ngày, chúng đạp xe 40km, vượt qua đầm cá sấu chết người, để đến trường Tiểu học Muhammadiyah – ngôi trường nghèo nhất ở Belitung. Muhammadiyah đã trụ vững ngay cả trong giông bão để che chở ước mơ của những đứa trẻ. Cậu bé Lintang khát khao trở thành nhà Toán học để cha mẹ tự hào; Nahar say mê âm nhạc, nghệ thuật; Sahara muốn đấu tranh cho nữ quyền; Ikal ước mơ làm giáo viên. Còn Akiong sẽ là một thuyền trưởng tài ba trong tương lai… “Chiến binh cầu vồng” của tác giả Andrea Hirata do Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn phát hành (Ảnh: Nhã Nam). Nuôi dưỡng những ước mơ tươi đẹp ấy, là thầy Harfan và cô Mus đáng kính tại Muhammadiyah. Một thầy giáo “không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn là người bạn và người dìu dắt tinh thần cho học sinh của mình”. Một cô giáo khao khát được dạy học dù ở ngôi trường làng tồi tàn nhất và không hề được trả lương. Thầy Harfan và cô Mus đã mang đến cho những cô cậu học trò nghèo không chỉ kiến thức vô tận mà còn là tuổi thơ đẹp nhất, tình bạn đẹp nhất và tâm hồn phong phú. “Họ là những anh hùng không được ca tụng, là vị hoàng tử và công chúa hiện thân cho sự tận tâm và là giếng nước kiến thức thanh khiết cho cánh đồng khô cạn bỏ hoang”, trích tác phẩm. Chiến binh cầu vồng có cả tuổi học trò trong sáng lẫn những trò đùa tinh quái, cả nước mắt lẫn nụ cười. Một bức tranh chân thực về hố sâu ngăn cách giàu nghèo, một tác phẩm văn học cảm động truyền tải sâu sắc nhất ý nghĩa đích thực của việc làm thầy, việc làm trò và việc học. Dù hiện thực nghiệt ngã, khổ đau và tiếc nuối nhưng đến cuối cùng, người đọc sẽ cảm nhận những hạt mầm hy vọng vẫn đang sinh sôi, những tia nắng vẫn đang le lói rọi đến tương lai của các nhân vật. Giáo dục vẫn luôn là một phép màu, ít nhất là khi con người còn đặt niềm tin vào phép màu ấy. Chiến binh cầu vồng đã bán được hơn 5 triệu bản, được dịch ra 26 thứ tiếng, là một trong những đại diện xuất sắc nhất của văn học Indonesia hiện đại. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim điện ảnh, nhạc kịch và phim truyền hình. Bộ phim cùng tên đạt doanh thu cao kỷ lục ở Indonesia, đồng thời giành nhiều giải thưởng trong nước cũng như quốc tế. Tác giả Andrea Hirata trên tay cuốn tiểu thuyết “Chiến binh cầu vồng”. Andrea Hirata (56 tuổi), sinh ra trong một gia đình nghèo ở Belitung. Ông tốt nghiệp Đại học Indonesia với tấm bằng cử nhân kinh tế. Sau khi nhận học bổng từ Liên minh châu Âu, ông bắt đầu học Thạc sĩ tại Đại học Paris (Pháp), sau đó là Đại học Sheffield Hallam (Anh). Luận án của ông xoay quanh vấn đề viễn thông và kinh tế. Hirata phát hành Chiến binh cầu vồng vào năm 2005. Cuốn tiểu thuyết được viết trong khoảng 6 tháng và dựa trên những trải nghiệm thời thơ ấu của ông ở Belitung. Ông mô tả đó là “một sự trớ trêu về việc trẻ em không được tiếp cận với giáo dục tại một trong những hòn đảo giàu có nhất thế giới”.
Những chiến binh cầu vồng lay động toàn thế giới về nền giáo dục hy vọng
708
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh nêu rõ, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được xây dựng nhằm phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt. Chiều 25/5, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường nghe tờ trình, báo cáo thẩm tra về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Thừa ủy quyền của Thủ tướng trình bày tờ trình về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết, bên cạnh kết quả đạt được, một số quy định của Luật 2012 còn giao thoa, chồng chéo với các luật khác dẫn đến khó thực hiện hoặc lãng phí nguồn lực. Đồng thời, thiếu khung pháp lý cho an ninh nguồn nước, đặc biệt là vấn đề bảo đảm an ninh nước cho sinh hoạt; thiếu quy định cụ thể liên quan đến điều hòa, phân bổ nguồn nước, giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Đặng Quốc Khánh. Ông Đặng Quốc Khánh nhìn nhận việc thi hành pháp luật về tài nguyên nước ở một số nơi còn chưa nghiêm, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm chưa được thực hiện tốt; các cơ chế tài chính, chế tài, công cụ kiểm soát, giám sát chưa hiệu quả; các cơ chế hợp tác, giải quyết các vấn đề nước xuyên biên giới còn chưa đồng bộ. “ Dự án luật được xây dựng nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương, khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật “, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường nêu rõ mục đích xây dựng dự án Luật. Cùng với đó, Bộ trưởng Đặng Quốc Khánh nêu rõ dự án Luật hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân. Liên quan đến phạm vi điều chỉnh, lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường cho hay, luật này quy định về quản lý, bảo vệ khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ của nước ta. “ Nước dưới đất và nước biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước khoáng, nước nóng thiên nhiên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Về cơ bản, phạm vi điều chỉnh được giữ nguyên như Luật 2012 “, ông Đặng Quốc Khánh nói. Về đối tượng áp dụng, theo Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường, luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết cơ bản nhất trí với các nội dung về nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả do nước gây ra như dự thảo Luật. Tuy nhiên, cơ quan thẩm tra của Quốc hội đề nghị thể hiện rõ ràng hơn các nguyên tắc quản lý cho từng hoạt động cụ thể (từ quản lý tài nguyên; quản lý hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước; hoạt động bảo vệ tài nguyên nước; hoạt động hạn chế tác hại do nước gây ra…) và tối ưu hóa trong khai thác, sử dụng nước. Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tán thành với sự cần thiết quy định về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước trong dự thảo Luật. Tuy nhiên, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo làm rõ cơ chế, điều kiện sử dụng ngân sách Nhà nước để các tổ chức, cá nhân thực hiện dự án điều tra cơ bản tài nguyên nước, cập nhật thông tin, kết quả điều tra vào hệ thống thông tin tài nguyên nước; trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan trong cập nhật, chia sẻ thông tin về điều tra cơ bản tài nguyên nước… Theo ông Lê Quang Huy, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất với việc xác định chức năng nguồn nước, phân vùng chức năng nguồn nước để bảo vệ tài nguyên nước; tán thành với sự cần thiết quy định về điều hòa, phân phối và khai thác, sử dụng tài nguyên nước trong dự thảo Luật cũng như bổ sung quy định liên quan đến cơ chế tài chính nhằm làm rõ giá trị kinh tế của tài nguyên nước trong phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo theo nguyên tắc kinh tế thị trường. Về trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp tại các Điều 76 và 77 của dự thảo Luật. Tuy nhiên, cần phân định rõ trách nhiệm quản lý tài nguyên nước với quản lý công trình khai thác, sử dụng nước của các Bộ, ngành; bổ sung quy định về cơ chế phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với các Bộ khác có liên quan.
Sửa Luật Tài nguyên nước để phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt
1,070
Không ngờ lỗ đen với kích thước đáng kinh ngạc lại được tìm thấy nhờ dự đoán của nhà khoa học Albert Einstein. Albert Einstein (1879-1955) là một trong những nhà khoa học lừng danh nhất của thế giới. Tên của ông còn được sử dụng để nói về những người có đầu óc thiên tài. Albert Einstein là người đưa ra thuyết tương đối và nhờ phát minh này của ông nhận thức về vũ trụ của nhân loại đã thay đổi hoàn toàn. Không chỉ vậy, những dự đoán của ông phần nào giúp các nhà khoa học có được nhiều phát hiện quan trọng về vũ trụ. Điển hình như siêu lỗ đen mới được tìm thấy bằng một ảo ảnh quang học do Albert Einstein từng dự đoán trước đó. Tầm ảnh hưởng của phát hiện này là gì? Nhờ dự đoán của Albert Einstein các nhà thiên văn học đã tìm thấy siêu lỗ đen với kích thước khổng lồ. (Ảnh: NASA). Chúng ta đều biết lỗ đen là vật thể dày đặc trong vũ trụ. Chúng có lực hấp dẫn mạnh tới mức ánh sáng cũng không thể thoát khỏi. Siêu lỗ đen còn nặng hơn các lỗ đen tới hàng trăm nghìn lần. Tuy nhiên, ngoài siêu lỗ đen, những vật thể có khối lượng dày đặc về mặt thiên văn đến mức các nhà khoa học phải đưa ra cách phân loại mới là siêu lỗ đen khối lượng. Sự khác biệt duy nhất giữa lỗ đen thông thường và lỗ đen siêu khối lượng là kích thước của chúng. Các nhà thiên văn học tại đại học Durham ở Anh sử dụng hiệu ứng thấu kính hấp dẫn kết hợp với một siêu máy tính và tìm thấy lỗ đen ở Abell 1201, cách Trái đất 2,7 tỷ năm ánh sáng. Đây cũng là một trong những lỗ đen lớn nhất từng được phát hiện. Phát hiện này được công bố trên tạp chí Thông báo hàng tháng của Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia. Các chuyên gia nhận thấy, tại trung tâm của một cụm thiên hà cách xa chúng ta hơn hai tỷ năm ánh sáng – Abell 1201 có một ảo ảnh quang học được gọi là thấu kính hấp dẫn đang xảy ra. Hiện tượng thấu kính hấp dẫn này xảy ra khi ánh sáng chói từ một vật thể ở hậu cảnh uốn cong quanh một vật thể ở tiền cảnh. Đây là lần đầu một siêu lỗ đen được tìm thấy nhờ sử dụng thấu kính hấp dẫn. (Ảnh: NASA). Khái niệm thấu kính hấp dẫn này có mối liên hệ chặt chẽ với thuyết tương đối rộng của Albert Einstein. Thuyết này dự đoán được các hiện tượng khác trong vũ trụ như các vật thể khối lượng lớn có khả năng làm cong các cấu trúc không, thời gian. Ông cũng từng dự đoán những đường cong này có thể hoạt động tương tự như một thấu kính phóng đại. Từ dự đoán của Albert Einstein, các nhà thiên văn học đã xác định được lỗ đen với khối lượng gấp khoảng 30 tỷ lần Mặt trời. Siêu lỗ đen này nằm bên trong thiên hà sáng nhất thuộc cụm thiên hà Abell 1201. Thiên hà chứa lỗ đen này cũng chịu ảnh hưởng từ trường hấp dẫn của vật thể này. Đây cũng là lần đầu tiên một siêu lỗ đen được tìm thấy bằng việc sử dụng thấu kính hấp dẫn. Các nhà khoa học cũng hi vọng trong thời gian tới sẽ tìm thấy thêm nhiều lỗ đen khác. (Nguồn: Nature)
Phát hiện lỗ đen lớn gấp 30 tỷ lần Mặt trời nhờ dự đoán của Albert Einstein
599
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà phát biểu tại diễn đàn Dx Summit 2023. Chia sẻ tại Diễn đàn cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam – châu Á 2023, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định chuyển đổi số là công việc của toàn xã hội, và Việt Nam có thể ‘đi sau nhưng về trước’. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho biết ông có cảm xúc hết sức đặc biệt khi đến tham dự diễn đàn lần này, bởi vì ông nhận thấy là có rất nhiều các bạn trẻ tới tham dự sự kiện. Họ vừa là những người tham gia vào chuyển đổi số, vừa là người kiến tạo tiến trình này. Họ là lực lượng chính, là thế hệ tương lai của nước Việt Nam đang quan tâm và dành tâm huyết của mình cho lĩnh vực mà Phó Thủ tướng nói rằng “rất mới” và “quan trọng” này. Phó Thủ tướng cũng ấn tượng với việc VINASA và các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã tạo nên một diễn đàn cho các doanh nghiệp, các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý của Việt Nam có dịp thảo luận cùng chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là khu vực châu Á, về dữ liệu và chuyển đổi số. Đây là một vấn đề đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu và là một xu thế tất yếu không thể đảo ngược. “ Chuyển đổi số không thể một người làm được, không thể một tổ chức làm được. Chuyển đổi số phải tất cả mọi người đều làm thì chúng ta mới có được tài nguyên số và chuyển đổi số thành công ”, Phó Thủ tướng nói. Chủ đề của diễn đàn là “Khai thác dữ liệu số và kết nối thông minh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”. Đây là hai lĩnh vực đóng góp quan trọng trong các trụ cột của kinh tế số. Phó Thủ tướng cho rằng chủ đề này hết sức phù hợp, hưởng ứng năm quốc gia về dữ liệu số. Phó Thủ tướng nhấn mạnh dữ liệu còn hơn cả một mỏ vàng. “ Dữ liệu là một tài nguyên vô tận, sáng tạo từ tư duy và trí tuệ con người. Nó thay đổi tài nguyên thiên nhiên mà thế giới đã khai thác, đã sử dụng và đã dựa vào nó trong suốt chiều dài lịch sử của loài người. Đến bây giờ chúng ta đã tìm ra một mỏ vàng mới, mà lớn hơn mỏ vàng mới – đó là tài nguyên mới, tài nguyên xanh. Chuyển đổi xanh, chuyển đổi số là xu thế tất yếu. Thế giới cũng đang bước vào thập niên nhìn nhận lại quá trình phát triển trước đây của mình. Theo một báo cáo nghiên cứu, nếu việc tăng dân số và giữ mô hình phát triển như trước đây thì chúng ta phải tìm ra 3 Trái Đất giàu tài nguyên thì mới đủ nuôi sống nhân loại. Điều gì sẽ làm thay đổi thế giới? Đó là chính là cuộc cách mạng khoa học công nghệ với kinh tế số, chuyển đổi số, tài nguyên số – đó là những tài nguyên mới ”, Phó Thủ tướng nói. Kinh tế số là định hướng phát triển chiến lược của Việt Nam . Chúng ta đã nhìn thấy những thách thức của mình, thách thức trong con đường phát triển – và chúng ta đã lựa chọn con đường phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp và net zero. Điều này là một thách thức rất lớn, nhưng cũng là một cơ hội rất lớn để Việt Nam có thể thay đổi một cách cơ bản mô hình phát triển của mình để hướng tới lấy năng suất lao động, sức cạnh tranh; hướng tới phát triển kinh tế – xã hội nhanh nhưng cũng phải bền vững. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với hội nhập thực chất, hiệu quả. “ Các hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước chúng ta đang chuyển nhanh từ phương thức truyền thống sang phương thức trực tiếp là kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp, kinh tế tri thức trong đó kinh tế số là trọng tâm ”, Phó Thủ tướng chia sẻ. Việt Nam đang chuyển đổi mạnh mẽ từ công nghệ thông tin sang công nghệ số kết hợp với các thành tựu trong công nghệ viễn thông; từ thông tin quản lý bằng giấy tờ sang cơ sở dữ liệu quốc gia và coi đây là một nguồn tài nguyên vô tận trong sự phát triển và chuyển đổi của mình. Từ gia công là một công đoạn, giờ đây chúng ta đã có một hệ sinh thái công nghiệp số bao gồm thiết kế, xây dựng, chế tạo và từng bước đưa tất cả hoạt động kinh tế – xã hội trên con đường chuyển đổi số để nâng cao năng suất. Các công nghệ mới như kết nối vạn vật, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo, Blockchain, điện toán đám mây… đang diễn ra và hiện diện ở rất nhiều lĩnh vực. Nhà nước, chính phủ cũng đang chuyển đổi sang chính phủ điện tử, chính phủ số. Phó Thủ tướng nói rằng chính phủ cần xác định các hướng đi cần thiết để chuyển đổi nhanh sang chính phủ điện tử, thông qua các dịch vụ công, thông qua các nhiệm vụ theo thẩm quyền nhằm tạo lập môi trường pháp lý để định hướng và dẫn dắt cho cuộc cách mạng công nghệ. “Tư duy phải từ doanh nghiệp, tư duy phải từ khoa học công nghệ sẽ giúp cho chính phủ có nhận thức và có sự đổi mới. Bởi vì chúng ta thấy trong cuộc cách mạng số, cứ sau một tuần, một tháng lại có một sản phẩm mới, khiến cho văn bản pháp luật khó chạy theo được. Chỉ có các doanh nghiệp, các nhà khoa học trong chuyển đổi số mới có thể hình dung và đưa ra đóng góp cho khuôn khổ chính sách. Các bạn là người trong cuộc, các bạn mới thấy được những khó khăn cần phải được chính phủ hỗ trợ, đồng hành. Nói như vậy để thấy một phần trách nhiệm từ chính phủ, nhưng cũng có phần trách nhiệm từ các nhà khoa học, các nhà công nghệ, các doanh nghiệp”, Phó Thủ tướng nói. Người phụ trách mảng Văn hóa Xã hội, Y tế, Giáo dục và Công nghệ của Chính phủ nói rằng, về mặt chủ trương, Đảng và Nhà nước đã sớm có nhận thức rất đúng đắn về khoa học công nghệ, về chuyển đổi số. Nhưng về mặt chính sách, thể chế hóa thành pháp luật thì chưa kịp thời. “ Đến nay những vấn đề về mặt tiêu chuẩn, định mức, chính sách khuyến khích, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển đồng bộ hạ tầng, quy hoạch, vẫn còn có thiếu sót. Chúng ta có Nghị quyết của TW, của Đảng hết sức toàn diện, nhưng việc tổ chức thực hiện và tổ chức thể chế còn khó khăn. Điều này chúng tôi sẽ khắc phục rất sớm ”, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nói. Việt Nam là một nước không đi quá sớm, nhưng cũng không quá muộn trên con đường chuyển đổi số. Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt chương trình chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến 2030, xác định 3 trụ cột là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, trong đó có việc hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp công nghệ số. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tham quan gian hàng của các doanh nghiệp công nghệ tại Diễn đàn cấp cao Chuyển đổi số Việt Nam – châu Á 2023. Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc về chính phủ điện tử, Việt Nam đang đứng thứ 86 trên 193 quốc gia; chỉ số Dịch vụ trực tuyến xếp thứ 76 trên 193 quốc gia. Kinh tế số Việt Nam được Google đánh giá là phát triển nhanh nhất Đông Nam Á. Theo thống kê của Bộ Thông tin Truyền thông, kinh tế số chiếm trên 14% GDP. Phó Thủ tướng cho rằng cần phải có những phân tích kỹ càng về những con số trên để tìm ra hướng đi đúng, tìm ra con đường cần hướng tới. “ Tôi xin được thay mặt đồng chí Thủ tướng, biểu dương những nỗ lực, kết quả đạt được của các nhà khoa học, các doanh nghiệp, các nhà quản lý hoạt động trên lĩnh vực chuyển đổi số. Các bạn thực sự đã tạo ra những kết quả hết sức ấn tượng đối với sự phát triển của Việt Nam. Xin chúc mừng các bạn ”, Phó Thủ tướng nói. Quá trình chuyển đổi số phải được nhìn nhận là một cơ hội cho sự thay đổi, cho phát triển bền vững. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực là những thách thức luôn song hành. Nếu Việt Nam biết tận dụng những cơ hội và vượt qua những thách thức, thì theo Phó Thủ tướng, trong cuộc đua về chuyển đổi số giữa các quốc gia, Việt Nam có thể là nước “đi sau nhưng về trước”. Chuyển đổi số cũng cần đảm bảo các tiêu chuẩn công nghệ, tiêu chuẩn an ninh. Bảo vệ an toàn dữ liệu cá nhân, dữ liệu nhà nước, tổ chức, chính là vấn đề an ninh quốc gia. Thực tế cần có một môi trường pháp lý trên phạm vi toàn cầu cho các tiêu chuẩn an ninh an toàn thông tin, giống như các vấn đề về biến đổi khí hậu, an toàn hạt nhân. Nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng đang kêu gọi xây dựng một môi trường pháp lý trên phạm vi toàn cầu. Họ cũng nhấn mạnh vấn đề đạo đức và an ninh mạng trong chuyển đổi số cũng như chia sẻ và hợp tác trong chuyển đổi số. Đây là vấn đề khó khăn nhất trên phạm vi thế giới chứ không chỉ riêng Việt Nam. “ Việt Nam đang hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật về chuyển đổi số, nhưng việc này không bao giờ đi trước được, trừ khi có sự hợp tác của các nhà khoa học và các doanh nghiệp ”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh. Theo Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, vấn đề đạo đức và văn hóa trong xã hội số cũng đang được đặt ra. Các doanh nhân và nhà nghiên cứu phải đánh giá được những tác động của các yếu tố này nhằm đem lại những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất cho xã hội, cho thế giới. Phó Thủ tướng dẫn chứng phát minh về năng lượng nguyên tử, nếu ứng dụng dân dụng thì rất tốt, nhưng nếu đưa vào chiến tranh thì hậu quả rất ghê gớm. Ngày nay, các công nghệ tiên tiến ra đời liên tục. Một công nghệ ra đời hôm nay nhưng hôm sau đã trở thành lạc hậu. Phó Thủ tướng nói rằng chúng ta phải dựa vào khoa học công nghệ, phải dựa vào đổi mới sáng tạo và tiến hành đổi mới không ngừng thì mới có thể theo kịp tốc độ phát triển của thế giới. Trong đó các nhân tố đào tạo con người, nghiên cứu cơ bản, kết nối các ngành khoa học, kết nối toàn xã hội là những nhiệm vụ mà chúng ta cần phải vượt qua. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho biết, để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia, chính phủ sẽ tiến hành sửa đổi Nghị định số 73 về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT; bổ sung các điều luật về CNTT, luật Viễn thông, Luật Giao dịch điện tử. Hiện nay, chính phủ đang triển khai Đề án 06 ( phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số – PV ), từng bước giải quyết các vấn đề về hạ tầng, vận hành, cơ chế, cũng như bảo mật. Đặc biệt, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu là rất quan trọng, bởi dữ liệu là trái tim, là mỏ vàng, là tài nguyên mới – Phó Thủ tướng nhấn mạnh. “Chúng ta cần phải hết sức thẳng thắn, khoa học để đánh giá được những nỗ lực của Chính phủ, đề xuất những việc Chính phủ phải làm nhanh hơn, kịp thời hơn, toàn diện hơn; bởi vì thiếu đi một khâu nào đó cũng không được”, Phó Thủ tướng nói. Người phụ trách lĩnh vực Khoa học của Chính phủ cũng gợi ý doanh nghiệp có thể đề xuất chính phủ thành lập một Trung tâm công nghệ số. Các doanh nghiệp sẽ đóng góp các thành quả của mình để xây dựng Trung tâm lớn mạnh, thu hút được nhân tài cả trong và ngoài nước, tạo ra các sản phẩm có tầm cỡ quốc tế.
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà: Chuyển đổi số không phải là việc làm của một cá nhân, một tổ chức
2,177
Nhà thơ Hoài Vũ (bìa phải) và Nhà văn Phùng Văn Khai Tôi luôn không nguôi nhớ về nhà thơ Hoài Vũ. Mà ông đang khỏe mạnh ở mảnh đất phương Nam. Tôi vào Sài Gòn bây giờ lúc nào cũng muốn gặp Hoài Vũ. Ông cũng luôn rất muốn gặp tôi, dù không phải để nói gì, dù chỉ là để tươi cười rồi im lặng. Hoài Vũ sinh năm 1935, đã tiến sát mốc bách niên mà vẫn luôn tươi vui, khỏe khoắn. Nói thực cũng là nói chơi chơi vậy, chứ bách niên khỏe khoắn nghĩa sao đây? Chân cẳng đã yếu đi, mắt đã nhoà ngấn lệ chảy hoài vào trong rưng rức. Sức khỏe tinh thần ư? Những gì đã vượt qua và những gì đang vượt dẫu có là tinh thần vượt núi băng ngàn thuở đôi mươi, tinh thần lửa thép ngày làm Văn nghệ Giải phóng , tinh thần đá nát vàng phai ngày bao cấp đến hôm nay ngang ngửa thời kinh tế thị trường đùng đùng vật chất lên ngôi thử hỏi tinh thần ông lão bách niên ấy có còn chống chịu được bao lăm? Tôi ở đâu cũng thấy thương Hoài Vũ, cũng hỏi một người như ông với những Vàm Cỏ Đông; Anh ở đầu sông em cuối sông; Đi trong hương Tràm; Hoàng hôn lặng lẽ… mà đến bây giờ, nhà thơ vẫn chưa chạm tới Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật? Đã không còn là sự bi ai mà chính là sự vô tâm đến lạnh lùng bỏ quên đạo lý của chúng ta chăng? Chúng ta đã bỏ mặc những người như Hoài Vũ? Chúng ta đã bỏ mặc những gì từng cứu giúp, bồi đắp vết thương thể xác và tâm hồn của một thời bom đạn mịt mùng, đói kém, thiếu thốn ngặt nghèo dễ dàng như vậy? Chúng ta đang chạy theo cái gì? Vật chất ư? Đã có không ít người là quan to, thậm chí rất to, bổng lộc phi pháp đã phải nhét vào những chiếc cặp hàng triệu đô la, đến lúc ra tòa đổ cho con cái cầm làm của riêng, đổ cho sự lú lẫn quăng vứt những chiếc ba lô, chiếc cặp triệu đô vào gác xép, nhà vệ sinh, thùng chứa đồ cũ rồi quên béng? Đây là căn bệnh gì vậy? Đây là loại người gì khi vừa trước đó tới các trung tâm hội nghị rao giảng về đạo đức, về nhân cách, về trách nhiệm công dân. Nhà thơ Hoài Vũ (thứ 3 từ trái sang). Với Hoài Vũ thì sao? Một người đã viết những câu thơ: Vàm Cỏ Đông đây ta quyết giữ/ Từng mái nhà nép dưới rặng dừa/ Từng thửa ruộng ngời đen màu mỡ/ Từng mối tình hò hẹn sớm trưa (Vàm Cỏ Đông); Ôi bát ngát chân trời miền hạ/ Tím tình yêu tím cả ước mong/ Gió nhớ thương ai mà lay bờ lá/ Để bìm bịp kêu con nước lớn ròng… Thơ Hoài Vũ đấy! Thế hệ ông bà ta, mẹ cha ta và chúng ta hôm nay vẫn đang nghe thơ, và hát những lời thơ Hoài Vũ. Hoài Vũ vẫn đang còn sống kia, bằng xương bằng thịt. Nhà thơ bách niên – riêng đâu tượng đài tình yêu nơi cuối đất vẫn ngồi, kia giản dị mà lồng lộng mây trời. Chúng tôi, những kẻ hậu sinh chẳng biết nói gì với ông, chỉ thấy bồn chồn, bứt rứt và có phần xa xót. Xa xót về cái gì? Xa xót về việc ông chưa được Giải thưởng Nhà nước ư? Giải thưởng đã phải là hiện hình những tiêu chí lạnh lùng còn không ít sự trà trộn vào trong đó? Xa xót vì không ai thực hiện cái đạo lý và bổn phận, trách nhiệm tối thiểu của những người cầm bút đồng thời, sau thời của ông? Thực là vô cùng khó diễn tả mà chỉ thấy trong lòng ấm ức. Hạnh phúc đến xanh như màu lá/ Và nồng thơm mùi thơm của rạ/ Đêm xôn xao sao gắn đầy trời/ Tình anh là Vàm Cỏ em ơi (Anh ở đầu sông em cuối sông); Em gởi gì trong gió, trong mây/ Để sáng nay lên Vàm Cỏ Tây/ Hoa tràm e ấp trong vòm lá/ Mà khắp trời mây hương tỏa bay (Đi trong hương tràm). Ô hay! Đích thực là Hoài Vũ đang hạnh phúc tràn đầy. Đích thực là Hoài Vũ đã thấy được hạnh phúc lớn của nhân dân mình, Tổ quốc mình trong hạnh phúc lứa đôi vĩnh cửu. Đã có một thời kỳ, chúng ta định quên đi hạnh phúc lứa đôi, định lấy giá trị chung của hạnh phúc là toàn thể nhân dân, nhất là các tập thể từ cao đến thấp phải hạnh phúc một cách đồng loạt, giống nhau như đúc mới an lòng. Cái khác người của Hoài Vũ chính là nhìn ra chi chít sợi tâm hồn khác nhau trong mỗi cá nhân mới là điều chính yếu để làm nên rộng dài Tổ quốc. Hoài Vũ có một loạt bài viết về những dòng sông. Một người như Hoài Vũ tất nhiên phải mê sông đến tận cùng: Anh ở đầu sông em cuối sông; Vàm Cỏ Đông; Em về bên kia sông; Xa rồi sông Hậu; Trời mênh mông, nước mênh mông; Tâm tình trước ngã ba sông… và trong Chia tay hoàng hôn là một câu thơ về sông hay tuyệt: Xa em, anh như trưa nắng đi trên cát/ Thèm một dòng sông, những cánh đồng . Thế hệ của Hoài Vũ đang dần thưa vắng, lão ngoan đồng suýt soát bách niên Hoài Vũ ngay từ đầu đã chọn hướng đi riêng cho mình, cho thơ mình. Những cống hiến rất có giá trị nếu không muốn nói là xuất sắc của Hoài Vũ với văn chương, với cách mạng là hết sức đáng quý. Ngày trước, khi nhà văn Văn Lê còn sống, đã rất nhiều lần muốn tôn vinh bậc đàn anh Hoài Vũ. Đến lứa chúng tôi, U50 đã là cách ông một, hai thế hệ sao thấy ông vừa thật gần vừa quá xa xôi. Thật gần vì ông đang ở đây, bằng xương bằng thịt. Thơ của ông đang vang lên bằng vô số bài hát. Trong lời bài hát Chia tay hoàng hôn cũng chính là tâm can của lão ngoan đồng : Anh phải về thôi xa em thôi/ Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi/ Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc/ Mà lời từ biệt chẳng nên môi … Nhà thơ Hoài Vũ (thứ 3 từ phải sang). Anh em văn nghệ sĩ trẻ chúng tôi từ Bắc chí Nam ai cũng mến thương Hoài Vũ. Ở ông có điều gì đó rất đặc biệt, rất hấp dẫn của một con người hết sức từng trải mà lại hết sức ngây thơ. Trong chuyến đi Trường Sa vừa qua, tôi đem theo mấy tập sách mà ông vừa tặng ở Sài Gòn. Hoài Vũ viết văn cũng tình thương mến thương lắm. Ngày trước là các tập truyện: Tiếng sáo trúc; Rừng dừa xào xạc; Quê chồng; Bông sứ trắng; Bên sông Vàm Cỏ; Vườn ổi… càng cho thấy sự xum xuê tươi thắm của một Hoài Vũ xanh thẳm nỗi đời chất chứa câu văn. Những câu văn trong sáng mà ôm chứa ở trong ấy bao nỗi nhân tình thế thái đều được Hoài Vũ gạn đục khơi trong đến tận cùng. Tôi và nhà thơ Phan Hoàng nhiều lúc chỉ biết ngồi bên Hoài Vũ và im lặng. Biết nói gì đây? Biết làm gì đây với lão ngoan đồng phơ phơ đầun tóc bạc đã đi qua cơ cực, giặc giã, đói nghèo và những chuyển động rùng rùng thời cơ chế thị trường sôi sùng sục. Hoài Vũ như dòng sông, vô số dòng sông khao khát vươn mình ra biển. Để hòa tan mình trong thăm thẳm vô cùng ư? Để góp máu của mình cho biển mặn? Hay là góp niềm tin của mình để biển xanh vằng vặc? Nào đã mấy ai đi hết biển khôn cùng? Không phải ai cũng biết, ở mảng dịch thuật, Hoài Vũ cũng rất tài hoa. Các tác phẩm: Loạn luân; Người đàn bà bất hạnh; Nữ điền chủ cuối cùng; Hồn ma; A-sư-ma bé bỏng đã cho thấy không phải là một Hoài Vũ ngây thơ mà chính là một Hoài Vũ vô cùng giàu có chữ nghĩa và sâu sắc đồng hành với những văn phẩm của bạn viết trên thế giới. Điều đó đã cho một sắc thái riêng đặc biệt của người con Mộ Đức – Quảng Ngãi, một vùng đất mà con người dẫu đi đến cuối đất cùng trời đều vô cùng quyết liệt, thẳm sâu. Tại sao tôi không nguôi nghĩ về Hoài Vũ? Tại sao câu hỏi cứ vang lên như cắt cứa trái tim tôi? Lứa chúng tôi đang trong buổi thanh bình với những xán lạn và thuận lợi của mình thì cần gì phải thao thức với Hoài Vũ? Thậm chí trước lúc gặp ông (năm 2022), tôi còn tưởng Hoài Vũ đã mất lâu rồi. Tôi còn tưởng thành phố nào đó, tỉnh, huyện, vùng đất quê hương nào đó đã có tên đường, tên phố, tên trường học đặt tên ông như những người đồng thời với ông cũng đã được như thế. Cơ mà Hoài Vũ vẫn khỏe mạnh ngồi trước cánh văn nghệ trẻ chúng tôi, cười trong ngấn mắt sóng sánh nước, nhắc những câu chuyện lơ lắc bưng biền, những là dòng nước, bờ tôm, bóng dừa, hương tràm, trời mây, thửa ruộng ngời đen màu mỡ… với vô số mối tình hò hẹn sớm trưa.. . Thì tôi mới thấy, cái cách đong đếm hạnh phúc ở một con người, ở một thế hệ với những giá trị riêng không thể nào dễ học, càng không thể quy hoạch theo những tiêu chí vô cảm mà chúng ta không ít lúc từng áp dụng với nhau, với văn chương. Hoài Vũ, với lứa chúng tôi, không riêng là tượng đài tình yêu với vô vàn câu hát đi cùng theo năm tháng mà còn là một trong những tượng đài về sự cống hiến lặng thầm, hy sinh cái riêng cho cái chung rộng lớn. Ở tận sông Hồng, không chỉ riêng sông Hồng, còn là những sông Thao, sông Lô, sông Đà, sông Mã, sông Thương, sông Lam, sông La, sông Hiền Lương, sông Đắc Krông, sông Pô kô, sông Ba… đến chín nhánh Cửu Long giang hùng vĩ… đều mang rất nhiều phần máu thịt của nhân dân, của tổ tiên ngàn đời trong đó có tổ tiên nhà thơ Hoài Vũ để ông ngân lên khúc hát các dòng sông. Ôi Hoài Vũ! Ông đã sắp trọn con đường với sông, với biển! Mà ông vẫn trong ngần, thơm ngát sắc hương hoa!
Nhà thơ Hoài Vũ, riêng đâu tượng đài tình yêu nơi cuối đất – Tác giả: Nhà văn Phùng Văn Khai
1,808
Nhiều loài động vật hoang dã đang có nguy cơ tuyệt chủng. Ảnh: CNN. Tốc độ biến mất của động vật hoang dã trên toàn cầu là đáng báo động so với dự tính trước đây khi gần một nửa số loài trên hành tinh đang sụt giảm số lượng nhanh chóng. Theo nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí Đánh giá sinh học hôm 23/5, con người đã xóa sổ một số lượng lớn các loài và đẩy nhiều loài khác đến bờ vực tuyệt chủng. Điều này đã khiến một số nhà khoa học cho rằng, chúng ta đang bước vào sự kiện “tuyệt chủng hàng loạt lần thứ sáu”, và lần này là do con người gây ra. Nguyên nhân chính đằng sau đó chính là hành vi phá hủy môi trường hoang dã để xây dựng các trang trại, thị trấn, thành phố và đường sá. Nhưng biến đổi khí hậu cũng là một nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến sự suy giảm của các loài và được dự đoán sẽ gây ra tác động ngày càng tồi tệ hơn khi thế giới ấm lên. Các tác giả của nghiên cứu đã phân tích hơn 70.000 loài trên toàn cầu – gồm động vật có vú, chim, bò sát, lưỡng cư, cá và côn trùng – để tìm hiểu xem quần thể của chúng đang phát triển, thu hẹp hay duy trì ổn định theo thời gian. Họ nhận thấy 48% các loài này đang suy giảm về số lượng, với chưa đầy 3% có sự gia tăng. Chia sẻ với CNN, ông Pincheira-Donoso – đồng tác giả nghiên cứu và là nhà nghiên cứu tại Trường Khoa học Sinh học tại Đại học Queen’s Belfast – cho biết: “Các nghiên cứu khác, dựa trên số lượng loài nhỏ hơn đáng kể, đã chỉ ra rằng, “cuộc khủng hoảng tuyệt chủng” đang diễn ra nghiêm trọng hơn mức đánh giá chung. Phát hiện của chúng tôi cung cấp một xác nhận rõ ràng trên quy mô toàn cầu về mức độ xói của đa dạng sinh học”. Ông Pincheira-Donoso cho biết thêm, trong nhiều thập niên, cuộc khủng hoảng tuyệt chủng đã được xác định bởi “các hạng mục bảo tồn” mà Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), gán cho từng loài mà họ đánh giá tại một thời điểm nhất định. Dựa trên phương pháp đó, Danh sách đỏ các loài bị đe dọa của IUCN đã xếp hạng khoảng 28% các loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. Theo ông Pincheira-Donoso, nghiên cứu của ông và các đồng nghiệp không nhằm chỉ ra các loài đang bị đe dọa hay không, mà thay vào đó, liệu quy mô quần thể của chúng có đang trở nên ngày càng nhỏ hơn hay không, bởi xu hướng giảm dân số theo thời gian là tiền thân của sự tuyệt chủng. Theo đánh giá này, 33% các loài hiện được phân loại là “không bị đe dọa” trong Sách đỏ của IUCN trên thực tế đang suy giảm dần tới mức tuyệt chủng.
Động vật hoang dã đang biến mất nhanh chóng
513
Điểm dị thường trong dữ liệu của vệ tinh lập bản đồ bầu trời Gaia của Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) rất có thể là ngôi sao trong truyền thuyết – sao boson – được làm bằng vật chất tối. Hai nhà vật lý thiên văn Alexandre M. Pombo và Inppocratis D. Saltas từ Viện Vật lý thuộc Học viện Khoa học Czech đã phân tích dữ liệu của Gaia chụp một cặp vật thể vô cùng kỳ lạ, từng được cho là một ngôi sao quay quanh một lỗ đen. Đó là một cặp đôi nằm cách nhau 1,4 đơn vị thiên văn (AU, bằng khoảng các Mặt Trời – Trái Đất) và quay quanh nhau mỗi 188 ngày. Ánh đồ họa mô tả về cặp sao bí ẩn, với một trong hai có thể là “sao ma quỷ” làm bằng vật chất tối – Ảnh: NASA. Theo tờ Space, vật thể đầu tiên trong cặp đôi rất dễ giải thích. Đó là một ngôi sao có khối lượng khoảng 0,93 lần khối lượng Mặt Trời và thành phần hóa học cũng gần giống. Nhưng người bạn đồng hành của nó bí ẩn hơn nhiều. Dữ liệu Gaia cho phép các nhà khoa học “cân” nó, cho thấy đó là một vật thể khổng lồ có khối lượng gấp 11 lần Mặt Trời. Tuy vậy, không thể nhìn thấy nó. Đó là một thứ gì đó vô hình. Ban đầu, người ta nghi ngờ đó là một lỗ đen. Cặp đôi lỗ đen – sao vốn không có gì bất thường trong vũ trụ, trong đó lỗ đen khối lượng thấp được hình thành từ một ngôi sao khổng lồ bị cạn năng lượng, chết đi và sụp đổ. Nhưng các thông số mà hệ sao cung cấp không hoàn toàn khớp với giả thuyết đó. Người ta bắt đầu nghi ngờ đó phải là thứ gì kỳ lạ hơn nhiều. Nghiên cứu mới, vừa công bố trực tuyến trên arXiv, chỉ ra rằng đó phải là “sao boson”. Boson là từ những chỉ những hạt mang các lực tự nhiên, ví dụ photon là một boson mang lực điện từ. Vật chất tối được thiên văn học xem như một loại boson mới và từ đó người ta chỉ ra khả năng tồn tại của một vật thể giả thuyết mới đó là sao boson, ngôi sao làm hoàn toàn bằng vật chất tối. Không thể nhìn thấy loại “sao ma quỷ” này một cách trực tiếp, nhưng có thể “nhìn” gián tiếp thông qua cách nó tương tác với những thứ xung quanh, ví dụ như ngôi sao đồng hành. Khớp giả thuyết này với dữ liệu Gaia, các nhà khoa học Czech tin rằng có thể thứ gây bối rối cho họ chính là “ngôi sao trong truyền thuyết” đó.
Lần đầu tiên, ESA bắt được ‘sao ma quỷ’ làm bằng vật chất tối?
464
Sách gồm 50 truyện là các thần tích, thần phả và truyện cổ tích. Cuốn sách “Truyện truyền kỳ Việt Nam” vừa được Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành. Cuốn sách chọn lọc 50 truyện là các thần tích, thần phả và truyện cổ tích mang yếu tố truyền kỳ đậm nét, được trích từ cuốn sách “Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam” do Vũ Ngọc Khánh và Nguyễn Quang Ân tập hợp ở một số tập sách lớn như “Hát Đông thư dị”, “Công dư tiệp ký”, “Sơn cư tạp thuật”, “Kiến văn tiểu lục”, “Tang thương ngẫu lục”, “Lan Trì kiến văn lục”, “Thánh Tông di thảo”, “Truyền kỳ mạn lục”, “Truyền kỳ tân phả”… Theo đó “Truyện truyền kỳ Việt Nam” là một thể loại văn học viết, tập trung khai thác các mô típ kỳ lạ, hoang đường, các nhân vật là những anh hùng Việt Nam thời xa xưa được truyền thuyết, thần thánh hóa, mang tầm vóc sử thi, hay các nhân vật chỉ xuất hiện trong tưởng tượng như thánh thần, tiên phật, ma vương quỷ dữ, các con vật, cây cối… thành tinh biến hóa khôn lường và cả những kiếp người hiện hữu quanh ta. Với cách dùng yếu tố kỳ ảo làm phương thức chuyển tải nội dung, truyện truyền kỳ luôn tạo được sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với mọi lứa tuổi, mọi thời đại, đặc biệt là các em nhỏ. Trong đó, có những truyện như: “Hổ bộc” (làm đầy tớ hổ), “Quy nữ” (gái đội lốt rùa), “Truyện hồ Ba Bể”, “Thần hồ Động Đình”, “Sự tích Linh Lang Đại vương”, “Sự tích Đại thánh Từ Đạo Hạnh”, “Ông Sư tiên núi Nưa”, “Sử chăn trâu, hiển phép thần thông”, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, “Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên”, “Chuyện tướng Dạ Xoa”, “Loại côn trùng tranh cãi nhau”, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”… Vì vậy, cuốn sách được xem là nguồn tài liệu tham khảo giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về thể loại truyện truyền kỳ qua các giai đoạn phát triển của lịch sử văn học Việt Nam. Và cũng là món quà hấp dẫn dành cho các em nhỏ nhân Ngày Quốc tế thiếu nhi và mùa hè này.
”Truyện truyền kỳ Việt Nam” món quà ý nghĩa dịp 1/6
380
Siêu bão Mawar đã vượt qua đảo Guam (Mỹ), tiến về khu vực đảo Luzon (Philippin) với cường độ hiện tại là cấp 17, cấp siêu bão, báo hiệu một mùa mưa bão với nhiều bất thường. Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, ngày 26/5/2023) một siêu bão có tên quốc tế là Mawar đã vượt qua khu vực đảo Guam (Mỹ), đây là cơn bão thứ 2 hoạt động trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương trong mùa bão năm 2023. Cường độ hiện tại của bão MAWAR là cấp 17, cấp siêu bão. Dự báo siêu bão Mawar sẽ di chuyển theo hướng Tây Tây Bắc, hướng tới khu vực phía Bắc đảo Luzon (Philippin). Cơ quan Khí tượng Thủy văn Quốc gia Việt Nam đang theo dõi sát diễn biến siêu bão Mawar. Cơn bão Mawar siêu bão đầu tiên của mùa 2023 với sức gió hiện 250km/h . Dự báo nó sẽ còn tiếp tục mạnh thêm có thể lên tới 300km/h khi tới gần đảo Đài Loan (Trung Quốc). Hình ảnh vệ tinh về đường đi của siêu bão Mawar. Cơ quan Thời tiết quốc gia Mỹ (NWS) ngày 25/5 cảnh báo, bão Mawar đang trên đường di chuyển khỏi đảo Guam (vùng lãnh thổ thuộc Mỹ), hướng đến Philippines và Đài Loan (Trung Quốc), với sức gió lên tới 240 km/h. Hòn đảo 17.000 dân này đã vượt qua cơn bão, song vẫn khuyến cáo người dân nên ở nhà cho đến khi chính phủ khẳng định tình hình an toàn. Trong bản tin bão mới nhất vào lúc 23h ngày 25/5, Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines (PASAGAR) cho biết, tâm bão Mawar ước tính cách đảo Luzon 1.840 km về phía đông đông nam. Bão Mawar đang di chuyển về phía tây, mỗi giờ đi được 20 km, sức gió duy trì tối đa 205 km/h gần tâm bão, gió giật lên tới 250 km/h và áp suất trung tâm là 910 hPa. Theo PASAGAR, gió mạnh đến cấp bão cũng mở rộng từ tâm bão ra ngoài tới 550 km. Dựa trên lộ trình dự báo, cơn bão mạnh dự kiến sẽ tiếp tục di chuyển về phía tây trong ngày 26/5, tăng tốc trước khi chuyển hướng tây tây bắc nhiều hơn vào ngày 27/5. Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) nhận định đây có thể là siêu bão mạnh nhất thế giới tính đến thời điểm này. Hiện mắt bão đã được hình thành với đường kính lên đến 45km và khoét sâu xuống bề mặt biển, chúng ta có thể thấy rõ màu xanh của biển khi quan sát ảnh mây vệ tinh kênh thị phổ (VIS) với độ phân giải rõ nhất. Nhật Bản thông báo họ ước tính sức gió trong 10 phút là 205km/h-cấp 17 trong khi Hải quân Mỹ ước tính sức gió trong 1 phút là 270 km/h, áp suất tại tâm bão xuống đến 910 hpa, nhiệt độ tại tâm bão là 20,03 độ C và nhiệt độ đỉnh mây cao nhất lên đến -77,38 độ C . Cơ quan khí tượng cảnh báo, siêu bão Mawar sẽ gây ảnh hưởng gián tiếp khiến miền Nam nước ta mưa dông kéo dài. Dự báo đêm nay bão tiệm cận sức gió 300km/h. Hiện tại gió mùa Tây Nam đang hoạt động khá mạnh , cùng với diễn biến phức tạp của bão Mawar trong những ngày tới Nam Bộ và Nam Trung Bộ mưa dông kéo dài tới. Thời tiết nam biển Đông sẽ diễn biến xấu trong 7 ngày tới . Khu vực từ đảo Phú Quốc tới Khánh Hoa-Phú Yên có gió cấp 5-6, sóng biển cao từ 2-3m . Thời tiết xấu nên bà con ngư dân cần hết sức chú ý và cẩn thận. “Mới đầu mùa đã xuất hiện siêu bão, Việt Nam cần phải đề phòng một năm 2023 với bão bất thường. Cần chuẩn bị các kịch bản phòng chống và ứng phó với bão từ đầu mùa”, cơ quan khí tượng cho biết. Tên quốc tế của cơn bão này là Mawar, tên này do Malaysia đề xuất, có nghĩa là “Hoa hồng”. Đây có thể là một cơn bão rất mạnh, thậm chí là siêu bão. Cơn bão này ít khả năng đi vào Biển Đông nhưng nó có thể tác động đến sự hình thành cũng như là hoạt động của một xoáy thuận khác được dự báo có thể hình thành trên Biển Đông vào giữa tuần sau. Diễn biến thời tiết trong những ngày tới sẽ rất phức tạp, cần chú ý theo dõi các bản tin của cơ quan khí tượng để có thông tin cập nhật mới nhất.
Đầu mùa đã có siêu bão, dấu hiệu của mùa mưa bão nhiều bất thường
794
Cuộc khám phá mới nhất về thị trấn cổ Rungholt, được mệnh danh là Atlantis của Biển Bắc, đã dẫn đến tàn tích của một nhà thờ cổ ngoài khơi nước Đức cùng nhiều cấu trúc đáng kinh ngạc lân cận. Truyền thuyết Đức kể rằng Rungholt là một thị trấn thịnh vượng và rộng lớn bên bờ biển nước Đức cổ đại, được cho là đã phải chịu một số phận thảm khốc như một “sự trừng phạt của thần linh”. Tất nhiên về mặt khoa học, thị trấn được cho là biến mất trong một thiên tai tàn khốc là một cơn bão thủy triều tấn công bờ biển vào tháng 1 năm 1362 và vùi lấp toàn bộ thị trấn trong những con sóng. Khu vực ngập nước nơi thị trấn ma bao gồm nhà thờ cổ 700 năm tuổi còn chìm dưới đáy – Ảnh: Dirk Bienen-Scholt. Thị trấn trong truyền thuyết đã hiện ra một lần nữa trong cuộc nghiên cứu của nhóm khoa học gia đến từ Đại học Kiel (CAU), Đại học Johannes Gutenberg Mainz (JGU), Trung tâm Khảo cổ Baltic và Scandinavi (ZBSA) và Cục Khảo cổ Bang Schleswig-Holstein (ALSH). Họ đã xác định được vị trí của tòa nhà nguy nga ngay bờ biển nơi thị trấn Rungholt được cho là từng tọa lạc bằng cách kết hợp phương pháp địa khoa học và khảo cổ học, chẳng hạn như phép đo từ trường, cảm ứng điện từ và địa chấn. Tòa nhà này được xác định là một nhà thờ cổ tọa lạc trên phần nền có kích thước 40x 5 m, nằm giữa một tàn tích kéo dài 2 km của một khu định cư. Tiến sĩ Ruth Blankenfeldt, nhà khảo cổ học tại ZBSA, cho biết: “Điểm đặc biệt của phát hiện nằm ở tầm quan trọng của nhà thờ với tư cách là trung tâm của một cấu trúc định cư, mà ở quy mô của nó phải được hiểu là một giáo xứ quan trọng thời bấy giờ”. Các cuộc khảo sát trong khu vực rộng lớn hơn trải rộng trên diện tích hơn 10 km2 cũng đã tiết lộ 54 dải cấu trúc thuộc về các khu định cư, hệ thống thoát nước được xây dựng tốt, một con đê ven biển, bến cảng và 2 nhà thờ nhỏ hơn. Các nhà khảo cổ cho biết các cuộc khai quật tiếp theo cần khẩn trương bởi những gì còn lại của khu định cư tương đối mờ nhạt, có thể bị hư hại tiếp bởi thiên tai.
Đức: Choáng váng nhà thờ cổ hiện hình sau 700 năm mất tích trong bão
421
Quy hoạch cây xanh đô thị cần phải đảm bảo cảnh quan, kiến trúc, bóng mát, khai thác tối ưu giá trị cây xanh mang lại cho cuộc sống con người. Cây xanh đô thị luôn là tâm điểm được dư luận xã hội quan tâm, bởi đó là một phần của tự nhiên không thể thiếu, gắn liền với đời sống thường ngày của người dân. Việc chính quyền lựa chọn trồng loại cây xanh đô thị nào sao cho phù hợp vẫn là câu chuyện cần phải bàn thêm. Theo tiêu chuẩn thiết kế, quy hoạch cây xanh sử dụng công cộng trong các đô thị (TCVN 9257: 2012), các loại cây xanh được trồng trên đường phố gồm: cây bóng mát, cây trang trí, dây leo, cây mọc tự nhiên, thảm cỏ trồng trên hè phố, dải phân cách, đảo giao thông; cây xanh trong công viên, vườn hoa; cây xanh và thảm có tại quảng trường và các khu vực công cộng khác trong đô thị. Cây xanh đường phố thường bao gồm bulơva, dải cây xanh ven đường đi bộ (vỉa hè), dải cây xanh trang trí, dải cây xanh ngăn cách giữa các đường, hướng giao thông… Nhiều chuyên gia cho rằng, thiết kế quy hoạch cây xanh đô thị phải phù hợp với từng loại đô thị và tổ chức không gian đô thị, góp phần cải thiện môi trường, phục vụ các hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa, thể thao và mỹ quan đô thị. Đặc biệt, yêu cầu quan trọng đặt ra là việc tổ chức hệ thống cây xanh đô thị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, khí hậu, môi trường, cảnh quan thiên nhiên, điều kiện vệ sinh, bố cục không gian kiến trúc, quy mô, tính chất cũng như cơ sở kinh tế kỹ thuật, truyền thống tập quán cộng đồng của đô thị. Tiêu chí, khoảng cách giữa cây xanh và công trình đô thị được quy định đối với cây bụi, cây thân gỗ cách tường nhà và công trình từ 2m đến 5m. Cây thân gỗ và cây bụi phải trồng cách vỉa hè và đường từ 1,5m đến 2m và khoảng cách tối thiểu cách nhau từ 5m đến 7m. Mặt khác, cũng theo TCVN 9257:2012, kích thước dải cây xanh đường phố được bố trí theo quy cách với các chiều rộng tối thiểu khác nhau và phải căn cứ phân cấp tầng bậc và tính chất các loại đường mà bố trí cây trồng, như: Cây trồng một hàng với chiều rộng tối thiểu từ 2-4m, cây trồng hai hàng từ 5-6m… Một số quy cách khác đối với cây xanh trồng trên vỉa hè cũng được khuyến cáo cụ thể, đó là: Các loại cây có thân thẳng, gỗ dai đề phòng bị giòn gẫy bất thường, tán lá gọn, thân cây không có gai, có độ phân cành cao. Lá cây có bản rộng để tăng cường quá trình quang hợp, tăng hiệu quả làm sạch môi trường. Hoa quả (hoặc không có quả) không hấp dẫn ruồi nhặng làm ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường. Tuổi thọ cây phải dài (50 năm trở lên), có tốc độ tăng trưởng tốt, có sức chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết, ít bị sâu bệnh, mối mọt phá hoại; cây phải có hoa đẹp, có những biểu hiện đặc trưng cho các mùa. Hàng cây Sao đen là niềm tự hào của người dân phố Lò Đúc. Theo số liệu báo cáo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ đất cây xanh công cộng tại một số đô thị như Hà Nội 2,06m2/người; Thành phố Hồ Chí Minh 0,55m2/người; Đà Nẵng 2,4m2/người; Hải Phòng 3,41m2/người… trong khi quy chuẩn quy hoạch yêu cầu từ 6-7m2/người… Đối với số lượng cây xanh đô thị (thân gỗ lớn, cây bóng mát) hiện chưa có thống kê đầy đủ, tuy nhiên tại một số đô thị lớn đã có những chương trình, đề án phát triển cây xanh như Hà Nội trồng 1 triệu cây xanh; tại một số đô thị như Đà Nẵng khoảng 350 nghìn cây (năm 2015), Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 236 nghìn cây (theo số liệu quản lý của các đơn vị trên địa bàn, năm 2019), thành phố Vũng Tàu khoảng 38 nghìn cây, thành phố Huế hơn 65 nghìn cây, thành phố Quy Nhơn khoảng 54 nghìn cây, các đô thị tỉnh Bình Phước khoảng 43 nghìn cây… Tại Thành phố Hà Nội, việc lựa chọn cây xanh đô thị và trồng ở vị trí nào cũng khiến báo chí tốn nhiều giấy mực. Nhiều tuyến phố của Hà Nội có các loại cây sấu, sao, bằng lăng, lộc vừng, hoa sữa, phượng vĩ… cao đến 30-40m, có những cây trồng hàng trăm năm nay vẫn xanh tốt. Đây là những loại cây mang đặc điểm rõ rệt của cây đô thị như tán lá xanh, rễ cọc, trồng lâu năm, ít có khả năng gãy đổ, phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu. Khi nghiên cứu cây trồng đô thị phải tính đến khả năng sinh học của từng loài và phải trồng lâu dài, có tầm nhìn theo từng tuyến phố. Hà Nội với đặc trưng của mùi hương hoa Sữa. Tuy nhiên, trước đây Hà Nội do trồng mật độ cây Sữa dày đã tạo nên mùi hương nồng nặc gây khó chịu như trên tuyến đường Nguyễn Chí Thanh (quận Ba Đình), ảnh hưởng không nhỏ đến điều kiện khí hậu khi mùa hoa nở, gây dị ứng cho những người dân sống xung quanh. Chính vì lẽ đó, thời gian qua, một lượng lớn cây hoa Sữa trên đường Nguyễn Chí Thanh đã được đánh chuyển và thay thế bằng cây Lát hoa – loài cây thuộc loại thân gỗ. Vào tháng 7/2019, gần 100 cây hoa Sữa trên phố Trích Sài (quận Tây Hồ) cũng đã được di dời, đưa đến trồng tại Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Nam Sơn (huyện Sóc Sơn) sau khi có ý kiến của người dân. Trước đó, vào tháng 3/2015 chính tuyến phố này cũng xôn xao với việc chính quyền “chặt vội, trồng nhầm” cây mỡ/vàng tâm. Do vậy, để tạo cảnh quan đô thị nên trồng xen kẽ các loại cây như Sấu, Bằng Lăng, Muồng, Phượng Vĩ, hoa Giấy… sao cho phù hợp với tuyến phố để đảm bảo không gian cảnh quan, mùi hương; đảm bảo đặc trưng văn hóa tuyến phố; lựa chọn dựa trên đặc trưng sinh học của từng loài cây… Trên các tuyến phố Hà Nội hiện nay, hoa Phượng được trồng nhiều tại đường Thanh Niên, Láng. Còn trên các tuyến phố trung tâm, cây hoa được trồng xen kẽ, rải rác tạo điểm nhấn ấn tượng. Một số nhà nghiên cứu nhận định: nhược điểm lớn nhất của loại cây này chính là tuổi thọ không cao. Mỗi cây chỉ có thể sống khoảng 30 năm. Khi già cỗi, thân cây dễ bị sâu bệnh và nấm tấn công phía bên trong thân cây và dần trở nên mục rỗng. Do đó, nếu không thay thế những cây già hoặc cây có dấu hiệu bị mục thì dễ tiềm ẩn các nguy cơ về các tai nạn bất ngờ. Thân cây cũng có đặc tính là giòn và cành dễ gãy dù gặp phải những tác động không có lực không quá mạnh. Vậy nên trong mưa bão nếu không có phương pháp bảo vệ tốt, cây dễ gây nguy hiểm với mọi người xung quanh. Cây Phượng đã từng nằm trong danh sách cây xanh đô thị khuyến khích trồng, nhưng qua thực tiễn ta cũng cần phải xem lại các yếu tố khách quan và chủ quan của loài cây này để đưa ra các biện pháp trồng, chăm sóc, cắt tỉa sao cho đảm bảo an toàn tại những nơi tập trung đông người, nơi có mật độ lưu lượng giao thông đông đúc. Ngoài ra, còn có danh mục loài cây hạn chế trồng trên vỉa hè và dải phân cách đường phố vì đây là các loài cây ăn quả, trái cây khi chín rơi xuống đường sẽ tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho người tham gia giao thông, bên cạnh đó còn có những loại cây tạo ra mùi gây ảnh hưởng tới sức khỏe và môi trường. Đường Nguyễn Chí Thanh sau hàng loạt “scandal” nay đã thay thế bằng các loại cây bóng mát phù hợp hơn… Theo ông Lê Huy Cường, Hội Khoa học kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam, vấn đề nên trồng loài cây nào để phù hợp hơn và giảm thiểu những nguy cơ gây nguy hiểm trong đô thị, trường học, trước khi trồng cây cần phải tham vấn ý kiến chuyên gia, đơn vị có chuyên môn. Việc trồng cây nào cần tổ chức khảo sát kỹ, bởi còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như đất đai, diện tích, khoảng không gian của từng địa điểm mới bố trí, chọn cây. Có rất nhiều loài cây khác có thể trồng được trong đô thị ở Việt Nam như cây Sao đen, cây Dầu Rái… Những cây này có thể trồng với số lượng lớn và ít khi đổ. Chúng có thể sống được hàng trăm năm. Hoặc trong trường học thì có thể trồng những cây gỗ trung bình, hoặc nhỏ như các cây họ muồng. Còn theo TS.Trần Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc cảnh quan và Môi trường, Đại học Lâm Nghiệp Hà Nội, các tiêu chí cần quan tâm để lựa chọn cây trồng trong đô thị như: lựa chọn cây trồng đảm bảo về không gian cảnh quan tuyến đường; lựa chọn cây xanh phù hợp với đặc trưng văn hóa của tuyến phố đó; lựa chọn dựa trên đặc trưng sinh học của từng loài cây để có thể đưa ra được các đề xuất tuyến phố nào, đường nào thì trồng loài cây gì… Bên cạnh đó, còn phụ thuộc vào không gian, vỉa hè hay dải phân cách có đủ rộng hay không, nếu đủ rộng mới trồng cây lớn được, vì cần bóng mát và bộ rễ phải đủ rộng. Không gian nhỏ có thể dùng cây bám đường… Để đảm bảo an toàn giao thông thì những cây đó không được cành giòn, dễ gãy trong mùa mưa bão. Tuyến phố Huỳnh Thúc Kháng nơi trồng nhiều cây Phượng, Xà Cừ lúc nào cũng cho bóng mát quanh năm. Cây xanh bóng mát trên đường phố thuộc 12 quận nội thành Hà Nội hiện phong phú và đa dạng về chủng loài, với khoảng 75.000 cây thuộc 175 loài, 55 họ thực vật, trong đó có 12 họ thực vật có từ 5 loài trở lên. Một số loài cây được coi là giống cây truyền thống của Hà Nội và được trồng với số lượng lớn như: Xà Cừ, Sữa, Sấu, Muồng, Bằng Lăng, Phượng, Bàng… Trồng và chăm sóc cây xanh là công việc thường xuyên, hàng ngày của các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao nhiệm vụ. Các cơ quan chức năng của thành phố cần rà soát để nghiên cứu, trồng, thay thế những loại cây xanh phù hợp vừa đảm bảo bóng mát, vừa làm đẹp cho thành phố, vừa đảm bảo giữ gìn văn hóa Thủ đô. Điều quan trọng, trước khi trồng loại cây gì, trên tuyến đường nào nên tham khảo rộng rãi ý kiến của các chuyên gia cây xanh để đảm bảo về văn hóa, kiến trúc cảnh quan cũng như an toàn cho người dân.
Cây xanh đô thị: Cần lựa chọn sao cho phù hợp
1,938
Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres. (Ảnh: AFP/TTXVN). Tổng Thư ký Liên hợp quốc cho rằng tiềm năng của châu Phi rất lớn, tuy nhiên sự bất bình đẳng mang tính lịch sử và trong lĩnh vực kinh tế đang cản trở sự phát triển của châu lục này. Ngày 25/5, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres hối thúc cộng đồng quốc tế sát cánh với châu Phi và tạo điều kiện cho lục địa này tham gia đầy đủ vào hệ thống tài chính quốc tế. Trong thông điệp nhân Ngày châu Phi 25/5, ông Guterres cho rằng tiềm năng của châu Phi rất lớn, tuy nhiên sự bất bình đẳng mang tính lịch sử và trong lĩnh vực kinh tế đang cản trở sự phát triển của châu Phi. Theo ông, thế giới kỷ niệm Ngày châu Phi vào thời điểm sự hợp tác và đoàn kết cần thiết hơn bao giờ hết để thúc đẩy tương lai của châu Phi. Các nước châu Phi không được hiện diện đầy đủ trong các thể chế quản trị toàn cầu, từ Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cho tới hệ thống quan hệ tiền tệ Bretton Woods, và bị từ chối giảm nợ hoặc xóa nợ, cũng như nguồn vốn ưu đãi mà họ cần. Do đó, ông cho rằng châu Phi cần phải được hiện hiện ở cấp cao nhất của hệ thống tài chính quốc tế. Theo Tổng Thư ký Guterres, các ngân hàng phát triển đa phương nên thay đổi mô hình kinh doanh và đòn bẩy tài chính để thu hút nguồn tài chính tư nhân lớn với chi phí hợp lý cho các nước đang phát triển. Các nước phát triển cũng nên cung cấp sự hỗ trợ đã cam kết để hành động chống biến đổi khí hậu và các lĩnh vực khác. Ông Guterres khẳng định “châu Phi xứng đáng được hưởng hòa bình, công bằng và đoàn kết quốc tế.” Tổng Thư ký Liên hợp quốc nhấn mạnh “với sự đoàn kết và hợp tác quốc tế, đây có thể là thế kỷ của châu Phi.” Ngày 25/5 hằng năm đánh dấu ngày thành lập Tổ chức châu Phi Thống nhất (OAU) vào ngày 25/5/1963. OAU là tiền thân của Liên minh châu Phi (AU) ngày nay. Ngày này được kỷ niệm trên khắp lục địa châu Phi và trên toàn thế giới để vinh danh những tiến bộ và thành tựu mà các quốc gia châu Phi đạt được trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa./.
Tổng Thư ký LHQ: Châu Phi xứng đáng có được hòa bình, công bằng
423
Mô phỏng sóng thần trên máy tính. Một nghiên cứu vừa đây cảnh báo biến đổi khí hậu có thể tạo ra những cơn sóng thần khổng lồ ở Nam Băng Dương bằng cách gây tình trạng lở đất dưới biển vùng Nam Cực. Bằng cách khoan vào lõi trầm tích hàng trăm mét dưới đáy biển Nam Cực, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng trong các thời kỳ toàn cầu nóng lên trước đây, khoảng 3 triệu và 15 triệu năm trước, các lớp trầm tích đã hình thành một cách rời rạc và chúng dễ sạt lở để tạo thành những đợt sóng thần khổng lồ ập đến bờ biển Nam Mỹ, New Zealand và Đông Nam Á. Và khi biến đổi khí hậu làm nóng đại dương, các nhà nghiên cứu cho rằng có khả năng những cơn sóng thần này có thể bùng phát nữa. Kết quả nghiên cứu của họ đã được công bố ngày 18.5 trên tạp chí Nature Communications . Jenny Gales, giảng viên về thủy văn và thăm dò đại dương tại Đại học Plymouth (Anh) cho biết: “Sạt lở đất dưới biển là một biến động địa chất lớn với khả năng kích hoạt sóng thần có thể dẫn đến thiệt hại lớn về người. Những phát hiện của chúng tôi nêu bật việc chúng ta cần khẩn trương nâng cao hiểu biết về biến đổi khí hậu toàn cầu có thể ảnh hưởng như thế nào đến sự ổn định của khu vực này và khả năng xảy ra sóng thần trong tương lai”. Các nhà nghiên cứu lần đầu tiên tìm thấy bằng chứng về vụ lở đất thời cổ đại ngoài khơi Nam Cực vào năm 2017 ở phía đông biển Ross (một vùng vịnh ăn sâu vào lục địa Nam Cực ). Bị mắc kẹt bên dưới những trận lở đất này là các lớp trầm tích yếu chứa đầy các hóa thạch sinh vật biển còn được gọi là sinh vật phù du. Các nhà khoa học đã quay trở lại khu vực này vào năm 2018 và khoan sâu xuống đáy biển để lấy lõi trầm tích. Những vật mẫu lấy từ mũi khoan xuống vỏ Trái đất tại đây, từng lớp một, cho thấy lịch sử địa chất của khu vực. Bằng cách phân tích những lõi thu được, các nhà khoa học biết được rằng các lớp trầm tích yếu hình thành trong 2 thời kỳ, một khoảng 3 triệu năm trước trong thời kỳ ấm áp giữa thế Pliocene và một khoảng 15 triệu năm trước trong thời kỳ khí hậu tối ưu của thế Miocene. Trong hai thời kỳ này, vùng nước xung quanh Nam Cực ấm hơn 3 độ C so với ngày nay, dẫn đến sự bùng nổ của tảo nở hoa. Sau khi tảo chết đi, xác chúng lấp đầy bên dưới đáy biển và lâu dần tạo thành lớp trầm tích trơn trượt, khiến khu vực này dễ bị sạt lở. Robert McKay, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nam Cực tại Đại học Victoria của Wellington, cũng là nhà khoa học của Chương trình Khám phá đại dương quốc tế Expedition 374, đã phân tích các lõi trầm tích vào năm 2018 nên rất am tường lĩnh vực này. McKay cho biết: “Trong thời kỳ khí hậu lạnh giá và kỷ băng hà tiếp theo, những lớp trơn trượt này được phủ lên bởi những lớp sỏi thô dày do sông băng và núi băng tạo ra”. Nguyên nhân chính xác gây ra các trận lở đất dưới nước trong quá khứ của khu vực vẫn chưa được biết chính xác, nhưng các nhà nghiên cứu đã tìm ra thủ phạm sáng giá: sự tan chảy của sông băng do khí hậu ấm lên. Sự kết thúc của các thời kỳ băng giá định kỳ của Trái đất khiến các tảng băng bị tan chảy dần, làm giảm tải trọng lên các mảng kiến tạo của Trái đất và khiến chúng bật ngược lên trong một quá trình được gọi là bật ngược đẳng tĩnh. Sau khi các lớp trầm tích yếu được hình thành với số lượng đủ lớn, sự trỗi dậy của lục địa ở Nam Cực đã gây ra các trận động đất khiến lớp sỏi thô trên các lớp trầm tích trơn, trượt khỏi rìa thềm lục địa, khiến lở đất gây ra sóng thần. Quy mô và kích thước của sóng thần thời cổ đại vẫn chưa được biết đến chính xác, nhưng các nhà khoa học lưu ý hai trận lở đất dưới biển tương đối gần đây đã tạo ra những cơn sóng thần khổng lồ và gây thiệt hại đáng kể về người: Trận sóng thần Grand Banks năm 1929 đã tạo ra những con sóng cao 13 mét và làm khoảng 28 người ngoài khơi bờ biển Newfoundland của Canada thiệt mạng và trận sóng thần ở Papua New Guinea năm 1998 tạo ra những đợt sóng cao 15m cướp đi sinh mạng của 2.200 người. Với nhiều lớp trầm tích bị chôn vùi dưới đáy biển Nam Cực và các sông băng trên bề mặt đất liền đang dần tan chảy, các nhà nghiên cứu cảnh báo nếu họ giả định đúng rằng sự tan chảy của băng đã gây ra sóng thần trong quá khứ, thì các trận lở đất và sóng thần trong tương lai có thể xảy ra một lần nữa. McKay nói: “Các lớp trầm tích tương tự vẫn còn hiện diện ở thềm lục địa bên ngoài, vì vậy nó là “mồi” cho nhiều vụ sạt lở này xảy ra hơn, nhưng câu hỏi lớn là liệu tác nhân gây ra các sự kiện có còn hoạt động hay không. Chúng tôi đã cho rằng sự phục hồi đẳng tĩnh như một yếu tố kích hoạt tiềm năng hợp lý, nhưng đó có thể là sự cố ngẫu nhiên hoặc sự thay đổi do điều hòa khí hậu trong các dòng hải lưu tác động làm xói mòn trầm tích tại các vị trí quan trọng trên thềm lục địa, có thể gây ra sự cố sạt lở. Chúng tôi có thể sử dụng mô phỏng máy tính để đánh giá cho các nghiên cứu về giả định này trong tương lai”.
Băng tan tại Nam Cực và nguy cơ sóng thần ập vào bờ biển Đông Nam Á
1,045
Nữ đạo diễn người Pháp gốc Senegal Ramata-Toulaye Sy lần đầu tiên tham gia tranh giải Cành cọ vàng – giải thưởng cao nhất của Liên hoan phim Cannes 2023 với bộ phim đầu tay. Khi danh sách tham dự Liên hoan phim Cannes được công bố vào ngày 13/4, có rất nhiều cái tên quen thuộc như những vị đạo diễn từng nhận được đề cử Oscar như Wes Anderson, Todd Haynes và đạo diễn Martin Scorsese đoạt giải Oscar năm 2007. Bên cạnh đó còn có những gương mặt nổi bật khác từng nhận giải thưởng Cành cọ vàng của Liên hoan phim Cannes như Hirokazu Kore-eda, Ken Loach và Nuri Bilge Ceylan. Tuy nhiên ở cuối danh sách xuất hiện một cái tên mới mẻ: Ramata-Toulaye Sy – một nữ đạo diễn người Pháp gốc Senegal (một quốc gia ở Tây Phi) cũng tranh giải Cành cọ vàng – giải thưởng cao nhất của liên hoan phim – với bộ phim đầu tay. Việc lựa chọn một nơi có ánh đèn sân khấu chói lọi như Cannes để công chiếu bộ phim đầu tay là một thử thách thần kinh cho bất cứ ai, dù là những nhà làm phim giàu kinh nghiệm nhất. Đó cũng là lí do mà bất cứ bài phê bình nào về các bộ phim đều sẽ bị cấm cho đến khi các diễn viên và đạo diễn xuất hiện trên thảm đỏ. Đối với Sy, người trước đây chỉ có thể đứng ngoài xem lễ trao giải diễn ra thì việc được tham gia tranh giải là một bước nhảy vọt. Nhưng bất cứ ai xem bộ phim ngắn Astel , từng giành được giải thưởng tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2021 của cô sẽ thấy đó là một tài năng vượt trội. Trong liên hoan phim lần này, nữ đạo diễn đã mang tới bộ phim điện ảnh đầu tay Banel & Adama kể về một cặp vợ chồng trẻ (do Khady Mane và Mamadou Diallo thủ vai) mâu thuẫn với dân làng ở phía bắc Senegal (quê hương của cha mẹ nữ đạo diễn). Bộ phim chủ yếu sử dụng dàn diễn viên không chuyên với ngôn ngữ địa phương Pulaar. Nữ đạo diễn cho biết bộ phim dựa trên hai quốc tịch của cô và truyền thống kể chuyện của cả châu Âu và châu Phi, nó là sự kết hợp của “mọi thứ tôi biết, mọi thứ tôi đại diện và mọi thứ tôi yêu thích.” Trước buổi ra mắt của bộ phim vào cuối tháng này, đạo diễn Sy đã có cuộc trò chuyện trực tuyến với phóng viên CNN để thảo luận về lần ra mắt bộ phim đầu tay tại Cannes và thực trạng làm phim ở châu Phi. Tham gia tranh giải Cành cọ vàng với phim đầu tay là một thành tích to lớn. Bạn có thể chia sẻ gì về việc gửi phim của mình tới Cannes? Khi phim quay được một tháng rưỡi, chúng tôi đã gửi một phiên bản chưa hoàn thiện đến Cannes, khi đó nó vẫn còn phải chỉnh màu và pha trộn một chút. Thế nhưng ngay sau khi xem nó, họ đã gọi cho chúng tôi và nói rằng muốn bộ phim được tham gia Un Certain Regard (một hạng mục trong danh sách tuyển chọn chính thức của Liên hoan phim Cannes, được tổ chức song song với cuộc chạy đua giành giải Cành cọ vàng). Tôi thực sự rất vui vì đây là một lựa chọn tuyệt vời cho lần đầu tiên ra mắt. Nhưng một ngày trước ngày ra mắt báo chí, Christian Jeune (phó tổng đại diện Cannes) gọi cho tôi lúc nửa đêm và thông báo rằng bộ phim sẽ tham gia tranh giải Cành cọ vàng. Đó là một bất ngờ lớn đối với tôi và toàn bộ ekip. Ý tưởng cho bộ phim Banel & Adama của bạn đến từ đâu? Tôi học khoa viết kịch bản tại La Fémis – một trường điện ảnh ở Pháp và đó là kịch bản cuối kỳ học của tôi vào năm 2014-2015. Sau đó, nó đã nằm trong ngăn kéo một thời gian dài vì tôi chưa sẵn sàng làm đạo diễn và tôi quan tâm đến việc làm biên kịch hơn. Tôi nghĩ mình cần thời gian để tìm lại tiếng nói của bản thân và định hướng lại mình trong ngành công nghiệp điện ảnh. Ban đầu, tôi chỉ làm đạo diễn cho một phim ngắn là Astel vào năm 2020 và sau đó chuyển thẳng sang phim điện ảnh vào năm 2022. Nội dung của bộ phim này là gì? Đó là một câu chuyện bi kịch. Lúc đầu, Banel & Adama giống như một câu chuyện tình yêu cổ điển. Banel và Adama là một cặp vợ chồng hạnh phúc sống tại một ngôi làng hẻo lánh ở vùng Fouta (phía bắc Senegal). Họ yêu nhau mãnh liệt nhưng mối tình này sẽ mang đến sự hỗn loạn trong ngôi làng họ sống, bởi vì trong cộng đồng của họ không có chỗ cho niềm si mê. Dần dần, chúng ta nhận ra rằng đó không chỉ là câu chuyện tình yêu, nó tập trung vào Banel nhiều hơn là Adama – nó trở thành câu chuyện về một người phụ nữ cố gắng hoàn thiện bản thân. Banel & Adama của đạo diễn người Pháp gốc Senegal, Ramata-Toulaye Sy sẽ tham gia tranh giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 2023. Tại sao bạn lại đặt bối cảnh bộ phim ở Senegal? Mặc dù tôi sinh ra và lớn lên ở Pháp, nhưng tôi có mối liên hệ sâu sắc với châu Phi cũng như văn hóa và truyền thống Fulani (Tây Phi). Đối với tôi, điều quan trọng là phải kể những câu chuyện diễn ra ở châu Phi bởi vì lục địa này phải được nhìn thấy và cần được công nhận nhiều hơn so với ngày nay với những câu chuyện khác nhau và phổ quát hơn, không chỉ là những câu chuyện đã quá phổ biến như nghèo đói, chiến tranh hay khủng bố. Với tôi, việc thực hiện bộ phim đầu tiên của mình ở Senegal giống như một hành động mang tính chính trị. Bạn có thể kể về quá trình tuyển diễn viên được không? Ở cả phim trước (Astel) và bộ phim này, chúng tôi đều chỉ có một giám đốc tuyển diễn viên là Iman Djionne – người đã bắt đầu làm việc trước khi phim bấm máy 5 tháng. Tôi thực sự cần những người có ngoại hình của người Fulani và nói được ngôn ngữ này. Chúng tôi đã thực hiện một số buổi casting ở một số thành phố và làng mạc. Banel là nhân vật khó tìm nhất. Chúng tôi tìm thấy cô ấy rất muộn và chính tôi là người tình cờ tìm thấy (Khady Mane) khi tôi đang đi dạo trên phố. Điều đầu tiên ở cô ấy thu hút tôi đó là đôi mắt. Banel là một nhân vật khá thần thoại và thần bí. Trong đôi mắt của Khady, có một điều gì đó khá bí ẩn tương tự. Có thể do tôi tưởng tượng, vì ngoài đời Khady là một người rất nhút nhát nhưng đôi mắt đó đã thu hút tôi, vì vậy tôi đã đề nghị cô ấy thử vai vào ngày hôm sau. Bạn sinh ra và lớn lên ở vùng ngoại ô Paris, và hiện sống ở cả Paris và Dakar, Senegal. Việc có mối liên hệ với 2 quốc gia này đã định hình con người và tiếng nói của bạn với tư cách là một nhà làm phim như thế nào? Việc mang hai quốc tịch này đã giúp tôi tìm ra con đường cho chính mình và hình thành thế giới quan của tôi. Với Banel & Adama , tôi thực sự đối mặt với bản sắc kép của mình. Đó là một bộ phim với nhiều thể loại gồm những câu chuyện truyền miệng, những câu chuyện châu Phi nhưng cũng có cả yếu tố bi kịch của Hy Lạp và châu Âu đan xen với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của người Mĩ gốc Phi và thơ ca. Senegal có một trong những truyền thống điện ảnh phong phú nhất ở châu Phi. Bạn nghĩ những yếu tố nào đã góp phần vào điều đó? Nền điện ảnh Senegal rất sôi động trong khoảng thời gian từ những năm 70 đến 90 và sau đó nó bắt đầu biến mất khi các rạp chiếu phim dần không còn. Dần dần, chỉ còn rất ít phim trên màn hình. Kể từ những năm 2010, các rạp chiếu phim đã quay trở lại. Rạp phim Olympia đã mở một rạp ở Dakar, sau đó là rạp chiếu phim Ousmane Sembène, và Pathé gần đây đã mở một rạp chiếu phim với bảy màn hình. Tôi nghĩ rằng thời kì vàng son của điện ảnh Senegal đang quay trở lại và lần này với nhiều phụ nữ tham gia hơn. Tôi rất vui khi được là một phần của nó. Bạn sẽ sớm công chiếu bộ phim ở Senegal chứ? Tất nhiên rồi. Pathé Afrique là nhà phân phối ở châu Phi của chúng tôi. Chúng tôi sẽ có một sự kiện tại địa điểm hoàn toàn mới của họ ở Dakar. Và bạn sẽ chiếu bộ phim ở vùng Fouta chứ? Tôi cũng mong là như vậy. Sẽ khó khăn hơn về vấn đề cơ sở hạ tầng do chúng tôi phải mang máy chiếu và màn hình tới đó. Nhưng chúng tôi sẽ làm vậy. Với sự phát triển của các nền tảng phát trực tuyến, có lẽ chưa bao giờ điện ảnh thế giới và các câu chuyện ở châu Phi có thể được tiếp cận nhiều như hiện tại. Bạn nghĩ gì về điều này? Nếu Netflix xuất hiện và đề nghị bạn tham gia, bạn có cân nhắc không? Tôi không phải là người quyết định, mà là những người phụ trách việc kinh doanh phim. Tất nhiên là xem phim tại rạp sẽ tốt hơn. Không gì tuyệt hơn khi được trải nghiệm một bộ phim trên một màn hình lớn trong một căn phòng tối cùng với những người xa lạ. Nhưng nếu bạn không đủ khả năng để tới rạp xem phim, điều quan trọng là làm thế nào bạn có thể tiếp cận những bộ phim yêu thích. Ngày nay, một vé xem phim ở Pháp có giá khá đắt khoảng €15 (gần 382 nghìn đồng). Có rất nhiều gia đình không đủ khả năng chi trả. Ở Châu Phi, mọi người có nhiều quyền truy cập trên các nền tảng phát trực tuyến hơn là rạp chiếu phim. Điều quan trọng nhất là mọi người được xem phim. Trở lại Cannes, bạn mong chờ điều gì nhất trong lễ trao giải này? Buổi lễ trao giải sẽ diễn ra tại Grand Theatre Lumière. Tôi sợ hãi và cũng rất phấn khích. Có 2000 người trong phòng, với báo chí và đoàn ban giám khảo. Đó sẽ là một điều khiến bạn phải mơ ước. Bộ phim Banel & Adam sẽ có buổi ra mắt thế giới tại Liên hoan phim Cannes 2023, diễn ra từ ngày 16 đến 27/5.
Một cái nhìn khác về châu Phi
1,851
Ngày 26/5, Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) đã phóng thành công 2 vệ tinh cuối cùng trong nhóm 4 vệ tinh được thiết kế để theo dõi các cơn bão theo từng giờ. Ảnh (tư liệu): phys.org. Hai vệ tinh theo dõi bão được đưa lên quỹ đạo bằng tên lửa do công ty Rocket Lab của Mỹ chế tạo, phóng đi từ trung tâm vũ trụ trên bán đảo Mahia tại New Zealand. Như vậy, NASA đã hoàn tất công tác triển khai hệ thống TROPICS với 4 vệ tinh, trong đó mỗi vệ tinh có kích thước như một chiếc hộp đựng giày. TROPICS được kỳ vọng sẽ giúp giới nghiên cứu theo sát hơn sự hình thành và hoạt động của các cơn bão trên Thái Bình Dương, do mỗi vệ tinh có thể bay qua các cơn bão mỗi giờ, trong khi các vệ tinh hiện tại có tần suất bay 6 giờ/lần. Ngoài ra, thông tin thu thập được về lượng mưa, nhiệt độ và độ ẩm có thể giúp các nhà khoa học xác định chính xác hơn nữa cường độ cũng như vị trí bão đổ bộ, qua đó hỗ trợ người dân ven biển sẵn sàng phòng chống bão và khả năng sơ tán khẩn cấp. Giám đốc NASA – ông Bill Nelson cho biết: “Là một người dân ở Florida, tôi hiểu được rằng những dự báo kịp thời và chính xác về các cơn bão có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với hàng triệu người dân Mỹ. Mưa lớn và lũ lụt gia tăng đang tàn phá sinh kế của người dân và cướp đi nhiều sinh mạng. Điều này hối thúc NASA chứng minh tầm quan trọng của khoa học tiên tiến, để có thể trả lời những câu hỏi mà không ai khác có thể làm được”. Theo kế hoạch ban đầu, hệ thống TROPICS sẽ có 6 vệ tinh. Tuy nhiên, hồi năm ngoái, NASA đã thất bại trong vụ phóng 2 vệ tinh đầu tiên do tên lửa US Astra gặp trục trặc ngay khi cất cánh. Giới khoa học cảnh báo bão đang trở nên mạnh hơn khi nước biển tầng mặt nóng lên. Năm ngoái, siêu bão Ian cướp đi sinh mạng của hàng chục người, tàn phá bang Florida (Mỹ) và gây thiệt hại kinh tế hơn 100 tỷ USD. Đây cũng là thảm họa thiên tai gây tổn thất nặng nề nhất thế giới trong năm 2022. Trung tâm Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ (NOAA) dự đoán nước này sẽ trải qua 12-17 cơn bão lớn trong mùa bão năm nay. Sau 3 mùa bão cùng La Nina – hiện tượng góp phần làm trầm trọng thêm các cơn bão ở Đại Tây Dương, NOAA dự đoán El Nino sẽ đến trong mùa Hè này và có thể ức chế hoạt động của bão.
NASA hoàn tất triển khai chùm 4 vệ tinh theo dõi bão
484
Brazil đang xây dựng một công trình với phong cách kiến trúc ‘vô thực,’ gồm tổ hợp các tòa tháp xếp thành 6 vòng tròn phục vụ việc phun khí CO2 vào khu rừng nhiệt đới Amazon . Một tòa tháp nhôm cao bằng tòa nhà 12 tầng. (Nguồn: Reuters). Sâu trong rừng rậm Amazon, Brazil đang xây dựng một công trình với phong cách kiến trúc “vô thực,” gồm tổ hợp các tòa tháp xếp thành 6 vòng tròn phục vụ việc phun khí CO2 vào khu rừng nhiệt đới. Tuy nhiên, lý do xây dựng công trình trên hoàn toàn thực tế, nhằm hiểu rõ hơn về cách thức “lá phổi xanh” lớn nhất thế giới này phản ứng với biến đổi khí hậu. Kiến trúc trên với tên gọi AmazonFACE, một dự án nhằm nghiên cứu năng lực nổi trội của rừng Amazon trong hấp thụ CO2, mảnh ghép thiết yếu để giải bài toán về biến đổi khí hậu. Điều này sẽ giúp các nhà khoa học xác định có khả năng xảy ra điểm tới hạn đối với Amazon – trạng thái khiến khu rừng này không thể hấp thụ thêm CO2 và bị suy thoái, hay không. Nếu trạng thái này xảy ra, khu rừng đa dạng sinh học nhất thế giới này sẽ biến thành một cảnh quan giống như thảo nguyên khô hạn. Dự án trên nằm cách thành phố Manaus của Brazil 70km về phía Bắc, do Viện Nghiên cứu Amazon Quốc gia của nước này – một cơ quan liên bang, phụ trách. Dự án nhận được cam kết tài trợ 9 triệu USD từ Chính phủ Anh và dự kiến đi vào hoạt động đầy đủ vào giữa năm 2024. Việc xây 2 tổ hợp kiến trúc vòng tròn đầu tiên của dự án trên đang được tiến hành và dự kiến đi vào hoạt động vào đầu tháng 8. Mỗi vòng tròn sẽ bao gồm 16 tháp nhôm cao bằng tòa nhà 12 tầng, khí CO2 sẽ được 3 công ty cung cấp. FACE là phương pháp làm giàu khí CO2 cho không khí tự nhiên. Công nghệ này do Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven của Mỹ phát triển đầu tiên, có khả năng tăng hàm lượng khí CO2 ở môi trường xung quanh cây trồng lên mức đậm đặc tương tự trạng thái ô nhiễm không khí được dự báo trong tương lai. Giáo sư David Lapola của Đại học bang Campinas (Brazil), một trong những nhà khoa học đứng đầu dự án, cho biết thực vật hấp thụ CO2 cùng với nước và ánh sáng để tạo ra đường và giải phóng ôxy. Tuy nhiên, các nhà khoa học chưa biết chắc điều gì sẽ xảy ra khi nồng độ CO2 tăng. Dù đã có bằng chứng từ các thí nghiệm tương tự tại các khu rừng ôn đới, song ông Lapola nhấn mạnh không có gì đảm bảo rằng rừng Amazon cũng có phản ứng tương tự. Theo Giáo sư, nhiều khả năng điểm tới hạn của rừng nhiệt đới Amazon gắn với biến đổi khí hậu hơn là tốc độ phá rừng. Do đó, điều quan trọng là phải nghiên cứu tác động của nồng độ CO2 cao hơn trong rừng để hiểu những thách thức ở tương lai. Quan điểm trên có phần mâu thuẫn với nghiên cứu được thừa nhận rộng rãi của nhà khoa học hệ thống Trái Đất Carlos Nobre. Nhà khoa học này cho rằng nếu nạn phá rừng đạt đến ngưỡng quan trọng từ 20-25% trên khắp Amazon thì sự cân bằng về lượng mưa trong khu vực sẽ bị phá vỡ, biến rừng nhiệt đới tươi tốt thành thảo nguyên khô cằn. Tuy nhiên, Giáo sư Lapola nhận định: “Ngay cả khi chúng ta ngăn chặn nạn phá rừng ở lưu vực sông Amazon ngay hôm nay, rừng vẫn có nguy cơ phải hứng chịu hậu quả của điểm tới hạn do biến đổi khí hậu.” Ông cho biết thêm: “Mặc dù ngăn chặn nạn phá rừng vẫn là trách nhiệm chính của con người, song việc chống lại biến đổi khí hậu do các yếu tố khí quyển gây ra không phải là điều mà Brazil hay các quốc gia vùng Amazon khác có thể giải quyết một mình.” Nhà hóa học khí quyển Luciana Gatti đã hoan nghênh sáng kiến trên. Ông cũng gợi ý cần nhân rộng dự án trên ra 4 góc rừng Amazon, do năng lực hấp thụ khí CO2 có sự khác biệt giữa các khu vực của khu rừng có diện tích gấp đôi diện tích Ấn Độ này. Nhà khoa học Gatti là đồng tác giả một nghiên cứu đăng trên Tạp chí Nature, trong đó xác định khu vực phía Đông của rừng Amazon không còn là một bể chứa carbon và hấp thụ loại chất này cho Trái Đất mà đã trở thành một nguồn phát sinh carbon./.
Brazil xây dựng công trình phun khí CO2 vào rừng nhiệt đới Amazon
810
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ Đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Mike Crapo. (Nguồn: TTXVN). Ngày 26/5, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp Đoàn đại biểu Thượng viện Hoa Kỳ do Thượng Nghị sĩ Mike Crapo dẫn đầu đến thăm và làm việc tại Việt Nam. Tại cuộc tiếp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ Đối tác toàn diện với Hoa Kỳ, đánh giá cao việc thời gian qua hai bên duy trì các cuộc tiếp xúc cấp cao, đặc biệt là cuộc điện đàm rất thành công giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden. Thủ tướng đề nghị trong thời gian tới, hai bên tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ứng phó với biến đổi khí hậu; đề nghị các Thượng Nghị sĩ ủng hộ việc Hoa Kỳ mở cửa thị trường, hạn chế điều tra chống bán phá giá, các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam, nhất là hàng nông, lâm, thủy sản, điều tác động trực tiếp đến công ăn việc làm, sinh kế của người dân. Thủ tướng cũng đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tiếp tục quan tâm và dành nguồn lực cho hợp tác với Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh; tạo thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ . Các Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ bày tỏ ấn tượng tốt đẹp về đất nước, con người và sự phát triển của Việt Nam, ủng hộ Việt Nam “mạnh, độc lập, tự cường và thịnh vượng”, tôn trọng độc lập, chủ quyền và thể chế chính trị của Việt Nam; cho biết sẽ nỗ lực để thúc đẩy quan hệ giữa hai nước ngày càng thực chất, hiệu quả, mong muốn phát triển mạnh mẽ quan hệ thương mại, đầu tư, ủng hộ việc đàm phán các hiệp định thương mại song phương và đa phương mà hai nước là thành viên. Các Thượng Nghị sĩ khẳng định ủng hộ quan điểm của Việt Nam và ASEAN trong vấn đề Biển Đông, nhấn mạnh sự cần thiết duy trì hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiếp Đoàn Nghị sĩ Hoa Kỳ
428
‘Mình đã để lạc mất cô dâu’. Đó là câu mà Nguyễn Ngọc Tư dùng để mở đầu truyện ngắn ‘Đánh mất cô dâu’ (in trong tập truyện ‘Đảo’, NXB Trẻ, 2019). Vừa là kể về đứa con tinh thần, thực thể được sinh hạ từ quá trình vật lộn hư cấu của nhà văn: ‘Không biết Ngà lẫn vào đâu trong cái đống chữ lộn xộn mà mình vừa viết… Không phải lần đầu tiên mình để rớt rơi nhân vật… Ở dòng thứ năm của trang ba, mình viết Ngà đi làm tóc về, lơ đãng đứng chỗ bến sông’. Vừa là kể về một con người cụ thể, một cô dâu, đang tồn tại sờ sờ trên đời, đang giao tiếp sống động với chính người kể chuyện, bỗng dưng mất tích mất dạng trong ngày cưới của mình, và sự biến mất đột ngột ấy đã gây một tác động mạnh đến tất cả, trong đó có nhà văn/ người kể chuyện: “Mọi người ngơ ngác nhìn nhau bảo không biết, mới đây thôi mà đã mất biệt rồi. Mình hơi lạnh gáy”… Nghĩa là ở đây luôn có sự chồng lấn, xâm nhập lẫn nhau giữa thế giới của hư cấu và thế giới của đời thực, giữa người kể chuyện như là tác giả và người kể chuyện như một nhân vật của truyện ngắn. Đây thực sự là cách kể chuyện tạo nên độ mờ nhòe đáng kể, và nó càng mờ nhòe hơn nữa khi nhà văn/ người kể chuyện trong “Đánh mất cô dâu” đưa ra mấy khả năng cho sự mất tích của nhân vật Ngà trong truyện ngắn “Lấy chồng”: hoặc Ngà, từ chỗ bến sông, đã “để nguyên quần áo rẽ nước bơi đi” cùng một thằng bé đen trùi trũi; hoặc Ngà, vẫn chỗ bến sông đó, đã nhảy lên chiếc ghe của một người đàn bà thương hồ, để được “sống đời rày đây mai đó, tự do như chim trời cá nước”. Không có khả năng nào chắc chắn cả. Những người đàn bà trong phim “Tro tàn rực rỡ”. Có thể thấy ở thiên truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tư đã dùng năng lực kể chuyện đầy sáng tạo của mình để khoan trúng những vấn đề nhức nhối, tồn tại gần như muôn thuở và ở mọi nơi, trong việc tổ chức đời sống của con người: vấn đề bất bình đẳng giới, thể hiện ở sự phụ thuộc của người phụ nữ vào người đàn ông trong mô hình gia đình khép kín, rộng hơn, trong xã hội mà người đàn ông giữ vai trò khuynh loát. Phụ thuộc đến mức người phụ nữ bị tước đoạt sạch sẽ tính tự trị và quyền được cất lên tiếng nói về sự tồn tại cũng như vị thế của mình. Họ chịu đựng, nhưng cũng có khi họ phản kháng, bằng cách này hay cách khác. Đúng là Tư có những “cô dâu” như vậy, theo nghĩa đen, ngoài cô dâu tên Ngà trong truyện ngắn “Đánh mất cô dâu”. Tôi muốn nói đến truyện ngắn “Tro tàn rực rỡ”, cũng in trong tập truyện “Đảo”, với hai cô dâu, một cô tên Nhàn, cô còn lại chính là nhân vật người kể chuyện xưng Em. “Em, chồng và Tam, Nhàn cưới cùng năm. Tam và Nhàn cưới trước, hai bảy tháng hai”. “Em” vừa có nghĩa là “Tôi”, tự sự ở đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, với cả thế giới, “Em” cũng vừa có nghĩa là… em, là người vợ đang hướng lời nói lời kể của mình về phía người chồng, một cách tuyệt vọng. Tuyệt vọng nhưng lại bình thản, như không, vì đã quá chai lì với tuyệt vọng. Ta sẽ thấy, qua lời kể của Em: “Như mọi đàn ông ở cái xó quê này, họ thường không còn nhìn thấy vợ mình chỉ sau đám cưới vài ba tháng, nhiều lắm là vài ba năm”, Tam ngập trong rượu và những cơn tủi thân khi say – “vì con chó nhà hàng xóm sủa dữ quá, và Tam nghĩ nó khinh mình, hay vì cái rễ cây me tây gồ lên khỏi mặt đường làm anh vấp té” – trong mắt Tam không có vợ, mà chỉ có những đám cháy rực rỡ do chính anh tự tay châm lửa đốt nhà của mình, hết lần này đến lần khác, và Nhàn cũng hết lần này đến lần khác cặm cụi dựng lại nhà, bình thản, không xót xa hay oán thán. Còn chồng của nhân vật người kể chuyện xưng Em, sau một đám cưới gượng ép, thì biền biệt đi bạn cho ghe biển, họa hoằn mới về nhà, khi về thì lại “nằm cuộn trên võng như chui vào kén”, mặc kệ cho vợ kể và kể, hết chuyện này sang chuyện khác, mà nhiều nhất vẫn là chuyện anh Tam đốt nhà và chị Nhàn dựng lại nhà. Nghĩa là, trong mắt của những người chồng ấy thì sự tồn tại của vợ họ, những “cô dâu” ấy, là sự tồn tại rỗng không, là khoảng trống, là một zero tròn trĩnh. Nhưng, như một đối ứng nghịch lý, người đàn ông càng không nhìn thấy thì người phụ nữ lại càng tha thiết, thậm chí thèm khát được chồng nhìn thấy mình. Nhân vật người kể chuyện xưng Em cứ kể và kể, với chồng, là vì thế: “Cho nhà có tiếng người giống một gia đình đúng nghĩa: tiếng đàn bà nói rốp rẻn, đàn ông khạc nhổ và trẻ con cười, em lại kể chuyện, mong lấp đầy khoảng trống”. Và Nhàn, ở lần cháy nhà lần cuối cùng, đã không trở ra từ đám cháy, cũng là vì thế. “Nhàn đã không chạy ra khỏi đống lửa như mọi khi, anh à. Không biết chị thấy mệt rồi hay vì nghĩ chỉ ở giữa đám cháy Tam mới nhìn thấy chị”. Em giả định, nhưng cũng chính là khẳng định. Bởi vì, ở trong một thế giới đàn ông thậm bất thường như thế – cái quyền lực tối thượng và đầy phi lý của họ thể hiện ở sự không cần, không thèm nhìn thấy người phụ nữ trong vai vợ mình – thì cơ hội để người phụ nữ được chồng mình nhìn thấy, có thể, chỉ là cái chết. Sự chết đi, may chăng mới khiến cho khoảng trống bị rách ra, và người phụ nữ mới chồi lên và được nhận biết như một tồn tại người, một nhân vị người vợ. Xét từ góc độ nào đó, cái chết của Nhàn mang ý nghĩa biểu đạt cho một hành động phản kháng. Và khi Em kể với chồng về chi tiết cuối cùng này, với “cảm giác cắt nhát kéo vào sợi dây diều”, thì cái cảm giác ấy chính là cảm giác về một sự phản kháng đang mọc mầm, “mãnh liệt và vang vọng hơn cả khi gào thét”, như Tư đã viết về các nhân vật nữ của mình, ở truyện “Đánh mất cô dâu”. Bìa tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư. Cái bi kịch, phải nói là thảm kịch mới đúng, vì bị phải làm phụ nữ, phải làm những “cô dâu” trong thực tế hoặc trong tiềm năng trở thành thực tế, được Tư đẩy đến tột độ thê lương trong truyện ngắn “Củi mục trôi về”, và tột độ bông phèng trong truyện ngắn “Đảo” (đều in trong tập truyện “Đảo”). Ở truyện “Củi mục trôi về”, trong thời gian hiện tại của truyện kể, có một người phụ nữ độc thân, bị tâm thần, và thường chìm trong men rượu. Cái sự tâm thần và sự say ấy là kết quả của một cuộc sang chấn lớn bắt nguồn từ thuở ấu thơ, khi cô bị gã trai mười bảy tuổi cùng xóm cưỡng hiếp trên đường đi học, rồi bóp cổ suýt chết. Người biết chuyện thương cô, nhưng không ai hỏi cưới cô. Và càng độc thân thì cô lại càng phiêu diêu trong thế giới bất thường của mình, càng mụ mị say sưa bằng chén rượu uống nhờ từ đám cưới của những kẻ khác. Còn ở truyện “Đảo”, nhân vật người phụ nữ lại là “cô dâu hờ”, một gái bán hoa được người ta trả tiền để lên đảo làm vợ một đêm với một người đàn ông mù, nhưng tên là Sáng. Kẻ chịu ơn Sáng đã gửi “cô dâu hờ” ấy đến cho ông, như một món quà tri ân, và người kể chuyện cũng gọi luôn cô là Quà. Đành phải gọi vậy, vì cô không có tên, hay nói cho đúng hơn, vì cô có quá nhiều tên: Đào, Phượng, Mỹ Châu, Út Hên. Đằng sau mỗi cái tên ấy, qua lời cô huyên thuyên kể với Sáng, là một cuộc đời đàn bà chìm nổi. Không biết cuộc đời nào mới đúng là cuộc đời của cô, hay tất cả đều chỉ là những cuộc đời được thêu dệt, như một trò đùa? Nhưng điều chắc chắn là nhân vật cô gái bán hoa trong truyện “Đảo”, cũng như nhân vật cô gái điên và thường say khướt trong truyện “Củi mục trôi về”, đều đã bị số phận chỉ định là phải cô quả mãn kiếp, không bao giờ được hưởng một mái ấm gia đình chồng vợ bình thường như những người phụ nữ bình thường khác. Họ có thể chỉ là món quà để mua vui cho thế giới đàn ông; hoặc họ cứ tồn tại đấy, như một cuộc đời bị hỏng, một minh chứng về sự tàn tạ thảm hại mà quyền lực đàn ông có thể tạo tác trên số phận của người phụ nữ. Tất cả những số phận phụ nữ ấy, những cuộc đời “cô dâu” như được viết ra từ bóng tối ấy, Tư hầu như đều đặt họ trong một không gian cố định: Thổ Sầu. Chẳng biết nó là một thị trấn hay một xã, nó có thật hay chỉ là sản phẩm của hư cấu, nhưng Thổ Sầu là một cái khung, nơi những thảm kịch đàn bà được Tư thấm và ngẫm, đã diễn ra. Họ bị trì níu bởi những nếp nghĩ và nếp sống mang tính bản năng thâm căn cố đế. Họ muốn thoát ra mà không sao thoát ra nổi. Và sự bất bình đẳng giới cứ thế tiếp diễn, cho đến lúc Tư nói ra. Tư nói ra, như là nói hộ những người phụ nữ đã phải chịu sự câm nín truyền đời, những người phụ nữ mang kiếp vong thân bởi nỗi không còn cái bản ngã tự trị. Tư nói ra, và nếu vì thế mà cho rằng Tư là một nhà văn nữ quyền, thì đây là một văn chương nữ quyền rất ít thấy trong văn học Việt Nam đương đại: nữ quyền mà không cần đến diễn ngôn thể xác, nữ quyền gần như phi tính dục.
Nguyễn Ngọc Tư: Tiếng nói nữ quyền – Tác giả: Hoài Nam
1,839
Trong bối cảnh Việt Nam và nhiều thành phố đang đặt trọng tâm phát triển công nghiệp văn hóa, sáng tạo, các sự kiện nghệ thuật quốc tế nói chung, các triển lãm, giao lưu nhiếp ảnh nói riêng cho phép kết nối người làm nghề, công chúng, từ đó phát hiện và khuyến khích tài năng trẻ, thúc đẩy thị trường. Trong quá trình toàn cầu hóa, ngày càng có nhiều cuộc gặp gỡ quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật. Với nhiếp ảnh, các sự kiện quy mô quốc tế được tổ chức tại nhiều địa điểm trên toàn thế giới như: Paris Photo (Pháp), Kyoto Graphie (Nhật Bản), Photo Phnom Penh (Campuchia), Bamako Encounters (Mali)… thu hút không chỉ đông đảo nghệ sĩ, mà có sự góp mặt của các chuyên gia, nhà sản xuất, nhà sưu tập, công chúng… Liên hoan quốc tế là cơ hội kết nối và quảng bá nghệ thuật nhiếp ảnh. Ảnh: Photo Hanoi. Tại tọa đàm “Nhiếp ảnh: Các festival quốc tế và cơ hội thị trường” do Viện Pháp tại Hà Nội tổ chức trong khuôn khổ Photo Hanoi’23 – Biennale Nhiếp ảnh quốc tế, ông Pascal Beausse – Giám đốc phụ trách bộ sưu tập nhiếp ảnh tại Trung tâm quốc gia về nghệ thuật thị giác tại Pháp chia sẻ: “Liên hoan quốc tế là cơ hội để nghệ sĩ trẻ được biết đến ở nước ngoài. Chẳng hạn, một lần tham gia chương trình nhiếp ảnh quốc tế tại Campuchia, tôi gặp một nghệ sĩ nổi tiếng của nước này, trao đổi và sau đó chúng tôi đã mua tác phẩm của anh. Đây cũng là dịp gặp gỡ của các nghệ sĩ trong và ngoài nước, từ đó họ nảy nở ý tưởng sáng tạo. Sự giao thoa về văn hóa còn là mảnh đất màu mỡ để phát triển nghệ thuật…” Các liên hoan cũng là cơ hội tốt để kết nối, giới thiệu tác phẩm tới công chúng; ông Valentin Rodriguez, Tùy viên Văn hóa, Phó Giám đốc Viện Pháp tại Campuchia, đơn vị tổ chức Photo Phnom Penh nhận định: Photo Phnom Penh là đòn bẩy để nghệ sĩ được công chúng biết đến. Ban tổ chức lựa chọn các khu vực trưng bày quen thuộc, gần gũi với người dân Campuchia như bức tường của Đại sứ quán, hay các không gian công cộng. Năm 2022 đã có 111.000 khán giả tham gia các sự kiện được tổ chức trong 1 tháng. Ngoài tổ chức sự kiện, đẩy mạnh truyền thông là vô cùng quan trọng, hướng tới xây dựng công chúng cho nhiếp ảnh và họ cũng là những người sưu tập tác phẩm nhiếp ảnh trong tương lai. Ông Valentin Rodriguez cho biết, Photo Phnom Penh có các workshop trao đổi giữa nghệ sĩ trong nước và quốc tế, khóa học cho các nhiếp ảnh gia trẻ. Các hoạt động này như “vườn ươm”, để nghệ sĩ mới thử nghiệm nghệ thuật, hay chưa có nhiều kinh nghiệm được chắp cánh. Đây cũng là cơ hội để nghệ sĩ có tài được biết đến trên quốc tế. Qua đó, nhiều nghệ sĩ đã nổi danh, có tác phẩm nằm trong bộ sưu tập công và tư… Tại Việt Nam , một số nghệ sĩ trẻ bày tỏ rằng, do thị trường nhiếp ảnh trong nước chưa phát triển nên họ thường phải làm nhiều công việc để có thu nhập, để nuôi đam mê nhiếp ảnh. Việc tìm kiếm, tham dự các liên hoan để đưa tác phẩm đến công chúng, thúc đẩy bán tác phẩm cũng còn nhiều khó khăn, chưa có sự kết nối nhiều giữa nghệ sĩ trong và ngoài nước… Photo Hanoi’23 – Biennale Nhiếp ảnh quốc tế được Viện Pháp tại Việt Nam khởi xướng, phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội tổ chức. Đây là mùa thứ 2, Photo Hanoi được tổ chức với mong muốn đưa Hà Nội trở thành một thành phố nhiếp ảnh đặc sắc của châu Á. Các triển lãm, tọa đàm, hội thảo, chiếu phim, trải nghiệm thực hành nhiếp ảnh… diễn ra từ tháng 4 – 6.2023. Theo Giám đốc Viện Pháp tại Việt Nam Thierry Vergon, “chúng tôi và nhiều nghệ sĩ, chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ở Hà Nội và Việt Nam nhận thấy nhiếp ảnh là một phương tiện hữu hiệu để quảng bá các hoạt động văn hóa. Điều này không chỉ tạo điều kiện cho nghệ sĩ nhiếp ảnh và công chúng Việt Nam tiếp cận với những thành tựu và xu hướng của nhiếp ảnh thế giới, mà còn đưa chính nghệ thuật nhiếp ảnh và hình ảnh Việt Nam đương đại đến với bạn bè quốc tế”. TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc VICAS Art Studio cho rằng, những từ khóa quan trọng phản ánh bản chất cốt lõi của Photo Hanoi là nền tảng kết nối, trưng bày, biểu thị nguồn lực sáng tạo của thành phố. Từ năm 2019, Hà Nội trở thành thành viên Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO, thành phố lựa chọn sáng tạo trở thành điểm cốt lõi. Tuy nhiên, qua rà soát của thành phố với lĩnh vực sáng tạo, thị trường văn hóa nghệ thuật chưa phát triển đồng bộ, chưa có môi trường thuận lợi cho các ngành văn hóa, sáng tạo phát triển bền vững. Trong bối cảnh như vậy, 5 năm gần đây, tại thủ đô Hà Nội xuất hiện một loạt sự kiện nghệ thuật, sáng tạo quốc tế, trong đó có nhiếp ảnh. Theo TS. Nguyễn Thị Thu Hà, các sự kiện như vậy không chỉ mang lại món ăn tinh thần mà đóng vai trò quan trọng thúc đẩy thị trường. “Ở các liên hoan có nghệ sĩ, khán giả, nhà đầu tư, nhà sản xuất tìm kiếm nghệ sĩ đưa ra thị trường, kết nối nghệ sĩ trong nước và quốc tế, tìm kiếm đối tác đưa nghệ sĩ ra quốc tế. Qua đó, các bên đều có thể tìm kiếm thông tin dễ dàng, được kiểm chứng, tiết kiệm nguồn lực cho nghệ sĩ, nhà đầu tư”. Trong tổng thể hệ sinh thái văn hóa, sáng tạo, các liên hoan đóng vai trò nền tảng trung gian giữa thị trường và lực lượng lao động trong lĩnh vực văn hóa, sáng tạo. TS. Nguyễn Thị Thu Hà cho rằng “thị trường không thể phát triển đúng nghĩa nếu thiếu đơn vị trung gian, gồm nhiều thiết chế, và liên hoan là thiết chế quan trọng. Nếu thiếu nó, chúng ta sẽ tốn nhiều thời gian, nguồn lực, đi chậm hơn để vươn ra thị trường khu vực và thế giới, thậm chí đánh mất cơ hội để đặt giá trị văn hóa, năng lực sáng tạo vào vị trí xứng đáng và có năng lực phát triển”. Bởi vậy, cần có sự nghiên cứu thấu đáo về cách tổ chức, gây quỹ, thu hút nguồn lực trong và ngoài nước, đặc biệt là phát triển đối tác chiến lược… để tổ chức các liên hoan nghệ thuật quốc tế chuyên nghiệp, góp phần phát triển các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
‘Đòn bẩy’ đưa nhiếp ảnh Việt Nam vươn xa
1,208
Betelgeuse, ngôi sao siêu khổng lồ đỏ thuộc chòm sao Orion, đang phát sáng ở mức 150% độ sáng bình thường. Ảnh: Franco Tognarini/Getty Images/iStock. Betelgeuse một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời – đang có mức dao động độ sáng và chu kỳ dao động độ sáng thay đổi, gây ra sự chú ý lớn đối với các nhà khoa học và làm dấy lên nghi ngờ ngôi sao này chuẩn bị phát nổ. Betelgeuse là ngôi sao siêu khổng lồ đỏ gần với Trái Đất nhất và đồng thời cũng là một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời. Trong thiên văn học Hy Lạp, Betelgeuse nằm ở phần vai của chòm sao Orion nhưng tên của nó lại bắt nguồn từ tiếng Ả Rập bat al-jawzāʾ, có nghĩa là “vai của người khổng lồ”. Do là một ngôi sao biến thiên, độ sáng của Betelgeuse luôn có sự thay đổi. Từ lâu, chu kỳ dao động giữa sáng và mờ của ngôi sao này được các nhà khoa học xác định vào khoảng 400 ngày. Tuy nhiên từ cuối năm 2019 tới đầu năm 2020, ngôi sao này đã trải qua tình trạng được các nhà vật lý thiên văn gọi là “great dimming” – ánh sáng của ngôi sao này tới Trái Đất bị mờ đi đáng kể do bị mây bụi che khuất. Kể từ đó, ngôi sao này đang có những hành vi có thể coi là bất thường. Theo Guardian trích dẫn nhà vật lý thiên văn Andrea Dupree thuộc Trung tâm Vật lý thiên văn Harvard-Smithsonian, Betelgeuse đang phát sáng ở mức độ 150% độ sáng bình thường và đang chuyển đổi giữa tình trạng sáng và mờ trong chu kỳ chỉ 200 ngày – nhanh gấp đôi so với bình thường. Với độ sáng này, Betelgeuse đang là ngôi sao sáng thứ 7 trên bầu trời đêm và tăng 3 bậc so với thứ hạng trước đó của nó. Theo dự đoán của một nghiên cứu tiến hành bởi nhà vật lý thiên văn Andrea Dupree cùng các nhà khoa học khác từ Harvard và Đại học California, sẽ mất từ 5 đến 10 năm nữa trước khi Betelgeuse trở lại chu kỳ 400 ngày bình thường của mình. Tuy nhiên kể từ khi trải qua sự kiện great dimming, “các đường cong vận tốc hướng tâm và ánh sáng của Betelgeuse đã khác biệt rõ rệt so với trước đây”. Đây là một điều rất khác lạ và các nhà khoa học chưa từng thấy hành vi nào tương tự trước đây. Dù các dấu hiệu này không phải là tín hiệu cho việc Betelgeuse sắp phát nổ ngay lập tức, ngôi sao này trên thực tế cũng đang trong giai đoạn cuối đời của mình. Betelgeuse là một ngôi sao khổng lồ với đường kính lớn và độ sáng cao do quá trình đốt cháy hydrogen mãnh liệt hơn nhiều so với các ngôi sao như Mặt Trời. Tuy nhiên, cũng vì lý do này mà nó sẽ có vòng đời rất ngắn. Khi đi tới cuối chu kỳ của mình, Betelgeuse sẽ phát nổ trong một hiện tượng gọi là supernova – vụ nổ siêu tân tinh và sau đó trở thành một ngôi sao neutron và có khả năng sẽ trở thành hố đen. Các nhà khoa học dự đoán Betelgeuse sẽ phát nổ vào một thời điểm bất kỳ trong 10.000 năm cho tới 100.000 năm tới. Tính trên phạm vi vũ trụ, điều này sẽ xảy ra rất sớm nhưng nếu tính theo phạm vi đời người, việc chúng ta có thể chứng kiến vụ nổ siêu tân tinh của Betelgeuse gần như là không thể. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nó vẫn giúp các nhà khoa học đạt được nhiều lợi ích. Nhận định về việc này, tiến sĩ Sara Webb, nhà vật lý thiên văn tại Đại học Công nghệ Swinburne ở Australia, cho biết: “Một trong những điều thú vị nhất về Betelgeuse là chúng tôi có thể quan sát các giai đoạn cuối cùng trong quá trình tiến hóa của một ngôi sao lớn gần như trong thời gian thực – điều mà chúng tôi chưa từng có cơ hội nghiên cứu trước đây”. Bà cũng cho biết tuy việc quan sát được Betelgeuse nổ là rất khó, bà vẫn luôn hy vọng rằng “chúng ta gặp may mắn”. Về mặt lý thuyết, ngôi sao này có thể chưa phát nổ, nhưng kể cả nếu như nó đã phát nổ, con người cũng chưa thể quan sát được. Do nằm cách Trái Đất khoảng 600 năm ánh sáng, ánh sáng từ vụ nổ của Betelgeuse sẽ tốn 600 năm mới đến được Trái Đất để con người có thể quan sát.
Một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời có các dấu hiệu lạ
791
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định phát biểu tại Phiên toàn thể. (Ảnh: THANH THỂ). Với chủ đề ‘Sinh thái: quyền chứ không phải đặc quyền’, Đại hội năm nay thu hút sự tham dự của khoảng 900 đại biểu đến từ hơn 40 quốc gia. Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam, do Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định dẫn đầu tham dự và phát biểu tại Đại hội. Phát biểu ý kiến tại Phiên toàn thể ngày 26/5, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nhấn mạnh, nhân loại đang phải đối mặt khủng hoảng kép do hậu quả của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và suy thoái thiên nhiên, làm suy giảm thành quả phát triển kinh tế, gây bất ổn an ninh, chính trị và xã hội toàn cầu. Đã đến lúc các quốc gia cần hợp lực để có sự chuyển đổi sâu sắc, điều chỉnh cách thức khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng bền vững. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nhấn mạnh, qua các phiên thảo luận tại Đại hội với 15 chuyên đề khác nhau, đoàn Việt Nam đánh giá rất cao các nỗ lực, sáng kiến, kết quả của Nga và các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập trong lĩnh vực quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học, thích ứng và ứng phó biến đổi khí hậu. Việt Nam hoan nghênh và đánh giá cao các chủ đề của Đại hội mang tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực với cộng đồng quốc tế. Quang cảnh Phiên toàn thể. (Ảnh: THANH THỂ). Theo Phó Chủ tịch Quốc hội, là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu và đang phải đối mặt tình trạng suy thoái về đa dạng sinh học cùng những thách thức khác, Việt Nam đã và đang tích cực hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng biến đổi khí hậu… Bên cạnh đó, Việt Nam tích cực tham gia các nỗ lực chung chống biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Nhằm phát huy vai trò của các nghị sĩ – đại biểu Quốc hội trong ứng phó biến đổi khí hậu, thúc đẩy bảo vệ môi trường sinh thái vì sự phát triển bền vững, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định đề xuất các nghị viện tăng cường rà soát và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật quốc gia, tạo thuận lợi cho việc xây dựng và thực thi các chính sách chuyển đổi nền kinh tế theo hướng phục hồi xanh, kinh tế tuần hoàn; nghị viện tăng cường giám sát Chính phủ trong việc xây dựng lộ trình chuyển đổi nền kinh tế trong bối cảnh hậu đại dịch Covid-19 và ứng phó biến đổi khí hậu, hài hòa giữa yêu cầu và điều kiện phát triển, thực tiễn của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, các nước phát triển hơn cần tiếp tục đi đầu thực hiện các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính, hỗ trợ kỹ thuật, tài chính và công nghệ cho các nước đang phát triển nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu . Đông đảo đại biểu tham dự Phiên toàn thể. (Ảnh: THANH THỂ). Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề xuất tăng cường hợp tác quốc tế, hợp tác nghị viện dựa trên nguyên tắc công bằng, trách nhiệm giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế nhằm kết nối, bổ sung và hỗ trợ nguồn lực, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật, tài chính; chú trọng phân bổ ngân sách hợp lý, khuyến khích phát triển quan hệ đối tác công-tư, lấy chuyển đổi mô hình phát triển bền vững là nền tảng, bảo đảm thực hiện các cam kết khí hậu của các quốc gia. Cùng ngày, bên lề Đại hội, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định có cuộc gặp với Chủ tịch Hội đồng Liên bang (Thượng viện) Nga Valentina Matviyenko. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định khẳng định, việc Đoàn Việt Nam tham dự Đại hội lần này nhằm tiếp tục củng cố sự tin cậy, làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và các cơ quan lập pháp của Nga, tiếp tục đưa hợp tác nghị viện trở thành một kênh quan trọng, góp phần thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định tặng bà Matviyenko cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. (Ảnh: THANH THỂ). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nhấn mạnh, sau chuyến thăm làm việc tại Việt Nam của Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Liên bang Nga Andrey Yatskin hồi tháng 2 năm nay, hai bên đã tích cực trao đổi, thống nhất phối hợp thúc đẩy các chương trình hợp tác và đạt nhiều kết quả tích cực; đánh giá cao hai nước tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác đa phương, đồng thời cho biết đã nhận được đề án về kế hoạch của Hội đồng Liên bang Nga hợp tác với Quốc hội Việt Nam. Phó Chủ tịch Quốc hội cũng trân trọng chuyển lời thăm hỏi thân tình của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các lãnh đạo Việt Nam tới bà Matviyenko và mời bà thăm chính thức Việt Nam vào thời gian thích hợp. Đánh giá cao những thành quả đạt được trong quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước thời gian qua, Chủ tịch Hội đồng Liên bang Nga Valentina Matviyenko khẳng định, Việt Nam là đối tác quan trọng của Nga và Nga mong muốn cùng phía Việt Nam tiếp tục tăng cường mạnh mẽ quan hệ song phương, trong đó có hợp tác nghị viện. Bà Matviyenko cũng nêu rõ, phía Nga đang tích cực chuẩn bị nội dung hợp tác để các đoàn đại biểu Nga đến thăm, làm việc tại Việt Nam thời gian tới. Nhân dịp này, bà Matviyenko cũng gửi lời chào và lời chúc tốt đẹp nhất đến Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các đồng nghiệp Việt Nam; nhấn mạnh mong muốn gặp lại những người bạn Việt Nam trong thời gian sớm nhất. Sau Phiên toàn thể, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cùng các Trưởng đoàn đại biểu nước ngoài tham gia nghi thức trồng cây chúc mừng Đại hội Sinh thái quốc tế Nevsky lần thứ 10 thành công tốt đẹp. Chương trình có sự tham gia của Chủ tịch Hội đồng Liên bang Nga Valentina Matviyenko. Nghi thức trồng cây chúc mừng thành công Đại hội. Trước đó, ngày 25/5, đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam tham dự Phiên Khai mạc Đại hội Sinh thái quốc tế Nevsky lần thứ 10, dự và có tham luận tại Phiên thảo luận chuyên đề “Sản xuất hữu cơ: Cơ hội, triển vọng và hợp tác quốc tế” và một số phiên thảo luận khác. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định tặng quà đại diện cộng đồng người Việt tại Saint Petersburg. (Ảnh: THANH THỂ). Cũng trong ngày 26/5, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định gặp gỡ đại diện cộng đồng người Việt Nam tại Saint Petersburg; lắng nghe ý kiến, chia sẻ của cộng đồng về những thuận lợi, khó khăn trong cuộc sống; khẳng định tiếp tục cùng phía Nga thảo luận, kiến nghị giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho bà con hội nhập sâu vào xã hội sở tại. Phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Nga
Việt Nam kêu gọi tăng cường hợp tác quốc tế bảo vệ môi trường
1,332
Trang AccuWeather dự báo siêu bão Mawar có thể tăng cường sức mạnh và đổ bộ Philippines , Nhật Bản và (Đài Loan) Trung Quốc ngày 28-5. Theo các nhà dự báo của AccuWeather, siêu bão Mawar đã đổ bộ vào đảo Guam – Mỹ với sức gió hủy diệt và những trận mưa lớn vào đầu tuần này. Nó đang tiếp tục di chuyển về phía Tây qua Thái Bình Dương và dự kiến ảnh hưởng đến nhiều vùng đất hơn ở phía Tây Thái Bình Dương và Đông Á trong tuần tới. Mawar đã tăng cường sức mạnh lên mức siêu bão, ngang cấp độ 5 của bão ở Đại Tây Dương khi di chuyển về phía Philippines. Siêu bão này có thể mạnh hơn nữa và dự kiến đổ bộ Philippines, Nhật Bản và Đài Loan (Trung Quốc) bắt đầu từ ngày 28-5 với lượng mưa lớn hơn và gió mạnh. Siêu bão Mawar nhăm nhe ập vào Philippines, Nhật Bản và Trung Quốc. Ảnh: AccuWeather. “Mawar được dự báo sẽ duy trì sức mạnh, thậm chí mạnh lên một chút, khi nó tiếp tục di chuyển về phía Tây qua biển Philippines vào cuối tuần này” – trưởng nhóm dự báo quốc tế của AccuWeather Jason Nicholls nói. Tính đến tối 26-5, siêu bão Mawar có tâm bão cách đảo Guam vài trăm km về phía Tây – Tây Bắc, đạt cấp độ 5 trên thang đo Saffir – Simpson (sức gió lên tới hơn 252 km/giờ). Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) cho biết hiện Mawar duy trì sức gió khoảng 194 km/giờ. Sau đó, Mawar có thể duy trì hoặc giảm nhẹ sức gió khi bắt đầu đổ bộ trở lại vào đất liền, dự kiến mang theo mưa lớn và gió mạnh đến phía Bắc đảo Luzon của Philippines từ tối 28-5 đến ngày 30-5 (giờ địa phương). “Lượng mưa và sức gió của Mawar ở Philippines sẽ phụ thuộc vào việc siêu bão này tiếp cận gần đến đâu trước khi nó dự kiến chuyển hướng về phía Bắc tới quần đảo Ryukyu của Nhật Bản và phía Đông Đài Loan (Trung Quốc)” – AccuWeather cho biết thêm. Nhà chức trách Philippines đã yêu cầu đình chỉ các chuyến đi biển, đồng thời cảnh báo các thuyền nhỏ không đánh bắt ngoài khơi.
Siêu bão Mawar nhăm nhe ập vào Philippines, Nhật Bản và Trung Quốc
378
Chân dung nhà văn, nhà báo Barbara Kingsolver và tác phẩm “Dempon Copperhead”. Tác phẩm ‘Demon Copperhead’ của nữ nhà văn Barbara Kingsolver lấy cảm hứng từ văn học kinh điển, là sự mô phỏng và mở rộng hình tượng David Copperfield của nhà văn nổi tiếng thế giới Charles Dickens trong bối cảnh xã hội nước Mỹ đầy rối ren, đã được trao vương miện xuất sắc của giải Pulitzer 2023. Không nằm ngoài dự đoán, vào lúc 3h sáng ngày 9/5, theo giờ Việt Nam (GMT+7), lễ trao giải thưởng Pulitzer đã được tổ chức tại Đại học Columbia, Mỹ. Các cuốn sách được chia làm sáu hạng mục khác nhau để tranh giải gồm: Hư cấu, lịch sử, tiểu sử, hồi ký hoặc tự truyện, thơ và phi hư cấu. Các tác phẩm năm nay có nhiều thông điệp khác nhau, từ vấn đề chính trị, xã hội cho đến đời sống, sức khỏe đã được trao cho những tác phẩm xuất sắc nhất. Tại hạng mục hư cấu, tác phẩm “Demon Copperhead” của nữ văn sĩ Barbara Kingsolver chiến thắng giải Pulitzer 2023. “Demon Copperhead” lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết kinh điển “David Copperfield” của nhà văn Charles Dickens. Barbara Kingsolver đưa người đọc đến những vùng quê nước Mỹ, nơi con người đang phải đối mặt với nghèo đói và bóng ma nghiện ngập. Nếu phiên bản của tiểu thuyết gia kinh điển Dickens đặt ra câu hỏi: “Liệu tôi có thể nắm giữ số mệnh của mình hay không?”, thì cuốn tiểu thuyết của Kingsolver lại đưa ra vấn đề: “Cứu người hay được người cứu”. Theo đánh giá của New York Times trước đó, việc lựa chọn làm mới một nhân vật kinh điển trong văn học của Kingsolver là điều khó hiểu. Trước đó, nữ nhà văn đã có nhiều tác phẩm làm nên tên tuổi như: “The Poisonwood Bible” (1998), “Flight Behavior” (2012)… Tuy nhiên, sau khi ra mắt, chúng lại nhận được phản hồi tích cực từ độc giả và đánh giá cao của giới chuyên môn. “David Copperfield” của tiểu thuyết gia kinh điển Charles Dickens là câu chuyện về một cậu bé tên là David gặp nhiều biến cố, cô độc trong ngôi nhà của mình. Cậu đã có khởi đầu khá hạnh phúc bên người mẹ và chị vú nuôi, thế rồi tất cả bỗng thay đổi khi mẹ cậu đi thêm bước nữa. Mỗi ngày trôi qua hết sức nặng nề với sự khắc nghiệt, tàn nhẫn của người cha dượng, sự lạnh lùng lạ kỳ từ người mẹ. Cậu đã quyết định bỏ trốn đi tìm một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Còn với tiểu thuyết “Demon Copperhead”, nhân vật chính trong tác phẩm của nữ văn sĩ Barbara Kingsolver cũng gần như vậy. Thế nhưng sau cùng nữ nhà văn đã không để nhân vật của mình thoát ra khỏi những vòng vây cuộc sống. Họ cứ chìm dần vào trong một vũng lầy, bao quanh đó là chất gây nghiện tạo ảo giác ở những liều thuốc giảm đau. Sau tất cả, Kingsolver vẫn cho người đọc thấy một tia hy vọng le lói, “Không thể biết trước điều gì nếu chúng ta chưa lật tới trang cuối”. Trong 5 năm trở lại đây, “Demon Copperhead” là tác phẩm đầu tiên lấy cảm tác từ một hình tượng văn học kinh điển giành giải thưởng Pulitzer. Dưới ngòi bút của tác giả đương thời, nhân vật David Copperfield đã được làm mới lại để thể hiện nhân sinh quan gắn với dòng chảy thời sự. Trước đó, các tác phẩm thường là những câu chuyện lấy cảm hứng từ những cuộc đấu tranh có thật trên đất nước Mỹ. Chẳng hạn “The Night Watchman” (2021) của Louise Erdrich viết về cuộc đấu tranh bảo vệ quyền của người Mỹ bản địa năm 1950, “The Nickel Boys” là câu chuyện dựa trên chuỗi sự kiện về Trường Dozier tại bang Florida bị tố lạm dụng tình dục (2020). Cũng cần nói thêm, nhà tiểu thuyết gia trứ danh Charles Dickens là cái tên mà không một người dân nào ở xứ sở sương mù vào đầu thế kỷ mười chín, không biết đến. Ông được xem là cây đại thụ trong nền văn học nước Anh nói riêng và văn đàn nhân loại nói chung bởi đầy ắp các tác phẩm mang giá trị nhân văn sâu sắc. Ông không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà phê bình xã hội, nhà báo và thậm chí là biên tập viên. Các tác phẩm của Charles Dickens phần lớn đều mang đậm tính hiện thực, bởi nó phản ánh nhiều góc khuất u tối lúc bấy giờ của nước Anh, một trong những nền văn minh tiến bộ nhất thế giới. Ông thường viết về trẻ em và dùng con chữ của mình hóa thành thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh cho quyền lợi của chúng, ngòi bút đanh thép luôn sống đúng với thiên chức của một nhà văn, đó là bênh vực cho những kiếp người khốn khổ không có ai để bênh vực. Kiệt tác kinh điển “David Copperfield” là một trong những tác phẩm được biết đến rộng rãi. Với cuốn tiểu thuyết trứ danh này, Dickens đã kích thích và mở đầu cho loại truyện viết về chủ đề tuổi trẻ sống lang thang, bị hắt hủi… Trở lại với giải Pulitzer dành cho sách. Cùng “Demon Copperhead” của Barbara Kingsolver, “Trust” của Herman cũng chiến thắng ở hạng mục hư cấu. Cuốn sách lấy bối cảnh phố Wall, hai vợ chồng nhà Rask cùng vươn lên trở thành thế lực tài chính nước Mỹ bằng trái phiếu. Để có được khối tài sản khổng lồ cũng như địa vị trên thương trường, nhà Rask đã sử dụng nhiều thủ đoạn, trong đó có việc đầu cơ tích trữ, sử dụng quyền lực tài chính bóp méo sự thật. Herman đã lên án gay gắt hành động này và nêu cao tinh thần hướng đến sự thật. Ở hạng mục lịch sử, tác giả Jefferson Cowie đã chiến thắng với tác phẩm “Freedom’s Dominion: A Saga of White Resistance to Federal Power”. Cuốn sách lấy bối cảnh tại tiểu bang Alabama (Mỹ) thế kỷ 19 nói về cuộc đấu tranh của người da đen giành quyền tự do, thoát khỏi chế độ nô lệ. Cuốn sách giành giải thưởng Pulitzer hạng mục Phi hư cấu la â“His Name Is George Floyd (Robert Samuels và Toluse Olorunnipa). Đây là một bức chân dung gần gũi về người đàn ông tạo nên làn sóng Black Lives Matter vào năm 2020. Còn với thể loại tiểu sử, giải thưởng đã được trao cho cuốn G-Mancủa Beverly Gage. Giải thưởng về tập thơ xuất sắc thuộc về “Then the War” của nhà thơ lừng danh Carl Phillips và giải hồi ký hoặc tự truyện thuộc vê ì“Stay True” của Hua Hsu. Barbara Kingsolver sinh ngày 8/4/1955 ở Annapolis bang Maryland, nước Mỹ . Bà lớn lên tại Kentucky và từng có thời gian sống tại châu Phi. Barbara là một trong những nhà văn và nhà thơ có tác phẩm bán chạy nhất trên thế giới. Barbara Kingsolver được mệnh danh là nhà văn phi tiểu thuyết người Mỹ. Bà được biết đến nhiều nhất cho “The Poisonwood- Kinh Thánh” (1998), một cuốn tiểu thuyết về một gia đình truyền giáo di chuyển đến Congo Bỉ. Bà cũng nhận được sự chú ý cho loạt các tác phẩm phi tiểu thuyết về đề tài động vật, thực vật. Bà từng là thành viên sáng lập của ban nhạc mang tên Rock Bottom Remainders. Trong sự nghiệp của mình, bà đã nhận được hàng loạt các giải thưởng danh giá như: Huy chương Nhân đạo quốc gia Hoa Kỳ; giải “Sách Quốc gia của Nam Phi” cho tiểu thuyết “The Poisonwood Bible”; giải James Beard, Los Angles Times Book Prize; đề cử giải Pulitzer Prize… Đề tài trong các tiểu thuyết của Barbara thường là sự tương tác giữa con người và hệ sinh thái; sự đấu tranh cho công bằng xã hội qua việc nêu lên nỗi vất vả của dân nhập cư, người lao động nghèo khổ, những bà mẹ nuôi con một mình… Lối văn xuôi mộc mạc trong tiểu thuyết của Barbara thích hợp với mọi độc giả. Bà cũng từng được trao tặng giải thưởng văn học uy tín Orange Prize của Anh năm 2010 cho tiểu thuyết “The Lacuna”. Cuốn tiểu thuyết này đã qua mặt “Wolf Hall”- từng đoạt giải Booker Prize của Hilary Mantel – mang về cho Barbara giải thưởng trị giá 30.000 bảng Anh. Nói thêm một chút về giải Orange Prize hằng năm nhằm vinh danh những cây bút nữ có tiểu thuyết xuất sắc viết bằng tiếng Anh trên toàn thế giới. “The Lacuna” của Barbara Kingsolver là cuốn tiểu thuyết mà nhà văn viết suốt 9 năm lấy bối cảnh thế kỷ XX đầy biến động chính trị. “The Lacuna” được giới phê bình văn học và ban giám khảo giải Orange Prize đánh giá rất cao. Chủ khảo Daisy Goodwin nhận xét: “The Lacuna” có tầm phản ánh sâu và rộng, nêu nên nỗi xót xa đến tận cùng và đánh thức tình cảm trong mỗi con người”. “The Lacuna” được viết với phong cách pha trộn giữa kí sự, nhật kí, thư từ, báo chí… trong một cấu trúc hoàn hảo, có thể khiến người ta say mê đọc không ngừng đến trang cuối cùng. Ngoài ra, về thơ giải Pulitzer năm nay cũng được trao cho Carl Phillips (1959) nhà thơ người Mỹ. Ông cũng từng được trao giải thơ Kingsley and Kate Tufts năm 2002 và hiện là Giáo sư ngành văn học Anh tại Đại học Washington, St. Louis.
‘Demon Copperhead’ Cuốn sách thắng giải Pulitzer 2023 – Tác giả: Nguyễn Khánh Thy
1,642
Hầu hết sốc nhiệt xảy ra khi mọi người tập thể dục, lao động, di chuyển trong thời tiết quá nóng và ẩm ướt mà không bù đủ dịch mất qua mồ hôi. Sốc nhiệt là bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng tăng nhiệt độ cơ thể trên 40 độ C và kèm theo rối loạn chức năng thần kinh (rối loạn ý thức, hôn mê, co giật). Sốc nhiệt có thể xảy ra ở những người lớn tuổi, những người có vấn đề về sức khỏe, trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh. Nếu không được xử lý kịp thời thì dễ dẫn đến tử vong. Hầu hết sốc nhiệt xảy ra khi mọi người tập thể dục, lao động, di chuyển trong thời tiết quá nóng và ẩm ướt mà không bù đủ dịch mất qua mồ hôi. Ảnh minh họa. Sốc nhiệt được chia thành 2 nhóm: sốc nhiệt kinh điển và sốc nhiệt do gắng sức, hai thể này khác nhau về cơ chế nhưng biểu hiện lâm sàng giống nhau. Sốc nhiệt kinh điển (classic heatstroke): + Hay gặp ở người già, cơ thể suy nhược, trẻ em, người có bệnh tim mạch, bệnh thần kinh, hay các rối loạn nội tiết. + Tiếp xúc một cách thụ động với một môi trường có nhiệt độ cao trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày Sốc nhiệt do gắng sức (exertional heatstroke) + Hay gặp những người trẻ, khỏe mạnh với hệ điều hòa nhiệt độ bình thường. + Thường phơi nhiễm với nhiệt độ môi trường tăng cao và đồng thời do sự sinh nhiệt lúc thể dục, gắng sức. Khi bị sốc nhiệt, người bệnh thường có các biểu hiện như: Sốt cao, da khô và nóng. Người mệt, đau đầu, khó thở, đỏ mặt, mửa và ỉa chảy. Các triệu chứng thần kinh xuất hiện như mê sảng, lên cơn động kinh, lẫn lộn, co giật. Rối loạn tim mạch: rối loạn nhịp tim, hạ huyết áp. Rối loạn hô hấp: khó thở, suy hô hấp, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển, suy gan, suy thận… Nắng nóng khiến nhiệt độ cơ thể tăng, bài tiết nhiều mồ hôi từ đó gây mất nước. Nếu người bệnh không bổ sung nước kịp thời sẽ khiến máu dễ bị kết dính và lưu thông kém. Hậu quả làm tăng huyết áp, dễ hình thành cục máu đông và gây tắc nghẽn mạch máu. Từ đó, tăng nguy cơ sốc nhiệt và đột quỵ. Để điều trị sốc nhiệt, các bác sĩ sẽ làm mát cơ thể càng sớm càng tốt theo nhiều cách khác nhau: sử dụng quạt để thổi không khí trên da ướt, dội nước lạnh lên người hoặc cho người bị sốc nhiệt vào bồn nước đá. Nếu có thể, điều này cần được thực hiện trước khi đưa người bệnh đến bệnh viện. Sốc nhiệt có thể gây biến chứng cho tất cả các cơ quan như tụt huyết áp, thay đổi, phù phổi, viêm phổi, suy thận cấp, hoại tử ống thận cấp, hạ kali máu, tăng kali máu, hạ calci máu, hạ đường huyết, tăng uric máu. Rối loạn đông máu, hội chứng đông máu rải rác nội mạch, hôn mê, mất trí nhớ, hoại tử tế bào gan, suy gan… Để điều trị sốc nhiệt, các bác sĩ sẽ làm mát cơ thể càng sớm càng tốt theo nhiều cách khác nhau. Ảnh minh họa. Sốc nhiệt hoàn toàn có thể phòng tránh được. Vì thế phương pháp dự phòng rất quan trọng, đó là: Hãy uống đủ định mức, đừng để khi khát thì mới uống. Chia lượng nước cho cả ngày, uống từng ngụm nhỏ. Những người làm việc ngoài trời hay chơi thể thao nên uống thêm các loại nước nước bù điện giải có chứa các ion thiết yếu như Na+, Cl-, Ca2+, Mg2+, K+… Khi có các bệnh lý nguy cơ thì không được tập luyện trong điều kiện thời tiết quá nóng. Mặc quần áo rộng, nhẹ, thoáng và sáng màu. Hạn chế đi ra ngoài trời trong thời tiết nắng nóng vì rất có thể bạn sẽ bị mất nước và say nắng. Không nên đang trong phòng máy lạnh mà ra ngoài nắng đột ngột. Để nhiệt độ phòng chênh lệch không quá 7oC. Khi thấy các dấu hiệu như mệt mỏi, buồn nôn, lượng nước tiểu giảm, bị tiêu chảy liên tục trong 2 ngày thì hãy đến gặp bác sĩ ngay để được tư vấn và điều trị.
Sốc nhiệt do nắng nóng và cách phòng tránh
735
Tuần Du lịch Ninh Bình 2023 diễn ra trong 8 ngày, từ 27/5-4/6 và Lễ khai mạc được tổ chức vào ngày 27/5 tại sân khấu thực cảnh dựng trên cánh đồng lúa chính ở khu vực Hang 2-tuyến du lịch Tam Cốc. (Nhấp chuột vào ảnh để xem kích thước chuẩn) Tuần Du lịch Ninh Bình diễn ra với nhiều hoạt động hấp dẫn như trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống, sản phẩm OCOP của tỉnh; tour du lịch chụp ảnh Mùa vàng Tam Cốc; triển lãm ảnh nghệ thuật… Đây là sự kiện nhằm giới thiệu, quảng bá những nét đặc sắc, hấp dẫn, giá trị nổi bật về tài nguyên du lịch của tỉnh, đặc biệt là giá trị Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An. Đây cũng là dịp tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ du lịch của Ninh Bình đến du khách trong nước và quốc tế, đồng thời tiếp tục khẳng định thương hiệu, vị thế du lịch Ninh Bình là điểm đến an toàn, thân thiện, chất lượng và hấp dẫn…/.
[Infographics] Tuần Du lịch Ninh Bình 2023: Sắc vàng Tam Cốc-Tràng An
189
– Diện tích: 11,93 km2 (theo niên giám thống kê năm 2014). – Dân số: 10.335 người (theo niên giám thống kê năm 2014). – Địa giới hành chính: Phía Đông giáp xã Quảng Phước; Phía Tây giáp xã Quảng Vinh và xã Quảng Lợi; Phía Nam giáp xã Quảng Vinh và xã Quảng Thọ; Phía Bắc giáp phá Tam Giang. Thị trấn Sịa là vùng đất có bề dày truyền thống văn hóa và lịch sử, được hình thành và phát triển từ rất sớm gắn với sự phát triển của kinh thành Huế, là một trong những thị trấn cổ, là nơi tụ họp và buôn bán giao lưu của cư dân Quảng Điền ngày xưa và là huyện lỵ của huyện Quảng Điền . Là vùng đồng bằng ven phá Tam Giang có hệ thống giao thông đường thủy và đường bộ nối với các vùng lân cận và thành phố Huế, do đó có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế-xã hội. Các di tích lịch sử có gắn liền với các hoạt động lễ hội được tổ chức ngày càng có tính quy mô mang tính giáo dục cao của từng vùng “như đình Thủ Lễ gắn với hội vật” được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia “Đình làng An Gia gắn với hội Đu Tiên và Cướp Cù”… Là vùng đất giàu về các điệu hò như hò mái nhì, hò ô, hò giả gạo, âm nhạc cổ truyền phục vụ lễ hội. Đang bảo tồn và phát triển các loại hình văn hóa thể thao như vật võ, đu tiên, chọi gà, đua thuyền, kéo co. Trong văn hóa ẩm thực được nhớ đến bởi các đặc sản như: bánh tráng mè xa, tôm chua chợ Sịa.
Giới thiệu khái quát thị trấn Sịa
292
Tác phẩm đề cập đến các vấn đề thuộc văn hóa cổ truyền. Trong đó nhiều nội dung, khái niệm đến nay không còn phổ biến, ít dùng hoặc đã thay đổi, biến nghĩa theo thời gian. Tác phẩm “Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam” do NNC Hữu Ngọc chủ biên. Ảnh: Đình Ba. “Vè. Thể loại tự sự dân gian bằng văn vần, phát triển từ TK XVIII đến nay. Và thiên về phản ánh những sự việc đương thời, ca ngợi gương tốt, đả kích thói xấu (phần này nhiều hơn)”. “Hòn Trống Mái. Ở Sầm Sơn (Thanh Hóa). Hai khối đá lớn, nằm chồng lên nhau trên một quả đồi trông ra biển. Gắn liền với tín ngưỡng phồn thực”. Trên đây chỉ là hai trong số cả nghìn mục từ được Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam do nhà nghiên cứu Hữu Ngọc chủ biên đề cập. Tác phẩm mới được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành, có sửa chữa, bổ sung so với những lần in trước đó. Tham gia biên soạn công trình này là những tên tuổi trong lĩnh vực khoa học xã hội như Chu Quang Trứ, Ngô Đức Thịnh, Đỗ Văn Ninh… Giới hạn nội dung của tác phẩm, các tác giả nêu rõ trong “quan niệm và quy cách”. Theo đó mốc thời gian được xác định của từ điển về văn hóa cổ truyền là từ thiên niên kỷ I TCN cho đến đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, có những trường hợp để giúp độc giả theo dõi sự tương tác giữa văn hóa cổ truyền và hiện đại, tác phẩm “đưa thêm một số mục từ hoặc chi tiết thuộc thời gian kéo dài đến tháng tám năm 1945”. Cũng trong tác phẩm này, tiếng là văn hóa cổ truyền, nhưng có sự pha trộn cả văn hóa bác học và văn hóa dân gian. Đồng thời, do tính liên đới, phổ quát của văn hóa, nên không chỉ giới hạn không gian thuần văn hóa, mà mở rộng cả những mục từ liên quan đến sinh thái, môi trường như cách săn bắt một số loài thú trong dân gian. Để tiện cho độc giả khi đọc, tra từ, các tác giả chia sách thành hai phần. Phần thứ nhất là “Cách tra từ”. Trong phần này chia theo môi trường với các chương về môi trường tự nhiên, môi trường nhân văn, môi trường lịch sử. Mỗi chương lại chia nhỏ theo chủ đề cụ thể. Phần con người chia các chương theo dòng thời gian từ khi ra đời đến khi mất… Phần thứ hai là “Từ điển” là phần triển khai nội dung các từ đã nêu ở Phần thứ nhất, trình bày theo ABC và là phần chính của tác phẩm. Xác định rõ quy cách thực hiện như vậy, nên Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam giúp độc giả dễ tra cứu, cũng như sự bao quát văn hóa thông qua các mục từ như la bàn định hướng cho độc giả khi cần tìm hiểu mục từ quan tâm. Giới thiệu tác phẩm này, GS Philippe Papin của Viện Viễn Đông Bác cổ nhận xét đây là “một cuốn từ điển để dạo chơi trong tác phẩm, lang thang từ mục từ này sang mục từ khác, lần giở vài trang rồi lộn lại, nhảy vọt từ trò chơi dân gian sang văn chương bác học, từ nghi lễ đạo giáo sang phẩm phục, từ đền chùa sang ma quỷ, từ đàn nguyệt sang cây thuốc… Mà có lẽ cũng nên lạc đường quên lối, nhờ cuốn sách này, trong khu rừng bao la của văn hóa Việt Nam”.
Kim chỉ nam về văn hóa cổ truyền Việt Nam
613
– Diện tích: 1.269,14 ha – Dân số: 1.978 hộ với 7.103 khẩu – Vị trí địa lý: Xã Quảng Phước nằm cuối hạ lưu sông Bồ ven Phá Tam Giang, xã gồm có 6 thôn, trong đó 3 thôn nằm ven Phá Tam Giang: thôn Mai Dương, Lâm Lý, Hà Đồ – Phước Lập và 3 thôn ở Trung tâm xã: thôn Thủ Lễ 2, Thủ Lễ 3, Khuông Phò. + Phía Đông giáp xã Quảng An. + Phía Tây giáp thị trấn Sịa . + Phía Nam giáp xã Quảng Thọ. + Phía Bắc giáp xã Quảng Công. – Đời sống kinh tế của bà con nhân dân chủ yếu là trồng trọt sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản. Với tài nguyên đất đai khá màu mỡ, nguồn nước dồi dào nên thuận lợi trong sản xuất nông nghiệp, hiện có 366,9 ha đất trồng lúa, năng suất hàng năm bình quân ước đạt 62- 62,5 tạ/ha. Vị trí địa lý nằm ven Phá Tam Giang và với 167,7 ha diện tích mặt nước nên thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và khai thác thủy sản tự nhiên như tôm, cá, cua…; sản lượng nuôi trồng thủy sản và khai thác tự nhiên hàng năm bình quân ước đạt 300 tấn. – Địa chỉ cơ quan: Thôn Thủ Lễ 2, xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền , tỉnh Thừa Thiên Huế – Điện thoại cơ quan: 02343554438 – Email:
Giới thiệu khái quát xã Quảng Phước
228
SƠ LƯỢC ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH VÀ ĐIỀU KIỆN TƯ NHIÊN – Quá trình thành lập : Năm 1983 xã được chia tách từ xã Quảng Lộc thành 2 xã là: Quảng An và Quảng Thành và được duy trì từ đó cho đến nay. – Vị trí địa lý: + Phía Đông: Giáp với xã Hương phong, thị xã Hương Trà , tỉnh Thừa Thiên Huế + Phía Tây: Giáp với xã Quảng An và Quảng Thọ, huyện Quảng Điền + Phía Nam: Giáp với xã Hương Vinh và Hương Toàn, thị xãHương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế + Phía Bắc : Giáp với xã Hải Hương, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế Quảng Thành hiện có 9 thôn là: Phú LươngA, Thanh Hà, Tây Thành, Phú Ngạn, An Thành, Thành Trung, Thủy Điền, Kim Đôi và Quán Hòa. Toàn xã gồm 2.815 hộ với 12.450 nhân khẩu – Về địa hình: Xã Quảng Thành là một xã vùng đồng bằng thấp trũng nằm cuối hạ lưu của hai nhánh sông Bồ và sông Hương vì vậy thường xuyên ngập lụt về mùa mưa, khô hạn về mùa nắng, giao thông đi lại khó khăn, đặc biệt là vào mừa mưa lũ. – Về khí hậu: Xã Quảng Thành nằm trong vùng đồng bằng ven biển miền Trung nên thời tiết tương đối khắc nghiệt, khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt: Mùa nắng nóng bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8 và mùa mưa lũ từ tháng 9 đến tháng 02 năm sau. – Nhiệt độ: Do địa hình thấp trũng vì vậy mùa mưa chịu ảnh hưởng của các đợt gió mùa Đông bắc, trời nhiều mưa và lạnh kèm theo các đợt lũ lụt kéo dài. Mùa nắng khô hạn và oi bức, do vậy đã tác động không nhỏ vào thời vụ sản xuất lúa. * Mật độ nắng bình quân trên địa bàn xã Quảng Thành khoảng 1.952 giờ/năm. Tuy nhiên có sự chênh lệch giữa hai mùa khoảng 100 – 120 giờ chiếu sáng. Số giờ chiếu sáng bình quân mùa nắng cao hơn mùa mưa từ 3-4 giờ. * Lượng mưa trung bình trên địa bàn xã hàng năm khoảng 2.955mm, năm cao nhất lên tới 4.927mm, năm thấp nhất khoảng 1.850mm. Số ngày mưa bình quân/năm khoảng 160 ngày, chiếm 43% số ngày trong năm. Mưa tập trung nhiều vào đầu tháng 9 đến tháng 12 hàng năm và thường xảy ra lũ lụt do lượng mưa những tháng này thường chiếm từ 70-75% lượng mưa của cả năm. – Tài nguyên : + Đất đai: Tổng diện tích đất tự nhiên: 1.074,32 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp: 681,13 ha. + Rừng: Quảng Thành là xã đồng bằng thấp trũng, không có rừng tự nhiên mà chủ yếu là trồng cây tập trung và phân tán của các thôn. + Mặt nước: Diện tích mặt nước: ………. ha. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ………ha, chủ yếu là trên phá Tam Giang và một số ao hồ. + Khoáng sản: Diện tích của xã chủ yếu là đất nông nghiệp, diện tích mặt nước sông, đầm để nuôi trồng thuỷ sản và phục vụ dân sinh, khoáng sản có trữ lượng than bùn khá lớn.
Giới thiệu khái quát xã Quảng Thành
518
– Diện tích: 11,87 km2 (theo niên giám thống kê năm 2017) – Dân số: 7.924 người (theo niên giám thống kê năm 2017) – Vị trí địa lý: Quảng An là một vùng thấp trũng nằm cuối hạ lưu Sông Bồ. + Phía Đông giáp xã Quảng Thành. + Phía Tây giáp xã Quảng Thọ. + Phía Nam giáp xã Quảng Thọ và xã Quảng Thành. + Phía Bắc giáp xã Quảng Phước và phá Tam Giang. – Tiềm năng thế mạnh: Do ở cuối hạ lưu sông bồ nên đất đai màu mở, nguồn lợi thủy sản phong phú, là vùng trọng điểm lúa của huyện Quảng Điền và tỉnh TT Huế. Cư dân sống chủ yếu dọc theo đường tỉnh lộ 4B, hai bên bờ sồng Bồ và một bộ phận ở sát phía Tam Giang thuận lợi cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. – Là xã bãi ngang ven biển.
Giới thiệu khái quát xã Quảng An
147
Phường 1 được thành lập vào năm 1983 của thị xã Cao Lãnh, nay là thành phố Cao Lãnh . 1. Vị trí địa lý, diện tích tự nhiên Phường1 là trung tâm của Thành phố, phía đông bắc giáp với phường 2 cách đường Nguyễn Huệ, phía Tây nam giáp Phường 4 và Phường Hòa Thuận cách sông Cao lãnh (còn gọi là sông con) ; Tây bắc giáp xã Mỹ Tân; Đông bắc giáp phường Mỹ Phú cách sông Cái sao thượng ( còn gọi sông là Đình Trung). Hiện nay phường 1 có diện tích 202.20 ha, chia thành 05 khóm là : Khóm 1, khóm 2, khóm 3, khóm 4, khóm 5. 2. Địa hình, khí hậu: Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long nên phường 1 có đặc điểm chung khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa. Mỗi năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, trùng với gió mùa Tây Nam. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, trùng với gió mùa Đông bắc. Lượng mưa trung bình năm là 1.682 – 2.005 mm. Lượng mưa phân bố không đồng đều theo các mùa trong năm. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, chiếm đến 90 – 92% lượng mưa của cả năm và tập trung vào các tháng 9, 10 (30 – 40 %). Mực nước trên các sông, rạch đều chịu tác động của thủy triều trong tháng. Hàng năm mùa khô vào tháng 3 đến tháng 5 là nước ở các sông, rạch khô cạn. Giao thông đường thủy, trên địa bàn phường có 2 con sông chính là sông cao lãnh và sông cái sao thượng nên thuận lợi cho việc vận chuyển giao thương hàng hóa của nhân dân trong ngoài đia phương. Giao thông đường bộ trước năm 1983 đây là một phần đất thuộc thôn Mỹ trà là vùng đất hoang sơ, đường nhỏ hẹp, mùa mưa lầy lội, phương có 2 tuyến đường chính đường 30/4 và đường Nguyển Huệ, bị xuống cấp phương tiện giao thông khó khăn. Từ năm 1986 đến nay được đầu tư xây dựng (như đường Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo , trải xà bần ở một số tuyến đường như: đường giữa (nay là đường Ngô thì Nhậm), đường Thầy Kiện (nay là đường Nguyễn Văn Tre)…tuyến đường giao thông trải nhựa tạo điều kiện thuận tiện cho việc nhân dân qua lại, giao lưu mua bán. 3. Cơ sở hạ tầng – Các tuyến đường giao thông đường bộ, toàn phường có chiều dài 47,0637km2 được trải nhựa kiên cố trong đó 05 tuyến đường chính: Đường 30/4 tiếp giáp từ phường 2 chạy dài tới cầu kinh cụt dài 2,3km,. đường Nguyễn Huệ tiếp giáp từ cầu Đình Trung phường Mỹ Phú đến cầu Cầu Đúc phường 4 dài 1,160km, đường Lý Thường Kiệt tiếp giáp phường 2 (Tôn Đức Thắng đến Nguyễn Huệ) dài 0,915km (nằm trong địa bàn phường). Đường Tôn Đức Thắng tiếp giáp cầu cái Sao Thượng đến đường 30/4(30/4 đến Trần Hưng Đạo) dài 1,110 km (nằm trong địa bàn phường). Đường Ngô Thì Nhậm tiếp giáp phường 2 ( Lê Thị Riêng đến Nguyễn Huệ) dài 1,180km. Ngoài các tuyến đường chính, phường còn có các tuyến đường như: Võ Trường Toản, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Tre, Lê Văn Tám, Lê Thị Riêng, Trần Phú đều được trải nhựa thuận lợi cho người dân qua lại giao thương mua bán. Tuy nhiên còn một đường như: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Văn Bãnh và một số đường phụ, hẻm đang bắt đầu thi công vào năm 2016 đến nay. – Hệ thống giao thông đường thủy : Phường 1 nằm cặp sông Cao lãnh và sông cái sao thượng. Hệ thống cầu, cống được đầu tư đảm bảo nhu cầu đi lại của nhân dân. Hệ thống sông đi qua địa bàn phường như: sông cao lãnh dài 2,300km (từ cầu kinh cụt đến cầu Đúc), sông cái sao thượng dài 3,255km (từ cầu kinh cụt đến cầu Đình Trung).
Giới thiệu khái quát phường 1
677
Khái quát về quá trình lịch sử hình thành và phát triển Phường 2 Ủy ban nhân dân Phường 2 được thành lập vào ngày 02/7/1983 theo Quyết định số 60/QĐ-UBND của UBND Tỉnh về việc thành lập UBND 4 Phường thuộc thị xã Cao Lãnh. Được tách ra từ làng Mỹ Trà xưa, nên có những di tích gắn liền với hình thành vùng đất như: Bia tiền hiền Nguyễn Tú (ngày 12/01/2013 được di dời về khu nhà mộ công viên Tiền hiền Nguyễn Tú thuộc khóm Mỹ Phú, phường Mỹ Phú, thành phố Cao Lãnh) ; mộ ông Phan Văn Cử (ngày 10/4/2003, mộ Cụ được xếp hạng di tích lịch sử cấp Tỉnh, đến năm 2011 mộ Cụ được chuyển về Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc thuộc phường 4, thành phố Cao Lãnh); Đình Trung; Đền thờ ông, bà Đỗ Công Tường (được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2019) . – Địa điểm trụ sở: Số 72, đường Hùng Vương, Khóm 1, Phường 2, thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp. – Số điện thoại số 02773.851.553 – Địa chỉ trang tin điện tử: Vị trí địa lý Phường 2 là đơn vị trung tâm của thành phố Cao Lãnh , với diện tích tự nhiên 55,3 ha, dân số có 11.105 nhân khẩu, được chia làm 04 Khóm với 68 tổ nhân dân tự quản, giao thông thủy bộ được nâng cấp hoàn chỉnh, thuận lợi lưu thông. Phát triển thương mại – dịch vụ là chủ yếu, có chợ Cao Lãnh là đầu mối giao lưu mua bán giữa các huyện trong và ngoài Tỉnh, người dân đa số sống bằng nghề kinh doanh, một số lao động làm thuê hoặc công chức Nhà nước. – Phía Đông: giáp sông Cái Sao Thượng (tiếp giáp phường Mỹ Phú) – Phía Nam: giáp Phường 3 (năm 1983 giáp kênh thầy Khâm, nay là đường Lê Lợi, năm 1987 giáp cầu Xáng). – Phía Tây: giáp sông Cao Lãnh (Phường 4). – Phía Bắc: giáp Phường 1 (đường Nguyễn Huệ). Chức năng, nhiệm vụ Căn cứ Điều 63, Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân Phường: xây dựng, trình Hội đồng nhân dân Phường quyết định các nội dung quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 61 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân Phường; Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp, ủy quyền. Điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội 4.1. Kinh tế Thương mại – dịch vụ giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế. Tạo mọi điều kiện về thủ tục hành chính cho các tổ chức, cá nhân đến đầu tư, mua bán và mở rộng phạm vi kinh doanh trên địa bàn. Các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp tăng theo hàng năm, tổng số hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn hiện nay là 2.193 hộ, kinh doanh với nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng; các dịch vụ Kim hoàn, tín dụng Ngân hàng phát triển ngày càng mạnh, hiện nay có 12 chi nhánh Ngân hàng đang hoạt động trên địa bàn Phường 2. Ra mắt Doanh Tâm Hội quán với 35 thành viên, là hội quán duy nhất trong toàn Tỉnh về doanh nghiệp, giúp cho các thành viên và hộ kinh doanh trên địa bàn nắm chắc các chủ trương, chia sẻ kinh nghiệm, cùng nhau phát triển kinh tế gia đình. Phường 2 là đơn vị đầu tiên trong thành phố Cao Lãnh đã thành lập mô hình “Không gian Đại đoàn kết” , mô hình nhằm tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp trong Phường góp ý với cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và cán bộ, công chức của Phường. 4.2. Văn hóa – xã hội Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao phát triển mạnh, đã thành lập và hoạt động thường xuyên các câu lạc bộ, thu hút đông đảo người dân tham gia như câu lạc bộ văn nghệ quần chúng, cờ tướng, thể dục dưỡng sinh, xe đạp, bóng bàn, cờ vua, cầu lông, Lân sư Rồng Đỗ Công Tường, bóng chuyền hơi nữ. Trên địa bàn Phường có 02 điểm trường Tiểu học Chu Văn An và Lê Quý Đôn đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1. Tín ngưỡng chủ yếu của người dân nơi đây là thờ cúng ông bà tổ tiên, một số theo đạo Tin lành, đạo Phật, đạo Cao Đài, đạo Công giáo… trên địa bàn Phường có 01 Hội thánh Tin Lành, 01 Tịnh xá. Ngoài ra, còn là nơi đặt tượng đài vị thống lãnh binh Nguyễn Văn Linh một vị tướng tài ba, dũng cảm, giàu long yêu nước. Với lợi thế là địa bàn trung tâm, gắn liền với chợ Cao Lãnh và Đền thờ ông, bà Đỗ Công Tường. Thời gian qua, địa phương được Thành phố chọn, phối hợp tổ chức nhiều hoạt động như: Những ngày văn hóa Cao Lãnh – Hội An năm 2019, 2020; Lễ hội Xoài Cao Lãnh năm 2022; trải nghiệm và mua sắm vào dịp cuối tuần trên tuyến phố đi bộ kết hợp với thưởng thức ẩm thực chợ đêm Đèn Dầu, đặc biệt khánh thành cầu đi bộ Đỗ Công Tường nối 02 bờ Phường 2 và Phường 4,…góp phần tăng trưởng kinh tế, khai thác các tiềm năng đang có và phục vụ tốt nhu cầu vui chơi giải trí cho người dân trong và ngoài Tỉnh.
Giới thiệu khái quát Phường 2
941
ĐẶC ĐIỂM, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 1- Điều kiện tự nhiên a. Vị trí địa lý: Quảng Thái là xã đồng bằng, ven phá Tam Giang thuộc huyện Quảng Điền , tỉnh Thừa Thiên Huế . Diện tích tự nhiên: 1.804 ha, ranh giới hành chính được xác định như sau: + Phía Bắc giáp xã Điền Hoà, huyện Phong Điền. + Phía Tây giáp xã Phong Chương, huyện Phong Điền. + Phía Đông giáp xã Quảng Lợi . + Phía Nam giáp xã Phong Hiền, huyện Phong Điền. Toàn xã có 8 thôn: Lai Hà, Tây Hoàng, Trung Kiều, Trung Làng, Trằm Ngang, Nam Giảng, Đông Hồ, Đông Cao. Dân số giữa các thôn tương đối đồng đều. b. Về địa hình: Quảng Thái là xã có địa hình tương đối thấp và bằng phẳng, nhìn chung có thuận lợi cho việc canh tác, sản xuất lúa nước và cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên, hàng năm có một số vùng thấp thường xuyên phải chịu ngập úng vào mùa mưa, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, xói lỡ làm hư hỏng một số tuyến đường giao thông, nhất là ở khu vực có khe suối và trạng cát. c. Về khí hậu: Quảng Thái nằm trong vùng đồng bằng ven biển miền Trung nên thời tiết tương đối khắc nghiệt, khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt: Mùa khô; nắng nóng bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8 và mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 02 năm sau. d. Nhiệt độ: Mùa mưa chịu ảnh hưởng của các đợt gió mùa Đông bắc, trời nhiều mưa và lạnh kèm theo các đợt lụt. Mùa nắng chịu ảnh hưởng của gió Lào khô và oi bức, do vậy đã tác động không nhỏ vào thời vụ sản xuất lúa. * Mật độ nắng bình quân trên địa bàn xã Quảng Thái khoảng 1.952 giờ/năm. Tuy nhiên có sự chênh lệch giữa hai mùa khoảng 100 – 120 giờ chiếu sáng. Số giờ chiếu sáng bình quân mùa nắng cao hơn mùa mưa từ 3-4 giờ. * Lượng mưa trung bình trên địa bàn xã hàng năm khoảng 2.955mm, năm cao nhất lên tới 4.927mm, năm thấp nhất khoảng 1.850mm. Số ngày mưa bình quân/năm khoảng 160 ngày, chiếm 43% số ngày trong năm. Mưa tập trung nhiều vào đầu tháng 9 đến tháng 12 hàng năm và thường xảy ra lũ lụt do lượng mưa những tháng này thường chiếm từ 70-75% lượng mưa của cả năm. 2- Tài nguyên : a- Đất đai: Diện tích đất tự nhiên: 1.804 ha. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp: 896,02 ha, chiếm 49,6% tổng diện tích đất tự nhiên. Đất phi nông nghiệp: 771,68 ha, chiếm 42,7%, đất chưa sử dụng: 136,45 ha, chiếm 7,5%. b- Rừng: Quảng Thái là xã đồng bằng, không có rừng tự nhiên mà chủ yếu là trồng cây tập trung và phân tán của các thôn và các trang trại. Diện tích 150 ha. c- Mặt nước: Diện tích mặt nước: 284 ha. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản 17,8 ha, chủ yếu là trên phá Tam Giang và một số ao hồ. d- Khoáng sản: Diện tích của xã chủ yếu là đất nông nghiệp, diện tích mặt nước sông, đầm để nuôi trồng thuỷ sản và phục vụ dân sinh, khoáng sản có trữ lượng than bùn khá lớn.
Giới thiệu khái quát xã Quảng Thái
543
Điều kiện tự nhiên xã Quảng Lợi 1.1.1. Địa hình Xã Quảng Lợi có địa hình được phân theo các vùng và có dạng như sau: Phía Nam của xã là vùng cát, có tầng đất dày, kết cấu rời rạc, nghèo dinh dưỡng, hàm lượng NPK và mùn trong đất cũng như độ PH thấp. Thấp dần về phía Bắc giáp ranh giới với Phá Tam Giang; Đất có dạng bồi tụ trên nền cát, tầng đất tương đối dày, thành phần thịt nặng, cát pha, úng về mùa mưa, khô hạn về mùa khô. 1.1.2. Khí hậu Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, được chia làm 2 mùa rõ rệt. a ) Nhiệt độ: Về mùa khô chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam nên khô nóng; về mùa lạnh do ảnh hưởng của gió Đông Bắc nên mưa nhiều, trời lạnh. – Nhiệt độ trung bình hàng năm: 25,6 0 C. – Nhiệt độ trung bình năm cao nhất : 26,4 0 C. – Nhiệt độ trung bình năm thấp nhất 24,8 0 C. – Nhiệt độ cao tuyệt đối : 40,8 0 C. – Nhiệt độ thấp tuyệt đối : 11 0 C. b ) Nắng: Từ tháng 3 đến tháng 8. Nhiệt độ trung bình từ 28-29 0 C. Chiếm khoảng 22%. Lượng mưa cả năm, các tháng khô hạn nhất là tháng 5,6,7. Mùa này thường nắng nóng, hạn hán và có gió Tây Nam (gió Lào), về mùa hè hay bị nước mặn xâm nhập. c ) Mưa: Từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau. Nhiệt độ trung bình 20-21 0 C, mùa này thường có lượng mưa lớn tập trung nên dễ gây ngập lụt và kèm theo gió bão, chiếm 78% lượng mưa cả năm. Hai tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 10 và tháng 11, với lượng mưa trung bình là 580 – 796 mm / tháng. d ) Độ ẩm, bốc hơi: Lượng bốc hơi trong năm trung bình là 980 mm, trong đó thời kỳ từ tháng 3 đến tháng 8 lượng bốc hơi lớn hơn lượng mưa khiến cây trồng dễ bị khô hạn vào đầu vụ hè thu. Ngược lại cuối vụ hè thu trở nên bấp bênh, kém ổn định do hệ thống thuỷ lợi chưa được đảm bảo. Độ ẩm không khí bình quân cả năm 83%, thời kỳ độ ẩm cao từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau (85-88%). Đây là thời kỳ có độ ẩm thuận lợi nhất cho canh tác, do vậy trong thời kỳ này (vụ Đông Xuân) khả năng thâm canh tương đối đảm bảo cho năng suất cao, ổn định và hầu như không bị ảnh hưởng của các yếu tố khô hạn và mưa bão. e ) Gió bão: Bão lụt thường xuất hiện trong mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 10 đặc biệt hàng năm xuất hiện lũ tiểu mãn trong khoảng tháng 5, tháng 6, cơn lụt này tuy không lớn nhưng gây thiệt hại đáng kể vì rơi trúng vào mùa vụ của người nông dân và người nuôi trồng thuỷ sản. 1.1.3. Thuỷ văn Xã Quảng Lợi là xã có vùng đầm phá khá lớn nên các mương rãnh, khe nước trên địa bàn đều đổ vào phá Tam Giang, ảnh hưởng về thuỷ văn của xã, trong đó xã chịu chi phối nhiều nhất bởi hạ lưu sông Ô Lâu khi mùa mưa lũ về. Sông Ô Lâu bắt nguồn từ núi Thượng Hùng có độ cao 600 m đổ vào phía Bắc phá Tam Giang để ra của Thuận An với diện tích lưu vực khoảng 752 km 2 . Hàng năm sông Ô Lâu đổ vào phá Tam Giang vào khoảng 550 tỉ m 3 nước. 1.1.4. Tài nguyên thiên nhiên a ) Đất đai: Xã Quảng Lợi có diện tích đất tự nhiên 3288.25ha. Gồm loại đất chính sau: Bảng 1.1. Bảng thống kê đất tự nhiên toàn xã STT LOẠI ĐẤT DIỆN TÍCH (ha) TỶ LỆ (%) 1 1433.68 43.60 2 1654.29 50.31 3 51.64 1.57 4 148.64 4.52 3288.25 100.00 b ) Mặt nước : Tài nguyên nước của xã Quảng Lợi bao gồm hai nguồn nước chính: nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Diện tích mặt nước 1124.23ha trong đó diện tích đang nuôi trồng thủy sản là 61.49ha. – Nguồn nước mặt: Chủ yếu từ sông Ô Lâu, nhưng về mùa hè thường bị mặn do ảnh hưởng của vùng ven phá tam giang, chỉ có các hồ chứa nước như hồ Đồng Bào, Thủy Lập cung cấp nước tưới cho sản xuất, nước sinh hoạt cho nhân dân trong vùng. – Nguồn nước ngầm: Theo kết quả thăm dò địa chất thuỷ văn cho thấy tầng nước ngầm của xã tương đối phong phú, có đều quanh năm và phân bố trên diện rộng là nguồn nước cung cấp cho nhu cầu ăn uống, sinh hoạt, chủ yếu của người dân, mực nước sâu từ 1 – 4 m. Tương đối thuận lợi cho việc khai thác khoan giếng nước, về mùa hè chỉ khoan xuống 1,5 đến 1,7 m đã có nước sinh hoạt. Do ảnh hưởng của các nguồn thải từ khu dân cư, từ chăn nuôi và các chất hoá học sử dụng trong nông nghiệp đã làm cho chất lượng nước ở một số vùng trong xã bị ô nhiễm và kém chất lượng, ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ của người dân trong vùng. Hiện nay nguồn nước ngầm chủ yếu để phục vụ cho sản xuất nhỏ và các sinh hoạt khác. Nhìn chung tài nguyên nước của xã rất phong phú và phân bố trên diện rộng, khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế – xã hội của xã. Song việc khai thác còn khá tuỳ tiện, không hợp lý dẫn đến tình trạng lãng phí và gây ô nhiễm nguồn nước. Chính vì vậy trong tương lai cần có các biện pháp khai thác và sử dụng nguồn nước hợp lý, tiết kiệm hơn, cần chú trọng nâng cao chất lượng nước sinh hoạt để đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu sử dụng của người dân. c) Tài nguyên đầm phá: Quảng Lợi có gần 9 km chiều dài bãi ngang hệ thống đầm phá rộng do đó có nhiều chủng loại hải sản, nhiều loại có giá trị kinh tế cao như: tôm, cá nâu, cá dìa… Phá Tam Giang nằm trong hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, phá có dạng địa hình thuỷ vực sông như một dòng chảy hẹp kéo dài với nhiều loài sinh vật thuỷ sinh sinh sống kéo theo hệ sinh vật ở đây khá đa dạng và phong phú. Phía Tây chịu ảnh hưởng của sông Ô Lâu, phía Nam chịu ảnh hưởng các nhánh sông của sông Bồ đổ về, vùng phá thông với cửa biển của Thuận An. Phá Tam Giang có khả năng nuôi trồng và đánh bắt nhiều loại thuỷ sản có giá trị như: tôm sú, cua, cá Dìa, cá Nâu, cá Hồng, cá Mú…. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đã tạo ra công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân. Tuy nhiên nguồn lợi tự nhiên này đang bị khai thác quá mức dẫn đến suy giảm mạnh và có khả năng cạn kiệt. d) Tài nguyên khoáng sản: Titan với diện tích khoảng 130 ha. e) Tài nguyên nhân văn: Là một xã có quy mô diện tích vào loại lớn của huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Lợi có một nền văn hoá tương đối lâu đời với nhiều truyền thống và phong tục tập quán cần được phát huy để góp phần vào sự phát triển chung của toàn xã, huyện. Nhân dân Quảng Lợi có nền văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, uống nước nhớ nguồn; cần cù và có truyền thống cách mạng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong nhân dân, nêu cao tinh thần đoàn kết yêu thương cộng đồng. 1.1.5. Nhận xét đánh giá điều kiện tự nhiên Quảng Lợi là một xã có nền sản xuất chủ yếu là nông nghiệp. Tại khu vực nông thôn máy móc cơ giới phục vụ nông nghiệp chưa phổ biến, chưa có khu công nghiệp và các nhà máy, các cụm, điểm TTCN nên nhìn chung chất lượng không khí ở Quảng Lợi còn khá tốt. Là vùng ven phá Tam Giang, hệ sinh thái đầm phá đóng vai trò hết sức quan trọng cả về mặt kinh tế – xã hội lẫn về mặt môi trường. Ngập lụt kéo theo sự ngọt hóa về mùa mưa và nhiễm mặn vào mùa khô là vấn đề cấp bách nhất đối với môi trường đầm phá. Ngoài ra các hoạt động sản xuất nông nghiệp, mà đặc biệt là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tùy tiện đã phần nào tác động xấu đến chất lượng môi trường đất cũng như môi trường nước. * Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường: Có diện tích mặt nước đầm phá khá lớn là nơi cư trú và phát triển của nhiều loại tôm, cá,… rất thuận lợi cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản đồng thời tạo điều kiện cho ngư nghiệp và công nghiệp chế biến hải sản phát triển. Nằm trong vùng ảnh hưởng của lưu vực Sông Bồ và sông Ô Lâu, tiếp giáp phá Tam Giang, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ đầm phá nên hàng năm thường xuyên bị thiên tai đe dọa. Nằm trong vùng thấp trũng, mưa lũ dễ ngập, mùa hè khô hạn, việc xây dựng các công trình hạ tầng: giao thông, công trình thuỷ lợi gặp nhiều khó khăn. Thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn hán khô nóng vào mùa hè, mưa lớn lũ lụt vào mùa mưa gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội và đời sống của nhân dân.
Giới thiệu khái quát xã Quảng Lợi
1,601
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN XÃ Gồm: Với sự lãnh, chỉ đạo của cấp trên, sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước, sự nỗ lực vươn lên của toàn thể cán bộ và nhân dân trong xã, các lĩnh vực, phong trào ở địa phương đã được xây dựng và phát triển. Người dân sống bằng nghề nông nghiệp với diện tích đất 665,71 ha, chiếm 50% tổng diện tích đất tự nhiên. Đất phi nông nghiệp: 510,14 ha, chiếm 48%, đất chưa sử dụng: 13,76 ha, chiếm 1,7%. Diện tích mặt nước và sông suối chuyên dùng: 95,71 ha. Ngoài ra còn tận dụng mặt nước sông Bồ để nuôi cá lồng. Quảng Phú là xã nằm ở vùng ven sông Bồ, người dân tích cực học tập ứng dụng các tiến bộ KH-KT về sản xuất nông nghiệp, TTCN luôn sáng tạo. Hạ tầng cơ sở tương đối đồng bộ. Hoạt động các ngành nghề trong nông thôn, các loại hình dịch vụ phát triển, chuyển đổi cơ cấu cây trồng chuyển đổi có hiệu quả kinh tế, tốc độ phát triển kinh tế khá, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, quốc phòng vững mạnh…Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và duy trì thành công các tiêu chí Nông thôn mới. Các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; Công tác giám sát của HĐND xã được thực hiện đảm bảo, góp phần nâng cao chất lượng ban hành các nghị quyết. UBND xã từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành. Mặt trận, các đoàn thể không ngừng đổi mới phương thức hoạt động thực hiện tốt vai trò vận động quần chúng thu hút đoàn viên, hội viên tham gia. Hàng năm, các tổ chức đều đạt trong sạch vững mạnh, tiên tiến xuất sắc, được đánh giá có phong trào khá của huyện. Được sự quan tâm của cấp trên, sự chỉ đạo sát sao và hỗ trợ kịp thời của Ban chỉ đạo tỉnh, huyện; với dự đoàn kết thống nhất, quyết tâm cao, cấp ủy Đảng đã tập trung lãnh chỉ đạo cùng với chính quyền đã có nhiều cách làm sáng tạo, khơi dậy được nội lực trong nhân dân, thực hiện thành công Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Giới thiệu khái quát xã Quảng Phú
404
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 1. Vị trí địa lý: Quảng công là một xã ven biển và đầm phá, nằm phía Đông bắc của huyện Quảng Điền , có đường Quốc lộ 49 b đi qua. Phía Bắc giáp xã Quảng Ngạn. Phía Đông giáp Biển Đông. Phía Tây giáp Phá Tam Giang. Phía Nam giáp xã Hải Dương, thị xã Hương Trà . 2. Diện tích tự nhiên: Tổng diện tích đất tự nhiên là 1.252,28 ha. Toàn xã có 09 thôn, 70% lao động tham gia nông nghiệp (trồng trọt, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản) Dân số giữa các thôn không đồng đều, có 06 thôn dân số trên 500 khẩu, có 02 thôn dân số từ 307 – 468 khẩu và còn lại 01 thôn dân số 176 khẩu. 3. Đặc điểm địa hình, khí hậu: Xã có địa hình tương đối bằng phẳng, thấp từ Tây sang Đông, phía Đông giáp với Biển Đông Hải, vùng đầm phá làm cho một phần diện tích bị nhiễm mặn và đây cũng là điều kiện để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Khí hậu là một yếu tố khách quan ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng và phát triển của hệ thống cây trồng vật nuôi, là nhân tố quyết định đến năng suất và phẩm chất của nông sản. Khí hậu của xã Quảng Công nằm trong vùng khí hậu Bắc Trung Bộ, chịu sự chi phối chung của khí hậu nội chí tuyến nhiệt đới gió mùa có ảnh hưởng của khí hậu đại dương vì vậy những đặc trưng chủ yếu về khí hậu thời tiết là: Nhiệt độ cao đều quanh năm (25 0 C – 38,9 0 C), lượng mưa biến động theo mùa khá rõ rệt (mùa mưa và mùa khô) và chịu ảnh hưởng nhiều của bão. Mùa đông đến muộn và kết thúc sớm từ cuối tháng 11 âm lịch đến tháng 1 năm sau. Tuy nhiên, vẫn chịu ảnh hưởng lớn của gió mùa Đông Bắc, đặc biệt gió mùa Tây Nam thổi vào mùa hạ khô nóng, mưa lũ lớn kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11, đặc biệt là lũ quét sớm vào tháng 5 (còn gọi là lũ Tiểu Mãn). Nhiệt độ trung bình năm khoảng 25 o C. Nhiệt độ cao nhất vào các tháng 5,6,7,8. Nhiệt độ cao nhất cao năm: 40,1 o C . Nhiệt độ thấp nhất vào các tháng 12 và tháng 1, tháng 2 năm sau. Nhiệt độ thấp nhất: 10,2 o C
Giới thiệu khái quát xã Quảng Công
405
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 1. Vị trí địa lý: Quảng Ngạn được hình thành từ năm 1983 sau khi phân chia địa giới hành chính xã Quảng Ngạn củ thành 02 xã Quảng Ngạn và Quảng Công. Xã Quảng Ngạn được chia thành 03 vùng khác nhau gồm vùng nông nghiệp, vùng đầm phá và vùng biển. – Phía Tây Bắc giáp với xã Điền Hải và xã Phong Hải, huyện Phong Điền – Phía Tây Nam giáp với phá Tam Giang( xã Quảng Lợi ) – Phía Đông Bắc giáp với biển đông – Phía Đông Nam giáp với xã Quảng Công 2. Diện tích tự nhiên: Tổng diện tích tự nhiên xã Quảng Ngạn là 1.110,03 ha. Trong đó: – Diện tích đất Nông nghiệp: 422.22ha – Diện tích đất phi nông nghiệp: 606.74ha – Diện tích đất chưa sử dụng: 81.08ha 3. Đặc điểm địa hình: Xã Quảng Ngạn có địa hình tương đối dốc do động cát chạy dọc giữa xã và chia xã thành 03 vùng khác nhau: vùng biển, vùng nông nghiệp và đầm phá. Toàn xã có 08 thôn gồm: 03 thôn vùng biển, 03 thôn vùng nông nghiệp và 02 thôn vùng đầm phá với tổng dân số 7237 người. 4. Khí hậu: Là một xã thuộc vùng đồng bằng ven biển miền trung, nên cso khí hậu giáo mùa được chia thành 02 mùa rõ rệt , mùa mưa và mùa khô. Mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, chịu ảnh hưởng gió Tây nam nên không khí khô nóng, oi bức. Mùa mưa từ tháng 9 năm trước đến tháng giêng năm sau. Tháng 9-10 thường kéo dài kèm theo lũ lụt. Tháng 11 mưa giai dẵng, nhiệt độ trung bình khoảng 25oC. Trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Quảng Ngạn.
Giới thiệu khái quát xã Quảng Ngạn
282
Phường 4 hiện nay nguyên là một phần của xã Hòa An, nằm trên cù lao Trâu thuộc tổng An Tịnh ngày xưa, là vùng đất cồn cao ráo, do phù sa sông Tiền bồi đấp, cụ thể là do các rạch chính: Cái Tôm, Cái Sâu, Ba Khía, Cái Da, Xếp Lá… dẫn nước mang phù sa len lỏi khắp ruộng đồng vào mùa nước lên, nên độ màu mỡ cao, thuận lợi cho việc làm vườn và canh tác lúa. Nơi đây xưa kia là những vườn mận, vườn xoài, rẫy thuốc lá… nổi tiếng trong vùng; vẫn còn vang đến nay “ Mận Hòa An”, “Thuốc lá xiêm mẵn Hòa An”… Nếu đi từ thành phố Hồ Chí Minh xuống du khách phải qua Cầu Đúc bắc qua sông Cao Lãnh là đến Phường 4; còn nếu từ Sa Đéc hay An Giang qua thì khách phải qua bến phà Cao Lãnh xuyên qua Phường 6, mới đến. Ngày 23 tháng 2 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 13-HĐBT về việc chia huyện Tam Nông thành hai huyện và thành lập thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp. Theo quyết định này Phường 4 được thành lập từ việc tách ra từ ấp Hòa Hiệp, ấp Hòa Lợi xã Hoà An. Lúc bấy giờ Phường 4 có tổng diện tích tự nhiên 61 ha. Đến năm 1986, nhận thêm một phần của các ấp Hòa Lạc và Hòa Khánh của xã Hòa An diện tích được nâng lên thành 190,70 ha. Hiện nay, Phường 4 là một trong tám phường của thành phố Cao Lãnh , vị trí tứ cận như sau: – Phía Đông Bắc giáp sông Cao Lãnh (tiếp giáp Phường 1 , Phường 2 ); – Phía Đông Nam giáp rạch Cái Tôm (Phường 6); – Phía Tây Bắc giáp phường Hòa Thuận và xã Hòa An; – Phía Tây Nam giáp rạch Cái Tôm (Phường 6 và xã Hòa An).
Giới thiệu khái quát phường 4
313
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ PHƯỜNG MỸ PHÚ I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHƯỜNG MỸ PHÚ Thời vua Gia Long, ông Nguyễn Tú người đất Qui Nhơn vào cư ngụ ở xứ này quy tụ dân lưu tán đến nơi đất hoang chưa người ở, khai phá lập nên một thôn, đặt tên là Thôn Mỹ Trà, trải qua niên hiệu Minh Mạng thứ 21 (1840), năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), năm Tự Đức thứ 29 (1876), cũng là xã Mỹ Trà sau này. Trong lịch sử đấu tranh, toàn dân Mỹ Trà đã anh dũng chống giặc, tiêu biểu là trận Mỹ Trà ngày 22 tháng 7 năm 1865 của nghĩa quân Thiên Hộ Dương; các phong trào Đông Du, Minh Tân. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tại Mỹ Trà, chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập vào năm 1930. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ xã, Nhân dân Mỹ Trà tiếp tục góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thời kỳ chống Pháp, trận Mỹ Trà của tiểu đoàn 311 là một trong những trận chiến đấu tiêu biểu nhất. Ngày 28 tháng 10 năm 1954 tại nhà việc Mỹ Trà đã chứng kiến lễ bàn giao lịch sử của hai phái đoàn Liên hiệp Pháp và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Phía Quân đội Nhân dân Việt Nam là đồng chí Tô Ký đại diện và sự có mặt của Tiểu đoàn 311. Phía Liên hiệp Pháp có Đại tá Le Duque. Cuộc họp thực tế là một cuộc mít tinh có cả trăm người dự. Trong bàn giao bên ta buộc Liên hiệp Pháp hứa bảo vệ hai công trình Đài chiến sĩ và mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sanh Huy, đồng thời “Giải quyết các vấn đề bằng biện pháp hòa bình”. Kết thúc, đại diện Quân đội Nhân dân Việt Nam nói rõ: “Chúng tôi giao vùng quản lý trước đây cho nhà cầm quyền Pháp”. Đại tá Le Duque nói bằng tiếng Pháp: “Chúc hòa bình và thịnh vượng”. Năm 1961, trận đánh bắt sống Đại úy Nguyễn Lương Tri – Phó Tỉnh trưởng kiêm Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Kiến Phong tại ngã ba Rạch Vông – Bà Mụ. Thời kháng chiến chống Mỹ, Mỹ Trà có căn cứ kháng chiến của Ban cán sự Thị xã Ủy Cao Lãnh, nay thuộc ấp 2, xã Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh. Trên cơ sở những chiến tích cách mạng đáng tự hào, năm 1998, xã Mỹ Trà được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân. Xã Mỹ Trà nổi tiếng với làng nghề đan mê bồ truyền thống và từng là trung tâm phủ lỵ, quận lỵ, tỉnh lỵ, có vị trí đặc biệt quan trọng về hành chính và thương mại. Từ năm 1975 đến 2005, hòa chung không khí phát triển của thị xã Cao Lãnh, xã Mỹ Trà không những phục hồi sau những thiệt hại trong chiến tranh mà còn có những bước phát triển. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp và xây dựng mới, đặc biệt là việc mở rộng, xây dựng mới các tuyến đường giao thông, các mạng lưới điện,… đã tạo điều kiện để kinh tế xã Mỹ Trà phát triển hơn nữa, đời sống Nhân dân được cải thiện. Vị trí, vai trò của Đảng và chính quyền ngày càng được củng cố. Đây là điều kiện tiền đề cho việc hình thành nên phường Mỹ Phú ngày nay. Thực hiện Nghị định 194/2004/NĐ-CP ngày 30 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về việc thành lập các phường thuộc thị xã Cao Lãnh, Sa Đéc và mở rộng thị trấn Hồng Ngự, huyện Hồng Ngự , tỉnh Đồng Tháp , thành lập phường Mỹ Phú thuộc thị xã Cao Lãnh trên cơ sở 263,70 ha diện tích tự nhiên và 7.490 nhân khẩu của xã Mỹ Trà. Đến ngày 25 tháng 04 năm 2005 phường Mỹ Phú chính thức được thành lập. II. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HOÁ – XÃ HỘI PHƯỜNG MỸ PHÚ 1. Điều kiện tự nhiên Địa giới hành chính của phường Mỹ Phú khi được tách ra: phía Đông tiếp giáp xã An Bình, huyện Cao Lãnh ; phía Tây giáp Phường 1 , Phường 2 ; phía Nam giáp Phường 3 ; phía Bắc giáp xã Mỹ Trà. Diện tích tự nhiên của phường Mỹ Phú là 267,68 ha, gồm 5 khóm: khóm Mỹ Thượng, khóm Mỹ Phú, khóm Mỹ Trung, khóm Mỹ Tây, khóm Mỹ Thuận. Địa hình phường Mỹ Phú tương đối bằng phẳng, phần lớn đã ổn định, cao độ san nền bình quân thấp, ít tốn kém, thích hợp cho việc phát triển đô thị. Phường Mỹ Phú nằm trên tuyến Quốc lộ 30, cửa vào nội ô thành phố Cao Lãnh, nằm bên cạnh sông Tiền, ngoài ra còn có nhiều sông rạch tự nhiên khác. Do đó, phường chịu tác động của chế độ thủy triều sông Tiền. Hàng năm, chịu ảnh hưởng của lũ tràn qua Đồng Tháp Mười, đặc biệt là các đỉnh lũ theo chu kỳ. 2. Điều kiện kinh tế Về nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp toàn Phường là 20 ha, năng suất bình quân đạt 4,5 tấn/ha. Về tiểu thủ công nghiệp, phường vẫn duy trì hơn 30 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, chủ yếu là đan mê bồ và đan lục bình xuất khẩu. Thương mại, dịch vụ được duy trì và phát triển với trên 300 cơ sở, tập trung chủ yếu là dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ, giải trí. Đặc biệt là hoạt động của Chợ Mỹ Trà, Khách sạn Hòa Bình, Nhà hàng Phong Lan 2, Khu du lịch Mỹ Trà đã góp phần rất lớn vào phát triển thương mại, dịch vụ của Phường. Các công trình hạ tầng kỹ thuật gồm giao thông đường nhựa chiếm 50%, hệ thống cung cấp nước sạch sinh hoạt được lắp đặt; hệ thống điện chiếu sáng đã hoàn thiện đến tới từng hộ dân. 3. Điều kiện văn hoá – xã hội: Năm 2005, tổng số hộ dân của Phường là 1.762 hộ với 7.011 nhân khẩu, mật độ dân số là 2.62 người/km 2 . Thành phần dân tộc chủ yếu bao gồm dân tộc Kinh, Khơ-me, Pa-ko, Hoa, trong đó chiếm đa số là dân tộc Kinh (trên 90%). Lao động chính từ 3500 – 4000 người, chủ yếu là lao động phổ thông, dịch vụ và công viên chức Nhà nước. Đời sống Nhân dân tương đối ổn định. Nhân dân phường Mỹ Phú có 2 tôn giáo đó là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, còn lại chủ yếu là thờ cúng ông bà, tổ tiên. Trên địa bàn phường Mỹ Phú còn có chùa Linh Bửu, miếu Trăm quan cựu thần, đáp ứng được các nhu cầu tín ngưỡng của người dân. Nhìn chung, người dân tham gia tôn giáo trên địa bàn phường Mỹ Phú có sự đóng góp, hỗ trợ cùng chính quyền, đoàn thể thực hiện tốt công tác đoàn kết xây dựng khu dân cư, góp phần cho sự phát triển của địa phương. Phường Mỹ Phú không chỉ có những công trình trọng điểm của Phường như: trường Mầm non Mỹ Phú, trường Tiểu học Mỹ Phú, trụ sở Ủy ban Nhân dân phường Mỹ Phú, trụ sở Công an phường Mỹ Phú, trạm Y tế phường Mỹ Phú, Bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ và những địa danh có từ rất lâu như Rạch Bằng Lăng, Rạch Gia, Rạch Tắc Thầy Cai, Cống (Rạch) Chín Đúng, Rạch Bà Tồn,…mà còn là nơi đặt những công trình trọng điểm của Tỉnh và Thành phố như: Trường trung học phổ thông chuyên Nguyễn Quang Diêu, Trường trung cấp nghề giao thông vận tải, Sở Giao thông vận tải, Tòa án nhân dân Tỉnh, các cơ quan y tế (Trung tâm Y Tế Dự Phòng,Trung tâm Phòng Chống HIV/AIDS, Trung tâm Da Liễu,…) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội Tỉnh, Phòng Cảnh Sát phòng cháy chữa cháy và cứu hộ cứu nạn ,Công An tỉnh Đồng Tháp, Trung tâm Thể dục – Thể thao Tỉnh,… Ngoài ra, phường Mỹ Phú có 2 công trình di tích cấp Tỉnh như nghĩa trang liệt sĩ Tỉnh và khu di tích lịch sử – văn hóa Tiền hiền Nguyễn Tú.
Giới thiệu khái quát phường Mỹ Phú
1,410