vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Năm 2023 được dự báo là một năm sôi động đối với các nhà thiên văn học, khi đón nhận sự kiện có một không hai trong đời. Siêu kính viễn vọng James Webb công bố ảnh độc: vườn ươm sao, thiên hà nhảy múa (Ảnh: NASA). Đó là một sao chổi sẽ bay qua gần Trái Đất vào cuối tháng 1. Ngoài sự kiện của tháng 1, chúng ta còn có nhiều hoạt động nữa trong năm, nổi bật là những dự án như sau. Với thành công của dự án Artemis I trong năm 2022, chúng ta đang chuẩn bị và mong chờ những kết quả thú vị của Artemis tiếp theo. Năm nay, Chương trình Artemis của NASA sẽ lựa chọn từ 18 nhà du hành vũ trụ những người phù hợp nhất để thực hiện chuyến bay có người lái lên Mặt Trăng vào năm 2024. Sẽ chỉ có 4 nhà du hành được lựa chọn, họ sẽ đảm trách nhiệm vụ trong dự án Artemis II với mục tiêu bay vòng quanh Mặt Trăng. Theo dự kiến, NASA sẽ công bố bốn nhà du hành này vào đầu năm nay. Đây có thể chưa phải là dự án vũ trụ lớn nhất của năm, nhưng chắc chắn là một sự kiện vô cùng thú vị. Mặc dù chưa tiết lộ nhiều về những chuyến bay có người lái lên Mặt Trăng, nhưng NASA đã có kế hoạch về một số chuyến bay chở máy móc, thiết bị trong năm nay. Chương trình Vận tải thương mại lên Mặt Trăng (CLPS) sẽ đưa một tàu đổ bộ cùng với 11 thiết bị khoa học và khám phá lên Mặt Trăng vào đầu năm 2023. Các máy móc này sẽ được đặt ở Lacus Mortis, một trong những hố va chạm lớn nhất ở nửa sáng của Mặt Trăng. Hơn thế nữa, một số dự án không gian lớn nhất trong năm 2023 sẽ nhằm khám phá sao Mộc và các mặt trăng của sao Mộc. Dự án Khám phá những Mặt Trăng băng giá của sao Mộc (JUICE) sẽ được kích hoạt triển khai trong khoảng ngày 5 đến 25/4 dưới sự chủ trì của Cơ quan Vũ trụ châu Âu và kéo dài trong 3 năm. Khá tương đồng với dự án tàu vũ trụ JUNO của NASA, dự án JUICE chắc chắn sẽ thu thập được khối lượng dữ liệu vô cùng lớn về hành tinh khí khổng lồ trong Hệ mặt trời và về vô số những vệ tinh quay quanh hành tinh này. Và chắc chắn danh sách những dự án khám phá vũ trụ trong năm 2023 thu thập được cho đến nay sẽ còn được bổ sung. Hãng Boeing cũng sẽ có một chuyến bay thử đầu tiên đưa người lên Trạm Vũ trụ quốc tế (ISS), hãng SpaceX sẽ phóng những con tàu vũ trụ thương mại đầu tiên đưa con người lên sao Hỏa. Và chúng ta cũng sẽ thu thập được những mẫu vật mới từ các tiểu hành tinh đưa về Trái Đất. Nói rằng năm 2023 là một năm đặc biệt trong công cuộc khám phá vũ trụ sẽ là chưa đủ. NASA cũng đang lên kế hoạch đưa tàu vũ trụ đi nghiên cứu các thế giới có tiềm năng chứa nhiều kim loại, chuyến bay thử đầu tiên của máy bay siêu thanh X-59 và kính viễn vọng không gian James Webb sẽ hoạt động hết chức năng là những gì chúng ta chờ đợi. Đây là những sự kiện đột phá của khoa học không gian và vũ trụ trong năm nay.
2023 is forecast to be an exciting year for astronomers, receiving a once-in-a-lifetime event. James Webb super telescope releases unique photos: star nursery, dancing galaxy (Photo: NASA). It's a comet that will pass close by Earth at the end of January. In addition to January's events, we also have many other activities throughout the year, notably the following projects. With the success of the Artemis I project in 2022, we are preparing and looking forward to the exciting results of the next Artemis. This year, NASA's Artemis Program will select from 18 astronauts the most suitable person to conduct a manned flight to the Moon in 2024. There will only be 4 astronauts selected, they will be responsible for the Artemis II project with the goal of flying around the Moon. As expected, NASA will announce these four astronauts early this year. This may not be the biggest space project of the year, but it is certainly an extremely interesting event. Although not much has been revealed about manned flights to the Moon, NASA has plans for a number of flights carrying machinery and equipment this year. The Commercial Lunar Transport Program (CLPS) will send a lander with 11 scientific and exploration instruments to the Moon in early 2023. The machines will be located at Lacus Mortis, one of the Largest impact crater on the bright side of the Moon. What's more, some of the biggest space projects of 2023 will aim to explore Jupiter and its moons. The Jupiter Icy Moons Exploration (JUICE) project will be activated between April 5 and 25 under the leadership of the European Space Agency and last for 3 years. Quite similar to NASA's JUNO spacecraft project, the JUICE project will certainly collect an extremely large amount of data about the giant gas planet in the Solar System and about the countless satellites orbiting the planet. This. And certainly the list of space exploration projects in 2023 collected so far will be added. Boeing will also have the first test flight to send people to the International Space Station (ISS), SpaceX will launch the first commercial spacecraft to take people to Mars. And we will also collect new samples from asteroids and bring them back to Earth. To say that 2023 is a special year in space exploration would be an understatement. NASA is also planning to send spacecraft to study worlds that potentially contain many metals, the first test flight of the X-59 supersonic aircraft and the James Webb space telescope will be fully operational. The ability is what we wait for. These are groundbreaking events in space and space science this year.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858 ) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, người làng Uy Viễn, H.Nghi Xuân , tỉnh Hà Tĩnh . Vốn là người thông minh, hiếu học, song sau nhiều phen lận đận thí trường, đến năm 41 tuổi ông mới đỗ Giải nguyên khoa thi Hương năm Kỷ Mão (1819) và được bổ đi làm quan trong năm ấy. Ông là người giỏi việc binh, một tài năng văn học, và là một quan lại có tài kinh bang tế thế. Đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Chức vụ đầu tiên của Nguyễn Công Trứ là Biên tu ở sử quán rồi lần lượt đảm nhận nhiều chức quan khác nhau. Ông lận đận quan trường, bị cách chức 5 lần nhưng rồi ông lại được phục chức, trọng dụng. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ thăng Hữu Tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ. Năm 1832, ông được bổ chức Bố chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An. Năm 1840 giữ chức Tả Đô Ngự sử viện Đô sát, kiêm Tham tri Bộ binh, Tán lý cơ vụ đồn trấn Tây. Năm 1845 làm chủ sự Bộ hình, năm 1846 làm Quyền Án sát Quảng Ngãi, lại đổi ra làm Phủ thừa phủ Thừa Thiên, đến năm 1847 thăng làm Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, Nguyễn Công Trứ xin về hưu. Năm 80 tuổi, ông dâng sớ xin cầm quân đánh Pháp xâm lược, nhưng vì tuổi cao nên không được chấp nhận, rồi cùng năm đó, ông mất. Đề cập đến 3 nhân vật được coi là rường cột của triều đình, vua Minh Mạng từng nói: “Hà Tôn Quyền giỏi mưu kế, Hoàng Tế Mỹ giỏi văn chương, Nguyễn Công Trứ giỏi chiến trận, trong triều không nên để vắng ba người ấy”. Lại có chuyện những người không ưa trong triều đem chuyện Nguyễn Công Trứ hay cùng bạn bè tụ tập (đánh bài, thách nhau cao thấp, uống rượu, ngâm Truyện Kiều, làm thơ, viết bài hát nói cho các cô ả đào…) tâu lên vua Minh Mạng. Thay vì quở mắng, nhà vua cười nói: “Y vẫn có thói quen hào phóng như thế, thôi cứ để cho mặc ý”. Lời ấy từ miệng ông vua nổi tiếng nghiêm khắc nhất triều Nguyễn, cho thấy Nguyễn Công Trứ chính là một “tay chơi” có hạng. Đại nam thực lục chép rằng: Trong khi Nguyễn Công Trứ đi xem xét công việc khơi sông, viên Đề đốc Quang Mật phát hiện đội trưởng coi bến Châu Giang là Mai Văn Thạch tự tiện cho 4 chiếc thuyền buôn lậu chèo đi. Nguyễn Công Nhàn cùng Phùng Nghĩa Phương tra xét việc ấy, kết luận rằng chiếc thuyền trên do Nguyễn Công Trứ phái người đi thăm dò ở Trấn Tây, nhân cơ hội đó để buôn sừng tê giác và đậu khấu. Nguyễn Công Nhàn đem việc tâu lên nhà vua. Vua sai Tham tri Bộ lễ Trần Ngọc Dao cùng Lại khoa Chưởng ấn là Đặng Kham tra xét. Ngọc Dao biết được vụ việc do Nguyễn Công Nhàn vu cáo, bèn kết án tâu rằng: Phùng Nghĩa Phương và Nguyễn Công Nhàn mắc tội vu cáo, xin phạt trượng và đày đi xa. Còn Nguyễn Công Trứ làm việc sơ suất nên phạt trượng và cách chức. Vua dụ rằng: Nguyễn Công Nhàn xuất thân từ lúc làm tì tướng, lên đến chức trọng trấn một địa phương, chưa từng làm nên được việc gì. Trước kia, cái án hối lộ ở thôn Tân Hựu phát ra, ta đã châm chước xử nhẹ theo luật; nay còn không biết lo một lòng với nhau giúp nước, để che cái lỗi trước, lại còn cố ý vu cáo cho người khác, gây nên một vụ án lớn. Đáng lẽ theo như án đã nghị xử, phạt tội đày đi xa để răn những kẻ theo ý riêng mà bỏ việc công. Nhưng nghĩ Công Nhàn năm trước đánh lui được giặc ở đất Sa Tôn, lập công ở sông Vĩnh Tế. Chiếu theo luật điều đối với người có công, ta cũng có thể giảm nhẹ, vậy gia ân cho cách chức, gắng sức làm việc chuộc tội. Chân dung Nguyễn Công Trứ.TƯ LIỆU CỦA TRANG THÔNG TIN H.NGHI XUÂN, HÀ TĨNH Với Nguyễn Công Trứ, nhà vua cho rằng: Tuy việc thuyền buôn chở đồ gian là do người khác bịa đặt nhưng xét ra việc đưa thuyền đi trấn Tây cũng là “mượn công làm tư”, đó cũng là một tội không thể che giấu được. Vì vậy, Nguyễn Công Trứ bị giáng chức, phái đi làm lính thú ở tỉnh Quảng Ngãi. Lúc đến Quảng Ngãi trình diện quan đầu tỉnh để nhận lệnh, Nguyễn Công Trứ mặc áo cộc màu chàm, đầu đội nón dấu, theo đúng trang phục của một người lính. Quan đầu tỉnh vốn biết ông, nay thấy tình cảnh một người từng là Tổng đốc, vì sơ suất phạm lỗi mà nhận hình phạt như vậy, lấy làm ái ngại, có ý muốn cho phép ông thay trang phục khác. Biết vậy và tỏ ra xúc động vì tình cảm của vị quan sở tại dành cho mình, nhưng Nguyễn Công Trứ từ tốn đáp: “Xin ông cứ để vậy. Lúc làm tướng tôi không lấy làm vinh, nay làm lính tôi cũng không lấy làm nhục. Người ta ở địa vị nào, có nghĩa vụ đối với địa vị đó. Làm lính mà không mang đồ ấy thì sao gọi là lính được”. Câu trả lời này khiến viên quan đầu tỉnh và tả hữu càng thêm kính phục Nguyễn Công Trứ. Một năm sau, năm Thiệu Trị 5 (1845), nhà vua cho Nguyễn Công Trứ được khởi phục làm Chủ sự Bộ hình, quyền Viên ngoại lang; rồi lại đổi quyền Viên ngoại lang Đại lý tự. Châu bản triều Nguyễn cho biết, năm Thiệu Trị 6 (1846), Nguyễn Công Trứ được bổ tạm quyền Án sát Quảng Ngãi. Tháng 9 năm đó, ông được bổ thụ Phủ thừa phủ Thừa Thiên. Lúc bấy giờ Bố chính và Án sát là 2 chức quan đứng đầu một tỉnh như Quảng Ngãi . Như vậy, chỉ trong vòng 2 năm, Nguyễn Công Trứ từ người lính canh giữ biên thùy, trở thành ông quan đầu tỉnh! (còn tiếp) Lê Hồng Khánh
Nguyen Cong Tru (1778 - 1858) self is Ton Chat, nickname is Ngo Trai, nickname is Hy Van, from Uy Vien village, H. Nghi Xuan , Ha Tinh province . He was originally an intelligent and studious person, but after many hardships in the exam school, at the age of 41, he passed the Huong exam in the year of Ky Mao (1819) and was appointed to become a mandarin that year. He was good at military affairs, talented in literature, and a mandarin with great economic talent. Nguyen Cong Tru Temple in Nghi Xuan, Ha Tinh. Nguyen Cong Tru's first position was Editor-in-Chief at the Historical House and then took on many different official positions in turn. He was in trouble as an official and was dismissed 5 times, but then he was reinstated and highly respected. In 1828, Nguyen Cong Tru was promoted to Huu Tham Tri of the Ministry of Justice and appointed to the position of Dinh Dien envoy. In 1832, he was appointed Chief Minister of Hai Duong, the same year promoted to Minister of Infantry, holding the position of Governor of Hai An province. In 1840, he held the position of Ta Do Ngu, the historian of the Do Sat Institute, and also served as Infantry Counselor and General Manager of the Western Town Station. In 1845, he became the chief of the Ministry of Criminal Justice, in 1846 he became the Acting Procurator of Quang Ngai, then changed to the position of Thua Thien district, and in 1847 was promoted to Thua Thien district. In 1848, when Tu Duc was a senior, Nguyen Cong Tru asked to retire. At the age of 80, he submitted a petition to lead an army to fight against the invading French, but because of his old age, he was not accepted, and that same year, he died. Mentioning three characters who are considered pillars of the royal court, King Minh Mang once said: "Ha Ton Quyen is good at planning, Hoang Te My is good at literature, Nguyen Cong Tru is good at fighting, those three people should not be absent in the court." There were also stories of people who didn't like him in the court bringing up stories about Nguyen Cong Tru, who often gathered with friends (playing cards, challenging each other, drinking wine, reciting the Tale of Kieu, writing poetry, writing songs for the prostitutes...) Report to King Minh Mang. Instead of scolding, the king smiled and said: "He still has the same generous habit, let's leave it alone." Those words came from the mouth of the most famous and strict king of the Nguyen Dynasty, showing that Nguyen Cong Tru was a classy "player". Dai Nam Thuc Luc records: While Nguyen Cong Tru Going to inspect the work of opening the river, Commodore Quang Mat discovered that the captain in charge of Chau Giang wharf, Mai Van Thach, had arbitrarily rowed 4 smuggler boats away. Nguyen Cong Nhan and Phung Nghia Phuong investigated the matter and concluded that the above boat was sent by Nguyen Cong Tru to explore in Tran Tay, using that opportunity to trade rhino horn and nutmeg. Nguyen Cong Nhan reported the matter to the king. The King ordered the Minister of Ceremonies Tran Ngoc Dao and the Chancellor Dang Kham to investigate. Ngoc Dao learned that the incident was falsely accused by Nguyen Cong Nhan, so he sentenced him and said: Phung Nghia Phuong and Nguyen Cong Nhan are guilty of slander, please be fined and exiled far away. As for Nguyen Cong Tru, he was negligent and should be fined and dismissed. The king said: Nguyen Cong Nhan started out as a servant general, rose to the position of a local governor, and never accomplished anything. In the past, when the bribery case in Tan Huu village was discovered, we tried to handle it lightly according to the law; Nowadays, we still don't know how to work together to help the country, to cover up our previous mistakes, and even intentionally slander others, causing a big case. According to the verdict, the punishment for being exiled far away was supposed to be a warning to those who, following their own will, abandoned public affairs. But I think Cong Nhan last year fought back the enemy in Sa Ton land and made achievements at Vinh Te river. According to the rules for people with meritorious service, we can also reduce them, so we can give them grace and try our best to atone for our sins. Portrait of Nguyen Cong Tru. MATERIALS OF H.HI XUAN INFORMATION PAGE, HA TINH With Nguyen Cong Tru, the king said: Although the story of the merchant boat carrying fraudulent goods was fabricated by someone else, considering that sending the boat to the Western town was also "borrowing public work for private use", it was also a crime that could not be hidden. Okay. Therefore, Nguyen Cong Tru was demoted and sent to work as an animal soldier in Quang Ngai province. When arriving in Quang Ngai to present himself to the provincial governor to receive orders, Nguyen Cong Tru wore an indigo shirt and a hidden hat, following the uniform of a soldier. The provincial governor, who knew him, now saw the situation of a man who was once a Governor, receiving such a punishment because of a careless mistake, and felt concerned, wanting to allow him to change into another outfit. Knowing that and feeling touched by the local mandarin's feelings for him, Nguyen Cong Tru slowly replied: "Please leave it as it is. When I was a general, I didn't feel honored, but now that I'm a soldier, I don't feel humiliated. No matter what position a person is in, he or she has obligations to that position. How can you be called a soldier if you don't wear those things?" This answer made the provincial and left-right mandarins respect Nguyen Cong Tru even more. One year later, in the 5th year of Thieu Tri (1845), the king allowed Nguyen Cong Tru to be reinstated as the Chief of Criminal Affairs, acting as Vien Ngoai Lang; then changed the rights to Vien Ngoai Lang Dai Dai Tu. Imperial records of the Nguyen Dynasty It is said that in the year Thieu Tri 6 (1846), Nguyen Cong Tru was temporarily appointed to the Quang Ngai Massacre. In September of that year, he was ordained at the Thua Thien Palace. At that time, Bo Chanh and An Sat were the two leading officials of a province like Quang Ngai . Thus, in just 2 years, Nguyen Cong Tru went from a soldier guarding the border to becoming a mandarin of the province! (to be continued) Le Hong Khanh
Mạch nước sông Đà tim róc rách Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ. (Tản Đà – Ngày xuân thơ rượu) Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1889 (Kỷ Sửu, Thành Thái nguyên niên) tại làng Khê Thượng, H.Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Khê Thượng, xã Sơn Đà, H.Ba Vì , Hà Nội ); nguyên quán ở làng Lủ (tức Kim Lũ) H.Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là P.Đại Kim, Q.Hoàng Mai , TP.Hà Nội ). Bút danh Tản Đà được ghép từ núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông. Chân dung Tản Đà. KÝ HỌA CỦA HS TRẦN HOÀNG CHI. Dòng họ của Tản Đà có truyền thống khoa bảng. Thân phụ của ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ cử nhân, làm quan đến chức Án sát Ninh Bình. Anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích đỗ Phó bảng, làm tri huyện sau đổi sang ngạch Học quan, giữ chức Giáo thụ. Mẹ Tản Đà là bà Lưu Thị Hiền (nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm), một đào hát tài sắc ở Nam Định , làm lẽ Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay và có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út từ cuộc lương duyên của đôi tài tử và giai nhân này. Cuộc đời của Tản Đà trải nhiều nỗi truân chuyên. Lên 3 tuổi, bố ông mất. Năm sau, vì bất hòa với gia đình chồng, mẹ ông bỏ nhà ra đi, trở lại nghề ca xướng. Mặc dù từ khi 15 tuổi đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây nhưng Tản Đà liên tiếp trượt cả hai kỳ thi hương 1909 và 1912. Cũng mùa xuân năm 1912, ông không qua được kỳ thi vào trường Hậu bổ vì trượt môn vấn đáp tiếng Pháp. Thất bại trong khoa cử gắn liền với đổ vỡ trong tình duyên đã khiến cuộc đời Tản Đà rẽ sang một ngả khác. Năm 1915, Tản Đà có tác phẩm đăng trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh và nhanh chóng có tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp. Từ 1916 – 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Ông liên tiếp cho xuất bản các tác phẩm: Khối tình con I (1916), Giấc mộng con I (1917), Khối tình con II (1918), Đài gương, Đàn bà Tầu, Thần tiền, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), Còn chơi (1921). Năm 1922, Tản Đà thành lập Tản Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà thư cục). Đây là thư cục, chuyên xuất và tái bản hầu hết những tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông: Tản Đà tùng văn (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện Thề non nước, 1922), Truyện thế gian tập I và II (1923), Trần ai tri kỷ (1924), Quốc sử huấn nông (1924), Kinh thi (1924), Thơ Tản Đà (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật. Năm 1926, Tản Đà cho ra mắt An Nam tạp chí, một tờ báo mà ông dồn rất nhiều tâm huyết. Thời kỳ này ông viết tập Nhàn tưởng (bút ký triết học, 1929), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1929), Khối tình con III (in lại thơ cũ), Thề non nước (truyện), Giấc mộng con II (truyện)… Bút tích của thi sĩ Tản Đà. TƯ LIỆU Bất chấp những tâm huyết của ông chủ, tờ An Nam tạp chí liên tục bị đình bản vì khó khăn tài chính và sau 6 lần tái bản rồi đình bản, đến năm 1933 thì dừng hẳn. Cũng từ đây, sự nghiệp văn chương của Tản Đà đi vào giai đoạn thoái trào. Sáng tác của ông thưa dần. Từ 1933 cho đến những ngày cuối đời, ông làm trợ bút cho các báo, dịch thơ Đường (cho tờ Ngày Nay), dịch Liêu Trai chí dị (Bồ Tùng Linh), thậm chí có lúc túng quẫn ông đăng quảng cáo chữa văn, xem số Hà Lạc… Vừa là vì sinh kế, vừa mang sẵn máu giang hồ, thích đi đó, đi đây, Tản Đà trôi dạt nhiều nơi: Rời đất Bắc vào tận Sài Gòn. Từ Sài Gòn ngược ra Hà Nội. Đi tận Quảng Yên rồi quay lại Hà Đông. Đến nơi đâu ông cũng để lại những giai thoại kỳ thú của một trang nam tử tài hoa, túi thơ bầu rượu: Trời đất sinh ta rượu với thơ Không thơ không rượu sống như thừa Công danh hai chữ mùi men nhạt Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ Mạch nước sông Đà tim róc rách Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ. (Ngày xuân thơ rượu) Cũng chính lúc này phong trào Thơ Mới bước vào giai đoạn hoàng kim. Trong mắt nhiều thi sĩ thơ mới, Tản Đà là dấu tích tàn phai của những gì đã cũ, không còn hợp thời. Thậm chí, họ còn xem ông là đại diện của lớp thi sĩ Hán học bảo thủ, văn chương sáo rỗng, câu chữ khô khan, rồi đem ra chế giễu, cười cợt, nhiều khi bằng giọng văn đầy cay đắng. Buồn bã, chua chát với thế thời, chán nản, u uất vì thân thể bị bệnh tật hành hạ, ngày 7.6.1939, Tản Đà qua đời. Thi hài của ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội. Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu, một trong những nhà báo tiêu biểu thuở sơ khai của báo chí Việt Nam, từng là chủ bút các tờ Hữu Thanh tạp chí, An Nam tạp chí, một thi sĩ tài hoa giữ vị trí cầu nối giữa thơ cũ và thơ mới đầu thế kỷ 20 trong lịch sử văn học nước nhà đã ra đi như vậy. (còn tiếp) L.H.K
The water veins of the Da River are heart murmuring Thousands of young clouds scattered with drowsy eyes. (Tan Da – Spring day of wine and poetry) Tan Da His real name is Nguyen Khac Hieu, born in 1889 (Ky Suu, Thanh Thai's original year) in Khe Thuong village, Bat Bat district, Son Tay province (now Khe Thuong village, Son Da commune, H.Ba Vi , Hanoi ); Originally from Lu village (ie Kim Lu), Thanh Tri district, Thuong Tin district, Ha Dong province (now Dai Kim ward, Hoang Mai District , Hanoi City ). The pen name Tan Da is a combination of Tan Vien mountain and Da river, his hometown. Portrait of Tan Da. SKETCH OF STUDENT TRAN HOANG CHI. Tan Da's family has a scholarly tradition. His father, Nguyen Danh Ke, graduated with a bachelor's degree and worked as a mandarin at the Ninh Binh Police Department. Tan Da's biological brother (from the same father and mother) is Nguyen Tai Tich, who passed the rank of Vice President, became a district magistrate, then changed to the rank of Academic Officer, holding the position of Professor. Tan Da's mother is Ms. Luu Thi Hien (stage name Nhu Thi Nhiem), a talented singer Nam Dinh , acting as Nguyen Danh Ke when he was governor of Xuan Truong. She is a good singer and talented in writing Nom poetry. Tan Da is the youngest son from the marriage of this couple of actors and beauties. Tan Da's life was filled with many hardships. When he was 3 years old, his father passed away. The following year, because of disagreement with her husband's family, his mother left home and returned to singing. Although he was famous as a prodigy in Son Tay province since the age of 15, Tan Da continuously failed both the 1909 and 1912 home exams. Also in the spring of 1912, he could not pass the entrance exam to Hau Du school because he failed the subject. French questions and answers. Failure in the examination, associated with a breakdown in love, caused Tan Da's life to turn in a different direction. In 1915, Tan Da had a work published in Indochina magazine by Nguyen Van Vinh and quickly resonated in the literary scene. In 1916, he took the pen name Tan Da and officially chose the path of a professional writer and journalist. From 1916 to 1926 were the most rewarding years of Tan Da. He consecutively published works: Children's Love I (1916), Children's Dream I (1917), Children's Love II (1918), Mirror Tower, Chinese Women, God of Money, Up Six (1919), Up to eight (1920), Still playing (1921). In 1922, Tan Da established Tan Da library (later changed to Tan Da library). This is the library department, specializing in publishing and republishing most of the important works in his creative career: Tan Da Tung Van (a collection of both poetry and prose, including the story The Vow to the Water, 1922), The Story of the World Gian Volumes I and II (1923), Tran Ai Tri Thu (1924), Quoc Su Huan Nong (1924), Kinh Thi (1924), Tan Da Poetry (1925). In addition, this library also published books by Ngo Tat To and Doan Tu Thuat. In 1926, Tan Da launched An Nam magazine, a newspaper in which he put a lot of effort. During this period, he wrote the collection Nhan Nhan (philosophical memoir, 1929), Big Dream (autobiography, 1929), Block of Love III (reprinting old poems), Oath to the Country (story), Dream of Children II ( story)… Autobiography of poet Tan Da. DATA Despite the owner's enthusiasm, An Nam magazine was continuously suspended due to financial difficulties and after 6 reprints and suspensions, it stopped completely in 1933. Also from here, his literary career began Tan Da enter a period of decline. His compositions gradually decreased. From 1933 until the last days of his life, he worked as a writing assistant for newspapers, translated Tang poetry (for Nay Nay newspaper), translated Lieu Trai chi chi (Bo Tung Linh), and even when he was in financial trouble, he posted an advertisement for literary treatment. , see Ha Lac number… Both for a living and with wanderlust in mind, like going there and here, Tan Da drifted to many places: Leaving the North to reach Saigon. From Saigon back to Hanoi. Go all the way to Quang Yen and then return to Ha Dong. Wherever he went, he left behind interesting anecdotes of a talented man with a wine bag: Heaven and earth gave us wine and poetry Without poetry, without wine, life is in vain The two-word reputation smells like faint yeast Hundred years of career with blurred ink The water veins of the Da River make my heart murmur Thousands of young clouds scattered with drowsy eyes. (Spring poetry and wine day) At this very moment New Poetry movement entered the golden stage. In the eyes of many new poets, Tan Da is a fading vestige of what is old and no longer fashionable. They even considered him a representative of a class of poets with conservative Chinese studies, clichéd literature, and dry words, and then ridiculed and laughed at him, often with a bitter tone. Sad, bitter with the world, depressed, melancholy because his body was tormented by illness, on June 7, 1939, Tan Da passed away. His body was buried at Quang Thien cemetery, Hanoi. Tan Da - Nguyen Khac Hieu, one of the early typical journalists of Vietnamese journalism, used to be the editor of Huu Thanh magazine, An Nam magazine, a talented poet holding the position of bridge between Old poetry and new poetry in the early 20th century in the country's literary history passed away like that. (to be continued) L.H.K
Triển lãm ‘Sắc màu Xuân đất nước’ sẽ được tổ chức tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ngày 11/1 nhân dịp chào Xuân Quý Mão 2023 và kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2023). Triển lãm mang đến cho công chúng 56 tác phẩm đa dạng về thể loại và chất liệu, được lựa chọn trong bộ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Tác phẩm Dưới tháp tràm của hoạ sĩ Trần Hữu Chất. Các tác phẩm được sáng tác trong khoảng thời gian trước năm 1945 – 2007 từ thế hệ mỹ thuật Đông Dương như Trần Văn Cẩn, Nguyễn Văn Tỵ, Trần Đình Thọ, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Trọng Hợp… đến các thế hệ sau như Nguyễn Trọng Kiệm, Phạm Công Thành, Đường Ngọc Cảnh, Trần Thanh Ngọc … Tác phẩm Dừa kiến an của Phạm Viết Hồng Lam. Đề tài phong cảnh luôn là niềm cảm hứng sáng tác bất tận của người nghệ sĩ. Thông qua lăng kính chân thực với ngôn ngữ tạo hình phong phú sinh động, các tác giả thể hiện những sắc màu đặc trưng của mùa xuân trên khắp vùng miền đất nước Việt Nam. Tác phẩm Chiều thứ bảy thanh bình của Lê Xuân Dũng. Từ những địa danh nổi tiếng của Hà Nội như Phố Hàng Mã, Làng hoa Ngọc Hà, Gò Đống Đa… cho đến những góc cảnh nhỏ thân quen như xóm nhỏ, hàng cây, rặng dừa… Từ miền núi Lạng Sơn , Cao Bằng , với Núi Các Mác, Thác Bản Giốc, hang Pác Bó… đến vùng trung du, vùng duyên hải, biển đảo… đều được khắc họa rõ nét, giản dị, thấm đẫm tình yêu quê hương đất nước. Bên cạnh đó, không thể thiếu được hình ảnh con người hồn hậu, chất phác, yêu lao động như tô điểm thêm cho những bức tranh tuyệt diệu của thiên nhiên. Tác phẩm Cây của Võ Lương Nhi. Triển lãm mở cửa đến hết 15/2. Tình Lê
The exhibition 'Spring Colors of the Country' will be held at the Vietnam Fine Arts Museum on January 11 on the occasion of welcoming Spring Quy Mao 2023 and celebrating the 93rd anniversary of the founding of the Communist Party of Vietnam (February 3, 1930). – February 3, 2023). The exhibition brings to the public 56 works of diverse genres and materials, selected from the collection of the Vietnam Fine Arts Museum. The work Under the cajuput tower by artist Tran Huu Chat. The works were created in the period before 1945 - 2007 from the generation of Indochina fine artists such as Tran Van Can, Nguyen Van Ty, Tran Dinh Tho, Hoang Tich Chu, Nguyen Trong Hop... to later generations such as Nguyen Trong Kiem, Pham Cong Thanh, Duong Ngoc Canh, Tran Thanh Ngoc... The work Coconut Kien An by Pham Viet Hong Lam. The theme of landscape is always the artist's endless inspiration. Through a realistic lens with rich and vivid visual language, the authors express the typical colors of spring throughout all regions of Vietnam. The work "Peaceful Saturday Afternoon" by Le Xuan Dung. From famous landmarks of Hanoi such as Hang Ma Street, Ngoc Ha Flower Village, Dong Da Mound... to familiar small corners such as small hamlets, rows of trees, coconut groves... From the mountains Lang Son , As tall as , with Cac Mac Mountain, Ban Gioc Waterfall, Pac Bo Cave... to the midlands, coastal areas, sea and islands... all are portrayed clearly, simply, imbued with love for the homeland. Besides, it is indispensable to have the image of a kind-hearted, simple, and labor-loving person who adorns the wonderful pictures of nature. Tree work by Vo Luong Nhi. The exhibition is open until February 15. Tinh Le
Ở đời có những người nói to, bước vững, Phạm Hầu quyết không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi… Hồn thơ là một cái gì đó rất mong manh, có khi chỉ một tí cũng đủ làm tiêu tan hết. Hoài Thanh – Hoài Chân (Thi nhân Việt Nam) Phạm Hầu sinh năm 1920 tại làng Trừng Giang, xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn , tỉnh Quảng Nam . Thân sinh của ông là Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm Tổng đốc Nghệ An, Thượng thư Bộ Binh dưới các triều vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại. Tiếc rằng, ông mất quá sớm, năm vừa 24 tuổi. Vốn sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng. Phạm Hầu theo gia đình ra học Quốc học Huế, sau đó vào Trường Mỹ thuật Đông Dương ( Hà Nội ), khoá 1939-1944. Với Phạm Hầu, thơ và họa dường như đan xen vào nhau. Sinh thời, ông chưa in tập thơ nào. Thơ chỉ đăng rải rác trên Tao Đàn, Mùa Gặt Mới. Số lượng không nhiều, song những gì còn lại cũng đủ để người sau nhận ra một chân dung. Thế rồi bẵng đi mấy mươi năm binh lửa, người đọc ít biết đến một tài thơ mệnh yếu này. May sao, do quan hệ thân tộc, ông Hoàng Minh Nhân đã cất công sưu tầm thêm 20 bài. Tập Vẫy Ngoài Vô Tận chỉ vỏn vẹn 26 bài. Trước năm 1945, cũng như bao nhiêu thi sĩ cùng thời, thơ Phạm Hầu cũng nằm trong dòng chảy của văn học lãng mạn. Đó đây vẫn là tình yêu nhẹ nhàng, một mối tơ vương phong nhị của một đôi nam nữ nơi một vùng quê bát ngát thiên nhiên. Những chùm sim dại, những trái bù đường, những lá hổ ngươi, hoa chuối rừng… Khung trời mộng ảo chỉ còn là hoài niệm khi bóng yêu hoa ngày nào đã xa vời và chút ngậm ngùi: Nhớ bạn tình xa tôi mỉm cười Nụ cười lạnh lẽo khóc đầu môi Chân tôi vô ý đưa trên cỏ Tung khẽ một vài chiếc lá rơi . (Trên đồi) Trái tim nhà thơ vẫn bao lần xao xuyến trước tình yêu. Tình gởi nơi cây lá, chờ một mùa trái chín, nhưng rồi cánh hoa bay rụng, sắc hoa cành , khiến: Lòng tôi e cũng cô đơn thế Sẽ chín yêu thương bởi mọi người (Trái xanh) Trong phần sưu tập, chỉ có một bài thơ lục bát, bài Thu . Mùa thu được kể ra bằng nhiều thời khắc khác nhau: đêm thu, ngày thu, sớm thu, chiều thu. Các chu kỳ ấy vọng xuống tâm hồn thi sĩ những cảnh đời lẻ chiếc, đơn côi. Đấy là lòng trẻ mồ côi, tình người cô phụ hay hiên nhà quạnh quẽ với khóm trúc già xác xơ và cả người con gái đang mơ màng, hàng mi còn đọng lại những nét mờ ảo của suối thu. Dạ nhạc lại đi vào một khía cạnh khác. Bài thơ đi về với vẻ đẹp xưa, có cảnh sắc thần tiên. Ở đây, không gian như chơi vơi, huyền dịu, như thả ngày xanh trên phím đàn , lướt theo tay măng gầy xinh đẹp và yểu điệu như Văn Quân. Bến mộng bờ mơ trôi theo tiếng đàn, đến phím sau cùng là biệt ly. Có một bài thơ năm chữ với cái tên khá lạ là Tám hoa. Bốn khổ thơ đã tả đủ bốn cung bậc của nỗi buồn ly biệt. Tám ngày qua là tám chỗ khuyết. Hơi thơ có âm hưởng tiếc thương, gợi nhớ lại những dòng thơ của Vi Thừa Khánh, đời Đường, cũng viết về hoa rụng: Lạc hoa tương dữ hận Đáo địa nhất vô thanh (Nam hành biệt đệ) Vọng hải đài là bài thơ được nhiều người nhắc đến. Vọng hải đài (Đài ngắm biển) nằm ở phía hữu chùa Linh Ứng thuộc ngọn Hỏa Sơn trong cụm di tích Ngũ Hành Sơn. Bia đá được dựng từ năm Minh Mạng thứ 18. Đứng ở đây, có thể nhìn thấy biển cả mênh mông, tít tắp đến tận chân trời. Và nói như Hoài Thanh, đứng trên đài lòng mà ngắm, trước cái vô tận của trời đất, lòng người cũng chùng xuống, quay trở về với mình, tự hỏi: Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận Chẳng biết xa lòng có những ai? Câu trả lời không có, chỉ thấy những dư âm gờn gợn lạnh. Cái mênh mông như vời xa hơn. Đây không phải là lần duy nhất Phạm Hầu muốn nói đến cõi Vô cùng , cái Tuyệt đích . Kết thúc bài Lý tưởng, nhà thơ viết: Ta đợi người đây, Tuyệt đích ơi ! Dẫu xa, xa cách mấy phương trời Biết rằng vô ích sao tôi vẫn Phung phí đời tôi mấy độ tươi. Mỹ học cái cao cả đã nhiều lần chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật thơ của Phạm Hầu. Một lần, trong phê bình hội hoạ, thi sĩ đã viết: Ta thích nghệ thuật nào đem ta đến vô biên . Hay mấy dòng thơ: Tôi theo tư tưởng vô cùng tận Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu (Lý tưởng) Nhưng, có điều là, ẩn đằng sau cái vời vợi ấy là một tâm hồn có nhiều trắc ẩn, nhiều lúc đến đớn đau, quằn quại. Thì ra, vẫn là Phạm Hầu yêu thương tha thiết chốn trần gian cơ cực này. Ông từng phát biểu: Cái quan niệm cho nghệ thuật là một trò chơi không thể đứng được nữa. Nhà nghệ sĩ không phải là một đứa trẻ vô tư trong trò chơi, nghệ sĩ không thể không đau khổ … Phải vậy chăng mà Phạm Hầu đến với Cách mạng? Theo gia đình kể lại, dù là con quan Thượng thư, ông vẫn sớm nhận ra nỗi đau của một dân tộc bị mất chủ quyền. Vì thế, ông đến với những người cộng sản và nhiều lần bị mật thám Tây bắt, tra tấn. Phạm Bình, người anh ruột đã từng chứng kiến cảnh em mình bị tra khảo, đánh đập dã man. Điều này giúp ta hiểu lời đề tặng trong bài Một đêm vừa mới tìm thấy. Giáo sư Hoàng Châu Ký phỏng đoán: “ Có lẽ đó là lời đề tặng đồng chí Hoàng Văn Thụ bởi vì Phạm Hầu và Hoàng Văn Thụ hoạt động cách mạng cùng thời” . Hiện chưa có cứ liệu lịch sử để xác quyết vấn đề, song điều ấy không phải không có khả năng diễn ra. Sau một thời gian điều trị tại nhà thương Vôi – Bắc Giang, trên đường trở về quê hương, giữa cung đường Đông Hà – Huế, gần ga Truồi, Phạm Hầu trút hơi thở cuối cùng. Ấy là ngày 3/1/1944, một ngày gần tới Xuân Giáp Thân, để lại cho đời: Cành mai vừa hé vài hoa sớm … (Mơ xuân) Người nhà đã đưa Phạm Hầu trở ra Huế, an táng bên cạnh mộ bà nội, ở trước chùa Vạn Phước. Hiện nay, trên bia mộ Phạm Hầu, được khắc hai câu thơ nổi tiếng trong bài Vọng hải đài: Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận Chẳng biết xa lòng có những ai? H.V.H
In life, there are people who speak loudly and walk firmly. Pham Hau is definitely not in that category. In the middle of life, Pham Hau is a shadow, his feet leaving no mark on the path... The soul of poetry is something very fragile, sometimes just a little bit is enough to destroy it all. Hoai Thanh – Hoai Chan (Vietnamese poet) Pham Hau was born in 1920 in Trung Giang village, Dien Trung commune, Dien Ban town , Quang Nam Province . His biological father is Dr. Pham Lieu, the head of the Ngu Phung Te Phi group, who served as Governor General of Nghe An and Minister of Ministry of Defense under the reigns of King Thanh Thai, Duy Tan, Khai Dinh, and Bao Dai. Unfortunately, he passed away too early, at the age of 24. Born in an academic family. Pham Hau followed his family to study Hue National Studies, then entered the Indochina School of Fine Arts ( Hanoi ), class 1939-1944. For Pham Hau, poetry and painting seem to be intertwined. During his lifetime, he did not print any poetry books. Poems are only published sporadically on Tao Dan, New Harvest. The quantity is not much, but what remains is enough for the next person to recognize a portrait. Then, after decades of war and fire, readers rarely knew about this vital poetic talent. Fortunately, due to family ties, Mr. Hoang Minh Nhan took the trouble to collect 20 more articles. The Endless Waving Exercise has only 26 exercises. Before 1945, like many poets of his time, Pham Hau's poetry was also part of the flow of romantic literature. This is still a gentle love, a delicate relationship between a man and a woman in a countryside filled with nature. Bunches of wild myrtle, sugar berries, tiger leaves, wild banana flowers... The dreamy sky is only a memory when the shadow of the love of flowers is far away and a bit sad: Missing my long-distance partner, I smiled Cold, crying smile on lips My feet unintentionally landed on the grass Gently toss a few fallen leaves . (On the hill) The poet's heart still flutters many times before love. Love is placed on trees and leaves, waiting for a season of ripe fruit, but it's gone Petals fall off, flowers and branches turn pale , cause: My heart is also lonely Will be loved by everyone (Crude) In the collection, there is only one six-eight poem, poem Collect . Autumn is told in many different moments: autumn night, autumn day, autumn morning, autumn afternoon. These cycles echo down into the poet's soul the isolated and lonely scenes of life. That is the heart of an orphan, the love of an aunt or a lonely porch with a clump of old bamboo, and a dreamy girl whose eyelashes still retain the blurry features of an autumn stream. Night music goes into another aspect. The poem returns to the old beauty, with magical scenery. Here, the space seems relaxed, magical, and relaxing green day above keyboard , gliding after a thin, beautiful and graceful bamboo shoot like Van Quan. Dreamy shore and dreamy shore float along with the sound of the piano, until the last key is farewell. There is a five-word poem with a rather strange name Eight flowers. The four stanzas describe all four levels of sadness of separation. The past eight days have been eight vacancies. The poem has a mournful sound, reminiscent of the lines of poetry by Wei Thua Khanh, of the Tang Dynasty, also written about fallen flowers: Lac Hoa soy sauce is angry The ground was completely silent (Farewell to the South) Lookout on the sea tower is a poem that many people refer to. Vong Hai station (Sea viewing platform) is located on the right side of Linh Ung Pagoda on Hoa Son mountain in the Ngu Hanh Son relic cluster. The stone stele was built in the 18th year of Minh Mang. Standing here, you can see the vast ocean, all the way to the horizon. And as Hoai Thanh said, standing on the stage and looking at the infinity of heaven and earth, people's hearts also sank, turning back to themselves, wondering: I wave my hand endlessly I don't know who is far away from my heart? There was no answer, only cold, rippled echoes. The vastness seems farther away. This is not the only time Pham Hau wants to talk about realms Extremely , female Climax . End of lesson Ideal, the poet wrote: I'm waiting for you, Greatest! Even though it's far away, many miles away Knowing that it's useless, why do I still do it? Wasted my life a few degrees of freshness. The aesthetics of the sublime has repeatedly occupied Pham Hau's world of poetic art. Once, in painting criticism, the poet wrote: I like any art that takes me to the limitless . Or some lines of poetry: I follow the thought endlessly Only encounter extreme loneliness (Ideal) But, the thing is, hidden behind that greatness is a soul with a lot of compassion, sometimes painful and tormented. It turned out that it was still Pham Hau who loved this miserable world dearly. He once said: The notion that art is a game cannot stand anymore. The artist is not a carefree child in the game, Artists cannot help but suffer … Is that why Pham Hau came to the Revolution? According to his family, even though he was the son of a Minister, he still soon realized the pain of a nation losing its sovereignty. Therefore, he went to the communists and was repeatedly arrested and tortured by Western secret police. Pham Binh, his older brother, witnessed his younger brother being tortured and brutally beaten. This helps us understand the dedication in the article One night just found. Professor Hoang Chau Ky speculates: “ Have Perhaps that is a dedication to comrade Hoang Van Thu because Pham Hau and Hoang Van Thu were active in the revolution at the same time." . There is currently no historical evidence to confirm the issue, but it is not impossible that it could happen. After a period of treatment at Voi hospital - Bac Giang, on the way back to his hometown, in the middle of Dong Ha - Hue road, near Truoi station, Pham Hau breathed his last breath. It was January 3, 1944, a day approaching the Spring of Giap Than, leaving behind for life: The apricot branch has just opened a few early flowers … (Spring Dream) Family members took Pham Hau back to Hue and buried him next to his grandmother's grave, in front of Van Phuoc Pagoda. Currently, on Pham Hau's tombstone, two famous verses from the poem are engraved Lookout tower: I wave my hand endlessly I don't know who is far away from my heart? H.V.H
Thăm quan các vị trí đã được khai quật tại thành nhà Hồ ( huyện Vĩnh Lộc , tỉnh Thanh Hóa ), ông Christian Manhart, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam bày tỏ sự ấn tượng, đồng thời mong muốn Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ tiếp tục mở rộng khu vực khai quật để tìm kiếm nhiều di tích, kiến trúc còn bị vùi lấp trong đất. Chiều 9/1, ông Christian Manhart – Trường Đại diện UNESCO tại Việt Nam đã có chuyến thăm và làm việc tại Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ. Tại đây, ông Christian Manhart đã được nghe báo cáo về công tác khai quật khu vực khảo cổ từ năm 2020 đến nay. Ông Christian Manhart, Trường Đại diện UNESCO tại Việt Nam vừa có chuyến thăm và làm việc tại di sản thế giới thành nhà Hồ. Tóm tắt quá trình khai quật từ năm 2020 – 2021, ông Nguyễn Bá Linh, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ cho biết, các nhà khoa học đã tiến hành 6 hố khai quật với tổng diện tích 25.000 m2. Đây là cuộc khai quật lớn nhất lịch sử Khảo cổ học Việt Nam tính về tổng số diện tích trong một lần khai quật. Qua đó, đã phát hiện được 4 cụm dấu tích có niên đại thời Trần-Hồ, 2 cụm kiến trúc thời Lê sơ , 1 cụm kiến trúc thời Lê Trung Hưng . Cụ thể, đã phát hiện được nhiều di tích kiến trúc thời Trần-Hồ tại các hố khai quật ở khu vực Trung tâm, khu vực Đông Nam và Tây Nam. Tại khu vực Trung tâm đã phát hiện được 10 kiến trúc. Khu phía Đông nền Vua, xuất hiện 2 cụm dấu tích kiến trúc với kết cấu móng cột gia cố phân bố đều nhau và trong phạm vi rộng lớn. Khu phía Tây nền Vua xuất hiện dấu tích kiến trúc nhiều gian và xác định được 1 kiến trúc nhiều gian, nhiều vì, mỗi vì 4 cột. Toàn cảnh khu vực khai quật có diện tích lớn nhất lịch sử Khảo cổ học Việt Nam. Quá trình khai quật nội thành, các nhà khoa học cũng phát hiện nhiều dấu tích kiến trúc thời Lê sơ và Lê Trung Hưng với đặc điểm xây bằng gạch vồ, ngói âm dương, kích thước móng cột được xây dựng bằng gạch ngói vụn (thời Lê sơ); phát hiện 2 dấu tích kiến trúc thời Lê Trung Hưng với đặc điểm xây bằng gạch vồ, ngói âm dương, kích thước móng cột trung bình 1,3 m x 1,4 m được xây dựng bằng gạch ngói vụn. Thông tin thêm với ngài Trưởng Đại diện UNESCO về đợt khai quật khảo cổ gần nhất tại con đường Hoàng Gia từ tháng 11/2021 đến nay, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ cho biết, lần khai quật này có tổng diện tích 14.000 m2. Qua đó, đã phát hiện con đường được kè đá xanh và lát đá phiến, nằm chính giữa cổng Nam thành nhà Hồ, hướng Bắc – Nam, nối thẳng về phía nam đến di tích Nam Giao, nối về phía bắc con đường hướng vào trung tâm nội thành. Về vật liệu kiến trúc, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều loại hình gạch trang trí hoa cúc, hoa sen, hoa đồng tiền thời Lý – Trần, hoa dây thời Lê sản xuất tại Thăng Long; nhiều loại hình gạch vuông, gạch chữ nhật, gạch trang trí có in chữ Hán được sản xuất tại Thành nhà Hồ tương tự như các cuộc khai quật trước đây. Ngoài ra còn phát hiện các mảnh lá đề trang trí rồng, mảnh ngói sen kép, ngói cong tráng men vàng thời Trần – Hồ. Về gốm sứ, các hố khai quật tìm thấy khá nhiều mảnh gốm men thời Trần – Hồ và thời Lê Sơ. Bước đầu, các nhà khảo cổ học nhận định cuộc khai quật này đã làm rõ hiện trạng cấu trúc và vật liệu xây dựng con đường Hoàng Gia trong nội thành. Con đường này có lẽ chỉ có một làn đường, rộng khoảng gần 5m như đã thấy xuất lộ ở gần cửa Nam. Ông Christian Manhart mong muốn Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ tiếp tục mở rộng khu vực khai quật khảo cổ. Sau khi thăm quan các vị trí đã được khai quật, ông Christian Manhart, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam bày tỏ sự trân trọng đối với nỗ lực khai quật, từ đó tìm được rất nhiều hiện vật, di tích có giá trị tại thành nhà Hồ . “Tôi nghĩ rằng với các phát hiện to lớn này, các bạn cần tiếp tục nghiên cứu, mở rộng diện tích khai quật khảo cổ. Trong quá trình thực hiện, các bạn nên xem xét nghiên cứu quét lớp thăm dò để biết được một số khu vực cần khai quật. Theo như logic tại một số di sản, bên cạnh cung đình hoàng gia, có thể sẽ có khu vực của gia nhân, người dân ở, vì vậy, công tác khai quật cần thực hiện kỹ càng, bởi xung quanh có thể còn rất nhiều điểm di tích bị đất đá vùi lấp”, ông Christian Manhart bày tỏ ý kiến. Phát biểu đáp lời ngài Trưởng đại diện, ông Nguyễn Bá Linh, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản thành nhà Hồ bày tỏ sự cảm ơn về chuyến thăm và những ý kiến đóng góp của ngài Christian Manhart đã đề cập. Ông Linh mong muốn, trong thời gian tới, ngài Trường Đại diện UNESCO tại Việt Nam tiếp tục có những kiến nghị, đề xuất với UNESCO để hỗ trợ, giúp đỡ Trung tâm trong việc khai quật và đánh giá các giá trị di tích, kiến trúc tại thành nhà Hồ. ĐÌNH MINH
Visit excavated locations at the Ho Dynasty citadel ( Vinh Loc district , Thanh Hoa province ), Mr. Christian Manhart, UNESCO Chief Representative in Vietnam, expressed his impression and at the same time wished the Ho Dynasty Heritage Conservation Center to continue expanding the excavation area to search for more relics and architectural remains. buried in the soil. On the afternoon of January 9, Mr. Christian Manhart - UNESCO Representative School in Vietnam visited and worked at the Ho Dynasty Heritage Conservation Center. Here, Mr. Christian Manhart heard a report on the excavation work of the archaeological area from 2020 to present. Mr. Christian Manhart, UNESCO Representative School in Vietnam, recently visited and worked at the world heritage site of the Ho Dynasty Citadel. Summarizing the excavation process from 2020 - 2021, Mr. Nguyen Ba Linh, Director of the Ho Dynasty Heritage Conservation Center, said that scientists conducted 6 excavation holes with a total area of ​​25,000 m2. This is the largest excavation in the history of Vietnamese Archeology in terms of total area in one excavation. Thereby, 4 clusters of vestiges dating back to the Tran-Ho period and 2 architectural clusters were discovered early Le period , a cluster of contemporary architecture Le Trung Hung . Specifically, many architectural relics of the Tran-Ho period have been discovered in excavation pits in the Central region, Southeast and Southwest regions. In the Central area, 10 structures were discovered. In the eastern area of ​​the King's foundation, two clusters of architectural vestiges appear with reinforced column foundation structures evenly distributed and in a large area. In the western area of ​​the King's foundation, there are traces of multi-compartment architecture and a multi-compartment architecture with many pillars and 4 columns has been identified. Panorama of the largest excavation area in the history of Vietnamese Archeology. During the excavation process in the inner city, scientists also discovered many architectural vestiges of the early Le and Le Trung Hung periods with the characteristics of being built with mallet bricks, yin and yang tiles, and the size of column foundations built with crushed bricks and tiles ( early Le period); discovered 2 architectural vestiges of the time Le Trung Hung With the characteristics of being built with bricks and yin and yang tiles, the average column foundation size is 1.3 m x 1.4 m, built with crushed bricks and tiles. For more information with the Chief Representative of UNESCO about the latest archaeological excavation at the Royal Road from November 2021 until now, the Director of the Ho Dynasty Citadel Heritage Conservation Center said that this excavation has a total of area of ​​14,000 m2. Through this, we discovered a road embanked with green stone and paved with slate, located in the middle of the South gate of the Ho Dynasty citadel, facing North - South, connecting directly south to the Nam Giao relic, connecting north to the road leading to inner city center. Regarding architectural materials, archaeologists have found many types of tiles decorated with chrysanthemums, lotus flowers, gerbera flowers of the Ly - Tran dynasties, and string flowers of the Le dynasty produced in Thang Long; Many types of square tiles, rectangular tiles, and decorative tiles with Chinese characters printed on them were produced at the Ho Dynasty Citadel similar to previous excavations. In addition, pieces of leaves decorated with dragons, pieces of double lotus tiles, and curved yellow-glazed tiles of the Tran - Ho dynasties were also discovered. Regarding ceramics, excavation pits found quite a few pieces of glazed ceramics from the Tran - Ho and Early Le dynasties. Initially, archaeologists said that this excavation had clarified the current state of the structure and construction materials of the Royal Road in the inner city. This road probably has only one lane, about 5 meters wide as seen near the South gate. Mr. Christian Manhart wants the Ho Dynasty Heritage Conservation Center to continue expanding the archaeological excavation area. After visiting the excavated locations, Mr. Christian Manhart, Chief Representative of UNESCO in Vietnam, expressed his appreciation for the excavation efforts, thereby finding many valuable artifacts and relics at the site. into the Ho Dynasty . “I think that with these great discoveries, you need to continue to research and expand the archaeological excavation area. During the implementation process, you should consider studying and scanning the exploratory layer to know some areas that need to be excavated. According to the logic of some heritage sites, next to the royal palace, there may be areas where servants and people live, so excavation work needs to be done carefully, because there may be many remains around. Many relics are buried by soil and rocks," Mr. Christian Manhart expressed his opinion. Speaking in response to the Chief Representative, Mr. Nguyen Ba Linh, Director of the Ho Dynasty Heritage Conservation Center, expressed his thanks for the visit and the comments mentioned by Mr. Christian Manhart. Mr. Linh hopes that in the coming time, the UNESCO Representative School in Vietnam will continue to make recommendations and proposals to UNESCO to support and assist the Center in excavating and evaluating relic values. Architecture at the Ho Dynasty citadel. DINH MINH
Khu di sản Hoàng thành Thăng Long về đêm. Ảnh: Lao động thủ đô Việc phục dựng bảo tồn các di tích lịch sử như thế nào cho đúng luôn là một đề tài gây tranh luận. Tuy nhiên, có một sự thật quan trọng là di tích nào cũng có rất nhiều tầng, nấc lịch sử. Và khi bảo tồn, không thể bỏ qua những tầng nấc đó để chỉ tập trung vào một thời điểm. Gần đây, có hai cuộc thảo luận mà tôi khả quan tâm. Thứ nhất, là cuộc thảo luận về việc bảo tồn cầu Long Biên . Thứ hai, là cuộc thảo luận về bảo tồn khu di tích Hoàng thành Thăng Long. Tôi có theo dõi và có một vài sự ngạc nhiên. Cầu Long Biên , đối với tôi và rất nhiều người khác, nó không chỉ có ý nghĩa là một công trình lớn do người Pháp xây dựng tại Đông Dương, cầu Long Biên còn có một ký ức khác. Chúng ta thấy cầu Long Biên hôm nay đó là một cây cầu không hoàn hảo, vì có những nhịp còn nguyên vẹn, nhưng có nhiều nhịp cầu tạm, những trụ tạm được xây dựng. Cầu Long Biên hiện nay là một trong vài chứng tích còn lại của những ngày không quân Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, hiện trạng cây cầu là một phần của lịch sử. Tôi không hiểu, nếu như chúng ta phục hồi lại cây cầu Long Biên, mà quên đi phần quan trọng đó của lịch sử thì sẽ ra sao? Tôi nghĩ cầu Long Biên là một ký ức, ký ức đó đi suốt cả một thế kỷ, với nhiều biến động của dân tộc Việt Nam, và nó cần phải được giữ lại. Nếu như chúng ta coi cầu Long Biên là một công trình lịch sử, thì chúng ta nên lưu giữ, không phải chỉ một phần lịch sử của người Pháp xây dựng ban đầu mà cả phần lịch sử của công cuộc kháng chiến vĩ đại, những ngày gian khó trong chống Mỹ. Điều đó cũng tương tự như khi chúng ta bàn về điện Kính Thiên và bàn về nhà 67 trong Hoàng thành Thăng Long . Hoàng thành không chỉ là những di tích còn lại của một triều đại, mà nó còn là đầu não chỉ huy các trận đánh, các hoạt động của chúng ta trong suốt thời kỳ chống Mỹ. Tôi nghĩ nó quan trọng chứ! Và nó phải được bảo tồn chứ! Nó xứng đáng để bảo tồn không kém gì các di tích, di chỉ trước đây. Bây giờ sẽ khó có thể hình dung, bởi vì rõ ràng là chúng ta gần như không có những hình ảnh nguyên bản của điện Kính Thiên, nhưng chúng ta có những hình ảnh rất rõ ràng, nguyên vẹn của thời kỳ chống Mỹ, của thời kỳ Bộ chỉ huy quân sự của chúng ta hoạt động ở đó. Và thế hệ sau chúng ta, họ có quyền được biết về những ngày như vậy. Tôi nghĩ còn mảnh đất nào cũng vậy, nhất là những nơi có tính chất lịch sử, nó sẽ có nhiều thế hệ, nhiều tầng nấc lịch sử, nhiều công trình đã diễn ra đến đó. Việc bảo tồn sẽ phải được tiếp cận theo hướng là giữ, là duy trì được tất cả những chứng tích lịch sử. Trong câu chuyện lịch sử về Hoàng thành và cầu Long Biên cũng như vậy. Tôi nghĩ, cần phải được tiếp cận theo một cách đầy đủ, một cách chính xác và theo một cách hoàn toàn khóa học, thay vì chỉ một chiều, một cách, một kiểu, chỉ với một phần nào đó của lịch sử./. Phạm Quang Vinh
Thang Long Imperial Citadel heritage area at night. Photo: Capital Labor How to properly restore and preserve historical relics is always a controversial topic. However, there is an important truth that every monument has many layers and levels of history. And when conserving, we cannot ignore those levels to only focus on one moment in time. Recently, there were two discussions that interested me. First, there is a discussion about conservation Long Bien bridge . Second, there is a discussion on preserving the Thang Long Imperial Citadel relic site. I followed it and there were a few surprises. Long Bien Bridge , for me and many others, it not only means a great project built by the French in Indochina, Long Bien Bridge also has another memory. We see that Long Bien Bridge today is an imperfect bridge, because there are intact spans, but there are many temporary bridge spans and temporary pillars that were built. Long Bien Bridge is currently one of the few remaining evidences of the days when the US Air Force bombed and destroyed the North. The current state of the bridge is a part of history. I don't understand, what will happen if we restore the Long Bien bridge, but forget that important part of history? I think Long Bien Bridge is a memory, a memory that spans a century, with many upheavals of the Vietnamese people, and it needs to be preserved. If we consider Long Bien Bridge a historical work, then we should preserve, not only part of the history of the original French construction but also part of the history of the great resistance, the Difficult days in the fight against America. It's the same as when we talked about Kinh Thien Palace and talk about house 67 in Imperial Citadel of Thang Long . The Imperial Citadel is not only the remaining relics of a dynasty, but it is also the headquarters that commands our battles and activities during the anti-American period. I think it's important! And it must be preserved! It is as worthy of preservation as previous monuments and sites. It will be difficult to imagine now, because obviously we have almost no original images of Kinh Thien Palace, but we do have very clear, intact images of the anti-American period, of period when our military command operated there. And the generation after us, they have the right to know about such days. I think it's the same with any piece of land, especially historical places, it will have many generations, many levels of history, and many works that have taken place there. Conservation will have to be approached in the direction of preserving and maintaining all historical evidence. The same is true in the historical story about the Imperial Citadel and Long Bien Bridge. I think, it needs to be approached in a complete way, accurately and in a complete way, instead of just one way, one way, one style, only with a certain part of history./ . Pham Quang Vinh
Sáng 10/1, Hội nghị Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam lần thứ hai đã diễn ra tại Hà Nội , với sự chủ trì của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà và Bí thư thứ Nhất Trung ương Đoàn, Chủ nhiệm Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam Bùi Quang Huy. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà phát biểu chỉ đạo. Ảnh: Minh Đức/TTXVN Trên cơ sở tình hình trong nước và thế giới năm 2022 có tác động trực tiếp đến các vấn đề xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật thanh niên, Bí thư thứ Nhất Trung ương Đoàn Bùi Quang Huy đề nghị các đại biểu dự Hội nghị quan tâm thảo luận về kết quả mà các bộ, ngành đã triển khai thực hiện theo lĩnh vực của mình có liên quan chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên. Chủ nhiệm Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam nhấn mạnh, cần thẳng thắn nhìn nhận những ưu điểm, hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban, cũng như đóng góp các kiến nghị, đề xuất về phương hướng hoạt động năm 2023 với các nhóm mục tiêu trọng tâm và giải pháp cụ thể, qua đó ngày càng phát huy hiệu quả hoạt động của Ủy ban, khẳng định rõ vị trí, vai trò là tổ chức phối hợp liên ngành có chức năng tư vấn giúp Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên. Tại Hội nghị, các đại biểu bày tỏ đồng tình với các báo cáo, đánh giá cao những kết quả mà Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam đã đạt được trong năm 2022. Phân tích hiệu quả công tác quản lý thanh niên hiện nay, nhiều đại biểu đã chỉ ra các khó khăn, hạn chế, vướng mắc cụ thể. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Tạ Văn Hạ cho rằng, công tác triển khai Luật Thanh niên vào thực tiễn đời sống còn nhiều thách thức, mặc dù đã có những điều chỉnh nhất định. Theo ông Tạ Văn Hạ, tình trạng “khoán trắng” trách nhiệm cho Đoàn Thanh niên còn thể hiện ở việc hiện mới có 7 trong tổng số 22 dự án, đề án trong Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 được xây dựng. Đặc biệt, 6 trong số 7 dự án, đề án cũng do Đoàn Thanh niên làm “tác giả”. Theo Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Ngô Thị Minh, hiện việc phối hợp triển khai tuyên truyền, phổ biến Luật Thanh niên còn không ít “khoảng trống” bất cập, nhất là tại các địa phương. Công tác tổ chức đối thoại giữa lãnh đạo, người đứng đầu sở, ngành, địa phương với thanh niên thiếu bài bản, thậm chí chưa được quan tâm, chưa thực hiện. Hoạt động lồng ghép các chính sách về thanh niên thực hiện chưa tốt, chưa cho kết quả như mong đợi. Góp ý tại Hội nghị, Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Ngô Thị Minh cho rằng, cần quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu của thanh niên; phân luồng học nghề gắn với giải quyết việc làm cho thanh niên. Công tác quản lý nhà nước về thanh niên phải gắn với bốn chữ “tin – giao – tạo – cổ”, đó là: tin thanh niên, giao nhiệm vụ, tạo điều kiện và cổ vũ cho thanh niên phát triển. Khẳng định các chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác, chính sách thanh niên đều thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với lực lượng xung kích đi đầu, có sức trẻ, có tri thức… của đất nước, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị, trong kế hoạch hoạt động năm 2023 của Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam cần đề ra những nhiệm vụ mang tính cụ thể hơn. Những nhiệm vụ này được xác định xuất phát từ thực tiễn triển khai công tác trên tất cả các ngành nghề, lĩnh vực mà thanh niên trực tiếp tham gia. “Có rất nhiều việc trong thời gian tới cần đặt ra những nhiệm vụ mới đối với thanh niên, từ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đến thích ứng sau đại dịch, đóng góp cho phát triển kinh tế-xã hội… Nhiệm vụ này đặt lên vai ai? Chính là những người có sức trẻ, có kiến thức như thanh niên”, Phó Thủ tướng nói. Phó Thủ tướng đề nghị các bên liên quan cùng nhìn lại những tồn tại, hạn chế đã nêu tại Hội nghị, đưa ra các giải pháp cụ thể để Chính phủ và các địa phương, cơ quan, tổ chức cùng vào cuộc, đồng hành với thanh niên hiện thực hóa khát vọng đất nước hùng cường trong tương lai không xa. Quang cảnh hội nghị. Ảnh: Minh Đức/TTXVN Năm 2022, Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam đã hoàn thành các nhiệm vụ theo kế hoạch đề ra, trong đó có việc tập trung phối hợp đề xuất, xây dựng chính sách về thanh niên, nhất là các chương trình, dự án, đề án, nhiệm vụ thuộc Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Ủy ban đã phối hợp với Trung ương Đoàn, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam và các đơn vị liên quan xây dựng Đề án “Sách trắng về thanh niên khởi nghiệp giai đoạn 2023-2027”; xây dựng cơ sở dữ liệu, tổng hợp mô hình, ý tưởng của thanh niên khởi nghiệp; xây dựng dự thảo Bộ Tiêu chí “Vì sự phát triển thanh niên Việt Nam”… Ủy ban phối hợp các tỉnh, thành phố trên cả nước triển khai điều tra, rà soát, đánh giá tình hình thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên và công tác thanh niên năm 2022, đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, nguồn lực bảo đảm triển khai, thi hành Luật Thanh niên và các văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên còn gặp nhiều khó khăn do phải bố trí từ ngân sách Nhà nước trong dự toán chi thường xuyên hằng năm; đối thoại thanh niên tại cấp xã chưa được quan tâm; đội ngũ làm công tác quản lý Nhà nước về thanh niên còn thiếu, lúng túng. Việc xây dựng các chính sách cho trường trung học phổ thông chuyên, trường năng khiếu trọng điểm để có cơ sở vật chất, trang thiết bị đồng bộ và hiện đại, có chất lượng giáo dục ngang tầm các trường trung học tiên tiến trong khu vực, quốc tế chưa đạt kết quả rõ rệt. Tỷ lệ phân luồng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông vào giáo dục nghề nghiệp chỉ được 15%, không đạt mục tiêu. Trong khi đó, hoạt động tuyên truyền, định hướng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm cho các đối tượng nêu trên cũng chưa hiệu quả… Hiền Hạnh
On the morning of January 10, the second National Committee on Vietnamese Youth Conference took place at Hanoi , chaired by Deputy Prime Minister Tran Hong Ha and First Secretary of the Central Youth Union, Chairman of the National Committee for Vietnamese Youth Bui Quang Huy. Deputy Prime Minister Tran Hong Ha gave a directive speech. Photo: Minh Duc/TTXVN Based on the domestic and world situation in 2022 that has a direct impact on the issues of building and implementing youth policies and laws, First Secretary of the Central Youth Union Bui Quang Huy requested delegates to attend. The conference was interested in discussing the results that ministries and branches have implemented in their fields related to policies and laws on youth and youth work. The Chairman of the National Committee for Vietnamese Youth emphasized that it is necessary to frankly acknowledge the advantages and limitations in the process of implementing the functions and tasks of the Committee, as well as contribute recommendations and suggestions on Operational direction for 2023 with key target groups and specific solutions, thereby increasingly promoting the effectiveness of the Committee's activities, clearly affirming its position and role as an inter-sectoral coordinating organization with the following functions: Consulting capacity to assist the Prime Minister on youth work. At the Conference, delegates expressed agreement with the reports and highly appreciated the results that the National Committee for Youth of Vietnam has achieved in 2022. Analyzing the effectiveness of current youth management work Today, many delegates have pointed out specific difficulties, limitations and problems. Deputy Chairman of the National Assembly's Culture and Education Committee Ta Van Ha said that the implementation of the Youth Law into real life still has many challenges, although there have been certain adjustments. According to Mr. Ta Van Ha, the situation of "white giving" of responsibility to the Youth Union is also shown in the fact that there are currently only 7 out of 22 projects and schemes in the Vietnam Youth Development Strategy for the period 2021-2030. built. In particular, 6 out of 7 projects and schemes were also "authored" by the Youth Union. According to Deputy Minister of Education and Training Ngo Thi Minh, currently there are many inadequate "gaps" in coordinating the implementation of propaganda and dissemination of the Youth Law, especially in localities. The work of organizing dialogue between leaders, heads of departments, branches, and localities with young people is not systematic, has not even been paid attention to, and has not been implemented. The integration of youth policies has not been implemented well and has not produced the expected results. Commenting at the Conference, Deputy Minister of Education and Training Ngo Thi Minh said that more attention should be paid to the needs of young people; Streamlining vocational training associated with job creation for young people. State management of youth must be associated with the four words "trust - assign - create - co", which are: believe in youth, assign tasks, create conditions and encourage youth to develop. Affirming that the Party and State's policies on youth work and policies all show special concern for the country's leading, young, knowledgeable, shock force, the Deputy Prime Minister said. Tran Hong Ha suggested that in the 2023 work plan of the National Committee for Youth of Vietnam, more specific tasks should be set out. These tasks are determined from the practice of implementing work in all professions and fields in which young people directly participate. “There are many things in the coming time that need to set new tasks for young people, from research, technology transfer, to post-pandemic adaptation, contributing to socio-economic development... Tasks Whose shoulders does this fall on? These are people with youthful energy and knowledge like young people," said the Deputy Prime Minister. The Deputy Prime Minister requested relevant parties to look back at the shortcomings and limitations mentioned at the Conference, and propose specific solutions for the Government and localities, agencies and organizations to participate and accompany. with young people to realize the aspiration of a strong country in the near future. Conference scene. Photo: Minh Duc/TTXVN In 2022, the National Committee for Youth of Vietnam has completed the tasks as planned, including focusing on coordinating proposals and developing policies on youth, especially programs and projects. projects, projects and tasks under the Vietnam Youth Development Strategy for the period 2021-2030. The Committee has coordinated with the Central Youth Union, Vietnam Young Entrepreneurs Association and related units to develop the Project "White Paper on youth startups for the period 2023-2027"; build a database, synthesize models and ideas of young startups; develop a draft set of criteria "For the development of Vietnamese youth"... The Committee coordinates with provinces and cities across the country to investigate, review and evaluate the implementation of policies and laws on with youth and youth work in 2022, achieving many positive results. However, resources to ensure the implementation and enforcement of the Youth Law and legal documents on youth still face many difficulties due to having to be allocated from the State budget in annual recurrent expenditure estimates; Youth dialogue at the commune level has not received attention; The team working on State management of youth is lacking and confused. Developing policies for specialized high schools and key gifted schools to have synchronous and modern facilities and equipment, with educational quality on par with advanced high schools in the area. regionally and internationally have not achieved clear results. The rate of streaming students after middle school and high school into vocational education is only 15%, not reaching the target. Meanwhile, propaganda activities, career orientation, and job introduction for the above subjects are also ineffective... Hien Hanh
Lãnh đạo UBND huyện Hoàng Sa , TP Đà Nẵng đã đến thăm các nhân chứng từng sinh sống, làm việc và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa trước ngày 19-1-1974. Ngày 10-1, ông Võ Ngọc Đồng, Giám đốc Sở Nội vụ ( TP Đà Nẵng ) kiêm Chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa cùng đoàn công tác đã đến thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình nhân chứng từng sinh sống, làm việc tại quần đảo Hoàng Sa nhân 49 năm ngày Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm trái phép Hoàng Sa (19-1-1974 – 19-1-2023). Theo đó, đoàn đến thăm ông Trần Văn Sơn là nhân chứng Hoàng Sa. Ông Trần Văn Sơn đang sinh sống tại đường Võ Văn Kiệt, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà , Đà Nẵng. Đồng thời đoàn đến thăm hỏi, tặng quà tri ân 13 nhân chứng khác trên địa bàn. Theo lịch trình, sáng 11-1, đoàn sẽ tiếp tục đi thăm hỏi sáu nhân chứng tại tỉnh Quảng Nam. UBND huyện Hoàng Sa trao quà cho ông Trần Văn Sơn, là một trong các nhân chứng Hoàng Sa. Ảnh: NGÔ QUANG Ông Võ Ngọc Đồng cho biết, mỗi năm đến ngày 19-1, huyện đảo luôn có kế hoạch đi thăm hỏi các nhân chứng còn sống và đến nhà thắp hương tri ân những người đã mất. “Đây như một lời khẳng định rằng, thế hệ hôm nay luôn ghi nhớ, biết ơn sự hy sinh của những thế hệ trước trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Và qua đây, nhắc nhở thế hệ trẻ về chủ quyền quần đảo này của Tổ quốc chúng ta” – ông Đồng nhấn mạnh. NGÔ QUANG
Leader of People's Committee Hoang Sa district , Da Nang City visited witnesses who lived, worked and protected the Hoang Sa archipelago before January 19, 1974. On January 10, Mr. Vo Ngoc Dong, Director of the Department of Home Affairs ( Da Nang City ) and Chairman of the People's Committee of Hoang Sa district and the working group visited and gave gifts to families of witnesses who lived and worked in the Hoang Sa archipelago on the 49th anniversary of the day China used force to illegally occupy the Hoang Sa archipelago. Sa (January 19, 1974 – January 19, 2023). Accordingly, the delegation visited Mr. Tran Van Son, a witness of Hoang Sa. Mr. Tran Van Son is living on Vo Van Kiet street, Phuoc My ward, Son Tra district , Danang. At the same time, the delegation visited and gave gifts of gratitude to 13 other witnesses in the area. According to the schedule, on the morning of January 11, the delegation will continue to visit six witnesses in Quang Nam province. Hoang Sa District People's Committee presented a gift to Mr. Tran Van Son, one of the Hoang Sa witnesses. Photo: NGO QUANG Mr. Vo Ngoc Dong said that every year on January 19, the island district always plans to visit living witnesses and go to homes to burn incense to pay tribute to those who have passed away. “This is an affirmation that today's generation always remembers and is grateful for the sacrifices of previous generations in the struggle and protection of the Fatherland's territorial sovereignty. And through this, remind the young generation about the sovereignty of this archipelago of our Fatherland" - Mr. Dong emphasized. NGO QUANG
Đó là chia sẻ của “nhân chứng Hoàng Sa” Nguyễn Văn Cúc với lãnh đạo UBND huyện Hoàng Sa ( TP Đà Nẵng ) tại buổi thăm hỏi và tặng quà cho những người từng làm việc, sinh sống ở quần đảo Hoàng Sa từ trước năm 1974, tổ chức ngày 10-1. Lãnh đạo và cán bộ UBND huyện Hoàng Sa trao quà chúc Tết cho “nhân chứng Hoàng Sa” Nguyễn Văn Cúc – Ảnh: TRƯỜNG TRUNG Ngày 10-1, UBND huyện Hoàng Sa đã đi thăm hỏi sức khỏe những “nhân chứng Hoàng Sa” tại TP Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam . Họ là những người từng sống và công tác tại quần đảo Hoàng Sa thời điểm trước năm 1974 (trước thời điểm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ngày 19-1-1974). Ông Võ Ngọc Đồng, chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa, TP Đà Nẵng, cho biết mỗi năm đến dịp 19-1, huyện đảo luôn có kế hoạch đi thăm hỏi các nhân chứng còn sống và đến nhà thắp hương tri ân những người đã mất. Đây là nghĩa cử khẳng định luôn ghi nhớ, biết ơn sự hy sinh của những thế hệ trước trong công cuộc đấu tranh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời là thông điệp nhắc nhở thế hệ trẻ về chủ quyền của Tổ quốc với quần đảo này. Đến thăm gia đình ông Nguyễn Văn Cúc, người có 3 lần sống trên quần đảo Hoàng Sa, ông Đồng đã trao quà chúc Tết của huyện đảo. Đồng thời bày tỏ lòng biết ơn với những nhân chứng Hoàng Sa thời gian qua đã hiến tặng rất nhiều kỷ vật. Đóng góp và làm phong phú tư liệu, góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa. Ông Nguyễn Văn Cúc, người có 3 lần sống trên quần đảo Hoàng Sa, đồng thời trải qua sự kiện ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa 19-1-1974 – Ảnh: TRƯỜNG TRUNG Ông Đồng cho biết những “ nhân chứng Hoàng Sa ” chính là cầu nối quan trọng để thế hệ hôm nay hiểu hết những câu chuyện ở quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc. “Chúng tôi thấy rằng những nhân chứng đã đóng góp nhiều tư liệu gốc cho huyện Hoàng Sa. Do vậy thời gian tới tôi sẽ in những hình ảnh chụp các kỷ vật gởi tặng của các gia đình để tặng lại họ. Như vậy các nhân chứng Hoàng Sa sẽ có bộ sưu tập đầy đủ của những người đồng đội để giới thiệu cho con cháu” – ông Đồng nói. Ông Nguyễn Văn Cúc là người đã ra Hoàng Sa 3 lần làm nhiệm vụ khảo sát, sửa chữa và xây dựng. Là nhân chứng sống hiếm hoi còn minh mẫn sau khi những người đồng đội lần lượt bị thời gian và tuổi tác đánh gục, ông Cúc bày tỏ niềm vui khi được đồng hành với UBND huyện Hoàng Sa và Nhà trưng bày Hoàng Sa trong nhiều sự kiện. “Đến bây giờ nằm mơ tôi cũng nhớ tới những ngày tháng ở trên đảo Hoàng Sa. Nhưng Tết lại làm tôi nhớ đảo da diết bởi tôi là người trải qua sự kiện ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa 19-1-1974. Thời điểm này năm ấy cũng cận Tết, tôi lên đảo, sau đó giao tranh xảy ra, bị bắt lại. Tôi trải qua cái Tết trên đảo năm đó” – ông Cúc nói. TRƯỜNG TRUNG
That is what "Hoang Sa witness" Nguyen Van Cuc shared with the People's Committee leaders Hoang Sa district ( Da Nang City ) at the meeting and giving gifts to people who worked and lived in the Hoang Sa archipelago before 1974, held on January 10. Leaders and officials of Hoang Sa District People's Committee gave Tet gifts to "Hoang Sa witness" Nguyen Van Cuc - Photo: TRUONG TRUNG On January 10, the People's Committee of Hoang Sa district visited the health of "Hoang Sa witnesses" in Da Nang City and Quang Nam Province . They are people who lived and worked in the Hoang Sa archipelago before 1974 (before China forcibly occupied Hoang Sa on January 19, 1974). Mr. Vo Ngoc Dong, Chairman of the People's Committee of Hoang Sa District, Da Nang City, said that every year on January 19, the island district always plans to visit living witnesses and go to homes to burn incense to pay tribute to those who have died. lost. This is an affirmative gesture to always remember and be grateful for the sacrifices of previous generations in the struggle and protection of the Fatherland's territorial sovereignty. At the same time, it is a message to remind the young generation about the Fatherland's sovereignty over this archipelago. Visiting the family of Mr. Nguyen Van Cuc, who lived 3 times on the Hoang Sa archipelago, Mr. Dong gave Tet gifts to the island district. At the same time, he expressed his gratitude to the Hoang Sa witnesses who have donated many souvenirs in recent times. Contribute and enrich documents, contributing to affirming Vietnam's sovereignty over the Hoang Sa archipelago. Mr. Nguyen Van Cuc, who lived 3 times on the Hoang Sa archipelago, also experienced the event of China's forced occupation of Hoang Sa on January 19, 1974 - Photo: TRUONG TRUNG Mr. Dong said the “ Hoang Sa witnesses ” is an important bridge for today's generation to fully understand the stories of the sacred islands of the Fatherland. “We found that witnesses contributed many original documents for Hoang Sa district. Therefore, next time I will print pictures of souvenirs sent by families to give back to them. Thus, Hoang Sa witnesses will have a complete collection of comrades to introduce to their children and grandchildren" - Mr. Dong said. Mr. Nguyen Van Cuc is a person who went to Hoang Sa 3 times to do survey, repair and construction tasks. As a rare living witness who remained lucid after his comrades were defeated by time and age, Mr. Cuc expressed his joy at accompanying the People's Committee of Hoang Sa district and the Hoang Sa Exhibition House in many events. to sue. “Even now, when I dream, I remember the days on Hoang Sa Island. But Tet makes me miss the island very much because I was the one who experienced the incident on January 19, 1974 when China forcibly occupied Hoang Sa. This time of year was also close to Tet. I went to the island, then a fight broke out and was captured. I spent Tet on the island that year" - Mr. Cuc said. TRUNG TRUONG
Sáng nay (11-1), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính lên đường thăm chính thức nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và đồng chủ trì Kỳ họp lần thứ 45 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam – Lào theo lời mời của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào Sonexay Siphandone. Thủ tướng Phạm Minh Chính rời Hà Nội, sang thăm chính thức CHDCND Lào. Cùng đi với Thủ tướng Phạm Minh Chính có các đồng chí: Bùi Thanh Sơn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chủ tịch Ủy ban hợp tác Việt Nam-Lào; Lê Thành Long, Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Tài chính; Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; Nguyễn Kim Sơn, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Trung tướng Nguyễn Duy Ngọc, Thứ trưởng Bộ Công an; Nguyễn Bá Hùng, Đại sứ Việt Nam tại Lào; Nguyễn Thị Hoàng Vân, Phó trưởng ban Thường trực Ban Đối ngoại Trung ương; Nguyễn Xuân Thành, Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ và lãnh đạo các bộ, cơ quan, địa phương tham dự Kỳ họp lần thứ 45 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam-Lào. NGỌC MINH
This morning (January 11), Prime Minister Pham Minh Chinh left for an official visit to the Lao People's Democratic Republic and co-chaired the 45th meeting of the Intergovernmental Committee. Vietnam – Laos at the invitation of Prime Minister of the Lao People's Democratic Republic Sonexay Siphandone. Prime Minister Pham Minh Chinh left Hanoi and paid an official visit to Laos. Accompanying Prime Minister Pham Minh Chinh were comrades: Bui Thanh Son, Minister of Foreign Affairs; Nguyen Chi Dung, Minister of Planning and Investment, Chairman of the Vietnam-Laos Cooperation Committee; Le Thanh Long, Minister of Justice; Ho Duc Phoc, Minister of Finance; Nguyen Manh Hung, Minister of Information and Communications; Nguyen Kim Son, Minister of Education and Training; Le Minh Hoan, Minister of Agriculture and Rural Development; Senior Lieutenant General Hoang Xuan Chien, Deputy Minister of National Defense; Lieutenant General Nguyen Duy Ngoc, Deputy Minister of Public Security; Nguyen Ba Hung, Vietnamese Ambassador to Laos; Nguyen Thi Hoang Van, Standing Deputy Head of the Central Foreign Affairs Committee; Nguyen Xuan Thanh, Deputy Head of the Government Office and leaders of ministries, agencies and localities attended the 45th Meeting of the Vietnam-Laos Intergovernmental Committee. PEARL LEAGUE
Cứ gần Tết, ra đường gặp những cây quất vàng tươi là con lại nhớ những cái Tết ngày xưa giản dị trong làng quê yên bình. Con nhớ về làng mình với những ngôi nhà lợp cỏ tranh mọc lên trên mảnh đất cao ráo, được dựng bằng tre, được trát bằng đất bùn ao cùng rơm, rạ; chỉ cần với tay qua là đã cho nhau củ khoai nướng hoặc những món quà quê giản dị. Sắp Tết, xóm làng rộn ràng hẳn lên. Chỗ này, tiếng nói cười rôm rả của những người đi xa về chào hỏi, tiếng lợn kêu eng éc, tiếng chày giã giò bình bịch… đúng là vui như Tết ! Con nhớ lắm cái cầu ao đã nhẵn thín bao mùa con ngồi rửa lá dong một cách tỉ mẩn, cẩn thận và sạch sẽ. Lúc gói bánh là lúc xôn xao cả cái sân nhỏ. Ông mặc bộ quần áo nâu gọn gàng, xung quanh la liệt thúng, nia nào lá, đỗ xanh, thịt ướp hạt tiêu, lạt giang, gạo nếp, khuôn bánh… Con phụ ông cắt lá cho vừa khuôn, anh ngồi buộc lạt cho những cái bánh vừa gói xong. Đêm luộc bánh chưng mới thú vị làm sao. Cả nhà quây quần bên bếp lửa. Sắp Tết, xóm làng rộn ràng hẳn lên, tiếng nói cười rôm rả… (Ảnh minh họa từ Internet). Trong lúc canh bánh, đứa nào thích gửi ông đồ rau (bếp kê bằng ba ông đồ rau nặn bằng đất sét phơi khô để đặt nồi lên) nướng gì thì gửi. Khi thì củ khoai lang, khoai tây, khi thì củ sắn thơm lừng. Ai đi rét về cũng thích ngồi bên bếp hơ tay chân lạnh cóng. Vui nhất là khi vớt bánh chưng con, những chiếc bánh nhỏ xíu được ông gói theo sở thích từng đứa và đánh dấu bằng cách buộc lạt được nhận về, ăn luôn hoặc giữ thì tùy chủ nhân của cái bánh. Rôm rả, vui vẻ và ấm cúng biết bao. Bánh được vớt ra, sắp lên một tấm cánh cửa, sau đó đặt một cánh cửa khác lên rồi đè lên cái cối đá giã cua loại nặng mới hoàn tất phần ép bánh. Dù bận thế nào, bà và sau này là mẹ cứ chiều ba mươi đun một nồi nước cây mùi già cho cả nhà tắm tất niên. Đến bây giờ, dù đi xa, tập tục vẫn theo con đến mảnh đất này. Cả một năm cũ với bụi bặm được tẩy trần thanh sạch, người nhẹ nhõm, khoan khoái thơm tho. Cả không gian nồng ấm mùi hương đồng nội. Cha hì hụi gói giò mỡ bên chái hiên. Việc này chỉ cha đảm nhiệm từ khâu làm thịt, ướp gia vị cho đến canh xào thịt sao cho đủ săn, đủ lửa. Những cái mo cau rụng, cha lột đi cho đỡ dày rồi cuộn tròn trong gác bếp. Lúc lôi đi rửa, nó khô cong như một chiếc tù và bám đầy bồ hóng đen kịt. Ấy mà khi rửa sạch sẽ nó lại mềm mại như một tấm bìa dai và phảng phất hương cau. Cha đổ thịt vừa xào còn nóng hổi vào chiếc mo cau đã ráo nước rồi cuộn tròn lại, buộc lạt giang xoáy thật chặt. Cái lạt giang được xoáy tròn, mềm mại, chặt chẽ trong bàn tay thô ráp của cha trông mới điệu nghệ làm sao. Chiếc giò lúc này như một cái kẹo khổng lồ. Rồi cha cố định nó vào hai tấm ván gỗ nhỏ, dựng lên cho chảy bớt mỡ. Mỡ nhỏ ra đến đâu đông trong lòng bát ngay đến đó. Vì ép gỗ nên lúc cắt giò bày ra đĩa, khoanh giò không được tròn như giò gói bằng khuôn bây giờ. Nhìn cái giò, tôi nhớ đến lọ dưa hành mẹ muối đã lên chua đang vàng ánh mà nuốt nước miếng. Ăn giò mỡ chấm với nước mắm chắt thơm lừng kèm dưa hành muối thì thật tuyệt vời. Vị ngọt đằm, thơm của thịt lợn nhà, vị giòn của thịt tai với mộc nhĩ quyện trong vị cay cay của hạt tiêu với mùi mắm, phảng phất chút hương mo cau kèm vị chua của dưa hành muối thật là tuyệt! Tết vui nhất là được đi mua quất cùng cha rồi về hì hụi trang trí bằng những giấy trang kim óng ánh. Từ xưa, trong nhà mình Tết thiếu gì thì thiếu nhưng đào và quất thì không thể. Từng chùm quả quất vàng lúc lỉu trên màu xanh đậm của lá, lấm tấm trắng nụ hoa tỏa ngát hương thơm tô điểm cho căn nhà thêm ấm cúng. Con nhớ lắm cái không khí trang nghiêm mà ấm cúng đêm giao thừa và ngày mùng một Tết. Mọi nỗi buồn cùng những gì chưa tốt đẹp được để lại năm cũ, mọi người vui mừng hoan hỉ tống cựu nghinh tân, chúc nhau một năm mới an lành, hạnh phúc. Con dù lớn vẫn được cha mẹ mừng tuổi. Đồng tiền đó con giữ lại làm “bùa” may mắn cho riêng mình. Tết nào, con cũng về với mẹ. Năm nay, con biết là mẹ mong con nhiều lắm. Hôm trước gọi điện, mẹ đã hỏi: – Bao giờ tụi bây về? Con ngập ngừng vì chưa biết trả lời mẹ thế nào thì mẹ nói: – Mẹ vẫn khỏe, nếu khó khăn quá thì từ từ sang năm hãy về. Các con bình yên là mẹ vui rồi. Nói vậy thôi nhưng con chắc là mẹ đã chuẩn bị Tết từ lâu rồi để đón các con về. Ước có thật nhiều mùa xuân được ở bên cha mẹ! H.K.Q
Every time Tet approaches, when I go out on the street and see bright yellow kumquat trees, I remember the simple Tet days of the past in peaceful villages. I remember my village with thatched grass-roofed houses growing on high land, built of bamboo, plastered with pond mud and straw; Just reach over and give each other baked potatoes or simple country gifts. Tet is coming, the village is bustling. Here, the chatter and laughter of people returning from far away to say hello, the sound of pigs squealing, the sound of pestles pounding sausages... it's truly fun. Tet ! I remember so much that the pond's bridge was smooth and smooth, and I sat and washed dong leaves meticulously, carefully and cleanly. When wrapping the cake, the whole small yard was buzzing. He wore neat brown clothes, surrounded by baskets, leaves, green beans, meat marinated with pepper, latkes, sticky rice, cake molds... His helper cut the leaves to fit the mold, and he sat and tied the lattice for him. The cakes have just been wrapped. The night of boiling banh chung was so interesting. The whole family gathered around the fire. Tet is coming, the village is bustling with laughter and chatter... (Illustration from the Internet). During the cake soup, whoever wants to send the vegetables to the man (the kitchen is built with three vegetables molded out of dried clay to put the pot on) can send something to bake. Sometimes it's sweet potatoes, potatoes, sometimes it's fragrant cassava. Anyone who comes home from a cold trip also likes to sit by the kitchen to warm their cold hands and feet. The happiest thing was when picking up baby banh chung, the tiny cakes that he wrapped according to each child's preference and marked with a string to be accepted, eaten immediately or kept, depending on the owner of the cake. How cheerful, fun and cozy. The cake is taken out, placed on a door, then placed on another door and then pressed on a heavy crab stone mortar to complete the pressing of the cake. No matter how busy she was, she and later her mother always boiled a pot of old coriander water every afternoon for the whole family to bathe at the end of the year. Even now, even though I travel far, customs still follow me to this land. The whole year of dust and dirt has been cleansed, the body feels light, refreshed and fragrant. The whole space is filled with the scent of the countryside. Dad was busy wrapping fatty sausages on the porch. This job is only my father's responsibility, from cooking the meat, marinating it with spices, to soup and stir-frying the meat so that it's firm enough and hot enough. The areca leaves fell off, my father peeled them off to make them less thick and curled them up in the kitchen. When I took it to wash, it was as dry and bent as a horn covered in black soot. Yet when washed, it is as soft as a tough cardboard and has a subtle scent of areca nut. Dad poured the hot stir-fried meat into the drained areca palm and rolled it up, tying the lat giang tightly. The swirled, soft and tight lat giang in my father's rough hands looked so skillful. The sausage now looks like a giant candy. Then my father fixed it to two small wooden planks and stood it up to drain away the fat. Wherever the fat drips out, it freezes in the bowl right away. Because the wood is pressed, when the sausage is cut and placed on a plate, the sausage is not round like the sausage wrapped in molds now. Looking at the sausage, I remember a jar of pickled onions Mom The salt has turned sour and is golden yellow, making you salivate. Eating pork sausage dipped in fragrant fish sauce and pickled onions is truly wonderful. The sweet, fragrant taste of domestic pork, the crispy taste of ear meat and wood ear mushrooms mixed with the spicy taste of pepper with the smell of fish sauce, a hint of areca nut flavor and the sour taste of pickled onions is truly wonderful! The happiest part of Tet is going to buy kumquats with my father and then coming home to decorate them with iridescent paper. Since ancient times, in our house, Tet is lacking, but peaches and kumquats are impossible. Clusters of yellow kumquats linger on the dark green leaves, dotted with fragrant white flower buds, making the house more cozy. I miss the solemn yet cozy atmosphere of New Year's Eve and the first day of Tet. All sadness and bad things are left behind in the old year, everyone happily celebrates the new year, wishing each other a peaceful and happy new year. Even though children are grown up, their parents still celebrate their coming of age. I kept that coin as a lucky "charm" for myself. Every Tet, I come home to my mother. This year, I know that you expect me a lot. When I called the other day, my mother asked: – When will we come back? I hesitated because I didn't know how to answer her, then she said: – Mom is still healthy, if it's too difficult, then slowly come back next year. When the children are at peace, the mother is happy. Having said that, I'm sure mom has been preparing for Tet for a long time to welcome her children home. I wish I had many springs to spend with my parents! H.K.Q
Khả năng cân bằng CO2 của đất bùn tốt hơn xi măng và thực tế này mở ra xu hướng xây dựng bằng vật liệu thân thiện môi trường này. Thành phố Dariya, gần thủ đô Riyadh của Saudi Arabia được xây dựng bằng gạch bùn. Ảnh: PR Newswire Tại Brussels , công trình xây dựng bằng đất bùn đang thu hút sự quan tâm trở lại của các kiến trúc sư khi vật liệu truyền thống này làm giảm lượng khí thải CO2 của các tòa nhà đồng thời cho phép chúng chịu được nhiệt độ tăng cao tốt hơn. Công trình điển hình sử dụng đất bùn xây dựng gồm lâu đài Alhambra ở Granada của Tây Ban Nha thời trung cổ và Nhà thờ Hòa giải ở Berlin vào năm 2001. Hai công trình này được xây dựng bằng đất thô với một phần đất sét được nén chặt và đóng thành từng lớp, không nung. Trong khi thành phố Dariya, gần thủ đô Riyadh của Saudi Arabia được xây dựng bằng gạch bùn. Theo ông Xavier Chateau, Giám đốc nghiên cứu vật liệu tại phòng thí nghiệm Navier, thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), một kg xi măng sử dụng trong xây dựng thải ra một lượng tương đương khí CO2, trong khi một kg đất thô không phát thải. Không chỉ thân thiện với môi trường, đất thô có khả năng điều chỉnh độ ẩm một cách tự nhiên và có thể tái chế 100%. Do đó, đất có thể giúp đáp ứng một thách thức lớn về khí hậu. Theo tính toán của ông Chateau, nếu có thể giảm 25% lượng xi măng tiêu thụ trên thế giới, nhân loại sẽ loại bỏ tác động đến khí hậu của tất cả các phương tiện giao thông hàng không. Tuy nhiên, các công trình được xây dựng bằng đất đơn thuần dễ bị sụp đổ trong điều kiện thời tiết xấu. Do vậy, các nhà khoa học khuyến nghị nên gia cố bằng chất phụ gia, xi măng, vôi, xỉ sắt và thép (bã thải lò cao) hoặc các sản phẩm có nguồn gốc sinh học (rơm rạ hoặc cây gai dầu), để ổn định đất, giúp đảm bảo độ bền chắc của các công trình xây dựng bằng nguyên liệu này. Hiện 1/3 nhân loại sống trong ngôi nhà bằng đất, tương ứng hơn 2 tỷ người ở 150 quốc gia. Có nhiều phương pháp sử dụng đất khác nhau: đất nện, lõi ngô (đất thô được cắt bằng rơm), đất bùn (các lớp lõi ngô liên tiếp không có khung), nhà khung gỗ (đất được nén chặt trong khung gỗ) hoặc gạch đất thô. Tuy nhiên, việc thi công trên thực tế khá tốn kém và phức tạp do thiếu nhân lực có trình độ./. Hương Giang
Balance ability CO2 of mud is better than cement and this fact opens up the trend of building with this environmentally friendly material. The city of Dariya, near Saudi Arabia's capital Riyadh, is built of mud bricks. Photo: PR Newswire In Brussels , mud construction is attracting renewed interest from architects as the traditional material reduces buildings' CO2 emissions while allowing them to better withstand rising temperatures . Typical buildings using mud for construction include Granada's Alhambra castle Spain medieval period and the Church of Reconciliation in Berlin in 2001. These two buildings were built of raw earth with a portion of clay compacted and packed into layers, not baked. While the city of Dariya, near Riyadh's capital Saudi Arabia built of mud bricks. According to Mr. Xavier Chateau, Director of Materials Research at Navier Laboratory, part of the French National Center for Scientific Research (CNRS), one kilogram of cement used in construction emits an equivalent amount of CO2, in when one kilogram of raw soil emits no emissions. Not only is it environmentally friendly, raw soil has the ability to naturally regulate humidity and is 100% recyclable. Soils can therefore help meet a major climate challenge. According to Mr. Chateau's calculations, if it is possible to reduce the world's cement consumption by 25%, humanity will eliminate the climate impact of all means of air transport. However, structures built with simple earth are susceptible to collapse in bad weather conditions. Therefore, scientists recommend reinforcing with additives, cement, lime, iron and steel slag (blast furnace residue) or products of biological origin (straw or hemp), to stabilize the soil, helping to ensure the durability of construction works using this material. Currently, 1/3 of humanity lives in earthen houses, equivalent to more than 2 billion people in 150 countries. There are many different methods of using soil: rammed earth, cob (coarse soil cut with straw), mud soil (consecutive layers of cob without a frame), wood frame houses (soil compacted in a wooden frame) or raw earth bricks. However, the actual construction is quite expensive and complicated due to lack of qualified human resources./. Huong Giang
Dự kiến trong tháng 1 năm 2023, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng với sự hợp tác của CTCP Giải pháp Chuyển đổi số (VR360) – thành viên của Bizverse- sẽ cho ra mắt Website thực tế ảo VR360 chi tiết cho toàn Bảo tàng; tích hợp tính năng MC ảo thuyết minh giới thiệu tổng quan, đưa mô hình 3D Bảo tàng số lên vị trí Map 3D Bizverse World. Đây cũng là bước đi đầu tiên của 3 giai đoạn chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu cải thiện, nâng cao chất lượng phục vụ công chúng, tăng trải nghiệm cho khách tham quan trong và ngoài nước, thực hiện chuyên nghiệp và hiệu quả hơn ứng dụng công nghệ số vào công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, di sản mỹ thuật nói riêng, đồng thời quảng bá rộng rãi hơn nữa hình ảnh của Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng. Được biết, trong tổng số 2.059 hiện vật mà Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng đang sở hữu, do hạn chế về diện tích và không gian trưng bày, mới chỉ đưa ra trưng bày dưới 400 hiện vật. Trong hơn 1.600 hiện vật đang được lưu giữ, bảo quản tại kho, có rất nhiều hiện vật đặc biệt quý vẫn chưa thể đưa ra trưng bày để công chúng thưởng thức hoặc tìm hiểu, nghiên cứu được. Đơn cử như bộ sưu tập tranh lụa của họa sĩ Linh Chi , bộ sưu tập tranh lụa của họa sĩ Tú Duyên , nhiều tác phẩm trong bộ sưu tập tranh, tượng của Nhà điêu khắc Lê Công Thành … và nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc khác. Dự kiến tháng 1 năm 2023, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng sẽ cho ra mắt Website thực tế ảo VR360. Theo Thạc sỹ Nguyễn Thị Trinh, với điều kiện cơ sở vật chất chưa cho phép, dù anh chị em làm việc tại Bảo tàng hằng ước ao được phát huy tối đa giá trị những sưu tập, hiện vật quý, để hiện vật có thể sống đời sống bổ ích và ý nghĩa hơn khi được tiếp cận công chúng, và được công chúng quan tâm, chiêm ngưỡng hoặc phục vụ tìm hiểu, nghiên cứu; thì rõ ràng số hóa hiện vật, trưng bày, giới thiệu trên không gian thực tế ảo là giải pháp tối ưu. Điều này còn rất thiết thực đối với những tác phẩm nghệ thuật bằng chất liệu cần bảo quản trong điều kiện khắt khe về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và hạn chế tiếp xúc. Từ những năm đầu mở cửa phục vụ công chúng kể từ tháng 12 năm 2016, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng đã xác định việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động bảo tàng là rất cần thiết và đã chú trọng sử dụng nhiều phương thức truyền thông mới. Đơn vị đã xây dựng website, tiến hành số hóa quản lý hiện vật bằng phần mềm quản lý hiện vật tích hợp với website của đơn vị, làm các video quảng bá, video 3D phục vụ tham quan online, tổ chức triển lãm online, phối hợp làm phim thực tế ảo VR360 giới thiệu tổng quan điểm đến online, chú trọng giới thiệu, quảng bá, kết nối với công chúng thông qua mạng xã hội Facebook, Google, Youtube, Twitter… Hẳn nhiên, những ứng dụng công nghệ số của đơn vị còn chưa chuyên nghiệp và mang tính manh nha, song, bước đầu thông tin về hoạt động của Bảo tàng, đặc biệt là các cuộc triển lãm luôn được cung cấp đầy đủ và đúng thời điểm trên website, mạng xã hội, thu hút được sự chú ý, kết nối hiệu quả với công chúng yêu nghệ thuật Lượng khách tham quan đến với Bảo tàng nhờ đó cũng đã tăng rõ rệt qua từng năm. Khách tham quan chụp ảnh lưu niệm bên những hiện vật ngoài trời tại Bảo tàng. Ngoài ra, qua internet, Bảo tàng cũng đã kết nối với nhiều họa sỹ tên tuổi, nhà sưu tập trong và ngoài nước. Việc các tổ chức cá nhân tin tưởng ủng hộ hoạt động của bảo tàng, liên kết tổ chức nhiều sự kiện mỹ thuật mới lạ, ý nghĩa đã thật sự đem lại nhiều lợi ích bất ngờ cả trong công tác chuyên môn và hiệu quả về kinh tế xã hội. Nhờ kết nối số, Bảo tàng đã hưởng ứng tham gia các cuộc hội thảo khoa học bổ ích, các sự kiện online do Hội đồng Bảo tàng quốc tế (ICOM) phát động, tham gia sự kiện Museum Week do các bảo tàng trên khắp thế giới đồng loạt tổ chức hàng năm với sự ủng hộ của UNESCO… Đây chính là một trong những cơ hội giới thiệu hiệu quả hình ảnh của bảo tàng đến bạn bè quốc tế”, Họa sỹ Trương Nguyễn Nguyên Kha – Trưởng Phòng Nghiệp vụ, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng, chia sẻ. Trước yêu cầu cấp thiết về chuyển đổi số, để bắt nhịp với xu thế chuyển đổi số toàn cầu hiện, bên cạnh phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua, Bảo tàng đã tiến hành ký kết hợp tác với CTCP Giải pháp Chuyển đổi số (VR360) – thành viên của Bizverse để được tư vấn, hỗ trợ và cung cấp, đưa vào ứng dụng công nghệ mới phục vụ chuyển đổi số đơn vị. Lộ trình và những công việc đã và đang bắt đầu triển khai được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 bắt tay xây dựng Điểm neoWebsite thực tế ảo VR360 chi tiết cho toàn Bảo tàng; tích hợp tính năng MC ảo thuyết minh giới thiệu tổng quan, đưa mô hình 3D Bảo tàng số lên vị trí Map 3D Bizverse World. Hiện tại, chúng tôi đang hoàn thiện giai đoạn này, dự kiến sẽ ra mắt sản phẩm trong tháng 1 năm 2023. Giai đoạn 2 sẽ thực hiện số hóa chi tiết từng vật phẩm của Bảo tàng bằng công nghệ scan 3D, số hóa NFT các vật phẩm (lưu giữ và quảng bá), tiếp tục tích hợp công nghệ QR code và MC ảo thuyết minh cho từng tác phẩm, đối tượng, tranh ảnh… Giai đoạn 3 sẽ thực hiện nâng cấp giao diện, cập nhật tính năng mới, tạo không gian triển lãm cho Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng trên Metaverse, người xem có thể tham quan từ xa, tương tác và xoay 360 0 các hiện vật… “Trong xu thế hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể ứng dụng công nghệ 3D, IoT, Vr360 vào lĩnh vực bảo tàng, văn hóa, du lịch, mở ra một không gian tương tác hoàn toàn mới với mọi đối tượng du khách và công chúng, bất kể du khách và công chúng đó, đang ở một nơi cách điểm đến, điểm muốn trải nghiệm và khám phá xa đến bao nhiêu. Map4D, IoT và Vr360 cho phép chúng ta quản lý, vận hành và khai thác các bảo tàng ở cấp độ lớn và cả chiều sâu. Tương tác thông minh mở ra những trang mới cho du lịch thông minh rất phù hợp với bối cảnh “bình thường mới” của thế giới chúng ta sau đại dịch. Du khách và công chúng càng háo hức muốn đến một bảo tàng hay một điểm đến nào đó được giới thiệu trên nền tảng metaverse, mà Map4D, VR360 chính là công nghệ chủ đạo. Với Đà Nẵng, những điều này càng dễ dàng thực hiện, và chúng tôi đang nỗ lực hợp tác cùng các bảo tàng để hiện thực các ý tưởng”, TS. Trịnh Công Duy – Giám đốc SDC – Người đã cùng các cộng sự nghiên cứu thành công đề tài Map4D (trong khuôn khổ dự án “Nền tảng bản đồ do người Việt Nam nghiên cứu và phát triển, lưu trữ và vận hành tại Việt Nam”, dự án đã giành giải Nhì của Cuộc thi “Viet Solutions-2020, tháng 10/2020), khẳng định. Việc xây dựng các ứng dụng lấy công chúng, khách tham quan làm trung tâm luôn được xác định phải phù hợp với xu thế phát triển công nghệ. Cũng như nhiều Bảo tàng trên cả nước, Bảo tàng Điêu khắc Chăm được giao tự chủ về kinh phí. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trong hai năm 2021, 2022, với chủ trương (được của Hội đồng nhân dân thành phố thông qua), để kích cầu trở lại sau thời gian bị đóng băng, miễn thu phí tham quan với mọi du khách vào thăm các Bảo tàng (trong đó, có Bảo tàng Điêu khắc Champa). Tiền lương, các khoản theo lương và chi hành chính đều được UBND thành phố Đà Nẵng hỗ trợ, hoàn toàn không có thêm nguồn kinh phí nào dành cho hoạt động chuyên môn. Có thể nói khó khăn về tài chính có thể xem là khó khăn lớn nhất hiện nay, ảnh hưởng cả đến các kế hoạch số hóa, lẫn chuyển đổi số của đơn vị. Trong khi đó, Bảo tàng Đà Nẵng lại đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi số, mà một trong những khó khăn lớn nhất, đó là thiếu nguồn nhân lực có trình độ công nghệ, thật sự hiểu rõ và nhanh nhạy trong cập nhật các xu hướng công nghệ mới để ứng dụng trong lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, trong thời kỳ khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thay đổi từng ngày, việc xây dựng các ứng dụng lấy công chúng, khách tham quan làm trung tâm luôn phải phù hợp với xu thế phát triển công nghệ, dễ dàng tích hợp và chia sẻ dữ liệu với các ứng dụng khác trong hệ sinh thái công nghệ. Yêu cầu này thật sự cần trình độ chuyên môn cao cả về công nghệ lẫn nghiệp vụ bảo tàng. Tượng Thánh Mẫu Nương nương. Cũng liên quan đến nhân lực chất lượng cao, theo ông Huỳnh Đình Quốc Thiện, còn phải có “người gác cửa không gian mạng”, để quá trình chuyển đổi số trên phạm vi rộng trong công tác chuyên môn của bảo tàng, luôn được an toàn, an ninh thông tin được bảo đảm, hạn chế tối đa các nguy cơ mất an toàn khi áp dụng tại Bảo tàng. Lãnh đạo Bảo tàng Đà Nẵng cũng chia sẻ, xây dựng và phát triển các dự án chuyển đổi số luôn đòi hỏi nguồn kinh phí lớn, đầu tư lâu dài, và hơn thế nữa … “Chúng ta mong muốn tạo ra một cơ hội mới, phát triển một sản phẩm văn hóa mới , có giá trị trên một không gian mới hoàn toàn, để công chúng thỏa sức tìm tòi, trải nghiệm, thực sự là một thách thức lớn. Ngoài đòi hỏi trình độ, năng lực, thời gian, công sức, kinh phí, còn phải có niềm đam mê, tâm huyết lớn và tính sáng tạo không ngừng nghỉ”, Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng bày tỏ./. Trần Ngọc
Dự kiến trong tháng 1 năm 2023, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng với sự hợp tác của CTCP Giải pháp Chuyển đổi số (VR360) – thành viên của Bizverse- sẽ cho ra mắt Website thực tế ảo VR360 chi tiết cho toàn Bảo tàng; tích hợp tính năng MC ảo thuyết minh giới thiệu tổng quan, đưa mô hình 3D Bảo tàng số lên vị trí Map 3D Bizverse World. Đây cũng là bước đi đầu tiên của 3 giai đoạn chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu cải thiện, nâng cao chất lượng phục vụ công chúng, tăng trải nghiệm cho khách tham quan trong và ngoài nước, thực hiện chuyên nghiệp và hiệu quả hơn ứng dụng công nghệ số vào công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, di sản mỹ thuật nói riêng, đồng thời quảng bá rộng rãi hơn nữa hình ảnh của Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng. Được biết, trong tổng số 2.059 hiện vật mà Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng đang sở hữu, do hạn chế về diện tích và không gian trưng bày, mới chỉ đưa ra trưng bày dưới 400 hiện vật. Trong hơn 1.600 hiện vật đang được lưu giữ, bảo quản tại kho, có rất nhiều hiện vật đặc biệt quý vẫn chưa thể đưa ra trưng bày để công chúng thưởng thức hoặc tìm hiểu, nghiên cứu được. Đơn cử như bộ sưu tập tranh lụa của họa sĩ Linh Chi , bộ sưu tập tranh lụa của họa sĩ Tú Duyên , nhiều tác phẩm trong bộ sưu tập tranh, tượng của Nhà điêu khắc Lê Công Thành … và nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc khác. Dự kiến tháng 1 năm 2023, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng sẽ cho ra mắt Website thực tế ảo VR360. Theo Thạc sỹ Nguyễn Thị Trinh, với điều kiện cơ sở vật chất chưa cho phép, dù anh chị em làm việc tại Bảo tàng hằng ước ao được phát huy tối đa giá trị những sưu tập, hiện vật quý, để hiện vật có thể sống đời sống bổ ích và ý nghĩa hơn khi được tiếp cận công chúng, và được công chúng quan tâm, chiêm ngưỡng hoặc phục vụ tìm hiểu, nghiên cứu; thì rõ ràng số hóa hiện vật, trưng bày, giới thiệu trên không gian thực tế ảo là giải pháp tối ưu. Điều này còn rất thiết thực đối với những tác phẩm nghệ thuật bằng chất liệu cần bảo quản trong điều kiện khắt khe về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và hạn chế tiếp xúc. Từ những năm đầu mở cửa phục vụ công chúng kể từ tháng 12 năm 2016, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng đã xác định việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động bảo tàng là rất cần thiết và đã chú trọng sử dụng nhiều phương thức truyền thông mới. Đơn vị đã xây dựng website, tiến hành số hóa quản lý hiện vật bằng phần mềm quản lý hiện vật tích hợp với website của đơn vị, làm các video quảng bá, video 3D phục vụ tham quan online, tổ chức triển lãm online, phối hợp làm phim thực tế ảo VR360 giới thiệu tổng quan điểm đến online, chú trọng giới thiệu, quảng bá, kết nối với công chúng thông qua mạng xã hội Facebook, Google, Youtube, Twitter… Hẳn nhiên, những ứng dụng công nghệ số của đơn vị còn chưa chuyên nghiệp và mang tính manh nha, song, bước đầu thông tin về hoạt động của Bảo tàng, đặc biệt là các cuộc triển lãm luôn được cung cấp đầy đủ và đúng thời điểm trên website, mạng xã hội, thu hút được sự chú ý, kết nối hiệu quả với công chúng yêu nghệ thuật Lượng khách tham quan đến với Bảo tàng nhờ đó cũng đã tăng rõ rệt qua từng năm. Khách tham quan chụp ảnh lưu niệm bên những hiện vật ngoài trời tại Bảo tàng. Ngoài ra, qua internet, Bảo tàng cũng đã kết nối với nhiều họa sỹ tên tuổi, nhà sưu tập trong và ngoài nước. Việc các tổ chức cá nhân tin tưởng ủng hộ hoạt động của bảo tàng, liên kết tổ chức nhiều sự kiện mỹ thuật mới lạ, ý nghĩa đã thật sự đem lại nhiều lợi ích bất ngờ cả trong công tác chuyên môn và hiệu quả về kinh tế xã hội. Nhờ kết nối số, Bảo tàng đã hưởng ứng tham gia các cuộc hội thảo khoa học bổ ích, các sự kiện online do Hội đồng Bảo tàng quốc tế (ICOM) phát động, tham gia sự kiện Museum Week do các bảo tàng trên khắp thế giới đồng loạt tổ chức hàng năm với sự ủng hộ của UNESCO… Đây chính là một trong những cơ hội giới thiệu hiệu quả hình ảnh của bảo tàng đến bạn bè quốc tế”, Họa sỹ Trương Nguyễn Nguyên Kha – Trưởng Phòng Nghiệp vụ, Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng, chia sẻ. Trước yêu cầu cấp thiết về chuyển đổi số, để bắt nhịp với xu thế chuyển đổi số toàn cầu hiện, bên cạnh phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua, Bảo tàng đã tiến hành ký kết hợp tác với CTCP Giải pháp Chuyển đổi số (VR360) – thành viên của Bizverse để được tư vấn, hỗ trợ và cung cấp, đưa vào ứng dụng công nghệ mới phục vụ chuyển đổi số đơn vị. Lộ trình và những công việc đã và đang bắt đầu triển khai được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 bắt tay xây dựng Điểm neoWebsite thực tế ảo VR360 chi tiết cho toàn Bảo tàng; tích hợp tính năng MC ảo thuyết minh giới thiệu tổng quan, đưa mô hình 3D Bảo tàng số lên vị trí Map 3D Bizverse World. Hiện tại, chúng tôi đang hoàn thiện giai đoạn này, dự kiến sẽ ra mắt sản phẩm trong tháng 1 năm 2023. Giai đoạn 2 sẽ thực hiện số hóa chi tiết từng vật phẩm của Bảo tàng bằng công nghệ scan 3D, số hóa NFT các vật phẩm (lưu giữ và quảng bá), tiếp tục tích hợp công nghệ QR code và MC ảo thuyết minh cho từng tác phẩm, đối tượng, tranh ảnh… Giai đoạn 3 sẽ thực hiện nâng cấp giao diện, cập nhật tính năng mới, tạo không gian triển lãm cho Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng trên Metaverse, người xem có thể tham quan từ xa, tương tác và xoay 360 0 các hiện vật… “Trong xu thế hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể ứng dụng công nghệ 3D, IoT, Vr360 vào lĩnh vực bảo tàng, văn hóa, du lịch, mở ra một không gian tương tác hoàn toàn mới với mọi đối tượng du khách và công chúng, bất kể du khách và công chúng đó, đang ở một nơi cách điểm đến, điểm muốn trải nghiệm và khám phá xa đến bao nhiêu. Map4D, IoT và Vr360 cho phép chúng ta quản lý, vận hành và khai thác các bảo tàng ở cấp độ lớn và cả chiều sâu. Tương tác thông minh mở ra những trang mới cho du lịch thông minh rất phù hợp với bối cảnh “bình thường mới” của thế giới chúng ta sau đại dịch. Du khách và công chúng càng háo hức muốn đến một bảo tàng hay một điểm đến nào đó được giới thiệu trên nền tảng metaverse, mà Map4D, VR360 chính là công nghệ chủ đạo. Với Đà Nẵng, những điều này càng dễ dàng thực hiện, và chúng tôi đang nỗ lực hợp tác cùng các bảo tàng để hiện thực các ý tưởng”, TS. Trịnh Công Duy – Giám đốc SDC – Người đã cùng các cộng sự nghiên cứu thành công đề tài Map4D (trong khuôn khổ dự án “Nền tảng bản đồ do người Việt Nam nghiên cứu và phát triển, lưu trữ và vận hành tại Việt Nam”, dự án đã giành giải Nhì của Cuộc thi “Viet Solutions-2020, tháng 10/2020), khẳng định. Việc xây dựng các ứng dụng lấy công chúng, khách tham quan làm trung tâm luôn được xác định phải phù hợp với xu thế phát triển công nghệ. Cũng như nhiều Bảo tàng trên cả nước, Bảo tàng Điêu khắc Chăm được giao tự chủ về kinh phí. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trong hai năm 2021, 2022, với chủ trương (được của Hội đồng nhân dân thành phố thông qua), để kích cầu trở lại sau thời gian bị đóng băng, miễn thu phí tham quan với mọi du khách vào thăm các Bảo tàng (trong đó, có Bảo tàng Điêu khắc Champa). Tiền lương, các khoản theo lương và chi hành chính đều được UBND thành phố Đà Nẵng hỗ trợ, hoàn toàn không có thêm nguồn kinh phí nào dành cho hoạt động chuyên môn. Có thể nói khó khăn về tài chính có thể xem là khó khăn lớn nhất hiện nay, ảnh hưởng cả đến các kế hoạch số hóa, lẫn chuyển đổi số của đơn vị. Trong khi đó, Bảo tàng Đà Nẵng lại đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi số, mà một trong những khó khăn lớn nhất, đó là thiếu nguồn nhân lực có trình độ công nghệ, thật sự hiểu rõ và nhanh nhạy trong cập nhật các xu hướng công nghệ mới để ứng dụng trong lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh đó, trong thời kỳ khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thay đổi từng ngày, việc xây dựng các ứng dụng lấy công chúng, khách tham quan làm trung tâm luôn phải phù hợp với xu thế phát triển công nghệ, dễ dàng tích hợp và chia sẻ dữ liệu với các ứng dụng khác trong hệ sinh thái công nghệ. Yêu cầu này thật sự cần trình độ chuyên môn cao cả về công nghệ lẫn nghiệp vụ bảo tàng. Tượng Thánh Mẫu Nương nương. Cũng liên quan đến nhân lực chất lượng cao, theo ông Huỳnh Đình Quốc Thiện, còn phải có “người gác cửa không gian mạng”, để quá trình chuyển đổi số trên phạm vi rộng trong công tác chuyên môn của bảo tàng, luôn được an toàn, an ninh thông tin được bảo đảm, hạn chế tối đa các nguy cơ mất an toàn khi áp dụng tại Bảo tàng. Lãnh đạo Bảo tàng Đà Nẵng cũng chia sẻ, xây dựng và phát triển các dự án chuyển đổi số luôn đòi hỏi nguồn kinh phí lớn, đầu tư lâu dài, và hơn thế nữa … “Chúng ta mong muốn tạo ra một cơ hội mới, phát triển một sản phẩm văn hóa mới , có giá trị trên một không gian mới hoàn toàn, để công chúng thỏa sức tìm tòi, trải nghiệm, thực sự là một thách thức lớn. Ngoài đòi hỏi trình độ, năng lực, thời gian, công sức, kinh phí, còn phải có niềm đam mê, tâm huyết lớn và tính sáng tạo không ngừng nghỉ”, Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng bày tỏ./. Trần Ngọc
Bằng nhiều cách, trong đó có văn học, chúng ta định vị hình ảnh quốc gia, dân tộc, con người Việt Nam. Ảnh: ITN. Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế nhất của văn hóa, phản ánh bộ mặt tinh thần của dân tộc, đất nước, nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh. Văn học dựa trên nền tảng văn hóa là điều kiện phát triển bền vững, đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Đáng lạc quan nếu nói 2022 là “Năm văn hóa Việt Nam” khi danh sách các Danh nhân Văn hóa thế giới được nối dài bằng tên tuổi hai nhà văn lớn – Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu … Nói đến đời sống văn học đầu tiên phải nói đến “chủ thể” – nhà văn, nhân tố quyết định sự phát triển của nghệ thuật ngôn từ. Hội Nhà văn Việt Nam hiện có 1.623 hội viên (theo sách Nhà văn Việt Nam hiện đại, in lần thứ V, NXB Hội Nhà văn, 2020), trong đó có gần 200 nhà văn nữ, hơn 300 nhà văn – nhà giáo, hơn 400 nhà văn mặc áo lính. Đó là những con số biết nói. Tuy nhiên, như thiên hạ hài hước, đây là “Hội người già” (gần 70 phần trăm hội viên tuổi trên 60). Vấn đề đặt ra cấp bách có tính chiến lược phải xây dựng, trẻ hóa đội ngũ để “tre già măng mọc”. Trong quyết sách của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa X (2020 – 2025), tập trung đầu tư cho đề án “Văn trẻ”, như là điều kiện cần và đủ để tạo đà, tạo lực cho sự phát triển văn học bền vững. Ban Nhà văn trẻ được sự quan tâm đặc biệt của Ban chấp hành khóa mới. Giải thưởng Văn trẻ được thành lập (từ năm 2021) nhằm cổ vũ người trẻ sáng tác. Song ở bước đi ban đầu không tránh khỏi chập chững, với tinh thần cầu thị Ban chấp hành đã kịp thời uốn nắn để dòng mạch văn trẻ tuôn chảy mạnh mẽ, đúng hướng. Như ai đó nói chí lí, chúng ta không sợ lạc hậu, chỉ sợ lạc hướng. Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ X (tổ chức tại TP Đà Nẵng, 6/2022) là một sự kiện lớn trong năm. Gần 120 đại biểu chính thức đã gặp nhau, hân hoan và phấn khởi dưới khẩu hiện “Vì sao chúng ta viết?”. Câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi có tính chiến lược văn hóa. Một thế hệ mới (chúng tôi gọi là f+, thuộc thế hệ 7X, 8X, 9X) đang trình diện trên văn đàn với thần thái khỏe khoắn, tài hoa gây men niềm hi vọng cho toàn xã hội. Nhưng cần công bằng khi đánh giá “văn trẻ” hiện nay, nếu so sánh với “văn trẻ” thời kỳ 1930 – 1945 (Thơ mới 1932 – 1945, là một minh chứng điển hình), thì quả thật cũng không còn trẻ. Văn trẻ, theo ý chúng tôi, phải là những văn nhân sinh đầu thế kỷ XXI, hay hiện còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông, tuổi mười tám sung mãn, tươi tắn. Các ấn phẩm văn học báo chí, các nhà xuất bản có uy tín, các trường đại học lớn có ngành Văn (Đại học Quốc gia, Đại học Sư phạm, Đại học Văn hóa) cần thiết phải là những “bà đỡ” mát tay nâng niu những mầm nụ văn học. Nói về văn trẻ không thể không nói đến “văn nữ” đang ở thế thượng phong, thậm chí có thể dùng lộng ngữ “văn học mang gương mặt nữ”. Ban Nhà văn nữ Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm “Văn nữ – Sống, viết và hy vọng” dịp tháng 10/2022. Chúng ta có đầy đủ lí do để tin tưởng về một “văn chương mang gương mặt nữ” khi đời sống tinh thần con người cần thiết được cân bằng, có đủ khả năng thuần hóa những nỗi đau, đằm thắm và tinh tế hơn trước. Văn học nữ có thể gánh vác được trọng trách ấy. Vấn đề đặt ra cấp bách có tính chiến lược phải xây dựng, trẻ hóa đội ngũ để ‘tre già măng mọc’. (Trong ảnh: Đại biểu tham dự Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc năm 2016). Ảnh: ITN. Nhận định của giới nghiên cứu về “Văn xuôi là mặt tiền của văn học Đổi mới”, trong thời gian qua nhận được sự đồng thuận trong dư luận xã hội. Chính nhà văn Nguyễn Minh Châu chứ không phải ai khác được tấn phong là “Người mở đường tài năng và tinh anh” trong công cuộc Đổi mới văn học Việt Nam thời kỳ sau 1975. Ông đã kề vai sát cánh với những đồng nghiệp giỏi giang khác góp sức tôn cao nền văn học nước nhà. Vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, văn xuôi vẫn giữ vững vị trí không thể thay thế trên văn đàn. Tuy chưa thống kê đầy đủ, nhưng có thể hình dung văn xuôi trên mặt bằng văn học vẫn ưu trội, ở thế thượng phong so với các thể loại sáng tác khác (thơ, kịch). Nếu nàng thơ khiêm tốn và tự nguyện rút xuống ngôi vị “Á”, thì văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng, vẫn ở vị thế hàng đầu như là “cỗ máy cái” của văn học. Chân tủy của tiểu thuyết vẫn là chất sống dồi dào, trung thực, vẫn là những “cuộc đời khác”, “chân trời khác” đem đến cho người đọc những khám phá mới mẻ về thế giới tinh thần con người khi tiếp nhận. Trong địa hạt này, có một hiện tượng đặc biệt, đó là sự xuất hiện tiểu thuyết “Hương” của Nguyễn Thụy Kha (NXB Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành, 2022). Nói đặc biệt là bởi ngay lần in thứ nhất đã lên tới 2.500 bản (trong đó dành hẳn 1.000 bản chuyển kịp thời tới bà con Việt kiều sống ở các nước và vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới). Vì sao tiểu thuyết “Hương” có dư ba và đồng vọng, lan tỏa? Vì nó chạm tới “tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc”, vốn có truyền thống ngàn năm trong đời sống tinh thần của người Việt. Thực ra thì, chính Nguyễn Minh Châu vẫn là người mở đường về chủ đề lớn này với tiểu thuyết “Miền cháy” (1977), qua câu chuyện hậu chiến đầy tính nhân văn giữa người thắng cuộc và bên bại trận. Nhưng sự xuất hiện một tác phẩm lại càng có ý nghĩa khi đặt nó trong văn cảnh cụ thể, như hiện nay. Những người thiếu thiện chí đang cố sức mưu toan bóp méo hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Bằng nhiều cách, trong đó có văn học, chúng ta định vị hình ảnh quốc gia, dân tộc, con người Việt Nam. Tiểu thuyết “Nậm Ngặt mây trắng” (về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc) của Nguyễn Hùng Sơn nhận giải thưởng Sách quốc gia lần thứ V, 2022. Có thể kể thêm một số tiểu thuyết có tiếng vang khác như “Thiên thu huyết lệ” của Nguyễn Trọng Tân, “Nợ nước non” của Nguyễn Thế Kỷ, “Câu chuyện của Nàng Thê” của Võ Thị Xuân Hà, “Mùa rươi” của Phạm Quang Long, “Sóng độc” của Trần Gia Thái, “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt” của Đoàn Tuấn, “Cõi nhân gian” của Nguyễn Phúc Lộc Thành… Tương lai của tiểu thuyết không còn là điều nghi ngờ. Hiện, Việt Nam đang “nhập siêu” văn học thế giới. So với các nước trong khu vực Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) thì chúng ta chưa thể sánh được về chiến lược quảng bá/ xuất khẩu văn hóa bằng văn học. Chương trình quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài thiếu đồng bộ nên kết quả không thể mĩ mãn như mong muốn. Khi nào thì tình trạng “Tiếng Việt cô đơn” trên bản đồ văn học thế giới mới giảm thiểu, tạo cơ hội cho những tác phẩm văn học Việt Nam đến tay người đọc năm châu bốn biển – như tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh? Cổ nhân chí lí khi nói: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Đầu xuân 2022, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm Hội Nhà văn Việt Nam và khích lệ cao vọng của người cầm bút về “giấc mơ Nobel văn học”. Hãy cứ mơ ước, vì “Không thành công cũng thành nhân”. Nhưng để cán đích cần có chính sách văn hóa phù hợp. Từ 2017, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch đã xây dựng Đề án “Đào tạo tài năng sáng tác văn học”, nhiệm vụ thực thi được giao cho Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (cụ thể là Khoa Viết văn – Báo chí). Mấy niên khóa gần đây, sinh viên thuộc khoa này đã được thụ hưởng thực tế chính sách văn hóa đầy tiềm năng này. Hội đồng Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương nhiệm kì mới (2021 – 2026) tiếp tục phát huy truyền thống là một địa chỉ văn hóa, đã có nhiều biện pháp tốt nhằm tổ chức lực lượng và chương trình khoa học để phát huy nhân tố mới – những cây bút trẻ làm công tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật trên phạm vi toàn quốc. Văn hóa, văn học nghệ thuật đang hướng tới trọng tâm “Hệ giá trị” (Quốc gia – Văn hóa – Gia đình; Chuẩn mực con người – Văn học nghệ thuật). Đó chính là đích tới của hoạt động sáng tạo, trong đó có văn học. Trong Hội nghị tổng kết công tác văn học năm 2022 của Hội Nhà văn Việt Nam, năm “đầu việc” (nhiệm vụ trọng tâm) của năm 2023 được bàn thảo và thống nhất tổ chức thực hiện nhằm kích hoạt phát triển nghệ thuật ngôn từ (Phát triển lực lượng hội viên trẻ; Phát động lại cuộc thi tiểu thuyết; Hội nghị lý luận phê bình; Hội nghị các nhà văn lão thành, tiêu biểu; Ngày thơ Việt Nam). Nếu đời sống xã hội trở lại trạng thái “bình thường mới” thì văn học, trái lại, cần phải vượt qua ngưỡng bình thường, tạo nên những bứt phá mới ngoạn mục hơn. Công việc “tính sổ” văn học Việt Nam trong khoảng hạn thời gian 365 ngày, là khó khăn hơn nhiều so với việc đánh giá về các lĩnh vực khác, vì nghệ thuật là của để dành, là đầu tư cho tương lai. Tâm thế chắt chiu thành quả dù nhỏ nhất – “có hoa mừng hoa có nụ mừng nụ” – sẽ giúp người đọc tin vào tương lai của nền văn học nước nhà. B.V.T
Bằng nhiều cách, trong đó có văn học, chúng ta định vị hình ảnh quốc gia, dân tộc, con người Việt Nam. Ảnh: ITN. Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế nhất của văn hóa, phản ánh bộ mặt tinh thần của dân tộc, đất nước, nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh. Văn học dựa trên nền tảng văn hóa là điều kiện phát triển bền vững, đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Đáng lạc quan nếu nói 2022 là “Năm văn hóa Việt Nam” khi danh sách các Danh nhân Văn hóa thế giới được nối dài bằng tên tuổi hai nhà văn lớn – Hồ Xuân Hương và Nguyễn Đình Chiểu … Nói đến đời sống văn học đầu tiên phải nói đến “chủ thể” – nhà văn, nhân tố quyết định sự phát triển của nghệ thuật ngôn từ. Hội Nhà văn Việt Nam hiện có 1.623 hội viên (theo sách Nhà văn Việt Nam hiện đại, in lần thứ V, NXB Hội Nhà văn, 2020), trong đó có gần 200 nhà văn nữ, hơn 300 nhà văn – nhà giáo, hơn 400 nhà văn mặc áo lính. Đó là những con số biết nói. Tuy nhiên, như thiên hạ hài hước, đây là “Hội người già” (gần 70 phần trăm hội viên tuổi trên 60). Vấn đề đặt ra cấp bách có tính chiến lược phải xây dựng, trẻ hóa đội ngũ để “tre già măng mọc”. Trong quyết sách của Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa X (2020 – 2025), tập trung đầu tư cho đề án “Văn trẻ”, như là điều kiện cần và đủ để tạo đà, tạo lực cho sự phát triển văn học bền vững. Ban Nhà văn trẻ được sự quan tâm đặc biệt của Ban chấp hành khóa mới. Giải thưởng Văn trẻ được thành lập (từ năm 2021) nhằm cổ vũ người trẻ sáng tác. Song ở bước đi ban đầu không tránh khỏi chập chững, với tinh thần cầu thị Ban chấp hành đã kịp thời uốn nắn để dòng mạch văn trẻ tuôn chảy mạnh mẽ, đúng hướng. Như ai đó nói chí lí, chúng ta không sợ lạc hậu, chỉ sợ lạc hướng. Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ X (tổ chức tại TP Đà Nẵng, 6/2022) là một sự kiện lớn trong năm. Gần 120 đại biểu chính thức đã gặp nhau, hân hoan và phấn khởi dưới khẩu hiện “Vì sao chúng ta viết?”. Câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi có tính chiến lược văn hóa. Một thế hệ mới (chúng tôi gọi là f+, thuộc thế hệ 7X, 8X, 9X) đang trình diện trên văn đàn với thần thái khỏe khoắn, tài hoa gây men niềm hi vọng cho toàn xã hội. Nhưng cần công bằng khi đánh giá “văn trẻ” hiện nay, nếu so sánh với “văn trẻ” thời kỳ 1930 – 1945 (Thơ mới 1932 – 1945, là một minh chứng điển hình), thì quả thật cũng không còn trẻ. Văn trẻ, theo ý chúng tôi, phải là những văn nhân sinh đầu thế kỷ XXI, hay hiện còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông, tuổi mười tám sung mãn, tươi tắn. Các ấn phẩm văn học báo chí, các nhà xuất bản có uy tín, các trường đại học lớn có ngành Văn (Đại học Quốc gia, Đại học Sư phạm, Đại học Văn hóa) cần thiết phải là những “bà đỡ” mát tay nâng niu những mầm nụ văn học. Nói về văn trẻ không thể không nói đến “văn nữ” đang ở thế thượng phong, thậm chí có thể dùng lộng ngữ “văn học mang gương mặt nữ”. Ban Nhà văn nữ Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm “Văn nữ – Sống, viết và hy vọng” dịp tháng 10/2022. Chúng ta có đầy đủ lí do để tin tưởng về một “văn chương mang gương mặt nữ” khi đời sống tinh thần con người cần thiết được cân bằng, có đủ khả năng thuần hóa những nỗi đau, đằm thắm và tinh tế hơn trước. Văn học nữ có thể gánh vác được trọng trách ấy. Vấn đề đặt ra cấp bách có tính chiến lược phải xây dựng, trẻ hóa đội ngũ để ‘tre già măng mọc’. (Trong ảnh: Đại biểu tham dự Hội nghị những người viết văn trẻ toàn quốc năm 2016). Ảnh: ITN. Nhận định của giới nghiên cứu về “Văn xuôi là mặt tiền của văn học Đổi mới”, trong thời gian qua nhận được sự đồng thuận trong dư luận xã hội. Chính nhà văn Nguyễn Minh Châu chứ không phải ai khác được tấn phong là “Người mở đường tài năng và tinh anh” trong công cuộc Đổi mới văn học Việt Nam thời kỳ sau 1975. Ông đã kề vai sát cánh với những đồng nghiệp giỏi giang khác góp sức tôn cao nền văn học nước nhà. Vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, văn xuôi vẫn giữ vững vị trí không thể thay thế trên văn đàn. Tuy chưa thống kê đầy đủ, nhưng có thể hình dung văn xuôi trên mặt bằng văn học vẫn ưu trội, ở thế thượng phong so với các thể loại sáng tác khác (thơ, kịch). Nếu nàng thơ khiêm tốn và tự nguyện rút xuống ngôi vị “Á”, thì văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng, vẫn ở vị thế hàng đầu như là “cỗ máy cái” của văn học. Chân tủy của tiểu thuyết vẫn là chất sống dồi dào, trung thực, vẫn là những “cuộc đời khác”, “chân trời khác” đem đến cho người đọc những khám phá mới mẻ về thế giới tinh thần con người khi tiếp nhận. Trong địa hạt này, có một hiện tượng đặc biệt, đó là sự xuất hiện tiểu thuyết “Hương” của Nguyễn Thụy Kha (NXB Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành, 2022). Nói đặc biệt là bởi ngay lần in thứ nhất đã lên tới 2.500 bản (trong đó dành hẳn 1.000 bản chuyển kịp thời tới bà con Việt kiều sống ở các nước và vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới). Vì sao tiểu thuyết “Hương” có dư ba và đồng vọng, lan tỏa? Vì nó chạm tới “tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc”, vốn có truyền thống ngàn năm trong đời sống tinh thần của người Việt. Thực ra thì, chính Nguyễn Minh Châu vẫn là người mở đường về chủ đề lớn này với tiểu thuyết “Miền cháy” (1977), qua câu chuyện hậu chiến đầy tính nhân văn giữa người thắng cuộc và bên bại trận. Nhưng sự xuất hiện một tác phẩm lại càng có ý nghĩa khi đặt nó trong văn cảnh cụ thể, như hiện nay. Những người thiếu thiện chí đang cố sức mưu toan bóp méo hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Bằng nhiều cách, trong đó có văn học, chúng ta định vị hình ảnh quốc gia, dân tộc, con người Việt Nam. Tiểu thuyết “Nậm Ngặt mây trắng” (về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc) của Nguyễn Hùng Sơn nhận giải thưởng Sách quốc gia lần thứ V, 2022. Có thể kể thêm một số tiểu thuyết có tiếng vang khác như “Thiên thu huyết lệ” của Nguyễn Trọng Tân, “Nợ nước non” của Nguyễn Thế Kỷ, “Câu chuyện của Nàng Thê” của Võ Thị Xuân Hà, “Mùa rươi” của Phạm Quang Long, “Sóng độc” của Trần Gia Thái, “Lời nguyện cầu cho những linh hồn phiêu dạt” của Đoàn Tuấn, “Cõi nhân gian” của Nguyễn Phúc Lộc Thành… Tương lai của tiểu thuyết không còn là điều nghi ngờ. Hiện, Việt Nam đang “nhập siêu” văn học thế giới. So với các nước trong khu vực Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) thì chúng ta chưa thể sánh được về chiến lược quảng bá/ xuất khẩu văn hóa bằng văn học. Chương trình quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài thiếu đồng bộ nên kết quả không thể mĩ mãn như mong muốn. Khi nào thì tình trạng “Tiếng Việt cô đơn” trên bản đồ văn học thế giới mới giảm thiểu, tạo cơ hội cho những tác phẩm văn học Việt Nam đến tay người đọc năm châu bốn biển – như tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh? Cổ nhân chí lí khi nói: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Đầu xuân 2022, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã đến thăm Hội Nhà văn Việt Nam và khích lệ cao vọng của người cầm bút về “giấc mơ Nobel văn học”. Hãy cứ mơ ước, vì “Không thành công cũng thành nhân”. Nhưng để cán đích cần có chính sách văn hóa phù hợp. Từ 2017, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch đã xây dựng Đề án “Đào tạo tài năng sáng tác văn học”, nhiệm vụ thực thi được giao cho Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (cụ thể là Khoa Viết văn – Báo chí). Mấy niên khóa gần đây, sinh viên thuộc khoa này đã được thụ hưởng thực tế chính sách văn hóa đầy tiềm năng này. Hội đồng Lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương nhiệm kì mới (2021 – 2026) tiếp tục phát huy truyền thống là một địa chỉ văn hóa, đã có nhiều biện pháp tốt nhằm tổ chức lực lượng và chương trình khoa học để phát huy nhân tố mới – những cây bút trẻ làm công tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật trên phạm vi toàn quốc. Văn hóa, văn học nghệ thuật đang hướng tới trọng tâm “Hệ giá trị” (Quốc gia – Văn hóa – Gia đình; Chuẩn mực con người – Văn học nghệ thuật). Đó chính là đích tới của hoạt động sáng tạo, trong đó có văn học. Trong Hội nghị tổng kết công tác văn học năm 2022 của Hội Nhà văn Việt Nam, năm “đầu việc” (nhiệm vụ trọng tâm) của năm 2023 được bàn thảo và thống nhất tổ chức thực hiện nhằm kích hoạt phát triển nghệ thuật ngôn từ (Phát triển lực lượng hội viên trẻ; Phát động lại cuộc thi tiểu thuyết; Hội nghị lý luận phê bình; Hội nghị các nhà văn lão thành, tiêu biểu; Ngày thơ Việt Nam). Nếu đời sống xã hội trở lại trạng thái “bình thường mới” thì văn học, trái lại, cần phải vượt qua ngưỡng bình thường, tạo nên những bứt phá mới ngoạn mục hơn. Công việc “tính sổ” văn học Việt Nam trong khoảng hạn thời gian 365 ngày, là khó khăn hơn nhiều so với việc đánh giá về các lĩnh vực khác, vì nghệ thuật là của để dành, là đầu tư cho tương lai. Tâm thế chắt chiu thành quả dù nhỏ nhất – “có hoa mừng hoa có nụ mừng nụ” – sẽ giúp người đọc tin vào tương lai của nền văn học nước nhà. B.V.T
Vệ tinh nano với kích thước chỉ 20 cm của Đại học Tel Aviv được thiết kế để liên lạc từ không gian với một trạm thu phát sóng tại mặt đất nhằm giúp xây dựng một mạng lưới liên lạc tin cậy bằng công nghệ lượng tử. Một vệ tinh nano mới do các nhà nghiên cứu của Đại học Tel Aviv ( Israel ) phát triển đã được phóng lên quỹ đạo bằng tên lửa SpaceX Falcon 9 từ bãi phóng ở ở California ( Mỹ ) vào thứ Ba vừa qua. Theo các nhà nghiên cứu, vệ tinh nano với kích thước siêu nhỏ – chỉ vỏn vẹn 20cm, có tên TAU-SAT3, là vệ tinh đầu tiên của Israel được chế tạo để thúc đẩy nghiên cứu về công nghệ truyền thông quang học và lượng tử từ không gian và là “một bước quan trọng hướng tới chứng minh truyền thông lượng tử thực sự đáng tin cậy”. Truyền thông lượng tử là một phương pháp truyền thông tin ứng dụng công nghệ lượng tử, cho phép truyền dữ liệu một cách nhanh chóng và an toàn. Ưu điểm của truyền thông lượng tử là khả năng bảo mật cực cao, giúp thông tin và dữ liệu không bị truy cập một cách trái phép. Truyền thông lượng tử cũng gần như ‘miễn nhiễm’ với các mối đe dọa từ phía hacker. TAU-SAT1, vệ tinh nano do Đại học Tel Aviv phát triển. (Ảnh: Đại học Tel Aviv) Theo giáo sư Yaron Oz, người đứng đầu Trung tâm Khoa học và Công nghệ Lượng tử của trường đại học Tel Aviv, sự xuất hiện của máy tính lượng tử được cho là có khả năng “bẻ khóa các thuật toán mã hóa ngày nay”. Theo đó, các dữ liệu như hồ sơ y tế và tài chính cá nhân, email và tin nhắn WhatsApp, sẽ bị rò ri và đánh cắp. Ở thời điểm hiện tại, thế giới đang đầu tư hàng triệu USD vào các công trình nghiên cứu về “giao tiếp lượng tử chống nghe lén”. Điện toán lượng tử khai thác công nghệ cơ học lượng tử để nhanh chóng giải quyết các vấn đề quá phức tạp đối với máy tính cổ điển bằng cách xử lý lượng dữ liệu khổng lồ. “Các nguyên tắc của cơ học lượng tử cho phép một phương pháp mã hóa an toàn được đánh giá là bất khả xâm phạm” “Bất cứ khi nào một đối tượng xấu cố gắng chặn một tin nhắn được truyền đi, tin nhắn đó sẽ ngay lập tức bị biến mất.” Vệ tinh mang tên TAU-SAT3, được phóng hôm 3/1 từ trạm Cape Canaveral ở bang Florida (Mỹ). (Ảnh: timesofisrael) Ở độ cao 550 km (342 dặm), vệ tinh TAU-SAT3 sẽ quay quanh Trái Đất trong khoảng 5 năm để thực hiện một số nhiệm vụ khoa học, đồng thời gửi tín hiệu liên lạc quang học và vô tuyến trở lại trạm thu phát trên mặt đất được thiết lập trên nóc tòa nhà tại khuôn viên trường đại học Tel Aviv. “Đây là trạm thu phát sóng đầu tiên ở Israel và là một trong số rất ít trên toàn thế giới có thể định vị, theo dõi và thu thập dữ liệu từ một vệ tinh nano, vốn chỉ có kích cỡ như một pixel (tương đương 0,26 mm) nếu nhìn từ Trái Đất,” Giáo sư Noam Eliaz, trưởng khoa Kỹ thuật Fleischman của trường đại học Tel Aviv, cho biết. Vệ tinh TAU-SAT3, được phát triển tại Khoa Kỹ thuật Fleischman của trường Tel Aviv, được trang bị một thiết bị quang học chỉ dài vài centimet. Vệ tinh này trang bị một viên pin do do công ty Epsilor của Israel sản xuất, vốn sẽ cung cấp năng lượng cho toàn bộ thời gian hoạt động của vệ tinh trên quỹ đạo. Giáo sư Eliaz cho biết: “Khi vệ tinh đi ngang qua Israel, thiết bị sẽ phát ra ánh sáng ở các bước sóng khác nhau và kính viễn vọng của trạm mặt đất sẽ xác định ánh sáng siêu nhỏ này, khóa vào nó và theo dõi nó” “Tuy nhiên, khi thiết bị quang học quay về phía trạm mặt đất, ăng-ten sẽ hướng về một hướng khác.” “Kết quả là một phần đáng kể dữ liệu có thể bị mất. Điểm mới trong dự án này là khả năng tái tạo lại dữ liệu bị mất trong thời gian thực bằng cách sử dụng các thuật toán xử lý tín hiệu thông minh, vốn được phát triển tại trường đại học Tel Aviv của các hệ thống liên lạc được cài đặt trong cả vệ tinh nano và trạm mặt đất” Giáo sư Eliaz giải thích. Vệ tinh nano là một phần của loạt ba vệ tinh mà trường đại học Tel Aviv đã phóng lên quỹ đạo trong vòng chưa đầy ba năm, tham gia vào cuộc cách mạng không gian toàn cầu, mở ra cơ hội nghiên cứu cho các tổ chức và công ty dân sự. Tham khảo Times of Israel ANH VIỆT
Tel Aviv University's 20cm nanosatellite is designed to communicate from space with a base station on the ground to help build a reliable communication network using quantum technology. A new nanosatellite by Tel Aviv University researchers ( Israel ) was launched into orbit on a SpaceX Falcon 9 rocket from a launch site in California ( America ) last Tuesday. According to researchers, the nano satellite with an extremely small size - only 20cm, named TAU-SAT3, is Israel's first satellite built to promote research in optical and quantum communication technology. from space and is “an important step toward demonstrating truly reliable quantum communications.” Quantum communication is an information transmission method that uses quantum technology, allowing data to be transmitted quickly and securely. The advantage of quantum communication is its extremely high security, preventing information and data from being accessed illegally. Quantum communication is also almost 'immune' to threats from hackers. TAU-SAT1, a nanosatellite developed by Tel Aviv University. (Photo: Tel Aviv University) According to professor Yaron Oz, head of Tel Aviv University's Center for Quantum Science and Technology, the emergence of quantum computers is expected to have the ability to "crack today's encryption algorithms." . Accordingly, data such as personal medical and financial records, emails and WhatsApp messages, will be leaked and stolen. At the present time, the world is investing millions of dollars in research projects on "anti-eavesdropping quantum communication". Quantum computing exploits quantum mechanical technology to quickly solve problems too complex for classical computers by processing huge amounts of data. “The principles of quantum mechanics allow for a secure encryption method that is considered impenetrable.” “Whenever a malicious actor tries to intercept a message being transmitted, the message is immediately lost.” The satellite, named TAU-SAT3, was launched on January 3 from Cape Canaveral station in Florida (USA). (Photo: timesofisrael) At an altitude of 550 km (342 miles), the TAU-SAT3 satellite will orbit Earth for about five years to perform a number of scientific missions, while also sending optical and radio communications signals back to the receiving station. Ground-based broadcast was set up on the roof of a building on the Tel Aviv University campus. “This is the first transceiver station in Israel and one of very few worldwide that can locate, track and collect data from a nanosatellite, which is only the size of a pixel (approximately the size of a pixel). equivalent to 0.26 mm) if viewed from Earth,” said Professor Noam Eliaz, dean of the Fleischman School of Engineering at Tel Aviv University. The TAU-SAT3 satellite, developed at Tel Aviv's Fleischman Faculty of Engineering, is equipped with an optical instrument just a few centimeters long. This satellite is equipped with a battery manufactured by the Israeli company Epsilor, which will provide energy for the entire time the satellite is in orbit. Professor Eliaz said: “As the satellite passes over Israel, the device will emit light at different wavelengths and the ground station telescope will identify this microscopic light, lock on it and follow it. follow it” “However, when the optics are facing the ground station, the antenna will be facing a different direction.” “As a result, a significant portion of data may be lost. New in this project is the ability to reconstruct lost data in real time using intelligent signal processing algorithms, which were developed at Tel Aviv University of Communications Systems. installed in both nanosatellites and ground stations,” Professor Eliaz explains. The nanosatellite is part of a series of three satellites that Tel Aviv University has launched into orbit in less than three years, joining the global space revolution, opening up research opportunities for institutions and civil companies. Refer to Times of Israel VIETNAMESE ENGLISH
Không gian triển lãm nhằm giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp và di sản nghệ thuật của một vị vua yêu nước, một nghệ sĩ tài hoa, nhân kỷ niệm 80 năm ngày mất của vua Hàm Nghi (1944 – 2023). Vua Hàm Nghi. Ảnh minh họa: IT Không gian trưng bày được đặt tại nhà Tế Tửu – Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên – Huế) để giới thiệu đến công chúng hình ảnh về cuộc đời của vua Hàm Nghi từ khi lên ngôi, giai đoạn chống Pháp, giai đoạn lưu đày tại Algiers (Thủ đô nước Algeria). Đồng thời, dựa vào các kết quả thu được từ chuyến công tác tại Pháp từ ngày 21/8/2022 đến ngày 27/8/2022 của đoàn công tác tỉnh Thừa Thiên Huế , Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tiến hành sưu tầm tư liệu, hình ảnh liên quan đến vua Hàm Nghi, trong đó nổi bật là 31 bản sao các tác phẩm nghệ thuật do vua Hàm Nghi thực hiện trong thời gian ở Alger. Với tên gọi “Vua Hàm Nghi – Cuộc đời và nghệ thuật”, tại không gian này, du khách cũng được tìm hiểu, khám phá thông qua thiết bị trình chiếu cảm biến không dây, sách tương tác giới thiệu các thông tin, hình ảnh, video clip giới thiệu về cuộc đời của vua Hàm Nghi. Cùng với hoạt động trưng bày, một buổi giới thiệu “Cuộc đời và nghệ thuật của vua Hàm Nghi” đã được Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế và Tiến sĩ Amandine Dabat – người đã từng làm luận án tiến sĩ về cuộc đời làm nghệ thuật của vua Hàm Nghi giới thiệu tại Nhà hát Duyệt Thị Đường. Đây cũng là các hoạt động hướng tới kỷ niệm 80 năm ngày mất của vua Hàm Nghi (1944 – 2023) và mong muốn giới thiệu đến công chúng về cuộc đời, sự nghiệp của một vị vua yêu nước, một nghệ sỹ tài hoa. Chương trình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mở ra nhiều cơ hội giao giao lưu văn hóa và đẩy mạnh quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa tỉnh Thừa Thiên – Huế với các đơn vị đối tác đến từ Pháp. Đặc biệt, 2023 kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ hợp tác ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp, cũng như kỷ niệm 10 năm thiết lập đối tác chiến lược Việt Nam và Pháp. Vua Hàm Nghi sinh ngày 3/8/1871, có tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, con thứ năm của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, em của vua Kiến Phúc và vua Đồng Khánh sau này. Ông lên ngôi khi mới 13 tuổi ( năm 1884), lấy niên hiệu là Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi lên ngôi trong một giai đoạn lịch sử khá rối ren, phức tạp, chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta đã bị đặt dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng vua Hàm Nghi đã có tư tưởng kháng Pháp mạnh mẽ, ông trở thành “ngọn cờ đầu” của phong trào Cần Vương, tập hợp và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết, chiến đấu chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Tuy nhiên, sau ba năm hoạt động sôi nổi, phong trào Cần Vương đã bị thất bại, đánh dấu bởi sự kiện vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng bị thực dân Pháp vây bắt tại địa phận huyện Tuyên Hóa (nay thuộc huyện Minh Hóa , tỉnh Quảng Bình ) đêm 11/11/1888. Đến ngày 16/11/1888, chính phủ Pháp đã tổ chức họp bàn và quyết định đày vua Hàm Nghi sang Algérie (một thuộc địa của nước Pháp ở Bắc Phi lúc bấy giờ). Trong thời gian bị lưu đày, vua Hàm Nghi đã học vẽ và điêu khắc. Vua Hàm Nghi đến với hội họa bằng tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc khi ông thực hiện bức chân dung tự họa đầu tiên bằng than chì với cách vẽ theo tấm ảnh chân dung của mình trong trang phục cung đình triều Nguyễn. Sau đó, ba cuộc triển lãm cá nhân của vua Hàm Nghi với nghệ danh Tử Xuân đã gây tiếng vang lớn tại Paris, Thủ đô nước Pháp. Các tác phẩm của ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Chủ nghĩa ấn tượng, Chủ nghĩa hậu ấn tượng, các họa sĩ Paul Gauguin, Auguste Rodin. Ông cũng được xem như là một nghệ sĩ người Việt đã mở đầu cho trào lưu nghệ thuật tạo hình theo phong cách Tây phương. PV
The exhibition space aims to introduce the life, career and artistic legacy of a patriotic king and a talented artist, on the occasion of the 80th anniversary of the death of King Ham Nghi (1944 - 2023). King Ham Nghi. Illustration photo: IT The exhibition space is located at Te Tuu House - Hue Museum of Royal Antiquities, Hue Monuments Conservation Center (Thua Thien - Hue) to introduce to the public images of the life of King Ham Nghi from when he ascended the throne, the period against the French, the period of exile in Algiers (Capital of Algeria). At the same time, based on the results obtained from the working group's business trip to France from August 21, 2022 to August 27, 2022. Thua Thien Hue province , Hue Monuments Conservation Center has collected documents and images related to King Ham Nghi, notably 31 copies of works of art made by King Ham Nghi during his stay. Algeria. With the name "King Ham Nghi - Life and Art", in this space, visitors can also learn and explore through wireless sensor projection devices and interactive books that introduce information and images. Photos and video clips introduce the life of King Ham Nghi. Along with the exhibition activities, an introduction "The life and art of King Ham Nghi" was organized by the Hue Monuments Conservation Center and Dr. Amandine Dabat - who did a doctoral thesis on his life. Art making by King Ham Nghi introduced at Duyet Thi Duong Theater. These are also activities aimed at commemorating the 80th anniversary of the death of King Ham Nghi (1944 - 2023) and the desire to introduce to the public the life and career of a patriotic king and a talented artist. The program has a particularly important meaning, opening up many opportunities for cultural exchange and promoting good friendly cooperation between Thua Thien - Hue province and partner units from France. In particular, 2023 celebrates the 50th anniversary of establishing diplomatic cooperation between Vietnam and France, as well as the 10th anniversary of establishing the strategic partnership between Vietnam and France. King Ham Nghi Born on August 3, 1871, his full name is Nguyen Phuc Ung Lich, the fifth child of Kien Thai Vuong Nguyen Phuc Hong Cai and Mrs. Phan Thi Nhan, younger brother of King Kien Phuc and later King Dong Khanh. He ascended the throne when he was only 13 years old (1884), taking the reign name Ham Nghi. King Ham Nghi ascended the throne during a rather confusing and complicated historical period, when our country's territorial sovereignty was placed under the yoke of French colonial rule. Even though he was still young, King Ham Nghi had a strong anti-French ideology. He became the "flagship" of the Can Vuong movement, gathering and leading people from all walks of life to unite and fight against the French. invasion of the French colonialists. However, after three years of exciting activities, the Can Vuong movement failed, marked by the fact that King Ham Nghi and his entourage were rounded up by the French colonialists in Tuyen Hoa district (now part of Tuyen Hoa district). Minh Hoa district , Quang Binh Province ) the night of November 11, 1888. On November 16, 1888, the French government held a meeting and decided to exile King Ham Nghi to Algeria (a French colony in North Africa at that time). During his exile, King Ham Nghi studied painting and sculpture. King Ham Nghi came to painting with the spirit of patriotism and national pride when he made his first self-portrait in graphite by drawing according to a portrait of himself in Nguyen Dynasty royal attire. After that, three personal exhibitions of King Ham Nghi with the stage name Tu Xuan made a big splash in Paris, the capital of France. His works were strongly influenced by Impressionism, Post-Impressionism, and artists Paul Gauguin and Auguste Rodin. He is also considered a Vietnamese artist who started the Western-style visual art movement. PV
Thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh ủy về tiếp tục đẩy mạnh phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Đề án phát triển du lịch Quảng Ngãi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ngành du lịch và các địa phương đã đẩy mạnh phát triển 3 dòng sản phẩm chủ đạo là du lịch biển, đảo; du lịch văn hóa và du lịch sinh thái. Đây là tiền đề để xây dựng du lịch Quảng Ngãi trở thành điểm đến hấp dẫn của vùng duyên hải Nam Trung Bộ và cả nước. Quảng Ngãi là vùng đất của những biến động địa chất hàng triệu năm kiến tạo. Từ một Lý Sơn sống động về văn hóa, lịch sử, được hình thành từ những lớp nham thạch núi lửa, vùng biển đảo đến đồng bằng hay vùng núi cao đều chứa đựng những bí ẩn, kỳ thú. Quảng Ngãi cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt, tràn ngập màu sắc văn hóa. Một nơi mà cổ đại và hiện đại nối tiếp, hòa quyện văn hóa giữa các tộc người sinh sống và cộng cư tạo nên những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc. Vận động viên nhảy dù lượn trên bầu trời Lý Sơn. Ảnh: Kim Ngân Cho đến hôm nay, tinh hoa của các nền văn hóa cổ của Việt Nam như Sa Huỳnh, Chămpa và văn hóa Đại Việt vẫn còn thấm đẫm trong từng di tích, di chỉ văn hóa, trong lối sống, phong tục, tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian, nghệ thuật ẩm thực của cư dân bản địa. Trong đó, nổi bật là Di tích Văn hóa Sa Huỳnh được phân bố ở 5 địa điểm là Long Thạnh, Phú Khương, Thạnh Đức, đầm An Khê và quần thể di tích Chămpa ( TX.Đức Phổ ). Quảng Ngãi được xem là cái nôi của Văn hóa Sa Huỳnh với 26 di tích được khai quật trong số hơn 80 địa điểm được phát hiện và nghiên cứu… Đầm An Khê là không gian sinh tồn của cư dân cổ Sa Huỳnh, tiếp nối là cư dân Chămpa và sau này là Đại Việt, xứng đáng được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và trong tương lai có thể xây dựng hồ sơ trình UNESCO ghi danh là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Một điểm đến nổi tiếng khi đến Sa Huỳnh không thể bỏ qua, đó là làng Gò Cỏ ở phường Phổ Thạnh. Gò Cỏ được xem như “viên ngọc quý” của ngành du lịch Quảng Ngãi. Ngôi làng cổ nghìn năm tuổi vẫn giữ cho mình một diện mạo dân dã đã và đang được đầu tư phát triển thành du lịch cộng đồng, thu hút nhiều du khách đến tham quan, trải nghiệm… Tất cả những lợi thế ấy là điều kiện để Quảng Ngãi tập trung phát triển du lịch ở phía nam của tỉnh. Cùng với đó, đảo Lý Sơn được ví như hòn ngọc giữa biển khơi, là bảo tàng sống động về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, di sản địa chất núi lửa giữa biển và là nơi lưu giữ nhiều tài liệu quý giá về lịch sử xác lập và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông từ nhiều thế kỷ trước. Hiện nay, trong định hướng của tỉnh và chỉ đạo của trung ương, đảo Lý Sơn đang được đầu tư phát triển để trở thành trung tâm du lịch quốc gia… Quảng Ngãi còn là nơi có nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút du khách trong hành trình tìm về lịch sử, về những giá trị văn hóa như Khu lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Khu chứng tích Sơn Mỹ, điện Trường Bà, Nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, chùa Hang, đình làng An Vĩnh, đình làng An Hải… Bên cạnh đó, việc hòa mình vào các lễ hội truyền thống như Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa , đua thuyền tứ linh, nghinh ông, cầu mùa, lễ hội ăn trâu, tết ngã rạ… sẽ giúp du khách trải nghiệm cuộc sống tại đây với những người dân địa phương thân thiện và hiếu khách. Quảng Ngãi còn là nơi hòa hợp của những dòng sông xen lẫn núi đồi, ghềnh thác cùng với đường bờ biển trải dài hơn 130km có nhiều bãi tắm thơ mộng, các tuyệt tác thiên nhiên độc đáo, tạo nên tiềm năng du lịch sinh thái đa dạng như bãi biển Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Gành Yến, thác Trắng, suối Chí, bàu Cá Cái, rừng dừa nước Cà Ninh… Theo Giám đốc Sở VH-TT&DL Nguyễn Tiến Dũng, Quảng Ngãi đã hoàn thành logo nhận diện thương hiệu du lịch “Khám phá Quảng Ngãi”, dựa trên 2 giá trị cốt lõi là biển đảo và văn hóa Sa Huỳnh. Việc cần làm để đưa du lịch Quảng Ngãi phát triển là đánh giá khả năng đáp ứng cho du khách trong từng phân khúc thị trường của Quảng Ngãi so với các tỉnh, thành phố trong vùng. Trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút đầu tư và tạo ra các sản phẩm du lịch có chất lượng, giá trị gia tăng cao và chú trọng vào dòng khách chuyên biệt để tạo nên sức cạnh tranh, từng bước đưa du lịch Quảng Ngãi phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX xác định: “Phát triển du lịch biển, đảo trở thành loại hình du lịch chủ đạo, lấy Lý Sơn làm hạt nhân. Đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh trên cơ sở nâng tầm giá trị di sản văn hóa Sa Huỳnh, Trường Lũy Quảng Ngãi, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể”. Cùng với đó, hạ tầng ven biển của tỉnh và đảo Lý Sơn được quan tâm đầu tư, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như đường ven biển Dung Quất – Sa Huỳnh; cầu Cổ Lũy; hạ tầng Khu du lịch Sa Huỳnh, Khu du lịch Mỹ Khê, Khu văn hóa tâm linh Thiên Mã… Đây là những điều kiện thuận lợi để ngành du lịch phấn đấu đến năm 2025 thu hút trên 1,8 triệu lượt khách (riêng khách quốc tế đạt 145 nghìn lượt), tốc độ tăng trưởng khách quốc tế giai đoạn 2021 – 2025 khoảng 6,5%/năm và khách nội địa tăng 8,5%/năm. Bàu Cá Cái, xã Bình Thuận (Bình Sơn) là điểm du lịch sinh thái thu hút du khách trong thời gian gần đây. ẢNH: ANH TRUNG Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn nhấn mạnh, theo tinh thần Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy và Đề án phát triển du lịch Quảng Ngãi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Quảng Ngãi sẽ tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng dịch vụ du lịch, tạo động lực cho phát triển kinh tế đa ngành. Cùng với đó, thực hiện bảo tồn, tôn tạo, nâng cấp, phát huy các giá trị di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, di chỉ khảo cổ, công trình kiến trúc nghệ thuật… phục vụ cho phát triển du lịch. Quảng Ngãi đang tập trung thu hút đầu tư, phấn đấu đến năm 2030 có 2 khu du lịch cấp quốc gia là Khu du lịch Mỹ Khê và Khu du lịch Lý Sơn; 4 khu du lịch cấp tỉnh và 6 điểm du lịch. Đồng thời, phát triển mạnh 3 dòng sản phẩm du lịch chủ đạo, trong đó lấy du lịch biển, đảo làm mũi nhọn, du lịch văn hóa làm trọng tâm và du lịch sinh thái làm nền tảng cho phát triển du lịch bền vững. Phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng tại huyện Lý Sơn , làng Gò Cỏ, trải nghiệm văn hóa Hrê tại huyện Ba Tơ ; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nông thôn tham gia làm du lịch, kết hợp sản xuất nông nghiệp với du lịch theo mô hình du lịch nông nghiệp, nông thôn… Quảng Ngãi đang xây dựng và triển khai Đề án “Chuyển đổi số trong hoạt động du lịch”, đáp ứng nhu cầu của du khách; phát triển các sản phẩm công nghệ 4D, VR360 phục vụ trải nghiệm cho du khách tại một số điểm du lịch trong tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh tăng cường liên kết với các địa phương trọng điểm về du lịch, nhất là các tỉnh, thành phố trong liên kết phát triển du lịch giữa TP.Hà Nội , TP.Hồ Chí Minh và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, tạo thành chuỗi liên kết phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. KIM NGÂN
Thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh ủy về tiếp tục đẩy mạnh phát triển du lịch, từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và Đề án phát triển du lịch Quảng Ngãi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ngành du lịch và các địa phương đã đẩy mạnh phát triển 3 dòng sản phẩm chủ đạo là du lịch biển, đảo; du lịch văn hóa và du lịch sinh thái. Đây là tiền đề để xây dựng du lịch Quảng Ngãi trở thành điểm đến hấp dẫn của vùng duyên hải Nam Trung Bộ và cả nước. Quảng Ngãi là vùng đất của những biến động địa chất hàng triệu năm kiến tạo. Từ một Lý Sơn sống động về văn hóa, lịch sử, được hình thành từ những lớp nham thạch núi lửa, vùng biển đảo đến đồng bằng hay vùng núi cao đều chứa đựng những bí ẩn, kỳ thú. Quảng Ngãi cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt, tràn ngập màu sắc văn hóa. Một nơi mà cổ đại và hiện đại nối tiếp, hòa quyện văn hóa giữa các tộc người sinh sống và cộng cư tạo nên những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc. Vận động viên nhảy dù lượn trên bầu trời Lý Sơn. Ảnh: Kim Ngân Cho đến hôm nay, tinh hoa của các nền văn hóa cổ của Việt Nam như Sa Huỳnh, Chămpa và văn hóa Đại Việt vẫn còn thấm đẫm trong từng di tích, di chỉ văn hóa, trong lối sống, phong tục, tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian, nghệ thuật ẩm thực của cư dân bản địa. Trong đó, nổi bật là Di tích Văn hóa Sa Huỳnh được phân bố ở 5 địa điểm là Long Thạnh, Phú Khương, Thạnh Đức, đầm An Khê và quần thể di tích Chămpa ( TX.Đức Phổ ). Quảng Ngãi được xem là cái nôi của Văn hóa Sa Huỳnh với 26 di tích được khai quật trong số hơn 80 địa điểm được phát hiện và nghiên cứu… Đầm An Khê là không gian sinh tồn của cư dân cổ Sa Huỳnh, tiếp nối là cư dân Chămpa và sau này là Đại Việt, xứng đáng được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và trong tương lai có thể xây dựng hồ sơ trình UNESCO ghi danh là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Một điểm đến nổi tiếng khi đến Sa Huỳnh không thể bỏ qua, đó là làng Gò Cỏ ở phường Phổ Thạnh. Gò Cỏ được xem như “viên ngọc quý” của ngành du lịch Quảng Ngãi. Ngôi làng cổ nghìn năm tuổi vẫn giữ cho mình một diện mạo dân dã đã và đang được đầu tư phát triển thành du lịch cộng đồng, thu hút nhiều du khách đến tham quan, trải nghiệm… Tất cả những lợi thế ấy là điều kiện để Quảng Ngãi tập trung phát triển du lịch ở phía nam của tỉnh. Cùng với đó, đảo Lý Sơn được ví như hòn ngọc giữa biển khơi, là bảo tàng sống động về di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, di sản địa chất núi lửa giữa biển và là nơi lưu giữ nhiều tài liệu quý giá về lịch sử xác lập và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông từ nhiều thế kỷ trước. Hiện nay, trong định hướng của tỉnh và chỉ đạo của trung ương, đảo Lý Sơn đang được đầu tư phát triển để trở thành trung tâm du lịch quốc gia… Quảng Ngãi còn là nơi có nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng, thu hút du khách trong hành trình tìm về lịch sử, về những giá trị văn hóa như Khu lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Khu chứng tích Sơn Mỹ, điện Trường Bà, Nhà trưng bày Hải đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, chùa Hang, đình làng An Vĩnh, đình làng An Hải… Bên cạnh đó, việc hòa mình vào các lễ hội truyền thống như Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa , đua thuyền tứ linh, nghinh ông, cầu mùa, lễ hội ăn trâu, tết ngã rạ… sẽ giúp du khách trải nghiệm cuộc sống tại đây với những người dân địa phương thân thiện và hiếu khách. Quảng Ngãi còn là nơi hòa hợp của những dòng sông xen lẫn núi đồi, ghềnh thác cùng với đường bờ biển trải dài hơn 130km có nhiều bãi tắm thơ mộng, các tuyệt tác thiên nhiên độc đáo, tạo nên tiềm năng du lịch sinh thái đa dạng như bãi biển Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Gành Yến, thác Trắng, suối Chí, bàu Cá Cái, rừng dừa nước Cà Ninh… Theo Giám đốc Sở VH-TT&DL Nguyễn Tiến Dũng, Quảng Ngãi đã hoàn thành logo nhận diện thương hiệu du lịch “Khám phá Quảng Ngãi”, dựa trên 2 giá trị cốt lõi là biển đảo và văn hóa Sa Huỳnh. Việc cần làm để đưa du lịch Quảng Ngãi phát triển là đánh giá khả năng đáp ứng cho du khách trong từng phân khúc thị trường của Quảng Ngãi so với các tỉnh, thành phố trong vùng. Trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút đầu tư và tạo ra các sản phẩm du lịch có chất lượng, giá trị gia tăng cao và chú trọng vào dòng khách chuyên biệt để tạo nên sức cạnh tranh, từng bước đưa du lịch Quảng Ngãi phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX xác định: “Phát triển du lịch biển, đảo trở thành loại hình du lịch chủ đạo, lấy Lý Sơn làm hạt nhân. Đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa, lịch sử, tâm linh trên cơ sở nâng tầm giá trị di sản văn hóa Sa Huỳnh, Trường Lũy Quảng Ngãi, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể”. Cùng với đó, hạ tầng ven biển của tỉnh và đảo Lý Sơn được quan tâm đầu tư, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như đường ven biển Dung Quất – Sa Huỳnh; cầu Cổ Lũy; hạ tầng Khu du lịch Sa Huỳnh, Khu du lịch Mỹ Khê, Khu văn hóa tâm linh Thiên Mã… Đây là những điều kiện thuận lợi để ngành du lịch phấn đấu đến năm 2025 thu hút trên 1,8 triệu lượt khách (riêng khách quốc tế đạt 145 nghìn lượt), tốc độ tăng trưởng khách quốc tế giai đoạn 2021 – 2025 khoảng 6,5%/năm và khách nội địa tăng 8,5%/năm. Bàu Cá Cái, xã Bình Thuận (Bình Sơn) là điểm du lịch sinh thái thu hút du khách trong thời gian gần đây. ẢNH: ANH TRUNG Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn nhấn mạnh, theo tinh thần Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy và Đề án phát triển du lịch Quảng Ngãi đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Quảng Ngãi sẽ tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng dịch vụ du lịch, tạo động lực cho phát triển kinh tế đa ngành. Cùng với đó, thực hiện bảo tồn, tôn tạo, nâng cấp, phát huy các giá trị di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, di chỉ khảo cổ, công trình kiến trúc nghệ thuật… phục vụ cho phát triển du lịch. Quảng Ngãi đang tập trung thu hút đầu tư, phấn đấu đến năm 2030 có 2 khu du lịch cấp quốc gia là Khu du lịch Mỹ Khê và Khu du lịch Lý Sơn; 4 khu du lịch cấp tỉnh và 6 điểm du lịch. Đồng thời, phát triển mạnh 3 dòng sản phẩm du lịch chủ đạo, trong đó lấy du lịch biển, đảo làm mũi nhọn, du lịch văn hóa làm trọng tâm và du lịch sinh thái làm nền tảng cho phát triển du lịch bền vững. Phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng tại huyện Lý Sơn , làng Gò Cỏ, trải nghiệm văn hóa Hrê tại huyện Ba Tơ ; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nông thôn tham gia làm du lịch, kết hợp sản xuất nông nghiệp với du lịch theo mô hình du lịch nông nghiệp, nông thôn… Quảng Ngãi đang xây dựng và triển khai Đề án “Chuyển đổi số trong hoạt động du lịch”, đáp ứng nhu cầu của du khách; phát triển các sản phẩm công nghệ 4D, VR360 phục vụ trải nghiệm cho du khách tại một số điểm du lịch trong tỉnh. Bên cạnh đó, tỉnh tăng cường liên kết với các địa phương trọng điểm về du lịch, nhất là các tỉnh, thành phố trong liên kết phát triển du lịch giữa TP.Hà Nội , TP.Hồ Chí Minh và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, tạo thành chuỗi liên kết phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. KIM NGÂN
Ngày 11/1, trong chương trình công tác tại nước CHDCND Lào, sau hội đàm chính thức, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone đồng chủ trì họp báo kết quả hội đàm và lễ Tổng kết ‘Năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam’. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại cuộc họp báo. Ảnh: TTXVN. Tham dự sự kiện có lãnh đạo Đảng, Nhà nước; lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương hai nước Việt Nam-Lào. Phát biểu tại sự kiện, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone cho biết trong không khí hân hoan, phấn khởi của “Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 2022”, hai Thủ tướng đã có cuộc hội đàm cởi mở, thân tình, tin cậy, hiệu quả và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hai bên vui mừng nhận thấy mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước thời gian qua đã được củng cố ngày càng vững chắc và đi vào chiều sâu, hiệu quả. Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Sonexay Siphandone đã thảo luận và thống nhất các biện pháp nhằm tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác song phương trên tất cả các lĩnh vực. Hai bên nhất trí duy trì trao đổi, tiếp xúc cấp cao thường xuyên trên các kênh, giúp thúc đẩy quan hệ chính trị gắn bó và tin cậy giữa hai Đảng, hai nước; đồng thời quyết tâm nâng tầm hợp tác kinh tế để tương xứng với tầm vóc của quan hệ đặc biệt giữa hai nước, trong đó trọng tâm là tiếp tục hỗ trợ nhau phục hồi kinh tế sau đại dịch; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả. Hai Thủ tướng nhất trí tăng cường kết nối giữa hai nền kinh tế, cả về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm, nhất là thông qua thúc đẩy triển khai các dự án chiến lược kết nối giao thông đường bộ, đường sắt, hàng không bên cạnh kết nối viễn thông, năng lượng, dịch vụ tài chính, ngân hàng… nhằm mở rộng không gian hợp tác và phát triển. Hai Thủ tướng cũng cho biết hai bên đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao chất lượng hợp tác giáo dục – đào tạo và nhất trí tiếp tục phối hợp triển khai tốt Đề án nâng cao chất lượng và hiệu quả của hợp tác Việt Nam-Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2021-2030. Hai bên đã trao đổi về một số vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm; khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương, nhất là ASEAN và các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mekong. Việt Nam sẽ hết lòng ủng hộ Lào đảm nhận thành công các trọng trách quốc tế trong thời gian tới, trong đó có việc đăng cai Hội nghị Cấp cao ACMECS lần thứ 10 trong năm 2023 và đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN/AIPA năm 2024. Trước đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone đã tiến hành hội đàm. Ngay sau hội đàm, hai bên đã ký kết 10 văn kiện hợp tác quan trọng liên quan đến tài chính – ngân hàng, giao thông vận tải, ngoại giao kinh tế, khoa học và công nghệ, công nghệ thông tin và truyền thông, giáo dục và đào tạo, y tế, tiếp tục tạo khuôn khổ quan trọng cho việc làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác giữa hai nước trong giai đoạn tới. Tại cuộc hội đàm, hai Thủ tướng tiếp tục khẳng định chính sách nhất quán của hai Đảng, hai nước luôn coi trọng và dành ưu tiên cao nhất cho việc củng cố, vun đắp quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào và bày tỏ vui mừng về sự phát triển tích cực, bền vững của quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực giữa hai nước thời gian qua. Tin cậy chính trị không ngừng được củng cố và ngày càng đi vào chiều sâu. Hai bên trao đổi nhiều đoàn trên tất cả các cấp, các kênh; tiếp tục phát huy hiệu quả các cơ chế hợp tác song phương; tổ chức thành công nhiều hoạt động ý nghĩa trong “Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 2022” ở cả hai nước. Tại cuộc họp báo, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: Năm 2022, “Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 2022” có ý nghĩa hết sức quan trọng khi hai nước cùng kỷ niệm 60 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 45 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác – những dấu mốc lịch sử, khắc sâu tình đoàn kết đặc biệt và mối quan hệ thủy chung, mẫu mực giữa hai đất nước, hai dân tộc. Nhân dịp này, hai bên cũng đã long trọng tổ chức các Lễ trao huân chương cao quý dành cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước hai bên. Trong đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã rất vinh dự và cảm động được nhận Huân chương Vàng Quốc gia do Đảng và Nhà nước Lào trao tặng. Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định “Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam 2022” đã thành công rực rỡ, góp phần tạo không khí hân hoan, sôi nổi và tiếp thêm xung lực cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam phát triển ngày càng sâu rộng và hiệu quả, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, phồn vinh, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone cho biết trong “Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 2022”, kỷ niệm 60 năm Ngày Thiết lập quan hệ ngoại giao, 45 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam – Lào , hai bên đã tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm; thường xuyên trao đổi chuyến thăm các cấp. Hai nước cũng tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến kinh tế, thương mại, đầu tư ở các địa phương nhằm khuyến khích, xúc tiến đầu tư; tổ chức xúc tiến nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục… H.Vũ
On January 11, during the working program in Lao PDR, after the official talks, Prime Minister Pham Minh Chinh and Lao Prime Minister Sonexay Siphandone co-chaired the press conference on the results of the talks and the closing ceremony of the 'Year of Solidarity and Friendship'. Vietnam - Laos, Laos - Vietnam conference'. Prime Minister Pham Minh Chinh spoke at the press conference. Photo: TTXVN. Attending the event were Party and State leaders; leaders of ministries, branches and localities of Vietnam and Laos. Speaking at the event, Prime Minister Pham Minh Chinh and Lao Prime Minister Sonexay Siphandone said that in the joyful and exciting atmosphere of the "Year of Solidarity and Friendship Vietnam - Laos, Laos - Vietnam 2022", the two Prime Ministers have There were open, cordial, trustworthy and effective discussions and many important results were achieved. Both sides are pleased to see that the relationship of friendship, special solidarity and comprehensive cooperation between the two Parties, States and people of the two countries has been increasingly consolidated and deepened in recent times. effective. Prime Minister Pham Minh Chinh and Prime Minister Sonexay Siphandone discussed and agreed on measures to further strengthen and improve the effectiveness of bilateral cooperation in all fields. The two sides agreed to maintain regular high-level exchanges and contacts across channels, helping to promote close and trusting political relations between the two Parties and two countries; At the same time, we are determined to raise the level of economic cooperation to match the stature of the special relationship between the two countries, with the focus being on continuing to support each other in economic recovery after the pandemic; build an independent and self-reliant economy, with extensive and effective international integration. The two Prime Ministers agreed to strengthen the connection between the two economies, both in terms of hard and soft infrastructure, especially through promoting the implementation of strategic projects connecting road, rail and aviation traffic. besides connecting telecommunications, energy, financial services, banking... to expand the space for cooperation and development. The two Prime Ministers also said that the two sides are especially interested in improving the quality of education and training cooperation and agreed to continue coordinating to well implement the Project to improve the quality and effectiveness of Vietnam-Training cooperation. Laos in the field of education and human resource development in the period 2021-2030. The two sides discussed a number of international and regional issues of mutual concern; Affirming continued close coordination and mutual support at multilateral forums, especially ASEAN and Mekong sub-region cooperation mechanisms. Vietnam will wholeheartedly support Laos to successfully undertake international responsibilities in the coming time, including hosting the 10th ACMECS Summit in 2023 and assuming the role of ASEAN/AIPA Chairman this year. 2024. Previously, Prime Minister Pham Minh Chinh and Lao Prime Minister Sonexay Siphandone held talks. Immediately after the talks, the two sides signed 10 important cooperation documents related to finance - banking, transportation, economic diplomacy, science and technology, information technology and communications, education and training, health, continue to create an important framework for deepening the cooperative relationship between the two countries in the coming period. At the talks, the two Prime Ministers continued to affirm the consistent policies of the two Parties and that the two countries always attach importance and give highest priority to consolidating and cultivating great friendship, special solidarity and comprehensive cooperation between Vietnam and Laos and expressed joy about the positive and sustainable development of cooperative relations in all fields between the two countries in recent times. Political trust is constantly being strengthened and deepening. The two sides exchanged many delegations at all levels and channels; continue to promote the effectiveness of bilateral cooperation mechanisms; Successfully organized many meaningful activities in the "Year of Solidarity and Friendship between Vietnam - Laos and Laos - Vietnam 2022" in both countries. At the press conference, Prime Minister Pham Minh Chinh emphasized: In 2022, the "Year of Solidarity and Friendship between Vietnam - Laos, Laos - Vietnam 2022" has a very important meaning when the two countries celebrate the 60th anniversary of the founding of the People's Republic of China. establishment of diplomatic relations and 45 years of signing the Treaty of Friendship and Cooperation - historical milestones, deepening the special solidarity and faithful and exemplary relationship between the two countries and two peoples. On this occasion, the two sides also solemnly held noble medal awarding ceremonies for Party and State leaders of the two sides. Among them, Prime Minister Pham Minh Chinh was very honored and touched to receive the National Gold Medal awarded by the Party and State of Laos. Prime Minister Pham Minh Chinh affirmed that the "Year of Solidarity and Friendship between Vietnam-Laos and Laos-Vietnam 2022" has been a great success, contributing to creating a joyful and vibrant atmosphere and adding impetus to the special relationship. Vietnam - Laos, Laos - Vietnam develop more and more deeply and effectively, for the benefit of the two peoples, for peace, prosperity, stability, cooperation and development in the region and the world. gender. Lao Prime Minister Sonexay Siphandone said in the "Year of Solidarity and Friendship between Vietnam - Laos, Laos - Vietnam 2022", commemorating the 60th anniversary of the establishment of diplomatic relations, the 45th anniversary of the signing of the Treaty of Friendship and Cooperation. Vietnam – Laos , the two sides organized many commemorative activities; regularly exchange visits at all levels. The two countries also organize many economic, trade and investment promotion activities in localities to encourage and promote investment; Organize and promote many cultural and educational activities... H. Vu
Được các nhà thiên văn học phát hiện vào ngày 2/3 năm 2022 bằng cách sử dụng camera khảo sát trường rộng tại Đài quan sát Palomar ở San Diego, California, Mỹ , sao chổi sẽ tiếp cận gần Mặt trời nhất vào ngày 12/1 tới. Sao chổi này sẽ phát ra vầng hào quang màu xanh lá cây lần đầu tiên sau 50.000 năm. Sao chổi với vầng hào quang màu xanh lá cây sẽ xuất hiện trên bầu trời đêm sau hơn 50.000 năm qua. Theo hiệp hội nghiên cứu các hành tinh, sao chổi này được đặt tên là C/2022 E3 (ZTF), có quỹ đạo quay quanh Mặt trời đi qua các vùng bên ngoài của hệ Mặt trời . Đó là lý do tại sao nó phải mất một hành trình dài – và thời gian dài để quay lại Trái đất. Những người quan sát bầu trời ở Bắc bán cầu sử dụng kính viễn vọng và ống nhòm nên nhìn thấp ở đường chân trời phía đông bắc ngay trước nửa đêm để phát hiện ra sao chổi xanh vào ngày 12/1, theo EarthSky . Thiên thể băng giá này đã sáng dần lên khi nó đến gần Mặt trời, sau đó sẽ đi qua Trái đất gần nhất trong khoảng thời gian từ ngày 1-2/2, cách xa khoảng 42 triệu km. Khi sao chổi đến gần Trái đất, những người quan sát sẽ có thể phát hiện ra nó gần ngôi sao sáng Polaris, còn được gọi là Sao Bắc Đẩu và nó sẽ được nhìn thấy sớm hơn vào buổi tối. Theo NASA , sao chổi có thể nhìn thấy bằng ống nhòm trên bầu trời buổi sáng đối với những người quan sát bầu trời ở Bắc bán cầu trong hầu hết tháng 1 và những người ở Nam bán cầu vào đầu tháng 2. Tùy thuộc vào mức độ sáng của nó trong những tuần tới, C/2022 E3 (ZTF) thậm chí có thể nhìn thấy bằng mắt thường trên bầu trời tối cuối tháng Giêng. Sao chổi có thể được phân biệt với các ngôi sao khác bằng vệt đuôi bụi và các hạt năng lượng, cũng như vầng hào quang màu xanh lá cây bao quanh nó. Vầng hào quang là một lớp bao hình thành xung quanh một sao chổi khi nó đi sát Mặt trời, khiến băng của nó thăng hoa hoặc chuyển trực tiếp thành khí. Điều này khiến sao chổi trông mờ khi quan sát qua kính thiên văn. Hà Thu Theo Live Science
Discovered by astronomers on March 2, 2022 using the wide-field survey camera at the Palomar Observatory in San Diego, California, America , the comet will make its closest approach to the Sun on January 12. This comet will emit a green halo for the first time in 50,000 years. A comet with a green halo will appear in the night sky after more than 50,000 years. According to the Planetary Research Association, this comet is named C/2022 E3 (ZTF), has an orbit around the Sun passing through the outer regions of the Sun. solar system . That's why it took a long journey – and a long time – to get back to Earth. Northern Hemisphere skywatchers using telescopes and binoculars should look low at the northeast horizon just before midnight to spot the blue comet on January 12, according to EarthSky. This icy object has gradually brightened as it approached the Sun, then will make its closest pass to Earth between February 1 and 2, about 42 million km away. As the comet approaches Earth, observers will be able to spot it near the bright star Polaris, also known as the North Star, and it will be visible earlier in the evening. According to NASA , the comet is visible with binoculars in the morning sky to skywatchers in the Northern Hemisphere throughout most of January and to those in the Southern Hemisphere in early February. Depending on how bright it becomes in the coming weeks, C/2022 E3 (ZTF) may even be visible to the naked eye in the dark skies of late January. Comet can be distinguished from other stars by its trail of dust and energetic particles, as well as the green halo surrounding it. The halo is a envelope that forms around a comet as it passes close to the Sun, causing its ice to sublimate or convert directly into gas. This causes the comet to appear blurry when viewed through a telescope. Ha Thu According to Live Science
Cách chúng ta 102 năm ánh sáng, một hành tinh trong chòm sao Kiếm Ngư có thể là quê hương của người ngoài Trái Đất. Theo Sci-News, “thợ săn ngoại hành tinh” TESS của NASA vừa xác định được hành tinh thứ hai trong hệ TOI-700d hội đủ ba điều kiện vàng cho một nền văn minh ngoài Trái Đất: Kích thước bằng với địa cầu, có thể là hành tinh đã và nằm trong “vùng sự sống” của ngôi sao mẹ. Đó là TOI-700e, một trong các thành viên của hệ hành tinh quay quanh ngôi sao loại M2 mang tên TOI-700, thuộc chòm sao Kiếm Ngư (Dorado) theo góc nhìn từ Trái Đất. Hành tinh có thể sống được như Trái Đất TOI-700e – Ảnh đồ họa từ NASA/JPL-Caltech. Ngôi sao này có khối lượng và kích thước bằng khoảng 40% Mặt Trời của chúng ta, nhiệt độ bề mặt bằng một nửa. Nhờ có TESS vào năm 2020 NASA đã tìm được tổng cộng 3 hành tinh quay quanh ngôi sao này, với 2 cái xấp xỉ Trái Đất. Thứ nhất là TOI-700b, gần bằng Trái Đất, có thể là hành tinh đá và quay một vòng quanh sao mẹ mất 10 ngày. Thứ hai là TOI-700c, là siêu Trái Đất với kích thước gấp 2,6 lần địa cầu và quỹ đạo 16 ngày. Thứ ba là TOI-700d gấp 1,1 lần Trái Đất và nằm trong “vùng sự sống” của ngôi sao mẹ – tức khu vực mà nó cung cấp nhiệt lượng phù hợp để hành tinh đó có nước lỏng và sinh vật dễ dàng sống được. Điều đó biến TOI-700d trở thành ứng cử viên tiềm năng cho một hành tinh sống được, với nhiệt độ bề mặt khoảng âm 3 độ C. Nó cũng giống như 2 hành tinh kia đều bị “khóa” với sao mẹ, tức luôn quay chỉ 1 mặt về phía sao mẹ như Mặt Trăng bị khóa với Trái Đất. Tình trạng này khiến một nửa hành tinh chỉ có ban ngày, một nửa là ban đêm. Thế nhưng nhóm nghiên cứu phối hợp giữa Phòng thí nghiệm Sức đẩy phản lực, Trung tâm Chuyến bay vũ trụ Goddard của NASA và Đại học Maryland vừa tìm ra một hành tinh thứ tư là TOI-700e. Nó nhỏ hơn 10% so với TOI-700e, mất 28 ngày để quay quanh sao mẹ, nằm ở quỹ đạo giữa TOI-700c và TOI-700d, tức ấm hơn TOI-700d một chút. Cho dù có thể cũng bị khóa, nhưng các nhà khoa học kỳ vọng khoảng cách lọt thỏm giữa vùng sự sống này cho nó một khí hậu ôn đới và dễ sống. Phát hiện vừa được công bố trên tạp chí khoa học Astrophysical Journal Letters. Các nhà khoa học cho biết sẽ tìm hiểu sâu hơn về hành tinh này sau phát hiện, cũng như đón chờ thêm những bất ngờ mới từ TESS – “thợ săn” đã đem về cho NASA dữ liệu tuyệt vời về hơn 5.000 ngoại hành tinh. Anh Thư
102 light-years away, a planet in the Dorado constellation may be home to extraterrestrials. According to Sci-News, NASA's "exoplanet hunter" TESS has just identified the second planet in the TOI-700d system that meets three golden conditions for an extraterrestrial civilization: Equal in size to the Earth, possibly a planet was and is in the "life zone" of the parent star. That is TOI-700e, one of the members of the planetary system orbiting the M2-type star named TOI-700, in the Dorado constellation from the perspective of Earth. Habitable planets like Earth TOI-700e – Graphic image from NASA/JPL-Caltech. This star has about 40% the mass and size of our Sun, and half the surface temperature. Thanks to TESS in 2020, NASA found a total of 3 planets orbiting this star, with 2 approximately Earth-sized. The first is TOI-700b, which is almost the size of Earth, may be a rocky planet and rotates once around its parent star in 10 days. The second is TOI-700c, a super-Earth with 2.6 times the size of the Earth and a 16-day orbit. Third, TOI-700d is 1.1 times larger than Earth and is located in the "life zone" of the parent star - that is, the area where it provides the right amount of heat for that planet to have liquid water and organisms to easily live. Okay. That makes TOI-700d a potential candidate for a habitable planet, with a surface temperature of about minus 3 degrees Celsius. It's like the other two planets are "locked" to their parent star, which is Turns only one face towards the parent star like the Moon is locked with the Earth. This situation causes half of the planet to only have daytime, and half to have nighttime. But a joint research team between the Jet Propulsion Laboratory, NASA's Goddard Space Flight Center and the University of Maryland has just discovered a fourth planet, TOI-700e. It is 10% smaller than TOI-700e, takes 28 days to orbit its parent star, and is located in an orbit between TOI-700c and TOI-700d, which is a bit warmer than TOI-700d. Even though it may be locked away, scientists expect the gap between this zone of life to give it a temperate and livable climate. The discovery was just published in a scientific journal Astrophysical Journal Letters. Scientists said they will learn more about this planet after the discovery, as well as wait for new surprises from TESS - the "hunter" that has brought NASA great data about more than 5,000 exoplanets. . Heroine
Những năm qua, hàng loạt nghi lễ cung đình đã được Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội tái hiện, từng bước làm sống lại hồn cốt của văn hóa cung đình, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên đán đầu năm. “Thành mới trăng soi bóng hững hờ Thăng Long đô cũ các triều xưa” Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới giữa lòng Thủ đô Hà Nội tọa lạc tại số 18 Hoàng Diệu. Khu di sản có bề dày lịch sử hình thành liên tục hơn 1.300 năm với những di tích, di vật độc đáo, minh chứng cho lịch sử hào hùng của Thăng Long – Hà Nội và của dân tộc Việt Nam. Theo sử sách ghi chép lại, Thăng Long – Hà Nội có đặc trưng là đô thị sông hồ điển hình. Khi quá trình kiến tạo địa chất đã định hình, Hà Nội lại có địa thế “Núi chầu sông tụ” là thắng địa đế đô, đó là lý do vua Lý Thái Tổ đã cho dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long vào mùa thu năm 1010. Tại Khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu, nằm trong khuôn viên nhà Quốc hội, sau nhiều năm khai quật, các nhà khảo cổ đã tìm được hàng triệu hiện vật có niên đại xen lẫn nhau, chồng xếp lên nhau suốt 1.300 năm. Lớp đất dưới cùng của Khu khảo cổ là một hệ thống kiến trúc trực thuộc từ thời thành Đại La, thể hiện được rõ qua một hệ thống những cột gỗ và các nền tảng về kiến trúc, các đường cống tiêu dùng để thoát nước, các giếng nước và những di vật khác. Những lớp đất này đều mang dấu ấn sâu đậm của rất nhiều các thời kỳ lịch sử dân tộc, lại có phần diễn biến theo một trật tự nhất định và liên tục không bị gián đoạn. Đặc biệt là có cả vị trí ở phần trung tâm của Cấm thành và Hoàng thành Thăng Long xưa. Khu vực này được xem là một tài sản vô giá của nền văn hóa và lịch sử Việt Nam trong đó phải kể đến di tích đặc biệt nhất giếng nước hình xương cá được xây dựng vào thời đại nhà Trần, thế kỷ XIII. Giếng nước xây dựng thời nhà Trần – sự phát triển trong kiến trúc xây dựng so với thời Đại La và thời Lý. Trong những năm qua, nhằm phát huy giá trị di sản khảo cổ học và đẩy mạnh nghiên cứu thể nghiệm văn hóa phi vật thể lễ hội cung đình, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội đã tái hiện hàng loạt nghi lễ, từng bước làm sống lại hồn cốt của văn hóa cung đình, trong đó nổi bật là nghi lễ “Tống cựu nghênh xuân” trong dịp Tết Nguyên đán. Theo Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội Nguyễn Thanh Quang, trong cung đình Thăng Long xưa, Tết Nguyên đán là lễ tiết lớn nhất được thực hiện theo một chuỗi các sự kiện trước thời khắc năm mới như: Tiến Xuân Ngưu, Ban Lịch, Phong ấn, thả cá chép, dựng cây nêu… “Nghi lễ “Dựng cây nêu và thả cá chép” tại Khu di sản Hoàng thành Thăng Long là một nét đẹp truyền thống, cần được giữ gìn và lan tỏa. Đây là những nghi thức truyền thống trong dịp Tết Nguyên đán trong Cung đình và dân gian của người Việt, mang màu sắc Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Sau khi tiễn ông Công ông Táo về trời, tiến hành dựng cây nêu ngày Tết đánh dấu thời khắc chuyển giao giữa năm mới và năm cũ, cầu mong quốc thái dân an, mùa màng tốt tươi. “Việc thực hành thả cá chép tại dòng sông cổ nhằm gìn giữ, phát huy di sản tại Hoàng thành Thăng Long, làm giàu thêm các sản phẩm văn hóa, chương trình giáo dục di sản tại điểm đến”, ông Nguyễn Thanh Quang bày tỏ. Những kết quả khai quật tại Khu di sản Hoàng thành Thăng Long nhiều năm qua đã và đang góp phần làm sáng tỏ những thông điệp từ quá khứ bằng sự xuất lộ của quần thể di tích kiến trúc quý giá cùng nhiều chứng cứ về các ao, hồ, dòng chảy đã từng xuất hiện nơi đây. Theo PGS. TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học, vào những năm 2012 – 2013, bên cạnh việc phát hiện các dấu tích lầu gác, cung điện, đền đài, chùa chiền thì còn có khu vực sông hoặc hồ với những dấu tích rõ rệt là tầng đất chứa các trầm tích bùn. Trong đó, hồ cổ nằm giữa khu A và B khu di tích 18 Hoàng Diệu mang lại rất nhiều chứng cứ về một hồ nước lớn, một môi trường có hệ động thực vật đã từng sinh sống ở đây. Hồ nước lớn được đào vào thời Lê, lộ rõ hai bờ đông – tây có chiều rộng là 48 m, hướng dòng chảy theo chiều Bắc – Nam đã phát lộ 140 m với diện tích 6.720 m2. Có thể kể đến những dấu tích về dòng chảy lớn được đào vào thời Lê, có hai bờ Đông – Tây rộng 48 m; hướng dòng chảy theo chiều Bắc – Nam đã phát lộ 140 m với diện tích gần 7 nghìn mét vuông. Đặc biệt, bên cạnh các dấu tích bùn, tàn tích một số loại thực vật như hoa sen, hoa súng… hay xác các loài nhuyễn thể như ốc, hến…, sát bờ Đông còn phát hiện một con thuyền gỗ dài khoảng 14 m khá nguyên vẹn cùng nhiều di vật gốm, sành thời Lê sơ, bánh lái thuyền ngự bằng gỗ tương ứng với bản vẽ chiến thuyền của thủy quân thời Lê – Trịnh hoặc thuyền ngự của hoàng gia thế kỷ XVII. Hồ sen – dấu tích hồ cổ trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long Kết quả khai quật này là tài liệu vô cùng quý giá không chỉ phản ánh lịch sử Thăng Long mà còn cho chúng ta hiểu thêm về môi trường sinh thái mặt nước và đời sống hoàng cung trong Cấm thành Thăng Long. Hiện nay, hồ sen đã và đang được phục hồi một phần và phát huy giá trị, phục vụ nhu cầu tham quan, nghiên cứu của đông đảo công chúng và du khách. Con thuyền cổ – một hiện vật đặc biệt, minh chứng sống động, hấp dẫn về cuộc sống hoàng cung xưa cũng được bảo quản tại chỗ, bên trên đặt hình ảnh với lồng kính và đèn chiếu, cho khách chiêm ngưỡng từ trên cầu dẫn. Theo Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội Nguyễn Hồng Chi, tour đêm Giải mã Hoàng thành Thăng Long dành cho khách nội địa ra mắt sau khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn đón khách du lịch đã được đón nhận và đánh giá cao. Vì vậy, để đón chào năm mới 2023 và đa dạng dịch vụ du lịch phục vụ khách, Trung tâm đã phối hợp với Công ty Du lịch Bền vững Việt Nam S.T.I.D và Công ty Mỹ thuật Long Thành xây dựng tour du lịch dành cho khách quốc tế “Đêm Hoàng Cung Thăng Long – Một cảm nhận độc đáo”. Linh Trang
In recent years, a series of royal rituals have been recreated by the Thang Long - Hanoi Heritage Conservation Center, gradually reviving the soul of royal culture, especially during the Lunar New Year at the beginning of the year. “The new city's moon shines indifferently Thang Long, the old capital of ancient dynasties" Imperial Citadel of Thang Long is a world cultural heritage in the heart Ha Noi capital located at 18 Hoang Dieu. The heritage area has a long history of continuous formation for more than 1,300 years with unique relics and artifacts, demonstrating the heroic history of Thang Long - Hanoi and the Vietnamese people. According to historical records, Thang Long - Hanoi is characterized as a typical river and lake city. When the geological tectonic process took shape, Hanoi had its terrain again “Mountains flanking rivers” It was the imperial capital, which is why King Ly Thai To moved the capital from Hoa Lu to Thang Long in the fall of 1010. At 18 Hoang Dieu Archaeological Park, located within the National Assembly grounds, after many years of excavation, archaeologists have found millions of artifacts dating back to each other, stacked on top of each other for 1,300 years. The bottom layer of the archaeological site is an architectural system dating back to the Dai La citadel, clearly shown through a system of wooden columns and architectural foundations, sewer pipes for drainage, wells and other relics. These soil layers all bear deep imprints of many periods of the nation's history, and partly evolve in a certain order and continuously without interruption. Especially located in the central part of the Forbidden City and the ancient Thang Long Imperial Citadel. This area is considered an invaluable asset of Vietnamese culture and history, including the most special relic of a herringbone-shaped well built in the Tran Dynasty, 13th century. Well built during the Tran Dynasty - the development in construction architecture compared to the Dai La and Ly dynasties. In recent years, in order to promote the value of archaeological heritage and promote experimental research on the intangible culture of royal festivals, the Thang Long - Hanoi Heritage Conservation Center has recreated a series of rituals. , gradually reviving the soul of royal culture, notably the "Old Song welcomes spring" ceremony during the Lunar New Year. According to Director of the Thang Long - Hanoi Heritage Conservation Center Nguyen Thanh Quang, in the ancient Thang Long royal court, Lunar New Year was the biggest ceremony performed in a series of events before the new year such as: Tien Xuan Nguu, Ban Lich, Sealing, releasing carp, erecting a tree... "The ceremony of "Establishing a tree and releasing carp" at the Thang Long Imperial Citadel Heritage Site is a traditional beauty that needs to be preserved and spread. radiate. These are traditional rituals during the Lunar New Year in the Royal Court and among Vietnamese people, bearing the color of Buddhism and folk beliefs. After sending Mr. Cong and Mr. Tao back to heaven, they set up a tree on Tet holiday to mark the transition between the new year and the old year, praying for peace in the country and people, and good crops. "The practice of releasing carp in the ancient river aims to preserve and promote heritage at Thang Long Imperial Citadel, enriching cultural products and heritage education programs at the destination", Mr. Nguyen Thanh Quang said. show. Excavation results at the Thang Long Imperial Citadel Heritage Site over the years have been contributing to clarifying messages from the past by revealing a complex of precious architectural relics and much evidence of ponds. , lakes, and streams once appeared here. According to Associate Professor. Dr. Tong Trung Tin, Chairman of the Archaeological Association, in the years 2012 - 2013, in addition to discovering traces of attic floors, palaces, temples, and pagodas, there were also river or lake areas with traces of It is clear that the soil layer contains muddy sediments. In particular, the ancient lake located between areas A and B of the 18 Hoang Dieu relic area brings a lot of evidence of a large lake, an environment with flora and fauna that once lived here. The large lake was dug in the Le Dynasty, clearly revealing two east - west banks with a width of 48 m, the flow direction in the North - South direction has revealed 140 m with an area of ​​6,720 m2. We can mention the traces of a large stream dug in the Le dynasty, with two East and West banks 48 m wide; The flow direction in the North - South direction has revealed 140 m with an area of ​​nearly 7 thousand square meters. In particular, besides traces of mud, remains of some plants such as lotus flowers, water lilies... or bodies of molluscs such as snails, mussels..., close to the East bank, a wooden boat about 14 m long was also discovered. Quite intact with many ceramic and porcelain relics of the early Le period, the wooden rudder of the royal boat corresponds to the drawing of the naval warship of the Le - Trinh dynasties or the royal boat of the 17th century. Lotus lake - vestiges of an ancient lake in the Thang Long Imperial Citadel relic site The results of this excavation are extremely valuable documents that not only reflect the history of Thang Long but also help us understand more about the ecological environment of the water surface and royal life in the Forbidden Citadel of Thang Long. Currently, the lotus pond has been partially restored and promoted its value, serving the sightseeing and research needs of the public and tourists. The ancient boat - a special artifact, a vivid and attractive testament to ancient palace life, is also preserved on site, with an image with a glass cage and lights placed on top, for visitors to admire from the bridge. . According to Deputy Director of Thang Long - Hanoi Heritage Conservation Center Nguyen Hong Chi, night tour Decoding Thang Long Imperial Citadel for domestic guests launched after Vietnam fully opened to tourists and has been well received and highly appreciated. Therefore, to welcome the new year 2023 and diversify tourism services to serve guests, the Center has coordinated with Vietnam Sustainable Tourism Company S.T.I.D and Long Thanh Fine Arts Company to build tours for guests. International "Night of Thang Long Imperial Palace - A unique feeling". Linh Trang
Làm gì để Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được thông qua nhanh nhất, mà vẫn đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống đặt ra. Đó là vấn đề nóng tại kỳ họp bất thường lần thứ 2, Quốc hội khóa XV. Theo quy định của Luật Quy hoạch năm 2017, Quy hoạch tổng thể quốc gia là cơ sở để lập quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn trên phạm vi cả nước. Chính phủ có trách nhiệm tổ chức lập Quy hoạch tổng thể quốc gia, trình Quốc hội xem xét, quyết định. Nghị quyết 61/2022/QH15, ngày 16/6/2022 của Quốc hội khóa XV về giám sát tối cao công tác lập quy hoạch thời kỳ 2021-2030 đã yêu cầu: Phải hoàn thành Quy hoạch tổng thể quốc gia trong năm 2022. Tuy nhiên, đầu năm 2023, quy hoạch vẫn đang trong giai đoạn bàn thảo. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch tổng thể quốc gia được xây dựng căn cứ vào Luật Quy hoạch; cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước thời kỳ 2021-2030, các nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quốc hội… Nhiều bộ, ngành, địa phương, viện nghiên cứu, chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước cùng tham gia. Quy hoạch đã quán triệt và cụ thể hóa rõ hơn 5 quan điểm về tổ chức không gian phát triển. Đến năm 2050, Việt Nam là nước phát triển, thu nhập cao, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giai đoạn 2031-2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5-7,5%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2050 đạt khoảng 27.000-32.000 USD. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70-75%. Chỉ số phát triển con người ở mức rất cao, đời sống của người dân hạnh phúc; quốc phòng – an ninh được bảo đảm vững chắc… Về mục tiêu tổng quát, đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, tăng trưởng kinh tế dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Mô hình tổ chức không gian phát triển quốc gia hiệu quả, thống nhất, bền vững, hình thành được các vùng, trung tâm kinh tế, đô thị động lực, có mạng lưới kết cấu hạ tầng cơ bản đồng bộ, hiện đại; bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế. Môi trường sinh thái được bảo vệ, thích ứng với biến đổi khí hậu; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng – an ninh được bảo đảm. Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước bình quân đạt khoảng 7%/năm giai đoạn 2021-2030, trong đó vùng Đông Nam Bộ tăng khoảng 8-8,5%/năm, vùng đồng bằng sông Hồng khoảng 9%/năm. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD… Phát biểu tại kỳ họp, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh An Giang Trình Lam Sinh băn khoăn khi quy hoạch tổng thể đặt mục tiêu đến năm 2030, tăng trưởng kinh tế mức bình quân 7%, GDP bình quân đầu người đạt 7.500 USD. Băn khoăn là bởi, GDP bình quân đầu người hiện mới chỉ đạt hơn 4.000 USD. “Nếu Việt Nam tăng trưởng kinh tế ở mức 7%, thì GDP bình quân đầu người giai đoạn 2021-2030 chỉ hơn 6.000 USD. Đề nghị cơ quan lập quy hoạch tính toán lại trong tương quan tăng trưởng toàn nền kinh tế. Chỉ khi đánh giá kỹ thực trạng hiện nay thì mới có giải pháp phù hợp, khắc phục được điểm cản, đáp ứng được quy hoạch. Nếu không, sẽ phải điều chỉnh lại khi kế hoạch bị phá vỡ” – ĐBQH Trình Lam Sinh bày tỏ. Ông Sinh cũng lo ngại, nếu không cẩn thận, quy hoạch sẽ là lực cản cho sự phát triển. Các địa phương hiện nay rất năng động, sáng tạo, vươn lên mạnh mẽ, vượt xa nhiều điểm trong này. Nếu còn băn khoăn thì nên tổ chức lấy ý kiến nhiều hơn, sâu hơn. Thông qua ngay đợt này, có lẽ còn phải điều chỉnh. Về phần phát triển hạ tầng, trong quy mô chất lượng từng ngành, vùng, lĩnh vực, tính liên kết các khu vực chưa được tốt lắm. Điểm này cần bổ sung để tạo sự liên kết chung của quốc gia. Không để xảy ra tình trạng phát triển manh mún, cạnh tranh nhưng làm triệt tiêu sự phát triển chung. Về tổ chức không gian vùng ĐBSCL, ông Sinh nhận định, quy hoạch trọng điểm nhưng “chưa thấy trọng điểm đâu”. Việc tổ chức không gian các vùng trọng điểm cần đánh giá kỹ lưỡng hơn, có giải pháp chi tiết đi kèm, để quy hoạch thực sự thành động lực phát triển. Thiếu tướng Hoàng Hữu Chiến (Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ đội Biên phòng, ĐBQH tỉnh An Giang) băn khoăn về mục tiêu “đến năm 2030 mở 63 cửa khẩu biên giới đất liền”. Ông cho rằng, đây là số liệu cần tính toán, bởi mở được cửa khẩu hay nâng cấp lên thì quy trình rất phức tạp. Để đạt được sự đồng thuận của 2 nước biên giới, cần rất nhiều thời gian, nhanh cũng phải 2-2,5 năm. Nếu chúng ta quy định cứng về con số thì rất khó tổ chức thực hiện. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, hồ sơ Quy hoạch tổng thể quốc gia được chuẩn bị cơ bản, công phu, nghiêm túc, có kết cấu phù hợp và bám sát vào ý kiến của bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, cần xác định rõ quan điểm quy hoạch cốt lõi và xuyên suốt để làm kim chỉ nam trong toàn bộ quy hoạch. Sự kết nối tác động qua lại giữa một số ngành, lĩnh vực (như văn hóa, du lịch, phát triển đô thị) gắn với bảo vệ môi trường đô thị, phát triển ngành, lĩnh vực với nhu cầu sử dụng quỹ đất, cơ cấu đầu tư và hiệu quả đầu tư. GIA KHÁNH
What can be done to ensure that the National Master Plan for the period 2021-2030, with a vision to 2050, is approved as quickly as possible, while still meeting the practical requirements of life? That is a hot issue at the 2nd extraordinary session of the 15th National Assembly. According to the provisions of the 2017 Planning Law, the National Master Plan is the basis for establishing national marine spatial planning, national land use planning, national sector planning, regional planning, and provincial planning. , urban planning, rural planning nationwide. The Government is responsible for organizing the preparation of the National Master Plan and submitting it to the National Assembly for consideration and decision. Resolution 61/2022/QH15, dated June 16, 2022 of the 15th National Assembly on supreme supervision of planning work for the 2021-2030 period required: The National Master Plan must be completed in 2022. . However, in early 2023, planning is still in the discussion stage. Minister of Planning and Investment Nguyen Chi Dung said that the National Master Plan was built based on the Planning Law; concretizing the Resolution of the 13th Party Congress, the country's socio-economic development strategy for the period 2021-2030, resolutions and conclusions of the Party Central Committee, Politburo, National Assembly... Many Ministries, branches, localities, research institutes, domestic and foreign experts and scientists participate. The plan has thoroughly grasped and more clearly specified 5 perspectives on spatial organization of development. By 2050, Vietnam It is a developed country with high income and a fair, democratic and civilized society. In the period 2031-2050, strive for a GDP growth rate of about 6.5-7.5%/year. GDP per capita at current prices by 2050 will reach about 27,000-32,000 USD. The urbanization rate by 2050 will reach 70-75%. The human development index is very high, people's lives are happy; National defense and security are firmly guaranteed... Regarding the general goal, by 2030, Vietnam strives to be a developing country with modern industry, high average income, economic growth based on science - technology, innovation and creativity. digital conversion. The model for organizing national development space is effective, unified, and sustainable, forming dynamic regions, economic centers, and urban centers with a synchronous and modern basic infrastructure network; ensuring major balances and improving the economy's resilience. The ecological environment is protected and adapted to climate change; The material and spiritual life of the people is improved; National defense and security are guaranteed. Main economic indicators: Strive for an average growth rate of the country's gross domestic product (GDP) of about 7%/year in the 2021-2030 period, of which the Southeast region will increase by about 8-8%, 5%/year, the Red River Delta is about 9%/year. By 2030, GDP per capita at current prices will reach about 7,500 USD... Speaking at the meeting, Deputy Head of the National Assembly Delegation (NPA) An Giang province Trinh Lam Sinh wondered when the master plan set a target of 7% average economic growth by 2030 and per capita GDP of 7,500 USD. The concern is because GDP per capita is currently just over 4,000 USD. “If Vietnam grows its economy at 7%, the average GDP per capita in the 2021-2030 period will be just over 6,000 USD. It is recommended that the planning agency recalculate in relation to the growth of the entire economy. Only when carefully assessing the current situation can there be appropriate solutions, overcoming obstacles, and meeting the planning. Otherwise, it will have to be adjusted again when the plan is broken" - National Assembly representative Trinh Lam Sinh expressed. Mr. Sinh is also concerned that if not careful, planning will be a hindrance to development. Current localities are very dynamic, creative, rising strongly, far surpassing many of these points. If you still have concerns, you should organize more and more in-depth consultation. Passed this round immediately, perhaps adjustments still need to be made. Regarding infrastructure development, in terms of scale and quality of each industry, region, and field, the connectivity between areas is not very good. This point needs to be added to create a common national connection. Do not allow fragmented and competitive development to occur but destroy overall development. Regarding the spatial organization of the Mekong Delta, Mr. Sinh commented that the planning is key but "the key is not seen yet". The spatial organization of key areas needs to be evaluated more thoroughly, with accompanying detailed solutions, so that planning can truly become a driving force for development. Major General Hoang Huu Chien (Deputy Commander and Chief of Staff of the Border Guard, An Giang Provincial National Assembly) wondered about the goal of "opening 63 land border gates by 2030". He said that this is a figure that needs to be calculated, because opening a border gate or upgrading it is a very complicated process. To reach a consensus between the two border countries, it takes a lot of time, even 2-2.5 years. If we have hard regulations on numbers, it will be very difficult to organize and implement them. Standing Vice Chairman of the National Assembly Tran Thanh Man said that the National Master Plan document was prepared fundamentally, meticulously, seriously, had an appropriate structure and closely followed the opinions of ministries, branches and localities. direction. However, it is necessary to clearly define the core and throughout planning concepts to serve as a guideline in the entire planning. The connection and interaction between a number of industries and fields (such as culture, tourism, urban development) associated with urban environmental protection, development of industries and fields with the need to use land funds, investment structure and investment efficiency. GIA KHANH
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng năm 2023, thị trường năng lượng, giá dầu thô và các sản phẩm dầu khí còn nhiều biến động, xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu, biến đổi khí hậu diễn biến bất thường… Thủ tướng Phạm Minh Chính: “PVN tiếp tục đoàn kết, nâng cao tinh thần dám nghĩ, dám làm với khát vọng xây dựng và phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam là đơn vị nòng cốt của ngành Dầu khí”. Ảnh: VGP. Chiều 10/01/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị tổng kết công tác năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023 của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Phát biểu tại hội nghị, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao và ghi nhận những thành tích, đóng góp của PVN năm 2022 đối với những thành tựu, kết quả chung của cả nước, nhất là trong giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn. Năm 2022, trong bối cảnh khó khăn, thách thức “kép” cả bên trong và bên ngoài, Tập đoàn đã làm tốt các nhiệm vụ thường xuyên ngày càng nhiều, nặng nề, đồng thời tích cực giải quyết các công việc tồn đọng, kéo dài, ứng phó với các vấn đề đột xuất, bất ngờ như tình trạng thiếu xăng dầu cục bộ. Thủ tướng nhấn mạnh một số kỷ lục mà Tập đoàn đạt được trong năm 2022. Đó là kỷ lục về sản lượng khai thác dầu thô đạt 8,98 triệu tấn, vượt 28% kế hoạch năm; kỷ lục về sản lượng sản xuất và xuất khẩu phân đạm với 1,88 triệu tấn (vượt 17% kế hoạch), xuất khẩu 606 nghìn tấn với giá trị cao, đóng góp 37,4% giá trị xuất khẩu phân bón 1,08 tỷ USD, đưa nước ta từ nước nhập khẩu trở thành nước xuất khẩu phân bón với giá trị cao; kỷ lục về sản xuất xăng dầu, bao gồm cả lọc hóa dầu Nghi Sơn và Dung Quất, đáp ứng khoảng 75% nhu cầu xăng dầu trong nước. Tập đoàn cũng đạt kỷ lục về tổng doanh thu trong 61 năm qua với 931,2 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 40 tỷ USD), khẳng định vai trò là tập đoàn kinh tế nhà nước hàng đầu có quy mô, sức ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế của đất nước; kỷ lục về lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt trên 82 nghìn tỷ đồng (gần 3,5 tỷ USD); kỷ lục về nộp ngân sách Nhà nước với 170,6 nghìn tỷ đồng (hơn 7,2 tỷ USD), chiếm tỉ trọng khoảng 9,6% trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Một kỷ lục khác là Tập đoàn có 3 công trình được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, 3 công trình được trao Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ; 7 công trình đoạt giải thưởng VIFOTEC. Giá trị thương hiệu tăng lên, niềm tin của Đảng, Nhà nước, Nhân dân với Tập đoàn được củng cố và tăng cường. Ngoài ra, trong năm 2022, Tập đoàn đã rất quyết liệt xử lý có hiệu quả các dự án, công trình tồn đọng. Đồng thời chủ động, báo cáo các cơ quan kịp thời tháo gỡ các khó khăn về cơ chế, chính sách, đặc biệt, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật Dầu khí năm 2022. Nhận định về năm 2023, Thủ tướng cho rằng thách thức nhiều hơn cơ hội và thuận lợi khi cạnh tranh chiến lược gay gắt, lạm phát trên toàn cầu, an ninh năng lượng, an ninh lương thực bị đe dọa, thị trường năng lượng, giá dầu thô và các sản phẩm dầu khí còn nhiều biến động, xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu, biến đổi khí hậu diễn biến bất thường… Các vấn đề này sẽ có nhiều tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển của Tập đoàn. Tuy nhiên, Tập đoàn đã trưởng thành hơn, có thêm nhiều kinh nghiệm và bản lĩnh hơn sau 61 năm hình thành và phát triển, Thủ tướng đề nghị Tập đoàn phát huy truyền thống, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, khắc phục những tồn tại, bất cập, ra sức thi đua hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh năm 2023. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nghe giới thiệu về hoạt động dầu khí tại mỏ Bạch Hổ, mỏ dầu khai thác đầu tiên tại Việt Nam. Ảnh: PVN. Thủ tướng đánh giá cao phương châm 2023 của Tập đoàn là “quản trị biến động, mở rộng quy mô, tăng tốc chuyển đổi số, dịch chuyển mô hình, nâng cao năng suất, tái tạo kinh doanh”, đồng thời đề nghị Tập đoàn, toàn ngành dầu khí tập trung thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chủ yếu. Thứ nhất , không để thiếu năng lượng cho phát triển, vận hành an toàn, ổn định với công suất cao và có hiệu quả các dự án, nhà máy, công trình dầu khí, góp phần chủ lực trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng nhu cầu xăng dầu, điện, phân bón cho đất nước. Thứ hai, hoàn thành tốt các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh năm 2023, phấn đấu bằng hoặc vượt mức kết quả đạt được trong năm 2022. Thứ ba, phải đẩy mạnh công tác đầu tư phát triển trong toàn Tập đoàn và phải đặt mục tiêu trong năm 2023 là quyết tâm khởi công được các dự án trọng điểm, nghiên cứu đề xuất các dự án mới tận dụng thế mạnh của Tập đoàn. Thứ tư , bổ sung, hoàn thiện xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển về năng lượng, chiến lược, kế hoạch phát triển ngành Dầu khí phù hợp với xu thế mới, đồng thời xây dựng các kịch bản, giải pháp ứng phó với các vấn đề đột xuất, bất ngờ; nghiên cứu các dự án năng lượng mới, điện gió ngoài khơi… Thứ năm , phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan liên quan trong thực hiện phương án bảo đảm quốc phòng, an ninh, an ninh kinh tế cho hoạt động dầu khí, kiên định nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng ứng phó linh hoạt, phù hợp với tình hình cụ thể. Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, để hoàn thành các mục tiêu trên, PVN phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm và có hiệu quả các nhiệm vụ theo các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2023; các nhiệm vụ cụ thể được giao phải được cụ thể hóa vào kế hoạch của Tập đoàn cũng như của từng đơn vị để tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát. “Tập đoàn tiếp tục đoàn kết, nâng cao tinh thần dám nghĩ, dám làm với khát vọng xây dựng và phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam là đơn vị nòng cốt của ngành Dầu khí, có tiềm lực mạnh về tài chính và khoa học công nghệ, có sức cạnh tranh cao ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc”, Thủ tướng đề nghị, đồng thời nhấn mạnh, Tập đoàn phải tập trung chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế tuần hoàn, dịch chuyển mô hình, tăng năng suất lao động; tái tạo kinh doanh… Tổng Giám đốc PVN Lê Mạnh Hùng báo cáo với Thủ tướng về tình hình hoạt động của lĩnh vực điện. Ảnh: PVN. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Tập đoàn tiếp tục quan tâm, thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy và không ngừng nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp; có các giải pháp về tài chính minh bạch, phù hợp, hiệu quả tối ưu; quản trị tốt công tác đầu tư, lấy lại tiến độ các dự án trọng điểm, xử lý các tồn tại, nâng cao hiệu quả các dự án; đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường. Cùng với đó, tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, có chính sách tiền lương phù hợp; tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; quan tâm bảo đảm an toàn, môi trường và phát triển bền vững; đặc biệt tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên biển; xây dựng văn hóa doanh nghiệp; truyền thông để xây dựng thương hiệu, giúp xã hội hiểu, ủng hộ, tạo đồng thuận, xung lực, cảm hứng thực hiện các nhiệm vụ. Về các kiến nghị của Tập đoàn và các đơn vị thành viên, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành tại Thông báo số 114/TB-VPCP ngày 29/9/2022. Thủ tướng Chính phủ tiếp tục yêu cầu các bộ, cơ quan, nhất là Bộ Công Thương, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước theo chức năng và nhiệm vụ được giao khẩn trương xử lý các kiến nghị; báo cáo cấp có thẩm quyền những vấn đề vượt thẩm quyền. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải xác định hỗ trợ PVN trong thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu năm 2023, không chỉ của Tập đoàn Dầu khí mà là của cả nước để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế đất nước, đồng thời nhấn mạnh: “Chính phủ, các cơ quan luôn bên cạnh PVN, chia sẻ những khó khăn, vất vả, nhọc nhằn, khích lệ, động viên những việc đã làm được, tháo gỡ, xử lý các khó khăn, vướng mắc”. Năm 2022, tất cả các chỉ tiêu sản lượng, kinh doanh thuộc 5 lĩnh vực của PVN đều hoàn thành kế hoạch năm và tăng trưởng cao so với năm 2021 từ 3-26%. Trong đó, sản lượng khai thác dầu hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng 11 ngày, năm 2022 đạt 10,84 triệu tấn, vượt 24% kế hoạch năm, tương đương thực hiện năm 2021. Riêng khai thác dầu ở trong nước hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng 18 ngày, năm 2022 đạt 8,98 triệu tấn, vượt 1,94 triệu tấn (vượt 28%) kế hoạch năm, tương đương thực hiện năm 2021. Kế hoạch năm 2023, PVN đặt mục tiêu doanh thu toàn Tập đoàn là 677,7 nghìn tỷ đồng (không bao gồm Công ty Lọc hóa dầu Nghi Sơn), lợi nhuận hợp nhất 34 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 78,3 nghìn tỷ đồng. Huyền Vy
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng năm 2023, thị trường năng lượng, giá dầu thô và các sản phẩm dầu khí còn nhiều biến động, xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu, biến đổi khí hậu diễn biến bất thường… Thủ tướng Phạm Minh Chính: “PVN tiếp tục đoàn kết, nâng cao tinh thần dám nghĩ, dám làm với khát vọng xây dựng và phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam là đơn vị nòng cốt của ngành Dầu khí”. Ảnh: VGP. Chiều 10/01/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị tổng kết công tác năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023 của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN). Phát biểu tại hội nghị, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao và ghi nhận những thành tích, đóng góp của PVN năm 2022 đối với những thành tựu, kết quả chung của cả nước, nhất là trong giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn. Năm 2022, trong bối cảnh khó khăn, thách thức “kép” cả bên trong và bên ngoài, Tập đoàn đã làm tốt các nhiệm vụ thường xuyên ngày càng nhiều, nặng nề, đồng thời tích cực giải quyết các công việc tồn đọng, kéo dài, ứng phó với các vấn đề đột xuất, bất ngờ như tình trạng thiếu xăng dầu cục bộ. Thủ tướng nhấn mạnh một số kỷ lục mà Tập đoàn đạt được trong năm 2022. Đó là kỷ lục về sản lượng khai thác dầu thô đạt 8,98 triệu tấn, vượt 28% kế hoạch năm; kỷ lục về sản lượng sản xuất và xuất khẩu phân đạm với 1,88 triệu tấn (vượt 17% kế hoạch), xuất khẩu 606 nghìn tấn với giá trị cao, đóng góp 37,4% giá trị xuất khẩu phân bón 1,08 tỷ USD, đưa nước ta từ nước nhập khẩu trở thành nước xuất khẩu phân bón với giá trị cao; kỷ lục về sản xuất xăng dầu, bao gồm cả lọc hóa dầu Nghi Sơn và Dung Quất, đáp ứng khoảng 75% nhu cầu xăng dầu trong nước. Tập đoàn cũng đạt kỷ lục về tổng doanh thu trong 61 năm qua với 931,2 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 40 tỷ USD), khẳng định vai trò là tập đoàn kinh tế nhà nước hàng đầu có quy mô, sức ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế của đất nước; kỷ lục về lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt trên 82 nghìn tỷ đồng (gần 3,5 tỷ USD); kỷ lục về nộp ngân sách Nhà nước với 170,6 nghìn tỷ đồng (hơn 7,2 tỷ USD), chiếm tỉ trọng khoảng 9,6% trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Một kỷ lục khác là Tập đoàn có 3 công trình được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, 3 công trình được trao Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ; 7 công trình đoạt giải thưởng VIFOTEC. Giá trị thương hiệu tăng lên, niềm tin của Đảng, Nhà nước, Nhân dân với Tập đoàn được củng cố và tăng cường. Ngoài ra, trong năm 2022, Tập đoàn đã rất quyết liệt xử lý có hiệu quả các dự án, công trình tồn đọng. Đồng thời chủ động, báo cáo các cơ quan kịp thời tháo gỡ các khó khăn về cơ chế, chính sách, đặc biệt, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật Dầu khí năm 2022. Nhận định về năm 2023, Thủ tướng cho rằng thách thức nhiều hơn cơ hội và thuận lợi khi cạnh tranh chiến lược gay gắt, lạm phát trên toàn cầu, an ninh năng lượng, an ninh lương thực bị đe dọa, thị trường năng lượng, giá dầu thô và các sản phẩm dầu khí còn nhiều biến động, xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu, biến đổi khí hậu diễn biến bất thường… Các vấn đề này sẽ có nhiều tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển của Tập đoàn. Tuy nhiên, Tập đoàn đã trưởng thành hơn, có thêm nhiều kinh nghiệm và bản lĩnh hơn sau 61 năm hình thành và phát triển, Thủ tướng đề nghị Tập đoàn phát huy truyền thống, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, khắc phục những tồn tại, bất cập, ra sức thi đua hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh năm 2023. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nghe giới thiệu về hoạt động dầu khí tại mỏ Bạch Hổ, mỏ dầu khai thác đầu tiên tại Việt Nam. Ảnh: PVN. Thủ tướng đánh giá cao phương châm 2023 của Tập đoàn là “quản trị biến động, mở rộng quy mô, tăng tốc chuyển đổi số, dịch chuyển mô hình, nâng cao năng suất, tái tạo kinh doanh”, đồng thời đề nghị Tập đoàn, toàn ngành dầu khí tập trung thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chủ yếu. Thứ nhất , không để thiếu năng lượng cho phát triển, vận hành an toàn, ổn định với công suất cao và có hiệu quả các dự án, nhà máy, công trình dầu khí, góp phần chủ lực trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng nhu cầu xăng dầu, điện, phân bón cho đất nước. Thứ hai, hoàn thành tốt các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh năm 2023, phấn đấu bằng hoặc vượt mức kết quả đạt được trong năm 2022. Thứ ba, phải đẩy mạnh công tác đầu tư phát triển trong toàn Tập đoàn và phải đặt mục tiêu trong năm 2023 là quyết tâm khởi công được các dự án trọng điểm, nghiên cứu đề xuất các dự án mới tận dụng thế mạnh của Tập đoàn. Thứ tư , bổ sung, hoàn thiện xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển về năng lượng, chiến lược, kế hoạch phát triển ngành Dầu khí phù hợp với xu thế mới, đồng thời xây dựng các kịch bản, giải pháp ứng phó với các vấn đề đột xuất, bất ngờ; nghiên cứu các dự án năng lượng mới, điện gió ngoài khơi… Thứ năm , phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan liên quan trong thực hiện phương án bảo đảm quốc phòng, an ninh, an ninh kinh tế cho hoạt động dầu khí, kiên định nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng ứng phó linh hoạt, phù hợp với tình hình cụ thể. Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, để hoàn thành các mục tiêu trên, PVN phải tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm và có hiệu quả các nhiệm vụ theo các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2023; các nhiệm vụ cụ thể được giao phải được cụ thể hóa vào kế hoạch của Tập đoàn cũng như của từng đơn vị để tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát. “Tập đoàn tiếp tục đoàn kết, nâng cao tinh thần dám nghĩ, dám làm với khát vọng xây dựng và phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam là đơn vị nòng cốt của ngành Dầu khí, có tiềm lực mạnh về tài chính và khoa học công nghệ, có sức cạnh tranh cao ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc”, Thủ tướng đề nghị, đồng thời nhấn mạnh, Tập đoàn phải tập trung chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, phát triển kinh tế tuần hoàn, dịch chuyển mô hình, tăng năng suất lao động; tái tạo kinh doanh… Tổng Giám đốc PVN Lê Mạnh Hùng báo cáo với Thủ tướng về tình hình hoạt động của lĩnh vực điện. Ảnh: PVN. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Tập đoàn tiếp tục quan tâm, thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy và không ngừng nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp; có các giải pháp về tài chính minh bạch, phù hợp, hiệu quả tối ưu; quản trị tốt công tác đầu tư, lấy lại tiến độ các dự án trọng điểm, xử lý các tồn tại, nâng cao hiệu quả các dự án; đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường. Cùng với đó, tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, có chính sách tiền lương phù hợp; tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất; quan tâm bảo đảm an toàn, môi trường và phát triển bền vững; đặc biệt tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên biển; xây dựng văn hóa doanh nghiệp; truyền thông để xây dựng thương hiệu, giúp xã hội hiểu, ủng hộ, tạo đồng thuận, xung lực, cảm hứng thực hiện các nhiệm vụ. Về các kiến nghị của Tập đoàn và các đơn vị thành viên, Thủ tướng Chính phủ đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành tại Thông báo số 114/TB-VPCP ngày 29/9/2022. Thủ tướng Chính phủ tiếp tục yêu cầu các bộ, cơ quan, nhất là Bộ Công Thương, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước theo chức năng và nhiệm vụ được giao khẩn trương xử lý các kiến nghị; báo cáo cấp có thẩm quyền những vấn đề vượt thẩm quyền. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải xác định hỗ trợ PVN trong thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu năm 2023, không chỉ của Tập đoàn Dầu khí mà là của cả nước để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế đất nước, đồng thời nhấn mạnh: “Chính phủ, các cơ quan luôn bên cạnh PVN, chia sẻ những khó khăn, vất vả, nhọc nhằn, khích lệ, động viên những việc đã làm được, tháo gỡ, xử lý các khó khăn, vướng mắc”. Năm 2022, tất cả các chỉ tiêu sản lượng, kinh doanh thuộc 5 lĩnh vực của PVN đều hoàn thành kế hoạch năm và tăng trưởng cao so với năm 2021 từ 3-26%. Trong đó, sản lượng khai thác dầu hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng 11 ngày, năm 2022 đạt 10,84 triệu tấn, vượt 24% kế hoạch năm, tương đương thực hiện năm 2021. Riêng khai thác dầu ở trong nước hoàn thành kế hoạch cả năm trước 2 tháng 18 ngày, năm 2022 đạt 8,98 triệu tấn, vượt 1,94 triệu tấn (vượt 28%) kế hoạch năm, tương đương thực hiện năm 2021. Kế hoạch năm 2023, PVN đặt mục tiêu doanh thu toàn Tập đoàn là 677,7 nghìn tỷ đồng (không bao gồm Công ty Lọc hóa dầu Nghi Sơn), lợi nhuận hợp nhất 34 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 78,3 nghìn tỷ đồng. Huyền Vy
Sinh ra và lớn lên tại Kinh Bắc, thường xuyên được thừa hưởng tư duy khẩu ngữ của tiếng Việt, gặp thời tiếng mẹ đẻ có chữ viết riêng, Ngô Tất Tố dùng bút sắt thay bút lông, tài tình chuyển khẩu ngữ thành bút ngữ, sáng tác thành công tiểu thuyết đầu tay “Tắt đèn”. Tắt đèn là tác phẩm xuất sắc nhất của tác giả, đã tôn vinh Ngô Tất Tố lên “chiếu trên” của văn đàn, đã vinh danh Ngô Tất Tố lên ngôi hàng đầu sáng lập trào lưu hiện thực trong lịch sử văn học nước nhà. Tắt đèn được ba đồng nghiệp nổi tiếng là Vũ Trọng Phụng (1939), Nguyên Hồng (1957), Nguyễn Tuân (1962) viết lời giới thiệu khi xuất bản và tái bản trong các thời kỳ khác nhau. Bước sang tuổi 75, Tắt đèn đã được hơn 20 nhà xuất bản (NXB) trong nước và nước ngoài tái bản gần 130 lần, được dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung văn, Hung-ga-ri, Lào… Tắt đèn được chuyển thể thành phim truyện Chị Dậu (1981), thành truyện tranh (2010). Trước khi Nhà Mai Lĩnh in Tắt đèn thành sách (1939), trên báo Tương lai (1936) đăng truyện Một ổ chó và một đứa con đứng tên Thôn Dân, sau đó trên 10 số của báo Việt nữ (1937), liên tiếp đăng Tắt đèn ghi rõ là “tiểu thuyết xã hội của Ngô Tất Tố”. Khi thấy nội dung kể việc “chăm sóc cái Tý sau khi bị đối xử rất tàn nhẫn” từ cuối bản đăng trên báo Việt nữ, không được viết trong bản in thành sách, có ý sai cho rằng “kiểm duyệt của thực dân Pháp đã cắt xén đi một số chương có giá trị tố cáo sâu sắc”(!?) như nêu ra ở trang 5 trong sách Tắt đèn do NXB Hồng Đức vừa phát hành (2014). Đây chính cũng là nội dung, từ năm 1997, Lữ Huy Nguyên đã viết (trên trang 218) trong sách Tiểu thuyết Ngô Tất Tố của NXB Văn học, nay NXB Hồng Đức sao chép lại nguyên văn – không thiếu một chữ – nhưng không chịu ghi xuất xứ (!?). Đọc thật kỹ bản Tắt đèn in năm 1939, bạn đọc sẽ không sao tìm được chỗ nào chứng tỏ một số chương trong Tắt đèn đã bị cắt bỏ. Điều rất dễ nhận ra là: Thay thế cho khoảng hơn 900 chữ kể về “cái Tý bị hành hạ”, Ngô Tất Tố đã dùng tới hơn 7.500 chữ để kể rất tỉ mỉ về quãng đời tiếp theo của chị Dậu, còn đau đớn khốn quẫn hơn gấp bội, khi “phải bỏ con, xa chồng đi ở vú”, rồi lâm vào cảnh “trời tối đen như mực như cái tiền đồ của chị”. Ngô Tất Tố đã tinh tường vạch trần những mánh lới buộc tội gian ác, những thủ đoạn hành hạ trắng trợn đê hèn, những hành vi cuồng dâm đểu cáng… của các tên từ Lý trưởng đến Quan Phủ cho tới Quan Cố, đã diễn ra liên miên, đã dồn ép chị Dậu vào tình thế cùng đường, vô cùng hiểm nghèo nhưng chị vẫn rất khôn ngoan ứng phó và bảo toàn được phẩm giá. Kết quả khảo cứu nội dung toàn truyện và nhất là phần cuối truyện như vừa trình bày, đã khẳng định: bản in thành sách năm 1939 đích thực là nguyên bản chuẩn của Tắt đèn. Từ trước tới nay, bạn đọc và trong cả giới nghiên cứu phê bình, thường chỉ nói đến “Lời giới thiệu Tắt đèn” của Vũ Trọng Phụng được đăng trên báo Thời vụ , nhưng ít ai biết rằng: “Lời giới thiệu” này, đề ngày 25/1/1939, đã chính thức in ngay trên những trang đầu của sách Tắt đèn do Nhà Mai Lĩnh xuất bản lần thứ nhất. Trong “Lời giới thiệu”, Vũ Trọng Phụng nhấn mạnh: Để viết được Tắt đèn, tác giả “ngoài sự quả thật đã được sống nhiều cái đời dân quê, lại còn phải có điều kiện tối cần là: biết chữ Nho”. Chỉ một năm sau khi Tắt đèn in thành sách, trên báo La Patrie Anamit có bài viết ghép tên của các sách Chiều, Đùa với ái tình và Tắt đèn với nhau và lên án đó là những sách “bại hoại luân lý”. Bác bỏ dụng ý xuyên tạc đó, chỉ với 55 chữ, Ngô Tất Tố khẳng định: “ Tắt đèn là một cuốn xã hội tiểu thuyết tả cảnh đau khổ của dân quê, của một người đàn bà nhà quê An Nam suốt đời sống trong sự nghèo đói và sự ức hiếp của bọn cường hào và người có thế lực mà lúc nào cũng vẫn hết lòng vì chồng con” ( Trung Bắc Chủ nhật – 1940 ). Hoạt động xuất bản sách in truyền thống hơn nửa thế kỷ vừa qua đã có công lớn giới thiệu đến ngày càng đông đảo bạn đọc các tác phẩm tiêu biểu trong lịch sử văn học giai đoạn 1930-1945 ở nước ta. Trong quá trình tái bản sách diễn ra sôi động, tràn lan, “mạnh ai nấy làm” nên hầu hết các ấn phẩm tái bản Tắt đèn , ít nhiều đều có những sai lệch, có chỗ sai đến ngớ ngẩn, vô nghĩa, nghiêm trọng hơn là nhiều chỗ bị cắt xén, sửa chữa do các lần tái bản sau cứ sao nguyên văn các bản in trước đấy, được nghiễm nhiên coi là đúng mà không kịp thời cải chính, chỉnh sửa. Gần đây nhất, sách Tắt đèn (2014) do NXB Hồng Đức vừa tái bản, đã có nhiều lỗi sai khi đối chiếu với sách Về tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và nguyên bản (2007) của NXB Văn hóa – Thông tin. Điều bất thường là: giám đốc và biên tập, những người chịu trách nhiệm xuất bản cho cả hai cuốn sách này đều là một và hoàn toàn không thay đổi. Bản in của NXB Hồng Đức – nhà xuất bản của Hội Luật gia Việt Nam, đã mắc phải các lỗi sai lệch, cụ thể như sau: – Đã cắt bỏ nhiều câu, nhiều đoạn như: một chỗ về tả cảnh (Phần I)), 6 chỗ (Phần XXIV và Phần XXVII) viết về hành vi dâm ô, đểu cáng của tên Quan Phủ, Quan Cố. – Vì không tham khảo sách do chính mình đã từng chịu trách nhiệm xuất bản trước đây cho nên bản Tắt đèn của NXB Hồng Đức vừa làm đã phạm vào những sai lệch thông thường, thậm chí còn rất ngớ ngẩn. Ví dụ như: không biết “toang cổng” là cái then to chèn ngang, giữ khít hai cánh cổng nên “in ẩu” thành “trong cổng”, không hiểu “đấu” là miếng gỗ đỡ các cột trốn, cột ngắn trên các xà ngang lại in thành “dấu”; “dặt” thuốc vào nõ điếu cầy khi hút thuốc lào in thành “đặt” thuốc. Tương tự như vậy còn hàng loạt lỗi sai khác như: “dương cơ” in thành “dinh cơ”, “bạ men” in thành “bạo men”, văn tự mượn tiền hạn “năm năm” viết thành “năm ngày”, “buổi mai lánh đọng” in thành “buổi mai lắng đọng”, “chõ mồm” in thành “chõ mõm”, “tôi được thăng, tức là công mợ” in thành “tôi được thăng chức là công mợ”, “tiền canh giam” in thành “tiền canh đám”, “nghe thấy hẳn hoi” in thành “nghe thấy hắn hỏi”, “cái mặt nạ dòng” in thành “cái mặt ra giọng” v. v… Thời gian gần đây, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, hàng loạt phiên bản điện tử Tắt đèn liên tiếp xuất hiện trên mạng của: vnthuquan.net, truyenviet. com, sachhay.org, . Tốc độ truy cập Tắt đèn tăng đột biến, chứng tỏ sự ngưỡng mộ rất lớn của cư dân mạng đối với Tắt đèn , nhưng các phiên bản điện tử này khi số hóa đều dựa vào “các bản in giấy” vốn sẵn có sai lệch, nên những lỗi sai có dịp lan truyền cũng ngày càng rộng và nhanh chóng. Khảo cứu “văn bản học” nhằm khôi phục và khẳng định “nguyên bản chuẩn mực” các tác phẩm văn học kinh điển trong lịch sử văn học của nước nhà trở thành nhu cầu thiết thực, đòi hỏi cấp bách hiện nay. Từ hơn 10 năm nay, các công trình khảo cứu về “bản gốc” các tác phẩm của Ngô Tất Tố, trong đó có Tắt đèn đã được thực hiện và đều đã chính thức đăng ký “bản quyền tác giả biên soạn” và “quyền chủ sở hữu”. Tiếp tục khảo cứu “văn bản học” những tác phẩm văn học có giá trị trong thời kỳ 1930-1945, từng bước khai thác có hiệu quả nhất nguồn tư liệu quý hiếm lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam để “khôi phục, giám định nguyên bản chuẩn xác” và “số hóa văn bản gốc” các tác phẩm văn học kinh điển của tiền nhân là công trình khoa học rất có ý nghĩa, hoàn toàn có thể thực hiện tốt, nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý, bảo tồn lâu dài, bền vững di sản văn chương của dân tộc, góp phần đắc lực lập lại trật tự trong hoạt động xuất bản trên cả hai lĩnh vực in sách truyền thống và sách điện tử. Đầu Đông 2014
Sinh ra và lớn lên tại Kinh Bắc, thường xuyên được thừa hưởng tư duy khẩu ngữ của tiếng Việt, gặp thời tiếng mẹ đẻ có chữ viết riêng, Ngô Tất Tố dùng bút sắt thay bút lông, tài tình chuyển khẩu ngữ thành bút ngữ, sáng tác thành công tiểu thuyết đầu tay “Tắt đèn”. Tắt đèn là tác phẩm xuất sắc nhất của tác giả, đã tôn vinh Ngô Tất Tố lên “chiếu trên” của văn đàn, đã vinh danh Ngô Tất Tố lên ngôi hàng đầu sáng lập trào lưu hiện thực trong lịch sử văn học nước nhà. Tắt đèn được ba đồng nghiệp nổi tiếng là Vũ Trọng Phụng (1939), Nguyên Hồng (1957), Nguyễn Tuân (1962) viết lời giới thiệu khi xuất bản và tái bản trong các thời kỳ khác nhau. Bước sang tuổi 75, Tắt đèn đã được hơn 20 nhà xuất bản (NXB) trong nước và nước ngoài tái bản gần 130 lần, được dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung văn, Hung-ga-ri, Lào… Tắt đèn được chuyển thể thành phim truyện Chị Dậu (1981), thành truyện tranh (2010). Trước khi Nhà Mai Lĩnh in Tắt đèn thành sách (1939), trên báo Tương lai (1936) đăng truyện Một ổ chó và một đứa con đứng tên Thôn Dân, sau đó trên 10 số của báo Việt nữ (1937), liên tiếp đăng Tắt đèn ghi rõ là “tiểu thuyết xã hội của Ngô Tất Tố”. Khi thấy nội dung kể việc “chăm sóc cái Tý sau khi bị đối xử rất tàn nhẫn” từ cuối bản đăng trên báo Việt nữ, không được viết trong bản in thành sách, có ý sai cho rằng “kiểm duyệt của thực dân Pháp đã cắt xén đi một số chương có giá trị tố cáo sâu sắc”(!?) như nêu ra ở trang 5 trong sách Tắt đèn do NXB Hồng Đức vừa phát hành (2014). Đây chính cũng là nội dung, từ năm 1997, Lữ Huy Nguyên đã viết (trên trang 218) trong sách Tiểu thuyết Ngô Tất Tố của NXB Văn học, nay NXB Hồng Đức sao chép lại nguyên văn – không thiếu một chữ – nhưng không chịu ghi xuất xứ (!?). Đọc thật kỹ bản Tắt đèn in năm 1939, bạn đọc sẽ không sao tìm được chỗ nào chứng tỏ một số chương trong Tắt đèn đã bị cắt bỏ. Điều rất dễ nhận ra là: Thay thế cho khoảng hơn 900 chữ kể về “cái Tý bị hành hạ”, Ngô Tất Tố đã dùng tới hơn 7.500 chữ để kể rất tỉ mỉ về quãng đời tiếp theo của chị Dậu, còn đau đớn khốn quẫn hơn gấp bội, khi “phải bỏ con, xa chồng đi ở vú”, rồi lâm vào cảnh “trời tối đen như mực như cái tiền đồ của chị”. Ngô Tất Tố đã tinh tường vạch trần những mánh lới buộc tội gian ác, những thủ đoạn hành hạ trắng trợn đê hèn, những hành vi cuồng dâm đểu cáng… của các tên từ Lý trưởng đến Quan Phủ cho tới Quan Cố, đã diễn ra liên miên, đã dồn ép chị Dậu vào tình thế cùng đường, vô cùng hiểm nghèo nhưng chị vẫn rất khôn ngoan ứng phó và bảo toàn được phẩm giá. Kết quả khảo cứu nội dung toàn truyện và nhất là phần cuối truyện như vừa trình bày, đã khẳng định: bản in thành sách năm 1939 đích thực là nguyên bản chuẩn của Tắt đèn. Từ trước tới nay, bạn đọc và trong cả giới nghiên cứu phê bình, thường chỉ nói đến “Lời giới thiệu Tắt đèn” của Vũ Trọng Phụng được đăng trên báo Thời vụ , nhưng ít ai biết rằng: “Lời giới thiệu” này, đề ngày 25/1/1939, đã chính thức in ngay trên những trang đầu của sách Tắt đèn do Nhà Mai Lĩnh xuất bản lần thứ nhất. Trong “Lời giới thiệu”, Vũ Trọng Phụng nhấn mạnh: Để viết được Tắt đèn, tác giả “ngoài sự quả thật đã được sống nhiều cái đời dân quê, lại còn phải có điều kiện tối cần là: biết chữ Nho”. Chỉ một năm sau khi Tắt đèn in thành sách, trên báo La Patrie Anamit có bài viết ghép tên của các sách Chiều, Đùa với ái tình và Tắt đèn với nhau và lên án đó là những sách “bại hoại luân lý”. Bác bỏ dụng ý xuyên tạc đó, chỉ với 55 chữ, Ngô Tất Tố khẳng định: “ Tắt đèn là một cuốn xã hội tiểu thuyết tả cảnh đau khổ của dân quê, của một người đàn bà nhà quê An Nam suốt đời sống trong sự nghèo đói và sự ức hiếp của bọn cường hào và người có thế lực mà lúc nào cũng vẫn hết lòng vì chồng con” ( Trung Bắc Chủ nhật – 1940 ). Hoạt động xuất bản sách in truyền thống hơn nửa thế kỷ vừa qua đã có công lớn giới thiệu đến ngày càng đông đảo bạn đọc các tác phẩm tiêu biểu trong lịch sử văn học giai đoạn 1930-1945 ở nước ta. Trong quá trình tái bản sách diễn ra sôi động, tràn lan, “mạnh ai nấy làm” nên hầu hết các ấn phẩm tái bản Tắt đèn , ít nhiều đều có những sai lệch, có chỗ sai đến ngớ ngẩn, vô nghĩa, nghiêm trọng hơn là nhiều chỗ bị cắt xén, sửa chữa do các lần tái bản sau cứ sao nguyên văn các bản in trước đấy, được nghiễm nhiên coi là đúng mà không kịp thời cải chính, chỉnh sửa. Gần đây nhất, sách Tắt đèn (2014) do NXB Hồng Đức vừa tái bản, đã có nhiều lỗi sai khi đối chiếu với sách Về tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và nguyên bản (2007) của NXB Văn hóa – Thông tin. Điều bất thường là: giám đốc và biên tập, những người chịu trách nhiệm xuất bản cho cả hai cuốn sách này đều là một và hoàn toàn không thay đổi. Bản in của NXB Hồng Đức – nhà xuất bản của Hội Luật gia Việt Nam, đã mắc phải các lỗi sai lệch, cụ thể như sau: – Đã cắt bỏ nhiều câu, nhiều đoạn như: một chỗ về tả cảnh (Phần I)), 6 chỗ (Phần XXIV và Phần XXVII) viết về hành vi dâm ô, đểu cáng của tên Quan Phủ, Quan Cố. – Vì không tham khảo sách do chính mình đã từng chịu trách nhiệm xuất bản trước đây cho nên bản Tắt đèn của NXB Hồng Đức vừa làm đã phạm vào những sai lệch thông thường, thậm chí còn rất ngớ ngẩn. Ví dụ như: không biết “toang cổng” là cái then to chèn ngang, giữ khít hai cánh cổng nên “in ẩu” thành “trong cổng”, không hiểu “đấu” là miếng gỗ đỡ các cột trốn, cột ngắn trên các xà ngang lại in thành “dấu”; “dặt” thuốc vào nõ điếu cầy khi hút thuốc lào in thành “đặt” thuốc. Tương tự như vậy còn hàng loạt lỗi sai khác như: “dương cơ” in thành “dinh cơ”, “bạ men” in thành “bạo men”, văn tự mượn tiền hạn “năm năm” viết thành “năm ngày”, “buổi mai lánh đọng” in thành “buổi mai lắng đọng”, “chõ mồm” in thành “chõ mõm”, “tôi được thăng, tức là công mợ” in thành “tôi được thăng chức là công mợ”, “tiền canh giam” in thành “tiền canh đám”, “nghe thấy hẳn hoi” in thành “nghe thấy hắn hỏi”, “cái mặt nạ dòng” in thành “cái mặt ra giọng” v. v… Thời gian gần đây, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, hàng loạt phiên bản điện tử Tắt đèn liên tiếp xuất hiện trên mạng của: vnthuquan.net, truyenviet. com, sachhay.org, . Tốc độ truy cập Tắt đèn tăng đột biến, chứng tỏ sự ngưỡng mộ rất lớn của cư dân mạng đối với Tắt đèn , nhưng các phiên bản điện tử này khi số hóa đều dựa vào “các bản in giấy” vốn sẵn có sai lệch, nên những lỗi sai có dịp lan truyền cũng ngày càng rộng và nhanh chóng. Khảo cứu “văn bản học” nhằm khôi phục và khẳng định “nguyên bản chuẩn mực” các tác phẩm văn học kinh điển trong lịch sử văn học của nước nhà trở thành nhu cầu thiết thực, đòi hỏi cấp bách hiện nay. Từ hơn 10 năm nay, các công trình khảo cứu về “bản gốc” các tác phẩm của Ngô Tất Tố, trong đó có Tắt đèn đã được thực hiện và đều đã chính thức đăng ký “bản quyền tác giả biên soạn” và “quyền chủ sở hữu”. Tiếp tục khảo cứu “văn bản học” những tác phẩm văn học có giá trị trong thời kỳ 1930-1945, từng bước khai thác có hiệu quả nhất nguồn tư liệu quý hiếm lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam để “khôi phục, giám định nguyên bản chuẩn xác” và “số hóa văn bản gốc” các tác phẩm văn học kinh điển của tiền nhân là công trình khoa học rất có ý nghĩa, hoàn toàn có thể thực hiện tốt, nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý, bảo tồn lâu dài, bền vững di sản văn chương của dân tộc, góp phần đắc lực lập lại trật tự trong hoạt động xuất bản trên cả hai lĩnh vực in sách truyền thống và sách điện tử. Đầu Đông 2014
Tỉnh Lâm Đồng cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển dịch cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. Tập trung xây dựng một số sản phẩm thương hiệu quốc gia. Lâm Đồng có vị trí chiến lược khu vực Tây Nguyên. Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 06/VPCP-TB ngày 11/1/2023 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng. Lâm Đồng có vị trí chiến lược khu vực Tây Nguyên với diện tích lớn thứ 7 cả nước, chất lượng đất đai khá màu mỡ, địa hình đa dạng, tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau, khí hậu ôn hòa với nhiều di sản văn hóa và cảnh quan ấn tượng; lực lượng lao động chiếm tỷ lệ khá cao (60,2% dân số), người dân năng động, sáng tạo và thân thiện; hệ thống giao thông thuận lợi, hệ thống giáo dục đào tạo phát triển. Lâm Đồng sở hữu nhiều tiềm năng khác biệt, lợi thế so sánh và cơ hội nổi trội để phát triển nhanh và bền vững. Năm 2022, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với cách làm quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã đoàn kết, quyết tâm cao, nỗ lực lớn và đạt được những kết quả tích cực. Ước đạt 18/18 chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội (trong đó vượt 6 chỉ tiêu) năm 2022; GRDP luôn giữ tốc độ tăng trưởng khá, GRDP bình quân đầu người năm 2021 là 66 triệu đồng, cao nhất vùng Tây Nguyên. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ biểu dương, đánh giá cao nỗ lực mà Đảng bộ, chính quyền quân và nhân dân tỉnh Lâm Đồng đạt được trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2022. Tuy nhiên, quy mô phát triển kinh tế chưa tương xứng với lợi thế, tiềm năng (chiếm 1,03% quy mô kinh tế cả nước); tốc độ chuyển dịch nền kinh tế còn chậm, chưa trở thành động lực kinh tế của khu vực Tây nguyên; chuyển đổi giống cây trồng có xu hướng chậm lại, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 giảm 5,46% so với cùng kỳ; ngành du lịch chưa phát huy hết tiềm năng, sản phẩm du lịch chất lượng cao còn ít;.. Thủ tướng Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung Báo cáo của Tỉnh ủy Lâm Đồng và đề nghị Tỉnh cần xác định rõ quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo và tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau: Quán triệt triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và các Nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 152/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường vươn lên bằng bàn tay, khối óc, bằng sức mạnh nội sinh, bằng con người, bằng thiên nhiên, bằng truyền thống lịch sử, văn hóa, bằng các nguồn vốn đầu tư trong nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh hợp tác công tư, không trông chờ, ỷ lại, không ngừng đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa thế mạnh để phát triển mạnh, bao trùm, xanh, hài hòa, bền vững. Coi trọng an sinh xã hội, chú trọng phát triển đời sống người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi. Dứt khoát không hy sinh công bằng tiến bộ xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng đơn thuần. Lâm Đồng phải là động lực, là trung tâm tăng trưởng của vùng Tây Nguyên, nhất là về du lịch, dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao. Tổ chức sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình hay, điển hình tiên tiến để lan tỏa cho các địa phương khác. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với kiểm tra, giám sát kiểm soát quyền lực và phân bổ nguồn lực hợp lý; khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất, liêm chính, dân chủ, hành động hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, cải cách hành chính hơn nữa. Về các giải pháp cụ thể, xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 23- NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 152/NQ-CP của Chính phủ trên cơ sở phát huy truyền thống lịch sử văn hóa, điều kiện tự nhiên. Phải xác định Lâm Đồng là động lực, là cực tăng trưởng của Tây Nguyên, nhất là các ngành dịch vụ, du lịch, công nghiệp. Phát triển du lịch, dịch vụ phải gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa. Thúc đẩy mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, hệ thống giáo dục đào tạo, huy động tối đa nguồn lực sẵn có, nhất là trong các lĩnh vực có tiềm năng như ngành du lịch, dịch vụ, logicstic. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đẩy mạnh chế biến sau thu hoạch, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển dịch cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. Tập trung xây dựng một số sản phẩm thương hiệu quốc gia, kiểm soát tốt thị trường, giá cả. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính, ngân sách nhà nước, tăng thu, tiết kiệm chi, phân bổ nguồn lực hợp lý. Phấn đấu tự chủ ngân sách vào năm 2024. Làm tốt công tác quy hoạch. Thúc đẩy tiến trình đô thị hóa để tạo ra không gian phát triển mới. Tập trung phát triển đô thị, dịch vụ gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các dự án, công trình trọng điểm (như các tuyến cao tốc: Tân Phú – Bảo Lộc, Bảo Lộc – Liên Khương). Nghiên cứu phương án đầu tư nâng cấp Cảng hàng không Liên Khương và Khôi phục, cải tạo tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt theo phương thức PPP. Tỉnh Lâm Đồng tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường đối thoại, thúc đẩy hợp tác công tư. Thúc đẩy chuyển đổi số; khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tăng cường đối thoại, đồng hành và giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút nhân tài. Đảm bảo an sinh xã hội, công bằng, tiến bộ xã hội. Bảo tồn phát huy các giá trị, các công trình văn hóa, lịch sử, kiến trúc. Tiếp tục chú trọng công tác kiểm soát dịch bệnh COVID-19 và các dịch bệnh khác. Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tập trung đấu tranh, trấn áp tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự gắn với triển khai hiệu quả Đề án 06 của Chính phủ, góp phần cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, phát triển kinh tế số, xã hội số và đấu tranh phòng, chống tội phạm. Coi trọng công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục xây dựng và phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Tỉnh ủy Lâm Đồng cần tiếp tục tập trung chỉ đạo: Khẩn trương đẩy nhanh việc lập, trình duyệt Quy hoạch tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 gắn với quy hoạch vùng Tây Nguyên để tạo không gian phát triển mới, thúc đẩy phát triển toàn diện. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy các chương trình mục tiêu quốc gia; quyết liệt thực hiện giải phóng mặt bằng, nhất là đối với các dự án, công trình trọng điểm; kiểm soát thị trường, ổn định giá cả hàng hóa, dịch vụ; đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán. Chí Kiên
Tỉnh Lâm Đồng cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển dịch cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. Tập trung xây dựng một số sản phẩm thương hiệu quốc gia. Lâm Đồng có vị trí chiến lược khu vực Tây Nguyên. Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 06/VPCP-TB ngày 11/1/2023 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lâm Đồng. Lâm Đồng có vị trí chiến lược khu vực Tây Nguyên với diện tích lớn thứ 7 cả nước, chất lượng đất đai khá màu mỡ, địa hình đa dạng, tạo nên những yếu tố tự nhiên khác nhau, khí hậu ôn hòa với nhiều di sản văn hóa và cảnh quan ấn tượng; lực lượng lao động chiếm tỷ lệ khá cao (60,2% dân số), người dân năng động, sáng tạo và thân thiện; hệ thống giao thông thuận lợi, hệ thống giáo dục đào tạo phát triển. Lâm Đồng sở hữu nhiều tiềm năng khác biệt, lợi thế so sánh và cơ hội nổi trội để phát triển nhanh và bền vững. Năm 2022, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với cách làm quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã đoàn kết, quyết tâm cao, nỗ lực lớn và đạt được những kết quả tích cực. Ước đạt 18/18 chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội (trong đó vượt 6 chỉ tiêu) năm 2022; GRDP luôn giữ tốc độ tăng trưởng khá, GRDP bình quân đầu người năm 2021 là 66 triệu đồng, cao nhất vùng Tây Nguyên. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ biểu dương, đánh giá cao nỗ lực mà Đảng bộ, chính quyền quân và nhân dân tỉnh Lâm Đồng đạt được trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2022. Tuy nhiên, quy mô phát triển kinh tế chưa tương xứng với lợi thế, tiềm năng (chiếm 1,03% quy mô kinh tế cả nước); tốc độ chuyển dịch nền kinh tế còn chậm, chưa trở thành động lực kinh tế của khu vực Tây nguyên; chuyển đổi giống cây trồng có xu hướng chậm lại, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 giảm 5,46% so với cùng kỳ; ngành du lịch chưa phát huy hết tiềm năng, sản phẩm du lịch chất lượng cao còn ít;.. Thủ tướng Chính phủ cơ bản thống nhất với nội dung Báo cáo của Tỉnh ủy Lâm Đồng và đề nghị Tỉnh cần xác định rõ quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo và tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau: Quán triệt triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và các Nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 152/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường vươn lên bằng bàn tay, khối óc, bằng sức mạnh nội sinh, bằng con người, bằng thiên nhiên, bằng truyền thống lịch sử, văn hóa, bằng các nguồn vốn đầu tư trong nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh hợp tác công tư, không trông chờ, ỷ lại, không ngừng đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa thế mạnh để phát triển mạnh, bao trùm, xanh, hài hòa, bền vững. Coi trọng an sinh xã hội, chú trọng phát triển đời sống người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi. Dứt khoát không hy sinh công bằng tiến bộ xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng đơn thuần. Lâm Đồng phải là động lực, là trung tâm tăng trưởng của vùng Tây Nguyên, nhất là về du lịch, dịch vụ nông nghiệp chất lượng cao. Tổ chức sơ kết, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình hay, điển hình tiên tiến để lan tỏa cho các địa phương khác. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cá thể hóa trách nhiệm đi đôi với kiểm tra, giám sát kiểm soát quyền lực và phân bổ nguồn lực hợp lý; khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính đoàn kết, thống nhất, liêm chính, dân chủ, hành động hiệu quả, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, cải cách hành chính hơn nữa. Về các giải pháp cụ thể, xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 23- NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 152/NQ-CP của Chính phủ trên cơ sở phát huy truyền thống lịch sử văn hóa, điều kiện tự nhiên. Phải xác định Lâm Đồng là động lực, là cực tăng trưởng của Tây Nguyên, nhất là các ngành dịch vụ, du lịch, công nghiệp. Phát triển du lịch, dịch vụ phải gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa. Thúc đẩy mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, hệ thống giáo dục đào tạo, huy động tối đa nguồn lực sẵn có, nhất là trong các lĩnh vực có tiềm năng như ngành du lịch, dịch vụ, logicstic. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đẩy mạnh chế biến sau thu hoạch, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, chuyển dịch cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. Tập trung xây dựng một số sản phẩm thương hiệu quốc gia, kiểm soát tốt thị trường, giá cả. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính, ngân sách nhà nước, tăng thu, tiết kiệm chi, phân bổ nguồn lực hợp lý. Phấn đấu tự chủ ngân sách vào năm 2024. Làm tốt công tác quy hoạch. Thúc đẩy tiến trình đô thị hóa để tạo ra không gian phát triển mới. Tập trung phát triển đô thị, dịch vụ gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các dự án, công trình trọng điểm (như các tuyến cao tốc: Tân Phú – Bảo Lộc, Bảo Lộc – Liên Khương). Nghiên cứu phương án đầu tư nâng cấp Cảng hàng không Liên Khương và Khôi phục, cải tạo tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt theo phương thức PPP. Tỉnh Lâm Đồng tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường đối thoại, thúc đẩy hợp tác công tư. Thúc đẩy chuyển đổi số; khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tăng cường đối thoại, đồng hành và giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút nhân tài. Đảm bảo an sinh xã hội, công bằng, tiến bộ xã hội. Bảo tồn phát huy các giá trị, các công trình văn hóa, lịch sử, kiến trúc. Tiếp tục chú trọng công tác kiểm soát dịch bệnh COVID-19 và các dịch bệnh khác. Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tập trung đấu tranh, trấn áp tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự gắn với triển khai hiệu quả Đề án 06 của Chính phủ, góp phần cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, phát triển kinh tế số, xã hội số và đấu tranh phòng, chống tội phạm. Coi trọng công tác xây dựng đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục xây dựng và phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ và nhân dân. Tỉnh ủy Lâm Đồng cần tiếp tục tập trung chỉ đạo: Khẩn trương đẩy nhanh việc lập, trình duyệt Quy hoạch tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 gắn với quy hoạch vùng Tây Nguyên để tạo không gian phát triển mới, thúc đẩy phát triển toàn diện. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy các chương trình mục tiêu quốc gia; quyết liệt thực hiện giải phóng mặt bằng, nhất là đối với các dự án, công trình trọng điểm; kiểm soát thị trường, ổn định giá cả hàng hóa, dịch vụ; đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán. Chí Kiên
Nguyên Hồng cho biết nhà ông ở Nam Định trước có bán cơm và “chứa trọ”. Ngày đó, có một khách đàn bà bị mọi người trong nhà ghê sợ và khinh bỉ. Bỉ vỏ – tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Nguyên Hồng (5/11/1918 – 2/5/1982) – là một trong những tác phẩm có nội dung thành công nhất của văn học Việt Nam hiện đại “thời tiền chiến”. Tác phẩm không chỉ đề cập đến số phận của những người cùng khổ, thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội, mà còn phơi bày nhiều góc khuất, mặt trái của đời sống xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Tác phẩm cũng đánh dấu việc định hình khuynh hướng sáng tác của Nguyên Hồng – nhà văn luôn đứng về những người lao động và luôn bênh vực những kẻ yếu thế… Trong cuốn hồi ký “Bước đường viết văn” (NXB Trẻ, 2019), nhà văn Nguyên Hồng cho biết, Bỉ vỏ được ông thai nghén ngay từ những ngày đầu ông theo mẹ và cha dượng về Hải Phòng tìm kế sinh nhai. Khi đó ông mới 16-17 tuổi (cha Nguyên Hồng mất khi ông 12 tuổi, mẹ ông cải giá, đi một bước nữa). Đó cũng là những tháng ngày gia đình ông khổ sở, vật lộn với cuộc sống (phải đi thuê nhà, mọi sinh hoạt của cả gia đình đều trông vào mấy hào vốn buôn trầu cau của mẹ). Nhà văn Nguyên Hồng thời trẻ. Nguồn: tienphong Nguyên Hồng cũng cho biết ông tập viết và bắt đầu có những truyện ngắn đầu tiên (viết trong cảnh đói nghèo cùng cực) gửi đăng báo vào năm 1935. Sau những truyện ngắn này, ông dồn tâm sức viết Bỉ vỏ , cuốn tiểu thuyết được ông ấp ủ và “dàn xếp kỹ càng trong đầu óc” nhiều ngày tháng trước đó. Vào khoảng đầu năm 1936, bản thảo đầu tiên của cuốn tiểu thuyết (khoảng 170 trang) hoàn thành. Nhắc lại thời khắc quan trọng này, Nguyên Hồng không khỏi xúc động: “Tôi đã muốn reo, muốn thét, muốn cười, muốn khóc…”. Cũng trong cuốn hồi ký, Nguyên Hồng cho biết lý do tại sao ông lại đặt tên cuốn tiểu thuyết là Bỉ vỏ mà không phải là những cái tên khác như: Nàng thôn nữ lạc loài, Một kiếp trầm luân, Người con gái xấu số.. . Ông giải thích, bỉ là con, vỏ là ăn cắp. Một con ăn cắp. Cái tên này theo đúng tiếng lóng cả xã hội đương thời và theo đúng với cuộc đời nhân vật và câu chuyện của nó. Tiểu thuyết Bỉ vỏ chính là câu chuyện và cuộc đời của một con ăn cắp: Bính hay Tám Bính. Bìa cuốn hồi ký Bước đường viết văn của nhà văn Nguyên Hồng (NXB Trẻ, 2019). Bính vốn là một cô gái quê hiền lành, nhưng vì nhẹ dạ nên đã có thai với một gã thư ký đạc điền và bị bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Không thể chịu được những tục lệ cay nghiệt, đẻ xong, Bính phải bỏ làng ra đi. Ra đến Hải Phòng, Bính liên tiếp sa vào những cảnh thê thảm tàn bạo khác. Bị hãm hiếp, bị lừa lọc, trở thành tội phạm, rồi bị buộc phải làm nghề mại dâm. Thoát khỏi nhà chứa, Bính lấy Năm Sài Gòn, một kẻ tứ cố vô thân, làm nghề du côn, anh chị ở Hải Phòng, đã trải qua không biết bao án tích. Bính yêu thương Năm Sài Gòn và muốn lôi kéo hắn về con đường làm ăn lương thiện, nhưng cô đã tính lầm vì không thể lay chuyển được chồng. Hai người bỏ nhau giữa những ngày sống trở nên khó khăn. Bính trở về Nam Định lấy chồng mới làm mật thám gác xà lim. Nhưng rồi Bính cũng lại bỏ cuộc đời đó mà đi… Bính ra đi lại làm vợ của Năm Sài Gòn. Đến giai đoạn này, Bính theo hẳn nghề ăn cắp. Cuối cùng Bính bị bắt cùng Năm Sài Gòn trong một vụ vừa cướp của vừa giết người. Kẻ bị giết là một đứa bé con trai. Đau đớn thay đó chính là đứa con mà Bính đã phải cho đi khi còn đỏ hỏn. Cũng trong cuốn hồi ký “Bước đường viết văn”, nhà văn Nguyên Hồng cũng đã trả lời một số câu hỏi xung quanh cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ như: Bỉ vỏ là truyện có thật không? Nếu là tưởng tượng, là hư cấu, thì tượng hư cấu đến mức nào?… Nhân vật Tám Bính trong phim Bỉ vỏ do NSND Hoàng Cúc đóng. Nguyên Hồng cho biết khi còn bé, ông thường phải đọc sách cho cha và bà nghe, phần lớn là truyện Tàu nên ông đã thuộc phần nào sử Trung Quốc xưa và các bộ tiểu thuyết với những nhân vật là các anh hùng nghĩa hiệp. Bên cạnh đó, ông còn biết đến Kiều qua lời kể của bà. Nguyên Hồng cũng cho biết nhà ông ở Nam Định trước có bán cơm và “chứa trọ”. Ngày đó, có một người khách đàn bà khiến cậu bé Nguyên Hồng chú ý. Người này bị mọi người trong nhà ghê sợ và khinh bỉ. Y nằm ở một tấm phản tồi tàn mé trong lối vào nhà bếp. Người xanh bủng, trông còn trẻ và rã rượi, ốm yếu một cách kỳ lạ. Y ăn riêng, bát đũa phải rửa lấy và để ngay chỗ nằm. Về sau, Nguyên Hồng được biết, y làm nhà thổ, bị bệnh rất nặng. Dù bệnh nặng và chỗ nằm bốc mùi hôi thối, nhưng y vẫn trẻ đẹp, lẳng lơ, và khêu gợi. Người tiếp theo là chị Lan, làm ở nhà thổ và có họ hàng xa với Nguyên Hồng. Hồi bé, có lần Nguyên Hồng vào cái nhà ghê khiếp của chị. Lúc đó chị đang đánh chắn, mặc quần đùi, cởi trần, đeo nịt vú, tóc vấn buột ra xã xượi… Người chị đen, gầy khẳng và thoảng ra mùi hôi thối của bệnh tật… Bìa cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ (NXB Văn học, 2015). Nguyên Hồng cũng kể rằng, trường học của ông gần nhà thương và nhà tù. Nhiều lần đi học qua nhà thương ông được chứng kiến cảnh sinh hoạt của hàng chục người bị nhốt ở khu nhà thổ… Hầu hết da vàng ủng, thân thể thì lở loét sần sùi… Vào những ngày mới ra Hải Phòng đi tìm việc và trong những ngày tập viết truyện ngắn đầu tiên, Nguyên Hồng thường lang thang qua phố Hạ Lý. Phần chính khu phố này là khu nhà thổ cặn bã của Hải Phòng… Khu này quanh năm nhớp nháp, mờ mờ hôi hám… Đó là những người, cảnh, truyện Nguyên Hồng được nghe, được biết trước khi viết Bỉ vỏ . Vậy, trong số đó là đâu là nguyên mẫu để Nguyên Hồng xây dựng nên Tám Bính? Nói về việc này, Nguyên Hồng cho biết những thứ kể trên chỉ đóng góp một phần nào đó cho công việc viết lách của ông mà thôi. Khi xây dựng Bỉ vỏ và Tám Bính, ông không tưởng nhớ đến ai cả. Hình ảnh Tám Bính, cuộc đời Tám Bính, hoàn toàn do ông tạo nên với tất cả tưởng tượng, suy nghĩ của ông về sự đau khổ mà ông đang sống và phải sống ở xã hội lúc bấy giờ. Nhân vật Tám Bính một phần của bao nhiêu người cùng cảnh, cũng có cả một phần của ông. Nguyên Hồng viết: “Phải! chính sự đau khổ tôi phải sống và đang sống ở cái xã hội bấy giờ nên tôi đã tạo ra Tám Bính bị lừa phản, chịu oan ức; bệnh tật phá hoại thể xác, tội ác phá hoại tinh thần; con người cứ vùng lên, dập xuống, dập xuống lại vùng lên. Trải qua bao nhiêu cảnh đau đớn tủi nhục, tối tăm, tất cả trái tim và linh hồn bị xẻo, bị nướng, bị tan nát… tất cả những ước mơ trong sáng… bị tàn phá… bị xô đi bởi sức mạnh tàn nhẫn và độc ác vô cùng. Tám Bính lẻ loi, bơ vơ, trơ trọi ấy, cũng có cả một phần tôi và một phần của bao nhiêu người cùng cảnh. Tôi mượn Tám Bính để đưa ra giữa ánh sáng ban ngày của một sự thật trong những sự thật của một hạng người, một số người. Tôi mượn Tám Bính để làm cho nhiều người thấy có một sự thật trong những sự thật như thế của xã hội”. Minh Châu
Nguyên Hồng cho biết nhà ông ở Nam Định trước có bán cơm và “chứa trọ”. Ngày đó, có một khách đàn bà bị mọi người trong nhà ghê sợ và khinh bỉ. Bỉ vỏ – tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Nguyên Hồng (5/11/1918 – 2/5/1982) – là một trong những tác phẩm có nội dung thành công nhất của văn học Việt Nam hiện đại “thời tiền chiến”. Tác phẩm không chỉ đề cập đến số phận của những người cùng khổ, thuộc tầng lớp dưới đáy của xã hội, mà còn phơi bày nhiều góc khuất, mặt trái của đời sống xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Tác phẩm cũng đánh dấu việc định hình khuynh hướng sáng tác của Nguyên Hồng – nhà văn luôn đứng về những người lao động và luôn bênh vực những kẻ yếu thế… Trong cuốn hồi ký “Bước đường viết văn” (NXB Trẻ, 2019), nhà văn Nguyên Hồng cho biết, Bỉ vỏ được ông thai nghén ngay từ những ngày đầu ông theo mẹ và cha dượng về Hải Phòng tìm kế sinh nhai. Khi đó ông mới 16-17 tuổi (cha Nguyên Hồng mất khi ông 12 tuổi, mẹ ông cải giá, đi một bước nữa). Đó cũng là những tháng ngày gia đình ông khổ sở, vật lộn với cuộc sống (phải đi thuê nhà, mọi sinh hoạt của cả gia đình đều trông vào mấy hào vốn buôn trầu cau của mẹ). Nhà văn Nguyên Hồng thời trẻ. Nguồn: tienphong Nguyên Hồng cũng cho biết ông tập viết và bắt đầu có những truyện ngắn đầu tiên (viết trong cảnh đói nghèo cùng cực) gửi đăng báo vào năm 1935. Sau những truyện ngắn này, ông dồn tâm sức viết Bỉ vỏ , cuốn tiểu thuyết được ông ấp ủ và “dàn xếp kỹ càng trong đầu óc” nhiều ngày tháng trước đó. Vào khoảng đầu năm 1936, bản thảo đầu tiên của cuốn tiểu thuyết (khoảng 170 trang) hoàn thành. Nhắc lại thời khắc quan trọng này, Nguyên Hồng không khỏi xúc động: “Tôi đã muốn reo, muốn thét, muốn cười, muốn khóc…”. Cũng trong cuốn hồi ký, Nguyên Hồng cho biết lý do tại sao ông lại đặt tên cuốn tiểu thuyết là Bỉ vỏ mà không phải là những cái tên khác như: Nàng thôn nữ lạc loài, Một kiếp trầm luân, Người con gái xấu số.. . Ông giải thích, bỉ là con, vỏ là ăn cắp. Một con ăn cắp. Cái tên này theo đúng tiếng lóng cả xã hội đương thời và theo đúng với cuộc đời nhân vật và câu chuyện của nó. Tiểu thuyết Bỉ vỏ chính là câu chuyện và cuộc đời của một con ăn cắp: Bính hay Tám Bính. Bìa cuốn hồi ký Bước đường viết văn của nhà văn Nguyên Hồng (NXB Trẻ, 2019). Bính vốn là một cô gái quê hiền lành, nhưng vì nhẹ dạ nên đã có thai với một gã thư ký đạc điền và bị bỏ rơi giữa lúc bụng mang dạ chửa. Không thể chịu được những tục lệ cay nghiệt, đẻ xong, Bính phải bỏ làng ra đi. Ra đến Hải Phòng, Bính liên tiếp sa vào những cảnh thê thảm tàn bạo khác. Bị hãm hiếp, bị lừa lọc, trở thành tội phạm, rồi bị buộc phải làm nghề mại dâm. Thoát khỏi nhà chứa, Bính lấy Năm Sài Gòn, một kẻ tứ cố vô thân, làm nghề du côn, anh chị ở Hải Phòng, đã trải qua không biết bao án tích. Bính yêu thương Năm Sài Gòn và muốn lôi kéo hắn về con đường làm ăn lương thiện, nhưng cô đã tính lầm vì không thể lay chuyển được chồng. Hai người bỏ nhau giữa những ngày sống trở nên khó khăn. Bính trở về Nam Định lấy chồng mới làm mật thám gác xà lim. Nhưng rồi Bính cũng lại bỏ cuộc đời đó mà đi… Bính ra đi lại làm vợ của Năm Sài Gòn. Đến giai đoạn này, Bính theo hẳn nghề ăn cắp. Cuối cùng Bính bị bắt cùng Năm Sài Gòn trong một vụ vừa cướp của vừa giết người. Kẻ bị giết là một đứa bé con trai. Đau đớn thay đó chính là đứa con mà Bính đã phải cho đi khi còn đỏ hỏn. Cũng trong cuốn hồi ký “Bước đường viết văn”, nhà văn Nguyên Hồng cũng đã trả lời một số câu hỏi xung quanh cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ như: Bỉ vỏ là truyện có thật không? Nếu là tưởng tượng, là hư cấu, thì tượng hư cấu đến mức nào?… Nhân vật Tám Bính trong phim Bỉ vỏ do NSND Hoàng Cúc đóng. Nguyên Hồng cho biết khi còn bé, ông thường phải đọc sách cho cha và bà nghe, phần lớn là truyện Tàu nên ông đã thuộc phần nào sử Trung Quốc xưa và các bộ tiểu thuyết với những nhân vật là các anh hùng nghĩa hiệp. Bên cạnh đó, ông còn biết đến Kiều qua lời kể của bà. Nguyên Hồng cũng cho biết nhà ông ở Nam Định trước có bán cơm và “chứa trọ”. Ngày đó, có một người khách đàn bà khiến cậu bé Nguyên Hồng chú ý. Người này bị mọi người trong nhà ghê sợ và khinh bỉ. Y nằm ở một tấm phản tồi tàn mé trong lối vào nhà bếp. Người xanh bủng, trông còn trẻ và rã rượi, ốm yếu một cách kỳ lạ. Y ăn riêng, bát đũa phải rửa lấy và để ngay chỗ nằm. Về sau, Nguyên Hồng được biết, y làm nhà thổ, bị bệnh rất nặng. Dù bệnh nặng và chỗ nằm bốc mùi hôi thối, nhưng y vẫn trẻ đẹp, lẳng lơ, và khêu gợi. Người tiếp theo là chị Lan, làm ở nhà thổ và có họ hàng xa với Nguyên Hồng. Hồi bé, có lần Nguyên Hồng vào cái nhà ghê khiếp của chị. Lúc đó chị đang đánh chắn, mặc quần đùi, cởi trần, đeo nịt vú, tóc vấn buột ra xã xượi… Người chị đen, gầy khẳng và thoảng ra mùi hôi thối của bệnh tật… Bìa cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ (NXB Văn học, 2015). Nguyên Hồng cũng kể rằng, trường học của ông gần nhà thương và nhà tù. Nhiều lần đi học qua nhà thương ông được chứng kiến cảnh sinh hoạt của hàng chục người bị nhốt ở khu nhà thổ… Hầu hết da vàng ủng, thân thể thì lở loét sần sùi… Vào những ngày mới ra Hải Phòng đi tìm việc và trong những ngày tập viết truyện ngắn đầu tiên, Nguyên Hồng thường lang thang qua phố Hạ Lý. Phần chính khu phố này là khu nhà thổ cặn bã của Hải Phòng… Khu này quanh năm nhớp nháp, mờ mờ hôi hám… Đó là những người, cảnh, truyện Nguyên Hồng được nghe, được biết trước khi viết Bỉ vỏ . Vậy, trong số đó là đâu là nguyên mẫu để Nguyên Hồng xây dựng nên Tám Bính? Nói về việc này, Nguyên Hồng cho biết những thứ kể trên chỉ đóng góp một phần nào đó cho công việc viết lách của ông mà thôi. Khi xây dựng Bỉ vỏ và Tám Bính, ông không tưởng nhớ đến ai cả. Hình ảnh Tám Bính, cuộc đời Tám Bính, hoàn toàn do ông tạo nên với tất cả tưởng tượng, suy nghĩ của ông về sự đau khổ mà ông đang sống và phải sống ở xã hội lúc bấy giờ. Nhân vật Tám Bính một phần của bao nhiêu người cùng cảnh, cũng có cả một phần của ông. Nguyên Hồng viết: “Phải! chính sự đau khổ tôi phải sống và đang sống ở cái xã hội bấy giờ nên tôi đã tạo ra Tám Bính bị lừa phản, chịu oan ức; bệnh tật phá hoại thể xác, tội ác phá hoại tinh thần; con người cứ vùng lên, dập xuống, dập xuống lại vùng lên. Trải qua bao nhiêu cảnh đau đớn tủi nhục, tối tăm, tất cả trái tim và linh hồn bị xẻo, bị nướng, bị tan nát… tất cả những ước mơ trong sáng… bị tàn phá… bị xô đi bởi sức mạnh tàn nhẫn và độc ác vô cùng. Tám Bính lẻ loi, bơ vơ, trơ trọi ấy, cũng có cả một phần tôi và một phần của bao nhiêu người cùng cảnh. Tôi mượn Tám Bính để đưa ra giữa ánh sáng ban ngày của một sự thật trong những sự thật của một hạng người, một số người. Tôi mượn Tám Bính để làm cho nhiều người thấy có một sự thật trong những sự thật như thế của xã hội”. Minh Châu
Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Từ Hiệp định này, quân xâm lược Mỹ đã phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam, dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Hội nghị Pari về Việt Nam (ảnh tư liệu). Từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào miền Nam, thế chân thực dân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Việt Nam một lần nữa trải qua cuộc chiến tranh trường kỳ, bền bỉ chống Mỹ để đi tới việc ký kết Hiệp định Pari, ngày 27 tháng 1 năm 1973. Năm 1968, sau hàng loạt những thất bại nặng nề của chiến lược “chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Chính phủ Hoa Kỳ đã chính thức diễn ra ở Pari. Phái đoàn Việt Nam do Bộ trưởng Xuân Thuỷ đứng đầu, đã khẳng định lập trường không thay đổi của Việt Nam là trước tiên Mỹ phải chấm dứt không điều kiện các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, sau đó mới bàn các vấn đề có liên quan của hai bên. Phái đoàn Mỹ do Hariman đứng đầu. Hội nghị hai bên ở Pari sau nhiều phiên họp trong năm 1968 vẫnkhông giải quyết được vấn đề cơ bản, nhưng đã mở đầu cho một thời kỳ Việt Nam tiến công trực diện Mỹ về ngoại giao trên bàn hội nghị. Trong quá trình đấu tranh đó, phái đoàn Việt Namluôn khẳng địnhtính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam, hành động phá hoại hiệp định Giơnevơ của Mỹ; đòi Mỹ rút quânvà chư hầu ra khỏi Việt Nam; chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam; từ bỏ ngụy quân Sài Gòn; đáp ứng lập trường của Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trước quan điểm đúng đắn, thái độ kiên quyết của phái đoàn Việt Nam,cùng vớinhững thất bại nặng nề trên chiến trường và tình hình nước Mỹ trước ngày bầu cử Tổng thống, ngày 1/11/1968, Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Sau sự kiện này, cuộc đấu tranh giữa Việt Nam và Mỹ bắt đầu xoay quanh vấn đề hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất tổ chứcHội nghị Bốn bên bao gồm: Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hoà (chính quyền Sài Gòn). Tháng 1 năm 1969, Hội nghị 4 bên về Việt Namchính thức họp phiên đầu tiên tạiPari. Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên, Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời gian này, trên chiến trường cả hai bên Việt Nam và Mỹ đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả. Những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các chiến dịch tiến công Trị – Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân Mỹ – nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán. Ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Đêm 18/12/1972, tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là “Trận Điện Biên Phủ trên không” kết thúc bằng việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại Pari. Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thoả thuận. Đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại lễ ký kết Hiệp định Pari (ảnh tư liệu). Cuối cùng, ngày 22/1/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Pari) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ ký tắt. Ngày 27/11/973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được ký chính thức giữa Bộ trưởng Ngoại giao các bên. Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ViệtNam. Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự. Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ. Lễ cuốn cờ ở Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ tại Sài Gòn để rút quân ra khỏi Việt Nam (ảnh tư liệu). Ngày 29/3/1973, Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Đơn vị cuối cùng của quân đội viễn chinh Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của sĩ quan Việt Nam Dân chủ cộng hoà trong Uỷ ban Liên hợp quân sự bốn bên. Trong thời gian khoảng 5 năm, Hiệp định Pari đã trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và đã có hàng nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Trong các phiên họp chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi rút hết quân Mỹ và quân 5 nước thân Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Phía Mỹ, trước sau vẫn nêu quan điểm “có đi có lại”, đòi hai bên (cả quân đội miền Bắc có tại miền Nam) “cùng rút quân”. Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Cội nguồn của thắng lợi Hội nghị Pari là tinh thần quyết chiến quyết thắng, là ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ cho chân lý, giành độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pari và Hiệp định Pari mãi mãi đi vào trong lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ. Đinh Phương (Tổng hợp)
Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Từ Hiệp định này, quân xâm lược Mỹ đã phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam, dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Hội nghị Pari về Việt Nam (ảnh tư liệu). Từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào miền Nam, thế chân thực dân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Việt Nam một lần nữa trải qua cuộc chiến tranh trường kỳ, bền bỉ chống Mỹ để đi tới việc ký kết Hiệp định Pari, ngày 27 tháng 1 năm 1973. Năm 1968, sau hàng loạt những thất bại nặng nề của chiến lược “chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Chính phủ Hoa Kỳ đã chính thức diễn ra ở Pari. Phái đoàn Việt Nam do Bộ trưởng Xuân Thuỷ đứng đầu, đã khẳng định lập trường không thay đổi của Việt Nam là trước tiên Mỹ phải chấm dứt không điều kiện các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, sau đó mới bàn các vấn đề có liên quan của hai bên. Phái đoàn Mỹ do Hariman đứng đầu. Hội nghị hai bên ở Pari sau nhiều phiên họp trong năm 1968 vẫnkhông giải quyết được vấn đề cơ bản, nhưng đã mở đầu cho một thời kỳ Việt Nam tiến công trực diện Mỹ về ngoại giao trên bàn hội nghị. Trong quá trình đấu tranh đó, phái đoàn Việt Namluôn khẳng địnhtính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam, hành động phá hoại hiệp định Giơnevơ của Mỹ; đòi Mỹ rút quânvà chư hầu ra khỏi Việt Nam; chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam; từ bỏ ngụy quân Sài Gòn; đáp ứng lập trường của Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trước quan điểm đúng đắn, thái độ kiên quyết của phái đoàn Việt Nam,cùng vớinhững thất bại nặng nề trên chiến trường và tình hình nước Mỹ trước ngày bầu cử Tổng thống, ngày 1/11/1968, Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Sau sự kiện này, cuộc đấu tranh giữa Việt Nam và Mỹ bắt đầu xoay quanh vấn đề hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất tổ chứcHội nghị Bốn bên bao gồm: Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hoà (chính quyền Sài Gòn). Tháng 1 năm 1969, Hội nghị 4 bên về Việt Namchính thức họp phiên đầu tiên tạiPari. Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên, Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời gian này, trên chiến trường cả hai bên Việt Nam và Mỹ đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả. Những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các chiến dịch tiến công Trị – Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân Mỹ – nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán. Ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Đêm 18/12/1972, tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là “Trận Điện Biên Phủ trên không” kết thúc bằng việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại Pari. Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thoả thuận. Đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại lễ ký kết Hiệp định Pari (ảnh tư liệu). Cuối cùng, ngày 22/1/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Pari) Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ ký tắt. Ngày 27/11/973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được ký chính thức giữa Bộ trưởng Ngoại giao các bên. Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ViệtNam. Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự. Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ. Lễ cuốn cờ ở Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ tại Sài Gòn để rút quân ra khỏi Việt Nam (ảnh tư liệu). Ngày 29/3/1973, Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Đơn vị cuối cùng của quân đội viễn chinh Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của sĩ quan Việt Nam Dân chủ cộng hoà trong Uỷ ban Liên hợp quân sự bốn bên. Trong thời gian khoảng 5 năm, Hiệp định Pari đã trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và đã có hàng nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Trong các phiên họp chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi rút hết quân Mỹ và quân 5 nước thân Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Phía Mỹ, trước sau vẫn nêu quan điểm “có đi có lại”, đòi hai bên (cả quân đội miền Bắc có tại miền Nam) “cùng rút quân”. Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Cội nguồn của thắng lợi Hội nghị Pari là tinh thần quyết chiến quyết thắng, là ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ cho chân lý, giành độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pari và Hiệp định Pari mãi mãi đi vào trong lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ. Đinh Phương (Tổng hợp)
Ngày Thơ Việt Nam lần thứ XXI có chủ đề ‘Nhịp điệu mới’ sẽ diễn ra tại Hoàng Thành Thăng Long (Hà Nội) vào dịp Tết Nguyên tiêu – Rằm tháng Giêng năm Quý Mão 2023 (tức ngày 5/2/2023). Thông tin trên được Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều cho biết tại cuộc họp báo ngày 12/1/2023 tại Hà Nội . Theo Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều , sau 3 năm bị gián đoạn bởi đại dịch COVID-19, Ngày thơ Việt Nam năm Quý Mão 2023 sẽ trở lại với nhiều sự kiện, cách làm mới hơn trước. Với chủ đề “Nhịp điệu mới”, Ngày thơ Việt Nam 2023 được tổ chức với ước vọng hướng tới một tương lai tràn đầy hy vọng về những điều tốt đẹp, khi đất nước đã vượt qua đại dịch, cuộc sống bình thường trở lại với nhịp điệu, khí thế và niềm tin mới cùng với sự phục hồi mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội… Sau 18 năm tổ chức tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, năm 2023, lần đầu tiên Hội Nhà văn Việt Nam đã chọn Hoàng thành Thăng Long làm nơi tổ chức Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 21 vào ngày Tết Nguyên tiêu xuân Quý Mão 2023. Dưới sự chủ trì của Hội Nhà văn Việt Nam và đồng tổ chức của Ban Quản lý Hoàng Thành Thăng Long, toàn bộ hoạt động của Ngày Thơ được thiết kế và dàn dựng bởi ê-kíp sáng tạo gồm Tổng đạo diễn Lê Quý Dương; phụ trách mỹ thuật – Họa sỹ Phạm Hà Hải, Họa sỹ Lê Đình Nguyên. Sự kiện chính của Ngày Thơ thay vì diễn ra vào buổi sáng, sẽ được tổ chức vào đêm Rằm để tăng hiệu quả âm thanh, ánh sáng và tính sân khấu. Nhà thơ Hữu Việt, Trưởng Ban Nhà văn trẻ là người phụ trách toàn bộ kịch bản cho sự kiện. Ngày thơ năm nay diễn ra cả ngày Rằm tháng Giêng (tức ngày 5/2/2023) thay vì chỉ diễn ra vào buổi sáng ngày Rằm như những lần tổ chức trước. Trong khuôn khổ các hoạt động diễn ra trong Ngày Thơ Việt Nam, sẽ có những hoạt động mang tính chuyên sâu như Tọa đàm “Thơ hiện nay với hôm nay” do Hội Nhà văn Việt Nam chủ trì, tổ chức tại Hội trường lớn của Khu Di tích Hoàng Thành Thăng Long. Tọa đàm có sự tham gia các nhà thơ nhiều thế hệ, thảo luận và làm rõ những vấn đề quan trọng của thi ca đương đại; các hoạt động đọc thơ, trò chuyện về thơ trong Quán thơ; công chúng tham quan và giao lưu tại Nhà ký ức thơ… Hệ thống màn hình LED trước cổng Đoan Môn sẽ có phần trình chiếu các phim tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của các nhà thơ nổi tiếng đã góp phần xây dựng nên nền thi ca Việt Nam; trình chiếu video clip tuyển chọn các ca khúc nổi tiếng được phổ nhạc từ những bài thơ được nhiều người yêu thích; trình chiếu phim tư liệu về các hoạt động nổi bật của Hội Nhà văn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển… Chương trình nghệ thuật chính của Ngày thơ sẽ diễn ra vào buổi tối ngày Rằm tháng Giêng, tại sân khấu trung tâm trước cổng Đoan Môn. Tại sân thơ này, các nhà thơ của mọi thế hệ sẽ xuất hiện và tham gia trong chương trình. Công chúng sẽ được gặp lại hình ảnh của các nhà thơ nổi tiếng giai đoạn Thơ Mới đến thơ kháng chiến chống Pháp như: Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Chính Hữu… qua giọng đọc của các nhà thơ từ kho tư liệu của Bảo tàng Văn học Việt Nam. Tiếp theo là phần đọc, trình diễn, diễn xướng thơ của các nhà thơ thế hệ chống Mỹ; thế hệ nhà thơ sau 1975 đến thời kỳ Đổi mới; cuối cùng là của các nhà thơ trẻ. Đan xen với đọc thơ, các nghệ sĩ nổi tiếng sẽ trình diễn những ca khúc được phổ nhạc từ các bài thơ được công chúng yêu thích. “Năm nay, chúng tôi đã mời Đạo diễn Lê Quý Dương làm tổng đạo diễn chương trình Ngày Thơ, cùng với sự kết hợp của các loại hình âm nhạc, hội họa, trình diễn, ánh sáng… sẽ truyền tải đến những người yêu thơ vẻ đẹp thơ ca trong đời sống, góp phần lan tỏa tinh thần nhân văn thông qua loại hình văn học. Phương Lan
The XXI Vietnam Poetry Day with the theme 'New Rhythm' will take place at Imperial Citadel of Thang Long (Hanoi) on the occasion of Lunar New Year - Full Moon of January, Year of the Cat 2023 (February 5, 2023). The above information was announced by Chairman of the Vietnam Writers Association Nguyen Quang Thieu at a press conference on January 12, 2023 in Ho Chi Minh City. Hanoi . According to Poet Nguyen Quang Thieu , after 3 years of interruption due to the COVID-19 pandemic, Vietnamese Poetry Day in the year of the Cat 2023 will return with many new events and ways of doing things than before. With the theme "New Rhythm", Vietnam Poetry Day 2023 is held with the desire to look forward to a future full of hope for good things, when the country has overcome the pandemic and normal life returns. with new rhythm, spirit and confidence along with the recovery of all aspects of economic, cultural and social life... After 18 years of organization at the Temple of Literature - Quoc Tu Giam, in 2023, for the first time, the Vietnam Writers' Association has chosen Thang Long Imperial Citadel as the venue for the 21st Vietnam Poetry Day on the Lunar New Year of Quy Mao 2023. Under the chairmanship of the Vietnam Writers Association and co-organized by the Thang Long Imperial Citadel Management Board, all activities of Poetry Day are designed and staged by a creative team including General Director Le Quy Duong. ; In charge of fine arts – Artist Pham Ha Hai, Artist Le Dinh Nguyen. The main event of Poetry Day, instead of taking place in the morning, will be held on the full moon night to increase the effectiveness of sound, light and stage. Poet Huu Viet, Head of the Young Writers Committee, is in charge of the entire script for the event. This year's poetry day takes place on the full moon day of January (February 5, 2023) instead of only taking place on the morning of the full moon day like previous events. Within the framework of activities taking place on Vietnam Poetry Day, there will be in-depth activities such as the discussion "Poetry today and today" chaired by the Vietnam Writers' Association, held at the Great Hall of Thang Long Imperial Citadel Relic Area. The seminar had the participation of poets of many generations, discussing and clarifying important issues of contemporary poetry; Poetry reading and poetry conversation activities in the Poetry Shop; The public visits and interacts at the Poetry Memory House... The LED screen system in front of Doan Mon gate will display documentaries about the lives and careers of famous poets who have contributed to building Vietnamese poetry; Showing selected video clips of famous songs set to music from much-loved poems; Screening of documentary films about outstanding activities of the Vietnam Writers' Association during the period of innovation, integration and development... The main art program of Poetry Day will take place on the evening of the full moon day of the first lunar month, at the central stage in front of Doan Mon gate. At this poetry yard, poets of all generations will appear and participate in the program. The public will be able to see again the images of famous poets from the New Poetry period to the poetry of the resistance war against the French such as: Nguyen Dinh Thi, Che Lan Vien, Huy Can, Xuan Dieu, Hoang Cam, Le Dat, Chinh Huu... through the voices of poets from the archives of the Vietnam Literature Museum. Next is the reading, performance, and performance of poetry by anti-American poets; the generation of poets after 1975 to the Doi Moi period; Finally, that of young poets. Interwoven with poetry readings, famous artists will perform songs set to music from poems loved by the public. “This year, we invited Director Le Quy Duong to be the general director of the Poetry Day program, with a combination of music, painting, performance, lighting... that will convey to lovers. poetry and poetic beauty in life, contributing to spreading the humanistic spirit through literature. Phuong Lan
Hôm nay, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tham dự và phát biểu tại phiên khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh trực tuyến ‘Tiếng nói phương Nam’. Tại phiên khai mạc, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi nhấn mạnh, thế giới đang phải đối mặt 3 thách thức lớn là xung đột, COVID-19 và khí hậu, chính vì thế, mỗi quốc gia dù trách nhiệm khác nhau, nhưng phải cùng chung sức để giải quyết các vấn đề này, bên cạnh đó là tôn trọng chủ quyền của nhau, tôn trọng pháp quyền và tôn trọng việc giải quyết hòa bình các tranh chấp. Đây sẽ là cơ sở để cùng nhau tạo dựng nền hòa bình, phát triển và thịnh vượng. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh trực tuyến -Tiếng nói phương Nam. Phát biểu tại phiên khai mạc, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, thế giới vừa đi qua năm 2022 với nhiều biến động chưa có tiền lệ, không chỉ những tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt mà cả những cuộc xung đột địa chính trị…, Tất cả đã cộng hưởng, tạo nên sức ép to lớn toàn diện và sâu sắc tới kinh tế -xã hội ở mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, “phương Nam”, làm đứt gãy các chuỗi cung ứng, kích hoạt khủng hoảng năng lượng, lương thực, khủng hoảng nợ ở nhiều nước thu nhập còn thấp. Chủ tịch nước cho rằng, năm 2023, dự báo bầu trời kinh tế thế giới thậm chí còn nhiều u ám với những nguy cơ suy thoái gia tăng, lạm phát cao, tài chính-tiền tệ quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro, cạnh tranh nước lớn và xung đột địa chính trị rất phức tạp và ngày càng quyết liệt. Việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đứng trước thách thức lớn. Chủ tịch nước nhấn mạnh: “Trong bối cảnh đa khủng hoảng, đa thách thức, đa chuyển đổi đó, chung ta càng phải chung tay củng cố, tăng cường các yếu tố nền tảng của toàn cầu về hòa bình và phát triển thịnh vượng. Đó chính là: Một là phải đoàn kết, hợp tác quốc tế và duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Các tranh chấp cần được giải quyết hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ và không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Hai là thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế là động lực cho tăng trưởng kinh tế bền vững, bao trùm với người dân làm trung tâm và “không bỏ ai ở lại phía sau”. Để tiếng nói phương Nam vang xa, Chủ tịch nước đề xuất các nước phương Nam cần có tiếng nói chung, đóng góp thực chất vào thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, cải tổ Liên hợp quốc dân chủ và hiệu quả hơn, củng cố hệ thống thương mại đa phương với WTO ở vị trí trung tâm, hạn chế tối đa các rào cản thương mại. Chủ tịch nước nhấn mạnh, Việt Nam luôn ủng hộ các khuôn khổ hợp tác khu vực và đa phương dựa trên luật lệ, đóng góp cho hòa bình, hợp tác và phát triển. Chủ tịch nước cho biết, là giao điểm của nhiều liên kết kinh tế quan trọng với 15 FTA, Việt Nam sẵn sàng tham gia xây dựng các chuỗi cung ứng toàn cầu tự cường và bền vững. Chủ tịch nước cũng đề xuất các nước phát triển cần thực hiện các cam kết tài chính ưu đãi hướng đến cả yêu cầu cấp bách là xóa, giãn nợ cho các nước nghèo, hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững và xây dựng lộ trình tài chính phát triển sau 2025. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dự hội nghị thượng đỉnh trực tuyến -Tiếng nói phương Nam. Thông tin về tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam, Chủ tịch nước cho biết, là một nền kinh tế mở chịu nhiều tác động từ bên ngoài, dù còn nhiều tồn tại phải khắc phục, nhưng Việt Nam đã nỗ lực duy trì ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, GDP năm 2022 tăng 8,02% với quy mô vượt 400 tỷ USD, kim ngạch thương mại đạt 732 tỷ đô la Mỹ tăng 10%, an sinh xã hội được bảo đảm. Chủ tịch nước cho rằng: “Từ thực tiễn Việt Nam, chúng tôi xin chia sẻ bài học hàng đầu là phát huy tốt nội lực, coi đó là cơ sở để: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế; Hai là cân bằng giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, kiên định mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, tiến bộ và công bằng xã hội; Ba là lấy người dân là trung tâm, chủ thể, vừa là nguồn động lực quan trọng nhất và là mục tiêu cao nhất của sự phát triển; Thứ 4 là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Chủ tịch nước đánh giá cao những thành tựu phát triển và vai trò, vị thế quốc tế ngày càng quan trọng của Ấn Độ, và tin tưởng Ấn Độ sẽ đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch G20 năm 2023 vì hòa bình, hợp tác phát triển tại khu vực châu Á, Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương và trên toàn cầu. Chủ tịch nước cho biết, Việt Nam đang nỗ lực đóng góp vào tiếng nói của Phương Nam, vì một thế giới công bằng, rộng mở, cùng phồn vinh và hạnh phúc../. Việt Cường
Today, President Nguyen Xuan Phuc attended and spoke at the opening session of the 'Southern Voice' Online Summit. At the opening session, Indian Prime Minister Narendra Modi emphasized that the world is facing three major challenges: conflict, COVID-19 and climate. Therefore, each country, despite its different responsibilities, must Let's work together to solve these problems, in addition to respecting each other's sovereignty, respecting the rule of law and respecting the peaceful resolution of disputes. This will be the basis to jointly create peace, development and prosperity. President Nguyen Xuan Phuc speaks at the online summit - Southern Voice. Speaking at the opening session, President Nguyen Xuan Phuc stated that the world has just passed through 2022 with many unprecedented changes, not only the severe impacts of climate change and harsh natural disasters but including geopolitical conflicts..., all have resonated, creating enormous, comprehensive and profound pressure on the socio-economy in every country, especially developing and "Southern" countries. , disrupting supply chains, triggering energy, food and debt crises in many low-income countries. The President said that in 2023, the world economic sky is forecast to be even more gloomy with increased risks of recession, high inflation, international financial and monetary risks with many potential risks, and competition. Great power struggles and geopolitical conflicts are complex and increasingly fierce. Implementing sustainable development goals faces great challenges. The President emphasized: "In this context of multiple crises, multiple challenges, and multiple transitions, we must join hands to consolidate and strengthen the fundamental global elements of peace and prosperous development." . Those are: First, we must unite, cooperate internationally and maintain a peaceful and stable environment for development. Disputes need to be resolved peacefully on the basis of basic principles of international law, the United Nations Charter, equality, respect for sovereignty, independence and territorial integrity, and non-interference in public affairs. internal affairs and do not threaten or use force. Second, promoting international trade and investment is the driving force for sustainable, inclusive economic growth with people at the center and "leaving no one behind". In order for the Southern voice to resonate far and wide, the President proposed that Southern countries need to have a common voice, make substantive contributions to promoting multilateralism, reform the United Nations more democratically and effectively, and strengthen the United Nations system. Multilateral trade system with the WTO at the center, minimizing trade barriers. The President emphasized that Vietnam always supports regional and multilateral cooperation frameworks based on rules, contributing to peace, cooperation and development. The President said that as the intersection of many important economic links with 15 FTAs, Vietnam is ready to participate in building resilient and sustainable global supply chains. The President also proposed that developed countries need to implement preferential financial commitments aimed at the urgent needs of eliminating and rescheduling debt for poor countries, supporting climate change response, green transformation and sustainable development and building a financial roadmap for development after 2025. President Nguyen Xuan Phuc attended the online summit - Southern Voice. Information about Vietnam's economic development situation, the President said, as an open economy subject to many external influences, although there are still many shortcomings to overcome, Vietnam has made efforts to maintain Macroeconomic stability, inflation control, GDP in 2022 increases by 8.02% with a scale exceeding 400 billion USD, trade turnover reaches 732 billion USD, an increase of 10%, social security is guaranteed. The President said: "From Vietnam's practice, we would like to share the top lesson of promoting internal strength, considering it as the basis for: Maintaining macroeconomic stability, improving the ability to fight tolerance and adaptation of the economy; Second, balance between short-term and long-term goals, steadfast in the goals of sustainable development, environmental protection, progress and social justice; Third, take the people as the center and subject, both the most important source of motivation and the highest goal of development; The fourth is to build an independent and self-reliant economy associated with proactive and active international integration." The President highly appreciated India's development achievements and increasingly important international role and position, and believed that India would successfully assume the role of G20 Chair in 2023 for peace and cooperation. growing in Asia, the Indo-Pacific and globally. The President said that Vietnam is trying to contribute to the voice of the South, for a world that is fair, open, prosperous and happy../. Viet Cuong
Công ty khai khoáng Thụy Điển LKAB ngày 12/1 nói đã phát hiện mỏ đất hiếm với trữ lượng hơn một triệu tấn ở Kiruna, được xem là mỏ đất hiếm lớn nhất được phát hiện tại châu Âu. Thụy Điển vừa phát hiện mỏ đất hiếm được cho là lớn nhất ở châu Âu. Ảnh: Euroweeklynews. Các mỏ đất hiếm có vai trò quan trọng trong nhiều quy trình sản xuất công nghệ cao và là nguyên liệu trong chế tạo xe điện, quạt gió, các thiết bị điện tử hay âm thanh, Reuters đưa tin ngày 12/1. “Đây là tin tốt, không chỉ với LKAB, khu vực và người dân Thụy Điển, mà còn đối với châu Âu và tình hình khí hậu”, LKAB tuyên bố. Công ty này cho biết mỏ đất hiếm mới được phát hiện ở thành phố Kiruna có thể trở thành nguồn nguyên liệu thô quan trọng để áp dụng vào quá trình chuyển đổi xanh. LKAB nói mỏ đất hiếm được phát hiện bên cạnh một mỏ sắt, chứa hơn một triệu tấn oxit đất hiếm. Công ty này cho biết thêm vẫn chưa khám phá hết toàn bộ khu mỏ, AFP cho hay. Theo Eurare, Thụy Điển được gọi là “ngôi nhà của nguyên tố đất hiếm”, do các mỏ đất hiếm đầu tiên đều được phát hiện tại nước này. Theo báo cáo của Visual Capitalist vào năm 2020, Trung Quốc hiện là nước sản xuất đất hiếm lớn nhất (140.000 tấn) cùng trữ lượng lớn nhất (44 triệu tấn). Các nước có trữ lượng lớn xếp sau là Việt Nam (22 triệu tấn), Brazil (21 triệu tấn), Nga (12 triệu tấn). Trần Hoàng
Swedish mining company LKAB said on January 12 that it had discovered a rare earth mine with reserves of more than one million tons in Kiruna, considered the largest rare earth mine discovered in Europe. Sweden has just discovered what is believed to be the largest rare earth mine in Europe. Photo: Euroweeklynews. Rare earth mines play an important role in many high-tech production processes and are raw materials in the manufacture of electric vehicles, fans, electronic or audio devices, Reuters reported on January 12. “This is good news, not only for LKAB, the region and the Swedish people, but also for Europe and the climate situation,” LKAB stated. The company said the newly discovered rare earth mine in Kiruna city could become an important source of raw materials for application in the green transition. LKAB said the rare earth mine was discovered next to an iron mine, containing more than one million tons of rare earth oxides. The company added that it has not yet fully explored the entire mine, AFP said. According to Eurare, Sweden It is called the "home of rare earth elements", because the first rare earth mines were discovered in this country. As reported by Visual Capitalist in 2020, China It is currently the largest rare earth producer (140,000 tons) and largest reserve (44 million tons). Countries with large reserves are ranked next Vietnam (22 million tons), Brazil (21 million tons), Russia (12 million tons). Tran Hoang
Các nhà khảo cổ mới đây phát hiện một giếng gỗ có chứa nhiều cổ vật tại thị trấn Germering, bang Bavaria, Đức . Trước đó, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra khoảng 70 giếng nước cổ ở Bavaria. Tuy nhiên, không cái nào trong số đó có chứa đầy “kho báu” như giếng gỗ mới được tìm thấy. Đối với các nền văn minh cổ đại, nước được coi là nguồn chính để duy trì mọi sự sống, đặc biệt là sự bền vững trong nông nghiệp. Đây cũng là lý do tại sao những nguồn nước tự nhiên thường được nghi lễ hoá. Thời xa xưa, giếng nước thường là nơi mà người dân thường xuyên đến. Điều này khiến chúng trở thành trung tâm và là nơi để mọi người gặp gỡ. Người xưa cũng có thể thả trang sức hoặc đồ gốm xuống giếng để làm lễ vật, tương tự như cách người hiện đại ngày nay ném tiền xu vào trong giếng nước để cầu may. Giếng gỗ này có niên đại hơn 5.000 năm. Ảnh: Marcus Guckenbiehl Theo các nhà khảo cổ, giếng nước lót gỗ mới được tìm thấy có niên đại hơn 3.000 năm và độ sâu khoảng 5 m. Con số này cho thấy giếng nước này sâu hơn nhiều so với các giếng khác cùng loại. Nhóm nghiên cứu còn phát hiện ra rằng đáy giếng được bảo tồn gần như nguyên vẹn và có chứa một bộ sưu tập các trầm tích nghi lễ từ khoảng 3.000 năm trước trong thời đại đồ đồng. Tiến sĩ Jochen Haberstroh, nhà khảo cổ tại Văn phòng Bảo tồn Di tích bang Bavaria (BLFD), cho biết: “Rất hiếm khi có một cái giếng tồn tại hơn 3.000 năm mà vẫn còn tốt như vậy. Thành gỗ cũng được bảo quản nguyên vẹn và ở dưới đáy giếng vẫn còn hơi ẩm vì nước ngầm”. Điều này cũng giải thích vì sao những cổ vật, đồ tạo tác được làm từ vật liệu hữu cơ ở dưới giếng vẫn ở trong tình trạng tốt. Chúng đang được các nhà nghiên cứu kiểm tra kỹ lưỡng hơn. Các chuyên gia hy vọng rằng phát hiện mới sẽ cung cấp thêm thông tin về cuộc sống thường nhật của những cư dân thời đó. Đồ gốm được tìm thấy ở dưới giếng cổ. Ảnh: Marcus Guckenbiehl Ngoài ra, ở dưới giếng, nhóm các nhà khảo cổ cũng tìm thấy 26 chiếc ghim quần áo bằng đồng, một cái vòng tay, hai vòng xoắn ốc bằng kim loại, một chiếc răng động vật, chuỗi hạt hổ phách và hơn 70 chiếc bình gốm. Các chuyên gia nhấn mạnh rằng, các hiện vật này khiến cho giếng gỗ này trở nên đặc biệt hơn so với các giếng khác tại khu vực khai quật. Theo nhận định của các chuyên gia, những món đồ đắt tiền trên thường được phát hiện ở trong các ngôi mộ thời đại đồ đồng giữa, không phải là đồ dùng hàng ngày. Tình trạng nguyên vẹn khi được phát hiện dưới đáy giếng cho thấy các đồ vật này được hạ xuống nước một cách cẩn thận, thay vì bị thả hoặc ném vào. Ngoài đồ gốm, các nhà khảo cổ còn tìm thấy nhiều đồ trang sức dưới giếng. Ảnh: Marcus Guckenbiehl Chuyên gia Mathias Pfeil tại BLFD, nhận định rằng: “Chúng ta không thể giải thích chính xác về nguyên nhân nào khiến những cư dân thời xưa dâng tặng đồ trang sức và những món quà có giá trị khác cách đây 3.000 năm trước. Nhưng có khả năng chúng được dùng làm vật hiến tế để giúp mang lại một vụ mùa bội thu”. Bên cạnh đó, theo các chuyên gia, những đặc điểm khác thường của giếng gỗ cũng cung cấp một số thông tin. Theo nhà khảo cổ học Marcus Guckenbiehl tại Germering: “Độ sâu của giếng cho thấy nó được sử dụng vào thời điểm mà mực nước ngầm giảm đáng kể. Điều này cho thấy hạn hán kéo dài và sản lượng thu hoạch kém. Đây cũng có thể là nguyên nhân vì sao các cư dân sống ở đây vào thời điểm đó lại hy sinh một phần tài sản của họ dưới giếng để dâng lên cho các vị thần”. Trước đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một giếng nước có niên đại tới 7.000 năm tại Cộng hoà Séc vào tháng 2/2020. Đây được coi là chiếc giếng cổ nhất ở trên thế giới. Theo đó, cái giếng này được tìm thấy trong quá trình đường cao tốc D35 ở gần thị trấn Ostrov, huyện Karlovy Vary, vùng Karlovarský, Cộng hòa Séc. Giếng gỗ 7.000 năm tuổi được tìm thấy ở Cộng hòa Séc. Ảnh: ĐH Pardibice Sau khi tiến hành phân tích về vòng sinh trưởng của các khối gỗ ở bao quanh giếng, các nhà khảo cổ cho biết, giếng cổ được xây băng gỗ sồi có niên đại vào khoảng năm 5.256 TCN. Theo các chuyên gia, giếng cổ có chiều dài là 140 cm, diện tích 80 cm2. Thiết kế của giếng gỗ cho thấy, chỉ bằng các dụng cụ làm từ đá, xương, gỗ hoặc sừng, những cư dân thời cổ đại đã biết cách đục rãnh tại các cột trụ nhằm xếp ván gỗ chèn lên nhau. Điều này khiến các nhà khảo cổ khá bất ngờ bởi kỹ thuật xây dựng tiên tiến của người xưa khi biết cách xử lý bề mặt của các thân cây một cách chính xác chỉ bằng những công cụ thô sơ. Nhà nghiên cứu Karol Bayer tại ĐH Pardibice, Cộng hòa Séc, cho biết, giếng cổ này vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn vì đã ngâm dưới nước trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng phát triển một quy trình để làm khô và bảo tồn giếng cổ mà không bị biến dạng hay phá huỷ cấu trúc, bằng cách sử dụng đường để giúp củng cố cấu trúc gỗ. Bài viết tham khảo nguồn: Arkeonews, Ancientorigins, CNN Minh Hằng
Archaeologists recently discovered a wooden well containing many artifacts in the town of Germering, Bavaria, Virtue . Previously, archaeologists discovered about 70 ancient wells in Bavaria. However, none of them are filled with "treasures" like the newly found wooden well. For ancient civilizations, water was considered the main source to sustain all life, especially sustainability in agriculture. This is also the reason why natural water sources are often ritualized. In ancient times, wells were often places where people often went. This makes them hubs and places for people to meet. Ancient people could also drop jewelry or ceramics into the well as offerings, similar to how modern people today throw coins into a well for good luck. This wooden well is more than 5,000 years old. Photo: Marcus Guckenbiehl According to archaeologists, the newly discovered wooden well is more than 3,000 years old and is about 5 meters deep. This number shows that this well is much deeper than other wells of the same type. The team also discovered that the bottom of the well was preserved almost intact and contained a collection of ritual deposits from about 3,000 years ago during the Bronze Age. Dr. Jochen Haberstroh, archaeologist at the Bavarian State Office for the Conservation of Monuments (BLFD), said: “It is very rare to have a well that has existed for more than 3,000 years and is still in such good condition. The wooden walls are also preserved intact and at the bottom of the well there is still moisture due to groundwater." This also explains why the antiques and artifacts made from organic materials in the well are still in good condition. They are being examined more closely by researchers. Experts hope that the new discovery will provide more information about the daily lives of residents at that time. Pottery was found at the bottom of an ancient well. Photo: Marcus Guckenbiehl In addition, in the well, the team of archaeologists also found 26 bronze clothes pins, a bracelet, two metal spirals, an animal tooth, amber beads and more than 70 pottery. Experts emphasize that these artifacts make this wooden well more special than other wells in the excavation area. According to experts, the above expensive items are often discovered in Middle Bronze Age tombs and are not everyday items. The intact condition when discovered at the bottom of the well suggests that these objects were carefully lowered into the water, rather than dropped or thrown in. In addition to pottery, archaeologists also found many jewelry in the well. Photo: Marcus Guckenbiehl Expert Mathias Pfeil at BLFD commented: "We cannot explain exactly what caused ancient residents to donate jewelry and other valuable gifts 3,000 years ago. But it's possible they were used as sacrifices to help bring about a good harvest." Besides, according to experts, the unusual characteristics of wooden wells also provide some information. According to Germering archaeologist Marcus Guckenbiehl: “The depth of the well suggests it was used at a time when the water table was significantly reduced. This indicates prolonged drought and poor harvest yields. This may also be the reason why the residents living here at that time sacrificed part of their property in the well to offer to the gods. Previously, archaeologists discovered a well dating back 7,000 years Czech Republic in February 2020. This is considered the oldest well in the world. Accordingly, this well was found along the D35 highway near the town of Ostrov, Karlovy Vary district, Karlovarský region, Czech Republic. 7,000 year old wooden well found in the Czech Republic. Photo: Pardibice University After analyzing the growth rings of the wooden blocks surrounding the well, archaeologists said that the ancient well was built of oak wood dating back to around 5,256 BC. According to experts, the ancient well has a length of 140 cm and an area of ​​80 cm2. The design of the wooden well shows that, using only tools made from stone, bone, wood or horn, ancient residents knew how to carve grooves in the pillars to arrange wooden planks on top of each other. This made archaeologists quite surprised by the advanced construction techniques of the ancients when they knew how to accurately treat the surface of tree trunks with only rudimentary tools. Researcher Karol Bayer at Pardibice University, Czech Republic, said that this ancient well is still preserved intact because it has been submerged underwater for many centuries. However, researchers have also developed a process to dry and preserve ancient wells without deformation or structural damage, using sugar to help strengthen the wood structure. Article reference source: Arkeonews, Ancientorigins, CNN Minh Hang
Sau 1975, khi tôi trở về với giảng đường đại học, có người thầy là giảng viên tăng viện từ Đại học Tổng hợp Hà Nội, về giảng dạy bộ môn Ngôn ngữ học cho khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế, nói rặt giọng Quảng, không chỉ đã hút hồn chúng tôi một cách mê đắm, mà còn tạo nên sự ngạc nhiên, kính phục và ngưỡng mộ vô cùng. Cố GS-TS. Hoàng Trọng Phiến. Ảnh: Internet Đó là GS-TS- Nhà giáo nhân dân Hoàng Trọng Phiến, người mà sau này tôi mới biết là người thầy đáng kính của nhiều thế hệ học trò trong và ngoài nước hơn nửa thế kỷ qua. Hành trạng cuộc đời, sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu khoa học của thầy Hoàng Trọng Phiến là tấm gương cho thế hệ trẻ ngày nay noi theo. 1. Thầy sinh năm 1932 tại làng Khuê Bắc, nay là phường Mỹ An , quận Ngũ Hành Sơn , Đà Nẵng . Vào những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, thầy thoát ly lên chiến khu Trung Mang, vừa học vừa tham gia công tác kháng chiến, sau đó vào học THPT kháng chiến Lê Khiết. Năm 1954 tập kết ra Bắc, thầy được cử sang học ở Khu học xá Trung ương (Nam Ninh, Trung Quốc). Năm 1956 thầy về học khóa I, khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, làm Bí thư Liên chi đoàn, rồi Bí thư Đoàn trường đầu tiên (1959 – 1962). Năm 1959 thầy tốt nghiệp, được giữ lại trường làm giảng viên. Năm 1964 thầy đi làm nghiên cứu sinh tại Đại học Tổng hợp Moskva (Liên Xô) và đến 1968 hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ viết bằng tiếng Nga, trở về nước và trở thành người mở đầu cho việc nghiên cứu và giảng dạy các môn về bán phụ tố, cấu tạo từ, phong cách học, cú pháp học… Từ 1971 thầy làm Chủ nhiệm bộ môn Ngôn ngữ học, năm 1973 đứng ra thành lập và làm Chủ nhiệm khoa Việt Nam học và tiếng Việt. Giai đoạn 1989 – 1992 thầy giảng dạy tại Đại học Ngoại ngữ Tokyo, Nhật Bản. GS. Hoàng Trọng Phiến là tác giả của hơn 100 bài báo khoa học đã công bố trong nước và quốc tế, là người có nhiều công trình nghiên cứu, giáo trình đại học và sau đại học đáng chú ý như: Cách miêu tả hệ thống cú pháp các kiểu câu cơ bản tiếng Việt (1959), Kiến trúc từ phái sinh tiếng Việt (1970), Ngôn ngữ học dẫn luận (1970), Ngôn ngữ học đại cương (1970, 1972), Chức năng của ngôn ngữ (1971, 1972), Phong cách học tiếng Việt hiện đại (1973), Lý thuyết ngữ pháp tiếng Việt (1976), Cú pháp tiếng Việt (1980), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (1990), Ngữ nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ (1996), Sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài (2001), Tự điển hư từ tiếng Việt (2003). Những năm trước khi nghỉ hưu (2000), thầy còn chủ trì hai đề tài nhánh cấp Nhà nước (1996 – 1999) có ý nghĩa thực tiễn đối với việc khẳng định chủ quyền và lãnh thổ đất nước là Địa danh biên giới tự nhiên và Địa danh biển đảo Việt Nam. Thầy đến với ngôn ngữ như một cơ duyên. Thầy từng kể: “Vào đại học văn khoa, ai cũng mơ được đọc tiểu thuyết, được thưởng thức, khám phá những tác phẩm đồ sộ… nhưng cuối cùng tôi lại đi vào ngôn ngữ học, một lĩnh vực khô khan, khó hiểu. Nay nhìn lại, hóa ra mình đã sống trọn với thứ mà thoạt đầu mình nghĩ như thách đố. Được sống và làm việc với các giáo sư tài năng, tâm huyết như Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo… là may mắn lớn. Các bậc đàn anh không chỉ cho tôi những kiến thức ngôn ngữ, mà trên hết là niềm đam mê. Đi theo con đường của các giáo sư, tôi bắt đầu chuyên tâm tìm hướng đi, hứng thú của riêng mình. Với tiếng Việt, một ngôn ngữ phong phú trên nhiều phương diện ngữ pháp, ngữ âm, cú pháp… mặc sức khám phá và cả thưởng thức, như một lĩnh vực nghệ thuật đặc thù nữa”. 2. Và, bằng sự nỗ lực và cần mẫn học hỏi, thầy đã trở thành một trong những chuyên gia đầu ngành. Là người làm chủ nhiều lĩnh vực ngôn ngữ tiếng Việt, thầy có thể giảng dạy nhiều môn học với tất cả sự tự tin và lòng say mê, dẫn dụ người nghe tiếp cận chân lý đầy sức thuyết phục, bằng chất giọng xứ Quảng như một nhà hùng biện. Dù là người sống nơi đất khách quê người hơn nửa thế kỷ, nhưng thầy vẫn phát âm đặc sệt giọng Quảng, một kiểu giọng Quảng “thứ thiệt” nhưng vẫn phổ đúng với âm chuẩn của tiếng Việt phổ thông. Đặc biệt, sức hấp dẫn của “nhà thuyết giáo” không dừng lại ở chất giọng, mà còn ở lối tư duy của người Quảng: hay lật ngược vấn đề, hỏi nhiều hơn trả lời và luôn thể hiện khát vọng phát hiện ra những vấn đề mới mẻ, để đi đến khẳng định cái mới. Kiểu tư duy này không chỉ thể hiện trong lúc nói chuyện, trong giảng dạy, mà còn phô diễn trong cả các công trình khoa học. Là người con của mảnh đất “chưa mưa đà thấm”, trong con người thầy, luôn có khát vọng nồng nàn đầy nhạy bén với cái mới, hướng đến cái tốt đẹp và tự tin với giọng Quảng của mình, có sự thăng hoa và đủ khả năng đánh thức sức biểu hiện phong phú của ngôn từ tiếng Việt, có thể diễn tả mọi cung bậc tình cảm của con người. Sức thu hút người học, có lúc đến mê đắm trong từng trang sách, từng tiết dạy đầy thăng hoa của thầy cũng chính là ở chỗ đó. Người học không chỉ tiếp thu ở thầy những kiến thức chuyên môn mà còn có cả tri thức, kỹ năng sống để làm người. Nhớ về người thầy đáng kính của mình, TS.Thái Duy Bảo nói rằng: “Thầy đã rót vào tôi luồng sinh khí, niềm lạc quan và đôi chút “can đảm” để vượt qua mọi khốn khó. Tôi tin tưởng người thầy kính yêu đã có một cuộc đời nghề nghiệp viên mãn, đào tạo thế hệ học trò biết làm việc tốt và cố gắng sống tử tế như thầy”. PGS-TS. Nguyễn Thiện Nam – cũng là học trò của thầy, còn khẳng định rằng: “Ở cương vị nào thầy Phiến cũng luôn thể hiện trách nhiệm của một nhà giáo nhân dân và người con ưu tú của xứ Quảng”. Và có lẽ, ở lĩnh vực nào thầy Phiến cũng là thủ lĩnh, và trước hết là thượng tôn chủ nghĩa nhân văn. Là người có cuộc sống giản dị, gần gũi, sôi nổi và chân tình với mọi người, trong các mối quan hệ với học trò, đồng nghiệp, thầy luôn hòa đồng, thân ái, với mái tóc bạc vuốt ngược về phía sau, nụ cười luôn nở trên môi và câu nói cửa miệng đầy tự hào: “Tôi là người xứ Quảng…”. Cũng khó mà tính hết thầy đã hướng dẫn bao nhiêu luận án tiến sĩ, bao nhiêu luận văn thạc sĩ và bao nhiêu cử nhân, kể cả người nước ngoài; trong đó có cả các nhà ngoại giao (có đến 8 đại sứ các nước từng làm việc ở nước ta, đã từng là học trò của thầy). Nhiều người thành đạt, trở thành phó giáo sư, giáo sư, các nhà khoa học đầu ngành đang hành nghiệp trong và ngoài nước. Tôi là người học trò nhỏ của thầy, vì là đồng hương, cũng từng được thầy yêu quý, nhưng không đủ khả năng đi theo con đường ngôn ngữ học. Tôi học tập được ở thầy cái lớn nhất là nhiệt huyết của con người xứ Quảng. Còn cái tệ nhất không học được từ thầy là cho đến nay đã gần cuối đời tôi còn viết sai chính tả! Dường như đời tôi làm việc gì cũng chậm, ngay cả tin thầy mất từ ngày 16/7/2022, đến nay tôi mới biết. Trong niềm tiếc thương vô hạn của người từng được thọ giáo thầy đến nay đã gần nửa thế kỷ, xin viết những dòng này như nén tâm nhang dâng lên người thầy mà mình yêu kính.
Sau 1975, khi tôi trở về với giảng đường đại học, có người thầy là giảng viên tăng viện từ Đại học Tổng hợp Hà Nội, về giảng dạy bộ môn Ngôn ngữ học cho khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế, nói rặt giọng Quảng, không chỉ đã hút hồn chúng tôi một cách mê đắm, mà còn tạo nên sự ngạc nhiên, kính phục và ngưỡng mộ vô cùng. Cố GS-TS. Hoàng Trọng Phiến. Ảnh: Internet Đó là GS-TS- Nhà giáo nhân dân Hoàng Trọng Phiến, người mà sau này tôi mới biết là người thầy đáng kính của nhiều thế hệ học trò trong và ngoài nước hơn nửa thế kỷ qua. Hành trạng cuộc đời, sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu khoa học của thầy Hoàng Trọng Phiến là tấm gương cho thế hệ trẻ ngày nay noi theo. 1. Thầy sinh năm 1932 tại làng Khuê Bắc, nay là phường Mỹ An , quận Ngũ Hành Sơn , Đà Nẵng . Vào những năm cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, thầy thoát ly lên chiến khu Trung Mang, vừa học vừa tham gia công tác kháng chiến, sau đó vào học THPT kháng chiến Lê Khiết. Năm 1954 tập kết ra Bắc, thầy được cử sang học ở Khu học xá Trung ương (Nam Ninh, Trung Quốc). Năm 1956 thầy về học khóa I, khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, làm Bí thư Liên chi đoàn, rồi Bí thư Đoàn trường đầu tiên (1959 – 1962). Năm 1959 thầy tốt nghiệp, được giữ lại trường làm giảng viên. Năm 1964 thầy đi làm nghiên cứu sinh tại Đại học Tổng hợp Moskva (Liên Xô) và đến 1968 hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ viết bằng tiếng Nga, trở về nước và trở thành người mở đầu cho việc nghiên cứu và giảng dạy các môn về bán phụ tố, cấu tạo từ, phong cách học, cú pháp học… Từ 1971 thầy làm Chủ nhiệm bộ môn Ngôn ngữ học, năm 1973 đứng ra thành lập và làm Chủ nhiệm khoa Việt Nam học và tiếng Việt. Giai đoạn 1989 – 1992 thầy giảng dạy tại Đại học Ngoại ngữ Tokyo, Nhật Bản. GS. Hoàng Trọng Phiến là tác giả của hơn 100 bài báo khoa học đã công bố trong nước và quốc tế, là người có nhiều công trình nghiên cứu, giáo trình đại học và sau đại học đáng chú ý như: Cách miêu tả hệ thống cú pháp các kiểu câu cơ bản tiếng Việt (1959), Kiến trúc từ phái sinh tiếng Việt (1970), Ngôn ngữ học dẫn luận (1970), Ngôn ngữ học đại cương (1970, 1972), Chức năng của ngôn ngữ (1971, 1972), Phong cách học tiếng Việt hiện đại (1973), Lý thuyết ngữ pháp tiếng Việt (1976), Cú pháp tiếng Việt (1980), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (1990), Ngữ nghĩa và cấu trúc ngôn ngữ (1996), Sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài (2001), Tự điển hư từ tiếng Việt (2003). Những năm trước khi nghỉ hưu (2000), thầy còn chủ trì hai đề tài nhánh cấp Nhà nước (1996 – 1999) có ý nghĩa thực tiễn đối với việc khẳng định chủ quyền và lãnh thổ đất nước là Địa danh biên giới tự nhiên và Địa danh biển đảo Việt Nam. Thầy đến với ngôn ngữ như một cơ duyên. Thầy từng kể: “Vào đại học văn khoa, ai cũng mơ được đọc tiểu thuyết, được thưởng thức, khám phá những tác phẩm đồ sộ… nhưng cuối cùng tôi lại đi vào ngôn ngữ học, một lĩnh vực khô khan, khó hiểu. Nay nhìn lại, hóa ra mình đã sống trọn với thứ mà thoạt đầu mình nghĩ như thách đố. Được sống và làm việc với các giáo sư tài năng, tâm huyết như Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo… là may mắn lớn. Các bậc đàn anh không chỉ cho tôi những kiến thức ngôn ngữ, mà trên hết là niềm đam mê. Đi theo con đường của các giáo sư, tôi bắt đầu chuyên tâm tìm hướng đi, hứng thú của riêng mình. Với tiếng Việt, một ngôn ngữ phong phú trên nhiều phương diện ngữ pháp, ngữ âm, cú pháp… mặc sức khám phá và cả thưởng thức, như một lĩnh vực nghệ thuật đặc thù nữa”. 2. Và, bằng sự nỗ lực và cần mẫn học hỏi, thầy đã trở thành một trong những chuyên gia đầu ngành. Là người làm chủ nhiều lĩnh vực ngôn ngữ tiếng Việt, thầy có thể giảng dạy nhiều môn học với tất cả sự tự tin và lòng say mê, dẫn dụ người nghe tiếp cận chân lý đầy sức thuyết phục, bằng chất giọng xứ Quảng như một nhà hùng biện. Dù là người sống nơi đất khách quê người hơn nửa thế kỷ, nhưng thầy vẫn phát âm đặc sệt giọng Quảng, một kiểu giọng Quảng “thứ thiệt” nhưng vẫn phổ đúng với âm chuẩn của tiếng Việt phổ thông. Đặc biệt, sức hấp dẫn của “nhà thuyết giáo” không dừng lại ở chất giọng, mà còn ở lối tư duy của người Quảng: hay lật ngược vấn đề, hỏi nhiều hơn trả lời và luôn thể hiện khát vọng phát hiện ra những vấn đề mới mẻ, để đi đến khẳng định cái mới. Kiểu tư duy này không chỉ thể hiện trong lúc nói chuyện, trong giảng dạy, mà còn phô diễn trong cả các công trình khoa học. Là người con của mảnh đất “chưa mưa đà thấm”, trong con người thầy, luôn có khát vọng nồng nàn đầy nhạy bén với cái mới, hướng đến cái tốt đẹp và tự tin với giọng Quảng của mình, có sự thăng hoa và đủ khả năng đánh thức sức biểu hiện phong phú của ngôn từ tiếng Việt, có thể diễn tả mọi cung bậc tình cảm của con người. Sức thu hút người học, có lúc đến mê đắm trong từng trang sách, từng tiết dạy đầy thăng hoa của thầy cũng chính là ở chỗ đó. Người học không chỉ tiếp thu ở thầy những kiến thức chuyên môn mà còn có cả tri thức, kỹ năng sống để làm người. Nhớ về người thầy đáng kính của mình, TS.Thái Duy Bảo nói rằng: “Thầy đã rót vào tôi luồng sinh khí, niềm lạc quan và đôi chút “can đảm” để vượt qua mọi khốn khó. Tôi tin tưởng người thầy kính yêu đã có một cuộc đời nghề nghiệp viên mãn, đào tạo thế hệ học trò biết làm việc tốt và cố gắng sống tử tế như thầy”. PGS-TS. Nguyễn Thiện Nam – cũng là học trò của thầy, còn khẳng định rằng: “Ở cương vị nào thầy Phiến cũng luôn thể hiện trách nhiệm của một nhà giáo nhân dân và người con ưu tú của xứ Quảng”. Và có lẽ, ở lĩnh vực nào thầy Phiến cũng là thủ lĩnh, và trước hết là thượng tôn chủ nghĩa nhân văn. Là người có cuộc sống giản dị, gần gũi, sôi nổi và chân tình với mọi người, trong các mối quan hệ với học trò, đồng nghiệp, thầy luôn hòa đồng, thân ái, với mái tóc bạc vuốt ngược về phía sau, nụ cười luôn nở trên môi và câu nói cửa miệng đầy tự hào: “Tôi là người xứ Quảng…”. Cũng khó mà tính hết thầy đã hướng dẫn bao nhiêu luận án tiến sĩ, bao nhiêu luận văn thạc sĩ và bao nhiêu cử nhân, kể cả người nước ngoài; trong đó có cả các nhà ngoại giao (có đến 8 đại sứ các nước từng làm việc ở nước ta, đã từng là học trò của thầy). Nhiều người thành đạt, trở thành phó giáo sư, giáo sư, các nhà khoa học đầu ngành đang hành nghiệp trong và ngoài nước. Tôi là người học trò nhỏ của thầy, vì là đồng hương, cũng từng được thầy yêu quý, nhưng không đủ khả năng đi theo con đường ngôn ngữ học. Tôi học tập được ở thầy cái lớn nhất là nhiệt huyết của con người xứ Quảng. Còn cái tệ nhất không học được từ thầy là cho đến nay đã gần cuối đời tôi còn viết sai chính tả! Dường như đời tôi làm việc gì cũng chậm, ngay cả tin thầy mất từ ngày 16/7/2022, đến nay tôi mới biết. Trong niềm tiếc thương vô hạn của người từng được thọ giáo thầy đến nay đã gần nửa thế kỷ, xin viết những dòng này như nén tâm nhang dâng lên người thầy mà mình yêu kính.
Hàng ngàn con đập trên thế giới đang tích tụ trầm tích nghiêm trọng đến mức chúng có nguy cơ mất ¼ khả năng dự trữ vào năm 2050, đe dọa an ninh nguồn nước, theo nghiên cứu mới công bố ngày 11-1. Mực nước hồ Mead giảm đáng kể sau khi xây đập Hoover trên sông Colorado, Mỹ. Ảnh: Reuters Nhóm nghiên cứu tại Viện Nước, Môi trường và Sức khỏe thuộc Ðại học Liên Hiệp Quốc đã đánh giá gần 50.000 đập lớn ở 150 quốc gia và phát hiện chúng đang mất khoảng 16% khả năng trữ nước. Tỷ lệ này sẽ tăng lên 26% vào giữa thế kỷ nếu trầm tích tiếp tục lắng đọng với tốc độ như hiện nay. Trầm tích sẽ khiến các con đập và hồ chứa nước mất khoảng 1.650 tỉ mét khối nước, gần bằng lượng nước sử dụng hàng năm của Ấn Ðộ , Trung Quốc , Indonesia , Pháp và Canada cộng lại. Vấn đề đáng nói ở chỗ những con đập khổng lồ này là nguồn chính cung cấp thủy điện, kiểm soát lũ lụt, thủy lợi và nước uống trên khắp thế giới. Theo lẽ tự nhiên, trầm tích sẽ theo dòng nước trôi xuống hạ nguồn, nhưng những đập lớn đã cản trở dòng chảy và theo thời gian lượng lớn trầm tích bị giữ lại sẽ làm giảm không gian dành cho nước. Ðiều này đe dọa sự bền vững của nguồn cung nước trong tương lai cũng như đặt ra nhiều rủi ro cho thủy lợi và quá trình phát điện, theo Tiến sĩ Vladimir Smakhtin, đồng tác giả của nghiên cứu. Việc các con đập cản trở dòng trầm tích cũng có thể gây lũ lụt ở các vùng thượng nguồn và làm xói mòn môi trường sống ở hạ lưu. Tuy nhiên, quá trình lắng đọng trầm tích chỉ là một phần trong vấn đề lớn hơn. Ðó là tới năm 2050, hàng chục ngàn đập lớn sẽ sắp hoặc hết thời hạn sử dụng. Phần lớn trong số 60.000 đập trên thế giới, xây dựng trong giai đoạn 1930-1970, được thiết kế để sử dụng trong 50-100 năm. Sau khi hết hạn sử dụng, đập có nguy cơ vỡ, ảnh hưởng tới hơn phân nửa dân số toàn cầu sống ở hạ lưu. Ðập lớn và hồ chứa nước là những công trình có chiều cao trên 15m hoặc ít nhất 5m đồng thời có dung tích toàn bộ không dưới 3 triệu mét khối nước. Các dạng thời tiết cực đoan do biến đổi khí hậu như lũ lụt, hạn hán sẽ gia tăng và điều này không chỉ làm tăng nguy cơ tràn nước hồ chứa mà còn đẩy nhanh quá trình tích tụ trầm tích, ảnh hưởng tới sự an toàn của đập, giảm khả năng trữ nước cũng như sản lượng điện ở các đập thủy điện. Ðể giải quyết những thách thức về các đập già cỗi và trầm tích lắng đọng, các nhà nghiên cứu đã liệt kê nhiều biện pháp. Trong đó, phương án dẫn dòng trầm tích có thể làm chệch hướng dòng chảy xuống hạ lưu thông qua một kênh riêng lẻ. Một cách khác là loại bỏ đập để tái lập dòng chảy tự nhiên của trầm tích trên sông. Tuy nhiên, giải quyết vấn đề dự trữ nước thì đặc biệt phức tạp bởi không có giải pháp phù hợp với tất cả. Ðược biết, hiện nay chỉ có khoảng 50 con đập được xây dựng mỗi năm, giảm mạnh so với 1.000 đập/năm hồi giữa thế kỷ trước.
Thousands of dams around the world are accumulating sediment so severely that they risk losing a quarter of their storage capacity by 2050, threatening water security, according to new research published on January 11. The water level of Lake Mead decreased significantly after the construction of the Hoover Dam on the Colorado River, USA. Photo: Reuters A research team at the United Nations University Institute for Water, Environment and Health assessed nearly 50,000 large dams in 150 countries and found they are losing about 16% of their water storage capacity. This proportion will increase to 26% by mid-century if sediment continues to be deposited at the current rate. Sediment will cause dams and reservoirs to lose about 1,650 billion cubic meters of water, nearly equal to the amount of water used annually by the United States. India , China , Indonesia , France and Canada total. The point is that these giant dams are the main source of hydroelectric power, flood control, irrigation and drinking water around the world. Naturally, sediment would flow downstream, but large dams obstruct the flow and over time the large amount of sediment trapped will reduce the space available for water. This threatens the sustainability of future water supplies and poses many risks to irrigation and electricity generation, according to Dr. Vladimir Smakhtin, co-author of the study. Dams blocking sediment flows can also cause flooding in upstream areas and erode habitat downstream. However, sedimentation is only part of a larger problem. That is, by 2050, tens of thousands of large dams will be near or at the end of their useful life. Most of the world's 60,000 dams, built between 1930 and 1970, were designed to last 50 to 100 years. After the expiration date, the dam is at risk of breaking, affecting more than half of the global population living downstream. Large dams and reservoirs are structures with a height of over 15m or at least 5m and have a total capacity of not less than 3 million cubic meters of water. Extreme weather patterns due to climate change such as floods and droughts will increase and this not only increases the risk of reservoir overflow but also accelerates the process of sediment accumulation, affecting safety. of dams, reducing water storage capacity as well as electricity output at hydroelectric dams. To address the challenges of aging dams and sediment deposits, researchers have listed many measures. In particular, the sediment diversion plan can deflect the flow downstream through a separate channel. Another option is to remove the dam to reestablish the natural flow of sediment in the river. However, solving the water storage problem is especially complicated because there is no one-size-fits-all solution. It is known that currently only about 50 dams are built each year, a sharp decrease compared to 1,000 dams/year in the middle of the last century.
Không kể buổi ra mắt lần đầu năm 2011 tại Yết Kiêu, ít năm sau, tôi tình cờ thấy lại công trình “Văn minh vật chất của người Việt” (Nhà xuất bản Tri Thức) được đặt tại nơi nghỉ dưỡng của Không gian văn hóa Mường, Hòa Bình . Đó là nơi tác giả, họa sĩ, nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng thường lui về nghiên cứu. Ấn tượng về cuốn sách vẫn luôn đặc biệt – nhẹ nhàng, sâu sắc như cách trò chuyện thường thấy của họa sĩ Phan Cẩm Thượng. Vậy nên, không bất ngờ khi “Văn minh vật chất của người Việt” bản in của nhà xuất bản Thế giới và ZenBooks năm 2018 vừa giành được giải B Giải thưởng sách quốc gia 2021. Bìa sách “Văn minh vật chất của người Việt” của nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng Cuốn sách rất dày, hơn 600 trang, được tái hiện dưới dạng những câu chuyện kể thủng thẳng, rủ rỉ, nằm trong 5 phần nội dung và 1 phần kết. Những chương ấy cũng đi từ khái quát tới cụ thể và từ những cụ thể lại đúc kết những điều về văn minh người Việt qua sáng tạo vật chất thường ngày. Quả là thường ngày, thân thuộc đến nỗi dễ bị quên lãng, xem thường như chuyện ăn uống, đi lại, lao động sản xuất, ma chay, nghệ thuật… Vậy nên, bạn đọc có thể đọc từ bất kỳ một chương nào đó mình quan tâm, chẳng hạn: Chương 2: “Từ bàn tay đến công cụ” với chuyện đồ gia dụng mây tre đan, đồ gỗ, đồ gốm và đồ kim khí… Hay chương 3: “Cơm tẻ là mẹ ruột” để biết đồ vật đã kể câu chuyện bữa cơm hằng ngày của ông cha ta ra sao. Chương 4: “Sống dầu đèn, chết kèn trống” mang đến những hiểu biết đời sống tinh thần, tâm linh người Việt qua đồ thờ tự, qua giấy bút sách vở, đồ trang sức… Như bày tỏ của nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng thì động lực và những dẫn dắt ông thực hiện công trình đồ sộ này, thật là giản dị: “Thuở nhỏ khi sống ở Hà Tây, tôi thường ngắm nhìn những bà cụ bận váy sồi vuông, thắt bao ruột tượng xanh, yếm trắng và khoác bên ngoài áo cánh, đầu đội nón thúng, hông giắt xà tích, mà thấy rất ấn tượng. Các bà cụ ấy như một bảo tàng nhân học và văn hóa di động, mà mãi sau này tôi mới cảm thức được. Không chỉ là y phục, lời ăn tiếng nói, những truyện thơ Nôm thuộc làu, công cụ lao động sử dụng, hành vi ứng xử… những người bà của tôi có tất cả những cái mà có thể gọi là văn minh Việt Nam.” Nói về điều bình thường hẳn luôn là khó, vì ai cũng nghĩ biết cả rồi. Nhưng dưới con mắt của nhà nghiên cứu, với tất cả sự trân trọng văn hóa và con người (những con người bình thường vốn vắng bóng trong lịch sử)-công trình này mở ra những chuyện sinh động về đời sống người Việt ta suốt dặm dài từ tiền sơ sử đến trước thế kỷ XIX. “Tại sao người Việt ăn xong hay ngậm một chiếc tăm, tại sao trong hoàng cung đồ sộ lại không có lấy một cái phòng vệ sinh… đấy là cả những câu chuyện thú vị”. Một ngày bình thường của các tầng lớp sĩ-nông-công–thương ra sao, điều gì được tiếp nối, điều gì đã vắng bóng và điều gì là du nhập? Đến nay, ngoài việc những nông cụ biến mất trong đời sống, đi dần vào bảo tàng thì việc hình dung về sinh hoạt gắn với nông cụ đó càng khó khăn hơn. “Văn minh vật chất của người Việt” lưu giữ những điều ấy – những lao động hết sức bình thường nhưng là chất liệu quan trọng cho tiếp cận văn hóa, lịch sử. Việc cán mía, nấu mật chi tiết như thế này: “nông dân lắp máy cán mía bằng 2 quả lô gỗ, 1 con trâu, hoặc đôi trâu sẽ được mắc vào xà gắn với trục quay lô, khi trâu đi vòng tròn, 2 quả lô sẽ ép nước mía chảy vào nồi đựng. 2 chảo gang lớn được đặt gần đó để đun nước mía thành mật. Người ta đặt vào giữa chảo 1 cái lồng tre thủng 2 đầu, nước mía có sôi cũng chỉ trào lên miệng lồng tre rồi lại chảy xuống chảo…”. Rồi đến tục lệ cho trẻ con ăn 1 bát mật nóng hổi đầu tiên…, chuyện chế thành đường cát, đường phèn, kẹo. Khi dùng mật trong xây dựng, người ta thường đái vào đó một bãi để thợ khỏi ăn vụng… Những chi tiết dân gian không thể sống động hơn. Cũng như vậy, kể chuyện chiếc bánh xe, chiếc cối đá làm ra bao thức quà bánh ngon của người Việt…, Phan Cẩm Thượng khái quát thành cảm thức về vận động tròn mang đến cho người đọc những liên tưởng rộng, hấp dẫn. Thiết nghĩ, nhiều đồ vật bình dị được tái hiện từ tên gọi đến mô tả công năng thực sự có ý nghĩa với các bạn sinh viên, nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật. Như giỏ, nơm, trúm, đánh lớn, ngõ bàu, nong, nia, sàng, cào… không phải ai cũng phân biệt được tường tận, nhất là với người trẻ. Bên cạnh những câu chuyện, cuốn sách có hàng trăm hình vẽ, ảnh minh họa giúp người đọc dễ hình dung. Đặc biệt là hình ảnh về nhiều hiện vật đang nằm tại bảo tàng không phải lúc nào cũng có thể tiếp cận. Ngắm ảnh chú cò gỗ trên khung dệt của người Mường thấy cả đời sống tinh thần trong lao động sản xuất của đồng bào–một đời sống đầy mỹ cảm. Nhiều nhà văn hóa, nhà phê bình cho rằng công trình này của Phan Cẩm Thượng đã chọn lối tiếp cận trước nay chưa thấy ở Việt Nam. Cùng với đó là một niên biểu công phu ở phụ lục 1 trải suốt chiều dài lịch sử về văn minh vật chất của người Việt. Như vậy, có thể hiểu, bằng cách để đồ vật lên tiếng, tác giả xâu chuỗi một lịch sử sáng tạo của dân tộc ta theo cách rất cụ thể. Qua chuyện vì kèo trong kiến trúc gỗ Việt Nam, nhà nghiên cứu chia sẻ: “Tư tưởng cấu trúc phát triển rất mạnh mẽ trong mọi khoa chế tác đồ dùng Việt cổ, nó phô bày vẻ đẹp tự thân của đồ vật không cần trang trí…”. Rồi loại gạch vồ hút ẩm tốt để lát sân thì “dường như là một bí quyết, rất dầy, không bị mốc trong mưa nắng, để hàng ngàn năm không suy suyển”. Người dân tham quan các công trình tôn giáo vẫn thấy khu hậu cung và thượng điện thường rất tối. Phan Cẩm Thượng lý giải, nơi này vốn bày nhiều đồ thờ và tượng sơn son thếp vàng sẽ phản quang mạnh, tạo một thứ ánh sáng vàng son rực rỡ. Đồng thời, bóng tối và không khí hơi ẩm có tác dụng bảo quản tốt đồ gỗ phủ sơn truyền thống. “Đền Đa Hòa thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng vậy, gồm nhiều cổng trụ, tường ngăn, sân rộng, đường sâu, nhà bia rỗng, rồi mới vào điện thờ trong cùng gây một cảm giác rất sâu xa, hư tĩnh, không có thực thể. Cách thức này được mọi loại hình kiến trúc cổ sử dụng, tức là tạo các không gian bỏ ngỏ, không nhằm mục đích gì rõ rệt, tạo một không khí linh thiêng…”. Một cách tự nhiên, công trình còn trải rộng với câu chuyện sáng tạo vật chất ở nhiều dân tộc anh em, một cách tiếp cận mà các nhà dân tộc học chú trọng. Nghĩa là một bức tranh phong phú và đa sắc hơn về văn minh vật chất người Việt không chỉ nhìn từ đồng bằng, mà còn từ núi. Nhấn mạnh “mức độ nhân văn” (chứ không phải yếu tố kỹ thuật trong tam giác vật chất-kỹ thuật-văn minh), Phan Cẩm Thượng khẳng định “sáng tạo vật chất của người Việt hoàn toàn có thể tạo ra nền văn minh cho người Việt”. Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới tiêu chí những thành phố sáng tạo, thành phố đáng sống trên thế giới – nơi khoa học kỹ thuật chỉ là một yếu tố để phục vụ mục tiêu cao nhất là vì con người. Nhìn lại lịch sử sáng tạo vật chất trong đời sống hằng ngày của người Việt, nhà nghiên cứu suy tư: “Càng vào thời hiện đại, người ta càng lười suy nghĩ hơn về đồ vật (hay vật chất nói chung), đồ gì cũng được, ai sản xuất cũng được, miễn là tốt và giá rẻ… Dấu ấn dân tộc còn rất ít giá trị, và do đó tinh thần dân tộc trong một đồ vật cũng còn rất ít giá trị”. Dấu ấn dân tộc-điều này thực sự quan trọng. Trên tất cả những sáng tạo vật chất ấy lưu dấu hành trình vạn dặm của người Việt để thích nghi, phát triển, để không chỉ tồn tại mà còn vươn tới một đời sống sâu sắc về tinh thần. Vài nét khái quát, còn sự nhẩn nha để thấu hiểu hành trình ấy thuộc về bạn đọc. Và như Phan Cẩm Thượng mong mỏi thì: “Tổ tiên dạy tôi cách đọc một đồ vật mà nhìn ra cuộc sống của người sử dụng nó. Bạn đọc cũng sẽ có cách nhìn và hiểu riêng của mình, nếu có thể thì cùng nhau gìn giữ những gì dân tộc đã trải qua”.
Không kể buổi ra mắt lần đầu năm 2011 tại Yết Kiêu, ít năm sau, tôi tình cờ thấy lại công trình “Văn minh vật chất của người Việt” (Nhà xuất bản Tri Thức) được đặt tại nơi nghỉ dưỡng của Không gian văn hóa Mường, Hòa Bình . Đó là nơi tác giả, họa sĩ, nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng thường lui về nghiên cứu. Ấn tượng về cuốn sách vẫn luôn đặc biệt – nhẹ nhàng, sâu sắc như cách trò chuyện thường thấy của họa sĩ Phan Cẩm Thượng. Vậy nên, không bất ngờ khi “Văn minh vật chất của người Việt” bản in của nhà xuất bản Thế giới và ZenBooks năm 2018 vừa giành được giải B Giải thưởng sách quốc gia 2021. Bìa sách “Văn minh vật chất của người Việt” của nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng Cuốn sách rất dày, hơn 600 trang, được tái hiện dưới dạng những câu chuyện kể thủng thẳng, rủ rỉ, nằm trong 5 phần nội dung và 1 phần kết. Những chương ấy cũng đi từ khái quát tới cụ thể và từ những cụ thể lại đúc kết những điều về văn minh người Việt qua sáng tạo vật chất thường ngày. Quả là thường ngày, thân thuộc đến nỗi dễ bị quên lãng, xem thường như chuyện ăn uống, đi lại, lao động sản xuất, ma chay, nghệ thuật… Vậy nên, bạn đọc có thể đọc từ bất kỳ một chương nào đó mình quan tâm, chẳng hạn: Chương 2: “Từ bàn tay đến công cụ” với chuyện đồ gia dụng mây tre đan, đồ gỗ, đồ gốm và đồ kim khí… Hay chương 3: “Cơm tẻ là mẹ ruột” để biết đồ vật đã kể câu chuyện bữa cơm hằng ngày của ông cha ta ra sao. Chương 4: “Sống dầu đèn, chết kèn trống” mang đến những hiểu biết đời sống tinh thần, tâm linh người Việt qua đồ thờ tự, qua giấy bút sách vở, đồ trang sức… Như bày tỏ của nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng thì động lực và những dẫn dắt ông thực hiện công trình đồ sộ này, thật là giản dị: “Thuở nhỏ khi sống ở Hà Tây, tôi thường ngắm nhìn những bà cụ bận váy sồi vuông, thắt bao ruột tượng xanh, yếm trắng và khoác bên ngoài áo cánh, đầu đội nón thúng, hông giắt xà tích, mà thấy rất ấn tượng. Các bà cụ ấy như một bảo tàng nhân học và văn hóa di động, mà mãi sau này tôi mới cảm thức được. Không chỉ là y phục, lời ăn tiếng nói, những truyện thơ Nôm thuộc làu, công cụ lao động sử dụng, hành vi ứng xử… những người bà của tôi có tất cả những cái mà có thể gọi là văn minh Việt Nam.” Nói về điều bình thường hẳn luôn là khó, vì ai cũng nghĩ biết cả rồi. Nhưng dưới con mắt của nhà nghiên cứu, với tất cả sự trân trọng văn hóa và con người (những con người bình thường vốn vắng bóng trong lịch sử)-công trình này mở ra những chuyện sinh động về đời sống người Việt ta suốt dặm dài từ tiền sơ sử đến trước thế kỷ XIX. “Tại sao người Việt ăn xong hay ngậm một chiếc tăm, tại sao trong hoàng cung đồ sộ lại không có lấy một cái phòng vệ sinh… đấy là cả những câu chuyện thú vị”. Một ngày bình thường của các tầng lớp sĩ-nông-công–thương ra sao, điều gì được tiếp nối, điều gì đã vắng bóng và điều gì là du nhập? Đến nay, ngoài việc những nông cụ biến mất trong đời sống, đi dần vào bảo tàng thì việc hình dung về sinh hoạt gắn với nông cụ đó càng khó khăn hơn. “Văn minh vật chất của người Việt” lưu giữ những điều ấy – những lao động hết sức bình thường nhưng là chất liệu quan trọng cho tiếp cận văn hóa, lịch sử. Việc cán mía, nấu mật chi tiết như thế này: “nông dân lắp máy cán mía bằng 2 quả lô gỗ, 1 con trâu, hoặc đôi trâu sẽ được mắc vào xà gắn với trục quay lô, khi trâu đi vòng tròn, 2 quả lô sẽ ép nước mía chảy vào nồi đựng. 2 chảo gang lớn được đặt gần đó để đun nước mía thành mật. Người ta đặt vào giữa chảo 1 cái lồng tre thủng 2 đầu, nước mía có sôi cũng chỉ trào lên miệng lồng tre rồi lại chảy xuống chảo…”. Rồi đến tục lệ cho trẻ con ăn 1 bát mật nóng hổi đầu tiên…, chuyện chế thành đường cát, đường phèn, kẹo. Khi dùng mật trong xây dựng, người ta thường đái vào đó một bãi để thợ khỏi ăn vụng… Những chi tiết dân gian không thể sống động hơn. Cũng như vậy, kể chuyện chiếc bánh xe, chiếc cối đá làm ra bao thức quà bánh ngon của người Việt…, Phan Cẩm Thượng khái quát thành cảm thức về vận động tròn mang đến cho người đọc những liên tưởng rộng, hấp dẫn. Thiết nghĩ, nhiều đồ vật bình dị được tái hiện từ tên gọi đến mô tả công năng thực sự có ý nghĩa với các bạn sinh viên, nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật. Như giỏ, nơm, trúm, đánh lớn, ngõ bàu, nong, nia, sàng, cào… không phải ai cũng phân biệt được tường tận, nhất là với người trẻ. Bên cạnh những câu chuyện, cuốn sách có hàng trăm hình vẽ, ảnh minh họa giúp người đọc dễ hình dung. Đặc biệt là hình ảnh về nhiều hiện vật đang nằm tại bảo tàng không phải lúc nào cũng có thể tiếp cận. Ngắm ảnh chú cò gỗ trên khung dệt của người Mường thấy cả đời sống tinh thần trong lao động sản xuất của đồng bào–một đời sống đầy mỹ cảm. Nhiều nhà văn hóa, nhà phê bình cho rằng công trình này của Phan Cẩm Thượng đã chọn lối tiếp cận trước nay chưa thấy ở Việt Nam. Cùng với đó là một niên biểu công phu ở phụ lục 1 trải suốt chiều dài lịch sử về văn minh vật chất của người Việt. Như vậy, có thể hiểu, bằng cách để đồ vật lên tiếng, tác giả xâu chuỗi một lịch sử sáng tạo của dân tộc ta theo cách rất cụ thể. Qua chuyện vì kèo trong kiến trúc gỗ Việt Nam, nhà nghiên cứu chia sẻ: “Tư tưởng cấu trúc phát triển rất mạnh mẽ trong mọi khoa chế tác đồ dùng Việt cổ, nó phô bày vẻ đẹp tự thân của đồ vật không cần trang trí…”. Rồi loại gạch vồ hút ẩm tốt để lát sân thì “dường như là một bí quyết, rất dầy, không bị mốc trong mưa nắng, để hàng ngàn năm không suy suyển”. Người dân tham quan các công trình tôn giáo vẫn thấy khu hậu cung và thượng điện thường rất tối. Phan Cẩm Thượng lý giải, nơi này vốn bày nhiều đồ thờ và tượng sơn son thếp vàng sẽ phản quang mạnh, tạo một thứ ánh sáng vàng son rực rỡ. Đồng thời, bóng tối và không khí hơi ẩm có tác dụng bảo quản tốt đồ gỗ phủ sơn truyền thống. “Đền Đa Hòa thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng vậy, gồm nhiều cổng trụ, tường ngăn, sân rộng, đường sâu, nhà bia rỗng, rồi mới vào điện thờ trong cùng gây một cảm giác rất sâu xa, hư tĩnh, không có thực thể. Cách thức này được mọi loại hình kiến trúc cổ sử dụng, tức là tạo các không gian bỏ ngỏ, không nhằm mục đích gì rõ rệt, tạo một không khí linh thiêng…”. Một cách tự nhiên, công trình còn trải rộng với câu chuyện sáng tạo vật chất ở nhiều dân tộc anh em, một cách tiếp cận mà các nhà dân tộc học chú trọng. Nghĩa là một bức tranh phong phú và đa sắc hơn về văn minh vật chất người Việt không chỉ nhìn từ đồng bằng, mà còn từ núi. Nhấn mạnh “mức độ nhân văn” (chứ không phải yếu tố kỹ thuật trong tam giác vật chất-kỹ thuật-văn minh), Phan Cẩm Thượng khẳng định “sáng tạo vật chất của người Việt hoàn toàn có thể tạo ra nền văn minh cho người Việt”. Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới tiêu chí những thành phố sáng tạo, thành phố đáng sống trên thế giới – nơi khoa học kỹ thuật chỉ là một yếu tố để phục vụ mục tiêu cao nhất là vì con người. Nhìn lại lịch sử sáng tạo vật chất trong đời sống hằng ngày của người Việt, nhà nghiên cứu suy tư: “Càng vào thời hiện đại, người ta càng lười suy nghĩ hơn về đồ vật (hay vật chất nói chung), đồ gì cũng được, ai sản xuất cũng được, miễn là tốt và giá rẻ… Dấu ấn dân tộc còn rất ít giá trị, và do đó tinh thần dân tộc trong một đồ vật cũng còn rất ít giá trị”. Dấu ấn dân tộc-điều này thực sự quan trọng. Trên tất cả những sáng tạo vật chất ấy lưu dấu hành trình vạn dặm của người Việt để thích nghi, phát triển, để không chỉ tồn tại mà còn vươn tới một đời sống sâu sắc về tinh thần. Vài nét khái quát, còn sự nhẩn nha để thấu hiểu hành trình ấy thuộc về bạn đọc. Và như Phan Cẩm Thượng mong mỏi thì: “Tổ tiên dạy tôi cách đọc một đồ vật mà nhìn ra cuộc sống của người sử dụng nó. Bạn đọc cũng sẽ có cách nhìn và hiểu riêng của mình, nếu có thể thì cùng nhau gìn giữ những gì dân tộc đã trải qua”.
Chiều 10.1, tại Duyệt Thị Đường, Đại nội Huế (Thừa Thiên-Huế), TS Amandine Dabat, nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, hậu duệ đời thứ 5 của vua Hàm Nghi , đã có buổi giới thiệu về cuộc đời và nghệ thuật của vua Hàm Nghi. Cơ duyên để bà Amandine Dabat trở về cố cung, nơi mà vua Hàm Nghi (1871 – 1944), vị vua thứ 8 của triều Nguyễn đăng cơ, để giới thiệu cuộc đời và nghệ thuật của nhà vua là từ kết nối nhân chuyến công tác của tỉnh Thừa Thiên-Huế tại Pháp vào cuối tháng 8.2022. Ông Hoàng Việt Trung, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô (BTDTCĐ) Huế, cho biết chuyến công tác nhằm tìm hiểu về triển lãm các tác phẩm nghệ thuật của vua Hàm Nghi kết hợp tìm kiếm các nguồn tư liệu lịch sử liên quan của triều Nguyễn tại Paris và Nice (Pháp). Tại đây, đoàn gặp bà Amandine Dabat, hậu duệ của vua Hàm Nghi, cùng với các kiều bào, các nhà sưu tập tư nhân. Họ đã sưu tầm, lưu trữ nhiều tài liệu gốc về di sản cung đình Huế thuộc triều Nguyễn; đặc biệt là tư liệu về cuộc đời và các tác phẩm nghệ thuật của vua Hàm Nghi, trở thành người đứng đầu phong trào Cần Vương rồi bị Pháp bắt đưa đi đày ở Algeria (châu Phi) đến cuối đời… TS Amandine Dabat giới thiệu cuộc đời nghệ thuật của vua Hàm Nghi tại Duyệt Thị Đường, Đại nội Huế. B.N.L Trong dịp gặp gỡ đó, đại diện hậu duệ vua Hàm Nghi đã hiến tặng Trung tâm BTDTCĐ Huế bức tranh không đề của vua Hàm Nghi vẽ trong thời gian bị lưu đày tại Algeria, do hậu duệ của vua sống tại Pháp lưu trữ. Hiện bức tranh quý này đã chuyển về VN và lưu giữ tại Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế. Điều thú vị, bà Amandine Dabat không chỉ là chắt ngoại của vua Hàm Nghi mà còn là nhà nghiên cứu nghệ thuật, từng làm luận án tiến sĩ về cuộc đời làm nghệ thuật của vua Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi (1871 – 1944), tên thật Nguyễn Phúc Ưng Lịch, là vị hoàng đế thứ 8 của triều Nguyễn. Ông được các phụ chính đại thần chống Pháp là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi ngày 2.8.1884, khi mới 13 tuổi. Sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa ông ra Tân Sở ( Quảng Trị ) và phát chiếu Cần Vương chống thực dân Pháp. Phong trào Cần Vương kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, giúp nước kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (Algeria) cho đến khi qua đời tại đây năm 1944. Tại buổi giới thiệu, TS Amandine Dabat bày tỏ xúc động khi được làm diễn giả tại nhà hát Duyệt Thị Đường để giới thiệu về cuộc đời nghệ thuật của vua Hàm Nghi. TS Amandine Dabat cho biết, khi bắt tay vào nghiên cứu để làm luận án tiến sĩ, bà đã tiếp cận được hơn 2.500 tài liệu quý gồm các thư từ, tranh, ảnh của vua Hàm Nghi từ gia đình. Nguồn tư liệu này giúp hé mở nhiều chi tiết về cuộc đời vị hoàng đế nghệ sĩ bị lưu đày ít người biết đến. Ví dụ, chi tiết khi nhà vua bị bắt không phải do những người thân cận phản bội mà là do mật thám Pháp đã lần theo dấu tích từ vị công chúa được mẹ nhà vua cử theo hầu nhà vua để tìm ra nơi ở nhà vua. Khoảng thời gian những năm đầu sang Algeria, nhà vua không chịu “hợp tác” học tiếng Pháp. Giữa chính quyền Pháp với chính quyền bảo hộ tại Algeria cũng xảy ra những mâu thuẫn, khi chính quyền Pháp coi nhà vua là một đối tượng nguy hiểm thì ngược lại chính quyền bảo hộ ở Algeria lại nhận thấy nhà vua là một người hiền lành, gần gũi, dễ mến nên đã nới lỏng kiểm soát đối với ông. Ông Hoàng Việt Trung với bức tranh do hậu duệ vua Hàm Nghi tại Pháp tặng cho Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế. NVCC Từ nguồn tư liệu này, qua lời của người phiên dịch tên Trần Bình Thanh cho thấy nhà vua đặc biệt có năng khiếu hội họa, nhà vua đã tiếp cận với họa sĩ Marius Reynaud (1860 – 1935). Từ đó, vị vua lưu đày được hướng dẫn tiếp thu hội họa phương Tây. Cùng ngày, tại nhà Tế Tửu – Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế khai mạc không gian triển lãm vua Hàm Nghi, giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp và di sản nghệ thuật của vị vua yêu nước, một nghệ sĩ tài hoa. Triển lãm giới thiệu đến công chúng nhiều hình ảnh khác về cuộc đời của vua Hàm Nghi từ khi lên ngôi, giai đoạn chống Pháp, giai đoạn lưu đày và bản sao 31 tác phẩm tranh, tượng do nhà vua sáng tác ở Algeria. Bùi Ngọc Long
On the afternoon of January 10, at Duyet Thi Duong, Hue Citadel (Thua Thien-Hue), Dr. Amandine Dabat, art history researcher, 5th generation descendant of King Ham Nghi , there was an introduction to the life and art of King Ham Nghi. The opportunity for Ms. Amandine Dabat to return to the ancient palace, where King Ham Nghi (1871 - 1944), the 8th king of the Nguyen Dynasty, was crowned, to introduce the king's life and art was from the connection on the occasion of the visit. work of Thua Thien Hue province in France at the end of August 2022. Mr. Hoang Viet Trung, Director of Hue Monuments Conservation Center (BTDTCD), said the business trip aimed to learn about the exhibition of King Ham Nghi's artworks combined with searching for historical sources. related to the Nguyen Dynasty in Paris and Nice (France). Here, the group met Ms. Amandine Dabat, a descendant of King Ham Nghi, along with overseas Vietnamese and private collectors. They have collected and archived many original documents about Hue royal heritage of the Nguyen Dynasty; especially documents about the life and artistic works of King Ham Nghi, who became the head of the Can Vuong movement and was then captured by the French and exiled to Algeria (Africa) for the rest of his life... Dr. Amandine Dabat introduces the artistic life of King Ham Nghi at Duyet Thi Duong, Hue Citadel. B.N.L During that meeting, the representative of King Ham Nghi's descendants donated to the Hue Community Conservation Center an untitled painting of King Ham Nghi painted during his exile in Algeria, stored by the king's descendants living in France. Currently, this precious painting has been transferred to Vietnam and kept at the Hue Museum of Royal Antiquities. Interestingly, Ms. Amandine Dabat is not only the great-granddaughter of King Ham Nghi but also an art researcher who wrote a doctoral thesis on the artistic life of King Ham Nghi. King Ham Nghi (1871 - 1944), real name Nguyen Phuc Ung Lich, was the 8th emperor of the Nguyen Dynasty. He was brought to the throne on August 2, 1884, when he was only 13 years old, by the anti-French ministers Nguyen Van Tuong and Ton That Thuyet. After the counter-attack at Hue capital failed in 1885, Ton That Thuyet sent him to Tan So ( Quang Tri ) and issued the Can Vuong edict against the French colonialists. The Can Vuong movement calling on writers and martyrs to help the king and the country lasted until 1888, when Ham Nghi was arrested. After that, he was buried in Alger (Algeria) until his death here in 1944. At the introduction, Dr. Amandine Dabat expressed her emotion when being a speaker at Duyet Thi Duong theater to introduce the artistic life of King Ham Nghi. Dr. Amandine Dabat said that when she began researching for her doctoral thesis, she had access to more than 2,500 precious documents including letters, paintings, and photos of King Ham Nghi from his family. This source of information helps reveal many details about the life of the little-known exiled artist emperor. For example, the details when the king was arrested were not because of betrayal by close people, but because French spies tracked down the princess sent by the king's mother to serve the king to find out the king's whereabouts. . During the first years of his stay in Algeria, the king refused to "cooperate" in learning French. There were also conflicts between the French government and the protectorate in Algeria. While the French government considered the king a dangerous subject, the protectorate in Algeria saw the king as a gentle person. , close and likable, loosened control over him. Mr. Hoang Viet Trung with a painting donated by a descendant of King Ham Nghi in France to the Hue Monuments Conservation Center. NVCC From this source of information, through the words of the translator named Tran Binh Thanh, it was shown that the king had a special talent for painting, so the king approached artist Marius Reynaud (1860 - 1935). From then on, the exiled king was guided to absorb Western painting. On the same day, at Te Tuu House - Hue Museum of Royal Antiquities opened the exhibition space of King Ham Nghi, introducing the life, career and artistic heritage of the patriotic king, a talented artist. The exhibition introduces to the public many other images of King Ham Nghi's life from the time he ascended the throne, the period against the French, the period of exile and copies of 31 works of paintings and statues created by the king in Algeria. Bui Ngoc Long
Sáng 13/1, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tổng kết ngành Nông nghiệp do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Lê Minh Hoan. Theo thống kê, năm 2022 giá trị gia tăng toàn ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (GDP) đạt 3,36%, là mức tăng cao nhất trong nhiều năm gần đây; trong đó, nông nghiệp tăng 2,88% (trồng trọt tăng 1,51%, chăn nuôi tăng 5,93%); thủy sản tăng 4,43%, lâm nghiệp tăng 6,13%; tỷ lệ che phủ rừng trên 42,02%; tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 73%. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản toàn ngành đạt 53,22 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm 2021; thặng dư thương mại trên 8,5 tỷ USD, chiếm hơn 75% tổng giá trị xuất siêu của toàn nền kinh tế. Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Hội nghị Tổng kết ngành Nông nghiệp. Năm 2022, ngành Nông nghiệp và PTNT với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, thực hiện đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo các giải pháp và việc “đổi mới tư duy” để vượt qua khó khăn, thách thức từ các “tình huống bất bình thường” của thực tiễn sản xuất, kinh doanh nhằm đạt các mục tiêu phát triển. Đã có nhiều chuyển biến thực tiễn về ‘tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp’ với sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở; trong đó, nổi bật là việc chuyển đổi nhiều diện tích lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn, hay như việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ để tăng sản lượng, chất lượng, hiệu quả trong nuôi trồng thủy sản; các quy trình sản xuất hữu cơ, giảm thâm dụng tài nguyên và vật tư đầu vào được áp dụng và nhiều mô hình nông nghiệp sinh thái, xanh, hữu cơ được phát triển, nhân rộng. Cùng với đó, ngành nông nghiệp đã chủ động, tích cực, sáng tạo trong công tác tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương quyết liệt thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, lưu thông, tiêu thụ và xuất khẩu NLTS. Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP, Bộ ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện. Năm 2022 đã hoàn thành 100% các đề án và 229/229 nhiệm vụ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao. Công tác xây dựng thể chế; cải cách hành chính mà trọng tâm là cắt giảm thủ tục hành chính, kiểm tra chuyên ngành, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, tạo sự chuyển biến tích cực trong giải quyết thủ tục; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh ngành, sản phẩm. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại mở cửa thị trường để duy trì, mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là đối với các sản phẩm chủ lực (gạo, trái cây, thủy sản, gỗ…) và tại các thị trường trọng điểm; các hoạt động xúc tiến thương mại nội địa được đẩy mạnh, phối hợp tổ chức nhiều hoạt động kết nối cung cầu, liên kết chuỗi giá trị nông sản. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu NLTS cao kỷ lục trên 53,2 tỷ USD, vượt xa chỉ tiêu Chính phủ giao. Công tác thông tin tuyên truyền được chú trọng để nhanh chóng chuyển đổi sang tư duy kinh tế nông nghiệp, kịp thời truyền tải đến cộng đồng các kết quả chỉ đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lãnh đạo Bộ trong chỉ đạo, điều hành, vừa phòng chống dịch, vừa duy trì sản xuất, đảm bảo nguồn cung lương thực, thực phẩm; hỗ trợ tiêu thụ, xuất khẩu nông sản. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy và mô hình tăng trưởng theo chất lượng, hiệu quả. Năm 2023 dự báo nền kinh tế tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như: Áp lực lạm phát và chi phí sản xuất tăng mạnh; biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét, cực đoan hơn; sự thay đổi nhu cầu và phương thức tiêu dùng mới; đặc biệt là tác động từ xung đột Nga – Ukraine… Mặc dù vậy, ngành Nông nghiệp và PTNT vẫn đặt mục tiêu phát triển với các chỉ tiêu, như: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,0%; Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản là 54 tỷ USD; Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới 78%; ít nhất 270 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; Tỷ lệ che phủ rừng duy trì ổn định 42%, nâng cao chất lượng rừng; Tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch hợp quy chuẩn 57%; Tỷ lệ số xã đạt tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm 80%. Để đạt được những mục tiêu đề ra, toàn ngành Nông nghiệp, nông thôn tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại theo hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, hiện đại, kinh tế tuần hoàn… Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh và biến động thị trường để gia tăng xuất khẩu, tận dụng tốt cơ hội từ các Hiệp định EVFTA, CTPPP cho hàng nông sản Việt Nam. Trong đó, các nhiệm vụ và các giải pháp chính là kiến tạo không gian phát triển và các động lực tăng trưởng Ngành. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng hàng nông sản và hiệu quả sản xuất, kinh doanh; phấn đấu vượt mục tiêu tăng trưởng của năm ở mức cao nhất. Phát triển mạnh thị trường tiêu thụ nông lâm thủy sản cả trong nước và xuất khẩu. Xây dựng chuỗi giá trị ngành hàng từng loại nông sản, gắn với phát triển hạ tầng logistics nông nghiệp, nông thôn, đảm bảo chuỗi cung ứng thị trường trong nước. Hội nghị tổng kết ngành nông nghiệp. Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp; các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối hệ thống tiêu thụ toàn cầu. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ sạch vào sản xuất; phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; chủ động hội nhập quốc tế. Phát triển nông thôn, trọng tâm là thực hiện hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 gắn với phát triển kinh tế nông thôn theo hướng đi vào chiều sâu, đảm bảo chất lượng và bền vững, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn. Phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và quản lý hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản, bảo vệ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thủy lợi và phòng chống thiên tai./. Vũ Khuyên
On the morning of January 13, Prime Minister Pham Minh Chinh attended and gave a directive speech at the Agriculture Sector Summary Conference organized by the Ministry of Agriculture and Rural Development under the chairmanship of Minister Le Minh Hoan. According to statistics, in 2022 the added value of the entire Agriculture and Rural Development sector (GDP) will reach 3.36%, the highest increase in recent years; Of which, agriculture increased by 2.88% (cultivation increased by 1.51%, livestock increased by 5.93%); fisheries increased by 4.43%, forestry increased by 6.13%; Forest coverage rate is over 42.02%; The rate of communes meeting new rural standards is over 73%. The entire industry's export turnover of agricultural, forestry and fishery products reached 53.22 billion USD, an increase of 9.3% compared to 2021; The trade surplus was over 8.5 billion USD, accounting for more than 75% of the total trade surplus of the entire economy. Prime Minister Pham Minh Chinh attended the Agriculture Sector Summary Conference. In 2022, the Agriculture and Rural Development sector, with high determination and great efforts, will implement synchronously, flexibly and creatively solutions and "innovative thinking" to overcome difficulties and challenges from "situations". "abnormal situations" of production and business practices to achieve development goals. There have been many practical changes in 'agricultural production thinking to agricultural economic thinking' with the active participation of the entire political system from the Central to the grassroots; Among them, the highlight is the conversion of many ineffective rice areas to other crops with higher economic value, or the promotion of the application of science and technology to increase output, quality and efficiency in rice production. aquaculture; Organic production processes, reducing the use of resources and input materials, are applied and many ecological, green, and organic agricultural models are developed and replicated. Along with that, the agricultural sector has been proactive, positive and creative in advising the Government and Prime Minister; Coordinate with ministries, branches and localities to drastically and synchronously implement tasks and solutions to remove difficulties in the production, circulation, consumption and export of AFF resources. Immediately after the Government issued Resolution Không. 01/NQ-CP, the Ministry issued an Action Plan for implementation. In 2022, 100% of projects and 229/229 tasks assigned by the Government and Prime Minister have been completed. Institutional building work; Administrative reform with a focus on reducing administrative procedures, specialized inspection, and improving the investment and business environment continues to receive attention and guidance, creating positive changes in handling procedures; contributing to improving industry and product competitiveness. Promote trade promotion to open markets to maintain, expand and promote exports, especially for key products (rice, fruit, seafood, wood...) and in other markets. key; Domestic trade promotion activities have been promoted, many activities have been coordinated to connect supply and demand, and link the agricultural value chain. Therefore, AFF export turnover is at a record high of over 53.2 billion USD, far exceeding the target assigned by the Government. Information and propaganda work is focused on quickly converting to agricultural economic thinking, promptly conveying to the community the results of drastic direction and management of the Government, Prime Minister, and Ministry leaders. in directing and operating, both preventing epidemics and maintaining production, ensuring food supply; Support consumption and export of agricultural products. Continue to promote innovation in thinking and growth models based on quality and efficiency. In 2023, it is forecast that the economy will continue to face many difficulties and challenges, such as: Inflationary pressure and sharp increase in production costs; Climate change is becoming more obvious and more extreme; changing needs and new consumption methods; especially the impact from the Russia - Ukraine conflict... However, the Agriculture and Rural Development sector still sets development goals with targets such as: GDP growth rate of the entire industry reaches 3.0%; Total export turnover of agricultural, forestry and fishery products is 54 billion USD; The rate of communes meeting new rural standards is 78%; at least 270 district-level units meet/complete the task of building new rural areas; The forest cover rate remains stable at 42%, improving forest quality; The proportion of rural households using clean water that meets standards is 57%; The rate of communes meeting environmental and food safety criteria is 80%. To achieve the set goals, the entire Agriculture and Rural Sector continues to promote restructuring towards developing ecological agriculture, modernity, circular economy... Focusing on removing difficulties and obstacles, Minimize the negative impacts of epidemics and market fluctuations to increase exports and take advantage of opportunities from the EVFTA and CTPPP Agreements for Vietnamese agricultural products. In particular, the main tasks and solutions are to create development space and growth drivers for the industry. Continue to promote industry restructuring, improve productivity, quality of agricultural products and production and business efficiency; strive to exceed the year's growth target at the highest level. Strongly develop agricultural, forestry and fishery product consumption markets both domestically and for export. Building a value chain for each type of agricultural product, associated with the development of agricultural and rural logistics infrastructure, ensuring the domestic market supply chain. Conference summarizing the agricultural sector. Innovate and develop forms of production and business organization in agriculture; forms of cooperation and linkage in production and consumption of agricultural products along the value chain, connecting the global consumption system. Promote research, transfer and application of science and technology, especially high technology and clean technology, into production; develop and improve the quality of human resources; proactively integrate internationally. Rural development, the focus is on effectively implementing the National Target Program on building new rural areas for the period 2021 - 2025 associated with rural economic development in an in-depth direction, ensuring quality and sustainability, contributing to preserve and promote the nation's good cultural values ​​and improve the material and spiritual life of rural people. Develop agricultural and rural infrastructure and effectively manage investment capital for basic construction, protect and improve the quality and efficiency of irrigation work and natural disaster prevention./. Vu Khuyen
Trong triển lãm Thưởng phạt: Chuyện xưa chưa cũ, có nhiều câu chuyện về sự công minh chốn quan trường, hoặc nghi lễ của triều đại nhà Nguyễn. Khai mạc sáng 11.1, triển lãm Thưởng phạt: Chuyện xưa chưa cũ do Trung tâm lưu trữ quốc gia I ( Hà Nội ) thực hiện trưng bày 80 văn bản cho thấy những quy tắc thưởng phạt dưới thời Nguyễn. Trong số này có nhiều câu chuyện thú vị. “Triển lãm giới thiệu đến đông đảo công chúng 80 văn bản đặc sắc được lựa chọn từ khối Châu bản triều Nguyễn về chủ đề thưởng – phạt dưới triều Nguyễn (1802 – 1945). Đây là những văn bản lần đầu tiên được công bố, giới thiệu rộng rãi đến công chúng”, bà Nguyễn Thu Hoài, Phó giám đốc Trung tâm lưu trữ quốc gia I, cho biết. Tiền Thành Thái Thông Bảo có khắc thơ dùng để thưởng. NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN Theo tư liệu triển lãm, lệ nghỉ Tết Nguyên đán được vua Tự Đức phê duyệt từ năm 1874. Điều này còn lưu lại bằng bút phê của nhà vua trên bản Tấu của Bộ Công. Theo đó, mọi người nghỉ từ 28 tháng chạp đến mùng 8 tháng giêng mới làm việc, để binh lính thợ thuyền đều được nghỉ ngơi. Nhà vua cũng cho ngoại lệ, nếu có công việc khẩn cấp không thể hoãn thì xin riêng, vẫn cho làm việc. Về việc thưởng, một tư liệu khác cho thấy mỗi năm, nhà vua đều có quà thưởng cho quan lại. Thông thường đó là khăn đóng áo dài hoặc vải vóc. Những món quà dịp tết này được trao bằng nghi thức long trọng. Đó là đi trước có một người thừa hành lệnh và theo sau có người mang lọng che. Chiếc lọng ở đây không phải để che nắng mưa cho món quà mà để tăng phần uy nghi cho vật phẩm triều đình này. Bản thân vật phẩm quà tặng có khi chỉ là một trái lê. Một văn bản khác của Bộ Hộ dưới triều Minh Mạng vào năm 1826 cũng cho biết đầy đủ về việc ban thưởng cho quan lại nhân Tết Nguyên đán. Văn bản có đoạn: “Tết Nguyên đán sắp tới, trẫm sẽ ăn tết cùng các khanh. Ngày hôm đó, truyền ban yến tiệc một bữa và tùy theo thứ bậc mà ban thưởng bạc. Hoàng tử và chư công, mỗi người thưởng 20 lạng; quan văn, quan võ hàm chánh nhất phẩm, mỗi người 12 lạng; tòng nhất phẩm 10 lạng; tòng tam phẩm 4 lạng; chánh tứ phẩm 3 lạng. Thị nội, đội trưởng, suất đội, cai đội… đều được thưởng mỗi người 1 lạng và đều cho dự tiệc”. Cố GS Đỗ Văn Ninh (Viện Khảo cổ học) sinh thời cho rằng vua Minh Mạng chính là người cho đúc những đồng tiền thưởng có ảnh hưởng tới việc đúc tiền của các vua Nguyễn sau đó. Bản tấu của Bộ Binh lên vua Tự Đức về việc khen thưởng cho quân sĩ đánh phỉ thắng lợi. CHỤP MÀN HÌNH Trong triển lãm, có thể thấy quan điểm thưởng phạt rõ ràng của các vua triều Nguyễn. Trong số này, “tuyên ngôn” thưởng phạt của vua Minh Mạng được đưa ra trưng bày. Ông cho rằng: “Phân biệt khen thưởng, để tỏ rõ tấm lòng của trẫm luôn nghĩ đến các quan binh phụng sự cần lao”. Theo bà Nguyễn Thu Hoài: “Có thể thấy các hoàng đế đều thể hiện rõ tư tưởng về việc thưởng – phạt nhằm mục đích: thưởng để khuyến khích – phạt để răn đe. Từ đó “người có công phấn khởi mà người có tội biết răn chừa” như lời hoàng đế Minh Mạng. Bên cạnh đó, việc thưởng phạt hợp lý cũng thể hiện đất nước có công bằng, có kỷ cương. Tiền đúc để thưởng dưới triều vua Minh Mạng.T.L Cũng theo bà Hoài, Châu bản triều Nguyễn cho thấy việc ra quyết định khen thưởng hay xử phạt của triều đình dựa vào kết quả thực thi nhiệm vụ. Đối với quan lại, triều đình thực hiện khảo khóa. Kết quả khảo khóa được chia các hạng ưu, bình, thứ, liệt. Trên cơ sở này, triều đình quyết định việc thăng, giáng, lưu. Đô sát viện là cơ quan được thành lập để giám sát quá trình thực thi công vụ của quan lại, qua đó hạn chế lạm quyền, và sai phạm. Đối với quan lại, việc ban thưởng thường được thực hiện bằng các hình thức: thăng chức; thưởng vật chất (tiền bạc, mũ áo…); cấp kỷ, quân công, trác dị. Châu bản còn cho thấy đối với quan viên, ban thưởng người có công trong lĩnh vực quân sự chiếm tỷ lệ lớn, tiếp đến là ban thưởng người hoàn thành tốt các công việc thường ngày. Phân biệt khen thưởng, để tỏ rõ tấm lòng của trẫm luôn nghĩ đến các quan binh phụng sự cần lao. Lời phủ dụ của vua Minh Mạng trưng bày trong triển lãm Đối với người dân, việc ban thưởng thường dành cho những người đạt tiêu chuẩn về phẩm giá đạo đức như trung, trinh, hiếu, tiết, nghĩa… Bên cạnh đó, những người sống thọ cũng được triều đình đề cao và được gia ân ban thưởng. Hình thức ban thưởng thường là thưởng vật chất (tiền bạc, vải vóc…), ban biển ngạch. Trong các văn bản về ban thưởng dưới triều Nguyễn, số lượng văn bản triều Tự Đức chiếm tỷ lệ lớn. Trong khi đó, nhiều văn bản trong Châu bản triều Nguyễn cho thấy hình thức phạt tiền đối với quan lại thường dựa trên lương bổng. Số tiền phạt sẽ đem sung công. Hình phạt ngũ hình (xuy hình, trượng hình, đồ hình, lưu hình, tử hình) mang tính chất cảnh cáo, răn đe. Đặc biệt, với tội tham nhũng, các hoàng đế triều Nguyễn kiên quyết trừng trị nặng.
In the exhibition Rewards and Punishments: Stories from the past are not old, there are many stories about the justice of officials, or the rituals of the Nguyen Dynasty. Opening on the morning of January 11, the exhibition Rewards and Punishments: Stories of the past are not old by the National Archives Center I ( Hanoi ) displays 80 documents showing the rules of reward and punishment under the Nguyen Dynasty. Among these there are many interesting stories. “The exhibition introduces to the public 80 unique documents selected from the Nguyen Dynasty's Imperial Records on the topic of rewards and punishments under the Nguyen Dynasty (1802 - 1945). These are documents that have been published and widely introduced to the public for the first time," said Ms. Nguyen Thu Hoai, Deputy Director of National Archives Center I. Tien Thanh Thai Thong Bao has engraved poems used as rewards. NGUYEN DINH CHIEN According to exhibition materials, the Lunar New Year holiday is okay King Tu Duc approved since 1874. This is still preserved in the king's pen on the Tau version of the Ministry of Public Works. Accordingly, everyone takes a break from December 28 to January 8 before working, so that all soldiers and workers can rest. The king also made an exception, if there was urgent work that could not be postponed, he could ask privately and still let him work. Regarding rewards, another document shows that every year, the king gives rewards to mandarins. Usually it is a turban or fabric. These Tet gifts are given in a solemn ceremony. That is, there is one person in front who carries out orders and behind there is someone carrying a parasol. The parasol here is not to protect the gift from sun and rain, but to increase the majesty of this court item. The gift item itself may just be a pear. Another document of the Ministry of Households under the Minh Mang dynasty in 1826 also fully informed about the rewards given to mandarins on the occasion of Lunar New Year. The document reads: "The Lunar New Year is coming, I will celebrate Tet with you guys. That day, a banquet was ordered and silver rewards were given depending on rank. The prince and his lords each received a reward of 20 taels; civil mandarins and military mandarins with the highest rank, each person 12 taels; 10 ounces of first class obedience; 4 ounces of three products; four main products 3 ounces. The housekeeper, captain, captain, captain... were all rewarded with 1 tael each and allowed to attend the party." The late Professor Do Van Ninh (Institute of Archeology) at his time believed that King Minh Mang was the one who minted the bonus coins, which influenced the minting of coins by subsequent Nguyen kings. The Ministry of Infantry's report to King Tu Duc about rewarding soldiers who successfully fought bandits. SCREEN CAPTURE In the exhibition, we can see the clear view of reward and punishment of the Nguyen Dynasty kings. Among these, King Minh Mang's "declaration" of rewards and punishments was put on display. He said: "Distinguishing between rewards and rewards is to show that I always think of the officers and soldiers who serve hard." According to Ms. Nguyen Thu Hoai: "It can be seen that the emperors clearly expressed the ideology of reward - punishment for the purpose: reward to encourage - punishment to deter. From then on, "people with meritorious deeds are excited, but sinners know how to be careful" as Emperor Minh Mang said. Besides, reasonable rewards and punishments also show that the country is fair and disciplined. Coins minted as rewards during the reign of King Minh Mang.T.L Also according to Ms. Hoai, the Imperial Records of the Nguyen Dynasty show that the court's decision to reward or punish is based on the results of performing tasks. For mandarins, the court conducted examinations. The results of the course examination are divided into excellent, average, minor, and ranked categories. On this basis, the court decides on promotion, demotion, and retention. The Police Department is an agency established to supervise the performance of official duties by mandarins, thereby limiting abuse of power and violations. For mandarins, rewards are often given in the following forms: promotion; material rewards (money, hats, etc.); Classy, ​​military, eccentric. The records also show that for officials, rewards for people with meritorious service in the military sector account for a large proportion, followed by rewards for those who complete daily tasks well. Distinguishing rewards, to show that I always think of the officers and soldiers who serve diligently. King Minh Mang's edict is displayed in the exhibition For the people, rewards are usually given to those who meet the standards of moral dignity such as loyalty, chastity, filial piety, chastity, righteousness... Besides, those who live a long life are also honored and favored by the court. reward. The form of reward is usually material rewards (money, cloth, etc.), and rank plaques. Among the documents on rewards under the Nguyen Dynasty, the number of documents from the Tu Duc Dynasty accounts for a large proportion. Meanwhile, many texts in Imperial records of the Nguyen Dynasty shows that fines for mandarins are often based on salary. The fine amount will be confiscated. The five penalties (imprisonment, execution, execution, imprisonment, death) have a warning and deterrent nature. In particular, for the crime of corruption, the Nguyen Dynasty emperors were determined to punish severely.
Trưởng đoàn Nualphan Lamsam cho rằng trận chung kết AFF Cup 2022 giữa đội tuyển Việt Nam và đội tuyển Thái Lan mang ý nghĩa đặc biệt. “ Tôi cảm thấy vui vì được quay lại Việt Nam. Trận đấu sắp tới là trận chung kết trong mơ. Việt Nam và Thái Lan là cặp đấu nhiều duyên nợ ở AFF Cup. Trận đấu này rất đặc biệt diễn ra lúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trận đấu có nhiều ý nghĩa và tôi tin rằng tất cả đều mong muốn có thể giành cúp vô địch “, bà Nualphan Lamsam mở đầu buổi họp báo với truyền thông trước trận đấu giữa đội tuyển Việt Nam và Thái Lan. Đội tuyển Việt Nam tiếp đón đội tuyển Thái Lan trong trận chung kết lượt đi AFF Cup 2022. Đây là cuộc đọ sức được đánh giá là khó lường, bất chấp việc đội tuyển Thái Lan thiếu vắng nhiều trụ cột. Đội bóng xứ chùa vàng thiếu vắng nhiều ngôi sao nhưng vẫn không mấy khó khăn để đi đến trận đấu cuối cùng. Nữ trưởng đoàn Nualphan Lamsam. Madam Pang mong chờ trận chung kết AFF Cup 2022.Nữ trưởng đoàn của đội tuyển Thái Lan bày tỏ: “ Tôi cảm thấy vui trức tinh thần yêu bóng đá của người Việt Nam. Từ lúc SEA Games đến bây giờ tôi đã chứng kiến tinh thần đó” . Theo Madam Pang, Thái Lan và Việt Nam có nhiều điểm chung giữa văn hóa, kinh tế và xã hội, 2 đất nước có sự gần gũi và mối quan hệ khăng khít. Doanh nhân này hy vọng sau trận đấu bóng đá giữa 2 đội sẽ là một mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp. Nói về sự phát triển của bóng đá Việt Nam, doanh nhân ngành bảo hiểm chia sẻ: “ Tôi cũng nhìn thấy sự phát triển của bóng đá Việt Nam. Thái Lan đang xếp dưới Việt Nam trong BXH FIFA. Việt Nam có sự đầu tư và mức phát triển lớn cho bóng đá. Nhiều cầu thủ Việt Nam đang thi đấu ở nước ngoài. Chúng tôi cũng có một số cầu thủ các giải Hàn Quốc, Nhật Bản. Trận chung kết sắp tới là điều mà người hâm mộ mong chờ. Chúng ta hãy cùng nhau chờ đón và tận hưởng trận đấu để có những kỷ niệm đẹp nhất. Tất nhiên, tôi mong muốn đội tuyển Thái Lan phải mạnh hơn Việt Nam, nhưng tôi không thể đánh giá chính xác được”. Trận đấu chung kết lượt đi giữa đội tuyển Việt Nam và Thái Lan diễn ra lúc 19h30 tối nay 13/1. Mai Phương
Delegation leader Nualphan Lamsam said that the AFF Cup 2022 final between the Vietnamese team and the Thai team has special meaning. “ I feel happy to be back in Vietnam. The upcoming match is a dream final. Vietnam and Thailand are a match with many fates in the AFF Cup. This very special match takes place at the transition between the old year and the new year. The match has a lot of meaning and I believe everyone wants to win the championship trophy ", Ms. Nualphan Lamsam opened the press conference with the media before the match between the Vietnam and Thailand teams. The Vietnamese team welcomes the Thai team in the first leg of the AFF Cup 2022 final. This is a match that is considered unpredictable, despite the fact that the Thai team lacks many pillars. The Golden Temple team lacked many stars but it was still not difficult to reach the final match. Female delegation leader Nualphan Lamsam. Madam Pang looks forward to the AFF Cup 2022 final. The female head of the Thai team expressed: “ I feel happy with the football-loving spirit of Vietnamese people. From the SEA Games until now, I have witnessed that spirit." . According to Madam Pang, Thailand and Vietnam have many things in common between culture, economy and society, the two countries have closeness and close relationships. This businessman hopes that after the football match between the two teams there will be a good friendly relationship. Talking about the development of Vietnamese football, the insurance businessman shared: " I also see the development of Vietnamese football. Thailand is ranked below Vietnam in the FIFA rankings. Vietnam has great investment and development in football. Many Vietnamese players are playing abroad. We also have some players from Korean and Japanese tournaments. The upcoming final is what fans are looking forward to. Let's wait together and enjoy the match to have the best memories. Of course, I want the Thai team to be stronger than Vietnam, but I cannot evaluate accurately." The final first leg match between Vietnam and Thailand will take place at 7:30 p.m. tonight, January 13. Mai Phuong
2022 là năm nóng kỷ lục thứ 5 hoặc thứ 6 từng được ghi nhận. Đây cũng là năm thứ 8 liên tiếp, nhiệt độ toàn cầu hàng năm tăng ít nhất 1 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp từ 1850-1900. Người dân di chuyển dưới tiết trời nắng nóng tại Nagoya, Nhật Bản, ngày 1/7/2022. (Ảnh: Kyodo/TTXVN) Ngày 12/1, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) cho biết năm 2022 là một trong số 8 năm nóng nhất kể từ khi cơ quan này của Liên hợp quốc ghi nhận số liệu về nhiệt độ Trái Đất, mặc dù hiện tượng La Nina xảy ra từ năm 2020 đã phần nào giúp làm mát bầu khí quyển. Theo WMO, trong năm 2022, khi thế giới phải đối mặt với một loạt thảm họa thiên nhiên chưa từng có do biến đổi khí hậu, nhiệt độ trung bình toàn cầu cao hơn khoảng 1,15 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. 8 năm đó là những năm ghi nhận nhiệt độ trên toàn cầu cao kỷ lục do nồng độ khí gây hiệu ứng nhà kính và tích nhiệt tăng cao hơn bao hết. Năm nóng kỷ lục được ghi nhận là năm 2016, tiếp đó đến năm 2019 và 2020. Năm 2022 là năm nóng kỷ lục thứ 5 hoặc thứ 6 từng được ghi nhận và là năm thứ 8 liên tiếp, nhiệt độ toàn cầu hằng năm tăng ít nhất 1 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp từ năm 1850-1900. Thỏa thuận Paris năm 2015 về biến đổi khí hậu, kêu gọi hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5 độ C – mức mà các nhà khoa học cho rằng sẽ hạn chế tác động của khí hậu ở mức có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, WMO cảnh báo rằng “khả năng vượt giới hạn mức tăng 1,5 độ C đang tăng lên theo thời gian.” WMO cho rằng tác động của hiện tượng thời tiết cực đoan La Nina dự kiến chấm dứt trong những tháng tới, sẽ kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn. Hiện tượng thời tiết này sẽ không đảo ngược được xu hướng nóng kéo dài của Trái Đất do khí nhà kính giữ nhiệt cho bầu khí quyển ở mức cao nhất. Theo WMO, xu hướng nóng lên của Trái Đất là rõ ràng. Kể từ những năm 1980, mỗi thập kỷ đều ghi nhận nhiệt độ tăng hơn so với thập kỷ trước. Ví dụ, nhiệt độ trung bình trong giai đoạn 2013-2022 cao hơn 1,14 độ C so với mức cơ sở thời kỳ tiền công nghiệp trong khi từ năm 2011-2020 là tăng 1,09 độ C. Do vậy, WMO cho rằng điều này “cho thấy tình trạng Trái Đất nóng lên trong thời gian dài vẫn tiếp diễn” với việc thế giới đã tiến gần đến mức giới hạn tăng nhiệt là 1,5 độ C trong Thỏa thuận Paris 2015 về biến đổi khí hậu. WMO đưa ra các kết luận trên sau khi thống nhất một loạt dữ liệu của 6 tổ chức quốc tế, trong đó có Cơ quan Quản lý khí quyển và đại dương quốc gia Mỹ (NOAA), Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA), Cơ quan theo dõi biến đổi khí hậu Copernicus (C3S) của Liên minh châu Âu (EU). Cùng ngày, NASA cho biết nhiệt độ trung bình trên bề mặt Trái Đất năm 2022 cùng với năm 2015 là năm nóng kỷ lục thứ năm được ghi nhận. Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Vũ trụ Goddard (GISS) thuộc NASA, cho biết nhiệt độ toàn cầu trong năm 2022 nối tiếp xu hướng nóng lên trong thời gian dài của hành tinh, đã tăng hơn 0,89 độ C so với mức trung bình trong giai đoạn cơ sở của NASA (từ năm 1951-1980). Giám đốc NASA, Bill Nelson nêu rõ: “Xu hướng nóng lên này là đáng báo động. Khí hậu nóng lên đã tạo ra một dấu hiệu: Các vụ cháy rừng đang gia tăng; bão ngày càng mạnh hơn; hạn hán đang tàn phá và mực nước biển đang dâng cao.” Ông Nelson nhấn mạnh, các hình thái thời tiết cực đoan đe dọa loài người trên hành tinh, do vậy các nước cần phải có một số hành động mạnh mẽ. Theo NASA, 9 năm qua là những năm nóng nhất được ghi nhận kể từ khi cơ quan này tiến hành lưu giữ số liệu vào năm 1880. Điều này có nghĩa là nhiệt độ của Trái Đất năm 2022 tăng hơn khoảng 1,11 độ C so với mức trung bình cuối thế kỷ XIX. Giám đốc GISS Gavin Schmidt cho biết nguyên nhân của xu hướng ấm lên trên Trái Đất là do các hoạt động của con người tiếp tục thải một lượng lớn khí thải gây hiệu ứng nhà kính vào bầu khí quyển và tác động lâu dài này đối với hành tinh cũng sẽ tiếp diễn”./.
2022 is the fifth or sixth hottest year on record. This is also the 8th consecutive year that the annual global temperature has increased by at least 1 degree Celsius compared to the pre-industrial period from 1850-1900. People move under hot weather in Nagoya, Japan, July 1, 2022. (Photo: Kyodo/TTXVN) On January 12, the World Meteorological Organization (WMO) said 2022 will be one of the eight hottest years since this United Nations agency recorded data on Earth's temperature, although La Nina phenomenon happening since 2020 has partly helped cool the atmosphere. According to WMO, in 2022, when the world faces a series of unprecedented natural disasters due to climate change, the average global temperature will be about 1.15 degrees Celsius higher than in the pre-industrial period. . Those eight years were the years when global temperatures were record high because the concentration of greenhouse gases and heat accumulation increased more than ever. The hottest year on record was 2016, followed by 2019 and 2020. 2022 is the 5th or 6th hottest year on record and the 8th consecutive year in which annual global temperatures have increased. at least 1 degree Celsius compared to the pre-industrial period from 1850-1900. The 2015 Paris Agreement on climate change calls for limiting global warming to 1.5 degrees Celsius – a level that scientists say will limit climate impacts to manageable levels. Okay. However, WMO warns that “the likelihood of exceeding the 1.5 degree Celsius limit is increasing over time.” WMO believes that the impact of extreme weather phenomena La Nina expected to terminate in the coming months, will last for a short period of time. This weather phenomenon will not reverse the Earth's long-term warming trend because greenhouse gases trap heat in the atmosphere at the highest level. According to WMO, the Earth's warming trend is clear. Since the 1980s, each decade has recorded higher temperatures than the previous decade. For example, average temperatures between 2013 and 2022 were 1.14 degrees Celsius above the pre-industrial baseline while between 2011 and 2020 they were 1.09 degrees Celsius higher. Therefore, WMO said that this “shows that long-term global warming continues” with the world approaching the 1.5 degrees Celsius warming limit set in the 2015 Paris Agreement on Climate Change. WMO reached the above conclusions after agreeing on a series of data from six international organizations, including the US National Oceanic and Atmospheric Administration (NOAA) and the US Aeronautics and Space Administration (NOAA). NASA), Copernicus climate change monitoring agency (C3S) of the European Union (EU). On the same day, NASA said the average temperature on the Earth's surface in 2022 tied with 2015 as the fifth hottest year on record. Scientists from NASA's Goddard Institute for Space Studies (GISS) said global temperatures in 2022, continuing the planet's long-term warming trend, have increased by more than 0.89 degrees Celsius compared to average during the NASA baseline period (from 1951-1980). NASA Administrator Bill Nelson stated: “This warming trend is alarming. The warming climate is already producing a sign: Wildfires are on the rise; storms are getting stronger; Droughts are devastating and sea levels are rising.” Mr. Nelson emphasized that extreme weather patterns threaten humanity on the planet, so countries need to take some strong actions. According to NASA, the past 9 years have been the hottest years recorded since the agency began keeping data in 1880. This means that the Earth's temperature in 2022 will increase by about 1.11 degrees Celsius. compared to the average level at the end of the 19th century. GISS Director Gavin Schmidt said the cause of the warming trend on Earth is that human activities continue to release large amounts of greenhouse gases into the atmosphere and this long-term impact on the environment. The planet will also continue."/.
Ngày 27/10, tại Hà Nội , Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Chế Lan Viên (1920 – 2020) với sự tham dự của đông đảo các thế hệ nhà văn, nhà nghiên cứu, độc giả và đại diện gia đình nhà thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920, tại Cam Lộ , Quảng Trị . Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn , Bình Định. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay “Điêu tàn”. Từ đây, tên tuổi của ông vụt sáng trên thi đàn Việt Nam. Năm 1939, Chế Lan Viên ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Chế Lan Viên tham gia phong trào cách mạng tại Bình Định , Thừa Thiên – Huế , viết bài và làm biên tập cho các báo “Quyết thắng”, “Cứu quốc”, “Kháng chiến”. Năm 1949, Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo “Văn học”. Ông từng là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, là đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII; Ủy viên Ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc hội. Nhà thơ Chế Lan Viên. (Ảnh tư liệu) Sau năm 1975, Chế Lan Viên vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19/6/1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Trong cuộc đời sáng tác, nhà thơ Chế Lan Viên để lại nhiều tác phẩm giá trị ở cả thể loại thơ, văn, tiểu luận phê bình. Đáng chú ý là các tập thơ: “Điêu tàn”, “Ánh sáng và phù sa”, “Hoa ngày thường – Chim báo bão”, “Những bài thơ đánh giặc”, “Đối thoại mới”, “Hoa trên đá”, các tập văn “Vàng sao”, “Những ngày nổi giận”, “Bác về quê ta”, “Giờ của đô thành”… Trong đó, có nhiều bài thơ được các thế hệ độc giả yêu mến như “Người đi tìm hình của nước”, “Tiếng hát con tàu”, “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”… Tại lễ kỷ niệm, các nhà nghiên cứu, nhà văn một lần nữa khẳng định, Chế Lan Viên là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới, góp phần đưa nền thơ dân tộc lên đỉnh cao. Ông đã đem đến sự hài hòa cho Thơ mới và cho tiến trình thơ Việt từ 1945 đến nay. Nhân dịp này, Hội Nhà văn Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học phối hợp với Nhà Xuất bản Văn học cho ra mắt cuốn “Chế Lan Viên tuyển tập” (Văn xuôi nghệ thuật), do nhà văn Vũ Thị Thường tuyển chọn./.
October 27, at Hanoi , Vietnam Writers Association organized the 100th anniversary of the birth of poet Che Lan Vien (1920 - 2020) with the participation of many generations of writers, researchers, readers and representatives of the poet's family. . Poet Che Lan Vien Real name is Phan Ngoc Hoan, born in 1920, in Cam Lo , Quang Tri . He grew up and went to school Quy Nhon , Binh Dinh. He started writing poetry when he was 12 or 13 years old. At the age of 17, with the pen name Che Lan Vien, he published his first collection of poems "Dieu". From here, his name flashed on the Vietnamese poetry scene. In 1939, Che Lan Vien studied in Hanoi, then went to Saigon to work as a journalist and then went to Thanh Hoa to teach. The August Revolution broke out, Che Lan Vien joined the revolutionary movement in Pacify , Hue , wrote articles and edited for the newspapers "Determined Victory", "National Salvation", "Resistance". In 1949, Che Lan Vien joined the Indochina Communist Party. In 1954, Che Lan Vien moved to the North to become an editor of the newspaper "Literature". He was a Standing Member of the Vietnam Writers' Association and a National Assembly delegate in terms IV, V, VI, VII; Member of the National Assembly's Culture and Education Committee. Poet Che Lan Vien. (Document photo) After 1975, Che Lan Vien lived in Ho Chi Minh City. He died on June 19, 1989 in Ho Chi Minh City, at the age of 69. In 1996, he was posthumously awarded the Ho Chi Minh Prize for Literature and Arts by the State. During his creative life, poet Che Lan Vien left behind many valuable works in the genres of poetry, prose, and critical essays. Notable are the poetry collections: "Ruin", "Light and Silt", "Flowers on Weekdays - Birds of Storm", "Poems of Fighting the Enemy", "New Dialogue", "Flowers on Stone" , the collection of essays "Yellow Star", "Days of Anger", "Uncle Returns to Our Hometown", "Hours of the City"... Among them, there are many poems loved by generations of readers such as "The Seeker shape of water", "Singing of the ship", "Has the country ever been this beautiful?"... At the celebration, researchers and writers once again affirmed that Che Lan Vien is an excellent poet of the New Poetry movement, contributing to bringing national poetry to its peak. He brought harmony to New Poetry and to the process of Vietnamese poetry from 1945 to present. On this occasion, the Vietnam Writers Association and the Center for National Studies in collaboration with the Literature Publishing House released the book "Che Lan Vien Anthology" (Artistic Prose), selected by writer Vu Thi Thuong. ./.
Làm quan dưới triều vua Lê Thánh tông, Thái úy Sùng Quận công Lê Thọ Vực – dũng tướng xứ Thanh vẫn được các tài liệu sử ngợi ca bởi sự oai phong, lẫm liệt phi thường khi ông vào Chiêm Thành, Bồn Man… bắt tướng giặc như chốn không người, đóng góp nhiều công trạng cho việc giữ yên biên cương Đại Việt. Sau khi “thác”, ông được dân gian suy tôn là “Đức Ông”, đời nối đời phụng thờ. Ghé thăm cụm di tích danh thắng Hàn Sơn – Ba Bông trên địa bàn xã Hà Sơn (Hà Trung), du khách đắm say trước cảnh sắc thiên nhiên vùng sông nước quyện trong không gian văn hóa tâm linh đặc sắc. Tại đây, ngoài đền Ba Bông (đền Bông, đền Cô Bơ…) còn có đền Hàn Sơn – còn gọi là đền Đức Ông. Theo sách Địa chí huyện Hà Trung: “Căn cứ vào các tài liệu sử sách, bia ký và truyền thuyết dân gian, nhân vật được thờ ở đền Hàn Sơn (tức đền Đức Ông) chính là Lê Thọ Vực – người có công to lớn trong việc bình định Chiêm Thành và khai hoang vỡ đất vùng đất Đại Lại xưa để lập ra sở đồn điền và làng, xã xung quanh vùng Hà Sơn, Hà Lĩnh, Hà Đông… của Hà Trung nay”. Về nhân vật Lê Thọ Vực, sách Thanh Hóa chư thần lục viết: “Húy là Thọ Vực. Là người hình dung cao lớn, tính nết thông minh. Khoảng năm Quang Thuận đời Lê có giặc Chiêm Thành xâm lấn, thần vâng mệnh dẫn binh mà tiễu trừ, xông vào trận bắt sống tướng giặc. Được phong là Bình chương Quân quốc trọng sự. Sau khi mất được ban phong và sai dân lập đền thờ”. Sách Thanh Hóa tỉnh Vĩnh Lộc huyện chí (Vĩnh Lộc phong thổ chí) viết bởi Tiến sĩ Lưu Công Đạo, tri huyện Vĩnh Phúc (tức Vĩnh Lộc) thời vua Gia Long cũng nhắc đến vị danh tướng: “Xét rõ xưa nay truyền lại, ông người thôn Đoài, xã Thái Đường họ Lê, tên húy là Thọ Vực, nổi danh ở vào thời Lê Thánh tông. Theo quốc sử, khi vua Lê Thánh tông thân chinh đánh dẹp giặc Chiêm Thành, bao vây thành Đồ Bàn, lúc đó ông không sợ nguy hiểm, lên trước phá thành, bắt sống được chúa giặc là Trà Toàn, rồi cho hắn con đường sống. Toàn liền dập đầu bái lạy”. Đến khi Trà Toàn được đưa lên thuyền để ra Bắc, khi nhìn thấy Lê Thọ Vực đã kinh hãi, vua Lê Thánh tông chỉ vào Lê Thọ Vực và nói với Trà Toàn đây chính là người dẫn quân vào thành đầu tiên. Sau trận thắng ở thành Đồ Bàn, bắt được chúa Chiêm là Trà Toàn, khi về triều bình công khen thưởng, Lê Thọ Vực được phong chức Thái úy, tước Sùng Quận công, đứng đầu hàng võ quan trong triều. Dẫn ra như vậy để thấy rằng, Đức Ông tại đền Hàn Sơn linh thiêng được hậu thế suy tôn, phụng thờ là nhân vật lịch sử có thực. Cuộc đời binh nghiệp của ông đã tận hiến cho sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn và mở rộng cương thổ quốc gia Đại Việt. Sau khi mất, Thái úy Sùng Quận công Lê Thọ Vực được người dân lập đền thờ phụng. Dưới triều Lê Nhân tông, Lê Thọ Vực là tướng nắm quyền chỉ huy vệ cấm binh bảo vệ Hoàng cung. Nhờ có công trong việc hạ bệ Lê Nghi Dân, phò lập Lê Tư Thành (tức Lê Thánh tông) nên ông được lĩnh chức Tả đô đốc, tham dự triều chính. Lê Thọ Vực là người có tài dẹp loạn, do vậy dưới thời vua Lê Thánh tông, tài năng của ông luôn được phát huy. Theo sách Văn tài võ lược xứ Thanh, trong thời vua Lê Thánh tông, ở biên giới phía Bắc nhà Minh vẫn thường cho quân Quảng Tây, Vân Nam xâm lấn đất đai, cướp phá của dân lành nhưng chưa dẫn đến va chạm lớn với quân ta. Ở phía Nam (giáp Chiêm Thành) và phía Tây giáp Bồn Man, Ai Lao, Lão Qua (nay đều thuộc nước Lào), tuy các nước này đã chịu làm nước phiên thuộc của Đại Việt, chịu cống nạp cho Thánh tông nhưng thỉnh thoảng vẫn đem quân quấy phá miền biên cương của ta và âm mưu liên kết với nhà Minh để gây chiến. Do vậy, vua Thánh tông đã tăng cường phòng thủ và nhiều lần cho quân đi đánh dẹp. Nhiều lần Lê Thọ Vực đã làm tướng cầm quân đi biên ải, lập nhiều chiến công, nổi danh miền biên cương. Đầu năm Hồng Đức thứ 10 (1479), tướng Bồn Man là Lệ Khai liên kết với Tri châu Ninh Viễn (vùng Điện Biên , Lai Châu , Sơn La ngày nay) mưu chiếm vùng này; cũng trong năm ấy, nước Lão Qua sai quân sang cướp phá nước ta từ châu Lang Chánh sang phủ An Tây, rồi lan xuống Lâm An, Quỳ Hợp… Trước tình thế đó, tháng 8-1479 vua Lê Thánh tông đã thân chinh đốc thúc các tướng đem 18 vạn quân, chia làm 5 đạo tiến theo 5 đường để chinh phạt các nước Ai Lao, Bồn Man và Lão Qua. Trong đó, đạo thứ 2 do Sùng Quận công Lê Thọ Vực chỉ huy đi đánh Bồn Man. Sách Văn tài võ lược xứ Thanh viết về sự kiện này: “Tướng quân Lê Thọ Vực đã dẫn quân theo đường châu Trà Lân (vùng Tây Nghệ An, tức Tương Dương, Kỳ Sơn) tiến đánh Bồn Man. Chẳng bao lâu bình định toàn bộ Bồn Man, thừa thắng tràn sang đánh Lão Qua, tiến quân vào tận kinh thành Luông Pha Băng… Quân của Lê Thọ Vực và quân của tướng Lê Lộng tiếp tục tấn công Lão Qua, vượt Luông Pha Băng (tục gọi Mường Luông) tiến quân đến tận biên giới Miến Điện. Khi quân Đại Việt tiến đến biên giới của hai nước Lão Qua – Miến Điện, vua nước Miến Điện đã gửi thư chúc mừng đến Lê Thọ Vực. Bình định xong vùng phía Tây biên cương, đại quân khải hoàn về kinh đô Thăng Long. Sau chiến dịch bình Tây này, Lê Thọ Vực được thăng Bình chương quân quốc trọng sự, Phú quốc công”. Không chỉ là viên tướng dũng mãnh nơi sa trường, Lê Thọ Vực còn được sử liệu nhắc đến là người có nhiều kế sách. Theo sử liệu, khi nhà Minh nghe tin vua Lê Thánh tông đem đại quân bình định các nước phía Tây, muốn gây sức ép và răn đe nước ta, bèn cho quan Quảng Tây sai người tràn sang châu Lộc Bình (Lạng Sơn nước ta) để cướp bóc của cải. Triều đình Đại Việt bàn kế sách giải quyết, Lê Thọ Vực đã khảng khái: “Nhà Minh quen thói từ trước hay tràn vào cướp bóc nước ta. Nay bệ hạ phải cho Đông Các soạn điệp văn gửi sang châu Tư Lăng trách họ không biết ngăn cấm dân trong hạt để sang gây hấn đất ta, bắt phải trả lại những thứ đã cướp bóc” (sách Văn tài võ lược xứ Thanh). Sau khi tướng quân Lê Thọ Vực qua đời, được triều đình nhà Lê đưa về an táng ở quê nhà và lập dựng đền thờ. “Theo Nhân dân địa phương cho biết, lúc Sùng Quận công mới mất, đền thờ được đặt ở khu vực đền Bông bây giờ. Sau đó một thời gian thì đền mới được đưa đến đặt ở sườn núi Hàn với cái tên đầy tôn kính: Đền Đức Ông Sùng Quận công. Trên sườn núi Hàn, đền Đức Ông Sùng Quận công xưa gồm 4 cung rất uy nghi và tráng lệ ở sát bờ sông Lèn. Cung tứ thờ Đức ông Lê Thọ Vực, cung nhất, cung nhị thờ hệ thống Mẫu, cung tam thờ hội đồng chư vị. Qua khảo sát nghiên cứu thì thấy rõ vị thần được thờ chủ yếu ở đây là Đức ông Lê Thọ Vực, còn hệ thống Mẫu và thờ hội đồng là do người đời sau đưa vào để phối thờ. Đó cũng là điều thường gặp ở các đền khác trên địa bàn Thanh Hóa và cả nước nói chung” (sách Địa chí huyện Hà Trung). Trải qua nhiều thế kỷ, đền Đức Ông (đền Hàn Sơn) trên địa bàn xã Hà Sơn đã được Nhân dân địa phương và du khách xa gần hảo tâm công đức, đóng góp kinh phí để tôn tạo di tích xứng tầm công lao của tiền nhân. Ông Nguyễn Văn Ngọ, Phó Chủ tịch UBND xã Hà Sơn cho biết: “Đền Đức Ông hay còn gọi là đền Hàn Sơn nằm trong cụm di tích thắng cảnh Hàn Sơn – Ba Bông (đền Hàn Sơn; đền Ba Bông; chùa Ngọc Sơn). Với những giá trị lịch sử văn hóa và tín ngưỡng tâm linh, di tích là điểm đến dâng hương chiêm bái, vãn cảnh được du khách xa gần biết đến trong hành trình về xứ Thanh nói chung và vùng sông nước ngã ba Bông nói riêng”. Bài và ảnh: Trang Bùi
Làm quan dưới triều vua Lê Thánh tông, Thái úy Sùng Quận công Lê Thọ Vực – dũng tướng xứ Thanh vẫn được các tài liệu sử ngợi ca bởi sự oai phong, lẫm liệt phi thường khi ông vào Chiêm Thành, Bồn Man… bắt tướng giặc như chốn không người, đóng góp nhiều công trạng cho việc giữ yên biên cương Đại Việt. Sau khi “thác”, ông được dân gian suy tôn là “Đức Ông”, đời nối đời phụng thờ. Ghé thăm cụm di tích danh thắng Hàn Sơn – Ba Bông trên địa bàn xã Hà Sơn (Hà Trung), du khách đắm say trước cảnh sắc thiên nhiên vùng sông nước quyện trong không gian văn hóa tâm linh đặc sắc. Tại đây, ngoài đền Ba Bông (đền Bông, đền Cô Bơ…) còn có đền Hàn Sơn – còn gọi là đền Đức Ông. Theo sách Địa chí huyện Hà Trung: “Căn cứ vào các tài liệu sử sách, bia ký và truyền thuyết dân gian, nhân vật được thờ ở đền Hàn Sơn (tức đền Đức Ông) chính là Lê Thọ Vực – người có công to lớn trong việc bình định Chiêm Thành và khai hoang vỡ đất vùng đất Đại Lại xưa để lập ra sở đồn điền và làng, xã xung quanh vùng Hà Sơn, Hà Lĩnh, Hà Đông… của Hà Trung nay”. Về nhân vật Lê Thọ Vực, sách Thanh Hóa chư thần lục viết: “Húy là Thọ Vực. Là người hình dung cao lớn, tính nết thông minh. Khoảng năm Quang Thuận đời Lê có giặc Chiêm Thành xâm lấn, thần vâng mệnh dẫn binh mà tiễu trừ, xông vào trận bắt sống tướng giặc. Được phong là Bình chương Quân quốc trọng sự. Sau khi mất được ban phong và sai dân lập đền thờ”. Sách Thanh Hóa tỉnh Vĩnh Lộc huyện chí (Vĩnh Lộc phong thổ chí) viết bởi Tiến sĩ Lưu Công Đạo, tri huyện Vĩnh Phúc (tức Vĩnh Lộc) thời vua Gia Long cũng nhắc đến vị danh tướng: “Xét rõ xưa nay truyền lại, ông người thôn Đoài, xã Thái Đường họ Lê, tên húy là Thọ Vực, nổi danh ở vào thời Lê Thánh tông. Theo quốc sử, khi vua Lê Thánh tông thân chinh đánh dẹp giặc Chiêm Thành, bao vây thành Đồ Bàn, lúc đó ông không sợ nguy hiểm, lên trước phá thành, bắt sống được chúa giặc là Trà Toàn, rồi cho hắn con đường sống. Toàn liền dập đầu bái lạy”. Đến khi Trà Toàn được đưa lên thuyền để ra Bắc, khi nhìn thấy Lê Thọ Vực đã kinh hãi, vua Lê Thánh tông chỉ vào Lê Thọ Vực và nói với Trà Toàn đây chính là người dẫn quân vào thành đầu tiên. Sau trận thắng ở thành Đồ Bàn, bắt được chúa Chiêm là Trà Toàn, khi về triều bình công khen thưởng, Lê Thọ Vực được phong chức Thái úy, tước Sùng Quận công, đứng đầu hàng võ quan trong triều. Dẫn ra như vậy để thấy rằng, Đức Ông tại đền Hàn Sơn linh thiêng được hậu thế suy tôn, phụng thờ là nhân vật lịch sử có thực. Cuộc đời binh nghiệp của ông đã tận hiến cho sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn và mở rộng cương thổ quốc gia Đại Việt. Sau khi mất, Thái úy Sùng Quận công Lê Thọ Vực được người dân lập đền thờ phụng. Dưới triều Lê Nhân tông, Lê Thọ Vực là tướng nắm quyền chỉ huy vệ cấm binh bảo vệ Hoàng cung. Nhờ có công trong việc hạ bệ Lê Nghi Dân, phò lập Lê Tư Thành (tức Lê Thánh tông) nên ông được lĩnh chức Tả đô đốc, tham dự triều chính. Lê Thọ Vực là người có tài dẹp loạn, do vậy dưới thời vua Lê Thánh tông, tài năng của ông luôn được phát huy. Theo sách Văn tài võ lược xứ Thanh, trong thời vua Lê Thánh tông, ở biên giới phía Bắc nhà Minh vẫn thường cho quân Quảng Tây, Vân Nam xâm lấn đất đai, cướp phá của dân lành nhưng chưa dẫn đến va chạm lớn với quân ta. Ở phía Nam (giáp Chiêm Thành) và phía Tây giáp Bồn Man, Ai Lao, Lão Qua (nay đều thuộc nước Lào), tuy các nước này đã chịu làm nước phiên thuộc của Đại Việt, chịu cống nạp cho Thánh tông nhưng thỉnh thoảng vẫn đem quân quấy phá miền biên cương của ta và âm mưu liên kết với nhà Minh để gây chiến. Do vậy, vua Thánh tông đã tăng cường phòng thủ và nhiều lần cho quân đi đánh dẹp. Nhiều lần Lê Thọ Vực đã làm tướng cầm quân đi biên ải, lập nhiều chiến công, nổi danh miền biên cương. Đầu năm Hồng Đức thứ 10 (1479), tướng Bồn Man là Lệ Khai liên kết với Tri châu Ninh Viễn (vùng Điện Biên , Lai Châu , Sơn La ngày nay) mưu chiếm vùng này; cũng trong năm ấy, nước Lão Qua sai quân sang cướp phá nước ta từ châu Lang Chánh sang phủ An Tây, rồi lan xuống Lâm An, Quỳ Hợp… Trước tình thế đó, tháng 8-1479 vua Lê Thánh tông đã thân chinh đốc thúc các tướng đem 18 vạn quân, chia làm 5 đạo tiến theo 5 đường để chinh phạt các nước Ai Lao, Bồn Man và Lão Qua. Trong đó, đạo thứ 2 do Sùng Quận công Lê Thọ Vực chỉ huy đi đánh Bồn Man. Sách Văn tài võ lược xứ Thanh viết về sự kiện này: “Tướng quân Lê Thọ Vực đã dẫn quân theo đường châu Trà Lân (vùng Tây Nghệ An, tức Tương Dương, Kỳ Sơn) tiến đánh Bồn Man. Chẳng bao lâu bình định toàn bộ Bồn Man, thừa thắng tràn sang đánh Lão Qua, tiến quân vào tận kinh thành Luông Pha Băng… Quân của Lê Thọ Vực và quân của tướng Lê Lộng tiếp tục tấn công Lão Qua, vượt Luông Pha Băng (tục gọi Mường Luông) tiến quân đến tận biên giới Miến Điện. Khi quân Đại Việt tiến đến biên giới của hai nước Lão Qua – Miến Điện, vua nước Miến Điện đã gửi thư chúc mừng đến Lê Thọ Vực. Bình định xong vùng phía Tây biên cương, đại quân khải hoàn về kinh đô Thăng Long. Sau chiến dịch bình Tây này, Lê Thọ Vực được thăng Bình chương quân quốc trọng sự, Phú quốc công”. Không chỉ là viên tướng dũng mãnh nơi sa trường, Lê Thọ Vực còn được sử liệu nhắc đến là người có nhiều kế sách. Theo sử liệu, khi nhà Minh nghe tin vua Lê Thánh tông đem đại quân bình định các nước phía Tây, muốn gây sức ép và răn đe nước ta, bèn cho quan Quảng Tây sai người tràn sang châu Lộc Bình (Lạng Sơn nước ta) để cướp bóc của cải. Triều đình Đại Việt bàn kế sách giải quyết, Lê Thọ Vực đã khảng khái: “Nhà Minh quen thói từ trước hay tràn vào cướp bóc nước ta. Nay bệ hạ phải cho Đông Các soạn điệp văn gửi sang châu Tư Lăng trách họ không biết ngăn cấm dân trong hạt để sang gây hấn đất ta, bắt phải trả lại những thứ đã cướp bóc” (sách Văn tài võ lược xứ Thanh). Sau khi tướng quân Lê Thọ Vực qua đời, được triều đình nhà Lê đưa về an táng ở quê nhà và lập dựng đền thờ. “Theo Nhân dân địa phương cho biết, lúc Sùng Quận công mới mất, đền thờ được đặt ở khu vực đền Bông bây giờ. Sau đó một thời gian thì đền mới được đưa đến đặt ở sườn núi Hàn với cái tên đầy tôn kính: Đền Đức Ông Sùng Quận công. Trên sườn núi Hàn, đền Đức Ông Sùng Quận công xưa gồm 4 cung rất uy nghi và tráng lệ ở sát bờ sông Lèn. Cung tứ thờ Đức ông Lê Thọ Vực, cung nhất, cung nhị thờ hệ thống Mẫu, cung tam thờ hội đồng chư vị. Qua khảo sát nghiên cứu thì thấy rõ vị thần được thờ chủ yếu ở đây là Đức ông Lê Thọ Vực, còn hệ thống Mẫu và thờ hội đồng là do người đời sau đưa vào để phối thờ. Đó cũng là điều thường gặp ở các đền khác trên địa bàn Thanh Hóa và cả nước nói chung” (sách Địa chí huyện Hà Trung). Trải qua nhiều thế kỷ, đền Đức Ông (đền Hàn Sơn) trên địa bàn xã Hà Sơn đã được Nhân dân địa phương và du khách xa gần hảo tâm công đức, đóng góp kinh phí để tôn tạo di tích xứng tầm công lao của tiền nhân. Ông Nguyễn Văn Ngọ, Phó Chủ tịch UBND xã Hà Sơn cho biết: “Đền Đức Ông hay còn gọi là đền Hàn Sơn nằm trong cụm di tích thắng cảnh Hàn Sơn – Ba Bông (đền Hàn Sơn; đền Ba Bông; chùa Ngọc Sơn). Với những giá trị lịch sử văn hóa và tín ngưỡng tâm linh, di tích là điểm đến dâng hương chiêm bái, vãn cảnh được du khách xa gần biết đến trong hành trình về xứ Thanh nói chung và vùng sông nước ngã ba Bông nói riêng”. Bài và ảnh: Trang Bùi
Từ “ngàn thu” đã có từ nhiều đời. Nhưng có bao giờ chúng ta thắc mắc: Vì sao lại dùng “ngàn thu” để chỉ sự vĩnh viễn mà không phải là “ngàn xuân”, “ngàn đông”, “ngàn hạ”? Mùa xuân mở đầu cho một năm mới, tượng trưng cho niềm tin và hy vọng, vậy phải dùng “ngàn xuân” mới hợp lý chứ? Để chỉ sự vĩnh viễn, vĩnh hằng, người ta hay dùng cụm từ “ngàn thu”. Từ “ngàn thu” được dùng phổ biến trong cuộc sống thường ngày và trong cả thi ca. Ở tác phẩm Phò giá về kinh , Đức Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải viết: “Thái bình nên gắng sức/Non nước ấy ngàn thu”. Ông mong muốn nhân dân sẽ có cuộc sống thái bình, ấm no, hạnh phúc tồn tại ngàn năm. Đất nước ta sẽ không còn chiến tranh loạn lạc, không còn đói khổ. Từ “ngàn thu” ở đây vốn bắt nguồn từ “thiên thu” trong tiếng Hán. (“thiên” có nghĩa là “một ngàn”). Mùa thu tượng trưng cho một năm, mà “thiên thu” chính là “ngàn năm”. Vì thế, người ta mới dùng từ “ngàn thu” để chỉ sự lâu dài, vĩnh viễn. Bên cạnh “thiên thu”, ta còn thấy từ “ba thu” để chỉ “ba năm”. Trong Truyện Kiều, tác giả Nguyễn Du từng viết: “Sầu đong càng lắc càng đầy/Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”. Một số ý kiến khác cho rằng, nói “thiên thu” mà không phải “thiên xuân”, “thiên đông” hay “thiên hạ” là vì vào mùa thu, lá cây sẽ rụng nhiều. Đó chính là biểu hiện sự tuần hoàn của một năm. Tuy nhiên điều này khó thuyết phục vì mùa nào trong bốn mùa cũng có những nét biểu hiện của sự tuần hoàn: Mùa đông tuyết rơi, mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa hạ có những trận mưa lớn,… “Ngàn thu” thường dùng để chỉ sự vĩnh cửu. Ảnh minh họa. Theo học giả An Chi thì việc dùng mùa thu để chỉ năm ở đây là do vào thời xưa, ở Trung Quốc , mùa thu là mùa của các hoạt động xã hội nói chung. Đặc biệt là sản xuất nông nghiệp sẽ kết thúc khi đến mùa đông lạnh giá. Điều này được ghi nhận rất rõ trong sách Lịch sử thế giới cổ đại của Chiêm Tế như sau: “Đến mùa dế kêu (mùa thu), đàn ông bận gặt vụ thu, làm sân đập lúa, cắt lúa, nộp một phần thóc cho quý tộc,…”. Còn ở Việt Nam , vụ lúa cuối trong năm cũng là vụ thu. Khi gặt lúa vào mùa thu xong, người nông dân có thời gian nghỉ ngơi để chuẩn bị gieo trồng mùa vụ mới sau khi ăn Tết (mùa xuân). Hẳn vì điều này mà mùa thu đã đi vào thơ ca như khoảng thời gian kết thúc của năm và từ đó trở thành tượng trưng cho một năm.
The word "thousands of autumn" has been around for many generations. But have we ever wondered: Why do we use "thousands of autumns" to refer to eternity and not "thousands of springs", "thousands of winters", "thousands of summers"? Spring begins a new year, symbolizing faith and hope, so is it appropriate to use "thousand springs"? To refer to eternity, people often use the phrase "thousands of years". The word "thousands of autumn" is commonly used in everyday life and in poetry. In the works Price support to the capital , His Excellency the Grand Master Tran Quang Khai wrote: "Thailand should strive for peace/The country is thousands of years old." He wished that the people would have a peaceful, prosperous, and happy life that would last for thousands of years. Our country will no longer have war, chaos, or hunger. The word "thousand autumn" here is originally derived from "thien autumn" in Chinese. (“Thien” means “a thousand”). Autumn symbolizes a year, and "eternal autumn" means "thousand years". That's why people use the word "thousands of years" to mean longevity and eternity. Besides "thien thu", we also see the word "three thu" to mean "three years". In The Tale of Kieu, author Nguyen Du once wrote: "The more I shake the sadness, the more it fills up/Dad packed up a very long day." Some other opinions say that saying "thien autumn" and not "thien spring", "thien winter" or "thien ha" is because in the fall, many leaves will fall. That is the expression of the cycle of a year. However, this is difficult to convince because each of the four seasons has manifestations of the cycle: Snow falls in winter, trees sprout in spring, summer has heavy rains,... “A thousand years” is often used to refer to eternity. Illustration. According to scholar An Chi, the use of autumn to refer to the year here is due to the fact that in ancient times, in China , autumn is the season of social activities in general. Especially agricultural production will end when the cold winter comes. This is clearly recorded in Chiem Te's book History of the Ancient World as follows: "In the cricket season (autumn), men are busy harvesting the fall crop, building threshing floors, cutting rice, and paying part of the rice. for nobles,...". Still staying Vietnam , the last rice crop of the year is also the fall crop. When harvesting rice in the fall is completed, farmers have time to rest to prepare for planting the new crop after celebrating Tet (spring). Probably because of this, autumn entered poetry as the end of the year and from then on became a symbol of the year.
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ/ Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ/ Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?/ Người ung dung, tính hạnh khoan hòa, chỉ một nỗi hay gàn hay dở! (Tú Xương – Văn tế sống vợ) Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn, người dòng dõi họ Phạm ở Lương Đường, Hải Dương , có nhiều người học hành, đỗ đạt. Ông bà sinh 8 người con (6 trai, 2 gái). Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa: thương chồng, thương con, tần tảo, nhẫn nại, quên mình. Tú Xương là người làm thơ về người vợ, từ hình ảnh chính bà Tú, sâu sắc và độc đáo vào bậc nhất trong văn chương Việt. Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ Thương vợ của Tú Xương là kiệt tác. Văn tế sống vợ của ông là thi phẩm kỳ diệu, có một không hai ở đời. Các vị khảo quan trong lễ xướng danh khoa Đinh Dậu, ngày 27.12.1897. Tú Xương có tham dự kỳ thi này nhưng không đỗ. Ảnh tư liệu. Tú Xương có nhiều lần viết về vợ hoặc nhắc đến vợ trong thơ và phú của mình, nhưng Thương vợ là áng thơ toàn bích nhất, thể hiện đầy đủ nhất người vợ yêu dấu của ông, và qua đó là hình tượng người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất quý báu, hun đúc từ trong truyền thống giống nòi. Vốn xuất thân là “con gái nhà dòng” mà bà Tú phải chịu phong trần, lấm láp để đảm đương gánh nặng gia đình “ năm con với một chồng ”, bằng cái nghề buôn bán mà lúc bấy giờ vẫn bị coi là hạ cấp. Thế nhưng bà Tú chẳng nề hà, sẵn sàng chấp nhận mọi khó nhọc để trổ tài “ buôn chín bán mười” ở “ đầu sông cuối bãi ”, như con cò lận đận ở mom sông. Nuôi con đã đành, đằng này bà còn phải nuôi cả chồng, mà đó là người đàn ông lắm thói ăn chơi: Ăn rặt những thịt quay, lạp sườn; mặc rặt những quần vân, áo xuyến; nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả cao lâu… Để nuôi bầy con nheo nhóc, đáp ứng những nhu cầu của ông chồng “ phong lưu nhất mực ”, bà phải lam lũ, eo sèo buổi đò đông, lặn lội, sớm khuya nơi bến nước. Cực nhọc, vất vả đến vậy thế nhưng bà Tú chỉ coi đó là chuyện “một duyên, hai phận” nên phải đành lòng chịu “ năm nắng mười mưa ”. Về mặt nghệ thuật, Thương vợ thể hiện tài năng sử dụng tiếng Việt bậc thầy của Tú Xương. Mượn con cò trong ca dao xưa, ông dựng nên hình ảnh con cò lặn lội ở quãng vắng mom sông, thể hiện tình cảnh vất vả, chịu thương, chịu khó của bà Tú đầy cảm động. Những từ ngữ bình dân, quen thuộc “mom sông”, “eo sèo”, “lặn lội” khi đặt vào đúng vị trí của nó, bên cạnh những “thân cò nơi quãng vắng”, “ mặt nước buổi đò đông ” đã khiến câu thơ Tú Xương trở nên sinh động, mang đầy năng lực diễn cảm thi ca. Phụ nữ Việt Nam thời cận đại (Tư liệu của viện viễn đông bác cổ). Hai câu kết bài thơ Thương vợ , Tú Xương đã khéo léo tự trách mình. Một lời trách nhẹ nhàng mà giấu bao nhiêu chua chát: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không. Cái chữ thì “hờ hững” mà lòng thì nồng ấm biết bao nhiêu. Chuyện kể rằng, sau lần hỏng thi năm Canh Tý (1900), ông Tú chán đời, nên chơi bời có phần phóng túng hơn, bà Tú can ngăn mãi không được, nên dọa tự tử. Ông Tú thấy mình sai, hối hận, viết bài Văn tế sống vợ tỏ hẳn sự trân trọng và lòng tri ân đối với người vợ hiền, trong đó có mấy câu: Thế nhưng, bà Tú không đi tu, ông Tú cũng không kịp nuôi con cho có rể có dâu. Ngày 15 tháng chạp năm Bính Ngọ (28.1.1907), Tú Xương đột ngột qua đời, khi mới 37 tuổi. Bà thay ông nuôi đàn con khôn lớn, rồi theo ông vào năm 1931, hưởng thọ 62 tuổi. Á Nam Trần Tuấn Khải (1894 – 1983), nhà thơ gần như cùng thời với Tú Xương, hay tin bà Tú qua đời đã có bài thơ Viếng bà Tú Xương. Hơn sáu mươi năm đất Vị Hoàng, Mẹ hiền, vợ đức đã reo gương. Nếm chung trời Việt trăm cay đắng, Vững với con Côi một mối giường. Bia miệng đã nên trang khổn phạm, Nếp nhà không thẹn dấu văn chương. Tấm thân tuy thác, danh nào thác, Hồn cũng thơm lây dưới suối vàng . Hậu thế biết ơn ông Tú Trần Tế Xương đã để lại một di sản văn chương kiệt xuất, lại càng biết ơn một bà Tú đã chia sẻ, chịu đựng bao nhiêu cay đắng tân khổ cùng ông. Tú tài Trần Tế Xương mãi mãi rạng danh trong văn chương Việt, và cũng mãi mãi một hình ảnh đẹp đẽ, nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam trong hình hài bà Tú đất Vị Hoàng.
A daughter of a religious family, married to a man from the market/ Her fame is worth it, whether she meets her or not/ Her face is smooth, her limbs are white, who dares to call her fat or short?/ She is leisurely, has a gentle personality, just one thing. good or bad! (Tu Xuong – Wife's life tribute) Tu Xuong got married at the age of 16, his wife was Mrs. Pham Thi Man, a descendant of the Pham family in Luong Duong, Hai Duong , there are many people who study and pass. They gave birth to 8 children (6 boys, 2 girls). Mrs. Tu is a woman who represents ancient Vietnamese women: loving her husband, loving her children, being diligent, patient, and selfless. Tu Xuong is the one who wrote poetry about his wife, from the image of Mrs. Tu herself, the most profound and unique in Vietnamese literature. Without a doubt, the poem Love your wife by Tu Xuong is a masterpiece. His wife's funeral eulogy is a marvelous piece of poetry, unique in life. Judges at the Dinh Dau faculty naming ceremony, December 27, 1897. Tu Xuong took this exam but did not pass. Documentary photo. Tu Xuong wrote about his wife many times or mentioned his wife in his poems and essays, but Love your wife is the most perfect poem, most fully expressing his beloved wife, and through it the image of a Vietnamese woman with precious qualities, forged from the tradition of her race. Originally from a "convent's daughter", Mrs. Tu had to endure hardship and hardship to take on the family's burden." five children with one husband ", with a trade that at that time was still considered low-class. But Ms. Tu did not mind, willing to accept all hardships to show her talent." sell nine, sell ten" live " The beginning of the river and the end of the beach ", like the struggling stork in the river mother. She had to take care of her children, but she also had to support her husband, and he was a man with a lot of playboy habits: He ate roast meat and sausages a lot; wear patterned pants and shirts; Addicted to tea, addicted to alcohol, addicted to chewing gum... To raise children and meet the needs of the husband. uncompromising style ", she had to work hard on the crowded boat, traveling early and late at the wharf. It's so hard and difficult, but Mrs. Tu only sees it as "one fate, two fates" so she has to endure it." five days of sunshine and ten days of rain ”. In terms of art, Love your wife Demonstrating Tu Xuong's masterful Vietnamese language talent. Borrowing the stork from an old folk song, he created the image of a stork swimming in the deserted area of ​​the river, touchingly expressing Mrs. Tu's hardship, suffering, and hardship. The common, familiar words "river mom", "strait", "diving" when placed in their correct position, next to the words "a stork's body in a deserted place", “ Water surface in winter morning ” has made Tu Xuong's verse come alive, full of poetic expressive power. Vietnamese women in modern times (Documents of the Institute of Far East and Ancient Literature). Two lines end the poem Love your wife , Tu Xuong cleverly blamed himself. A gentle reprimand that hides so much bitterness: Parents have bad living habits Having an indifferent husband is as good as not having one. The word is "indifferent" but the heart is so warm. The story goes that, after failing the exam in the year of Canh Ty (1900), Mr. Tu was bored with life, so he played around more freely. Mrs. Tu couldn't stop him, so she threatened to commit suicide. Mr. Tu realized he was wrong, regretted it, and wrote an article Van Te lives his wife Expressing respect and gratitude for his good wife, there are a few sentences: However, Mrs. Tu did not become a monk, and Mr. Tu did not have time to raise his children to have a son-in-law. On December 15, the year of the Horse (January 28, 1907), Tu Xuong suddenly passed away at the age of 37. She raised his children for him, then followed him in 1931, at the age of 62. Á Nam Tran Tuan Khai (1894 - 1983), a poet almost at the same time as Tu Xuong, heard the news of Mrs. Tu's death and wrote the poem Visiting Mrs. Tu Xuong. More than sixty years of Vi Hoang land, Good mother, virtuous wife has set an example. Taste the bitterness of the Vietnamese sky, Maintain a stable bed relationship with Coi. The mouthpiece has become an ascetic, House rules are not ashamed of literature. Although the body is weak, the name is weak, The soul is also fragrant under the golden stream . Posterity is grateful to Mr. Tu Tran Te Xuong for leaving behind an outstanding literary legacy, and even more grateful to Mrs. Tu who shared and endured so much bitterness and suffering with him. Baccalaureate Tran Te Xuong will forever be famous in Vietnamese literature, and will forever be a beautiful and kind image of Vietnamese women in the form of Mrs. Tu of Vi Hoang.
Tối ngày 13-1, Tỉnh Đoàn Quảng Bình phối hợp Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày ký hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-1-1973 – 27-1-2023) tại Khu tưởng niệm Đại đội TNXP C283, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch , tỉnh Quảng Bình . 50 năm về trước, ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh ngoại giao dài nhất, khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao nước ta ở thế kỷ 20; đánh dấu thắng lợi lịch sử của nhân dân ta sau hơn 19 năm đấu tranh kiên cường, bất khuất trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao chống Mỹ xâm lược. Đây cũng là dịp tưởng niệm 50 năm ngày hy sinh của 35 thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa chi viện cho miền Nam tại thôn Quyết Thắng, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch bị máy bay Mỹ ném bom thảm sát. Các đại biểu dâng hương tại đài tưởng niệm Thanh Trạch, Bố Trạch . Anh Đặng Đại Bàng, Bí thư Tỉnh Đoàn Quảng Bình khẳng định, thắng lợi trên mặt trận ngoại giao mà đỉnh cao là Hiệp định Paris năm 1973 là hành trang quý giá để thế hệ trẻ hôm nay vững bước tiến vào giai đoạn hội nhập và phát triển toàn diện trên tất cả các mặt, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Cùng với tuổi trẻ cả nước, tuổi trẻ Quảng Bình sẽ không ngừng phấn đấu, nỗ lực, phát huy trí tuệ, bản lĩnh, nhiệt huyết, hoài bão để bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh. Ông Trần Hải Châu, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Bình kêu gọi toàn Đảng bộ, cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân tiếp tục phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục học tập và noi theo tấm gương kiên trung, bất khuất, anh dũng của các bậc tiền nhân và thế hệ cha anh đi trước; quyết tâm đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng Quảng Bình trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực Bắc Trung bộ. Các đại biểu tham dự lễ kỷ niệm. Lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký hiệp định Paris được tổ chức nhằm thể hiện đạo lý “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” của tuổi trẻ đối với cha anh lớp trước, đồng thời tuyên truyền giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, trách nhiệm của tuổi trẻ trong thời đại mới. Dịp này, Ban tổ chức chương trình trao tặng 65 suất quà cho cựu TNXP, cựu chiến binh, các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, thân nhân các gia đình trong vụ thảm sát.
On the evening of January 13, Quang Binh Provincial Youth Union coordinated with the Department of Culture and Sports to organize a ceremony to celebrate the 50th anniversary of the signing of the Paris Agreement on ending the war and restoring peace in Vietnam (January 27, 1973 - January 27, 2023) at the Memorial Area of ​​TNXP Company C283, Thanh Trach commune, Bo Trach district , Quang Binh Province . 50 years ago, on January 27, 1973, the Paris Agreement on ending the war and restoring peace in Vietnam was signed, successfully ending the longest and most difficult diplomatic struggle in history. Our country's diplomacy in the 20th century; marking the historic victory of our people after more than 19 years of resilient and indomitable struggle on the political, military and diplomatic fronts against American invasion. This is also an occasion to commemorate the 50th anniversary of the sacrifice of 35 young volunteers who were on duty to transport goods to support the South in Quyet Thang village, Thanh Trach commune, Bo Trach district, who were massacred by American bombing. . Delegates offered incense at Thanh Trach and Bo Trach memorials . Mr. Dang Dai Bang, Secretary of the Quang Binh Provincial Youth Union, affirmed that the victory on the diplomatic front, culminating in the 1973 Paris Agreement, is valuable luggage for today's young generation to steadily move forward into the integration and integration phase. Comprehensive development in all aspects, arousing the desire to develop a prosperous and happy country. Together with the youth of the whole country, Quang Binh youth will constantly strive, make efforts, promote intelligence, bravery, enthusiasm, and ambition to protect the achievements of the revolution and build an increasingly prosperous homeland. Mr. Tran Hai Chau, Permanent Deputy Secretary of the Provincial Party Committee, Chairman of the People's Council of Quang Binh province called on the entire Party, officers, soldiers and people of all walks of life to continue to highly promote the spirit of patriotism, the will to be self-reliant, self-reliant and the strength of great national unity; continue to study and follow the steadfast, indomitable, and heroic example of our ancestors and previous generations; determined to comprehensively promote the innovation process and build Quang Binh into a well-developed province in the North Central region. Delegates attended the celebration. Celebration of the 50th anniversary of the signing of the agreement Paris was organized to demonstrate the youth's morality of "Repaying gratitude" and "When drinking water, remember the source" of the youth towards their ancestors, while also propagating and educating revolutionary traditions, patriotism, and national pride. , the responsibility of youth in the new era. On this occasion, the program's organizing committee awarded 65 gifts to former volunteers, veterans, students in difficult circumstances, and relatives of families involved in the massacre.
Lễ hội cung đình ở Việt Nam bắt đầu có từ thời Lý, quan trọng nhất là lễ tế Giao. Tuy vậy không phải triều đại quân chủ nào ở nước ta cũng có tế Giao. Một triều đại văn hưng võ thịnh như triều Trần, suốt 180 năm không có tế Giao. Điều đó cho thấy rằng không phải các triều đại phong kiến Trung Quốc tổ chức lễ nghi gì thì các vua chúa Việt Nam cũng làm theo như thế. Tất nhiên, văn hóa Việt Nam nói chung, lễ hội nói riêng có chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc nhưng cái gốc của văn hóa Việt Nam đã có từ lâu đời, đó chính là tâm hồn, tình cảm, trí tuệ của dân tộc Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong tất cả các sinh hoạt văn hóa của người Việt, bất luận là văn hóa dân gian hay văn hóa cung đình. Văn hóa Việt Nam dưới thời Nguyễn cũng vậy. Về lễ hội, các vua Nguyễn tổ chức nhiều lễ hội cung đình nhất, đặc biệt là dưới các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Tính chất phong phú về loại hình lễ hội, cách thức tổ chức hết sức long trọng với đầy đủ các nghi tiết, các đại lễ đều do nhà vua đích thân làm chủ lễ… là những đặc đIểm “ngoại hàm” của lễ hội cung đình triều Nguyễn. Song để hiểu sâu hơn các “lớp” nghĩa văn hóa của những lễ hội ấy thì không thể “cưỡi ngựa xem… hội” mà đòi hỏi một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc. Ở đây, bước đầu chỉ xin nêu một vài nhận xét về lễ hội cung đình triều Nguyễn, nhìn từ góc độ văn hóa – lịch sử: 1. Một nhu cầu tâm linh vừa có tính chất tín ngưỡng thần quyền, vừa tôn vinh vương quyền Nếu hiểu nhu cầu tâm linh là toàn bộ khát vọng của con người muốn vượt lên khỏi thế giới hiện thực để được thăng hoa về tâm hồn, tình cảm thì việc con người đối với lễ hội là một nhu cầu chính đáng, đặc biệt trong các lễ hội dân gian thể hiện rất rõ điều đó. Ở đây sự đồng cảm, cộng cảm giữa thế giới hiện thực và phi hiện thực được chấp nhận như một ước lệ của cộng đồng. Sợi dây giao cảm nói liền giữa hai thế giới ấy, trong lễ hội, là đức tin, đôi khi được con người tuyệt đối hóa, trở thành tín ngưỡng (như tín ngưỡng dân gian chẳng hạn). Nói như nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh “…phải luôn luôn nhớ rằng lễ hội thuộc phạm trù cái thiêng, cái biểu tượng, vượt lên trên thế giới trần tục, hiện tại, nếu biến lễ hội thành cái trần tục thì lễ hội với đúng nghĩa của nó không còn nữa”. (Xem tài liệu tham khảo I). Biểu tượng của “cái thiêng” ấy chính là “thần linh”. Thế nên, suy cho cùng, yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội là tín ngưỡng thần quyền. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng nhà vua vừa tin vào quyền năng của thần linh, đồng thời cũng tự cho mình cái quyền được sai bảo các thần vì vua là con trời (Thiên tử), cho nên vua thường ban sắc phong thần. Vì vậy lễ hội cung đình còn bao hàm cả ý nghĩa thể hiện sự tôn vinh vương quyền. 2. Nặng phần lễ, nhẹ phần hội Xét về tổng thể, với tư cách là một sinh hoạt văn hóa – một khái niệm văn hóa hoàn chỉnh thì không nhất thiết phải phân chia tách bạch lễ hội ra thành hai phần lễ và hội. Mối quan hệ giữa lễ và hội là mối quan hệ nhất thể hữu cơ tạo thành một chỉnh thể. Không có hội nào lại bắt đầu từ lễ và lễ thường đi kèm với hội. Song vì lễ hội diễn ra trong quá trình vận động và phát triển của cuộc sống nên lễ hội không phải là một khái niệm bất biến; nó luôn luôn được điều chỉnh, bổ sung những giá trị văn hóa qua từng thời kỳ lịch sử. Cho nên cách tổ chức lễ hội ngày xưa khác với ngày nay, lễ hội thời quân chủ khác với lễ hội hiện đại, lễ hội dân gian khác với lễ hội cung đình. Lễ tế Đàn Nam Giao năm 1924 – cảnh đoàn rước lễ trở về kinh thành Huế. Nguyên nhân quan trọng tạo nên sự khác nhau ấy nằm trong mối quan hệ giữa hai thành tố LỄ và HỘI. Hầu hết các lễ hội cung đình triều Nguyễn (và những triều đại trước đó) đều nặng về phần lễ. Điều đó cũng dễ hiểu, vì theo Nho giáo, lễ là “trật tự của Trời” (Lễ giả, thiên chi tự – Kinh Lễ) (xem TLTK II). Vua là người thay Trời để điều hành cái trật tự ấy nên phải lấy lễ làm gốc. Dù biện giải thế nào thì đó cũng là một thực tế trong các lễ hội cung đình thời Nguyễn làm hạn chế sự tham gia của con người vào các lễ hội vốn là một nhu cầu hết sức hấp dẫn đối với cộng đồng. 3. Tính nhân văn trong lễ hội cung đình triều Nguyễn Một trong những giá trị văn hóa đáng trân trọng trong lễ hội cung đình triều Nguyễn là tính nhân văn được thể hiện qua mục đích, ý nghĩa của việc tiến hành các lễ hội. Việc tổ chức tế lễ để cầu cho quốc thái dân an, phong điều vũ thuận là công việc các vua thường làm hằng năm. Các đại lễ do đích thân nhà vua đứng chủ lễ như tế Giao, tế Xã Tắc, lễ Tịch điền… đều hàm chứa những giá trị nhân văn sâu sắc. Việc triều đình tổ chức trọng thể lễ tế các vua triều đại trước như tế đền vua Đinh Tiên Hoàng (Ninh Bình), miếu Lịch Đại Đế Vương (Kinh đô Huế)… thể hiện sự trọng thị và biết ơn đối với các triều đại đã qua. Đối với các giá trị văn hóa truyền thống như Tết Nguyên đán, thờ cúng tế lễ ông bà tổ tiên, tưởng niệm các bậc tiền bối có công với nước… được triều Nguyễn coi trọng. Nhằm tôn vinh việc học và để tuyển chọn được người có tài ra giúp nước, triều đình đặt ra lễ Truyền lô… Tất cả những nét tích cực ấy là phần cốt lõi tạo nên những giá trị nhân văn trong lễ hội cung đình thời Nguyễn. Nhìn tổng thể, lễ hội cung đình thời Nguyễn là bước tiếp thu và phát huy một cách phong phú, đa dạng hơn lễ hội cung đình của các triều đại trước đó. Loại trừ những phần hạn chế do thời đại và hệ tư tưởng phong kiến sang một bên, lễ hội cung đình triều Nguyễn với những giá trị văn hóa tích cực của nó đã góp phần làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc, là một bộ phận không thể thiếu của di sản văn hóa nhân loại. Ảnh hưởng của lễ hội cung đình triều Nguyễn đối với hoạt động lễ hội của nhiều địa phương trên cả nước đến nay vẫn còn rõ nét, chẳng hạn một số lễ hội cổ truyền ở miền Bắc, đã có người nhận xét: “Tế là nghi thức tưởng niệm, tôn vinh thần linh với ngôn ngữ, ăn mặc và điệu bộ mô phỏng phong cách cung đình Huế thế kỷ XVIII – XIX. Đã có lúc người ta bàn tới việc có nên duy trì nghi thức tế mang đậm tính cung đình phong kiến này nữa không. Nếu xóa bỏ nó thì thay bằng cái gì để nó có thể biểu hiện được sự tôn vinh của cộng đồng đối với thần linh và ước vọng được thần linh che chở, phù hộ độ trì” (xem TLTK I). Có lẽ đó vẫn còn là một vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu hết sức nghiêm túc không chỉ đối với các chuyên gia về lễ hội, mà còn là trách nhiệm của những ai có quan tâm đến lĩnh vực này, đặc biệt là muốn phục dựng một số lễ hội quan trọng để phục vụ nhu cầu phát triển văn hóa hiện nay. —————- Tài liệu tham khảo: I. Ngô Đức Thịnh, “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền” , tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 14, II. Hữu Ngọc (chủ biên), “Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam”, NXB Thế Giới, Hà Nội,
Lễ hội cung đình ở Việt Nam bắt đầu có từ thời Lý, quan trọng nhất là lễ tế Giao. Tuy vậy không phải triều đại quân chủ nào ở nước ta cũng có tế Giao. Một triều đại văn hưng võ thịnh như triều Trần, suốt 180 năm không có tế Giao. Điều đó cho thấy rằng không phải các triều đại phong kiến Trung Quốc tổ chức lễ nghi gì thì các vua chúa Việt Nam cũng làm theo như thế. Tất nhiên, văn hóa Việt Nam nói chung, lễ hội nói riêng có chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc nhưng cái gốc của văn hóa Việt Nam đã có từ lâu đời, đó chính là tâm hồn, tình cảm, trí tuệ của dân tộc Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong tất cả các sinh hoạt văn hóa của người Việt, bất luận là văn hóa dân gian hay văn hóa cung đình. Văn hóa Việt Nam dưới thời Nguyễn cũng vậy. Về lễ hội, các vua Nguyễn tổ chức nhiều lễ hội cung đình nhất, đặc biệt là dưới các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Tính chất phong phú về loại hình lễ hội, cách thức tổ chức hết sức long trọng với đầy đủ các nghi tiết, các đại lễ đều do nhà vua đích thân làm chủ lễ… là những đặc đIểm “ngoại hàm” của lễ hội cung đình triều Nguyễn. Song để hiểu sâu hơn các “lớp” nghĩa văn hóa của những lễ hội ấy thì không thể “cưỡi ngựa xem… hội” mà đòi hỏi một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc. Ở đây, bước đầu chỉ xin nêu một vài nhận xét về lễ hội cung đình triều Nguyễn, nhìn từ góc độ văn hóa – lịch sử: 1. Một nhu cầu tâm linh vừa có tính chất tín ngưỡng thần quyền, vừa tôn vinh vương quyền Nếu hiểu nhu cầu tâm linh là toàn bộ khát vọng của con người muốn vượt lên khỏi thế giới hiện thực để được thăng hoa về tâm hồn, tình cảm thì việc con người đối với lễ hội là một nhu cầu chính đáng, đặc biệt trong các lễ hội dân gian thể hiện rất rõ điều đó. Ở đây sự đồng cảm, cộng cảm giữa thế giới hiện thực và phi hiện thực được chấp nhận như một ước lệ của cộng đồng. Sợi dây giao cảm nói liền giữa hai thế giới ấy, trong lễ hội, là đức tin, đôi khi được con người tuyệt đối hóa, trở thành tín ngưỡng (như tín ngưỡng dân gian chẳng hạn). Nói như nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh “…phải luôn luôn nhớ rằng lễ hội thuộc phạm trù cái thiêng, cái biểu tượng, vượt lên trên thế giới trần tục, hiện tại, nếu biến lễ hội thành cái trần tục thì lễ hội với đúng nghĩa của nó không còn nữa”. (Xem tài liệu tham khảo I). Biểu tượng của “cái thiêng” ấy chính là “thần linh”. Thế nên, suy cho cùng, yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội là tín ngưỡng thần quyền. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng nhà vua vừa tin vào quyền năng của thần linh, đồng thời cũng tự cho mình cái quyền được sai bảo các thần vì vua là con trời (Thiên tử), cho nên vua thường ban sắc phong thần. Vì vậy lễ hội cung đình còn bao hàm cả ý nghĩa thể hiện sự tôn vinh vương quyền. 2. Nặng phần lễ, nhẹ phần hội Xét về tổng thể, với tư cách là một sinh hoạt văn hóa – một khái niệm văn hóa hoàn chỉnh thì không nhất thiết phải phân chia tách bạch lễ hội ra thành hai phần lễ và hội. Mối quan hệ giữa lễ và hội là mối quan hệ nhất thể hữu cơ tạo thành một chỉnh thể. Không có hội nào lại bắt đầu từ lễ và lễ thường đi kèm với hội. Song vì lễ hội diễn ra trong quá trình vận động và phát triển của cuộc sống nên lễ hội không phải là một khái niệm bất biến; nó luôn luôn được điều chỉnh, bổ sung những giá trị văn hóa qua từng thời kỳ lịch sử. Cho nên cách tổ chức lễ hội ngày xưa khác với ngày nay, lễ hội thời quân chủ khác với lễ hội hiện đại, lễ hội dân gian khác với lễ hội cung đình. Lễ tế Đàn Nam Giao năm 1924 – cảnh đoàn rước lễ trở về kinh thành Huế. Nguyên nhân quan trọng tạo nên sự khác nhau ấy nằm trong mối quan hệ giữa hai thành tố LỄ và HỘI. Hầu hết các lễ hội cung đình triều Nguyễn (và những triều đại trước đó) đều nặng về phần lễ. Điều đó cũng dễ hiểu, vì theo Nho giáo, lễ là “trật tự của Trời” (Lễ giả, thiên chi tự – Kinh Lễ) (xem TLTK II). Vua là người thay Trời để điều hành cái trật tự ấy nên phải lấy lễ làm gốc. Dù biện giải thế nào thì đó cũng là một thực tế trong các lễ hội cung đình thời Nguyễn làm hạn chế sự tham gia của con người vào các lễ hội vốn là một nhu cầu hết sức hấp dẫn đối với cộng đồng. 3. Tính nhân văn trong lễ hội cung đình triều Nguyễn Một trong những giá trị văn hóa đáng trân trọng trong lễ hội cung đình triều Nguyễn là tính nhân văn được thể hiện qua mục đích, ý nghĩa của việc tiến hành các lễ hội. Việc tổ chức tế lễ để cầu cho quốc thái dân an, phong điều vũ thuận là công việc các vua thường làm hằng năm. Các đại lễ do đích thân nhà vua đứng chủ lễ như tế Giao, tế Xã Tắc, lễ Tịch điền… đều hàm chứa những giá trị nhân văn sâu sắc. Việc triều đình tổ chức trọng thể lễ tế các vua triều đại trước như tế đền vua Đinh Tiên Hoàng (Ninh Bình), miếu Lịch Đại Đế Vương (Kinh đô Huế)… thể hiện sự trọng thị và biết ơn đối với các triều đại đã qua. Đối với các giá trị văn hóa truyền thống như Tết Nguyên đán, thờ cúng tế lễ ông bà tổ tiên, tưởng niệm các bậc tiền bối có công với nước… được triều Nguyễn coi trọng. Nhằm tôn vinh việc học và để tuyển chọn được người có tài ra giúp nước, triều đình đặt ra lễ Truyền lô… Tất cả những nét tích cực ấy là phần cốt lõi tạo nên những giá trị nhân văn trong lễ hội cung đình thời Nguyễn. Nhìn tổng thể, lễ hội cung đình thời Nguyễn là bước tiếp thu và phát huy một cách phong phú, đa dạng hơn lễ hội cung đình của các triều đại trước đó. Loại trừ những phần hạn chế do thời đại và hệ tư tưởng phong kiến sang một bên, lễ hội cung đình triều Nguyễn với những giá trị văn hóa tích cực của nó đã góp phần làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc, là một bộ phận không thể thiếu của di sản văn hóa nhân loại. Ảnh hưởng của lễ hội cung đình triều Nguyễn đối với hoạt động lễ hội của nhiều địa phương trên cả nước đến nay vẫn còn rõ nét, chẳng hạn một số lễ hội cổ truyền ở miền Bắc, đã có người nhận xét: “Tế là nghi thức tưởng niệm, tôn vinh thần linh với ngôn ngữ, ăn mặc và điệu bộ mô phỏng phong cách cung đình Huế thế kỷ XVIII – XIX. Đã có lúc người ta bàn tới việc có nên duy trì nghi thức tế mang đậm tính cung đình phong kiến này nữa không. Nếu xóa bỏ nó thì thay bằng cái gì để nó có thể biểu hiện được sự tôn vinh của cộng đồng đối với thần linh và ước vọng được thần linh che chở, phù hộ độ trì” (xem TLTK I). Có lẽ đó vẫn còn là một vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu hết sức nghiêm túc không chỉ đối với các chuyên gia về lễ hội, mà còn là trách nhiệm của những ai có quan tâm đến lĩnh vực này, đặc biệt là muốn phục dựng một số lễ hội quan trọng để phục vụ nhu cầu phát triển văn hóa hiện nay. —————- Tài liệu tham khảo: I. Ngô Đức Thịnh, “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền” , tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 14, II. Hữu Ngọc (chủ biên), “Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam”, NXB Thế Giới, Hà Nội,
Tháng giêng đã trôi đi quá nửa… Hương vị Tết cũng dần nhạt thôi! Trần cành cây cao, những nụ hoa gạo lố nhố xếp hàng. Phải nói ngay là hoa gạo không đẹp, từ hình dáng thô mộc đến màu sắc không lấy gì làm đặc biệt, thế mà mỗi mùa hoa gạo đến, người ta lại vẫn cứ xốn xang, nhớ nhớ điều gì đó. Có lẽ bởi thời điểm xuất hiện của nó. Bao giờ cho đến tháng ba Hoa gạo rụng xuống thì ta gieo vừng Bao giờ cho đến tháng ba Hoa gạo rụng xuống bà già cất chăn Nghĩa là nó báo hiệu ngày xuân đang dần cạn. Rét nàng Bân như dợm gót trở mùa. Mùa xuân đi qua người ta hay buồn vì ý niệm tuổi trẻ bị đánh cắp, bao nhiêu việc cần phải làm đang chờ đợi ở phía trước. Những tiếng trống cuối cùng của hội xuân đã có phần uể oải vì mưa xuân đã hết, ngoài đồng lúa đã bén rễ xanh um, sinh sôi cho một mùa vụ mới. Cái sự rụng của hoa gạo cũng thật buồn cười. Bộp… bộp, cứ thỏa mái buông mình từ cành cao xuống không cần câu nệ sự nhẹ nhàng, bay bỗng vốn có của loài hoa. Rơi xuống, bông thì nguyên dạng nấp vào đám cỏ, bông thì bầm dập vì nền đất đá, có con trâu, con bò đi qua gốc gạo không may bị hoa rơi trúng lưng thì hốt hoảng tưởng bị ai đánh, lồng lên chạy xuống bờ ruộng. Người đi làm đồng dính đồn hoa gạo thả, có khi thủng cả chiếc nón cũ. Từng bông gạo không đẹp nhưng nhìn trong tổng thể, nó lại là một loài cây làm cảnh rất thú vị. Nó làm đẹp cả một vùng xung quanh, đầu làng hay ngoài bến sông, giữa cánh đồng, thậm chí ở cạnh sân trường vùng quê. Công bằng mà nói: Nó phải được lên ngôi để sánh vai cùng Phượng Vĩ, hoa Sữa, mộc Lan, Bằng Lăng, Hoàng Điệp, vân vân và v.v… Cái dáng gầy guộc khẳng khiu của gạo cộng với lớp vỏ ngoài mốc meo gợi lên vẻ lam lũ quê mùa vừa khiến người ta liên tưởng tới sự vững chãi của một lão nông từng trải. Và trên những cánh tay dài lòng khòng ấy, mỗi khi có mưa xuân là lại bật lên những cái nị tròn tròn xanh biếc, rồi một ngày đủ lớn, bung nở đở rực như cây đèn nến trên cành. Cây gạo mọc ở nhiều nơi nhưng không ai lấy gỗ vì thân thì to nhưng gỗ thì mềm xốp, nhưng khi nó đã án ngữ ở không gian nào đó thì rất ít khi bị chặt. Có lẽ vì người ta sợ cái điều “thần cây đa, ma cây gạo”. Không ai mang hoa gạo về nhà để bày, bông gạo trắng muốt nhẹ tinh nhưng chẳng ai kì công nhặt về làm gối. Đôi lần tôi được sai đi đẽo vỏ cây gạo sắc với đỗ đen uống khi bị mắc chứng bệnh này sẽ giúp giảm đau và sung tấy. Cây gạo còn có tên Mộc Miên. Nhiều vùng ở phía Bắc, người ta trồng và chăm sóc công phu để lấy lá nấu nước uống giải nhiệt mùa hè. Hữu dụng cũng chỉ bằng ấy nhưng đến làng quê nào mà không thấy bóng dáng cây gạp là vẫn có cảm giác thiếu thốn điều gì. Mùa xuân này nắng nhiều, mưa bụi gần như không thấy, nhưng từ trên những con đường, bến bãi, gạp vẫn đơm bông và vẫn nhắc nhớ một vị xuân đậm đà.
More than half of January has passed... The taste of Tet is gradually fading! The ceiling of tree branches is high, the rice flower buds are lined up. It must be said right away that rice flowers are not beautiful, from the rough shape to the color, there is nothing special, but every rice flower season comes, people are still excited, remembering something. Perhaps because of the time of its appearance. How long until March? When rice flowers fall, we sow sesame seeds How long until March? Rice flowers fell on the old woman taking away the blanket That means it signals that spring days are gradually running out. Ms. Ban's coldness seemed to be starting to change. When spring passes, people often feel sad because of the notion that their youth has been stolen, and how many things that need to be done are waiting ahead. The sounds The last drum of the spring festival was a bit sluggish because the spring rain had ended, and the rice fields had taken root, growing green for a new crop. The falling of rice flowers is also very funny. Pop... tap, feel free to let yourself down from a high branch without worrying about the lightness and sudden flight inherent in flowers. Falling down, the flowers hid in the grass intact, the flowers were bruised because of the rocky ground. There was a buffalo or cow passing by the rice tree and unfortunately the flowers fell on their backs. They panicked, thinking someone had hit them, and ran up and down. field edge. People who work in the fields are rumored to drop rice flowers and sometimes their old hats have holes in them. Each rice flower is not beautiful, but overall, it is a very interesting ornamental plant. It beautifies the whole surrounding area, at the beginning of the village or at the riverbank, in the middle of the field, even next to the rural schoolyard. To be fair: It must be crowned to compete with Phuong Vi, Milk flower, Magnolia, Bang Lang, Hoang Diep, etc. The skinny and spindly appearance of the rice combined with the moldy outer shell evokes a rustic look and makes people think of the steadfastness of an experienced farmer. And on those long, slender arms, every time it rains in the spring, round green buds pop up, then one day they are big enough to bloom and shine brightly like candles on the branches. The rice tree grows in many places but no one takes the wood because the trunk is large but the wood is soft and spongy, but once it is in a certain space, it is rarely cut down. Perhaps because people are afraid of the "god of the banyan tree, the ghost of the rice tree". No one brought rice flowers home to display, the rice flowers were white and light, but no one took the trouble to pick them up to use as pillows. A few times, I was sent to carve the bark of a rice tree and mix it with black beans and drink it when I have this disease to help relieve pain and swelling. The rice plant is also called Moc Mien. In many areas in the North, people plant and care for the leaves meticulously to make drinks to cool off in the summer. The usefulness is just that, but when you go to a village and don't see a tree, you still feel like something is missing. This spring is sunny, the rain and dust are almost invisible, but the roads, yards, and flowers are still blooming and still remind of a rich spring taste.
Từ thuở xa xưa đồng dao – trò chơi dân gian vừa chơi vừa hát đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của trẻ thơ nước Việt như: xúc xắc xúc xỉa, thả đỉa ba ba, rồng rắn lên mây, nhảy lò cò, dung dăng dung dẻ, đúc cây dừa, tay có tay không, tập tầm vông, chi chi chành chành, nu na nu nống … Tất cả tạo nên nét sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc, nhất là diễn ra trong các dịp lễ tết, hội hè. Tuổi thơ nhiều thế hệ người Việt gắn liền với những bài đồng dao, những cánh diều bay bổng, trẻ mục đồng nông thôn chăn trâu thổi sáo trên những cánh đồng bát ngát, an lành. Trong kho tàng đồng dao nước Việt, có một bài đồng dao mà ngày xưa cứ mỗi độ Tết đến, xuân về lại rộn ràng trong tiếng trống hội, tiếng hò reo vui mừng, đã đi vào vào tiềm thức tuổi thơ của biết bao thế hệ người Việt. So với những dịp khác, trò chơi dân gian ngày Tết có phần đặc biệt hơn với bầu không khí hứng khởi và đầy ắp tiếng cười. Trò chơi dân gian này không đơn thuần là trò vui tiêu khiển mà nó chứa đựng những nét đẹp văn hóa đậm đà giá trị truyền thống dân tộc. Đó là trò chơi đồng dao Xúc xắc xúc xẻ mang hơi thở Tết đến rộn ràng. Đáng tiếc, ngày nay phong tục mang ống tre đi mừng tuổi ngày Tết đã biến mất, dù ở những làng quê xa xôi. Bài đồng dao xưa đã đến mọi nhà trong dịp năm mới với mong muốn về một cái Tết tràn ngập niềm vui tươi, từ chính nhóm ca đồng dao của trẻ thơ đã gắn kết tình cảm xóm giềng với lời chúc nhà nhà một mùa Xuân hưng thịnh, sung túc, an vui. Hầu hết các trò chơi đồng dao không chỉ rèn luyện thể chất mà còn đậm tính giải trí lành mạnh, đạt tới trình độ nghệ thuật cao và có giá trị thẩm mỹ cao, khơi gợi trí thông minh, tài ứng đáp, phản xạ linh hoạt của con người, đồng thời nêu cao tính cộng đồng. Những trò chơi dân gian này luôn được lưu giữ trong ký ức tuổi thơ của nhiều thế hệ người Việt. Có thể nói, các bậc tiền bối của chúng ta đã sáng tạo ra nhiều trò chơi dân gian tạo nên nét đặc trưng tiêu biểu, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của cư dân Việt Nam. Trong đó, đồng dao là một hình thức sinh hoạt của trẻ thơ trong lúc vui chơi vừa hát vừa chơi, nhằm thỏa mãn tính hiếu động và nhu cầu phát triển tâm – sinh lý tuổi thơ, đồng thời nội dung câu hát giúp các em vun đắp tâm hồn trẻ thơ và hiểu biết thêm về thiên nhiên, xã hội. Trẻ em ngày xưa cứ hồn nhiên lớn lên cùng những trò chơi dân dã rất có ý nghĩa trong quá trình vừa chơi vừa học, để dần dần hình thành nhân cách sống khi trưởng thành. Ngoài việc khuyến khích rèn luyện sức khỏe, còn thể hiện sự thông minh, khôn khéo của người chơi, gắn kết bè bạn, xóm làng. Thông qua các trò chơi đồng dao, trẻ thơ cũng có thể hiểu hơn về cuộc sống sinh hoạt đặc trưng, tiêu biểu nhất đang diễn ra trên vùng đất mình sinh sống. Qua đó nâng cao thể chất, ý chí phấn đấu rèn luyện của con trẻ, giáo dục được ý thức cộng đồng, bản sắc và truyền thống văn hóa của quê hương, nơi cộng cư của bao thế hệ và có thể từng bước phát triển, nâng cấp các trò chơi dân gian đồng dao trở thành môn thể thao yêu thích đậm tính văn hóa bản địa. Những bài đồng dao có nhịp điệu đơn giản gieo vần tự do, có thể ngắn hay dài tùy theo tính chất của trò chơi hoặc lặp đi lặp lại không dứt, diễn ra như một bức tranh sinh động của cuộc sống. Qua đó, sẽ lan tóa nét đẹp văn hóa dân gian Việt Nam đến khắp năm châu, bốn biển. Trong những thăng trầm suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trò chơi dân gian đồng dao là cốt cách, là truyền thống tạo nên nét đẹp sâu sắc của văn hóa. Khi đã trưởng thành, những bài đồng dao là ký ức êm đềm gắn bó với những tháng ngày trẻ thơ hồn nhiên, trong sáng. Những giá trị văn hóa truyền thống ấy mới tạo nên nền tảng, nguồn gốc cho sự phát triển bền vững, trường tồn của dân tộc. Chính vì thế, khôi phục lại trò chơi dân gian nói chung, đồng dao nói riêng là mong muốn của bao người dân nước Việt.
Since ancient times, folk songs - folk games played and sung at the same time, have played an extremely important role in the cultural and spiritual life of Vietnamese children such as: dice and floss, releasing leeches and tortoises, dragons and snakes climbing into the clouds, hopscotch, dung dang dung chestnuts, casting coconut trees, bare hands, practicing emptiness, chi chi swinging, nun na nu nung ... All create unique folk cultural activities, especially taking place during holidays and festivals. The childhood of many generations of Vietnamese people is associated with nursery rhymes, flying kites, and rural shepherd children herding buffaloes playing flutes in vast, peaceful fields. In the treasury of Vietnamese rhymes, there is a rhyme that in the past, every time Tet comes, spring comes bustling with the sound of festival drums and joyful cheers, has entered the childhood subconscious of countless generations. Vietnamese generation. Compared to other occasions, folk games on Tet are more special with an exciting atmosphere and full of laughter. This folk game is not simply a fun pastime but it contains cultural beauty rich in national traditional values. It's a nursery rhyme game Contact sawed dice Brings a bustling Tet breath. Unfortunately, today the custom of bringing bamboo tubes to celebrate New Year has disappeared, even in remote villages. The old nursery rhyme has come to every home during the New Year with the wish for a Tet filled with joy, from the group of children's nursery rhymes that have linked neighborly feelings with wishes for a prosperous Spring. prosperous, prosperous, happy. Most nursery rhyme games not only train the body but are also full of healthy entertainment, reaching a high artistic level and have high aesthetic value, evoking intelligence, response talent, and flexible reflexes. human activities, while promoting community. These folk games are always kept in the childhood memories of many generations of Vietnamese people. It can be said that our predecessors created many folk games that create typical characteristics and enrich the cultural and spiritual life of Vietnamese residents. In particular, nursery rhymes are a form of children's activities while having fun, singing and playing, to satisfy their hyperactivity and the need for childhood psycho-physiological development, and at the same time, the song's content helps them. Cultivate children's souls and understand more about nature and society. Children in the past grew up innocently with very meaningful folk games in the process of playing and learning, to gradually form their personality when they grew up. In addition to encouraging health training, it also shows the player's intelligence and cleverness, connecting with friends and neighbors. Through nursery rhyme games, children can also better understand the most typical and typical daily life taking place in the land where they live. Thereby improving children's physical health and will to strive for training, educating the sense of community, identity and cultural traditions of the homeland, a place of residence for many generations, and can gradually develop. , upgrading folk rhyme games to become a favorite sport imbued with indigenous culture. The rhymes have a simple rhythm that rhymes freely, can be short or long depending on the nature of the game or endlessly repeated, taking place like a vivid picture of life. Thereby, it will spread the beauty of Vietnamese folk culture to all five continents and four seas. In the ups and downs throughout the nation's history, folk games and rhymes are the essence and tradition that create the profound beauty of culture. When grown up, nursery rhymes are peaceful memories attached to the innocent, pure childhood days. Those traditional cultural values ​​create the foundation and source for the sustainable and lasting development of the nation. Therefore, restoring folk games in general and nursery rhymes in particular is the wish of many Vietnamese people.
Mùa xuân gì nói nữa là sai – Mùa xuân nào đang đợi – Mùa xuân gì phía trước – Mùa xuân của ai miên trường…? Để thi sĩ Bùi Giáng Chào Nguyên Xuân. Có phải, mùa xuân lưu niệm nuối tiếc dĩ vãng vàng son “ Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem chi xuân lại gợi thêm sầu ” của Xuân Diệu, hay Văn Cao hy vọng “Mùa xuân ước mơ ấy đang đến đầu tiên… Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu ” hay mùa xuân thường tại nơi chốn hiện nay “ Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường phía sau ” của Bùi Giáng. Nguyên Xuân trong thơ Bùi Giáng có nguồn gốc với Nguồn sống là cái “ Chết mà không mất ” nó duy nhất và tuyệt đối như chữ Đạo của Lão Tử. Con người là một sinh thể, sinh và tử – tử và sinh đi liền nhau như một dòng sông chảy, khoảng nối tiếp sinh – tử là ly biệt giữa các hình thể (tướng) để cái Sống (thể) đi về chỗ khác với hình thức mới “ Tôi về nơi chốn có Mồng Một Giêng ”. Cái Sống đối với hình thể ta cũng như “ lửa đối với củi ” từ bó củi này lửa qua bó củi kia, không khác gì Sóng với Nước , sóng vào bờ lại tan như không mất hẳn mà tạo ra con sóng phía sau “ Xuân về xuân lại xuân đi/ Đi là đi biệt từ khi chưa về” . Xuân đi, xuân đến, xuân tàn nhưng không mất bản thể Nguyên xuân “ Tóc xanh dù có phai màu/ Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng” . Nguyên xuân là nguồn mạch từ niềm xa biệt “ Đi về một bữa hôm nay/ Nhớ ngàn xưa đã về đây một lần ”. Gặp hình thể nào cũng đáng vui mừng cái hình thể mới thì cái vui ấy tất nhiên cũng miên trường. Ở đời, ai cũng biết xuân của hoa lá đâm chồi nẩy lộc “ Cỏ non xanh rợn chân trời/ cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”, xuân của sức sống rừng rực dâng trào “ Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê ”. .. Tất cả “ lạc ” rồi “ khai ” xuân đi rồi xuân đến, đừng lo “ Chuyện đời trước mắt trôi ” chờ đợi xuân sẽ trở lại. Còn xuân thường tại gọi Nguyên Xuân thì ít ai biết đến. Cái xuân này không thể biết theo lời nói, mà ở trong cái Sống của nó “ Bây giờ rõ mặt đôi ta/ Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ”. Nếu chúng ta không sống với nó, thì tất cả xuân chỉ là mộng tưởng. Thiền sư Thanh Viễn nói “ Duy hữu thức xuân nhơn/ Vạn kiếp nguyên nhất xuân ”, chỉ có người biết xuân thì muôn kiếp một mùa xuân. Nói về xuân, không thể không nói đến bài thi kệ “ Cáo tật thị chúng ” của Thiền sư Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI thời Lý cách đây gần ngàn năm. Bài thơ nguyên gốc chữ Hán Thiền sư là người tu Thiền, lấy Vô Niệm làm Tông – Vô tướng làm Thể – lấy Vô trụ làm Trụ, họ không làm thơ như ngoài đời nghĩ. Thiền sư chỉ có hoài bão khai thị dẫn dắt đệ tử trên con đường thực nghiệm tâm linh. Có thể nói rằng vào lúc tâm tư tịch lặng an nhiên tự tại, khi những thăng trầm của thế sự không còn làm bận lòng và khi cánh hoa rơi không làm tâm hồn xao xuyến “ Tha hồ lẽ thịnh suy, lòng không chút sợ hải ”, họ ngộ ra cái trường cửu “ Bất sinh bất diệt/ Bất cấu bất tịnh/ Bất tăng bất giảm ”. Thiền sư mỉm cười viết bài kệ để lại cho đệ tử trước lúc sắp từ giã cuộc đời. Ngôn ngữ bài kệ dù không đẽo gọt, uốn nắn, tìm chữ, sắp đặt ý lời, nhưng đã vô tình trở thành bài thơ “ Cáo tật thị chúng ” (Cáo bệnh để dạy đệ tử). Nếu dân gian đón nhận bài thi kệ như một bài thơ hay thì điều đó không phải là chủ đích của thiền sư. Hiện nay có nhiều bản dịch theo hai dạng “Thi vị” hay “Thiền vị” “ Hoa rụng/ Hoa cười ” rất tự nhiên và nhẹ nhàng, gợi lên sắc tướng “ Xuân ” trước mắt mà ai cũng cảm nhận khi xuân đến và đi. “ Hoa lạc/ Hoa khai ” làm ta liên tưởng đến “ lạc ” là sự tất yếu khi nhân duyên cũ rã rời để cho duyên mới tụ hợp “ khai ”. Vậy “ lạc để khai, khai để lạc ” sinh sinh tử tử không biết đâu là khởi điểm trên một vòng tròn. Một hình thể xuân đến – đi cho vô lượng hình thể xuân nối tiếp cái Nguyên Xuân đó mà thôi. “ Xuân đi – Xuân đến ” của vạn vật đâu có giống nhau vì mỗi vạn vật là “ độc nhất vô nhị ”, như con ve không biết xuân thời tiết vì nó chỉ sống mùa hè, tai nấm nở trong buổi mai, cây đại xuân tới tám ngàn năm mới có xuân.. . Thế thì xuân đi – xuân đến là xuân của cái Sống, cái Nguyên Xuân của nó, mà phận sự duy nhất của nó là trở về cái Chân thể ấy. “ Sự trục nhãn tiền quá/ Lão tùng đầu thượng lai ” Thiền sư mô tả hiện tượng xảy ra trước mắt khách quan, không đánh giá, không bình luận như cơn gió thổi khóm trúc lay, gió đi rồi trúc không giữ lại, không tiếc nối âm thanh. Cũng như chim nhạn bay ngang qua hồ, nhạn qua rồi mặt hồ không lưu ảnh của chim nữa “ Chuyện đời trước mắt trôi ” an nhiên tự tại hơn “ Trước mắt việc đi mãi ” nghe thấy buồn khi sự việc trôi qua. Và khi việc qua rồi tâm lại thảnh thơi “ Trên đầu tuổi già lại ” không xao động băn khoăn theo tiếng thở dài “ Trên đầu già đến rồi ”. “ Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận/ Đình tiền tạc dạ nhất chi mai ” Thiền sư nói: “ Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết ” mang tính phủ nhận triệt để, khiến người đọc không khỏi bàng hoàng kinh ngạc “ Xuân đi – Xuân đến ” rồi lại “ Xuân tàn” nhưng hoa không rụng hết “ Muôn vật từ xưa nay/ Tướng thường tự vắng lặng ” không phải là sự tan biến mất hết mà sự sống đã xuất hiện “ Ngoài sân, đêm trước, một cành mai ”. Thiền sư viết một câu có ba cụm từ rời rạc “ Đình tiền – Tạc dạ – Nhất chi mai” như là sự hiện hữu không gian – thời gian – hiện tại của thế giới tĩnh trong niềm tịch lặng vô biên, chẳng khác gì dạng tranh tĩnh vật mô tả chủ đề vô tri vô giác nhưng ẩn chứa nhiều ý nghĩa của họa sĩ. Thiền sư không cần thấy một cành mai vật chất ở ngoài sân và cũng không cần phải thấy cành mai bây giờ nữa. Sự chứng ngộ đã làm cho cái mà đêm qua thiền sư nhìn thấy đó không bao giờ mất được, là nói về Nguyên Xuân đó thôi. Dù sự cảm nhận của mỗi người dĩ nhiên không thể giống nhau, nhưng đọc vào thấy khoan khoái nhẹ nhàng để cho nụ cười nở trên môi và chặt đứt hết vọng tưởng về tự ngã biệt lập với muôn vật. Như Holderlin nói “ Con người sống trên đời như một thi sĩ ” sống giữa lòng những gì thiêng liêng vừa ẩn giấu, vừa vẫy gọi, mang ta đến gần bản chất của sự vật và thấy mình trong lòng sự vật.
It's wrong to say anything about spring - What spring is waiting - What spring is ahead - Whose spring is eternal...? To poet Bui Giang Hello Nguyen Xuan. Isn't it true that spring is a time of nostalgia and regret for the golden past? I There's no waiting, there's no waiting/ Bringing spring brings more sadness ” by Xuan Dieu, or Van Cao's hope "Spring That dream is coming first... The spring of that dream has never come ”or spring is often in this place” Ask for Greeting each other in the middle of the road / Spring ahead, school behind ” by Bui Giang. Nguyen Xuan in Bui Giang's poetry has its origin with the Source of life which is the " Die without loss ” it is as unique and absolute as Lao Tzu's word Tao. A human being is a living being, birth and death - death and birth go together like a flowing river, the interval between birth and death is the separation between the two. shape (general) to the Living (can) go somewhere else with a new form" I about the place where the first lunar month is located ”. The Living for shape me too" fire for firewood ” From this bundle of firewood to that bundle of firewood, there is no difference Wave with Water , the wave reached the shore and then dissipated as if it did not completely disappear, but created a wave behind. Spring Come back in the spring, come back again in the spring/ When you leave, you'll be gone before you return." . Spring goes, spring comes, spring fades but does not lose its original essence. Green hair Even if the color fades, the trees will still promise each other." . Spring is the source of separation. Going back for a meal today/ Remembering coming here once a long time ago ”. Meet shape Anything worth being happy about new body shape Of course, that joy also lasts forever. In life, everyone knows that flowers and leaves sprout in spring. Grass green trees creeping up the horizon/ white pear branches dotted with a few flowers ", the spring of vibrant forest vitality surges" Green spring is approximately the week of millet harvest ”. .. All " lost " Already " declare "Spring goes, spring comes, don't worry" Story The life before your eyes passes ”waiting for spring to return. Few people know about spring, which is called Nguyen Xuan. This spring cannot be known in words, but in its Life. You Now our faces are clear / Who knows, maybe it's not just a dream ”. If we don't live with it, all spring is just a dream. Zen master Thanh Vien said: Duy Consciousness springs from spring / Ten thousand lifetimes are spring ", only those who know spring will always have spring. Talking about spring, we cannot help but mention the poem " Fox blindness to them ” by Zen Master Man Giac, a Vietnamese Zen master in the 11th century during the Ly Dynasty nearly a thousand years ago. Original poem in Chinese A Zen master is someone who practices Zen Vo Niem make Tong – Formless do Body – take Headless As Tru, they don't write poetry like real people think. Zen masters only have the ambition to enlighten and guide their disciples on the path of spiritual experience. It can be said that at a time when the mind is calm and peaceful, when the ups and downs of worldly affairs no longer bother us and when falling flower petals do not disturb the soul. Excuse May it rise and fall, but my heart is not afraid at all ", they realized the eternal" Real Born and never destroyed/ Unformed and impure/ Never increasing or decreasing ”. The Zen master smiled and wrote a verse to leave for his disciple before he was about to leave his life. Even though the language of the poem was not shaped, molded, found words, or arranged, it unintentionally became a poem. Reported visual impairment they ” (Reporting illness to teach disciples). If people accept the verse as a good poem, that is not the Zen master's intention. Currently, there are many translations in two forms: "Poetry" or "Zen" “ Flower fall/ Flowers laugh "Very natural and gentle, evoking appearance" Spring ” In front of everyone's eyes, everyone feels when spring comes and goes. “ Peanut flower/ Flower declare "makes me think of" lost "is inevitable when the old fate falls apart so that the new fate can gather" declare ”. So " lost to declare, declare to get lost ” Life and death don't know where the starting point is on a circle. One spring form comes - goes for countless spring forms to follow that Original Spring. “ Spring go – Spring comes ” of all things are not the same because each of them is “ unique unique ", like a cicada that doesn't know the weather in spring because it only lives in summer, a mushroom that blooms in the morning, a spring tree that takes eight thousand years to have spring... Then Spring goes – spring comes is the spring of the Living, its Original Spring, whose only mission is to return to that True Being. “ The trouble is too obvious / The old part of the top comes back ” The Zen master described the phenomenon happening before his eyes objectively, without evaluation, without comment, like the wind blowing a bamboo clump, the wind goes and the bamboo does not hold back, does not regret making a sound. Just like a swallow flying across a lake, the swallow passes and the lake surface no longer retains the image of the bird. Story The life before your eyes passes "more peaceful and free" The work ahead is forever ” felt sad when the incident passed. And when the incident is over, the mind relaxes again. Above old age again "undisturbed and disturbed by the sigh" Above The old head is here ”. “ Mac taste Spring fades, flowers fade away/ The communal house is carved Yes most roof ” The Zen master said: “ Do not It is said that when spring fades, all the flowers fall "is a radical denial, leaving the reader in shock and amazement." Spring go – Xuan arrive " and then " Spring "decay" But the flowers don't all fall." Muon Objects from ancient times/The appearance is often quiet "It is not that everything has disappeared, but life has appeared" In the yard, the night before, an apricot branch ”. The Zen master wrote a sentence with three separate phrases: Dinh money – Satisfaction – Best of luck” as the space - time - present existence of the static world in boundless silence, no different from the form of still life paintings depicting inanimate subjects but containing many hidden meanings of the artist. The Zen master does not need to see a physical apricot branch in the yard and also does not need to see the apricot branch now. The realization that made what the Zen master saw last night never disappear, is about Nguyen Xuan that's it. Although each person's feelings of course cannot be the same, reading it feels refreshing and gentle, making a smile appear on the lips and cutting off all illusions about the self being separate from all things. As Holderlin says “ Child who lives in the world as a poet ” Living in the heart of the sacred is both hidden and beckoning, bringing us closer to the nature of things and finding ourselves in the heart of things.
Trường ca “Động hoa vàng” được Phạm Thiên Thư sáng tạo năm 1971, trong thời gian tác giả tạm lánh bụi trần, vô Tu viện Pháp Vân (Sài Gòn) làm tu sĩ gần mười năm (1964-1973). Đúng như lời tác giả nói, ông vô chùa để tu theo lối riêng mình. “Động hoa vàng” là một trong những lối tu riêng ấy: làm Thơ để trình bày Đạo mà người đời gọi là ông “thi hóa kinh Phật”. “Động hoa vàng” gồm 100 khổ thơ lục bát, mỗi khổ 4 dòng, tổng cộng 400 dòng. Có khá nhiều dòng thơ được ngắt thành hai, ba, thậm chí bốn chỗ xuống dòng: Ý thức làm mới hình thể thơ lục bát như vậy cũng làm cho ý thơ vừa nhẹ hơn, vừa sâu hơn, trong trường hợp này càng hợp hơn, làm cho thơ tỏa chất Thiền. Sau này, nhiều thi sĩ cũng làm lối lục bát như vậy, họ gọi đó là sự cách tân thơ lục bát truyền thống. Một bản trường thi chen lẫn yếu tố tự sự là sự tiếp nối thành tựu thơ Việt trên con đường hiện đại hóa. “Động hoa vàng” mở ra là hiện tại – vô tướng: Tiếp nối mạch trữ tình là hồi cố về một thời hoa mộng: Con khuyên nó hót trên bờ em thay áo tím thờ ơ giang đầu tưởng xưa có kẻ trên lầu ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa Tóc dài cuối nội mây xa vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay dùng dằng tay lại cầm tay trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa Trước nghiệt ngã của sự đời ly tan, ta chọn Đạo, chọn “ trăng khuya: pháp bảo, trăng tà: vô ngôn ”, chọn “ khói trầm thơm tụng kinh hiền ” để giải thoát sầu bi, để đạt tới cõi tâm không: Để rồi cuối cùng, tập thơ đọng lại mãi mãi sự thanh thoát của “động hoa vàng” chân như: * * * Thế giới nghệ thuật “Động hoa vàng” có Như Lai, có Phật, có thiền sư (“ thiền sư ngắt cỏ cúng dường Phật thân ”, “động nam hoa có thiền sư”, “ mặc chi cởi áo thiền sư ỡm ờ ”,…) nhưng cũng có một câu chuyện tình yêu không thành: Chính yếu tố lãng mạn đó làm cho “Động hoa vàng” hữu sự lại hữu tình, kéo dài 100 khổ thơ đánh vào trí tò mò của người thưởng thơ, nhất là bản trường ca này được biết nhiều qua bản nhạc của Phạm Duy có cái tựa càng lãng mạn hơn: Đưa em tìm động hoa vàng! Thi sĩ Phạm Thiên Thư khéo léo đan cài một câu chuyện đẫm màu sắc Đạo giáo nữa vào bản “thi hóa kinh Phật” của mình: câu chuyện Từ Thức tiên hôn lục ( Từ Thức lấy vợ tiên ) được Nguyễn Dữ ghi chép lại trong Truyền kỳ mạn lục . Chuyện kể quan tri huyện Từ Thức tính tình phóng khoáng, hòa hoa đã cởi áo gấm đền cho người giữ hoa mà cứu người con gái sơ ý làm gãy cành hoa mẫu đơn. Sau, Từ Thức từ quan đi chu du, lạc đến Thiên Thai, gặp lại người con gái làm gãy cành hoa mẫu đơn ngày trước. Hai người thành vợ chồng, sống với nhau chừng một năm, Từ Thức nhớ quê, nhớ cõi trần, xin được trở lại quê cũ. Nào ngờ, một năm cõi tiên bằng trăm năm cõi trần. Không còn ai nhớ chàng nữa, chàng bèn tìm đường trở lại động Phù Lai nhưng tất cả đã khép: Nhạc sĩ Phạm Duy mở đầu bản nhạc “Đưa em tìm động hoa vàng” bằng hai câu cuối của khổ thơ thứ 41: Điều đó có nghĩa là tác phẩm của nhạc sĩ họ Phạm bắt đầu bằng chuyện của quá khứ, kể câu chuyện bằng âm thanh theo dòng thời gian. Còn câu chuyện bằng thơ của thi sĩ họ Phạm là sự đan xen hiện tại-quá khứ-hiện tại. Quá khứ là một vị quan không màng lợi danh, lại gặp chuyện buồn (người yêu đi lấy chồng) bèn “ từ quan ” “ lên non ”, “ vào non ” để tu thân-tu tánh-tu tâm ( tìm động hoa vàng ngủ say ). Nhân vật trữ tình xưng “ anh ”, “ tôi ”, chính là “ gã từ quan ” – kẻ chán chuyện công danh, chán giấc mộng hòe, đi tìm và đã đạt tới quán chiếu: Chia xa “ em ” mười năm trước, ta nhỏ lệ, xuống tóc từ giã phù vân, “ lên chót đỉnh rừng thiền ”. Nào ngờ, trong giấc chiêm bao, em vẫn trở về, ta “ giả bộ hờ hững ” mà “ nao nao ” sương khói mộng mị: Và rồi, đến em, em cũng lại nương nhờ tay Phật: Ni về khép cửa chùa tu sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng áo em phất cõi di đà ngón chân em nở cánh hoa đại từ Để trong giấc mộng, “ người tiền kiếp ” từng làm ta thẫn thờ “ trèo lên cây bưởi ” “ bước xuống vườn cà ”, nay tất cả chỉ còn lại một cõi không hư nhẹ nhàng, thanh thoát: Quả là, Đạo trong “Động hoa vàng” thật đời, rất đời. Đậm đời mà vẫn vô tướng, chân như. * * * Nếu lược bỏ các yếu tố tự sự làm cớ cho mạch thơ thì toàn bộ thi hứng của “Động hoa vàng” chính là cảm thức thiền môn, hình sắc thiền tính. Triết cảm của thiền sư Tuệ Không (pháp danh của Phạm Thiên Thư) là một khi đã rũ bỏ tham dục, nương nhờ di đà thì toàn thế giới đọng kết lại một mùa xuân vĩnh viễn. Có thể thấy, hình tượng “ xuân ” xuất hiện khá nhiều (16 lần) trên 100 khổ thơ. Có thể kể ra như sau: “ Xuân ” trước hết là mùa, mùa đầu tiên của năm, cũng là mùa đẹp nhất của năm, mùa của vẻ đẹp, sức sống, tình yêu. “ Xuân ” còn ẩn dụ cho vẻ đẹp vừa thanh tân, thanh tao, thanh xuân vừa tươi thắm, tươi tắn, tươi trẻ lại vừa nồng nàn, nồng say, nồng thắm… Trong 16 lần xuất hiện đó, “ xuân ” đa nghĩa như thế, đưa đến một thế giới hoài niệm tha thiết, bồi hồi. Song, những vẻ đẹp trần thế dẫu thánh thiện ấy vẫn tan loãng rồi tan biến đi. Từ ca khúc thứ 71 cho đến hết, từ “ xuân ” không còn xuất hiện nữa. Nhưng, 30 thi khúc cuối cùng của “Động hoa vàng” là xuân vĩnh cửu bởi nó đã vượt qua, vượt lên trên dòng dịch hóa để đạt tới trạng thái xuân bất biến. Tâm đạt tới chánh niệm, trí nghiệm tới tánh không thì thân an tịnh, an nhiên trên con đường giải thoát. Đi cùng với triết cảm “ xuân ” đầy chất Đạo như thế, trong Động hoa vàng, thiền sư Phạm Thiên Thư thường dùng động từ “ bay ”: “ chim bay ” (3 lần), “ tà huy bay ”, “ dòng nhạn bay ”, “ sương bay ”, “đôi uyên ương bay”, “ cờ lau bay ”, “ lời thề gió bay ”, “ tóc bay ”, “ hạc bay ”, “ hoa bay ”, “áo em bay”, “ khói bay ”, “ chim điểm hồng bay ”, “ mây bay ”. Cùng với điệp từ “bay”, những động từ “qua” (mây qua), “rơi”, “di” (chim di), “xuôi”, “dời”, “dốc” (nậm ngọc dốc tà huy), “đổ”, “trôi”, “sa” (2 lần), “buông”, “rụng” (2 lần)… dễ hình dung dòng dịch hóa vô thường, sắc không, hư ảo. Khi đã vượt qua được nỗi tiếc – tiếc tình, tiếc đời, khi đã vượt qua tướng sắc, khi đã đạt đến quán chiếu thì Thiền môn “động hoa vàng” hiện ra, mở ra – cực lạc vô biên, màu nhiệm bất biến… * * * Trường ca “Động hoa vàng” là con đường chiêm nghiệm, thể hiện và viên mãn của thi sĩ Phạm Thiên Thư dụng tâm, dụng công phổ kinh Phật bằng thơ. Nó thật đẹp, thật lạ, thật tài; nó thật độc đáo! Nó không phải là kinh, vì nó dễ tiếp cận, dễ thụ cảm hơn kinh. Nó dường như một bài kệ, nhưng dung lượng bài kệ này đáng nể! Nó thâm trầm, triết lý, đầy Thiền vị, được biểu đạt bằng hình tượng – biểu tượng tuyệt kỹ và nhất là bằng một thế giới nghệ thuật vừa Đạo vừa Đời, vừa gần gũi, thân quen vừa bay bổng, thanh thoát kỳ lạ! “Thơ và đạo không cùng biên giới mà như có biên giới – biên giới tìm không ra, đó là chỗ khó của người tu làm thơ. […] Thành ra Phạm Thiên Thư là người độc đáo – có một không có hai.” (Tam Ích, Lời bạt Động hoa vàng , NXB Văn hóa-Văn nghệ, 2012).
Trường ca “Động hoa vàng” được Phạm Thiên Thư sáng tạo năm 1971, trong thời gian tác giả tạm lánh bụi trần, vô Tu viện Pháp Vân (Sài Gòn) làm tu sĩ gần mười năm (1964-1973). Đúng như lời tác giả nói, ông vô chùa để tu theo lối riêng mình. “Động hoa vàng” là một trong những lối tu riêng ấy: làm Thơ để trình bày Đạo mà người đời gọi là ông “thi hóa kinh Phật”. “Động hoa vàng” gồm 100 khổ thơ lục bát, mỗi khổ 4 dòng, tổng cộng 400 dòng. Có khá nhiều dòng thơ được ngắt thành hai, ba, thậm chí bốn chỗ xuống dòng: Ý thức làm mới hình thể thơ lục bát như vậy cũng làm cho ý thơ vừa nhẹ hơn, vừa sâu hơn, trong trường hợp này càng hợp hơn, làm cho thơ tỏa chất Thiền. Sau này, nhiều thi sĩ cũng làm lối lục bát như vậy, họ gọi đó là sự cách tân thơ lục bát truyền thống. Một bản trường thi chen lẫn yếu tố tự sự là sự tiếp nối thành tựu thơ Việt trên con đường hiện đại hóa. “Động hoa vàng” mở ra là hiện tại – vô tướng: Tiếp nối mạch trữ tình là hồi cố về một thời hoa mộng: Con khuyên nó hót trên bờ em thay áo tím thờ ơ giang đầu tưởng xưa có kẻ trên lầu ngày xuân gieo nhẹ trái cầu gấm hoa Tóc dài cuối nội mây xa vàng con bướm nhụy lẫn tà huy bay dùng dằng tay lại cầm tay trao nhau khăn lụa nhớ ngày sầu đưa Trước nghiệt ngã của sự đời ly tan, ta chọn Đạo, chọn “ trăng khuya: pháp bảo, trăng tà: vô ngôn ”, chọn “ khói trầm thơm tụng kinh hiền ” để giải thoát sầu bi, để đạt tới cõi tâm không: Để rồi cuối cùng, tập thơ đọng lại mãi mãi sự thanh thoát của “động hoa vàng” chân như: * * * Thế giới nghệ thuật “Động hoa vàng” có Như Lai, có Phật, có thiền sư (“ thiền sư ngắt cỏ cúng dường Phật thân ”, “động nam hoa có thiền sư”, “ mặc chi cởi áo thiền sư ỡm ờ ”,…) nhưng cũng có một câu chuyện tình yêu không thành: Chính yếu tố lãng mạn đó làm cho “Động hoa vàng” hữu sự lại hữu tình, kéo dài 100 khổ thơ đánh vào trí tò mò của người thưởng thơ, nhất là bản trường ca này được biết nhiều qua bản nhạc của Phạm Duy có cái tựa càng lãng mạn hơn: Đưa em tìm động hoa vàng! Thi sĩ Phạm Thiên Thư khéo léo đan cài một câu chuyện đẫm màu sắc Đạo giáo nữa vào bản “thi hóa kinh Phật” của mình: câu chuyện Từ Thức tiên hôn lục ( Từ Thức lấy vợ tiên ) được Nguyễn Dữ ghi chép lại trong Truyền kỳ mạn lục . Chuyện kể quan tri huyện Từ Thức tính tình phóng khoáng, hòa hoa đã cởi áo gấm đền cho người giữ hoa mà cứu người con gái sơ ý làm gãy cành hoa mẫu đơn. Sau, Từ Thức từ quan đi chu du, lạc đến Thiên Thai, gặp lại người con gái làm gãy cành hoa mẫu đơn ngày trước. Hai người thành vợ chồng, sống với nhau chừng một năm, Từ Thức nhớ quê, nhớ cõi trần, xin được trở lại quê cũ. Nào ngờ, một năm cõi tiên bằng trăm năm cõi trần. Không còn ai nhớ chàng nữa, chàng bèn tìm đường trở lại động Phù Lai nhưng tất cả đã khép: Nhạc sĩ Phạm Duy mở đầu bản nhạc “Đưa em tìm động hoa vàng” bằng hai câu cuối của khổ thơ thứ 41: Điều đó có nghĩa là tác phẩm của nhạc sĩ họ Phạm bắt đầu bằng chuyện của quá khứ, kể câu chuyện bằng âm thanh theo dòng thời gian. Còn câu chuyện bằng thơ của thi sĩ họ Phạm là sự đan xen hiện tại-quá khứ-hiện tại. Quá khứ là một vị quan không màng lợi danh, lại gặp chuyện buồn (người yêu đi lấy chồng) bèn “ từ quan ” “ lên non ”, “ vào non ” để tu thân-tu tánh-tu tâm ( tìm động hoa vàng ngủ say ). Nhân vật trữ tình xưng “ anh ”, “ tôi ”, chính là “ gã từ quan ” – kẻ chán chuyện công danh, chán giấc mộng hòe, đi tìm và đã đạt tới quán chiếu: Chia xa “ em ” mười năm trước, ta nhỏ lệ, xuống tóc từ giã phù vân, “ lên chót đỉnh rừng thiền ”. Nào ngờ, trong giấc chiêm bao, em vẫn trở về, ta “ giả bộ hờ hững ” mà “ nao nao ” sương khói mộng mị: Và rồi, đến em, em cũng lại nương nhờ tay Phật: Ni về khép cửa chùa tu sớm mai mở cổng quét thu vườn hồng áo em phất cõi di đà ngón chân em nở cánh hoa đại từ Để trong giấc mộng, “ người tiền kiếp ” từng làm ta thẫn thờ “ trèo lên cây bưởi ” “ bước xuống vườn cà ”, nay tất cả chỉ còn lại một cõi không hư nhẹ nhàng, thanh thoát: Quả là, Đạo trong “Động hoa vàng” thật đời, rất đời. Đậm đời mà vẫn vô tướng, chân như. * * * Nếu lược bỏ các yếu tố tự sự làm cớ cho mạch thơ thì toàn bộ thi hứng của “Động hoa vàng” chính là cảm thức thiền môn, hình sắc thiền tính. Triết cảm của thiền sư Tuệ Không (pháp danh của Phạm Thiên Thư) là một khi đã rũ bỏ tham dục, nương nhờ di đà thì toàn thế giới đọng kết lại một mùa xuân vĩnh viễn. Có thể thấy, hình tượng “ xuân ” xuất hiện khá nhiều (16 lần) trên 100 khổ thơ. Có thể kể ra như sau: “ Xuân ” trước hết là mùa, mùa đầu tiên của năm, cũng là mùa đẹp nhất của năm, mùa của vẻ đẹp, sức sống, tình yêu. “ Xuân ” còn ẩn dụ cho vẻ đẹp vừa thanh tân, thanh tao, thanh xuân vừa tươi thắm, tươi tắn, tươi trẻ lại vừa nồng nàn, nồng say, nồng thắm… Trong 16 lần xuất hiện đó, “ xuân ” đa nghĩa như thế, đưa đến một thế giới hoài niệm tha thiết, bồi hồi. Song, những vẻ đẹp trần thế dẫu thánh thiện ấy vẫn tan loãng rồi tan biến đi. Từ ca khúc thứ 71 cho đến hết, từ “ xuân ” không còn xuất hiện nữa. Nhưng, 30 thi khúc cuối cùng của “Động hoa vàng” là xuân vĩnh cửu bởi nó đã vượt qua, vượt lên trên dòng dịch hóa để đạt tới trạng thái xuân bất biến. Tâm đạt tới chánh niệm, trí nghiệm tới tánh không thì thân an tịnh, an nhiên trên con đường giải thoát. Đi cùng với triết cảm “ xuân ” đầy chất Đạo như thế, trong Động hoa vàng, thiền sư Phạm Thiên Thư thường dùng động từ “ bay ”: “ chim bay ” (3 lần), “ tà huy bay ”, “ dòng nhạn bay ”, “ sương bay ”, “đôi uyên ương bay”, “ cờ lau bay ”, “ lời thề gió bay ”, “ tóc bay ”, “ hạc bay ”, “ hoa bay ”, “áo em bay”, “ khói bay ”, “ chim điểm hồng bay ”, “ mây bay ”. Cùng với điệp từ “bay”, những động từ “qua” (mây qua), “rơi”, “di” (chim di), “xuôi”, “dời”, “dốc” (nậm ngọc dốc tà huy), “đổ”, “trôi”, “sa” (2 lần), “buông”, “rụng” (2 lần)… dễ hình dung dòng dịch hóa vô thường, sắc không, hư ảo. Khi đã vượt qua được nỗi tiếc – tiếc tình, tiếc đời, khi đã vượt qua tướng sắc, khi đã đạt đến quán chiếu thì Thiền môn “động hoa vàng” hiện ra, mở ra – cực lạc vô biên, màu nhiệm bất biến… * * * Trường ca “Động hoa vàng” là con đường chiêm nghiệm, thể hiện và viên mãn của thi sĩ Phạm Thiên Thư dụng tâm, dụng công phổ kinh Phật bằng thơ. Nó thật đẹp, thật lạ, thật tài; nó thật độc đáo! Nó không phải là kinh, vì nó dễ tiếp cận, dễ thụ cảm hơn kinh. Nó dường như một bài kệ, nhưng dung lượng bài kệ này đáng nể! Nó thâm trầm, triết lý, đầy Thiền vị, được biểu đạt bằng hình tượng – biểu tượng tuyệt kỹ và nhất là bằng một thế giới nghệ thuật vừa Đạo vừa Đời, vừa gần gũi, thân quen vừa bay bổng, thanh thoát kỳ lạ! “Thơ và đạo không cùng biên giới mà như có biên giới – biên giới tìm không ra, đó là chỗ khó của người tu làm thơ. […] Thành ra Phạm Thiên Thư là người độc đáo – có một không có hai.” (Tam Ích, Lời bạt Động hoa vàng , NXB Văn hóa-Văn nghệ, 2012).
Theo ngọn gió Bùi Giáng thi sĩ dẫn đường “Gió Lệ Trạch thổi qua Cổ Tháp” tôi về làng quê Duy Xuyên giữa một ngày xuân tưng bừng thơ dại. Ngược chiều với câu thơ, nghĩa là theo hướng đông- tây,từ Cổ Tháp qua An Lâm rồi mới đến Lệ Trạch. Lên xa hơn nữa là Cù Bàn, Kiểm Lâm. Và rồi cả một vùng Tây – Duy Xuyên mênh mông những An Hòa, Mỹ Sơn , Mỹ Lược, Thu Bồn , Phú Đa… Thời đánh Tây năm xưa, gia đình Bùi Giáng và hầu hết họ Bùi tộc chuyển lên định cư ở hẳn vùng Trung Phước. Giữa bạt ngàn đồi núi nhấp nhô này, nơi nào Bùi thi sĩ từng một thời “Anh lùa bò vào đồi sim trái chín” . Cũng chẳng rõ nữa, nhưng chắc chắn rằng trên những lối đi này đã mòn nhẵn bước chân thời hoa niên của ông. “Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu. Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người” . Thơ ấy là cách thi sĩ gọi tên đất tên làng cho… hả nhớ, nó như một phản xạ từ vô thức chẳng mong đạt tới một ý nghĩa nào ghê gớm. Làm sao cắt nghĩa nhớ, làm sao cắt nghĩa yêu, làm sao cắt nghĩa một thứ tình bát ngát căng đầy trong máu huyết châu thân, ví như khi bàn tay người mẹ chạm vào sợi tao nôi là lập tức khúc hát ru ầu ơ từ tim phổi trào ra: “Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng. Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi” ! Giữa một trạng huống, một tâm thế phiêu bồng nhẹ tênh, ngẫu nhiên ngày xuân cám dỗ tôi có mặt trên xứ sở thi sĩ Bùi Giáng. Một xứ sở như thế thì đã vượt xa tầm của một địa lý, mà là cội nguồn, là quê hương của giống loài: “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội…”. Vậy mà đôi bàn chân trần ai của tôi, hữu hạn của tôi, lại xiêu lệch mon men tới bờ cõi này để tưởng ra người xưa đâu đó trong nắng sớm mưa chiều bất tuyệt những âm vang. Du xuân trong một làng quê nghe rõ “biển xanh dâu” thế kia thì chẳng thể khuôn vào trong cái giới hạn vài cây số đường dài từ Cổ tháp đến Lệ Trạch nữa rồi, mà là cái làng quê của sông cạn đá mòn, cái làng quê vô tận giữa bát ngát ý nghĩa thời gian. Trong cái di sản đồ sộ thơ văn Bùi Giáng để lại, tôi nhớ mãi một câu chuyện ông đã viết. Có thể đấy là chuyện Bùi thi sĩ tưởng tượng ra hoặc cũng có thể là hoàn toàn hiện thực, nghe cứ thấy trong ngần một niềm thơ dại. Nhân vật đối thoại cùng thi sĩ trong ngày ông về thăm quê là một cô Thôn nữ. Kẻ hỏi người đáp, vừa như tưng tửng đùa chơi vừa như tiếng vang ngân ấu thơ có khả năng làm động vọng thấu tận sâu thẳm nguồn cội,cảnh báo về sự vong thân đâu đó bên trong mỗi con người. Trả lời cô Thôn nữ hỏi ông về thăm quê bằng phương tiện gì và đi trong bao lâu, ông trả lời rằng: Từ Sài Gòn đi bộ về quê ròng rã suốt hai tháng trời. Ăn uống thì quán xá dọc đường, còn ngủ thì tựa gốc cây bên đường, thiu thiu nhắm hai con mắt lại mà ngủ. Nhưng, đây mới là trọng tâm, mới là hàm lượng ý tưởng của câu chuyện. Thôn nữ hỏi: “-Sao anh không đi xe đò cho mau chóng tới nơi?”. Hãy nghe Bùi Giáng hồn nhiên trả lời: “-Anh muốn từ từ thong thả. Vừa đi vừa ngắm phong cảnh dọc đường. Và cũng cố ý kéo dài ra để dành”. Và cái mà Bùi Giáng để dành đó là “-Cái quí trọng. Tỉ như đứa bé để dành cái bánh, cây kẹo của người ta cho mình”, còn ông thì: “Để dành cuộc gặp gỡ sau nhiều năm xa cách. Đừng gặp vội…”. Cách trả lời như vậy không phải là của một đứa bé đang rong chơi trong cái thiên đường tuổi thơ của mình, trong quê nhà vĩnh cửu của mình. Dường như ý niệm này tôi đã có lần gặp trong sách “Nẻo về của ý” của Nhất Hạnh. Đoạn ông kể về một thằng bé đang ngồi trên bậu cửa nhà vừa ăn cơm vừa ngắm cảnh mưa ngoài đường, ngắm đến quên cả ăn bởi thích thú mê say cái cảnh ngoài kia. Nào là hai đứa trẻ đẩy một chiếc xe mây, bánh gỗ, trên xe có em bé ngồi, tất cả đều ở truồng. Nào là chiếc xe lăn trong mưa gặp những vũng nước tung tóe… Và cho đến khi thằng bé bị cha mẹ gọi vào nhà. Vậy là chấm dứt cái giấc mơ thiên đường của nó. Nhất Hạnh viết tiếp: “Người ta không biết được rằng những phân biệt, những mừng tủi, những toan tính giết chết thiên đường. Xin đừng la mắng ánh sáng, đừng la mắng suối trong, đừng la mắng những con chim mùa xuân bé nhở”. Chuyện kể của Bùi Giáng khác câu chuyện của Nhất Hạnh ở chỗ, Bùi Giáng tự nhiên như nhiên là một trẻ thơ trong cái thiên đường quê nhà vĩnh cửu không ai có quyền tước đoạt. Gọi đó là đạo hạnh (éthique) thì đấy là nơi mà nghệ thuật và đời sống đã hòa hợp như một tôn giáo, nơi thời gian đến hoặc đi đều bất lực trước “Tâm hồn như lộc trang đời như điên”. Du xuân trên quê hương Bùi Giáng là đi giữa đôi bờ hư-thực, khi thì những làng quê trong trẻo thanh bình rất cụ thể: “Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu” với những con người cũng mười mươi xương thịt “-Ủa,phải anh Sáu Giáng đó không? – Và cô, cô có phải cô Bông năm nào?”, lúc thì siêu hình “Về nguyên thủy giục giang hà dội âm”. Nhưng, quả thực đi trên những lối gập ghềnh đường quê này, có lúc mình quên khuấy chính mình, quên sự hiện hữu này để nhớ tới một hiện hữu khác. Mà kể cũng lạ, không dưng mà tôi gặp ai cũng mang chút dáng dấp hình hài Bùi thi sĩ. Chẳng phải họ làm dáng hoặc đánh bóng cái tâm hồn mình cho nó lộ ra cốt cách gì đâu. Tất cả cũng đều hồn nhiên trong trẻo, thơ dại thực lòng. Họ là nông dân, anh thợ cắt tóc, em thợ may vá, chú sửa xe đạp… Lam lũ, lam lũ và lam lũ. Chiều chiều, sau giờ nhọc nhằn cơm áo (dù có Tết rượt sau lưng), kéo ra ngồi quành tròn ở cái quán cóc nào đó để véo von thơ Bùi Giáng . Khi thì bay bổng chín tầng mây : “Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi. Những giọt sương là lệ ở trong mây”. Lúc thì cất tiếng òa vỡ niềm hoan lạc: “Làm con gấu con beo con bò rừng con hổ. Làm con chồn lùi lũi chạy vào hang”… Đừng lầm tưởng, rượu mới là chủ đề chính cho những cuộc như thế, mà là chính bởi thơ Bùi thi sĩ thúc giục. Và rồi cũng chẳng phải say đâu, bỗng dưng gương mặt nào cũng trẻ thơ ra, cũng đa tình sướt mướt: “Em ở lại với đời ta em nhé / Em đừng đi. Cho ta nắm tay em/.Ta muốn nói bằng thơ bay nhè nhẹ/ Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm”. Làm sao tôi có thể đứng bên ngoài những cuộc ấy. Và vì thế, du xuân trên làng quê của Bùi thi sĩ, thoạt đầu cũng chỉ khơi vơi bắt chước thi sĩ mà “Sơ khai du mục tầm phương thảo”, nhưng hương cỏ người xưa đâu để mà du mục đi tìm, nên cũng sà vào cái quành tròn thơ dại ấy cho thỏa niềm mong ước “Mai sau hẹn với ban đầu. Chờ nhau ngõ khác ngó màu Nguyên xuân”. Và thưa thi sĩ, làng trên xóm dưới của Người ngày xuân đang tưng bừng thanh tân cái đẹp “Liên tồn trong ngọc ngoài ngà. Tình yêu tái lập giang hà hồi sinh”… Những tiếng nói thơ dại quanh đây, những con mắt trong veo chứa chan niềm hoan lạc quanh đây, ngẫu nhiên làm sao cũng kịp kỳ hẹn trở về: N.N.T
Following the wind, Bui Giang the poet leads the way “The wind of Le Trach blows through Co Thap” I returned to the village Duy Xuyen in the middle of a wild, poetic spring day. Opposite the direction of the poem, meaning east-west, from Co Thap through An Lam and then to Le Trach. Further up is Cu Ban and Ranger. And then the entire Western - Duy Xuyen region is vast with An Hoa, My Son , My Luoc, Thu Bon , Phu Da... During the invasion of the West in the past, Bui Giang's family and most of the Bui clan moved to settle in the Central Phuoc area. In the midst of these vast undulating hills and mountains, where once was the poet Bui “I drove crawl into the myrtle hill and the fruit is ripe" . It's not clear, but it is certain that on these paths the footsteps of his youth have been worn smooth. “Vinh Trinh Le Trach Thanh Chau. Where does Thi Lai Ha Mat look at her figure? . That poem is the poet's way of calling the name of the land, the name of the village... oh remember, it's like an unconscious reflex without wanting to achieve any terrible meaning. How to explain memory, how to explain love, how to explain an immense love filled with blood, like when a mother's hand touches the rope of the cradle, a melancholy lullaby immediately begins. heart and lungs gush out: “Look up at Hon Kem Da Dung. I love my father and miss my mother so much, my friend! In the midst of a situation, a light-hearted floating mind, a spring day suddenly tempted me to be in the land of poet Bui Giang. A country like that is far beyond the scope of a geography, but is the origin and homeland of the species: "We know that a bird flies, a fish we know that it swims...". Yet my bare feet, my limited existence, wandered towards this edge to imagine the ancients somewhere in the endless morning and afternoon sunshine and afternoon echoes. Spring travel in a village that clearly sounds like "the blue sea of ​​mulberries" can no longer be reduced to the limit of a few kilometers long road from Co Thap to Le Trach, but is the village of The river is dry and the rocks are worn away, the endless countryside amidst the vast meaning of time. In the huge legacy of poetry Bui Giang left behind, I always remember a story he wrote. Maybe it's something the poet Bui imagined, or maybe it's completely realistic, listening to it feels so pure and poetic. The character who conversed with the poet on the day he returned to visit his hometown was a village girl. Those who ask and those who answer are both playful and playful and like the echoes of childhood, capable of resonating deep down to their roots, warning of the loss of life somewhere inside each person. In response to Miss Thôn asking him what means of transport he used to visit his hometown and how long it took, he replied: From Saigon, he walked back to his hometown for two months. Eating and drinking at restaurants along the road, sleeping at a tree on the side of the road, closing my eyes and sleeping. But, this is the focus, the content of the story's ideas. The village woman asked: "Why don't you take the bus to get there quickly?". Listen to Bui Giang's innocent answer: "-I want to take it slow. While walking, admire the scenery along the way. And also intentionally stretched it out to save." And that Bui Giang to save is “-The precious thing. Like a child saving someone's cake or candy for himself", and he said: "Saving a meeting after many years of separation. Don't be in a hurry...". Such an answer is not that of a child roaming around in his childhood paradise, in his eternal home. It seems that I once encountered this concept in the book "The Return of the Mind" by Nhat Hanh. Then he told about a boy sitting on the doorstep of his house, eating rice and watching the rain on the street, until he forgot to eat because he was fascinated by the scene outside. These are two children pushing a rattan cart with wooden wheels, with a baby sitting on the cart, all of them naked. The wheelchair in the rain encountered splashing puddles... And until the boy was called into the house by his parents. So ended his dream of paradise. Nhat Hanh continued: “People do not know that distinctions, joys and sorrows, and plans kill paradise. Please don't scold the light, don't scold the clear stream, don't scold the little spring birds." Bui Giang's story is different from Nhat Hanh's story in that Bui Giang is naturally a child in an eternal home paradise that no one has the right to take away. If you call it virtue, it is the place where art and life are in harmony like a religion, where time comes or goes, both of which are powerless to control. "The soul is like a jewel, life is like crazy." Spring travel in Bui Giang's hometown is traveling between the shores of reality and reality, while the clear and peaceful villages are very specific: “Vinh Trinh Le Trach Thanh Chau” with people who also have 10 flesh and bones "-Oh, is that Mr. Sau Giang? – And you, are you Ms. Bong from what year?”, sometimes metaphysically "About Primordial urges the river to echo. But, indeed, walking on these bumpy country roads, there are times when we forget ourselves, forget this existence to remember another existence. But even though it's strange, it's no surprise that everyone I meet bears some resemblance to the poet Bui. It's not like they're posing or polishing their souls to reveal their true nature. All are innocent, pure, and truly childlike. They are farmers, barbers, tailors, bicycle repairmen... They are busy, they are busy, they are busy. In the afternoon, after working hard on food and clothes (even with Tet behind us), we sit around in a circle at a certain restaurant to recite poetry. Bui Giang . Sometimes it's like flying on cloud nine : “The rain has stopped but the horizon remains forever. The dew drops are tears in the clouds." Sometimes they burst out with joy: “Be a bear, a leopard, a bison, a tiger. Make the weasel retreat and run into the cave"... Don't be mistaken, wine is the main topic for such events, but it is prompted by poet Bui's poetry. And then it wasn't like he was drunk, suddenly every face looked childish and full of love: “You stay in my life, honey / Do not go. Let me hold your hand/.I want to say it in softly flying poetry/Into your dreams, you have a peaceful dream." How can I stand outside of those events? And so, poet Bui's spring trip to the countryside was at first just an attempt to imitate the poet. "Beginning nomadic journeys", But the ancient people didn't want to go looking for the scent of grass, so they also flocked to that poetic circle to satisfy their desire. “Let's see you tomorrow head. Waiting for each other in another alley to look at the color of Spring. And dear poet, your village above and below is bursting with beauty in spring “Continuity exists inside the jade outside the ivory. Love is restored and the river is revived"... The poetic voices around here, the clear eyes filled with joy around here, somehow somehow managed to return on time: N.N.T
Những ngày đầu năm, một chuyến du xuân quanh vùng quê yên tĩnh ở Hòa Vang là trải nghiệm khá thú vị. Dường như chỉ ở quê, Tết mới thực sự còn giữ hồn cốt của nếp sống truyền thống từ xa xưa ông bà để lại. Ẩn hiện trong những khu vườn xanh mướt là sắc mai vàng kiêu hãnh bên những nếp nhà ngói xanh rêu màu thời gian. Chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua, những cánh hoa bay lên không trung rồi khẽ khàng rơi xuống mặt đất tạo thành một thảm vàng nên thơ, bình dị và thấm đẫm hương sắc mùa xuân. Ở Hòa Vang, gần như nhà nào cũng trồng một vài cây mai vàng trước ngõ và để cho cây phát triển tự nhiên chứ không uốn nắn tạo thế làm gì. Giữa tháng 11, người dân quê chỉ mỗi việc ngắt lá mai để hoa nở đón Tết. Những cội mai già theo năm tháng có khi gấp đôi tuổi chủ nhà, theo đánh giá của giới buôn mai là “bạc tỷ”, vẫn đứng an nhiên trước ngõ nở hoa báo tin xuân về. Tết đến, nếp nhà cổ hơn 100 năm của ông Đặng Thoàn, 82 tuổi, thuộc chi Nhì, tộc Đặng ở thôn Túy Loan Đông ( xã Hòa Phong ) phảng phất trầm hương và lung linh ánh nến. Thời kháng Pháp, gia đình ông theo dân làng tản cư vô chợ Cẩm Khê, nay thuộc xã Tam Phước, huyện Phú Ninh , tỉnh Quảng Nam . Đến khi quay về làng cũ thì hàng loạt cây trong vườn tuổi đời cả trăm năm như xoài, mít, nhất là những cây mai cổ thụ đều bị bom đạn phá hủy. Tiếp đến chiến tranh chống Mỹ, không một cây nào được sống cho ra hồn. Mãi sau năm 1975 ông mới trồng lại mấy cây mai xuân (thanh mai) trước ngôi nhà thờ gia tộc. Nhờ thế mà những cái Tết gần đây, ngôi nhà ba gian hai chái với những hàng cột uy nghi, chạm hoa văn cổ kính gợi lên sự kính ngưỡng thiêng liêng ấy đã dần lấy lại ý vị ngày xuân bằng sắc hoàng mai thanh khiết. Dường như cây hoàng mai và những mái nhà cổ luôn là bộ đôi song hành làm nên bức tranh mùa xuân miên viễn. Nhà cổ Tích Thiện đường ở thôn Thái Lai, xã Hòa Nhơn , huyện Hòa Vang , tọa lạc trên một gò đất cao, nhìn xuống một nhánh sông Túy Loan lấp lánh nắng. Trước sân, cây mai cổ nghiêng mình xòe ra năm nhánh như bàn tay năm ngón vươn cao, tỏa rộng rợp sắc vàng mênh mông đến nao lòng. Ông Đỗ Hữu Minh (67 tuổi) cháu bốn đời của vị chủ nhân ngôi nhà cổ kể rằng, cây mai này được cha ông trồng từ hồi còn lội bộ đi học tiểu học ở quê ngoại Đà Sơn, nay thuộc phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu. “Nghe nói hồi nớ cây mai đem về ốm tong teo chỉ bằng cái roi cày. Giờ đây đã thành cụ mai với tuổi xấp xỉ gần 100 rồi, mỗi mùa hoa đi qua đều nở rực cả khoảng sân nhà…”, ông Minh nhớ lại. Trong chơi cây kiểng, bất cứ sự ra đi nào cũng để lại nhiều nhớ nhung, nhất là những lão mai đã từng “nhất kiến chung tình” với người trồng và mảnh vườn xưa nhiều kỷ niệm. Đó là trường hợp cây mai hơn 100 năm tuổi trước nhà bà Bốn Cương ở thôn Quang Châu, xã Hòa Châu. Một trong những cây mai nổi tiếng khắp Hòa Vang này đã từng lọt vào mắt xanh của nhiều dân chơi mai ở địa phương lẫn ngoại tỉnh. Ông Trần Thanh Thuận (52 tuổi), cháu gọi bà Bốn Cương bằng cô ruột, cho biết: “Cụ mai này có thế rất đặc biệt. Các nhánh tỏa đều, xòe ra ôm quanh thân với dáng chẳng khác gì cây đào miền Bắc. Mùa xuân cây trổ bông nhìn xa như một bó đuốc khổng lồ vàng rực”. Anh chia sẻ thêm, khi mai còn nhỏ tuổi, các bác, các chú thường lấy gạch cột dây chằng các nhánh nên cây mới có thế lạ, độc đáo như vậy. Hồi bà Bốn Cương còn tại thế, mỗi dịp Tết đến, dân buôn mai thường đến năn nỉ mua mai nhánh để bán lại cho người ta chưng Tết. Những năm 80, người ta ít chơi mai thế mà chuộng trưng mai cành trong những độc bình bằng gốm hay bằng đồng. Lúc đó kinh tế còn khó, nhiều nhà trong làng vẫn cưa bớt nhánh mai để bán. Vừa giữ được cây mai vừa có thêm vài đồng sắm Tết . Tuy nhiên, bà Bốn Cương vẫn nhất quyết không cho đụng vào cây mai dù là nhánh nhỏ nhất. Những năm 2000, các chủ mai ở Sài Gòn nghe tiếng cây mai cổ nhà bà Bốn Cương có thế độc lạ bèn đánh tiếng mua. Giá hồi ấy lên đến gần 20 cây vàng. Thậm chí họ còn hứa đền bù cả mảng tường rào bị đập phá để cẩu cây đi. Nhưng anh Thuận cương quyết không bán. Lý do rất chân tình là cả tuổi thơ của anh đã gắn liền với những mùa mai nở. Và cây mai là kỷ vật duy nhất để gợi nhớ về người cô đã khuất mà anh xem như mẹ đẻ. Về sau, cơn bão số 9 năm 2009 đã quật ngã cây mai trăm tuổi. Gia đình đã cố cứu vãn bằng cách chằng, chống nhưng cây thối rễ khô cành rồi chết. Tiếc xót xa cả ruột gan! Nhiều gia đình ở Hòa Vang vì giải tỏa, cắt đất làm nhà cho con cái… mà vướng phải gốc mai già thì lòng buồn như thất tình. Bằng mọi cách họ bứng gốc mai trồng lại vị trí khác hay cùng lắm thì vô chậu kiểng. Số tiền kêu thợ bứng mai có thể lên tiền triệu nhưng chưa chắc cây mai chịu sống ở nơi đất mới. Nhiều khi, tiền mất mà mai chết và để lại cho chủ nhân một sự hụt hẫng, chênh chao suốt thời gian dài. Những lão mai còn lại trên đất Hòa Vang bây giờ đã là một mối tình chung giữa người và loài hoa quân tử. Trong các loài hoa, có lẽ hoàng mai là loài cây có tuổi thọ cao nhất. Đôi khi một đời hoa lại gắn bó đến mấy thế hệ trong gia đình. Cây cỏ có thể vô tri nhưng tình người bao giờ cũng ở lại cùng hoa lá. Một sáng mùa xuân, bước ra ngõ đứng dưới gốc mai già. Hương hoa thanh khiết quyện với hương trầm đâu đó khiến lòng người nhẹ tênh, rũ bỏ mọi ưu phiền. Đó cũng là lý do mà ông Nguyễn Đăng Sử ở thôn Thái Lai, xã Hòa Nhơn, nhất quyết giữ lại gốc mai già dù người ta có “trả tiền tỷ cũng không bán”. Ông cho biết mấy năm nay ông đã trồng thêm được gần 20 cây mai con quanh vườn. Hy vọng sẽ góp phần điểm tô cho làng sinh thái Thái Lai mỗi độ xuân về. Về Thái Lai trong ngày đầu xuân, nghe người dân nơi đây nói chuyện trồng mai như một sự khôi phục màu Tết truyền thống. Ông Nguyễn Đăng Dự, nhà sát bên cạnh nhà cổ Tích Thiện Đường, ngoài 3 cây mai tuổi ngoài 50 trước hiên nhà thì ông còn gầy ra được gần hai chục cây mai lớn nhỏ, biến khu vườn nhà thành một vườn mai rực sắc vàng mỗi khi xuân về. Khi được hỏi, mấy cây mai giá trị như vậy gia đình có ý bán hay không? Ông cười mà rằng: “Nhiều dân chơi mai tới gạ tới gạ lui hoài nhưng tôi không bán. Bởi đây là những cây mai do tự tay cha tôi ươm hạt trồng. Bây giờ tuy cha không còn nữa nhưng nhìn hoa mà nhớ người”. Trong khi các lão mai nức tiếng ở vùng nông thôn Hòa Vang đã rời xa mảnh vườn xưa vì nhiều lý do khác nhau thì việc trồng lại những cây mai vàng trước ngõ đã trở thành niềm hứng khởi cho nhiều gia đình. Nhiều nhà vườn rộng thì trồng ngay lối đi vào nhà hay trước sân. Nhà đất chật thì trồng vào chậu kiểng. Anh Trần Ngô Gia Thức ở thôn Quang Châu, xã Hòa Châu, ngoài vườn thanh mai hơn 50 cây kế thừa của ông nội, đầu xuân năm nay, anh đã mua thêm cả trăm cây mai con ươm trong vườn nhà với hy vọng trong tương lai sẽ có những mùa hoàng mai rực rỡ…
In the first days of the year, a spring trip around the quiet countryside in Hoa Vang is quite an interesting experience. It seems that only in the countryside does Tet really retain the soul of the traditional lifestyle left by our grandparents. Hidden in the lush green gardens is the proud yellow apricot color next to the moss-green tiled houses colored by time. Just a gentle breeze blows, the flower petals fly into the air and then gently fall to the ground, creating a poetic, idyllic golden carpet imbued with the scent of spring. In Hoa Vang, almost every house plants a few yellow apricot trees in front of the alley and lets them grow naturally without manipulating or shaping them. In mid-November, the villagers only have to cut apricot leaves to let the flowers bloom to welcome Tet. The old apricot trees over the years, sometimes twice the age of the homeowner, according to the assessment of apricot traders, are "millions of dollars", still standing peacefully in front of the alley blooming to announce the return of spring. Tet is coming, the more than 100 year old house of Mr. Dang Thoan, 82 years old, belongs to the Nhi branch, Dang clan in Tuy Loan Dong village ( Hoa Phong commune ) wafts of incense and shimmering candlelight. During the French resistance, his family followed the villagers to evacuate to Cam Khe market, now in Tam Phuoc commune, Phu Ninh district , Quang Nam Province . When returning to the old village, a series of trees in the garden that were hundreds of years old, such as mangoes, jackfruits, and especially ancient apricot trees, were destroyed by bombs and bullets. Following the war against America, not a single tree survived. Only after 1975 did he replant a few apricot trees in front of the family church. Thanks to that, during recent Tet holidays, the three-compartment, two-wing house with majestic columns and carved ancient patterns evoking sacred admiration has gradually regained the flavor of spring with its pure apricot color. It seems that the apricot tree and the ancient roofs are always a pair that creates a picture of eternal spring. Tich Thien Duong fairy house in Thai Lai village, Hoa Nhon commune , Hoa Vang district , located on a high mound, overlooking a branch of the Tuy Loan river sparkling with sunlight. In front of the yard, an ancient apricot tree tilted its body and spread out five branches like a five-fingered hand reaching high, spreading a vast yellow color that was so heart-stopping. Mr. Do Huu Minh (67 years old), the fourth-generation grandson of the owner of the old house, said that this apricot tree was planted by his father when he was still walking to elementary school in his grandmother's hometown of Da Son, now in Hoa Khanh Nam ward, Lien Chieu District. “I heard that when I was a kid, the apricot tree I brought home was as thin as a plow stick. Now he has become an apricot lady with the age of approximately 100 years old, and every passing season the flowers bloom brightly all over the yard...", Mr. Minh recalled. In ornamental plants, any departure leaves a lot of nostalgia, especially the old apricot trees who were once "faithful" to the grower and the old garden has many memories. That is the case of the more than 100-year-old apricot tree in front of Ms. Bon Cuong's house in Quang Chau village, Hoa Chau commune. This one of the famous apricot trees throughout Hoa Vang has caught the eye of many local and foreign apricot enthusiasts. Mr. Tran Thanh Thuan (52 years old), whose nephew calls Ms. Bon Cuong her aunt, said: "This old lady has a very special ability. The branches spread evenly, spreading out to hug the trunk with a shape similar to a northern peach tree. In spring, the flowering tree looks from afar like a giant golden torch. He further shared that when Mai was young, his uncles and aunts often used bricks to tie the branches with ropes, so the tree had such a strange and unique appearance. When Mrs. Bon Cuong was still alive, every Tet holiday, apricot traders often came to beg to buy apricot branches to resell to people for Tet. In the 80s, people rarely played apricot trees but preferred to display apricot branches in ceramic or bronze vases. At that time, the economy was still difficult, many houses in the village still sawed off apricot branches to sell. Just keep the apricot tree and have a few extra dollars to buy Tet . However, Ms. Bon Cuong still insisted that she not touch the apricot tree, even the smallest branch. In the 2000s, apricot owners in Saigon heard that Mrs. Bon Cuong's ancient apricot tree was unique and decided to buy it. The price at that time was up to nearly 20 gold bars. They even promised to compensate for the broken fence to remove the tree. But Mr. Thuan was determined not to sell. The very sincere reason is that his entire childhood was associated with the blooming apricot seasons. And the apricot tree is the only souvenir to remind him of his deceased aunt whom he considered his mother. Later, Storm Không. 9 in 2009 knocked down the hundred-year-old apricot tree. The family tried to save the tree by tying and supporting it, but the tree's roots rotted, its branches dried, and it died. I'm so sorry, it's heartbreaking! Many families in Hoa Vang, in order to clear land and build houses for their children... but are stuck on an old apricot tree, feel as sad as if they had lost love. By all means, they uproot the apricot tree and replant it in another location, or at best, put it in an ornamental pot. The amount of money for a plumber can be up to millions, but it is not certain that the apricot tree will survive in the new land. Many times, money is lost and tomorrow dies, leaving the owner depressed and uncertain for a long time. The remaining apricot blossoms in Hoa Vang are now a common love between humans and the gentleman flower. Among flowers, perhaps apricot is the plant with the longest lifespan. Sometimes a life of flowers lasts for several generations in the family. Plants and trees may be inanimate, but human love always stays with the flowers and leaves. One spring morning, I walked out into the alley and stood under an old apricot tree. The pure floral scent mixed with the incense somewhere makes people's hearts feel light, removing all worries. That is also the reason why Mr. Nguyen Dang Su in Thai Lai village, Hoa Nhon commune, insisted on keeping the old apricot tree even if people "pay billions, they will not sell it". He said that in recent years he has planted nearly 20 more apricot trees around the garden. We hope to contribute to beautifying the Thai Lai ecological village every spring. Returning to Thai Lai on the first day of spring, I heard people here talk about planting apricot trees as a way to restore traditional Tet colors. Mr. Nguyen Dang Du, whose house is next to the fairy house Tich Thien Duong, in addition to the three 50-year-old apricot trees on the front porch, has also grown nearly two dozen large and small apricot trees, turning his garden into a bright yellow apricot garden. every spring comes. When asked, does the family intend to sell such valuable apricot trees? He laughed and said: "Many players come and solicit over and over again, but I don't sell. Because these are apricot trees planted by my father himself. Now even though my father is no longer there, I miss him when I look at the flowers." While the famous apricot trees in rural Hoa Vang have left their old gardens for many different reasons, replanting yellow apricot trees in front of the alley has become an inspiration for many families. Many large garden houses plant them right at the entrance to the house or in the front yard. If the land is tight, plant it in an ornamental pot. Mr. Tran Ngo Gia Thuc in Quang Chau village, Hoa Chau commune, in addition to his grandfather's apricot garden of more than 50 trees, in early spring of this year, he bought a hundred more apricot seedlings to nurse in his garden with the hope that in the future In the future there will be brilliant golden apricot seasons...
Thầy Lê Đình Kỵ sinh năm Nhâm Tuất 1922 nhưng giấy khai sinh ghi năm Quý Hợi 1923, như vậy đến năm Quý Mão 2023 này là tròn 100 năm, năm sinh của Thầy. Khoảng cuối thập niên 1990, tôi được thọ giáo thầy Lê Đình Kỵ một học phần về Thơ Mới 1932-1945 trong chương trình đào tạo sau đại học tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Phần lớn nội dung các bài giảng của thầy Lê Đình Kỵ hồi ấy đã được thầy nghiên cứu công phu và thể hiện trong chuyên luận Thơ Mới những b ước thăng trầm do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành lần đầu năm 1988 và tái bản năm 1993. Khi làm xong bài kiểm tra cuối học phần, tôi đến nộp bài và thăm thầy tại nhà riêng của thầy ở chung cư gần chợ An Đông. Được nghe giảng Thơ Mới theo một quan điểm tương đối mới so với đương thời từ một người thầy tài hoa và uyên bác, từng viết nhiều sách lý luận phê bình về thơ như thầy Lê Đình Kỵ quả là điều may mắn, với tôi càng may mắn hơn khi thầy Lê Đình Kỵ là người đồng hương Quảng Nam – giảng bài bằng giọng Quảng. Và không phải ngẫu nhiên mà đọc Thơ Mới những b ước thăng trầm , tôi tâm đắc nhất là đoạn thầy viết về bài Tình già của Phan Khôi – một nhà Thơ Mới quê Quảng Nam: “Không phải tình cờ mà bài Thơ Mới đầu tiên Tình già là dành cho tình yêu. Bài thơ gây ấn tượng mạnh nhất không phải ở hình thức mới – một hình thức thực ra chẳng mấy người noi theo – mà ở cái mầm mống đã gieo: Đó là cái mối tình già nhân ngãi non vợ chồng, đứt nối, dở dang: Ta là nhân ngãi đâu phải vợ chồng mà tính chuyện thủy chung” (trang 138, bản in năm 1993). Quê thầy Lê Đình Kỵ cùng xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn của tác giả bài thơ Tình già , nhưng thầy xa quê từ hồi còn trẻ – năm 1952 mới ba mươi tuổi, thầy Lê Đình Kỵ đã vào Quảng Ngãi dạy học ở trường Lê Khiết cùng với thầy Lê Trí Viễn , sau Hiệp định Genève năm 1954 tập kết ra miền Bắc và đến tận lúc qua đời năm 2009 thầy Lê Đình Kỵ vẫn là người Quảng xa quê. Có điều được đọc thầy, được học thầy, tôi vẫn cảm nhận rất rõ chất Quảng Nam không chỉ trong giọng nói mà còn trong tư duy “hay cãi” của thầy – “hay cãi” ở đây được hiểu là cá tính đậm nét và quyết liệt đến cùng trong học thuật. Chính vì tư duy hay cãi này nên thầy Lê Đình Kỵ từng chịu không ít “ những bước thăng trầm ” trong nghề nghiệp, chẳng hạn năm 1962 khi viết giáo trình đại học Phương pháp nghệ thuật , thầy Lê Đình Kỵ bị cho là mơ hồ về lập trường giai cấp khi lý giải tính người trong văn học; hay chẳng hạn năm 1974, bài báo thầy gửi đăng tạp chí Tác Phẩm Mới nhan đề Hải Triều – những bước xung kích do Chế Lan Viên biên tập, cũng bị phê rằng đề cao cá nhân Hải Triều là có dụng ý!? Thậm chí khi biên tập bài Từ ấy và Thơ Mới của thầy Lê Đình Kỵ gửi đăng Báo Văn Nghệ hồi năm 1959, Xuân Diệu cũng sửa nhan đề gốc thành Từ ấy và phong trào Thơ Mới – động thái này bắt nguồn từ tâm lý con chim bị tên sợ làn cây cong của Xuân Diệu khi nhà thơ từng bị cho là hữu khuynh do đưa ra luận điểm tập thơ Từ ấy của Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới”… Khi trở thành thầy giáo dạy Văn ở Trường Trung học Lê Khiết trong Quảng Ngãi, thầy Lê Đình Kỵ chỉ có trong tay tấm bằng Tú tài toàn phần phân ban Triết học thi đỗ hồi năm 1944 tại Trường Trung học Pétrus Ký ở Sài Gòn, và cho tới khi đứng trên bục giảng khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ngay từ những ngày đầu trường mới được thành lập vào năm 1956, cũng như khi về hưu và tham gia đào tạo sau đại học cho thế hệ chúng tôi hồi thập niên 1990, đời thầy vẫn chỉ có ngần ấy bằng cấp… Thế nhưng học giới nước ta không ai không ngưỡng mộ sở học – cũng là thực học – của thầy. Bằng chứng là ngay đợt phong học hàm đầu tiên vào năm 1984, thầy Lê Đình Kỵ được phong thẳng học hàm giáo sư, không cần qua bước phong học hàm phó giáo sư; và vào năm 1988 thầy lại được trao tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, không cần qua giai đoạn vinh danh Nhà giáo ưu tú. Có thể nói thầy Lê Đình Kỵ không chỉ hiếu học và học giỏi mà còn là một tấm gương sáng về việc kiên trì tự học, tự đào tạo để trở thành một trí thức tài hoa, một nhà sư phạm mẫu mực, một chuyên gia lý luận và phê bình văn học hàng đầu ở nước ta với những công trình khảo cứu đã đi cùng năm tháng như Thơ Mới những bước thăng trầm , như Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực … Nhân kỷ niệm 100 năm năm sinh của thầy Lê Đình Kỵ (1923-2023), bài viết này như nén nhang lòng của một người học trò xin được kính dâng để tưởng nhớ đến thầy!
Teacher Le Dinh Ky was born in the year Nham Tuat 1922 but his birth certificate recorded the year Quy Hoi 1923, so this year Quy Mao 2023 will be 100 years old, the year of his birth. Around the late 1990s, I was taught by teacher Le Dinh Ky for a module on New Poetry 1932-1945 in the postgraduate training program at Ho Chi Minh City University of Education. Most of the content of Mr. Le Dinh Ky's lectures at that time were carefully researched and presented in his treatise. New Poetry b wish ups and downs First published by Ho Chi Minh City Publishing House in 1988 and republished in 1993. When I finished the final exam, I went to submit my homework and visit the teacher at his home in an apartment building near An Dong market. . Hearing New Poetry lecture from a relatively new perspective compared to that of the time from a talented and erudite teacher who has written many theoretical and critical books on poetry like teacher Le Dinh Ky is truly a blessing, for me even more so. Luckily, teacher Le Dinh Ky was from Quang Nam and gave lectures in a Quang accent. And it's no coincidence reading New Poetry b wish ups and downs , I like the part the teacher wrote about the lesson the most Old love by Phan Khoi - a New Poet from Quang Nam: "It is not by chance that the first New Poem Love old is for love. The poem makes the strongest impression not in its new form - a form that few people actually follow - but in the seeds that have been planted: It is the broken, unfinished love between an old man and his wife. : We are human beings, not husband and wife, but we consider fidelity." (page 138, 1993 edition). Teacher Le Dinh Ky's hometown is in Dien Quang commune, Dien Ban town by the author of the poem Old love , but he left his hometown when he was young - in 1952, at the age of thirty, teacher Le Dinh Ky entered the Quang Ngai Teaching at Le Khiet school with my teacher Le Tri Vien After the Geneva Accords in 1954, he moved to the North and until his death in 2009, Mr. Le Dinh Ky was still a Quang person far from home. But when I read the teacher, learned from the teacher, I still feel the quality very clearly Quang Nam not only in the teacher's voice but also in his "argumentative" thinking - "argumentative" here is understood as a bold and fierce personality in academics. Because of this controversial mindset, teacher Le Dinh Ky suffered a lot. these ups and downs ” career, for example in 1962 when writing university textbooks Artistic method , teacher Le Dinh Ky was accused of being vague about his class stance when explaining humanity in literature; Or for example, in 1974, the article he submitted was published in New Work magazine titled Hai Trieu – shock steps edited by Che Lan Vien, was also criticized that promoting Hai Trieu's personality was intentional!? Even when editing articles That word and New Poetry by teacher Le Dinh Ky sent to Van Nghe Newspaper in 1959, Xuan Dieu also changed the original title to From there and the New Poetry movement – This move originates from Xuan Dieu's psychology of the arrowed bird being afraid of the curved tree line when the poet was once considered right-wing due to his argument in the collection of poems. From that moment To Huu's "emerging from New Poetry"... When he became a Literature teacher at Le Khiet High School in Quang Ngai, Mr. Le Dinh Ky only had a full Baccalaureate degree in Philosophy, having passed the exam in 1944 at Pétrus Ky High School in Saigon, and until he stood on the podium of the Literature Department of Hanoi University right from the first days of the school's founding in 1956, as well as when he retired and participated in postgraduate training for our generation. In the 1990s, he still only had so many degrees in his life... However, there is no one in our country who does not admire his learning - also his real learning -. The evidence is that in the first academic title conferment in 1984, Mr. Le Dinh Ky was awarded the title of professor directly, without having to go through the step of conferring the title of associate professor; and in 1988 he was again awarded the title of People's Teacher, without having to go through the stage of honoring Outstanding Teacher. It can be said that Mr. Le Dinh Ky is not only studious and good at studying, but also a shining example of persistent self-study and self-training to become a talented intellectual, an exemplary pedagogue, and an expert. leading literary theory and criticism in our country with research works that have gone along over the years such as New Poetry ups and downs , like The Tale of Kieu and realism ... On the occasion of the 100th birth anniversary of teacher Le Dinh Ky (1923-2023), this article is like an incense from a student who would like to respectfully offer it in memory of him!
Leng keng leng keng leng keng… – Kẹo kéo! Kẹo kéo chú ơi! Vẫn là chú ấy với chiếc xe đạp cà tàng. Vẫn tiếng leng keng quen thuộc. Chú bán kẹo kéo nghe tiếng gọi liền dừng trước cổng nhà tôi. – Chú bán cho con hai cây đi. À bốn cây luôn ạ! Chú hất chiếc mũ lưỡi trai lên nhìn tôi cười và lấy gói kẹo ra…kéo. Như một thói quen, mỗi lần chú đi ngang ngõ là tôi hay gọi để mua vài cây, tôi không hảo ngọt nhưng vẫn mua, đơn giản vì tôi thương quý con người ấy. – Ở quê mình còn mấy người bán kẹo như chú nữa ạ? – Còn có hai người chứ mấy – Dạ, bây giờ nhiều thứ quà vặt, người ta ít ăn kẹo kéo chú ạ. -Ừ. Ngày xưa gia đình tui sáu bảy người đều sống nhờ nghề này đó. Giờ thì bán làm vui, giữ lấy nghề là chính. Chú lại nhìn tôi cười, nụ cười không mấy tươi vui. Tôi biết chứ. Con cái chú không ai theo nghề cha, họ đi làm ăn xa cả, chẳng mấy khi về quê. – Tết năm nay các anh chị có về quê không chú? – Có thằng lớn về, còn thì ở lại trong nớ chứ mấy năm ni dịch dã nên làm ăn thua lỗ, tiền bạc cũng eo hẹp lắm con. – Dạ, tình hình chung mà chú. – Ừ. Nhưng người ta có của ăn của để dư dả thì răng cũng được, còn mấy đứa nhà tui thì rứa đó. Trông đến Tết để sum vầy, thăm quê cha đất tổ, thắp cho ông bà cây hương mà sao khó quá chừng… Chú vừa nói vừa chìa mấy cây kẹo cho tôi. Chạnh lòng, tôi thấy cay cay nơi sống mũi… – Thôi tui đi – Dạ. Con chào chú, chúc chú bán đắt về sớm ạ. – Cảm ơn Cầm cây kẹo trên tay tôi nôn nao nhớ về thời thơ ấu của mình. Ngày xưa khi còn nhỏ tôi ở gần một gia đình làm nghề kẹo kéo. Mỗi khi đi học về tôi hay chạy sang xem họ làm. Nồi nước đường sóng sánh trên bếp chờ cho nguội rồi đổ ra khay. Thú vị nhất là thao tác kéo đường. Giống như một nghệ sỹ xiếc đang biểu diễn, chú ấy kéo khay đường cho thật dài ra rồi làm động tác xoay người điệu nghệ vắt sợi dây đường lên xà ngang nhà rồi lại kéo tiếp, rồi gập sợi đường lại, rồi lại xoay người kéo vắt lên xà nhà… Mồ hôi lấm tấm trên trán, rồi thánh thót rơi thành từng giọt xuống nền đất. Cái áo bạc màu ướt đẫm lưng. Chỗ chú đứng để kéo sợi đường lâu ngày đã trở nên trơn nhẵn. Cái xà cũng lên nước sáng bóng như bôi dầu. Cứ mải miết như thế cho đến khi sợi đường chuyển dần từ trắng trong sang màu trắng vôi và rất dẻo, lại đem cán mỏng ra rồi cho đậu phụng rang vào cuốn lại. Xem đến đây thì không thể nào cưỡng lại được mùi vị thơm lừng ngọt bùi béo ngậy của kẹo, nước miếng ứa ra, và thế nào cũng chạy về xin tiền mẹ sang mua… Ngày xưa đã có một thế hệ lớn lên nhờ những thanh kẹo ấy. Những đồng tiền khó nhọc chắt chiu từ mồ hôi nước mắt của mẹ cha nuôi con ăn học. Nhiều người thành đạt vững bước trên những con đường thênh thang. Nhưng không ít người vẫn lận đận long đong bươn chải, bởi đó là cuộc đời, là số phận. Dẫu sao cũng không thể phủ nhận một điều rằng chính những giọt mồ hôi thấm đất đã ươm mầm cho những ước mơ, nuôi lớn tâm hồn và dáng vóc mỗi người. Và tuổi thơ của thế hệ chúng tôi đã gắn bó với những thanh kẹo ngọt bùi thuở ấy… “ Có cả cuộc đời rồi bỗng nhớ Những đoạn đường xa lắc tuổi thơ đi …” (*) Tuổi thơ chúng tôi đã đi cùng những tiếng rao quen thuộc “Cà rem cây đây”, “kẹo kéo đây”…Cái thời nghe tiếng rao ngoài ngõ là cả mấy chị em rộn ràng gọi nhau í ới chạy ra mua. Nhiều khi chỉ đủ tiền mua một hai cây rồi ba bốn chị em cùng xúm xít lại ăn chung, cùng nhau mút cà rem kẹo kéo vô tư mà chẳng bao giờ nghĩ rằng như thế là “không hợp vệ sinh”… Tôi biết có thằng bạn đầu trần chân đất bên nhà, suốt ngày chạy theo ông bán kẹo chỉ để nhìn ông kéo từng thanh kẹo trắng ngà, xong lại nhìn sang những đứa trẻ khác mút kẹo bằng cặp mắt hau háu thèm thuồng, để rồi nuốt nước miếng ừng ực, nuốt cả sự thèm khát và tủi phận vào lòng. Ba chị em nhà nọ nghe tiếng leng keng đầu ngõ đã vội chạy quanh nhà tìm sắt, nhựa, ve chai… để đổi kẹo. Nhưng những thứ quý giá ấy không phải khi nào cũng sẵn, mà tiếng leng keng thì vẫn lanh lảnh thúc giục ngoài kia. Thôi thì: – Chú ơi, đổi cho con đi chú! Hai em nhìn chị ngơ ngác… Chị cúi xuống ngần ngừ vài giây rồi cầm đôi dép nhựa đang mang dưới chân lên, cắn môi cố bứt cho đứt quai… Rồi vội vã chạy ra… Cầm ba thanh kẹo chia nhau mà lòng chị cảm thấy bùi ngùi… Ôi cái vị ngọt bùi của kẹo kéo ngày xưa đến giờ vẫn khiến tôi cảm thấy rưng rưng… Những thanh kẹo và hình ảnh những người làm ra nó ám ảnh tôi mỗi khi ngược dòng ký ức. Có lẽ tôi nợ ân tình với họ, với cả những người tôi gặp gỡ trong cuộc đời này nên suốt đời luôn áy náy vì thấy mình quá bé nhỏ, chẳng đủ sức làm được điều gì lớn lao để trả nghĩa cho đời. Mùa Xuân đang về trên từng ngõ nhỏ, nắng Xuân nhuộm thắm muôn hoa, lòng người cũng phơi phới rộn ràng… Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn thấy đắng lòng và tiếc nuối khi nghĩ về một thuở xa xôi, những tiếng leng keng và cuộc đời của “ những người bao năm cũ ” ấy có thể nào ta còn gặp lại trong cuộc đời này? Ngày mai, ngày kia… những tiếng leng keng ấy biết có còn văng vẳng trên những nẻo đường quen?
Jingle jingle jingle… - Candy drag! Sweet candy, uncle! It's still him with the dirty bike. Still the familiar jingling sound. The candy seller heard the call and stopped in front of my house. – Please sell me two trees. Oh, four trees! He lifted his cap, looked at me, smiled and took out the candy wrapper...pulled it. As a habit, every time he passes by the alley, I call to buy some. I don't have a sweet tooth but still buy it, simply because I love that person. – Are there any other candy sellers like you in my hometown? – There are two people left – Yes, nowadays there are many snacks, people rarely eat candy. -YES. In the past, my family of six or seven people all lived thanks to this profession. Now, I sell for fun and keep my job. He looked at me again and smiled, not a very happy smile. I know. None of my children follow their father's profession, they all work far away and rarely return home. – Will you guys go back to your hometown this Tet? – There's an older boy who comes back, but he still stays in the country, but after a few years of translation, his business has lost money, and money is also very tight. – Yes, the situation is general. - YES. But if people have enough food and money to spare, their teeth are fine, but my family is like that. Looking forward to Tet to reunite, visit our ancestral homeland, light incense sticks for our grandparents, but why is it so difficult... He said as he held out some candy canes to me. Heartbroken, I felt a stinging sensation on the bridge of my nose... – Let me go - Yes. Hello sir, I hope you return home soon. - Thank Holding the candy in my hand, I eagerly remembered my childhood. Once upon a time when I was a child, I lived near a family that worked as a candy maker. Every time I come home from school, I often run over to watch them work. The pot of sugar water bubbles on the stove, waits for it to cool, then pours it onto the tray. The most interesting thing is the line dragging operation. Like a circus artist performing, he pulled the sugar tray to a very long length, then skillfully rotated his body to hang the sugar string on the crossbar of the house, then pulled again, then folded the sugar string, then turned around again. pulled it up to the rafters... Sweat beaded on his forehead, then suddenly dropped in drops to the ground. The faded shirt was soaked to the back. The place where he stood to spin sugar had become smooth over time. The beam also shines with water as if it were oiled. Just keep doing that until the sugar strands gradually turn from clear white to lime white and very flexible, then roll them out thinly and then add roasted peanuts and roll them up. When I saw this, I couldn't resist the sweet and greasy taste of the candy. My mouth watered and I ran home to ask my mother for money to buy it... Once upon a time there was a generation that grew up on those candy bars. The hard-earned money from the sweat and tears of parents raising their children's education. Many successful people walk steadily on spacious paths. But many people still struggle to get by, because that is life and destiny. Anyway, it cannot be denied that it is the drops of sweat soaked in the ground that nurture dreams, grow each person's soul and body. And our generation's childhood was attached to the sweet candy bars of those days... “ Have a whole life and then suddenly remember Long distances shake childhood away …” (*) During our childhood, we were accompanied by the familiar shouts of "Here's ice cream", "Here's some candy"... When we heard the shouts in the alley, all the sisters excitedly called each other and ran out to buy. Many times, we only have enough money to buy one or two, then three or four sisters gather together to eat together, sucking on ice cream and candy together without thinking that it is "unhygienic"... I know there's a bare-headed, bare-footed boy next door who runs after the candy seller all day long just to watch him pull each bar of ivory-white candy, then looks at the other children sucking on the candy with greedy eyes, and then swallowing saliva, swallowing both the desire and the sadness in my heart. The three sisters heard the jingling sound at the end of the alley and quickly ran around the house looking for iron, plastic, bottles... to exchange for candy. But those precious things are not always available, and the jingle is still loud and urgent outside. Well then: – Uncle, please change it for me! The two of us looked at her in bewilderment... She bent down and hesitated for a few seconds, then picked up the plastic sandals she was wearing, bit her lip and tried to break the straps... Then she quickly ran out... Holding three candy bars to share, she felt sad... Oh, the sweet taste of candy from the past still makes me feel teary... The candy bars and the images of the people who made them haunt me every time I go down memory lane. Perhaps I owe a debt of gratitude to them, to the people I meet in this life, so I always feel guilty all my life because I feel too small, not strong enough to do anything great to repay life. Spring is coming to every small alley, the Spring sunshine is dyed with flowers, people's hearts are also excited... But for some reason, I still feel bitter and regretful when thinking about a distant time, the tinkling sounds and life of " people many years ago "Is it possible that we will meet again in this life? Tomorrow, the day after tomorrow... the hours tinkling Does he know if he still lingers on familiar roads?
Khi những cơn mưa phùn phủ trắng đất miền Trung bắt đầu ngớt hạt, màn mây xám xịt nhường chỗ cho ánh mặt trời yếu ớt lọt qua, vạn vật đang co mình ngủ đông, bỗng cựa mình thức giấc. Từ trong những nách lá của cây mai già nơi đầu ngõ, những cái nụ bé bằng que tăm màu xanh nhạt điểm vài vệt vàng đã bắt đầu chòi lên lẩn khuất giữa những tán lá rậm rịt. Chỉ chờ trời vừa tạnh ráo, mấy chị em tôi vội vàng đem ghế, giỏ ra lặt lá mai. Cây mai ở đầu ngõ nhà tôi vốn là loại mai xứ Quảng, hoa có năm cánh, lá non có màu xanh chứ không có màu hơi đỏ của mai Bình Định . Không biết ông tôi đã xin cây con về trồng và chăm sóc từ khi nào chẳng rõ, chỉ biết khi tôi bắt đầu biết quan tâm đến cây cỏ trong vườn thì nó đã cao quá tầm tay tôi, gốc cây sần sùi in hằn vết thời gian. Bên cội mai già, chúng tôi vừa làm vừa nói chuyện râm ran, những cành cây run lên bần bật dưới những đôi tay thoăn thoắt lặt từng chiếc lá, rồi thả xuống đầy gốc. Mỗi chiếc lá đau đớn, quyến luyến rời cành sẽ nhường chỗ cho một bông hoa vàng tươi ngày xuân tới. Nếu con người không lặt lá già, cây mai tự vàng lá rồi từng chiếc, từng chiếc rời xa cành nhưng chắc chắn hoa sẽ nở sau rằm tháng giêng, vẫn còn xuân nhưng không khí Tết đã nguội rồi. Lệ thường, ở quê tôi, cứ đầu tháng chạp nhà nào có mai đều tranh thủ lặt lá để mai nở kịp đón những đứa con tha hương trở về sum họp. Ngày tết ngoài “thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” còn phải có “cây mai, tràng pháo, bánh chưng xanh”, vì vậy sắc vàng của hoa mai không thể thiếu để tạo nên hương vị tết Quảng. Có những nhà vườn phải mướn người dù có hơi tốn chút đỉnh nhưng cái nhu cầu thưởng lãm màu của lộc xuân, màu của hương hoa đất trời đầu năm lớn hơn hết thảy. Nhìn những xác lá rơi rụng đầy trên mặt đất được chị tôi vun vào giỏ, mang đổ sau vườn, tôi nghĩ nhiều đến quy luật tồn sinh của vạn vật. Để dâng hiến cho đời cái Đẹp, cây mai già phải gồng mình che chắn những rát buốt của mưa gió ngày đông cho những chồi, những nụ phôi thai. Đến khi, trời đã bắt đầu chuyển ấm, cành cây còn phải quằn quại chịu nỗi đau bứt lá, vấn vương trong nỗi chia ly với màu xanh thân thuộc để chờ đợi ngày chào đời của những bông hoa. Còn những chiếc lá chịu về với đất để dành chất dinh dưỡng cho cây đổ về nuôi nụ, dâng tặng đời những bông hoa nhiều cánh với sắc màu rực rỡ, để sức xuân thêm dâng trào. Không có sự cống hiến nào không cao cả và cũng không có cái Đẹp nào không trải qua những mất mát thương đau. Cây cỏ quanh ta mỗi ngày cũng vậy thôi: “Không nỗi đau rứt lá/ Sao làm nổi cành mai”! Thời gian như chiếc tàu đã dần về ga cuối, tờ lịch đã mỏng dần trên tường báo hiệu mùa đã sang. Tíu tít với bao bận rộn lo toan ngày giáp Tết, tôi quên bẵng cây mai dù nó vẫn lặng thầm đứng bên ngõ, vươn những chiếc cành khẳng khiu, trụi lá hứng cơn mưa đầu xuân nhẹ nhàng, ve vuốt. Khí trời và giọt mưa mùa xuân như vị thánh kì diệu nuôi lớn những chiếc nụ bé tí hôm nào bây giờ đã bằng móng tay trẻ con với màu xanh non đến mỡ màng. Vài ngày giáp Tết , cành mai đã bung đôi cánh hoa lấp lánh ánh vàng, vàng hơn màu của nắng, hơn cả sắc áo mới của ai đang phơi ở góc sân quê nhà. Màu vàng như niềm náo nức của lòng người trong mỗi dịp xuân sang. Chiều 28 Tết, anh tôi đem bộ lư đồng và chiếc độc bình gia truyền ra đánh bóng, như mọi năm chiếc bình cắm hoa ấy sẽ chỉ để dùng cắm hoa lay- ơn đỏ mặc dù nhiều lần chúng tôi xin cha cắt bớt cành mai chưng cho sang trong mấy ngày Tết. Lần nào cũng vậy, cha trả lời bằng cái lắc đầu, nụ cười hiền và lời từ chối: “cắt bớt cành sợ cội mai sẽ suy, sang năm không cho hoa đẹp!”. Lời dặn của cha như nhắc nhở chúng tôi đừng quên cái lợi trước mắt mà đánh mất những giá trị lâu dài. Biết thưởng thức và yêu cái Đẹp là điều đáng quý nhưng trân trọng và giữ gìn nguồn cội để cái Đẹp mãi sinh sôi sẽ đáng giá hơn ngàn vàng. Nhìn sắc vàng của cánh mai điểm xuyết trên chùm nụ xanh, chi chít đầy cành, lòng người khấp khởi những hi vọng cho một năm mới an yên, cuộc sống không còn ám ảnh nặng nề của thiên tai, dịch bệnh. Xuân đến rồi xuân đi, mai nở rồi mai sẽ tàn; đó là quy luật. Còn con người, tuổi xuân qua đi sẽ không quay ngược lại bởi “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Vậy nên, hãy như cành mai đem hết nhựa sống dâng đời hoa vàng rực rỡ, như hạt sương long lanh trên kẽ lá rồi tan biến dưới ánh nắng mặt trời, hay que diêm chỉ lóe sáng một lần. Những khoảnh khắc kì diệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng ý nghĩa biết bao!
When the drizzle that covered the land in the Central region began to subside, the gray clouds gave way to the weak sunlight, and everything that was hibernating suddenly stirred and woke up. From the leaf axils of the old apricot tree at the beginning of the alley, small buds the size of light green toothpicks with a few yellow streaks have begun to emerge and hide among the dense foliage. Just waiting for the weather to clear, my sisters and I quickly brought out chairs and baskets to pick apricot leaves. The apricot tree at the beginning of my alley is originally a Quang apricot type, the flowers have five petals, the young leaves are green, not the reddish color of apricot. Pacify . I don't know when my grandfather asked for the seedlings to plant and take care of. I only know that when I started to care about the plants in the garden, they were already too tall for me to reach, the rough roots of the trees were imprinted with traces of time. time. Next to the old apricot tree, we worked and talked, the tree branches trembled under the hands that quickly picked up each leaf, then dropped it all over the tree. Every painful, attached leaf that leaves the branch will make way for a bright yellow flower in the coming spring. If humans do not remove old leaves, the apricot tree's leaves turn yellow and one by one leaves the branch, but the flowers will certainly bloom after the full moon of January. It's still spring but the air is still cold. Tet it's cooled. As a rule, in my hometown, at the beginning of December, every family that has apricot blossoms takes advantage of picking leaves so that the apricot blossoms will bloom in time to welcome the children from exile back home. On Tet holiday, in addition to "fatty meat, pickled onions, and red parallel sentences", there must also be "apricot trees, firecrackers, and green banh chung", so the yellow color of apricot blossoms is indispensable to create the flavor of Quang Tet. There are gardeners who have to hire people, even though it costs a little, but the need to enjoy the colors of spring buds and the scent of flowers and earth at the beginning of the year is greater than anything else. Looking at the fallen leaves all over the ground that my sister put into a basket and brought to the back garden, I thought a lot about the law of survival of all things. To offer beauty to life, the old apricot tree must brace itself to shield the buds and embryos from the harsh winds and rains of winter. By the time the weather had begun to warm, the tree branches were still writhing with the pain of plucking leaves, stuck in separation from the familiar green color, waiting for the birth of the flowers. As for the leaves, they return to the soil to save nutrients for the plants to grow and nourish their buds, offering life with many-petaled flowers with brilliant colors, so that the strength of spring can rise even more. There is no contribution that is not noble and there is no Beauty that does not experience painful losses. The plants around us are the same every day: "Without the pain of tearing leaves / How can we grow apricot branches"! Time is like the train has gradually arrived at the terminal, the calendar has gradually thinned on the wall, signaling the beginning of the season. Busy with all the worries leading up to Tet, I forgot all about the apricot tree even though it still stood silently by the alley, stretching out its spindly, leafless branches to catch the gentle, caressing early spring rain. The spring air and raindrops are like miraculous saints raising the tiny buds that were now the size of a child's fingernails with a tender green color. A few days ago Tet , the apricot branch has opened its golden petals, more golden than the color of the sun, more than the color of someone's new shirt drying in the corner of their hometown yard. Yellow is like the excitement of people's hearts every spring. On the afternoon of the 28th of Tet, my brother took out the bronze censer and the heirloom vase to be polished. Like every year, the flower vase will only be used to arrange red gladiolus flowers, although many times we asked our father to cut off the apricot branches. dined for a few days during Tet. Every time, my father responded with a shake of his head, a gentle smile and a refusal: "If I cut back the branches, I'm afraid the apricot tree will decline and won't have beautiful flowers next year!". Father's advice reminds us not to forget the immediate benefits and lose long-term values. Knowing how to enjoy and love Beauty is precious, but respecting and preserving the source so that Beauty can continue to flourish is worth more than thousands of gold. Looking at the yellow color of apricot petals dotting the bunch of green buds, filled with branches, people's hearts are filled with hope for a peaceful new year, a life no longer haunted by natural disasters and epidemics. Spring comes and spring goes, tomorrow blooms and tomorrow it fades; that's the rule. As for humans, the passing of youth will never come back because "no one bathes in the same river twice". So, be like the apricot branch that brings all its life to life with bright yellow flowers, like dew drops that glitter on the leaves and then disappear in the sunlight, or a match that only flashes once. Those magical moments are short but so meaningful!
Xuân Thiều, chiều xuân ấy. Mượn được chiếc xe, mừng quá. Mà nó cũng cà rịch cà tang thế này không biết có xong việc sớm không đây. Thôi kệ, không sớm thì ở lại. An tự nói rồi cùng chiếc xe hướng về phía phố Đà Nẵng . Gần hoàng hôn. Xuân Thiều như chìm trong màn sương xuân mờ mờ ảo ảo. Khói bếp nhà ai lơ lửng. Cánh đồng lúa xanh ngan ngát. Đàn trâu lững thững về thôn. Trước giải phóng, còn có ngôi chùa mái ngói đỏ tươi và tiếng chuông thu không làm dịu lòng người. Khung cảnh chiều xuân ở miền quê yên ả. An vừa đi vừa nghĩ. Xa xa, sau lưng An là núi. Sáng mùa xuân, dãy núi in đậm một màu tím thẫm, các dãy núi hai bên chụm vào nhau như đàn voi cúi đầu phủ phục triều cống đấng quân vương. An nghe mấy người già kể lại, hồi xưa vua Gia Long mới lên ngôi hoàng đế muốn chọn nơi núi này làm kinh đô, đến khi hỏi ý kiến lão pháp sư Tàu mới biết hình thái núi non này là huyệt đế vương giả nên mới giữ nguyên kinh đô Phú Xuân. Dòng sông sâu soi hình bóng núi, tưới cho đôi bờ cây cối xanh tươi. Sông không rộng nhưng sâu nên ra gần biển vẫn trôi lững lờ. Nguồn sông có một loài cá ngon nổi tiếng là cá đối cồi. Cuối dòng sông là một ngôi làng với sự tích vua Lê Thánh Tông dừng quân một đêm, có bài thơ hay vịnh phố Đà Nẵng để rồi sáng mai trẩy quân đuổi giặc Chàm về tận phương nam. Ngôi làng ấy cũng có một sản vật nổi tiếng cả nước: nước mắm Nam Ô. Và cấu tạo địa chất cũng để lại cho đời sau một ghềnh đá tuyệt đẹp, thành điểm đến du lịch hấp dẫn ngày nay. Quê hương giàu có tươi đẹp vô cùng. Chỉ tiếc một điều, vùng đất ấy còn một cái nổi tiếng nữa: nghĩa địa Xuân Thiều. Qua khỏi đèo Hải Vân hùng vĩ, bước vào vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng là gặp ngay điểm mở đầu với vô vàn mồ mả. Phía sát biển là nghĩa địa Phật Giáo, phía sát ruộng là nghĩa địa chung kéo dài bốn năm cây số, rộng ước chừng cũng vậy. Lớp lớp mả lớn xây dựng khang trang, có chủ hẳn hòi. Cộng với hàng trăm nấm mồ vô chủ. Tất cả điệp điệp mấy lần, chôn trong cát trắng. Và nghe đâu phía cuối mảnh đất Quảng Nam , về cuối huyện Núi Thành là một làng chài và cư dân ở đó sinh sống bằng nghề chài lưới, suốt đời lênh đênh trên biển, sống buồn theo câu hát “hồn treo cột buồm’’. Quê hương tôi, quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng đẹp giàu sao có hình thái ảm đạm thế! Đường ít xe cộ, An vừa đi vừa nghĩ lan man. Bỗng An thấy một cậu thanh niên vừa đi vừa chạy. – Cậu là ai? Sao giờ này còn ở đây? Một chàng thanh niên rất trẻ trả lời giọng mừng rỡ: – Em là sinh viên học ở Huế . Chiều nay em xin xe về Đà Nẵng, đến đây người ta cho em xuống bảo đến nhà rồi. Hết xe mà trời lại sắp tối. Gặp chị đây may quá. Chị cho em về bến xe Liên tỉnh với. Chiếc xe nhỏ chở hai người đi ngang qua nghĩa địa. An vừa lái xe vừa nhớ những chuyện người ta kể về chuyện ma. Chuyện ma thì nhiều vô kể. Ma giả làm cô gái đẹp xin đi quá giang. Lại có chuyện ma sống: cỡ chạng vạng, có người xin đi quá giang, đến nghĩa địa rút dao cướp xe. Gặp người bình tĩnh xuống xe, rút chìa khóa, bỏ lên yên hỏi anh muốn gì, xe đó, giỏi thì lấy đi. Tên cướp tưởng chủ xe có súng, vội bỏ chạy, thế là thoát. Nhưng thường là mất xe. Nghĩ đến đây, An sợ quá, khi nãy hay là mình đừng cho người này quá giang. Tưởng tượng người ngồi sau xe hung dữ lắm, lại có gì cờm cợm như dao kề sau bụng, An vội vàng xuống xe, chắp tay vừa lạy vừa nói: – Tôi lạy cậu. Cậu muốn thì cậu cứ lấy Xin cậu tha mạng. – Chị làm gì vậy? Em chỉ xin chị quá giang chứ không có ý gì khác. Đến bến xe, An mời đi ăn mì Quảng. Bảo ăn cho lại hồn, hồi nãy tôi sợ quá. Cậu người nhỏ nhắn dễ coi, thế mà hồi nãy tưởng tượng to lớn hung hãn lắm. Trông cậu cũng là người tốt. Qua nói chuyện, mới rõ cậu ấy tên là Sinh, người Bình Định, ra Huế học Y khoa. Chiều nay, Sinh xin xe từ Huế về Đà Nẵng, định xuống bến xe Liên tỉnh đón xe về Bình Định. Nếu không có chị An cho đi nhờ, chắc không kịp chuyến xe, tối nay không biết ngủ ở đâu. Một tháng sau, nhân có đám ở Đà Nẵng, cha mẹ cùng với Sinh tìm đến nhà An để cám ơn. Hai nhà thành thân mật từ đó. Hai người thành đôi bạn kết nghĩa kim bằng. Thấm thoát đã hơn ba mươi năm, tình chị em ngày càng thắm thiết mà vẫn giừ gìn được sự trong sáng. Thông thường, giữa hai người khác giới ít khi có tình bạn dài lâu. Lượng đổi thì chất đổi. Nhưng An không đổi. Mới lớn lên vừa giải phóng, An đã có một mối tình thắm thiết lắm, thề non hẹn biển đã nhiều, chỉ chờ ngày trầu rượu cưới xin. Nhưng anh chàng đã vì chữ hiếu đành phụ An. Và rồi mối tình thứ hai, với một sinh viên Bách Khoa Đà Nẵng, hai người nói một cách văn chương như đôi uyên ương liền cánh. Thì đùng một cái, anh lâm trọng bệnh, An khóc như không để nước mắt khóc ai nữa. Nhưng đành phải tử biệt sinh ly. “Đời người con gái một lần khóc người yêu tan cả cuộc đời”. An có đến hai lần yêu và hai lần được yêu. Hai lần An đều gặp người rất tốt trong tình yêu. Quá đủ. Và thế là An không yêu ai được nữa. Mối quan hệ của An và Sinh trôi qua tươi thắm và êm đềm lắm. Trong vườn có quả gì, An thường mang xuống cho vợ con Sinh, rủ Sinh đi ăn trưa nói chuyện tâm tình. Mùa hè, gia đình Sinh cùng An và mấy người bạn của An rủ nhau đi chơi cảnh đẹp trong vùng, rất vui vẻ. Đường Xuân Thiều bây giờ đi thâu đêm rất an toàn. Nghĩa địa đã được di dời lên núi. Hai bên đường nhà cửa thi nhau mọc lên, ban đêm sáng rực. Và cảng nước sâu Kỳ Hà giờ đã thay làng chài ven biển cuối Quảng Nam. Quảng Nam – Đà Nẵng giờ đã tươi đẹp từ đầu đến cuối. Bây giờ Sinh đã là Trưởng khoa một khoa quan trọng của một bệnh viện lớn trong thành phố. Người thân của An bị bệnh, Sinh lo lắng, chăm sóc như người nhà. Mẹ An mất, Sinh và vợ con cư tang đủ năm ngày. An đã cùng một cô bạn thân vào thăm nhà ba mẹ Sinh. Một ngôi nhà nhỏ mà tuyệt đẹp. Tựa vào núi. Giữa nhà và núi là cánh đồng màu mỡ. Trước nhà là dòng sông trong xanh, thuyền ghe tấp nập. Ông già là thầy thuốc Đông Y. Vẻ người quắc thước. Sinh có một ông anh và hai đứa em cũng theo nghề thuốc. Nhà toàn sách là sách. Trong không khí thân mật giữa bữa cơm gia đình, An chợt hỏi: – Thưa Bác, tại sao gia đình ta không chọn nghề dạy học mà lại chọn nghề thầy thuốc? – Cháu đã như người trong nhà, ta cũng không khách sáo. Nghề thầy giáo và nghề thầy thuốc đều cao quý, đều giúp ích cho người, cho đời như Nhưng, trong thực tế, như nhà bác đây, cụ tổ khi còn trẻ mắc bệnh thập tử nhất sinh, nhờ thầy thuốc giỏi cắt mấy thang thuốc cứu mạng. Nên bác chọn nghề thuốc để suốt đời biết ơn. Và các con của bác đều theo nghề cha. Mà đã là thầy thuốc, dù đông y hay tây y, đều phải lấy y đức làm đầu. Bác bắt buộc các con phải thuộc nằm lòng phần đầu bộ “Y tông tâm lĩnh” của y tổ Hải Thượng Lãn Ông. Nghe đến đây An chợt nhớ câu chuyện vợ Sinh kể. Có rất nhiều bệnh viện tư mời Sinh với mức lương cao hơn nhiều lần so với lương ở bệnh viện công, nhưng Sinh đều từ chối. Sinh tâm sự với vợ: “Nhà ta tuy không giàu nhưng cũng không đến nỗi thiếu thốn. Ở lại Bệnh viện này, với cương vị của anh, anh có thể giúp được nhiều bệnh nhân hơn”. Cuối bữa ăn hôm đó, uống một ly rượu ngon, sau tiếng khà thoải mái, ông già nói tiếp: – Bác rất vui vì tình chị em của các con rất tốt đẹp. Bác chợt nhớ đến câu chuyện cổ Việt Nam hay nhất, An là giáo viên, con có biết đó là chuyện gì không. Đó là chuyện Lưu Bình – Dương Lễ. Ngày xưa người ta nêu cao nghĩa kim bằng, hi sinh cho nhau để giữ gìn tình bạn, giữ gìn nghĩa kim Bác muốn các con ngày nay phải gắng sống như thế. Tôi là bạn thân của hai người, rất ngưỡng mộ tình kim bằng chung thủy, trong sáng của An và Sinh nên viết thành truyện như một bài tụng ca.
Xuân Thiều, chiều xuân ấy. Mượn được chiếc xe, mừng quá. Mà nó cũng cà rịch cà tang thế này không biết có xong việc sớm không đây. Thôi kệ, không sớm thì ở lại. An tự nói rồi cùng chiếc xe hướng về phía phố Đà Nẵng . Gần hoàng hôn. Xuân Thiều như chìm trong màn sương xuân mờ mờ ảo ảo. Khói bếp nhà ai lơ lửng. Cánh đồng lúa xanh ngan ngát. Đàn trâu lững thững về thôn. Trước giải phóng, còn có ngôi chùa mái ngói đỏ tươi và tiếng chuông thu không làm dịu lòng người. Khung cảnh chiều xuân ở miền quê yên ả. An vừa đi vừa nghĩ. Xa xa, sau lưng An là núi. Sáng mùa xuân, dãy núi in đậm một màu tím thẫm, các dãy núi hai bên chụm vào nhau như đàn voi cúi đầu phủ phục triều cống đấng quân vương. An nghe mấy người già kể lại, hồi xưa vua Gia Long mới lên ngôi hoàng đế muốn chọn nơi núi này làm kinh đô, đến khi hỏi ý kiến lão pháp sư Tàu mới biết hình thái núi non này là huyệt đế vương giả nên mới giữ nguyên kinh đô Phú Xuân. Dòng sông sâu soi hình bóng núi, tưới cho đôi bờ cây cối xanh tươi. Sông không rộng nhưng sâu nên ra gần biển vẫn trôi lững lờ. Nguồn sông có một loài cá ngon nổi tiếng là cá đối cồi. Cuối dòng sông là một ngôi làng với sự tích vua Lê Thánh Tông dừng quân một đêm, có bài thơ hay vịnh phố Đà Nẵng để rồi sáng mai trẩy quân đuổi giặc Chàm về tận phương nam. Ngôi làng ấy cũng có một sản vật nổi tiếng cả nước: nước mắm Nam Ô. Và cấu tạo địa chất cũng để lại cho đời sau một ghềnh đá tuyệt đẹp, thành điểm đến du lịch hấp dẫn ngày nay. Quê hương giàu có tươi đẹp vô cùng. Chỉ tiếc một điều, vùng đất ấy còn một cái nổi tiếng nữa: nghĩa địa Xuân Thiều. Qua khỏi đèo Hải Vân hùng vĩ, bước vào vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng là gặp ngay điểm mở đầu với vô vàn mồ mả. Phía sát biển là nghĩa địa Phật Giáo, phía sát ruộng là nghĩa địa chung kéo dài bốn năm cây số, rộng ước chừng cũng vậy. Lớp lớp mả lớn xây dựng khang trang, có chủ hẳn hòi. Cộng với hàng trăm nấm mồ vô chủ. Tất cả điệp điệp mấy lần, chôn trong cát trắng. Và nghe đâu phía cuối mảnh đất Quảng Nam , về cuối huyện Núi Thành là một làng chài và cư dân ở đó sinh sống bằng nghề chài lưới, suốt đời lênh đênh trên biển, sống buồn theo câu hát “hồn treo cột buồm’’. Quê hương tôi, quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng đẹp giàu sao có hình thái ảm đạm thế! Đường ít xe cộ, An vừa đi vừa nghĩ lan man. Bỗng An thấy một cậu thanh niên vừa đi vừa chạy. – Cậu là ai? Sao giờ này còn ở đây? Một chàng thanh niên rất trẻ trả lời giọng mừng rỡ: – Em là sinh viên học ở Huế . Chiều nay em xin xe về Đà Nẵng, đến đây người ta cho em xuống bảo đến nhà rồi. Hết xe mà trời lại sắp tối. Gặp chị đây may quá. Chị cho em về bến xe Liên tỉnh với. Chiếc xe nhỏ chở hai người đi ngang qua nghĩa địa. An vừa lái xe vừa nhớ những chuyện người ta kể về chuyện ma. Chuyện ma thì nhiều vô kể. Ma giả làm cô gái đẹp xin đi quá giang. Lại có chuyện ma sống: cỡ chạng vạng, có người xin đi quá giang, đến nghĩa địa rút dao cướp xe. Gặp người bình tĩnh xuống xe, rút chìa khóa, bỏ lên yên hỏi anh muốn gì, xe đó, giỏi thì lấy đi. Tên cướp tưởng chủ xe có súng, vội bỏ chạy, thế là thoát. Nhưng thường là mất xe. Nghĩ đến đây, An sợ quá, khi nãy hay là mình đừng cho người này quá giang. Tưởng tượng người ngồi sau xe hung dữ lắm, lại có gì cờm cợm như dao kề sau bụng, An vội vàng xuống xe, chắp tay vừa lạy vừa nói: – Tôi lạy cậu. Cậu muốn thì cậu cứ lấy Xin cậu tha mạng. – Chị làm gì vậy? Em chỉ xin chị quá giang chứ không có ý gì khác. Đến bến xe, An mời đi ăn mì Quảng. Bảo ăn cho lại hồn, hồi nãy tôi sợ quá. Cậu người nhỏ nhắn dễ coi, thế mà hồi nãy tưởng tượng to lớn hung hãn lắm. Trông cậu cũng là người tốt. Qua nói chuyện, mới rõ cậu ấy tên là Sinh, người Bình Định, ra Huế học Y khoa. Chiều nay, Sinh xin xe từ Huế về Đà Nẵng, định xuống bến xe Liên tỉnh đón xe về Bình Định. Nếu không có chị An cho đi nhờ, chắc không kịp chuyến xe, tối nay không biết ngủ ở đâu. Một tháng sau, nhân có đám ở Đà Nẵng, cha mẹ cùng với Sinh tìm đến nhà An để cám ơn. Hai nhà thành thân mật từ đó. Hai người thành đôi bạn kết nghĩa kim bằng. Thấm thoát đã hơn ba mươi năm, tình chị em ngày càng thắm thiết mà vẫn giừ gìn được sự trong sáng. Thông thường, giữa hai người khác giới ít khi có tình bạn dài lâu. Lượng đổi thì chất đổi. Nhưng An không đổi. Mới lớn lên vừa giải phóng, An đã có một mối tình thắm thiết lắm, thề non hẹn biển đã nhiều, chỉ chờ ngày trầu rượu cưới xin. Nhưng anh chàng đã vì chữ hiếu đành phụ An. Và rồi mối tình thứ hai, với một sinh viên Bách Khoa Đà Nẵng, hai người nói một cách văn chương như đôi uyên ương liền cánh. Thì đùng một cái, anh lâm trọng bệnh, An khóc như không để nước mắt khóc ai nữa. Nhưng đành phải tử biệt sinh ly. “Đời người con gái một lần khóc người yêu tan cả cuộc đời”. An có đến hai lần yêu và hai lần được yêu. Hai lần An đều gặp người rất tốt trong tình yêu. Quá đủ. Và thế là An không yêu ai được nữa. Mối quan hệ của An và Sinh trôi qua tươi thắm và êm đềm lắm. Trong vườn có quả gì, An thường mang xuống cho vợ con Sinh, rủ Sinh đi ăn trưa nói chuyện tâm tình. Mùa hè, gia đình Sinh cùng An và mấy người bạn của An rủ nhau đi chơi cảnh đẹp trong vùng, rất vui vẻ. Đường Xuân Thiều bây giờ đi thâu đêm rất an toàn. Nghĩa địa đã được di dời lên núi. Hai bên đường nhà cửa thi nhau mọc lên, ban đêm sáng rực. Và cảng nước sâu Kỳ Hà giờ đã thay làng chài ven biển cuối Quảng Nam. Quảng Nam – Đà Nẵng giờ đã tươi đẹp từ đầu đến cuối. Bây giờ Sinh đã là Trưởng khoa một khoa quan trọng của một bệnh viện lớn trong thành phố. Người thân của An bị bệnh, Sinh lo lắng, chăm sóc như người nhà. Mẹ An mất, Sinh và vợ con cư tang đủ năm ngày. An đã cùng một cô bạn thân vào thăm nhà ba mẹ Sinh. Một ngôi nhà nhỏ mà tuyệt đẹp. Tựa vào núi. Giữa nhà và núi là cánh đồng màu mỡ. Trước nhà là dòng sông trong xanh, thuyền ghe tấp nập. Ông già là thầy thuốc Đông Y. Vẻ người quắc thước. Sinh có một ông anh và hai đứa em cũng theo nghề thuốc. Nhà toàn sách là sách. Trong không khí thân mật giữa bữa cơm gia đình, An chợt hỏi: – Thưa Bác, tại sao gia đình ta không chọn nghề dạy học mà lại chọn nghề thầy thuốc? – Cháu đã như người trong nhà, ta cũng không khách sáo. Nghề thầy giáo và nghề thầy thuốc đều cao quý, đều giúp ích cho người, cho đời như Nhưng, trong thực tế, như nhà bác đây, cụ tổ khi còn trẻ mắc bệnh thập tử nhất sinh, nhờ thầy thuốc giỏi cắt mấy thang thuốc cứu mạng. Nên bác chọn nghề thuốc để suốt đời biết ơn. Và các con của bác đều theo nghề cha. Mà đã là thầy thuốc, dù đông y hay tây y, đều phải lấy y đức làm đầu. Bác bắt buộc các con phải thuộc nằm lòng phần đầu bộ “Y tông tâm lĩnh” của y tổ Hải Thượng Lãn Ông. Nghe đến đây An chợt nhớ câu chuyện vợ Sinh kể. Có rất nhiều bệnh viện tư mời Sinh với mức lương cao hơn nhiều lần so với lương ở bệnh viện công, nhưng Sinh đều từ chối. Sinh tâm sự với vợ: “Nhà ta tuy không giàu nhưng cũng không đến nỗi thiếu thốn. Ở lại Bệnh viện này, với cương vị của anh, anh có thể giúp được nhiều bệnh nhân hơn”. Cuối bữa ăn hôm đó, uống một ly rượu ngon, sau tiếng khà thoải mái, ông già nói tiếp: – Bác rất vui vì tình chị em của các con rất tốt đẹp. Bác chợt nhớ đến câu chuyện cổ Việt Nam hay nhất, An là giáo viên, con có biết đó là chuyện gì không. Đó là chuyện Lưu Bình – Dương Lễ. Ngày xưa người ta nêu cao nghĩa kim bằng, hi sinh cho nhau để giữ gìn tình bạn, giữ gìn nghĩa kim Bác muốn các con ngày nay phải gắng sống như thế. Tôi là bạn thân của hai người, rất ngưỡng mộ tình kim bằng chung thủy, trong sáng của An và Sinh nên viết thành truyện như một bài tụng ca.
Toàn văn phát biểu của Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân tại Lễ kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hàn Quốc . Chiều 20/12/2022, tại Hà Nội, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân dự và phát biểu tại Lễ kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hàn Quốc (22/12/1992 – 22/12/2022). Trân trọng giới thiệu Toàn văn phát biểu của Phó Chủ tịch nước tại Lễ kỷ niệm: Thưa bà Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hàn Quốc tại Việt Nam, Thưa Quý vị và các bạn, Hôm nay, tôi rất vui mừng tham dự Lễ kỷ niệm 30 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hàn Quốc do Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam chủ trì. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, tôi xin gửi tới Chính phủ và nhân dân Hàn Quốc, tới bà Đại sứ và các vị khách quý lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Thưa Quý vị và các bạn, Tình hữu nghị và sự kết giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc được khởi nguồn từ nhiều thế kỷ trước. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, ngày 22/12/1992, Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra chương mới trong quan hệ hai nước. Từ đó tới nay, trên cơ sở tin cậy về chính trị, tương đồng về văn hóa, gần gũi về địa lý, bổ trợ cho nhau về kinh tế, cùng chia sẻ những lợi ích chiến lược chung, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc đã phát triển hết sức mạnh mẽ, thực chất và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Việt Nam và Hàn Quốc đã trở thành đối tác quan trọng hàng đầu của nhau trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, hợp tác về kinh tế, thương mại và đầu tư vừa là trụ cột, vừa là động lực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước. Hàn Quốc hiện đứng thứ nhất về đầu tư trực tiếp vào Việt Nam; thứ hai về hợp tác phát triển (ODA), lao động và du lịch; thứ ba về hợp tác thương mại. Ở chiều ngược lại, Việt Nam là đối tác kinh tế lớn nhất của Hàn Quốc tại ASEAN, chiếm 30% đầu tư và 50% tổng kim ngạch thương mại giữa Hàn Quốc và ASEAN. Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân Giao lưu nhân dân giữa hai nước không ngừng phát triển, có ý nghĩa quan trọng, là cầu nối vững chắc cho mối quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc. Hiện có khoảng 200 nghìn kiều dân mỗi nước đang sinh sống, học tập và làm việc tại nước kia, trong đó có khoảng 80 nghìn gia đình đa văn hóa Việt – Hàn; khoảng 70 cặp địa phương thiết lập quan hệ hợp tác, gần 2.000 chuyến bay/một tháng kết nối các địa phương hai nước. Các chương trình văn hóa, nghệ thuật, phim ảnh, ẩm thực, thời trang của Hàn Quốc rất được ưa chuộng tại Việt Nam; ngược lại văn hóa, ẩm thực Việt Nam cũng ngày càng được phổ biến hơn tại Hàn Quốc. Đặc biệt gần đây, trong điều kiện rất khó khăn của đại dịch Covid-19, quan hệ hợp tác song phương vẫn không ngừng phát triển. Hàn Quốc là một trong những nước đầu tiên hỗ trợ vắc-xin và trang thiết bị y tế giúp Việt Nam phòng, chống và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Đồng thời, Việt Nam cũng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Hàn Quốc hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm duy trì chuỗi cung ứng hàng hóa trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế toàn cầu. Thưa Quý vị và các bạn! Có thể nói, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc là một hình mẫu thành công dựa trên sự chân thành, tin cậy về chính trị; sự năng động, linh hoạt, bền vững trong hợp tác kinh tế; và sự gắn bó sâu sắc trong giao lưu nhân dân. Trong đó, có đóng góp quan trọng của đối ngoại nhân dân, nhất là cộng đồng doanh nghiệp của hai nước. Tôi đánh giá cao Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc, cùng với các hội, đoàn hữu nghị, kinh tế, văn hóa đã bền bỉ, không ngừng nỗ lực thúc đẩy giao lưu, hợp tác giữa nhân dân và doanh nghiệp hai nước, góp phần gắn kết, tạo thuận lợi cho quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ trong suốt thời gian qua. Tôi tin tưởng rằng, trên nền tảng vững chắc đã được xây dựng trong 30 năm qua, với ưu thế và tiềm năng của mỗi nước và với quyết tâm cao của lãnh đạo và nhân dân hai nước, quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện” vừa được hai nước tuyên bố nâng cấp, nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hàn Quốc của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc mới đây sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước và góp phần tích cực vào hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Nhân dịp này, tôi xin chúc đất nước Hàn Quốc phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Chúc quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Hàn Quốc phát triển bền vững. Chúc các vị lãnh đạo Việt Nam và Hàn Quốc, cùng các vị khách quý dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và thành công trong năm mới. Xin trân trọng cảm ơn.
Full text of Vice President Vo Thi Anh Xuan's speech at the 30th Anniversary of establishing diplomatic relations Vietnam – Korea . On the afternoon of December 20, 2022, in Hanoi, Vice President Vo Thi Anh Xuan attended and spoke at the 30th Anniversary of establishing diplomatic relations between Vietnam and Korea (December 22, 1992 - December 22). /2022). Sincerely introduce the full text of the Vice President's speech at the Anniversary Ceremony: Dear Ambassador Extraordinary and Plenipotentiary of Korea to Vietnam, Ladies and gentlemen and friends, Today, I am very pleased to attend the 30th Anniversary of the establishment of diplomatic relations between Vietnam and Korea hosted by the Vietnam Union of Friendship Organizations. On behalf of the leaders of the Party, State and people of Vietnam, I would like to send the best congratulations to the Government and people of Korea, to the Ambassador and distinguished guests. Ladies and gentlemen and friends, The friendship and connection between Vietnam and Korea originated many centuries ago. Having gone through many ups and downs of history, on December 22, 1992, Vietnam and Korea officially established diplomatic relations, opening a new chapter in the two countries' relationship. Since then, on the basis of political trust, cultural similarity, geographical proximity, economic complementarity, and sharing common strategic interests, Vietnam - Korea relations The country has developed very strongly and substantially and achieved many great achievements. Vietnam and Korea have become each other's most important partners in many fields. In particular, cooperation in economics, trade and investment is both the pillar and the driving force to promote cooperation between the two countries. Korea currently ranks first in direct investment in Vietnam; the second on development cooperation (ODA), labor and tourism; The third is about trade cooperation. On the contrary, Vietnam is Korea's largest economic partner in ASEAN, accounting for 30% of investment and 50% of total trade turnover between Korea and ASEAN. Vice President Vo Thi Anh Xuan People-to-people exchanges between the two countries are constantly growing and have important significance, serving as a solid bridge for the Vietnam-Korea relationship. There are currently about 200 thousand expatriates from each country living, studying and working in the other country, including about 80 thousand Vietnamese - Korean multicultural families; About 70 pairs of localities have established cooperative relations, nearly 2,000 flights/month connect localities of the two countries. Korean culture, art, movies, cuisine, and fashion programs are very popular in Vietnam; On the contrary, Vietnamese culture and cuisine are also becoming more and more popular in Korea. Especially recently, under the very difficult conditions of the Covid-19 pandemic, bilateral cooperation has continued to develop. Korea is one of the first countries to support vaccines and medical equipment to help Vietnam effectively prevent, fight and control epidemics. At the same time, Vietnam also creates favorable conditions for Korean businesses to operate production and business activities, ensuring the maintenance of goods supply chains in the difficult context of the global economy. Ladies and gentlemen and friends! It can be said that the Vietnam - Korea relationship is a model of success based on sincerity and political trust; dynamism, flexibility and sustainability in economic cooperation; and deep attachment in people-to-people exchanges. Among them, there is an important contribution from people-to-people diplomacy, especially the business communities of the two countries. I highly appreciate the Union of Vietnam Friendship Organizations, the Vietnam - Korea Friendship Association, along with other friendship, economic and cultural associations and groups for their persistent and constant efforts to promote exchanges, cooperation between the people and businesses of the two countries, contributing to cohesion and facilitating the strong development of relations between the two countries over the past time. I believe that, on the solid foundation built over the past 30 years, with the advantages and potentials of each country and the high determination of the leaders and people of the two countries, the "Global Strategic Partnership" "representation" that has just been announced to be upgraded by the two countries, on the occasion of the recent State visit to Korea by President Nguyen Xuan Phuc, will continue to develop strongly, meeting the aspirations and interests of the two countries' people and Actively contributing to peace, cooperation and development in the region and the world. On this occasion, I would like to wish Korea a prosperous and happy development. Wishing the comprehensive strategic partnership between Vietnam and Korea to develop sustainably. Wishing the leaders of Vietnam and Korea, along with distinguished guests, good health, happiness and success in the new year. Thank you very much.
áng 11/01/2023, tại Trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội ), BTC Ngày thơ Việt Nam lần thứ 21 đã tổ chức họp báo về công tác tổ chức ngày thơ đặc biệt sau 3 năm gián đoạn. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Hữu Việt – Trưởng Ban Nhà văn Trẻ, nhà văn Nguyễn Một, giám đốc Văn hóa Truyền thông của Tập đoàn THACO Trường Hải – đơn vị đồng hành chính và đạo diễn Lê Qúy Dương – tổng đạo diễn chương trình Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 21 đã chủ trì buổi họp báo. Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 21 có chủ đề “Nhịp điệu mới” hứa hẹn nhiều nét mới trong nội dung và hình thức tổ chức. Nét mới đầu tiên: địa điểm tổ chức sẽ là Hoàng Thành Thăng Long – Di sản quốc gia đặc biệt được UNESCO ghi danh vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới, thay vì Văn Miếu – Quốc Tử Giám như 18 lần tổ chức trước đó. Những nét mới khác gồm: Không gian Ngày Thơ (gồm toàn bộ khu vực sân Đoan Môn của Hoàng Thành), Cổng Thơ (một thiết kế cách điệu của họa sĩ Phạm Hà Hải), Cõi Thơ, Đường Thơ, Nhà ký ức (nơi trưng bày các hiện vật đặc biệt của các nhà thơ tên tuổi qua nhiều thời kỳ của văn học Việt Nam do Bảo tàng Văn học Việt Nam cung cấp), Quán Thơ, Cây Thơ, Đường Sách (dự kiến sẽ có khoảng 40 ki-ốt dành cho các NXB, Công ty Văn hóa, phát hành sách). Đặc biệt, tại vị trí trung tâm, trước cửa Đoan Môn là sân khấu diện tích khoảng 350 m 2 sàn, trong đó có 100 m 2 sàn bằng kính, được gọi là Đàn Thơ – nơi sẽ diễn ra Đêm Thơ Nguyên tiêu. Thời gian tổ chức của Ngày Thơ năm nay bao gồm cả ngày Rằm tháng Giêng (tức ngày 5/2/2023) thay vì chỉ diễn ra vào buổi sáng ngày Rằm như những lần tổ chức trước. Một số hoạt động đáng chú ý khác của Ngày Thơ là Tọa đàm “Thơ hiện nay với hôm nay” do Hội Nhà văn Việt Nam chủ trì với sự tham gia các nhà thơ nhiều thế hệ, thảo luận và làm rõ những vấn đề quan trọng của thi ca đương đại, trình chiếu các phim tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của các nhà thơ nổi tiếng đã góp phần xây dựng nên nền thi ca Việt Nam. Toàn cảnh họp báo. Điểm đặc biệt của năm nay là chỉ có một sân thơ duy nhất dành cho các nhà thơ mọi thế hệ (khác với những lần tổ chức trước tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, chia ra hai sân thơ). Sẽ có 21 bài thơ/tác giả thơ xuất hiện trong chương trình, tương đương với con số Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 21. Theo BTC, chủ đề Ngày thơ Việt Nam 2023 là “Nhịp điệu mới” với ước vọng, khi đất nước chúng ta đã vượt qua đại dịch thế kỷ, cuộc sống bình thường mới trở lại với nhịp điệu, khí thế và niềm tin mới cùng với sự phục hồi mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, hướng tới một tương lai tràn đầy hy vọng về những điều tốt đẹp.
January 11, 2023, at the Vietnam Writers Association Headquarters (Không. 9 Nguyen Dinh Chieu, Hanoi ), The organizers of the 21st Vietnam Poetry Day held a press conference on the organization of the special poetry day after a 3-year hiatus. Poet Nguyen Quang Thieu – Chairman of the Vietnam Writers Association, poet Huu Viet – Head of the Young Writers Committee, writer Nguyen Mot, director of Culture and Communication of THACO Truong Hai Group – main companion unit and director Le Quy Duong – The general director of the 21st Vietnam Poetry Day program chaired the press conference. The 21st Vietnam Poetry Day has the theme "New Rhythm" promising many new features in content and organization. The first new feature: the venue will be the Imperial Citadel of Thang Long - a special national heritage listed by UNESCO on the World Cultural Heritage List, instead of the Temple of Literature - Quoc Tu Giam as in the previous 18 organizations. there. Other new features include: Poetry Day Space (including the entire Doan Mon yard area of ​​the Imperial Citadel), Poetry Gate (a stylized design by artist Pham Ha Hai), Poetry Realm, Poetry Street, Memory House ( a place to display special artifacts of famous poets through many periods of Vietnamese literature provided by the Vietnam Literature Museum), Poetry Quan, Poetry Tree, Sach Street (expected to have about 40 - for publishers, cultural companies, and book publishers). In particular, at the central location, in front of Doan Mon gate, is a stage with an area of ​​about 350 m2 2 floor, including 100 m 2 glass floor, called Dan Tho - where Nguyen Tieu Poetry Night will take place. The organization time of this year's Poetry Day includes the full moon day of January (February 5, 2023) instead of only taking place on the morning of the full moon day like previous organizations. Some other notable activities of Poetry Day are: Seminar "Poetry today and today" Hosted by the Vietnam Writers Association with the participation of poets of many generations, discussing and clarifying important issues of contemporary poetry, screening documentaries about the lives and careers of poets. Famous poems have contributed to building Vietnamese poetry. Panorama of press conference. A special feature of this year is that there is only one poetry yard for poets of all generations (different from previous events at the Temple of Literature - Quoc Tu Giam, which was divided into two poetry yards). There will be 21 poems/poetry authors appearing in the program, equivalent to the number of the 21st Vietnam Poetry Day. According to the organizers, the theme of Vietnam Poetry Day 2023 is "New Rhythm" with the hope that when our country has overcome the pandemic of the century, normal life will return with new rhythm, spirit and confidence. along with the recovery of all aspects of economic, cultural and social life, towards a future full of hope for good things.
Tối 14.1, Trung tâm hội nghị Quốc gia, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc đã dự Chương trình Xuân quê hương 2023 với chủ đề “Đất nước niềm tin và khát vọng”. Chương trình do Bộ Ngoại giao – Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức hằng năm, mang ý nghĩa chính trị – văn hóa quan trọng, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước dành cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Chủ tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc xem trưng bày ảnh tại Chương trình Xuân quê hương năm 2023. Tham gia Chương trình có hơn 2.000 đại biểu là Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương, đại diện cộng đồng người Việt Nam ở các nước. Đánh trống khai hội Xuân quê hương và phát biểu tại chương trình, Chủ tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc đã điểm lại những thành tựu nổi bật của đất nước trong năm 2022; khẳng định, toàn dân tộc Việt Nam đã chung sức đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, phát huy mạnh mẽ nội lực, kết hợp hiệu quả các nguồn lực quốc tế, vượt qua gian nan thách thức, tận dụng cơ hội và đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Chủ tịch Nước nêu rõ, Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là “ bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước ”. Bằng nhiều hình thức và trong các lĩnh vực khác nhau, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã góp phần quan trọng cả về vật chất và tinh thần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã mở rộng quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư, đóng góp cho công cuộc phòng, chống dịch Covid-19, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ… Trong chuyến thăm huyện đảo Trường Sa vào tháng 5.2022, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã ủng hộ thiết thực đóng nhiều xuồng máy góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng là chất xúc tác đóng góp quan trọng vào những thành công chung về đối ngoại của đất nước ta. Thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa, tôn giáo, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đã và đang góp phần giữ gìn bản sắc và quảng bá những giá trị văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, hình thành một mạng lưới các “sứ giả hữu nghị” với các nước, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắn nhủ với bà con kiều bào ta năm 1946 “mỗi kiều bào phải là một đại sứ của nhân dân Việt Nam”. Chủ tịch Nước bày tỏ ấn tượng với nhiều doanh nhân người Việt đã thành danh và lớn mạnh. Các hiệp hội, mạng lưới doanh nhân kiều bào đã và đang tích cực đưa hàng hóa Việt Nam đến với thị trường thế giới, đồng thời đưa các doanh nghiệp, các công ty đa quốc gia đến với Việt Nam, hợp tác, đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Tính đến tháng 10.2022, đã có 385 dự án FDI của kiều bào ta tại 29 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký hơn 1,7 tỷ USD tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, kinh doanh bất động sản, lưu trú… Lượng kiều hối gửi về nước ngày càng lớn, tương đương khoảng 7% GDP và là nguồn lực rất quý cho đất nước. Chủ tịch Nước hoan nghênh đội ngũ hơn nửa triệu trí thức kiều bào là nguồn lực chất xám quan trọng đã và đang tham gia các hoạt động khoa học, sáng tạo, xây dựng các hệ sinh thái khởi nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển công nghệ trong nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa nước ta trở thành nước phát triển thu nhập cao vào năm 2045 theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Chủ tịch Nước khẳng định sự quan tâm và chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta từ Nghị quyết số 36/2004 đến Kết luận số 12/2021 của Bộ Chính trị đều tập trung chăm lo, hỗ trợ và tạo điều kiện để cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thể hiện tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương. Trong năm 2022, Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, các vùng có xung đột trên thế giới, hỗ trợ làm ăn sinh sống, nâng cao địa vị pháp lý, tổ chức nhiều hoạt động kết nối kiều bào với quê hương. Chia sẻ đất nước ta đang tràn đầy khát vọng vươn tới một Việt Nam độc lập, tự cường, phồn vinh, thịnh vượng, Chủ tịch Nước nêu rõ, trên con đường đi tới, dù sẽ còn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức, nhưng với khát vọng đủ lớn, và ngọn cờ đủ cao sẽ là nguồn động lực mạnh mẽ đoàn kết cả dân tộc, cùng vững tin hành động, đổi mới sáng tạo biến khát vọng thành hiện thực. Trong tiến trình đó, Chủ tịch Nước mong rằng, kiều bào ta – những người con mang dòng máu Lạc Hồng – sẽ luôn nhớ “ một chữ đồng ” như Bác Hồ đã dạy, để cùng chung tay hành động thắp sáng tinh thần yêu nước vì một Việt Nam thịnh vượng và hùng cường.
On the evening of January 14, at the National Convention Center, Politburo member and President Nguyen Xuan Phuc attended the 2023 Homeland Spring Program with the theme "Country's beliefs and aspirations". The program is organized annually by the Ministry of Foreign Affairs - State Committee for Vietnamese Overseas, with important political and cultural significance, demonstrating the Party and State's deep concern for the community. Vietnamese people abroad. President Nguyen Xuan Phuc looks at the photo display at the 2023 Homeland Spring Program. Participating in the Program are more than 2,000 delegates who are leaders of the Party, State, central and local ministries, departments, branches, and representatives of the Vietnamese community in other countries. Beating the drum to open the homeland's Spring Festival and speaking at the program, President Nguyen Xuan Phuc reviewed the country's outstanding achievements in 2022; affirmed that the entire Vietnamese people have joined together under the leadership of the Party and State, strongly promoting internal resources, effectively combining international resources, overcoming difficulties and challenges, and taking advantage of opportunities. association and achieved many great and important achievements. The President stated clearly that Resolution Không. 36-NQ/TW of the Politburo affirmed that the Vietnamese community abroad is " an inseparable part and a resource of the Vietnamese ethnic community, an important factor contributing to strengthening cooperative and friendly relations between our country and other countries. ”. In many forms and in different fields, the Vietnamese community abroad has made an important contribution both materially and spiritually to the cause of building and protecting the Fatherland. The Vietnamese community abroad has expanded trade and investment cooperation, contributing to the prevention and control of the Covid-19 epidemic, overcoming the consequences of natural disasters, storms and floods... During the visit to Truong island district In May 2022, the Vietnamese community abroad practically supported the construction of many motorboats to contribute to protecting the sovereignty of the sea and islands of the Fatherland. The Vietnamese community abroad is also a catalyst that makes an important contribution to our country's overall foreign policy successes. Through cultural and religious exchange activities, the Vietnamese community abroad has been contributing to preserving identity and promoting Vietnamese cultural values ​​abroad, forming a network of "messengers of friendship" with other countries, just as President Ho Chi Minh reminded our overseas Vietnamese in 1946, "each overseas Vietnamese must be an ambassador of the Vietnamese people". The President expressed his impression of many Vietnamese businessmen who have become famous and strong. Associations and networks of overseas Vietnamese businessmen have been actively bringing Vietnamese goods to the world market, while also bringing businesses and multinational companies to Vietnam, to cooperate and invest. doing business in Vietnam. As of October 2022, there were 385 FDI ​​projects of overseas Vietnamese in 29 countries and territories with a total registered capital of more than 1.7 billion USD focusing on the fields of processing industry, manufacturing, and business. real estate, accommodation... The amount of remittances sent home is increasing, equivalent to about 7% of GDP and is a very valuable resource for the country. The President welcomed the team of more than half a million overseas Vietnamese intellectuals as an important intellectual resource who has been participating in scientific and creative activities, building startup ecosystems, and improving the quality of human resources. resources, develop domestic technology, contributing to realizing the goal of turning our country into a high-income developed country by 2045 according to the Resolution of the 13th Party Congress. The President affirmed our Party's consistent and thorough concern and policy from Resolution Không. 36/2004 to Conclusion Không. 12/2021 of the Politburo, focusing on taking care of, supporting and creating conditions for The Vietnamese community abroad shows the spirit of patriotism and attachment to the homeland. In 2022, the State has implemented many policies to support the Vietnamese community abroad and in conflict areas around the world, support businesses and livelihoods, improve legal status, and organize many activities. connects overseas Vietnamese with their homeland. Sharing that our country is full of aspirations to reach an independent, self-reliant, prosperous, and prosperous Vietnam, the President stated that on the way forward, although there will still be countless difficulties to face. , challenging, but with the desire is big enough, and The flag is high enough will be a strong source of motivation to unite the whole nation, to firmly believe in action, to innovate and turn aspirations into reality. In that process, the President hopes that our overseas Vietnamese - children of Lac Hong blood - will always remember " a bronze letter ” as Uncle Ho taught, to join hands in action to light up the patriotic spirit for a prosperous and powerful Vietnam.
Những trang viết về Tết Nguyên đán trong các cuốn sách mang tới những hiểu biết về phong tục, văn hóa truyền thống dân tộc. Hoạt cảnh tái hiện lại không khí Tết Xưa. Ảnh: Bùi Quang Quý. Tết Nguyên Đán là một ngày lễ đặc biệt của dân tộc ta vào mỗi dịp đầu năm mới. Có những nghi thức tưởng chừng như vô nghĩa nhưng qua góc nhìn của các nhà khoa học, chúng lại là một cách truyền tải thông điệp của quá khứ và hiện tại, của tổ tiên và con cháu, của truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Các phong tục trong ngày Tết ánh lên một vẻ đẹp văn hóa bất chấp hàng nghìn năm đô hộ của giặc phương Bắc, hàng trăm năm đô hộ của phương Tây. Hiểu về Tết xưa là hiểu về truyền thống văn hóa dân tộc. Một số cuốn sách giúp bạn trẻ hôm nay hiểu về phong tục ngày Tết. Dưới con mắt của một người sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ 20, văn hóa dân tộc mở ra trong cuốn sách Việt Nam phong tục được ví như một bức tranh đa chiều. Từ các nghi lễ trong gia đình cho đến các phong tục của xã hội, tất cả đều được Phan Kế Bính diễn giải một cách chi tiết. Có những ghi chép của ông đến hiện tại vẫn được sử dụng như một nguồn tư liệu tham khảo đáng tin cậy. Cuốn sách đã được ra mắt hơn 100 năm tuy nhiên lối viết của Phan Kế Bính dễ đọc. Ông trải ra một lớp ngôn ngữ vừa hàn lâm vừa đời thường để mô tả về các sự việc trong đời sống người Việt. Cuốn sách là minh chứng cho nỗ lực đấu tranh chống đồng hóa của dân tộc ta khi thực dân Pháp đô hộ. Cuốn Việt Nam phong tục hiện nay đã ra mắt trên các nền tảng sách nói. Ảnh: Fonos Không chỉ là sự ghi chép đơn thuần, các biên khảo trong sách của Phan Kế Bính còn thể hiện những góc nhìn phê phán xã hội đương thời. “Xét trong các cách chơi bời, cách nào cũng có một cái thú tiêu nhàn, cũng di dưỡng được tính tình, cũng khoan khoái được thần chỉ. Song bất câu cách nào hễ chơi có điều có độ thì còn có lý thú, chớ chơi quá thì đều là vô ích. Uống rượu lắm thì sinh ra bệnh, hại đến sự vệ sinh; tổ tôm lắm sinh ra hại của; cờ lắm tổn tinh thần”, Phan Kế Bính viết trong cuốn Việt Nam phong tục . Với riêng những ngày Tết, Phan Kế Bính miêu tả rất kỹ các phong tục trong họ hàng, gia đình. Từ đó, những lớp trầm tích văn hóa được tôn lên, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của một nền văn hóa lâu đời. Theo Phan Kế Bính, trong dịp đầu năm mới, các nhà thường dán tranh quan tướng, hoặc dán bốn chữ Thần trà Uất Lũy trước cửa. Dân gian xưa truyền miệng nhau rằng ở dưới gốc cây đào lớn núi Độ Sóc có hai ông thần, gọi là Thần trà Uất lũy, cai quản đàn quỷ. Hễ quỷ nào làm hại con người thì sẽ bị trừng phạt. Người ta dán bốn chữ ấy lên là tránh để cho quỷ không vào nhà. Khác với Phan Kế Bính, GS Nguyễn Văn Huyên đem đến một lối viết phóng khoáng, bay bổng trong các tiểu luận của mình ở Hội hè lễ tết của người Việt. Cuốn sách mở ra một không khí náo nhiệt và đượm màu sắc văn hóa của các ngày lễ Tết trên dải đất hình chữ S này. Lễ hội theo mùa, theo ngày, theo tháng, theo năm, theo vùng miền, quê quán, họ hàng. Các nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Huyên trải dài theo cả không gian và thời gian. Hội hè lễ tết của người Việt nằm trong bộ ba cuốn nghiên cứu về văn hóa của GS. Nguyễn Văn Huyên. Đặc biệt, các trang viết về Tết được độc giả trên mạng xã hội Goodreads đánh giá là đáng đọc nhất. “Ngày Tết, do một quy luật tự nhiên bất di bất dịch, nhờ sự vận hành muôn thuở kết hợp của mặt trời và mặt trăng, bao giờ cũng xuất hiện với bộ trang sức tươi tắn muôn hồng nghìn tía, được làm dịu đi bởi sự đổi mới của vạn vật, được làm sinh động bởi các hạt mưa lâm tâm, điềm báo trước cơn mưa phùn tốt lành”, GS Nguyễn Văn Huyên ghi lại trong cuốn sách. Cuốn sách là một lời bày tỏ tình yêu của giáo sư đối với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ông viết về việc người dân ta đi tảo mộ vào mỗi dịp đầu năm hoặc cuối năm. Ông cho rằng đó là một trong những cách nhân dân ta giữ gìn những giá trị đạo lý tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn”. Qua các hoạt động hàng ngày tưởng chừng như vô nghĩa, dưới góc nhìn của một nhà khoa học, chúng lại mang những thông điệp riêng. Đó là cách quá khứ và hiện tại gửi thông điệp cho nhau. Tâm lý người An Nam được xuất bản lần đầu vào năm 1904 và được tái bản năm 2019. Tâm lý người An Nam là cuốn sách nói về tính cách dân tộc, tiến trình lịch sử, tri thức, xã hội và chính trị của người dân ta trong những năm tháng thực dân Pháp đô hộ. Cuốn sách là những ghi chép đầy thú vị về Việt Nam của nhà khoa học Paul Giran, một trong số ít các tác giả nghiên cứu về văn hóa tại các nước thuộc địa đầu thế kỷ 20. Góc nhìn của Paul Giran không phải là một góc nhìn ngoại lai đầy pha tạp. Nó gần gũi, cởi mở và có những sự đối chiếu dựa trên lòng tôn trọng các khác biệt nhất định. “Người An Nam không giống như những người Kitô giáo hay người theo đạo Islam, không có các nghĩa địa chung, những nghĩa trang bình thường; các nấm mồ của họ tọa lạc trong các thửa ruộng của gia đình; vị tổ tiên tiếp tục sống giữa đám con cháu; ông che chở cho họ bằng sự hiện diện vô hình của mình”, Paul Giran viết về nghi thức tảo mộ dịp cận Tết của người Việt.
Pages about Lunar New Year The books bring knowledge about traditional customs and culture of the nation. The scene recreates the atmosphere of Tet Xua Xua. Photo: Bui Quang Quy. Lunar New Year is a special holiday of our nation at the beginning of every new year. There are rituals that seem meaningless, but through the perspective of scientists, they are a way to convey messages of the past and present, of ancestors and descendants, of the tradition "When drinking water, remember its source." ”. The customs of Tet reflect a cultural beauty despite thousands of years of domination by the Northern invaders and hundreds of years of Western domination. Understanding ancient Tet means understanding national cultural traditions. Some books help young people today understand Tet customs. Through the eyes of a patriotic scholar of the early 20th century, national culture opens up in the book Vietnamese customs considered a multi-dimensional picture. From family rituals to social customs, all are explained in detail by Phan Ke Binh. Some of his notes are still used as a reliable reference source to this day. The book has been published for more than 100 years, but Phan Ke Binh's writing style is easy to read. He spreads a layer of both academic and everyday language to describe events in Vietnamese life. The book is a testament to our nation's efforts to fight against assimilation during French colonial rule. The book Vietnam Customs is now available on audiobook platforms. Photo: Fonos Not just mere records, the essays in Phan Ke Binh's book also express critical perspectives on contemporary society. “In terms of ways to play, every way has a leisurely entertainment, it also nourishes the character, and it also relaxes the spirit. But no matter how you play, if you play moderately, it will still be interesting. If you don't play too much, it will be useless. Drinking too much alcohol causes illness and harms hygiene; Many shrimp nests cause harm to property; Chess is very mentally damaging," Phan Ke Binh wrote in the book Vietnamese customs . With regard to Tet holidays, Phan Ke Binh describes very carefully the customs among relatives and families. From there, the layers of cultural sediments are highlighted, readers can feel the rich beauty of an ancient culture. According to Phan Ke Binh, during the beginning of the new year, houses often post paintings of generals, or four words, Uat Luy Tea God, on the front door. Ancient folklore told each other that at the foot of a large peach tree on Do Soc mountain, there were two gods, called Uat Tui Tra Than, who ruled over the demons. Any demon that harms humans will be punished. People put those four words on them to prevent ghosts from entering the house. Unlike Phan Ke Binh, Professor Nguyen Van Huyen brings a liberal and uplifting writing style in his essays in Tet festival of Vietnamese people. The book opens up a bustling and culturally colorful atmosphere of Tet holidays on this S-shaped strip of land. Festivals according to season, day, month, year, region, hometown, relatives. Professor Nguyen Van Huyen's research spans both space and time. Vietnamese Tet festivals are included in a series of three cultural research books by Professor. Nguyen Van Huyen. In particular, pages about Tet are rated by readers on the social network Goodreads as the most worth reading. “New Year's Day, due to an immutable natural law, thanks to the eternal combined operation of the sun and moon, always appears with bright and purple jewelry, softened. by the renewal of all things, enlivened by raindrops, a sign of a good drizzle", Professor Nguyen Van Huyen recorded in the book. The book is an expression of the professor's love for the good traditions of the nation. He wrote about people going to visit graves at the beginning or end of the year. He said that is one of the ways our people preserve good moral values ​​"When drinking water, remember its source". Through seemingly meaningless daily activities, from the perspective of a scientist, they carry their own messages. That's how the past and present send messages to each other. Psychology of the Annamese people was first published in 1904 and republished in 2019. Psychology of Annamese people is a book about the national character, historical, intellectual, social and political progress of our people during the years of French colonial rule. The book is interesting notes about Vietnam by scientist Paul Giran, one of the few authors who researched culture in colonial countries in the early 20th century. Paul Giran's perspective is not just one. mixed foreign perspective. It is close, open and has comparisons based on respect for certain differences. “An Nam people, unlike Christians or Muslims, do not have common cemeteries, normal cemeteries; Their graves are located in family plots; the ancestor continues to live among his descendants; He protected them with his invisible presence," Paul Giran wrote about the Vietnamese people's tomb-sweeping ritual near Tet.
Sao chổi C/2022 E3 (ZTF) có thể sẽ bay qua Trái đất và Mặt trời trong vài tuần tới. Điều đặc biệt là con người có thể ngắm sao chổi bằng mắt thường. Sao chổi C/2022 E3 (ZTF) sẽ bay gần Mặt trời nhất vào ngày 12-1 và bay qua Trái đất vào ngày 1-2 – Ảnh: AFPPIX/thesundaily.my Sao chổi có tên gọi là C/2022 E3 (ZTF), được phát hiện lần đầu tiên khi bay qua sao Mộc hồi tháng 3-2022. Dự báo sao chổi sẽ bay gần Mặt trời nhất vào ngày 12-1 và bay qua Trái đất vào ngày 1-2. Dùng ống nhòm có thể nhìn thấy sao chổi ZTF một cách dễ dàng, nhưng cũng có thể quan sát bằng mắt thường nếu bầu trời không quá sáng. Theo giáo sư vật lý Thomas Prince, Viện Công nghệ California ( Mỹ ), ánh sáng của sao chổi được nhìn thấy rõ nhất khi nó tiếp cận Trái đất ở cự ly gần nhất. Nhà vật lý thiên văn học Nicolas Biver, Đài quan sát thiên văn Paris, cho biết sao chổi ZTF có đường kính ước tính khoảng 1km. Nó được cấu thành từ bụi và băng, giải phóng ra những tia sáng màu xanh lục nhạt. Đường kính của sao chổi này nhỏ hơn nhiều so với sao chổi NEOWISE, bay qua Trái đất tháng 3-2020, hay sao chổi Hale-Bopp bay qua Trái đất từ năm 1997 có đường kính lên tới 60km. Tuy nhiên, theo nhà vật lý thiên văn học Biver, đường kính nhỏ góp phần giúp ZTF đến gần Trái đất hơn. Theo các chuyên gia, sao chổi ZTF sáng nhất khi bay qua Trái đất vào đầu tháng 2 nhưng nếu đúng thời gian này, trăng quá sáng sẽ khiến việc quan sát sao chổi khó khăn hơn. Ở Bắc Bán Cầu, thời gian quan sát sao chổi rõ nhất là vào tuần cuối cùng của tháng 1-2023, khi sao chổi bay giữa các chòm sao Ursa Minor và Ursa Major. Theo giáo sư Prince, cơ hội khác để quan sát sao chổi bay qua bầu trời là vào ngày 10-2 khi ZTF bay gần tới sao Hỏa. Chuyên gia Biver cho biết sao chổi ZTF được tin là đến từ đám mây Oort, một đám mây lớn bao quanh Hệ Mặt trời và là nơi có thể chứa nhiều vật thể băng huyền bí. Lần gần nhất ZTF bay qua Trái đất là từ kỷ hậu đồ đá cũ (cách đây 40.000-14.000 năm). Lần tiếp theo ZTF sẽ ghé thăm Hệ Mặt trời là ước tính khoảng 50.000 năm nữa. Không loại trừ khả năng sau “chuyến thăm” này ZTF sẽ biến mất hoàn toàn khỏi Hệ Mặt trời. Theo giáo sư Prince, “vị khách” đặc biệt quý hiếm này sẽ cung cấp thêm thông tin về những “cư dân” trên Hệ Mặt trời cách xa những hành tinh xa nhất được biết đến hiện nay.
Comet C/2022 E3 (ZTF) will likely pass by Earth and the Sun in the next few weeks. The special thing is that people can see comets with the naked eye. Comet C/2022 E3 (ZTF) will fly closest to the Sun on January 12 and fly past Earth on February 1 - Photo: AFPPIX/thesundaily.my The comet is called C/2022 E3 (ZTF), and was first discovered when it flew past Jupiter in March 2022. The comet is forecast to fly closest to the Sun on January 12 and pass by Earth on February 1. Comet ZTF can be easily seen with binoculars, but it can also be observed with the naked eye if the sky is not too bright. According to physics professor Thomas Prince, California Institute of Technology ( America ), the comet's light is best seen when it makes its closest approach to Earth. Astrophysicist Nicolas Biver, Paris Astronomical Observatory, said comet ZTF has an estimated diameter of about 1km. It is made of dust and ice, emitting pale green rays of light. The diameter of this comet is much smaller than comet NEOWISE, which passed by Earth in March 2020, or comet Hale-Bopp, which passed by Earth in 1997, has a diameter of up to 60km. However, according to astrophysicist Biver, the small diameter contributes to helping ZTF get closer to Earth. According to experts, comet ZTF is brightest when it flies past Earth in early February, but if this is the right time, the moon is too bright, making it more difficult to observe the comet. In the Northern Hemisphere, the best time to observe the comet is in the last week of January 2023, when the comet flies between the constellations Ursa Minor and Ursa Major. According to Professor Prince, another opportunity to observe the comet flying through the sky is on February 10 when ZTF flies close to Mars. Expert Biver said comet ZTF is believed to come from the Oort cloud, a large cloud surrounding the Solar System and which may contain many mysterious ice objects. The last time ZTF flew over Earth was in the Late Paleolithic era (40,000-14,000 years ago). The next time ZTF will visit the Solar System is estimated to be about 50,000 years away. It is not excluded that after this "visit" ZTF will completely disappear from the Solar System. According to Professor Prince, this particularly rare "guest" will provide more information about the "residents" on Earth. Solar system away from the most distant planets known today.
Bông hoa hóa thạch lớn nhất từng được biết đến bên trong hổ phách có thể giúp các nhà khoa học khám phá sự sống cách đây gần 40 triệu năm. Các nhà khoa học đã có những phát hiện mới về bông hoa hóa thạch, lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1872. Ảnh: Carola Radke . Các nhà khoa học đã phát hiện điểm mới về bông hoa hóa thạch được lưu giữ bên trong hổ phách suốt gần 40 triệu năm, CNN đưa tin ngày 12/1. Theo Eva-Maria Sadowski, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại Museum für Naturkunde, bảo tàng lịch sử tự nhiên của Berlin, bông hoa hóa thạch đã bị lãng quên trong bộ sưu tập của Viện Khoa học Địa chất và Tài nguyên Thiên nhiên Liên bang ở Berlin (BGR). Sadowski nói rằng bà nghe nói về bông hoa hóa thạch, được biết đến với tên chính thức là mẫu vật X4088, từ một đồng nghiệp đã nghỉ hưu. “Ông ấy nói với tôi rằng ông ấy từng đến thăm BGR và nhìn thấy bông hoa hổ phách lớn nhất, tuyệt vời nhất trong bộ sưu tập của họ… Vì vậy, tôi đã hỏi người phụ trách bộ sưu tập BGR liệu tôi có thể đến xem bộ sưu tập của họ không, và ở đó tôi tìm thấy mẫu vật X4088”, Sadowski cho biết. Với đường kính 28 mm, đây là bông hoa hóa thạch trong hổ phách lớn nhất từng được biết đến. Nó lớn gấp 3 lần kích thước của các hóa thạch tương tự. Sadowski chiết xuất và kiểm tra phấn hoa từ hổ phách. Bà phát hiện bông hoa đã bị xác định sai khi nó được nghiên cứu lần đầu tiên. “Tên chi ban đầu của mẫu vật này là Stewartia thuộc họ thực vật Theaceae. Nhưng chúng tôi có thể chỉ ra trong nghiên cứu của mình rằng điều này không đúng, chủ yếu dựa trên hình thái phấn hoa”, bà nói. “Khi mẫu vật được nghiên cứu lần đầu tiên vào thế kỷ XIX, họ (đã) không phát hiện hoặc nghiên cứu phấn hoa”. Theo phát hiện mới, loài hoa này có họ hàng gần với một chi thực vật có hoa phổ biến ở châu Á ngày nay, được gọi là Symplocos. Trước đó, vào năm 1872, các nhà khoa học đã phân loại nó là Stewartia kowalewskii, một loại cây thường xanh có hoa đã tuyệt chủng. Các tác giả nghiên cứu sau đó đã đề xuất tên mới cho hoa là Symplocos kowalewskii. Hoa cổ đại không được mô tả rõ ràng trong hồ sơ hóa thạch. Chúng nở ra và biến đổi thành quả, nên có rất ít mẫu vật được lưu giữ cho tới ngày nay. Trước đó, vào cuối tháng 10/2022, Bộ trưởng Môi trường Campuchia Say Samal cho biết các nhà khảo cổ học nước này lần đầu khai quật được một hóa thạch khủng long trên đảo Koh Por, thuộc tỉnh Koh Kong, Khmer Times đưa tin.
The largest known fossil flower inside amber could help scientists discover life nearly 40 million years ago. Scientists have made new discoveries about the fossil flower, first recorded in 1872. Photo: Carola Radke . Scientists have discovered something new about a fossil flower preserved inside amber for nearly 40 million years. CNN reported on January 12. According to Eva-Maria Sadowski, a postdoctoral researcher at the Museum für Naturkunde, Berlin's natural history museum, the fossil flower was forgotten in the collection of the Federal Institute of Geosciences and Natural Resources. state in Berlin (BGR). Sadowski said she heard about the fossil flower, officially known as specimen X4088, from a retired colleague. “He told me that he once visited BGR and saw the biggest, most amazing amber flower in their collection… So I asked the BGR collection curator if I could to see their collection, and there I found specimen X4088,” Sadowski said. With a diameter of 28 mm, this is the largest fossil flower in amber ever known. It is three times the size of similar fossils. Sadowski extracted and tested pollen from amber. She discovered the flower had been misidentified when it was first studied. “The original genus name for this specimen was Stewartia which belongs to the plant family Theaceae. But we were able to show in our study that this is not true, mainly based on pollen morphology,” she said. “When specimens were first studied in the nineteenth century, they (did) not detect or study pollen.” According to new findings, this flower is closely related to a genus of flowering plants popular in Asia today, called Symplocos. Previously, in 1872, scientists classified it as Stewartia kowalewskii, an extinct flowering evergreen tree. The study authors then proposed a new name for the flower, Symplocos kowalewskii. Ancient flowers are not clearly described in the fossil record. They hatch and transform into fruits, so very few specimens have been preserved today. Previously, at the end of October 2022, Minister of Environment Cambodia Say Samal said archaeologists in this country for the first time unearthed a dinosaur fossil on Koh Por island, in Koh Kong province, Khmer Times reported.
Giới thiệu khái quát huyện Điện Biên Huyện Điện Biên là huyện biên giới nằm phía Tây nam tỉnh Điện Biên , với diện tích 163.985 ha, có chung đường biên giới với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào dài 171,2 km với 61 cột mốc, có cửa khẩu Quốc tế Tây Trang, cửa khẩu Quốc gia Huổi Puốc và nhiều đường tiểu ngạch sang Lào. Dân số trên 171.000 người; gồm 8 dân tộc cùng sinh sống. Huyện có 25 đơn vị hành chính xã với 465 thôn bản, trong đó có 12 xã biên giới, 6 Đồn Biên phòng và nhiều đơn vị lực lượng vũ trang của Bộ, Quân khu và của tỉnh đứng chân trên địa bàn. Là huyện được Quân khu và tỉnh xác định có vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội, đặc biệt về Quốc phòng – An ninh trong thế trận khu vực phòng thủ của tỉnh và Quân khu. Phân chia hành chính Huyện Điện Biên chia thành 25 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã: Hẹ Muông, Hua Thanh, Mường Lói, Mường Nhà, Mường Phăng, Mường Pồn, Nà Nhạn, Nà Tấu, Na Tông, Na Ư, Noong Hẹt, Noong Luống, Núa Ngam, Pá Khoang, Pa Thơm, Phu Luông, Pom Lót, Sam Mứn, Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Hưng, Thanh Luông, Thanh Nưa, Thanh Xương, Thanh Yên. Lịch sử phát triển huyện Điện Biên Sau năm 1954, huyện Điện Biên có thị trấn Điện Biên, thị trấn nông trường Điện Biên và 29 xã: Chiềng Sơ, Háng Lìa, Khẩu Hú, Luân Giói, Mường Luân, Mường Mươn, Mường Nhà, Mường Lói, Mường Phăng, Mường Pồn, Na Son, Nà Tấu, Na Ư, Noong Hẹt, Noong Luống, Núa Ngam, Pa Thơm, Phì Nhừ, Phình Giàng, Pú Nhi, Sam Mứn, Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Luông, Thanh Minh, Thanh Nưa, Thanh Xương, Thanh Yên, Xa Dung. Năm 1975, chia xã Phình Giàng thành hai xã lấy tên là xã Phình Giàng và xã Keo Lôm; giải thể xã Khẩu Hú. Năm 1988, chia xã Thanh Chăn thành hai xã lấy tên là xã Thanh Chăn và xã Thanh Hưng; tách bản Na Khếnh của xã Thanh Luông để sáp nhập vào xã Thanh Hưng. Đến cuối năm 1991, huyện Điện Biên có 1 thị trấn Điện Biên (huyện lị), thị trấn Nông trường Điện Biên và 30 xã: Thanh Minh, Mường Lói, Thanh Nưa, Na Ư, Mường Pồn, Thanh Xương, Na Son, Nà Tấu, Chiềng Sơ, Phình Giàng, Xa Dung, Háng Lìa, Sam Mứn, Mường Nhà, Keo Lôm, Thanh Yên, Noong Luống, Núa Ngam, Luân Giói, Phì Nhừ, Mường Mươn, Pa Thơm, Pú Nhi, Mường Phăng, Mường Luân, Noong Hẹt, Thanh An, Thanh Chăn, Thanh Luông, Thanh Hưng. Năm 1992, tách thị trấn Điện Biên và xã Thanh Minh để thành lập thị xã Điện Biên Phủ. Năm 1995, tách 10 xã: Xa Dung, Pú Nhi, Na Son, Chiềng Sơ, Mường Luân, Keo Lôm, Phình Giàng, Háng Lìa, Luân Giói, Phì Nhừ để thành lập huyện Điện Biên Đông. Năm 1997, chuyển xã Mường Mươn về huyện Mường Lay (nay là huyện Mường Chà ) quản lý; giải thể thị trấn nông trường Điện Biên và thành lập thị trấn Mường Thanh. Năm 2003, chuyển thị trấn Mường Thanh về thành phố Điện Biên Phủ quản lý và đổi thành phường Nam Thanh. Cùng năm này, sau khi tách tỉnh, huyện Điện Biên thuộc tỉnh Điện Biên. Năm 2006, chia tách xã Nà Tấu thành 2 xã Nà Tấu và Nà Nhạn. Năm 2013, chia tách lại một số địa phương thành lập 6 xã: Hua Thanh, Pom Lót, Hẹ Muông, Na Tông, Phu Luôngvà Pá Khoang.
General introduction of Dien Bien district Dien Bien district is a border district located in the southwest Dien Bien province , with an area of ​​163,985 hectares, shares a border with the country Lao People's Democratic Republic 171.2 km long with 61 landmarks, including Tay Trang International Border Gate, Huoi Puoc National Border Gate and many unofficial roads to Laos. Population over 171,000 people; including 8 ethnic groups living together. The district has 25 commune administrative units with 465 villages, including 12 border communes, 6 Border Guard stations and many armed force units of the Ministry, Military Region and the province standing in the area. As a district determined by the Military Region and the province to have an important economic and social position, especially in terms of National Defense and Security in the defense zone posture of the province and the Military Region. Administrative division Dien Bien district is divided into 25 administrative units including communes: He Muong, Hua Thanh, Muong Loi, Muong Nha, Muong Phang, Muong Pon, Na Nhan, Na Tau, Na Tong, Na U, Noong Het, Noong Luong, Nua Ngam, Pa Khoang, Pa Thom, Phu Luong, Pom Lot, Sam Mun, Thanh An, Thanh Chan, Thanh Hung, Thanh Luong, Thanh Nua, Thanh Xuong, Thanh Yen. History of development of Dien Bien district After 1954, Dien Bien district had Dien Bien town, Dien Bien farm town and 29 communes: Chieng So, Hang Lia, Khau Hu, Luan Gioi, Muong Luan, Muong Muon, Muong Nha, Muong Loi, Muong Phang, Muong Pon, Na Son, Na Tau, Na U, Noong Het, Noong Luong, Nua Ngam, Pa Thom, Phi Nhu, Phinh Giang, Pu Nhi, Sam Mun, Thanh An, Thanh Chan, Thanh Luong, Thanh Minh, Thanh Nua , Thanh Xuong, Thanh Yen, Xa Dung. In 1975, Phinh Giang commune was divided into two communes named Phinh Giang commune and Keo Lom commune; Dissolve Khau Hu commune. In 1988, Thanh Chan commune was divided into two communes named Thanh Chan commune and Thanh Hung commune; Separate Na Khanh village of Thanh Luong commune to merge into Thanh Hung commune. By the end of 1991, district Dien Bien There is 1 Dien Bien town (district capital), Dien Bien Farm town and 30 communes: Thanh Minh, Muong Loi, Thanh Nua, Na U, Muong Pon, Thanh Xuong, Na Son, Na Tau, Chieng So, Phinh Giang , Xa Dung, Hang Lia, Sam Mun, Muong Nha, Keo Lom, Thanh Yen, Noong Luong, Nua Ngam, Luan Gioi, Phi Nhu, Muong Muon, Pa Thom, Pu Nhi, Muong Phang, Muong Luan, Noong Het, Thanh An, Thanh Chan, Thanh Luong, Thanh Hung. In 1992, Dien Bien town and Thanh Minh commune were separated to establish Dien Bien Phu town. In 1995, 10 communes were separated: Xa Dung, Pu Nhi, Na Son, Chieng So, Muong Luan, Keo Lom, Phinh Giang, Hang Lia, Luan Gioi, Phi Nhu to establish Dien Bien Dong district. In 1997, Muong Muon commune was moved to Muong Lay district (now Muong Cha district ) manage; Dien Bien farm town was dissolved and Muong Thanh town was established. In 2003, Muong Thanh town was transferred to Dien Bien Phu city to manage and changed to Nam Thanh ward. In the same year, after separating the province, Dien Bien district belonged to Dien Bien province. In 2006, Na Tau commune was divided into two communes: Na Tau and Na Nhan. In 2013, some localities were divided to establish 6 communes: Hua Thanh, Pom Lot, He Muong, Na Tong, Phu Luong and Pa Khoang.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và phu nhân cùng các đại biểu kiều bào thả cá chép tiễn ‘ông Công, ông Táo’ theo phong tục truyền thống. Sáng 14/1, nhân dịp Tết Nguyên đán , Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và phu nhân cùng kiều bào về nước vui Xuân thực hiện nghi thức dâng hương và thả cá chép tại Hoàng thành Thăng Long. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và phu nhân dâng hương tại Điện Kính Thiên. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và phu nhân, cùng đại diện lãnh đạo bộ, ban, ngành Trung ương, TP Hà Nội, đại biểu kiều bào đã tới Điện Kính Thiên tiến hành các nghi lễ thành kính tưởng nhớ và dâng hương tới các thế hệ cha ông đã đổ máu xương gìn giữ, bảo vệ non sông nước Việt; báo cáo với các bậc tiền nhân sự trở về đất mẹ của bà con kiều bào người Việt Nam trên khắp thế giới. Chủ tịch nước và kiều bào cầu cho quốc thái dân an, đất nước thái bình, thịnh vượng, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Sau đó, Chủ tịch nước chủ trì lễ thả cá chép truyền thống tại Ao sen – dấu tích dòng sông cổ. Sau khi tiến hành lễ dâng hương tại Điện Kính Thiên, Chủ tịch nước chủ trì nghi lễ thả cá chép truyền thống tại Ao Sen – dấu tích dòng sông cổ trong khu di tích Hoàng thành Thăng Long. Kết thúc nghi lễ, Chủ tịch nước và phu nhân cùng đoàn kiều bào rời Hoàng Thành Thăng Long về Phủ Chủ tịch để chụp ảnh lưu niệm. Dự kiến tối nay, Chủ tịch nước sẽ chúc Tết kiều bào và dự chương trình giao lưu nghệ thuật tại Trung tâm Hội nghị quốc gia với khoảng 3.000 đại biểu tham dự. Chương trình giao lưu nghệ thuật được dàn dựng công phu, ấn tượng với sự thể hiện của các ca sĩ, nghệ sĩ. Trước khi diễn ra chương trình nghệ thuật, kiều bào sẽ được thưởng thức các món ăn 3 miền tại liên hoan ẩm thực Việt, được sống trong không gian văn hóa ngày tết với các hoạt động nặn tò he, thư pháp… và tham quan triển lãm ảnh về đất nước con người. Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ gặp thân mật đoàn kiều bào tiêu biểu.
President Nguyen Xuan Phuc and his wife, along with overseas Vietnamese delegates, released carp to see off 'Mr. Cong and Mr. Tao' according to traditional customs. On the morning of January 14, on the occasion Lunar New Year , President Nguyen Xuan Phuc and his wife and overseas Vietnamese returned home to celebrate Spring, performing the incense offering ceremony and releasing carp at Thang Long Imperial Citadel. President Nguyen Xuan Phuc and his wife offered incense at Kinh Thien Palace. President Nguyen Xuan Phuc and his wife, along with representatives of ministries, departments and branches of the Central Government, Hanoi City, and overseas Vietnamese delegates came to Kinh Thien Palace to conduct respectful ceremonies to commemorate and offer incense to the martyrs. Our ancestors' generation has shed blood and bones to preserve and protect Vietnam's mountains and rivers; Report to the ancestors who return to the motherland of Vietnamese overseas Vietnamese around the world. The President and overseas Vietnamese pray for peace and prosperity, a peaceful and prosperous country, and a prosperous and happy people. Afterwards, the President presided over the traditional carp release ceremony at the Lotus Pond - a vestige of an ancient river. After conducting the incense offering ceremony at Kinh Thien Palace, the President presided over the traditional carp release ceremony at Lotus Pond - a vestige of an ancient river in the Thang Long Imperial Citadel relic site. At the end of the ceremony, the President and his wife and the group of overseas Vietnamese left Thang Long Imperial Citadel and returned to the Presidential Palace to take souvenir photos. It is expected that tonight, the President will wish overseas Vietnamese New Year and attend an art exchange program at the National Convention Center with about 3,000 delegates attending. The art exchange program was elaborately and impressively staged with the performances of singers and artists. Before the art program takes place, overseas Vietnamese will enjoy dishes from 3 regions at the Vietnamese culinary festival, live in the cultural space of Tet with activities like to he making, calligraphy... and sightseeing. Photo exhibition about the country and people. The Prime Minister and the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front will meet intimately with a representative group of overseas Vietnamese.
Chiều 14/1, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào tham dự chương trình Xuân Quê hương 2023 nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão. Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại buổi gặp mặt kiều bào tiêu biểu. (Ảnh: Trần Hải) Tại buổi gặp mặt, đại diện một số bà con kiều bào bày tỏ xúc động, vui mừng được trở về quê hương, đất nước để ăn Tết cổ truyền; cảm ơn Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, chăm lo công tác kiều bào. Ông Hoàng Đình Thắng, Chủ tịch Liên hiệp hội Người Việt Nam tại châu Âu cho biết, sau 6 năm thành lập, Liên hiệp Hội làm khá tốt công tác đối ngoại, liên kết cộng đồng, nhất là thông qua việc thực hiện các chương trình từ thiện trong đại dịch Covid-19. Đại hội Liên hiệp hội vừa qua đã đưa ra ưu tiên củng cố tổ chức Liên hiệp hội. Bằng những việc làm được, Hội người Việt Nam tại các nước châu Âu, Liên hiệp Hội Người Việt Nam ở châu Âu đã góp phần nâng cao vị thế của đất nước Việt Nam nói chung, bà con kiều bào nói riêng đối với chính quyền sở tại, củng cố quan hệ với các nước với Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính đến dự buổi gặp mặt kiều bào tiêu biểu. (Ảnh: Trần Hải) Ông bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm của Chính phủ đối với hoạt động của Liên hiệp hội, đồng thời vui mừng và tự hào về đất nước Việt Nam vì những thành tựu to lớn trong công cuộc phát triển đất nước; cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước qua các chủ trương, chính sách như Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, các chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Bà Aurélia Nguyen, Giám đốc chiến lược Chương trình của Liên minh Toàn cầu về vaccine và tiêm chủng (GAVI), nguyên Giám đốc điều hành cơ chế COVAX, bày tỏ rất vinh dự, cảm ơn Chính phủ đã đón tiếp bà con kiều bào nồng hậu. Bà cũng bày tỏ hết sức vui mừng được trở về đón Tết cổ truyền của dân tộc. Đồng thời, bà cũng chia sẻ, 3 năm vừa qua là khó khăn nhất trong cuộc đời của bà vì phải đối phó với đại dịch mà không ai trong chúng ta có thể quên được. Đây là dịp để bà nhìn nhận lại giá trị Việt Nam đã giúp bà có động lực thực hiện một chiến dịch tiêm chủng lớn nhất thế giới. Bà cũng tự hào về gốc gác là người Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào tham dự chương trình Xuân Quê hương 2023. (Ảnh: Trần Hải) Bà tâm sự, người cha của bà đã dạy rằng, giá trị của sự chăm chỉ, cách nhìn nhận hướng ra thế giới, sự đoàn kết cộng đồng sẽ mạnh hơn là từng cá nhân đơn lẻ. Giá trị niềm tin người Việt Nam đối với gia đình đã giúp bà vượt qua những thời khắc khó khăn. Bà luôn dõi theo Việt Nam với lòng tự hào lớn, chứng kiến Việt Nam – đất nước quê hương đã vượt qua đại dịch, chứng minh cho thế giới về một thành công của chiến dịch tiêm chủng lớn. Khi làm việc tại châu Âu, bà đã chứng kiến ảnh hưởng của đại dịch, vì vậy, Chính phủ Việt Nam rất xứng đáng nhận được sự khen ngợi, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực bảo vệ nhân dân trước đại dịch. Tháng 8/2021, mới có 7,5% dân số trưởng thành được tiêm vaccine thì đến nay, 90% dân số Việt Nam đã được tiêm số liều cơ bản, 100% nhân viên y tế và hơn 99% người cao tuổi được tiêm chủng đầy đủ, là thành tựu đáng kinh ngạc. COVAX đã kề vai sát cánh với Việt Nam, cung ứng 70 triệu liều vaccine ngừa Covid-19 cho Việt Nam… Tổ chức GAVI hiện nay của bà ngoài việc duy trì cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 còn củng cố hệ thống tiêm chủng cơ bản của quốc gia. Dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng nặng cho hệ thống tiêm chủng thế giới. Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào nhân dịp Tết nguyên đán 2023. (Ảnh: Trần Hải) Bà mong được tiếp tục hợp tác với Chính phủ Việt Nam để bao phủ vaccine, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Theo bà, có chương trình tiêm chủng mạnh thì thế hệ tương lai sẽ mạnh khỏe, không phải chịu dịch bệnh. Phát biểu ý kiến tại buổi gặp mặt, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, hôm nay là ngày 23 tháng Chạp, ngày tiễn ông Công, ông Táo, có ý nghĩa linh thiêng đối với mỗi gia đình Việt Nam. Thủ tướng cũng xúc động khi bà con kiều bào từ khắp nơi trên thế giới về với quê hương, đất nước Việt Nam; đánh giá các ý kiến hết sức tâm huyết, với tình yêu, khát vọng cháy bỏng mong muốn cống hiến cho đất nước. Thủ tướng nêu rõ, đây là tình cảm thực sự, nói lên truyền thống tốt đẹp, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là mỗi khi có khó khăn. Trong các câu chuyện cổ tích Việt Nam đều nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, sức mạnh dân tộc như Sơn Tinh, Thủy Tinh, Thánh Gióng… Ít người hiểu được sức mạnh dân tộc Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào nhân dịp Tết nguyên đán 2023. (Ảnh: Trần Hải) Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xuyên suốt quá trình này là chúng ta lấy con người làm trung tâm, chủ thể, là động lực, mục tiêu cho sự phát triển; chúng ta không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, là bạn bè, đối tác tốt, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả. Những điều này đã giúp đất nước ta có được như ngày nay, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thủ tướng nêu rõ, năm trước khi cả thế giới lao đao vì đại dịch Covid-19, Việt Nam là một nước đông dân, không có tiềm lực kinh tế mạnh, cho nên việc tiếp cận vaccine là rất khó nhưng dân tộc Việt Nam không khuất phục và chúng ta đã kêu gọi sự giúp đỡ của bạn bè; Chúng ta tiếp cận vaccine chậm hơn so các nước, nhưng chiến dịch tiêm chủng vaccine “đi sau về trước”, đạt độ bao phủ cao trên thế giới. Nhờ kiểm soát được dịch bệnh, chúng ta đã mở cửa nền kinh tế cuối năm 2021, tạo chuyển biến lớn, phục hồi tăng trưởng, các chuỗi cung ứng… Thủ tướng khẳng định, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng lớn mạnh, là một cộng đồng không thể tách rời dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Trần Hải) Thủ tướng khẳng định, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng lớn mạnh, là một cộng đồng không thể tách rời dân tộc Việt Nam. Thủ tướng nêu rõ, tại chương trình Xuân Quê hương năm ngoái, trong bối cảnh dịch bệnh vẫn đang phức tạp, Thủ tướng đã nói về quyết tâm của Chính phủ phấn đấu thực hiện mục tiêu “Đường về quê gần hơn”. Đến nay, khi đường về quê của bà con đã không còn xa, Chính phủ hướng tới mục tiêu “Đưa Việt Nam đến gần hơn với thế giới và mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam”. Chúng ta vẫn nghe thông điệp rất quen thuộc là “Đưa Việt Nam đến gần hơn với thế giới”. Để thực hiện tốt hơn mục tiêu này, chúng ta cần tiếp tục triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Trong những năm gần đây, một số doanh nhân Việt Nam đã có xu hướng đầu tư ra nước ngoài. Điều này thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn của người Việt Nam. Chúng ta cũng cần chú trọng đến việc giáo dục đào tạo để các thế hệ sau hiểu hơn về đất nước, lịch sử, văn hóa, truyền thống và con người Việt Nam. Chúng ta “Mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam” qua việc tăng cường hơn nữa công tác xúc tiến thương mại, đầu tư; tạo môi trường thông thoáng, công khai, minh bạch để thu hút sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; nỗ lực làm cho thế giới hiểu Việt Nam hơn qua truyền thống văn hóa; “Mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam” bằng cách đẩy mạnh hợp tác về du lịch, mở rộng hơn nữa các thị trường du lịch tiềm năng ở khu vực và trên toàn thế giới, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế đến với đất nước Việt Nam tươi đẹp, con người Việt Nam thân thiện, mến khách. Thủ tướng mong muốn bà con kiều bào ta ở nước ngoài là những vị “đại sứ thầm lặng” của dân tộc ta. Chính phủ trân trọng tất cả những đóng góp của kiều bào đối với đất nước; tôn trọng sự khác biệt. Nhân dịp này, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, cơ quan quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 36-NQ/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 45-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết 169/NQ-CP của Chính phủ về công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Thủ tướng nêu rõ, thế giới không ngừng chuyển động, tình hình ngày càng phức tạp, khó lường, nhưng Thủ tướng mong chúng ta đoàn kết thống nhất, đương đầu, hóa giải những khó khăn. Thủ tướng mong bà con sống tốt ở nước sở tại củng cố tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước, góp phần “Đưa Việt Nam đến gần hơn với thế giới và mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam”, để chúng ta mãi mãi tự hào là người Việt Nam, để xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đây là mục tiêu cao nhất của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các đại biểu tham dự buổi gặp mặt. (Ảnh: Trần Hải) Thủ tướng mong muốn mỗi người Việt dù ở đâu trên trái đất này, trái tim luôn hướng về quê hương như câu ca dao “ Chiều chiều ra đứng ngõ sau – Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều ”. Chính phủ thấu hiểu tấm lòng, ước nguyện của bà con. Vì vậy, về những ý kiến, kiến nghị của bà con với tình cảm, tâm huyết và trách nhiệm, Chính phủ sẽ tiếp thu, quan tâm, xem xét giải quyết hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét nếu vượt thẩm quyền. Trong không khí vui mừng, phấn khởi trước thềm năm mới, một lần nữa, Thủ tướng chúc bà con kiều bào một năm mới dồi dào sức khỏe, tràn đầy hạnh phúc và thật nhiều thành công. Tin: THANH GIANG; Ảnh TRẦN HẢI
Chiều 14/1, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào tham dự chương trình Xuân Quê hương 2023 nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão. Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại buổi gặp mặt kiều bào tiêu biểu. (Ảnh: Trần Hải) Tại buổi gặp mặt, đại diện một số bà con kiều bào bày tỏ xúc động, vui mừng được trở về quê hương, đất nước để ăn Tết cổ truyền; cảm ơn Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, chăm lo công tác kiều bào. Ông Hoàng Đình Thắng, Chủ tịch Liên hiệp hội Người Việt Nam tại châu Âu cho biết, sau 6 năm thành lập, Liên hiệp Hội làm khá tốt công tác đối ngoại, liên kết cộng đồng, nhất là thông qua việc thực hiện các chương trình từ thiện trong đại dịch Covid-19. Đại hội Liên hiệp hội vừa qua đã đưa ra ưu tiên củng cố tổ chức Liên hiệp hội. Bằng những việc làm được, Hội người Việt Nam tại các nước châu Âu, Liên hiệp Hội Người Việt Nam ở châu Âu đã góp phần nâng cao vị thế của đất nước Việt Nam nói chung, bà con kiều bào nói riêng đối với chính quyền sở tại, củng cố quan hệ với các nước với Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính đến dự buổi gặp mặt kiều bào tiêu biểu. (Ảnh: Trần Hải) Ông bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm của Chính phủ đối với hoạt động của Liên hiệp hội, đồng thời vui mừng và tự hào về đất nước Việt Nam vì những thành tựu to lớn trong công cuộc phát triển đất nước; cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước qua các chủ trương, chính sách như Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, các chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Bà Aurélia Nguyen, Giám đốc chiến lược Chương trình của Liên minh Toàn cầu về vaccine và tiêm chủng (GAVI), nguyên Giám đốc điều hành cơ chế COVAX, bày tỏ rất vinh dự, cảm ơn Chính phủ đã đón tiếp bà con kiều bào nồng hậu. Bà cũng bày tỏ hết sức vui mừng được trở về đón Tết cổ truyền của dân tộc. Đồng thời, bà cũng chia sẻ, 3 năm vừa qua là khó khăn nhất trong cuộc đời của bà vì phải đối phó với đại dịch mà không ai trong chúng ta có thể quên được. Đây là dịp để bà nhìn nhận lại giá trị Việt Nam đã giúp bà có động lực thực hiện một chiến dịch tiêm chủng lớn nhất thế giới. Bà cũng tự hào về gốc gác là người Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào tham dự chương trình Xuân Quê hương 2023. (Ảnh: Trần Hải) Bà tâm sự, người cha của bà đã dạy rằng, giá trị của sự chăm chỉ, cách nhìn nhận hướng ra thế giới, sự đoàn kết cộng đồng sẽ mạnh hơn là từng cá nhân đơn lẻ. Giá trị niềm tin người Việt Nam đối với gia đình đã giúp bà vượt qua những thời khắc khó khăn. Bà luôn dõi theo Việt Nam với lòng tự hào lớn, chứng kiến Việt Nam – đất nước quê hương đã vượt qua đại dịch, chứng minh cho thế giới về một thành công của chiến dịch tiêm chủng lớn. Khi làm việc tại châu Âu, bà đã chứng kiến ảnh hưởng của đại dịch, vì vậy, Chính phủ Việt Nam rất xứng đáng nhận được sự khen ngợi, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực bảo vệ nhân dân trước đại dịch. Tháng 8/2021, mới có 7,5% dân số trưởng thành được tiêm vaccine thì đến nay, 90% dân số Việt Nam đã được tiêm số liều cơ bản, 100% nhân viên y tế và hơn 99% người cao tuổi được tiêm chủng đầy đủ, là thành tựu đáng kinh ngạc. COVAX đã kề vai sát cánh với Việt Nam, cung ứng 70 triệu liều vaccine ngừa Covid-19 cho Việt Nam… Tổ chức GAVI hiện nay của bà ngoài việc duy trì cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 còn củng cố hệ thống tiêm chủng cơ bản của quốc gia. Dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng nặng cho hệ thống tiêm chủng thế giới. Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào nhân dịp Tết nguyên đán 2023. (Ảnh: Trần Hải) Bà mong được tiếp tục hợp tác với Chính phủ Việt Nam để bao phủ vaccine, chăm sóc sức khỏe cho người dân. Theo bà, có chương trình tiêm chủng mạnh thì thế hệ tương lai sẽ mạnh khỏe, không phải chịu dịch bệnh. Phát biểu ý kiến tại buổi gặp mặt, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, hôm nay là ngày 23 tháng Chạp, ngày tiễn ông Công, ông Táo, có ý nghĩa linh thiêng đối với mỗi gia đình Việt Nam. Thủ tướng cũng xúc động khi bà con kiều bào từ khắp nơi trên thế giới về với quê hương, đất nước Việt Nam; đánh giá các ý kiến hết sức tâm huyết, với tình yêu, khát vọng cháy bỏng mong muốn cống hiến cho đất nước. Thủ tướng nêu rõ, đây là tình cảm thực sự, nói lên truyền thống tốt đẹp, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là mỗi khi có khó khăn. Trong các câu chuyện cổ tích Việt Nam đều nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết, sức mạnh dân tộc như Sơn Tinh, Thủy Tinh, Thánh Gióng… Ít người hiểu được sức mạnh dân tộc Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp mặt kiều bào nhân dịp Tết nguyên đán 2023. (Ảnh: Trần Hải) Thủ tướng nhấn mạnh, Việt Nam đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xuyên suốt quá trình này là chúng ta lấy con người làm trung tâm, chủ thể, là động lực, mục tiêu cho sự phát triển; chúng ta không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, là bạn bè, đối tác tốt, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả. Những điều này đã giúp đất nước ta có được như ngày nay, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thủ tướng nêu rõ, năm trước khi cả thế giới lao đao vì đại dịch Covid-19, Việt Nam là một nước đông dân, không có tiềm lực kinh tế mạnh, cho nên việc tiếp cận vaccine là rất khó nhưng dân tộc Việt Nam không khuất phục và chúng ta đã kêu gọi sự giúp đỡ của bạn bè; Chúng ta tiếp cận vaccine chậm hơn so các nước, nhưng chiến dịch tiêm chủng vaccine “đi sau về trước”, đạt độ bao phủ cao trên thế giới. Nhờ kiểm soát được dịch bệnh, chúng ta đã mở cửa nền kinh tế cuối năm 2021, tạo chuyển biến lớn, phục hồi tăng trưởng, các chuỗi cung ứng… Thủ tướng khẳng định, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng lớn mạnh, là một cộng đồng không thể tách rời dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Trần Hải) Thủ tướng khẳng định, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng lớn mạnh, là một cộng đồng không thể tách rời dân tộc Việt Nam. Thủ tướng nêu rõ, tại chương trình Xuân Quê hương năm ngoái, trong bối cảnh dịch bệnh vẫn đang phức tạp, Thủ tướng đã nói về quyết tâm của Chính phủ phấn đấu thực hiện mục tiêu “Đường về quê gần hơn”. Đến nay, khi đường về quê của bà con đã không còn xa, Chính phủ hướng tới mục tiêu “Đưa Việt Nam đến gần hơn với thế giới và mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam”. Chúng ta vẫn nghe thông điệp rất quen thuộc là “Đưa Việt Nam đến gần hơn với thế giới”. Để thực hiện tốt hơn mục tiêu này, chúng ta cần tiếp tục triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Trong những năm gần đây, một số doanh nhân Việt Nam đã có xu hướng đầu tư ra nước ngoài. Điều này thể hiện bản lĩnh, trí tuệ và tầm nhìn của người Việt Nam. Chúng ta cũng cần chú trọng đến việc giáo dục đào tạo để các thế hệ sau hiểu hơn về đất nước, lịch sử, văn hóa, truyền thống và con người Việt Nam. Chúng ta “Mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam” qua việc tăng cường hơn nữa công tác xúc tiến thương mại, đầu tư; tạo môi trường thông thoáng, công khai, minh bạch để thu hút sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; nỗ lực làm cho thế giới hiểu Việt Nam hơn qua truyền thống văn hóa; “Mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam” bằng cách đẩy mạnh hợp tác về du lịch, mở rộng hơn nữa các thị trường du lịch tiềm năng ở khu vực và trên toàn thế giới, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế đến với đất nước Việt Nam tươi đẹp, con người Việt Nam thân thiện, mến khách. Thủ tướng mong muốn bà con kiều bào ta ở nước ngoài là những vị “đại sứ thầm lặng” của dân tộc ta. Chính phủ trân trọng tất cả những đóng góp của kiều bào đối với đất nước; tôn trọng sự khác biệt. Nhân dịp này, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, cơ quan quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 36-NQ/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 45-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết 169/NQ-CP của Chính phủ về công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Thủ tướng nêu rõ, thế giới không ngừng chuyển động, tình hình ngày càng phức tạp, khó lường, nhưng Thủ tướng mong chúng ta đoàn kết thống nhất, đương đầu, hóa giải những khó khăn. Thủ tướng mong bà con sống tốt ở nước sở tại củng cố tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước, góp phần “Đưa Việt Nam đến gần hơn với thế giới và mang thế giới đến gần hơn với Việt Nam”, để chúng ta mãi mãi tự hào là người Việt Nam, để xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đây là mục tiêu cao nhất của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các đại biểu tham dự buổi gặp mặt. (Ảnh: Trần Hải) Thủ tướng mong muốn mỗi người Việt dù ở đâu trên trái đất này, trái tim luôn hướng về quê hương như câu ca dao “ Chiều chiều ra đứng ngõ sau – Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều ”. Chính phủ thấu hiểu tấm lòng, ước nguyện của bà con. Vì vậy, về những ý kiến, kiến nghị của bà con với tình cảm, tâm huyết và trách nhiệm, Chính phủ sẽ tiếp thu, quan tâm, xem xét giải quyết hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét nếu vượt thẩm quyền. Trong không khí vui mừng, phấn khởi trước thềm năm mới, một lần nữa, Thủ tướng chúc bà con kiều bào một năm mới dồi dào sức khỏe, tràn đầy hạnh phúc và thật nhiều thành công. Tin: THANH GIANG; Ảnh TRẦN HẢI
Sinh ra trong gia đình có truyền thống âm nhạc nghệ thuật, ba anh em trai Văn Công Lê, Văn Công Hoàng và Văn Công Vỹ quê gốc Quảng Nam được thừa hưởng niềm đam mê nghệ thuật cũng như trí tuệ thông minh từ cha mình là Văn Công Cương (thầy Nha), vốn là thầy dạy chữ Nho và thầy thuốc Đông y. Tên nhóm Tam Văn của các anh được nhiều người biết đến xuất phát từ sự tài hoa và đam mê trong bộ môn nghệ thuật Ca Huế – một môn nghệ thuật truyền thống của người dân xứ Thần Kinh. Trong một chương trình của Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên Huế khi làm phóng sự về nhóm Tam Văn, các anh đã tâm sự về cơ duyên khi đến với bộ môn Ca Huế rằng: bà cô của các anh trước đây là một ca nương chuyên biểu diễn Ca Huế trong Hoàng cung. Sau này lớn tuổi bà về quê và gánh bánh bèo đi bán. Bà vừa bán bánh bèo vừa đàn ca, ông cụ thân sinh của các anh đã được bà chỉ dạy qua những tháng ngày như thế và niềm đam mê bộ môn nghệ thuật dân tộc này của các anh là sự tiếp truyền từ người cha sang những người con. Và không chỉ những người Huế mới yêu nghệ thuật Ca Huế, ở Quảng Nam Ca Huế cũng được rất nhiều người yêu thích và biết đến loại hình nghệ thuật mang tính bác học này. Từ tiền và hậu bán thế kỉ 19, Quảng Nam đã thịnh hành bộ môn này trong quá trình mở mang đàng trong của các quan triều đình, từ sự tha hương của các ca nương, nhạc công, những người trí thức đương thời đã đem theo và nuôi dưỡng loại hình âm nhạc truyền thống. Họ lập thành nhiều nhóm tri âm tri kỉ để cùng đàn ca cho nhau nghe mỗi lúc thanh nhàn rảnh rỗi. Cũng có một quãng thời gian do những biến thiên của thời cuộc mà loại hình Ca Huế tạm thời bị gián đoạn nhưng thẳm sâu trong tâm hồn những ai đã từng biết đến và yêu thích bộ môn Ca Huế vẫn âm thầm nuôi dưỡng niềm đam mê môn nghệ thuật mang tính bác học sang trọng này. Riêng gia đình Tam Văn từ thập niên 60 đã có duyên gặp gỡ và giao lưu với những danh ca, danh cầm của xứ Huế như các thầy Tôn Thất Thể, Nguyễn Kế, bác Liệu, thầy Bửu Lộc…, Quảng Nam Đà Nẵng có Ba Dé, thầy Ba Đợi, ca nương có cô Thu Tâm, Diệu Liên, Thanh Tâm, Kim Cúc… là những người đã đến và sinh hoạt ở Quảng Nam. Đó là những dịp để ba anh em Tam Văn được giao lưu và chủ yếu là học hỏi, tiếng đàn lời ca, phong thái khoan thai của những danh ca, danh cầm xứ Huế đã thấm dần vào tâm hồn, nuôi dưỡng niềm đam mê Ca Huế trong các anh. Từ lâu tôi vẫn mong ước một lần được diện kiến cùng Tam Văn và rồi lần đầu tiên tôi gặp các anh trong một dịp sinh nhật của Câu lạc bộ Ca Huế Thính Phòng tại 25 Lê Lợi, Huế. Ấn tượng của tôi trong ngày đầu gặp các anh là sự hoà nhã và khiêm tốn của ba anh em xứ Quảng, tôi đã đi từ ngạc nhiên này đến bất ngờ khác, không nghĩ rằng những người con xứ Quảng lại dành tình yêu cho ca Huế sâu nặng đến như vậy. Phải nói rằng, ắt hẳn bên cạnh niềm đam mê và tài hoa, phải yêu Huế, thấu hiểu về Huế cũng như am tường về bộ môn nghệ thuật Ca Huế nhiều lắm các anh mới có thể đàn được tất cả những làn điệu Ca Huế một cách nhuần nhuyễn như thế. Nhìn những ngón tay điêu luyện rung lên những giọt đàn thanh thoát, nỉ non, những âm điệu lúc trầm lúc bổng tôi mới giật mình nhận ra rằng lâu nay mình tuy là người Huế chính gốc nhưng những kiến thức và cảm nhận về môn nghệ thuật của xứ mình tôi vẫn còn mơ hồ so với các anh. Nói đúng hơn là bấy lâu nay tôi đã hờ hững, vô tình với những giai điệu quê hương nơi mình đang sống, và hôm nay hình ảnh của ba anh em xứ Quảng say sưa trong tiếng đàn của mình đã khơi dậy niềm đam mê trong tôi, từ đó tự hào hơn về môn nghệ thuật phi vật thể của Huế được thế giới vinh danh và công nhận. Người anh cả Văn Công Lê tiếp nối sự nghiệp đông y của cha với tiệm thuốc Đông y cổ truyền tại Đà Nẵng. Bên cạnh sự thành công trên lãnh vực bốc thuốc chữa bệnh cứu người anh vẫn luôn giữ gìn niềm đam mê nghệ thuật, thỉnh thoảng ngoài đàn ca anh còn soạn lời Ca Huế và người em út Văn Công Vỹ cũng vậy. Riêng anh Văn Công Hoàng ngoài tài năng ca và sử dụng nhiều loại nhạc cụ anh còn soạn rất nhiều bài Ca Huế với những làn điệu và bài bản lớn như Phẩm tiết, Nam ai, nam bình, Phú lục, Tương tư khúc, Hành vân. Những ca từ của anh sâu sắc, giàu chất thơ, và âm bằng trắc của anh rất sát nên có nhiều nghệ sĩ thích ca bài của anh bên cạnh những tên tuổi thuộc hàng «cây đa cây đề» xưa nay như Ưng Bình, Á Nam Trần Tuấn Khải, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Bửu Lộc và sau này là Kiều Khê, Vu Hương, Thanh Tùng… Những sáng tác của anh phong phú, có thể trình bày trong nhiều dịp khác nhau như trong những dịp hội ngộ, trong những ngày lễ tôn giáo như Phật giáo, Giáng sinh… Gần đây nhất anh đã vinh dự được trao tặng giải Ba trong cuộc thi Sáng tác lời Ca Huế. Không chỉ nổi trội trong lãnh vực đàn ca, soạn lời Ca Huế, anh còn sáng tác tân nhạc và viết thư pháp. Những tác phẩm thư pháp của anh được nhiều người đánh giá cao khi thưởng lãm. Tuy ba anh em đều thành danh trên những sự nghiệp riêng và mỗi anh ở mỗi nơi (Hai anh Văn Công Lê và Văn Công Vỹ ở Đà Nẵng còn anh Văn Công Hoàng ở Duy Xuyên, Quảng Nam) nhưng niềm đam mê nghệ thuật bên những cây đàn cổ luôn được các anh nuôi dưỡng trong tâm hồn. Bởi vậy, nên thỉnh thoảng ba anh em vẫn tạo cơ hội để ngồi cùng nhau, có khi thêm một vài người bạn cùng sở thích, ba anh em lại cùng say sưa cất lên tiếng đàn lời ca, không còn biết đến thời gian là gì. Điều đáng nói ở đây chính là từ niềm say mê nghệ thuật, từ sự đồng cảm đồng điệu mà giữa Tam Văn xứ Quảng và những người bạn Huế mà điển hình là những thành viên của Câu lạc bộ Ca Huế thính phòng ở số 25 Lê Lợi Huế đã xích lại gần nhau hơn, thắt chặt hơn mối tình thâm giao, tri âm tri kỉ giữa hai vùng miền. Được biết nhà thơ Võ Quê với tư cách là Chủ nhiệm CLB Ca Huế thính phòng có lần tình cờ thấy các anh qua kênh Youtube với hình ảnh ba anh em xứ Quảng ngồi đàn và Ca Huế một cách thuần thục, nhuần nhuyễn. Cảm mến và đồng cảm cùng mạch nguồn yêu ca Huế của mình, muốn kết nối và lan toả những giá trị nghệ thuật truyền thống, nhà thơ Võ Quê đã viết bài Cơ Chi Gặp Được Tam Văn và chữ Tam Văn nhà thơ yêu mến dùng để gọi tên của ba anh em tài hoa xứ Quảng bằng họ của ba anh được bắt đầu như thế, với mong ước gặp được ba anh để kết giao mối thâm tình trong tình yêu nghệ thuật. Và ông trời không phụ tấm lòng, với những cơ duyên thuận lợi để một ngày vào năm 1994 nhà thơ Võ Quê đã lặn lội từ Huế vào tận Duy Xuyên, Quảng Nam để tìm gặp ba anh. Vậy là mong nguyện được gieo duyên lành ấy, từ mối sơ giao ngày đầu tương ngộ, những tâm hồn đồng điệu đã bắt gặp được tiếng lòng chung, từ đây nhanh chóng dần hình thành nên mối tơ duyên trong âm nhạc. Từ đây hai xứ Quảng Nam – Huế tuy xa mà gần, từ hai miền văn hoá khác nhau, nhờ tiếng đàn giọng ca mà ngày càng thắt chặt tình tri ngộ, tri âm, tri kỉ. Đã có những lúc người xứ Quảng ra thăm Huế và người Huế cũng mặn nồng đem tình cảm xứ Thần Kinh vào hoà âm với người xứ Quảng thiệt thà chơn chất. Bao giờ cũng vậy, hành trang của người nghệ sĩ ngoài tấm chân tình với nhau thứ họ luôn mang theo bên mình là những cây đàn bầu, tranh, nhị… và giọng ca, câu hò ấm áp. Họ ngồi bên nhau, đôi khi chỉ là tách trà ấm cúng, cùng cất lên những thanh âm trầm bổng, đem những tấc lòng của mình tâm sự cho nhau nghe qua những làn điệu ca Huế. Chỉ thanh giản vậy thôi, ấy vậy mà nghĩa tình người xứ Quảng với người Huế ngày càng bền chặt qua thú chơi tao nhã này như lúc trên vuông chiếu họ đàn ca cho nhau nghe: «Ra với đời nửa thực nửa chơi, đời nghệ sĩ thế thôi. Cũng vậy thôi, mà nhân nghĩa, hoà hai, kém chi sắc tài, sắc với tài, danh với lợi tàn phai, tình văn nghệ không phai…” (Đời nghệ sĩ – Bửu Lộc).
Sinh ra trong gia đình có truyền thống âm nhạc nghệ thuật, ba anh em trai Văn Công Lê, Văn Công Hoàng và Văn Công Vỹ quê gốc Quảng Nam được thừa hưởng niềm đam mê nghệ thuật cũng như trí tuệ thông minh từ cha mình là Văn Công Cương (thầy Nha), vốn là thầy dạy chữ Nho và thầy thuốc Đông y. Tên nhóm Tam Văn của các anh được nhiều người biết đến xuất phát từ sự tài hoa và đam mê trong bộ môn nghệ thuật Ca Huế – một môn nghệ thuật truyền thống của người dân xứ Thần Kinh. Trong một chương trình của Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên Huế khi làm phóng sự về nhóm Tam Văn, các anh đã tâm sự về cơ duyên khi đến với bộ môn Ca Huế rằng: bà cô của các anh trước đây là một ca nương chuyên biểu diễn Ca Huế trong Hoàng cung. Sau này lớn tuổi bà về quê và gánh bánh bèo đi bán. Bà vừa bán bánh bèo vừa đàn ca, ông cụ thân sinh của các anh đã được bà chỉ dạy qua những tháng ngày như thế và niềm đam mê bộ môn nghệ thuật dân tộc này của các anh là sự tiếp truyền từ người cha sang những người con. Và không chỉ những người Huế mới yêu nghệ thuật Ca Huế, ở Quảng Nam Ca Huế cũng được rất nhiều người yêu thích và biết đến loại hình nghệ thuật mang tính bác học này. Từ tiền và hậu bán thế kỉ 19, Quảng Nam đã thịnh hành bộ môn này trong quá trình mở mang đàng trong của các quan triều đình, từ sự tha hương của các ca nương, nhạc công, những người trí thức đương thời đã đem theo và nuôi dưỡng loại hình âm nhạc truyền thống. Họ lập thành nhiều nhóm tri âm tri kỉ để cùng đàn ca cho nhau nghe mỗi lúc thanh nhàn rảnh rỗi. Cũng có một quãng thời gian do những biến thiên của thời cuộc mà loại hình Ca Huế tạm thời bị gián đoạn nhưng thẳm sâu trong tâm hồn những ai đã từng biết đến và yêu thích bộ môn Ca Huế vẫn âm thầm nuôi dưỡng niềm đam mê môn nghệ thuật mang tính bác học sang trọng này. Riêng gia đình Tam Văn từ thập niên 60 đã có duyên gặp gỡ và giao lưu với những danh ca, danh cầm của xứ Huế như các thầy Tôn Thất Thể, Nguyễn Kế, bác Liệu, thầy Bửu Lộc…, Quảng Nam Đà Nẵng có Ba Dé, thầy Ba Đợi, ca nương có cô Thu Tâm, Diệu Liên, Thanh Tâm, Kim Cúc… là những người đã đến và sinh hoạt ở Quảng Nam. Đó là những dịp để ba anh em Tam Văn được giao lưu và chủ yếu là học hỏi, tiếng đàn lời ca, phong thái khoan thai của những danh ca, danh cầm xứ Huế đã thấm dần vào tâm hồn, nuôi dưỡng niềm đam mê Ca Huế trong các anh. Từ lâu tôi vẫn mong ước một lần được diện kiến cùng Tam Văn và rồi lần đầu tiên tôi gặp các anh trong một dịp sinh nhật của Câu lạc bộ Ca Huế Thính Phòng tại 25 Lê Lợi, Huế. Ấn tượng của tôi trong ngày đầu gặp các anh là sự hoà nhã và khiêm tốn của ba anh em xứ Quảng, tôi đã đi từ ngạc nhiên này đến bất ngờ khác, không nghĩ rằng những người con xứ Quảng lại dành tình yêu cho ca Huế sâu nặng đến như vậy. Phải nói rằng, ắt hẳn bên cạnh niềm đam mê và tài hoa, phải yêu Huế, thấu hiểu về Huế cũng như am tường về bộ môn nghệ thuật Ca Huế nhiều lắm các anh mới có thể đàn được tất cả những làn điệu Ca Huế một cách nhuần nhuyễn như thế. Nhìn những ngón tay điêu luyện rung lên những giọt đàn thanh thoát, nỉ non, những âm điệu lúc trầm lúc bổng tôi mới giật mình nhận ra rằng lâu nay mình tuy là người Huế chính gốc nhưng những kiến thức và cảm nhận về môn nghệ thuật của xứ mình tôi vẫn còn mơ hồ so với các anh. Nói đúng hơn là bấy lâu nay tôi đã hờ hững, vô tình với những giai điệu quê hương nơi mình đang sống, và hôm nay hình ảnh của ba anh em xứ Quảng say sưa trong tiếng đàn của mình đã khơi dậy niềm đam mê trong tôi, từ đó tự hào hơn về môn nghệ thuật phi vật thể của Huế được thế giới vinh danh và công nhận. Người anh cả Văn Công Lê tiếp nối sự nghiệp đông y của cha với tiệm thuốc Đông y cổ truyền tại Đà Nẵng. Bên cạnh sự thành công trên lãnh vực bốc thuốc chữa bệnh cứu người anh vẫn luôn giữ gìn niềm đam mê nghệ thuật, thỉnh thoảng ngoài đàn ca anh còn soạn lời Ca Huế và người em út Văn Công Vỹ cũng vậy. Riêng anh Văn Công Hoàng ngoài tài năng ca và sử dụng nhiều loại nhạc cụ anh còn soạn rất nhiều bài Ca Huế với những làn điệu và bài bản lớn như Phẩm tiết, Nam ai, nam bình, Phú lục, Tương tư khúc, Hành vân. Những ca từ của anh sâu sắc, giàu chất thơ, và âm bằng trắc của anh rất sát nên có nhiều nghệ sĩ thích ca bài của anh bên cạnh những tên tuổi thuộc hàng «cây đa cây đề» xưa nay như Ưng Bình, Á Nam Trần Tuấn Khải, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Bửu Lộc và sau này là Kiều Khê, Vu Hương, Thanh Tùng… Những sáng tác của anh phong phú, có thể trình bày trong nhiều dịp khác nhau như trong những dịp hội ngộ, trong những ngày lễ tôn giáo như Phật giáo, Giáng sinh… Gần đây nhất anh đã vinh dự được trao tặng giải Ba trong cuộc thi Sáng tác lời Ca Huế. Không chỉ nổi trội trong lãnh vực đàn ca, soạn lời Ca Huế, anh còn sáng tác tân nhạc và viết thư pháp. Những tác phẩm thư pháp của anh được nhiều người đánh giá cao khi thưởng lãm. Tuy ba anh em đều thành danh trên những sự nghiệp riêng và mỗi anh ở mỗi nơi (Hai anh Văn Công Lê và Văn Công Vỹ ở Đà Nẵng còn anh Văn Công Hoàng ở Duy Xuyên, Quảng Nam) nhưng niềm đam mê nghệ thuật bên những cây đàn cổ luôn được các anh nuôi dưỡng trong tâm hồn. Bởi vậy, nên thỉnh thoảng ba anh em vẫn tạo cơ hội để ngồi cùng nhau, có khi thêm một vài người bạn cùng sở thích, ba anh em lại cùng say sưa cất lên tiếng đàn lời ca, không còn biết đến thời gian là gì. Điều đáng nói ở đây chính là từ niềm say mê nghệ thuật, từ sự đồng cảm đồng điệu mà giữa Tam Văn xứ Quảng và những người bạn Huế mà điển hình là những thành viên của Câu lạc bộ Ca Huế thính phòng ở số 25 Lê Lợi Huế đã xích lại gần nhau hơn, thắt chặt hơn mối tình thâm giao, tri âm tri kỉ giữa hai vùng miền. Được biết nhà thơ Võ Quê với tư cách là Chủ nhiệm CLB Ca Huế thính phòng có lần tình cờ thấy các anh qua kênh Youtube với hình ảnh ba anh em xứ Quảng ngồi đàn và Ca Huế một cách thuần thục, nhuần nhuyễn. Cảm mến và đồng cảm cùng mạch nguồn yêu ca Huế của mình, muốn kết nối và lan toả những giá trị nghệ thuật truyền thống, nhà thơ Võ Quê đã viết bài Cơ Chi Gặp Được Tam Văn và chữ Tam Văn nhà thơ yêu mến dùng để gọi tên của ba anh em tài hoa xứ Quảng bằng họ của ba anh được bắt đầu như thế, với mong ước gặp được ba anh để kết giao mối thâm tình trong tình yêu nghệ thuật. Và ông trời không phụ tấm lòng, với những cơ duyên thuận lợi để một ngày vào năm 1994 nhà thơ Võ Quê đã lặn lội từ Huế vào tận Duy Xuyên, Quảng Nam để tìm gặp ba anh. Vậy là mong nguyện được gieo duyên lành ấy, từ mối sơ giao ngày đầu tương ngộ, những tâm hồn đồng điệu đã bắt gặp được tiếng lòng chung, từ đây nhanh chóng dần hình thành nên mối tơ duyên trong âm nhạc. Từ đây hai xứ Quảng Nam – Huế tuy xa mà gần, từ hai miền văn hoá khác nhau, nhờ tiếng đàn giọng ca mà ngày càng thắt chặt tình tri ngộ, tri âm, tri kỉ. Đã có những lúc người xứ Quảng ra thăm Huế và người Huế cũng mặn nồng đem tình cảm xứ Thần Kinh vào hoà âm với người xứ Quảng thiệt thà chơn chất. Bao giờ cũng vậy, hành trang của người nghệ sĩ ngoài tấm chân tình với nhau thứ họ luôn mang theo bên mình là những cây đàn bầu, tranh, nhị… và giọng ca, câu hò ấm áp. Họ ngồi bên nhau, đôi khi chỉ là tách trà ấm cúng, cùng cất lên những thanh âm trầm bổng, đem những tấc lòng của mình tâm sự cho nhau nghe qua những làn điệu ca Huế. Chỉ thanh giản vậy thôi, ấy vậy mà nghĩa tình người xứ Quảng với người Huế ngày càng bền chặt qua thú chơi tao nhã này như lúc trên vuông chiếu họ đàn ca cho nhau nghe: «Ra với đời nửa thực nửa chơi, đời nghệ sĩ thế thôi. Cũng vậy thôi, mà nhân nghĩa, hoà hai, kém chi sắc tài, sắc với tài, danh với lợi tàn phai, tình văn nghệ không phai…” (Đời nghệ sĩ – Bửu Lộc).
Gành đá Nam Ô, nói đúng hơn là núi đá Nam Ô được tạo sơn không cùng lần với hòn Quy (Xuân Dương) chăng mà có kết cấu chất liệu đá khác nhau hoàn toàn. Gành đá Nam Ô được thiên nhiên ban tặng gồm đá khối granit và đất, dạng núi thấp nhỏ, vì ở điểm cuối. Gành có 2 phần, phần nổi cao hơn mặt nước biển có nhiều cây cổ thụ và gỗ tạp mọc xanh um. Từ xưa dân làng nơi đây gọi là Hòn Phụng, phần nhoài ra biển người ta gọi là mỏm Hạc. Mỏm Hạc vục mỏ trong biển mặn nên có tên Lỗ Hạc như trong bài văn tế lạc thành mộ tiền hiền của làng mô tả về nơi tọa lạc của mộ ấy, khi các cụ ngày xưa đã viết:” Chấn cung hình Lỗ Hạc triều dương, đông phương tượng Trà Sơn tác án ” (Cung Chấn thuộc Đông mom Lỗ Hạc chầu mặt trời buổi sáng, phương ấy có núi Sơn Trà làm án). Hướng mộ cũng là hướng đất làng Nam Ô ngửa mặt. Ngửa mặt nhìn ra vịnh Đà Nằng tiếp giáp với biển đông mênh mông bát ngát làm các cụ dễ trải lòng bay bổng về địa trạch phong thủy của làng là đất “ngũ nhạc triều quy”. Này nhé, nhìn xa về phương đoài có hai núi Ba Viên, Bà Nà hậu ủng, hướng bắc hướng nam có núi Hải Vân, Phước Tường là cặp “ long sa, hổ sa cân đối ”. Phương đông đột khởi Sơn Trà – một chiếc án thư chờ vương ấn. Năm núi chầu về tích tụ linh khí để thành vượng địa, đất quý – địa linh! Gành đá Nam Ô là con chim Phụng có mõm Hạc xanh nổi lên giữa bãi cát vàng như đôi cánh chói lóa dưới ánh nắng ngày, ngàn năm xòe ra muốn bay ra biển lớn. Một hình tượng kỳ tuyệt mà các cụ xưa hay phúng dụ để tự hào! Theo tục truyền, hàng trăm năm năm trước có một vị khách hàng quận công qua đây nghỉ chân đã “cảm cảnh đề thơ” phóng bút vào vách đình làng bài thơ còn lưu dấu: “Đan phượng hàm châu bán nguyệt hình/ Áng tiền đường lộng khởi tam tinh/ Triều lai ngũ thủy trừng thanh bạch/ Văn võ đinh tài thạnh phát minh ” tạm dịch: ( Phượng côi ngậm ngọc nửa hình trăng/ Vịnh trước nhà sao rực ánh giăng/ Nước về năm ngọn hừng lai láng/ Tài trai phát lộ thịnh võ văn ). Để những đêm trăng, gành Lỗ Hạc này nhìn từ xa như chiếc thuyền gối bãi vục mỏ vào sóng biển dập duềnh trên mặt vịnh Đà Nẵng, bằng tư duy ấy, khi các cụ đọc hai câu thực trong bài thơ “Hải Vân Hải Môn Lữ Thứ”(*) của vua Lê Thánh Tôn khi “ở lại cửa biển Hải Vân” trong lần chinh phạt Chiêm Thành năm 1471 đã thấy, đã nghe “ Tam canh dạ tỉnh Đồng Long nguyệt/ Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền ” (Trăng Đồng Long canh ba đêm tỉnh/ Thuyền Lộ Hạc năm trống (canh) gió đưa). Các cụ đã bất kể sự dị bản đã giành chiếc thuyền Lộ Hạc kia là con Hạc Muối của các cụ (Lỗ Hạc=Hạc muối). Chiếc thuyền Lỗ Hạc rất phù hợp với tư duy hình tượng của vị vua thi sĩ! Trống cầm canh từ cái làng chài núp mình bên gành đá, mà ban ngày nhìn từ xa vừa như chiếc thuyền gối bãi vừa giống hình con Hạc vục mỏ trong biển mặn để đêm ấy trống canh văng vẳng gió đưa ra đến thuyền vua để chiếc thuyền Lộ Hạc trong bài thơ kia cho đến bây giờ nhiều danh gia vẫn còn tranh cãi. Chợt nghĩ, cái làng của các cụ hơn nửa ngàn năm trước có cuộc sống bình lặng và quy củ thế sao? Mom Hạc kia vẫn gác mỏ trên sóng nhìn ra cửa biển mịt mù trong thời khắc lê minh (gần sáng), từng khối mây đùn lên từ chân trời phía ấy tạo ra thiên hình vạn trạng in trên màu trời dát vàng dát bạc trước buổi bình minh. Để thành câu đồng dao “ ngó ra ngoài biển mù mù/ Thấy ba ông Phật che dù nấu cơm/ một ông xách bát đi đơm/ Hai ông ứ hự nồi cơm chưa vần ”. Ôi! Một cảnh yên bình no ấm quá. Những hình tượng thay đổi từng ngày phía ấy báo cho biết trời yên biển lặng hay biển động sóng cồn. Mom Lỗ Hạc vẫn chầu mặt trời buổi sáng chói rạng ở phương đông, phía bán đảo Sơn Trà bềnh bồng trên mặt vịnh lăn tăn ánh sáng mặt trời ban mai. Núi Sơn Chà như đài khí tượng tiên báo gió mưa” đời ông cho chí đời cha/ mây phủ Sơn Chà không gió thì mưa”để “ Mây đắp mé bắc bấc chồm, mây phủ sườn nam nồm rộ, Sơn Chà đội mũ là gió đông mềm”, Từ hiên làng nhìn về hướng nồm rộ ấy, từng khối cao ốc mọc lên từng ngày báo cho biết sự phát triển của một thành phố trẻ vươn cao tráng lệ để người ta bảo không có góc đứng nào thu được toàn cảnh phát triển của thành phố Đà Nẵng trong tầm mắt như ở đây, từ hướng ấy trong những đêm biển lặng, phía Đà Nẵng hừng lên ánh sáng đủ màu làm nền cho sự sinh động của các thuyền rực sáng ánh điện đan xen trên mặt biển đêm tìm luồng cá nổi, đẹp biết bao !. Cũng bên hiên làng chiều nay lại nhớ hình ảnh “ chiều chiều ra biển ngó trông/ Anh đi mành Hải Vân Quan – cổng Nam cội gió giông chưa về ” của người vợ chờ chồng còn nơi biển khơi với tâm trạng biết bao lo lắng của thời xưa ấy. Bên hiên chiều của bến làng trước mặt, đã từng là “ bờ cha thuyền động máy reo/ Mai về chở nắng về theo đầy thuyền/ Mẹ chờ quảy nắng lên nguồn / chiều về nắng nhạt lòng thương hai bờ..”( thơTG) là một cảnh rộn ràng no ấm. Những chiếc thuyền đánh cá chở khẳm cá tươi lặc lè cập vào bến làng, sáng trưa chiều tối, rộn rã tiếng cười, tiếng nói, tiếng kĩu kịt của những quang gánh cá tươi trong ngày được mùa đắc biển. Tất cả là hình ảnh no ấm đẹp đẽ của cái làng biển một thời vang bóng. Lỗ Hạc vẫn triều dương ! Bến biển làng xưa, chừ vẫn là bóng con thuyền Lỗ Hạc cổ tích ấy… Nhớ xưa, thuyền buôn ghe bầu “các lái” ghé đậu đến đi rộn ràng, còn đâu bóng dáng của những đôi mành đánh cá sáng chiều vào ra nhộn nhịp. Ngày nay, những chiếc thúng nhôm đã thay thế, neo đậu san sát dập duềnh trên bến làng như để nhắc nhớ sự tồn tại của làng biển đã từng “người ta đi biển có đôi” nghĩa là đi biển ngày xưa trên thuyền có nhiều người để chia sẻ hiểm nguy nặng nhọc, còn bây giờ thì trên chiếc thúng nhôm ấy thì chỉ có một mình anh “đi biển mồ côi một mình”… Dù sao Lỗ Hạc vẫn triều dương, vẫn thu từ đất trời bao vượng khí, lại sẽ tiếp tục trao truyền cho tập đoàn Trung Thủy làm nên làng Du lịch Sinh thái Nam Ô. Để mong, vẫn “ngũ cổ phong thanh Lỗ Hạc thuyền”. ——————- Bài tham khảo: (*)Hải Vân Hải môn lữ thứ (Lê Thánh Tôn) Hỗn nhất xa thư cộng bức quyên/ Hải Vân hoành giới việt nam thiên./ Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt/ Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền/ Di Lạc phụng sâm kỳ khoản tái/ Khổn thần ái quốc khảo trù biên/ Thử thân ba đắc sinh hoàn hạnh/ Cảm vọng Ban Siêu đáo tửu tuyền/. (*)Ở lại cửa biển Hải Vân (Nguyễn Thiếu Dũng dịch) Giang sơn trọn bức dư đồ/ Hải Vân giang rộng mở cờ vượt nam/ Đồng Long vằng vặc trăng nằm/ Con thuyền Lộ Hạc canh năm dập duềnh/ Người Di hẹn đất dâng lên/ Khổ thân viên tướng giữ miền biên cương/ Sá chi sống chết sa trường/ Ban Siêu chín suối thẹn nhường được sao. Tin Xuân vừa nhận được 2 tập thơ của 2 nhà thơ quá cố, do gia đình gửi tặng: Chân thành cảm ơn 2 gia đình của 2 nhà thơ quá cố và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Gành đá Nam Ô, nói đúng hơn là núi đá Nam Ô được tạo sơn không cùng lần với hòn Quy (Xuân Dương) chăng mà có kết cấu chất liệu đá khác nhau hoàn toàn. Gành đá Nam Ô được thiên nhiên ban tặng gồm đá khối granit và đất, dạng núi thấp nhỏ, vì ở điểm cuối. Gành có 2 phần, phần nổi cao hơn mặt nước biển có nhiều cây cổ thụ và gỗ tạp mọc xanh um. Từ xưa dân làng nơi đây gọi là Hòn Phụng, phần nhoài ra biển người ta gọi là mỏm Hạc. Mỏm Hạc vục mỏ trong biển mặn nên có tên Lỗ Hạc như trong bài văn tế lạc thành mộ tiền hiền của làng mô tả về nơi tọa lạc của mộ ấy, khi các cụ ngày xưa đã viết:” Chấn cung hình Lỗ Hạc triều dương, đông phương tượng Trà Sơn tác án ” (Cung Chấn thuộc Đông mom Lỗ Hạc chầu mặt trời buổi sáng, phương ấy có núi Sơn Trà làm án). Hướng mộ cũng là hướng đất làng Nam Ô ngửa mặt. Ngửa mặt nhìn ra vịnh Đà Nằng tiếp giáp với biển đông mênh mông bát ngát làm các cụ dễ trải lòng bay bổng về địa trạch phong thủy của làng là đất “ngũ nhạc triều quy”. Này nhé, nhìn xa về phương đoài có hai núi Ba Viên, Bà Nà hậu ủng, hướng bắc hướng nam có núi Hải Vân, Phước Tường là cặp “ long sa, hổ sa cân đối ”. Phương đông đột khởi Sơn Trà – một chiếc án thư chờ vương ấn. Năm núi chầu về tích tụ linh khí để thành vượng địa, đất quý – địa linh! Gành đá Nam Ô là con chim Phụng có mõm Hạc xanh nổi lên giữa bãi cát vàng như đôi cánh chói lóa dưới ánh nắng ngày, ngàn năm xòe ra muốn bay ra biển lớn. Một hình tượng kỳ tuyệt mà các cụ xưa hay phúng dụ để tự hào! Theo tục truyền, hàng trăm năm năm trước có một vị khách hàng quận công qua đây nghỉ chân đã “cảm cảnh đề thơ” phóng bút vào vách đình làng bài thơ còn lưu dấu: “Đan phượng hàm châu bán nguyệt hình/ Áng tiền đường lộng khởi tam tinh/ Triều lai ngũ thủy trừng thanh bạch/ Văn võ đinh tài thạnh phát minh ” tạm dịch: ( Phượng côi ngậm ngọc nửa hình trăng/ Vịnh trước nhà sao rực ánh giăng/ Nước về năm ngọn hừng lai láng/ Tài trai phát lộ thịnh võ văn ). Để những đêm trăng, gành Lỗ Hạc này nhìn từ xa như chiếc thuyền gối bãi vục mỏ vào sóng biển dập duềnh trên mặt vịnh Đà Nẵng, bằng tư duy ấy, khi các cụ đọc hai câu thực trong bài thơ “Hải Vân Hải Môn Lữ Thứ”(*) của vua Lê Thánh Tôn khi “ở lại cửa biển Hải Vân” trong lần chinh phạt Chiêm Thành năm 1471 đã thấy, đã nghe “ Tam canh dạ tỉnh Đồng Long nguyệt/ Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền ” (Trăng Đồng Long canh ba đêm tỉnh/ Thuyền Lộ Hạc năm trống (canh) gió đưa). Các cụ đã bất kể sự dị bản đã giành chiếc thuyền Lộ Hạc kia là con Hạc Muối của các cụ (Lỗ Hạc=Hạc muối). Chiếc thuyền Lỗ Hạc rất phù hợp với tư duy hình tượng của vị vua thi sĩ! Trống cầm canh từ cái làng chài núp mình bên gành đá, mà ban ngày nhìn từ xa vừa như chiếc thuyền gối bãi vừa giống hình con Hạc vục mỏ trong biển mặn để đêm ấy trống canh văng vẳng gió đưa ra đến thuyền vua để chiếc thuyền Lộ Hạc trong bài thơ kia cho đến bây giờ nhiều danh gia vẫn còn tranh cãi. Chợt nghĩ, cái làng của các cụ hơn nửa ngàn năm trước có cuộc sống bình lặng và quy củ thế sao? Mom Hạc kia vẫn gác mỏ trên sóng nhìn ra cửa biển mịt mù trong thời khắc lê minh (gần sáng), từng khối mây đùn lên từ chân trời phía ấy tạo ra thiên hình vạn trạng in trên màu trời dát vàng dát bạc trước buổi bình minh. Để thành câu đồng dao “ ngó ra ngoài biển mù mù/ Thấy ba ông Phật che dù nấu cơm/ một ông xách bát đi đơm/ Hai ông ứ hự nồi cơm chưa vần ”. Ôi! Một cảnh yên bình no ấm quá. Những hình tượng thay đổi từng ngày phía ấy báo cho biết trời yên biển lặng hay biển động sóng cồn. Mom Lỗ Hạc vẫn chầu mặt trời buổi sáng chói rạng ở phương đông, phía bán đảo Sơn Trà bềnh bồng trên mặt vịnh lăn tăn ánh sáng mặt trời ban mai. Núi Sơn Chà như đài khí tượng tiên báo gió mưa” đời ông cho chí đời cha/ mây phủ Sơn Chà không gió thì mưa”để “ Mây đắp mé bắc bấc chồm, mây phủ sườn nam nồm rộ, Sơn Chà đội mũ là gió đông mềm”, Từ hiên làng nhìn về hướng nồm rộ ấy, từng khối cao ốc mọc lên từng ngày báo cho biết sự phát triển của một thành phố trẻ vươn cao tráng lệ để người ta bảo không có góc đứng nào thu được toàn cảnh phát triển của thành phố Đà Nẵng trong tầm mắt như ở đây, từ hướng ấy trong những đêm biển lặng, phía Đà Nẵng hừng lên ánh sáng đủ màu làm nền cho sự sinh động của các thuyền rực sáng ánh điện đan xen trên mặt biển đêm tìm luồng cá nổi, đẹp biết bao !. Cũng bên hiên làng chiều nay lại nhớ hình ảnh “ chiều chiều ra biển ngó trông/ Anh đi mành Hải Vân Quan – cổng Nam cội gió giông chưa về ” của người vợ chờ chồng còn nơi biển khơi với tâm trạng biết bao lo lắng của thời xưa ấy. Bên hiên chiều của bến làng trước mặt, đã từng là “ bờ cha thuyền động máy reo/ Mai về chở nắng về theo đầy thuyền/ Mẹ chờ quảy nắng lên nguồn / chiều về nắng nhạt lòng thương hai bờ..”( thơTG) là một cảnh rộn ràng no ấm. Những chiếc thuyền đánh cá chở khẳm cá tươi lặc lè cập vào bến làng, sáng trưa chiều tối, rộn rã tiếng cười, tiếng nói, tiếng kĩu kịt của những quang gánh cá tươi trong ngày được mùa đắc biển. Tất cả là hình ảnh no ấm đẹp đẽ của cái làng biển một thời vang bóng. Lỗ Hạc vẫn triều dương ! Bến biển làng xưa, chừ vẫn là bóng con thuyền Lỗ Hạc cổ tích ấy… Nhớ xưa, thuyền buôn ghe bầu “các lái” ghé đậu đến đi rộn ràng, còn đâu bóng dáng của những đôi mành đánh cá sáng chiều vào ra nhộn nhịp. Ngày nay, những chiếc thúng nhôm đã thay thế, neo đậu san sát dập duềnh trên bến làng như để nhắc nhớ sự tồn tại của làng biển đã từng “người ta đi biển có đôi” nghĩa là đi biển ngày xưa trên thuyền có nhiều người để chia sẻ hiểm nguy nặng nhọc, còn bây giờ thì trên chiếc thúng nhôm ấy thì chỉ có một mình anh “đi biển mồ côi một mình”… Dù sao Lỗ Hạc vẫn triều dương, vẫn thu từ đất trời bao vượng khí, lại sẽ tiếp tục trao truyền cho tập đoàn Trung Thủy làm nên làng Du lịch Sinh thái Nam Ô. Để mong, vẫn “ngũ cổ phong thanh Lỗ Hạc thuyền”. ——————- Bài tham khảo: (*)Hải Vân Hải môn lữ thứ (Lê Thánh Tôn) Hỗn nhất xa thư cộng bức quyên/ Hải Vân hoành giới việt nam thiên./ Tam canh dạ tĩnh Đồng Long nguyệt/ Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền/ Di Lạc phụng sâm kỳ khoản tái/ Khổn thần ái quốc khảo trù biên/ Thử thân ba đắc sinh hoàn hạnh/ Cảm vọng Ban Siêu đáo tửu tuyền/. (*)Ở lại cửa biển Hải Vân (Nguyễn Thiếu Dũng dịch) Giang sơn trọn bức dư đồ/ Hải Vân giang rộng mở cờ vượt nam/ Đồng Long vằng vặc trăng nằm/ Con thuyền Lộ Hạc canh năm dập duềnh/ Người Di hẹn đất dâng lên/ Khổ thân viên tướng giữ miền biên cương/ Sá chi sống chết sa trường/ Ban Siêu chín suối thẹn nhường được sao. Tin Xuân vừa nhận được 2 tập thơ của 2 nhà thơ quá cố, do gia đình gửi tặng: Chân thành cảm ơn 2 gia đình của 2 nhà thơ quá cố và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Trong giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm mới, người dân Đà Sơn dấy lên niềm tự hào về quê hương bản quán. Giữa một Đà Nẵng sôi động hôm nay, còn có một Đà Nẵng buổi sơ khai nằm dưới chân núi Phước Tường. Đình làng Đà Sơn. 1 . Từ giữa năm 2007 trở đi, ngôi đình tọa lạc trên khu đất gần hai nghìn mét vuông ở Đà Sơn, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, mới thường xuyên có người lui tới. Đó là thời điểm bắt đầu khởi công trùng tu đình, hết cánh thợ nề rồi đến cánh thợ mộc kéo nhau về che tạm lán trại, sáng chiều inh ỏi tiếng búa, tiếng đục. Không chỉ các bậc kỳ lão mà cả trai tráng trong làng, nếu tranh thủ được công việc, cũng tạt ngang xem thử tiến độ xây dựng đình tới đâu. Nhớ có lần Trưởng phòng Văn hóa – Thể thao quận Liên Chiểu Trần Công Khuê đưa tôi về thăm đình nhân ngày thu tế hằng năm của làng Đà Sơn. Khi đó, ngôi đình xưa đã bị bóc gần hết mái trước, hình tượng “lưỡng long triều nguyệt” trên nóc chỉ còn lại một chú rồng trầy vi tróc vảy phía bên hữu. Nắng xuyên qua lỗ thủng trên mái, phả một không gian tranh tối tranh sáng trên những bệ thờ từ lâu đã thưa dần hương khói. Giữa cảnh tượng đổ nát đó, câu chuyện của một kỳ lão trong làng là cụ Phan Văn Ích khiến chúng tôi càng thêm chạnh lòng. Khoảng năm 1996, mái đình bị thủng một lỗ nhỏ, nghe đâu do trẻ con chơi bắn chim. Theo gia phả các họ tộc trong làng thì đình được xây dựng từ thế kỷ XVII, dưới triều vua Lê Thần Tông (1619-1643), qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, không còn nguyên vẹn như xưa. Cụ Ích bấm đốt tay: “Lần cuối trùng tu cũng cách đây cũng bảy, tám chục năm rồi. Đình cũng như người, già mà không chăm sóc thì bịnh nó ập tới cái rẹt liền. Đình được UBND thành phố Đà Nẵng công nhận di tích lịch sử – văn hóa hồi năm 2000, rứa mà chỉ qua mấy năm đã tàn tạ thế ni rồi”. Cụ xếp lại những chiếc đĩa nhỏ từng được trang trí trên diềm mái, ngậm ngùi buông giọng: “Chừ thì làm chi được, chỉ biết đứng nhìn từng viên ngói, từng miếng rui lụi dần mà đứt từng khúc ruột!”. Dưới tán cây cổ thụ trước sân đình hôm đó, qua lời kể của các cụ, chúng tôi được mở rộng kiến văn về một vùng đất được xem là điểm đến của những cư dân đầu tiên để hình thành một Đà Nẵng về sau này. Gần đình làng có nhà thờ tộc Phan thờ Thế tổ Phan Công Thiên (1318 – 1405) và phu nhân là Công chúa Trần Thị Ngọc Lãng (1323 – 1406) – con gái vua Trần Thuận Tông. Theo gia phả tộc Phan, vị phò mã của vua Trần này làm quan đến chức Thành hoàng Thuận Quốc công, sau đó, được điều vào vùng đất phía Nam đèo Hải Vân để trấn giữ biên ải. Đến triều Tự Đức, với công trạng “là người sáng lập ra khu vực này”, ông đã được vua phong là Tiền hiền làng Đà Sơn. Mộ ông hiện còn trong làng, đã được xếp hạng di tích cấp thành phố. Tôi đã từng về làng Phước Thuận, nghe các cụ cao niên nơi này kể về chuyện mở đất của ông Phan Công Thiên ngày trước. Từ làng Đà Sơn, ông đưa người vượt qua ngọn núi Phước Tường, khai phá vùng đất phía Tây. Lúc đầu, nơi đây có một chòi bằng tranh tre nứa lá vừa làm nơi sinh hoạt chung, vừa canh phòng chống lại thú dữ. Khi lưu dân đông dần, đất được đặt tên là “Phước Sơn đại xã”, còn chòi canh biến thành đình làng để có nơi kính ngưỡng tổ tiên. Gọi là “đại xã” bởi nó gồm cả “Ngũ Phước” là Phước Thuận, Phước Hậu, Phước Hưng, Phước Thái và Phước Hương (nay là thôn Hòa Khương, xã Hòa Nhơn). Đình Phước Thuận hiện có một câu đối nhắc tới tích xưa: Phước Thuận khai nguyên tiên ngũ xã/ Đà Châu nhậm hoán hậu Trần Lê . 2. Theo gia phả tộc Phan, các hậu duệ của Thế tổ Phan Công Thiên rời Đà Sơn sống tản mát nhiều nơi khắp xứ Quảng. Gần nhất có thể kể đến làng Cổ Mân, nay thuộc phường Mân Thái, quận Sơn Trà. Vào thời chúa Nguyễn, một chi tộc Phan xuất phát từ tộc Phan Đà Sơn đã phân nhánh sang lập nghiệp tại đất Trà Sơn Úc (Vũng Thùng), cùng với họ Phạm thành lập làng Cổ Mân. Xa hơn, là làng trống Lâm Yên, nay thuộc xã Ðại Minh, huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Nơi đây có một gia tộc họ Phan đã 7 đời làm trống, làm nức tiếng đất và người nơi này bằng nghề thủ công truyền thống: Trống Lâm yên, chiêng Phước Kiều . Bên mái đình rêu phong đổ nát, những câu chuyện xưa do người cũ kể bao giờ cũng đọng lại trong lòng người nghe những nỗi niềm hoài cổ. Mái ngói âm dương oằn dấu thời gian, cỏ quanh sân đình hết vàng lại xanh, thế hệ những con dân trong làng gắn bó với việc làng ngày cũ như cụ Ích giờ đã sương pha mái tóc. Chỉ có những câu chuyện lưu truyền trong dân gian là trẻ mãi. Đất Đà Sơn lọt vào “mắt xanh” của những nhà nghiên cứu bởi hai di sản văn hóa vật thể: Đình làng gắn liền với công cuộc khai phá của các lưu dân đầu tiên đến Đà Nẵng và chiếc chuông cổ có từ thời Cảnh Hưng. Đình đã bấy lâu trơ gan cùng tuế nguyệt, còn chuông thì hơn 250 năm nay sớm chiều vang vọng thanh âm trong ngôi chùa làng gần đó. Cụ Ích kể, xưa, có chiếc chuông được phát hiện dưới lớp đất bùn ở nơi giáp ranh giữa hai làng Đà Sơn và Khánh Sơn. 20 tráng đinh làng Khánh Sơn đến định khiêng về, nhưng không sao nhấc chuông lên nổi. 20 tráng đinh làng Đà Sơn đến nơi, thiết lễ giữa thinh không, nguyện nếu thỉnh được chuông sẽ thờ phụng chu đáo. Xong đâu đấy, mọi người hè nhau ghé vai vào đòn nhấc chiếc chuông lên, đưa về. Đến gần nhà thờ Chư phái tộc, dây đứt, chuông rơi, dân làng cho lập chùa ngay tại đó. Những năm 40 thế kỷ trước, chùa bị thực dân Pháp phá, về sau xây lại chùa mới, lấy tên là chùa Long Sơn. Hiện nay, chuông vẫn còn đặt ở chùa với hàng chữ Cảnh Hưng năm thứ 11, đây là niên hiệu vua Lê Hiển Tông (1740-1786). 3. Giờ đây, chuông đã ngân nga một thanh âm khác trước, khi ngôi đình làng ngày một hình hiện khang trang hơn, tráng lệ hơn trong mắt mọi người. Như một giọt nước tràn ly, cơn bão số 6 năm 2006 đã làm đổ khuỵu ngôi đình già cỗi, buộc những ai còn có chút lòng với di sản tiền nhân phải có cái nhìn khác trước. Những hồ sơ, thủ tục khôi phục đình đã “được” cơn bão có tên là Xangsane chết người đó thúc giục nhanh hơn. 10 năm cho sự hồi sinh của một ngôi đình, tuy có chậm thật, nhưng muộn vẫn còn hơn không. 10 năm đủ cho một cái cây kết quả, nhưng lại dư thừa sự mỏi mòn đối với những người mà cuộc đời đã dần xế bóng: “Thấy được cái đình mới thì có nằm xuống cũng yên tâm”. Ngôi đình đã được phục dựng trên nền xưa sau 5 tháng thi công với gần một tỷ đồng, hoàn toàn do nhà nước hỗ trợ. Những bậc kỳ lão như các cụ Phan Văn Ích, Phan Vốn, Nguyễn Tài, Phan Văn Tá, Kiều Vệ… cứ luôn mồm bảo trong mơ cũng khó thấy. Còn những người trẻ hơn như các ông Nguyễn Văn Thanh, Lê Văn Ngọt… thì cảm thấy công sức mình đã được đền đáp xứng đáng. Nắng xuân lớt phớt trên cỏ nội hoa ngàn. Những lân, long, quy, phụng trên mái đình chừng như nghiêng mình sưởi ấm về phía mặt trời. Một thời, những linh vật trong truyền thuyết Á Đông này đã phải dời chân tạm lánh ở một nơi nào đó, chờ khi mái đình tươi lại màu ngói âm dương mới yên bình quay về. Ngày Sở Văn hóa – Thông tin thành phố Đà Nẵng bàn giao đình cho Chư phái tộc, nhiều cụ rất chân chất: “Mừng quá, không phát biểu nổi”. Từ đó, cứ mỗi khi Tết đến xuân về, con dân Đà Sơn khắp nơi có thể đường hoàng dâng một nén nhang tưởng niệm tổ tiên mà không phải hổ thẹn với tiền nhân. Trong ánh mắt các bậc trưởng thượng ngoài bát tuần như cụ Ích, những hội hè xưa vào ngày 10-3 âm lịch hằng năm đã có cơ hội hồi sinh sau bao tháng ngày mỏi mòn trông đợi. Những tờ sắc phong đã không còn trụ được với thời gian, nhưng những gì đã được chép trong dân gian thì vẫn mãi lưu chuyển một sức sống. Nắng xuân ấm lại mái đình. Trong giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm mới, người dân Đà Sơn dấy lên niềm tự hào về quê hương bản quán. Giữa một Đà Nẵng sôi động hôm nay, còn có một Đà Nẵng buổi sơ khai nằm dưới chân núi Phước Tường. Và đâu đó còn in dấu chân những người đầu tiên khai phá vùng đất mới, không hẳn ngoài thực địa mà ngay trong lòng người…
Trong giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm mới, người dân Đà Sơn dấy lên niềm tự hào về quê hương bản quán. Giữa một Đà Nẵng sôi động hôm nay, còn có một Đà Nẵng buổi sơ khai nằm dưới chân núi Phước Tường. Đình làng Đà Sơn. 1 . Từ giữa năm 2007 trở đi, ngôi đình tọa lạc trên khu đất gần hai nghìn mét vuông ở Đà Sơn, phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, mới thường xuyên có người lui tới. Đó là thời điểm bắt đầu khởi công trùng tu đình, hết cánh thợ nề rồi đến cánh thợ mộc kéo nhau về che tạm lán trại, sáng chiều inh ỏi tiếng búa, tiếng đục. Không chỉ các bậc kỳ lão mà cả trai tráng trong làng, nếu tranh thủ được công việc, cũng tạt ngang xem thử tiến độ xây dựng đình tới đâu. Nhớ có lần Trưởng phòng Văn hóa – Thể thao quận Liên Chiểu Trần Công Khuê đưa tôi về thăm đình nhân ngày thu tế hằng năm của làng Đà Sơn. Khi đó, ngôi đình xưa đã bị bóc gần hết mái trước, hình tượng “lưỡng long triều nguyệt” trên nóc chỉ còn lại một chú rồng trầy vi tróc vảy phía bên hữu. Nắng xuyên qua lỗ thủng trên mái, phả một không gian tranh tối tranh sáng trên những bệ thờ từ lâu đã thưa dần hương khói. Giữa cảnh tượng đổ nát đó, câu chuyện của một kỳ lão trong làng là cụ Phan Văn Ích khiến chúng tôi càng thêm chạnh lòng. Khoảng năm 1996, mái đình bị thủng một lỗ nhỏ, nghe đâu do trẻ con chơi bắn chim. Theo gia phả các họ tộc trong làng thì đình được xây dựng từ thế kỷ XVII, dưới triều vua Lê Thần Tông (1619-1643), qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, không còn nguyên vẹn như xưa. Cụ Ích bấm đốt tay: “Lần cuối trùng tu cũng cách đây cũng bảy, tám chục năm rồi. Đình cũng như người, già mà không chăm sóc thì bịnh nó ập tới cái rẹt liền. Đình được UBND thành phố Đà Nẵng công nhận di tích lịch sử – văn hóa hồi năm 2000, rứa mà chỉ qua mấy năm đã tàn tạ thế ni rồi”. Cụ xếp lại những chiếc đĩa nhỏ từng được trang trí trên diềm mái, ngậm ngùi buông giọng: “Chừ thì làm chi được, chỉ biết đứng nhìn từng viên ngói, từng miếng rui lụi dần mà đứt từng khúc ruột!”. Dưới tán cây cổ thụ trước sân đình hôm đó, qua lời kể của các cụ, chúng tôi được mở rộng kiến văn về một vùng đất được xem là điểm đến của những cư dân đầu tiên để hình thành một Đà Nẵng về sau này. Gần đình làng có nhà thờ tộc Phan thờ Thế tổ Phan Công Thiên (1318 – 1405) và phu nhân là Công chúa Trần Thị Ngọc Lãng (1323 – 1406) – con gái vua Trần Thuận Tông. Theo gia phả tộc Phan, vị phò mã của vua Trần này làm quan đến chức Thành hoàng Thuận Quốc công, sau đó, được điều vào vùng đất phía Nam đèo Hải Vân để trấn giữ biên ải. Đến triều Tự Đức, với công trạng “là người sáng lập ra khu vực này”, ông đã được vua phong là Tiền hiền làng Đà Sơn. Mộ ông hiện còn trong làng, đã được xếp hạng di tích cấp thành phố. Tôi đã từng về làng Phước Thuận, nghe các cụ cao niên nơi này kể về chuyện mở đất của ông Phan Công Thiên ngày trước. Từ làng Đà Sơn, ông đưa người vượt qua ngọn núi Phước Tường, khai phá vùng đất phía Tây. Lúc đầu, nơi đây có một chòi bằng tranh tre nứa lá vừa làm nơi sinh hoạt chung, vừa canh phòng chống lại thú dữ. Khi lưu dân đông dần, đất được đặt tên là “Phước Sơn đại xã”, còn chòi canh biến thành đình làng để có nơi kính ngưỡng tổ tiên. Gọi là “đại xã” bởi nó gồm cả “Ngũ Phước” là Phước Thuận, Phước Hậu, Phước Hưng, Phước Thái và Phước Hương (nay là thôn Hòa Khương, xã Hòa Nhơn). Đình Phước Thuận hiện có một câu đối nhắc tới tích xưa: Phước Thuận khai nguyên tiên ngũ xã/ Đà Châu nhậm hoán hậu Trần Lê . 2. Theo gia phả tộc Phan, các hậu duệ của Thế tổ Phan Công Thiên rời Đà Sơn sống tản mát nhiều nơi khắp xứ Quảng. Gần nhất có thể kể đến làng Cổ Mân, nay thuộc phường Mân Thái, quận Sơn Trà. Vào thời chúa Nguyễn, một chi tộc Phan xuất phát từ tộc Phan Đà Sơn đã phân nhánh sang lập nghiệp tại đất Trà Sơn Úc (Vũng Thùng), cùng với họ Phạm thành lập làng Cổ Mân. Xa hơn, là làng trống Lâm Yên, nay thuộc xã Ðại Minh, huyện Ðại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Nơi đây có một gia tộc họ Phan đã 7 đời làm trống, làm nức tiếng đất và người nơi này bằng nghề thủ công truyền thống: Trống Lâm yên, chiêng Phước Kiều . Bên mái đình rêu phong đổ nát, những câu chuyện xưa do người cũ kể bao giờ cũng đọng lại trong lòng người nghe những nỗi niềm hoài cổ. Mái ngói âm dương oằn dấu thời gian, cỏ quanh sân đình hết vàng lại xanh, thế hệ những con dân trong làng gắn bó với việc làng ngày cũ như cụ Ích giờ đã sương pha mái tóc. Chỉ có những câu chuyện lưu truyền trong dân gian là trẻ mãi. Đất Đà Sơn lọt vào “mắt xanh” của những nhà nghiên cứu bởi hai di sản văn hóa vật thể: Đình làng gắn liền với công cuộc khai phá của các lưu dân đầu tiên đến Đà Nẵng và chiếc chuông cổ có từ thời Cảnh Hưng. Đình đã bấy lâu trơ gan cùng tuế nguyệt, còn chuông thì hơn 250 năm nay sớm chiều vang vọng thanh âm trong ngôi chùa làng gần đó. Cụ Ích kể, xưa, có chiếc chuông được phát hiện dưới lớp đất bùn ở nơi giáp ranh giữa hai làng Đà Sơn và Khánh Sơn. 20 tráng đinh làng Khánh Sơn đến định khiêng về, nhưng không sao nhấc chuông lên nổi. 20 tráng đinh làng Đà Sơn đến nơi, thiết lễ giữa thinh không, nguyện nếu thỉnh được chuông sẽ thờ phụng chu đáo. Xong đâu đấy, mọi người hè nhau ghé vai vào đòn nhấc chiếc chuông lên, đưa về. Đến gần nhà thờ Chư phái tộc, dây đứt, chuông rơi, dân làng cho lập chùa ngay tại đó. Những năm 40 thế kỷ trước, chùa bị thực dân Pháp phá, về sau xây lại chùa mới, lấy tên là chùa Long Sơn. Hiện nay, chuông vẫn còn đặt ở chùa với hàng chữ Cảnh Hưng năm thứ 11, đây là niên hiệu vua Lê Hiển Tông (1740-1786). 3. Giờ đây, chuông đã ngân nga một thanh âm khác trước, khi ngôi đình làng ngày một hình hiện khang trang hơn, tráng lệ hơn trong mắt mọi người. Như một giọt nước tràn ly, cơn bão số 6 năm 2006 đã làm đổ khuỵu ngôi đình già cỗi, buộc những ai còn có chút lòng với di sản tiền nhân phải có cái nhìn khác trước. Những hồ sơ, thủ tục khôi phục đình đã “được” cơn bão có tên là Xangsane chết người đó thúc giục nhanh hơn. 10 năm cho sự hồi sinh của một ngôi đình, tuy có chậm thật, nhưng muộn vẫn còn hơn không. 10 năm đủ cho một cái cây kết quả, nhưng lại dư thừa sự mỏi mòn đối với những người mà cuộc đời đã dần xế bóng: “Thấy được cái đình mới thì có nằm xuống cũng yên tâm”. Ngôi đình đã được phục dựng trên nền xưa sau 5 tháng thi công với gần một tỷ đồng, hoàn toàn do nhà nước hỗ trợ. Những bậc kỳ lão như các cụ Phan Văn Ích, Phan Vốn, Nguyễn Tài, Phan Văn Tá, Kiều Vệ… cứ luôn mồm bảo trong mơ cũng khó thấy. Còn những người trẻ hơn như các ông Nguyễn Văn Thanh, Lê Văn Ngọt… thì cảm thấy công sức mình đã được đền đáp xứng đáng. Nắng xuân lớt phớt trên cỏ nội hoa ngàn. Những lân, long, quy, phụng trên mái đình chừng như nghiêng mình sưởi ấm về phía mặt trời. Một thời, những linh vật trong truyền thuyết Á Đông này đã phải dời chân tạm lánh ở một nơi nào đó, chờ khi mái đình tươi lại màu ngói âm dương mới yên bình quay về. Ngày Sở Văn hóa – Thông tin thành phố Đà Nẵng bàn giao đình cho Chư phái tộc, nhiều cụ rất chân chất: “Mừng quá, không phát biểu nổi”. Từ đó, cứ mỗi khi Tết đến xuân về, con dân Đà Sơn khắp nơi có thể đường hoàng dâng một nén nhang tưởng niệm tổ tiên mà không phải hổ thẹn với tiền nhân. Trong ánh mắt các bậc trưởng thượng ngoài bát tuần như cụ Ích, những hội hè xưa vào ngày 10-3 âm lịch hằng năm đã có cơ hội hồi sinh sau bao tháng ngày mỏi mòn trông đợi. Những tờ sắc phong đã không còn trụ được với thời gian, nhưng những gì đã được chép trong dân gian thì vẫn mãi lưu chuyển một sức sống. Nắng xuân ấm lại mái đình. Trong giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm mới, người dân Đà Sơn dấy lên niềm tự hào về quê hương bản quán. Giữa một Đà Nẵng sôi động hôm nay, còn có một Đà Nẵng buổi sơ khai nằm dưới chân núi Phước Tường. Và đâu đó còn in dấu chân những người đầu tiên khai phá vùng đất mới, không hẳn ngoài thực địa mà ngay trong lòng người…
Được hình thành từ khá sớm và khá đông đảo, trí thức tân học Nam Kỳ đã từng bước trưởng thành, trở thành một lực lượng nòng cốt trong việc hiện đại hóa nền văn hóa, giáo dục và đấu tranh giải phóng dân tộc. Giới trí thức tại Nam Kỳ những năm 1930. Ảnh tư liệu. Trí thức Nam Kỳ, được hình thành khá sớm nhưng để thành đội ngũ, thành một lực lượng xã hội thì phải đến năm 1919, sau chiến tranh thế giới I. Không có số liệu thống kê nào về số lượng trí thức Nam Kỳ vào giai đoạn này, nhưng theo một nghiên cứu của Nguyễn Đình Thống thì năm 1929 cả nước có khoảng 40 vạn trí thức trong đó Nam Kỳ chiếm một tỷ lệ khá lớn vì nền giáo dục tân học ở đây được thiết lập sớm hơn, lại có nhiều người du học Pháp trở về. Họ hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội, trong các cơ quan công quyền, các cơ quan chuyên môn như giáo dục, y tế, kỹ thuật… và hoạt động tự do trên nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa, báo chí, xuất bản hoặc các lĩnh vực khác. Trong số đó có nhiều người là công chức, viên chức trong bộ máy của chính quyền thuộc địa. Một số là công chức cao cấp từ tri huyện trở lên. Trong số công chức cao cấp có thể kể đến các ông Trần Chánh Chiếu (Đốc phủ), nhà văn Hồ Biểu Chánh (Đốc phủ), Ngô Minh Chiêu (Đốc phủ), Đỗ Hữu Try (thẩm phán)… Một số làm việc trong quân đội Pháp như Thái Văn Chánh, Nguyễn Văn Xuân… Đông nhất là các viên chức chuyên môn về giáo dục, y tế, luật, khoa học – kỹ thuật. Họ là những người có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo tại trường đại học ở Hà Nội hoặc ở Pháp. Tiêu biểu là các kỹ sư Lưu Văn Lang, Kha Vạn Cân, Nguyễn Ngọc Bích…; các bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Hoài, Henrrige Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Thinh, Phạm Ngọc Thạch, Lê Quang Trinh, Trần Quang Đệ…; các luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Diệp Văn Kỳ, Dương Văn Giáo, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thái Văn Lung…; các nhà giáo Nguyễn Bá, Nguyễn Văn Vỹ, Nguyễn Thành Giung… Ngoài ra, có một bộ phận hành nghề tự do, nhiều nhất là hoạt động báo chí, xuất bản, văn chương, nghệ thuật… Đông đảo nhất là làm báo. Họ là lực lượng chính của nền báo chí và xuất bản Nam Kỳ vốn đã phát triển sớm nhất, mạnh nhất cả nước. Năm 1922, Nam Kỳ có với 29 tờ tiếng Pháp, 10 tờ tiếng Việt; năm 1929 có 44 tờ tiếng Pháp, 27 tờ tiếng Việt. Từ trước năm 1930, ngành xuất bản, in đã khá phát triển với các nhà xuất bản, nhà in, thư quán/nhà sách như Nguyễn Văn Viết, Union/Nguyễn Văn Của, Bảo tồn thư xã, Đức Lưu Phương, Tín Đức thư xã, Thạch Thị Mậu, Xưa Nay, Cường Học thư xã, Tân Việt thư xã… Các trí thức cũng đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ của văn học Nam Kỳ với các nhà văn nổi tiếng như Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Thanh Long, Phạm Công Bình… Nền văn học mới của Nam Kỳ hình thành với “Phan Yên ngoại sử – Tiết phụ gian truân” (1910) của Trương Duy Toản – tiểu thuyết lịch sử bằng quốc ngữ đầu tiên; “Chơn cáo tự sự” (1910) của Michel Tinh; “Hà Hương phong nguyệt” (1912) của Lê Hoàng Mưu – tiểu thuyết tâm lý – xã hội đầu tiên… Về hội họa, điêu khắc, ngoài nguồn đào tạo từ các trường Mỹ nghệ Gia Định, Mỹ nghệ Biên Hòa còn có các họa sỹ tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương như Lê Văn Đệ, Trần Văn Lắm… đã tạo ra nền tảng mới cho mỹ thuật hiện đại Nam Kỳ. Ngoài ra, khá đông trí thức Nam Kỳ còn tham gia hoạt động tôn giáo. Các nhà trí thức như Ngô Văn Chiêu, Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, Dương Văn Giáo… đã sáng lập hoặc tham gia Đạo Cao Đài. Nhà sư Thiện Chiếu sáng lập tờ Phật hóa Tân Thanh niên; nhà sư Khánh Hòa sáng lập tạp chí Pháp Âm. Năm 1931, các trí thức là lực lượng chủ yếu lập ra Hội nghiên cứu Phật học. Các trí thức Công giáo đã ủng hộ việc tấn phong linh mục người Việt, thể hiện sự trỗi dậy tinh thần dân tộc của cộng đồng Công giáo Việt Nam. Một hoạt động đặc trưng và sôi nổi của trí thức ở Nam Kỳ thời này là thành lập các hội đoàn trí thức tự do như Hội Khuyến học (1905), Hội Đức Trí thể dục (1926), Hội nghiên cứu Phật học (1931), Hội Nam Kỳ tương tế tổ chức việc nhà in, Hội Dục Anh (1930), Hội Ái hữu báo giới Nam Kỳ, Hội Giáo dục tương trợ Nam kỳ (1908)… Tại Nam Kỳ, đội ngũ trí thức không chỉ là lực lượng tiên phong trong cuộc vận động khai minh, hiện đại hóa văn hóa, giáo dục mà còn còn đi đầu trong các hoạt động yêu nước và cách mạng nhằm mục tiêu độc lập và dân chủ. Là xứ thuộc địa, trí thức Nam Kỳ được nới lỏng hơn về quy chế hoạt động báo chí, phát ngôn để bày tỏ thái độ, quan điểm cá nhân nên các hoạt động chính trị công khai và sôi nổi hơn. Họ có thể nhóm họp để tranh luận, cũng có thể đăng đàn diễn thuyết hoặc bày tỏ quan điểm trên báo chí. Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước, nhà cách mạng, nhà tư tưởng, nhà báo đã triệt để tận dụng lợi thế này. Tháng 10/1922, sau khi viết xong luận án tiến sĩ Luật đại học Sorbonne Paris, Nguyễn An Ninh chưa bảo vệ mà về nước và đã nói với cha: “Con sẽ đánh thức đồng bào còn đang mê ngủ. Sẽ làm cho họ hiểu bổn phận mỗi người trước vận mệnh của đất nước. Sẽ giải thích cho họ biết phải làm gì, và theo ai. Rồi con sẽ tổ chức một lực lượng quần chúng…”; và: “…con muốn bắt đầu từ lực lượng trí thức và thanh niên sinh viên. Họ sẽ là động lực cách mạng, tiếp thu kiến thức, giác ngộ lại cho giai cấp khác như nông dân, công nhân và mọi tầng lớp yêu nước khác…”. Tối ngày 25/1/1923, Nguyễn An Ninh diễn thuyết tại Hội Khuyến học Nam Kỳ, Sài Gòn, với chủ đề “Chung đúc nền học thức cho dân An Nam”. Tối ngày 15/10/1923, cũng tại Hội Khuyến học Nam Kỳ, Nguyễn An Ninh diễn thuyết về chủ đề “Lý tưởng thanh niên An Nam” bằng tiếng Pháp. Ông chỉ rõ “văn hóa là tâm hồn của dân tộc”, phải có niềm tự hào về lịch sử dân tộc Việt Nam. Ông khuyên thanh niên phải sống có hoài bão, ước mơ mà ước mơ cao đẹp nhất là phụng sự đất nước, phải đấu tranh để đạt được ước mơ đó, phải dám ra khỏi nhà, quan sát cuộc sống quanh mình, mở tầm nhìn rộng, đem tài năng đưa dân tộc ta lên ngang hàng với các nước trên thế giới, làm cuộc sống dân ta tươi đẹp hơn. Bài diễn thuyết này của Nguyễn An Ninh đã chỉ ra hướng đi cho thanh niên, nhanh chóng trở thành một trào lưu mạnh mẽ khắp Nam Bộ lúc bấy giờ. Cũng từ năm 1923, Nguyễn An Ninh bắt đầu làm báo La Cloche Fêleé (Chuông rè), cùng với Thanh niên (1925) của Nguyễn Ái Quốc và Tiếng Dân (1927) của Huỳnh Thúc Kháng tạo thành một bộ ba báo chí cổ vũ tinh thần yêu nước và cách mạng Việt Nam những năm 1920. Năm 1926, sau khi ra tù, ông sáng lập Thanh niên Cao vọng Đảng, một tổ chức yêu nước hoạt động theo nguyên tắc hội kín ở Nam Kỳ. Ngoài ra, ông còn phối hợp vận động phát triển Việt Nam Cách mệnh Thanh niên ở Nam Kỳ. Tháng 6 năm 1936, tận dụng cơ hội ở Pháp Chính phủ Bình dân được thành lập, Nguyễn An Ninh đã nhạy bén đưa ra ý tưởng triệu tập Đông Dương đại hội. Ý tưởng này đã được thực hiện, Đông Dương đại hội trở thành cao trào cách mạng của quần chúng những năm 1936 – 1939. Trong hơn 20 năm, Nguyễn An Ninh là hạt nhân trung tâm của các phong trào yêu nước và cách mạng của Nam Kỳ. Cũng ở Nam Kỳ trong giai đoạn này, giới trí thức còn tham gia các tổ chức chính trị bí mật khác là Việt Nam Quốc dân Đảng như Trần Huy Liệu, Tô Chấn…; Tân Việt Cách mạng Đảng như Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Thị Minh Khai…; Thanh niên Cách mạng đồng chí hội như Châu Văn Liêm, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Ngọc Ba… Phần lớn những người này về sau đều tham gia Đảng Cộng sản, trở thành những nhà lãnh đạo của Đảng.
Được hình thành từ khá sớm và khá đông đảo, trí thức tân học Nam Kỳ đã từng bước trưởng thành, trở thành một lực lượng nòng cốt trong việc hiện đại hóa nền văn hóa, giáo dục và đấu tranh giải phóng dân tộc. Giới trí thức tại Nam Kỳ những năm 1930. Ảnh tư liệu. Trí thức Nam Kỳ, được hình thành khá sớm nhưng để thành đội ngũ, thành một lực lượng xã hội thì phải đến năm 1919, sau chiến tranh thế giới I. Không có số liệu thống kê nào về số lượng trí thức Nam Kỳ vào giai đoạn này, nhưng theo một nghiên cứu của Nguyễn Đình Thống thì năm 1929 cả nước có khoảng 40 vạn trí thức trong đó Nam Kỳ chiếm một tỷ lệ khá lớn vì nền giáo dục tân học ở đây được thiết lập sớm hơn, lại có nhiều người du học Pháp trở về. Họ hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội, trong các cơ quan công quyền, các cơ quan chuyên môn như giáo dục, y tế, kỹ thuật… và hoạt động tự do trên nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, khoa học – kỹ thuật, văn hóa, báo chí, xuất bản hoặc các lĩnh vực khác. Trong số đó có nhiều người là công chức, viên chức trong bộ máy của chính quyền thuộc địa. Một số là công chức cao cấp từ tri huyện trở lên. Trong số công chức cao cấp có thể kể đến các ông Trần Chánh Chiếu (Đốc phủ), nhà văn Hồ Biểu Chánh (Đốc phủ), Ngô Minh Chiêu (Đốc phủ), Đỗ Hữu Try (thẩm phán)… Một số làm việc trong quân đội Pháp như Thái Văn Chánh, Nguyễn Văn Xuân… Đông nhất là các viên chức chuyên môn về giáo dục, y tế, luật, khoa học – kỹ thuật. Họ là những người có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo tại trường đại học ở Hà Nội hoặc ở Pháp. Tiêu biểu là các kỹ sư Lưu Văn Lang, Kha Vạn Cân, Nguyễn Ngọc Bích…; các bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Hoài, Henrrige Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Văn Thinh, Phạm Ngọc Thạch, Lê Quang Trinh, Trần Quang Đệ…; các luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Diệp Văn Kỳ, Dương Văn Giáo, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Thái Văn Lung…; các nhà giáo Nguyễn Bá, Nguyễn Văn Vỹ, Nguyễn Thành Giung… Ngoài ra, có một bộ phận hành nghề tự do, nhiều nhất là hoạt động báo chí, xuất bản, văn chương, nghệ thuật… Đông đảo nhất là làm báo. Họ là lực lượng chính của nền báo chí và xuất bản Nam Kỳ vốn đã phát triển sớm nhất, mạnh nhất cả nước. Năm 1922, Nam Kỳ có với 29 tờ tiếng Pháp, 10 tờ tiếng Việt; năm 1929 có 44 tờ tiếng Pháp, 27 tờ tiếng Việt. Từ trước năm 1930, ngành xuất bản, in đã khá phát triển với các nhà xuất bản, nhà in, thư quán/nhà sách như Nguyễn Văn Viết, Union/Nguyễn Văn Của, Bảo tồn thư xã, Đức Lưu Phương, Tín Đức thư xã, Thạch Thị Mậu, Xưa Nay, Cường Học thư xã, Tân Việt thư xã… Các trí thức cũng đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ của văn học Nam Kỳ với các nhà văn nổi tiếng như Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Thanh Long, Phạm Công Bình… Nền văn học mới của Nam Kỳ hình thành với “Phan Yên ngoại sử – Tiết phụ gian truân” (1910) của Trương Duy Toản – tiểu thuyết lịch sử bằng quốc ngữ đầu tiên; “Chơn cáo tự sự” (1910) của Michel Tinh; “Hà Hương phong nguyệt” (1912) của Lê Hoàng Mưu – tiểu thuyết tâm lý – xã hội đầu tiên… Về hội họa, điêu khắc, ngoài nguồn đào tạo từ các trường Mỹ nghệ Gia Định, Mỹ nghệ Biên Hòa còn có các họa sỹ tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương như Lê Văn Đệ, Trần Văn Lắm… đã tạo ra nền tảng mới cho mỹ thuật hiện đại Nam Kỳ. Ngoài ra, khá đông trí thức Nam Kỳ còn tham gia hoạt động tôn giáo. Các nhà trí thức như Ngô Văn Chiêu, Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, Dương Văn Giáo… đã sáng lập hoặc tham gia Đạo Cao Đài. Nhà sư Thiện Chiếu sáng lập tờ Phật hóa Tân Thanh niên; nhà sư Khánh Hòa sáng lập tạp chí Pháp Âm. Năm 1931, các trí thức là lực lượng chủ yếu lập ra Hội nghiên cứu Phật học. Các trí thức Công giáo đã ủng hộ việc tấn phong linh mục người Việt, thể hiện sự trỗi dậy tinh thần dân tộc của cộng đồng Công giáo Việt Nam. Một hoạt động đặc trưng và sôi nổi của trí thức ở Nam Kỳ thời này là thành lập các hội đoàn trí thức tự do như Hội Khuyến học (1905), Hội Đức Trí thể dục (1926), Hội nghiên cứu Phật học (1931), Hội Nam Kỳ tương tế tổ chức việc nhà in, Hội Dục Anh (1930), Hội Ái hữu báo giới Nam Kỳ, Hội Giáo dục tương trợ Nam kỳ (1908)… Tại Nam Kỳ, đội ngũ trí thức không chỉ là lực lượng tiên phong trong cuộc vận động khai minh, hiện đại hóa văn hóa, giáo dục mà còn còn đi đầu trong các hoạt động yêu nước và cách mạng nhằm mục tiêu độc lập và dân chủ. Là xứ thuộc địa, trí thức Nam Kỳ được nới lỏng hơn về quy chế hoạt động báo chí, phát ngôn để bày tỏ thái độ, quan điểm cá nhân nên các hoạt động chính trị công khai và sôi nổi hơn. Họ có thể nhóm họp để tranh luận, cũng có thể đăng đàn diễn thuyết hoặc bày tỏ quan điểm trên báo chí. Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước, nhà cách mạng, nhà tư tưởng, nhà báo đã triệt để tận dụng lợi thế này. Tháng 10/1922, sau khi viết xong luận án tiến sĩ Luật đại học Sorbonne Paris, Nguyễn An Ninh chưa bảo vệ mà về nước và đã nói với cha: “Con sẽ đánh thức đồng bào còn đang mê ngủ. Sẽ làm cho họ hiểu bổn phận mỗi người trước vận mệnh của đất nước. Sẽ giải thích cho họ biết phải làm gì, và theo ai. Rồi con sẽ tổ chức một lực lượng quần chúng…”; và: “…con muốn bắt đầu từ lực lượng trí thức và thanh niên sinh viên. Họ sẽ là động lực cách mạng, tiếp thu kiến thức, giác ngộ lại cho giai cấp khác như nông dân, công nhân và mọi tầng lớp yêu nước khác…”. Tối ngày 25/1/1923, Nguyễn An Ninh diễn thuyết tại Hội Khuyến học Nam Kỳ, Sài Gòn, với chủ đề “Chung đúc nền học thức cho dân An Nam”. Tối ngày 15/10/1923, cũng tại Hội Khuyến học Nam Kỳ, Nguyễn An Ninh diễn thuyết về chủ đề “Lý tưởng thanh niên An Nam” bằng tiếng Pháp. Ông chỉ rõ “văn hóa là tâm hồn của dân tộc”, phải có niềm tự hào về lịch sử dân tộc Việt Nam. Ông khuyên thanh niên phải sống có hoài bão, ước mơ mà ước mơ cao đẹp nhất là phụng sự đất nước, phải đấu tranh để đạt được ước mơ đó, phải dám ra khỏi nhà, quan sát cuộc sống quanh mình, mở tầm nhìn rộng, đem tài năng đưa dân tộc ta lên ngang hàng với các nước trên thế giới, làm cuộc sống dân ta tươi đẹp hơn. Bài diễn thuyết này của Nguyễn An Ninh đã chỉ ra hướng đi cho thanh niên, nhanh chóng trở thành một trào lưu mạnh mẽ khắp Nam Bộ lúc bấy giờ. Cũng từ năm 1923, Nguyễn An Ninh bắt đầu làm báo La Cloche Fêleé (Chuông rè), cùng với Thanh niên (1925) của Nguyễn Ái Quốc và Tiếng Dân (1927) của Huỳnh Thúc Kháng tạo thành một bộ ba báo chí cổ vũ tinh thần yêu nước và cách mạng Việt Nam những năm 1920. Năm 1926, sau khi ra tù, ông sáng lập Thanh niên Cao vọng Đảng, một tổ chức yêu nước hoạt động theo nguyên tắc hội kín ở Nam Kỳ. Ngoài ra, ông còn phối hợp vận động phát triển Việt Nam Cách mệnh Thanh niên ở Nam Kỳ. Tháng 6 năm 1936, tận dụng cơ hội ở Pháp Chính phủ Bình dân được thành lập, Nguyễn An Ninh đã nhạy bén đưa ra ý tưởng triệu tập Đông Dương đại hội. Ý tưởng này đã được thực hiện, Đông Dương đại hội trở thành cao trào cách mạng của quần chúng những năm 1936 – 1939. Trong hơn 20 năm, Nguyễn An Ninh là hạt nhân trung tâm của các phong trào yêu nước và cách mạng của Nam Kỳ. Cũng ở Nam Kỳ trong giai đoạn này, giới trí thức còn tham gia các tổ chức chính trị bí mật khác là Việt Nam Quốc dân Đảng như Trần Huy Liệu, Tô Chấn…; Tân Việt Cách mạng Đảng như Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Thị Minh Khai…; Thanh niên Cách mạng đồng chí hội như Châu Văn Liêm, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Ngọc Ba… Phần lớn những người này về sau đều tham gia Đảng Cộng sản, trở thành những nhà lãnh đạo của Đảng.
Một trong những nội dung quan trọng vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ hai, khóa XV, đó là Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là Quy hoạch tổng thể quốc gia). Đây có thể coi là nhiệm vụ quan trọng, được ví như “người lính mở đường” được đặt nhiều kỳ vọng cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tại Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia được Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng trình bày trước Quốc hội đã nêu rõ: Sau hơn 35 năm đổi mới, bên cạnh kết quả đạt được nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức như không gian phát triển bị chia cắt nhiều theo địa giới hành chính; liên kết vùng tuy đã được chú trọng nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đầu tư phát triển vẫn còn dàn trải theo các vùng, miền; chưa tập trung nguồn lực hình thành rõ các vùng động lực đóng vai trò đi đầu và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chưa hình thành được bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia đồng bộ và hiện đại, kết cấu hạ tầng giao thông chưa được hoàn thiện, hạ tầng năng lượng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển; một số công trình hạ tầng xã hội quan trọng chậm được đầu tư. Hệ thống đô thị phân bố chưa hợp lý, tính liên kết còn yếu, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tác động lan tỏa còn hạn chế… Các hạn chế, yếu kém này được cho là xuất phát từ việc còn tư duy phát triển dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; thiếu quy hoạch mang tính tổng thể quốc gia, dài hạn để xác định rõ mô hình phát triển theo không gian lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Công tác quy hoạch chưa thật sự được coi trọng đúng mức, chất lượng các quy hoạch chưa cao; thiếu cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế liên ngành, liên vùng, khắc phục tình trạng cục bộ địa phương. Bản đồ định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia. Do đó, việc lập Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là nhiệm vụ rất quan trọng, có ý nghĩa thiết thực, góp phần khắc phục những hạn chế, yếu kém lâu nay trong công tác quy hoạch, đặc biệt là tình trạng tổ chức không gian phát triển còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, chưa tập trung nguồn lực để hình thành rõ nét các vùng động lực và bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho hay, trước đây có tới 3.650 quy hoạch, giờ giảm đi được 97%, chỉ còn 111 quy hoạch. Đó là Quy hoạch tổng thể quốc gia, 6 quy hoạch của 6 vùng kinh tế, 63 quy hoạch của các tỉnh, 39 quy hoạch của ngành. Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm đánh giá, trong số 111 quy hoạch thì Quy hoạch tổng thể quốc gia đóng vai trò đặc biệt quan trọng, có tính chất dẫn dắt các quy hoạch ngành, quy hoạch tỉnh. Sau một thời dài lấy ý kiến, điều vui mừng mới đây Quốc hội đã bấm nút thông qua Nghị quyết về Quy hoạch tổng thể quốc gia. Với việc được thông qua và ban hành, Quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra bức tranh tổng thể của cả quốc gia về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tạo ra sự hài hòa, liên kết giữa các vùng với nhau và giữa các tỉnh, TP với nhau; đưa ra những mũi nhọn, trọng tâm cho phát triển kinh tế – xã hội mà mỗi tỉnh thành, mỗi vùng phải đảm nhận. “Hy vọng sau khi Quy hoạch tổng thể quốc gia được phê duyệt, quy hoạch các tỉnh, TP trực thuộc T.Ư sẽ được đẩy nhanh hơn, tạo ra công cụ mới cho phát triển. Đặc biệt, tạo điều kiện cho việc điều chỉnh quy hoạch các vùng đã được duyệt trong khoảng 10 năm nay, hiện đã có nhiều đổi mới như vừa qua T.Ư có chỉ đạo mới về vùng Đồng bằng sông Hồng” – TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm nêu. Một trong những nội dung đáng chú ý của Quy hoạch tổng thể quốc gia là định hướng phân bổ các vùng đô thị lớn gồm vùng đô thị Hà Nội, vùng TP Hồ Chí Minh , vùng đô thị Đà Nẵng, vùng đô thị Cần Thơ . Trong đó, xây dựng hệ thống đô thị vùng Hà Nội gồm Thủ đô Hà Nội và các đô thị vệ tinh thuộc các tỉnh xung quanh trong Vùng đồng bằng sông Hồng , Vùng trung du và miền núi phía Bắc, nhằm chia sẻ chức năng về giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, thương mại, dịch vụ, du lịch và hạn chế sự tập trung quá mức vào đô thị trung tâm Hà Nội. Bên cạnh đó, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng đô thị và hạ tầng kết nối đồng bộ, hiện đại, bao gồm các trục từ Hà Nội kết nối với các đô thị lớn của vùng, các đường Vành đai 4, Vành đai 5 Thủ đô Hà Nội và các tuyến đường sắt đô thị, đường sắt vành đai phía Đông Thủ đô, thúc đẩy liên kết và lan tỏa phát triển kinh tế – xã hội cho cả khu vực phía Bắc. Hình thành các vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ dọc theo các đường Vành đai 4, Vành đai 5 Thủ đô Hà Nội. Nghị quyết cũng nhấn mạnh, phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, năng động, sáng tạo, dẫn dắt; đầu tàu trong khoa học, công nghệ; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, tài chính, ngân hàng chất lượng cao; đầu mối giao thông quan trọng của khu vực và quốc tế. Hà Nội tập trung xây dựng hạ tầng đô thị hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, thoát nước, sớm khắc phục tình trạng tắc nghẽn, ngập úng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án đường sắt đô thị; xây dựng thêm các cầu qua sông Hồng, sông Đuống; quản lý, khai thác không gian ngầm gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ đất đô thị; xây dựng các TP trực thuộc Thủ đô Hà Nội, các đô thị vệ tinh có hạ tầng đồng bộ, tiện ích và dịch vụ đô thị, giao thông kết nối thuận tiện với trung tâm, giảm tải khu vực nội đô và mở rộng không gian phát triển của Hà Nội. Có thể nói, Hà Nội với vai trò là Thủ đô đã được nhiều văn bản pháp quy quy định. Đặc biệt, gần đây nhất Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị về phát triển Thủ đô đã xác định vai trò của Thủ đô với vùng và cả nước. Với những định hướng về phát triển vùng đô thị Hà Nội nêu trong Quy hoạch tổng thể quốc gia, một lần nữa Quốc hội khẳng định mạnh mẽ hơn nữa vai trò, chức năng nhiệm vụ của Thủ đô Hà Nội. TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm cho rằng, Quy hoạch tổng thể quốc gia một lần nữa xác định và cụ thể hóa, tạo thêm nguyên tắc, giải pháp thực hiện những định hướng mà Bộ Chính trị đã đặt ra trong Nghị quyết 15 đối với Hà Nội. Để Hà Nội thực hiện tốt vai trò đầu tàu về khoa học, công nghệ; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; giải pháp hạ tầng kỹ thuật… và hơn hết, để làm rõ hơn trách nhiệm của Hà Nội vì cả nước và đồng thời cả nước vì Hà Nội. “Trong bối cảnh Quy hoạch tổng thể quốc gia đã được thông qua, chúng ta cần sớm xem xét sửa đổi bổ sung, hoàn thiện Luật Thủ đô. Có như vậy chúng ta mới có bộ khung pháp lý hoàn chỉnh và có những giải pháp đồng bộ thực hiện vai trò mà cả nước giao trọng trách cho Hà Nội” – TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm nhấn mạnh.
Một trong những nội dung quan trọng vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ hai, khóa XV, đó là Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt là Quy hoạch tổng thể quốc gia). Đây có thể coi là nhiệm vụ quan trọng, được ví như “người lính mở đường” được đặt nhiều kỳ vọng cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tại Tờ trình về Quy hoạch tổng thể quốc gia được Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng trình bày trước Quốc hội đã nêu rõ: Sau hơn 35 năm đổi mới, bên cạnh kết quả đạt được nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức như không gian phát triển bị chia cắt nhiều theo địa giới hành chính; liên kết vùng tuy đã được chú trọng nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đầu tư phát triển vẫn còn dàn trải theo các vùng, miền; chưa tập trung nguồn lực hình thành rõ các vùng động lực đóng vai trò đi đầu và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chưa hình thành được bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia đồng bộ và hiện đại, kết cấu hạ tầng giao thông chưa được hoàn thiện, hạ tầng năng lượng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển; một số công trình hạ tầng xã hội quan trọng chậm được đầu tư. Hệ thống đô thị phân bố chưa hợp lý, tính liên kết còn yếu, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tác động lan tỏa còn hạn chế… Các hạn chế, yếu kém này được cho là xuất phát từ việc còn tư duy phát triển dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; thiếu quy hoạch mang tính tổng thể quốc gia, dài hạn để xác định rõ mô hình phát triển theo không gian lãnh thổ trên phạm vi cả nước. Công tác quy hoạch chưa thật sự được coi trọng đúng mức, chất lượng các quy hoạch chưa cao; thiếu cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế liên ngành, liên vùng, khắc phục tình trạng cục bộ địa phương. Bản đồ định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia. Do đó, việc lập Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là nhiệm vụ rất quan trọng, có ý nghĩa thiết thực, góp phần khắc phục những hạn chế, yếu kém lâu nay trong công tác quy hoạch, đặc biệt là tình trạng tổ chức không gian phát triển còn bị chia cắt theo địa giới hành chính, chưa tập trung nguồn lực để hình thành rõ nét các vùng động lực và bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho hay, trước đây có tới 3.650 quy hoạch, giờ giảm đi được 97%, chỉ còn 111 quy hoạch. Đó là Quy hoạch tổng thể quốc gia, 6 quy hoạch của 6 vùng kinh tế, 63 quy hoạch của các tỉnh, 39 quy hoạch của ngành. Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm đánh giá, trong số 111 quy hoạch thì Quy hoạch tổng thể quốc gia đóng vai trò đặc biệt quan trọng, có tính chất dẫn dắt các quy hoạch ngành, quy hoạch tỉnh. Sau một thời dài lấy ý kiến, điều vui mừng mới đây Quốc hội đã bấm nút thông qua Nghị quyết về Quy hoạch tổng thể quốc gia. Với việc được thông qua và ban hành, Quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra bức tranh tổng thể của cả quốc gia về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tạo ra sự hài hòa, liên kết giữa các vùng với nhau và giữa các tỉnh, TP với nhau; đưa ra những mũi nhọn, trọng tâm cho phát triển kinh tế – xã hội mà mỗi tỉnh thành, mỗi vùng phải đảm nhận. “Hy vọng sau khi Quy hoạch tổng thể quốc gia được phê duyệt, quy hoạch các tỉnh, TP trực thuộc T.Ư sẽ được đẩy nhanh hơn, tạo ra công cụ mới cho phát triển. Đặc biệt, tạo điều kiện cho việc điều chỉnh quy hoạch các vùng đã được duyệt trong khoảng 10 năm nay, hiện đã có nhiều đổi mới như vừa qua T.Ư có chỉ đạo mới về vùng Đồng bằng sông Hồng” – TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm nêu. Một trong những nội dung đáng chú ý của Quy hoạch tổng thể quốc gia là định hướng phân bổ các vùng đô thị lớn gồm vùng đô thị Hà Nội, vùng TP Hồ Chí Minh , vùng đô thị Đà Nẵng, vùng đô thị Cần Thơ . Trong đó, xây dựng hệ thống đô thị vùng Hà Nội gồm Thủ đô Hà Nội và các đô thị vệ tinh thuộc các tỉnh xung quanh trong Vùng đồng bằng sông Hồng , Vùng trung du và miền núi phía Bắc, nhằm chia sẻ chức năng về giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, thương mại, dịch vụ, du lịch và hạn chế sự tập trung quá mức vào đô thị trung tâm Hà Nội. Bên cạnh đó, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng đô thị và hạ tầng kết nối đồng bộ, hiện đại, bao gồm các trục từ Hà Nội kết nối với các đô thị lớn của vùng, các đường Vành đai 4, Vành đai 5 Thủ đô Hà Nội và các tuyến đường sắt đô thị, đường sắt vành đai phía Đông Thủ đô, thúc đẩy liên kết và lan tỏa phát triển kinh tế – xã hội cho cả khu vực phía Bắc. Hình thành các vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ dọc theo các đường Vành đai 4, Vành đai 5 Thủ đô Hà Nội. Nghị quyết cũng nhấn mạnh, phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, năng động, sáng tạo, dẫn dắt; đầu tàu trong khoa học, công nghệ; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, tài chính, ngân hàng chất lượng cao; đầu mối giao thông quan trọng của khu vực và quốc tế. Hà Nội tập trung xây dựng hạ tầng đô thị hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông, thoát nước, sớm khắc phục tình trạng tắc nghẽn, ngập úng; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án đường sắt đô thị; xây dựng thêm các cầu qua sông Hồng, sông Đuống; quản lý, khai thác không gian ngầm gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ đất đô thị; xây dựng các TP trực thuộc Thủ đô Hà Nội, các đô thị vệ tinh có hạ tầng đồng bộ, tiện ích và dịch vụ đô thị, giao thông kết nối thuận tiện với trung tâm, giảm tải khu vực nội đô và mở rộng không gian phát triển của Hà Nội. Có thể nói, Hà Nội với vai trò là Thủ đô đã được nhiều văn bản pháp quy quy định. Đặc biệt, gần đây nhất Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị về phát triển Thủ đô đã xác định vai trò của Thủ đô với vùng và cả nước. Với những định hướng về phát triển vùng đô thị Hà Nội nêu trong Quy hoạch tổng thể quốc gia, một lần nữa Quốc hội khẳng định mạnh mẽ hơn nữa vai trò, chức năng nhiệm vụ của Thủ đô Hà Nội. TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm cho rằng, Quy hoạch tổng thể quốc gia một lần nữa xác định và cụ thể hóa, tạo thêm nguyên tắc, giải pháp thực hiện những định hướng mà Bộ Chính trị đã đặt ra trong Nghị quyết 15 đối với Hà Nội. Để Hà Nội thực hiện tốt vai trò đầu tàu về khoa học, công nghệ; trung tâm giao dịch quốc tế, dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; giải pháp hạ tầng kỹ thuật… và hơn hết, để làm rõ hơn trách nhiệm của Hà Nội vì cả nước và đồng thời cả nước vì Hà Nội. “Trong bối cảnh Quy hoạch tổng thể quốc gia đã được thông qua, chúng ta cần sớm xem xét sửa đổi bổ sung, hoàn thiện Luật Thủ đô. Có như vậy chúng ta mới có bộ khung pháp lý hoàn chỉnh và có những giải pháp đồng bộ thực hiện vai trò mà cả nước giao trọng trách cho Hà Nội” – TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm nhấn mạnh.
Các nhà khoa học vừa có khám phá gây choáng váng khi phân tích thành phần một “vật thể lạ” rơi xuống Morocco 11 năm về trước. Theo tờ Space, “vật thể lạ” này được xác định là đến từ Sao Hỏa , khi một sự kiện cực đoan ví dụ như va chạm không gian mạnh bắn nó vào vũ trụ để rồi hạ cánh xuống Trái Đất 11 năm về trước. Nghiên cứu mới đẫn dầu bởi tiến sĩ Philippe Schmitt-Kopplin từ Đại học Kỹ thuật Munich và Helmholtz Munich ( Đức ) cho thấy nó quả là vật thể lạ theo nghĩa đen, vì mang một thành phần vô cùng đặc biệt so với các thiên thạch khác từng được tìm thấy trên địa cầu. Vật thể lạ rơi xuống Morocco 11 năm trước có thành phần mang giá trị như “biển chỉ đường” đến sự sống ngoài hành tinh mà con người luôn mơ ước tìm thấy – Ảnh: Natural History Museum Vienna. Cụ thể, họ đã tìm thấy các hợp chất hydrocarbon thơm đa vòng, hợp chất ma-giê hữu cơ, axit cacboxylic phân nhánh aliphatic, aldehyd và olefin trong thiên thạch. Vật thể lạ này, được gọi là Tissint, là một trong 5 thiên thạch Sao Hỏa quý giá được phát hiện trên Trái Đất. Phân tử hữu cơ mà nó chứa đựng không chỉ mang đến một cơ hội cho sự sống ngoài hành tinh, mà cách thiên thạch này được tạo nên cũng hé lộ nhiều chi tiết rất mới về hành tinh đó. Mối quan tâm đặc biệt được nhắm vào các phân tử ma-giê hữu cơ, thứ chưa từng được tìm thấy trước đó kể cả bởi các robot của NASA đã và đang làm việc trên Sao Hỏa. Các phân tử này cung cấp những hiểu biết mới về địa hóa nhiệt độ cao, áp suất cao đã hình thành nên những lớp bên trong Sao Hỏa, cũng như mối liên hệ giữa chu trình carbon và sự tiến hóa của các khoáng vật này. “Hiểu được các quá trình và chuỗi sự kiện hình thành nguồn tài nguyên hữu cơ phong phú này sẽ tiết lộ các chi tiết mới về khả năng sinh sống của Sao Hỏa và khả năng xảy ra các phản ứng có thể dẫn tới hình thành sự sống” – đồng tác giả Andrew Steele từ Viện Carnegie ( Mỹ ), khẳng định. Phát hiện này cũng giúp các tác giả hoàn thiện hơn danh mục về những gì cấu thành Sao Hỏa, một hành tinh được cho là đã được sinh ra giống như Trái Đất. Dữ liệu này vừa giúp hiểu thêm vừa chính Trái Đất, vừa là định hướng tốt cho các sứ mệnh Sao Hỏa tương lai. Các nhà nghiên cứu vẫn đang tiếp tục tìm hiểu về thiên thạch Morocco và “báu vật” nó chứa đựng, cũng như mong chờ một mảnh ghép khác mà NASA hứa hẹn đưa về từ Sao Hỏa trong những năm tới – các mẫu đất đá trực tiếp từ hành tinh đỏ mà robot của cơ quan này đang tiến hành thu thập. Nghiên cứu vừa được công bố trên Science Advances.
Scientists have just made a shocking discovery when analyzing the composition of a "strange object" that fell in Morocco 11 years ago. According to Space, this "strange object" was determined to come from Mars , when an extreme event such as a strong space collision shot it into space and landed on Earth 11 years ago. New research led by Dr. Philippe Schmitt-Kopplin from the Technical University of Munich and Helmholtz Munich ( Virtue ) shows that it is indeed a strange object in the literal sense, because it has a very special composition compared to other meteorites ever found on Earth. The strange object that fell in Morocco 11 years ago has components that serve as "signposts" to alien life that people have always dreamed of finding - Photo: Natural History Museum Vienna. Specifically, they found polycyclic aromatic hydrocarbon compounds, organic magnesium compounds, aliphatic branched carboxylic acids, aldehydes and olefins in the meteorite. This strange object, called Tissint, is one of five precious Martian meteorites discovered on Earth. The organic molecules it contains not only offer a chance for alien life, but the way this meteorite was created also reveals many very new details about that planet. Of particular interest is organic magnesium molecules, which have never been found before even by NASA robots that have been working on Mars. These molecules provide new insights into the high-temperature, high-pressure geochemistry that shaped the interior layers of Mars, as well as the connection between the carbon cycle and the evolution of these minerals. “Understanding the processes and chains of events that form this rich organic resource will reveal new details about the habitability of Mars and the possibility of reactions that could lead to the formation of live” – co-author Andrew Steele from the Carnegie Institute ( America ), confirm. The discovery also helps the authors complete their catalog of what constitutes Mars, a planet believed to have been born like Earth. This data not only helps understand the Earth itself, but also provides a good direction for future Mars missions. Researchers are continuing to learn about the Moroccan meteorite and the "treasures" it contains, as well as looking forward to another piece of the puzzle that NASA promises to bring back from Mars in the coming years - direct soil and rock samples. relay from the red planet that this agency's robot is collecting. The study was just published above Science Advances.
Cửu vị thần công được đặt tên theo ngũ hành và tứ thời (xuân, hạ, thu, đông). Nguồn: kienthuc. Mùa xuân luôn là một đề tài quen thuộc của các loại hình nghệ thuật từ xưa đến nay. Đó không chỉ là khoảng thời gian mở ra một năm mà còn là biểu tượng của sự tốt lành và bao điều ước vọng. Với triều Nguyễn ở Huế , mùa xuân còn là hình ảnh buổi bình minh của triều đại, của dòng họ và của cảnh thái bình thịnh trị. Vì thế, hình ảnh của mùa xuân xuất hiện rất nhiều trên các những đền đài, cung điện và cổ vật xứ Huế, nơi vương triều này chọn làm kinh đô, với nhiều hình thức thể hiện rất phong phú. Trước hết, mùa xuân được phản ánh rất nhiều trong thơ văn chữ Hán được chạm khắc, trang trí trên các di tích ở Huế. Thái Hòa Điện, ngôi điện lớn nhất Hoàng thành Huế, có đến 297 bài thơ chữ Hán được chạm khắc và sơn thếp rất tinh xảo, trong đó, có hơn 20 bài thơ ca ngợi cảnh sắc mùa xuân. Đáng chú ý là bài thơ khắc trên liên ba của chính điện, được giới văn chương xứ Huế đánh giá là bài thơ vịnh xuân tiêu biểu dưới thời Nguyễn: Thự nhật quang ly bệ. Xuân phong mãn phụng lâu. Tứ phương sâm ngọc bạch. Vân tập đế vương châu. (Huỳnh Minh Đức dịch: Ánh nắng soi sáng nơi thềm ngọc. Gió xuân tràn ngập nơi lầu phụng. Bốn phương rừng ngọc lụa. Mây rợp đế vương châu). Ngay trên cổ diềm chính điện, xen kẽ những bức tranh vịnh cảnh bốn mùa bằng pháp lam là một dãy bốn bài thơ xuân, cùng mở đầu bằng câu: Hà xứ xuân sinh tảo (Nơi nào xuân đến sớm?), mà nhiều người cho là những bài thơ hay được tuyển chọn từ một cuộc thi vịnh mùa xuân do vua Gia Long chủ xướng. Đáng chú ý là bài thơ sau: Hà xứ xuân sinh tảo. Xuân sinh chấn thì phong. Tam dương khai thái tịnh. Từ hải lý tường đồng. (Nguyễn Phước Hải Trung dịch thơ: Nơi nào xuân đến sớm? Gió đông xuân về nhanh. Vận thái bình xuân nở. Dân cùng vui điềm lành). Và bài: Hà xứ xuân sinh tảo. Xuân sinh thảo mộc tri. Phương viên tăng tú mậu. Thái giả trưởng sâm si. (Nguyễn Phước Hải Trung dịchthơ: Nơi nào xuân đến sớm? Nghe cỏ cây đâm chồi. Trong vườn thêm xanh tốt. Đồng ruộng trở mình tươi). […] Đặc biệt, vua Thiệu Trị, bậc thi sĩ đế vương đã sáng tác rất nhiều thơ xuân. Nhiều bài thơ của ông về sau được gửi sang Trung Hoa để sao chép lên tranh kính cùng với hình ảnh minh họa nội dung bài thơ. Những bức tranh này là di sản quý giá của nghệ thuật thời Nguyễn, hiện vẫn được bảo lưu ở Huế. Một trong những bức tranh kính đang trưng bày trong Hòa Khiêm Điện (lăng Tự Đức) có một bài thơ xuân, nhan đề Tam thỉ tiêu thương , tả cảnh mùa xuân thật sinh động: Cử thương tôn tử hỉ xuân lai. Gia trưởng đường tiền thọ tích khai. Trần thị phu ngôn thiên tuế tụng. Thành công cao bổng vạn niên bôi. Khẳng thơi bách diệp liên châm chước. Tranh dự đồ tô cửu bát phôi. Tùng thử hương nồng phù Tấn điện. Nguyên do lễ ý tự câu đài . ( Trần Đức Anh Sơn dịch thơ: Dâng rượu, cháu con mừng xuân tới. Trưởng gia mở tiệc thọ trước nhà. Ông Trần chúc sống lâu muôn tuổi. Lão thành mong mỏi rạng danh gia. Bách diệp rượu ngon đà rót mãi. Đồ tô, chén cạn mãi khôn thôi. Hương nồng lan tỏa tràn cung Tấn. Tỏ lòng kính trưởng tận trời xa). Về tạo hình, những hình ảnh biểu trưng cho mùa xuân xuất hiện trên nhiều chất liệu với nhiều thủ pháp khác nhau. Khác với người Trung Hoa xem mai, cùng với tùng và trúc, là những loài cây biểu trưng cho mùa đông ( tuế hàn tam hữu : ba người bạn của mùa đông giá rét), người Huế lại xem mai là loài hoa đại diện cho mùa xuân, là loài hoa đứng đầu trong tứ thời (mai – liên – cúc – trúc) và tứ quý (mai – lan – cúc – trúc). Huế vốn được coi là thánh địa của hoàng mai, nơi loài hoa này được tôn vinh hết mực. Vì thế, hoa mai xuất hiện trên hầu hết cổ tích xứ Huế. Ở Thái Hòa Điện, hoa mai xuất hiện ở bờ quyết chính điện trong đồ án mai điểu đắp bằng vữa. Hoa mai hiện diện trên bờ nóc Thế Tổ Miếu trong đồ án tứ thời vẽ bằng bột màu và được thể hiện bằng sành sứ ghép mảnh trong đồ án liên chi hoa ở mặt ngoài phần móng tòa miếu thờ lớn nhất cố đô Huế này. Ở Diên Thọ Cung, hoa mai có mặt trên bình phong phía trước chính điện với đồ án mai thạch và với đồ án tứ quý ở trên cổ diêm của Diên Thọ chính điện bằng thủ pháp đắp vữa kết hợp vẽ màu. Hoa mai có trong các ô hộc trang trí trên Hiển Nhân Môn và Trường An Môn bằng nghệ thuật khảm sành sứ và thủy tinh màu thông qua các đồ án mai thọ và mai điểu. Đặc biệt, trong nội thất Khải Thành Điện (lăng Khải Định), hoa mai xuất hiện với mật độ dày đặc trong các đồ án: tứ quý, tứ bình, chiết chi hoa, mai thọ… kèm với những vần thơ tán tụng như: Sổ điểm mai hoa thiên địa tâm (Mấy cánh hoa mai như trái tim của trời đất) hay Thiên hạ vô song phẩm. Nhân gian đệ nhất chi (Phẩm chất vô song miền hạ giới. Nhân gian đệ nhất nhánh mai này). Trong Ngưng Hy Điện (lăng Đồng Khánh) có hai bức tranh sơn mài thếp vàng, chạm nổi hình hoa mai, mẫu đơn và liễu, được các nhà nghiên cứu mỹ thuật nhìn nhận là những tuyệt phẩm của nghệ thuật sơn mài Việt Nam đầu thế kỷ XX. Hoa mai cũng được chạm khắc trên Nghị đỉnh , một trong Cửu đỉnh , được nhìn nhận như những quốc bảo của nghệ thuật đúc đồng thời Nguyễn. Cùng với mai, còn có hình ảnh của đào, loài hoa được người miền Bắc suy tôn là chúa xuân, cũng được chạm khắc trên Thuần đỉnh , hay được ghép mảnh, đắp vữa và vẽ bằng bột màu trên các công trình như: Dục Khánh Môn, Tuấn Liệt Môn, Sùng Công Môn trong Hoàng thành Huế. Trên cổ vật của triều Nguyễn, biểu trưng của mùa xuân được hình tượng hóa bởi các loài thảo mộc, cầm thú hay được thể hiện dưới dạng văn tự trong các đồ án trang trí. Hình ảnh chim én xuất hiện trên Nghị đỉnh ; các đồ án: mai thọ, mai hạc, mai lan cúc trúc… xuất hiện phổ biến trên đồ sứ ký kiểu. Cửu vị thần công , chín khẩu đại pháo lớn nhất Việt Nam, đúc vào năm 1803 triều Gia Long, được suy tôn là Thần uy vô địch thượng tướng quân , tượng trưng cho quyền uy của vương triều Nguyễn. Cửu vị thần công được đặt tên theo ngũ hành và tứ thời, trong đó, khẩu thứ nhất có đúc nổi chữ 春 ( Xuân ) ở chuôi súng, làm tên gọi của súng. Mùa xuân là biểu trưng của sự trẻ trung, tốt lành và trường cửu, nên được phản ánh rất nhiều trong thi văn và mỹ thuật thời Nguyễn thông qua các cổ tích xứ Huế. Có thể xem đó là lời nguyện cầu cho cảnh thái bình thịnh trị được trường tồn của vương triều Nguyễn vậy.
The nine gods are named after the five elements and the four times (spring, summer, autumn, winter). Source: kienthuc. Spring has always been a familiar theme of all types of art from past to present. It is not only a time that opens a year but also a symbol of goodness and many wishes. With the Nguyen Dynasty in Hue , spring is also the image of the dawn of the dynasty, the family and the peaceful and prosperous reign. Therefore, images of spring appear a lot on temples, palaces and antiques in Hue, where this dynasty chose to be its capital, with many diverse forms of expression. First of all, spring is reflected a lot in Chinese poetry carved and decorated on monuments in Hue. Thai Hoa Dien, the largest palace in Hue Imperial Citadel, has up to 297 Chinese poems carved and painted very delicately, including more than 20 poems praising the spring scenery. Notably, the poem engraved on the third panel of the main hall is considered by Hue literary circles to be a typical spring poem during the Nguyen Dynasty: Sunlight house with pedestal. Spring flourishes and serves for a long time. Four directions of ginseng and white jade. Van Tap Emperor Chau. (Translated by Huynh Minh Duc: Sunlight shines on the jade terrace. Spring breeze fills the phoenix pavilion. All four directions are jade and silk forests. Clouds are filled with royal pearls). Right on the neck of the main hall's frieze, interspersed with paintings of the four seasons in blue dharma, is a series of four spring poems, opening with the sentence: Spring produces algae (Where does spring come early?), which many people consider to be good poems selected from a spring poetry contest instigated by King Gia Long. Noteworthy is the following poem: Spring produces algae. When spring comes, it's windy. Tam Duong opens the pure state. From nautical copper wall. (Nguyen Phuoc Hai Trung translates the poem: Where does spring come early? The winter-spring wind comes quickly. Spring's prosperity blooms. People are happy and auspicious). And post: Spring produces algae. Spring birth herbs tri. Phuong Vien Tang Tu Mau. Thai fake chief ginseng. (Translated by Nguyen Phuoc Hai Trung: Where does spring come early? I hear the grass and trees sprouting. The garden becomes greener. The fields become fresh). […] In particular, King Thieu Tri, the imperial poet, composed many spring poems. Many of his poems were later sent to China to be copied onto glass paintings along with images illustrating the poem's content. These paintings are precious artistic heritage of the Nguyen Dynasty, still preserved in Hue. One of the glass paintings on display in Hoa Khiem Dien (Tu Duc mausoleum) has a spring poem, titled Three whispers eliminate injuries , describes the spring scene vividly: Cu Thuong's grandson rejoices in the coming spring. The patriarch's life path has been built up. Tran Thi Phu chanted the words of the thousand years. Success and high rewards last forever. Affirming cypress lotus needles. Painting of the nine-eight embryo map. Tung tried the strong incense of Tan Dien. The reason is because of courtesy . ( Tran Duc Anh Son Poetry translation: Offering wine, children and grandchildren celebrate the coming of spring. The head of the family held a feast in front of the house. Mr. Tran wished him a long life. The old man longed for fame. Bach Diep wine is delicious and keeps pouring. Bowls and cups will never run out. The strong fragrance spread throughout the Tan palace. Pay your respects to the heavens and fars.) Regarding shaping, images symbolizing spring appear on many materials with many different methods. Unlike the Chinese, apricot trees, along with pine trees and bamboo, are considered trees that symbolize winter ( minnows and colds three properties : three friends of cold winter), Hue people consider apricot blossoms to be the flower representing spring, the leading flower in the world. four times (apricot – lotus – chrysanthemum – bamboo) and four quarters (apricot - orchid - chrysanthemum - bamboo). Hue is considered the holy land of apricot blossoms, where this flower is highly honored. Therefore, apricot flowers appear in most Hue fairy tales. At Thai Hoa Dien, apricot blossoms appear on the edge of the main hall in the project of apricot blossoms covered with stucco. Apricot blossoms appear on the roof of The To Mieu in the four-period design painted with gouache and are represented by pieced ceramic pieces in the lotus flower project on the outside of the foundation of the largest temple in the ancient capital of Hue. At Dien Tho Palace, apricot blossoms are present on the screen in front of the main hall with apricot stone designs and with four-quarter designs on the match neck of Dien Tho main hall using the method of applying mortar and painting. Apricot flowers appear in decorative boxes on Hien Nhan Mon and Truong An Mon with the art of mosaic porcelain and colored glass through projects. Mai Tho and apricot bird. In particular, in the interior of Khai Thanh Dien (Khai Dinh mausoleum), apricot flowers appear in dense density in the designs: four precious, four vases, extracting flowers, apricot trees... accompanied by praise poems such as: The score book of apricot flowers, heaven and earth, heart (Apricot flower petals are like the heart of heaven and earth) good The world is unparalleled. The first branch of humanity (Unparalleled quality in the lower world. This apricot branch is the best in the human world). In Ngung Hy Dien (Dong Khanh mausoleum) there are two gilded lacquer paintings, embossed with images of apricot flowers, peonies and willows, recognized by art researchers as masterpieces of early Vietnamese lacquer art. twentieth century. Apricot flowers are also carved on it Summit , one of Nine peaks , are recognized as national treasures of the bronze casting art of the Nguyen Dynasty. Along with apricot, there is also an image of peach, a flower revered by Northerners as the lord of spring, also carved on the Pure peak , often assembled in pieces, stuccoed and painted with pigments on works such as: Duc Khanh Mon, Tuan Liet Mon, Sung Cong Mon in the Hue Imperial Citadel. On Nguyen Dynasty antiques, the symbol of spring is symbolized by herbs, animals, or expressed in written form in decorative projects. The image of a swallow appears above Summit ; projects: apricot tho, apricot crane, apricot chrysanthemum apricot... appears commonly on signed ceramics. The Nine Gods , the nine largest cannons in Vietnam, cast in 1803 under Gia Long's reign, are revered as Your Majesty is invincible, General , symbolizing the authority of the Nguyen dynasty. The Nine Gods named after five elements and four times, Among them, the first mouth has the word 春 (春) embossed on it. Spring ) at the gun's hilt, as the gun's name. Spring is a symbol of youth, goodness and eternity, so it is reflected a lot in the poetry and fine arts of the Nguyen Dynasty through the fairy tales of Hue. It can be seen as a prayer for the eternal peace and prosperity of the Nguyen Dynasty.
Danh nho Nguyễn Thuyên dù tài năng vượt bậc nhưng đường thi cử lận đận. Ba lần thi chỉ đỗ Tú tài, lần thứ tư mới đậu Cử nhân. Nguyễn Thuyên là vị Tế tửu hiếm có – khi chỉ đỗ Cử nhân. Thế nhưng với tài năng và sự học miệt mài, Nguyễn Thuyên đã trở thành vị học quan hiếm có của triều Nguyễn. Bởi thế, dù chỉ đỗ Cử nhân nhưng vua triều Nguyễn vẫn chọn ông để bổ vào chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Theo các nguồn sử liệu và gia phả họ Nguyễn tộc lục chi ở Nam Định, Nguyễn Thuyên sinh năm Canh Tý (1790) trong một gia đình nho học làng Cựu Hào (nay thuộc xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản , tỉnh Nam Định ). Bố là Nguyễn Hoàn, vừa học giỏi toán pháp, vừa thông y lý, chữa bệnh rất giỏi. Mẹ là Phạm Thị Thúy con Cử nhân Huấn đạo Phạm Đình Dự. Ông nội là Cử nhân Nguyễn Xưởng, Huấn đạo phủ Thiệu Thiên ( Thanh Hóa ). Do đó, từ nhỏ Nguyễn Thuyên đã tiếp thụ nền giáo dục gia đình có nền nếp, có học vấn cao, gia đạo nghiêm khắc. Ba anh em trai Nguyễn Thuyên đều đậu Tú tài nhiều khoa. Trong có người em trai tên là Nguyễn Thành đậu Tú tài đến 7 lần. Người em thứ ba của Nguyễn Thuyên là Nguyễn Ngọc Đường cũng đậu Tú tài 4 lần. Nguyễn Thuyên đi thi Hương, ba khóa đều đậu Tú tài vào các năm Bính Tý (1816), Kỷ Mão (1819), Nhâm Ngọ (1822). Đến khoa thi Hương lần thứ tư năm Ất Dậu (1825) đời vua Minh Mạng, Nguyễn Thuyên đậu Cử nhân. Ông làm quan trải ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Trong 25 năm làm quan, Nguyễn Thuyên đã có 17 năm dạy học. Năm 1834, ông được thăng Đốc học tỉnh Thanh Hóa, rồi Đốc học tỉnh Hà Tĩnh, học trò có nhiều người đỗ đạt cao. Do có nhiều công lao trong dạy học nên đến năm 1837 Nguyễn Thuyên được phong Phụng nghi đại phu. Năm 1841, vua Thiệu Trị mới lên ngôi đã biết Nguyễn Thuyên là một học quan có tài nên phong tặng Hàn lâm Thị giảng học sĩ, rồi đưa về kinh thành phong làm Giám sát ngự sử kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông vừa dạy học ở Quốc Tử Giám vừa trông coi việc học trong phủ hoàng tộc. Năm 1845, ông được kiêm chức Chưởng ấn kinh kỳ. Năm sau, Thiệu Trị thăng chức ông làm Tế tửu Quốc Tử Giám và đổi tên ông là Nguyễn Công Hợp. Trải qua 17 năm dạy học, Nguyễn Thuyên đã góp công đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước với 3 Thám hoa, 17 Tiến sĩ, 7 Phó bảng và 24 Cử nhân. Nguyễn Thuyên có đến 3 lần thi chỉ đỗ Tú tài, 1 lần đỗ Cử nhân. Ảnh minh họa. Trong số các học trò của Nguyễn Thuyên, có nhiều người về sau có danh vọng cao như các Thám hoa Phan Thúc Trực, Ngụy Khắc Đàn và Đặng Văn Kiều. Các Tiến sĩ có: Bùi Thúc Kiên, Trần Huy Côn, Cử nhân Đặng Huy Trứ, Ngô Phùng, Đặng Văn Kiều và con là Tiến sĩ Đặng Văn Bá sau này là những văn thân yêu nước ở Hà Tĩnh tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Vì có công lao lớn trong việc đào tạo nhân tài, vua Tự Đức mến mộ cho phép Nguyễn Thuyên mặc đại triều phục để học trò làm lễ Khánh thọ ông 60 tuổi. Vua còn ban tặng ông khánh vàng, tự tay đề từ hai bức đại tự “Kính Trai”, “Nghĩa Phương” (Kính trọng thay sự thanh bạch giản dị, đẹp đẽ thay sự nhân nghĩa). Năm Tự Đức thứ 3 (1850) nhà vua cử ông ra Hà Nội làm giám khảo cuộc thi Hương ở trường Hà. Sau chuyến đi Hà Nội về, sức khỏe của ông giảm sút. Ông xin cáo quan về trí sĩ. Mãi hai năm sau (1852), biết không giữ được, Tự Đức phải đồng ý ban cho nguyên hàm về trí sĩ tại quê nhà. Ngày 13 tháng 7 năm Quý Sửu (1853), ông qua đời ở tuổi 64. Vua Tự Đức thương tiếc, ban sắc chỉ phong Nguyễn Thuyên làm “Trung thuận đại phu Quốc Tử Giám Tế tửu tán trị Doãn Nguyễn Hầu”. Hàng trăm học trò đang làm quan trong triều, ngoài hạt đều về dự lễ tang, đưa tiễn thầy. Để ghi nhớ công ơn thầy, học trò đã xây dựng từ đường, sớm hôm thờ phụng một bậc sư biểu. Năm 1858, từ đường xây dựng xong, Bảng nhãn Tế tửu Quốc Tử Giám Vũ Duy Thanh (người làng Vân Bồng, huyện Yên Khánh, Ninh Bình), cũng là người kế nhiệm Nguyễn Thuyên ra dự lễ khánh thành và viết văn bia cho từ đường. Văn bia ca ngợi ông là một bậc đại sĩ phu không màng danh lợi, chỉ chuyên tâm dạy học, suốt đời sống thanh liêm, giản dị, vui với đạo học, dạy học trò thành đạt. Bài văn có đoạn viết: “Do có bệnh mà xin nghỉ hưu, mặc dù tuổi nghỉ hưu chưa đến, vẫn không tiếc. Tiên sinh thường vui vẻ chuyện trò, không hề bận tâm đến việc đua tranh với đời chỉ chú trọng đến việc dạy học, hết sức chăm lo việc đó, còn lại coi nhẹ hết. Điều tiên sinh ham muốn nhất, chính là bỏ được tính buồn bã (u sầu), cái mà người đời thường cho là lạnh nhạt. Tiên sinh suốt đời vui vẻ, không nói nhiều về đạo quân tử, mà thường ngày sống kiệm cần thanh bạch cho đến chết, nhà không chút của cải, chết nhẹ nhàng như Phiên Hầu Hi Tăng”. Nguyễn Thuyên là một trong ba vị Tế tửu triều Nguyễn của vùng đất Nam Định. Giới sử học đánh giá rằng, chức Tế tửu đứng đầu Quốc Tử Giám phải là người đỗ Tiến sĩ trở lên. Nguyễn Thuyên là người chỉ đỗ Cử nhân mà được triều đình cử giữ chức vụ này là điều rất đặc biệt. Điều đó chứng tỏ ông có học vấn rất uyên thâm, là một bậc sư biểu được nhiều người kính trọng. Tư nghiệp Quốc Tử Giám lúc đầu (thời Trần) là chức học quan đứng đầu Quốc Tử Giám, phụ trách, quản lý việc giáo dục tại trường. Sang thời Lê sơ, là chức quan thứ 2, sau Tế tửu, làm phó cho Tế tửu, giúp Tế tửu trong việc rèn tập sĩ tử. Quan chế thời Lê xếp Tư nghiệp hàm Tòng ngũ phẩm. Từ năm Bảo Thái thứ 2 (1721), Tư nghiệp cùng với Tế tửu tham gia giảng dạy tại trường. Để đảm nhiệm được trọng trách trên, ngay từ đầu khi tuyển chọn nhân sự cho Quốc Tử Giám, triều đình thường chọn những bậc tài năng, đạo cao đức trọng. Bởi họ không chỉ là nhà quản lý về giáo dục, mà còn là những nhà giáo mẫu mực, là những trụ cột quốc gia giúp triều đình trong việc “trị quốc, bình thiên hạ”, là những cây đại thụ trong nền văn hóa. Với tài năng, Nguyễn Thuyên đã ghi tên mình vào hàng những học quan danh tiếng triều Nguyễn. Ảnh minh họa. Theo ghi chép của dòng họ Nguyễn tộc lục chi ở thôn Cựu Hào, Tế tửu Nguyễn Thuyên có 4 người con đều đỗ Tú tài là: Nguyễn Khâm, Tú Đoán, Tú Tương và Ấm Thừa. Ông cũng có người cháu gọi bằng ông họ là Nguyễn Văn Tính đỗ Tiến sĩ khoa thi Tân Sửu (1901) năm Thành Thái thứ 13, cùng khoa với Phan Chu Trinh và Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Họ Nguyễn thôn Cựu Hào được đánh giá là dòng họ khoa bảng nổi tiếng ở Nam Định. Từ xa xưa, dòng họ này đã tạo dựng truyền thống hiếu học, hành đạo với 2 nghề cao quý là nghề dạy học và nghề thầy thuốc. Theo cuốn gia phả do Nguyễn Thuyên viết năm Kỷ Dậu 1849 (năm Tự Đức thứ 2), dòng họ Nguyễn lục chi Cựu Hào được khởi nguồn từ Tổ Pháp chính công rời đất Bạch Mai (Hà Nội) về lập nghiệp tại làng Cựu Hào vào đời Hồng Đức thứ 33 ở thế kỷ thứ 15. Quan tả Mạc Nguyễn Sưởng đời thứ 10 sinh được 6 người con trai, 3 người con gái. Một bà con gái được nhà vua ban cho tên là Liên Hoa công chúa, là tổ cô của dòng họ. Từ đây, dòng họ được phân chia thành 6 chi ngành. Trong thời Lê trung hưng và thời Nguyễn, dòng họ này tại làng Cựu Hào có 1 Tiến sĩ, 2 Cử nhân, 1 Ngự y và 6 Tú tài. Mở đầu nghề làm thuốc là cụ Nguyễn Truyền, được cha là Nguyễn Xưởng cho theo học nghề y và trở thành một danh y đương thời. Năm Canh Thân 1888, nhà vua bị bệnh hiểm nghèo, nghe tin họ Nguyễn Cựu Hào có người làm thuốc giỏi đã cho chiếu xuống vời vào cung. Cụ Định và 2 người con vào triều chữa khỏi bệnh cho nhà vua, triều đình muốn giữ cả 3 người ở trong cung, nhưng cụ đã thoái từ và cho con là Nguyễn Phối ở lại chữa bệnh cho hoàng tộc. Năm 1888, vua Thành Thái phong cho cụ Nguyễn Phối là Điều Hộ, năm 1890 phong làm Ngự y. Khu lăng mộ Nguyễn tộc lục chi ở Vụ Bản (Nam Định). Lễ rước làng Cựu Hào. Hiện nay, từ đường dòng họ Nguyễn làng Cựu Hào còn giữ được nhiều kỷ vật quý của nhà vua phong tặng như sắc phong, đại tự, kim khánh tự đức khâm sai, chữ vàng, tiết hạnh khả phong. Tại Cựu Hào, Tế tửu Nguyễn Thuyên được nhân dân tôn là Thành hoàng làng. Mới đây, vào cuối tháng 11/2022 thôn Cựu Hào đã tôn tạo ngôi đền. Hiện ngôi đền tọa ở đầu làng, trải qua nhiều lần trùng tu vẫn giữ được kiến trúc truyền thống. Đền có 3 cung, lưu giữ nhiều câu đối, sắc phong của các đời vua ban tặng.
Danh nho Nguyễn Thuyên dù tài năng vượt bậc nhưng đường thi cử lận đận. Ba lần thi chỉ đỗ Tú tài, lần thứ tư mới đậu Cử nhân. Nguyễn Thuyên là vị Tế tửu hiếm có – khi chỉ đỗ Cử nhân. Thế nhưng với tài năng và sự học miệt mài, Nguyễn Thuyên đã trở thành vị học quan hiếm có của triều Nguyễn. Bởi thế, dù chỉ đỗ Cử nhân nhưng vua triều Nguyễn vẫn chọn ông để bổ vào chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Theo các nguồn sử liệu và gia phả họ Nguyễn tộc lục chi ở Nam Định, Nguyễn Thuyên sinh năm Canh Tý (1790) trong một gia đình nho học làng Cựu Hào (nay thuộc xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản , tỉnh Nam Định ). Bố là Nguyễn Hoàn, vừa học giỏi toán pháp, vừa thông y lý, chữa bệnh rất giỏi. Mẹ là Phạm Thị Thúy con Cử nhân Huấn đạo Phạm Đình Dự. Ông nội là Cử nhân Nguyễn Xưởng, Huấn đạo phủ Thiệu Thiên ( Thanh Hóa ). Do đó, từ nhỏ Nguyễn Thuyên đã tiếp thụ nền giáo dục gia đình có nền nếp, có học vấn cao, gia đạo nghiêm khắc. Ba anh em trai Nguyễn Thuyên đều đậu Tú tài nhiều khoa. Trong có người em trai tên là Nguyễn Thành đậu Tú tài đến 7 lần. Người em thứ ba của Nguyễn Thuyên là Nguyễn Ngọc Đường cũng đậu Tú tài 4 lần. Nguyễn Thuyên đi thi Hương, ba khóa đều đậu Tú tài vào các năm Bính Tý (1816), Kỷ Mão (1819), Nhâm Ngọ (1822). Đến khoa thi Hương lần thứ tư năm Ất Dậu (1825) đời vua Minh Mạng, Nguyễn Thuyên đậu Cử nhân. Ông làm quan trải ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Trong 25 năm làm quan, Nguyễn Thuyên đã có 17 năm dạy học. Năm 1834, ông được thăng Đốc học tỉnh Thanh Hóa, rồi Đốc học tỉnh Hà Tĩnh, học trò có nhiều người đỗ đạt cao. Do có nhiều công lao trong dạy học nên đến năm 1837 Nguyễn Thuyên được phong Phụng nghi đại phu. Năm 1841, vua Thiệu Trị mới lên ngôi đã biết Nguyễn Thuyên là một học quan có tài nên phong tặng Hàn lâm Thị giảng học sĩ, rồi đưa về kinh thành phong làm Giám sát ngự sử kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Ông vừa dạy học ở Quốc Tử Giám vừa trông coi việc học trong phủ hoàng tộc. Năm 1845, ông được kiêm chức Chưởng ấn kinh kỳ. Năm sau, Thiệu Trị thăng chức ông làm Tế tửu Quốc Tử Giám và đổi tên ông là Nguyễn Công Hợp. Trải qua 17 năm dạy học, Nguyễn Thuyên đã góp công đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước với 3 Thám hoa, 17 Tiến sĩ, 7 Phó bảng và 24 Cử nhân. Nguyễn Thuyên có đến 3 lần thi chỉ đỗ Tú tài, 1 lần đỗ Cử nhân. Ảnh minh họa. Trong số các học trò của Nguyễn Thuyên, có nhiều người về sau có danh vọng cao như các Thám hoa Phan Thúc Trực, Ngụy Khắc Đàn và Đặng Văn Kiều. Các Tiến sĩ có: Bùi Thúc Kiên, Trần Huy Côn, Cử nhân Đặng Huy Trứ, Ngô Phùng, Đặng Văn Kiều và con là Tiến sĩ Đặng Văn Bá sau này là những văn thân yêu nước ở Hà Tĩnh tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Vì có công lao lớn trong việc đào tạo nhân tài, vua Tự Đức mến mộ cho phép Nguyễn Thuyên mặc đại triều phục để học trò làm lễ Khánh thọ ông 60 tuổi. Vua còn ban tặng ông khánh vàng, tự tay đề từ hai bức đại tự “Kính Trai”, “Nghĩa Phương” (Kính trọng thay sự thanh bạch giản dị, đẹp đẽ thay sự nhân nghĩa). Năm Tự Đức thứ 3 (1850) nhà vua cử ông ra Hà Nội làm giám khảo cuộc thi Hương ở trường Hà. Sau chuyến đi Hà Nội về, sức khỏe của ông giảm sút. Ông xin cáo quan về trí sĩ. Mãi hai năm sau (1852), biết không giữ được, Tự Đức phải đồng ý ban cho nguyên hàm về trí sĩ tại quê nhà. Ngày 13 tháng 7 năm Quý Sửu (1853), ông qua đời ở tuổi 64. Vua Tự Đức thương tiếc, ban sắc chỉ phong Nguyễn Thuyên làm “Trung thuận đại phu Quốc Tử Giám Tế tửu tán trị Doãn Nguyễn Hầu”. Hàng trăm học trò đang làm quan trong triều, ngoài hạt đều về dự lễ tang, đưa tiễn thầy. Để ghi nhớ công ơn thầy, học trò đã xây dựng từ đường, sớm hôm thờ phụng một bậc sư biểu. Năm 1858, từ đường xây dựng xong, Bảng nhãn Tế tửu Quốc Tử Giám Vũ Duy Thanh (người làng Vân Bồng, huyện Yên Khánh, Ninh Bình), cũng là người kế nhiệm Nguyễn Thuyên ra dự lễ khánh thành và viết văn bia cho từ đường. Văn bia ca ngợi ông là một bậc đại sĩ phu không màng danh lợi, chỉ chuyên tâm dạy học, suốt đời sống thanh liêm, giản dị, vui với đạo học, dạy học trò thành đạt. Bài văn có đoạn viết: “Do có bệnh mà xin nghỉ hưu, mặc dù tuổi nghỉ hưu chưa đến, vẫn không tiếc. Tiên sinh thường vui vẻ chuyện trò, không hề bận tâm đến việc đua tranh với đời chỉ chú trọng đến việc dạy học, hết sức chăm lo việc đó, còn lại coi nhẹ hết. Điều tiên sinh ham muốn nhất, chính là bỏ được tính buồn bã (u sầu), cái mà người đời thường cho là lạnh nhạt. Tiên sinh suốt đời vui vẻ, không nói nhiều về đạo quân tử, mà thường ngày sống kiệm cần thanh bạch cho đến chết, nhà không chút của cải, chết nhẹ nhàng như Phiên Hầu Hi Tăng”. Nguyễn Thuyên là một trong ba vị Tế tửu triều Nguyễn của vùng đất Nam Định. Giới sử học đánh giá rằng, chức Tế tửu đứng đầu Quốc Tử Giám phải là người đỗ Tiến sĩ trở lên. Nguyễn Thuyên là người chỉ đỗ Cử nhân mà được triều đình cử giữ chức vụ này là điều rất đặc biệt. Điều đó chứng tỏ ông có học vấn rất uyên thâm, là một bậc sư biểu được nhiều người kính trọng. Tư nghiệp Quốc Tử Giám lúc đầu (thời Trần) là chức học quan đứng đầu Quốc Tử Giám, phụ trách, quản lý việc giáo dục tại trường. Sang thời Lê sơ, là chức quan thứ 2, sau Tế tửu, làm phó cho Tế tửu, giúp Tế tửu trong việc rèn tập sĩ tử. Quan chế thời Lê xếp Tư nghiệp hàm Tòng ngũ phẩm. Từ năm Bảo Thái thứ 2 (1721), Tư nghiệp cùng với Tế tửu tham gia giảng dạy tại trường. Để đảm nhiệm được trọng trách trên, ngay từ đầu khi tuyển chọn nhân sự cho Quốc Tử Giám, triều đình thường chọn những bậc tài năng, đạo cao đức trọng. Bởi họ không chỉ là nhà quản lý về giáo dục, mà còn là những nhà giáo mẫu mực, là những trụ cột quốc gia giúp triều đình trong việc “trị quốc, bình thiên hạ”, là những cây đại thụ trong nền văn hóa. Với tài năng, Nguyễn Thuyên đã ghi tên mình vào hàng những học quan danh tiếng triều Nguyễn. Ảnh minh họa. Theo ghi chép của dòng họ Nguyễn tộc lục chi ở thôn Cựu Hào, Tế tửu Nguyễn Thuyên có 4 người con đều đỗ Tú tài là: Nguyễn Khâm, Tú Đoán, Tú Tương và Ấm Thừa. Ông cũng có người cháu gọi bằng ông họ là Nguyễn Văn Tính đỗ Tiến sĩ khoa thi Tân Sửu (1901) năm Thành Thái thứ 13, cùng khoa với Phan Chu Trinh và Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Họ Nguyễn thôn Cựu Hào được đánh giá là dòng họ khoa bảng nổi tiếng ở Nam Định. Từ xa xưa, dòng họ này đã tạo dựng truyền thống hiếu học, hành đạo với 2 nghề cao quý là nghề dạy học và nghề thầy thuốc. Theo cuốn gia phả do Nguyễn Thuyên viết năm Kỷ Dậu 1849 (năm Tự Đức thứ 2), dòng họ Nguyễn lục chi Cựu Hào được khởi nguồn từ Tổ Pháp chính công rời đất Bạch Mai (Hà Nội) về lập nghiệp tại làng Cựu Hào vào đời Hồng Đức thứ 33 ở thế kỷ thứ 15. Quan tả Mạc Nguyễn Sưởng đời thứ 10 sinh được 6 người con trai, 3 người con gái. Một bà con gái được nhà vua ban cho tên là Liên Hoa công chúa, là tổ cô của dòng họ. Từ đây, dòng họ được phân chia thành 6 chi ngành. Trong thời Lê trung hưng và thời Nguyễn, dòng họ này tại làng Cựu Hào có 1 Tiến sĩ, 2 Cử nhân, 1 Ngự y và 6 Tú tài. Mở đầu nghề làm thuốc là cụ Nguyễn Truyền, được cha là Nguyễn Xưởng cho theo học nghề y và trở thành một danh y đương thời. Năm Canh Thân 1888, nhà vua bị bệnh hiểm nghèo, nghe tin họ Nguyễn Cựu Hào có người làm thuốc giỏi đã cho chiếu xuống vời vào cung. Cụ Định và 2 người con vào triều chữa khỏi bệnh cho nhà vua, triều đình muốn giữ cả 3 người ở trong cung, nhưng cụ đã thoái từ và cho con là Nguyễn Phối ở lại chữa bệnh cho hoàng tộc. Năm 1888, vua Thành Thái phong cho cụ Nguyễn Phối là Điều Hộ, năm 1890 phong làm Ngự y. Khu lăng mộ Nguyễn tộc lục chi ở Vụ Bản (Nam Định). Lễ rước làng Cựu Hào. Hiện nay, từ đường dòng họ Nguyễn làng Cựu Hào còn giữ được nhiều kỷ vật quý của nhà vua phong tặng như sắc phong, đại tự, kim khánh tự đức khâm sai, chữ vàng, tiết hạnh khả phong. Tại Cựu Hào, Tế tửu Nguyễn Thuyên được nhân dân tôn là Thành hoàng làng. Mới đây, vào cuối tháng 11/2022 thôn Cựu Hào đã tôn tạo ngôi đền. Hiện ngôi đền tọa ở đầu làng, trải qua nhiều lần trùng tu vẫn giữ được kiến trúc truyền thống. Đền có 3 cung, lưu giữ nhiều câu đối, sắc phong của các đời vua ban tặng.
Chiếc máy bay chở 72 hành khách và phi hành đoàn đã gặp nạn tại sân bay Pokhara, Nepal hôm nay (15/1), khiến ít nhất 40 người thiệt mạng. Trang NDTV của Ấn Độ dẫn thông tin từ hãng hàng không Yeti Airlines cho hay, chiếc máy bay khi gặp nạn đang chở theo 68 hành khách và 4 thành viên phi hành đoàn. Các cơ quan chức năng Nepal sau khi có mặt ở hiện trường đã khẩn trương triển khai việc cứu hộ, và đưa ít nhất 40 thi thể hành khách khỏi thân chiếc máy bay xấu số. Lực lượng cứu hộ Nepal có mặt ở hiện trường vụ tai nạn. Ảnh: NDTV “Chúng tôi vẫn chưa rõ liệu có còn ai sống sót hay không”, phát ngôn viên hãng hàng không Yeti, ông Sudarshan Bartaula nói. “Chiếc máy bay gặp nạn mang số hiệu 9N-ANC ATR-72 đã xuất phát từ sân bay thủ đô Kathmandu vào lúc 10h33 (giờ địa phương). Trong lúc hạ cánh xuống sân bay Pokhara, chiếc máy bay đâm xuống bờ sông Seti, khu vực nằm giữa hai phần sân bay cũ và mới”, thông cáo từ Cơ quan hàng không dân dụng Nepal viết. Theo tờ Bưu điện New York, tai nạn hàng không thường xuyên xảy ra ở Nepal, quốc gia có 8/14 ngọn núi cao nhất thế giới. Do có địa hình cao hơn mực nước biển hàng nghìn mét, nên khí hậu ở quốc gia này thường thay đổi đột ngột và phát sinh các điều kiện thời tiết bất thường dẫn đến các vụ tai nạn hàng không. Tuấn Trần
The plane carrying 72 passengers and crew crashed at Pokhara airport, Nepal today (January 15), killing at least 40 people. NDTV's page India Citing information from Yeti Airlines, the plane was carrying 68 passengers and 4 crew members when it crashed. Nepalese authorities, after arriving at the scene, urgently carried out rescue work, and removed at least 40 bodies of passengers from the body of the ill-fated plane. Nepalese rescue forces are present at the scene of the accident. Photo: NDTV "We still don't know if there are any survivors," Yeti airline spokesman Sudarshan Bartaula said. “The accident plane, number 9N-ANC ATR-72, departed from Kathmandu airport at 10:33 a.m. (local time). While landing at Pokhara airport, the plane crashed on the bank of the Seti River, the area between the old and new airport parts," a statement from the Nepal Civil Aviation Authority wrote. According to the New York Post, aviation accidents often occur in Nepal, a country with eight of the world's 14 highest mountains. Due to the terrain thousands of meters above sea level, the climate in this country often changes suddenly and creates unusual weather conditions leading to aviation accidents. Tuan Tran
Cơn bão thứ 8 liên tiếp đã đổ bộ vào bang California ( Mỹ ) hôm 14/1, khiến lũ lụt thêm nghiêm trọng tại các khu vực vốn đã ngập sâu, trong khi tiềm ẩn nguy cơ tuyết rơi dày đến 2m tại nhiều khu vực. Cảnh ngập lụt sau những trận mưa lớn do ảnh hưởng của bão tại Merced, California, Mỹ, ngày 10/1/2023. Ảnh: AFP/TTXVN. Cơ quan thời tiết quốc gia (NWS) cảnh báo trận bão sẽ gây ra “mưa lớn ở độ cao thấp hơn, tuyết rơi nhiều ở vùng núi và gió mạnh”, kéo theo “độ ẩm ở khu vực Thái Bình Dương tăng cao” vào ngày 16/1. NWS dự báo “lũ lụt thảm khốc” sẽ xảy ra trên khắp Thung lũng Salinas, đe dọa vùng nông nghiệp quan trọng ở phía Nam vịnh San Francisco. Sông Salinas đã tràn bờ tại nhiều điểm, thậm chí gây ngập lụt hàng trăm mét cánh đồng, trong khi các trận mưa vẫn chưa có dấu hiệu dứt. Hầu hết cư dân thuộc cộng đồng Spreckels, sống cách sông Salinas vài trăm mét, lựa chọn không sơ tán bất chấp cảnh báo từ chính quyền. Thống đốc bang California Gavin Newsom đã cảnh báo người dân rằng thời tiết khắc nghiệt vẫn sẽ tiếp diễn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống cư dân khu vực. Ông hối thúc người dân tiếp tục nâng cao cảnh giác và có “ý thức chung trong vòng 24-48 giờ tới.” Theo trang poweroutage.us, đến 23h30 (giờ địa phương) cùng ngày, khoảng 20.000 hộ gia đình không có điện sử dụng do ảnh hưởng bão. Bão tuyết dữ dội cũng gây cản trở hoạt động giao thông quanh khu vực nghỉ dưỡng Lake Tahoe nổi tiếng. Trong bối cảnh nguy cơ tuyết lở tăng cao, các quan chức kêu gọi người dân đề cao cảnh giác và hạn chế ra đường. Theo NWS, gần 26.000 người dân California vẫn đối mặt rủi ro lớn do lũ lụt, với hàng chục nghìn người được lệnh sơ tán. Các quan chức cho biết sau hạn hán kéo dài nhiều năm, những trận bão xảy ra trong các tuần vừa qua đang dẫn đến lũ lụt nặng nề. Ít nhất 19 người đã thiệt mạng vì các nguyên nhân liên quan đến bão. NWS cho biết thêm một lượng mưa từ 5-7,5cm có thể gây ra lũ lụt và các trận lở đất mới, với các khu vực của Sierra Nevada có thể ghi nhận lượng tuyết rơi dày từ 0,9-1,8m, trong khi gió mạnh tại khu vực miền Trung và ven biển California có thể đạt tốc độ lên đến 80km/h. Tiểu bang đông dân nhất của Mỹ đã hứng chịu những trận mưa như trút nước gần như kỷ lục trong 3 tuần qua, trong đó Thung lũng Salinas là một trong những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Hôm 13/1, các nhà dự báo thời tiết cảnh báo rằng Bán đảo Monterey có thể bị cắt điện trên diện rộng và toàn bộ thành phố Salinas – nơi sinh sống của 160.000 người – có thể chìm trong nước lũ. NWS cho biết thời tiết bất thường hiện nay ở bờ biển phía Tây có liên quan đến hiện tượng thời tiết kỳ lạ mang tên “sông khí quyển” (atmospheric river). Đó là những vùng hẹp có độ ẩm rất cao trong bầu khí quyển, có thể chứa lượng nước nhiều hơn sông Mississipi tới 15 lần. Bão mùa Đông là hiện tượng bất thường tại California. Nhưng khí hậu ấm lên do việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch không kiểm soát tại khu vực công nghiệp này đã gây bão lớn hơn và trên diện rộng hơn. Hoàng Châu
Storm 8th consecutive landfall in California ( America ) on January 14, causing more severe flooding in already deeply flooded areas, while there is a potential risk of snowfall up to 2 meters thick in many areas. Flooding scene after heavy rains due to storms in Merced, California, USA, January 10, 2023. Photo: AFP/TTXVN. The National Weather Service (NWS) warned that the storm would cause “heavy rain at lower elevations, heavy snowfall in the mountains and strong winds,” leading to “increased humidity in the Pacific region.” on January 16. NWS predicts “catastrophic flooding” across the Salinas Valley, threatening important agricultural areas south of the San Francisco Bay. The Salinas River has overflowed its banks at many points, even flooding hundreds of meters of fields, while the rains show no signs of ending. Most residents of the Spreckels community, living a few hundred meters from the Salinas River, chose not to evacuate despite warnings from authorities. California Governor Gavin Newsom has warned people that severe weather will continue, seriously affecting the lives of area residents. He urged people to continue to increase vigilance and have "common sense in the next 24-48 hours." According to poweroutage.us, by 11:30 p.m. (local time) the same day, about 20,000 households had no electricity due to the storm. Snow storm The storm also disrupted traffic around the popular Lake Tahoe resort area. In the context of increased avalanche risk, officials urged people to be vigilant and limit going out. According to NWS, nearly 26,000 Californians remain at great risk from flooding, with tens of thousands ordered to evacuate. After years of drought, storms in recent weeks are leading to heavy flooding, officials said. At least 19 people died from storm-related causes. A further 5-7.5cm of rain could cause flooding and new mudslides, with areas of the Sierra Nevada possibly recording 0.9-1.8m of snowfall, NWS said. while strong winds in central and coastal California can reach speeds of up to 80km/h. America's most populous state has been hit by near-record torrential rains over the past three weeks, with the Salinas Valley among the hardest hit. On January 13, forecasters warned that the Monterey Peninsula could suffer widespread power outages and that the entire city of Salinas - home to 160,000 people - could be submerged in floodwaters. The NWS said the current unusual weather on the West Coast is related to a strange weather phenomenon called "atmospheric river". These are narrow areas of very high humidity in the atmosphere, which can hold up to 15 times more water than the Mississippi River. Winter storms are an unusual phenomenon in California. But a warming climate due to uncontrolled fossil fuel use in this industrial region has caused larger and more widespread storms. Hoang Chau
Ông Gianni Infantino sẽ có mặt tại sân Thammasat, xem trận chung kết lượt về và trao Cup cho nhà vô địch AFF Cup 2022. * Thái Lan – Việt Nam: 19h30 thứ Hai ngày 16/1 Thông tin được Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá Việt Nam Trần Quốc Tuấn xác nhận sáng nay 15/1. Theo đó, ông Infantino đến dự theo lời mời của Liên đoàn Bóng đá Đông Nam Á. Cặp đấu Việt Nam – Thái Lan được coi là “chung kết trong mơ” của Đông Nam Á, khi có nhiều duyên nợ và mạnh nhất khu vực trong khoảng năm năm gần đây. Tuy nhiên, AFF Cup không thuộc hệ thống thi đấu của FIFA. Vì vậy, từng có nhiều cầu thủ nổi tiếng của Đông Nam Á không thể góp mặt ở giải đấu này do các CLB từ chối nhả người. Chanathip Songkrasin, Nguyễn Công Phượng hay Suphanat Mueanta… đều vắng mặt tại giải năm nay vì cùng lý do. Tiền vệ Nguyễn Quang Hải ban đầu cũng không được về nhưng đã chủ động xin CLB chủ quản Pau để hồi hương dự giải cuối cùng của HLV Park Hang-seo với tuyển Việt Nam. Chủ tịch FIFA Gianni Infantino (trái) và Chủ tịch VFF Trần Quốc Tuấn. Ở lượt đi trên sân Mỹ Đình ngày 13/1, hai đội hòa nhau 2-2. Việt Nam mở tỷ số nhờ cú đánh đầu của Nguyễn Tiến Linh, nhưng Thái Lan ghi liền hai bàn đầu hiệp hai đều từ các tình huống phát động tấn công của Theerathon Bunmathan. Chủ nhà thoát thua nhờ cú sút xa của cầu thủ vào thay người Vũ Văn Thanh phút 88. Trận chung kết lượt về diễn ra trên sân Thammasat vào lúc 19h30 ngày 16/1. AFF Cup 2022 áp dụng luật bàn sân khách nên Việt Nam ở thế bất lợi. Đội bóng của HLV Park Hang-seo phải thắng hoặc hoà từ ba bàn trở l. Nếu hòa 2-2 sau 90 phút, hai đội phải đá hiệp phụ và không còn tính bàn thắng sân khách trong thời gian này. Ở tuổi 52, Infantino đã thăng tiến mạnh mẽ từ Tổng thư ký UEFA lên vị trí quyền lực nhất bóng đá thế giới. Ông lần đầu được bổ nhiệm vào ghế chủ tịch FIFA năm 2016, thay thế Sepp Blatter – người bị cấm hoạt động bóng đá sáu năm do cáo buộc tham nhũng. Trong cuộc bầu cử năm 2016, Infantino đánh bại Chủ tịch Liên đoàn Bóng đá châu Á khi đó Sheikh Salman bin Ebrahim Al Khalifa. Đến năm 2019, Infantino tái đắc cử lần thứ nhất. Từ đó, ông chỉ đạo quá trình chuẩn bị cho World Cup 2026 tại Canada, Mexico và Mỹ, khi số lượng đội tham dự tăng lên 48. Infantino sẽ giữ cương vị thêm bốn năm, đến 2027, do là ứng viên duy nhất ở cuộc bầu cử vào tháng 3/2023.
Mr. Gianni Infantino will be present at Thammasat Stadium, watch the final second leg and award the Cup to the 2022 AFF Cup champion. * Thailand – Vietnam: 7:30 p.m. Monday, January 16 The information was confirmed by President of the Vietnam Football Federation Tran Quoc Tuan this morning, January 15. Accordingly, Mr. Infantino attended at the invitation of the Southeast Asian Football Federation. Match pair Vietnam – Thailand It is considered the "dream final" of Southeast Asia, having many relationships and being the strongest in the region in the last five years. However, the AFF Cup is not part of FIFA's competition system. Therefore, there were many famous players from Southeast Asia who could not participate in this tournament because the clubs refused to release them. Chanathip Songkrasin, Nguyen Cong Phuong or Suphanat Mueanta... were all absent from this year's tournament for the same reason. Midfielder Nguyen Quang Hai was initially not allowed to return but proactively asked the parent club Pau to return home to attend coach Park Hang-seo's final tournament with Vietnam. FIFA President Gianni Infantino (left) and VFF President Tran Quoc Tuan. In the first leg at My Dinh Stadium on January 13, the two teams drew 2-2. Vietnam opened the score thanks to Nguyen Tien Linh's header, but Thailand scored two goals in the first half, both from attacks by Theerathon Bunmathan. The home team escaped defeat thanks to a long shot from substitute Vu Van Thanh in the 88th minute. The second leg of the final will take place at Thammasat Stadium at 7:30 p.m. on January 16. The 2022 AFF Cup applies the away goals rule, so Vietnam is at a disadvantage. Coach Park Hang-seo's team must win or draw by three or more goals. If there is a 2-2 draw after 90 minutes, the two teams must play extra time and away goals will no longer be counted during this time. At the age of 52, Infantino has risen strongly from UEFA General Secretary to the most powerful position in world football. He was first appointed to the FIFA presidency in 2016, replacing Sepp Blatter - who was banned from football activities for six years due to corruption allegations. In the 2016 election, Infantino defeated then-Asian Football Confederation President Sheikh Salman bin Ebrahim Al Khalifa. In 2019, Infantino was re-elected for the first time. From there, he directed preparations for the 2026 World Cup in Canada, Mexico and the United States, when the number of participating teams increased to 48. Infantino will hold his position for another four years, until 2027, because he is the only candidate in the election in March 2023.
WEF 2023 là cơ hội để Việt Nam chia sẻ về việc chung tay giải quyết các thách thức toàn cầu đang nổi lên, những thực tiễn tốt về chính sách và kinh nghiệm của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. (Ảnh: THX/TTXVN) Nhân dịp Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế Thế giới lần thứ 53 (WEF 53) ở Davos ( Thụy Sĩ ) trong các ngày 16-17/1, đã có cuộc phỏng vấn Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Geneva, về nội dung và ý nghĩa của sự kiện này cũng như những đóng góp của đoàn Việt Nam tại hội nghị. Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai cho biết sau hơn nửa năm kể từ Hội nghị thường niên WEF ở Davos lần thứ 52 lần đầu tiên được tổ chức vào mùa Hè (tháng 5/2022) do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Hội nghị thường niên WEF lần thứ 53 đã quay trở lại với khung thời gian thường lệ là tháng 1 hằng năm. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức, khủng hoảng, như khủng hoảng chi phí sinh hoạt, suy thoái kinh tế, chiến tranh kinh tế, khủng hoảng khí hậu, sự gián đoạn hành động ứng phó biến đổi khí hậu, khủng hoảng lương thực và sự gia tăng phân cực xã hội; đồng thời nhiều khủng hoảng đang làm sâu sắc thêm sự chia rẽ và chia cắt bối cảnh địa chính trị. Điều này đang đặt ra yêu cầu các nhà lãnh đạo phải giải quyết các nhu cầu quan trọng và tức thời của người dân, đồng thời phải đặt nền móng cho một thế giới bền vững, tự cường hơn vào cuối thập kỷ này. Vào thời điểm then chốt của thế giới như vậy, Hội nghị thường niên WEF 2023 mang chủ đề “Hợp tác trong một thế giới phân mảnh,” sẽ quy tụ hơn 2.700 nhà lãnh đạo từ các chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Mục tiêu của Hội nghị, theo lời của người sáng lập và Chủ tịch điều hành WEF, Giáo sư Klaus Schwab, là nhằm thảo luận các cách thức giải quyết sự phân mảnh và xói mòn lòng tin gia tăng ở cả cấp độ toàn cầu và cấp độ quốc gia thông qua tăng cường hợp tác giữa các chính phủ và doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sự phục hồi mạnh mẽ và bền vững. Chương trình của Hội nghị năm nay tập trung vào các giải pháp và hợp tác công tư để giải quyết những thách thức cấp bách nhất của thế giới, khuyến khích các nhà lãnh đạo trên thế giới hợp tác với nhau về các vấn đề liên quan đến năng lượng, khí hậu và tự nhiên; đầu tư, thương mại và cơ sở hạ tầng; công nghệ tiên tiến và khả năng phục hồi của ngành; việc làm, kỹ năng, các vấn đề xã hội và sức khỏe; cũng như hợp tác địa chính trị trong một thế giới đa cực. Theo Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai, trong bối cảnh chính trị và kinh tế thế giới có nhiều khủng hoảng và thách thức, Việt Nam nổi lên và được thế giới thừa nhận là một điểm sáng của khu vực và quốc tế, không chỉ với cam kết mạnh mẽ và triển khai nhất quán chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi số nhằm hồi phục sau đại dịch và phát triển bền vững, mà còn đạt được những kết quả ấn tượng: tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức cao nhất trong 12 năm qua, quy mô nền kinh tế lần đầu tiên vượt 400 tỷ USD và xếp thứ 30 trên thế giới; quy mô thương mại đứng thứ 23 trên thế giới và trở thành đối tác thương mại lớn nhất trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN ) của 3 trung tâm kinh tế ( Mỹ , Trung Quốc , EU ). Tăng trưởng kinh tế năm 2023 của Việt Nam được dự báo đạt 6,3%, dẫn đầu các nước Đông Nam Á. Do đó, Hội nghị WEF 2023 là cơ hội để Việt Nam chia sẻ tầm nhìn với cộng đồng quốc tế về việc chung tay giải quyết các thách thức toàn cầu đang nổi lên, những thực tiễn tốt về chính sách và kinh nghiệm của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế-xã hội, cũng như thu hút đầu tư, nguồn lực, xúc tiến thương mại… với các tổ chức quốc tế, các tập đoàn, quỹ đầu tư quốc tế và tại Thụy Sĩ. Tham dự Hội nghị WEF năm nay từ ngày 16-17/1, cũng là chuyến công tác nước ngoài đầu tiên từ khi được bổ nhiệm, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà sẽ dự và phát biểu tại các phiên thảo luận tập trung vào an ninh lương thực, bao gồm Phiên thảo luận của Liên minh Hành động lương thực “Đầu tư củng cố tính tự cường,” Phiên họp về “Kết nối lương thực-năng lượng-nguồn nước.” Đây sẽ là bước đệm tốt để thu hút sự quan tâm và chú ý của cộng đồng quốc tế về an ninh lương thực trước khi Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị toàn cầu lần thứ 4 Hệ thống lương thực thực phẩm bền vững vào tháng 4/2023. Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng sẽ đồng Chủ trì “Tọa đàm doanh nghiệp toàn cầu Việt Nam – WEF: Hành trình chuyển đổi xanh, sáng tạo,” tập trung vào các chủ đề kinh tế xanh và đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, cũng trong khuôn khổ Hội nghị, Phó Thủ tướng sẽ có các cuộc tiếp xúc song phương với Người sáng lập và Chủ tịch điều hành WEF – Giáo sư Klaus Schwab, Tổng Giám đốc Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) Achim Steiner, Tổng Giám đốc điều hành của Ngân hàng Thế giới Axel van Trotsenburg và một số nhà lãnh đạo khác. Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai cho biết từ khi Việt Nam và WEF thiết lập quan hệ năm 1989, hợp tác giữa Việt Nam và WEF được lãnh đạo hai bên quan tâm thúc đẩy, phát triển trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã tham dự Hội nghị thường niên WEF Davos ở cấp cao, trong đó 4 lần tham dự Hội nghị thường niên WEF Davos ở cấp Thủ tướng Chính phủ (2007, 2010, 2017, 2019); 4 lần tham dự Hội nghị WEF ASEAN (trước năm 2016 là WEF Đông Á) ở cấp Thủ tướng Chính phủ (2012, 2013, 2014 và 2017). Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị WEF ASEAN 2018 tại Hà Nội từ ngày 11-13/9/2018, Hội nghị WEF-Mekong lần đầu tiên ngày 25/10/2016 tại Hà Nội và Hội nghị WEF Đông Á từ 6-7/6/2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai. (Ảnh: TTXVN phát) Cùng với ứng phó đại dịch COVID-19, cuộc Đối thoại Chiến lược quốc gia giữa Việt Nam và WEF lần thứ nhất (ngày 29/10/2021) được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến với chủ đề “Tăng cường quan hệ đối tác công tư: Động lực then chốt của phục hồi toàn diện và phát triển bền vững, bao trùm, đổi mới sáng tạo.” Hai bên cũng đang tích cực thảo luận dự thảo để đi đến ký kết Thỏa thuận hợp tác Việt Nam -WEF giai đoạn mới, tạo khuôn khổ cho các hợp tác sâu rộng hơn nữa giữa hai bên nhằm đáp ứng yêu cầu của bối cảnh hiện nay. Việt Nam luôn trân trọng và đánh giá cao việc WEF luôn quan tâm đề xuất và triển khai nhiều sáng kiến hợp tác với các cơ quan Chính phủ Việt Nam trên các lĩnh vực phát triển bền vững, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, và mong muốn trong thời gian tới Diễn đàn tiếp tục hỗ trợ Việt Nam tiếp cận tri thức và nguồn lực tiên tiến nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững và tận dụng hiệu quả các động lực tăng trưởng mới. Tham dự Hội nghị WEF, Đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà dẫn đầu đã chuẩn bị đầy đủ, chu đáo cả về nội dung và hậu cần. Lịch trình của Đoàn dày đặc các hoạt động, trong đó bao gồm hơn chục cuộc họp đa phương và song phương thảo luận về các chủ đề trọng tâm của Hội nghị, được thế giới quan tâm và phù hợp với lợi ích của ta như an ninh lương thực, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo, và phát triển bền vững… Sự tham dự của Đoàn Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà thể hiện rõ nỗ lực của Việt Nam, một quốc gia đang phát triển đầy năng động, tích cực, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, tham gia giải quyết các thách thức toàn cầu./.
WEF 2023 là cơ hội để Việt Nam chia sẻ về việc chung tay giải quyết các thách thức toàn cầu đang nổi lên, những thực tiễn tốt về chính sách và kinh nghiệm của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. (Ảnh: THX/TTXVN) Nhân dịp Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế Thế giới lần thứ 53 (WEF 53) ở Davos ( Thụy Sĩ ) trong các ngày 16-17/1, đã có cuộc phỏng vấn Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Geneva, về nội dung và ý nghĩa của sự kiện này cũng như những đóng góp của đoàn Việt Nam tại hội nghị. Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai cho biết sau hơn nửa năm kể từ Hội nghị thường niên WEF ở Davos lần thứ 52 lần đầu tiên được tổ chức vào mùa Hè (tháng 5/2022) do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Hội nghị thường niên WEF lần thứ 53 đã quay trở lại với khung thời gian thường lệ là tháng 1 hằng năm. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức, khủng hoảng, như khủng hoảng chi phí sinh hoạt, suy thoái kinh tế, chiến tranh kinh tế, khủng hoảng khí hậu, sự gián đoạn hành động ứng phó biến đổi khí hậu, khủng hoảng lương thực và sự gia tăng phân cực xã hội; đồng thời nhiều khủng hoảng đang làm sâu sắc thêm sự chia rẽ và chia cắt bối cảnh địa chính trị. Điều này đang đặt ra yêu cầu các nhà lãnh đạo phải giải quyết các nhu cầu quan trọng và tức thời của người dân, đồng thời phải đặt nền móng cho một thế giới bền vững, tự cường hơn vào cuối thập kỷ này. Vào thời điểm then chốt của thế giới như vậy, Hội nghị thường niên WEF 2023 mang chủ đề “Hợp tác trong một thế giới phân mảnh,” sẽ quy tụ hơn 2.700 nhà lãnh đạo từ các chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Mục tiêu của Hội nghị, theo lời của người sáng lập và Chủ tịch điều hành WEF, Giáo sư Klaus Schwab, là nhằm thảo luận các cách thức giải quyết sự phân mảnh và xói mòn lòng tin gia tăng ở cả cấp độ toàn cầu và cấp độ quốc gia thông qua tăng cường hợp tác giữa các chính phủ và doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sự phục hồi mạnh mẽ và bền vững. Chương trình của Hội nghị năm nay tập trung vào các giải pháp và hợp tác công tư để giải quyết những thách thức cấp bách nhất của thế giới, khuyến khích các nhà lãnh đạo trên thế giới hợp tác với nhau về các vấn đề liên quan đến năng lượng, khí hậu và tự nhiên; đầu tư, thương mại và cơ sở hạ tầng; công nghệ tiên tiến và khả năng phục hồi của ngành; việc làm, kỹ năng, các vấn đề xã hội và sức khỏe; cũng như hợp tác địa chính trị trong một thế giới đa cực. Theo Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai, trong bối cảnh chính trị và kinh tế thế giới có nhiều khủng hoảng và thách thức, Việt Nam nổi lên và được thế giới thừa nhận là một điểm sáng của khu vực và quốc tế, không chỉ với cam kết mạnh mẽ và triển khai nhất quán chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi số nhằm hồi phục sau đại dịch và phát triển bền vững, mà còn đạt được những kết quả ấn tượng: tăng trưởng GDP đạt 8,02%, mức cao nhất trong 12 năm qua, quy mô nền kinh tế lần đầu tiên vượt 400 tỷ USD và xếp thứ 30 trên thế giới; quy mô thương mại đứng thứ 23 trên thế giới và trở thành đối tác thương mại lớn nhất trong Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN ) của 3 trung tâm kinh tế ( Mỹ , Trung Quốc , EU ). Tăng trưởng kinh tế năm 2023 của Việt Nam được dự báo đạt 6,3%, dẫn đầu các nước Đông Nam Á. Do đó, Hội nghị WEF 2023 là cơ hội để Việt Nam chia sẻ tầm nhìn với cộng đồng quốc tế về việc chung tay giải quyết các thách thức toàn cầu đang nổi lên, những thực tiễn tốt về chính sách và kinh nghiệm của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế-xã hội, cũng như thu hút đầu tư, nguồn lực, xúc tiến thương mại… với các tổ chức quốc tế, các tập đoàn, quỹ đầu tư quốc tế và tại Thụy Sĩ. Tham dự Hội nghị WEF năm nay từ ngày 16-17/1, cũng là chuyến công tác nước ngoài đầu tiên từ khi được bổ nhiệm, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà sẽ dự và phát biểu tại các phiên thảo luận tập trung vào an ninh lương thực, bao gồm Phiên thảo luận của Liên minh Hành động lương thực “Đầu tư củng cố tính tự cường,” Phiên họp về “Kết nối lương thực-năng lượng-nguồn nước.” Đây sẽ là bước đệm tốt để thu hút sự quan tâm và chú ý của cộng đồng quốc tế về an ninh lương thực trước khi Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị toàn cầu lần thứ 4 Hệ thống lương thực thực phẩm bền vững vào tháng 4/2023. Bên cạnh đó, Phó Thủ tướng sẽ đồng Chủ trì “Tọa đàm doanh nghiệp toàn cầu Việt Nam – WEF: Hành trình chuyển đổi xanh, sáng tạo,” tập trung vào các chủ đề kinh tế xanh và đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, cũng trong khuôn khổ Hội nghị, Phó Thủ tướng sẽ có các cuộc tiếp xúc song phương với Người sáng lập và Chủ tịch điều hành WEF – Giáo sư Klaus Schwab, Tổng Giám đốc Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) Achim Steiner, Tổng Giám đốc điều hành của Ngân hàng Thế giới Axel van Trotsenburg và một số nhà lãnh đạo khác. Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai cho biết từ khi Việt Nam và WEF thiết lập quan hệ năm 1989, hợp tác giữa Việt Nam và WEF được lãnh đạo hai bên quan tâm thúc đẩy, phát triển trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã tham dự Hội nghị thường niên WEF Davos ở cấp cao, trong đó 4 lần tham dự Hội nghị thường niên WEF Davos ở cấp Thủ tướng Chính phủ (2007, 2010, 2017, 2019); 4 lần tham dự Hội nghị WEF ASEAN (trước năm 2016 là WEF Đông Á) ở cấp Thủ tướng Chính phủ (2012, 2013, 2014 và 2017). Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị WEF ASEAN 2018 tại Hà Nội từ ngày 11-13/9/2018, Hội nghị WEF-Mekong lần đầu tiên ngày 25/10/2016 tại Hà Nội và Hội nghị WEF Đông Á từ 6-7/6/2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đại sứ Lê Thị Tuyết Mai. (Ảnh: TTXVN phát) Cùng với ứng phó đại dịch COVID-19, cuộc Đối thoại Chiến lược quốc gia giữa Việt Nam và WEF lần thứ nhất (ngày 29/10/2021) được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến với chủ đề “Tăng cường quan hệ đối tác công tư: Động lực then chốt của phục hồi toàn diện và phát triển bền vững, bao trùm, đổi mới sáng tạo.” Hai bên cũng đang tích cực thảo luận dự thảo để đi đến ký kết Thỏa thuận hợp tác Việt Nam -WEF giai đoạn mới, tạo khuôn khổ cho các hợp tác sâu rộng hơn nữa giữa hai bên nhằm đáp ứng yêu cầu của bối cảnh hiện nay. Việt Nam luôn trân trọng và đánh giá cao việc WEF luôn quan tâm đề xuất và triển khai nhiều sáng kiến hợp tác với các cơ quan Chính phủ Việt Nam trên các lĩnh vực phát triển bền vững, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, và mong muốn trong thời gian tới Diễn đàn tiếp tục hỗ trợ Việt Nam tiếp cận tri thức và nguồn lực tiên tiến nhằm phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững và tận dụng hiệu quả các động lực tăng trưởng mới. Tham dự Hội nghị WEF, Đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà dẫn đầu đã chuẩn bị đầy đủ, chu đáo cả về nội dung và hậu cần. Lịch trình của Đoàn dày đặc các hoạt động, trong đó bao gồm hơn chục cuộc họp đa phương và song phương thảo luận về các chủ đề trọng tâm của Hội nghị, được thế giới quan tâm và phù hợp với lợi ích của ta như an ninh lương thực, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo, và phát triển bền vững… Sự tham dự của Đoàn Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà thể hiện rõ nỗ lực của Việt Nam, một quốc gia đang phát triển đầy năng động, tích cực, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, tham gia giải quyết các thách thức toàn cầu./.
Đội tuyển Việt Nam không chơi tốt ở trận chung kết lượt đi AFF Cup 2022 trước Thái Lan, nhưng thể thức hai lượt cho phép thầy trò HLV Park Hang-seo có cơ hội sửa chữa sai lầm trong với một “thế cờ” hoàn toàn mới mẻ trước đối thủ vào ngày 16/1 tới. Các thành viên đội tuyển Việt Nam cảm ơn người hâm mộ đến với sân Mỹ Đình trận chung kết lượt đi hôm 13/1. (Ảnh: TRẦN HẢI). Đội tuyển Thái Lan luôn là đối thủ khó khăn với Việt Nam , dù đội bóng có biệt danh “Chiến binh sao vàng” đã đạt đến những đỉnh cao chưa từng có dưới thời HLV Park Hang-seo. Minh chứng là 4 lần đối đầu gần nhất trước trận chung kết lượt đi, đội tuyển Việt Nam không thắng (3 hòa, 1 thua), thậm chí không có bàn thắng nào vào lưới Thái Lan. Ngay cả khi, đó còn là giai đoạn đội tuyển Thái Lan sử dụng 2 HLV khác nhau (Akira Nishino và Alexandre Polking) và bước qua giai đoạn biến động. Tại AFF Cup 2022, đội tuyển Thái Lan còn khó khăn hơn khi vắng tới 6 cầu thủ quan trọng, trong đó tiêu biểu là ngôi sao Chanathip Songkrasin. Ở chiều ngược lại, đội tuyển Việt Nam có đủ hầu hết những quân bài HLV Park Hang-seo luôn tin tưởng. Ngoại trừ trường hợp Nguyễn Công Phượng không tập trung do bận cùng CLB Yokohama FC của Nhật Bản, gần như thầy Park không còn thiếu nhân sự nào. Tuy nhiên, một đội tuyển Thái Lan khiếm khuyết và chắp vá đã chơi rất tốt ở trận chung kết lượt đi với đội tuyển Việt Nam. HLV Polking đã sắp xếp nhân sự và cách tiếp cận khôn ngoan, phù hợp với lực lượng của “Voi chiến”. Đội hình 5-3-2 với bộ ba trung vệ Kritsada Kaman, Pansa Hemviboon và Weerathep Pomphan đá giăng ngang, hỗ trợ cho 3 tiền vệ trung tâm Theerathon Bunmathan, Sarach Yooyen và Peeradon Chamratsamee. Khác với lối chơi tấn công thường thấy, đội tuyển Thái Lan chọn cách tiếp cận khôn ngoan hơn khi đá thiên về phòng ngự, chơi với cự ly đội hình gần nhau để sẵn sàng bọc lót và luôn duy trì khả năng kiểm soát, luân chuyển bóng nhuần nhuyễn nhờ khả năng điều tiết của Theerathon. Chính Theerathon là ngôi sao sáng nhất của đội tuyển Thái Lan ở trận chung kết lượt đi với 2 đường chuyền thông minh cho đồng đội ghi bàn. Hệ thống phòng ngự của đội tuyển Việt Nam chưa thủng lưới bàn nào từ đầu giải, nhưng đã để Theerathon khuất phục với những pha kiến tạo khôn khéo, khai thác những khoảng trống nhỏ. Theerathon Bunmathan gây ra không ít khó khăn cho tuyến giữa đội tuyển Việt Nam. (Ảnh: TRẦN HẢI) Điểm sáng nhất của đội tuyển Thái Lan, không phải yếu tố chiến thuật, mà chính là thái độ ung dung, điềm tĩnh, thậm chí đủng đỉnh dù bị thủng lưới trước và phải chơi trên sân khách. Tâm thế của đội tuyển Thái Lan đến từ gần 2 thập kỷ thống trị sân chơi Đông Nam Á, bên cạnh lối chơi nhuần nhuyễn và niềm tin vững vàng vào triết lý thi đấu. Đội tuyển Thái Lan hiểu rằng, nếu tuân thủ chiến thuật, kiên trì kiểm soát và giữ cường độ tấn công, bàn thắng chỉ là vấn đề sớm muộn. Đội tuyển Việt Nam lại không có yếu tố này. Các học trò của HLV Park Hang-seo chọn cách tiếp cận dường như sai lầm ở đầu hiệp 2, đó là không đẩy cao áp sát, điều này vô tình mở đường cho đội tuyển Thái Lan kiểm soát trận đấu tốt hơn. Khi nhận liên tiếp 2 bàn thua, Nguyễn Quang Hải cùng đồng đội đã bối rối, không giữ được cự ly đội hình và có nhiều pha xử lý hỏng. Trong buổi phỏng vấn sau trận và ở phát biểu mới nhất, HLV Park Hang-seo thừa nhận học trò đã có sai lầm. Tuy nhiên, quan trọng là đội tuyển Việt Nam còn trận đấu lượt về để sửa chữa. Thể thức có phần khác biệt của AFF Cup (đá chung kết hai lượt) so với các giải khác vô tình mở ra cơ hội làm lại cho thầy trò Park Hang-seo trên sân Thammasat của đội tuyển Thái Lan vào ngày 16/1 tới. Đội tuyển Việt Nam đã chơi trận bán kết lượt đi AFF Cup 2022 trong thế chịu trận trước đội tuyển Indonesia, để rồi thay đổi 180 độ trong màn tái đấu và thắng chung cuộc 2-0. Người hâm mộ cũng đang chờ đợi một màn “lột xác” tương tự khi đội tuyển Việt Nam chơi trận chung kết lượt về. Trong sai lầm ở trận lượt đi, những thiếu sót thuộc về cá nhân có thể khỏa lấp sớm bằng những cầu thủ chất lượng hơn, hay chính cá nhân ấy tự rút ra bài học để nâng cấp bản thân. Còn những sai lầm thuộc về tập thể như khả năng bẫy việt vị, duy trì áp lực đều đặn trong cả trận hay bảo đảm phong độ thi đấu dù chịu sức ép lớn,… HLV Park Hang-seo cùng học trò cần gấp rút sửa chữa. Với lực lượng dày dặn, ban huấn luyện còn nhiều nhân tố để chọn lựa, thay thế những cầu thủ đã chơi dưới phong độ ở giải này. Hàng tấn công là khu vực cần quan tâm hơn cả, bởi ngoài Nguyễn Tiến Linh, chưa một tiền vệ, tiền đạo Việt Nam nào ghi quá 1 bàn ở giải năm nay. Đội tuyển Việt Nam thiếu những phương án tấn công chất lượng và bài bản. HLV Park Hang-seo đã rèn cho học trò một số miếng đánh sở trường như chuyền dài vượt tuyến, hay đánh biên trả ngược tuyến hai, nhưng như thế là chưa đủ để thắng một trận chung kết đỉnh cao. Tiến Linh vẫn là điểm sáng hiếm hoi trên hàng công. (Ảnh: TRẦN HẢI) Dưới thời HLV Park Hang-seo, đội tuyển Việt Nam đã trưởng thành, minh chứng là thành công ở Asian Cup hay vòng loại World Cup, nhưng đây mới là trận chung kết thứ hai ông cùng học trò trải nghiệm ở cấp đội tuyển quốc gia, sau trận chung kết AFF Cup 2018 mà đối thủ Malaysia khi ấy chẳng thể sánh bằng Thái Lan hiện tại ở độ tinh quái, lão luyện. Do đó, nhiệm vụ cần thiết trước mắt là HLV Park Hang-seo phải tháo gỡ nút thắt tâm lý cho học trò. Ông Park nói nhiều cầu thủ đã rời vị trí bởi những tác động bên lề ở trận lượt đi. Vậy còn trận lượt về trên sân khách với áp lực còn lớn hơn thế thì sao? Đây là lúc khả năng “đắc nhân tâm” và thúc đẩy tinh thần cầu thủ của HLV Park Hang-seo cần được thể hiện. Bởi nên nhớ, tinh thần đóng vai trò rất quan trọng. Chỉ khi cái đầu thông thoáng, đội tuyển Việt Nam mới có thể xử lý chuẩn xác dẫu chịu sức ép lớn cỡ nào. Chúng tôi không bao giờ bỏ cuộc và tôi muốn cảm ơn các cầu thủ vì đã nỗ lực hết mình cho đến giây phút cuối cùng. Tôi chưa từng hứa điều gì nhưng có một điều chắc chắn: Chúng tôi sẽ làm tất cả để có thể mang chức vô địch trở về quê nhà. HLV Park Hang-Seo tuyên bố Ông Park từng nhiều lần nói đến khái niệm “tinh thần Việt Nam”. Tinh thần ấy rất khó cắt nghĩa, nhưng có rất nhiều ví dụ cụ thể về sức chiến đấu tiềm tàng dưới thời HLV Park Hang-seo, mà màn “ngược gió” trên đất Thường Châu (Trung Quốc) ở đội U23 Việt Nam năm nào là một điển hình. Sân Thammasat của Thái Lan ngày 16/1 tới sẽ không có mưa tuyết khắc nghiệt như chung kết U23 châu Á 2018, nhưng các cầu thủ cần chơi với nhuệ khí và niềm tin ấy để đảo ngược tình thế. Sau cùng, tài thao lược của HLV Park Hang-seo là chiếc chìa khóa mở ra chiến thắng. “Chúng ta thắng 1-0 là vô địch mà, tại sao phải bi quan?”, ông Park đặt ngược câu hỏi cho báo giới. Câu hỏi ấy thể hiện tư duy rất mạch lạc của HLV Park Hang-seo, rằng ở trận chung kết lượt đi, đội tuyển Việt Nam dù có chơi kém, nhưng kết quả chung cuộc vẫn là hòa. Trận hòa lượt đi đồng nghĩa thế cục vẫn rất mở cho 2 đội ở trận lượt về. HLV Park Hang-seo có cơ hội và thời gian để sửa sai, bày biện cho học trò một chiến lược mới, vốn không liên quan đến cách chơi cũ. Ở thể thức đấu cúp, đội mạnh hơn chưa chắc đã thắng, quan trọng là khả năng điều chỉnh và thích nghi. HLV Park Hang-seo đã thấm nhuần điều này sau 5 năm cầm quân ở Đông Nam Á. Chất quái cùng kinh nghiệm dạn dày của thầy Park sẽ ngăn đối thủ có thể bắt bài, đọc vị ông tới 2 lần chỉ trong ít ngày. Cùng chờ đẳng cấp của HLV Park Hang-seo và bản lĩnh của cầu thủ giúp đội tuyển Việt Nam làm nên chuyện trước Thái Lan trong màn tái đấu tới.
Đội tuyển Việt Nam không chơi tốt ở trận chung kết lượt đi AFF Cup 2022 trước Thái Lan, nhưng thể thức hai lượt cho phép thầy trò HLV Park Hang-seo có cơ hội sửa chữa sai lầm trong với một “thế cờ” hoàn toàn mới mẻ trước đối thủ vào ngày 16/1 tới. Các thành viên đội tuyển Việt Nam cảm ơn người hâm mộ đến với sân Mỹ Đình trận chung kết lượt đi hôm 13/1. (Ảnh: TRẦN HẢI). Đội tuyển Thái Lan luôn là đối thủ khó khăn với Việt Nam , dù đội bóng có biệt danh “Chiến binh sao vàng” đã đạt đến những đỉnh cao chưa từng có dưới thời HLV Park Hang-seo. Minh chứng là 4 lần đối đầu gần nhất trước trận chung kết lượt đi, đội tuyển Việt Nam không thắng (3 hòa, 1 thua), thậm chí không có bàn thắng nào vào lưới Thái Lan. Ngay cả khi, đó còn là giai đoạn đội tuyển Thái Lan sử dụng 2 HLV khác nhau (Akira Nishino và Alexandre Polking) và bước qua giai đoạn biến động. Tại AFF Cup 2022, đội tuyển Thái Lan còn khó khăn hơn khi vắng tới 6 cầu thủ quan trọng, trong đó tiêu biểu là ngôi sao Chanathip Songkrasin. Ở chiều ngược lại, đội tuyển Việt Nam có đủ hầu hết những quân bài HLV Park Hang-seo luôn tin tưởng. Ngoại trừ trường hợp Nguyễn Công Phượng không tập trung do bận cùng CLB Yokohama FC của Nhật Bản, gần như thầy Park không còn thiếu nhân sự nào. Tuy nhiên, một đội tuyển Thái Lan khiếm khuyết và chắp vá đã chơi rất tốt ở trận chung kết lượt đi với đội tuyển Việt Nam. HLV Polking đã sắp xếp nhân sự và cách tiếp cận khôn ngoan, phù hợp với lực lượng của “Voi chiến”. Đội hình 5-3-2 với bộ ba trung vệ Kritsada Kaman, Pansa Hemviboon và Weerathep Pomphan đá giăng ngang, hỗ trợ cho 3 tiền vệ trung tâm Theerathon Bunmathan, Sarach Yooyen và Peeradon Chamratsamee. Khác với lối chơi tấn công thường thấy, đội tuyển Thái Lan chọn cách tiếp cận khôn ngoan hơn khi đá thiên về phòng ngự, chơi với cự ly đội hình gần nhau để sẵn sàng bọc lót và luôn duy trì khả năng kiểm soát, luân chuyển bóng nhuần nhuyễn nhờ khả năng điều tiết của Theerathon. Chính Theerathon là ngôi sao sáng nhất của đội tuyển Thái Lan ở trận chung kết lượt đi với 2 đường chuyền thông minh cho đồng đội ghi bàn. Hệ thống phòng ngự của đội tuyển Việt Nam chưa thủng lưới bàn nào từ đầu giải, nhưng đã để Theerathon khuất phục với những pha kiến tạo khôn khéo, khai thác những khoảng trống nhỏ. Theerathon Bunmathan gây ra không ít khó khăn cho tuyến giữa đội tuyển Việt Nam. (Ảnh: TRẦN HẢI) Điểm sáng nhất của đội tuyển Thái Lan, không phải yếu tố chiến thuật, mà chính là thái độ ung dung, điềm tĩnh, thậm chí đủng đỉnh dù bị thủng lưới trước và phải chơi trên sân khách. Tâm thế của đội tuyển Thái Lan đến từ gần 2 thập kỷ thống trị sân chơi Đông Nam Á, bên cạnh lối chơi nhuần nhuyễn và niềm tin vững vàng vào triết lý thi đấu. Đội tuyển Thái Lan hiểu rằng, nếu tuân thủ chiến thuật, kiên trì kiểm soát và giữ cường độ tấn công, bàn thắng chỉ là vấn đề sớm muộn. Đội tuyển Việt Nam lại không có yếu tố này. Các học trò của HLV Park Hang-seo chọn cách tiếp cận dường như sai lầm ở đầu hiệp 2, đó là không đẩy cao áp sát, điều này vô tình mở đường cho đội tuyển Thái Lan kiểm soát trận đấu tốt hơn. Khi nhận liên tiếp 2 bàn thua, Nguyễn Quang Hải cùng đồng đội đã bối rối, không giữ được cự ly đội hình và có nhiều pha xử lý hỏng. Trong buổi phỏng vấn sau trận và ở phát biểu mới nhất, HLV Park Hang-seo thừa nhận học trò đã có sai lầm. Tuy nhiên, quan trọng là đội tuyển Việt Nam còn trận đấu lượt về để sửa chữa. Thể thức có phần khác biệt của AFF Cup (đá chung kết hai lượt) so với các giải khác vô tình mở ra cơ hội làm lại cho thầy trò Park Hang-seo trên sân Thammasat của đội tuyển Thái Lan vào ngày 16/1 tới. Đội tuyển Việt Nam đã chơi trận bán kết lượt đi AFF Cup 2022 trong thế chịu trận trước đội tuyển Indonesia, để rồi thay đổi 180 độ trong màn tái đấu và thắng chung cuộc 2-0. Người hâm mộ cũng đang chờ đợi một màn “lột xác” tương tự khi đội tuyển Việt Nam chơi trận chung kết lượt về. Trong sai lầm ở trận lượt đi, những thiếu sót thuộc về cá nhân có thể khỏa lấp sớm bằng những cầu thủ chất lượng hơn, hay chính cá nhân ấy tự rút ra bài học để nâng cấp bản thân. Còn những sai lầm thuộc về tập thể như khả năng bẫy việt vị, duy trì áp lực đều đặn trong cả trận hay bảo đảm phong độ thi đấu dù chịu sức ép lớn,… HLV Park Hang-seo cùng học trò cần gấp rút sửa chữa. Với lực lượng dày dặn, ban huấn luyện còn nhiều nhân tố để chọn lựa, thay thế những cầu thủ đã chơi dưới phong độ ở giải này. Hàng tấn công là khu vực cần quan tâm hơn cả, bởi ngoài Nguyễn Tiến Linh, chưa một tiền vệ, tiền đạo Việt Nam nào ghi quá 1 bàn ở giải năm nay. Đội tuyển Việt Nam thiếu những phương án tấn công chất lượng và bài bản. HLV Park Hang-seo đã rèn cho học trò một số miếng đánh sở trường như chuyền dài vượt tuyến, hay đánh biên trả ngược tuyến hai, nhưng như thế là chưa đủ để thắng một trận chung kết đỉnh cao. Tiến Linh vẫn là điểm sáng hiếm hoi trên hàng công. (Ảnh: TRẦN HẢI) Dưới thời HLV Park Hang-seo, đội tuyển Việt Nam đã trưởng thành, minh chứng là thành công ở Asian Cup hay vòng loại World Cup, nhưng đây mới là trận chung kết thứ hai ông cùng học trò trải nghiệm ở cấp đội tuyển quốc gia, sau trận chung kết AFF Cup 2018 mà đối thủ Malaysia khi ấy chẳng thể sánh bằng Thái Lan hiện tại ở độ tinh quái, lão luyện. Do đó, nhiệm vụ cần thiết trước mắt là HLV Park Hang-seo phải tháo gỡ nút thắt tâm lý cho học trò. Ông Park nói nhiều cầu thủ đã rời vị trí bởi những tác động bên lề ở trận lượt đi. Vậy còn trận lượt về trên sân khách với áp lực còn lớn hơn thế thì sao? Đây là lúc khả năng “đắc nhân tâm” và thúc đẩy tinh thần cầu thủ của HLV Park Hang-seo cần được thể hiện. Bởi nên nhớ, tinh thần đóng vai trò rất quan trọng. Chỉ khi cái đầu thông thoáng, đội tuyển Việt Nam mới có thể xử lý chuẩn xác dẫu chịu sức ép lớn cỡ nào. Chúng tôi không bao giờ bỏ cuộc và tôi muốn cảm ơn các cầu thủ vì đã nỗ lực hết mình cho đến giây phút cuối cùng. Tôi chưa từng hứa điều gì nhưng có một điều chắc chắn: Chúng tôi sẽ làm tất cả để có thể mang chức vô địch trở về quê nhà. HLV Park Hang-Seo tuyên bố Ông Park từng nhiều lần nói đến khái niệm “tinh thần Việt Nam”. Tinh thần ấy rất khó cắt nghĩa, nhưng có rất nhiều ví dụ cụ thể về sức chiến đấu tiềm tàng dưới thời HLV Park Hang-seo, mà màn “ngược gió” trên đất Thường Châu (Trung Quốc) ở đội U23 Việt Nam năm nào là một điển hình. Sân Thammasat của Thái Lan ngày 16/1 tới sẽ không có mưa tuyết khắc nghiệt như chung kết U23 châu Á 2018, nhưng các cầu thủ cần chơi với nhuệ khí và niềm tin ấy để đảo ngược tình thế. Sau cùng, tài thao lược của HLV Park Hang-seo là chiếc chìa khóa mở ra chiến thắng. “Chúng ta thắng 1-0 là vô địch mà, tại sao phải bi quan?”, ông Park đặt ngược câu hỏi cho báo giới. Câu hỏi ấy thể hiện tư duy rất mạch lạc của HLV Park Hang-seo, rằng ở trận chung kết lượt đi, đội tuyển Việt Nam dù có chơi kém, nhưng kết quả chung cuộc vẫn là hòa. Trận hòa lượt đi đồng nghĩa thế cục vẫn rất mở cho 2 đội ở trận lượt về. HLV Park Hang-seo có cơ hội và thời gian để sửa sai, bày biện cho học trò một chiến lược mới, vốn không liên quan đến cách chơi cũ. Ở thể thức đấu cúp, đội mạnh hơn chưa chắc đã thắng, quan trọng là khả năng điều chỉnh và thích nghi. HLV Park Hang-seo đã thấm nhuần điều này sau 5 năm cầm quân ở Đông Nam Á. Chất quái cùng kinh nghiệm dạn dày của thầy Park sẽ ngăn đối thủ có thể bắt bài, đọc vị ông tới 2 lần chỉ trong ít ngày. Cùng chờ đẳng cấp của HLV Park Hang-seo và bản lĩnh của cầu thủ giúp đội tuyển Việt Nam làm nên chuyện trước Thái Lan trong màn tái đấu tới.
Với tình cảm và trách nhiệm của một nhân sĩ, nhà khoa học, nhà báo…, đồng thời từng có 4 nhiệm kỳ là đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Đồng Nai, nhà sử học DƯƠNG TRUNG QUỐC, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học lich sử Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Xưa & Nay, đã dành cho cuộc trao đổi nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023. Nhà sử học Dương Trung Quốc. Ông cho hay, thời Nguyễn Hữu Cảnh, ngay tên Trấn Biên đặt cho một phần Biên Hòa – Đồng Nai ngày nay đã thể hiện phần nào tính chất “đứng mũi chịu sào”, “phên giậu” của vùng biên viễn tính thời điểm đó. Phiên Trấn “ hàng xóm” lúc đó cũng có ý nghĩa tương tự. Sự “đi trước về sau” trong kháng chiến nay sẽ là “đi trước về trước” trong phát triển kinh tế và cả văn hóa. * Khi Đồng Nai phục dựng Văn miếu Trấn Biên, theo lời mời của tỉnh, ông cùng các chuyên gia sử học, trong đó có cố GS Phan Huy Lê, vị GS đầu ngành sử học, nguyên Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, vào giúp Đồng Nai các vấn đề liên quan văn miếu. Do có cái duyên đó nên Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam giới thiệu ông vào ứng cử tại Đồng Nai. Xin ông nói rõ hơn về việc này. – Đúng là có cái duyên, theo cách nghĩ truyền thống dân tộc có ảnh hưởng triết lý đạo Phật. Về phía tỉnh, Đồng Nai hết sức có trách nhiệm khi mời các nhà khoa học, các chuyên gia đầu ngành giúp Đồng Nai phục dựng Văn miếu Trấn Biên, cả về quy hoạch, xây dựng cơ bản, trang trí nội thất đến thờ phụng, trưng bày… Anh hùng lao động, Nhà giáo Nhân dân Vũ Khiêu được mời viết văn bia Trấn Biên mà nay ai cũng đọc được tại Văn miếu Trấn Biên thể hiện tinh thần cầu thị của Đồng Nai. Đoàn chúng tôi có chuyến làm việc nhiều ngày, nhiều lần ở Đồng Nai. Đoàn làm việc với trách nhiệm cao nhất có thể. Sau đó, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phân bổ một suất ứng cử vào Quốc hội cho Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và tôi được tổ chức hội giới thiệu, đặc biệt GS Vượng khuyến khích. Từ cái duyên làm việc về Văn miếu Trấn Biên, tôi được Ủy ban Bầu cử quốc gia phân về Đồng Nai ứng cử. Sau này Hội Khoa học lịch sử Việt Nam còn đúc tượng đồng danh nhân xứ Đồng Nai trong chương trình xã hội hóa Một giọt đồng đúc tượng danh nhân. Đồng Nai được tặng tượng đồng một số vị như Nguyễn Tri Phương, anh hùng lực lượng vũ trang Trần Công An… * Theo ông, làm sao phát huy giá trị Văn miếu Trấn Biên hiện nay, nhất là chuyện thời sự xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam? – Văn miếu Trấn Biên được xây dựng đầu tiên ở Nam bộ cho thấy sự quan tâm đến sự học ở vùng đất mới này. Văn miếu Trấn Biên được xây dựng năm 1715, tức chỉ 17 năm sau khi Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, thiết lập bộ máy hành chính phong kiến quản lý đối với một vùng đất mới, tôi cho đó là sự quan tâm đúng mức. Văn miếu Trấn Biên. Ảnh: Lưu Thuận Thờ Mặt khác, cần thấy là trước đó sự học đã có nền móng, phải có cái nền để phát huy. Nói cách khác, vùng Đồng Nai có tầng dày văn hóa nói chung và sự học nói riêng. Sau đó không lâu xuất hiện nhà giáo Võ Trường Toản và môn đệ của ông, trong đó có Gia Định tam gia Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh minh chứng cho điều này. Sau nữa là Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị… Còn Phan Thanh Giản (cũng là học trò Võ Trường Toản) là trường hợp khá đặc biệt, nay đã nhận thức lại vị trí của ông. Thân Nhân Trung, Phó đô nguyên súy Tao đàn Nhị thập bát tú thời Lê Thánh Tông viết, được dẫn trong Văn miếu ở Hà Nội: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, cũng có phiên bản dựng trong gian nhà thờ Văn miếu Trấn Biên. Hệ giá trị văn hóa Việt Nam quá rộng và có nhiều ý kiến khác nhau, cập nhật tính chất thời đại ý nghĩa câu của Nguyễn Trãi: “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân” trong Bình Ngô đại cáo sau khi thắng quân Minh xâm lược, tôi nghĩ hết sức quan trọng. * Xin ông có vài ý về tương lai gần của Đồng Nai. – Con người Đồng Nai, vị trí địa chính trị – kinh tế của Đồng Nai đã rõ, cùng với TP.HCM, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai góp phần quan trọng hình thành từ lâu tứ giác phát triển năng động nhất nước. Tôi tin là Đồng Nai phát huy vị thế của mình tiếp tục có thành công mới. Nói tới Đồng Nai, ai cũng nhắc ngay dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, vừa thực tiễn, vừa là biểu trưng rất lạc quan “cánh bay” nâng tầm Đồng Nai. Câu ca Làm trai cho đáng nên trai/ Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng luôn có ý nghĩa thời sự, tất nhiên Đồng Nai trong câu trên là vùng/miền, không chỉ là đơn vị hành chính hiện nay. Đồng Nai vẫn có vị thế quan trọng trong Đồng Nai thuở trước và từ thời Nguyễn Hữu Cảnh. Còn “bay” như thế nào, đến đâu để hợp lòng dân, lòng người lại là việc khác. * Xin cảm ơn ông!
With the feelings and responsibility of a scholar, scientist, journalist..., and at the same time served 4 terms as a National Assembly delegate of Dong Nai province, historian DUONG TRUNG QUOC, Vice President and General Secretary Signed by the Vietnam Association of Historical Sciences, Editor-in-Chief of Past & Present Magazine, for an exchange on the occasion of the Lunar New Year of the Cat 2023. Historian Duong Trung Quoc. He said that during Nguyen Huu Canh's time, the name Tran Bien was given to a part Bien Hoa – Dong Nai today has partly demonstrated the "standing at the helm" and "hedge-hedge" characteristics of the remote border area at that time. Phien Tran "neighbor" also had the same meaning at that time. The "going first" in the resistance war will now be "going first" in economic and cultural development. * When Dong Nai restored the Tran Bien Temple of Literature, at the invitation of the province, he and other historical experts, including the late Professor Phan Huy Le, a leading professor of history, former President of the Vietnamese Association of Historical Sciences Nam, came to help Dong Nai with issues related to the temple. Because of that fate, the Presidium of the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front introduced him to run for election in Dong Nai. Please explain more clearly about this. – It is true that there is a destiny, according to the traditional national way of thinking that has influenced Buddhist philosophy. On the province's side, Dong Nai is extremely responsible in inviting leading scientists and experts to help Dong Nai restore Tran Bien Temple of Literature, both in terms of planning, basic construction, and interior decoration, to worship. , displayed... Labor Hero, People's Teacher Vu Khieu was invited to write the Tran Bien epitaph that can now be read by everyone at the Tran Bien Temple of Literature, expressing Dong Nai's spirit of prayer. Our group had many days and many working trips to Dong Nai. The team works with the highest responsibility possible. After that, the Central Committee of the Vietnam Fatherland Front allocated a candidate for the National Assembly to the Vietnam Association of Historical Sciences and I was introduced by the organization, especially encouraged by Professor Vuong. From the fate of working at Tran Bien Temple of Literature, I was assigned by the National Election Committee to Dong Nai to run for election. Later, the Vietnam Association of Historical Sciences also cast bronze statues of famous people from Dong Nai in the socialization program. One drop of bronze cast statues of famous people. Dong Nai was awarded bronze statues of several people such as Nguyen Tri Phuong, armed forces hero Tran Cong An... * In your opinion, how to promote the current value of Tran Bien Temple of Literature, especially current affairs in building the Vietnamese cultural value system? – Tran Bien Temple of Literature was built for the first time in the South, showing interest in learning in this new land. Tran Bien Temple of Literature was built in 1715, only 17 years after Chancellor Nguyen Huu Canh invaded the capital and established a feudal administrative apparatus to manage a new land. I think that is the right concern. level. Tran Bien Temple of Literature. Photo: Luu Thuan Nho On the other hand, it is necessary to see that previously learning had a foundation, there must be a foundation to develop. In other words, the Dong Nai region has a thick layer of culture in general and learning in particular. Not long after that, the appearance of teacher Vo Truong Toan and his disciples, including Gia Dinh triumvirate Trinh Hoai Duc, Le Quang Dinh, and Ngo Nhon Tinh, proved this. Next is Bui Huu Nghia, Phan Van Tri... And Phan Thanh Gian (also a student of Vo Truong Toan) is a quite special case, now he has re-cognized his position. Than Nhan Trung, Vice Governor of the Army of the Two Thap Eight Tues in the time of Le Thanh Tong wrote, quoted in the Temple of Literature in Hanoi: "Talent is the national resource", there is also a version built in the temple of the Temple of Literature. Tran Bien. The Vietnamese cultural value system is too broad and has many different opinions, updating the modern nature of the meaning of Nguyen Trai's sentence: "The act of kindness lies in protecting the people" in Binh Ngo Dai Cao after defeating the Ming invaders. Strategy, I think is extremely important. * Please give us some thoughts about the near future of Dong Nai. – Dong Nai people, Dong Nai's geopolitical and economic position are clear, along with Ho Chi Minh City, Binh Duong, Ba Ria - Vung Tau, Dong Nai has made an important contribution to forming a quadrilateral of energy development for a long time. the most dynamic in the country. I believe that Dong Nai will continue to have new successes by promoting its position. When talking about Dong Nai, everyone immediately mentions the Long Thanh International Airport project, which is both practical and a very optimistic symbol of the "flying wing" that elevates Dong Nai. The song "Make a man worthy of being a man" has been experienced by Phu Xuan, and Dong Nai has always had topical significance. Of course, Dong Nai in the above sentence is a region, not just an administrative unit today. Dong Nai still has an important position in Dong Nai in the past and since the reign of Nguyen Huu Canh. How and where to "fly" to please the people is another matter. * Thank you Sir!
Biên Hòa , đô thị với tuổi đời hàng trăm năm giờ đây đã và đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ để trở thành một thành phố thịnh vượng, hiện đại và đáng sống. Sông Đồng Nai là trục cảnh quan chính của đô thị Biên Hòa trong tương lai. Ảnh: P.Tùng. Được thành lập từ năm 1963, Khu công nghiệp (KCN) Biên Hòa 1 (tên gọi trước đây là Khu kỹ nghệ Biên Hòa) là KCN đầu tiên và lâu đời nhất cả nước. Đây chính là biểu tượng của ngành công nghiệp miền Nam sau giải phóng, là “hình mẫu”, tạo tiền đề cho sự hình thành, phát triển mô hình các KCN trên cả nước về sau. Riêng với TP.Biên Hòa, sau KCN Biên Hòa 1, đô thị này còn “chào đón” thêm 5 KCN mới, đưa Biên Hòa trở thành một trong những đô thị “sở hữu” nhiều KCN nhất trên cả nước. Biên Hòa từ đó cũng được mệnh danh là một đô thị công nghiệp. Sự phát triển mạnh về công nghiệp trong một thời gian dài đã mang lại sự phát triển vượt bậc cho đô thị Biên Hòa. Tuy nhiên, đi kèm với sự phát triển mạnh về công nghiệp, đô thị Biên Hòa phải đối mặt với những áp lực đến từ tốc độ đô thị hóa và gia tăng dân số nhanh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến cho Biên Hòa bị “hụt hơi” trong quá trình phát triển đô thị. Cũng bởi nguyên nhân này nên để làm mới diện mạo đô thị, đưa Biên Hòa trở thành một đô thị thịnh vượng và đáng sống, việc “xoay trục” phát triển từ một đô thị công nghiệp trở thành một đô thị dịch vụ là mô hình được lựa chọn. TS-KTS Phan Đăng Sơn, Chủ tịch Hội KTS Việt Nam cho rằng việc chuyển đổi mô hình phát triển từ đô thị công nghiệp sang đô thị thương mại, dịch vụ đối với đô thị Biên Hòa là hoàn toàn khả thi. “Vấn đề là chúng ta cần quy hoạch lại cho hợp lý. Chúng ta chú ý là thương mại dịch vụ cần được hiểu theo một quan điểm mới. Thương mại dịch vụ không phải hiểu đơn thuần là các khu dân dụng, các trung tâm thương mại, mua sắm, dịch vụ… mà ngay bản thân các KCN cũng cần được tính toán đến yếu tố thương mại, dịch vụ. Nó nằm ngay trong các hệ thống phát triển công nghiệp. Từ đó, bằng cách rà soát, quy hoạch lại để chúng ta vừa giữ vững được phát triển công nghiệp vừa phát triển thương mại, dịch vụ”- TS-KTS Phan Đăng Sơn chia sẻ. “Bắt đầu từ nơi khởi đầu”, KCN Biên Hòa 1 chính là điểm đến được lựa chọn để thực hiện công cuộc chuyển đổi mô hình phát triển cho đô thị Biên Hòa. Năm 2008, Đồng Nai đề xuất lên Chính phủ thực hiện chuyển đổi công năng của KCN Biên Hòa 1. Một năm sau, Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương chuyển đổi công năng KCN Biên Hòa 1 thành khu đô thị – thương mại – dịch vụ. Năm 2021, KCN Biên Hòa 1 chính thức được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đưa ra khỏi quy hoạch phát triển các KCN Việt Nam. Đây cũng chính là cơ sở pháp lý để Đồng Nai tiếp tục triển khai các công việc để chấm dứt hoạt động của KCN lâu đời nhất cả nước, “mở đường” phát triển khu vực này thành một khu đô thị dịch vụ. Kiến trúc sư Lý Thành Phương, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư tỉnh cho rằng, việc chuyển đổi KCN Biên Hòa 1 từ một KCN thành một khu đô thị – dịch vụ – thương mại là điều rất tốt và thuận lợi. Bởi khu vực này có địa hình và vị trí rất đẹp, vừa nằm dọc sông vừa tiếp giao với đường giao thông lớn. Ngoài ra, KCN Biên Hòa 1 tiếp giáp với các khu dân cư hiện hữu nên đóng vai trò rất tốt trong việc tạo điểm nhấn cho không gian độ thị Biên Hòa. “Nếu tỉnh thực hiện di dời trung tâm hành chính ra khu vực KCN Biên Hòa 1 thì khu vực này đáp ứng đầy đủ các điều kiện để xây dựng một không gian đô thị mới hiện đại, có không gian cảnh quan và kiến trúc đô thị phong phú, đa dạng” – ông Lý Thành Phương cho biết. Trong quy hoạch phát triển đô thị Biên Hòa, với mô hình đô thị dịch vụ được lựa chọn, sông Đồng Nai đóng một vai trò hết sức quan trọng. Với khoảng 4km chảy xuyên qua lòng đô thị, sông Đồng Nai được xác định sẽ là trục cảnh quan chính của đô thị Biên Hòa trong tương lai. Để định hình TP.Biên Hòa trở thành đô thị ven sông, thời gian qua, Đồng Nai đã rà soát và triển khai hàng loạt dự án đầu tư xây dựng hạ tầng, chỉnh trang đô thị ở cả 2 bờ sông Đồng Nai. Đường Võ Thị Sáu sau khi được chỉnh trang đã trở thành một trong những tuyến phố khang trang, hiện đại của đô thị Biên Hòa. Cuối năm 2021, dự án đường ven sông Đồng Nai đoạn từ cầu Hóa An đến giáp ranh H.Vĩnh Cửu chính thức được khởi công xây dựng. Với tuyến đường và hệ thống công viên dọc sông, dự án khi hoàn thành được kỳ vọng sẽ tọa ra sự thay đổi lớn về diện mạo cho đô thị Biên Hòa. Cùng với dự án này, hàng loạt dự án khác dọc 2 bờ sông Đồng Nai sẽ được triển khai trong thời gian tới. Với các dự án đang và sẽ được triển khai thực hiện, dáng hình của một đô thị ven sông cũng sẽ dần hình thành. Bên cạnh các dự án nói trên, một dự án khác cũng rất được chờ đợi trong hành trình đưa Biên Hòa trở thành một đô thị ven sông Đồng Nai là việc triển khai thực hiện quy hoạch Cù lao Hiệp Hòa. Cù lao Hiệp Hòa không chỉ nổi tiếng với vị trí đắc địa, mà còn nổi tiếng với những giá trị văn hóa, lịch sử, tôn giáo hiện đang được lưu giữ gắn liền với hành trình mở cõi phương Nam của dân tộc ta. Cù lao Hiệp Hòa vì vậy là nơi mang “hồn cốt” của cả dải đất phương Nam nói chung và vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng. Với những giá trị và tiềm năng đó, cù lao Hiệp Hòa luôn được Đồng Nai đặc biệt quan tâm trong quá trình phát triển với mục tiêu biến nơi đây thành khu vực điểm nhấn của TP.Biên Hòa, đô thị trung tâm của tỉnh. Chính vì vậy, trong quy hoạch, phân khu A4 P.Hiệp Hòa được xác định là phân khu thành phần trong khu đô thị trung tâm lịch sử, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện mục tiêu về văn hóa, lịch sử, cảnh quan, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu của đô thị Biên Hòa. Khai thác các giá trị lịch sử văn hóa 325 năm của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai kết hợp bảo tồn mảng xanh lớn tạo ra “lá phổi xanh” của thành phố. Đồng thời, phát huy giá trị văn hóa, lịch sử, cảnh quan và tạo dựng hình ảnh mới của cù lao Phố mang tính biểu tượng của thành phố văn hóa. Đây cũng là một phần trong chuỗi các khu vực cảnh quan ven sông Đồng Nai.
Bien Hoa , an urban area with a history of hundreds of years, has now been making strong changes to become a prosperous, modern and livable city. Dong Nai River is the main landscape axis of Bien Hoa urban area in the future. Photo: P. Tung. Established in 1963, Bien Hoa 1 Industrial Park (formerly known as Bien Hoa Industrial Park) is the first and oldest industrial park in the country. This is the symbol of the Southern industry after liberation, a "model", creating a premise for the formation and development of industrial park models across the country in the future. As for Bien Hoa City, after Bien Hoa 1 Industrial Park, this urban area also "welcomes" 5 new industrial parks, making Bien Hoa one of the urban areas that "owns" the most industrial parks in the country. Bien Hoa has since then been known as an industrial city. Strong industrial development over a long period of time has brought outstanding development to Bien Hoa urban area. However, along with strong industrial development, Bien Hoa urban area faces pressures from rapid urbanization and population growth. This is also one of the main reasons why Bien Hoa is "out of breath" in the urban development process. Also for this reason, in order to renew the urban appearance and turn Bien Hoa into a prosperous and livable city, the "pivot" to develop from an industrial city to a service city is a model. selected image. Dr. Architect Phan Dang Son, Chairman of the Vietnam Association of Architects, said that converting the development model from industrial urban to commercial and service urban for Bien Hoa urban area is completely feasible. “The problem is that we need to re-plan properly. We note that service trade needs to be understood from a new perspective. Service trade is not simply understood as residential areas, commercial centers, shopping, services... but even the industrial parks themselves need to be considered in terms of trade and service factors. It is located right in the industrial development systems. From there, by reviewing and re-planning, we can both maintain industrial development and develop trade and services"- Dr.-Architect Phan Dang Son shared. "Starting from the beginning", Bien Hoa 1 Industrial Park is the chosen destination to carry out the transformation of the development model for Bien Hoa urban area. In 2008, Dong Nai proposed to the Government to convert the functions of Bien Hoa 1 Industrial Park. One year later, the Prime Minister agreed to the policy of converting the functions of Bien Hoa 1 Industrial Park into an urban - commercial - area. service. In 2021, Bien Hoa 1 Industrial Park was officially approved by the Prime Minister to be removed from the development planning of Vietnam's industrial parks. This is also the legal basis for Dong Nai to continue implementing work to terminate the operation of the oldest industrial park in the country, "paving the way" to develop this area into a service urban area. Architect Ly Thanh Phuong, Chairman of the Provincial Association of Architects, said that the transformation of Bien Hoa 1 Industrial Park from an industrial park into an urban - service - commercial area is very good and convenient. Because this area has very beautiful terrain and location, both located along the river and connected to major roads. In addition, Bien Hoa 1 Industrial Park is adjacent to existing residential areas, so it plays a very good role in creating a highlight for Bien Hoa urban space. “If the province moves the administrative center to Bien Hoa Industrial Park 1 area, this area fully meets the conditions to build a new modern urban space, with landscape space and urban architecture. The city is rich and diverse" - said Mr. Ly Thanh Phuong. In Bien Hoa urban development planning, with the selected service urban model, Dong Nai river plays a very important role. With about 4km flowing through the heart of the urban area, Dong Nai River is determined to be the main landscape axis of Bien Hoa urban area in the future. To shape Bien Hoa City into a riverside urban area, recently, Dong Nai has reviewed and implemented a series of investment projects in infrastructure construction and urban embellishment on both banks of the Dong Nai River. After being renovated, Vo Thi Sau Street has become one of the spacious and modern streets of Bien Hoa urban area. At the end of 2021, the Dong Nai riverside road project from Hoa An bridge to the border with Vinh Cuu district officially started construction. With the route and park system along the river, the project when completed is expected to make a big change in the appearance of Bien Hoa urban area. Along with this project, a series of other projects along the two banks of Dong Nai River will be implemented in the near future. With ongoing and future projects being implemented, the shape of a riverside urban area will gradually take shape. Besides the above projects, another project that is also highly anticipated in the journey to turn Bien Hoa into an urban area along the Dong Nai river is the implementation of Cu Lao Hiep Hoa planning. Hiep Hoa Island is not only famous for its prime location, but also famous for its cultural, historical, and religious values ​​that are currently being preserved in connection with our nation's journey to open up the Southern realm. Hiep Hoa Island is therefore the place that carries the "soul" of the entire Southern region in general and the land of Bien Hoa - Dong Nai in particular. With those values ​​and potential, Hiep Hoa Island has always received special attention from Dong Nai in the development process with the goal of turning this place into a highlight area of ​​Bien Hoa City, the central urban area of ​​the province. Therefore, in the planning, the A4 P. Hiep Hoa subdivision is identified as a component subdivision in the historic central urban area, playing a particularly important role in implementing cultural and historical goals. , landscape, environment and adaptation to climate change of Bien Hoa urban area. Exploiting the 325-year historical and cultural values ​​of Bien Hoa - Dong Nai Combined with preserving large green areas, creating a "green lung" of the city. At the same time, promote the cultural, historical, and landscape values ​​and create a new image of the iconic Pho island of a cultural city. This is also part of a series of landscape areas along the Dong Nai river.
Phong tục lì xì ngày tết luôn mang đậm nét truyền thống văn hóa dân tộc, được người dân lưu giữ và phát huy từ xưa cho đến ngày nay. Lì xì (mừng tuổi) đầu năm là phong tục truyền thống có từ ngàn đời nay. Trong ngày Tết, cha mẹ thường lì xì cho ông bà và người già để bày tỏ tấm lòng biết ơn, tri ân, quan tâm, hiếu kính, hiếu thảo và cầu mong ông bà luôn mạnh khỏe và trường thọ… Ông bà, bố mẹ, người lớn lì xì cho trẻ nhỏ và chúc các con chăm ngoan, học giỏi, hiếu kính, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ… Bản chất của việc lì xì không nằm ở số tiền mà ở ý nghĩa tình thần tốt đẹp, là lời chúc may mắn của người lớn đến trẻ con và lời chúc sức khỏe của người trẻ đến người già. Không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước châu Á như Nhật Bản , Thái Lan , Trung Quốc … cũng có tục mừng tuổi nhân dịp đầu năm mới. Ngày nay, tục lì xì bị biến tướng, vật chất hóa, từ suy nghĩ thực dụng của người lớn đã thấm sang cả con trẻ, khiến chúng bắt đầu có sự so bì, người này mừng tuổi ít, người kia mừng tuổi nhiều và làm thước đo để đánh giá người tốt, người xấu… Phong tục lì xì đầu năm được thêu dệt khá nhiều câu chuyện. Có chuyện kể rằng: Có một gia đình nọ ngoài 50 tuổi mới sinh được mụn con trai. Tết năm ấy có có 8 vị tiên dạo chơi qua nhà biết rằng chú bé này sẽ gặp họa với yêu quái nên biến thành 8 đồng tiền đồng, cha mẹ chú bé gói vào tờ giấy màu đỏ đặt bên cạnh gối của cậu bé. Khi con quái vật đến, những đồng tiền lóe lên tia sáng khiến con quái vật hoảng sợ phải bỏ chạy. Phép lạ này nhanh chóng lan truyền ra khắp nhân gian, nên khi Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những cái túi màu đỏ để tặng cho trẻ con, để trẻ chóng lớn, khỏe mạnh và gặp nhiều may mắn. Từ đó, trở thành tục lì xì đầu năm. Câu chuyện khác kể rằng: Tiền lì xì được biến thể từ tục “đặt áp tế tiền”- là những đồng tiền xâu bằng chỉ đỏ, buộc lại theo hình con rồng hoặc thanh kiếm để ở giường với mục đích chống tà ma, bảo vệ giấc ngủ cho trẻ nhỏ. Theo thời gian, mọi người để tiền trong bao giấy màu đỏ để trao cho nhau vào dịp năm mới với ý nghĩa chúc nhau sung túc, khỏe mạnh, an khang. Lì xì từ đó trở thành phong tục không thể thiếu trong những ngày đầu năm mới. Dù có bao nhiêu “dị bản”, phong tục lì xì đầu năm luôn gắn liền với mong ước sức khỏe dồi dào và cầu chúc những điều may mắn, tốt đẹp sẽ đến với những người thân yêu. Lì xì là phiên âm của “lợi thị” trong tiếng Trung, có nghĩa là được lợi, được tiền, được may mắn. Tiền lì xì, một trong những phong tục của năm mới, được người lớn tuổi phát cho thế hệ trẻ, sau bữa cơm năm mới, người lớn tuổi sẽ phát tiền lì xì đã chuẩn bị sẵn cho thế hệ trẻ, người ta nói rằng tiền lì xì năm mới có thể trấn áp tà ma, thế hệ trẻ có thể yên tâm trải qua năm đầu tiên bằng tiền lì xì năm mới. Ở một số gia đình, cha mẹ đặt con cái dưới gối để lì xì trong đêm giao thừa sau khi chúng đã ngủ, điều này thể hiện sự quan tâm của người lớn tuổi đối với thế hệ trẻ và sự tôn trọng của thế hệ trẻ đối với người lớn tuổi. Một sinh hoạt dân gian lồng ghép đạo đức gia đình. Trong văn hóa dân gian, lì xì mang ý nghĩa xua đuổi tà ma, xua đuổi ma quỷ, cầu bình an. Mục đích ban đầu của tiền lì xì năm mới là để trấn áp tà khí, xua đuổi tà khí, vì người ta cho rằng trẻ nhỏ dễ bị lừa nên dùng tiền lì xì để trấn áp tà khí, xua đuổi tà ma. Phong bao tượng trương cho sự kín đáo, không so bì hơn thua. Màu đỏ tượng trưng cho màu như ý, cát tường, thịnh vượng trong suốt cả năm; là màu của niềm tin, hy vọng và sự may mắn. Người xưa đặt tiền lì trong phong bao màu đỏ với niềm tin rằng nhưng phong bao lì xì này sẽ đem lại hạnh phúc, tài lộc trong suốt cả năm cho mọi người. Từ xưa đến nay, trong ngày Tết thì cha mẹ lì xì cho ông bà và những người lớn tuổi với những lời chúc tốt đẹp để bày tỏ sự quan tâm, lòng hiếu kính, hiếu thảo đối với ông bà. Cứ vào lúc giao thừa hoặc sáng mồng một Tết, sau khi rửa mặt bằng nước mùi thơm, mặc quần áo đẹp, lịch sự, mọi người sẽ đi chúc Tết. Cha mẹ sẽ tặng phong bao lì xì mừng tuổi ông bà, người già trong dòng họ để cảm ơn, tri ân, cầu mong các ông bà, luôn mạnh khỏe và sống trường thọ bên con cháu. Việc lì xì cho người già không chỉ thể hiện sự trân trọng và tình cảm yêu quý đối với người già mà còn nhắc nhở chúng ta biết tri ân ơn đức của ông bà, người già đối với gia đình và xã hội. Bởi, người già không chỉ có nhiều kinh nghiệm sống quý báu truyền lại cho con cháu mà còn tạo cơ hội cho các con cháu được rèn luyện hiếu đạo, thực hành văn hóa yêu thương, sẻ chia… Người lớn cũng lì xì trẻ nhỏ và chúc các con chăm ngoan, học giỏi, hiếu hảo với ông bà, cha mẹ. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người có điều kiện, đi “ngoại giao” ngày Tết nên lì xì rất nhiều tiền cho trẻ nhỏ. Nếu cha mẹ không có định hướng giáo dục trẻ cách nhận tiền lì xì và sử dụng tiền lì xì thì rất có thể sẽ tạo cơ hội để làm hư trẻ. Các con sẽ mặc nhiên hiểu rằng số tiền lì xì là của mình và toàn quyền sử dụng nó vào những việc không đúng mục đích như: Chơi game, mua máy chơi game, mua điện thoại hoặc những đồ xa xỉ… Cho nên, mỗi khi lì xì cho con trẻ, người lớn phải tận dụng cơ hội này để dạy bảo con cái. Như vậy, lì xì cho trẻ nhỏ mới có ý nghĩa. Ông bà, cha mẹ có thể chia sẻ với các con rằng: “Những người lì xì cho các con là những người quan tâm, yêu thương các con, mong muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với các con trong năm mới. Các con phải ghi nhớ và cảm ơn người đã quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ các con trong cuộc sống. Khi được người lớn mừng tuổi, trước tiên các con phải cung kính nhận bằng hai tay, nói lời cảm ơn và lời chúc tốt đẹp tới người vừa mồng tuổi cho mình”. Cha mẹ nên căn dặn trẻ không nên tùy tiện mở phong bao lì xì trước mặt người lớn, mà trân trọng trao lại cho cha mẹ, nhờ cha mẹ cất giữ để mua đồ dùng, sách vở hoặc mua đồ tặng các bạn có hoàn cảnh khó khăn.
The custom of giving lucky money on Tet holiday is always imbued with national cultural traditions, preserved and promoted by people from ancient times to today. Giving lucky money at the beginning of the year is a traditional custom that has existed for thousands of years. During Tet, parents often give lucky money to grandparents and the elderly to express their gratitude, appreciation, care, respect, filial piety and pray for their good health and longevity... Grandparents, father Mothers and adults give lucky money to children and wish them to be good, study well, be respectful and filial to their grandparents and parents... The essence of giving lucky money does not lie in the amount of money but in the good spiritual meaning. , is a wish of good luck from adults to children and a wish of good health from young people to the elderly. Not only in Vietnam but in many Asian countries such as Japan , Thailand , China ... there is also the custom of celebrating one's birthday at the beginning of the new year. Nowadays, the custom of giving lucky money has been transformed and materialized, from the pragmatic thinking of adults it has penetrated to children, causing them to begin to compare, this person celebrates a little, the other celebrates a lot and serve as a yardstick to evaluate good and bad people... The custom of giving lucky money at the beginning of the year has many stories woven into it. There is a story that goes: There was a family who was over 50 years old when they gave birth to a son. During Tet that year, 8 fairies roamed the house, knowing that this boy would encounter misfortune with monsters, so they turned them into 8 copper coins, which the boy's parents wrapped in red paper and placed next to the boy's pillow. When the monster arrived, the coins flashed with light, causing the monster to panic and run away. This miracle quickly spread throughout the world, so when Tet comes, people put money in red bags to give to children, so that they can grow up quickly, be healthy and have good luck. From then on, it became the custom of giving lucky money at the beginning of the year. Another story says that: Lucky money is a variation of the custom of "sacrifice money" - coins strung with red thread, tied in the shape of a dragon or sword and placed on the bed for the purpose of preventing evil spirits and protecting them. Protect sleep for children. Over time, people put money in red paper bags to give to each other on New Year's Eve with the meaning of wishing each other prosperity, health, and prosperity. Lucky money has since become an indispensable custom in the first days of the new year. No matter how many "variations" there are, the custom of giving lucky money at the beginning of the year is always associated with the wish for good health and wishing good luck and good things to come to loved ones. Lucky money is the transliteration of "loi thi" in Chinese, meaning benefit, money, luck. Lucky money, one of the New Year's customs, is given to the younger generation by the elders. After the New Year's meal, the elders will give the prepared lucky money to the younger generation, it is said that New Year's lucky money can suppress evil spirits, and the young generation can safely spend their first year with New Year's lucky money. In some families, parents put their children under the pillow to give lucky money on New Year's Eve after they have fallen asleep, this shows the care of the elders for the younger generation and the respect of the younger generation. for older people. A folk activity that integrates family ethics. In folk culture, lucky money has the meaning of repelling evil spirits, banishing demons, and praying for peace. The original purpose of New Year's lucky money is to suppress evil spirits and ward off evil spirits. Because people believe that children are easily deceived, lucky money is used to suppress evil spirits and ward off evil spirits. Envelopes symbolize discreetness, no comparison. Red symbolizes wish-fulfillment, auspiciousness, and prosperity throughout the year; is the color of faith, hope and luck. Ancient people placed lucky money in red envelopes with the belief that these lucky envelopes would bring happiness and fortune to everyone throughout the year. From ancient times until now, during Tet, parents give lucky money to grandparents and elders with good wishes to express their care, respect, and filial piety towards their grandparents. Every New Year's Eve or the morning of the first day of the New Year, after washing their faces with fragrant water and wearing nice, polite clothes, everyone will go to wish them Happy New Year. Parents will give lucky money envelopes to grandparents and elderly people in the family to thank, express gratitude, and pray for grandparents to always be healthy and live a long life with their children and grandchildren. Giving lucky money to the elderly not only shows respect and affection for the elderly but also reminds us to be grateful for the gratitude of our grandparents and the elderly to our family and society. Because, the elderly not only have many valuable life experiences to pass on to their children and grandchildren, but also create opportunities for children and grandchildren to practice filial piety, practice the culture of love and sharing... Adults also give lucky money to children and wish them to be good, study well, and be filial to their grandparents and parents. However, nowadays many people have the means to go "diplomacy" on Tet, so they give a lot of money to children. If parents do not have the direction to educate children on how to receive and use lucky money, it will likely create opportunities to spoil the child. Children will automatically understand that the lucky money is theirs and have full rights to use it for inappropriate purposes such as: Playing games, buying game consoles, buying phones or luxury items... Therefore, every When giving lucky money to children, adults must take advantage of this opportunity to teach their children. Thus, giving lucky money to children is meaningful. Grandparents and parents can share with their children: "The people who give lucky money to their children are those who care and love them, and wish the best things to come to them in the new year. Children must remember and thank those who care, share, and help them in life. When an adult congratulates you on your new year, you must first respectfully accept it with both hands, saying thank you and good wishes to the person who just turned your birthday." Parents should warn children not to arbitrarily open lucky money envelopes in front of adults, but to respectfully give them back to their parents, asking them to keep them to buy supplies, books or to buy gifts for friends in difficult circumstances. hard.
Về vị thế tự nhiên, ở góc nhìn văn hóa, cố GS Trần Quốc Vượng xác định, Đông Nam bộ là vùng “Địa kinh tế – chính trị – văn hóa” có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Giáo dục truyền thống cho học sinh phổ thông. Ảnh: Lâm Cón. Theo Nghị quyết 53/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận 27/KL-TW của Bộ Chính trị khóa XI “cần phải huy động tối đa nguồn lực cho phát triển của vùng Đông Nam bộ”. Trong các nguồn lực được huy động, cần chú ý đến nguồn lực văn hóa. Nguồn lực văn hóa được hiểu là hệ thống các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể cấu thành sức mạnh trong phát triển. Các nguồn lực ấy có giá trị chung của đất nước và bản sắc của vùng Đông Nam bộ cần được nhận diện đầy đủ và phát huy tối đa. Gọi là “địa kinh tế” do Đông Nam bộ có địa hình dốc thoải, nối cao nguyên Di Linh với đồng bằng Nam bộ và duyên hải Nam Trung bộ. Sinh thái đa hệ: núi – đồi – rừng – vườn – sông – biển. Hệ thống sông Đồng Nai dòng chảy nội sinh, nước lành quanh năm đủ cho sinh hoạt cộng đồng và phát triển các khu công nghiệp. Giao thông thuận lợi cả về không – thủy – bộ. Thổ nhưỡng giàu phù sa; khí hậu mưa nắng ôn hòa; tài nguyên mặt nước, lòng đất, đủ cho khai thác, phát triển công nghiệp. Có thể nói, đây là vùng “đất lành”, hội đủ “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”, thuận cho phát triển kinh tế, cũng thuận cho giao thương và giao lưu văn hóa. Đông Nam bộ cũng là vùng “địa chính trị”. Đây là nơi khởi đầu, cũng là trung tâm định cư, tích hợp và tiếp biến văn hóa của lớp cư dân Việt “tiền khai canh” ở Nam bộ. Đông Nam bộ là nơi diễn tập tiền Cách mạng Tháng Tám, khởi đầu Nam bộ kháng chiến, nhiều sự khởi đầu sáng tạo trong kháng chiến chống xâm lược; cũng là nơi có nhiều “bi kịch” trong giải quyết mâu thuẫn giữa phép nước và lòng dân, giữa nếp cũ và đổi mới. Về mặt “địa văn hóa”, Đông Nam bộ có những đặc điểm đáng lưu ý: Giao thoa văn hóa nhiều nguồn khác nhau; chủ nhân văn hóa do hội nhập, cộng cư từ người tại chỗ – người Việt – người Hoa; thể hiện tính cộng đồng ở 2 loại công xã: công xã buôn làng (vùng núi) và công xã xóm làng (miệt vườn), giao lưu mật thiết với nhau, không xung đột; tính chất mở, làng mở, mở lòng với đặc điểm ứng xử văn hóa hỗn dung, hòa nhập, tích hợp, tiếp biến với nhiều dòng mạch văn hóa; trong phát triển có tính bền vững và cũng nhiều nguy cơ mai một. Về di sản văn hóa, đây cũng là nguồn lực tài nguyên quý hiếm ở Đông Nam bộ. Theo GS Trần Quốc Vượng, có một nền “cổ văn minh” từng tồn tại và phát triển rực rỡ ở Đông Nam bộ. Nền văn minh cổ ấy có họ hàng với văn minh Phù Nam – Óc Eo – Chămpa; niên đại từ thời đá cũ; hưng thịnh thời sơ kỳ kim khí có niên đại vài ngàn năm trước với các địa danh: Cầu Sắt, Dốc Chùa, Suối Chồn, Cái Lăng, Cái Vạn, Bưng Bạc, Giồng Phệt… Các nhà khảo cổ thống nhất cho rằng, có một trung tâm – công trường luyện kim (đồng, sắt) từ vài ngàn năm trước đây không chỉ để sử dụng nội vùng, còn để giao thương với các vùng khác trong không gian rộng lớn hơn. GS Trần Quốc Vượng đã vẽ sơ đồ giao lưu văn hóa – kinh tế giữa Đông Nam bộ với Tây nguyên, Sa Huỳnh, Tây Nam bộ; không gian văn hóa ở Đông Nam bộ phản ảnh cấu trúc: thánh địa Cát Tiên – sông Đồng Nai, thành Biên Hòa – cảng thị Cần Giờ. Đó là cấu trúc chung của các nền văn cổ Việt Nam: núi (thánh địa) – sông (thành) – biển (cảng thị). Vậy nên, trong quy hoạch phát triển ở Đông Nam bộ hiện nay, cần chú ý tính liên ngành, liên khu vực trong không gian văn hóa rộng lớn hơn địa giới hành chính hiện hành, có cấu trúc tích hợp các thành tố văn hóa xưa và nay, thuộc các vùng miền núi – miệt vườn – miệt biển, của các chủ thể bản địa và người Việt – Kinh, Hoa, Hẹ hội nhập từ thế kỷ XVII. Hệ thống di sản văn hóa lịch sử cách mạng đa dạng trên địa bàn cũng là nguồn lực quan trọng trong tài sản văn hóa cần kết nối liên vùng của miền Đông gian lao, anh dũng. Phát huy nguồn lực di sản văn hóa chính là việc nghiên cứu đầy đủ, xác minh khoa học, bảo vệ trường tồn, đánh thức các giá trị đã có trong đời sống hiện tại, hướng đến tương lai, quảng bá hình ảnh của đất nước, thu hút du khách, đóng góp hương sắc vào di sản văn hóa nhân loại. Trong hành trình phát triển, Đông Nam bộ là một trong những trung tâm định cư đầu tiên, cũng là trung tâm văn hóa đầu tiên được người Việt thiết lập ở phương Nam; đơn vị hành chính nhiều lần thay đổi nhưng chỉ thay đổi ở bộ máy cầm quyền; cơ sở kinh tế, văn hóa ở xã, thôn không bị xáo trộn; đời sống văn hóa luôn mang tính liên vùng không bị chia cắt hoặc lệ thuộc vào địa giới hành chính. Chiến sự liên miên tàn phá làm văn hóa cổ truyền biến dạng, đồng thời cũng tiếp biến với văn hóa Âu Tây theo hướng văn minh hóa, kỹ thuật hóa. Lịch sử hình thành và phát triển Đông Nam bộ tạo ra nguồn lực mang tính quy luật của sự kết tinh và tiếp biến trong phát triển; đó là sự gìn giữ, duy trì, bảo vệ các giá trị cốt lõi, tiếp thu cái mới trong giao lưu văn hóa ngoại vùng, ngoại quốc, dễ hội nhập mà khó xa cội quên nguồn. Nguồn nhân lực để phát triển văn hóa ở Đông Nam bộ có đặc điểm là đa nguồn cư dân, đa dòng mạch văn hóa. Quá trình hình thành cộng đồng dân tộc ở Đông Nam bộ thực chất là quá trình hợp cư bởi các đợt di dân qua các thời kỳ. Làng ở Đông Nam bộ là làng khai phá, không khép kín trong lũy tre làng, tổ chức hành chính – xã hội đơn giản, không phân biệt ngụ cư, dễ tiếp nhận thành viên mới và cũng dễ thay đổi cơ cấu. Chính tính chất hợp cư từ nhiều dân tộc, nhiều đợt di dân với mục đích và lý do khác nhau đã hình thành sắc thái đa nguồn văn hóa của Đông Nam bộ với đặc tính cởi mở, đa hệ, hỗn dung, dễ thâm nhập những nhân tố mới nhưng khó phai mờ những yếu tố cội nguồn. Các nguồn lực về tài vật ở Đông Nam bộ có ưu thế lớn bởi nơi đây kinh tế phát triển, dễ làm ăn, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, nguồn thu ngân sách lớn nên nguồn lực tài lực đầu tư từ trong dân cũng như từ ngân sách đều thuận lợi. Vì vậy, phát huy nguồn lực tài vật trong dân, của dân là lợi thế cũng là đặc điểm trong chính sách đầu tư, phát triển. Về nguồn ngoại lực, cũng vậy, Đông Nam bộ có lợi thế về phát triển kinh tế, ngoại giao, hội nhập nên nguồn ngoại lực dồi dào, đa dạng, phong phú. Nếu khéo huy động sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để phát triển văn hóa văn hóa ở Đông Nam bộ nhanh vươn đến mục tiêu giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nguồn lực để phát triển văn hóa ở Đông Nam bộ dồi dào, hội đủ “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”, giàu giá trị và tiềm năng, đang có nhiều di sản và lợi thế; giàu bản sắc của vùng Đông Nam bộ với những đặc điểm: khả năng giao lưu, kết tinh văn hóa từ nhiều dòng, nhiều lớp, gìn giữ được yếu tố cốt lõi của cội nguồn, tiếp thu nhanh tinh hoa văn hóa của nhân loại, phóng khoáng trong cư xử, khoan dung, rộng mở trong sinh hoạt xã hội; năng lực ứng xử nhạy bén, dễ thích ứng với cái mới, năng động linh hoạt trong phát triển, áp dụng nhanh tiến bộ kỹ thuật, nhất là trong thời đại kỹ thuật số và cách mạng công nghiệp 4.0.
Về vị thế tự nhiên, ở góc nhìn văn hóa, cố GS Trần Quốc Vượng xác định, Đông Nam bộ là vùng “Địa kinh tế – chính trị – văn hóa” có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước. Giáo dục truyền thống cho học sinh phổ thông. Ảnh: Lâm Cón. Theo Nghị quyết 53/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận 27/KL-TW của Bộ Chính trị khóa XI “cần phải huy động tối đa nguồn lực cho phát triển của vùng Đông Nam bộ”. Trong các nguồn lực được huy động, cần chú ý đến nguồn lực văn hóa. Nguồn lực văn hóa được hiểu là hệ thống các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể cấu thành sức mạnh trong phát triển. Các nguồn lực ấy có giá trị chung của đất nước và bản sắc của vùng Đông Nam bộ cần được nhận diện đầy đủ và phát huy tối đa. Gọi là “địa kinh tế” do Đông Nam bộ có địa hình dốc thoải, nối cao nguyên Di Linh với đồng bằng Nam bộ và duyên hải Nam Trung bộ. Sinh thái đa hệ: núi – đồi – rừng – vườn – sông – biển. Hệ thống sông Đồng Nai dòng chảy nội sinh, nước lành quanh năm đủ cho sinh hoạt cộng đồng và phát triển các khu công nghiệp. Giao thông thuận lợi cả về không – thủy – bộ. Thổ nhưỡng giàu phù sa; khí hậu mưa nắng ôn hòa; tài nguyên mặt nước, lòng đất, đủ cho khai thác, phát triển công nghiệp. Có thể nói, đây là vùng “đất lành”, hội đủ “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”, thuận cho phát triển kinh tế, cũng thuận cho giao thương và giao lưu văn hóa. Đông Nam bộ cũng là vùng “địa chính trị”. Đây là nơi khởi đầu, cũng là trung tâm định cư, tích hợp và tiếp biến văn hóa của lớp cư dân Việt “tiền khai canh” ở Nam bộ. Đông Nam bộ là nơi diễn tập tiền Cách mạng Tháng Tám, khởi đầu Nam bộ kháng chiến, nhiều sự khởi đầu sáng tạo trong kháng chiến chống xâm lược; cũng là nơi có nhiều “bi kịch” trong giải quyết mâu thuẫn giữa phép nước và lòng dân, giữa nếp cũ và đổi mới. Về mặt “địa văn hóa”, Đông Nam bộ có những đặc điểm đáng lưu ý: Giao thoa văn hóa nhiều nguồn khác nhau; chủ nhân văn hóa do hội nhập, cộng cư từ người tại chỗ – người Việt – người Hoa; thể hiện tính cộng đồng ở 2 loại công xã: công xã buôn làng (vùng núi) và công xã xóm làng (miệt vườn), giao lưu mật thiết với nhau, không xung đột; tính chất mở, làng mở, mở lòng với đặc điểm ứng xử văn hóa hỗn dung, hòa nhập, tích hợp, tiếp biến với nhiều dòng mạch văn hóa; trong phát triển có tính bền vững và cũng nhiều nguy cơ mai một. Về di sản văn hóa, đây cũng là nguồn lực tài nguyên quý hiếm ở Đông Nam bộ. Theo GS Trần Quốc Vượng, có một nền “cổ văn minh” từng tồn tại và phát triển rực rỡ ở Đông Nam bộ. Nền văn minh cổ ấy có họ hàng với văn minh Phù Nam – Óc Eo – Chămpa; niên đại từ thời đá cũ; hưng thịnh thời sơ kỳ kim khí có niên đại vài ngàn năm trước với các địa danh: Cầu Sắt, Dốc Chùa, Suối Chồn, Cái Lăng, Cái Vạn, Bưng Bạc, Giồng Phệt… Các nhà khảo cổ thống nhất cho rằng, có một trung tâm – công trường luyện kim (đồng, sắt) từ vài ngàn năm trước đây không chỉ để sử dụng nội vùng, còn để giao thương với các vùng khác trong không gian rộng lớn hơn. GS Trần Quốc Vượng đã vẽ sơ đồ giao lưu văn hóa – kinh tế giữa Đông Nam bộ với Tây nguyên, Sa Huỳnh, Tây Nam bộ; không gian văn hóa ở Đông Nam bộ phản ảnh cấu trúc: thánh địa Cát Tiên – sông Đồng Nai, thành Biên Hòa – cảng thị Cần Giờ. Đó là cấu trúc chung của các nền văn cổ Việt Nam: núi (thánh địa) – sông (thành) – biển (cảng thị). Vậy nên, trong quy hoạch phát triển ở Đông Nam bộ hiện nay, cần chú ý tính liên ngành, liên khu vực trong không gian văn hóa rộng lớn hơn địa giới hành chính hiện hành, có cấu trúc tích hợp các thành tố văn hóa xưa và nay, thuộc các vùng miền núi – miệt vườn – miệt biển, của các chủ thể bản địa và người Việt – Kinh, Hoa, Hẹ hội nhập từ thế kỷ XVII. Hệ thống di sản văn hóa lịch sử cách mạng đa dạng trên địa bàn cũng là nguồn lực quan trọng trong tài sản văn hóa cần kết nối liên vùng của miền Đông gian lao, anh dũng. Phát huy nguồn lực di sản văn hóa chính là việc nghiên cứu đầy đủ, xác minh khoa học, bảo vệ trường tồn, đánh thức các giá trị đã có trong đời sống hiện tại, hướng đến tương lai, quảng bá hình ảnh của đất nước, thu hút du khách, đóng góp hương sắc vào di sản văn hóa nhân loại. Trong hành trình phát triển, Đông Nam bộ là một trong những trung tâm định cư đầu tiên, cũng là trung tâm văn hóa đầu tiên được người Việt thiết lập ở phương Nam; đơn vị hành chính nhiều lần thay đổi nhưng chỉ thay đổi ở bộ máy cầm quyền; cơ sở kinh tế, văn hóa ở xã, thôn không bị xáo trộn; đời sống văn hóa luôn mang tính liên vùng không bị chia cắt hoặc lệ thuộc vào địa giới hành chính. Chiến sự liên miên tàn phá làm văn hóa cổ truyền biến dạng, đồng thời cũng tiếp biến với văn hóa Âu Tây theo hướng văn minh hóa, kỹ thuật hóa. Lịch sử hình thành và phát triển Đông Nam bộ tạo ra nguồn lực mang tính quy luật của sự kết tinh và tiếp biến trong phát triển; đó là sự gìn giữ, duy trì, bảo vệ các giá trị cốt lõi, tiếp thu cái mới trong giao lưu văn hóa ngoại vùng, ngoại quốc, dễ hội nhập mà khó xa cội quên nguồn. Nguồn nhân lực để phát triển văn hóa ở Đông Nam bộ có đặc điểm là đa nguồn cư dân, đa dòng mạch văn hóa. Quá trình hình thành cộng đồng dân tộc ở Đông Nam bộ thực chất là quá trình hợp cư bởi các đợt di dân qua các thời kỳ. Làng ở Đông Nam bộ là làng khai phá, không khép kín trong lũy tre làng, tổ chức hành chính – xã hội đơn giản, không phân biệt ngụ cư, dễ tiếp nhận thành viên mới và cũng dễ thay đổi cơ cấu. Chính tính chất hợp cư từ nhiều dân tộc, nhiều đợt di dân với mục đích và lý do khác nhau đã hình thành sắc thái đa nguồn văn hóa của Đông Nam bộ với đặc tính cởi mở, đa hệ, hỗn dung, dễ thâm nhập những nhân tố mới nhưng khó phai mờ những yếu tố cội nguồn. Các nguồn lực về tài vật ở Đông Nam bộ có ưu thế lớn bởi nơi đây kinh tế phát triển, dễ làm ăn, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, nguồn thu ngân sách lớn nên nguồn lực tài lực đầu tư từ trong dân cũng như từ ngân sách đều thuận lợi. Vì vậy, phát huy nguồn lực tài vật trong dân, của dân là lợi thế cũng là đặc điểm trong chính sách đầu tư, phát triển. Về nguồn ngoại lực, cũng vậy, Đông Nam bộ có lợi thế về phát triển kinh tế, ngoại giao, hội nhập nên nguồn ngoại lực dồi dào, đa dạng, phong phú. Nếu khéo huy động sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ để phát triển văn hóa văn hóa ở Đông Nam bộ nhanh vươn đến mục tiêu giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nguồn lực để phát triển văn hóa ở Đông Nam bộ dồi dào, hội đủ “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”, giàu giá trị và tiềm năng, đang có nhiều di sản và lợi thế; giàu bản sắc của vùng Đông Nam bộ với những đặc điểm: khả năng giao lưu, kết tinh văn hóa từ nhiều dòng, nhiều lớp, gìn giữ được yếu tố cốt lõi của cội nguồn, tiếp thu nhanh tinh hoa văn hóa của nhân loại, phóng khoáng trong cư xử, khoan dung, rộng mở trong sinh hoạt xã hội; năng lực ứng xử nhạy bén, dễ thích ứng với cái mới, năng động linh hoạt trong phát triển, áp dụng nhanh tiến bộ kỹ thuật, nhất là trong thời đại kỹ thuật số và cách mạng công nghiệp 4.0.
Dưới lực hút khủng khiếp từ hố đen, ngôi sao đã trải qua quá trình ‘mì ống hóa’ bị kéo dãn và xé toạc ra trước khi bị nuốt chửng. Hiện tượng này được gọi là “mì ống hóa”. Ảnh: ESO. Được mệnh danh là “quái vật của vũ trụ”, hố đen là một trong những bí ẩn vĩ đại nhất trong hành trình khai phá không gian của loài người. Hầu hết hố đen đều rất rộng lớn với lực hấp dẫn mạnh đến mức không một ánh sáng nào có thể thoát ra. Chính vì vậy, chúng càng khó bị phát hiện, âm thầm ảnh hưởng đến quỹ đạo các hành tinh bằng lực hấp dẫn và chờ thời cơ để nuốt chửng mọi vật chất trên đường đi. Mới đây, kính viễn vọng không gian Hubble của NASA đã ghi lại được cảnh tượng đáng sợ này: hố đen “ăn thịt” một ngôi sao giữa vũ trụ. “Những sự kiện như thế này rất khó quan sát, thường chỉ có thể ghi lại phần đầu của quá trình, lúc có nhiều ánh sáng. Lần này, chúng tôi đã có thể quan sát từ rất sớm, nắm bắt trọn vẹn quá trình”, nhà nghiên cứu Peter Maksym của Center for Astrophysics | Harvard & Smithsonian chia sẻ. Hình ảnh từ NASA cho thấy ngôi sao khi đi qua hố đen đã bị lực hấp dẫn hút vào, bị biến dạng và kéo dài ra thành một vệt sáng dài. Hiện tượng này được gọi là “spaghettification” (mì ống hóa), khiến các vật thể các vật thể bị kéo dài và nén ngang thành các hình dạng mỏng dài. Trong trường hợp này, sau khi ngôi sao mà kính Hubble quan sát bị xé ra dang dở, các mảnh vụn đã được hình thành bởi lực kéo cực mạnh từ lỗ đen. Những mảnh vụn này bị hút vào theo từng vệt dài, tạo thành dòng vật chất hình xuyến (torus) tương tự bánh donut và quay quanh lỗ đen một cách hỗn loạn. Sau đó, hố đen sẽ nuốt chửng mọi vật chất này, giải phóng một luồng ánh sáng và nguồn phóng xạ khổng lồ. Quá trình hố đen “ăn thịt” ngôi sao. Ảnh: NASA. “Những hình ảnh ghi nhận được là thời khắc trước khi biến mất của dòng vật chất hình donut. Chúng tôi đã nhìn thấy một cơn gió từ lỗ đen đã quét ngang qua bề mặt với tốc độ 20 triệu dặm/giờ”, Maksym cho biết. Theo các nhà khoa học, đây là một hiện tượng ngoạn mục trong vũ trụ bởi hiện tượng hố đen “ăn thịt” ngôi sao như kính viễn vọng Hubble ghi nhận thường chỉ diễn ra 100.000 năm một lần. Trên thực tế, sự kiện hố đen nuốt chửng ngôi sao không diễn ra trong thời gian thực. Hiện tượng này diễn ra cách Trái Đất 300 triệu năm ánh sáng, đồng nghĩa với việc hố đen đã ăn ngôi sao từ 300 triệu năm về trước. Nhưng đến tận lúc này, ánh sáng mới truyền đến Trái Đất, giúp các nhà khoa học của NASA chứng kiến và ghi nhận. Song, hình ảnh Hubble ghi lại toàn bộ quá trình của “bữa ăn hố đen” là cơ hội vàng để các nhà thiên văn quan sát hố đen bởi nó luôn tăm tối và không thể nhìn thấy được, Cnet nhận định. Được phóng lên quỹ đạo vào năm 1990, Hubble từng là kính viễn vọng không gian mạnh nhất thế giới. Kính viễn vọng Hubble có thể quan sát đặc biệt sắc nét các tia cực tím và ánh sáng nhìn thấy được. Trong hơn 30 năm quan sát, kính thiên văn vũ trụ Hubble đã cho ta biết mỗi thiên hà luôn có một hố đen tồn tại ở trung tâm và kích thước của nó cũng tỉ lệ thuận với kích thước thiên hà. Hình ảnh hố đen đầu tiên được công bố. Ảnh: NASA. Hố đen thường có xu hướng được hình thành khi một ngôi sao lớn chết đi và được mệnh danh là mồ chôn của vật chất vì không có gì có thể thoát được nó, kể cả ánh sáng. Số phận của một ai rơi vào một hố đen thật sự rất thảm khốc. Dưới lực hút khủng khiếp từ hố đen, cơ thể của họ sẽ trải qua quá trình “mì ống hóa” khiến từng bộ phận, xương và thậm chí nguyên tử bị xé rời ra. “Vẫn có rất ít hiện tượng hố đen ăn sao được hệ thống tia cực tím ghi lại bởi chúng sẽ mang lại nhiều thông tin mới. Do đó, chúng tôi rất hào hứng khi giờ đây đã nhận được rất nhiều dữ liệu liên quan đến hố đen từ sự kiện đã ghi lại được”, nhà khoa học Emily Engelthaler của Center for Astrophysics | Harvard & Smithsonian nói. Sự kiện này có tên mã khoa học là AT2022dsb, được ghi lại vào ngày 1/3/2022 bởi đài quan sát thuộc hệ thống All Sky Automated Survey (ASAS). Sự kiện đã thu hút không ít sự quan tâm của giới thiên văn học.
Under the terrible gravitational force from the black hole, the star went through the process of 'spaghetti', being stretched and torn apart before being swallowed. This phenomenon is called “macaroniization”. Photo: ESO. Dubbed the "monster of the universe", black holes are one of the greatest mysteries in humanity's journey to explore space. Most black holes are so vast with gravity so strong that no light can escape. Therefore, they are even more difficult to detect, silently affecting planetary orbits with gravity and waiting for the opportunity to devour all matter on the way. Recently, NASA's Hubble space telescope recorded this terrifying scene: a black hole "eating" a star in the middle of the universe. “Events like this are very difficult to observe, usually only the beginning of the process can be recorded, when there is a lot of light. This time, we were able to observe very early, fully capturing the process,” said researcher Peter Maksym of the Center for Astrophysics | Harvard & Smithsonian share. Images from NASA show that the star, when passing through the black hole, was attracted by gravity, deformed and stretched out into a long streak of light. This phenomenon, called “spaghettification,” causes objects to be stretched and compressed laterally into long, thin shapes. In this case, after the star observed by Hubble was torn apart, the debris was formed by the powerful pull from the black hole. These debris are sucked in in long streaks, forming a torus-shaped stream of matter similar to a donut and orbiting the black hole in a chaotic manner. Then, the black hole will swallow all this matter, releasing a huge stream of light and radiation. The process of the black hole "eating" the star. Photo: NASA. “The images recorded are the moments before the disappearance of the donut-shaped stream of matter. We saw a wind from the black hole that swept across the surface at a speed of 20 million miles per hour,” Maksym said. According to scientists, this is a spectacular phenomenon in the universe because the phenomenon of black holes "eating" stars as recorded by the Hubble telescope usually only happens once every 100,000 years. In reality, the event of a black hole swallowing a star does not take place in real time. This phenomenon took place 300 million light years away from Earth, meaning the black hole ate the star 300 million years ago. But until now, light has only reached Earth, helping NASA scientists witness and record. However, Hubble images recording the entire process of the "black hole meal" are a golden opportunity for astronomers to observe black holes because they are always dark and invisible. Cnet identify. Launched into orbit in 1990, Hubble was once the most powerful space telescope in the world. The Hubble telescope can make exceptionally sharp observations of ultraviolet and visible light. During more than 30 years of observation, the Hubble space telescope has shown us that every galaxy always has a black hole in the center and its size is also proportional to the size of the galaxy. The first image of a black hole is published. Photo: NASA. Black holes tend to be formed when a large star dies and are known as the grave of matter because nothing can escape it, including light. The fate of someone falling into a black hole is truly dire. Under the terrible gravitational force from the black hole, their bodies will undergo a "spaghetti transformation" process, causing every part, bone and even atom to be torn apart. “There are still very few star-eating black hole phenomena recorded by ultraviolet systems because they will bring a lot of new information. Therefore, we are very excited to now receive a wealth of black hole-related data from the recorded event,” Center for Astrophysics scientist Emily Engelthaler | Harvard & Smithsonian said. This event has the scientific code name AT2022dsb, recorded on March 1, 2022 by the observatory of the All Sky Automated Survey (ASAS) system. The event has attracted a lot of attention from astronomers.
‘Sự phục hồi của Việt Nam hậu COVID-19 là rất đáng ngưỡng mộ’ – Đại sứ Philippines tại Việt Nam Meynardo Los Banos Montealegre mở đầu cuộc trả lời phỏng vấn nhân dịp năm mới 2023, khi được hỏi ông đánh giá như thế nào về những nỗ lực phục hồi kinh tế của Việt Nam trong năm qua. Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Philippines tại Việt Nam Meynardo Los Banos Montealegre. Ảnh tư liệu: Thống Nhất/TTXVN. Theo Đại sứ Meynardo Los Banos Montealegre, nhờ chiến dịch tiêm chủng quyết đoán của Chính phủ, người dân ở Việt Nam đã có thể chuyển đổi an toàn và trở lại cuộc sống thường nhật trước đại dịch. “Tôi cũng ấn tượng với những hoạt động sôi động của các cơ quan Chính phủ khác nhau tại Việt Nam. Các chương trình, dự án bị đình trệ trong hai năm qua đã được khởi động lại với sự tham gia mạnh mẽ và nhiệt huyết hơn của các cán bộ, nhân viên và thậm chí của cả người dân,” Ông Meynardo Los Banos Montealegre chia sẻ. Ông Montealegre cho rằng thế giới còn phải đối mặt với nhiều thách thức bao gồm sự gián đoạn chuỗi cung ứng, nhu cầu thấp, chi phí năng lượng và nhiên liệu cao. Ngoài ra, nguy cơ bùng phát trở lại của COVID-19 vẫn hiện hữu. Những yếu tố này không chỉ ảnh hưởng đến Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Trong khi đó, dường như có sự tự tin rằng hiệu quả hoạt động của Việt Nam vẫn ổn định và GDP thậm chí có thể đạt 8%. Tuy nhiên, vào năm 2023, mặc dù triển vọng tăng trưởng kinh tế là rất lớn, các điều kiện hiện tại cũng đặt ra những thách thức đối với việc duy trì phát triển kinh tế. Theo Đại sứ Meynardo Los Banos Montealegre, quan hệ kinh tế Việt Nam -Philippines đã phát triển mạnh mẽ ngay cả trong thời kỳ đỉnh điểm của đại dịch, bằng chứng là tổng kim ngạch thương mại song phương hai nước tăng trưởng ổn định, đạt 5,8 tỷ USD vào năm 2021 và 3,12 tỷ USD tính đến tháng 6/2022. Philippines hy vọng sẽ hợp tác với Việt Nam để đạt được sự cân bằng hơn trong thương mại hai chiều giữa hai nước. Về mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 10 tỷ USD vào năm 2026, ông Montealegre cho rằng cả hai bên cần rà soát ở cấp độ nhóm công tác, các thủ tục đang được thực hiện để đảm bảo quan hệ thương mại thuận lợi và tốt đẹp hơn. Trong khi Việt Nam tiếp tục là nguồn cung cấp gạo nhập khẩu hàng đầu và đáng tin cậy của Philippines, thương mại hai chiều giữa hai nước cũng có thể được cải thiện hơn nữa về những mặt hàng như điện tử, chất bán dẫn, thiết bị và phụ tùng. Ngoài ra, hai nước còn nhiều tiềm năng chưa khai phá về buôn bán hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm. “Chúng tôi cũng muốn thấy nhiều công ty và thương hiệu Philippines hiện diện nhiều hơn tại Việt Nam”, Đại sứ chia sẻ và cho biết thêm rằng các phái đoàn thương mại của cả hai bên nên gặp gỡ thường xuyên hơn để tạo cơ hội tốt hơn cho cả nhà sản xuất và nhập khẩu của Philippines lẫn Việt Nam thảo luận về các thỏa thuận thương mại tiềm năng. Đại sứ cho biết trong năm 2023, Philippines mong muốn có thêm nhiều chuyến thăm cấp cao giữa Việt Nam và Philippines, cũng như nối lại các cơ chế tham vấn song phương và thảo luận nhóm công tác đã bị trì hoãn hai năm qua. “Các cơ chế đối thoại này rất quan trọng để đảm bảo rằng chúng ta duy trì mối quan hệ ngoại giao lành mạnh, vốn là ưu tiên hàng đầu của Philippines xét theo quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam”, ông Montealegre khẳng định. Nói về truyền thống Tết Nguyên đán của Việt Nam, Đại sứ cho biết trong tất cả các dịp lễ của Việt Nam, Tết Nguyên đán gây ấn tượng nhất đối với ông vì tầm quan trọng của ngày lễ này đối với người Việt Nam. Ngày Tết cho thấy giá trị của gia đình và bạn bè, của truyền thống và văn hóa vẫn là trung tâm đối với từng người dân Việt Nam ngay cả khi Việt Nam mong muốn tiến tới một xã hội hiện đại. “Ngày Tết là dịp để mọi người ở Việt Nam suy ngẫm và đánh giá cuộc sống trong năm, trân trọng nguồn cảm hứng và sự hy sinh của tổ tiên, gia đình và bạn bè trong suốt những năm qua; để được tiếp thêm sức mạnh và truyền cảm hứng để bắt đầu lại và phấn đấu cho một năm tốt hơn,” Đại sứ Montealegre nhận xét.
'Vietnam's recovery after COVID-19 is very admirable' - Philippine Ambassador to Vietnam Meynardo Los Banos Montealegre opened an interview on the occasion of the New Year 2023, when asked how he assessed about Vietnam's economic recovery efforts in the past year. Ambassador Extraordinary and Plenipotentiary of the Republic of the Philippines in Vietnam Meynardo Los Banos Montealegre. File photo: Thong Nhat/TTXVN. According to Ambassador Meynardo Los Banos Montealegre, thanks to the Government's decisive vaccination campaign, people in Vietnam have been able to safely transition and return to their daily lives before the pandemic. “I am also impressed with the vibrant activities of various Government agencies in Vietnam. Programs and projects that were stalled over the past two years have been restarted with stronger and more enthusiastic participation from officials, employees and even the people,” Mr. Meynardo Los Banos Montealegre shared. shall. Mr. Montealegre said that the world still faces many challenges including supply chain disruptions, low demand, and high energy and fuel costs. In addition, the risk of a resurgence of COVID-19 still exists. These factors not only affect Vietnam but also other countries. Meanwhile, there seems to be confidence that Vietnam's performance remains stable and GDP could even reach 8%. However, in 2023, although the prospects for economic growth are strong, current conditions also pose challenges to sustaining economic development. According to Ambassador Meynardo Los Banos Montealegre, economic relations between Vietnam and the Philippines have developed strongly even during the peak of the pandemic, as evidenced by the steady growth of total bilateral trade turnover, reaching 5.8 billion USD in 2021 and 3.12 billion USD by June 2022. The Philippines hopes to cooperate with Vietnam to achieve more balance in two-way trade between the two countries. Regarding the goal of increasing bilateral trade turnover to 10 billion USD by 2026, Mr. Montealegre said that both sides need to review at the working group level the procedures being implemented to ensure favorable trade relations. more beneficial and better. While Vietnam continues to be the Philippines' leading and reliable source of imported rice, two-way trade between the two countries can also be further improved in items such as electronics, semiconductors, equipment and spare parts. . In addition, the two countries still have much untapped potential in consumer goods trade and food processing. “We also want to see more companies and brands Philippines have more presence in Vietnam,” the Ambassador shared, adding that trade delegations from both sides should meet more frequently to create better opportunities for both Philippine and Philippine manufacturers and importers. Vietnam discusses potential trade deals. The Ambassador said that in 2023, the Philippines hopes to have more high-level visits between Vietnam and the Philippines, as well as resume bilateral consultation mechanisms and working group discussions that have been delayed for the past two years. “These dialogue mechanisms are important to ensure that we maintain a healthy diplomatic relationship, which is a top priority for the Philippines in terms of its Strategic Partnership with Vietnam,” Mr. Montealegre affirmed. determined. Talking about Vietnam's Lunar New Year tradition, the Ambassador said that of all Vietnamese holidays, Lunar New Year impressed him the most because of the importance of this holiday to Vietnamese people. Tet shows that the value of family and friends, of tradition and culture, remains central to every Vietnamese person even as Vietnam aspires to move towards a modern society. “Tet is an opportunity for everyone in Vietnam to reflect and evaluate life during the year, appreciating the inspiration and sacrifices of ancestors, family and friends throughout the years; to be empowered and inspired to start again and strive for a better year,” commented Ambassador Montealegre.
Ninh Bình nằm ở vị trí giao thoa của nhiều vùng địa chất, khí hậu và văn hóa, thế kỷ X là kinh đô của Nhà nước Đại Cồ Việt. Điều kiện tự nhiên và lịch sử xã hội đã cho vùng đất này cơ hội sở hữu khối lượng di sản văn hóa phong phú, đa dạng trong đó có các di tích khảo cổ cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử cách ngày nay hàng vạn năm đến các giai đoạn lịch sử cách mạng. Nhận thức sâu sắc về giá trị các di tích khảo cổ, những năm qua, Ninh Bình dành sự quan tâm đặc biệt cho việc nghiên cứu khảo cổ học, đồng thời đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ. Long sàng – Bảo vật quốc gia tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng thuộc Khu di tích Cố đô Hoa Lư. Ảnh: Đức Phương/TTXVN. Theo Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình, việc nghiên cứu khảo cổ học ở địa phương bắt đầu từ những năm 60-70 của thế kỷ XX với các cuộc khảo sát của cơ quan nghiên cứu Trung ương như Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia… tại khu vực Cố đô Hoa Lư. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn tỉnh vẫn được duy trì và đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nhận thức rõ ràng hơn về lịch sử vùng đất Ninh Bình trong suốt chiều dài lịch sử. Nhiều loại hình di tích được phát hiện và thám sát, khai quật như: Di tích hang động cổ sinh có niên đại hàng chục vạn năm, các di tích cổ nhân, di chỉ cư trú hang động, mái đá tại khu vực sơn khối đá vôi vùng Tam Điệp, Tràng An – Hoa Lư, Cúc Phương, Nho Quan…di chỉ cư trú – mộ táng ngoài trời thuộc văn hóa Đông Sơn, di tích mộ gạch thời kỳ Bắc thuộc, dấu tích kinh đô Hoa Lư cổ (thành quách, nền móng đền đài, cung điện) thế kỷ X… Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở khu vực Tràng An đóng góp đáng kể vào xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh Di sản thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An năm 2014. Đặc biệt, những phát hiện quan trọng tại Cố đô Hoa Lư những năm gần đây góp phần xác định đây là khu di tích lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử – văn hóa của dân tộc, giữ vai trò trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của Nhà nước mở đầu thời kỳ độc lập và tự chủ. Tiến sĩ Nguyễn Anh Thư, giảng viên Khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho biết, tài nguyên di sản khảo cổ học ở Ninh Bình chứa đựng cả những giá trị quá khứ, giá trị hiện hành và tương lai. Di sản khảo cổ học ở Ninh Bình phong phú, đa dạng phản ánh diễn trình lịch sử và văn hóa của nhiều cộng đồng người theo thời gian, không gian. Bên cạnh di tích khảo cổ được phát hiện, thám sát, khai quật có giá trị lớn, năm 2007, các cuộc nghiên cứu khảo cổ học tại Quần thể danh thắng Tràng An được khởi động, kéo dài 8 năm, góp thêm nhiều tư liệu quý về sự xuất hiện, cư trú của con người thời tiền sử ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở đây là cơ sở để khẳng định Quần thể Danh thắng Tràng An “là một hình mẫu nổi bật về sự tương tác giữa con người và môi trường qua thời gian ở khu vực Ðông – Nam Á trải qua hơn 30.000 năm phát triển, là nơi có giá trị lịch sử và văn hóa vô giá, kho thông tin nguyên vẹn về truyền thống cư trú của loài người; là một trong số ít các địa điểm có giá trị ở Ðông – Nam Á giữ được các đặc điểm ban đầu mà không bị ảnh hưởng lớn bởi con người và các tác nhân khác”. Kết quả trên cùng các giá trị về vẻ đẹp thẩm mỹ và lịch sử, văn hóa khác đã đủ điều kiện để Tràng An được UNESCO vinh danh là di sản kép đầu tiên ở Việt Nam và khu vực Đông – Nam Á. Việc Tràng An trở thành di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo Ninh Bình, trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn đông đảo nhân dân, du khách trong nước, quốc tế, tác động không nhỏ làm chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế của Ninh Bình theo hướng gia tăng giá trị ngành Du lịch, dịch vụ. Theo bà Nguyễn Anh Thư, di sản khảo cổ học ở Ninh Bình có nhiều giá trị khác nhau từ lịch sử, văn hóa, xã hội, đến kinh tế, vật chất… Vì vậy đã đến lúc phải có một chiến lược để di sản khảo cổ học có thể phát huy hiệu quả như tài nguyên đặc biệt, vô giá, lượng định giá trị của di sản khảo cổ một cách khoa học, khách quan, chính xác để có chiến lược và phương thức bảo tồn, phát huy một cách bền vững. Hiện nay, Ninh Bình có gần 450 di sản văn hóa phi vật thể thuộc đủ các loại hình, trong đó có 1 di sản thế giới, 3 di tích quốc gia đặc biệt. Trong số 1.821 di tích của tỉnh, có 388 di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh, 5 bảo vật quốc gia có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật; có 68 di tích khảo cổ được phát hiện, cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử, cách ngày nay hàng vạn năm, đến các giai đoạn cách mạng trong lịch sử hiện đại. Bà Vũ Thanh Lịch, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình cho biết, những kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ ở địa phương đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học và đông đảo công chúng, đóng góp thêm dữ liệu lịch sử cho hoạt động giáo dục, làm sáng rõ quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội ở Ninh Bình. Những kết quả này đồng thời tạo cơ hội để Ninh Bình xây dựng thêm sản phẩm du lịch văn hóa có giá trị, phục vụ đa dạng nhu cầu tham quan, học tập, nghiên cứu của nhân dân và du khách. Từ nhận thức sâu sắc vấn đề này, Sở Văn hóa và Thể thao đã tham mưu, đề xuất triển khai nhiều chương trình, dự án mở rộng nghiên cứu khai quật khảo cổ, đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ, đáp ứng yêu cầu vừa bảo toàn tính nguyên vẹn của các di tích khảo cổ để phục vụ nghiên cứu, học tập vừa trở thành điểm tham quan hấp dẫn cho nhân dân, du khách. Thời gian tới, Sở Văn hóa và Thể thao tiếp tục tổ chức nghiên cứu, điều tra, thăm dò khảo cổ học tại các di tích khảo cổ để quản lý, bảo vệ, triển khai lập quy hoạch khảo cổ học trên địa bàn tỉnh; thực hiện dự án nghiên cứu làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa ở Khu di tích Cố đô Hoa Lư trên cơ sở kết quả nghiên cứu khảo cổ đạt được, đặc biệt là kết quả trong 2 năm vừa qua, hướng tới xây dựng Công viên Di sản khảo cổ – lịch sử – văn hóa tại khu vực này, đồng thời nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại để tái hiện kinh đô Hoa Lư xưa, phục vụ yêu cầu giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu du lịch, giải trí, tham quan, học hỏi của nhân dân và du khách trong nước, quốc tế. Bến đò Tràng An. Ảnh: Minh Đức/TTXVN. Sở xây dựng kế hoạch nghiên cứu, làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa vùng đất từ ngã ba sông Bôi đến kinh đô Hoa Lư, thực hiện biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ học tại xã Gia Thủy, huyện Nho Quan , tiến tới đưa di tích này vào danh mục sản phẩm du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh, tạo cơ hội cho sự phát triển toàn diện, đồng đều về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các vùng, miền trong tỉnh. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực quản lý di sản văn hóa từ tỉnh đến cơ sở; huy động nguồn lực xã hội để đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh; ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số về di sản văn hóa, chú trọng tổ chức trưng bày hình ảnh, tài liệu, hiện vật gốc từ kết quả nghiên cứu khảo cổ nhằm giới thiệu tới du khách, cộng đồng về lịch sử, văn hóa Ninh Bình. Sở thực hiện chương trình khảo cổ học cộng đồng để đông đảo người dân Ninh Bình hiểu biết hơn về lịch sử vùng đất nơi mình sinh ra, lớn lên từ đó cùng tham gia giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Ninh Bình nằm ở vị trí giao thoa của nhiều vùng địa chất, khí hậu và văn hóa, thế kỷ X là kinh đô của Nhà nước Đại Cồ Việt. Điều kiện tự nhiên và lịch sử xã hội đã cho vùng đất này cơ hội sở hữu khối lượng di sản văn hóa phong phú, đa dạng trong đó có các di tích khảo cổ cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử cách ngày nay hàng vạn năm đến các giai đoạn lịch sử cách mạng. Nhận thức sâu sắc về giá trị các di tích khảo cổ, những năm qua, Ninh Bình dành sự quan tâm đặc biệt cho việc nghiên cứu khảo cổ học, đồng thời đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ. Long sàng – Bảo vật quốc gia tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng thuộc Khu di tích Cố đô Hoa Lư. Ảnh: Đức Phương/TTXVN. Theo Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình, việc nghiên cứu khảo cổ học ở địa phương bắt đầu từ những năm 60-70 của thế kỷ XX với các cuộc khảo sát của cơ quan nghiên cứu Trung ương như Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia… tại khu vực Cố đô Hoa Lư. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn tỉnh vẫn được duy trì và đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nhận thức rõ ràng hơn về lịch sử vùng đất Ninh Bình trong suốt chiều dài lịch sử. Nhiều loại hình di tích được phát hiện và thám sát, khai quật như: Di tích hang động cổ sinh có niên đại hàng chục vạn năm, các di tích cổ nhân, di chỉ cư trú hang động, mái đá tại khu vực sơn khối đá vôi vùng Tam Điệp, Tràng An – Hoa Lư, Cúc Phương, Nho Quan…di chỉ cư trú – mộ táng ngoài trời thuộc văn hóa Đông Sơn, di tích mộ gạch thời kỳ Bắc thuộc, dấu tích kinh đô Hoa Lư cổ (thành quách, nền móng đền đài, cung điện) thế kỷ X… Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở khu vực Tràng An đóng góp đáng kể vào xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh Di sản thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An năm 2014. Đặc biệt, những phát hiện quan trọng tại Cố đô Hoa Lư những năm gần đây góp phần xác định đây là khu di tích lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử – văn hóa của dân tộc, giữ vai trò trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của Nhà nước mở đầu thời kỳ độc lập và tự chủ. Tiến sĩ Nguyễn Anh Thư, giảng viên Khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho biết, tài nguyên di sản khảo cổ học ở Ninh Bình chứa đựng cả những giá trị quá khứ, giá trị hiện hành và tương lai. Di sản khảo cổ học ở Ninh Bình phong phú, đa dạng phản ánh diễn trình lịch sử và văn hóa của nhiều cộng đồng người theo thời gian, không gian. Bên cạnh di tích khảo cổ được phát hiện, thám sát, khai quật có giá trị lớn, năm 2007, các cuộc nghiên cứu khảo cổ học tại Quần thể danh thắng Tràng An được khởi động, kéo dài 8 năm, góp thêm nhiều tư liệu quý về sự xuất hiện, cư trú của con người thời tiền sử ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở đây là cơ sở để khẳng định Quần thể Danh thắng Tràng An “là một hình mẫu nổi bật về sự tương tác giữa con người và môi trường qua thời gian ở khu vực Ðông – Nam Á trải qua hơn 30.000 năm phát triển, là nơi có giá trị lịch sử và văn hóa vô giá, kho thông tin nguyên vẹn về truyền thống cư trú của loài người; là một trong số ít các địa điểm có giá trị ở Ðông – Nam Á giữ được các đặc điểm ban đầu mà không bị ảnh hưởng lớn bởi con người và các tác nhân khác”. Kết quả trên cùng các giá trị về vẻ đẹp thẩm mỹ và lịch sử, văn hóa khác đã đủ điều kiện để Tràng An được UNESCO vinh danh là di sản kép đầu tiên ở Việt Nam và khu vực Đông – Nam Á. Việc Tràng An trở thành di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo Ninh Bình, trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn đông đảo nhân dân, du khách trong nước, quốc tế, tác động không nhỏ làm chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế của Ninh Bình theo hướng gia tăng giá trị ngành Du lịch, dịch vụ. Theo bà Nguyễn Anh Thư, di sản khảo cổ học ở Ninh Bình có nhiều giá trị khác nhau từ lịch sử, văn hóa, xã hội, đến kinh tế, vật chất… Vì vậy đã đến lúc phải có một chiến lược để di sản khảo cổ học có thể phát huy hiệu quả như tài nguyên đặc biệt, vô giá, lượng định giá trị của di sản khảo cổ một cách khoa học, khách quan, chính xác để có chiến lược và phương thức bảo tồn, phát huy một cách bền vững. Hiện nay, Ninh Bình có gần 450 di sản văn hóa phi vật thể thuộc đủ các loại hình, trong đó có 1 di sản thế giới, 3 di tích quốc gia đặc biệt. Trong số 1.821 di tích của tỉnh, có 388 di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh, 5 bảo vật quốc gia có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật; có 68 di tích khảo cổ được phát hiện, cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử, cách ngày nay hàng vạn năm, đến các giai đoạn cách mạng trong lịch sử hiện đại. Bà Vũ Thanh Lịch, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình cho biết, những kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ ở địa phương đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học và đông đảo công chúng, đóng góp thêm dữ liệu lịch sử cho hoạt động giáo dục, làm sáng rõ quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội ở Ninh Bình. Những kết quả này đồng thời tạo cơ hội để Ninh Bình xây dựng thêm sản phẩm du lịch văn hóa có giá trị, phục vụ đa dạng nhu cầu tham quan, học tập, nghiên cứu của nhân dân và du khách. Từ nhận thức sâu sắc vấn đề này, Sở Văn hóa và Thể thao đã tham mưu, đề xuất triển khai nhiều chương trình, dự án mở rộng nghiên cứu khai quật khảo cổ, đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ, đáp ứng yêu cầu vừa bảo toàn tính nguyên vẹn của các di tích khảo cổ để phục vụ nghiên cứu, học tập vừa trở thành điểm tham quan hấp dẫn cho nhân dân, du khách. Thời gian tới, Sở Văn hóa và Thể thao tiếp tục tổ chức nghiên cứu, điều tra, thăm dò khảo cổ học tại các di tích khảo cổ để quản lý, bảo vệ, triển khai lập quy hoạch khảo cổ học trên địa bàn tỉnh; thực hiện dự án nghiên cứu làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa ở Khu di tích Cố đô Hoa Lư trên cơ sở kết quả nghiên cứu khảo cổ đạt được, đặc biệt là kết quả trong 2 năm vừa qua, hướng tới xây dựng Công viên Di sản khảo cổ – lịch sử – văn hóa tại khu vực này, đồng thời nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại để tái hiện kinh đô Hoa Lư xưa, phục vụ yêu cầu giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu du lịch, giải trí, tham quan, học hỏi của nhân dân và du khách trong nước, quốc tế. Bến đò Tràng An. Ảnh: Minh Đức/TTXVN. Sở xây dựng kế hoạch nghiên cứu, làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa vùng đất từ ngã ba sông Bôi đến kinh đô Hoa Lư, thực hiện biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ học tại xã Gia Thủy, huyện Nho Quan , tiến tới đưa di tích này vào danh mục sản phẩm du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh, tạo cơ hội cho sự phát triển toàn diện, đồng đều về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các vùng, miền trong tỉnh. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực quản lý di sản văn hóa từ tỉnh đến cơ sở; huy động nguồn lực xã hội để đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh; ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số về di sản văn hóa, chú trọng tổ chức trưng bày hình ảnh, tài liệu, hiện vật gốc từ kết quả nghiên cứu khảo cổ nhằm giới thiệu tới du khách, cộng đồng về lịch sử, văn hóa Ninh Bình. Sở thực hiện chương trình khảo cổ học cộng đồng để đông đảo người dân Ninh Bình hiểu biết hơn về lịch sử vùng đất nơi mình sinh ra, lớn lên từ đó cùng tham gia giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Nguyễn Nhật Ánh – nhà văn quen thuộc với hàng dài độc giả chờ ký tặng mỗi dịp ra mắt tác phẩm mới, vẫn bền bỉ chứng tỏ sức hút văn chương qua truyện dài mới nhất ‘Những người hàng xóm’. Tác phẩm mới này do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành (gồm phiên bản bìa mềm in thường và phiên bản đặc biệt in màu) chưa đầy 250 trang, là câu chuyện không phải dành riêng cho bạn trẻ mà có thể cho bất cứ ai chịu ngồi lại, thư thái cảm nhận cuộc sống vào một dịp cuối tuần. Như tên gọi, truyện dài “Những người hàng xóm” kể về những con người sống quanh khu nhà của Rémy – nhân vật dẫn chuyện, xưng “tôi” trong tác phẩm. Những con người nhiều lứa tuổi, nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng cuộc sống của họ và cách họ đối xử với nhau (đôi khi rất âm thầm) qua ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh đã mang lại cho chúng ta nhiều cảm xúc tích cực. Như mấy lời mở đầu của nhà văn, thì câu chuyện này ra đời từ chuyến rong chơi hai tháng của ông ở nước ngoài. Và bên cạnh chuyện thăm thú những danh lam thắng cảnh, khám phá nền văn hóa độc đáo xứ người, là một nhà văn, Nguyễn Nhật Ánh đã hào hứng bắt tay vào một cuốn truyện mới-với bối cảnh và những nhân vật hoàn toàn mới mẻ. Cuốn truyện không viết về tuổi học trò tinh quái, lắm chiêu mà kể về những người hàng xóm đã trưởng thành, thậm chí đã và sắp hoàn thành nhiệm vụ của đời mình, nhưng chất thơ ngây, trong trẻo vẫn lấp lánh. Là bởi vì cuộc sống vốn thế hay vì nó được chiếu qua lăng kính của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh? Rémy-nhân vật dẫn chuyện là chàng trai Bỉ, lấy vợ Việt Nam, có ông bố vợ là nhà văn nổi tiếng, có sách bán trên amazon. Anh chàng trong lúc chờ việc mới, tập tành viết văn và bắt đầu bằng việc quan sát, thấu hiểu chính những người hàng xóm của mình. Đó là Arnaud, một doanh nhân thành đạt và bà mẹ Dorothé thích nuôi ngựa, ưa sống tự lập. Không thuyết phục được mẹ nhận tiền giúp đỡ của mình, Arnaud nghĩ ra cách thuê lại một căn nhà đang bỏ trống của mẹ với lý do là để yên tĩnh viết văn. Đó là ông Simon với khu vườn trồng rất nhiều hoa tuylip, một ngôi nhà đẹp cổ kính. Nhưng sau khi bước vào tuổi 93 thì ông “tiện chân bước qua thế giới bên kia luôn”. Ông Simon ra đi, nhưng con chim ác là vốn đã quen đậu trên nhánh cây sồi cạnh cửa phòng ông để nghe ông chơi phong cầm, thì vẫn cứ đợi ông trên nhánh cây sồi. Bên cạnh đó là câu chuyện vợ chồng Ruben và ông Jakob. Gia đình Ruben mua nhà của ông Jakob 80 tuổi với giá rẻ, trả góp trong vòng 15 năm với điều kiện: khi nào người bán qua đời thì mới được chuyển vào ở. Nhưng đã 17 năm trôi qua mà nhà Ruben vẫn chưa được chuyển tới nhà mới… Các nhân vật hàng xóm và câu chuyện của họ chỉ quanh quanh nhịp sống thường ngày nhưng ai nấy đều có nét cá tính riêng. Bà Dorothé bướng bỉnh, cô Joséphine nói huyên thuyên…Mà cuối cùng, khi nhà văn hạ màn thì những bất ngờ dần dần dần hé lộ… Hóa ra bà Dorothé tinh quái biết thừa ý đồ của anh chàng Arnaud vì “ta sinh ra nó mà” và bà vờ đồng ý để “cho nó vui”. Nhưng xúc động và bất ngờ hơn là chuyện về Ruben, dù trước tình thế vẫn phải chờ đợi vào nhà mới, nhưng khi ông Jakob bị tai nạn, nguy đến tính mạng, chính anh là người âm thầm hiến máu cứu ông. Do cùng thuộc hàng nhóm máu hiếm, sau này ông Jakob mới biết chuyện. Và đến một thời điểm thích hợp, ông đã đủ can đảm rút ống thở để đến gặp người vợ ra đi từ thuở thanh xuân của mình, và để Ruben được vào nhà mới. Các nhân vật khác trong “Những người hàng xóm” cũng tìm được hạnh phúc của mình theo tình huống khác nhau, nhưng đều mang màu sắc của sự sẻ chia, tiếp nối. Nguyễn Nhật Ánh vẫn giữ được chất giọng hom hóm, trong sáng của mình và ông cũng chuyển tải được cho các nhân vật những nét “quái quái” khác nhau. Giữ niềm ngây thơ trong trẻo, lòng nhân hậu, sự tử tế có lẽ là một cách để duy trì mối giao cảm với đời sống tuy nhọc nhằn nhưng còn rất nhiều điều tốt đẹp. Ông Jakob yêu hội họa, thơ văn, sau khi đoàn tụ với vợ quá cố của mình, còn để lại những vần thơ mang lại xúc cảm cho những người hàng xóm trẻ tuổi: “ Bấy giờ, với đôi chân đã mỏi/ Anh đi tìm em/ Bấy giờ, với tấm lưng đã còng/ Anh đi tìm em/ Bấy giờ, ôm tuổi già trong tay/ Như ôm một bó hoa đã héo/ Anh đi tìm em… ”. Và ông nói về Ruben: “ Ruben là người tử tế. Người tử tế cao hơn người đàng hoàng một bậc. Người đàng hoàng sống ngay ngắn, không làm hại ai. Còn người tử tế là người sẵn sàng chịu thiệt thòi vì người khác .” Cùng với những con người trong trẻo, dễ mến, Nguyễn Nhật Ánh với chất thơ quen thuộc còn mang đến góc nhìn thiên nhiên, cuộc sống tha thiết. “ Tôi nhẩn nha viết. Viết tới đâu tôi vẽ minh họa tới đó. Tôi vẽ ông Jakob ngồi dưới cây liễu roi. Tôi vẽ bà Dorothé lừa ngựa về tàu trong ánh chiều tà. Tôi vẽ mấy đứa nhóc nhà Ruben đang đong đưa trên xích đu. Tôi vẽ cả con chó Rex ham chơi, vẽ cặp vợ chồng gà lôi lén lút làm tổ trong vườn nhà tôi-bí mật đến nỗi suýt chút nữa tôi làm tan tành ổ trứng của tụi nó khi cắt cỏ trong vườn. Tôi vẽ con ác là sầu muộn trên nhánh sồi, vẽ cây táo trong vườn nhà mới nhú lên có chút xíu mà đã tíu tít nở hoa… ” Hay: “ Khắp bãi chăn, cúc dại vàng và bồ công anh trắng muốt trổ hoa li ti giống như ai khâu vô số bông hoa lên thảm cỏ xanh và trên tấm thảm dịu mắt đó bao giờ tôi cũng nhìn thấy ít nhất một con ngựa đứng rủ bờm bên kia hàng rào. Trông nó thinh lặng không khác gì con ác là trên cành sồi bên nhà ông Simon…” Cuốn sách cũng thông qua nhân vật Rémy gửi gắm sẻ chia về nghề viết. Rằng cuộc sống thường nhật ngoài kia chính là chất liệu tuyệt vời của nhà văn. Một cuốn sách ra đời và kết thúc thật giản dị đều bắt đầu bằng cách nhìn ra cửa sổ, và đến một lúc nào đó là “học cách nhìn vào thế giới nội tâm của mình”. Viết một cuốn sách hay là sống một cuộc đời thì có lẽ cũng đều là cách để mình nghiền ngẫm về con người, về thế giới. Và quá trình đó cũng là quá trình học cách nhìn, như bố vợ chàng Rémy đã tóm tắt: “ Nếu con biết cách mở cửa sổ, đời sống sẽ tràn vào trang viết của con. Đôi khi chúng ta vẫn nhìn đấy, nhưng chúng ta không thấy. Nếu trái tim con đập vì con người, thậm chí đập vì một con chim, con sẽ nhìn thấy rất nhiều thứ ”.
Nguyen Nhat Anh – a familiar writer with long lines of readers waiting to sign autographs every time a new work is released, still persistently proves his literary appeal through his latest long story 'The Neighbors'. This new work published by Tre Publishing House (including a regular paperback version and a special color edition) has less than 250 pages, and is a story not just for young people but can be read by anyone willing to read. Sit back, relax and enjoy life on a weekend. As the name suggests, the long story "Neighbors" tells about the people living around Remy's house - the narrator, who calls himself "I" in the work. People of many ages and different circumstances, but their lives and the way they treat each other (sometimes very silently) through the pen of Nguyen Nhat Anh have brought us many positive emotions. According to the writer's opening words, this story was born from his two-month trip abroad. And besides visiting scenic spots and discovering the country's unique culture, as a writer, Nguyen Nhat Anh was excited to embark on a new story - with a completely different setting and characters. new. The story is not about mischievous and clever students, but about neighbors who have grown up and have even completed their life's mission, but their innocence and purity still sparkle. Is it because life is like that or because it is shown through the lens of writer Nguyen Nhat Anh? Remy - the narrator is a Belgian guy, married to a Vietnamese woman, whose father-in-law is a famous writer, whose books are sold on Amazon. While waiting for a new job, he practiced writing and started by observing and understanding his own neighbors. They are Arnaud, a successful businessman, and his mother, Dorothé, likes to raise horses and live independently. Unable to convince his mother to accept his help, Arnaud came up with a way to rent his mother's vacant house under the pretext of writing in peace. That's Mr. Simon with a garden full of tulips and a beautiful, ancient house. But after turning 93, he "conveniently stepped into the other world." Mr. Simon left, but the magpie, which was used to perching on the oak branch next to his door to listen to him play the organ, still waited for him on the oak branch. Besides, there is the story of husband and wife Ruben and Mr. Jakob. Ruben's family bought the house of 80-year-old Mr. Jakob at a cheap price, paid in installments within 15 years with the condition: only when the seller passes away can they move in. But 17 years have passed and Ruben's family still hasn't moved to a new house... The neighborhood characters and their stories revolve around daily life, but everyone has their own personality. Mrs. Dorothé was stubborn, Miss Joséphine chattered... But in the end, when the writer ended the curtain, the surprises gradually revealed... It turned out that the mischievous Mrs. Dorothé knew all about Arnaud's intentions because "I gave birth to him." "and she pretended to agree to "make him happy". But more touching and surprising is the story about Ruben. Even though he still had to wait to move into a new home, when Mr. Jakob had an accident, his life was in danger, he was the one who silently donated blood to save him. Because they belong to the same rare blood group, Mr. Jakob only learned about it later. And at the right time, he was brave enough to take out the breathing tube to meet his wife who had passed away when he was young, and let Ruben enter his new home. Other characters in "Neighbors" also find their happiness in different situations, but all have the color of sharing and continuity. Nguyen Nhat Anh Still retains his friendly, pure voice and he also conveys different "weird" features to the characters. Maintaining innocence, kindness, and kindness is perhaps a way to maintain a relationship with life that, although difficult, still has many good things. Mr. Jakob loved painting and poetry, and after reuniting with his late wife, he left behind poems that brought emotions to his young neighbors: " Then, with tired legs/ I searched for you/ Then, with a hunched back/ I searched for you/ Then, holding old age in my arms/ Like holding a bouquet of wilted flowers/ I searched for you... ”. And he said of Ruben: “ Ruben is a kind person. A kind person is one level higher than a decent person. A decent person lives uprightly and does not harm anyone. A kind person is someone who is willing to suffer for others .” Along with the clear and likable people, Nguyen Nhat Anh with his familiar poetry also brings a passionate perspective on nature and life. “ I leisurely write. Wherever I write, I draw illustrations. I drew Mr. Jakob sitting under the Whomping Willow tree. I drew Mrs. Dorothé riding her horse back to the ship in the sunset. I drew Ruben's kids swinging on the swing. I drew a playful Rex dog, and a pheasant couple secretly nesting in my garden - so secret that I almost shattered their eggs while cutting the grass in the garden. I drew a sad magpie on an oak branch, drew an apple tree in my garden that had just sprouted a little but was already blooming... ” Or: “ All over the paddock, yellow wild chrysanthemums and white dandelions bloomed tiny flowers as if someone had sewn countless flowers onto a carpet of green grass, and on that gentle carpet I always saw at least one horse standing with its mane hanging down. the other side of the fence. It looked as silent as the magpie on the oak branch next to Simon's house..." The book also shares information about the writing profession through the character Remy. That everyday life out there is great material for writers. A book that begins and ends simply begins by looking out the window, and at some point "learning to look into your inner world". Writing a book or living a life is probably a way for me to reflect on people and the world. And that process is also the process of learning to see, as Rémy's father-in-law summarized: " If you know how to open the window, life will flow into your writing. Sometimes we still look, but we don't see. If your heart beats for a human being, even beats for a bird, you will see many things ”.
Bước vào năm 2023, TP Hồ Chí Minh xác định mục tiêu giữ vững ổn định, ngăn chặn suy giảm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và chăm lo sức khỏe nhân dân. Cùng đó, thành phố cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư; tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài theo tiêu chí phù hợp với điều kiện mới; hoàn thành việc quy hoạch, tập trung phát triển đồng bộ hạ tầng giao thông, chỉnh trang đô thị. Với các mục tiêu trên, TP Hồ Chí Minh đã và đang từng bước đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế; trong đó, không ngừng củng cố về mọi mặt để tạo đòn bảy vững chắc cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Bài 1: Sẵn sàng bứt phá Sau một năm phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội đầy khó khăn, Chương trình phục hồi phát triển kinh tế – xã hội của thành phố tiếp tục phát huy tác dụng, các lĩnh vực kinh tế có mức tăng trưởng khá, các dự án, công trình trọng điểm được triển khai theo đúng kế hoạch; việc tháo gỡ khó khăn các dự án đầu tư đã tác động tích cực đến môi trường đầu tư; tình hình dịch bệnh được tiếp tục được kiểm soát hiệu quả; tinh thần đoàn kết trong hệ thống chính trị và đồng thuận xã hội tăng lên, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đến niềm tin của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Qua đó, góp phần tạo động lực, nền tảng vững chắc cho TP Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ hơn trong năm 2023. Năm 2022, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do hậu quả của đại dịch COVID-19 và sự biến động phức tạp, khó lường của tình hình thế giới vượt ra ngoài dự báo đầu năm, song sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Trung ương, với ý chí quyết tâm của hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; tình hình kinh tế – xã hội thành phố đã phục hồi nhanh và khá toàn diện. Theo đánh giá chung của UBND TP Hồ Chí Minh, năm 2022, kinh tế phục Thành phố hồi nhanh, đồng bộ và khá toàn diện; đã triển khai thực hiện hiệu quả Giai đoạn 1 Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội thành phố; dịch bệnh tiếp tục được kiểm soát, hệ thống y tế cơ sở được quan tâm củng cố, các biện pháp y tế chiến lược được tăng cường. Cụ thể quy mô, tốc độ tăng trưởng các ngành, lĩnh vực cơ bản đạt trạng thái trước khi có dịch COVID-19. Tổng sản phẩm trên địa bàn Thành phố (GRDP) ước tăng 9,03% so với năm 2021 và vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch 2022 là 6-6,5%). Thu ngân sách trên địa bàn đạt 471.562 tỷ đồng, đạt gần 122% dự toán và tăng 23,6% so với năm 2021. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của thành phố duy trì tốc độ tăng trưởng tốt; trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 49,5 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm 2021 (năm 2021 so với năm trước giảm 1,0%); tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 66,2 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021 (năm 2021 so với năm trước giảm 1,0% tăng 12,95). Các dự án, công trình trọng điểm được triển khai theo đúng kế hoạch, thành phố đã khánh thành cầu Thủ Thiêm 2 (nay được đổi tên là cầu Ba Son), hoàn thành các thủ tục khởi công dự án Vành đai 3 và nhiều công trình, dự án hạ tầng quan trọng. Triển khai các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; việc cải cách hành chính được quan tâm thực hiện. Hoàn thành tổng kết Nghị quyết số 16/NQ-CP của Chính phủ: Về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19 và được Bộ Chính trị thống nhất ban hành Nghị quyết mới về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đề xuất trình và được Quốc hội cho phép thành phố kéo dài việc thực hiện Nghị quyết số 54/NQ-CP, ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025, đến khi có nghị quyết mới; xây dựng dự thảo nghị quyết mới thay thế, dự kiến trình Chính phủ dự thảo nghị quyết mới để trình Quốc hội tại kỳ họp giữa năm năm 2023. Để đạt được những kết quả nổi bật nêu trên, ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh cho biết, ngay từ đầu năm 2022, trên cơ sở quán triệt các nghị quyết của Trung ương, thành phố đã chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai các giải pháp đồng bộ, phân công cụ thể các đơn vị thực hiện. Trong quá trình triển khai, nhờ sự quan tâm, hỗ trợ tích cực của các cơ quan Trung ương, các địa phương trong cả nước; sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp, các tổ chức, đến nay có thể khẳng định, việc triển khai thực hiện nghị quyết của Chính phủ đạt nhiều kết quả tích cực. Đoàn tàu metro Bến Thành – Suối Tiên chạy thử nghiệm đoạn trên cao từ ga Suối Tiên đến ga Bình Thái, trong buổi sáng ngày 21/12/2022. Ảnh: Mạnh Linh/Báo Tin tức. Dự báo nền kinh tế trong nước, cũng như trên địa bàn thành phố sẽ phải tiếp tục đối mặt rất nhiều khó khăn, thách thức, mang tính chất nhanh, mạnh, khó lường, tác động lớn và khá toàn diện, mang tính cộng hưởng. Tuy nhiên, TP Hồ Chí Minh quyết tâm đề ra các mục tiêu, nhóm giải pháp cụ thể để tiếp tục duy trì đà tăng tưởng kinh tế, tích cực đóng góp cho sự phát triển chung của kinh tế cả nước. Thông tin về những mục tiêu trong năm 2023 của thành phố, ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh cho biết, thành phố xác định chủ đề năm 2023: “Nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải thiện môi trường đầu tư; thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội” với 17 chỉ tiêu chủ yếu; trong đó có 7 chỉ tiêu về kinh tế. Đó là: tốc độ tăng trưởng GRDP từ 7,5% – 8%; hoàn thành 100% chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước; duy trì tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP trên 60%; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt từ 95% trở lên… Trong năm 2023, thành phố tổ chức sơ kết, đánh giá kết quả triển khai thực hiện 49 chương trình, đề án và sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XI; đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành lập Quy hoạch Thành phố thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung Thành phố đến năm 2040; Đồ án quy hoạch chung thành phố Thủ Đức thuộc TP Hồ Chí Minh đến năm 2040. Theo UBND TP Hồ Chí Minh, thành phố cũng tiến hành xây dựng tiêu chí thu hút FDI, đề án huy động đầu tư xã hội; chính sách phát huy kiều hối và định hướng dòng tiền chảy vào sản xuất kinh doanh. Đồng thời, thành phố triển khai kế hoạch sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý tài sản công; kế hoạch bán đấu giá nhà đất công, đề án khai thác quỹ đất dọc metro, dọc Vành đai 3… “Tất cả những đề án này là cơ chế, tạo kênh để huy động nguồn lực trong và ngoài ngân sách để đạt mục tiêu tổng đầu tư xã hội đạt 35%”, ông Phan Văn Mãi nhấn mạnh. TP Hồ Chí Minh tập trung tái cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tính tự chủ và khả năng chống chịu, thích ứng; phát triển kinh tế số và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số; chuyển đổi mô hình các khu công nghiệp, khu chế xuất, công nghệ cao; hỗ trợ các ngành công nghiệp trọng yếu phát triển các sản phẩm chủ lực có lợi thế cạnh tranh tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển logistics, thúc đẩy đề án xây dựng trung tâm tài chính quốc tế, phát triển du lịch thông minh. Về kết nối hạ tầng, UBND TP Hồ Chí Minh cho biết sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện, đưa vào sử dụng các dự án kết cấu hạ tầng trọng yếu, nhất là dự án đường sắt đô thị số 1 (Bến Thành – Suối Tiên), dự án giải quyết ngập do triều cường khu vực TP Hồ Chí Minh có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu (giai đoạn 1); khẩn trương triển khai thực hiện dự án đường sắt đô thị số 2 (Bến Thành – Tham Lương), đường Vành đai 3, cao tốc TP Hồ Chí Minh – Mộc Bài, dự án nhà ga T3 Tân Sơn Nhất, Rạch Xuyên Tâm… Để đạt mục tiêu đặt ra, lãnh đạo UBND TP Hồ Chí Minh xác định tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng các nguồn lực cho đầu tư phát triển, quyết tâm hoàn thành kế hoạch đầu tư công; tăng cường quản lý, sử dụng nhà, đất và tài sản khác gắn liền với đất thuộc sở hữu nhà nước; khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, bổ sung vốn cho đầu tư chỉnh trang đô thị, xây dựng nhà ở xã hội, cải thiện môi trường. Tiếp tục giải quyết những vấn đề quan trọng cấp bách của thành phố, trước hết là đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn chỉnh 3 quy hoạch Quy hoạch chung thành phố Thủ Đức đến năm 2040; Quy hoạch TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và điều chỉnh quy hoạch chung TP Hồ Chí Minh đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060 và Chiến lược quản lý phát triển hành lang sông Sài Gòn; tập trung khai thác tiềm năng chỉnh trang đô thị, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển công viên cây xanh, chống ngập và xử lý nước thải, quy hoạch xử lý chất thải rắn. ——————- Tạo đòn bẩy vững chắc cho tăng trưởng kinh tế – Bài cuối: Chú trọng những khâu đột phá
Bước vào năm 2023, TP Hồ Chí Minh xác định mục tiêu giữ vững ổn định, ngăn chặn suy giảm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội và chăm lo sức khỏe nhân dân. Cùng đó, thành phố cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư; tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài theo tiêu chí phù hợp với điều kiện mới; hoàn thành việc quy hoạch, tập trung phát triển đồng bộ hạ tầng giao thông, chỉnh trang đô thị. Với các mục tiêu trên, TP Hồ Chí Minh đã và đang từng bước đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế; trong đó, không ngừng củng cố về mọi mặt để tạo đòn bảy vững chắc cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Bài 1: Sẵn sàng bứt phá Sau một năm phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội đầy khó khăn, Chương trình phục hồi phát triển kinh tế – xã hội của thành phố tiếp tục phát huy tác dụng, các lĩnh vực kinh tế có mức tăng trưởng khá, các dự án, công trình trọng điểm được triển khai theo đúng kế hoạch; việc tháo gỡ khó khăn các dự án đầu tư đã tác động tích cực đến môi trường đầu tư; tình hình dịch bệnh được tiếp tục được kiểm soát hiệu quả; tinh thần đoàn kết trong hệ thống chính trị và đồng thuận xã hội tăng lên, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đến niềm tin của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Qua đó, góp phần tạo động lực, nền tảng vững chắc cho TP Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ hơn trong năm 2023. Năm 2022, trong bối cảnh cực kỳ khó khăn do hậu quả của đại dịch COVID-19 và sự biến động phức tạp, khó lường của tình hình thế giới vượt ra ngoài dự báo đầu năm, song sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Trung ương, với ý chí quyết tâm của hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; tình hình kinh tế – xã hội thành phố đã phục hồi nhanh và khá toàn diện. Theo đánh giá chung của UBND TP Hồ Chí Minh, năm 2022, kinh tế phục Thành phố hồi nhanh, đồng bộ và khá toàn diện; đã triển khai thực hiện hiệu quả Giai đoạn 1 Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội thành phố; dịch bệnh tiếp tục được kiểm soát, hệ thống y tế cơ sở được quan tâm củng cố, các biện pháp y tế chiến lược được tăng cường. Cụ thể quy mô, tốc độ tăng trưởng các ngành, lĩnh vực cơ bản đạt trạng thái trước khi có dịch COVID-19. Tổng sản phẩm trên địa bàn Thành phố (GRDP) ước tăng 9,03% so với năm 2021 và vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch 2022 là 6-6,5%). Thu ngân sách trên địa bàn đạt 471.562 tỷ đồng, đạt gần 122% dự toán và tăng 23,6% so với năm 2021. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của thành phố duy trì tốc độ tăng trưởng tốt; trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 49,5 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm 2021 (năm 2021 so với năm trước giảm 1,0%); tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 66,2 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021 (năm 2021 so với năm trước giảm 1,0% tăng 12,95). Các dự án, công trình trọng điểm được triển khai theo đúng kế hoạch, thành phố đã khánh thành cầu Thủ Thiêm 2 (nay được đổi tên là cầu Ba Son), hoàn thành các thủ tục khởi công dự án Vành đai 3 và nhiều công trình, dự án hạ tầng quan trọng. Triển khai các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; việc cải cách hành chính được quan tâm thực hiện. Hoàn thành tổng kết Nghị quyết số 16/NQ-CP của Chính phủ: Về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19 và được Bộ Chính trị thống nhất ban hành Nghị quyết mới về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đề xuất trình và được Quốc hội cho phép thành phố kéo dài việc thực hiện Nghị quyết số 54/NQ-CP, ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025, đến khi có nghị quyết mới; xây dựng dự thảo nghị quyết mới thay thế, dự kiến trình Chính phủ dự thảo nghị quyết mới để trình Quốc hội tại kỳ họp giữa năm năm 2023. Để đạt được những kết quả nổi bật nêu trên, ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh cho biết, ngay từ đầu năm 2022, trên cơ sở quán triệt các nghị quyết của Trung ương, thành phố đã chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai các giải pháp đồng bộ, phân công cụ thể các đơn vị thực hiện. Trong quá trình triển khai, nhờ sự quan tâm, hỗ trợ tích cực của các cơ quan Trung ương, các địa phương trong cả nước; sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp, các tổ chức, đến nay có thể khẳng định, việc triển khai thực hiện nghị quyết của Chính phủ đạt nhiều kết quả tích cực. Đoàn tàu metro Bến Thành – Suối Tiên chạy thử nghiệm đoạn trên cao từ ga Suối Tiên đến ga Bình Thái, trong buổi sáng ngày 21/12/2022. Ảnh: Mạnh Linh/Báo Tin tức. Dự báo nền kinh tế trong nước, cũng như trên địa bàn thành phố sẽ phải tiếp tục đối mặt rất nhiều khó khăn, thách thức, mang tính chất nhanh, mạnh, khó lường, tác động lớn và khá toàn diện, mang tính cộng hưởng. Tuy nhiên, TP Hồ Chí Minh quyết tâm đề ra các mục tiêu, nhóm giải pháp cụ thể để tiếp tục duy trì đà tăng tưởng kinh tế, tích cực đóng góp cho sự phát triển chung của kinh tế cả nước. Thông tin về những mục tiêu trong năm 2023 của thành phố, ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh cho biết, thành phố xác định chủ đề năm 2023: “Nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải thiện môi trường đầu tư; thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội” với 17 chỉ tiêu chủ yếu; trong đó có 7 chỉ tiêu về kinh tế. Đó là: tốc độ tăng trưởng GRDP từ 7,5% – 8%; hoàn thành 100% chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước; duy trì tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP trên 60%; tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt từ 95% trở lên… Trong năm 2023, thành phố tổ chức sơ kết, đánh giá kết quả triển khai thực hiện 49 chương trình, đề án và sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XI; đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành lập Quy hoạch Thành phố thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung Thành phố đến năm 2040; Đồ án quy hoạch chung thành phố Thủ Đức thuộc TP Hồ Chí Minh đến năm 2040. Theo UBND TP Hồ Chí Minh, thành phố cũng tiến hành xây dựng tiêu chí thu hút FDI, đề án huy động đầu tư xã hội; chính sách phát huy kiều hối và định hướng dòng tiền chảy vào sản xuất kinh doanh. Đồng thời, thành phố triển khai kế hoạch sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý tài sản công; kế hoạch bán đấu giá nhà đất công, đề án khai thác quỹ đất dọc metro, dọc Vành đai 3… “Tất cả những đề án này là cơ chế, tạo kênh để huy động nguồn lực trong và ngoài ngân sách để đạt mục tiêu tổng đầu tư xã hội đạt 35%”, ông Phan Văn Mãi nhấn mạnh. TP Hồ Chí Minh tập trung tái cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tính tự chủ và khả năng chống chịu, thích ứng; phát triển kinh tế số và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số; chuyển đổi mô hình các khu công nghiệp, khu chế xuất, công nghệ cao; hỗ trợ các ngành công nghiệp trọng yếu phát triển các sản phẩm chủ lực có lợi thế cạnh tranh tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển logistics, thúc đẩy đề án xây dựng trung tâm tài chính quốc tế, phát triển du lịch thông minh. Về kết nối hạ tầng, UBND TP Hồ Chí Minh cho biết sẽ đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện, đưa vào sử dụng các dự án kết cấu hạ tầng trọng yếu, nhất là dự án đường sắt đô thị số 1 (Bến Thành – Suối Tiên), dự án giải quyết ngập do triều cường khu vực TP Hồ Chí Minh có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu (giai đoạn 1); khẩn trương triển khai thực hiện dự án đường sắt đô thị số 2 (Bến Thành – Tham Lương), đường Vành đai 3, cao tốc TP Hồ Chí Minh – Mộc Bài, dự án nhà ga T3 Tân Sơn Nhất, Rạch Xuyên Tâm… Để đạt mục tiêu đặt ra, lãnh đạo UBND TP Hồ Chí Minh xác định tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng các nguồn lực cho đầu tư phát triển, quyết tâm hoàn thành kế hoạch đầu tư công; tăng cường quản lý, sử dụng nhà, đất và tài sản khác gắn liền với đất thuộc sở hữu nhà nước; khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, bổ sung vốn cho đầu tư chỉnh trang đô thị, xây dựng nhà ở xã hội, cải thiện môi trường. Tiếp tục giải quyết những vấn đề quan trọng cấp bách của thành phố, trước hết là đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn chỉnh 3 quy hoạch Quy hoạch chung thành phố Thủ Đức đến năm 2040; Quy hoạch TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và điều chỉnh quy hoạch chung TP Hồ Chí Minh đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060 và Chiến lược quản lý phát triển hành lang sông Sài Gòn; tập trung khai thác tiềm năng chỉnh trang đô thị, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển công viên cây xanh, chống ngập và xử lý nước thải, quy hoạch xử lý chất thải rắn. ——————- Tạo đòn bẩy vững chắc cho tăng trưởng kinh tế – Bài cuối: Chú trọng những khâu đột phá
NASA cho biết đã phát hiện một hành tinh có kích thước bằng khoảng 95% Trái đất, cách chúng ta khoảng 100 năm ánh sáng và nằm trong vùng sự sống của ngôi sao mẹ. Nhóm nghiên cứu phối hợp giữa Phòng thí nghiệm Sức đẩy phản lực, Trung tâm Chuyến bay vũ trụ Goddard của NASA và Đại học Maryland vừa công bố tìm ra một hành tinh mới thông qua kính viễn vọng TESS. Đó là TOI-700e, cách Trái đất khoảng 100 năm ánh sáng, một trong các thành viên của hệ hành tinh quay quanh ngôi sao TOI-700, thuộc chòm sao Kiếm Ngư (Dorado). Đồ họa về TOI-700e (hành tinh ở gần hơn) và TOI-700d (hành tinh ở xa hơn). Nguồn: NASA/JPL-Caltech/Robert Hurt. Hành tinh này có đủ 3 điều kiện vàng cho sự sống ngoài Trái Đất : kích thước tương đương với hành tinh của chúng ta, có thể là hành tinh đất đá và nằm trong “vùng sự sống” của ngôi sao mẹ. Phát hiện này vừa được công bố trên tạp chí khoa học Astrophysical Journal Letters. Theo Sci-News, TOI-700 có khối lượng và kích thước bằng khoảng 40% Mặt trời với nhiệt độ bề mặt bằng một nửa. Nhờ có kính viễn vọng TESS, NASA đã tìm được tổng cộng 3 hành tinh quay quanh ngôi sao này, với 2 hành tinh tương đương Trái Đất. Thứ nhất là TOI-700b, kích thước gần bằng Trái Đất, có thể là hành tinh đá và quay một vòng quanh sao mẹ mất 10 ngày. Thứ 2 là TOI-700c, “siêu Trái Đất” với kích thước gấp 2,6 lần địa cầu và quỹ đạo 16 ngày. Thứ 3 là TOI-700d gấp 1,1 lần Trái Đất và nằm trong “vùng sự sống” (vùng Goldilock) của ngôi sao mẹ. Đây là khu vực cụ thể trong một hệ hành tinh, nằm cách ngôi sao một khoảng nhất định, đủ để nhiệt độ bề mặt hành tinh không quá nóng, hoặc quá lạnh, và nước có thể tồn tại dưới dạng lỏng. TOI-700d cũng là ứng cử viên tiềm năng cho một hành tinh có khả năng có sự sống, với nhiệt độ bề mặt khoảng -3 độ C. TOI-700d cũng giống như TOI-700b và TOI-700c, đều bị “khóa trọng lực” với sao mẹ, tức luôn quay chỉ 1 mặt về phía sao mẹ như Mặt Trăng với Trái Đất. Tình trạng này khiến một nửa hành tinh chỉ có ban ngày, một nửa là ban đêm. Về hành tinh thứ 4 TOI-700e mới được phát hiện, nhà nghiên cứu Emily Gilbert tại Phòng thí nghiệm Động cơ phản lực của NASA ở Nam California cho biết, hành tinh này có kích thước tương đương với Trái đất và nhỏ hơn 10% so với TOI-700d. TOI-700e chỉ mất 28 ngày để quay quanh ngôi sao của nó, trong khi TOI-700d mất đến 37 ngày. TOI-700e nằm ở quỹ đạo giữa TOI-700c và TOI-700d, ấm hơn TOI-700d một chút. Mặc dù có thể cũng bị khóa trọng lực như “những người anh em”, TOI-700e vẫn được các nhà khoa học kỳ vọng có khoảng cách giữa vùng sự sống “vừa đủ” để có một khí hậu ôn đới và dễ sống. TESS (Transiting Exoplanet Survey Satellite) là một kính viễn vọng không gian có nhiệm vụ tìm kiếm các hành tinh ngoài Hệ Mặt trời . TESS được phóng lên vũ trụ vào ngày 18/4/2018 bằng một tên lửa đẩy Falcon 9. Nhiệm vụ chính của TESS là khảo sát các ngôi sao sáng nhất nằm gần Trái đất và ghi nhận sự thay đổi về độ sáng của những ngôi sao này, hình thành khi các hành tinh di chuyển qua khu vực phía trước ngôi sao. TESS sẽ sử dụng một loạt các camera trường rộng để thực hiện khảo sát khoảng 85% bầu trời. Với TESS, các nhà khoa học có thể nghiên cứu khối lượng, kích thước, mật độ và quỹ đạo của các hành tinh nhỏ. Tính đến hiện tại, TESS đã qua nsats 75% bầu trời và tìm thấy 66 hành tinh mới, hoặc các thế giới khác nằm ngoài Hệ Mặt trời của chúng ta. TESS cũng tìm thấy khoảng 2.100 thực thể mà các nhà thiên văn học đang nghiên cứu xem chúng có phải ngoại hành tinh hay không.
NASA said it has discovered a planet about 95% the size of Earth, about 100 light years away from us and located in the life zone of its parent star. A joint research team between the Jet Propulsion Laboratory, NASA's Goddard Space Flight Center and the University of Maryland has just announced the discovery of a new planet through the TESS telescope. That is TOI-700e, about 100 light years from Earth, one of the members of the planetary system orbiting the star TOI-700, in the Dorado constellation. Graphic of TOI-700e (the closer planet) and TOI-700d (the more distant planet). Source: NASA/JPL-Caltech/Robert Hurt. This planet has all 3 golden conditions for outer life Earth : similar in size to our planet, possibly a rocky planet and located in the "life zone" of its parent star. This discovery was just published in the scientific journal Astrophysical Journal Letters. According to Sci-News, TOI-700 has about 40% the mass and size of the Sun with half the surface temperature. Thanks to the TESS telescope, NASA has found a total of 3 planets orbiting this star, with 2 planets equivalent to Earth. The first is TOI-700b, nearly the size of Earth, possibly a rocky planet and rotating around its parent star in 10 days. The second is TOI-700c, a "super Earth" with 2.6 times the size of the Earth and a 16-day orbit. The third is TOI-700d, which is 1.1 times larger than Earth and is located in the "life zone" (Goldilock zone) of the parent star. This is a specific area in a planetary system, located at a certain distance from the star, enough so that the planet's surface temperature is not too hot, or too cold, and water can exist in liquid form. TOI-700d is also a potential candidate for a potentially habitable planet, with a surface temperature of about -3 degrees Celsius. TOI-700d, like TOI-700b and TOI-700c, is “locked” gravity" with the parent star, which means always facing only one face toward the parent star like the Moon and Earth. This situation causes half of the planet to only have daytime, and half to have nighttime. Regarding the newly discovered fourth planet TOI-700e, researcher Emily Gilbert at NASA's Jet Propulsion Laboratory in Southern California said that this planet is about the same size as Earth and 10% smaller. compared to TOI-700d. TOI-700e takes just 28 days to orbit its star, while TOI-700d takes 37 days. TOI-700e is located in an orbit between TOI-700c and TOI-700d, slightly warmer than TOI-700d. Although it may also be gravity-locked like its "brothers", TOI-700e is still expected by scientists to have a distance between the life zone "just enough" to have a temperate and livable climate. TESS (Transiting Exoplanet Survey Satellite) is a space telescope tasked with searching for exoplanets Solar system . TESS was launched into space on April 18, 2018 with a Falcon 9 rocket. TESS's main mission is to survey the brightest stars near Earth and record changes in the brightness of the stars. This star is formed when planets pass in front of the star. TESS will use an array of wide-field cameras to survey about 85% of the sky. With TESS, scientists can study the masses, sizes, densities and orbits of asteroids. Up to now, TESS has passed through 75% of the sky and found 66 new planets, or other worlds outside our Solar System. TESS also found about 2,100 entities that astronomers are studying to see if they are exoplanets.
Tết này, công viên Biên Hùng được tôn tạo, không gian rộng mở, nhờ vậy di tích mộ danh nhân Trịnh Hoài Đức được mở ngõ, nhiều người biết đến. Có người vào viếng mộ, hỏi các câu chữ Hán ở mộ Trịnh Hoài Đức nói gì, ý nghĩa ra sao? Cặp đối 7 chữ “Sơn thủy hữu tình thành quyến thuộc – Càn khôn vô cực thị gia hương” (bên trái) và Cặp đối 5 chữ “Các nhân chính tẩu mã – Cử thế kiên hành chu” (bên phải). Trịnh Hoài Đức (1765-1825) là danh nhân văn hóa xứ Đồng Nai , làm quan to ở triều đình Nguyễn, được người đời sau tôn kính không phải bởi chức quan, mà bởi các tác phẩm văn hóa của ông để lại, nhất là bộ sách Gia Định thành thông chí. Ông mất, triều đình tế lễ, người thân lập mộ, chắc là danh nhân tâm giao uyên thâm ban chữ ghi ở mộ. Năm 1998, trong dịp kỷ niệm Biên Hòa – Đồng Nai 300 năm, khu mộ Trịnh Hoài Đức được trùng tu. Việc trùng tu giao cho Bảo tàng Đồng Nai mời chuyên gia mộ cổ Đỗ Đình Truật thực hiện. Gần ngày nghiệm thu, Ban chỉ đạo lễ kỷ niệm 300 năm của tỉnh kiểm tra kết quả, thấy khu mộ cổ được phục hiện đẹp, trang trọng, rất hài lòng. Nhưng xem xét kỹ, các cặp đối chữ Hán trước mộ còn mờ mịt, chưa rõ. Trưởng ban Chỉ đạo lễ hội giao ông Huỳnh Văn Tới (lúc đó là Phó giám đốc Sở Văn hóa – thể thao) giải mã các cặp đối này, thời hạn không quá 15 ngày nữa, cho kịp ngày lễ chính thức. Ông Huỳnh Văn Tới lo lắng, trằn trọc tìm cách; chợt nhớ có nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng là người có thể. Lý Việt Dũng là nhà nghiên cứu văn hóa kỹ tính, ẩn cư ở làng An Hòa, có chút dị ứng với quan cách nên tiếp cận ông không dễ. Huỳnh Văn Tới nhiều lần tìm đến nhà, ông tiếp đón hững hờ. Lần thứ tư, thấy ông vận công viết thư pháp, chữ “ Phật tâm 佛 心”, khen một câu: “ Đẹp và hay quá! ”. Ông vung bút hỏi:“ Có biết gì không mà nói ”? Huỳnh Văn Tới giãi bày: “ Chữ rất khỏe, đẹp, chữ TÂM nhỏ hơn chữ PHẬT thâm ý là: Cốt lõi tâm Phật ít thấy hơn là tượng Phật” . Thấy trúng ý, Lý Việt Dũng gác bút, chịu ngồi nói chuyện. Câu chuyện cuốn hút, quên mặt trời lặn. Nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng nhận lời, nhưng phải chờ. Chờ đợi rất nóng ruột, đã qua 10 ngày, nhấp nhỏm, không dám nhắc. Đến ngày thứ 11, Lý Việt Dũng gọi điện, đề nghị đưa ra hiện trường lần nữa. Ông soi xét cẩn thận, rồi mới rút trong túi áo một tờ giấy ghi chép cả chữ Hán và chữ Việt. Ông giải thích mới hiểu. Cặp đối 1, mỗi vế 7 chữ thể hiện triết lý đượm màu thiền về con người với tự nhiên: 山 水 有 情 成 眷 属 Sơn thủy hữu tình thành quyến thuộc (Núi sông hữu tình thành người thân trong nhà) 乹 坤 無 域 是 家 鄉 Càn khôn vô vực thị gia hương (Trời, Đất không có ranh giới chính là quê nhà). Cặp đối 2 mỗi vế 5 chữ về đạo lý ứng xử ở đời mang tính giáo huấn: 各 人 正 走 馬 Các nhân chính tẩu mã (Người sống ở đời chính là đang cưỡi ngựa) 舉 世 堅 行 舟 Cử thế kiên hàng chu (Việc xử thế ở đời như là kiên trì chèo thuyền) Muốn hiểu thâm ý cặp đối 5 chữ này, phải thuộc lời giáo huấn của cổ nhân cũng qua câu đối: Tâm như bình nguyên mục mã, dị phóng nan thu Học như nghịch thủy hành chu, bất tiến tất thoái (Lòng người như cưỡi ngựa trên bình nguyên, phóng đi thì dễ, ghìm giữ mới khó. Việc học như chèo thuyền ngược nước, không tiến tới được, ắt sẽ tụt lùi). Hai cặp đối được phục hiện, đạt yêu cầu về việc trùng tu. Nhưng nội dung của các cặp đối thì thâm sâu, giàu triết lý, ý nghĩa khó thể hiểu đến tận cùng, ai cũng có thể học được, học hoài không hết.
This Tet, Bien Hung Park was renovated and the space opened up, thanks to which the tomb of famous man Trinh Hoai Duc was opened and many people became aware of it. Someone visited the tomb and asked what the Chinese characters at Trinh Hoai Duc's tomb said and what their meaning was? The pair of 7 words "The mountains and water are sentient beings to become relatives - The universe is endless, the family is home" (left) and the pair of 5 words "The righteous people are in step with the horse - The world is steadfast and the cycle is" (right). Trinh Hoai Duc (1765-1825) was a cultural celebrity of the country Dong Nai , a high-ranking mandarin at the Nguyen court, was respected by later generations not because of his official position, but because of the cultural works he left behind, especially the book series Gia Dinh becomes Thong Chi. When he died, the royal court paid tribute and his relatives built a tomb. It was probably a famous and profound friend who wrote the inscriptions on the tomb. In 1998, on the occasion of the 300th anniversary of Bien Hoa - Dong Nai, Trinh Hoai Duc's grave site was restored. The restoration was assigned to Dong Nai Museum to invite ancient tomb expert Do Dinh Truat to carry out the restoration. Near the acceptance date, the Steering Committee of the province's 300th anniversary celebration checked the results and found that the ancient tomb had been restored beautifully and solemnly, very satisfied. But on closer inspection, the pairs of Chinese characters in front of the tomb are still obscure and unclear. The Head of the Festival Steering Committee assigned Mr. Huynh Van Toi (at that time Deputy Director of the Department of Culture and Sports) to decode these pairs, within no more than 15 days, in time for the official holiday. Mr. Huynh Van Toi was worried and struggled to find a way; suddenly remembered that there was researcher Ly Viet Dung who could do it. Ly Viet Dung is a meticulous cultural researcher, secluded in An Hoa village, and is a bit allergic to officialdom, so approaching him is not easy. Huynh Van Toi came to his house many times, but he welcomed him indifferently. The fourth time, I saw him diligently writing calligraphy, the word “ Buddha 佛 心”, one sentence of praise: “ Beautiful and so good! ”. He waved his pen and asked: “ Do you know anything? ”? Huynh Van Toi confided: “ The word is very strong and beautiful, the word TAM is smaller than the word BUDDHA, the profound meaning is: The core of the Buddha's mind is less visible than the Buddha statue." . Seeing that he had the right idea, Ly Viet Dung put down his pen and sat down to talk. The story is captivating, forget the setting sun. Researcher Ly Viet Dung accepted, but had to wait. Waiting very impatiently, it's been 10 days, I'm anxious, I don't dare mention it. On the 11th day, Ly Viet Dung called and asked to go to the scene again. He examined it carefully, then pulled out a piece of paper from his pocket that wrote down both Chinese and Vietnamese characters. He explained so I understood. Pair 1, each side has 7 words, expressing a Zen-tinged philosophy about humans and nature: 山 水 有 情 成 眷 属 The charming mountains and water become relatives (Lovely mountains and rivers become family members) 乹 坤 無 域 是 家 鄉 The universe is boundless and the family is home (Heaven and Earth without boundaries is home). The pair of two pairs of five words on each side about moral conduct in life is instructive: 各 人 正 走 馬 The main characters are fugitives (The person who lives in life is riding a horse) 舉 世 堅 行 舟 Be patient and patient (Handling things in life is like patiently rowing a boat) If you want to understand the profound meaning of this pair of 5 words, you must memorize the teachings of the ancients through the parallel sentences: The mind is like a deserted plain, different from release to autumn Learning is like playing against the water cycle; if you don't advance, you will inevitably retreat (The human heart is like riding a horse on the plains. It's easy to ride it, but it's difficult to hold it back. Learning is like rowing a boat against the water, if you can't move forward, you will definitely fall back. Two parallel pairs were restored, meeting the restoration requirements. But the content of the pairs of opposites is profound, rich in philosophy, the meaning is difficult to understand to the end, anyone can learn it, and can never stop learning.
Trải các đời, bên cạnh việc phòng, chống và trừng trị những quan lại tham nhũng, nhà nước cũng khen thưởng những quan viên nêu được đức tốt liêm khiết, trong sạch. Thời Trần, có Phạm Ngộ được vua thăng làm Tham tri vì “làm quan thanh liêm cẩn thận được thời bấy giờ khen ngợi”, theo Đại Việt sử ký tiền biên . Chép tiểu sử Lê Lăng, Đại Việt thông sử đề cập đến việc Lăng giữ được sự thanh liêm nên vua Lê Thánh Tông “sai quan Chánh chưởng Nguyễn Lỗi đem bạc lạng ban cho và sắc dụ rằng: “Ngươi nên cẩn thận, sau cũng như trước, phải thanh liêm, phải công bằng”. Năm Tân Mão (1471), vua chinh phạt Chiêm Thành, hạ thành Chà Bàn, bắt chúa Chiêm. Khi vào thành, tướng sĩ tranh nhau cướp của cải làm của riêng. Nhưng riêng Nguyễn Quận không tham của, mà lấy cây cờ lớn giương lên biểu thị cho chiến thắng. Ghi nhận tiết tháo thanh cao ấy, Lê Thánh Tông bổ làm Quản vệ Thanh Hoa ( Thanh Hóa nay), sau thăng đến Đô Tổng binh sứ đạo Quảng Nam . Đại Việt sử ký toàn thư cho biết năm Mậu Ngọ (1498), vua “lấy Dương Trực Nguyên làm Lại khoa đô cấp sự trung, lại ưu đãi cho thêm tiền quý bổng liêm khiết”, lý do là Dương Trực Nguyên đã “đàn hặc, trấn áp bọn cường hào, những kẻ có quyền thế cũng phải chùn tay”. Đến năm Canh Thân (1500) bởi liêm khiết, được thăng làm Đô đình úy. Đền thờ Nguyễn Công Trứ tại Hà Tĩnh. Ảnh: ĐÌNH BA Thời Lê Trung hưng, năm Bính Tý (1756), chúa Trịnh sai Lê Quý Đôn và các quan đi thăm hỏi dân tình. Đại Việt sử ký tục biên cho biết họ “dâng khải nói quan phủ thanh liêm cần mẫn là bọn Nguyễn Duy Thuần, nhũng tệ là bọn Trịnh Thụ cộng 13 người”. Gương liêm thì thăng thưởng, kẻ nhũng lạm thì giáng truất. Cũng thời này có Nguyễn Mậu Tài kinh qua Thượng thư bộ Binh, bộ Lễ, bộ Công, về hưu được chúa Trịnh Căn ban cho 5 chữ “Kỳ cựu trấn nhã tục” (tuổi già làm quan đã lâu, làm gương cho người nhã kẻ tục), và Lịch triều ghi: “Là người trong sạch, nhã nhặn, đứng đắn, chắc chắn; đối với người không bao giờ gây oán”. Còn Nguyễn Đức Vĩ “là người thanh bạch, cẩn thận, làm quan ở đài 18 năm, nhà không chứa của thừa, ai cũng phục là liêm khiết”. Khi ông về trí sĩ năm Giáp Thân (1764), chúa Trịnh làm bài thơ Đường luật trong đó có chữ khen “Mười phần thanh liêm”. Đại học sĩ Phan Thanh Giản có tiếng là vị quan thanh liêm. Ảnh: T.L Thời vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, năm Đinh Mùi (1847), Thực lục cho hay vua thưởng cho Tri châu Vạn Ninh là Bùi Huy Phan một tấm lụa, 20 lạng bạc, gia hàm Tri phủ vì “làm việc thanh liêm, công bằng, làm cho dân tin yêu”. Trong hàng ngũ quan lại thanh liêm, Phan Thanh Giản nêu được đức tốt trong sạch, nhiều lần được vua khen thưởng khích lệ. Năm Canh Tuất (1850), ông làm Tả kỳ Kinh lược đại sứ, lĩnh Tổng đốc Bình-Phú, vua Tự Đức khen “là người học hạnh thuần chính, giữ tiết ngay hiền, giữ mình công bằng siêng năng, cầm lòng thanh liêm trong sạch, thưởng cho 20 lạng bạc”. Đến năm Bính Thìn (1856) vua lại “khen Thanh Giản là thanh liêm, cẩn thận, thưởng cho bài đeo bằng thứ ngọc tốt”. Sự nghiệp danh thần “ngất ngưởng” Uy viễn công Nguyễn Công Trứ được Đại Nam liệt truyện ghi, trong đó có chi tiết Nguyễn Công Trứ lúc đang làm quan “vì có tang cha nên bỏ chức. Vua nghĩ Trứ là người thanh liêm, giản dị, sai mang cho Trứ 100 lạng bạc”. Sau này, có trường hợp tương tự là Nguyễn Đăng Huân thời Minh Mạng. Thi đỗ tiến sĩ, Đăng Huân khi làm quan “tính người thanh liêm cẩn thận, bình dị gần dân”. Lúc bố mất ông về để tang, dân tình quý mến đưa đồ tiễn biếu, ông đều khước từ không nhận. Sau lĩnh Lang trung Bộ Lễ, theo vua đi tuần qua nơi trấn trị cũ, nhân dân biết đón đường yết kiến ông, đưa biếu tiền lụa, ông đều không nhận. Khi qua đời “túi làm quan vẫn rỗng tuếch, duy có một cái áo mùa đông mới ban cho để khâm liệm”. Dân ở Điện Bàn nhớ công ơn đã thờ ông vào Văn từ của quận. Trường hợp này ứng với câu dân gian dạy “Yêu dân dân lập đền thờ”. Làm quan được dân tin yêu, quý mến, thì vàng bạc nào cũng không mua được. Quan Đoàn Văn Phú thời Gia Long là một người được như thế. “Là người liêm khiết, ở quan thanh bạch, lâu làm việc cai trị dân mà túi làm quan rỗng không. Ngày Phú chết, quan lại nhân dân nhớ tiếc quyên tiền giúp việc mai táng”, Liệt truyện chép việc ông. Vua trọng lòng thanh liêm tặng cho hàm Hiệp biện Đại học sĩ, thưởng cho 3 cây gấm Trung Quốc, 500 quan tiền và dụ “đó là để khuyến khích cho người làm tôi liêm khiết sau này”. Theo Đại Nam thực lục , năm Ất Mùi (1835) thời Minh Mạng , có Án sát Nghệ An Mai Thăng Đường làm quan thanh liêm, giản dị. Khi ông mất trong túi không có tiền. Quan tỉnh phải tạm chi 5 tấm trừu và 70 quan tiền kho để lo việc tang. Vẫn thời nhà Nguyễn, Nguyễn Quốc Hoan làm Hộ lý ấn quan phòng Tổng đốc Ninh Thái dưới triều Tự Đức, sống thanh bạch đến nỗi khi chết năm Bính Thìn (1856) nhà nghèo túng, không có gì để lo việc mai táng, tỉnh phải xuất tiền kho công lo liệu. Ông có tiếng “nghiêm nghị, khi trị một địa phương, răn cấm cẩn thận người nhà không cho phép chúng đưa đón lễ lạt, có tiếng liêm khiết”. Vua từng ghi nhận đức liêm này và thưởng một chiếc kim khánh có chữ thanh liêm cần cán. (còn tiế p)
Throughout generations, in addition to preventing, combating and punishing corrupt officials, the state also rewards officials who demonstrate good integrity and purity. During the Tran Dynasty, there was Pham Ngo who was promoted to the position of Counselor by the king because "he was an honest and careful official who was praised at that time", according to Dai Viet historical records pre-margin . Copy Le Lang's biography, Dai Viet is familiar with history Mentioning the Mausoleum's integrity, King Le Thanh Tong "ordered Chief Minister Nguyen Loi to give him silver taels and decreed: "You should be careful, as before, be honest, be fair. ”. In the year of Tan Mao (1471), the king conquered Champa, conquered Cha Ban citadel, and captured Lord Champa. When entering the city, the generals and soldiers fought to steal the wealth for their own. But Nguyen Quan was not greedy for wealth, but raised a large flag to symbolize victory. Noting that noble performance, Le Thanh Tong appointed Thanh Hoa Guard ( Thanh Hoa present), later promoted to General Military Ambassador Quang Nam . Complete history of Dai Viet It is said that in the year of Mau Ngo (1498), the king "took Duong Truc Nguyen as the middle-ranking military officer, and also gave him more money and noble benefits", the reason being that Duong Truc Nguyen had "persecuted and suppressed the strongmen". proud, even those with power have to falter." In the year of Canh Than (1500), because of his integrity, he was promoted to Captain. Nguyen Cong Tru Temple in Ha Tinh. Photo: DINH BA During the reign of Le Trung Hung, in the year of the Rat (1756), Lord Trinh sent orders Le Quy Don and the mandarins visited the people. Dai Viet's historical records said they "confessed that the honest and diligent government officials were Nguyen Duy Thuan's group, and the bad ones were Trinh Thu's group plus 13 people". A virtuous person will be rewarded, a corrupt person will be demoted. At the same time, Nguyen Mau Tai experienced the Minister of Military Affairs, the Ministry of Rites, and the Ministry of Public Works, and upon his retirement, Lord Trinh Can bestowed the five words "Veteran and courteous mandarin" (old age, having been a mandarin for a long time, setting an example for courteous people). profane), and Tide calendar records: “A person who is pure, courteous, upright, and certain; towards someone who never causes resentment. As for Nguyen Duc Vi, "he is a pure, careful person, has been a mandarin at the station for 18 years, his house does not contain excess possessions, and everyone believes he is honest." When he became a scholar in the year of Giap Than (1764), Lord Trinh wrote the poem Duong luat which included the compliment "Ten pieces of integrity". Great scholar Phan Thanh Gian has a reputation as an honest mandarin. Photo: T.L During the reign of King Thieu Tri of the Nguyen Dynasty, the year of the Goat (1847), Truc Luc said that the king rewarded Tri Chau Van Ninh, Bui Huy Phan, with a piece of silk, 20 taels of silver, and the rank of Tri Phu for "working with integrity and fairness, making the people trust and love". Among the ranks of honest mandarins, Phan Thanh Gian exemplified the virtue of purity and was rewarded and encouraged by the king many times. In the year of Canh Tuat (1850), he became the ambassador of the Left period of Kinh Suc, receiving praise from the Governor of Binh-Phu and King Tu Duc as "a person who studies pure and righteous conduct, keeps his temper and is gentle, keeps himself fair and diligent, and keeps his heart pure." If you are honest and pure, you will be rewarded with 20 taels of silver." In the year of the Dragon (1856), the king again "praised Thanh Gian for being honest and careful, and rewarded the card with good jade". The career of the famous god "overwhelmed" Uy Vien Cong Nguyen Cong Tru Okay Dai Nam lists stories recorded, including the details of Nguyen Cong Tru, when he was a mandarin, "because of his father's funeral, he left his position. The king thought Tru was an honest and simple person, so he ordered Tru to bring 100 taels of silver. Later, there was a similar case with Nguyen Dang Huan during the Minh Mang period. Passing the doctorate exam, Dang Huan, when working as an official, was "honest and careful, simple and close to the people". When his father passed away, he came home to mourn. People lovingly offered him gifts, but he refused to accept them. After taking charge of the Ministry of Rites, he followed the king on patrols through the old town. People knew to come to see him and offered silk money, but he did not accept it. When he passed away, "the mandarin's pocket was still empty, only a new winter shirt was given to him for burial." People in Dien Ban remember his gratitude for worshiping him in the district's Literature. This case corresponds to the folk saying "Love the people and build temples". To be an official who is trusted and loved by the people, no amount of gold or silver can buy him. Quan Doan Van Phu during Gia Long's reign was such a person. “He is an honest person, an honest official, he has long worked to rule the people, but his pocket as an official is empty. On the day Phu died, the people's mandarins regretfully donated money to help with the funeral. List of stories copy his work. The king respected his integrity and awarded him the title of Grand Academician, 3 Chinese brocades, 500 francs and an example "to encourage people to be honest servants in the future". According to Dai Nam Thuc Luc , year of At Mui (1835) Minh Mang period , there is Murder Nghe An Mai Thang Duong was an honest and simple mandarin. When he died, he had no money in his pocket. The provincial mandarin had to temporarily spend 5 sheep and 70 denarii to take care of the funeral. During the Nguyen Dynasty, Nguyen Quoc Hoan worked as the Guardian of the Governor General of Ninh Thai under the Tu Duc Dynasty, living so innocently that when he died in the year of the Dragon (1856), his family was poor and had nothing to take care of the burial. must pay the public warehouse to take care of it. He had a reputation for being "serious. When governing a locality, he carefully warned his family members not to allow them to bring them guests to celebrate, and had a reputation for integrity." The king once recognized this integrity and awarded him a gold medal with the word integrity on the handle. (still details p)
Nhân dịp đầu năm mới 2023, nhìn lại những gì đã đạt được trong công tác ngoại giao văn hóa trong năm vừa qua và xác định phương hướng cho thời gian tới, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc đã khẳng định: Ngoại giao văn hóa gia tăng sự nhận diện Việt Nam trên toàn cầu. Đánh giá về những kết quả nổi bật của công tác ngoại giao văn hóa (NGVH) năm 2022, nhất là trong việc phục vụ phát triển, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc khẳng định: Sau một năm triển khai Chiến lược NGVH đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 11/2021, công tác NGVH của Việt Nam có nhiều điểm sáng, có thể được khái quát thành 4 điểm lớn. Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc. Ảnh: BNG. Đầu tiên, thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước trên tất cả các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Nhân dân. Năm qua, chúng ta đã chú trọng đưa nội hàm văn hóa vào các hoạt động của Lãnh đạo cấp cao thăm các nước và trong việc đón tiếp lãnh đạo các nước tới Việt Nam; đăng cai tổ chức các hội nghị, sự kiện khu vực, quốc tế lớn ở trong nước, tiêu biểu như SEA Games 31 hay ở nước ngoài, Chương trình Ngày Việt Nam tại Hàn Quốc, Áo, Ấn Độ. Thứ hai, thúc đẩy hội nhập sâu, rộng trong các lĩnh vực văn hoá, khoa học, giáo dục tại các diễn đàn quốc tế, tiêu biểu là tại tổ chức UNESCO. Năm 2022 Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất vào Uỷ ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về di sản văn hóa phi vật thể, lần đầu tiên cùng một lúc đảm nhiệm vai trò thành viên 3 cơ chế quan trọng của UNESCO. Chuyến thăm Việt Nam của người đứng đầu UNESCO năm qua cũng là một điểm nhấn đáng chú ý. Truyền thông thế giới nhân dịp này đã đưa nhiều tin, hình ảnh về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Thứ ba, tăng cường các biện pháp NGVH phục vụ phát triển bền vững đất nước. Với cương vị là cơ quan đầu mối, Bộ Ngoại giao đã tham mưu, đồng hành với các bộ, ngành, địa phương, người dân, doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế, tiếp cận nhanh với tri thức mới, với các mô hình tiên tiến từ đó tranh thủ tối đa các nguồn lực để phục vụ phát triển. Năm 2022, Việt Nam vui mừng có thêm 04 danh hiệu/di sản được quốc tế ghi danh và nhiều địa phương cũng tổ chức thành công các sự kiện văn hóa, ngoại giao văn hóa lớn Thứ tư, tiếp tục quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, triết lý, quan điểm nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được UNESCO vinh danh. Điểm mới trong công tác NGVH năm nay xuất phát từ việc cụ thể hóa phương châm của Chiến lược là “lấy địa phương, người dân, doanh nghiệp làm trung tâm”, do vậy đã thu hút sự tham gia tích cực của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể, nhân dân ở trong và ngoài nước, tạo sức mạnh tổng hợp trong triển khai NGVH. Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong các Chương trình Ngày Việt Nam ở nước ngoài năm 2022 đã góp phần truyền tải sống động, hiệu quả chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đồng thời lan tỏa rộng rãi các giá trị văn hóa Việt Nam ra cộng đồng quốc tế. Đánh giá về vai trò của ngoại giao văn hóa (NGVH) trong quảng bá hình ảnh đất nước hiện nay, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc cho biết: Những năm gần đây, tuy hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song các nguy cơ, thách thức cũng có chiều hướng gia tăng, nhất là tác động từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Trước bối cảnh đó, các nước dù lớn hay nhỏ đều tăng cường công tác NGVH trong đối ngoại nhằm tạo dựng lòng tin, củng cố ảnh hưởng và gia tăng “sức mạnh mềm” quốc gia. Ngày nay, vai trò của NGVH với Việt Nam được xác định rõ trong “Chiến lược NGVH đến năm 2030”, đó là đưa quan hệ Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định; bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc, tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động nguồn lực bên ngoài, biến điều kiện thuận lợi, vị thế đất nước thành nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời tôn vinh các giá trị, vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế quốc gia. Vai trò của NGVH cũng tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII, cụ thể là “đóng góp thiết thực vào quảng bá mạnh mẽ hình ảnh quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước”. Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; đặc biệt cuộc cách mạng khoa học – công nghệ sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ, nhiều chiều, thì các nước ngày càng coi trọng vai trò của NGVH trong quảng bá hình ảnh quốc gia, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế. Theo Thứ trưởng Hà Kim Ngọc, Việt Nam chúng ta cũng đang sở hữu những tài sản vô giá thuộc “sức mạnh mềm”, hiếm dân tộc nào có được. Các nước châu Phi, Mỹ La-tinh ngưỡng mộ, coi Việt Nam “2 lần Anh hùng” – Anh hùng trong Đấu tranh giải phóng dân tộc và Anh hùng trong Đổi mới và phát triển. Nhiều Lãnh đạo quốc tế trong trao đổi với Lãnh đạo ta nêu: Việt Nam đang nổi lên như một nhân tố tích cực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác; Việt Nam chính là câu trả lời cho nhiều vấn đề phức tạp của thế giới hiện nay. Trong tình hình mới, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc đã nêu ra 4 điều cần làm để gia tăng “sự nhận diện Việt Nam” trên phạm vi toàn cầu. Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, đổi mới hình thức quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam với thế giới; lồng ghép các hoạt động quảng bá văn hóa với các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu địa phương… để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, thu hút các nguồn lực bên ngoài, nhất là tri thức, công nghệ và đầu tư, cho phát triển kinh tế-xã hội. Thứ hai, tiếp tục quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, quan điểm nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được UNESCO vinh danh. Thứ ba, các hoạt động ngoại giao văn hóa phải được triển khai ngày càng sáng tạo, bài bản với sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ, ngành, địa phương, kiều bào ở nước ngoài theo phương châm “lấy địa phương, người dân, doanh nghiệp làm trung tâm”. Trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài sẽ là những “Đại sứ văn hóa Việt Nam” trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam ở sở tại. Thứ tư, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, NGVH cần tiếp cận nhanh với tri thức mới của nhân loại, tranh thủ tối đa các nguồn lực để phục vụ phát triển bền vững đất nước, đặc biệt là trên các lĩnh vực ưu tiên như phát triển ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo… Cần tăng cường kết hợp sức mạnh mềm của văn hóa với chiến lược truyền thông để gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia./.
Nhân dịp đầu năm mới 2023, nhìn lại những gì đã đạt được trong công tác ngoại giao văn hóa trong năm vừa qua và xác định phương hướng cho thời gian tới, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc đã khẳng định: Ngoại giao văn hóa gia tăng sự nhận diện Việt Nam trên toàn cầu. Đánh giá về những kết quả nổi bật của công tác ngoại giao văn hóa (NGVH) năm 2022, nhất là trong việc phục vụ phát triển, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc khẳng định: Sau một năm triển khai Chiến lược NGVH đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 11/2021, công tác NGVH của Việt Nam có nhiều điểm sáng, có thể được khái quát thành 4 điểm lớn. Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc. Ảnh: BNG. Đầu tiên, thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước trên tất cả các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Nhân dân. Năm qua, chúng ta đã chú trọng đưa nội hàm văn hóa vào các hoạt động của Lãnh đạo cấp cao thăm các nước và trong việc đón tiếp lãnh đạo các nước tới Việt Nam; đăng cai tổ chức các hội nghị, sự kiện khu vực, quốc tế lớn ở trong nước, tiêu biểu như SEA Games 31 hay ở nước ngoài, Chương trình Ngày Việt Nam tại Hàn Quốc, Áo, Ấn Độ. Thứ hai, thúc đẩy hội nhập sâu, rộng trong các lĩnh vực văn hoá, khoa học, giáo dục tại các diễn đàn quốc tế, tiêu biểu là tại tổ chức UNESCO. Năm 2022 Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất vào Uỷ ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về di sản văn hóa phi vật thể, lần đầu tiên cùng một lúc đảm nhiệm vai trò thành viên 3 cơ chế quan trọng của UNESCO. Chuyến thăm Việt Nam của người đứng đầu UNESCO năm qua cũng là một điểm nhấn đáng chú ý. Truyền thông thế giới nhân dịp này đã đưa nhiều tin, hình ảnh về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Thứ ba, tăng cường các biện pháp NGVH phục vụ phát triển bền vững đất nước. Với cương vị là cơ quan đầu mối, Bộ Ngoại giao đã tham mưu, đồng hành với các bộ, ngành, địa phương, người dân, doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế, tiếp cận nhanh với tri thức mới, với các mô hình tiên tiến từ đó tranh thủ tối đa các nguồn lực để phục vụ phát triển. Năm 2022, Việt Nam vui mừng có thêm 04 danh hiệu/di sản được quốc tế ghi danh và nhiều địa phương cũng tổ chức thành công các sự kiện văn hóa, ngoại giao văn hóa lớn Thứ tư, tiếp tục quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, triết lý, quan điểm nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được UNESCO vinh danh. Điểm mới trong công tác NGVH năm nay xuất phát từ việc cụ thể hóa phương châm của Chiến lược là “lấy địa phương, người dân, doanh nghiệp làm trung tâm”, do vậy đã thu hút sự tham gia tích cực của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể, nhân dân ở trong và ngoài nước, tạo sức mạnh tổng hợp trong triển khai NGVH. Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong các Chương trình Ngày Việt Nam ở nước ngoài năm 2022 đã góp phần truyền tải sống động, hiệu quả chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đồng thời lan tỏa rộng rãi các giá trị văn hóa Việt Nam ra cộng đồng quốc tế. Đánh giá về vai trò của ngoại giao văn hóa (NGVH) trong quảng bá hình ảnh đất nước hiện nay, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc cho biết: Những năm gần đây, tuy hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song các nguy cơ, thách thức cũng có chiều hướng gia tăng, nhất là tác động từ cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Trước bối cảnh đó, các nước dù lớn hay nhỏ đều tăng cường công tác NGVH trong đối ngoại nhằm tạo dựng lòng tin, củng cố ảnh hưởng và gia tăng “sức mạnh mềm” quốc gia. Ngày nay, vai trò của NGVH với Việt Nam được xác định rõ trong “Chiến lược NGVH đến năm 2030”, đó là đưa quan hệ Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định; bảo đảm lợi ích quốc gia – dân tộc, tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; huy động nguồn lực bên ngoài, biến điều kiện thuận lợi, vị thế đất nước thành nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời tôn vinh các giá trị, vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế quốc gia. Vai trò của NGVH cũng tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII, cụ thể là “đóng góp thiết thực vào quảng bá mạnh mẽ hình ảnh quốc gia và tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước”. Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; đặc biệt cuộc cách mạng khoa học – công nghệ sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ, nhiều chiều, thì các nước ngày càng coi trọng vai trò của NGVH trong quảng bá hình ảnh quốc gia, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế. Theo Thứ trưởng Hà Kim Ngọc, Việt Nam chúng ta cũng đang sở hữu những tài sản vô giá thuộc “sức mạnh mềm”, hiếm dân tộc nào có được. Các nước châu Phi, Mỹ La-tinh ngưỡng mộ, coi Việt Nam “2 lần Anh hùng” – Anh hùng trong Đấu tranh giải phóng dân tộc và Anh hùng trong Đổi mới và phát triển. Nhiều Lãnh đạo quốc tế trong trao đổi với Lãnh đạo ta nêu: Việt Nam đang nổi lên như một nhân tố tích cực, góp phần duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác; Việt Nam chính là câu trả lời cho nhiều vấn đề phức tạp của thế giới hiện nay. Trong tình hình mới, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc đã nêu ra 4 điều cần làm để gia tăng “sự nhận diện Việt Nam” trên phạm vi toàn cầu. Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, đổi mới hình thức quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và con người Việt Nam với thế giới; lồng ghép các hoạt động quảng bá văn hóa với các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu địa phương… để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, thu hút các nguồn lực bên ngoài, nhất là tri thức, công nghệ và đầu tư, cho phát triển kinh tế-xã hội. Thứ hai, tiếp tục quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, trong đó chú trọng việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, quan điểm nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được UNESCO vinh danh. Thứ ba, các hoạt động ngoại giao văn hóa phải được triển khai ngày càng sáng tạo, bài bản với sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ, ngành, địa phương, kiều bào ở nước ngoài theo phương châm “lấy địa phương, người dân, doanh nghiệp làm trung tâm”. Trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài sẽ là những “Đại sứ văn hóa Việt Nam” trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam ở sở tại. Thứ tư, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, NGVH cần tiếp cận nhanh với tri thức mới của nhân loại, tranh thủ tối đa các nguồn lực để phục vụ phát triển bền vững đất nước, đặc biệt là trên các lĩnh vực ưu tiên như phát triển ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo… Cần tăng cường kết hợp sức mạnh mềm của văn hóa với chiến lược truyền thông để gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia./.
Mo Mường là loại hình di sản chứa đựng những tinh hoa văn hóa đặc sắc trong đời sống người Mường. Trên hành trình đưa Mo Mường đến danh hiệu di sản thế giới, việc nhìn nhận, đánh giá Mo Mường trong mối quan hệ nội tại với nền văn hóa dân tộc Mường và trong mối quan hệ so sánh với những loại hình văn hóa tương tự trên thế giới là vô cùng cần thiết để khẳng định rõ ràng hơn những giá trị độc đáo của Mo Mường. Thầy Mo thực hành nghi lễ mát nhà của người Mường. (Ảnh QUANG VINH). Hội thảo quốc tế “Mo Mường và những hình thức nghi lễ tín ngưỡng tương đồng trên thế giới” vừa được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình phối hợp Viện Âm nhạc (Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam) cùng các đơn vị liên quan tổ chức tại Hòa Bình; góp phần bổ sung đầy đủ, dày dặn hơn những thông tin khoa học về Mo Mường, đồng thời mang đến cơ hội để cộng đồng nắm giữ di sản được trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng bộ hồ sơ quốc gia đệ trình UNESCO công nhận Mo Mường là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Mo Mường là loại hình tín ngưỡng dân gian được tạo nên bởi ba thành tố chính: Môi trường diễn xướng, lời Mo và nghệ nhân Mo. Theo TS Ðỗ Quang Trọng, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa và TS Nguyễn Văn Hải, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử và Bảo tồn Di sản Văn hóa tỉnh Thanh Hóa: Nói đến Mo Mường là nói đến những nghi lễ dân gian có tính thiêng được sử dụng trong tang lễ hay nghi lễ cầu cho mọi điều tốt lành của người Mường. Mo gắn liền với vòng đời của con người, từ khi sinh ra cất tiếng khóc chào đời, ông Mo cầu cho trẻ hay ăn, chóng lớn. Tuổi trưởng thành, khi đau yếu, Mo làm vía giải hạn, trừ tà ma. Vai trò của ông Mo còn thể hiện qua đám cưới, trong lễ cúng gia tiên hai họ đến đón dâu hay lễ mừng nhà mới, lễ mát nhà, cầu sức khỏe, bình an… Khi nhắm mắt xuôi tay về với Mường Trời, ông Mo đóng vai trò là cầu nối tiễn hồn người chết sang thế giới bên kia. Bàn về những giá trị đặc biệt của Mo Mường, Nhà nghiên cứu, Nghệ nhân Ưu tú Bùi Văn Nợi cho rằng: Giá trị đầu tiên nổi bật là tính sử thi gắn liền những nội dung liên quan lịch sử dân tộc và nhân loại, từ chuyện đẻ đất, đẻ nước, đẻ người, lúc còn ăn lông ở lỗ đến khi tìm ra lửa, tơ tằm, lúa gạo, làm nhà, có gia đình, biết chế tạo công cụ đồng làm nồi xanh, xây cung điện… Bên cạnh đó là giá trị về tâm linh, phong tục. Người Mường quan niệm chết không phải là hết. Sang cõi Mường Ma tối tăm ban đầu còn lạ lẫm, linh hồn cần ông Mo dẫn dắt chỉ bảo mới biết ăn uống, nhận biết anh em họ hàng, nhận ruộng nương, nhà cửa, thuộc đường đi lối về phù hộ độ trì cho con cháu. Qua ông Mo, người mất dặn con cháu phải biết sống nhân đạo, thương yêu, quý trọng mọi người; anh chị em trong nhà luôn phải biết nhường nhịn, cảm thông, tha thứ… Ngoài ra, Mo Mường còn dạy con người về giá trị của lao động sáng tạo và hàm chứa nhiều giá trị khác về tư tưởng triết học, nghệ thuật biểu diễn, ngôn ngữ thể hiện… Nhằm tìm kiếm những cứ liệu so sánh quan trọng để khẳng định sự đa dạng văn hóa cũng như những đặc trưng riêng vốn có của Mo Mường, tại hội thảo, nhiều học giả, chuyên gia nghiên cứu quốc tế đã cung cấp thông tin về các hình thức nghi lễ tín ngưỡng tương đồng với Mo Mường ở một số quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan… Theo GS, TS Kim Hyong Keun, Viện Nghiên cứu Thông tin Di sản phi vật thể, Ðại học Jeonbuk, Hàn Quốc: Nhiều nghi lễ về cái chết vẫn còn tồn tại trên thế giới và chúng có nhiều điểm chung về chức năng xã hội, mặc dù cách thể hiện của các nghi lễ có khác nhau. Nghi thức tang ma ở Hàn Quốc và Mo Mường ở Việt Nam cũng vậy. Tuy nhiên hiện nay, di sản văn hóa phi vật thể được quốc gia hoặc tỉnh công nhận ở Hàn Quốc chỉ tồn tại dưới dạng “đại diện” và không thật sự được thực hành rộng rãi. Vì vậy, Mo Mường còn lưu giữ được truyền thống là điều đáng quý, cần phải được gìn giữ. GS, TS Wolfgang Mastnak, Ðại học Âm nhạc và Sân khấu Munich, Ðức cho rằng: “Từ góc độ đa văn hóa, nghi lễ Mo Mường phù hợp với nhiều tiêu chí của UNESCO về di sản văn hóa phi vật thể như tương thích với quyền con người và sự tôn trọng văn hóa lẫn nhau, được chính chủ thể cộng đồng coi đó là một phần thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ; là một di sản có sự đan xen gắn bó chặt chẽ giữa ý thức về bản sắc và trí nhớ của cộng đồng, bám rễ vào cộng đồng và tiếp tục được trao truyền, tái tạo. Về mặt này, Mo Mường cũng phản ánh sự đa dạng văn hóa trên toàn thế giới và minh chứng cho sự sáng tạo của con người”. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, với những quy định mới và làn sóng du nhập văn hóa, Mo Mường đang đứng trước nhiều nguy cơ mai một, đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính tổng thể để bảo tồn, phát huy. ThS Bùi Kim Phúc (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình) cho biết: Từ những năm 1960 đến nay, tang lễ của người Mường chỉ còn thực hiện trong 48 giờ. Với thực tế đó, các nghệ nhân và toàn thể dân Mường đã giản lược đến 50% số nghi lễ, phần Mo kể chuyện chỉ còn lại hai câu chuyện có thời lượng ngắn, chủ yếu là: Ðẻ đất, đẻ trứng điếng và đẻ Tá Cần. Vì thế, theo ThS Bùi Kim Phúc, cần có chính sách đặc thù để phục hồi giá trị Mo Mường, khuyến khích nghệ nhân truyền dạy, khuyến khích thế hệ trẻ học nghề, học các bài Mo; quảng bá bằng nhiều hình thức để phổ biến rộng rãi các giá trị của Mo Mường. ThS Vũ Thanh Lịch, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Ninh Bình và TS Nguyễn Thị Thanh Vân (Trường đại học Văn hóa Hà Nội) cho rằng: Cần phải có sự tham gia đồng bộ, tích cực từ các bên liên quan: chính quyền địa phương, các nhà quản lý văn hóa, cộng đồng sở hữu di sản, các nhà nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân liên quan trong bảo tồn, phát huy giá trị Mo Mường trong cộng đồng người Mường. Cần làm ngay việc nghiên cứu, điều tra, thống kê và đánh giá thực trạng di sản Mo Mường ở các địa phương để có giải pháp quan tâm, đầu tư đúng hướng. Chỉ khi có sự tham gia bảo vệ của cộng đồng thì di sản mới sống đúng nghĩa, nên phải tăng cường tuyên truyền cho cộng đồng – chủ nhân sáng tạo, cũng là người đang hưởng lợi từ di sản Mo Mường hiểu về vai trò, ý nghĩa của Mo Mường trong đời sống cộng đồng cũng như vai trò chủ thể của họ trong các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản Mo Mường. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách động viên kịp thời các thầy Mo uy tín trong cộng đồng thông qua phong tặng Nghệ nhân Ưu tú, hỗ trợ về vật chất và tinh thần để các thầy có thêm động lực, tâm huyết gìn giữ vốn cổ của dân tộc và truyền lại đời sau. Bên cạnh đó, giải pháp cấp thiết là cần tư liệu hóa di sản Mo Mường; xây dựng mạng lưới Mo Mường trên toàn quốc nhằm đẩy mạnh hoạt động giao lưu, bảo tồn và quảng bá di sản… Từ kinh nghiệm của mình, GS, TS Kim Hyong Keun khuyến nghị, để ghi danh Mo Mường vào danh sách di sản của UNESCO, cần tăng khả năng hiển thị của di sản, tức tăng mức độ nổi tiếng của một nền văn hóa đối với người dân bản địa và người nước ngoài. Ðể làm được như vậy, Mo Mường cần được dịch sang tiếng Anh. Ðiều này cũng giúp tăng hiệu quả quảng bá về loại hình di sản này nhiều nhất có thể trước khi đăng ký hồ sơ.
Mo Mường là loại hình di sản chứa đựng những tinh hoa văn hóa đặc sắc trong đời sống người Mường. Trên hành trình đưa Mo Mường đến danh hiệu di sản thế giới, việc nhìn nhận, đánh giá Mo Mường trong mối quan hệ nội tại với nền văn hóa dân tộc Mường và trong mối quan hệ so sánh với những loại hình văn hóa tương tự trên thế giới là vô cùng cần thiết để khẳng định rõ ràng hơn những giá trị độc đáo của Mo Mường. Thầy Mo thực hành nghi lễ mát nhà của người Mường. (Ảnh QUANG VINH). Hội thảo quốc tế “Mo Mường và những hình thức nghi lễ tín ngưỡng tương đồng trên thế giới” vừa được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình phối hợp Viện Âm nhạc (Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam) cùng các đơn vị liên quan tổ chức tại Hòa Bình; góp phần bổ sung đầy đủ, dày dặn hơn những thông tin khoa học về Mo Mường, đồng thời mang đến cơ hội để cộng đồng nắm giữ di sản được trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng bộ hồ sơ quốc gia đệ trình UNESCO công nhận Mo Mường là Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Mo Mường là loại hình tín ngưỡng dân gian được tạo nên bởi ba thành tố chính: Môi trường diễn xướng, lời Mo và nghệ nhân Mo. Theo TS Ðỗ Quang Trọng, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa và TS Nguyễn Văn Hải, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử và Bảo tồn Di sản Văn hóa tỉnh Thanh Hóa: Nói đến Mo Mường là nói đến những nghi lễ dân gian có tính thiêng được sử dụng trong tang lễ hay nghi lễ cầu cho mọi điều tốt lành của người Mường. Mo gắn liền với vòng đời của con người, từ khi sinh ra cất tiếng khóc chào đời, ông Mo cầu cho trẻ hay ăn, chóng lớn. Tuổi trưởng thành, khi đau yếu, Mo làm vía giải hạn, trừ tà ma. Vai trò của ông Mo còn thể hiện qua đám cưới, trong lễ cúng gia tiên hai họ đến đón dâu hay lễ mừng nhà mới, lễ mát nhà, cầu sức khỏe, bình an… Khi nhắm mắt xuôi tay về với Mường Trời, ông Mo đóng vai trò là cầu nối tiễn hồn người chết sang thế giới bên kia. Bàn về những giá trị đặc biệt của Mo Mường, Nhà nghiên cứu, Nghệ nhân Ưu tú Bùi Văn Nợi cho rằng: Giá trị đầu tiên nổi bật là tính sử thi gắn liền những nội dung liên quan lịch sử dân tộc và nhân loại, từ chuyện đẻ đất, đẻ nước, đẻ người, lúc còn ăn lông ở lỗ đến khi tìm ra lửa, tơ tằm, lúa gạo, làm nhà, có gia đình, biết chế tạo công cụ đồng làm nồi xanh, xây cung điện… Bên cạnh đó là giá trị về tâm linh, phong tục. Người Mường quan niệm chết không phải là hết. Sang cõi Mường Ma tối tăm ban đầu còn lạ lẫm, linh hồn cần ông Mo dẫn dắt chỉ bảo mới biết ăn uống, nhận biết anh em họ hàng, nhận ruộng nương, nhà cửa, thuộc đường đi lối về phù hộ độ trì cho con cháu. Qua ông Mo, người mất dặn con cháu phải biết sống nhân đạo, thương yêu, quý trọng mọi người; anh chị em trong nhà luôn phải biết nhường nhịn, cảm thông, tha thứ… Ngoài ra, Mo Mường còn dạy con người về giá trị của lao động sáng tạo và hàm chứa nhiều giá trị khác về tư tưởng triết học, nghệ thuật biểu diễn, ngôn ngữ thể hiện… Nhằm tìm kiếm những cứ liệu so sánh quan trọng để khẳng định sự đa dạng văn hóa cũng như những đặc trưng riêng vốn có của Mo Mường, tại hội thảo, nhiều học giả, chuyên gia nghiên cứu quốc tế đã cung cấp thông tin về các hình thức nghi lễ tín ngưỡng tương đồng với Mo Mường ở một số quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan… Theo GS, TS Kim Hyong Keun, Viện Nghiên cứu Thông tin Di sản phi vật thể, Ðại học Jeonbuk, Hàn Quốc: Nhiều nghi lễ về cái chết vẫn còn tồn tại trên thế giới và chúng có nhiều điểm chung về chức năng xã hội, mặc dù cách thể hiện của các nghi lễ có khác nhau. Nghi thức tang ma ở Hàn Quốc và Mo Mường ở Việt Nam cũng vậy. Tuy nhiên hiện nay, di sản văn hóa phi vật thể được quốc gia hoặc tỉnh công nhận ở Hàn Quốc chỉ tồn tại dưới dạng “đại diện” và không thật sự được thực hành rộng rãi. Vì vậy, Mo Mường còn lưu giữ được truyền thống là điều đáng quý, cần phải được gìn giữ. GS, TS Wolfgang Mastnak, Ðại học Âm nhạc và Sân khấu Munich, Ðức cho rằng: “Từ góc độ đa văn hóa, nghi lễ Mo Mường phù hợp với nhiều tiêu chí của UNESCO về di sản văn hóa phi vật thể như tương thích với quyền con người và sự tôn trọng văn hóa lẫn nhau, được chính chủ thể cộng đồng coi đó là một phần thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ; là một di sản có sự đan xen gắn bó chặt chẽ giữa ý thức về bản sắc và trí nhớ của cộng đồng, bám rễ vào cộng đồng và tiếp tục được trao truyền, tái tạo. Về mặt này, Mo Mường cũng phản ánh sự đa dạng văn hóa trên toàn thế giới và minh chứng cho sự sáng tạo của con người”. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, với những quy định mới và làn sóng du nhập văn hóa, Mo Mường đang đứng trước nhiều nguy cơ mai một, đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính tổng thể để bảo tồn, phát huy. ThS Bùi Kim Phúc (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình) cho biết: Từ những năm 1960 đến nay, tang lễ của người Mường chỉ còn thực hiện trong 48 giờ. Với thực tế đó, các nghệ nhân và toàn thể dân Mường đã giản lược đến 50% số nghi lễ, phần Mo kể chuyện chỉ còn lại hai câu chuyện có thời lượng ngắn, chủ yếu là: Ðẻ đất, đẻ trứng điếng và đẻ Tá Cần. Vì thế, theo ThS Bùi Kim Phúc, cần có chính sách đặc thù để phục hồi giá trị Mo Mường, khuyến khích nghệ nhân truyền dạy, khuyến khích thế hệ trẻ học nghề, học các bài Mo; quảng bá bằng nhiều hình thức để phổ biến rộng rãi các giá trị của Mo Mường. ThS Vũ Thanh Lịch, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Ninh Bình và TS Nguyễn Thị Thanh Vân (Trường đại học Văn hóa Hà Nội) cho rằng: Cần phải có sự tham gia đồng bộ, tích cực từ các bên liên quan: chính quyền địa phương, các nhà quản lý văn hóa, cộng đồng sở hữu di sản, các nhà nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân liên quan trong bảo tồn, phát huy giá trị Mo Mường trong cộng đồng người Mường. Cần làm ngay việc nghiên cứu, điều tra, thống kê và đánh giá thực trạng di sản Mo Mường ở các địa phương để có giải pháp quan tâm, đầu tư đúng hướng. Chỉ khi có sự tham gia bảo vệ của cộng đồng thì di sản mới sống đúng nghĩa, nên phải tăng cường tuyên truyền cho cộng đồng – chủ nhân sáng tạo, cũng là người đang hưởng lợi từ di sản Mo Mường hiểu về vai trò, ý nghĩa của Mo Mường trong đời sống cộng đồng cũng như vai trò chủ thể của họ trong các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di sản Mo Mường. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách động viên kịp thời các thầy Mo uy tín trong cộng đồng thông qua phong tặng Nghệ nhân Ưu tú, hỗ trợ về vật chất và tinh thần để các thầy có thêm động lực, tâm huyết gìn giữ vốn cổ của dân tộc và truyền lại đời sau. Bên cạnh đó, giải pháp cấp thiết là cần tư liệu hóa di sản Mo Mường; xây dựng mạng lưới Mo Mường trên toàn quốc nhằm đẩy mạnh hoạt động giao lưu, bảo tồn và quảng bá di sản… Từ kinh nghiệm của mình, GS, TS Kim Hyong Keun khuyến nghị, để ghi danh Mo Mường vào danh sách di sản của UNESCO, cần tăng khả năng hiển thị của di sản, tức tăng mức độ nổi tiếng của một nền văn hóa đối với người dân bản địa và người nước ngoài. Ðể làm được như vậy, Mo Mường cần được dịch sang tiếng Anh. Ðiều này cũng giúp tăng hiệu quả quảng bá về loại hình di sản này nhiều nhất có thể trước khi đăng ký hồ sơ.
Người dân quay được cảnh một đàn voi rừng năm con đã vào đến khu vực rẫy gần khu dân cư ở xã Quế Lâm, huyện Nông Sơn , Quảng Nam . Đàn voi từ rừng sâu tiến ra sát khu dân cư ở xã Quế Lâm – Ảnh cắt từ clip Chiều 16-1, trao đổi với ông Mai Văn Dưỡng – phó giám đốc phụ trách Ban quản lý Khu bảo tồn loài và sinh cảnh voi Quảng Nam – cho biết thông tin trên và cho hay clip cảnh đàn voi rừng được người dân quay lại vào ngày 8-1 tại thôn Cấm La, xã Quế Lâm. Theo hình ảnh được quay lại, đàn voi rừng khá mập mạp, không có dấu hiệu hung dữ, phá hoại nông sản, không xảy ra xung đột với người dân như những lần trước đó. Ông Dưỡng cho biết đặc tính của voi là di chuyển tìm kiếm thức ăn theo chu kỳ, theo vùng, di chuyển theo đường cũ và do nguồn thức ăn trong lâm phận đảm bảo hơn trước nên đàn voi tương đối mập mạp. Đàn voi rừng này gồm voi cái và voi con – Ảnh cắt từ clip Ông nói thêm, đàn voi ở khu bảo tồn gồm tám con, tuy nhiên năm con voi mà người dân quay clip lại là những con voi cái và voi con, vì voi đực thường tách ra đi riêng, không đi chung đàn với voi cái, voi coi. Năm con voi này đã ra sát khu dân cư, người dân đứng trong nhà quay được cảnh đàn voi. “Nơi voi rừng xuất hiện trước đây là vùng di cư của nó, theo chu kỳ thì nó quay lại. Trước đây đàn voi cũng thường ra gần khu dân cư thôn Cấm La, đi nhiều nơi, phá hoa màu của người dân, nhưng nay rất hiền hòa, không quậy phá. Lúc trước voi ốm yếu, nhưng giờ hình ảnh trên clip cho thấy rất mập mạp, đây là một sự thay đổi, có thể nói sinh cảnh ở đây có sự thay đổi so với lúc trước” – ông Dưỡng nói thêm. Được biết năm 2017, huyện Nông Sơn và UBND tỉnh Quảng Nam phối hợp Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) thành lập Khu bảo tồn loài và sinh cảnh voi trên diện tích gần 19.000ha, trong đó phân khu được bảo vệ nghiêm ngặt có diện tích 13.000ha.
People filmed a herd of five wild elephants entering a farming area near a residential area in Que Lam commune, Nong Son district , Quang Nam . A herd of elephants from the deep forest approached the residential area in Que Lam commune - Photo cut from clip On the afternoon of January 16, speaking with Mr. Mai Van Duong - deputy director in charge of the Management Board of Quang Nam Elephant Species and Habitat Conservation Area - shared the above information and said that the clip of the wild elephant herd was filmed by people. on January 8 in Cam La village, Que Lam commune. According to the recorded images, the herd of wild elephants is quite chubby, shows no signs of aggression, destroys agricultural products, and does not have conflicts with people like previous times. Mr. Duong said that the characteristic of elephants is to move in search of food periodically, by region, moving along old routes, and because the food source in the forest area is more secure than before, the herd of elephants is relatively fat. This herd of wild elephants includes female elephants and baby elephants - Photo cut from clip He added that the herd of elephants in the reserve consists of eight elephants, but the five elephants that people filmed were female elephants and baby elephants, because male elephants often move separately and do not go in the same herd as female elephants. , voila. These five elephants came close to the residential area, people standing in their houses filmed the herd of elephants. “The place where wild elephants appeared before was their migration area, and periodically they return. In the past, herds of elephants often went near the residential area of ​​Cam La village, went to many places, and destroyed people's crops, but now they are very peaceful and do not cause trouble. Before, the elephant was weak, but now the image on the clip shows that it is very chubby, this is a change, it can be said that the habitat here has changed compared to before" - Mr. Duong added. It is known that in 2017, Nong Son district and Quang Nam Provincial People's Committee coordinated with the United States Agency for International Development (USAID) to establish an Elephant Species and Habitat Conservation Area on an area of ​​​​nearly 19,000 hectares, of which the protected area is protected. Strictly has an area of ​​13,000 hectares.
Sáng 16/1 (tức ngày 25 tháng Chạp), trước khu vực cổng Nam, Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ đã tổ chức nghi lễ thượng nêu (lễ dựng cây nêu) theo phong tục cung đình ngày xưa của vương triều Hồ vào ngày Tết Nguyên đán . Hoạt động này thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân cũng như du khách. Đại diện Trung tâm Bảo tồn di sản Thành nhà Hồ cho biết, lễ dựng cây nêu ngày Tết là phong tục truyền thống của người Việt, khi cây nêu được dựng lên là báo hiệu ngày Tết chính thức bắt đầu. Cây nêu gồm 2 loại là cây nêu quốc gia và cây nêu tư gia (tại các gia đình). Trong các triều đại quân chủ Việt Nam, tục dựng cây nêu được đưa vào hoàng cung và sử dụng như một phong tục, điển chế của triều đình. Việc khôi phục lễ thượng nêu ngày Tết tại Thành nhà Hồ diễn ra với mong muốn cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, người người ấm no, nhà nhà cát khánh, đồng thời góp phần vào việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của vùng đất Tây đô. Lễ hạ cây nêu sẽ diễn ra vào ngày mùng 7 tháng Giêng năm Quý Mão.
On the morning of January 16 (ie December 25), in front of the South Gate area, the Ho Dynasty Heritage Conservation Center held a Thuong Noi ceremony (the tree-building ceremony) according to the ancient royal customs of the dynasty. Lake on the day Lunar New Year . This activity attracts the attention of many people as well as tourists. A representative of the Ho Dynasty Citadel Heritage Conservation Center said that the ceremony of erecting a tree on Tet is a traditional Vietnamese custom. When the tree is erected, it signals the official start of Tet. There are two types of neem trees: national neem trees and private neem trees (in families). During the Vietnamese monarchy, the custom of erecting a tree was brought into the royal palace and used as a custom and regulation of the court. The restoration of the New Year ceremony at the Ho Dynasty's Citadel took place with the desire to pray for peace in the country and people, good weather, prosperity, prosperity in the home, and at the same time contribute to the preservation and promotion of intangible cultural values ​​of the Tay Do land. The tree-lowering ceremony will take place on January 7, the year of the Cat.
Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình khẳng định, Hiệp định Paris là thắng lợi mang tính quyết định tiến tới giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sáng 17/1, Bộ Ngoại giao phối hợp với các bộ ngành tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973-27/1/2023). Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, thành viên hai đoàn đàm phán và bạn bè quốc tế tham dự lễ kỷ niệm. Đặc biệt, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình (Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, là 1 trong 4 người ký tên vào Hiệp định Paris), năm nay đã 96 tuổi, trực tiếp đến dự lễ kỷ niệm. Khi ban tổ chức giới thiệu, cả hội trường đã dành một tràng pháo tay dài để chào đón nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan triển lãm về Hội nghị Paris và Hiệp định Paris. Trong diễn văn kỷ niệm, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định, “độc lập, tự cường và toàn vẹn non sông là nguyên tắc bất biến”, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Hiệp định Paris được ký kết cách đây nửa thế kỷ đã kết thúc thắng lợi cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ 20. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nhấn mạnh, thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh kiên cường, bất khuất và hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đọc diễn văn tại lễ kỷ niệm. Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý. “Thắng lợi tại Hội nghị Paris bắt nguồn từ đường lối cách mạng đúng đắn và sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ khát vọng hòa bình cháy bỏng, truyền thống yêu nước nồng nàn, khối đại đoàn kết, bản sắc văn hóa và trí tuệ của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước”, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nhấn mạnh. Trong thắng lợi chung của dân tộc, có đóng góp rất quan trọng của đội ngũ cán bộ ngoại giao Việt Nam, trong đó có sự đóng góp trực tiếp của các thành viên đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cũng như đội ngũ cán bộ phục vụ đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris. Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại lễ kỷ niệm. Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng cùng các đại biểu dự lễ kỷ niệm. “Những con người đã trở thành những tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, về bản lĩnh chính trị, về phong cách và nghệ thuật ngoại giao, được bạn bè quốc tế quý mến như các đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Cơ Thạch và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác”, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh. Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris là một pho sách vô cùng quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học còn nguyên giá trị. Đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bài học về phong cách, nghệ thuật đối ngoại và ngoại giao mang đậm tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh như bài học về nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình, “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”. Bài học về chủ động, tích cực xây dựng lực lượng ngoại giao, trong đó cán bộ là khâu then chốt. Bài học bao trùm là sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nói chung và mặt trận ngoại giao nói riêng. Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng tặng hoa tri ân những thành viên của hai đoàn đàm phán. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao khẳng định, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tại lễ kỷ niệm, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình chia sẻ, cuối năm 1968, Đảng đã chỉ thị cho bà tham gia đàm phán ở Paris. “Tôi rất cảm ơn các lãnh đạo đã có sự tin cậy với tôi, giao cho tôi trọng trách lớn. Trong gần 5 năm, tôi đã tham gia cuộc đàm phán ở Paris, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình chia sẻ. Nguyên Phó Chủ tịch nước nhấn mạnh, Hiệp định Paris là thắng lợi có tính quyết định đi đến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, là kết quả của gần 20 năm chiến tranh ác liệt, gian khổ của cả dân tộc. Nguyên Phó Chủ tịch nước tri ân tới các đồng chí, chiến sĩ và đồng bào đã hi sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Bà cho rằng, đây là thắng lợi trong cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao của Việt Nam, đồng thời là thắng lợi của phong trào thế giới ủng hộ, đoàn kết với Việt Nam. Nguyên Phó Chủ tịch nước và các đại biểu tham dự lễ kỷ niệm. Ảnh: Minh Nhật. “Sự đoàn kết và ủng hộ hết sức mạnh mẽ của thế giới đã đem lại thêm sức mạnh cho Việt Nam ở trên chiến trường cũng như ở trên bàn đàm phán. Thắng lợi của Hiệp định Paris là nhờ sự lãnh đạo chỉ đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đó là yếu tố quyết định thắng lợi cho chúng tôi. Tôi rất tự hào về dân tộc Việt Nam, tự hào về Đảng quang vinh”, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nói. Ông Hà Đăng, thành viên đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chỉ ra rằng, việc Mỹ đặt bút ký Hiệp định Paris đã đặt vị trí Bộ trưởng Ngoại giao của bà Nguyễn Thị Bình ngang hàng với Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ William P. Rogers. Điều đó cũng là sự công nhận của Mỹ với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, công nhận sự độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam. Nhấn mạnh việc ký Hiệp định Paris là thắng lợi của ngoại giao Việt Nam, ông Hà Đăng cảm động vì lễ kỷ niệm được tổ chức cũng là sự vinh danh xứng đáng những đóng góp to lớn của ngành ngoại giao, “tuy hai là một, tuy một là hai” theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù là đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình khẳng định, Hiệp định Paris là thắng lợi mang tính quyết định tiến tới giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Sáng 17/1, Bộ Ngoại giao phối hợp với các bộ ngành tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973-27/1/2023). Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, thành viên hai đoàn đàm phán và bạn bè quốc tế tham dự lễ kỷ niệm. Đặc biệt, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình (Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, là 1 trong 4 người ký tên vào Hiệp định Paris), năm nay đã 96 tuổi, trực tiếp đến dự lễ kỷ niệm. Khi ban tổ chức giới thiệu, cả hội trường đã dành một tràng pháo tay dài để chào đón nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan triển lãm về Hội nghị Paris và Hiệp định Paris. Trong diễn văn kỷ niệm, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định, “độc lập, tự cường và toàn vẹn non sông là nguyên tắc bất biến”, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Hiệp định Paris được ký kết cách đây nửa thế kỷ đã kết thúc thắng lợi cuộc đàm phán dài nhất, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ 20. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nhấn mạnh, thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, tạo nên cục diện mới với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng vĩ đại này là kết tinh thành quả đấu tranh kiên cường, bất khuất và hy sinh vô cùng to lớn của quân và dân ta trên mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đọc diễn văn tại lễ kỷ niệm. Hiệp định Paris không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, tự do, tiến bộ và công lý. “Thắng lợi tại Hội nghị Paris bắt nguồn từ đường lối cách mạng đúng đắn và sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ khát vọng hòa bình cháy bỏng, truyền thống yêu nước nồng nàn, khối đại đoàn kết, bản sắc văn hóa và trí tuệ của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước”, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nhấn mạnh. Trong thắng lợi chung của dân tộc, có đóng góp rất quan trọng của đội ngũ cán bộ ngoại giao Việt Nam, trong đó có sự đóng góp trực tiếp của các thành viên đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cũng như đội ngũ cán bộ phục vụ đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris. Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại lễ kỷ niệm. Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng cùng các đại biểu dự lễ kỷ niệm. “Những con người đã trở thành những tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, về bản lĩnh chính trị, về phong cách và nghệ thuật ngoại giao, được bạn bè quốc tế quý mến như các đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Cơ Thạch và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác”, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh. Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris là một pho sách vô cùng quý báu về trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam với nhiều bài học còn nguyên giá trị. Đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bài học về phong cách, nghệ thuật đối ngoại và ngoại giao mang đậm tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh như bài học về nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình, “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”. Bài học về chủ động, tích cực xây dựng lực lượng ngoại giao, trong đó cán bộ là khâu then chốt. Bài học bao trùm là sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nói chung và mặt trận ngoại giao nói riêng. Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng tặng hoa tri ân những thành viên của hai đoàn đàm phán. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao khẳng định, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tại lễ kỷ niệm, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình chia sẻ, cuối năm 1968, Đảng đã chỉ thị cho bà tham gia đàm phán ở Paris. “Tôi rất cảm ơn các lãnh đạo đã có sự tin cậy với tôi, giao cho tôi trọng trách lớn. Trong gần 5 năm, tôi đã tham gia cuộc đàm phán ở Paris, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình chia sẻ. Nguyên Phó Chủ tịch nước nhấn mạnh, Hiệp định Paris là thắng lợi có tính quyết định đi đến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, là kết quả của gần 20 năm chiến tranh ác liệt, gian khổ của cả dân tộc. Nguyên Phó Chủ tịch nước tri ân tới các đồng chí, chiến sĩ và đồng bào đã hi sinh vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Bà cho rằng, đây là thắng lợi trong cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao của Việt Nam, đồng thời là thắng lợi của phong trào thế giới ủng hộ, đoàn kết với Việt Nam. Nguyên Phó Chủ tịch nước và các đại biểu tham dự lễ kỷ niệm. Ảnh: Minh Nhật. “Sự đoàn kết và ủng hộ hết sức mạnh mẽ của thế giới đã đem lại thêm sức mạnh cho Việt Nam ở trên chiến trường cũng như ở trên bàn đàm phán. Thắng lợi của Hiệp định Paris là nhờ sự lãnh đạo chỉ đạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đó là yếu tố quyết định thắng lợi cho chúng tôi. Tôi rất tự hào về dân tộc Việt Nam, tự hào về Đảng quang vinh”, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nói. Ông Hà Đăng, thành viên đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chỉ ra rằng, việc Mỹ đặt bút ký Hiệp định Paris đã đặt vị trí Bộ trưởng Ngoại giao của bà Nguyễn Thị Bình ngang hàng với Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ William P. Rogers. Điều đó cũng là sự công nhận của Mỹ với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, công nhận sự độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam. Nhấn mạnh việc ký Hiệp định Paris là thắng lợi của ngoại giao Việt Nam, ông Hà Đăng cảm động vì lễ kỷ niệm được tổ chức cũng là sự vinh danh xứng đáng những đóng góp to lớn của ngành ngoại giao, “tuy hai là một, tuy một là hai” theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù là đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Chuẩn bị bước sang năm Quý Mão – 2023, họa sĩ Tào Linh đã đem đến cho công chúng một thế giới mèo vô cùng độc đáo, sinh động, biến hóa và đầy mĩ cảm trong triển lãm Happy Cats. Triển lãm gồm 40 bức tranh được họa sĩ sáng tác trong thời gian vừa qua. Chiều 8/1/2023 triển lãm được khai mạc tại 16 Ngô Quyền, Hà Nội . Chơi tranh tết là thú chơi tao nhã, nghệ thuật từ xưa đến nay. Nhiều họa sĩ đã tiếp nối thú chơi cũng như là nguồn cảm hứng sáng tạo ấy mỗi dịp chuẩn bị bước sang năm mới. Đặc biệt, tranh con giáp luôn được ưa chuộng bởi ước mong mang đến những an vui, may mắn cho một năm mới. Họa sĩ Tào Linh chia sẻ, anh là người rất yêu mèo, vì tính cách của nó vừa mềm mại vừa mạnh mẽ, vừa quấn quýt vừa độc lập. Nhân dịp sắp bước sang năm Quý Mão, anh đã thể hiện niềm yêu thích ấy qua những tác phẩm hội họa. Mỗi chú mèo trong tranh Tào Linh gợi đến một ý nghĩ, một cảm xúc nào đó. Anh không chủ ý gửi gắm thông điệp mà chỉ muốn gợi đến cảm giác cho người xem. Dáng ấy, hình ấy, màu ấy, nét ấy nhưng là anh đang bày biện cảm xúc của mình. Tào Linh không bó buộc người xem vào một sự nhất định nào đó. Với bộ tranh này, anh mong rằng có thể mang đến một không khí vui tươi, tích cực đến với mọi người. Họa sĩ Tào Linh gây ấn tượng với lối vẽ tinh giản, cả về đường nét và màu sắc. Tác phẩm của anh mềm mại nhờ sức gợi, hài hòa bởi tinh tế. Mỗi nét mỗi màu như lắng sâu vào sự suy nghiệm nào đó để trổ ra những ý niệm riêng. Bởi vậy, những chú mèo không bị đóng khung vào những hình thù, dáng dấp mà luôn biến hóa, chuyển động với những biểu cảm thú vị. Những chú mèo với rất nhiều khuôn mặt, rất nhiều biểu cảm tạo nên những suy ngẫm khác nhau cho người xem. Mèo đó mà cũng là con người, là cuộc đời, là vạn vật, là những biến chuyển, đổi thay… Và dù thế nào thì dường như những gương mặt ấy cũng nhẹ nhõm, bình yên để bước sang một năm mới. Điều quan trọng hơn, qua những tác phẩm đó nội tâm của hoạ sĩ được biểu đạt một cách thành thực nhất. Hoạ sĩ Lê Thiết Cương đã có những chia sẻ về hội hoạ của hoạ sĩ Tào Linh: Tào Linh thích bảng mầu trung độ, ghi nhạt, nâu đất, vàng thổ. Nếu có xanh đỏ thì cũng đã được giảm cường độ tươi đi đáng kể. Tào Linh thích vẽ con giáp. Năm hết tết đến, Dần đi Mão tới. Triển lãm này Tào Linh trưng bày nhiều bức mèo. Mèo đơn, mèo đôi, nằm ngồi, vuông tròn. Mèo cũng chỉ là gợi ý, Linh không chạy theo hình mà chỉ gợi hình. Với cách tạo hình ấy, bố cục ấy, bảng mâu ấy. Với những người đàn bà, những nhà cửa phố xá, những tĩnh vật hoa lá, những con giống, Tí, Sửu, Dần, Mão ấy tựu chung đều là kể câu chuyện của Tào Linh, câu chuyện hội họa của Linh. Dễ nhận ra đó là một giọng kể thiên về thủ thỉ, nhiều dấu lặng thầm thì, nhiều nói mà không nói gì, nhiều yên tĩnh… Tranh tết của Tào Linh không nghiêng về những sắc màu rực rỡ tươi thắm như quan niệm về tranh tết lâu này. Sự bình an, vui vẻ, lạc quan thể hiện trong những sắc ấm trầm, trung tính. Điều này cũng cho thấy sự lắng đọng, chín muồi, nhuần nhuyễn trong cách sử dụng màu của hoạ sĩ. Những gam màu mang lại sự thân thiện, gần gũi nhưng không hề nhàm chán mà ngược lại cảm giác do màu tạo ra rất tươi mới, nồng nhiệt. Với Tào Linh, vẽ không còn là những cuộc thử nghiệm mà là những suy chiệm của anh về vẻ đẹp trong cuộc đời này. Hoạ sĩ Tào Linh được biết đến với những tác phẩm vẽ trên sơn dầu và giấy dó mang phong cách biểu hiện. Với ngôn ngữ tạo hình hiện đại nhưng dường như tranh của Tào Linh luôn cất giấu bên trong một bề dày văn hoá nền tảng vững chắc. Vậy nên, những câu chuyện trong tác phẩm của anh luôn có chiều sâu của tâm thức. Bên cạnh yếu tố kỹ năng và cảm xúc thì chiều sâu tâm thức cũng là yếu tố quan trọng tạo nên diện mạo hội hoạ Tào Linh. Happy Cats không chỉ là một triển lãm tranh con giáp thú vị, vui tươi để đón tết, mà đó cũng là dấu ấn hội hoạ Tào Linh.
Preparing to enter the year of the Cat - 2023, artist Cao Linh has brought to the public an extremely unique, lively, transforming and beautiful world of cats in the exhibition. Happy Cats. The exhibition includes 40 paintings created by the artist recently. On the afternoon of January 8, 2023, the exhibition opened at 16 Ngo Quyen, Hanoi . Playing Tet paintings has been an elegant and artistic pastime since ancient times. Many artists have continued that hobby as well as being a source of creative inspiration every time they prepare for the new year. In particular, paintings of zodiac animals are always popular because of the wish to bring happiness and luck for the new year. Artist Cao Linh shared that he loves cats very much, because its personality is both soft and strong, both affectionate and independent. On the occasion of the upcoming year of the Cat, he expressed that love through his paintings. Each cat in Cao Linh's painting evokes a certain thought and emotion. He did not intend to send a message but just wanted to evoke a feeling in the viewer. That figure, that shape, that color, those features, but he is expressing his feelings. Cao Linh does not force viewers into a certain thing. With this set of paintings, he hopes to bring a joyful and positive atmosphere to everyone. Artist Cao Linh impresses with his streamlined drawing style, both in terms of lines and colors. His works are soft thanks to their evocation, harmonious because of their sophistication. Each stroke and each color seems to be deeply immersed in some contemplation to emerge with its own ideas. Therefore, cats are not limited to shapes and appearances but are always transforming and moving with interesting expressions. Cats with many faces and many expressions create different thoughts for viewers. That cat is also a person, life, all things, transformations, changes... And no matter what, those faces seem to be relieved and peaceful to enter a new year. More importantly, through those works the artist's innermost feelings are expressed in the most honest way. Artist Le Thiet Cuong shared about the paintings of artist Cao Linh: Cao Linh likes the color palette of medium tones, light gray, earthy brown, and earthy yellow. If there is red and green, the freshness has been significantly reduced. Cao Linh likes to draw zodiac animals. When Tet comes to an end, Tiger and Cat come. This exhibition Cao Linh displays many cat paintings. Single cat, double cat, sitting, square and round. Cats are just suggestions, Linh does not follow the image but only suggests the image. With that way of shaping, that layout, that sample table. With the women, the houses and streets, the still lifes of flowers and leaves, the animals, the Tiger, the Ox, the Tiger, and the Cat, all in all tell the story of Cao Linh, the story of Linh's painting. It's easy to see that it's a voice that leans toward whispering, with many whispers, a lot of talking without saying anything, a lot of quiet... Cao Linh's Tet paintings do not lean towards bright and vibrant colors like the concept of this long Tet painting. Peace, joy, and optimism are expressed in warm, neutral colors. This also shows the maturity, maturity, and fluency in the artist's use of color. The colors bring friendliness and closeness but are not boring, on the contrary, the feeling created by the colors is very fresh and passionate. For Cao Linh, drawing is no longer an experiment but his contemplation on the beauty in this life. Artist Cao Linh is known for his expressionistic works on oil paint and do paper. With a modern visual language, it seems that Cao Linh's paintings are always hidden within a solid cultural foundation. Therefore, the stories in his works always have depth of consciousness. Besides the elements of skill and emotion, depth of consciousness is also an important factor that creates the appearance of Cao Linh paintings. Happy Cats Not only is it an interesting and joyful exhibition of zodiac animal paintings to welcome Tet, but it is also a mark of Cao Linh painting.
Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC ngày 16/1 thông tin về chương trình truyền hình phục vụ Tết Âm lịch với thời lượng kỷ lục lên tới 90 giờ có tên gọi: ‘Tết sum vầy’… Nhiều bộ trưởng sẽ xuất hiện trên truyền hình để gửi thông điệp trong ngày đầu năm mới. Theo ông Nguyễn Đức Thành, Tổng giám đốc VTC, để phục vụ nhu cầu của khán giả truyền hình trong những ngày đầu năm mới, VTC sẽ ra mắt tập hợp một loạt các chương trình nhỏ chung một chủ đề “Xuân hạnh phúc -Tết sum vầy” bắt đầu từ 6h ngày 30 Tết (21/1/2023) cho đến hết ngày mùng Ba Tết Quý Mão (24/1/2023). Năm nay, mở màn cho những ngày đầu năm mới sẽ là sự xuất hiện của các bộ trưởng và những người đứng đầu một số tỉnh/thành phố trong series phỏng vấn “Thông điệp đầu Xuân.” Điểm khác biệt của series này trong Tết năm nay đó là việc các vị khách nói trên của chương trình sẽ xuất hiện theo cách giản dị, đời thường nhất với những thông điệp quan trọng được gửi gắm bằng những câu chuyện “bình dân” nhất. Trong chiều 30 Tết, khán giả sẽ được hòa mình vào không khí lắng đọng cùng những cảm xúc đong đầy của một ngày cuối năm thư thái thông qua hai chương trình “Bước chân mùa xuân” và “Chiều cuối năm: Tôi là người Việt Nam.” Tối 30 Tết sẽ là không khí đón Giao thừa rộn ràng trên khắp đất nước, đặc biệt là từ 3 điểm cầu Hà Nội , Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh . Tiếp theo đó là chương trình Gala “Phép màu quanh ta” sẽ cho khán giả những phút giây thực sự sống chậm, để cảm nhận nỗi buồn man mác của của sự chia ly rồi vỡ òa cảm xúc trong niềm vui hội ngộ. Chương trình gửi gắm thông điệp ý nghĩa về sự biết ơn và niềm lạc quan, hy vọng. Trong các ngày mùng Một, mùng Hai và mùng Ba Tết Quý Mão, các chương trình tin tức, văn hóa, giải trí sẽ liên tục nối tiếp nhau tạo nên một bức tranh đầy màu sắc cho “Xuân hạnh phúc-Tết sum vầy,” từ “Bản giao hưởng bốn mùa” với những cung bậc cảm xúc và âm hưởng rộn ràng ngày đầu năm mới đến “Xuân thái hòa” với phần đầu tư dàn dựng công phu cùng sự xuất hiện của những gương mặt nghệ sỹ nổi tiếng như: Tùng Dương, Văn Mai Hương, Bảo Trâm, Dương Hoàng Yến, Đông Hùng… Ông Trần Đức Thành, Giám đốc Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC chia sẻ: “VTC hi vọng loạt chương trình Tết đặc sắc năm nay sẽ truyền không khí tươi mới, rộn ràng, hạnh phúc tới từng gia đình và gửi gắm theo đó là những thông điệp ý nghĩa về đất nước, về con người và cuộc sống”. “Xuân hạnh phúc – Tết sum vầy” hòa sóng trên hệ thống Kênh truyền hình VTC và tiếp phát trên các nền tảng của Hệ thống nội dung số VTC Now. “Xuân hạnh phúc-Tết sum vầy” hòa sóng trên hệ thống Kênh truyền hình VTC và tiếp phát trên các nền tảng của Hệ thống nội dung số VTC Now.
On January 16, VTC Digital Television announced information about a television program serving the Lunar New Year with a record duration of up to 90 hours called: 'Tet Reunion'... Many ministers will appear on television to send messages on New Year's Day. According to Mr. Nguyen Duc Thanh, General Director of VTC, to serve the needs of television audiences in the first days of the new year, VTC will launch a series of small programs with the same theme "Happy Spring - Tet". reunion" starting from 6:00 a.m. on the 30th day of the Lunar New Year (January 21, 2023) until the end of the third day of the Lunar New Year (January 24, 2023). This year, opening the first days of the new year will be the appearance of ministers and heads of some provinces/cities in the interview series "Message of Spring." The difference of this series in Tet this year is that the above mentioned guests of the show will appear in the simplest, most everyday way with important messages conveyed in the most "popular" stories. . On the afternoon of the 30th of Tet, the audience will be immersed in the calm atmosphere and filled with emotions of a relaxing year-end day through two programs "Spring Steps" and "Year-End Afternoon: I am Vietnamese Male." On the evening of Tet 30, there will be a bustling New Year's Eve atmosphere across the country, especially from 3 bridge locations. Hanoi , Danang and Ho Chi Minh City . Next is the Gala program "Miracles around us" which will give the audience moments of truly slow living, to feel the profound sadness of separation and then burst into emotions in the joy of reunion. The program sends a meaningful message of gratitude, optimism and hope. During the first, second and third days of the Year of the Cat, news, culture and entertainment programs will continuously follow each other, creating a colorful picture for "Happy Spring - Reunited Tet, ” from “Four Seasons Symphony” with its emotional levels and bustling sounds on the first day of the new year to “Xuan Thai Hoa” with elaborate staging and the appearance of famous artists. such as: Tung Duong, Van Mai Huong, Bao Tram, Duong Hoang Yen, Dong Hung... Mr. Tran Duc Thanh, Director of VTC Digital Television shared: "VTC hopes that this year's series of special Tet programs will convey a fresh, bustling, happy atmosphere to each family and convey it accordingly." are meaningful messages about the country, people and life." "Happy Spring - Reunited Tet" is broadcast on the VTC Television Channel system and broadcast on the platforms of the VTC Now Digital Content System. "Happy Spring - Reunited Tet" airs on the VTC Television Channel system and is broadcast on the platforms of the VTC Now Digital Content System.
Sau ba năm bị gián đoạn bởi đại dịch Covid-19, Ngày Thơ Việt Nam 2023 với chủ đề Nhịp điệu mới sẽ quay lại vào Rằm tháng Giêng năm Quý Mão với nhiều sự kiện, cách làm mới hứa hẹn một chương trình đậm chất thi ca, thấm đẫm nghệ thuật và mãn nhãn công chúng. Đây là thông tin từ buổi họp báo của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra sáng 12/1 tại Hà Nội . Khác biệt nhất năm nay chính là không gian tổ chức sẽ thay đổi sau 18 năm Ngày Thơ gắn bó với Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Địa điểm được lựa chọn là Hoàng Thành Thăng Long , 19C Hoàng Diệu, Hà Nội. Dưới sự chủ trì của Hội Nhà văn Việt Nam và đơn vị đồng tổ chức – Hoàng Thành Thăng Long, toàn bộ hoạt động của Ngày Thơ được thiết kế và dàn dựng bởi ê-kíp sáng tạo gồm: Tổng đạo diễn – đạo diễn Lê Quý Dương; phụ trách mỹ thuật – họa sĩ Phạm Hà Hải, họa sĩ Lê Đình Nguyên. Sự kiện chính của Ngày Thơ thay vì diễn ra vào buổi sáng, sẽ tổ chức vào đêm Rằm để tăng hiệu quả âm thanh, ánh sáng và tính sân khấu. Ban tổ chức Ngày Thơ Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu về chương trình Ngày Thơ 2023. Theo nhà văn Nguyễn Quang Thiều , Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Ngày Thơ là dịp để làm cho tinh thần thi ca lan tỏa vào đời sống con người trước những thách thức, khó khăn và biến đổi của đời sống hiện nay. Việc lựa chọn Hoàng thành Thăng Long là để khẳng định, mở rộng không gian linh thiêng của lịch sử, văn hóa, đời sống con người Việt Nam. Với những tên tuổi góp mặt trong chương trình, Ngày Thơ hứa hẹn sẽ mang đặc điểm mới mẻ, kết hợp giữa vẻ đẹp hiện đại và tinh thần truyền thống để thi ca đến với bạn đọc đông đảo và nhiều nhất. “Việt Nam ta có bốn danh nhân văn hóa thế giới, đều là những người làm thơ ca. Nên tôi nhận thấy dân tộc ta là dân tộc yêu thi ca. Do đó, khi tham gia Ngày Thơ Việt Nam 2023, tôi muốn mang thi ca đến với sâu rộng đời sống con người và tạo cho thi ca có tầm vóc mới. Tôi cũng rất thích chủ đề năm nay, bởi sau những biến cố, thăng trầm, tất cả đều hi vọng có những thay đổi, phát triển hơn” – Đạo diễn Lê Quý Dương chia sẻ. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cũng tiết lộ hai MC của sân khấu đêm ngày Rằm tháng Giêng âm lịch sẽ là nhà báo Phan Đăng và nhà thơ Dương Dương Hảo, cùng với công nghệ hiện đại và nét đẹp truyền thống hứa hẹn sẽ mang đến một khát vọng và tinh thần mới cho Ngày Thơ lần thứ 21 này. Không gian Ngày Thơ gồm toàn bộ khu vực sân Đoan Môn của Hoàng Thành. Người yêu thơ sẽ được chào đón tại Cổng thơ – một thiết kế cách điệu của họa sĩ Phạm Hà Hải để bước vào Cõi thơ. Qua Cổng thơ , khán giả sẽ dạo bước trên Đường thơ để thưởng lãm 100 câu thơ hay của thi ca Việt Nam được viết trên giấy dó tạo hình thành những chiếc quạt – cánh bướm. Cuối Đường thơ , khán giả sẽ đến Nhà ký ức , nơi trưng bày các hiện vật đặc biệt của các nhà thơ tên tuổi qua nhiều thời kì của văn học Việt Nam do Bảo tàng Văn học Việt Nam cung cấp. Bên cạnh Nhà ký ức là Quán thơ , nơi các nhà thơ, tao nhân mặc khách nhiều thế hệ sẽ giao lưu với công chúng, đọc thơ và trò chuyện về nền thi ca Việt Nam. Song song với Đường thơ , phía phố Nguyễn Tri Phương, dự kiến sẽ có Đường sách , với khoảng 40 ki-ốt dành cho các nhà xuất bản, công ti văn hoá, phát hành sách; công chúng tham quan và mua các tác phẩm văn học, các tuyển tập thi ca cổ điển và đương đại. Tại vị trí trung tâm, trước cửa Đoan Môn là sân khấu có sàn bằng kính, được gọi là Đàn thơ – nơi sẽ diễn ra Đêm thơ Nguyên tiêu. Từ trên tường thành sẽ có hai tấm pano lớn được thả xuống. Trên mỗi tấm pano chép bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt và bài thơ Nguyên Tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên trái sân khấu là hai Cây thơ , từ trên cành cao sẽ thả xuống những phong thơ, bên trong có những câu hỏi thú vị, đố vui kiến thức thơ dành cho bạn yêu thơ, người chiến thắng sẽ nhận được những phần quà thú vị từ Ban Tổ chức. Sáng ngày 5/2, tại Hội trường lớn của Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long, Hội Nhà văn Việt Nam sẽ chủ trì Tọa đàm “Thơ hiện nay với hôm nay” , với sự tham gia các nhà thơ nhiều thế hệ, thảo luận và làm rõ những vấn đề quan trọng của thi ca đương đại do. Song song với tọa đàm trên hệ thống màn hình LED trước cổng Đoan Môn sẽ phần trình chiếu các phim tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của các nhà thơ nổi tiếng đã góp phần xây dựng nên nền thi ca Việt Nam. Buổi trưa từ 11 giờ 30 – 14 giờ sẽ tiếp tục trình chiếu video clip tuyển chọn các ca khúc nổi tiếng được phổ nhạc từ những bài thơ được nhiều người yêu thích trên hệ thống màn hình LED trước cổng Đoan Môn. Buổi chiều từ 14 giờ – 17 giờ sẽ diễn các hoạt động đọc thơ, trò chuyện về thơ trong Quán thơ ; công chúng tham quan và giao lưu tại Nhà ký ức thơ. Song song là hoạt động trình chiếu các phim tư liệu về các hoạt động nổi bật của Hội Nhà văn Việt Nam trong thời kì đổi mới, hội nhập và phát triển trên hệ thống màn hình LED trước cổng Đoan Môn. Buổi tối, bắt đầu từ 19 giờ – 21 giờ là chương trình nghệ thuật chính của Ngày Thơ, diễn ra tại sân khấu trung tâm trước cổng Đoan Môn. Điểm đặc biệt của năm nay là chỉ có một sân thơ duy nhất (khác với những lần tổ chức trước tại Văn Miếu – Quốc tử Giám, chia ra hai sân thơ) dành cho các nhà thơ mọi thế hệ. Sẽ có 21 bài thơ/tác giả thơ xuất hiện trong chương trình, tương đương với con số Ngày thơ Việt Nam lần thứ 21. Công chúng sẽ được gặp lại hình ảnh của các nhà thơ nổi tiếng giai đoạn Thơ Mới đến thơ kháng chiến chống Pháp như: Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Chính Hữu… qua giọng đọc của các nhà thơ từ kho tư liệu của Bảo tàng Văn học Việt Nam. Tiếp theo là phần đọc, trình diễn, diễn xướng thơ của các nhà thơ thế hệ chống Mĩ; thế hệ nhà thơ sau 1975 đến thời kì Đổi mới; và cuối cùng là của các nhà thơ Trẻ. Đan xen với đọc thơ, các nghệ sĩ nổi tiếng sẽ trình diễn những ca khúc được phổ nhạc từ các bài thơ được công chúng yêu thích. Chủ tịch Hội Nhà văn mong muốn mang vẻ đẹp thi ca đến những nơi xa nhất, bằng nhiều cách thức và cung bậc để sứ mệnh văn chương luôn được lan tỏa trong đời sống của con người Việt Nam, để qua mỗi năm đời sống văn học nghệ thuật sẽ được bồi đắp thêm.
After three years of interruption by the Covid-19 pandemic, Vietnam Poetry Day 2023 with the theme New rhythm will return on the full moon day of the first month of the Year of the Cat with many new events and methods, promising a program rich in poetry, imbued with art and satisfying to the public. This is information from the press conference of the Vietnam Writers Association held on the morning of January 12 at Hanoi . The biggest difference this year is that the organizational space will change after 18 years of Poetry Day's association with the Temple of Literature - Quoc Tu Giam. The selected location is Imperial Citadel of Thang Long , 19C Hoang Dieu, Hanoi. Under the chairmanship of the Vietnam Writers Association and co-organizer - Imperial Citadel of Thang Long, all activities of Poetry Day are designed and staged by a creative team including: General director - director Le Noble; In charge of fine arts - artist Pham Ha Hai, artist Le Dinh Nguyen. The main event of Poetry Day, instead of taking place in the morning, will be held on the full moon night to increase the effectiveness of sound, light and stage. The organizing committee of Vietnam Poetry Day, Vietnam Writers Association introduces the 2023 Poetry Day program. According to Writer Nguyen Quang Thieu , President of the Vietnam Writers' Association, Poetry Day is an opportunity to spread the poetic spirit into human life in the face of challenges, difficulties and changes in today's life. The choice of Thang Long Imperial Citadel is to affirm and expand the sacred space of Vietnamese history, culture, and human life. With the names participating in the program, Poetry Day promises to bring new characteristics, combining modern beauty and traditional spirit to bring poetry to the largest and most diverse readers. “In Vietnam, we have four world cultural celebrities, all of whom are poets. So I realize that our nation is a nation that loves poetry. Therefore, when participating in Vietnam Poetry Day 2023, I want to bring poetry to people's lives and give poetry a new dimension. I also really like this year's theme, because after the events, ups and downs, everyone hopes for more changes and development" - Director Le Quy Duong shared. The President of the Vietnam Writers Association also revealed that the two MCs of the stage on the night of the full moon day of the first lunar month will be journalist Phan Dang and poet Duong Duong Hao, along with modern technology and traditional beauty that promises to bring brings a new aspiration and spirit to this 21st Poetry Day. The Poetry Day space includes the entire Doan Mon yard area of ​​the Imperial Citadel. Poetry lovers will be welcome at Poetry Gate – a stylized design by artist Pham Ha Hai to enter the Poetry Realm. Via Poetry Gate , the audience will walk on Poetry road to enjoy 100 beautiful verses of Vietnamese poetry written on Do paper shaped into fans - butterfly wings. Last Poetry road , the audience will come House of memories , a place to display special artifacts of famous poets through many periods of Vietnamese literature provided by the Vietnam Museum of Literature. Next to House of memories To be Poetry shop , where poets and famous people of many generations will interact with the public, read poetry and talk about Vietnamese poetry. Parallel to Poetry road , on Nguyen Tri Phuong street, is expected to be available Book street , with about 40 kiosks for publishers, cultural companies, and book publishers; The public visits and buys literary works, classic and contemporary poetry anthologies. At the central location, in front of Doan Mon gate is a stage with a glass floor, called Poetry – where Nguyen Tieu Poetry Night will take place. From the citadel wall, two large panels will be dropped. On each panel are copied the poem Than by Ly Thuong Kiet and the poem Nguyen Tieu by President Ho Chi Minh. On the left side of the stage are two Poetry tree , from high branches will drop envelopes of poetry, inside there will be interesting questions, poetry knowledge quizzes for poetry lovers, the winner will receive interesting gifts from the Organizing Committee. On the morning of February 5, at the Great Hall of the Imperial Citadel of Thang Long, the Vietnam Writers Association will preside. Seminar "Poetry today and today" , with the participation of poets of many generations, discusses and clarifies important issues of contemporary poetry by. Along with the discussion on the LED screen system in front of Doan Mon gate, there will be a screening of documentaries about the lives and careers of famous poets who have contributed to building Vietnamese poetry. At noon from 11:30 a.m. - 2:00 p.m., video clips of selected famous songs set to music from popular poems will continue to be shown on the LED screen system in front of Doan Mon gate. In the afternoon from 2:00 p.m. to 5:00 p.m., there will be poetry reading activities and conversations about internal poetry Poetry shop ; the public to visit and interact at House of memories poem. In parallel, there will be a screening of documentaries about outstanding activities of the Vietnam Writers' Association during the period of innovation, integration and development on the LED screen system in front of Doan Mon gate. In the evening, starting from 7:00 pm - 9:00 pm is the main art program of Poetry Day, taking place at the central stage in front of Doan Mon gate. A special feature of this year is that there is only one poetry yard (different from previous events at the Temple of Literature - Quoc Tu Giam, divided into two poetry yards) for poets of all generations. There will be 21 poems/poetry authors appearing in the program, equivalent to the number of the 21st Vietnam Poetry Day. The public will be able to see again the images of famous poets from the New Poetry period to the poetry of the resistance war against the French such as: Nguyen Dinh Thi, Che Lan Vien, Huy Can, Xuan Dieu, Hoang Cam, Le Dat, Chinh Huu... through the voices of poets from the archives of the Vietnam Literature Museum. Next is the reading, performance, and performance of poetry by anti-American poets; the generation of poets after 1975 to the Doi Moi period; and finally that of the Young poets. Interwoven with poetry readings, famous artists will perform songs set to music from poems loved by the public. The Chairman of the Writers Association wishes to bring poetic beauty to the farthest places, in many ways and levels so that the literary mission is always spread in the lives of Vietnamese people, so that each year the literary life Art learning will be enriched.
“Chú bảo tôi, nếu cháu muốn viết thì cứ viết từ gan ruột mình, từ con tim, khối óc của mình, viết những gì gần gũi, đời thường nhất với cháu”. Tôi gọi nhà văn Đỗ Nhật Minh là: “Ngọn đèn không tắt sáng”, bởi ở cái tuổi xưa nay hiếm như ông nhiều người đã ngừng viết và vui thú điền viên cùng con cháu. Nhưng với ông, viết cũng là một cách rèn luyện tư duy, mở rộng tư duy và cải thiện được sự minh mẫn của trí tuệ thông qua ý tưởng và sự sáng tạo. Không nhớ tôi đến thăm nhà riêng của ông vào năm nào? Chỉ nhớ khi ấy tôi gặp nhà thơ Nguyễn Thanh Kim ở Hội VHNT tỉnh Bắc Giang và nhà thơ Nguyễn Thanh Kim bảo: Mày chở tao đến thăm ông bạn già Đỗ Nhật Minh. Thế là tôi quen ông, lâu dần thành thân thiết. Căn phòng rộng chừng gần ba chục mét vuông chủ yếu chứa toàn sách, giường ngủ cũng là nơi Đỗ Nhật Minh tiếp bạn văn chương đàm đạo trà, thuốc. Cạnh đó là một cái bàn viết sơ sài và chục trang bản thảo viết tay. Tôi mạo muội hỏi ông: Sao bác không viết bằng máy tính cho nhanh? Ông bảo, tao cập nhật công nghệ thông tin kém lắm, với lại viết tay cho mình nhiều cảm xúc hơn gõ máy. Bản thảo tao gom lại rồi thuê người đánh vi tính ngay đầu ngõ. Vài lần tôi gặp ông thong thả đạp xe đến tòa soạn báo, chợt nghĩ, ông đích thị là “người muôn năm cũ” thật đáng quý còn sót lại giữa thời đại bùng nổ thông tin. Ông đích thị là một nhà văn, một ngọn đèn cháy đến hao dầu, cạn bấc, cháy đến hơi thở cuối cùng của nghiệp cầm bút viết văn. Bìa cuốn Nhật ký Nguyên Hồng. Nhiều lần đến nhà ông chơi, được ông mời lên đàm đạo văn chương và nghe ông kể chuyện. Tôi mạo muội hỏi ông, nghe nói ông là cháu của nhà văn Nguyên Hồng? Ông bảo, về phía họ hàng, nhà văn Nguyên Hồng là chú tôi, bà nội tôi là chị của nhà văn Nguyên Hồng. Nhà văn Nguyên Hồng gọi bố tôi là anh, bố tôi sinh năm 1911 còn nhà văn Nguyên Hồng thì sinh năm 1918. Gia đình tôi gốc gác ở Xuân Trường – Nam Định , nhưng vì chiến tranh, đói kém, quãng năm 1935, nhà văn Nguyên Hồng cùng mẹ ra Hải Phòng dạy học kiếm sống còn bố tôi đi bộ đội. Năm 1949, mẹ tôi đành đưa các con về ở mấy tháng tại ấp Cầu Đen, nơi tản cư của nhà văn Nguyên Hồng từ năm 1947. Hòa bình lập lại năm 1954, gia đình tôi về thị xã Bắc Ninh. Nhiều lần từ Hà Nội về ấp Cầu Đen, Nguyên Hồng hay về nhà tôi để nghỉ. Ngày còn nhỏ, tôi là người nhút nhát, chẳng bao giờ dám khoe sự viết lách của mình với ông, mãi đến năm 1971, tôi đi dự hội nghị các cây bút trẻ toàn quốc tại Hà Nội thì gặp ông tại hành lang Hội Nhà văn. Ông ngạc nhiên hỏi: Cháu cũng họp ở đây à? Rồi ông bảo, khổ, viết lách làm gì. Viết văn khổ lắm cháu ạ. Đến bây giờ, ngẫm lại lời ông nói tôi mới thật thấm thía. Nhà văn Đỗ Nhật Minh chia sẻ với tôi: Dạo này sức khỏe giảm sút sau lần đi viện về, người già thường hay hồi tưởng. Tôi nhớ, ngày xưa bố tôi và nhà văn Nguyên Hồng không hợp nhau. Bố tôi là người chải chuốt, ngăn nắp, cẩn thận. Chú Nguyên Hồng trái lại ăn mặc tuềnh toàng, thích sự giản dị, tự nhiên. Nhà tôi ngày ấy nghèo lắm, mẹ tôi hay than thở về nhà cửa chật chội, dột nát. Chú Nguyên Hồng lại bảo, được thế này là tốt lắm rồi chị ạ. Chú quý mẹ tôi vì mẹ lam lũ, nhọc nhằn chịu khó. Chú cũng dặn dò tôi, cái nghề văn chương nó nghiệt ngã lắm, nghề khác không tài cố gắng thì vẫn làm được chứ văn chương không có tài, có năng khiếu, không chịu đọc thì khó lắm, suốt đời chỉ hão huyền, làm khổ vợ con. Chú bảo tôi, nếu cháu muốn viết thì cứ viết từ gan ruột mình, từ con tim, khối óc của mình, viết những gì gần gũi, đời thường nhất với cháu, bao lời ông nói tôi vẫn nhớ đến bây giờ. Thuở còn đi học, tôi học trường cấp II, III Hàn Thuyên – Bắc Ninh. Học cùng lớp với tôi là Chu Bá Bình (nhà văn Đỗ Chu). Hồi trẻ, Đỗ Chu đã rất nổi tiếng với nhiều truyện ngắn đặc sắc được đăng tải trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ra trường tôi đi học Cao đẳng sư phạm Nam Định, làm ông giáo dạy học ở tỉnh Hà Tây. Hết Đường Lâm – Sơn Tây sang huyện Phú Xuyên, rồi tôi chuyển về dạy ở nhiều nơi thuộc huyện Yên Dũng ( Bắc Giang ). Truyện ngắn đầu tiên của tôi được đăng báo trung ương là Tiếng hát ở một làng quan họ trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1978. Sau đó là các truyện khác như Không đề; Thợ lợp nhà trên Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Truyện vừa đầu tay là Câu chuyện về một đội kịch xuất bản năm 1971, NXB Kim Đồng. Nhờ cuốn sách này mà tôi được đi dự hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần II ở Hà Nội đấy. Lần đó Hà Bắc có tôi, nhà thơ Trần Ninh Hồ; Trần Anh Trang và Nguyễn Phan Hách. Nhà văn Đỗ Nhật Minh đọc nhật ký của nhà văn Nguyên Hồng. Ông lục tìm cuốn nhật ký Nguyên Hồng đưa cho tôi rồi chậm rãi kể: thuở thiếu thời nhà văn Nguyên Hồng cũng lam lũ, khổ cực lắm. Cuộc sống tha phương với bao đắng cay, tủi nhục đã khiến Nguyên Hồng gắn bó với những con người chân đất, những con người dưới đáy xã hội. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, ông hầu như chỉ viết về những người lao động. Còn nhớ năm 1958, ông đưa cả gia đình từ Thủ đô trở về ấp Cầu Đen xã Quang Tiến chứ không về thị xã, ông lấy nơi đó làm quê hương thứ hai của mình. Ông bấm đốt ngón tay và bảo, nhà văn Nguyên Hồng có bảy người con, ba anh con trai là Hà, Giang, Sơn và bốn cô con gái là Thư, Nhã, Thế, Diệu. Kể cho tôi nghe xong, nhà văn Đỗ Nhật Minh ngồi lặng lẽ hồi ức theo làn khói thuốc, đôi mắt mờ đục sau cặp kính cận dày cộp đầy vết thời gian. Tôi biết, ông đang rất xúc động về người chú kính yêu của mình. Tôi lần giở cuốn Nhật kí Nguyên Hồng do con gái nhà văn Nguyễn Thị Thanh Thư và Nguyễn Thị Nhã Nam thực hiện việc biên soạn và viết lời tựa sách, rất xúc động “…viết nhật ký là một phần cuộc sống của cha tôi. Ông viết hầu như là hàng ngày. Hay đúng hơn là hầu như mỗi sự kiện trong đời đều được ông ghi lại. Về gia đình, về các con, về người vợ thông minh nhưng gầy yếu, về người mẹ hiền từ, về bạn bè văn chương, về công việc viết lách cũng như công tác đoàn thể, về những sự kiện lớn trong nước và quốc tế… qua những trang nhật ký của ông, hiển hiện cả một thời đại, sống động và chân thực. Đặc biệt, là đời sống văn nghệ suốt nửa đầu thế kỷ XX. Chúng ta hiểu được phần nào biết được các nhà văn thế hệ ấy, họ đã sống và viết như thế nào? Và cuộc sống của cả gia đình chúng tôi. Cho tới khi ông trút hơi thở cuối cùng…”. Cuốn nhật ký được nhà văn Nguyên Hồng viết từ ngày 25.10.1943 cho đến lá thư cuối cùng còn lưu giữ lại ngày 2.5.1982. Con gái nhà văn viết: “Đây là bức thư cha tôi viết cho bà cô ruột lúc đó đang sinh sống ở Đồng Nai , có lẽ chỉ khoảng một tiếng trước khi ông mất”. Cuốn nhật ký có rất nhiều trang viết xúc động như ngày 31.3.1948 “Xuân Diệu đến chơi. Tôi phải bỏ dở viết. Các con của bạn tôi và của tôi khóc quấy…. khổ vì viết quá! sáng tác! thật là rứt thịt mình ra, cắm đầu viết! viết đau quá! viết để mà trốn sự thực ư? Không!…cất cao đầu lên, cười đi, nhìn sâu hơn nữa vào chung quanh, rồi viết”. Hoặc ngày 18.2.1962 ông viết “…buổi trưa ông Mấm gọi tôi lấy thịt. Các con được múp máp tí mỡ. Cái Nhã vớt từng miếng tóp. Thế cắt tóc như con trai, tôi đem “Les Amé mortes” Những linh hồn chết của đại văn hào Nga ra sau bếp đọc và đón nhà tôi. Thế hỏi U âu? U âu? Tôi bảo: U kia kìa! U kia kìa! nó bảo “không vải”… Sơn đi chăn trâu về bữa cơm chỉ có tí canh bầu lõng võng…”. Cuốn nhật ký nhiều đoạn đọc nhòa trong nước mắt. Cuối cuốn sách, nhà văn Pháp Pierre Abraham chủ nhiệm Tạp chí Châu Âu viết: “…như từ bờ bãi sông Hồng đỏ rực, gió cuốn đến đây nhà văn lớn này là người của đất, thật là người của đất”. Nhà văn Đỗ Nhật Minh, cháu gọi nhà văn Nguyên Hồng bằng chú họ sinh năm 1944, quê quán Nam Định. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội VHNT tỉnh Bắc Giang. Ông đã có 17 đầu sách, 4 tiểu thuyết và 13 tập truyện ngắn. Trong đó phải kể đến những tác phẩm chính như tiểu thuyết “Giã từ đêm quan họ”; “Bóng đêm và con chó”; “Thờ ơ và tội ác” và các tập truyện ngắn tiêu biểu như “Cái lồng sắt”; “Quán trần gian”… một số cuốn sách của ông đã được các NXB tái bản. Các tác phẩm chính của ông chủ yếu viết về số phận con người. Đưa con người trở về với cuộc sống đời thường, hoàn cảnh sống cụ thể, giúp họ nhận ra những giá trị chuẩn mực của gia đình, giá trị thực của đời sống hiện tại. Con người ông xây dựng, đề cập, đa phần hướng đến sự trung thực, giàu lòng vị tha. Nhân vật trong các tiểu thuyết ám ảnh, khơi gợi người đọc và cao cả hơn nữa, dù chịu nhiều thiệt thòi, đắng cay, mất mát, số phận, nhưng tất cả đều thể hiện lòng vị tha, đức hy sinh thầm lặng trong bản năng vốn có của họ. Sức sống và niềm tin của mỗi con người trong các truyện ngắn sau này đều tinh khôi, thánh thiện, biết vươn lên, vượt qua trở ngại và sống đúng nghĩa: Con người.
“Chú bảo tôi, nếu cháu muốn viết thì cứ viết từ gan ruột mình, từ con tim, khối óc của mình, viết những gì gần gũi, đời thường nhất với cháu”. Tôi gọi nhà văn Đỗ Nhật Minh là: “Ngọn đèn không tắt sáng”, bởi ở cái tuổi xưa nay hiếm như ông nhiều người đã ngừng viết và vui thú điền viên cùng con cháu. Nhưng với ông, viết cũng là một cách rèn luyện tư duy, mở rộng tư duy và cải thiện được sự minh mẫn của trí tuệ thông qua ý tưởng và sự sáng tạo. Không nhớ tôi đến thăm nhà riêng của ông vào năm nào? Chỉ nhớ khi ấy tôi gặp nhà thơ Nguyễn Thanh Kim ở Hội VHNT tỉnh Bắc Giang và nhà thơ Nguyễn Thanh Kim bảo: Mày chở tao đến thăm ông bạn già Đỗ Nhật Minh. Thế là tôi quen ông, lâu dần thành thân thiết. Căn phòng rộng chừng gần ba chục mét vuông chủ yếu chứa toàn sách, giường ngủ cũng là nơi Đỗ Nhật Minh tiếp bạn văn chương đàm đạo trà, thuốc. Cạnh đó là một cái bàn viết sơ sài và chục trang bản thảo viết tay. Tôi mạo muội hỏi ông: Sao bác không viết bằng máy tính cho nhanh? Ông bảo, tao cập nhật công nghệ thông tin kém lắm, với lại viết tay cho mình nhiều cảm xúc hơn gõ máy. Bản thảo tao gom lại rồi thuê người đánh vi tính ngay đầu ngõ. Vài lần tôi gặp ông thong thả đạp xe đến tòa soạn báo, chợt nghĩ, ông đích thị là “người muôn năm cũ” thật đáng quý còn sót lại giữa thời đại bùng nổ thông tin. Ông đích thị là một nhà văn, một ngọn đèn cháy đến hao dầu, cạn bấc, cháy đến hơi thở cuối cùng của nghiệp cầm bút viết văn. Bìa cuốn Nhật ký Nguyên Hồng. Nhiều lần đến nhà ông chơi, được ông mời lên đàm đạo văn chương và nghe ông kể chuyện. Tôi mạo muội hỏi ông, nghe nói ông là cháu của nhà văn Nguyên Hồng? Ông bảo, về phía họ hàng, nhà văn Nguyên Hồng là chú tôi, bà nội tôi là chị của nhà văn Nguyên Hồng. Nhà văn Nguyên Hồng gọi bố tôi là anh, bố tôi sinh năm 1911 còn nhà văn Nguyên Hồng thì sinh năm 1918. Gia đình tôi gốc gác ở Xuân Trường – Nam Định , nhưng vì chiến tranh, đói kém, quãng năm 1935, nhà văn Nguyên Hồng cùng mẹ ra Hải Phòng dạy học kiếm sống còn bố tôi đi bộ đội. Năm 1949, mẹ tôi đành đưa các con về ở mấy tháng tại ấp Cầu Đen, nơi tản cư của nhà văn Nguyên Hồng từ năm 1947. Hòa bình lập lại năm 1954, gia đình tôi về thị xã Bắc Ninh. Nhiều lần từ Hà Nội về ấp Cầu Đen, Nguyên Hồng hay về nhà tôi để nghỉ. Ngày còn nhỏ, tôi là người nhút nhát, chẳng bao giờ dám khoe sự viết lách của mình với ông, mãi đến năm 1971, tôi đi dự hội nghị các cây bút trẻ toàn quốc tại Hà Nội thì gặp ông tại hành lang Hội Nhà văn. Ông ngạc nhiên hỏi: Cháu cũng họp ở đây à? Rồi ông bảo, khổ, viết lách làm gì. Viết văn khổ lắm cháu ạ. Đến bây giờ, ngẫm lại lời ông nói tôi mới thật thấm thía. Nhà văn Đỗ Nhật Minh chia sẻ với tôi: Dạo này sức khỏe giảm sút sau lần đi viện về, người già thường hay hồi tưởng. Tôi nhớ, ngày xưa bố tôi và nhà văn Nguyên Hồng không hợp nhau. Bố tôi là người chải chuốt, ngăn nắp, cẩn thận. Chú Nguyên Hồng trái lại ăn mặc tuềnh toàng, thích sự giản dị, tự nhiên. Nhà tôi ngày ấy nghèo lắm, mẹ tôi hay than thở về nhà cửa chật chội, dột nát. Chú Nguyên Hồng lại bảo, được thế này là tốt lắm rồi chị ạ. Chú quý mẹ tôi vì mẹ lam lũ, nhọc nhằn chịu khó. Chú cũng dặn dò tôi, cái nghề văn chương nó nghiệt ngã lắm, nghề khác không tài cố gắng thì vẫn làm được chứ văn chương không có tài, có năng khiếu, không chịu đọc thì khó lắm, suốt đời chỉ hão huyền, làm khổ vợ con. Chú bảo tôi, nếu cháu muốn viết thì cứ viết từ gan ruột mình, từ con tim, khối óc của mình, viết những gì gần gũi, đời thường nhất với cháu, bao lời ông nói tôi vẫn nhớ đến bây giờ. Thuở còn đi học, tôi học trường cấp II, III Hàn Thuyên – Bắc Ninh. Học cùng lớp với tôi là Chu Bá Bình (nhà văn Đỗ Chu). Hồi trẻ, Đỗ Chu đã rất nổi tiếng với nhiều truyện ngắn đặc sắc được đăng tải trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ra trường tôi đi học Cao đẳng sư phạm Nam Định, làm ông giáo dạy học ở tỉnh Hà Tây. Hết Đường Lâm – Sơn Tây sang huyện Phú Xuyên, rồi tôi chuyển về dạy ở nhiều nơi thuộc huyện Yên Dũng ( Bắc Giang ). Truyện ngắn đầu tiên của tôi được đăng báo trung ương là Tiếng hát ở một làng quan họ trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1978. Sau đó là các truyện khác như Không đề; Thợ lợp nhà trên Báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam. Truyện vừa đầu tay là Câu chuyện về một đội kịch xuất bản năm 1971, NXB Kim Đồng. Nhờ cuốn sách này mà tôi được đi dự hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần II ở Hà Nội đấy. Lần đó Hà Bắc có tôi, nhà thơ Trần Ninh Hồ; Trần Anh Trang và Nguyễn Phan Hách. Nhà văn Đỗ Nhật Minh đọc nhật ký của nhà văn Nguyên Hồng. Ông lục tìm cuốn nhật ký Nguyên Hồng đưa cho tôi rồi chậm rãi kể: thuở thiếu thời nhà văn Nguyên Hồng cũng lam lũ, khổ cực lắm. Cuộc sống tha phương với bao đắng cay, tủi nhục đã khiến Nguyên Hồng gắn bó với những con người chân đất, những con người dưới đáy xã hội. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, ông hầu như chỉ viết về những người lao động. Còn nhớ năm 1958, ông đưa cả gia đình từ Thủ đô trở về ấp Cầu Đen xã Quang Tiến chứ không về thị xã, ông lấy nơi đó làm quê hương thứ hai của mình. Ông bấm đốt ngón tay và bảo, nhà văn Nguyên Hồng có bảy người con, ba anh con trai là Hà, Giang, Sơn và bốn cô con gái là Thư, Nhã, Thế, Diệu. Kể cho tôi nghe xong, nhà văn Đỗ Nhật Minh ngồi lặng lẽ hồi ức theo làn khói thuốc, đôi mắt mờ đục sau cặp kính cận dày cộp đầy vết thời gian. Tôi biết, ông đang rất xúc động về người chú kính yêu của mình. Tôi lần giở cuốn Nhật kí Nguyên Hồng do con gái nhà văn Nguyễn Thị Thanh Thư và Nguyễn Thị Nhã Nam thực hiện việc biên soạn và viết lời tựa sách, rất xúc động “…viết nhật ký là một phần cuộc sống của cha tôi. Ông viết hầu như là hàng ngày. Hay đúng hơn là hầu như mỗi sự kiện trong đời đều được ông ghi lại. Về gia đình, về các con, về người vợ thông minh nhưng gầy yếu, về người mẹ hiền từ, về bạn bè văn chương, về công việc viết lách cũng như công tác đoàn thể, về những sự kiện lớn trong nước và quốc tế… qua những trang nhật ký của ông, hiển hiện cả một thời đại, sống động và chân thực. Đặc biệt, là đời sống văn nghệ suốt nửa đầu thế kỷ XX. Chúng ta hiểu được phần nào biết được các nhà văn thế hệ ấy, họ đã sống và viết như thế nào? Và cuộc sống của cả gia đình chúng tôi. Cho tới khi ông trút hơi thở cuối cùng…”. Cuốn nhật ký được nhà văn Nguyên Hồng viết từ ngày 25.10.1943 cho đến lá thư cuối cùng còn lưu giữ lại ngày 2.5.1982. Con gái nhà văn viết: “Đây là bức thư cha tôi viết cho bà cô ruột lúc đó đang sinh sống ở Đồng Nai , có lẽ chỉ khoảng một tiếng trước khi ông mất”. Cuốn nhật ký có rất nhiều trang viết xúc động như ngày 31.3.1948 “Xuân Diệu đến chơi. Tôi phải bỏ dở viết. Các con của bạn tôi và của tôi khóc quấy…. khổ vì viết quá! sáng tác! thật là rứt thịt mình ra, cắm đầu viết! viết đau quá! viết để mà trốn sự thực ư? Không!…cất cao đầu lên, cười đi, nhìn sâu hơn nữa vào chung quanh, rồi viết”. Hoặc ngày 18.2.1962 ông viết “…buổi trưa ông Mấm gọi tôi lấy thịt. Các con được múp máp tí mỡ. Cái Nhã vớt từng miếng tóp. Thế cắt tóc như con trai, tôi đem “Les Amé mortes” Những linh hồn chết của đại văn hào Nga ra sau bếp đọc và đón nhà tôi. Thế hỏi U âu? U âu? Tôi bảo: U kia kìa! U kia kìa! nó bảo “không vải”… Sơn đi chăn trâu về bữa cơm chỉ có tí canh bầu lõng võng…”. Cuốn nhật ký nhiều đoạn đọc nhòa trong nước mắt. Cuối cuốn sách, nhà văn Pháp Pierre Abraham chủ nhiệm Tạp chí Châu Âu viết: “…như từ bờ bãi sông Hồng đỏ rực, gió cuốn đến đây nhà văn lớn này là người của đất, thật là người của đất”. Nhà văn Đỗ Nhật Minh, cháu gọi nhà văn Nguyên Hồng bằng chú họ sinh năm 1944, quê quán Nam Định. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội VHNT tỉnh Bắc Giang. Ông đã có 17 đầu sách, 4 tiểu thuyết và 13 tập truyện ngắn. Trong đó phải kể đến những tác phẩm chính như tiểu thuyết “Giã từ đêm quan họ”; “Bóng đêm và con chó”; “Thờ ơ và tội ác” và các tập truyện ngắn tiêu biểu như “Cái lồng sắt”; “Quán trần gian”… một số cuốn sách của ông đã được các NXB tái bản. Các tác phẩm chính của ông chủ yếu viết về số phận con người. Đưa con người trở về với cuộc sống đời thường, hoàn cảnh sống cụ thể, giúp họ nhận ra những giá trị chuẩn mực của gia đình, giá trị thực của đời sống hiện tại. Con người ông xây dựng, đề cập, đa phần hướng đến sự trung thực, giàu lòng vị tha. Nhân vật trong các tiểu thuyết ám ảnh, khơi gợi người đọc và cao cả hơn nữa, dù chịu nhiều thiệt thòi, đắng cay, mất mát, số phận, nhưng tất cả đều thể hiện lòng vị tha, đức hy sinh thầm lặng trong bản năng vốn có của họ. Sức sống và niềm tin của mỗi con người trong các truyện ngắn sau này đều tinh khôi, thánh thiện, biết vươn lên, vượt qua trở ngại và sống đúng nghĩa: Con người.
Cũng như nhiều loài vật khác, Mèo là nguồn cảm hứng để các bậc danh võ sáng tác ra các bài quyền, đòn thế, tấn pháp, hay đặt tên cho môn phái. Đà Nẵng quy tụ hai môn phái võ Mèo: Thiếu Lâm Bạch miêu phái và Thiếu Lâm Hắc miêu phái, làm cho nền võ thuật đất Đà thành thêm đa dạng, phong phú và đặc sắc. Võ sư Hoàng Bá Dũng (Thiếu Lâm Bạch miêu phái) biểu diễn đòn thế Miêu trảo công. Năm 1820, nhiều quan lại triều đình Trung Quốc bị thất thủ chạy đến huyện Triều Châu. Họ vào ngôi miếu tên “Tứ linh miêu” có thờ Đạt Ma sư tổ và bốn con mèo ở dưới đế chân viền của bàn là Bạch miêu, Hoàng miêu, Hắc miêu, Tam thể. Họ lấy tên Bạch Miêu đặt cho môn phái mình và xin xăm để chứng nghiệm. Tất cả mọi việc đúng như họ cầu xin và và môn phái Thiếu Lâm Bạch Miêu ra đời từ đó. Thời gian sau một số người trong này mất dần. Năm 1919, những người cao tuổi ở lại duy trì việc hương hỏa, lớp trẻ sang Việt Nam sinh sống. Nơi đặt chân đầu tiên của họ ở Việt Nam là kinh đô Huế rồi lan dần đến Đà Nẵng, Hội An. Năm 1919-1940, những minh sư truyền bá lại y học và võ học tại Đà Nẵng, Hội An có thể đến: Quách Trịnh Thạch, Diệp Thế Phùng, Quách Mạnh Ôn, Miêu Khả Diệp, Thạch Chí Mìn… Đến năm 1956, một số minh sư chuyển vào vùng Chợ Lớn – Sài Gòn dạy tại bến Hàm Tử (Chợ Lớn). Ở Non Nước (Đà Nẵng), những minh sư chịu trách nhiệm giảng dạy là Quách Tịnh Khả, Quách Mạnh Hà, Lâm Quang Phướng, Quách Trịnh Thạch. Các môn sinh ăn học được Thượng tọa Thích Pháp Nhãn đỡ đầu. Hiện nay, hầu hết các môn sinh đều thất lạc hoặc qua đời, còn lại võ sư Hoàng Bá Dũng trú tại Đà Nẵng với cấp bậc bạch đai. Võ sư Dũng là người tàn tật, mất cả hai chân. Những bài quyền, công phu đặc trưng của môn phái là Bạch miêu quyền, Miêu trảo công, Thập bát thức, Trảo công quyền, Khinh công, Uyển công, Tâm pháp. Hệ thống đẳng cấp môn phái của môn phái bao gồm các màu: đen, nâu, xanh, đỏ, trắng. Võ sư, Đại đức Thích Minh Thắng (Thiếu Lâm Hắc miêu phái) biểu diễn công phu của môn phái. Thiếu Lâm Hắc miêu phái có nguồn gốc từ Quảng Châu (Trung Quốc) do Đức Sơn thiền sư sáng lập. Môn phái này được biết đến ở Việt Nam do thầy Bạch Long Sơn ở huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, sau đó ở chợ An Đông, Sài Gòn. Những bài quyền đặc trưng của môn phái này gồm: Trường đoản miêu sơn, Hắc miêu sơn, Miêu hoa quyền và Miêu phốc ly sơn. Các thế tấn đặc trưng là Long tấn, Miêu tấn, Hạc tấn, Vĩ tấn. Võ khí đặc trưng: Trường côn, đoản côn. Thiếu Lâm Hắc miêu phái dựa vào Long tấn làm bộ pháp, bộ bông làm thủ pháp, dùng nhãn pháp chế ngự mọi hoạt động. Võ phục của môn phái là màu đen, định 5 màu đai theo thứ tự: đà, xanh, vàng, đỏ, hồng. Ngày nay, đai cao nhất màu hồng đổi lại thành màu trắng cho phù hợp với võ cổ truyền. Môn phái được biết đến tại Đà Nẵng do Đại đức Thích Minh Thắng, tên thật Nguyễn Trần Hoàng Hải, biệt danh Hải Vân Sơn truyền dạy. Võ sư Hà Túc Li (Chưởng môn Thiếu Lâm Quyền thuật Hòa Quang phái) biểu diễn Miêu công quyền. Tích xưa kể lại, nhờ sự tình cờ ngẫu nhiên quan sát sự chiến đấu sinh tồn giữa mèo và rắn, các bậc danh sư môn phái Thiếu Lâm Quyền thuật Hòa Quang đã sáng tạo ra bài quyền có tên gọi: Miêu công quyền. Công pháp của bài quyền này được mô tả như sau: Để đối phó với đòn tấn công của rắn, mèo sẽ nghiêng mình né tránh và dùng đòn trảo tạt ngang vào mặt rắn hơi chếch từ trên xuống; đồng thời sử dụng bộ móng vuốt để xé nát đầu địch thủ. Bài quyền này đánh theo kiểu “dương Đông, kích Tây” thấy đấy mà không đỡ được; các động tác dẻo dai, uyển chuyển (nhu) nhưng tiềm ẩn công lực vô cương. Theo Võ sư chưởng môn Hà Túc Li, bài Miêu công quyền của Thiếu Lâm Quyền thuật Hòa Quang phái dành cho các võ sinh đã tập luyện trên một năm rưỡi. Bài quyền này có 36 thức, thi triển chỉ trong 1 phút, nhưng nó mang tính cương nhu phối triển với đủ các bộ tràn, hoành, hụp, lặn, lách, bổ, bung… thể hiện đủ các điệu bộ của con mèo cùng với thủ pháp 5 ngón trảo để xuất chiêu.
Like many other animals, Cats are a source of inspiration for famous martial artists to create martial arts techniques, moves, techniques, or to name their sects. Danang Bringing together two Meo martial arts sects: Shaolin White Cat Sect and Shaolin Black Cat Sect, making Da's martial arts scene more diverse, rich and unique. Master Hoang Ba Dung (Shaolin White Cat Sect) demonstrates the Miao Claw attack. In 1820, many Chinese imperial officials fell and fled to Chaozhou district. They entered the temple called "Four lynx" which worships Master Dat Ma and four cats at the base of the table's edge: White cat, Yellow cat, Black cat, and Three-bodied cat. They took the name Bach Mieu for their sect and asked for a tattoo to prove it. Everything was as they prayed and the Shaolin Bach Mieu sect was born from there. Over time, some of these people gradually disappeared. In 1919, the elderly stayed to maintain the incense burning, while the young people went to Vietnam to live. Their first place to set foot in Vietnam was the capital Hue and then gradually spread to Da Nang and Hoi An. In 1919-1940, masters who spread medicine and martial arts in Da Nang and Hoi An could come: Quach Trinh Thach, Diep The Phung, Quach Manh On, Miao Kha Diep, Thach Chi Min... By 1956, Some masters moved to the Cho Lon - Saigon area to teach at Ham Tu wharf (Cho Lon). In Non Nuoc (Da Nang), the masters responsible for teaching are Quach Tinh Kha, Quach Manh Ha, Lam Quang Phuong, Quach Trinh Thach. The students are sponsored by Venerable Thich Phap Nhan. Currently, most of the students are lost or have passed away, the remaining martial arts master Hoang Ba Dung resides in Da Nang with the rank of white belt. Master Dung is disabled, having lost both legs. The sect's typical kungfus and techniques are White Cat Kung Fu, Mieu Cach Kung Kung, Eighteen Forms, Cach Kung Kung Kung, Khinh Kung Kung, Uyen Kung Kung, and Tam Phap. The sect's caste system includes the following colors: black, brown, blue, red, and white. Martial arts master, Venerable Thich Minh Thang (Shaolin Black Cat Sect) demonstrates the sect's kung fu. The Shaolin Black Cat sect originated in Guangzhou (China) and was founded by Zen master Duc Son. This sect was known in Vietnam by master Bach Long Son in Trang Bang district, Tay Ninh province, then at An Dong market, Saigon. The typical kata of this sect include: Long Doan Meo Mountain, Black Cat Mountain, Mieu Hoa Quyen and Mieu Phuc Ly Mountain. Typical stances are Dragon Tan, Mieu Tan, Crane Tan, and Vi Tan. Characteristic weapons: Long stick, short stick. Shaolin Black Cat Sect relies on Long Tan as its footwork, cotton footwork as its technique, and uses eye magic to control all activities. The sect's martial arts uniform is black, with 5 belt colors in order: yellow, green, red, pink. Nowadays, the highest pink belt has changed to white to match traditional martial arts. The sect is known in Da Nang by Venerable Thich Minh Thang, real name Nguyen Tran Hoang Hai, nickname Hai Van Son. Master Ha Tuc Li (Master of Shaolin Fist Arts Hoa Quang Sect) performs Miao kung fu. According to ancient stories, thanks to the fortuitous observation of the fight for survival between cats and snakes, famous masters of the Hoa Quang Shaolin Kung Fu sect created a form called: Cat Kung Kung. The technique of this form is described as follows: To deal with the snake's attack, the cat will tilt its body to avoid it and use a horizontal claw strike to hit the snake's face slightly from above; At the same time, use the claws to tear off the opponent's head. This form of boxing is played in the style of "Yang East, Strike West". You can see that it cannot be blocked; The movements are supple and flexible but have unlimited potential power. According to Head Master Ha Tuc Li, the Miao Kung Kung lesson of the Hoa Quang Shaolin Fist Arts sect is for students who have practiced for over a year and a half. This form has 36 forms, performed in just 1 minute, but it has a soft and firm character combined with all the sets of overflow, horizontal, heaving, diving, spleen, tonic, bung... showing all the gestures of the cat and with the 5-finger claw technique to perform the move.