vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo cấp cao và nỗ lực chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, công tác đối ngoại đa phương của Việt Nam đạt được nhiều kết quả nổi bật trong năm 2022. Thành tựu đối ngoại đa phương góp phần thiết thực vào sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện của đất nước.
Thứ trưởng ngoại giao Đỗ Hùng Việt.
Năm 2022, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến khó lường, phức tạp bởi cạnh tranh nước lớn, xung đột, tranh chấp, bất ổn xảy ra ở nhiều khu vực và sự nổi lên gay gắt của các thách thức an ninh phi truyền thống, đặt ra nhiều thách thức đối với chủ nghĩa đa phương và lợi ích an ninh, phát triển của các nước, nhất là các nước vừa và nhỏ. Thực trạng này đã tác động không thuận nhiều mặt đến năng lực và hiệu quả hoạt động của các thể chế đa phương, thậm chí nhiều tình huống còn dẫn đến mâu thuẫn, chia rẽ, đối đầu quan điểm. Song cũng chính trong hoàn cảnh đó, các nước, dù lớn hay nhỏ, càng ý thức thêm về vai trò quan trọng của hợp tác đa phương và nhu cầu tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế để giải quyết những vấn đề cấp bách toàn cầu.
Năm 2022, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã trực tiếp tham gia nhiều hoạt động đa phương quan trọng hàng đầu, qua đó truyền tải mạnh mẽ thông điệp về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, trọng công lý, năng động, đổi mới, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Với vị thế, uy tín quốc tế, với những đóng góp nổi bật tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế tín nhiệm bầu vào nhiều cơ chế quan trọng như Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 77, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể nhiệm kỳ 2022-2026.
Đồng thời, Việt Nam tiếp tục thực hiện trọng trách thành viên tại Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) nhiệm kỳ 2021-2023, Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2021-2025, Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) nhiệm kỳ 2023-2027, Ủy ban Luật thương mại Quốc tế nhiệm kỳ 2019-2025 và một số cơ quan chuyên ngành khác.
Trong những vai trò đó và tại tất cả các diễn đàn, Việt Nam đã có nhiều đóng góp chủ động, tích cực và trách nhiệm, đề cao tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Chúng ta đã đề cao việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, kêu gọi chấm dứt xung đột, khôi phục hòa bình, bảo vệ an ninh, an toàn của người dân và các cơ sở hạ tầng thiết yếu, kêu gọi và có đóng góp trực tiếp vào các nỗ lực hỗ trợ nhân đạo cho người dân gặp khó khăn do xung đột; đồng thời đề cao và thúc đẩy đối thoại thực chất, tìm giải pháp cân bằng, thỏa đáng cho các xung đột, tranh chấp, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên liên quan, phù hợp luật pháp quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển chung, thể hiện đạo lý nhân văn, nhân nghĩa của dân tộc ta.
Chúng ta cũng tiếp tục có những đóng góp hết sức cụ thể khi đẩy mạnh việc tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đặc biệt là lần đầu tiên triển khai Đội công binh gồm 184 người tại Phái bộ Liên hợp quốc tại Abyei (UNISFA), 3 sĩ quan công an nhân dân tại Phái bộ Nam Sudan (UNMISS) và 1 sĩ quan công an làm việc tại Ban Thư ký Liên hợp quốc.
Bên cạnh đó, trong năm qua, Việt Nam đã tận dụng tốt các cơ chế, diễn đàn, khuôn khổ hợp tác đa phương để phục vụ yêu cầu và đóng góp vào những nỗ lực phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Chúng ta tiếp tục đẩy mạnh triển khai Khung chiến lược hợp tác phát triển bền vững Việt Nam-Liên hợp quốc giai đoạn 2022-2026 và các cơ chế hợp tác tiểu vùng; thực hiện có hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã ký kết, nhất là CPTPP, EVFTA, RCEP; đề xuất nhiều ý tưởng, sáng kiến để tăng cường hợp tác, kết nối chuỗi cung ứng trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM, OECD; tiếp tục vận động cơ chế COVAX cung cấp vaccine Covid-19 và được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lựa chọn là nước chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine mRNA.
Việc Việt Nam cùng các nước G7 và các đối tác quốc tế thông qua Tuyên bố chính trị về việc thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) có ý nghĩa quan trọng, góp phần huy động nguồn lực cả về tài chính và công nghệ để Việt Nam thực hiện chuyển đổi năng lượng, tiến tới đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Năm 2022 là dịp đặc biệt, đánh dấu 45 năm Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc (1977-2022). Ngay từ khi nước Việt Nam mới ra đời, đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới Chủ tịch Đại hội đồng và nhiều quốc gia để đề nghị kết nạp Việt Nam làm thành viên Liên hợp quốc. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, phải tới ngày 20/9/1977, quốc kỳ Việt Nam mới chính thức tung bay tại trụ sở Liên hợp quốc (New York).
45 năm qua, Liên hợp quốc đã thực sự trở thành người bạn thủy chung, đối tác tin cậy, gắn bó hàng đầu của Việt Nam trong mọi giai đoạn phát triển. Những hỗ trợ tích cực, hiệu quả của Liên hợp quốc đã giúp Việt Nam vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức để tái thiết đất nước sau chiến tranh, phá thế bao vây cấm vận và từng bước hội nhập quốc tế, gần đây nhất là ứng phó và thích ứng với dịch Covid-19.
Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu và phải nhận viện trợ, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ bằng thành quả hơn 35 năm đổi mới, trở thành chủ thể đóng góp ngày một hiệu quả, thực chất vào tất cả các lĩnh vực hoạt động trụ cột của Liên hợp quốc và trong tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam (tháng 10/2022), xuyên suốt qua các cuộc tiếp xúc, hội đàm với lãnh đạo cấp cao ta và tại Lễ kỷ niệm 45 năm Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres đã bày tỏ ấn tượng sâu đậm về đất nước, con người và nghị lực vượt khó, vươn lên của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về lấy người dân làm trung tâm, chủ thể và động lực của tiến trình phát triển chính là điển hình thành công để các nước khác học tập.
Thông qua chuyến thăm đầy ý nghĩa này, chúng ta đã củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Liên hợp quốc, mở ra những xung lực và cơ hội mới để tranh thủ sự hỗ trợ và nguồn lực của Liên hợp quốc cho phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Năm 2023 có ý nghĩa bản lề quan trọng nhằm tiếp tục triển khai Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII và sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương. Đất nước ta đang ở trong thời kỳ chiến lược mới để hiện thực hóa khát vọng trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2045. Để thích ứng với cục diện thế giới biến chuyển nhanh chóng và đóng góp thiết thực cho sự nghiệp Đổi mới, công tác đối ngoại đa phương cần được chú trọng, phát huy trên một số phương diện sau:
Thứ nhất,
cần triển khai phục vụ tốt các hoạt động đối ngoại đa phương của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội, góp phần nâng cao uy tín, vị thế đất nước, thúc đẩy quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả với các nước thành viên, nhất là các nước lớn, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống.
Thứ hai,
cần đảm nhiệm tốt trọng trách tại các tổ chức, cơ quan quốc tế, nhất là vai trò thành viên tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Hội đồng Thống đốc IAEA, Hội đồng Chấp hành UNESCO, Ủy ban Luật pháp quốc tế, Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc.
Thứ ba,
cần phát huy vai trò chủ động, tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn đa phương lớn như Liên hợp quốc, ASEAN, Phong trào Không liên kết, ASEM, APEC, trong đó có việc thúc đẩy tính bổ trợ lẫn nhau giữa Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 và Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc; đồng thời đề xuất, thúc đẩy các sáng kiến hợp tác của Việt Nam phù hợp ưu tiên của đất nước như phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, bao trùm, chuyển đổi năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh biển, chuyển đổi số.
Thứ tư,
cần chủ động, nhạy bén, sáng tạo thúc đẩy các ý tưởng, sáng kiến mới. Việc thúc đẩy Đại hội đồng LHQ thông qua Nghị quyết về Ngày quốc tế phòng chống dịch bệnh (27/12), khởi xướng và đồng sáng lập Nhóm bạn bè UNCLOS 1982 là các thí dụ tiêu biểu cho thấy nếu biết cách phát huy, xác định vấn đề “đúng và trúng” quan tâm, lợi ích của cộng đồng quốc tế, chúng ta có thể mang lại những dấu ấn tích cực, lâu dài tại các cơ chế đa phương.
Và thứ năm,
cần nâng cao hiệu quả của công tác phối hợp liên ngành, nhất là trong nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu và xử lý các vấn đề đa phương, tạo sức mạnh đồng thuận trong nhận thức và hành động. Cùng với đó là đầu tư cho công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đối ngoại đa phương đủ phẩm chất, năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định việc triển khai thành công các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương.
Thứ trưởng Ngoại giao
|
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo cấp cao và nỗ lực chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, công tác đối ngoại đa phương của Việt Nam đạt được nhiều kết quả nổi bật trong năm 2022. Thành tựu đối ngoại đa phương góp phần thiết thực vào sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế toàn diện của đất nước.
Thứ trưởng ngoại giao Đỗ Hùng Việt.
Năm 2022, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến khó lường, phức tạp bởi cạnh tranh nước lớn, xung đột, tranh chấp, bất ổn xảy ra ở nhiều khu vực và sự nổi lên gay gắt của các thách thức an ninh phi truyền thống, đặt ra nhiều thách thức đối với chủ nghĩa đa phương và lợi ích an ninh, phát triển của các nước, nhất là các nước vừa và nhỏ. Thực trạng này đã tác động không thuận nhiều mặt đến năng lực và hiệu quả hoạt động của các thể chế đa phương, thậm chí nhiều tình huống còn dẫn đến mâu thuẫn, chia rẽ, đối đầu quan điểm. Song cũng chính trong hoàn cảnh đó, các nước, dù lớn hay nhỏ, càng ý thức thêm về vai trò quan trọng của hợp tác đa phương và nhu cầu tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế để giải quyết những vấn đề cấp bách toàn cầu.
Năm 2022, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã trực tiếp tham gia nhiều hoạt động đa phương quan trọng hàng đầu, qua đó truyền tải mạnh mẽ thông điệp về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, trọng công lý, năng động, đổi mới, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Với vị thế, uy tín quốc tế, với những đóng góp nổi bật tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế tín nhiệm bầu vào nhiều cơ chế quan trọng như Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 77, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025, Ủy ban liên Chính phủ Công ước UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể nhiệm kỳ 2022-2026.
Đồng thời, Việt Nam tiếp tục thực hiện trọng trách thành viên tại Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) nhiệm kỳ 2021-2023, Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2021-2025, Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) nhiệm kỳ 2023-2027, Ủy ban Luật thương mại Quốc tế nhiệm kỳ 2019-2025 và một số cơ quan chuyên ngành khác.
Trong những vai trò đó và tại tất cả các diễn đàn, Việt Nam đã có nhiều đóng góp chủ động, tích cực và trách nhiệm, đề cao tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Chúng ta đã đề cao việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, kêu gọi chấm dứt xung đột, khôi phục hòa bình, bảo vệ an ninh, an toàn của người dân và các cơ sở hạ tầng thiết yếu, kêu gọi và có đóng góp trực tiếp vào các nỗ lực hỗ trợ nhân đạo cho người dân gặp khó khăn do xung đột; đồng thời đề cao và thúc đẩy đối thoại thực chất, tìm giải pháp cân bằng, thỏa đáng cho các xung đột, tranh chấp, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên liên quan, phù hợp luật pháp quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển chung, thể hiện đạo lý nhân văn, nhân nghĩa của dân tộc ta.
Chúng ta cũng tiếp tục có những đóng góp hết sức cụ thể khi đẩy mạnh việc tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, đặc biệt là lần đầu tiên triển khai Đội công binh gồm 184 người tại Phái bộ Liên hợp quốc tại Abyei (UNISFA), 3 sĩ quan công an nhân dân tại Phái bộ Nam Sudan (UNMISS) và 1 sĩ quan công an làm việc tại Ban Thư ký Liên hợp quốc.
Bên cạnh đó, trong năm qua, Việt Nam đã tận dụng tốt các cơ chế, diễn đàn, khuôn khổ hợp tác đa phương để phục vụ yêu cầu và đóng góp vào những nỗ lực phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Chúng ta tiếp tục đẩy mạnh triển khai Khung chiến lược hợp tác phát triển bền vững Việt Nam-Liên hợp quốc giai đoạn 2022-2026 và các cơ chế hợp tác tiểu vùng; thực hiện có hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã ký kết, nhất là CPTPP, EVFTA, RCEP; đề xuất nhiều ý tưởng, sáng kiến để tăng cường hợp tác, kết nối chuỗi cung ứng trong khuôn khổ ASEAN, APEC, ASEM, OECD; tiếp tục vận động cơ chế COVAX cung cấp vaccine Covid-19 và được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lựa chọn là nước chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine mRNA.
Việc Việt Nam cùng các nước G7 và các đối tác quốc tế thông qua Tuyên bố chính trị về việc thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) có ý nghĩa quan trọng, góp phần huy động nguồn lực cả về tài chính và công nghệ để Việt Nam thực hiện chuyển đổi năng lượng, tiến tới đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.
Năm 2022 là dịp đặc biệt, đánh dấu 45 năm Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc (1977-2022). Ngay từ khi nước Việt Nam mới ra đời, đầu năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới Chủ tịch Đại hội đồng và nhiều quốc gia để đề nghị kết nạp Việt Nam làm thành viên Liên hợp quốc. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, phải tới ngày 20/9/1977, quốc kỳ Việt Nam mới chính thức tung bay tại trụ sở Liên hợp quốc (New York).
45 năm qua, Liên hợp quốc đã thực sự trở thành người bạn thủy chung, đối tác tin cậy, gắn bó hàng đầu của Việt Nam trong mọi giai đoạn phát triển. Những hỗ trợ tích cực, hiệu quả của Liên hợp quốc đã giúp Việt Nam vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức để tái thiết đất nước sau chiến tranh, phá thế bao vây cấm vận và từng bước hội nhập quốc tế, gần đây nhất là ứng phó và thích ứng với dịch Covid-19.
Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu và phải nhận viện trợ, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ bằng thành quả hơn 35 năm đổi mới, trở thành chủ thể đóng góp ngày một hiệu quả, thực chất vào tất cả các lĩnh vực hoạt động trụ cột của Liên hợp quốc và trong tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam (tháng 10/2022), xuyên suốt qua các cuộc tiếp xúc, hội đàm với lãnh đạo cấp cao ta và tại Lễ kỷ niệm 45 năm Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc, Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres đã bày tỏ ấn tượng sâu đậm về đất nước, con người và nghị lực vượt khó, vươn lên của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về lấy người dân làm trung tâm, chủ thể và động lực của tiến trình phát triển chính là điển hình thành công để các nước khác học tập.
Thông qua chuyến thăm đầy ý nghĩa này, chúng ta đã củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với Liên hợp quốc, mở ra những xung lực và cơ hội mới để tranh thủ sự hỗ trợ và nguồn lực của Liên hợp quốc cho phát triển kinh tế-xã hội đất nước.
Năm 2023 có ý nghĩa bản lề quan trọng nhằm tiếp tục triển khai Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII và sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương. Đất nước ta đang ở trong thời kỳ chiến lược mới để hiện thực hóa khát vọng trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2045. Để thích ứng với cục diện thế giới biến chuyển nhanh chóng và đóng góp thiết thực cho sự nghiệp Đổi mới, công tác đối ngoại đa phương cần được chú trọng, phát huy trên một số phương diện sau:
Thứ nhất,
cần triển khai phục vụ tốt các hoạt động đối ngoại đa phương của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội, góp phần nâng cao uy tín, vị thế đất nước, thúc đẩy quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả với các nước thành viên, nhất là các nước lớn, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống.
Thứ hai,
cần đảm nhiệm tốt trọng trách tại các tổ chức, cơ quan quốc tế, nhất là vai trò thành viên tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Hội đồng Thống đốc IAEA, Hội đồng Chấp hành UNESCO, Ủy ban Luật pháp quốc tế, Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc.
Thứ ba,
cần phát huy vai trò chủ động, tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn đa phương lớn như Liên hợp quốc, ASEAN, Phong trào Không liên kết, ASEM, APEC, trong đó có việc thúc đẩy tính bổ trợ lẫn nhau giữa Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 và Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc; đồng thời đề xuất, thúc đẩy các sáng kiến hợp tác của Việt Nam phù hợp ưu tiên của đất nước như phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, bao trùm, chuyển đổi năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh biển, chuyển đổi số.
Thứ tư,
cần chủ động, nhạy bén, sáng tạo thúc đẩy các ý tưởng, sáng kiến mới. Việc thúc đẩy Đại hội đồng LHQ thông qua Nghị quyết về Ngày quốc tế phòng chống dịch bệnh (27/12), khởi xướng và đồng sáng lập Nhóm bạn bè UNCLOS 1982 là các thí dụ tiêu biểu cho thấy nếu biết cách phát huy, xác định vấn đề “đúng và trúng” quan tâm, lợi ích của cộng đồng quốc tế, chúng ta có thể mang lại những dấu ấn tích cực, lâu dài tại các cơ chế đa phương.
Và thứ năm,
cần nâng cao hiệu quả của công tác phối hợp liên ngành, nhất là trong nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu và xử lý các vấn đề đa phương, tạo sức mạnh đồng thuận trong nhận thức và hành động. Cùng với đó là đầu tư cho công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đối ngoại đa phương đủ phẩm chất, năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định việc triển khai thành công các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương.
Thứ trưởng Ngoại giao
|
Việt Nam
sẽ tiếp tục ủng hộ các mục tiêu, chương trình của Liên hợp quốc (LHQ) trong khả năng tham gia tốt nhất của mình, trong đó có cam kết tăng cường tỷ lệ nữ quân nhân Việt Nam trong lực lượng gìn giữ hòa bình (GGHB) LHQ.
Đại sứ Đặng Hoàng Giang gặp ông Jean-Pierre Lacroix, Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc.
Ngày 16/1, tại trụ sở LHQ ở New York, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại LHQ đã có cuộc gặp với ông Jean-Pierre Lacroix, Phó Tổng thư ký LHQ.
Cuộc gặp nhằm tiếp tục trao đổi về các biện pháp thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và LHQ trong các hoạt động hòa bình, đặc biệt sau khi Phó Tổng thư ký Lacroix có chuyến thăm Việt Nam.
Tại cuộc gặp, Đại sứ Đặng Hoàng Giang cảm ơn LHQ đã hỗ trợ các nỗ lực tham gia hoạt động GGHB của Việt Nam. Đại sứ nhấn mạnh, thúc đẩy hợp tác với LHQ, trong đó có tăng cường tham gia hoạt động GGHB, là một trong các ưu tiên đối ngoại hiện nay của Việt Nam.
Việt Nam sẽ tiếp tục ủng hộ các mục tiêu, chương trình của LHQ trong khả năng tham gia tốt nhất của mình, trong đó có cam kết tăng cường tỷ lệ nữ quân nhân Việt Nam trong lực lượng GGHB LHQ.
Trong khả năng của mình, Việt Nam cũng sẽ tiếp tục ủng hộ và kêu gọi các nước có sự ủng hộ mạnh mẽ hơn để LHQ vượt qua được những khó khăn và thách thức hiện có trong hoạt động GGHB, nhất là những ảnh hưởng tiêu cực sau đại dịch và khủng hoảng khí hậu, những khó khăn trong triển khai sứ mệnh GGHB của LHQ và giải quyết những thách thức đang nổi lên đối với hòa bình và an ninh quốc tế.
Nhân dịp này, Đại sứ đề nghị Phó Tổng thư ký Lacroix và các cơ quan chức năng của LHQ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam xây dựng năng lực, nhất là năng lực huấn luyện đối với lực lượng quân sự và cảnh sát GGHB, hỗ trợ trong công tác luân chuyển lực lượng tại các phái bộ và các hỗ trợ thiết thực khác nhằm giúp Việt Nam đáp ứng tốt hơn yêu cầu và nhu cầu của LHQ trong triển khai hoạt động GGHB.
Phó Tổng thư ký LHQ Lacroix đánh giá cao sự tham gia tích cực, đạt kết quả tốt của Việt Nam trong các hoạt động GGHB của LHQ cũng như các cam kết của Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của LHQ, nhất là tỷ lệ nữ quân nhân tham gia hoạt động GGHB.
Ông Lacroix cũng cho biết đã trực tiếp chứng kiến và rất ấn tượng khi thấy Đại đội công binh Việt Nam hoàn thành rất tốt các nhiệm vụ khó khăn được giao tại Phái bộ An ninh lâm thời của LHQ tại khu vực Abyei (UNISFA).
Phó Tổng thư ký khẳng định LHQ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuẩn bị lực lượng, hỗ trợ công tác huấn luyện, kiểm tra đánh giá tiền khả thi cũng như xây dựng các năng lực cần thiết khác mà Việt Nam chưa có đủ.
Ông Lacroix nhất trí hai bên sẽ cùng tích cực phối hợp để xác định chủ trương, lĩnh vực hợp tác mà LHQ đang có nhu cầu và Việt Nam có kinh nghiệm, khả năng đáp ứng tốt để thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa Việt Nam và LHQ.
(theo Phái đoàn Việt Nam tại LHQ)
|
Vietnam
will continue to support the goals and programs of the United Nations (UN) to the best of its ability, including a commitment to increase the proportion of Vietnamese female soldiers in peacekeeping forces ( GGHB) UN.
Ambassador Dang Hoang Giang met Mr. Jean-Pierre Lacroix, Deputy Secretary General of the United Nations.
On January 16, at the UN headquarters in New York, Ambassador Dang Hoang Giang, Head of the Vietnam Permanent Mission to the UN, had a meeting with Mr. Jean-Pierre Lacroix, Deputy Secretary General of the UN.
The meeting aimed to continue discussing measures to promote cooperation between Vietnam and the UN in peace activities, especially after Deputy Secretary General Lacroix visited Vietnam.
At the meeting, Ambassador Dang Hoang Giang thanked the UN for supporting Vietnam's efforts to participate in peacekeeping activities. The Ambassador emphasized that promoting cooperation with the UN, including increasing participation in peacekeeping activities, is one of Vietnam's current foreign policy priorities.
Vietnam will continue to support the UN's goals and programs to the best of its ability, including a commitment to increase the proportion of Vietnamese female soldiers in the UN peacekeeping force.
Within its capabilities, Vietnam will also continue to support and call for stronger support from other countries so that the UN can overcome the current difficulties and challenges in peacekeeping activities, especially negative impacts. post-pandemic and climate crisis, difficulties in implementing the UN peacekeeping mission and addressing emerging challenges to international peace and security.
On this occasion, the Ambassador requested Deputy Secretary General Lacroix and relevant UN agencies to continue supporting Vietnam in building capacity, especially training capacity for military and police forces, Support in the rotation of forces at missions and other practical support to help Vietnam better meet the requirements and needs of the UN in implementing peacekeeping activities.
UN Deputy Secretary General Lacroix highly appreciated Vietnam's active participation and good results in UN peacekeeping activities as well as Vietnam's commitments in implementing the UN's goals and targets, especially is the proportion of female soldiers participating in peacekeeping activities.
Mr. Lacroix also said he directly witnessed and was very impressed to see the Vietnam Engineer Company successfully complete the difficult tasks assigned to the UN Interim Security Mission in the Abyei region (UNISFA).
The Deputy Secretary General affirmed that the UN is ready to support Vietnam in the process of preparing its forces, supporting training, pre-feasibility testing and assessment as well as building other necessary capacities that Vietnam does not yet have. enough.
Mr. Lacroix agreed that the two sides will actively coordinate to identify policies and areas of cooperation that the UN is in need of and that Vietnam has experience and ability to respond well to further promote cooperation between Vietnam. and the UN.
(according to the Vietnam Delegation to the UN)
|
Để tới
sao Hỏa
, một tàu vũ trụ bay với tốc độ 39.600 km/giờ cần khoảng 7 tháng mới đi hết quãng đường 480 triệu km trong không gian.
Để đến được sao Hỏa, tàu vũ trụ phải mất khoảng 7 tháng.
Giả sử có chở theo người, con tàu đó cần mang đủ thực phẩm cho chuyến đi, hoặc một cỗ máy tạo ra thức ăn từ không khí loãng – những điều dường như không tưởng. Hiện nay, có một giải pháp mà các nhà khoa học đang tính tới, đó là làm cho cơ thể “ngủ đông”.
Ngủ đông (Hibernation) là trạng thái tự nguyện mà một con vật đi vào để bảo tồn năng lượng khi thức ăn khan hiếm, giảm thiểu nhu cầu phải đối mặt với sự khắc nghiệt trong những tháng mùa đông giá lạnh.
Đây thực sự như một giấc ngủ sâu, trạng thái cơ thể được đánh dấu bằng nhiệt độ thấp, nhịp thở, nhịp tim chậm, và tỷ lệ trao đổi chất thấp. Con vật có thể tồn tại trong vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng. Ngủ đông hiện chỉ được ghi nhận ở một số loài vật. Liệu con người có thể kích hoạt được trạng thái này không?
Theo các nhà khoa học, hiện có 3 nghiên cứu mới cho thấy con người có khả năng đi vào trạng thái ngủ đông, giống như gấu và các động vật có vú khác.
Nghiên cứu thứ nhất trên những hóa thạch cho thấy một số người tiền sử ở vùng khí hậu lạnh giá chết người nhưng vẫn sống sót. Họ không phải làm gì cả, chỉ việc nằm yên, cơ thể được cung cấp chất béo dự trữ.
Sima de los Huesos là một hang động có từ 430 nghìn năm nay ở Cueva Mayor thuộc vùng núi Sierra de Atapuerca của Tây Ban Nha, được coi là nghĩa trang lâu đời nhất được biết đến trong lịch sử. Nó chứa khoảng 2.000 xương thuộc về ít nhất 32 cá nhân khác nhau.
Đây là bộ sưu tập hóa thạch của con người lớn nhất từ kỷ nguyên Pleistocen giữa. Một bài báo đăng trên tạp chí L’Anthropologists tiết lộ, một số hóa thạch trên cho thấy sự phát triển của xương bị chậm hoặc ngưng lại trong vài tháng mỗi năm, ám chỉ con người sơ khai đã bước vào “trạng thái trao đổi chất giúp họ tồn tại một thời gian dài trong điều kiện lạnh giá với nguồn cung cấp thực phẩm hạn chế và đủ lượng mỡ dự trữ trong cơ thể”.
Tuy nhiên, đây không phải là ngủ đông mà là trạng thái hôn mê – bảo tồn năng lượng không tự nguyện có thể thấy ở chuột, chim và các sinh vật khác, được gọi là Torpor. Về cơ bản nó là phiên bản đơn giản của chế độ ngủ đông.
Phi hành gia trong trạng thái “ngủ đông” trên đường lên sao Hỏa.
Nghiên cứu thứ hai đã tìm ra cách tạo ra trạng thái ngủ đông ở các loài linh trưởng không phải người. Tiến sĩ Marina Blanco, nhà khoa học thuộc Đại học Duke ở Mỹ, người đã nghiên cứu về quá trình ngủ đông ở vượn cáo lùn, giải thích trên tờ Daily Mail rằng, ngủ đông ở người là một khả năng tiềm ẩn trong cấu tạo gen.
Một số động vật có vú như gấu nâu, vượn cáo và nhím được biết là loài ngủ đông – chúng cố tình làm chậm quá trình trao đổi chất đến mức gần như không có gì để hỗ trợ sự sống qua nhiều tháng lạnh giá, cạn kiệt nguồn cung cấp thức ăn.
Mặc dù quá trình đi vào trạng thái ngủ đông đã được hiểu rõ, nhưng quá trình thoát khỏi nó thì không. Một nỗ lực mô phỏng quá trình này bị trở ngại bởi cú sốc mà các cơ quan và mô của cơ thể phải chịu khi lưu lượng máu được thiết lập lại.
Trong khi nghiên cứu kích hoạt lại gen Torpor ở người, các nhà khoa học ở Trung Quốc đã thực hiện một cách tiếp cận khác – hạ thân nhiệt trong thời gian dài. TS Wang Hong và TS Dai Ji từ Viện Công nghệ Tiên tiến Thâm Quyến (SIAT) thuộc Viện Khoa học Trung Quốc, đã tường trình trên tạp chí The Innovation về quá trình hạ thân nhiệt đầu tiên ở loài linh trưởng không phải người, bằng cách kích hoạt một nhóm tế bào thần kinh vùng dưới đồi.
Hạ thân nhiệt là tên gọi chính thức của việc giảm nhiệt độ cơ thể và giảm đáng kể hoạt động trao đổi chất – kỹ thuật được sử dụng trong cấy ghép tim và các ca phẫu thuật dài hạn khác. Đây cũng là tình trạng ngẫu nhiên mà nhiều người sau khi rơi qua lớp băng xuống hồ nước hoặc tiếp xúc với nhiệt độ khắc nghiệt trong khoảng thời gian dài mà vẫn sống sót.
Nhóm nghiên cứu Trung Quốc đã cố gắng tạo ra khả năng hạ thân nhiệt không gây tử vong cho khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis) bằng cách kết hợp thao tác hóa sinh, quét hình ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI), phân tích hành vi để duy trì trạng thái trong một tập hợp hẹp các thông số sinh lý và sinh hóa.
Nghiên cứu thứ ba về ngủ đông liên quan đến lĩnh vực tinh thần. Tờ Tibetan Review tường trình về các thí nghiệm gần đây trong việc lặp lại thực hành thiền định sâu của các nhà sư Tây Tạng như một cách để tạo ra trạng thái ngủ đông trong quá trình du hành liên hành tinh.
Đây sẽ là cách thức ít tốn kém nhất vì nó không liên quan đến kho lưu trữ hoặc tủ lạnh, chỉ cần trí óc con người. Đại diện của Đại học quốc gia Moscow đang nghiên cứu hoạt động điện não của các nhà sư trong khi thiền định, họ có thể đạt được sự hạn chế cảm giác và tập trung sâu trong khi làm chậm quá trình trao đổi chất.
Các chuyên gia từ Liên bang Nga đang làm việc để chọn ra một số kỹ thuật hiệu quả nhất và tìm hiểu cách đào tạo những nhà du hành vũ trụ đạt được trạng thái thiền định sâu giống như các nhà sư. Mặc dù thời gian không lâu dài như các kỹ thuật ngủ đông hoặc Torpor, nó có thể được sử dụng kết hợp trong quá trình lên sao Hỏa.
***
Ý tưởng cơ bản về việc đưa các phi hành gia vào trạng thái ngủ đông dài hạn đã được 3 cuộc nghiên cứu kể trên đưa ra không phải là hoang tưởng, nhưng để đạt được điều này, cần phải có thêm thời gian song song với những thành tựu về không gian khác.
Theo Mysteriousuniverse
|
To come
Mars
, a spacecraft flying at a speed of 39,600 km/h needs about 7 months to travel 480 million km in space.
To reach Mars, it takes the spacecraft about 7 months.
Assuming it carries people, the ship needs to carry enough food for the trip, or a machine that creates food from thin air - things that seem unimaginable. Currently, there is a solution that scientists are considering, which is to make the body "hibernate".
Hibernation is a voluntary state an animal enters to conserve energy when food is scarce, minimizing the need to face the rigors of the cold winter months.
This is actually a deep sleep, a body state marked by low temperature, slow breathing, slow heart rate, and low metabolic rate. The animal can survive for a few days, weeks or months. Hibernation is currently recorded in only a few animals. Can humans activate this state?
According to scientists, there are now 3 new studies showing that humans have the ability to enter a state of hibernation, like bears and other mammals.
The first study on fossils shows that some prehistoric humans in deadly cold climates still survived. They don't have to do anything, just lie still, their bodies are provided with stored fat.
Sima de los Huesos is a 430 thousand year old cave in Cueva Mayor in the Sierra de Atapuerca mountains of Spain, considered the oldest known cemetery in history. It contains approximately 2,000 bones belonging to at least 32 different individuals.
This is the largest collection of human fossils from the middle Pleistocene epoch. An article published in the journal L'Anthropologists revealed that some of the above fossils show that bone growth slowed or stopped for several months each year, implying that early humans entered a "state of exchange". substances that help them survive for long periods of time in cold conditions with a limited food supply and sufficient body fat reserves.”
However, this is not hibernation but a state of torpor – the involuntary conservation of energy that can be seen in mice, birds and other creatures, called Torpor. It's basically a simplified version of hibernation.
Astronauts in a state of "hibernation" on the way to Mars.
The second study found a way to induce hibernation in non-human primates. Dr. Marina Blanco, a scientist at Duke University in the US, who has researched the hibernation process in dwarf lemurs, explained in the Daily Mail that hibernation in humans is a hidden ability in the structure. gene.
Some mammals such as brown bears, lemurs and porcupines are known to hibernate – they deliberately slow their metabolism to the point of having almost nothing to support life through the cold, dry months. exhausted food supply.
Although the process of entering hibernation is well understood, the process of exiting it is not. An attempt to simulate this process is hampered by the shock to which the body's organs and tissues are subjected when blood flow is re-established.
While working on reactivating the Torpor gene in humans, scientists in China took a different approach – long-term hypothermia. Dr. Wang Hong and Dr. Dai Ji from the Shenzhen Institute of Advanced Technology (SIAT) of the Chinese Academy of Sciences, reported in the journal The Innovation on the first hypothermia in a non-human primate, using how to activate a group of neurons in the hypothalamus.
Hypothermia is the official name for a drop in body temperature and a significant reduction in metabolic activity – a technique used in heart transplants and other long-term surgeries. This is also a random situation where many people still survive after falling through the ice into a lake or being exposed to extreme temperatures for a long time.
The Chinese research team attempted to induce non-fatal hypothermia in long-tailed macaques (Macaca fascicularis) by combining biochemical manipulation, functional magnetic resonance imaging (fMRI) scanning, and analysis behavior to maintain a state within a narrow set of physiological and biochemical parameters.
The third study on hibernation concerns the mental realm. The Tibetan Review reports on recent experiments in repeating the practice of deep meditation by Tibetan monks as a way to induce a state of hibernation during interplanetary travel.
This would be the least expensive way because it doesn't involve storage or refrigeration, just the human mind. Representatives of Moscow State University are studying the electrical brain activity of monks during meditation, they are able to achieve sensory restriction and deep concentration while slowing down metabolism.
Experts from the Russian Federation are working to select some of the most effective techniques and learn how to train cosmonauts to achieve deep meditative states like monks. Although not as long lasting as the hibernation or Torpor techniques, it could be used in combination during the journey to Mars.
***
The basic idea of putting astronauts into long-term hibernation as suggested by the three studies above is not fanciful, but to achieve this, additional time is needed in parallel with other space achievements.
According to Mysteriousuniverse
|
Đền thờ đại tư đồ Võ Văn Dũng, tại thôn Phú Lâm, xã Tây Phú,
huyện Tây Sơn
, vừa được UBND
tỉnh Bình Định
tổ chức trọng thế lễ khánh thành và đưa vào sử dụng ngày 16-1.
Đây được kỳ vọng là một điểm nhấn giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho nhân dân, nhất là với thanh thiếu niên Bình Định, về một danh tướng trung dũng, uy phong, nhân nghĩa vẹn toàn.
Đền thờ được xây dựng trên khu đất rộng hơn 12 ha, theo lối kiến trúc cổ. Các hạng mục kết nối hài hòa tạo nên quy mô trang trọng cho khu đền thờ. Công trình càng được nâng cao giá trị khi có thế “tọa sơn”, phía sau và hai bên được bao bọc bởi dãy núi với những rừng cây, trước mặt là cánh đồng rộng, thoáng đẹp. Đền thờ được xây dựng với tổng kinh phí trên 15 tỉ đồng từ nguồn ngân sách và các nguồn xã hội hóa.
Đền thờ đại tư đồ Võ Văn Dũng.
Theo ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch UBND xã Tây Phú, di tích Từ đường Võ Văn Dũng tại thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia từ năm 1998. Với niềm tự hào, lòng kính ngưỡng tiền nhân, bà con địa phương rất mong muốn có công trình quy mô tương xứng với danh tiếng của ngài. Do vậy, việc khánh thành đền thờ đại tư đồ Võ Văn Dũng đã đáp ứng được nguyện vọng thiết tha lâu nay của bà con địa phương.
Ông Tạ Xuân Chánh, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Bình Định, cho biết đền thờ đại tư đồ Võ Văn Dũng là một điểm nhấn giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho nhân dân.
Ngoài ra, việc khánh thành, đưa vào sử dụng đền thờ góp phần hoàn chỉnh thêm một bước nữa về chuỗi các di tích liên quan đến vương triều Tây Sơn ở Bình Định, gắn kết với khu di tích quốc gia đặc biệt đền thờ Tây Sơn Tam kiệt với danh thắng Hầm Hô, thu hút du khách đến tham quan, nghiên cứu về nhà Tây Sơn. Đồng thời, tạo thêm một điểm nhấn góp phần phát triển kinh tế du lịch ở địa phương.
Theo ông Lâm Hải Giang, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định, đền thờ đại tư đồ Võ Văn Dũng là một công trình trọng điểm của tỉnh Bình Định nhằm tỏ lòng tri ân, tôn vinh các bậc tiền nhân đã có công với đất nước. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, phát huy lòng tự hào dân tộc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Hổ tướng số một của vua Quang Trung
Ông Võ Văn Dũng (một số sách chép là Vũ Văn Dũng) là người thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Ông sinh năm Canh Ngọ (1750), mất năm Tân Sửu (1841).
Sinh ra trong gia đình giàu có, từ nhỏ Võ Văn Dũng được cha mẹ mời thầy về nhà dạy cả văn lẫn võ. Là người có tầm vóc to lớn, tính cách mạnh mẽ, Võ Văn Dũng thích luyện võ hơn học văn. Sau này, khi gia nhập quân Tây Sơn, Võ Văn Dũng được cho là “quán quân /bách chiến khởi Tây thùy” – tiếng tăm Võ Văn Dũng trùm khắp ba quân / Trăm trận đánh nổi lên từ bờ cõi phương tây. Sau khi vua Quang Trung lên ngôi, Võ Văn Dũng được phong làm Tư khấu, rồi tới Đô đốc và đỉnh cao là được phong tước Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận Công thần Vũ Quốc công. Sau khi Quang Trung mất, ông cùng những danh tướng khác như Trần Quang Diệu, Võ Đình Tú… hết lòng phò tá vua trẻ Cảnh Thịnh. Chính ông là người có công loại trừ phe cánh của thái sư Bùi Đắc Tuyên lũng đoạn triều chính, gây lục đục nội bộ.
Bài và ảnh: Anh Tú
|
Temple to worship the great general Vo Van Dung, in Phu Lam village, Tay Phu commune,
Tay Son district
, has just been approved by the People's Committee
pacify the province
held a solemn inauguration ceremony and put it into use on January 16.
This is expected to be a highlight of educating patriotic traditions and national pride for the people, especially Binh Dinh youth, about a famous general who is loyal, courageous, majestic, and full of humanity.
The temple was built on a land area of more than 12 hectares, following the ancient architectural style. Harmonically connected items create a solemn scale for the temple area. The project's value is further enhanced when it is "located on a mountain", the back and sides are surrounded by mountains with forests, and in front is a wide, beautiful open field. The temple was built with a total cost of over 15 billion VND from the budget and socialization sources.
The temple worships the great monk Vo Van Dung.
According to Mr. Nguyen Van Son, Chairman of the People's Committee of Tay Phu commune, the relic Vo Van Dung street in Phu My village, Tay Phu commune has been recognized as a national historical relic since 1998. With pride and respect, Respecting his ancestors, local people really wanted to have a large-scale project commensurate with his reputation. Therefore, the inauguration of the temple of great founder Vo Van Dung has met the long-standing earnest wishes of local people.
Mr. Ta Xuan Chanh, Director of the Department of Culture and Sports of Binh Dinh province, said that the temple worshiping great commander Vo Van Dung is a highlight of educating patriotic traditions and national pride for the people.
In addition, the inauguration and putting into use of the temple contributes to completing one more step in the chain of relics related to the Tay Son dynasty in Binh Dinh, linked with the special national relic site of the Tay Son temple. Son Tam Kiet with Ham Ho scenic spot attracts tourists to visit and study Tay Son houses. At the same time, creating an additional highlight contributing to the development of the local tourism economy.
According to Mr. Lam Hai Giang, Vice Chairman of Binh Dinh Provincial People's Committee, the temple worshiping great commander Vo Van Dung is a key project of Binh Dinh province to show gratitude and honor ancestors who have contributed to the country. . Thereby, contributing to educating patriotic traditions and promoting national pride for today and future generations.
King Quang Trung's number one tiger general
Mr. Vo Van Dung (some books write him as Vu Van Dung) is from Phu Phong village, Tuy Vien district, Binh Dinh province. He was born in the year of Canh Ngo (1750), died in the year of Tan Suu (1841).
Born into a wealthy family, when he was young, Vo Van Dung was invited by his parents to come home and teach both literature and martial arts. As a man of great stature and strong personality, Vo Van Dung prefers practicing martial arts to studying literature. Later, when he joined the Tay Son army, Vo Van Dung was said to be "the champion of hundreds of battles in the West" - Vo Van Dung's reputation spanned three armies and hundreds of battles that emerged from the Western lands. After King Quang Trung ascended the throne, Vo Van Dung was promoted to the rank of Tutor, then Admiral, and culminated in being awarded the title of Chieu Vien Grand Admiral, General of the Winged Van Cong Than Vu Quoc Cong. After Quang Trung died, he and other famous generals such as Tran Quang Dieu, Vo Dinh Tu... wholeheartedly supported the young king Canh Thinh. It was he who was instrumental in eliminating the faction of Grand Master Bui Dac Tuyen from disrupting the court, causing internal turmoil.
Article and photos: Mr. Tu
|
Ngày 17-1, tại Nhà Quốc hội,
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
chủ trì Lễ đón chính thức Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Jin Pyo cùng phu nhân và đoàn đại biểu Quốc hội Hàn Quốc.
Ngay sau lễ đón chính thức, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã hội đàm với Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Jin Pyo và đoàn đại biểu Quốc hội Hàn Quốc.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cùng phu nhân đón Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc cùng phu nhân tại Nhà Quốc hội. Ảnh: DUY LINH
Nhiệt liệt chào mừng Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Jin Pyo cùng phu nhân và đoàn đại biểu Quốc hội Hàn Quốc thăm chính thức Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng, đây là chuyến thăm có tầm quan trọng và có ý nghĩa rất lớn.
Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc cùng phu nhân và đoàn là những vị khách quốc tế đầu tiên của Quốc hội Việt Nam trong năm mới 2023. Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Jin Pyo là lãnh đạo cấp cao nhất của Hàn Quốc sang thăm chính thức Việt Nam sau khi 2 nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện nhân dịp 2 nước kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2022.
Chủ tịch Quốc hội Kim Jin Pyo bày tỏ vui mừng sang thăm chính thức Việt Nam vào thời điểm ý nghĩa khi hai nước vừa nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện; chúc mừng Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong năm 2022, tăng trưởng kinh tế đạt ở mức rất cao trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Jin Pyo. Ảnh: DUY LINH
Tại cuộc hội đàm, hai Chủ tịch Quốc hội thống nhất đánh giá quan hệ giữa hai nước ngày càng tốt đẹp hơn. Hai Chủ tịch Quốc hội cho rằng, để quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước được triển khai hiệu quả, hai bên cần tiếp tục củng cố tin cậy chính trị, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp thì tin cậy chính trị là nền tảng để giải quyết các vấn đề song phương cũng như những vấn đề quốc tế và khu vực. Củng cố tin cậy chính trị cũng là nền tảng để tiếp tục tăng cường củng cố hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Jin Pyo nhất trí tăng cường hợp tác về quốc phòng, an ninh, đánh giá cao việc hai bên duy trì tốt các cơ chế đối thoại về quốc phòng, an ninh hiện có. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị Quốc hội Hàn Quốc ủng hộ, thúc đẩy hai bên sớm triển khai hợp tác cụ thể trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực giữa hai nước; cảm ơn Hàn Quốc đã chuyển giao tàu hải quân thứ ba giúp Việt Nam nâng cao năng lực thực thi pháp luật trên biển.
Hai bên nhất trí sớm đạt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại song phương lên 100 tỷ USD vào năm 2023 và 150 tỷ USD vào năm 2030 theo hướng bền vững, cân bằng hơn trên cơ sở khai thác tốt những Hiệp định thương mại song phương và đa phương hiện có. Trong điều kiện chuỗi cung ứng, đầu tư, thương mại trên toàn cầu bị đứt gãy, hai nước cần tiếp tục củng cố chuỗi cung ứng hiện có, nghiên cứu mở rộng chuỗi cung ứng mới.
Quang cảnh hội đàm. Ảnh: DUY LINH
Về hợp tác ODA, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cảm ơn và đánh giá cao việc Hàn Quốc tiếp tục coi Việt Nam là đối tác chiến lược trong hợp tác ODA. Chủ tịch Quốc hội Kim Jin Pyo nhất trí với đề xuất của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ về việc xem xét tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến các thủ tục, điều kiện ràng buộc về nhà thầu, xuất xứ hàng hóa khiến Việt Nam chưa tiếp cận được nhiều gói vay ODA lên tới 16 tỉ USD mà phía Hàn Quốc đã công bố; đồng thời cho biết, Quốc hội Hàn Quốc sẽ cố gắng, nỗ lực hơn nữa để vốn ODA dành cho Việt Nam tăng lên và thực chất, hiệu quả hơn.
Chủ tịch Quốc hội Kim Jin Pyo cơ bản nhất trí với đề nghị của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ về việc Hàn Quốc tăng tiếp nhận lao động Việt Nam qua các hình thức như lao động kỳ nghỉ, lao động kỹ năng lành nghề, điều dưỡng, kỹ sư công nghệ thông tin; đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động Việt Nam đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp Hàn Quốc; chuẩn bị tốt để ký gia hạn Bản ghi nhớ về phái cử và tiếp nhận lao động sang làm việc tại Hàn Quốc dự kiến hết hạn vào tháng 2-2023 và sớm triển khai Hiệp định Bảo hiểm xã hội giữa hai nước, góp phần quan trọng bảo đảm quyền lợi của người lao động mỗi nước và tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, lao động giữa hai nước.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định, Việt Nam luôn quan tâm và sẵn sàng đóng góp tích cực vào tiến trình phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên, ủng hộ những nỗ lực nhằm duy trì hòa bình ở khu vực Đông Bắc Á thông qua đối thoại, bằng biện pháp hòa bình. Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc khẳng định luôn ủng hộ lập trường của Việt Nam về bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.
Hai Chủ tịch Quốc hội cùng các đại biểu tham quan Phòng Truyền thống Quốc hội Việt Nam. Ảnh: DUY LINH
Về quan hệ giữa hai Quốc hội, hai Chủ tịch Quốc hội cùng đánh giá cao quan hệ hợp tác giữa hai Quốc hội thời gian qua; nhất trí tăng cường trao đổi đoàn cấp cao và các cấp; xem xét cập nhật, ký mới thỏa thuận hợp tác phù hợp với nội hàm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước và phù hợp với bối cảnh mới của tình hình thế giới cũng như tình hình thực tế của mỗi nước.
Hai bên tiếp tục thúc đẩy trao đổi kinh nghiệm về hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng; phối hợp giám sát thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã ký giữa hai Chính phủ, lắng nghe ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, công dân hai nước nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi để công dân hai nước xúc tiến hoạt động hợp tác kinh tế, giao lưu văn hóa và bảo hộ công dân.
Hai bên tiếp tục phát huy vai trò cầu nối của Nhóm nghị sĩ hữu nghị hai nước; tăng cường vai trò cầu nối của Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Hàn Quốc,
Hàn Quốc
–
Việt Nam
; tăng cường hợp tác thông qua cơ chế nữ nghị sĩ, nghị sĩ trẻ và cơ chế Tổng thư ký Quốc hội…
|
On January 17, at the National Assembly House,
Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue
chaired the official welcoming ceremony of Chairman of the Korean National Assembly Kim Jin Pyo, his wife and the Korean National Assembly delegation.
Immediately after the official welcoming ceremony, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and the Vietnamese National Assembly delegation held talks with Korean National Assembly Chairman Kim Jin Pyo and the Korean National Assembly delegation.
National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and his wife welcomed the President of the Korean National Assembly and his wife at the National Assembly House. Photo: DUY LINH
Warmly welcoming Chairman of the Korean National Assembly Kim Jin Pyo, his wife and the Korean National Assembly delegation to officially visit Vietnam, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue said that this is an important and valuable visit. great significance.
The Chairman of the Korean National Assembly, his wife and the delegation are the first international guests of the Vietnamese National Assembly in the new year 2023. Chairman of the Korean National Assembly Kim Jin Pyo is the highest-ranking Korean leader to pay a state visit. Vietnam after the two countries upgraded their relationship to a comprehensive strategic partnership on the occasion of the two countries celebrating the 30th anniversary of establishing diplomatic relations in 2022.
National Assembly Chairman Kim Jin Pyo expressed his joy in officially visiting Vietnam at a meaningful time when the two countries have just upgraded their relationship to a comprehensive strategic partnership; congratulate Vietnam on achieving important achievements in 2022, achieving very high economic growth in the context of many difficulties and challenges.
National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and Korean National Assembly Chairman Kim Jin Pyo. Photo: DUY LINH
At the meeting, the two National Assembly Chairmen agreed to evaluate the relationship between the two countries as getting better and better. The two National Assembly Chairmen said that for the comprehensive strategic partnership between the two countries to be implemented effectively, the two sides need to continue to strengthen political trust, especially in the context of the world and regional situation. In areas with complicated developments, political trust is the foundation for resolving bilateral issues as well as international and regional issues. Strengthening political trust is also the foundation for continuing to strengthen cooperation in economics, trade, investment and other fields.
National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and Korean National Assembly Chairman Kim Jin Pyo agreed to strengthen cooperation on defense and security, appreciating the two sides' good maintenance of dialogue mechanisms on defense and security. now available. National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue requested the Korean National Assembly to support and encourage the two sides to soon implement specific cooperation in the field of defense industry, technology transfer, and human resource training between the two countries; Thank you Korea for transferring the third naval ship to help Vietnam improve its law enforcement capacity at sea.
The two sides agreed to soon achieve the goal of increasing bilateral trade turnover to 100 billion USD by 2023 and 150 billion USD by 2030 in a more sustainable and balanced direction based on good exploitation of bilateral trade agreements. and existing multilateralism. In the context of broken global supply chains, investment and trade, the two countries need to continue to strengthen existing supply chains and research and expand new supply chains.
Scene of the meeting. Photo: DUY LINH
Regarding ODA cooperation, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue thanked and appreciated that Korea continues to consider Vietnam a strategic partner in ODA cooperation. National Assembly Chairman Kim Jin Pyo agreed with the proposal of National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue to consider removing obstacles related to procedures and binding conditions on contractors and goods origin that make Vietnam The South has not been able to access many ODA loan packages of up to 16 billion USD that the Korean side has announced; At the same time, he said that the Korean National Assembly will try harder to make ODA capital for Vietnam increase and be more substantive and effective.
National Assembly Chairman Kim Jin Pyo basically agreed with National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue's proposal for Korea to increase the reception of Vietnamese workers through forms such as vacation workers, skilled workers, nurses, information technology engineers; promote vocational training for Vietnamese workers to meet the needs of Korean businesses; Be well prepared to sign an extension of the Memorandum of Understanding on sending and receiving workers to work in Korea, which is expected to expire in February 2023, and soon implement the Social Insurance Agreement between the two countries, making an important contribution. It is important to ensure the rights of workers in each country and strengthen economic, trade, investment and labor cooperation between the two countries.
National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue affirmed that Vietnam is always interested and ready to actively contribute to the denuclearization process of the Korean Peninsula, supporting efforts to maintain peace in Northeast Asia. through dialogue, by peaceful means. The Chairman of the Korean National Assembly affirmed that he always supports Vietnam's stance on ensuring security, safety, and freedom of navigation and aviation in the East Sea.
The two National Assembly Chairmen and delegates visited the Traditional Room of the Vietnamese National Assembly. Photo: DUY LINH
Regarding the relationship between the two National Assembly, the two National Assembly Presidents highly appreciated the cooperative relationship between the two National Assembly in recent times; agreed to increase the exchange of high-level delegations at all levels; Consider updating and signing a new cooperation agreement in accordance with the content of the comprehensive strategic partnership between the two countries and in accordance with the new context of the world situation as well as the actual situation of each country.
The two sides continue to promote the exchange of experiences on legislative activities, supervision and decisions on important issues; Coordinate to monitor the implementation of cooperation agreements signed between the two Governments, listen to the opinions of the business community and citizens of the two countries to create a favorable legal environment for citizens of the two countries to promote cooperative activities. economic cooperation, cultural exchange and citizen protection.
The two sides continue to promote the bridging role of the two countries' Parliamentary Friendship Group; Strengthen the bridging role of the Vietnam - Korea Parliamentary Friendship Group,
Korea
–
Vietnam
; Strengthen cooperation through the mechanism of female parliamentarians, young parliamentarians and the mechanism of the Secretary General of the National Assembly...
|
Năm 2030, TP Hà Tĩnh xác định sẽ trở thành đô thị cấp vùng và là đô thị hạt nhân tạo động lực phát triển của tỉnh. Để thực hiện mục tiêu chiến lược, việc mở rộng không gian đang được nghiên cứu, tập trung cao.
Thành phố Hà Tĩnh
hiện có diện tích 56,55 km2, dân số thường trú khoảng 109,7 nghìn người, dân số vãng lai hơn 100 nghìn người. Theo tham chiếu của ngành chuyên môn, với quy mô này, TP Hà Tĩnh đang là đô thị trung tâm tỉnh lỵ nhỏ nhất so với các địa phương lân cận trong tỉnh và trong vùng Bắc Trung Bộ.
Những năm gần đây, mặc dù TP Hà Tĩnh có những bước phát triển vượt bậc về cơ sở hạ tầng, song không gian đô thị vẫn bó hẹp và chủ yếu mới chỉ phát triển theo trục Bắc – Nam. Ảnh: Huy Tùng.
Vào tháng 2/2019, thành phố được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn đô thị loại II, mặc dù vậy, đến nay, các tiêu chí về diện tích, dân số, mật độ dân số, thu nhập bình quân đầu người vẫn chưa đạt. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, kết nối giao thông với các khu kinh tế, khu công nghiệp, các điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng kinh tế đô thị còn thấp. Đặc biệt, TP Hà Tĩnh chưa có khu công nghiệp, khu kinh tế và ngành sản phẩm chủ lực; số lượng doanh nghiệp thành lập mới chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ… Những yếu tố này khiến cho việc phát triển KT-XH của TP Hà Tĩnh gặp không ít khó khăn.
Vòng xuyến các tuyến đường Hàm Nghi – Phan Đình Phùng – Hà Huy Tập – điểm giao trục trung tâm lớn nhất của đô thị TP Hà Tĩnh ở thời điểm hiện nay. Ảnh: Đình Nhất.
Ông Nguyễn Trọng Hiếu – Chủ tịch UBND thành phố Hà Tĩnh cho biết: “Hiện trạng về diện tích đô thị và quy mô dân số chưa đảm bảo điều kiện quy định tại Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 được sửa đổi bổ sung tại Nghị quyết số 27/2022/UBTVQH15 ngày 21/9/2022 về tiêu chuẩn đơn vị hành chính cấp huyện (tiêu chuẩn quy định về diện tích là >150 km2 và dân số thường trú là >150.000 người) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong khi đó, theo Quy hoạch tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, thành phố là đô thị hạt nhân trong 3 đô thị động lực của tỉnh, thu hút các dự án lớn, nhất là các dự án phát triển đô thị và dịch vụ.
Việc mở rộng địa giới hành chính, không gian đô thị TP Hà Tĩnh không chỉ đáp ứng được các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, tạo ra những động lực mạnh mẽ để phát triển đô thị trung tâm theo hướng bền vững, đồng bộ mà còn gắn liền với định hướng phát triển tỉnh trở thành một cực tăng trưởng của cả nước”.
Ngày 21/12/2022, dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Trung Dũng, Ban Chỉ đạo mở rộng địa giới hành chính TP Hà Tĩnh tổ chức cuộc họp lần thứ nhất, đưa ra dự kiến 3 phương án mở rộng địa giới TP Hà Tĩnh. Trong đó, quan điểm thống nhất là điều chỉnh tổng thể diện tích thành phố nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển KT-XH; đảm bảo điều kiện về tiêu chuẩn diện tích sau điều chỉnh đối với các huyện lân cận và sự phát triển chung của tỉnh.
Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Trung Dũng chủ trì hội nghị Ban Chỉ đạo mở rộng địa giới hành chính TP Hà Tĩnh triển khai nhiệm vụ.
Các phương án dự kiến đều nằm trong ranh giới của Quy hoạch chung TP Hà Tĩnh và vùng phụ cận được UBND tỉnh phê duyệt năm 2015 và đảm bảo sự phát triển chung của thành phố theo Đề án xây dựng và phát triển TP Hà Tĩnh có quy mô phù hợp, hạ tầng đồng bộ, từng bước hiện đại, thông minh, phấn đấu trở thành một trong những đô thị trung tâm của vùng Bắc Trung Bộ đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 931/QĐ-UBND ngày 5/5/2022.
Đoàn khảo sát ADB kiểm tra một số khu vực thuộc phạm vi dự án “Hạ tầng ưu tiên và phát triển đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu TP Hà Tĩnh” – một trong những dự án chiến lược về phát triển hạ tầng đô thị TP Hà Tĩnh vào tháng 7/2022.
Ông Nguyễn Quốc Hà – Giám đốc Sở Xây dựng cho biết: “Xây dựng thành phố thông minh là một xu hướng tất yếu của đô thị hiện nay. TP Hà Tĩnh còn đóng vai trò trung tâm của tỉnh lỵ, mới được công nhận đạt chuẩn đô thị loại II và đang trên đà phát triển, việc điều chỉnh tổng thể diện tích, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH là rất cần thiết. Các phương án dự kiến mở rộng địa giới hành chính đã được Bộ Xây dựng, Cục Quản lý đô thị nghiên cứu đảm bảo tính khả thi. Cùng với đó, sở cũng phối hợp với các sở liên quan và UBND thành phố làm việc với các đơn vị thuộc Bộ Xây dựng để được hướng dẫn về quy trình thủ tục quy hoạch, phân loại đô thị và thường xuyên trao đổi ý kiến chuyên môn về các nội dung liên quan, đáp ứng yêu cầu về thực tiễn cũng như tuân thủ các quy định về pháp luật, nghị quyết, quyết định của Trung ương”.
Tháng 12/2022, điểm nút dự án “Đường Lê Duẩn, đoạn từ Vincom đến đường Nguyễn Xí” được khơi thông mặt bằng, tạo điều kiện cho địa phương thực hiện kế hoạch mở rộng trục phát triển không gian đô thị thành phố về phía Nam.
Theo đó, dự kiến phương án mở rộng thành phố sẽ theo 3 hướng, hướng Tây: mở rộng đô thị vượt qua đường tránh quốc lộ 1, kết nối với khu công nghiệp và đầu mối giao thông cao tốc quốc gia (đường bộ, đường sắt), phát triển những khu đô thị mới hiện đại, đồng bộ; hướng Nam: mở rộng đô thị kết nối với các khu phát triển hỗn hợp, khai thác cảnh quan hai bên sông Rào Cái, Đại học Hà Tĩnh, khu đào tạo – nghiên cứu và sản xuất; hướng Đông: mở rộng đô thị vượt sông Rào Cái về phía biển Đông để phát triển kinh tế biển, phát triển đô thị và nông nghiệp công nghệ cao kết nối với chuỗi đô thị ven biển của tỉnh.
Các phương án đảm bảo các yếu tố động lực phát triển bền vững cho thành phố, hình thành trọn vẹn không gian theo cả 2 trục Bắc – Nam, Đông – Tây (hiện nay chỉ Bắc – Nam); phát triển sản xuất, hình thành cụm công nghiệp kết hợp trung tâm logistics; kết nối với các khu đào tạo, nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ của tỉnh, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa nhiều hơn vào kỹ năng và đổi mới sáng tạo; phát triển đô thị sang phía Đông để mở rộng không gian hướng ra biển.
|
By 2030, Ha Tinh City is determined to become a regional urban area and a nuclear city creating driving force for the province's development. To realize strategic goals, space expansion is being researched and highly focused.
Ha Tinh city
Currently, it has an area of 56.55 km2, a permanent population of about 109.7 thousand people, and a temporary population of more than 100 thousand people. According to the reference of the professional industry, with this scale, Ha Tinh City is the smallest urban center of the province compared to neighboring localities in the province and in the North Central region.
In recent years, although Ha Tinh City has made great strides in infrastructure development, the urban space is still limited and mainly only develops along the North - South axis. Photo: Huy Tung.
In February 2019, the city was recognized by the Prime Minister as meeting grade II urban standards, however, up to now, the criteria of area, population, population density, and per capita income have not been met. still not achieved. In addition, infrastructure and traffic connections with economic zones, industrial parks, and famous tourist destinations of the province are still limited; Urban economic growth rate is still low. In particular, Ha Tinh City does not yet have industrial parks, economic zones and key product industries; The number of newly established enterprises is mainly small and micro enterprises... These factors make the socio-economic development of Ha Tinh City encounter many difficulties.
Roundabout of Ham Nghi - Phan Dinh Phung - Ha Huy Tap routes - the largest central intersection of Ha Tinh city at the present time. Photo: Dinh Nhat.
Mr. Nguyen Trong Hieu - Chairman of Ha Tinh City People's Committee said: "The current status of urban area and population size does not ensure the conditions specified in Resolution Không. 1211/2016/UBTVQH13 dated May 25, 2016 Amended and supplemented in Resolution Không. 27/2022/UBTVQH15 dated September 21, 2022 on standards for district-level administrative units (standards for area is > 150 km2 and permanent population is > 150,000 people). ) of the National Assembly Standing Committee. Meanwhile, according to the Ha Tinh Provincial Plan for the period 2021-2030, with a vision to 2050, the city is a core urban area among the three driving urban areas of the province, attracting large projects, especially large-scale projects. urban development and services.
The expansion of administrative boundaries and urban space of Ha Tinh City not only meets the standards prescribed by law, but also creates strong driving forces to develop the central urban area in a sustainable and harmonious manner. Ministry but also associated with the development orientation of the province to become a growth pole of the whole country".
On December 21, 2022, under the chairmanship of Provincial Party Secretary Hoang Trung Dung, the Steering Committee for expanding the administrative boundaries of Ha Tinh City held its first meeting, proposing 3 plans for expanding the administrative boundaries of Ha Tinh City. Ha Tinh city border. In particular, the consensus view is to adjust the overall city area to meet the requirements of socio-economic development; ensure conditions on area standards after adjustment for neighboring districts and the general development of the province.
Provincial Party Secretary Hoang Trung Dung chaired the meeting of the Steering Committee to expand the administrative boundaries of Ha Tinh City to deploy its tasks.
The expected plans are all within the boundaries of the General Planning of Ha Tinh City and the surrounding area approved by the Provincial People's Committee in 2015 and ensure the overall development of the city according to the Ha Tinh City Construction and Development Project. Appropriate scale, synchronous infrastructure, gradually modern and smart, striving to become one of the central urban areas of the North Central region by 2025, with a vision to 2030, approved by the Provincial People's Committee at Decision Không. 931/QD-UBND dated May 5, 2022.
The ADB survey team inspected a number of areas within the scope of the project "Priority infrastructure and urban development adapted to climate change in Ha Tinh City" - one of the strategic projects on urban infrastructure development. Ha Tinh City in July 2022.
Mr. Nguyen Quoc Ha - Director of the Department of Construction said: "Building a smart city is an inevitable trend of urban areas today. Ha Tinh City also plays the central role of the provincial capital, has just been recognized as a type II urban area and is on the rise, it is necessary to adjust the overall area to meet the requirements of socio-economic development. set. Expected plans to expand the administrative boundaries have been studied by the Ministry of Construction and the Urban Management Department to ensure feasibility. Along with that, the department also coordinates with relevant departments and the City People's Committee to work with units under the Ministry of Construction to receive guidance on planning procedures, urban classification and regularly exchange opinions. expertise in related contents, meeting practical requirements as well as complying with legal regulations, resolutions and decisions of the Central Government.
In December 2022, the project node "Le Duan Street, section from Vincom to Nguyen Xi Street" was cleared, creating conditions for the locality to implement the plan to expand the city's urban space development axis to southern.
Accordingly, it is expected that the city expansion plan will follow 3 directions, towards the West: expanding the urban area across the National Highway 1 bypass, connecting to the industrial park and national highway traffic hub (road, railway), developing modern and synchronous new urban areas; South direction: urban expansion connecting with mixed development areas, exploiting the landscape on both sides of the Rao Cai River, Ha Tinh University, training - research and production area; East: expand urban areas across the Rao Cai river towards the East Sea to develop the marine economy, urban development and high-tech agriculture connecting with the province's coastal urban chain.
The plans ensure the driving factors for sustainable development for the city, forming a complete space along both North - South and East - West axes (currently only North - South); develop production, form an industrial cluster combined with a logistics center; Connecting with the province's science and technology training, research and development zones, transforming the growth model to rely more on skills and innovation; Urban development to the East to expand space towards the sea.
|
Như chúng ta đều biết,
phong trào Thơ Mới
thời tiền chiến xuất hiện từ năm 1932, tính đến nay vừa tròn 90 năm. Đó là một trong những phong trào thơ rầm rộ nhất, có nhiều nhà thơ lớn và nhiều tác phẩm thơ xuất sắc đi cùng năm tháng.
Câu chuyện này rất dài dòng và đây đó đã được nói đến khá nhiều, trong phạm vi bài báo nhỏ này, để làm công việc kỷ niệm Thơ Mới, tôi chỉ xin được dẫn ra một trong những bài thơ rất hay của nhà thơ Huy Cận, một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền Thơ Mới, với lời bình thưa thóang của tôi để thay cho một bài tiểu luận có thể phải rất dài dòng.
Huy Cận
và
Xuân Diệu
là hai nhà thơ xuất sắc của Phong trào Thơ Mới.
“
NGẬM NGÙI
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi! Hãy ngủ… anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường
Ngủ đi em, mộng bình thường
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau
Tay anh em hãy tựa đầu|
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…
“.
Có thể gọi “Ngậm ngùi” là “khúc ca ru của những cặp tình nhân”. Bởi, trong bài thơ, ngoài vẻ đẹp lộng lẫy của ngôn từ, thì cái cảnh người con trai ru người tình của mình ở đây tuy cũng có dấu vết của thời khắc, cảnh trí đấy, nhưng tuyệt nhiên không thể xác định là diễn ra ở đâu, bao giờ. Người con gái nằm trên giường, ở trong nhà, hẳn thế, mà ta cũng có cảm giác như nàng nằm giữa trời đất, cỏ cây có thể có ở bất cứ nơi nào trên trái đất: một buổi chiều tà, bóng cây xế dài, ánh nắng đã chia nửa bãi, trong khu vườn hoang những cây trinh nữ đã xếp lá và những con nhện vẫn mải miết giăng tơ… Đấy là những cảnh vô cùng giản dị, bình thường và quen thuộc như hầu hết cảnh trí trong thơ Huy Cận, nhưng trong chốn thẳm sâu tâm hồn của những con người cũng thường tình và giản dị là chúng ta, chúng có sức gợi cảm và lay động kỳ lạ, cũng tựa như một tình yêu trần thế mà sức mạnh là chính ở chỗ nó gần gũi như cơm ăn nước uống:
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu
(Xuân Diệu)
Quả thật, cảnh trí tĩnh lặng, quạnh hiu, hoang vắng… đến nhoà nhạt ấy rất hợp với giấc ngủ: Chàng thi sĩ – tình nhân không chỉ cất tiếng ru và ngồi hầu quạt, chàng còn huy động đến cả thiên nhiên, tạo vật về đưa nôi cho người yêu ngủ. Trong hành vi của chàng không chỉ có sự âu yếm của tình yêu mà còn hơn thế – đó là cả sự trân trọng nâng niu của những tâm hồn đồng điệu khi đến với nhau, sự cảm thông chia sẻ giữa hai linh hồn cùng nặng trĩu đau thương, cùng cô đơn giữa cõi thế. Người con gái ở đây là cả một khối u buồn: “
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau
“. Hình như không phải nàng tìm đến một giấc ngủ thông thường, một phút nghỉ ngơi sinh học, mà nàng đang tìm kiếm một phút lãng quên, một giờ thư thái yên tĩnh, nó còn cao hơn cả một giấc ngủ. Có phải vì thế mà chàng trai cầu xin cho nàng một giấc mộng bình thường. Hai tiếng bình thường được dùng ở đây thật đáng kinh ngạc vì vẻ hiện đại của nó. Không phải là một giấc mơ đẹp, lại càng không phải là ác mộng. Con người hiện đại đã nhận thức được bản thể của mình: không phải là thánh thần, mà cũng chẳng phải là quỷ sứ hay thú vật – chúng ta đơn giản là những con người với tất cả những ưu điểm và bất cập của nó.
Trở lại với hai nhân vật của bài thơ – người con gái đang nằm kia là hiện thân của một khối buồn, và chàng trai thi sĩ cũng không khác thế, bởi họ cũng là một mối tình. Hãy xem tất cả cảnh trí được nhìn qua cặp mắt của chàng, nó mới ảm đạm làm sao: những từ buồn, sầu, rầu, ngẩn ngơ… chen nhau đậm đặc trong có 12 câu thơ. Hình như cứ mỗi danh từ chỉ ngoại cảnh lại phải gánh thêm một tính từ chỉ trạng thái buồn bã, hiu hắt. Nhưng thật lạ lùng là sự lạm phát những từ ngữ gần như trùng lặp nhau và có vẻ như cũ kỹ, mòn sáo ấy đặt vào đây lại nhập đúng hồn vía, hòa với dòng chảy tình cảm và giọng điệu riêng của bài thơ. Thêm vào đó là một từ “xế” vốn là một từ ruột của Huy Cận, được ông dùng đến rất nhiều và lần nào cũng thành công, chẳng hạn:
Khi lá rụng và hồn tôi đã xế
(Trình bày)
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu
(Tình tự)
Nắng đã xế về bên xứ bạn
(Vạn lý tình)
Báo tin xấu, dẫn hồn người đã xế
(Nhạc sầu)
v. v và v. v…
Vốn là một từ dùng chỉ vị trí của mặt trời, mặt trăng để nói thời khắc sắp tàn của ngày, đêm, mà ngày – đêm, với ánh sáng có gì khác hơn là linh hồn, là sự sống của tạo vật, nên nhà thơ để cho biên giới của khái niệm mở rộng đến vô cùng. Ấy là chưa nói, với những tâm hồn quá khát khao sự sống, cuống quýt với sự biến thiên của thời gian, nỗi vô thường của nhân thế, kiểu như “xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua”, thì tàn tạ cũng đồng nghĩa với cái chết, và xế cũng là hết, hoặc hơn cả thế nữa. Hai câu kết:
Một lần nữa sử dụng điêu luyện một trong những thủ pháp diễn đạt đã thành đặc sản của thơ Huy Cận – thủ pháp cụ thể hóa những gì trừu tượng bằng cách dùng những hình ảnh thay thế, chính xác và táo bạo: Con nhện giăng những sợi tơ buồn, lòng anh mở với quạt này, và nhất là cái hình ảnh đầy sáng tạo “trăm con chim mộng về bay đầu giường” (câu thơ gợi xa xôi đến hình ảnh “bầy ong trong đêm sâu” ra đời 30 năm sau của thi sĩ Lưu Quang Vũ).
Cũng như vậy, ở trên đã nói “hồn em đã chín” thì bắt xuống câu dưới “trái sầu rụng rơi” là một hệ thống hình ảnh nhất quán.
Bài thơ thoạt đầu là câu chuyện của tình yêu, nhưng rốt cuộc lại nói chuyện đời. Trên cả mối gắn bó giao hòa của tình yêu giới tính, đây là sự đoàn tụ, liên kết của hai con người yếu ớt, lẻ loi cùng chạy trốn cuộc đời lạnh lùng, buồn bã – không phải chỉ là chàng trai ngồi ru cô gái, chàng đang ru chính hồn mình, hay đúng hơn, cả hai mảnh đời ấy ru nhau. Tâm thế ấy ngẫm cho cùng cũng là thuộc bản chất của tình yêu muôn thuở.
Bài thơ đằm thắm, tinh tế này có thể tiêu biểu cho cả chất thơ, hồn thơ và giọng thơ Huy Cận, một tiếng lòng sâu thẳm của con người bé nhỏ, bất lực trước mênh mông tạo vật, trước những khao khát khôn cùng được sống, được yêu, được vươn đến cái tuyệt đích. Huy Cận đã động vào đáy sâu của cái mà triết học gọi là thân phận con người, nhưng chất triết lý có lẽ đã thấm vào máu thịt nên có thể chuyển hóa vào thơ một cách nhuần nhị, không hề khô cứng và giả tạo – thứ triết lý bay lên trên đôi cánh của cảm xúc.
Cuối cùng, ta hãy thử so sánh hai câu kết trên đây với hai câu của Xuân Diệu viết nhiều năm sau cách mạng:
Ta thấy cả hai cặp câu có cùng một tứ, đạt đến cùng một tầm vóc tư tưởng: nghĩa là phần xác chúng rất giống nhau, tuy thế phần hồn, tức tâm thế và tình cảm, lại rất khác nhau: Hai câu trên của Huy Cận chỉ có một âm hưởng là buồn, còn hai câu của Xuân Diệu chỉ thêm một từ “vui”, nhưng giữa chúng là khoảng cách mênh mông của cả một cuộc cách mạng. Vậy Ngậm ngùi là khúc ca của những cặp tình nhân muôn thuở hay một thuở? Tôi thực cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết rằng những lúc buồn bã cô đơn nhất tôi đều tìm đến với bài thơ này. Bởi vì như người ta vẫn nói: Những cuộc cách mạng sẽ qua đi, cái còn lại vĩnh cửu là thế giới tình cảm của con người.
|
Như chúng ta đều biết,
phong trào Thơ Mới
thời tiền chiến xuất hiện từ năm 1932, tính đến nay vừa tròn 90 năm. Đó là một trong những phong trào thơ rầm rộ nhất, có nhiều nhà thơ lớn và nhiều tác phẩm thơ xuất sắc đi cùng năm tháng.
Câu chuyện này rất dài dòng và đây đó đã được nói đến khá nhiều, trong phạm vi bài báo nhỏ này, để làm công việc kỷ niệm Thơ Mới, tôi chỉ xin được dẫn ra một trong những bài thơ rất hay của nhà thơ Huy Cận, một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền Thơ Mới, với lời bình thưa thóang của tôi để thay cho một bài tiểu luận có thể phải rất dài dòng.
Huy Cận
và
Xuân Diệu
là hai nhà thơ xuất sắc của Phong trào Thơ Mới.
“
NGẬM NGÙI
Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi! Hãy ngủ… anh hầu quạt đây
Lòng anh mở với quạt này
Trăm con chim mộng về bay đầu giường
Ngủ đi em, mộng bình thường
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau
Tay anh em hãy tựa đầu|
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…
“.
Có thể gọi “Ngậm ngùi” là “khúc ca ru của những cặp tình nhân”. Bởi, trong bài thơ, ngoài vẻ đẹp lộng lẫy của ngôn từ, thì cái cảnh người con trai ru người tình của mình ở đây tuy cũng có dấu vết của thời khắc, cảnh trí đấy, nhưng tuyệt nhiên không thể xác định là diễn ra ở đâu, bao giờ. Người con gái nằm trên giường, ở trong nhà, hẳn thế, mà ta cũng có cảm giác như nàng nằm giữa trời đất, cỏ cây có thể có ở bất cứ nơi nào trên trái đất: một buổi chiều tà, bóng cây xế dài, ánh nắng đã chia nửa bãi, trong khu vườn hoang những cây trinh nữ đã xếp lá và những con nhện vẫn mải miết giăng tơ… Đấy là những cảnh vô cùng giản dị, bình thường và quen thuộc như hầu hết cảnh trí trong thơ Huy Cận, nhưng trong chốn thẳm sâu tâm hồn của những con người cũng thường tình và giản dị là chúng ta, chúng có sức gợi cảm và lay động kỳ lạ, cũng tựa như một tình yêu trần thế mà sức mạnh là chính ở chỗ nó gần gũi như cơm ăn nước uống:
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu
(Xuân Diệu)
Quả thật, cảnh trí tĩnh lặng, quạnh hiu, hoang vắng… đến nhoà nhạt ấy rất hợp với giấc ngủ: Chàng thi sĩ – tình nhân không chỉ cất tiếng ru và ngồi hầu quạt, chàng còn huy động đến cả thiên nhiên, tạo vật về đưa nôi cho người yêu ngủ. Trong hành vi của chàng không chỉ có sự âu yếm của tình yêu mà còn hơn thế – đó là cả sự trân trọng nâng niu của những tâm hồn đồng điệu khi đến với nhau, sự cảm thông chia sẻ giữa hai linh hồn cùng nặng trĩu đau thương, cùng cô đơn giữa cõi thế. Người con gái ở đây là cả một khối u buồn: “
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau
“. Hình như không phải nàng tìm đến một giấc ngủ thông thường, một phút nghỉ ngơi sinh học, mà nàng đang tìm kiếm một phút lãng quên, một giờ thư thái yên tĩnh, nó còn cao hơn cả một giấc ngủ. Có phải vì thế mà chàng trai cầu xin cho nàng một giấc mộng bình thường. Hai tiếng bình thường được dùng ở đây thật đáng kinh ngạc vì vẻ hiện đại của nó. Không phải là một giấc mơ đẹp, lại càng không phải là ác mộng. Con người hiện đại đã nhận thức được bản thể của mình: không phải là thánh thần, mà cũng chẳng phải là quỷ sứ hay thú vật – chúng ta đơn giản là những con người với tất cả những ưu điểm và bất cập của nó.
Trở lại với hai nhân vật của bài thơ – người con gái đang nằm kia là hiện thân của một khối buồn, và chàng trai thi sĩ cũng không khác thế, bởi họ cũng là một mối tình. Hãy xem tất cả cảnh trí được nhìn qua cặp mắt của chàng, nó mới ảm đạm làm sao: những từ buồn, sầu, rầu, ngẩn ngơ… chen nhau đậm đặc trong có 12 câu thơ. Hình như cứ mỗi danh từ chỉ ngoại cảnh lại phải gánh thêm một tính từ chỉ trạng thái buồn bã, hiu hắt. Nhưng thật lạ lùng là sự lạm phát những từ ngữ gần như trùng lặp nhau và có vẻ như cũ kỹ, mòn sáo ấy đặt vào đây lại nhập đúng hồn vía, hòa với dòng chảy tình cảm và giọng điệu riêng của bài thơ. Thêm vào đó là một từ “xế” vốn là một từ ruột của Huy Cận, được ông dùng đến rất nhiều và lần nào cũng thành công, chẳng hạn:
Khi lá rụng và hồn tôi đã xế
(Trình bày)
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu
(Tình tự)
Nắng đã xế về bên xứ bạn
(Vạn lý tình)
Báo tin xấu, dẫn hồn người đã xế
(Nhạc sầu)
v. v và v. v…
Vốn là một từ dùng chỉ vị trí của mặt trời, mặt trăng để nói thời khắc sắp tàn của ngày, đêm, mà ngày – đêm, với ánh sáng có gì khác hơn là linh hồn, là sự sống của tạo vật, nên nhà thơ để cho biên giới của khái niệm mở rộng đến vô cùng. Ấy là chưa nói, với những tâm hồn quá khát khao sự sống, cuống quýt với sự biến thiên của thời gian, nỗi vô thường của nhân thế, kiểu như “xuân đang đến nghĩa là xuân đang qua”, thì tàn tạ cũng đồng nghĩa với cái chết, và xế cũng là hết, hoặc hơn cả thế nữa. Hai câu kết:
Một lần nữa sử dụng điêu luyện một trong những thủ pháp diễn đạt đã thành đặc sản của thơ Huy Cận – thủ pháp cụ thể hóa những gì trừu tượng bằng cách dùng những hình ảnh thay thế, chính xác và táo bạo: Con nhện giăng những sợi tơ buồn, lòng anh mở với quạt này, và nhất là cái hình ảnh đầy sáng tạo “trăm con chim mộng về bay đầu giường” (câu thơ gợi xa xôi đến hình ảnh “bầy ong trong đêm sâu” ra đời 30 năm sau của thi sĩ Lưu Quang Vũ).
Cũng như vậy, ở trên đã nói “hồn em đã chín” thì bắt xuống câu dưới “trái sầu rụng rơi” là một hệ thống hình ảnh nhất quán.
Bài thơ thoạt đầu là câu chuyện của tình yêu, nhưng rốt cuộc lại nói chuyện đời. Trên cả mối gắn bó giao hòa của tình yêu giới tính, đây là sự đoàn tụ, liên kết của hai con người yếu ớt, lẻ loi cùng chạy trốn cuộc đời lạnh lùng, buồn bã – không phải chỉ là chàng trai ngồi ru cô gái, chàng đang ru chính hồn mình, hay đúng hơn, cả hai mảnh đời ấy ru nhau. Tâm thế ấy ngẫm cho cùng cũng là thuộc bản chất của tình yêu muôn thuở.
Bài thơ đằm thắm, tinh tế này có thể tiêu biểu cho cả chất thơ, hồn thơ và giọng thơ Huy Cận, một tiếng lòng sâu thẳm của con người bé nhỏ, bất lực trước mênh mông tạo vật, trước những khao khát khôn cùng được sống, được yêu, được vươn đến cái tuyệt đích. Huy Cận đã động vào đáy sâu của cái mà triết học gọi là thân phận con người, nhưng chất triết lý có lẽ đã thấm vào máu thịt nên có thể chuyển hóa vào thơ một cách nhuần nhị, không hề khô cứng và giả tạo – thứ triết lý bay lên trên đôi cánh của cảm xúc.
Cuối cùng, ta hãy thử so sánh hai câu kết trên đây với hai câu của Xuân Diệu viết nhiều năm sau cách mạng:
Ta thấy cả hai cặp câu có cùng một tứ, đạt đến cùng một tầm vóc tư tưởng: nghĩa là phần xác chúng rất giống nhau, tuy thế phần hồn, tức tâm thế và tình cảm, lại rất khác nhau: Hai câu trên của Huy Cận chỉ có một âm hưởng là buồn, còn hai câu của Xuân Diệu chỉ thêm một từ “vui”, nhưng giữa chúng là khoảng cách mênh mông của cả một cuộc cách mạng. Vậy Ngậm ngùi là khúc ca của những cặp tình nhân muôn thuở hay một thuở? Tôi thực cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết rằng những lúc buồn bã cô đơn nhất tôi đều tìm đến với bài thơ này. Bởi vì như người ta vẫn nói: Những cuộc cách mạng sẽ qua đi, cái còn lại vĩnh cửu là thế giới tình cảm của con người.
|
Tập trung cho quy hoạch, quản lý phát triển đô thị được Bộ Xây dựng xác định là một trong 3 khâu đột phá của ngành; trong đó, nổi bật là việc triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị. Ảnh: Thu Hằng/BNEWS/TTXVN.
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trong quá trình phục hồi, còn nhiều khó khăn, năm 2022 ngành xây dựng vẫn nỗ lực đạt được mức tăng trưởng khá, thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu theo kế hoạch đã đề ra. Cùng đó, tập trung cho quy hoạch, quản lý phát triển đô thị được Bộ Xây dựng xác định là một trong 3 khâu đột phá của ngành; trong đó, nổi bật là việc triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị về những hoạt động thiết thực trong thực thi nhiệm vụ và triển khai chính sách.
Phóng viên:
Năm 2022 là một năm có nhiều biến động với những khó khăn phát sinh nhưng ngành xây dựng đã đạt mức tăng trưởng tốt so với mặt bằng chung. Bộ trưởng đánh giá như thế nào về những kết quả ngành xây dựng đạt được trong năm qua?
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị:
Năm 2022 là năm phục hồi, có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2026. Tuy nhiên, tình hình nền kinh tế nước ta đã phải đối mặt, ứng phó với những vấn đề phức tạp phát sinh, chưa có tiền lệ; thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen; thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường; tình hình kinh tế – chính trị thế giới tiếp tục bất ổn, khó đoán định.
Trong bối cảnh đó, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trung ương và địa phương, cùng với sự nỗ lực, phấn đấu của toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động và cộng đồng doanh nghiệp trong toàn ngành, năm 2022 ngành xây dựng đã vượt qua khó khăn, thách thức, đạt và vượt tất cả các mục tiêu, chỉ tiêu chính.
Năm 2022 tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng đạt 8,17% vượt so với kế hoạch đặt ra là 5-5,6%. Tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc ước đạt 41,7%, tăng 1,2% so với năm 2021. Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 94,2%, tăng 2,2% so với năm trước. Diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 25,5 m2 sàn/người, tăng 0,5 m2 sàn/người so với năm 2021.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được Chính phủ giao được tăng cường. Cùng đó, xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật về xây dựng tiếp tục có những kết quả tích cực, hoàn thành với khối lượng lớn; nội dung, chất lượng thể chế, pháp luật tiếp tục đổi mới, tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, phân cấp mạnh cho địa phương.
Các hoạt động quy hoạch – kiến trúc và quản lý phát triển đô thị tiếp tục được quan tâm, thực hiện có hiệu quả. Quản lý đầu tư xây dựng cũng có những chuyển biến tích cực; chất lượng công trình cơ bản được kiểm soát. Công tác thanh tra, kiểm tra, thẩm tra, thẩm định thiết kế, nghiệm thu công trình và quản lý năng lực các chủ thể hoạt động xây dựng được thực hiện nghiêm túc, góp phần chống thất thoát, lãng phí.
Mặc dù thị trường vật liệu xây dựng có biến động mạnh, tăng giá cao vào nửa đầu năm nhưng bằng nhiều giải pháp của Bộ Xây dựng, các bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành và các địa phương, thị trường đã sớm ổn định trở lại từ đầu quý III/2022 đến nay.
Thị trường bất động sản năm 2022 cũng có sự tăng trưởng vào các tháng đầu năm nhưng có xu hướng giảm dần và trầm lắng vào nửa cuối năm do gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc thiếu nguồn cung, thiếu nhà ở xã hội, nhà ở cho đối tượng thu nhập thấp, thu nhập trung bình; khó khăn trong huy động và tiếp cận các nguồn vốn, trong khi trái phiếu doanh nghiệp bất động sản bắt đầu bộc lộ các tồn tại, rủi ro.
Bộ Xây dựng và Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ hiện đang đề xuất nhiều nhóm giải pháp để thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh trong năm 2023.
Nhìn chung, trong năm 2022, ngành xây dựng đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước được giao, kịp thời và phản ứng có hiệu quả đối với một số diễn biến bất thường của thị trường, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội của cả nước.
Phóng viên:
Ngày 24/1/2022, Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị có một nghị quyết chuyên đề riêng về lĩnh vực quản lý và phát triển đô thị và Chính phủ đã ngay lập tức triển khai Chương trình hành động. Xin Bộ trưởng cho biết, Bộ Xây dựng đã tham mưu và tổ chức thực hiện thế nào?
Khu đô thị Phúc Ninh (Bắc Ninh) của KBC. Ảnh:kinhbaccity
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị:
Ngành xây dựng rất phấn khởi và vui mừng đón nhận Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Đây là Nghị quyết đầu tiên của Bộ Chính trị có nội dung chuyên đề về lĩnh vực đô thị, vừa khẳng định vị thế, vai trò đô thị Việt Nam trong tiến trình phát triển của đất nước, vừa là định hướng chiến lược với các yêu cầu rất cụ thể cần được thực hiện trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.
Ngay sau khi Nghị quyết số 06-NQ/TW được ban hành, trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã làm việc, thống nhất với các Bộ ngành, địa phương để xây dựng và trình Chính phủ Nghị quyết của Chính phủ về Chương trình hành động triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW.
Ngày 11/11/2022, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW tại Nghị quyết số 148/NQ-CP; trong đó, Chính phủ đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu cụ thể và 33 nhiệm vụ cụ thể theo 5 nhóm nhiệm vụ chủ yếu; xác định cụ thể cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, thời hạn hoàn thành, các nội dung cần đạt được để Chính phủ, các bộ ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của Nghị quyết số 06-NQ/TW.
Để Nghị quyết số 06-NQ/TW được phổ biến rộng rãi, sâu rộng tới các đô thị trong cả nước, Bộ Xây dựng đã phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị quyết, Diễn đàn phát triển bền vững đô thị Việt Nam cùng 3 Hội thảo chuyên đề và Hội nghị đô thị toàn quốc năm 2022.
Hội nghị đã được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tới dự, chủ trì và phát biểu chỉ đạo. Với những chỉ đạo xuyên suốt, toàn diện, trách nhiệm, tâm huyết của Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề đô thị, Bộ Xây dựng đã tiếp thu và đồng thời chủ động phân giao nhiệm vụ cụ thể để triển khai thực hiện Chương trình hành động ngay trong giai đoạn tới đây.
Thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chính quyền ở đô thị trên toàn quốc để tổ chức thực hiện có hiệu quả những nhóm nhiệm vụ trọng tâm được giao trong Nghị quyết.
Phóng viên:
Kinh tế thế giới được dự báo có nhiều biến động khó lường, tác động đến nền kinh tế đất nước; trong đó có hoạt động của doanh nghiệp xây dựng, thị trường bất động sản. Xin Bộ trưởng cho biết, Bộ Xây dựng có những định hướng và giải pháp gì cho năm 2023 và những năm tiếp theo?
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị:
Năm 2023 và các năm tới, ngành xây dựng sẽ tiếp tục tập trung cho 3 đột phá trọng tâm đã xác định cho nhiệm kỳ 2021-2026 của ngành. Đó là hoàn thiện thể chế pháp luật về xây dựng để tăng cường công tác quản lý nhà nước, đồng thời tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho người dân, doanh nghiệp, phân cấp mạnh cho địa phương để tháo gỡ các điểm nghẽn, gây cản trở sự phát triển của ngành, hoạt động của doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng sẽ tập trung cho công tác quy hoạch, quản lý phát triển đô thị. Nâng cao chất lượng lập quy hoạch đảm bảo tư duy, tầm nhìn, dự báo và tính khả thi; kiểm soát chặt chẽ khâu thẩm định quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, chấn chỉnh địa phương về quy hoạch.
Cùng đó, các quy định pháp luật, công cụ quản lý tiếp tục được hoàn thiện để kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị đồng bộ, gắn kết với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển nông thôn
, nâng cao sức cạnh tranh khu vực đô thị, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn lực từ đất đai, từ phát triển không gian đô thị…
Phóng viên:
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
|
Tập trung cho quy hoạch, quản lý phát triển đô thị được Bộ Xây dựng xác định là một trong 3 khâu đột phá của ngành; trong đó, nổi bật là việc triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị. Ảnh: Thu Hằng/BNEWS/TTXVN.
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trong quá trình phục hồi, còn nhiều khó khăn, năm 2022 ngành xây dựng vẫn nỗ lực đạt được mức tăng trưởng khá, thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu theo kế hoạch đã đề ra. Cùng đó, tập trung cho quy hoạch, quản lý phát triển đô thị được Bộ Xây dựng xác định là một trong 3 khâu đột phá của ngành; trong đó, nổi bật là việc triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/1/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị về những hoạt động thiết thực trong thực thi nhiệm vụ và triển khai chính sách.
Phóng viên:
Năm 2022 là một năm có nhiều biến động với những khó khăn phát sinh nhưng ngành xây dựng đã đạt mức tăng trưởng tốt so với mặt bằng chung. Bộ trưởng đánh giá như thế nào về những kết quả ngành xây dựng đạt được trong năm qua?
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị:
Năm 2022 là năm phục hồi, có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2026. Tuy nhiên, tình hình nền kinh tế nước ta đã phải đối mặt, ứng phó với những vấn đề phức tạp phát sinh, chưa có tiền lệ; thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen; thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường; tình hình kinh tế – chính trị thế giới tiếp tục bất ổn, khó đoán định.
Trong bối cảnh đó, được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trung ương và địa phương, cùng với sự nỗ lực, phấn đấu của toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động và cộng đồng doanh nghiệp trong toàn ngành, năm 2022 ngành xây dựng đã vượt qua khó khăn, thách thức, đạt và vượt tất cả các mục tiêu, chỉ tiêu chính.
Năm 2022 tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng đạt 8,17% vượt so với kế hoạch đặt ra là 5-5,6%. Tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc ước đạt 41,7%, tăng 1,2% so với năm 2021. Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 94,2%, tăng 2,2% so với năm trước. Diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 25,5 m2 sàn/người, tăng 0,5 m2 sàn/người so với năm 2021.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được Chính phủ giao được tăng cường. Cùng đó, xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật về xây dựng tiếp tục có những kết quả tích cực, hoàn thành với khối lượng lớn; nội dung, chất lượng thể chế, pháp luật tiếp tục đổi mới, tạo lập môi trường thuận lợi, thông thoáng, phân cấp mạnh cho địa phương.
Các hoạt động quy hoạch – kiến trúc và quản lý phát triển đô thị tiếp tục được quan tâm, thực hiện có hiệu quả. Quản lý đầu tư xây dựng cũng có những chuyển biến tích cực; chất lượng công trình cơ bản được kiểm soát. Công tác thanh tra, kiểm tra, thẩm tra, thẩm định thiết kế, nghiệm thu công trình và quản lý năng lực các chủ thể hoạt động xây dựng được thực hiện nghiêm túc, góp phần chống thất thoát, lãng phí.
Mặc dù thị trường vật liệu xây dựng có biến động mạnh, tăng giá cao vào nửa đầu năm nhưng bằng nhiều giải pháp của Bộ Xây dựng, các bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành và các địa phương, thị trường đã sớm ổn định trở lại từ đầu quý III/2022 đến nay.
Thị trường bất động sản năm 2022 cũng có sự tăng trưởng vào các tháng đầu năm nhưng có xu hướng giảm dần và trầm lắng vào nửa cuối năm do gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc thiếu nguồn cung, thiếu nhà ở xã hội, nhà ở cho đối tượng thu nhập thấp, thu nhập trung bình; khó khăn trong huy động và tiếp cận các nguồn vốn, trong khi trái phiếu doanh nghiệp bất động sản bắt đầu bộc lộ các tồn tại, rủi ro.
Bộ Xây dựng và Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ hiện đang đề xuất nhiều nhóm giải pháp để thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh trong năm 2023.
Nhìn chung, trong năm 2022, ngành xây dựng đã cơ bản hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước được giao, kịp thời và phản ứng có hiệu quả đối với một số diễn biến bất thường của thị trường, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội của cả nước.
Phóng viên:
Ngày 24/1/2022, Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị có một nghị quyết chuyên đề riêng về lĩnh vực quản lý và phát triển đô thị và Chính phủ đã ngay lập tức triển khai Chương trình hành động. Xin Bộ trưởng cho biết, Bộ Xây dựng đã tham mưu và tổ chức thực hiện thế nào?
Khu đô thị Phúc Ninh (Bắc Ninh) của KBC. Ảnh:kinhbaccity
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị:
Ngành xây dựng rất phấn khởi và vui mừng đón nhận Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Đây là Nghị quyết đầu tiên của Bộ Chính trị có nội dung chuyên đề về lĩnh vực đô thị, vừa khẳng định vị thế, vai trò đô thị Việt Nam trong tiến trình phát triển của đất nước, vừa là định hướng chiến lược với các yêu cầu rất cụ thể cần được thực hiện trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.
Ngay sau khi Nghị quyết số 06-NQ/TW được ban hành, trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã làm việc, thống nhất với các Bộ ngành, địa phương để xây dựng và trình Chính phủ Nghị quyết của Chính phủ về Chương trình hành động triển khai Nghị quyết số 06-NQ/TW.
Ngày 11/11/2022, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW tại Nghị quyết số 148/NQ-CP; trong đó, Chính phủ đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu cụ thể và 33 nhiệm vụ cụ thể theo 5 nhóm nhiệm vụ chủ yếu; xác định cụ thể cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, thời hạn hoàn thành, các nội dung cần đạt được để Chính phủ, các bộ ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của Nghị quyết số 06-NQ/TW.
Để Nghị quyết số 06-NQ/TW được phổ biến rộng rãi, sâu rộng tới các đô thị trong cả nước, Bộ Xây dựng đã phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị quyết, Diễn đàn phát triển bền vững đô thị Việt Nam cùng 3 Hội thảo chuyên đề và Hội nghị đô thị toàn quốc năm 2022.
Hội nghị đã được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tới dự, chủ trì và phát biểu chỉ đạo. Với những chỉ đạo xuyên suốt, toàn diện, trách nhiệm, tâm huyết của Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề đô thị, Bộ Xây dựng đã tiếp thu và đồng thời chủ động phân giao nhiệm vụ cụ thể để triển khai thực hiện Chương trình hành động ngay trong giai đoạn tới đây.
Thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chính quyền ở đô thị trên toàn quốc để tổ chức thực hiện có hiệu quả những nhóm nhiệm vụ trọng tâm được giao trong Nghị quyết.
Phóng viên:
Kinh tế thế giới được dự báo có nhiều biến động khó lường, tác động đến nền kinh tế đất nước; trong đó có hoạt động của doanh nghiệp xây dựng, thị trường bất động sản. Xin Bộ trưởng cho biết, Bộ Xây dựng có những định hướng và giải pháp gì cho năm 2023 và những năm tiếp theo?
Bộ trưởng Nguyễn Thanh Nghị:
Năm 2023 và các năm tới, ngành xây dựng sẽ tiếp tục tập trung cho 3 đột phá trọng tâm đã xác định cho nhiệm kỳ 2021-2026 của ngành. Đó là hoàn thiện thể chế pháp luật về xây dựng để tăng cường công tác quản lý nhà nước, đồng thời tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho người dân, doanh nghiệp, phân cấp mạnh cho địa phương để tháo gỡ các điểm nghẽn, gây cản trở sự phát triển của ngành, hoạt động của doanh nghiệp…
Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng sẽ tập trung cho công tác quy hoạch, quản lý phát triển đô thị. Nâng cao chất lượng lập quy hoạch đảm bảo tư duy, tầm nhìn, dự báo và tính khả thi; kiểm soát chặt chẽ khâu thẩm định quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, chấn chỉnh địa phương về quy hoạch.
Cùng đó, các quy định pháp luật, công cụ quản lý tiếp tục được hoàn thiện để kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị đồng bộ, gắn kết với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển nông thôn
, nâng cao sức cạnh tranh khu vực đô thị, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn lực từ đất đai, từ phát triển không gian đô thị…
Phóng viên:
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
|
Theo ông Đoàn Văn Mật, Trưởng ban thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hiện nay thơ dở tràn lan trên thị trường, những giải thưởng sẽ giúp độc giả biết để chọn thơ chất lượng.
Thơ ca trên
Văn nghệ Quân đội
. Ảnh:
Y.N.
Từ hơn 10.000 thi phẩm từ khắp cả nước, tạp chí
Văn nghệ Quân đội
đã chọn ra 830 bài thơ của hơn 200 lượt tác giả để giới thiệu tới độc giả, lựa chọn, trao giải cho những thi phẩm nổi bật.
Phát biểu tại lễ trao giải, hôm 11/1 ở
Hà Nội
, ông Nguyễn Bình Phương, Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Trưởng ban chung khảo Cuộc thi Thơ
Văn nghệ Quân đội
2021-2022, nhận định các tác phẩm dự thi không chỉ được các chuyên gia đánh giá tốt mà độc giả cũng yêu thích.
Ông cho biết việc tổng kết và trao giải cuộc thi này là một điểm nhấn gây cảm xúc cho đội ngũ biên tập viên của tạp chí. “Thác bản thảo chúng tôi nhận được khiến chúng tôi rất vui, cảm thấy sức hút của cuộc thi chưa hề thuyên giảm”.
Ông cho rằng qua những bài thơ được đăng tải, độc giả có thể nhận diện được phần nào diện mạo thơ Việt Nam ngày nay: đa dạng, phong phú, táo bạo cả về hình thức lẫn nội dung.
Cũng trong buổi lễ, Trưởng ban thơ Đoàn Văn Mật so sánh những bài thơ dự thi được đăng tải trên 42 số tạp chí như những “văn bản tâm hồn được cất lên từ đời sống”. Sinh ra trong thời đại dịch Covid-19, các bài thơ đóng vai trò như một cầu nối giữa nhà thơ với chính cõi lòng mình, giữa con người với con người.
Ông phát biểu: “Dù dịch bệnh có tác động ra sao, có ảnh hưởng như thế nào thì người viết vẫn biết cách mở lòng mình ra với con chữ mà đón nhận tất cả những lưu chuyển của đời sống, của tâm hồn. Và, khi dựng lại những cung bậc đang lưu chuyển ấy, ta sẽ gặp một đời sống bộn bề với những nhịp chuyển từ hoang mang, bất an đến tĩnh tại”.
Trong các bài thơ dự thi, ban biên tập nhận thấy một mối dây liên kết giữa thơ viết về quê hương đất nước với thơ thế sự, nối sang cả thơ viết về dịch bệnh và người lính hôm nay. “Mối dây này chủ yếu được tạo ra từ những biến cố của đời sống con người do dịch bệnh gây nên”, ông Đoàn Văn Mật nói.
Tại Lễ trao giải, ban tổ chức đã trao 5 giải Tư, 4 giải Ba và 2 giải Nhì. Chia sẻ về quyết định không trao giải nhất, ông Nguyễn Bình Phương cho biết hội đồng thẩm định rất nghiêm túc và khắt khe, và việc giải nhất để ngỏ cũng là một gợi mở, một hy vọng vào tương lai thơ dành cho mọi tác giả. Ông nói: “Chúng tôi tiếp tục chờ đợi những cây viết tìm đường chinh phục đỉnh cao nghệ thuật ở các cuộc thi sau”.
Ông Nguyễn Bình Phương nhận định các tác phẩm dự thi được không chỉ các chuyên gia đánh giá tốt mà độc giả cũng yêu thích. Ảnh:
M.H.
Gần đây,
nhà thơ Hữu Thỉnh
nhận định rằng xã hội đang bị bội thực với thơ dở. Là người biên tập, theo sát đời sống thơ ca, ông Đoàn Văn Mật đồng tình với ý kiến đó.
“Tôi cho đây là một nhận định khá đúng. Như chúng ta thấy, trước đây, thơ được in rất ít. Một năm các nhà xuất bản chỉ in có vài chục đầu sách về thơ, nhiều lắm cũng chỉ đến hàng trăm. Bây giờ thì các nhà xuất bản in đến hàng nghìn tập thơ. Điều này làm cho bạn đọc đôi khi bị hoang mang. Thực tế là không phải tập thơ nào được xuất bản ra thị trường cũng có chất lượng, cũng được kiểm duyệt tốt. Người làm văn chương đều nhận ra điều này. Thiết nghĩ, các nhà xuất bản cũng cần lựa chọn kỹ thơ trước khi in để thị trường thơ được tinh lọc hơn”, ông Đoàn Văn Mật chia sẻ.
Ông cho rằng các cuộc thi thơ thường cố chọn ra các tác phẩm tốt nhất để giới thiệu đến độc giả và “độc giả tìm đến những bài thơ được giải trong cuộc thi cũng chính là một cách để họ tìm đến những bài thơ có chất lượng”.
Không chỉ giúp độc giả nhận diện thơ hay giữa thị trường tràn ngập thơ dở, các cuộc thi cũng tạo động lực mạnh mẽ đến các tác giả tham gia dự thi. Ông Đoàn Văn Mật cho biết
Văn nghệ Quân đội
cũng thường xuyên tổ chức những trại sáng tác văn học. Tham gia những trại này, các tác giả được đến những vùng đất mới, được gặp những người mới, tiếp cận với nguồn cảm hứng mới; chính điều đó kích thích khả năng sáng tác của các tác giả.
|
According to Mr. Doan Van Mat, Head of the Poetry Department of the Military Arts Magazine, currently bad poetry is rampant on the market, awards will help readers know how to choose quality poetry.
Poetry above
Military Arts
. Image:
Y.N.
From more than 10,000 poems from across the country and magazines
Military Arts
selected 830 poems by more than 200 authors to introduce to readers, select and award outstanding poems.
Speaking at the award ceremony, on January 11 in
Hanoi
, Mr. Nguyen Binh Phuong, Vice President of the Vietnam Writers' Association, Head of the Poetry Contest Final Committee
Military Arts
2021-2022, it is said that the submitted works are not only well evaluated by experts but also loved by readers.
He said the summary and awarding of this contest was an emotional highlight for the magazine's editorial team. "The flood of manuscripts we received made us very happy. We felt that the attraction of the competition had never diminished."
He believes that through the published poems, readers can partly identify the face of Vietnamese poetry today: diverse, rich, and bold in both form and content.
Also at the ceremony, Head of the Poetry Committee Doan Van Mat compared the submitted poems published in 42 issues of the magazine as "soul texts taken from life". Born during the Covid-19 pandemic, poems act as a bridge between poets and their own hearts, between people and people.
He said: "No matter what impact or influence the epidemic has, writers still know how to open their hearts to words and receive all the flows of life and the soul. And, when we reconstruct those flowing levels, we will encounter a chaotic life with rhythms ranging from confusion, insecurity to tranquility.
In the submitted poems, the editorial board noticed a connection between poems written about the homeland and real-life poems, connecting to poems written about epidemics and soldiers today. "This connection is mainly created from events in human life caused by epidemics," said Mr. Doan Van Mat.
At the Awards Ceremony, the organizing committee awarded 5 Fourth prizes, 4 Third prizes and 2 Second prizes. Sharing about the decision not to award the first prize, Mr. Nguyen Binh Phuong said that the appraisal council was very serious and strict, and the fact that the first prize was left open is also a suggestion, a hope for the future of poetry for all authors. fake. He said: "We continue to wait for writers to find their way to conquer the pinnacle of art in the following competitions."
Mr. Nguyen Binh Phuong commented that the submitted works were not only well appreciated by experts but also loved by readers. Image:
M.H.
Recently,
poet Huu Thinh
commented that society is overloaded with bad poetry. As an editor who closely follows the life of poetry, Mr. Doan Van Mat agrees with that opinion.
“I think this is a quite correct statement. As we can see, in the past, poetry was printed very little. A year, publishers only print a few dozen poetry books, at most only hundreds. Now publishers print thousands of poetry books. This makes readers sometimes confused. The reality is that not all poetry collections published on the market are of good quality or well censored. Literary people all realize this. I think publishers also need to carefully select poetry before printing so that the poetry market can be more refined," Mr. Doan Van Mat shared.
He believes that poetry contests often try to choose the best works to introduce to readers and "readers looking for poems won in contests is also a way for them to find quality poems." quantity".
Not only do they help readers identify good poetry in a market filled with bad poetry, contests also create strong motivation for authors to participate. Mr. Doan Van Mat said
Military Arts
also regularly organizes literary creation camps. Participating in these camps, authors can go to new lands, meet new people, and access new sources of inspiration; That is what stimulates the creative ability of authors.
|
1. Dự báo thời tiết các khu vực trong 24 đến 48 giờ tới
–
Bắc Bộ và Thanh Hóa-Nghệ An
: có mưa vài nơi, trưa chiều giảm mây hửng nắng. Trời rét; ngày 19/01 trời rét đậm, riêng vùng núi rét hại. Vùng núi cao đề phòng băng giá và sương muối.
–
Từ
Hà Tĩnh
đến Khánh Hòa
: có mưa vài nơi; riêng khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi đêm 18 và sáng ngày 19/01, khu vực từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa ngày 20/01 có mưa, mưa rào rải rác. Phía Bắc trời rét, phía Nam trời lạnh.
–
Các khu vực khác:
đêm có mưa rào vài nơi, ngày nắng.
2. Nhận định hình thế thời tiết từ đêm 20 đến ngày
28/01
–
Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ:
từ đêm 20-22/01, có mưa vài nơi, Bắc Bộ và Thanh Hóa trưa chiều hửng nắng; riêng đêm 21 sáng sớm ngày 22/01 có mưa nhỏ, mưa phùn và sương mù rải rác. Từ đêm 22-27/01 có mưa vài nơi, sáng sớm có sương mù và sương mù nhẹ; riêng từ đêm 22 đến ngày 23/01 có mưa, mưa nhỏ rải rác. Trời rét, vùng núi Bắc Bộ có nơi rét đậm, rét hại.
– Từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa:
đêm 20-21/01 có mưa, mưa rào rải rác và có nơi có dông. Trời lạnh.
–
Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi
:
ngày 23-24/01, có mưa, mưa rào, cục bộ có mưa vừa, mưa to. Phía Bắc trời rét, phía Nam trời lạnh.
|
1. Weather forecast for the areas in the next 24 to 48 hours
–
Northern Vietnam and Thanh Hoa-Nghe An
: rain in some places, less cloudy in the afternoon and sunny. It's cold; On January 19, it was extremely cold, especially in the mountainous areas. In high mountains, beware of frost and frost.
–
From
Ha Tinh
to Khanh Hoa
: some rain in some places; Particularly, the area from Ha Tinh to Quang Ngai on the night of January 18 and the morning of January 19, and the area from Da Nang to Khanh Hoa on January 20, had scattered rain and showers. The north is cold, the south is cold.
–
Other areas:
Some showers at night, sunny days.
2. Assess the weather from the night of the 20th to the day
January 28
–
Northern region
and North Central:
From the night of January 20 to 22, there will be rain in some places, the North and Thanh Hoa will be sunny in the afternoon; Particularly on the night of January 21 and early morning of January 22 there was light rain, drizzle and scattered fog. From the night of January 22 to 27, it rained in some places, and in the early morning there was light mist and fog; Particularly from the night of January 22 to January 23, there was scattered light rain. The weather is cold, in the Northern mountainous region there are places where it is cold and harmful.
– From Da Nang to Khanh Hoa:
On the night of January 20-21, there will be rain, scattered showers and thunderstorms in some places. Cold weather.
–
Ha Tinh to Quang Ngai
:
January 23-24, there will be rain, showers, locally moderate rain, heavy rain. The north is cold, the south is cold.
|
Buổi sáng đứng trên chòi “Thủy văn phủ Lạng Thương” nhìn dòng sông bảng lảng sương mù với vẻ yên tĩnh lạ thường như đang chìm vào trong giấc ngủ. Xa xa kia là những đoàn thuyền đánh cá đang chuẩn bị cho một ngày mới tung chài lưới đẹp như một bức tranh thủy mặc. Sông Thương như một dải lụa đào nằm vắt ngang qua thành phố. Bên kia bờ lở, bên này bờ bồi, bến Chia Ly và cây cầu sắt vẫn còn đó như một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển hào hùng của người dân Bắc Giang.
Khoảng cuối năm 2018, tôi may mắn được nhà văn Sương Nguyệt Minh mời ra vườn nghệ thuật “Song thuong Gardren” dự buổi giao lưu của trại sáng tác âm nhạc “Đất và người Bắc Giang” do vườn nghệ thuật sông Thương và lãnh đạo, chính quyền tỉnh Bắc Giang phát động nhằm tôn vinh vẻ đẹp văn hóa, giá trị tinh thần cũng như chiều sâu về lịch sử, địa lý, con người
tỉnh Bắc Giang
.
Buổi sáng đi thực tế, ngồi cùng xe với nhạc sĩ Vũ Thiết đi tham quan khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám huyện Yên Thế. Nhạc sĩ Vũ Thiết có nói với tôi rằng, Bắc Giang là một tỉnh có nền văn hóa phong phú mang tính chất hội tụ, đoàn kết và sáng tạo. Người Bắc Giang tự hào là cái nôi đào tạo “thiền phái trúc lâm” như chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng), chùa Bổ Đà (Việt Yên) và còn là nơi giao thoa với 23 làng quan họ cổ ven sông Cầu tỉnh Bắc Ninh. Ông cũng nói rằng sông Thương là một con sông trữ tình, có thể gọi đó là “Dòng sông thi ca” của tỉnh Bắc Giang.
Trở về sau cuộc thi “Đất và người Bắc Giang” sau đó là một loạt những ca khúc ra đời và được tổ chức trình diễn tại trung tâm hội nghị Quảng trường tỉnh Bắc Giang. Đêm đó tôi được gặp lại những nhạc sĩ như Nguyễn Vĩnh Tiến với tác phẩm “Mùa trám xanh”, nhạc sĩ Vũ Thiết với tác phẩm “Xa rồi sông Thương”, nhạc sĩ Nguyễn Cường với tác phẩm “Đá đứng, đá ngồi”. Nhạc sĩ Lê Minh Sơn với tác phẩm “Tôi yêu cơn gió ở đây quá”. Nhạc sĩ Đức Nghĩa với tác phẩm “Nhớ chiều sông Thương” v.v… Những ca khúc mang đậm dấu ấn về con người, vùng đất và dòng sông Thương đẫm chất thi ca.
Dòng sông sử thi:
Sông Thương khác với nhiều dòng sông khác, bởi sông Thương có hai dòng chảy. Bao đời nay con sông là chất men say thấm vào tâm hồn các thi sĩ. Sông cũng là cội nguồn làm nên vẻ đẹp âm nhạc cho các nhạc sĩ sáng tác và cho ra đời rất nhiều ca khúc. Trong chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang (1427) giữa nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi dẫn đầu chống quân Minh, tác phẩm “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đã viết rằng: “
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than máu loang đỏ nước
“. Dòng sông lịch sử Xương Giang vẻ vang chiến công cũng là bài phú giữa đất trời, non sông một thủa về những khát vọng hòa bình chính nghĩa “
Lạch thiên nhiên của trời Nam sẵn có/ ấy Xương Giang một sông hình đẹp/ mà dấu thơm muôn thủa còn truyền
…”.
Lịch sử đã chứng minh “l
ấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ lấy trí nhân để thay cường bạo
“, Lý Tử Tấn đã viết “Xương Giang Phú” như một bài ca hào hùng bằng những áng thơ bất hủ.
Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, sông Thương đã đi vào thơ ca của nhiều thế hệ các nhà thơ và nhạc sĩ nổi tiếng. Các nhạc sĩ, nhà thơ sáng tác ra những tác phẩm như: “Con thuyền không bến” (nhạc sĩ: Đặng Thế Phong). “Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa” (nhạc sĩ: Nguyễn văn Tý). “Tiếng chim tu hú” (thơ: Anh Thơ) “Chiều sông Thương” (thơ: Hữu Thỉnh, nhạc: An Thuyên). “Qua sông Thương” (thơ: Lưu Quang Vũ) “Sông Thương tóc dài” (thơ: Hoàng Nhuận Cầm).
Sau này còn có rất nhiều các tác phẩm mới viết về sông Thương như: “Nhớ chiều sông Thương “(nhạc sĩ: Đức Nghĩa). “Xa rồi sông Thương” (nhạc sĩ: Vũ Thiết). “Tình ca sông Thương “(nhạc sĩ: Tuấn Khương). vv… ngoài ra còn có rất nhiều bài thơ của các nhà văn, nhà thơ trong cả nước nói chung và hội viên hội văn học nghệ thuật tỉnh nói riêng như nhà thơ: Anh Vũ; Duy Phi; Tô Hoàn; Nguyễn Thanh Kim. Đặc biệt năm 2018, nhà thơ Nguyễn Phúc Lộc Thành vì yêu mến sông Thương ông đã viết 108 bài thơ lục bát và được NXB Hội nhà văn tổ chức lễ ra mắt, được hàng trăm văn nghệ sĩ, trí thức trên văn đàn đánh giá cao về nghệ thuật.
Dòng sông luôn là chủ đề cho các nhạc sĩ, nhà thơ sử dụng hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào các tác phẩm của mình. Trong bài thơ “Chiều Sông Thương” của nhà thơ Hữu Thỉnh, cảm thức nghệ thuật đã thấm đẫm vào từng câu thơ, đầy hình ảnh, màu sắc như mùa thu, trăng sao, gió mây, ngõ quê, đồng ruộng như một bản tình ca tươi đẹp của sông Thương. Tất cả được hòa quyện một cách tự nhiên, trong sáng, thắm thiết, gắn bó. “
Đi suốt cả chiều thu/ vẫn chưa về tới ngõ/ dùng dằng hoa quan họ/ nở tím chiều sông Thương
“. Sông Thương hiện lên trong thơ, nhạc quá đỗi bao dung, giản dị và đắm say “
Nước vẫn chảy đôi dòng/ chiều uốn cong lưỡi hái/ những gì sông muốn nói / cánh buồm giờ hát lên…/ ơi con sông màu nâu/ ơi con sông màu biếc/ …bên cầu con nghé đợi/ cả chiều thu sang sông
“. Những thi ảnh mây, gió, hoa, cỏ đã làm nên một “Chiều thu sông Thương” từ thơ đến nhạc lay động tâm hồn người nghe.
Nếu như mỗi một nhạc sĩ có riêng cho mình một dòng sông để tận hiến cho nghệ thuật như Phó Đức Phương “
Sông hiến mình tất cả/ đời sông trẻ mãi không già
” trong tác phẩm “Chảy đi sông ơi” đầy chiêm nghiệm của đời người. Văn Cao với “Trường Ca Sông Lô” đầy khí thế hào hùng, đậm chất sử thi. Hoàng Cầm với “Bên kia sông Đuống”; Tế Hanh “Nhớ con sông quê hương”; Nguyễn Trọng Tạo “Khúc hát sông quê”; Hoàng Hiệp “Trở về dòng sông tuổi thơ”, thì sông Thương cũng có một tác phẩm bất hủ đó là “Con thuyền không bến” của nhạc sĩ Đặng Thế Phong.
“
Đêm nay thu sang cùng heo may/ đêm nay sương lam mờ chân mây/ thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng/ như nhớ thương ai chùng tơ lòng…
“. Sông Thương trong nỗi niềm cô độc, lẻ bóng của mùa thu heo may. Những hình ảnh nghệ thuật như sương lam, con thuyền, bờ bến trong đêm thu đầy biểu cảm, ngôn ngữ như từ trong vô thức tuôn trào, nỗi cô đơn của nhạc sĩ là nỗi cô đơn mang vẻ đẹp lộng lẫy, thánh thiện của tâm hồn. “
Trong cây hơi thu cùng heo may…/ lướt theo chiều gió một con thuyền/ theo trăng trong trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng / biết đâu bờ bến thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu/ trên con sông Thương nào ai biết nông sâu…
” .
Có rất nhiều bài thơ đậm chất nghệ thuật ca từ qua các tác phẩm như “Sông Thương tóc dài” của cố nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Ông mất vào chiều 20/4, khi ấy ông vừa từ trường dân tộc nội trú tỉnh Bắc Giang trở về được vài ngày và đó cũng là lần cuối cùng ông đọc thơ và cũng là lần cuối cùng ông trở lại Bắc Giang.
Khi ông mất, bài thơ “Sông Thương tóc dài” đã được rất nhiều người post lên trang mạng xã hội facebook với những ca từ đầy ám ảnh khôn nguôi: “
Mai đành xa sông Thương, thật thương/ muôn kiếp tình thương anh gửi lại/ sông ơi sông, sao sông trôi chảy mãi/ hạ chưa về nhưng nắng đã Côn Sơn/ mai đành xa sông Thương thật thương/ mắt nhớ một người , nước in một bóng/ mây trôi một chiều chim kêu một giọng/ anh một mình náo động một mình anh
“.
Nỗi nhớ trong tình yêu với dòng sông, với con người là một nỗi buồn đẹp, nỗi buồn cho một mùa tái sinh và những giá trị sống, giúp con người có niềm tin, hi vọng vào cái gửi lại nơi dòng sông, đó có thể là một ánh mắt, một nụ cười, một chiều trôi hay là một tình yêu đi chăng nữa. Nội tâm càng “náo động” thì sự thăng hoa của ngôn ngữ mang dấu ấn nghệ thuật càng vụt sáng
Đất nước có bao nhiêu dòng sông để thương, để nhớ nhưng mỗi người đều có một góc nhìn khác nhau về dòng sông quê mình, đúng như lời bài hát “Trở về dòng sông tuổi thơ” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp. “
Quê hương ai cũng có một dòng sông bên nhà/ con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi/ con sông tôi tắm mát/ con sông tôi đã hát/ con sông cho tôi đậm một tình yêu nước non quê nhà…
“. Vẻ đẹp của sông Thương không những gắn liền với tuổi thơ mà ở đó sông còn gắn liền với vẻ đẹp của văn hóa, của dân tộc. Sông Thương mang đến cho các nhà thơ, nhạc sĩ một nguồn năng lượng đầy cảm xúc, dồi dào và sâu lắng, được nuôi dưỡng qua những làn điệu dân ca quan họ đầy chất trữ tình và say đắm của người dân vùng Kinh Bắc.
Sông Thương hồn hậu, gần gũi, mộng mơ khiến nhà thơ Lưu Quang Vũ phải thốt lên “
Sao tên sông lại là Thương/ để cho lòng anh nhớ
…” nỗi nhớ, niềm thương ấy chính là cội nguồn cảm hứng sáng tác của các nhạc sĩ, nhà thơ vô bờ bến theo thời gian.
Một chiều ngồi bên bến sông Thương, nơi cây cầu mới. Dọc theo hai phía bờ sông, thành phố đã cho xây dựng hành lang, nâng cấp và kè đá chắc chắn để chống sụt lở trong mùa mưa bão, tôi lại ngân nga câu hát “
những gì sông muốn nói/ cánh buồm giờ hát lên…
“. Hãy hát lên sông ơi và chảy trôi vào lòng người những ca từ dịu dàng, thương nhớ.
|
Buổi sáng đứng trên chòi “Thủy văn phủ Lạng Thương” nhìn dòng sông bảng lảng sương mù với vẻ yên tĩnh lạ thường như đang chìm vào trong giấc ngủ. Xa xa kia là những đoàn thuyền đánh cá đang chuẩn bị cho một ngày mới tung chài lưới đẹp như một bức tranh thủy mặc. Sông Thương như một dải lụa đào nằm vắt ngang qua thành phố. Bên kia bờ lở, bên này bờ bồi, bến Chia Ly và cây cầu sắt vẫn còn đó như một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển hào hùng của người dân Bắc Giang.
Khoảng cuối năm 2018, tôi may mắn được nhà văn Sương Nguyệt Minh mời ra vườn nghệ thuật “Song thuong Gardren” dự buổi giao lưu của trại sáng tác âm nhạc “Đất và người Bắc Giang” do vườn nghệ thuật sông Thương và lãnh đạo, chính quyền tỉnh Bắc Giang phát động nhằm tôn vinh vẻ đẹp văn hóa, giá trị tinh thần cũng như chiều sâu về lịch sử, địa lý, con người
tỉnh Bắc Giang
.
Buổi sáng đi thực tế, ngồi cùng xe với nhạc sĩ Vũ Thiết đi tham quan khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám huyện Yên Thế. Nhạc sĩ Vũ Thiết có nói với tôi rằng, Bắc Giang là một tỉnh có nền văn hóa phong phú mang tính chất hội tụ, đoàn kết và sáng tạo. Người Bắc Giang tự hào là cái nôi đào tạo “thiền phái trúc lâm” như chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng), chùa Bổ Đà (Việt Yên) và còn là nơi giao thoa với 23 làng quan họ cổ ven sông Cầu tỉnh Bắc Ninh. Ông cũng nói rằng sông Thương là một con sông trữ tình, có thể gọi đó là “Dòng sông thi ca” của tỉnh Bắc Giang.
Trở về sau cuộc thi “Đất và người Bắc Giang” sau đó là một loạt những ca khúc ra đời và được tổ chức trình diễn tại trung tâm hội nghị Quảng trường tỉnh Bắc Giang. Đêm đó tôi được gặp lại những nhạc sĩ như Nguyễn Vĩnh Tiến với tác phẩm “Mùa trám xanh”, nhạc sĩ Vũ Thiết với tác phẩm “Xa rồi sông Thương”, nhạc sĩ Nguyễn Cường với tác phẩm “Đá đứng, đá ngồi”. Nhạc sĩ Lê Minh Sơn với tác phẩm “Tôi yêu cơn gió ở đây quá”. Nhạc sĩ Đức Nghĩa với tác phẩm “Nhớ chiều sông Thương” v.v… Những ca khúc mang đậm dấu ấn về con người, vùng đất và dòng sông Thương đẫm chất thi ca.
Dòng sông sử thi:
Sông Thương khác với nhiều dòng sông khác, bởi sông Thương có hai dòng chảy. Bao đời nay con sông là chất men say thấm vào tâm hồn các thi sĩ. Sông cũng là cội nguồn làm nên vẻ đẹp âm nhạc cho các nhạc sĩ sáng tác và cho ra đời rất nhiều ca khúc. Trong chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang (1427) giữa nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi dẫn đầu chống quân Minh, tác phẩm “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đã viết rằng: “
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than máu loang đỏ nước
“. Dòng sông lịch sử Xương Giang vẻ vang chiến công cũng là bài phú giữa đất trời, non sông một thủa về những khát vọng hòa bình chính nghĩa “
Lạch thiên nhiên của trời Nam sẵn có/ ấy Xương Giang một sông hình đẹp/ mà dấu thơm muôn thủa còn truyền
…”.
Lịch sử đã chứng minh “l
ấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ lấy trí nhân để thay cường bạo
“, Lý Tử Tấn đã viết “Xương Giang Phú” như một bài ca hào hùng bằng những áng thơ bất hủ.
Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, sông Thương đã đi vào thơ ca của nhiều thế hệ các nhà thơ và nhạc sĩ nổi tiếng. Các nhạc sĩ, nhà thơ sáng tác ra những tác phẩm như: “Con thuyền không bến” (nhạc sĩ: Đặng Thế Phong). “Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa” (nhạc sĩ: Nguyễn văn Tý). “Tiếng chim tu hú” (thơ: Anh Thơ) “Chiều sông Thương” (thơ: Hữu Thỉnh, nhạc: An Thuyên). “Qua sông Thương” (thơ: Lưu Quang Vũ) “Sông Thương tóc dài” (thơ: Hoàng Nhuận Cầm).
Sau này còn có rất nhiều các tác phẩm mới viết về sông Thương như: “Nhớ chiều sông Thương “(nhạc sĩ: Đức Nghĩa). “Xa rồi sông Thương” (nhạc sĩ: Vũ Thiết). “Tình ca sông Thương “(nhạc sĩ: Tuấn Khương). vv… ngoài ra còn có rất nhiều bài thơ của các nhà văn, nhà thơ trong cả nước nói chung và hội viên hội văn học nghệ thuật tỉnh nói riêng như nhà thơ: Anh Vũ; Duy Phi; Tô Hoàn; Nguyễn Thanh Kim. Đặc biệt năm 2018, nhà thơ Nguyễn Phúc Lộc Thành vì yêu mến sông Thương ông đã viết 108 bài thơ lục bát và được NXB Hội nhà văn tổ chức lễ ra mắt, được hàng trăm văn nghệ sĩ, trí thức trên văn đàn đánh giá cao về nghệ thuật.
Dòng sông luôn là chủ đề cho các nhạc sĩ, nhà thơ sử dụng hình tượng, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào các tác phẩm của mình. Trong bài thơ “Chiều Sông Thương” của nhà thơ Hữu Thỉnh, cảm thức nghệ thuật đã thấm đẫm vào từng câu thơ, đầy hình ảnh, màu sắc như mùa thu, trăng sao, gió mây, ngõ quê, đồng ruộng như một bản tình ca tươi đẹp của sông Thương. Tất cả được hòa quyện một cách tự nhiên, trong sáng, thắm thiết, gắn bó. “
Đi suốt cả chiều thu/ vẫn chưa về tới ngõ/ dùng dằng hoa quan họ/ nở tím chiều sông Thương
“. Sông Thương hiện lên trong thơ, nhạc quá đỗi bao dung, giản dị và đắm say “
Nước vẫn chảy đôi dòng/ chiều uốn cong lưỡi hái/ những gì sông muốn nói / cánh buồm giờ hát lên…/ ơi con sông màu nâu/ ơi con sông màu biếc/ …bên cầu con nghé đợi/ cả chiều thu sang sông
“. Những thi ảnh mây, gió, hoa, cỏ đã làm nên một “Chiều thu sông Thương” từ thơ đến nhạc lay động tâm hồn người nghe.
Nếu như mỗi một nhạc sĩ có riêng cho mình một dòng sông để tận hiến cho nghệ thuật như Phó Đức Phương “
Sông hiến mình tất cả/ đời sông trẻ mãi không già
” trong tác phẩm “Chảy đi sông ơi” đầy chiêm nghiệm của đời người. Văn Cao với “Trường Ca Sông Lô” đầy khí thế hào hùng, đậm chất sử thi. Hoàng Cầm với “Bên kia sông Đuống”; Tế Hanh “Nhớ con sông quê hương”; Nguyễn Trọng Tạo “Khúc hát sông quê”; Hoàng Hiệp “Trở về dòng sông tuổi thơ”, thì sông Thương cũng có một tác phẩm bất hủ đó là “Con thuyền không bến” của nhạc sĩ Đặng Thế Phong.
“
Đêm nay thu sang cùng heo may/ đêm nay sương lam mờ chân mây/ thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng/ như nhớ thương ai chùng tơ lòng…
“. Sông Thương trong nỗi niềm cô độc, lẻ bóng của mùa thu heo may. Những hình ảnh nghệ thuật như sương lam, con thuyền, bờ bến trong đêm thu đầy biểu cảm, ngôn ngữ như từ trong vô thức tuôn trào, nỗi cô đơn của nhạc sĩ là nỗi cô đơn mang vẻ đẹp lộng lẫy, thánh thiện của tâm hồn. “
Trong cây hơi thu cùng heo may…/ lướt theo chiều gió một con thuyền/ theo trăng trong trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng / biết đâu bờ bến thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu/ trên con sông Thương nào ai biết nông sâu…
” .
Có rất nhiều bài thơ đậm chất nghệ thuật ca từ qua các tác phẩm như “Sông Thương tóc dài” của cố nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Ông mất vào chiều 20/4, khi ấy ông vừa từ trường dân tộc nội trú tỉnh Bắc Giang trở về được vài ngày và đó cũng là lần cuối cùng ông đọc thơ và cũng là lần cuối cùng ông trở lại Bắc Giang.
Khi ông mất, bài thơ “Sông Thương tóc dài” đã được rất nhiều người post lên trang mạng xã hội facebook với những ca từ đầy ám ảnh khôn nguôi: “
Mai đành xa sông Thương, thật thương/ muôn kiếp tình thương anh gửi lại/ sông ơi sông, sao sông trôi chảy mãi/ hạ chưa về nhưng nắng đã Côn Sơn/ mai đành xa sông Thương thật thương/ mắt nhớ một người , nước in một bóng/ mây trôi một chiều chim kêu một giọng/ anh một mình náo động một mình anh
“.
Nỗi nhớ trong tình yêu với dòng sông, với con người là một nỗi buồn đẹp, nỗi buồn cho một mùa tái sinh và những giá trị sống, giúp con người có niềm tin, hi vọng vào cái gửi lại nơi dòng sông, đó có thể là một ánh mắt, một nụ cười, một chiều trôi hay là một tình yêu đi chăng nữa. Nội tâm càng “náo động” thì sự thăng hoa của ngôn ngữ mang dấu ấn nghệ thuật càng vụt sáng
Đất nước có bao nhiêu dòng sông để thương, để nhớ nhưng mỗi người đều có một góc nhìn khác nhau về dòng sông quê mình, đúng như lời bài hát “Trở về dòng sông tuổi thơ” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp. “
Quê hương ai cũng có một dòng sông bên nhà/ con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi/ con sông tôi tắm mát/ con sông tôi đã hát/ con sông cho tôi đậm một tình yêu nước non quê nhà…
“. Vẻ đẹp của sông Thương không những gắn liền với tuổi thơ mà ở đó sông còn gắn liền với vẻ đẹp của văn hóa, của dân tộc. Sông Thương mang đến cho các nhà thơ, nhạc sĩ một nguồn năng lượng đầy cảm xúc, dồi dào và sâu lắng, được nuôi dưỡng qua những làn điệu dân ca quan họ đầy chất trữ tình và say đắm của người dân vùng Kinh Bắc.
Sông Thương hồn hậu, gần gũi, mộng mơ khiến nhà thơ Lưu Quang Vũ phải thốt lên “
Sao tên sông lại là Thương/ để cho lòng anh nhớ
…” nỗi nhớ, niềm thương ấy chính là cội nguồn cảm hứng sáng tác của các nhạc sĩ, nhà thơ vô bờ bến theo thời gian.
Một chiều ngồi bên bến sông Thương, nơi cây cầu mới. Dọc theo hai phía bờ sông, thành phố đã cho xây dựng hành lang, nâng cấp và kè đá chắc chắn để chống sụt lở trong mùa mưa bão, tôi lại ngân nga câu hát “
những gì sông muốn nói/ cánh buồm giờ hát lên…
“. Hãy hát lên sông ơi và chảy trôi vào lòng người những ca từ dịu dàng, thương nhớ.
|
Ninh Bình
nằm ở vị trí giao thoa của nhiều vùng địa chất, khí hậu và văn hóa, thế kỷ X là kinh đô của Nhà nước Đại Cồ Việt. Điều kiện tự nhiên và lịch sử xã hội đã cho vùng đất này cơ hội sở hữu khối lượng di sản văn hóa phong phú, đa dạng trong đó có các di tích khảo cổ cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử cách ngày nay hàng vạn năm đến các giai đoạn lịch sử cách mạng. Nhận thức sâu sắc về giá trị các di tích khảo cổ, những năm qua, Ninh Bình dành sự quan tâm đặc biệt cho việc nghiên cứu khảo cổ học, đồng thời đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ.
Hiện vật khảo cổ được trưng bày, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Thùy Dung – TTXVN
Theo Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình, việc nghiên cứu khảo cổ học ở địa phương bắt đầu từ những năm 60-70 của thế kỷ XX với các cuộc khảo sát của cơ quan nghiên cứu Trung ương như Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia… tại khu vực Cố đô Hoa Lư. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn tỉnh vẫn được duy trì và đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nhận thức rõ ràng hơn về lịch sử vùng đất Ninh Bình trong suốt chiều dài lịch sử.
Nhiều loại hình di tích được phát hiện và thám sát, khai quật như: Di tích hang động cổ sinh có niên đại hàng chục vạn năm, các di tích cổ nhân, di chỉ cư trú hang động, mái đá tại khu vực sơn khối đá vôi vùng Tam Điệp, Tràng An – Hoa Lư, Cúc Phương, Nho Quan…di chỉ cư trú – mộ táng ngoài trời thuộc văn hóa Đông Sơn, di tích mộ gạch thời kỳ Bắc thuộc, dấu tích kinh đô Hoa Lư cổ (thành quách, nền móng đền đài, cung điện) thế kỷ X… Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở khu vực Tràng An đóng góp đáng kể vào xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh Di sản thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An năm 2014. Đặc biệt, những phát hiện quan trọng tại Cố đô Hoa Lư những năm gần đây góp phần xác định đây là khu di tích lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử – văn hóa của dân tộc, giữ vai trò trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của Nhà nước mở đầu thời kỳ độc lập và tự chủ.
Tiến sĩ Nguyễn Anh Thư, giảng viên Khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho biết, tài nguyên di sản khảo cổ học ở Ninh Bình chứa đựng cả những giá trị quá khứ, giá trị hiện hành và tương lai. Di sản khảo cổ học ở Ninh Bình phong phú, đa dạng phản ánh diễn trình lịch sử và văn hóa của nhiều cộng đồng người theo thời gian, không gian. Bên cạnh di tích khảo cổ được phát hiện, thám sát, khai quật có giá trị lớn, năm 2007, các cuộc nghiên cứu khảo cổ học tại Quần thể danh thắng Tràng An được khởi động, kéo dài 8 năm, góp thêm nhiều tư liệu quý về sự xuất hiện, cư trú của con người thời tiền sử ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở đây là cơ sở để khẳng định Quần thể Danh thắng Tràng An “là một hình mẫu nổi bật về sự tương tác giữa con người và môi trường qua thời gian ở khu vực Ðông – Nam Á trải qua hơn 30.000 năm phát triển, là nơi có giá trị lịch sử và văn hóa vô giá, kho thông tin nguyên vẹn về truyền thống cư trú của loài người; là một trong số ít các địa điểm có giá trị ở Ðông – Nam Á giữ được các đặc điểm ban đầu mà không bị ảnh hưởng lớn bởi con người và các tác nhân khác”.
Hiện vật khảo cổ được trưng bày, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Thùy Dung – TTXVN
Kết quả trên cùng các giá trị về vẻ đẹp thẩm mỹ và lịch sử, văn hóa khác đã đủ điều kiện để Tràng An được UNESCO vinh danh là di sản kép đầu tiên ở Việt Nam và khu vực Đông – Nam Á. Việc
Tràng An
trở thành di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo Ninh Bình, trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn đông đảo nhân dân, du khách trong nước, quốc tế, tác động không nhỏ làm chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế của Ninh Bình theo hướng gia tăng giá trị ngành Du lịch, dịch vụ.
Theo bà Nguyễn Anh Thư, di sản khảo cổ học ở Ninh Bình có nhiều giá trị khác nhau từ lịch sử, văn hóa, xã hội, đến kinh tế, vật chất… Vì vậy đã đến lúc phải có một chiến lược để di sản khảo cổ học có thể phát huy hiệu quả như tài nguyên đặc biệt, vô giá, lượng định giá trị của di sản khảo cổ một cách khoa học, khách quan, chính xác để có chiến lược và phương thức bảo tồn, phát huy một cách bền vững.
Hiện nay, Ninh Bình có gần 450 di sản văn hóa phi vật thể thuộc đủ các loại hình, trong đó có 1 di sản thế giới, 3 di tích quốc gia đặc biệt. Trong số 1.821 di tích của tỉnh, có 388 di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh, 5 bảo vật quốc gia có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật; có 68 di tích khảo cổ được phát hiện, cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử, cách ngày nay hàng vạn năm, đến các giai đoạn cách mạng trong lịch sử hiện đại.
Bà Vũ Thanh Lịch, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình cho biết, những kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ ở địa phương đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học và đông đảo công chúng, đóng góp thêm dữ liệu lịch sử cho hoạt động giáo dục, làm sáng rõ quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội ở Ninh Bình.
Những kết quả này đồng thời tạo cơ hội để Ninh Bình xây dựng thêm sản phẩm du lịch văn hóa có giá trị, phục vụ đa dạng nhu cầu tham quan, học tập, nghiên cứu của nhân dân và du khách. Từ nhận thức sâu sắc vấn đề này, Sở Văn hóa và Thể thao đã tham mưu, đề xuất triển khai nhiều chương trình, dự án mở rộng nghiên cứu khai quật khảo cổ, đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ, đáp ứng yêu cầu vừa bảo toàn tính nguyên vẹn của các di tích khảo cổ để phục vụ nghiên cứu, học tập vừa trở thành điểm tham quan hấp dẫn cho nhân dân, du khách.
Hiện vật khảo cổ được trưng bày, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Thùy Dung – TTXVN
Thời gian tới, Sở Văn hóa và Thể thao tiếp tục tổ chức nghiên cứu, điều tra, thăm dò khảo cổ học tại các di tích khảo cổ để quản lý, bảo vệ, triển khai lập quy hoạch khảo cổ học trên địa bàn tỉnh; thực hiện dự án nghiên cứu làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa ở Khu di tích
Cố đô Hoa Lư
trên cơ sở kết quả nghiên cứu khảo cổ đạt được, đặc biệt là kết quả trong 2 năm vừa qua, hướng tới xây dựng Công viên Di sản khảo cổ – lịch sử – văn hóa tại khu vực này, đồng thời nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại để tái hiện kinh đô Hoa Lư xưa, phục vụ yêu cầu giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu du lịch, giải trí, tham quan, học hỏi của nhân dân và du khách trong nước, quốc tế.
Sở xây dựng kế hoạch nghiên cứu, làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa vùng đất từ ngã ba sông Bôi đến kinh đô Hoa Lư, thực hiện biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ học tại xã Gia Thủy,
huyện Nho Quan
, tiến tới đưa di tích này vào danh mục sản phẩm du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh, tạo cơ hội cho sự phát triển toàn diện, đồng đều về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các vùng, miền trong tỉnh. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực quản lý di sản văn hóa từ tỉnh đến cơ sở; huy động nguồn lực xã hội để đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh; ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số về di sản văn hóa, chú trọng tổ chức trưng bày hình ảnh, tài liệu, hiện vật gốc từ kết quả nghiên cứu khảo cổ nhằm giới thiệu tới du khách, cộng đồng về lịch sử, văn hóa Ninh Bình.
Sở thực hiện chương trình khảo cổ học cộng đồng để đông đảo người dân Ninh Bình hiểu biết hơn về lịch sử vùng đất nơi mình sinh ra, lớn lên từ đó cùng tham gia giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
|
Ninh Bình
nằm ở vị trí giao thoa của nhiều vùng địa chất, khí hậu và văn hóa, thế kỷ X là kinh đô của Nhà nước Đại Cồ Việt. Điều kiện tự nhiên và lịch sử xã hội đã cho vùng đất này cơ hội sở hữu khối lượng di sản văn hóa phong phú, đa dạng trong đó có các di tích khảo cổ cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử cách ngày nay hàng vạn năm đến các giai đoạn lịch sử cách mạng. Nhận thức sâu sắc về giá trị các di tích khảo cổ, những năm qua, Ninh Bình dành sự quan tâm đặc biệt cho việc nghiên cứu khảo cổ học, đồng thời đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ.
Hiện vật khảo cổ được trưng bày, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Thùy Dung – TTXVN
Theo Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình, việc nghiên cứu khảo cổ học ở địa phương bắt đầu từ những năm 60-70 của thế kỷ XX với các cuộc khảo sát của cơ quan nghiên cứu Trung ương như Viện Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia… tại khu vực Cố đô Hoa Lư. Từ đó đến nay, việc nghiên cứu khảo cổ học trên địa bàn tỉnh vẫn được duy trì và đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nhận thức rõ ràng hơn về lịch sử vùng đất Ninh Bình trong suốt chiều dài lịch sử.
Nhiều loại hình di tích được phát hiện và thám sát, khai quật như: Di tích hang động cổ sinh có niên đại hàng chục vạn năm, các di tích cổ nhân, di chỉ cư trú hang động, mái đá tại khu vực sơn khối đá vôi vùng Tam Điệp, Tràng An – Hoa Lư, Cúc Phương, Nho Quan…di chỉ cư trú – mộ táng ngoài trời thuộc văn hóa Đông Sơn, di tích mộ gạch thời kỳ Bắc thuộc, dấu tích kinh đô Hoa Lư cổ (thành quách, nền móng đền đài, cung điện) thế kỷ X… Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở khu vực Tràng An đóng góp đáng kể vào xây dựng hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh Di sản thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An năm 2014. Đặc biệt, những phát hiện quan trọng tại Cố đô Hoa Lư những năm gần đây góp phần xác định đây là khu di tích lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với lịch sử – văn hóa của dân tộc, giữ vai trò trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của Nhà nước mở đầu thời kỳ độc lập và tự chủ.
Tiến sĩ Nguyễn Anh Thư, giảng viên Khoa Di sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho biết, tài nguyên di sản khảo cổ học ở Ninh Bình chứa đựng cả những giá trị quá khứ, giá trị hiện hành và tương lai. Di sản khảo cổ học ở Ninh Bình phong phú, đa dạng phản ánh diễn trình lịch sử và văn hóa của nhiều cộng đồng người theo thời gian, không gian. Bên cạnh di tích khảo cổ được phát hiện, thám sát, khai quật có giá trị lớn, năm 2007, các cuộc nghiên cứu khảo cổ học tại Quần thể danh thắng Tràng An được khởi động, kéo dài 8 năm, góp thêm nhiều tư liệu quý về sự xuất hiện, cư trú của con người thời tiền sử ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở đây là cơ sở để khẳng định Quần thể Danh thắng Tràng An “là một hình mẫu nổi bật về sự tương tác giữa con người và môi trường qua thời gian ở khu vực Ðông – Nam Á trải qua hơn 30.000 năm phát triển, là nơi có giá trị lịch sử và văn hóa vô giá, kho thông tin nguyên vẹn về truyền thống cư trú của loài người; là một trong số ít các địa điểm có giá trị ở Ðông – Nam Á giữ được các đặc điểm ban đầu mà không bị ảnh hưởng lớn bởi con người và các tác nhân khác”.
Hiện vật khảo cổ được trưng bày, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Thùy Dung – TTXVN
Kết quả trên cùng các giá trị về vẻ đẹp thẩm mỹ và lịch sử, văn hóa khác đã đủ điều kiện để Tràng An được UNESCO vinh danh là di sản kép đầu tiên ở Việt Nam và khu vực Đông – Nam Á. Việc
Tràng An
trở thành di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo Ninh Bình, trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn đông đảo nhân dân, du khách trong nước, quốc tế, tác động không nhỏ làm chuyển dịch dần cơ cấu kinh tế của Ninh Bình theo hướng gia tăng giá trị ngành Du lịch, dịch vụ.
Theo bà Nguyễn Anh Thư, di sản khảo cổ học ở Ninh Bình có nhiều giá trị khác nhau từ lịch sử, văn hóa, xã hội, đến kinh tế, vật chất… Vì vậy đã đến lúc phải có một chiến lược để di sản khảo cổ học có thể phát huy hiệu quả như tài nguyên đặc biệt, vô giá, lượng định giá trị của di sản khảo cổ một cách khoa học, khách quan, chính xác để có chiến lược và phương thức bảo tồn, phát huy một cách bền vững.
Hiện nay, Ninh Bình có gần 450 di sản văn hóa phi vật thể thuộc đủ các loại hình, trong đó có 1 di sản thế giới, 3 di tích quốc gia đặc biệt. Trong số 1.821 di tích của tỉnh, có 388 di tích cấp quốc gia, cấp tỉnh, 5 bảo vật quốc gia có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật; có 68 di tích khảo cổ được phát hiện, cung cấp dữ liệu khoa học lịch sử quan trọng về quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội của Ninh Bình từ thời tiền sơ sử, cách ngày nay hàng vạn năm, đến các giai đoạn cách mạng trong lịch sử hiện đại.
Bà Vũ Thanh Lịch, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình cho biết, những kết quả nghiên cứu, khai quật khảo cổ ở địa phương đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học và đông đảo công chúng, đóng góp thêm dữ liệu lịch sử cho hoạt động giáo dục, làm sáng rõ quá trình hình thành, phát triển tự nhiên, xã hội ở Ninh Bình.
Những kết quả này đồng thời tạo cơ hội để Ninh Bình xây dựng thêm sản phẩm du lịch văn hóa có giá trị, phục vụ đa dạng nhu cầu tham quan, học tập, nghiên cứu của nhân dân và du khách. Từ nhận thức sâu sắc vấn đề này, Sở Văn hóa và Thể thao đã tham mưu, đề xuất triển khai nhiều chương trình, dự án mở rộng nghiên cứu khai quật khảo cổ, đẩy mạnh công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ, đáp ứng yêu cầu vừa bảo toàn tính nguyên vẹn của các di tích khảo cổ để phục vụ nghiên cứu, học tập vừa trở thành điểm tham quan hấp dẫn cho nhân dân, du khách.
Hiện vật khảo cổ được trưng bày, bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Thùy Dung – TTXVN
Thời gian tới, Sở Văn hóa và Thể thao tiếp tục tổ chức nghiên cứu, điều tra, thăm dò khảo cổ học tại các di tích khảo cổ để quản lý, bảo vệ, triển khai lập quy hoạch khảo cổ học trên địa bàn tỉnh; thực hiện dự án nghiên cứu làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa ở Khu di tích
Cố đô Hoa Lư
trên cơ sở kết quả nghiên cứu khảo cổ đạt được, đặc biệt là kết quả trong 2 năm vừa qua, hướng tới xây dựng Công viên Di sản khảo cổ – lịch sử – văn hóa tại khu vực này, đồng thời nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại để tái hiện kinh đô Hoa Lư xưa, phục vụ yêu cầu giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu du lịch, giải trí, tham quan, học hỏi của nhân dân và du khách trong nước, quốc tế.
Sở xây dựng kế hoạch nghiên cứu, làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa vùng đất từ ngã ba sông Bôi đến kinh đô Hoa Lư, thực hiện biện pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích khảo cổ học tại xã Gia Thủy,
huyện Nho Quan
, tiến tới đưa di tích này vào danh mục sản phẩm du lịch văn hóa trên địa bàn tỉnh, tạo cơ hội cho sự phát triển toàn diện, đồng đều về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các vùng, miền trong tỉnh. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực quản lý di sản văn hóa từ tỉnh đến cơ sở; huy động nguồn lực xã hội để đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh; ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số về di sản văn hóa, chú trọng tổ chức trưng bày hình ảnh, tài liệu, hiện vật gốc từ kết quả nghiên cứu khảo cổ nhằm giới thiệu tới du khách, cộng đồng về lịch sử, văn hóa Ninh Bình.
Sở thực hiện chương trình khảo cổ học cộng đồng để đông đảo người dân Ninh Bình hiểu biết hơn về lịch sử vùng đất nơi mình sinh ra, lớn lên từ đó cùng tham gia giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
|
Sao Thủy có bầu khí quyển rất mong manh và rất khác nhau chứa hydro, heli, ôxy, natri, canxi, kali và hơi nước.
Các nguyên tố ngoại quyển chủ yếu đến từ hoặc là gió Mặt Trời hoặc lớp vỏ của hành tinh. Gió Mặt Trời đẩy các khí của khí quyển Sao Thủy ra xa
Mặt Trời
tạo thành một cái đuôi giống như sao chổi phía sau của hành tinh tính từ hướng Mặt Trời.
Sự tồn tại của khí quyển Hermian đã là chủ đề gây tranh cãi trước năm 1974 mặc dù vào lúc đó có sự đồng thuận rằng Sao Thủy cũng giống như Mặt Trăng, thiếu một bầu khí quyển đáng kể. Kết luận này đã được xác nhận năm 1974 khi tàu không gian Mariner 10 chỉ phát hiện ra một bầu khí quyển mỏng manh trên hành tinh này. Sau đó, vào năm 2008, các đo đạc thêm đã được tàu không gian MESSENGER thực hiện, và nó đã phát hiện ra magiê có trong tần ngoài khí quyển Hermian.
Ngoại quyển Hermian gồm nhiều thành phần có nguồn gốc từ gió mặt trời hoặc từ lớp vỏ hành tinh. Thành phần đầu tiên đã được phát hiện là nguyên tử Hidro(H), heli (He) và nguyên tử ôxy (O), chúng được quan sát từ các quang phổ kế tử ngoại của tàu không gian Mariner 10 năm 1974. Nồng độ các nguyên tố này ở gần bề mặt ước tính dao động từ 230 cm−3 đối với hydro đến 44.000 cm−3 đối với ôxy, còn heli nằm ở giá trị trung bình của hai nguyên tố trên. Năm 2008, tàu MESSENGER đã xác nhận sự có mặt của nguyên tử hydro, nhưng nồng độ của nó cao hơn ước tính năm 1974. Hydro và heli trong ngoại quyển Sao Thủy được tin là đến từ gió Mặt Trời, trong khi ôxy có thể có nguồn gốc từ lớp vỏ của hành tinh này.
Nguyên tố thứ 4 được phát hiện trong ngoại quyển Sao Thủy là natri. Nó được Drew Potter và Tom Morgan phát hiện năm 1985, khi quan sát các đường phát xạ Fraunhofer của nó ở các bước sóng 589 và 589,6 nm.Theo quan sát, natri tập trung gần các cực tạo thành các điểm sáng. Sự phong phú của nó cũng được tăng cao vào lúc gần bình minh so với hoàng hôn. Một số nghiên cứu cho rằng có sự tương quan giữa sự phong phú của natri với các đặc điểm bề mặt nhất định như Calorishay các điểm sáng được nhận dạng bằng sóng radio; tuy nhiên các kết quả này vẫn đang là vấn đề tranh cãi.
Một năm sau khi phát hiện ra natri, Potter và Morgan thông báo rằng kali (K) cũng có mặt trong ngoại quyển Sao Thủy, tuy nhiên mật độ theo chiều đứng của nó thấp hơn của natri 100 lần. Các đặc điểm và sự phân bố trong không gian của hai nguyên tố này là rất giống nhau. Năm 1998 một nguyên tố khác là canxi cũng được phát hiện với mật độ theo chiều đứng nhỏ hơn natri gấp 1000 lần. Các quan sát của tàu MESSENGER đã cho thấy rằng canxi tập trung chủ yếu gần xích đạo-trái ngược với sự phân bố của natri và kali.
Ngoài ra, trong lần bay ngang năm 2009, kênh Ultraviolet and Visible Spectrometer (UVVS) và Mercury Atmospheric and Surface Composition Spectrometer (MASCS) trên phi thuyền MESSENGER lần đâu tiên khám phá ra sự hiên diện của Magiê trong khí quyển Hermian. Sự phổ biến gần bề mặt của chất mới được phát hiện này xấp xỉ bằng với natri.
|
Mercury has a very fragile and highly variable atmosphere containing hydrogen, helium, oxygen, sodium, calcium, potassium and water vapor.
Exosphere elements come mainly from either the solar wind or the planet's crust. The solar wind pushes the gases of Mercury's atmosphere away
Sun
forming a comet-like tail behind the planet from the Sun.
The existence of a Hermian atmosphere was controversial before 1974, although at the time there was consensus that Mercury, like the Moon, lacked a significant atmosphere. This conclusion was confirmed in 1974 when the Mariner 10 spacecraft discovered only a thin atmosphere on the planet. Then, in 2008, further measurements were taken by the MESSENGER spacecraft, which discovered magnesium in the Hermian exosphere.
The Hermian exosphere consists of many components originating from the solar wind or from the planet's crust. The first components to be discovered were hydrogen (H), helium (He) and oxygen (O) atoms, which were observed from the ultraviolet spectrometers of the Mariner 10 spacecraft in 1974. Concentrations These elements' proximity to the surface is estimated to range from 230 cm−3 for hydrogen to 44,000 cm−3 for oxygen, while helium lies at the average value of the above two elements. In 2008, the MESSENGER spacecraft confirmed the presence of atomic hydrogen, but its concentration was higher than estimated in 1974. Hydrogen and helium in Mercury's exosphere are believed to come from the solar wind, while oxygen may originating from the planet's crust.
The fourth element discovered in Mercury's exosphere is sodium. It was discovered by Drew Potter and Tom Morgan in 1985, observing its Fraunhofer emission lines at wavelengths 589 and 589.6 nm. According to observations, sodium concentrates near the poles forming bright spots. Its abundance is also increased near dawn compared to sunset. Some studies have suggested a correlation between sodium abundance and certain surface features such as Caloris or bright spots identified by radio waves; However, these results are still a matter of debate.
A year after the discovery of sodium, Potter and Morgan reported that potassium (K) was also present in Mercury's exosphere, but its vertical density was 100 times lower than that of sodium. The characteristics and spatial distribution of these two elements are very similar. In 1998, another element, calcium, was also discovered with a vertical density 1,000 times less than sodium. Observations by the MESSENGER spacecraft have shown that calcium is concentrated mainly near the equator - in contrast to the distribution of sodium and potassium.
In addition, during the 2009 flyby, the Ultraviolet and Visible Spectrometer (UVVS) and Mercury Atmospheric and Surface Composition Spectrometer (MASCS) channels on the MESSENGER spacecraft discovered the presence of Magnesium in the Hermian atmosphere for the first time. The near-surface abundance of this newly discovered substance is approximately equal to that of sodium.
|
Việt Nam
là một quốc gia ven biển, có các vùng biển và thềm lục địa rộng lớn. Vì vậy, phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng – an ninh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo là điều Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng.
Phát triển kinh tế biển trong Ngành nông nghiệp nghiệp theo hướng hiện đại nhằm nâng cao đời sống nông dân, phát triển đất nước, qua đó, khẳng định nông nghiệp không chỉ đóng vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, mà đang dần trở thành ngành kinh tế năng động, phát triển bền vững, tham gia sâu vào hội nhập kinh tế thế giới
Phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại nhằm nâng cao đời sống nông dân, phát triển đất nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã được thực hiện từ nhiều năm nay. Qua đó, khẳng định nông nghiệp không chỉ đóng vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, mà đang dần trở thành ngành kinh tế năng động, phát triển bền vững, tham gia sâu vào hội nhập kinh tế thế giới; đời sống người dân không ngừng được nâng cao, kinh tế nông thôn phát triển tích cực…
Tuy nhiên, đến nay, kinh tế nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa phát huy hết hiệu quả và cần tiếp tục có nhiều giải pháp mới triển khai quyết liệt đồng bộ hơn nữa trong thời gian tới.
Trong bối cảnh khó khăn chung, năm 2022 ngành nông nghiệp đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo các giải pháp và “đổi mới tư duy” để vượt qua khó khăn, thách thức từ các “tình huống bất bình thường” của thực tiễn sản xuất, kinh doanh nhằm đạt các mục tiêu phát triển.
Về
kinh tế biển
, nhìn chung, quy mô còn nhỏ bé và đang ở trình độ thấp, chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế biển của nước ta. Nếu so với các nước trên thế giới và khu vực thì Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, toàn bộ 6/6 chỉ tiêu của ngành được Chính phủ giao đều đạt và vượt kế hoạch: Tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,36% là mức cao nhất trong nhiều năm gần đây (Chính phủ giao 2,5-2,8%); kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 53,22 tỷ USD (Chính phủ giao 50 tỷ USD), thặng dư thương mại đạt 8,5 tỷ USD, chiếm hơn 75% tổng giá trị xuất siêu của toàn nền kinh tế; tỷ lệ xã đạt tiêu chí nông thôn mới 73,06% (Chính phủ giao 73%) và 255 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (Chính phủ giao 235 đơn vị); số xã đạt tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới đạt 78% (Chính phủ giao 77%); ty lệ che phủ của rừng đạt 42,02%.
Trong năm 2023, ngành nông nghiệp tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội năm 2023.
Coi trọng, làm tốt công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức, cán bộ, thực hiện nghiêm các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, số 19-NQ/TW của Trung ương.
Khẩn trương triển khai thực hiện Nghị định số 105/2022/NĐ-CP của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ NN&PTNT, khẩn trương ổn định tổ chức, sắp xếp lại cả 4 tổng cục. Đẩy mạnh cải cách hành chính, công vụ, công chức. Tăng cường công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp. Thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ chế, chính sách, trong đó có nhiệm vụ tham gia xây dựng, hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai, các chiến lược, quy hoạch, nhất là các quy hoạch ngành quốc gia – phải coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu. Có giải pháp cụ thể để kịp thời tháo gỡ các nút thắt về chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận đất đai, tín dụng, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh xã hội hóa, phân cấp mạnh mẽ về cho địa phương, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện.
Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ cấu lại ngành theo 3 nhóm trục sản phẩm chủ lực, theo các ngành, lĩnh vực và cơ cấu lại sản xuất theo vùng; thực hiện Chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP để góp phần thúc đẩy sản xuất lớn, quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, phát triển khoa học công nghệ, phát triển các vùng chuyên canh nông sản hàng hóa chất lượng cao trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng.
Tổ chức lại sản xuất, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả gắn với quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển mạnh mẽ, hợp lý, phù hợp, phát triển hệ thống hợp tác xã, gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; tổng kết lý luận về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tổng kết thực tiễn, bám sát thực tiễn, nhu cầu của thị trường, nhân rộng các mô hình hiệu quả cao, những cách làm hay để điều chỉnh sản xuất phù hợp nhằm mang lại giá trị gia tăng và thu nhập cho người sản xuất.
Đẩy mạnh cơ giới hóa, chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ, công nghệ cao, thông minh trong sản xuất nông nghiệp; phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch; phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản, tăng tỉ trọng chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, thu nhập cho người nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp; phát triển các cụm liên kết sản xuất gắn với vùng nguyên liệu, các hình thức hợp tác liên kết sản xuất, chế biến kết nối với hệ thống tiêu thụ trong nước và quốc tế.
Tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nhất là rừng tự nhiên, rừng phòng hộ; đẩy mạnh phát triển điện sinh khối, bán tín chỉ
carbon
… Theo dõi diễn biến thời tiết, thiên tai, cần chủ động chỉ đạo sản xuất và triển khai công tác phòng, chống thiên tai bảo đảm kịp thời, hiệu quả, không để bị động, bất ngờ, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.
Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc ga xây dựng nông thôn mới; xây dựng nông thôn mới phải đi đôi với tạo điều kiện phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống, thu nhập của người dân, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của từng vùng miền, gắn với đô thị hóa, tránh làm theo phong trào, hình thức, lãng phí, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, phối hợp với các cấp, các ngành chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
|
Vietnam
is a coastal country, with large sea areas and continental shelves. Therefore, developing the marine economy associated with national defense and security and firmly protecting the sovereignty of the sea and islands is something our Party and State always pay attention to and focus on.
Developing the marine economy in the agricultural sector in a modern direction to improve farmers' lives and develop the country, thereby affirming that agriculture not only plays the role of a pillar of the economy, but is gradually become a dynamic economic sector with sustainable development, deeply participating in world economic integration
Developing the agricultural economy in a modern direction to improve farmers' lives and develop the country is a major policy of the Party and State that has been implemented for many years. Thereby, it is affirmed that agriculture not only plays a role as a pillar of the economy, but is gradually becoming a dynamic economic sector, developing sustainably, deeply participating in world economic integration; People's lives are constantly improving, the rural economy is developing positively...
However, up to now, Vietnam's agricultural economy has not yet been fully effective and many new solutions need to continue to be implemented more drastically and synchronously in the coming time.
In the context of common difficulties, in 2022 the agricultural sector has implemented synchronous, flexible, creative solutions and "innovative thinking" to overcome difficulties and challenges from "unusual situations". of production and business practices to achieve development goals.
About
Marine economics
In general, the scale is still small and at a low level, not commensurate with the marine economic potential of our country. Compared to other countries in the world and the region, Vietnam is still weak in many aspects.
According to the Ministry of Agriculture and Rural Development, all 6/6 industry targets assigned by the Government were met and exceeded: GDP growth of the entire industry reached 3.36%, the highest level in recent years ( The Government assigns 2.5-2.8%); Agricultural, forestry and fishery export turnover reached 53.22 billion USD (the Government assigned 50 billion USD), the trade surplus reached 8.5 billion USD, accounting for more than 75% of the total trade surplus of the entire economy; The rate of communes meeting new rural criteria is 73.06% (the Government assigns 73%) and 255 district-level units meet/complete the task of building new rural areas (the Government assigns 235 units); The number of communes meeting environmental criteria in new rural construction reached 78% (77% assigned by the Government); Forest coverage rate reached 42.02%.
In 2023, the agricultural sector will continue to thoroughly grasp and organize the serious and effective implementation of resolutions and conclusions of the Central Committee, the Politburo, the Secretariat, and resolutions of the National Assembly and the Government. on the main tasks and solutions for socio-economic development in 2023.
Appreciate and do well the work of Party building, organizational and cadre work, and strictly implement the Central Resolutions on building a clean and strong Party; Build a streamlined apparatus that operates effectively and efficiently in the spirit of Resolution Không. 18-NQ/TW and Không. 19-NQ/TW of the Central Government.
Urgently implement Decree Không. 105/2022/ND-CP of the Government on the functions, tasks, powers and organizational structure of the Ministry of Agriculture and Rural Development, urgently stabilize the organization and rearrange all 4 general departments. lump. Promote administrative reform, civil service and civil servants. Strengthen training and build a team of officials and civil servants with ethical qualities, working capacity, sense of responsibility and professionalism. Strictly implement discipline and administrative discipline.
Continue to improve institutions, build mechanisms and policies, including the task of participating in developing and completing the draft Land Law, strategies and planning, especially national sector planning - must consider this a top important political task. Have specific solutions to promptly remove policy bottlenecks, create favorable conditions for people and businesses to access land and credit, and create new motivation for the development of commodity agriculture and construction. new countryside. Promote socialization and strong decentralization to localities, along with strengthening inspection and supervision of implementation.
Continue to synchronously and effectively restructure the industry according to 3 key product groups, industries, fields and restructure production by region; Implement the One Commune One OCOP Product Program to contribute to promoting large production, planning the development of raw material areas, developing science and technology, and developing areas specializing in high-quality agricultural products on the basis of promote the potential and advantages of the region.
Reorganize production, develop appropriate and effective forms of production organization associated with the process of digital transformation, digital economy, strong, reasonable and appropriate development, and develop the cooperative system , associated with restructuring the agricultural sector and rural development; Summarizing theories about agriculture, farmers, rural areas, summarizing practice, closely following practice, market needs, replicating highly effective models, good ways to adjust production appropriately to bring added value and income to producers.
Promote mechanization, digital transformation and application of science and technology, high technology and intelligence in agricultural production; develop organic and clean agriculture; Developing industries serving agriculture, processing and preserving agricultural products, increasing the proportion of deep processing to increase the added value of products, improve production efficiency and income for farmers and farmers. agricultural enterprises; Developing production clusters associated with raw material areas, forms of cooperation linking production and processing connected to domestic and international consumption systems.
Strengthen management, protection and development of forests, especially natural forests and protection forests; Promote the development of biomass electricity and sell credits
carbon
... Monitoring weather developments and natural disasters, it is necessary to proactively direct production and deploy natural disaster prevention and control work to ensure timeliness and effectiveness, not to be passive or surprised, and to minimize damage caused by natural disasters. caused by the ear.
Effectively implement the National Target Program on building new rural areas; Building new rural areas must go hand in hand with creating conditions for rural economic development, improving people's lives and income, preserving and promoting the cultural identity of each region, associated with urbanization, Avoid following trends, formalities, waste, prevent corruption and negativity, coordinate with all levels and sectors to take care of and build a team of grassroots officials.
|
Truyện ngắn của Dazai Osamu, cũng như tiểu thuyết của ông, luôn xuất hiện những cá nhân mang cảm thức mạnh mẽ về cái chết, khi họ luôn tự ý thức, bản thân là một tạo vật khiếm khuyết và những điều tốt đẹp họ hướng đến, vừa khắc kỷ, cũng vừa xa vời như thế nào
.
Bao chứa những câu chuyện ngắn trải dài trong văn nghiệp Dazai Osamu từ ngày đầu ông cầm bút, tập truyện
Nữ sinh
là những lát cắt đầy tính thống nhất về một Dazai Osamu luôn khước từ những điều hời hợt tới mức cực đoan, tới mức tự diệt.
Là người đã sống qua cả hai cuộc thế chiến khốc liệt của nhân loại và nếm trải trọn vẹn nỗi thống khổ của con người thời hậu chiến, đúng như lời dịch giả Hoàng Long nhận định “Dazai đã đưa những trải nghiệm cay đắng của mình vào tác phẩm.” Từ những thiên tiểu thuyết đã làm nên tên tuổi Dazai Osamu như
Thất lạc cõi người
hay
Tà dương
, tới những truyện ngắn đầu tay như
Ngư phục ký
hay truyện vừa
Nữ sinh
ở tập truyện
Nữ sinh
này.
Niềm “cay đắng” tới từ những đổ vỡ ý thức hệ trước đổi thay thời cuộc, mà trước hết, chính là lối sống con người nơi quốc đảo Nhật Bản. Những kẻ “sống” mà mà thiếu đi cá tính, sống mà chỉ như sự tồn tại hời hợt gá víu vào cuộc đời. Khước từ lối sống ấy, nhân vật trên trang viết của Dazai Osamu đớn đau khi đối diện nhân thế, cũng như dằn vặt bản thân. Và đó tựa sự phóng chiếu bản thể Dazai Osamu, dằn vặt chính mình nhằm vượt thoát thói đời lắm tục hiềm vậy.
Với sự đa dạng cốt truyện lẫn phương thức thể hiện, khi là những tích truyện huyền thoại được Dazai tiên sinh tái hiện lại dưới bút pháp vừa thực vừa mộng, khi là sự sáng tạo huyền thoại riêng với sự hóa thân, nhân hóa từ chính một tờ tiền, khi là những dòng tâm sự một người vợ trải dài trên trang thư hay khi là những dòng nội tâm của người thiếu nữ đầy nhạy cảm… Dẫu ở phương diện nào, chủ thể chính, nhân vật trung tâm trong trang sách
Nữ sinh
cũng mang nỗi nhiệt thành sống tới cuồng liệt.
Tập truyện Nữ sinh.
Bởi thế, họ khó lòng chấp nhận nhịp sống buồn tẻ, tù túng, đè nén cả thể xác lẫn tâm hồn như cô gái trong
Ngư phục ký
, khao khát hóa thành con trăn lớn mà quẫy đạp tới tự do. Như giấc mộng hóa quạ thần để sống một đời tiêu dao bên nàng Trúc Thanh xinh đẹp của chàng thư sinh nghèo Ngư Dung sau tháng ngày sống nghèo khổ cùng một người vợ khắc nghiệt. Hoặc hình ảnh người vợ quyết tuyệt viết thư chia tay chồng giữa
Tiếng dế nỉ non
vọng về bởi lối sống người chồng kia, đã sớm trở nên tầm thường, thậm chí là tha hóa, hèn hạ sau mọi phù phiếm, vật chất, kim tiền…
Dẫu rằng, tất thảy có thể chỉ là ảo mộng hay tận cùng, thứ đón lấy họ, chỉ là một vòng xoáy tuần hoàn tiếp nối tăm tối, ngục tù của sự chuyển sinh, chuyển kiếp bé mọn tựa “nàng” ở
Ngư phục ký
, khát khao trở thành con trăn lớn mà cuối cùng, nàng chỉ có thể hóa thành con cá diếc nhỏ xíu “bơi qua bơi lại vòng vòng trong cái vũng gần lòng thác đổ. Nó vẫy vẫy mấy cái vây để nổi lên mặt nước rồi lại quẫy đuôi lặn xuống đáy nước sâu.” Nhưng, con người, dưới ngòi bút Dazai Osamu đã dám đấu tranh cho niềm nồng nhiệt yêu sống đến thế. Nên, mặc cho tự hủy hay tận diệt, họ cũng là đốt cháy phần sinh mệnh nhỏ bé này, cho kiếp sống trần thế, chẳng hoài tạm bợ.
Từ sự chối bỏ lối sống hời hợt, tập truyện
Nữ sinh
còn như lời tuyên ngôn cho sự chối bỏ, thậm chí phê phán sự hời hợt trong tư tưởng của Dazai Osamu. Bởi sự hời hợt trong tư tưởng, mà người ta hời hợt với đời sống hay chính lối sống tạm bợ, được chăng hay chớ, tồn tại hôm nay không biết ngày mai, khiến người ta dần chai sạn mà hình thành tâm lí hờ hững với cuộc đời, người thân lẫn chính mình?
Hay chính những năm thế chiến, thời cuộc xoay vần, nền tảng truyền thống đối diện trước sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, khiến con người trở nên bế tắc giữa lằn ranh chân lí, đúng sai. Vì những gì họ tin tưởng tới tôn thờ, đã sụp đổ sau tất thảy biến động cuộc đời. “Sa sút bi thảm. Cô đơn. Không, đối với Nhật Bản bây giờ mà nói thì không chỉ riêng chúng tôi mà tất cả những người sống ở Tokyo này nữa, nhìn đâu cũng thấy một sự sa sút trầm kha.” (
Người vợ
)
Nhưng dù là bất kì nguyên nhân hay khía cạnh nào, cũng không thể chối bỏ, nỗi thất vọng của một cá nhân, đang dõi nhìn cuộc đời và nhân thế, ngày càng chìm sâu trong cuộc khủng hoảng ý thức hệ. Tuổi trẻ lạc lối giữa kì vọng của bản thân với những đánh giá, xét nét người đời để rồi hoài nghi bản ngã, đánh mất cái tôi, chìm sâu xuống vực thẳm những câu hỏi cuộc đời vọng về không lời giải đáp. “Mặc dù là mắng chúng tôi là không có hi vọng và tham vọng đúng đắn đấy nhưng trong trường hợp chúng tôi mang lí tưởng đúng đắn mà hành động thì bọn họ có thể trông chừng và chỉ bảo cho chúng tôi đến đâu đây chứ?” (
Nữ sinh
) Tuổi trung niên thì đánh mất chí hướng mà dần chìm vào lối sống trụy lạc, phàm tục.
Người ta hời hợt về tư tưởng, bởi người ta đã không còn tư tưởng để theo đuổi nữa rồi. Người ta lạc lối và người ta thay đổi. Người ta đánh mất cái tôi, đánh mất cả những sơ tâm ban đầu. Người ta hi vọng để rồi thất vọng. Người ta tin tưởng để rồi nhận về chỉ là nỗi bất lực tột cùng của sự phản bội. Người ta cô đơn trong chính mái ấm, bên cạnh chính người từng yêu thương và xa lạ với chính mình.
Tiếng kêu khản đặc của
Tờ tiền giấy
“Hãy biết xấu hổ đi. Nếu còn là người thì hãy biết xấu hổ vì cảm giác xấu hổ là một thứ chỉ có ở riêng con người” như tiếng chuông thức tỉnh cuối cùng, tác giả Dazai Osamu dóng tới những ai còn lương tri, và còn “tư tưởng”. Trước khi, lớp người “lương tri”, tự đẩy bản thân tới bước đường tự diệt. Bởi “Nỗi khổ đau của chúng tôi chẳng một ai hay biết cả” (
Nữ sinh
) và cuộc đời, thì chẳng còn đủ một “chỗ đứng” cho họ.
Bên cạnh những truyện ngắn như tuyên ngôn sống của Dazai Osamu thì ở tập truyện
Nữ sinh
, còn xuất hiện các tác phẩm, như lời tuyên ngôn nghệ thuật của Dazai tiên sinh, trong văn nghiệp ngắn ngủi nhưng đã kịp để lại dấu ấn đậm nét trên văn đàn Nhật Bản cùng dòng chảy văn chương thế giới hiện đại. Và một tác giả, cực đoan tới khắc kỉ ở cả lối sống lẫn tư tưởng như Dazai Osamu, thì cách ông quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật, cũng là sự khước từ mạnh mẽ những gì hời hợt.
Nghệ thuật, trước hết phải là sự thấu hiểu, tri kỉ từ tận tâm hồn con người bất kể trong cảnh bần hàn. Mà người làm nghệ thuật, đâu chú trọng bần hàn hay sang giàu. Dường như, họ cảm thấy đủ đầy, đồng cảm ngay chính trong cảnh huống ngỡ rằng bi đát nhất.
Nghệ thuật, kị nhất là những lời tung hô sáo mòn. Và khi người làm nghệ thuật, thả trôi bản thân theo vật chất lẫn nhún nhường trước sự tung hô thiên hạ, cũng là khi, người đó đánh mất “bản ngã” của kẻ theo đuổi cái đẹp vậy. “Cuối cùng anh định trở thành thứ gì vậy chứ? Hãy biết hổ thẹn đi. Đừng bao giờ nói lại cái câu ngu ngốc đáng sợ “được hiện diện ở đây” thêm lần nào nữa.” (
Tiếng dế nỉ non
)
Với Dazai, nghệ thuật không đơn thuần chỉ là sự tái hiện cái đẹp một cách trung thành hay đơn giản. Mà nghệ thuật, là sự tái hiện cái đẹp qua cá tính riêng mạnh mẽ của người nghệ sĩ. Những con người có “tài năng”, có “liêm sỉ”, luôn ý thức “xấu hổ” lẫn “hổ thẹn” trước mỗi lời ngợi khen “có cánh.” Nghệ thuật là sự cực hạn của cảm xúc và hiện thực trên lằn ranh tự nhận thức của tác giả. Vị kỉ hay mơ hồ, đều đẩy người làm nghệ thuật chìm sâu xuống vực thẳm mông lung, vô định. “Tức là anh chỉ thuần túy tinh thần, âm thầm yêu lấy cái hình dáng của bản thân mình mà anh cũng chẳng biết rõ, thậm chí nghĩ rằng không biết vậy có phải cao thượng hay không, rồi đắm mình trong những niềm tự hào ngọt ngào.” (
Một chuyến đi
)
Dazai Osamu, vẫn luôn như thế, từ ngày đầu cầm bút ở những truyện ngắn đầu tay
Ngư phục ký
tới ngày cuối cùng ông đi tới nơi
Thất lạc cõi người
, luôn mạnh mẽ, quyết liệt tới cực hạn, cực đoan. Cả trên thái độ sống, thái độ làm người và thái độ làm nghệ thuật. Tác phẩm của ông ngập tràn cái chết và mỗi truyện ngắn trong tập truyện
Nữ sinh
, cũng không phải ngoại lệ. Cái chết hiện lên muôn hình vạn trạng, trong trạng huống u uất hay sự hóa thân của nhân vật. Vậy nên, có thể nói chăng, mỗi câu chuyện trong
Nữ sinh
, như mỗi lát cắt bản thể một Dazai Osamu, trọn một đời, tìm kiếm nghĩa sống trong ý chết, kiếm tìm chân giá trị cái đẹp và
nghệ thuật
giữa thời cuộc rối ren, khổ đau “trầm kha” đến tự tận.
|
Truyện ngắn của Dazai Osamu, cũng như tiểu thuyết của ông, luôn xuất hiện những cá nhân mang cảm thức mạnh mẽ về cái chết, khi họ luôn tự ý thức, bản thân là một tạo vật khiếm khuyết và những điều tốt đẹp họ hướng đến, vừa khắc kỷ, cũng vừa xa vời như thế nào
.
Bao chứa những câu chuyện ngắn trải dài trong văn nghiệp Dazai Osamu từ ngày đầu ông cầm bút, tập truyện
Nữ sinh
là những lát cắt đầy tính thống nhất về một Dazai Osamu luôn khước từ những điều hời hợt tới mức cực đoan, tới mức tự diệt.
Là người đã sống qua cả hai cuộc thế chiến khốc liệt của nhân loại và nếm trải trọn vẹn nỗi thống khổ của con người thời hậu chiến, đúng như lời dịch giả Hoàng Long nhận định “Dazai đã đưa những trải nghiệm cay đắng của mình vào tác phẩm.” Từ những thiên tiểu thuyết đã làm nên tên tuổi Dazai Osamu như
Thất lạc cõi người
hay
Tà dương
, tới những truyện ngắn đầu tay như
Ngư phục ký
hay truyện vừa
Nữ sinh
ở tập truyện
Nữ sinh
này.
Niềm “cay đắng” tới từ những đổ vỡ ý thức hệ trước đổi thay thời cuộc, mà trước hết, chính là lối sống con người nơi quốc đảo Nhật Bản. Những kẻ “sống” mà mà thiếu đi cá tính, sống mà chỉ như sự tồn tại hời hợt gá víu vào cuộc đời. Khước từ lối sống ấy, nhân vật trên trang viết của Dazai Osamu đớn đau khi đối diện nhân thế, cũng như dằn vặt bản thân. Và đó tựa sự phóng chiếu bản thể Dazai Osamu, dằn vặt chính mình nhằm vượt thoát thói đời lắm tục hiềm vậy.
Với sự đa dạng cốt truyện lẫn phương thức thể hiện, khi là những tích truyện huyền thoại được Dazai tiên sinh tái hiện lại dưới bút pháp vừa thực vừa mộng, khi là sự sáng tạo huyền thoại riêng với sự hóa thân, nhân hóa từ chính một tờ tiền, khi là những dòng tâm sự một người vợ trải dài trên trang thư hay khi là những dòng nội tâm của người thiếu nữ đầy nhạy cảm… Dẫu ở phương diện nào, chủ thể chính, nhân vật trung tâm trong trang sách
Nữ sinh
cũng mang nỗi nhiệt thành sống tới cuồng liệt.
Tập truyện Nữ sinh.
Bởi thế, họ khó lòng chấp nhận nhịp sống buồn tẻ, tù túng, đè nén cả thể xác lẫn tâm hồn như cô gái trong
Ngư phục ký
, khao khát hóa thành con trăn lớn mà quẫy đạp tới tự do. Như giấc mộng hóa quạ thần để sống một đời tiêu dao bên nàng Trúc Thanh xinh đẹp của chàng thư sinh nghèo Ngư Dung sau tháng ngày sống nghèo khổ cùng một người vợ khắc nghiệt. Hoặc hình ảnh người vợ quyết tuyệt viết thư chia tay chồng giữa
Tiếng dế nỉ non
vọng về bởi lối sống người chồng kia, đã sớm trở nên tầm thường, thậm chí là tha hóa, hèn hạ sau mọi phù phiếm, vật chất, kim tiền…
Dẫu rằng, tất thảy có thể chỉ là ảo mộng hay tận cùng, thứ đón lấy họ, chỉ là một vòng xoáy tuần hoàn tiếp nối tăm tối, ngục tù của sự chuyển sinh, chuyển kiếp bé mọn tựa “nàng” ở
Ngư phục ký
, khát khao trở thành con trăn lớn mà cuối cùng, nàng chỉ có thể hóa thành con cá diếc nhỏ xíu “bơi qua bơi lại vòng vòng trong cái vũng gần lòng thác đổ. Nó vẫy vẫy mấy cái vây để nổi lên mặt nước rồi lại quẫy đuôi lặn xuống đáy nước sâu.” Nhưng, con người, dưới ngòi bút Dazai Osamu đã dám đấu tranh cho niềm nồng nhiệt yêu sống đến thế. Nên, mặc cho tự hủy hay tận diệt, họ cũng là đốt cháy phần sinh mệnh nhỏ bé này, cho kiếp sống trần thế, chẳng hoài tạm bợ.
Từ sự chối bỏ lối sống hời hợt, tập truyện
Nữ sinh
còn như lời tuyên ngôn cho sự chối bỏ, thậm chí phê phán sự hời hợt trong tư tưởng của Dazai Osamu. Bởi sự hời hợt trong tư tưởng, mà người ta hời hợt với đời sống hay chính lối sống tạm bợ, được chăng hay chớ, tồn tại hôm nay không biết ngày mai, khiến người ta dần chai sạn mà hình thành tâm lí hờ hững với cuộc đời, người thân lẫn chính mình?
Hay chính những năm thế chiến, thời cuộc xoay vần, nền tảng truyền thống đối diện trước sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, khiến con người trở nên bế tắc giữa lằn ranh chân lí, đúng sai. Vì những gì họ tin tưởng tới tôn thờ, đã sụp đổ sau tất thảy biến động cuộc đời. “Sa sút bi thảm. Cô đơn. Không, đối với Nhật Bản bây giờ mà nói thì không chỉ riêng chúng tôi mà tất cả những người sống ở Tokyo này nữa, nhìn đâu cũng thấy một sự sa sút trầm kha.” (
Người vợ
)
Nhưng dù là bất kì nguyên nhân hay khía cạnh nào, cũng không thể chối bỏ, nỗi thất vọng của một cá nhân, đang dõi nhìn cuộc đời và nhân thế, ngày càng chìm sâu trong cuộc khủng hoảng ý thức hệ. Tuổi trẻ lạc lối giữa kì vọng của bản thân với những đánh giá, xét nét người đời để rồi hoài nghi bản ngã, đánh mất cái tôi, chìm sâu xuống vực thẳm những câu hỏi cuộc đời vọng về không lời giải đáp. “Mặc dù là mắng chúng tôi là không có hi vọng và tham vọng đúng đắn đấy nhưng trong trường hợp chúng tôi mang lí tưởng đúng đắn mà hành động thì bọn họ có thể trông chừng và chỉ bảo cho chúng tôi đến đâu đây chứ?” (
Nữ sinh
) Tuổi trung niên thì đánh mất chí hướng mà dần chìm vào lối sống trụy lạc, phàm tục.
Người ta hời hợt về tư tưởng, bởi người ta đã không còn tư tưởng để theo đuổi nữa rồi. Người ta lạc lối và người ta thay đổi. Người ta đánh mất cái tôi, đánh mất cả những sơ tâm ban đầu. Người ta hi vọng để rồi thất vọng. Người ta tin tưởng để rồi nhận về chỉ là nỗi bất lực tột cùng của sự phản bội. Người ta cô đơn trong chính mái ấm, bên cạnh chính người từng yêu thương và xa lạ với chính mình.
Tiếng kêu khản đặc của
Tờ tiền giấy
“Hãy biết xấu hổ đi. Nếu còn là người thì hãy biết xấu hổ vì cảm giác xấu hổ là một thứ chỉ có ở riêng con người” như tiếng chuông thức tỉnh cuối cùng, tác giả Dazai Osamu dóng tới những ai còn lương tri, và còn “tư tưởng”. Trước khi, lớp người “lương tri”, tự đẩy bản thân tới bước đường tự diệt. Bởi “Nỗi khổ đau của chúng tôi chẳng một ai hay biết cả” (
Nữ sinh
) và cuộc đời, thì chẳng còn đủ một “chỗ đứng” cho họ.
Bên cạnh những truyện ngắn như tuyên ngôn sống của Dazai Osamu thì ở tập truyện
Nữ sinh
, còn xuất hiện các tác phẩm, như lời tuyên ngôn nghệ thuật của Dazai tiên sinh, trong văn nghiệp ngắn ngủi nhưng đã kịp để lại dấu ấn đậm nét trên văn đàn Nhật Bản cùng dòng chảy văn chương thế giới hiện đại. Và một tác giả, cực đoan tới khắc kỉ ở cả lối sống lẫn tư tưởng như Dazai Osamu, thì cách ông quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật, cũng là sự khước từ mạnh mẽ những gì hời hợt.
Nghệ thuật, trước hết phải là sự thấu hiểu, tri kỉ từ tận tâm hồn con người bất kể trong cảnh bần hàn. Mà người làm nghệ thuật, đâu chú trọng bần hàn hay sang giàu. Dường như, họ cảm thấy đủ đầy, đồng cảm ngay chính trong cảnh huống ngỡ rằng bi đát nhất.
Nghệ thuật, kị nhất là những lời tung hô sáo mòn. Và khi người làm nghệ thuật, thả trôi bản thân theo vật chất lẫn nhún nhường trước sự tung hô thiên hạ, cũng là khi, người đó đánh mất “bản ngã” của kẻ theo đuổi cái đẹp vậy. “Cuối cùng anh định trở thành thứ gì vậy chứ? Hãy biết hổ thẹn đi. Đừng bao giờ nói lại cái câu ngu ngốc đáng sợ “được hiện diện ở đây” thêm lần nào nữa.” (
Tiếng dế nỉ non
)
Với Dazai, nghệ thuật không đơn thuần chỉ là sự tái hiện cái đẹp một cách trung thành hay đơn giản. Mà nghệ thuật, là sự tái hiện cái đẹp qua cá tính riêng mạnh mẽ của người nghệ sĩ. Những con người có “tài năng”, có “liêm sỉ”, luôn ý thức “xấu hổ” lẫn “hổ thẹn” trước mỗi lời ngợi khen “có cánh.” Nghệ thuật là sự cực hạn của cảm xúc và hiện thực trên lằn ranh tự nhận thức của tác giả. Vị kỉ hay mơ hồ, đều đẩy người làm nghệ thuật chìm sâu xuống vực thẳm mông lung, vô định. “Tức là anh chỉ thuần túy tinh thần, âm thầm yêu lấy cái hình dáng của bản thân mình mà anh cũng chẳng biết rõ, thậm chí nghĩ rằng không biết vậy có phải cao thượng hay không, rồi đắm mình trong những niềm tự hào ngọt ngào.” (
Một chuyến đi
)
Dazai Osamu, vẫn luôn như thế, từ ngày đầu cầm bút ở những truyện ngắn đầu tay
Ngư phục ký
tới ngày cuối cùng ông đi tới nơi
Thất lạc cõi người
, luôn mạnh mẽ, quyết liệt tới cực hạn, cực đoan. Cả trên thái độ sống, thái độ làm người và thái độ làm nghệ thuật. Tác phẩm của ông ngập tràn cái chết và mỗi truyện ngắn trong tập truyện
Nữ sinh
, cũng không phải ngoại lệ. Cái chết hiện lên muôn hình vạn trạng, trong trạng huống u uất hay sự hóa thân của nhân vật. Vậy nên, có thể nói chăng, mỗi câu chuyện trong
Nữ sinh
, như mỗi lát cắt bản thể một Dazai Osamu, trọn một đời, tìm kiếm nghĩa sống trong ý chết, kiếm tìm chân giá trị cái đẹp và
nghệ thuật
giữa thời cuộc rối ren, khổ đau “trầm kha” đến tự tận.
|
Linh vật ‘Đại gia đình mèo’ đặt đối diện UBND
tỉnh Thừa Thiên – Huế
trong không khí Tết Quý Mão được nhiều người dân thích thú.
Như thường lệ hàng năm, cứ Tết đến Xuân về người dân cố đô lại tập trung ở vườn hoa trước mặt UBND tỉnh để chờ đón linh vật của năm, ngắm nhìn và chụp ảnh kỷ niệm với những linh vật được trưng bày ở đây. Gia đình mèo bằng xốp bắt đầu xuất hiện từ ngày chủ nhật (15/1) tại vườn hoa trước UBND tỉnh Thừa Thiên Huế để phục vụ công tác trang trí cho tết Quý Mão.
Gia đình Mèo gồm 5 thành viên, bố mẹ và 3 con được đặt trên một bồn hoa trang trí bắt mặt ngay bên cạnh dòng Hương
Ngay khi gia đình mèo xuất hiện ở trung tâm thành phố Huế, hàng trăm người đã tới dạo chơi, chụp ảnh kỷ niệm và đăng lên mạng xã hội để “sánh vai” với các biểu tượng mèo trên cả nước.
Vợ chồng ông Thành ở thành phố Huế tranh thủ ra chụp ảnh ngay khi mèo được trang trí xong. Ông Thành cho biết biểu tượng mèo năm nay đẹp, đáng yêu và ngộ nghĩnh. Chúng được đặt ở một không gian rất thoáng và sắc màu bên dòng Hương. Nhìn tổng thể, tôi thấy rất đẹp và lãng mạn.
Trong công viên dọc đường Lê Lợi Huế cũng tranh trí nhiều tiểu cảnh cách điệu biểu tượng Mèo để du khách và người dân địa phương du xuân chụp ảnh.
Bên cạnh biểu tượng Mèo dễ thương lãng mạn ở trước mặt UBND tỉnh thì một số biểu tượng Mèo ở chân cầu Trường Tiền được xem là không giống mèo mà giống chuột với trang phục áo dài xưa.
Một gia đình trẻ đang thích thú chụp lại hình lưu niệm khi đi chợ Đông Ba, với biểu tượng Mèo rực rỡ và đáng yêu.
Trong ảnh là biểu tượng mèo cầm nén vàng đặt trước chợ Đông Ba. Một vài tiểu thương cho biết đây là chú mèo đẹp, đáng yêu nhất trong dàn mèo ở Huế./.
|
The mascot 'Great Cat Family' is located opposite the People's Committee
Thua Thien Hue province
The atmosphere of Tet Quy Mao is enjoyed by many people.
As usual every year, every Tet and Spring, the people of the ancient capital gather in the flower garden in front of the Provincial People's Committee to wait for the year's mascot, watch and take commemorative photos with the mascots displayed here. The foam cat family began appearing on Sunday (January 15) at the flower garden in front of the People's Committee of Thua Thien Hue province to serve the decoration work for the Quy Mao Tet.
The Cat family consists of 5 members, parents and 3 children placed on an attractively decorated flower bed right next to the Perfume stream.
As soon as the cat family appeared in the center of Hue city, hundreds of people came to hang out, take commemorative photos and post them on social networks to "rival" with cat icons across the country.
Mr. Thanh and his wife in Hue city took the opportunity to take photos as soon as the cat was decorated. Mr. Thanh said this year's cat symbol is beautiful, adorable and funny. They are placed in a very airy and colorful space next to the Perfume River. Overall, I find it very beautiful and romantic.
In the park along Le Loi Street, Hue is also decorated with many miniature landscapes with stylized Cat symbols for tourists and locals to take photos.
Besides the cute and romantic Cat symbol in front of the Provincial People's Committee, some Cat symbols at the foot of Truong Tien Bridge are considered not like cats but like mice with old ao dai costumes.
A young family is enjoying taking souvenir photos when going to Dong Ba market, with the brilliant and lovely Cat symbol.
In the photo is a symbol of a cat holding a gold bar placed in front of Dong Ba market. Some traders said this is the most beautiful and adorable cat among the cats in Hue./.
|
Tết Nguyên đán
là ngày tết lớn nhất trong năm của người dân trên mọi miền tổ quốc Việt Nam cũng như tại vùng cao Bắc Kạn. Trong những ngày này, mỗi dân tộc trên địa bàn tỉnh lại đón tết với những phong tục tập quán riêng.
Dân tộc Tày chiếm số lượng đông nhất trong các dân tộc của
tỉnh Bắc Kạn
, chiếm 54% dân số. Vào ngày 27, 28 tháng chạp âm lịch, các gia đình dân tộc Tày đã nhộn nhịp thịt lợn, gói bánh chưng. Những con lợn to nhất được chọn thịt trong ngày tết. Thịt lợn được chế biến thành nhiều món ăn đặc trưng của người Tày, như thịt lam, thịt treo gác bếp, lạp sườn, thịt ướp muối gừng… và một phần để gói bánh chưng. Người Tày không gói bánh chưng vuông như người Kinh mà gói bánh chưng dài. Những tàu lá dong xanh mướt được chọn lựa kỹ càng, gạo nếp phải là nếp hái được chọn từng bông ngoài ruộng, cùng thịt lợn béo, đỗ xanh, lạt giang.
Bánh chưng dài mang đặc trưng hương vị ngày tết của người dân tộc Tày ở vùng cao Bắc Kạn.
Công việc chuẩn bị tết chủ yếu do các chị, các mẹ đảm nhiệm. Bàn thờ là nơi được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Ngoài việc dọn dẹp, người dân tộc Tày còn trải một tờ giấy đỏ ở bàn thờ với hy vọng một năm mới sẽ gặp nhiều may mắn, mùa màng bội thu. Bốn chân bàn thờ được buộc bốn cây mía, với quan niệm đó là cái gậy để tổ tiên chống về nhà ăn tết cùng gia đình.
Sáng mùng một, người dân tộc Tày kiêng có người không mời mà vào, vì thế, họ chọn mời người xông nhà là người có đạo đức trong bản, người làm ăn siêng năng, kỵ nhất là người có tang. Đối với những nhà có tang, người nhà không đi chơi trong ngày mùng một.
Vào khoảng ngày mùng 4, mùng 5, người Tày tổ chức hội lồng tồng (xuống đồng). Những chàng trai cô gái tươi tắn trong sắc áo chàm đặc trưng cùng nhau đi chơi hội. Trong ngày này, các trò chơi được tổ chức phổ biến gồm: Hái hoa dân chủ; ném còn; kéo co; thi hát các câu Sli, câu lượn về Bác Hồ, về mùa xuân, ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước…
Người Nùng sống xen kẽ với người Tày, chiếm 9% dân số của tỉnh. Vì sống xen kẽ với người Tày nên phong tục tập quán ngày tết của hai dân tộc khá gần gũi. Tuy nhiên, tập quán ăn tết của người Nùng vẫn có những nét đặc trưng riêng.
Một món ăn không thể thiếu được trong bữa cơm tất niên của người Nùng đó là thịt vịt. Vịt được nuôi béo từ khoảng vài tháng trước đó chỉ chờ đến ngày tất niên. Người Nùng quan niệm, ăn vịt trong bữa cơm tất niên là để trôi đi mọi thứ không may mắn trong năm cũ, và phải ăn hết trong bữa tất niên, không để thừa sang năm mới.
Trong mâm cỗ cúng tổ tiên đêm 30 cũng như trong bữa cơm tết phải có gà trống thiến. Con gà này được nuôi từ tháng giêng đầu năm, chỉ cho ăn thóc và ngô. Vào ngày mùng một, con rể phải đi biếu bố mẹ vợ một con gà trống thiến.
Trong phút giao thừa, người Nùng dán giấy đỏ vào các vật dụng từ cuốc, cày đến chuồng gà, chuồng lợn, chuồng trâu … Theo bác Nông Thị Mỳ – dân tộc Nùng tại huyện Bạch Thông cho biết: “Việc dán giấy đỏ vào các vật dụng theo người Nùng quan niệm, các đồ dùng, vật dụng năm qua đã giúp chúng tôi thu được nhiều thóc lúa nên trong ngày này, dán giấy đỏ là để cảm ơn và mời các vật dụng cùng ăn tết, cũng như khi ta thắp hương mời tổ tiên về ăn tết vậy.”
Ngoài ra, khẩu thuy, bánh khảo (pẻng cao), bánh trời (pẻng phạ), bỏng (khẩu phéc) là những món ăn không thể thiếu khi mời khách trong ngày tết.
Người dân tộc Mông và dân tộc Dao có phong tục tập quán ngày Tết khá gần gũi. Từ những ngày 26, 25 tháng chạp âm lịch, họ đã bắt đầu nghỉ ngơi, chuẩn bị đón xuân. Trong những ngày này, họ phong (niêm phong) tất cả các công cụ sản xuất lại, cái cày, cái cuốc được cất gọn trong kho.
Trong ngày Tết, các món ăn không thể thiếu đối với người Mông, Dao là thịt, rượu và bánh dày. Lợn phải thịt những con to, ngon nhất đàn. Rượu phải làm từ ngô nguyên hạt. Bánh dày được làm từ từ những hạt gạo nếp nương do chính tay họ làm ra.
Anh Lò A Chẳn – Dân tộc Mông tại
huyện Ba Bể
cho biết: Rượu ngô của người Ba Bể, nhất là tại vùng Khưa Quang đã trở thành thứ đặc sản không thể thiếu đối với mỗi người dân Ba Bể. Rượu này được làm từ ngô nguyên hạt, không qua say sát và được ủ bằng men lá khoảng 3 đến 4 tháng. Rượu có màu vàng óng và mùi vị rất đặc trưng. Ai đã từng uống một lần sẽ nhớ mãi. Người ta đã quen gọi đó là
rượu
vị Khưa Quang.
Vào ngày Tết, người Mông, Dao thường mặc những bộ váy sặc sỡ, đẹp nhất đi chơi, đi hội. Ném còn, múa khèn, múa ô, chơi cầu lông gà là những trò chơi được người Mông, Dao thường chơi trong ngày Tết.
Người Kinh chiếm 14% dân số trong tỉnh, sống rải rác ở khắp các huyện của tỉnh Bắc Kạn nhưng tập trung đông nhất là tại thị xã Bắc Kạn. Tết của người Kinh tại Bắc Kạn ngày nay đã ảnh hưởng nhiều của Tết người Tày, Nùng nhưng vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng. Tết của người Kinh bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp. Vào ngày này, người Kinh quan niệm là ngày Tết ông Công, ông Táo nên ngày Tết này diễn ra khá sôi động. Mỗi gia đình đều chuẩn bị mâm cỗ có đủ xôi, thịt gà, thịt lợn, nem, canh măng, canh miến tết ông Công, ông Táo. Và trong ngày này, mỗi gia đình không thể thiếu cá chép làm phương tiện tiễn ông Táo về trời. Người Kinh quan niệm, sau một năm lao động, đây là thời điểm ông Táo giúp gia đình báo công với trời đất về những thành quả làm được trong suốt năm qua. Với mong muốn, một năm mới tiếp theo thu được nhiều kết quả.
Trong thời khắc giao thừa, không giống như người Tày, Nùng hay người Mông, Dao kiêng không ra khỏi nhà, người Kinh lại ra đường vào thời khắc này để đón xuân, hái lộc. Những ngày đầu năm, người Kinh thường đi lễ, chùa để cầu phúc, cầu may. Với nhiều gia đình, đầu năm đi lễ chùa là để cầu phúc cho một năm an lành. Theo quan niệm của đạo Phật, đi lễ đầu năm hướng đến “vạn sự hanh thông”. Đến chùa, người ta không chỉ cầu an cho gia đình mà còn cho tất cả mọi người, với nhiều ước nguyện khác nhau, người kinh doanh mong công việc làm ăn phát đạt, người nông dân mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, các chàng trai cô gái cầu mong chuyện tình duyên … Đó là nét đặc trưng riêng trong tập quán ăn Tết của người Kinh tỉnh Bắc Kạn cũng như trên cả nước.
* * * * *
Tết là thời điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, Tết ở vùng cao Bắc Kạn là không gian giao hòa của vạn vật cỏ cây hoa lá và lòng người. Tết còn là dịp để mỗi người dân tưởng nhớ, tri âm tổ tiên, là dịp nghỉ ngơi sau một năm làm việc vất vả. Vì vậy, ngày Tết luôn là thời điểm mong đợi của mỗi dân tộc trên địa bàn tỉnh cũng như trong lòng mỗi người trên đất nước Việt Nam./.
|
Lunar New Year
is the biggest Tet holiday of the year for people in all regions of Vietnam as well as in the highlands of Bac Kan. During these days, each ethnic group in the province celebrates Tet with its own customs and traditions.
The Tay ethnic group accounts for the largest number of ethnic groups
Bac Kan province
, accounting for 54% of the population. On the 27th and 28th days of the twelfth lunar month, Tay ethnic families bustled with pork and wrapped banh chung. The biggest pigs are selected for meat during Tet. Pork is processed into many typical dishes of the Tay people, such as blue meat, meat hung on the stove, sausage, salted meat with ginger... and partly used to wrap banh chung. Tay people do not wrap square banh chung like Kinh people, but wrap long banh chung. The green dong leaves are carefully selected, the sticky rice must be sticky rice picked from each flower in the field, along with fatty pork, green beans, and lat giang.
Banh chung is a typical Tet flavor of the Tay ethnic people in the highlands of Bac Kan.
Tet preparation work is mainly done by sisters and mothers. The altar is the most carefully prepared place. In addition to cleaning, the Tay people also spread a red paper at the altar with the hope that the new year will bring good luck and a good harvest. The four legs of the altar are tied with four sugarcane sticks, with the concept that they are sticks for the ancestors to use to return home to celebrate Tet with their families.
On the morning of the first day, Tay people avoid people coming in uninvited, so they choose to invite people who have morals in the village, people who are diligent in business, and especially people who are in mourning. For families with funerals, family members do not go out on the first day.
Around the 4th and 5th, the Tay people organize a festival (going down to the fields). Bright boys and girls in typical indigo shirts come together to celebrate. On this day, popular games are held including: Picking flowers for democracy; throwing; Tug; Singing competitions of Sli and Luon verses about Uncle Ho, about spring, praising love for homeland and country...
The Nung people live intermingled with the Tay people, accounting for 9% of the province's population. Because they live side by side with the Tay people, the Tet customs and practices of the two ethnic groups are quite close. However, the Nung people's Tet customs still have their own unique characteristics.
An indispensable dish in the New Year's Eve meal of the Nung people is duck meat. Ducks have been fattened for several months, just waiting for the new year. The Nung people believe that eating duck at the New Year's Eve meal is to wash away all the bad luck in the old year, and must eat it all at the New Year's Eve meal, without leaving any leftovers for the new year.
In the offerings to the ancestors on the night of the 30th as well as in the Tet meal, there must be a castrated rooster. This chicken has been raised since January of the first year, only fed rice and corn. On the first day, the son-in-law must give his wife's parents a castrated rooster.
During New Year's Eve, the Nung people stick red paper on objects from hoes and plows to chicken coops, pig pens, buffalo barns... According to Mr. Nong Thi My - Nung ethnic group in Bach Thong district, "The practice of sticking red paper on according to the Nung people's concept, the utensils and items last year helped us harvest a lot of rice, so on this day, sticking red paper is to thank and invite the items to celebrate Tet together, as well as when We burn incense to invite our ancestors to celebrate Tet."
In addition, Khau Thuy, Banh Khau (Peng Cao), Banh Troi (Peng Pha), and Burns (Khau Phec) are indispensable dishes when inviting guests during Tet.
The Mong and Dao ethnic people have quite close Tet customs and traditions. From the 26th and 25th days of the twelfth lunar month, they began to rest and prepare to welcome spring. During these days, they sealed (sealed) all the re-manufactured tools, plows, and hoes stored neatly in the warehouse.
During Tet, indispensable dishes for Mong and Dao people are meat, wine and day cake. Pigs must kill the biggest and tastiest animals in the herd. Wine must be made from whole corn kernels. Banh day is made from upland sticky rice grains that they make themselves.
Mr. Lo A Chan – Mong ethnic group in Vietnam
Ba Be district
said: Corn wine of the Ba Be people, especially in the Khua Quang area, has become an indispensable specialty for every Ba Be people. This wine is made from whole corn kernels, without being drunk, and is fermented with leaf yeast for about 3 to 4 months. The wine has a golden color and a very characteristic taste. Anyone who drinks it once will remember it forever. People are used to calling it that
alcohol
Khua Quang.
On New Year's Day, Mong and Dao people often wear the most beautiful and colorful dresses to go out and go to festivals. Cong throwing, flute dancing, umbrella dancing, and badminton are games that Mong and Dao people often play during Tet.
Kinh people account for 14% of the population in the province, living scattered throughout the districts of Bac Kan province but most concentrated in Bac Kan town. Tet of the Kinh people in Bac Kan today has a lot of influence from Tet of the Tay and Nung people but still retains its own characteristics. Tet of the Kinh people starts on December 23. On this day, Kinh people consider it to be the New Year of the Cong and the Kitchen God, so this Tet day is quite exciting. Each family prepares a feast with enough sticky rice, chicken, pork, spring rolls, bamboo shoot soup, and vermicelli soup for Tet of Mr. Cong and Mr. Tao. And on this day, every family cannot lack carp as a means of sending Mr. Tao to heaven. Kinh people believe that after a year of labor, this is the time when the Kitchen God helps his family report to heaven and earth about the achievements made during the past year. With the hope that the next new year will bring many results.
During New Year's Eve, unlike the Tay, Nung or Mong and Dao people who abstain from leaving the house, Kinh people go out at this time to welcome spring and reap fortune. In the first days of the year, Kinh people often go to ceremonies and pagodas to pray for blessings and good luck. For many families, going to pagoda at the beginning of the year is to pray for a peaceful year. According to Buddhist concepts, going to Mass at the beginning of the year leads to "all things being successful". Coming to the pagoda, people not only pray for peace for their families but also for everyone, with many different wishes, business people hope for a prosperous business, farmers hope for good weather and good harvests. In autumn, boys and girls pray for love... That is a unique feature of the Tet celebration customs of Kinh people in Bac Kan province as well as across the country.
* * * * *
Tet is the time of transition between the old year and the new year. Tet in the highlands of Bac Kan is a space of harmony between all things, plants, flowers and human hearts. Tet is also an opportunity for every person to remember and pay tribute to their ancestors, and a chance to rest after a year of hard work. Therefore, Tet is always a time of expectation for every ethnic group in the province as well as in the hearts of every person in Vietnam./.
|
Di tích Cổ Loa thuộc địa phận
huyện Đông Anh
,
thành phố Hà Nội
. Tại địa điểm này đã có dấu tích của văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, cách đây khoảng 20.000 năm đến 11.000 năm. Khoảng 4.000 năm trước, những cư dân thuộc văn hóa Phùng Nguyên cũng đã định cư trên mảnh đất này. Vào khoảng năm 208 trước Công nguyên, sau khi thống nhất hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn vùng đất này để lập kinh đô, xây thành Cổ Loa (thành Ốc, Tư Long thành, Loa thành)… Hiện nay, di tích có phạm vi quy hoạch bảo tồn là 830 ha.
Theo thống kê, trong khu vực Cổ Loa hiện có khoảng 60 di tích (trong đó có 07 di tích cấp quốc gia), bao gồm các loại hình: di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, cách mạng, di chỉ khảo cổ học.
Đời sống tinh thần của cư dân Cổ Loa rất phong phú, với nhiều tập tục mang đậm sắc thái vùng miền, như tục kết chiềng, kết chạ, tục ăn sêu Bà Chúa vào ngày 13 tháng Tám (Âm lịch), tục khất keo làm cụ Từ, tục kiêng tên húy, tục kiêng nuôi gà, ngan, ngỗng trắng, tục đãi dâu, không đãi rể. Lễ hội Cổ Loa được tổ chức tại đền Thượng vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm (tương truyền là ngày Thục Phán lên ngôi vua, lấy hiệu là An Dương Vương)…
Di tích Cổ Loa cũng là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật, gắn với các giai đoạn văn hóa khảo cổ của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi, đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực… Tại khu vực này, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí và vũ khí bằng đồng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ An Dương Vương và lịch sử vùng đất này.
Thành Cổ Loa:
có diện tích gần 46ha, gồm 3 vòng thành (thành Nội, thành Trung, thành Ngoại) khép kín, đắp bằng đất, với tổng chiều dài là 15,820km.
Thành được đắp dựa theo địa hình tự nhiên – nối những gò, đống và những dải đất cao dọc theo sông; bao quanh thành là các hào nước thông với sông Hoàng, trên mặt thành có các ụ đất nhô ra ngoài, gọi là “hỏa hồi”; vòng thành có chỗ xẻ làm cửa, phía trên xây miếu thờ thần.
Các nhà khảo cổ học đã tiến hành 03 đợt khai quật khảo cổ tại khu vực này, vào những năm 1970, 2005, 2007 – 2008. Kết quả khai quật cho thấy, trong lịch sử thành Cổ Loa đã trải qua ít nhất 3 lần đắp, mà dấu tích liên quan còn được biểu hiện qua các di tích: lũy phòng thủ, di tích bếp, cụm gốm Đông Sơn, lò nung gạch, ngói có niên đại thế kỷ XVIII – XIX…
Đền Thượng (đền thờ An Dương Vương):
dựng trên khu đất
rộng 19.138,6m2. Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc.
Kiến trúc đền gồm: tiền tế – 3 gian, 2 chái, hệ khung kết cấu gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Trên hệ mái đắp các đầu đao cong, tượng nghê chầu. Các bộ vì chính được làm theo kiểu giá chiêng, sơn son thếp vàng, chạm họa tiết
“rồng vờn mây”
; trung đường đấu mái liền với hậu cung, tạo thành dạng thức kiến trúc kiểu “chuôi vồ”, bên trong đặt tượng An Dương Vương, bằng đồng, nặng khoảng 200kg, đúc năm 1897.
Từ cuối năm 2004 đến năm 2007, các nhà khảo cổ học đã tiến hành 3 đợt khai quật tại đền Thượng, với 9 hố, trên tổng diện tích 311,5m2. Qua những đợt khai quật này, đã phát hiện được hệ thống lò đúc mũi tên đồng và nhiều hiện vật có giá trị liên quan khác.
Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy)
:
có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên. Các đề tài trang trí trên kiến trúc này mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 17 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu.
Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu):
toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung.
Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn tự):
được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bố cục mặt bằng nền theo dạng “nội Công, ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu cung, gác chuông, tháp mộ, cổng hậu, nhà Tổ, nhà ni, nhà khách. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được 132 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc.
Chùa Mạch Tràng (Quang Linh tự):
được dựng vào thời Hậu Lê, trên diện tích rộng 4.922,4m2. Chùa quay hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Tam bảo
,
tiền đường, thượng điện, nhà Mẫu, giải vũ, hành lang…
Đình Mạch Tràng:
tọa lạc trên một khu đất cao, có diện tích 6.198,4m2, gồm các hạng mục tiền tế, đại đình và hậu cung.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/QĐ-TTg).
(Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa)
|
Co Loa relic belongs to the area
Dong Anh district
,
Hanoi City
. At this location, there are traces of the Son Vi culture, belonging to the late Paleolithic period, about 20,000 to 11,000 years ago. About 4,000 years ago, residents of the Phung Nguyen culture also settled on this land. Around 208 BC, after unifying the two tribes of Au Viet and Lac Viet, establishing the state of Au Lac, An Duong Vuong chose this land to establish the capital, building Co Loa citadel (Oc citadel, Tu citadel). Long citadel, Loa citadel)... Currently, the relic has a conservation planning scope of 830 hectares.
According to statistics, in the Co Loa area there are currently about 60 relics (including 07 national relics), including types: architectural and artistic relics, historical relics, revolutionary relics, relics. archeology.
The spiritual life of Co Loa residents is very rich, with many customs imbued with regional nuances, such as the custom of tying bamboo logs, tying wedding rings, the custom of eating Ba Chua crab on the 13th day of the eighth month (lunar calendar), the custom of begging for acacia. As an uncle, the custom is to abstain from family names, the custom to abstain from raising chickens, geese, and white geese, the custom to treat the bride, and not to treat the son-in-law. Co Loa Festival is held at Thuong Temple on January 6 every year (legend is the day Thuc Phan ascended the throne, taking the title An Duong Vuong)...
Co Loa relics are also an archaeological site of outstanding value, associated with periods of Vietnamese archaeological culture, such as Son Vi culture, Phung Nguyen culture, Dong Dau culture, Go Mun culture , the pinnacle of which is Dong Son Culture, with many typical archaeological sites: Dong Vong, Bai Men, Dinh Chien, Dinh Trang, Ma Tre, Citadel, Ngoai Citadel, Thanh Trung, Xuan Kieu, Nhoi hamlet, temple Thuong, Tien Hoi, Duong May, Cau Vuc... In this area, archaeologists have discovered thousands of working tools, musical instruments and bronze weapons, contributing to clarifying many issues about the period. An Duong Vuong and the history of this land.
Co Loa Citadel:
with an area of nearly 46 hectares, including 3 citadels (Inner citadel, Central citadel, Outer citadel) closed, covered with soil, with a total length of 15,820km.
The citadel was built based on the natural terrain - connecting mounds, heaps and high strips of land along the river; Surrounding the citadel are moats connecting with the Yellow River. On the citadel's surface there are mounds of earth protruding outward, called "hoi ho"; The citadel has a place cut into a gate, and a temple to worship gods is built above.
Archaeologists have conducted three archaeological excavations in this area, in the years 1970, 2005, 2007 - 2008. Excavation results show that in the history of Co Loa citadel has experienced at least three times. construction, but related traces are also shown through relics: defensive ramparts, kitchen relics, Dong Son pottery cluster, brick and tile kilns dating from the 18th - 19th centuries...
Thuong Temple (temple of An Duong Vuong):
built on the land
19,138.6m2 wide. At the entrance to the middle door of the temple, there are a pair of stone dragons, bearing the artistic style of the late Le Dynasty. The temple also preserves 5 stone steles and 53 artifacts of unique historical, cultural and scientific value.
The temple's architecture includes: anteroom - 3 compartments, 2 wings, wooden frame system, funny-nosed tiled roof. On the roof system are covered with curved knife heads and Nghe statues. The main altars are made in the style of gong stands, painted with gold and carved with motifs
“dragon playing with clouds”
; The middle of the hall connects the roof to the harem, forming a "mallet" style architecture. Inside is a statue of An Duong Vuong, made of bronze, weighing about 200kg, cast in 1897.
From late 2004 to 2007, archaeologists conducted 3 excavations at Thuong Temple, with 9 holes, on a total area of 311.5 m2. Through these excavations, a bronze arrow casting furnace system and many other related valuable artifacts were discovered.
Co Loa Communal House (Ngu Trieu Di Quy)
:
It has a floor plan shaped like the letter "Dinh", including a royal court and a harem. The great communal house consists of 5 compartments, 2 wings, wooden frame structure, funny-shaped tiled roof, with 4 curved corners. The roof rafters are structured in the style of "gong rack, beam stacked", with 6 rows of pillars. The harem is connected to the main court through a set of doors below and a roof above. The decorative themes on this architecture are in the artistic style of the 18th century. In particular, the communal house still preserves 17 artifacts with quite typical historical, cultural and scientific value.
My Chau Am (Ba Chua Am or My Chau Temple):
located on an area of 925.4 square meters. The architectural layout is arranged in the form of "pre-Nhat, post-Dinh", including pre-sacrificial buildings, middle hall and rear palace.
Co Loa Pagoda (Bao Son pagoda):
was built around the beginning of the 17th century, the floor plan layout was in the form of "internal Cong, foreign nationality", including items: front hall, incense burning, upper palace, harem, bell tower, tomb tower, back gate. , Patriarch's house, nun's house, guest house. In particular, the pagoda also preserves 132 artifacts of unique historical, cultural and scientific value.
Mach Trang Pagoda (Quang Linh Pagoda):
was built in the Later Le Dynasty, on an area of 4,922.4 square meters. The pagoda faces south, including the following items: Three Jewels
,
front hall, upper palace, Mother's house, dance hall, hallway...
Dinh Mach Trang:
Located on a high plot of land, with an area of 6,198.4 square meters, including the front altar, the main house and the harem.
With the typical historical, cultural and scientific values of the relic, on September 27, 2012, the Prime Minister decided to classify the Co Loa historical, architectural, artistic and archaeological relic as a relic. special national area (Decision Không. 1419/QD-TTg).
(According to Monument Ranking Records and documents from the Department of Cultural Heritage)
|
Hành tinh này thực ra không hề có thứ được gọi là “bề mặt”, ít nhất là theo cách mà chúng ta hình dung trên Trái đất. Khi ai đó nói về bề mặt của một hành tinh, chúng ta thường liên hệ đến hình ảnh một bề mặt cứng, đầy đất đá, nhưng điều đó không đúng với sao Mộc.
Theo Wikipedia, không giống với
Trái đất
, sao Mộc không hề có bề mặt cứng. Nó là một khối ga cùng vài thứ khác, được kéo lại gần nhau và tạo thành hình dạng một hành tinh. Khí ga trong khí quyền sao Mộc cũng có “trần”, hay là “tầng trên”; các lớp khí ga mỏng dần khi càng rời xa trung tâm hành tinh.
Nếu bạn được thả từ vị trí bên ngoài bầu khí quyển có thể thấy được của sao Mộc, khi bạn rơi vào bên trong bầu khí quyển một khoảng gần 300.000km (chúng ta sẽ gọi điểm này là “bề mặt”), thì bạn sẽ chết vì nhiễm độc phóng xạ.
Tuy nhiên, chẳng hạn bạn mặc một bộ áo du hành không gian không thể bị phá huỷ nên bạn sẽ không sao. Thay vào đó, do khối lượng sao Mộc quá lớn, tốc độ rơi của bạn sẽ bắt đầu tăng lên. Tiếp tục rơi, bạn sẽ lọt vào phần giữa của khí quyển tầng trên của sao Mộc, rơi xuyên qua các đám mây amoniac. Bạn sẽ không bị bốc cháy với cú rơi này bởi phần dày nhất của khí quyển bạn đã vượt qua được. Sức nóng từ lực ma sát và sức ép siêu âm sẽ không đốt cháy bạn ở giai đoạn này.
Sau vài phút, bạn tiếp tục rơi, xuyên qua một khu vực với áp suất gấp đôi áp suất trung bình trên bề mặt Trái Đất. Bạn càng tiếp tục rơi thì áp suất khí quyển càng tăng lên. Nhiệt độ môi trường cũng càng lúc càng tăng. Mọi thứ xung quanh sẽ tối dần đi và sau vài phút thì mọi thứ sẽ hoàn toàn tối đen như mực, nhiệt độ thì tăng lên hơn 100 độ C.
Nhiệt độ tiếp tục tăng lên, khi bạn vào vùng bên trong hành tinh thì áp suất và mật độ khí quyển đã khá cao, khiến tốc độ rơi bị giảm đến mức tối thiểu.
Ở mức độ này, bạn sẽ thấy một
đại dương khổng lồ gồm hydrogen kim loại lỏng, bởi áp suất khí quyển cực cao đã chuyển khí ga hydrogen sang dạng lỏng. Trong
Hệ Mặt Trời
, sao Mộc có tốc độ quay nhanh nhất, và khi nó quay, đại dương kim loại lỏng này sẽ cuộn xoáy tạo thành trường từ mạnh nhất trong Hệ mặt trời.
Cuối cùng, nơi bạn tiếp đến chính là điểm áp suất 2 triệu bar và có nhiệt độ cao như mặt trời, bạn không thể tiếp tục rơi cũng như sống sót được nữa. Các nhà khoa học không gian vẫn chưa thực sự biết liệu sao Mộc chỉ toàn ga hay có lõi cứng và nóng hay không? Bởi vậy, việc một người đặt chân lên bề mặt sao Mộc là điều bất khả thi.
|
This planet actually has no such thing as a “surface,” at least in the way we imagine it on Earth. When someone talks about the surface of a planet, we often think of a hard, rocky surface, but that's not true of Jupiter.
According to Wikipedia, is not the same as
Earth
, Jupiter has no hard surface. It's a mass of gas and a few other things, pulled together to form the shape of a planet. The gases in Jupiter's atmosphere also have a "ceiling", or "upper layer"; Gas layers become thinner as they move farther away from the center of the planet.
If you were released from a location outside Jupiter's visible atmosphere, as you fell roughly 300,000km into the atmosphere (we'll call this point “the surface”), you would will die from radiation poisoning.
However, let's say you're wearing an indestructible spacesuit, so you'll be fine. Instead, due to Jupiter's mass, your falling speed will begin to increase. As you continue to fall, you will enter the middle part of Jupiter's upper atmosphere, falling through the ammonia clouds. You won't burn up with this fall because the thickest part of the atmosphere you've already made it through. The heat from friction and ultrasonic pressure will not burn you at this stage.
After a few minutes, you continue to fall, through an area with a pressure twice the average pressure on the Earth's surface. The more you continue to fall, the more the atmospheric pressure increases. The ambient temperature is also increasing. Everything around will gradually darken and after a few minutes everything will be completely pitch black, the temperature will increase to more than 100 degrees Celsius.
The temperature continues to increase, and when you enter the interior of the planet, the atmospheric pressure and density are already quite high, causing the falling speed to be reduced to a minimum.
At this level, you will see a
Huge ocean of liquid metallic hydrogen, because extremely high atmospheric pressure turns hydrogen gas into liquid form. In
Solar system
, Jupiter has the fastest rotation speed, and as it rotates, this ocean of liquid metal swirls to create the strongest magnetic field in the Solar System.
Finally, the next place you reach is a pressure point of 2 million bars and a temperature as high as the sun, you can no longer continue to fall and survive. Space scientists still don't really know whether Jupiter is all gas or has a hard and hot core? Therefore, it is impossible for a person to set foot on the surface of Jupiter.
|
Trong không khí phấn khởi mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới và kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng, ngày 19/1 (tức 28 tháng Chạp), tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc Tết các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo một số cơ quan Trung ương và
thành phố Hà Nội
.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự chúc Tết. (Ảnh: ĐĂNG KHOA).
Cùng dự, có các đồng chí: nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Thị Kim Ngân; quyền Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và thành phố Hà Nội.
Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi đến các cán bộ lão thành cách mạng, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng toàn thể đồng chí, đồng bào, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài lời chúc năm mới tốt đẹp nhất.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc Tết các đồng chí lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước. (Ảnh: ĐĂNG KHOA).
Tổng Bí thư nêu rõ, đất nước ta vừa đi qua năm Nhâm Dần – 2022 với rất nhiều sự kiện quan trọng, sôi động và phong phú. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, có nhiều khó khăn, thách thức, thiên tai, dịch bệnh, suy thoái kinh tế toàn cầu… đã gây ra hậu quả rất nặng nề, nhưng với sự nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, ý chí, bản lĩnh, sáng tạo, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn, thách thức đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế nhìn chung được bảo đảm; thị trường tài chính-tiền tệ vẫn cơ bản ổn định; các ngành, các lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế đều phục hồi, có bước phát triển mạnh. Văn hóa, xã hội có bước đột phá, tiến bộ mới; an sinh xã hội được bảo đảm; phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân được chăm lo, cải thiện rõ rệt; công tác giảm nghèo, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, chăm sóc sức khỏe nhân dân được triển khai tích cực.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, có sự chuyển biến rất tích cực, đạt nhiều kết quả nổi bật, ấn tượng. Chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, được xem là một điểm sáng trong năm vừa qua. Không khí dân chủ trong Đảng và trong xã hội ngày càng được phát huy, v.v…
Tổng Bí thư nhấn mạnh, những thành tích, kết quả đạt được trong năm qua đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; là kết quả của sự cố gắng và nỗ lực to lớn của đồng bào, đồng chí cả nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sát sao của Đảng, sự quản lý, điều hành tích cực, hiệu quả của Nhà nước, các ngành, các cấp chính quyền địa phương, là minh chứng cho bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam ta.
Nhân dịp này, Tổng Bí thư bày tỏ tình cảm trân trọng, lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí lão thành cách mạng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng bào và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài đã đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm qua, đặc biệt đã tạo nên những dấu ấn nổi bật của năm 2022.
Tổng Bí thư gửi lời cảm ơn và lời chúc tốt đẹp nhất tới cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc và sự bình an cho nhân dân; tưởng nhớ và biết ơn các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh; cảm ơn các tổ chức quốc tế và các nước bạn bè gần xa đã hợp tác, giúp đỡ và ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Quang cảnh buổi chúc Tết tại Trụ sở Trung ương Đảng. (Ảnh: ĐĂNG KHOA).
Tổng Bí thư nêu rõ, năm 2023 là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025. Trọng tâm là phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; ổn định kinh tế vĩ mô; tập trung tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục phát triển các lĩnh vực văn hóa, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ; bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững môi trường hoa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Triển khai toàn diện và đồng bộ công tác đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là khắc phục những khó khăn, tháo gỡ những vướng mắc, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh; chăm lo đời sống nhân dân, cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở nơi biên giới, biển, đảo, bảo vệ Tổ quốc; khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; chăm lo để nhân dân đón Tết vui Xuân, an lành.
Để thực hiện thắng lợi phương hướng, nhiệm vụ nêu trên, Tổng Bí thư đề nghị, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tăng cường đoàn kết, đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, đã quyết tâm càng quyết tâm hơn nữa; chung sức, đồng lòng, phát huy tinh thần yêu nước, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc; nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, biến thời cơ thuận lợi thành hiện thực; xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Trong không khí ấm áp đón chào Xuân mới, Tổng Bí thư chúc Đảng ta và hệ thống chính trị ngày càng trưởng thành, trong sạch, vững mạnh toàn diện; đất nước ta ngày càng phồn vinh, thịnh vượng; nhân dân ta ngày càng ấm no; nhà nhà vui tươi, người người hạnh phúc, mọi sự hanh thông; chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và gia đình dồi dào sức khỏe, có nhiều niềm vui, an khang, thịnh vượng,…
|
Trong không khí phấn khởi mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới và kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng, ngày 19/1 (tức 28 tháng Chạp), tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc Tết các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo một số cơ quan Trung ương và
thành phố Hà Nội
.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự chúc Tết. (Ảnh: ĐĂNG KHOA).
Cùng dự, có các đồng chí: nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Thị Kim Ngân; quyền Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và thành phố Hà Nội.
Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi đến các cán bộ lão thành cách mạng, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng toàn thể đồng chí, đồng bào, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài lời chúc năm mới tốt đẹp nhất.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc Tết các đồng chí lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước. (Ảnh: ĐĂNG KHOA).
Tổng Bí thư nêu rõ, đất nước ta vừa đi qua năm Nhâm Dần – 2022 với rất nhiều sự kiện quan trọng, sôi động và phong phú. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, có nhiều khó khăn, thách thức, thiên tai, dịch bệnh, suy thoái kinh tế toàn cầu… đã gây ra hậu quả rất nặng nề, nhưng với sự nỗ lực, phấn đấu bền bỉ, ý chí, bản lĩnh, sáng tạo, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn, thách thức đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, khá toàn diện trên các lĩnh vực.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế nhìn chung được bảo đảm; thị trường tài chính-tiền tệ vẫn cơ bản ổn định; các ngành, các lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế đều phục hồi, có bước phát triển mạnh. Văn hóa, xã hội có bước đột phá, tiến bộ mới; an sinh xã hội được bảo đảm; phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân được chăm lo, cải thiện rõ rệt; công tác giảm nghèo, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, chăm sóc sức khỏe nhân dân được triển khai tích cực.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, có sự chuyển biến rất tích cực, đạt nhiều kết quả nổi bật, ấn tượng. Chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, được xem là một điểm sáng trong năm vừa qua. Không khí dân chủ trong Đảng và trong xã hội ngày càng được phát huy, v.v…
Tổng Bí thư nhấn mạnh, những thành tích, kết quả đạt được trong năm qua đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; là kết quả của sự cố gắng và nỗ lực to lớn của đồng bào, đồng chí cả nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sát sao của Đảng, sự quản lý, điều hành tích cực, hiệu quả của Nhà nước, các ngành, các cấp chính quyền địa phương, là minh chứng cho bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam ta.
Nhân dịp này, Tổng Bí thư bày tỏ tình cảm trân trọng, lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí lão thành cách mạng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng bào và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài đã đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm qua, đặc biệt đã tạo nên những dấu ấn nổi bật của năm 2022.
Tổng Bí thư gửi lời cảm ơn và lời chúc tốt đẹp nhất tới cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc và sự bình an cho nhân dân; tưởng nhớ và biết ơn các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh; cảm ơn các tổ chức quốc tế và các nước bạn bè gần xa đã hợp tác, giúp đỡ và ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Quang cảnh buổi chúc Tết tại Trụ sở Trung ương Đảng. (Ảnh: ĐĂNG KHOA).
Tổng Bí thư nêu rõ, năm 2023 là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025. Trọng tâm là phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; ổn định kinh tế vĩ mô; tập trung tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục phát triển các lĩnh vực văn hóa, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ; bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, giữ vững môi trường hoa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Triển khai toàn diện và đồng bộ công tác đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.
Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là khắc phục những khó khăn, tháo gỡ những vướng mắc, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh; chăm lo đời sống nhân dân, cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở nơi biên giới, biển, đảo, bảo vệ Tổ quốc; khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; chăm lo để nhân dân đón Tết vui Xuân, an lành.
Để thực hiện thắng lợi phương hướng, nhiệm vụ nêu trên, Tổng Bí thư đề nghị, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tăng cường đoàn kết, đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, đã quyết tâm càng quyết tâm hơn nữa; chung sức, đồng lòng, phát huy tinh thần yêu nước, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc; nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, biến thời cơ thuận lợi thành hiện thực; xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Trong không khí ấm áp đón chào Xuân mới, Tổng Bí thư chúc Đảng ta và hệ thống chính trị ngày càng trưởng thành, trong sạch, vững mạnh toàn diện; đất nước ta ngày càng phồn vinh, thịnh vượng; nhân dân ta ngày càng ấm no; nhà nhà vui tươi, người người hạnh phúc, mọi sự hanh thông; chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và gia đình dồi dào sức khỏe, có nhiều niềm vui, an khang, thịnh vượng,…
|
Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có những phong tục, tập quán riêng. Phong tục của nước ta vô cùng đa dạng và phong phú, những phong tục, tập quán có nhiều thay đổi nhưng phong tục đón Tết Cổ truyền của người Việt vẫn mang đậm nét Văn hóa đặc sắc và được lưu truyền qua bao thế kỉ.
Tết Cổ truyền ở Việt Nam với những tên gọi khác nhau như: Tết Nguyên đán, Tết Ta, Tết Âm lịch, đều là ngày lễ quan trọng và lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Đây là dịp để cả gia đình được đoàn tụ và sum vầy sau một năm làm việc, học tập. Dù có đi xa đến đâu, thì cứ mỗi dịp Tết đến đều cố gắng trở về bên gia đình, để đón Tết cùng với ông bà, cha mẹ, người thân, cùng ăn với nhau bữa cơm đoàn viên, tỏ lòng thành kính tổ tiên, gìn giữ truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.
Tết Cổ truyền thời khắc quan trọng của một năm, bắt đầu vào ngày mùng 1 tháng 1 âm lịch của năm mới và có thể rơi vào giữa tháng 2 dương lịch hoặc sớm hơn vào giữa tháng 1. Các ngày lễ chính của Tết là ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3, nhưng để chuẩn bị cho những ngày trọng đại này thì thường từ 23 tháng chạp. Trong dịp Tết, có rất nhiều phong tục được diễn ra theo từng thời điểm khác nhau và ý nghĩa khác nhau. Trước hết đó là những phong tục cho thời điểm Tất niên (cuối năm), cúng ông Công – ông Táo, cúng giao thừa, gói bánh chưng, bánh tét, treo những câu đối đỏ trong nhà. Thời điểm Tân niên (đầu năm) cúng tổ tiên, xông đất, chúc tết, mừng tuổi, lễ chùa đầu năm, ….Tất cả tạo thành nét đẹp văn hóa ngày Tết của người Việt, rất riêng biệt, không hề giống với bất kỳ một nước nào.
Ngày Tết cổ truyền có ý nghĩa đặc biệt đối với người dân Việt Nam. Không chỉ là ngày đầu tiên trong năm mà còn mang ý nghĩa truyền thống Văn hóa của người dân. Đó là phong tục, tập quán với ý nghĩa tâm linh, mong mọi điều tốt lành, hạnh phúc sẽ đến với mọi nhà. Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người. Việc làm mới có thể được bắt đầu với hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Chân nến và lư hương được đánh bóng. Sàn nhà, bàn ghế tủ được lau chùi sạch sẽ. Họ cũng sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp tết. Với mọi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ, lịch sự mong suốt năm tới mối quan hệ được tốt đẹp, mọi người xích lại gần nhau hơn, thêm yêu thương và gắn bó.
Ngày Tết, mỗi vùng miền chuẩn bị đón Tết khác nhau: Loài hoa biểu tượng cho ngày Tết đặc trưng của người miền Bắc là hoa đào, người miền Nam là hoa mai. Một trong những công tác chuẩn bị quan trọng nhất cho ngày Tết Cổ truyền đó chính là Mâm ngũ quả, thường có năm loại quả đại diện cho những điều may mắn, tốt đẹp nhất trong năm được bày biện rất đẹp mắt. Tuỳ vào các vùng miền mà năm loại quả này được chọn khác nhau: Ở miền Bắc là chuối/táo màu xanh; bưởi (hoặc phật thủ), cam, quýt màu vàng; hồng hoặc táo tây, ớt màu đỏ; mận, đào hoặc lê màu trắng; hồng xiêm hoặc nho đen, măng cụt, mận màu đen. Ở miền Nam thường thấy các loại trái cây như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, dừa, thơm,… mỗi loại có ý nghĩa riêng, đọc lai lái giống như “cầu vừa đủ xài” hay “cầu vừa đủ sung”.… Ngoài ra, cũng tùy sở thích và điều kiện của từng gia đình mà có thể lựa chọn, chưng nhiều loại quả hơn. Tất cả đều mang tấm lòng thành kính của con cháu gửi đến đất trời, tổ tiên mong cầu cuộc sống yên lành, một năm làm việc thuận buồm xuôi gió, may mắn, thành công. Bên cạnh là mâm cơm cúng tổ tiên, cúng hết năm hay còn gọi là mâm cơm tất niên. Mâm cơm này được chuẩn bị kỹ lưỡng, thịnh soạn và đặc sắc hơn mâm cơm thường ngày, ở mỗi nơi cũng chuẩn bị cúng khác nhau. Điểm chung nhất không thể thiếu đó là gà, bánh chưng, bánh tét và các món mặn ăn chung với cơm…. Tùy từng phong tục của mỗi nơi mà gia đình Việt sẽ cúng ông bà tổ tiên vào thời khắc thiêng liêng nhất của một năm đó là lúc đồng hồ điểm 00h đêm ngày 30 Tết (sang mùng 1) hoặc là vào đêm 30 trong mâm cơm sum họp gia đình. Sau đó sẽ cúng cả ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3 Tết. Dân gian có câu: Mùng 1 Tết cha. Mùng 2 Tết mẹ. Mùng 3 Tết Thầy, thể hiện nét đẹp văn hóa của người Việt.
Để trang hoàng nhà cửa và thưởng Xuân, người dân vẫn còn phong tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết. Phong tục treo những câu đối đỏ trong nhà tượng trưng cho mong ước may mắn, phúc lộc và an khang. Việc duy trì những phong tục cổ truyền ngày Tết của người Việt không chỉ đơn giản theo thói quen, mà nó đã trở thành truyền thống văn hóa Việt, là ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của người Việt. Phong tục xông đất đầu năm là phong tục đã có lâu đời. Nhiều người quan niệm ngày Mồng 1 “khai trương” một năm mới. Họ cho rằng ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia đình. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm những người trong gia đình hay bà con, láng giềng có tuổi “tam hợp”, có tính vui vẻ, linh hoạt, thành công nhờ sang thăm (xông đất). Vì thế người được nhờ xông đất cũng cảm thấy được vui vẻ, tự hào, và cũng không quên tục chúc Tết, mừng tuổi đầu năm, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà được tốt lành, thông suốt. Nhưng cũng có gia đình khi đi chơi đêm tất niên về tự coi là xông đất cho nhà mình.
Nhắc đến Tết không thể quên tục lệ thăm viếng và mừng tuổi. Sáng mùng 1 Tết, mọi người trong gia đình mặc quần áo mới, đoàn tụ đông đủ để thực hiện nghi lễ chúc Tết và mừng tuổi. Con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ, chúc mạnh khỏe, sống lâu. Ông bà, cha mẹ chúc con cháu làm ăn tấn tới, học hành giỏi giang. Trẻ nhỏ được mừng tuổi bằng bao lì xì đỏ trong có tiền mới gọi là lộc với hàm ý may mắn cả năm. Đây không chỉ là phong tục mà còn là nét đẹp văn hóa của người Việt, thể hiện sự quan tâm, hy vọng có một cuộc sống đủ đầy và bình an cho mọi người.
Chưa hết, ngày Tết cổ truyền còn có phong tục thăm hỏi người lớn tuổi, người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm mỗi khi Tết đến xuân về, mọi người qua nhà thăm viếng nhau, tay bắt mặt mừng, chuyện trò và chúc tết nhau những lời đầy ý nghĩa. Điều này làm cho ngày Tết càng thêm ý nghĩa về sự gắn kết và chia xẻ, những điều tốt lành suốt trong năm mới và những điều không hay trong năm cũ đều được bỏ qua để quan hệ thân tộc, quan hệ xã hội… trong năm mới tốt đẹp hơn. Nhưng năm nay, tình hình covid diễn biến phức tạp phong tục đến nhà chúc tết hạn chế thay vào đó là chúc nhau qua mạng xã hội Zalo, Facebook…
Một phong tục không thể thiếu vào dịp Tết cổ truyền là phong tục đi lễ chùa để cầu bình an, cầu tài, cầu lộc, cầu may mắn cho một năm mới. Có người chọn sáng mùng 1 Tết vừa xuất hành, vừa đi lễ chùa khấn cầu những điều may mắn cho gia đình, cầu mong một năm mới bình yên, sức khỏe dồi dào, làm ăn phát đạt. Bên cạnh đó còn có phong tục du xuân thăm viếng danh lam thắng cảnh, thưởng ngoạn vẻ đẹp của quê hương, đất nước, có nhiều gia đình lựa chọn các chuyến du lịch trong và ngoài nước để bù vào khoảng thời gian bận rộn trong năm cũ.
Theo thời gian và sự thăng trầm của lịch sử dân tộc, những phong tục của người Việt nói chung và phong tục ngày Tết nói riêng vẫn giữ được nét văn hoá đặc sắc, đậm tính nhân văn, vẫn là ngày lễ quan trọng nhất, ấm áp nhất, đủ đầy nhất của cả dân tộc. Mỗi mùa xuân về, mỗi dịp Tết đến là mỗi lần truyền thống được khơi dậy, tôn vinh, lan tỏa đến tất cả mọi người, và được lưu truyền, gìn giữ mãi đến thế hệ mai sau.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 02 năm 2022
Phòng Truyền thông – Giáo dục – Quan hệ Quốc tế
|
Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có những phong tục, tập quán riêng. Phong tục của nước ta vô cùng đa dạng và phong phú, những phong tục, tập quán có nhiều thay đổi nhưng phong tục đón Tết Cổ truyền của người Việt vẫn mang đậm nét Văn hóa đặc sắc và được lưu truyền qua bao thế kỉ.
Tết Cổ truyền ở Việt Nam với những tên gọi khác nhau như: Tết Nguyên đán, Tết Ta, Tết Âm lịch, đều là ngày lễ quan trọng và lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Đây là dịp để cả gia đình được đoàn tụ và sum vầy sau một năm làm việc, học tập. Dù có đi xa đến đâu, thì cứ mỗi dịp Tết đến đều cố gắng trở về bên gia đình, để đón Tết cùng với ông bà, cha mẹ, người thân, cùng ăn với nhau bữa cơm đoàn viên, tỏ lòng thành kính tổ tiên, gìn giữ truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.
Tết Cổ truyền thời khắc quan trọng của một năm, bắt đầu vào ngày mùng 1 tháng 1 âm lịch của năm mới và có thể rơi vào giữa tháng 2 dương lịch hoặc sớm hơn vào giữa tháng 1. Các ngày lễ chính của Tết là ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3, nhưng để chuẩn bị cho những ngày trọng đại này thì thường từ 23 tháng chạp. Trong dịp Tết, có rất nhiều phong tục được diễn ra theo từng thời điểm khác nhau và ý nghĩa khác nhau. Trước hết đó là những phong tục cho thời điểm Tất niên (cuối năm), cúng ông Công – ông Táo, cúng giao thừa, gói bánh chưng, bánh tét, treo những câu đối đỏ trong nhà. Thời điểm Tân niên (đầu năm) cúng tổ tiên, xông đất, chúc tết, mừng tuổi, lễ chùa đầu năm, ….Tất cả tạo thành nét đẹp văn hóa ngày Tết của người Việt, rất riêng biệt, không hề giống với bất kỳ một nước nào.
Ngày Tết cổ truyền có ý nghĩa đặc biệt đối với người dân Việt Nam. Không chỉ là ngày đầu tiên trong năm mà còn mang ý nghĩa truyền thống Văn hóa của người dân. Đó là phong tục, tập quán với ý nghĩa tâm linh, mong mọi điều tốt lành, hạnh phúc sẽ đến với mọi nhà. Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người. Việc làm mới có thể được bắt đầu với hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Chân nến và lư hương được đánh bóng. Sàn nhà, bàn ghế tủ được lau chùi sạch sẽ. Họ cũng sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp tết. Với mọi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ, lịch sự mong suốt năm tới mối quan hệ được tốt đẹp, mọi người xích lại gần nhau hơn, thêm yêu thương và gắn bó.
Ngày Tết, mỗi vùng miền chuẩn bị đón Tết khác nhau: Loài hoa biểu tượng cho ngày Tết đặc trưng của người miền Bắc là hoa đào, người miền Nam là hoa mai. Một trong những công tác chuẩn bị quan trọng nhất cho ngày Tết Cổ truyền đó chính là Mâm ngũ quả, thường có năm loại quả đại diện cho những điều may mắn, tốt đẹp nhất trong năm được bày biện rất đẹp mắt. Tuỳ vào các vùng miền mà năm loại quả này được chọn khác nhau: Ở miền Bắc là chuối/táo màu xanh; bưởi (hoặc phật thủ), cam, quýt màu vàng; hồng hoặc táo tây, ớt màu đỏ; mận, đào hoặc lê màu trắng; hồng xiêm hoặc nho đen, măng cụt, mận màu đen. Ở miền Nam thường thấy các loại trái cây như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, dừa, thơm,… mỗi loại có ý nghĩa riêng, đọc lai lái giống như “cầu vừa đủ xài” hay “cầu vừa đủ sung”.… Ngoài ra, cũng tùy sở thích và điều kiện của từng gia đình mà có thể lựa chọn, chưng nhiều loại quả hơn. Tất cả đều mang tấm lòng thành kính của con cháu gửi đến đất trời, tổ tiên mong cầu cuộc sống yên lành, một năm làm việc thuận buồm xuôi gió, may mắn, thành công. Bên cạnh là mâm cơm cúng tổ tiên, cúng hết năm hay còn gọi là mâm cơm tất niên. Mâm cơm này được chuẩn bị kỹ lưỡng, thịnh soạn và đặc sắc hơn mâm cơm thường ngày, ở mỗi nơi cũng chuẩn bị cúng khác nhau. Điểm chung nhất không thể thiếu đó là gà, bánh chưng, bánh tét và các món mặn ăn chung với cơm…. Tùy từng phong tục của mỗi nơi mà gia đình Việt sẽ cúng ông bà tổ tiên vào thời khắc thiêng liêng nhất của một năm đó là lúc đồng hồ điểm 00h đêm ngày 30 Tết (sang mùng 1) hoặc là vào đêm 30 trong mâm cơm sum họp gia đình. Sau đó sẽ cúng cả ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3 Tết. Dân gian có câu: Mùng 1 Tết cha. Mùng 2 Tết mẹ. Mùng 3 Tết Thầy, thể hiện nét đẹp văn hóa của người Việt.
Để trang hoàng nhà cửa và thưởng Xuân, người dân vẫn còn phong tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết. Phong tục treo những câu đối đỏ trong nhà tượng trưng cho mong ước may mắn, phúc lộc và an khang. Việc duy trì những phong tục cổ truyền ngày Tết của người Việt không chỉ đơn giản theo thói quen, mà nó đã trở thành truyền thống văn hóa Việt, là ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của người Việt. Phong tục xông đất đầu năm là phong tục đã có lâu đời. Nhiều người quan niệm ngày Mồng 1 “khai trương” một năm mới. Họ cho rằng ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia đình. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm những người trong gia đình hay bà con, láng giềng có tuổi “tam hợp”, có tính vui vẻ, linh hoạt, thành công nhờ sang thăm (xông đất). Vì thế người được nhờ xông đất cũng cảm thấy được vui vẻ, tự hào, và cũng không quên tục chúc Tết, mừng tuổi đầu năm, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà được tốt lành, thông suốt. Nhưng cũng có gia đình khi đi chơi đêm tất niên về tự coi là xông đất cho nhà mình.
Nhắc đến Tết không thể quên tục lệ thăm viếng và mừng tuổi. Sáng mùng 1 Tết, mọi người trong gia đình mặc quần áo mới, đoàn tụ đông đủ để thực hiện nghi lễ chúc Tết và mừng tuổi. Con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ, chúc mạnh khỏe, sống lâu. Ông bà, cha mẹ chúc con cháu làm ăn tấn tới, học hành giỏi giang. Trẻ nhỏ được mừng tuổi bằng bao lì xì đỏ trong có tiền mới gọi là lộc với hàm ý may mắn cả năm. Đây không chỉ là phong tục mà còn là nét đẹp văn hóa của người Việt, thể hiện sự quan tâm, hy vọng có một cuộc sống đủ đầy và bình an cho mọi người.
Chưa hết, ngày Tết cổ truyền còn có phong tục thăm hỏi người lớn tuổi, người thân trong gia đình, bạn bè, hàng xóm mỗi khi Tết đến xuân về, mọi người qua nhà thăm viếng nhau, tay bắt mặt mừng, chuyện trò và chúc tết nhau những lời đầy ý nghĩa. Điều này làm cho ngày Tết càng thêm ý nghĩa về sự gắn kết và chia xẻ, những điều tốt lành suốt trong năm mới và những điều không hay trong năm cũ đều được bỏ qua để quan hệ thân tộc, quan hệ xã hội… trong năm mới tốt đẹp hơn. Nhưng năm nay, tình hình covid diễn biến phức tạp phong tục đến nhà chúc tết hạn chế thay vào đó là chúc nhau qua mạng xã hội Zalo, Facebook…
Một phong tục không thể thiếu vào dịp Tết cổ truyền là phong tục đi lễ chùa để cầu bình an, cầu tài, cầu lộc, cầu may mắn cho một năm mới. Có người chọn sáng mùng 1 Tết vừa xuất hành, vừa đi lễ chùa khấn cầu những điều may mắn cho gia đình, cầu mong một năm mới bình yên, sức khỏe dồi dào, làm ăn phát đạt. Bên cạnh đó còn có phong tục du xuân thăm viếng danh lam thắng cảnh, thưởng ngoạn vẻ đẹp của quê hương, đất nước, có nhiều gia đình lựa chọn các chuyến du lịch trong và ngoài nước để bù vào khoảng thời gian bận rộn trong năm cũ.
Theo thời gian và sự thăng trầm của lịch sử dân tộc, những phong tục của người Việt nói chung và phong tục ngày Tết nói riêng vẫn giữ được nét văn hoá đặc sắc, đậm tính nhân văn, vẫn là ngày lễ quan trọng nhất, ấm áp nhất, đủ đầy nhất của cả dân tộc. Mỗi mùa xuân về, mỗi dịp Tết đến là mỗi lần truyền thống được khơi dậy, tôn vinh, lan tỏa đến tất cả mọi người, và được lưu truyền, gìn giữ mãi đến thế hệ mai sau.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 02 năm 2022
Phòng Truyền thông – Giáo dục – Quan hệ Quốc tế
|
Vũ Trọng Phụng
được xem là một hiện tượng độc đáo của nền văn học Việt Nam.
Ông chỉ ở lại với cuộc đời trong 27 năm nhưng trong 8 năm sáng tác, ông đã để lại khối lượng tác phẩm đáng kinh ngạc và rất có giá trị. Không chỉ là cây tiểu thuyết đại tài, Vũ Trọng Phụng còn được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”, một trong những cây bút sắc sảo của chủ nghĩa hiện thực phê phán trên văn đàn và báo chí Việt Nam. Vũ Trọng Phụng là cây bút đặc biệt trong thế hệ đầu nguồn – thế hệ vàng của văn chương Việt Nam hiện đại. Ông mất cách đây 80 năm, ngày 13.10.1939.
Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20.10.1912. Ông mồ côi cha từ khi chưa đầy tuổi và lớn lên bằng sự tảo tần của mẹ. Quê
Hưng Yên
nhưng Vũ Trọng Phụng gắn bó trọn cuộc đời ngắn ngủi với
Hà Nội
. Có lẽ, cái vất vả sớm đến của cuộc đời đã khiến ông mắc một trong tứ chứng nan y thời ấy – bệnh lao phổi, nên ông đã mãi mãi ra đi khi mới 27 tuổi.
Tuy cuộc sống nghèo khổ, nhưng tài văn chương của Vũ Trọng Phụng sớm được bộc lộ. Năm 18 tuổi, lần đầu tiên, ông đã có bài đăng trên tờ Ngọ Báo. Năm 1934, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt tiểu thuyết đầu tay “Dứt tình”, rồi không lâu sau, ngòi bút của ông nở rộ.
Chỉ trong vòng 1 năm, 4 cuốn tiểu thuyết để đời lần lượt xuất hiện trên các báo, thu hút sự chú ý của công chúng. “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê” và cả “Làm đĩ”, đều là những câu chuyện từ hiện thực cuộc sống, đi sâu một cách gai góc, trực diện vào các vấn đề xã hội đương thời.
Nhưng khác hẳn lối hiện thực phê phán của những người cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay Nguyên Hồng – Vũ Trọng Phụng không dùng ngòi bút để chống lại một thành phần, một giai cấp, cũng không trực tiếp chỉ trích sự mục nát, thối rữa của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị thực dân, mà ông mô tả sự tha hoá của con người trên toàn diện xã hội, dưới chiều sâu, qua nhiều từng lớp, nhiều hạng người, mỗi người có một cách tha hoá khác nhau trước thế lực của dục vọng và tiền bạc, như lời ông từng nói: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời”.
Với giọng văn trào phúng châm biếm đặc trưng, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam, một “kiện tướng” của các nhà văn tả chân. Ông là người “gặp thời” – thời mà sự thành thị hóa đang xâm nhập, len lỏi vào những lề thói cũ kỹ của xã hội phong kiến Việt Nam, mà “Số đỏ” – tác phẩm xuất sắc nhất, nổi bật nhất của nhà văn, đã truyền tải chân thật và trần trụi nhất những kệch cỡm, lố lăng của thời kỳ này.
Nhà văn, nhà báo Vũ Trọng Phụng
“Số Đỏ” tập trung đề cập và phê phán tầng lớp tiểu tư sản Hà Thành đầu thế kỉ XX, nhưng cái hay là nhà văn không đi vào đối tượng chính mà mượn ngay Xuân – cái thằng “lươn lẹo”, lại có thói “trưởng giả học làm sang” – để dựa vào nó mà đào sâu phê phán sự rởm đời của giới thượng lưu thành thị. Từ những bước tiến đáng kinh ngạc của một thằng lưu manh đầu đường, câu chuyện đã chuyển hướng nói về “tấn trò đời” của những diễn viên đại tài, những bậc thượng lưu, tri thức của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, như bà Phó Đoan – dì của Văn Minh, cụ cố Hồng, cậu Tú Tân, cô Hoàng Hôn, cô Tuyết, nhà mỹ thuật TYPN, ông đốc tờ Trực Ngôn,… Họ diễn trong cuộc sống, diễn với những người thân, và diễn cả với chính bản thân mình. Họ nói chuyện với nhau thật văn hoa “một cách liến thoắng, trôi chảy như nước suối, sốt sắng như những người không thành thực chút nào cả”, mà người nghe thì “tuy chẳng hiểu cái quái gì, nhưng cũng thấy êm tai, và nhất là sung sướng.” Bấy nhiêu con người góp mặt trong một bức tranh hết sức chân thật về cuộc sống của lớp thị dân Việt Nam, quay cuồng trong cái công cuộc “cách tân”, “âu hóa”.
Bằng ngòi bút trào phúng, lối viết ngấu nghiến, nhịp điệu dồn dập, giọng văn phảng phất thái độ khinh miệt, thể hiện bất đồng quan điểm với hệ thống nhân vật cũng như bối cảnh xã hội đương thời, Số Đỏ lên án gay gắt xã hội tư sản thành thị Việt Nam đang dần tha hóa, bỏ quên lớp văn hoá trọng đạo truyền thống. Không hổ danh là bậc thầy trong mảng văn học hiện thực phê phán, từng con chữ đến câu từ dưới bàn tay ma thuật của Vũ Trọng Phụng đều thấm đẫm cá tính sáng tạo, một thứ ngôn ngữ vừa gai góc, sắc nhọn, lại vừa mỉa mai, chua chát.
Vũ Trọng Phụng là người từng trải cảnh đời, tình người đến mức nhiều khi cay nghiệt, nhưng lại là người sống rất trung hậu, tình nghĩa, đầy trách nhiệm. Không chỉ là một trí thức với tinh thần tự học, ngòi bút hiện thực sắc sảo, tỉnh táo, Vũ Trọng Phụng còn luôn hướng tới những lớp người bần cùng trong đời sống với sự đồng cảm da diết, chĩa mũi dùi vào những biến tướng kệch cỡm của xã hội, không chỉ trong tiểu thuyết mà cả trong sự nghiệp làm báo.
Ở góc độ một nhà báo, Vũ Trọng Phụng đã viết nhiều phóng sự nổi tiếng như phóng sự đầu tay “Cạm bẫy người” (năm 1933) đăng báo Nhật Tân dưới bút danh Thiên Hư, Vũ Trọng Phụng đã gây được sự chú ý của dư luận đương thời. Tiếp đó là “Kỹ nghệ lấy Tây”, “Cơm thầy cơm cô”, “Lục sì” đã góp phần tạo nên danh hiệu “Ông vua phóng sự đất Bắc” cho Vũ Trọng Phụng.
Ở mọi hoàn cảnh, ông luôn đứng về đồng bào mình, đem cái chất phê phán xã hội vào trong tác phẩm, âu cũng là một tranh đấu cho cái mới tươi vui, rạng rỡ hơn đến với nhân quần. Vì thế, nhà thơ Tố Hữu từng có câu đại tự tặng nhà văn họ Vũ: “Ông không phải là nhà cách mạng, nhưng cách mạng biết ơn ông”.
Tư tưởng cách mạng đã ăn sâu trong chính bản chất con người Vũ Trọng Phụng, từ cách sống đến cảm và viết đều hướng về một xã hội tương lai tốt đẹp. Như lời của Giáo sư Phong Lê: “Vượt qua khỏi giới hạn lịch sử, văn phẩm Vũ Trọng Phụng mang trong nó giá trị thế kỷ bởi sự nhận diện sắc nét gương mặt xã hội; bởi sự soi sáng vấn đề lớn của dân tộc và số phận nhân dân, trên một hành trình dài hướng tới sự thật, gắn bó với sự thật, không có gì khác ngoài sự thật, ngoài chân lý nhằm mục tiêu nhân đạo hóa hoàn cảnh và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội”.
Tuy thời gian cầm bút ngắn ngủi nhưng Vũ Trọng Phụng đã để lại di sản hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, 1 bản dịch kịch từ tiếng Pháp, cùng một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Những tác phẩm của ông đã thay ông nói lên tiếng nói của con người, của một xã hội mà đến nay, sau hơn 80 năm vẫn vẹn nguyên tính chiến đấu và mới mẻ.
|
Vu Trong Phung
considered a unique phenomenon of Vietnamese literature.
He only stayed in this world for 27 years, but in 8 years of composing, he left behind an incredible and very valuable body of work. Not only is he a talented novelist, Vu Trong Phung is also known as "the king of Northern reportage", one of the sharpest writers of critical realism in Vietnamese literature and journalism. Vu Trong Phung is a special writer in the watershed generation - the golden generation of modern Vietnamese literature. He passed away 80 years ago, on October 13, 1939.
Vu Trong Phung was born on October 20, 1912. He lost his father when he was under age and grew up with his mother's care. Countryside
hung Yen
But Vu Trong Phung stuck with him all his short life
Hanoi
. Perhaps, the hardships that came early in life caused him to suffer from one of the four incurable diseases of that time - tuberculosis, so he passed away forever when he was only 27 years old.
Although his life was poor, Vu Trong Phung's literary talent was soon revealed. At the age of 18, he had his first article published in Ngo Bao newspaper. In 1934, Vu Trong Phung released his first novel "End of Love", and not long after, his writing flourished.
In just 1 year, 4 lifetime novels appeared one after another in newspapers, attracting the public's attention. “The Storm”, “Red Number”, “Dyke Break” and “Being a Prostitute” are all stories from real life, diving deeply and directly into contemporary social issues.
But unlike the critical realism of his contemporaries such as Ngo Tat To, Nguyen Cong Hoan or Nguyen Hong - Vu Trong Phung did not use his pen to oppose a group, a class, nor directly criticize the The rot and decay of Vietnamese society under colonial rule, but he describes the corruption of people across the entire society, in depth, through many classes, many categories of people, each person has his own unique personality. different ways of being corrupted by the forces of desire and money, as he once said: "You want novels to be novels, I and like-minded writers like me want novels to be the truth in life." ”.
With his characteristic satirical and satirical voice, some people have compared him to Vietnam's Balzac, a "master" of realistic writers. He is a man who "meets the times" - a time when urbanization is penetrating and creeping into the old habits of Vietnamese feudal society, and "Red Number" - the best and most outstanding work of Mr. The writer conveyed most honestly and nakedly the absurdities and absurdities of this period.
Writer and journalist Vu Trong Phung
"The Red Number" focuses on mentioning and criticizing Hanoi's petty bourgeoisie in the early 20th century, but the good thing is that the writer does not go into the main subject but immediately borrows Xuan - the "crooked" guy who has a habit of "Aristocrats who learn to make money" - to rely on it to deeply criticize the pseudo-life of the urban elite. From the amazing progress of a street hoodlum, the story turned to talk about the "life games" of talented actors, the upper class, and intellectuals of Vietnamese society during the French colonial period. like Mrs. Pho Doan - Van Minh's aunt, great-grandfather Hong, uncle Tu Tan, Miss Hoang Hon, Miss Tuyet, TYPN fine artist, Truc Ngon newspaper editor,... They act in life, act with relatives, and Act with yourself. They talk to each other very poetically "in a quick, fluid way like spring water, enthusiastically like people who are not honest at all", but the listener "even though they don't understand a damn thing, they still find it pleasant to listen to." , and especially happiness.” So many people participate in a very realistic picture of the lives of Vietnamese citizens, reeling in the process of "innovation" and "Europeanization".
With a satirical pen, a voracious writing style, a fast-paced rhythm, and a tone of disdain, expressing disagreement with the character system as well as the contemporary social context, Red Number condemns gays. Vietnam's urban bourgeois society is gradually corrupting, forgetting traditional cultural values. As expected of a master in the field of critical realist literature, every word and sentence under Vu Trong Phung's magical hands are imbued with creative personality, a language that is both thorny, sharp, and both ironic and bitter.
Vu Trong Phung is a person who has experienced life and humanity to the point of being harsh at times, but is a very loyal, grateful, and responsible person. Not only is he an intellectual with a spirit of self-study and a sharp and alert realistic pen, Vu Trong Phung also always looks towards the impoverished people in life with deep sympathy, pointing his nose at the changing circumstances. society's grotesque features, not only in novels but also in journalism.
From a journalist's perspective, Vu Trong Phung wrote many famous reports such as his first report "Human Trap" (1933) published in Nhat Tan newspaper under the pen name Thien Hu. Vu Trong Phung attracted attention. of contemporary public opinion. Next were "Western Industry", "Teacher's Rice, Teacher's Rice", "Luc Si" which contributed to creating the title "King of Northern Reportage" for Vu Trong Phung.
In every situation, he always stood on the side of his people, bringing social criticism into his work, which was also a fight for something new, brighter and happier for the masses. Therefore, poet To Huu once had a great autobiography for writer Vu: "You are not a revolutionary, but the revolution is grateful to you."
Revolutionary ideology is deeply ingrained in Vu Trong Phung's very nature, from his way of living to feeling and writing, all are oriented towards a good future society. As Professor Phong Le said: "Beyond historical limits, Vu Trong Phung's literature carries with it the value of the century because of its sharp recognition of the face of society; by shedding light on the great problem of the nation and the fate of the people, on a long journey towards the truth, sticking to the truth, nothing else but the truth, other than the truth for the purpose of complete humanization. context and promote social progress”.
Although his time as a writer was short, Vu Trong Phung left a legacy of more than 30 short stories, 9 novels, 9 reportages, 7 plays, 1 play translation from French, and a number of critical articles. , literary debates and hundreds of articles on political, social and cultural issues. His works have replaced him as the voice of people and of a society that, after more than 80 years, still retains its fighting and new character.
|
Hoa đào chuông là một loài hoa bản địa đặc sắc và hiếm quý của Châu Á. Loài hoa này thường nở vào dịp Tết Nguyên đán từ cuối tháng Giêng đến tháng hai, tháng ba, có lẽ vì thế mà chúng thường được dùng làm hoa trang trí trong dịp năm mới. Ở một số huyện miền Đông của
tỉnh Quảng Ninh
như
Móng Cái
,
Hải Hà
,
Đầm Hà
,
Ba Chẽ
,… hoa đào chuông vẫn được yêu thích như một loài hoa bản sắc đi vào tiềm thức văn hóa truyền thống.
Tên khoa học của hoa đào chuông là Enkianthus quiaqueflorus, tên chữ Hán là 吊鐘花 (có thể hiểu là hoa dâng chuông), người Việt gọi là trợ hoa, hoa chuông hoặc hoa đào chuông. Gọi là đào chuông nhưng hoa không thuộc họ đào mà thuộc họ đỗ quyên. Hoa đào chuông có khoảng 15 loài, trong đó tập trung chủ yếu 3 loài ở Việt Nam, 3 loài ở Đài Loan, 3 loài ở Nhật Bản, 6 loài ở Trung Quốc và Hồng Kông. Hoa đào chuông có nhiều màu trắng, hồng, bã trầu, tía, cuống xanh, cuống tím,… và các sắc độ hồng hoặc mật độ tía màu trên cánh hoa.
Hoa đào chuông. Nguồn: cayxanhvietnam
Ở một số huyện miền núi phía Bắc giáp biên giới Việt-Trung, hoa đào chuông có thể gồm cả các loài của Trung Quốc, Hồng Kông và Việt Nam. Một điều thú vị hơn nữa là các huyện miền đông của tỉnh Quảng Ninh cùng với Quảng Đông (Trung Quốc) đã từng là nơi có nhiều hoa đào chuông nhất thế giới. Nhưng cũng thật đáng tiếc rằng thực trạng rừng hiện nay với đa phần trồng keo đã làm hỏng sinh thái mà hoa đào chuông ưa thích, thậm chí còn sót lại chút hoa đào chuông nào thì dân chơi cây cảnh lại khai thác cạn kiệt đi chừng ấy, vì vậy mà hoa đào chuông ngày càng hiếm thấy khó tìm.
Hoa đào chuông ưa độ cao, hợp nhất là từ 1.400m trở lên, hoặc nơi có không khí cực ẩm nhờ sương mù, hơi nước của khe suối tự nhiên hay của tán cây cộng sinh quanh nó. Có lẽ vì đặc tính này mà rất nhiều người đào cây đào chuông về cũng không chăm sóc cho cây tươi tốt được lâu dài. Hoa đào chuông thích sống trong rừng rậm (vì độ ẩm không khí cao và thanh khiết) nhưng không ưa núp bóng (thích trực tiếp đón sương mù lạnh lẽo và những tia nắng trực tiếp nhưng chếch chéo). Vì thế, ta hay gặp hoa vươn mình ở những vách núi cheo leo hoặc mọc xô nghiêng từng bụi bên suối mát, nơi thiên nhiên còn nhiều nét hoang dã. Nhiều người cố lấy hoa về bán (vì được giá) hoặc có ý thức bảo tồn cây quý nhưng chưa thực sự hiểu đặc tính của hoa đào chuông nên cây chỉ chơi được một thời gian là lụi dần. Cần chú ý thêm rằng hoa đào chuông ưa ẩm nhưng không chịu được úng rễ, giống như các loài hoa đỗ quyên nói chung. Nếu rễ có được ngâm thường xuyên trong nước thì nước đó cũng phải trôi chảy thường xuyên và thanh khiết như nước đầu nguồn chứ không phải một vụng nước ứ đọng.
Gọi là đào chuông nhưng hoa không thuộc họ đào mà thuộc họ đỗ quyên.
Huyện Đình Lập
(
Lạng Sơn
) từng nổi tiếng nhân được giống hoa đào chuông nhưng thực sự rất khó, rất lâu để ương hạt được một cây đào chuông từ lúc bé tới khi lớn chừng gần 1m, có khi cả năm mới nhích được vài cm mà thôi! Không thể chiết cành vì cây sinh trưởng từ hạt. Vì thế, người ta đã có cách ghép phôi đào chuông vào gốc đào ta để phục vụ mọi người mang về đồng bằng trồng như cây cảnh, nhưng thực tế chưa thấy có phản hồi nào về những cây này sẽ sống ra sao hay chỉ được một mùa chơi Tết. Đình Lập xưa kia cũng từng thuộc tỉnh Hải Ninh, cùng một đặc điểm địa chất và khí hậu và cùng có chung một loài hoa hiếm quý này. Hiện giờ, ngoài thiên nhiên miền Đông, chỉ còn chút đào chuông ở Ba Chẽ và Móng Cái.
Ở Hải Hà khoảng một vài năm trước vẫn còn thấy từng vạt hoa đào chuông ven biên giới nhưng giờ gần như không còn thấy đâu nữa. Người Hải Hà vẫn rất yêu thích hoa đào chuông, đồng bào ở các xã vùng cao như Quảng Đức, Quảng Sơn và dân chơi cây cảnh ở trị trấn Quảng Hà cũng có thu mua hoa đào chuông về trồng nhưng hoạt động chưa tạo thành một thị trường ổn định. Giờ chỉ có một nơi duy nhất của Việt Nam mà đào chuông được sống yên ổn, đấy là khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà của
Đà Nẵng
. Không phải vô cớ mà vùng này lại lấy hoa đào chuông làm hình ảnh biểu tượng văn hóa-du lịch. Với độ cao lý tưởng và độ ẩm ưa thích,
hoa đào chuông
cực kỳ thích hợp ở Bà Nà và phô sắc đầy ấn tượng. Tháng 6/2021, Đà Nẵng lần đầu tiên triển khai một đề tài khoa học cấp thành phố về bảo tồn nguồn gen hoa đào chuông. Hy vọng, kết quả của đề tài sẽ được áp dụng rộng rãi để các huyện miền Đông của tỉnh Quảng Ninh cũng mau chóng hồi lại sắc hoa đào chuông như ở
Bà Nà Hill
. Trong khi chờ đợi thì mong sao người ta đừng đào hoa đào chuông khi cây đang hoa, kể mà có nhiều cây thì chặt cành như các cụ nhà ta ngày xưa lại đỡ hơn, vì chặt cành vẫn còn lại gốc để nẩy chồi mới cho năm sau, chứ đào cả gốc rồi không biết chăm là mất luôn cả cây. Tháng 2-3 hoa nở, tháng 5-9 đậu quả. Cho dù lâu, nhưng ươm hạt là cách duy nhất để nhân giống cây đào chuông.
Người dân thị trấn Hà Cối (Hải Hà) trồng bảo tồn cây đào chuông bên khuôn viên bờ sông Hà Cối.
Người miền Đông xưa thường hay chúc nhau “thêm đinh” mỗi khi chúc Tết, cũng như tâm lý chung của ông cha ta xưa thường mong cho nhà nhà con cái đông đúc, đông con là nhiều phúc. Hoa đào chuông được người miền Đông dùng để trang trí ngày Tết không chỉ vì hoa bền, đẹp, đặc sắc ở núi rừng biên giới, mà còn vì những chùm hoa đào chuông bao gồm nhiều bông hoa chiu chít trên ngọn cây, như một lời chúc “Đông con, nhiều cháu, phúc lộc đủ đầy!”.
Theo các nhà nghiên cứu, khoảng từ thế kỷ XVII đến XIX, phong tục chơi hoa đào chuông ngày Tết không chỉ của người Trung Quốc mà còn của cả người Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, nhất là ở các vùng miền núi ven biên giới Việt-Trung. Sau này phong tục chơi hoa đào rừng, đào vườn mới dần thay thế chơi hoa đào chuông trong dịp Tết Nguyên đán. Vào cuối thế kỷ XIX, việc sử dụng hoa đào chuông làm hoa chúc mừng năm mới vẫn còn rất phổ biến. Khi đó, hầu hết hoa đào chuông bán trên thị trường đều được nhập từ Quảng Đông, Móng Cái và nơi thu mua nhiều nhất là Hồng Kông. Dân bản địa cắt toàn bộ cây hoặc cành có nhiều nụ hoa, cắm vào bình nước để hoa nở hoặc chở đến chợ để bán, tương tự như giờ chúng ta chơi hoa đào. Vào những năm 1960, trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội, phần vì hoa đào chuông bị khai thác đến mức cạn kiệt vì loại này rất khó tự trồng, chỉ có thể lấy sẵn trong thiên nhiên, phần vì nhiều người nhắm đến việc theo đuổi sự giàu có xa hoa thay vì sự đông con nhiều cháu, thế hệ mới dần chấp nhận hoa đào (chứ không phải đào chuông) là hoa Tết với ý nghĩa hoa đào nở là sung túc lộc tài, vinh hoa phú quý. Sau đó, nhu cầu của công chúng đối với hoa đào chuông đã giảm xuống và dần thay thế bằng hoa đào rừng rồi đến hoa đào vườn như ngày nay.
Hoa đào chuông khoe sắc bên sông Hà Cối.
Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc đến sắc màu văn hóa truyền thống ngày Tết của đồng bào biên giới hay nhân dân các huyện miền Đông Quảng Ninh mà không nhắc tới hoa đào chuông. Loài hoa bản địa độc đáo và hiếm quý này vẫn còn được đồng bào yêu thích và dùng chơi hoa Tết như miền xuôi chơi hoa đào, người già vẫn nhắc nhớ nhiều những kỷ niệm đi chặt cành đào chuông về bày như mang cả mùa xuân vào nhà. Ngay cả những cựu chiến binh đã từng một thời gắn bó với vùng biên cũng không nguôi ký ức xuân biên giới với hoa đào chuông đẹp bền bỉ và đầy ấn tượng giữa không gian xanh của núi rừng bao la đẫm sương mù, hay giữa nền đất tường trình mộc mạc của những nếp nhà mái ngói âm dương xưa thanh nhã, giản dị khi xưa. Năm mới sắp đến, mong sao người dân Quảng Ninh bảo tồn và khôi phục lại được những mảng rừng nguyên sinh nở rộ hoa đào chuông, cũng chính là bảo tồn nét đẹp văn hóa truyền thống đặc sắc của miền Đông Bắc.
|
Hoa đào chuông là một loài hoa bản địa đặc sắc và hiếm quý của Châu Á. Loài hoa này thường nở vào dịp Tết Nguyên đán từ cuối tháng Giêng đến tháng hai, tháng ba, có lẽ vì thế mà chúng thường được dùng làm hoa trang trí trong dịp năm mới. Ở một số huyện miền Đông của
tỉnh Quảng Ninh
như
Móng Cái
,
Hải Hà
,
Đầm Hà
,
Ba Chẽ
,… hoa đào chuông vẫn được yêu thích như một loài hoa bản sắc đi vào tiềm thức văn hóa truyền thống.
Tên khoa học của hoa đào chuông là Enkianthus quiaqueflorus, tên chữ Hán là 吊鐘花 (có thể hiểu là hoa dâng chuông), người Việt gọi là trợ hoa, hoa chuông hoặc hoa đào chuông. Gọi là đào chuông nhưng hoa không thuộc họ đào mà thuộc họ đỗ quyên. Hoa đào chuông có khoảng 15 loài, trong đó tập trung chủ yếu 3 loài ở Việt Nam, 3 loài ở Đài Loan, 3 loài ở Nhật Bản, 6 loài ở Trung Quốc và Hồng Kông. Hoa đào chuông có nhiều màu trắng, hồng, bã trầu, tía, cuống xanh, cuống tím,… và các sắc độ hồng hoặc mật độ tía màu trên cánh hoa.
Hoa đào chuông. Nguồn: cayxanhvietnam
Ở một số huyện miền núi phía Bắc giáp biên giới Việt-Trung, hoa đào chuông có thể gồm cả các loài của Trung Quốc, Hồng Kông và Việt Nam. Một điều thú vị hơn nữa là các huyện miền đông của tỉnh Quảng Ninh cùng với Quảng Đông (Trung Quốc) đã từng là nơi có nhiều hoa đào chuông nhất thế giới. Nhưng cũng thật đáng tiếc rằng thực trạng rừng hiện nay với đa phần trồng keo đã làm hỏng sinh thái mà hoa đào chuông ưa thích, thậm chí còn sót lại chút hoa đào chuông nào thì dân chơi cây cảnh lại khai thác cạn kiệt đi chừng ấy, vì vậy mà hoa đào chuông ngày càng hiếm thấy khó tìm.
Hoa đào chuông ưa độ cao, hợp nhất là từ 1.400m trở lên, hoặc nơi có không khí cực ẩm nhờ sương mù, hơi nước của khe suối tự nhiên hay của tán cây cộng sinh quanh nó. Có lẽ vì đặc tính này mà rất nhiều người đào cây đào chuông về cũng không chăm sóc cho cây tươi tốt được lâu dài. Hoa đào chuông thích sống trong rừng rậm (vì độ ẩm không khí cao và thanh khiết) nhưng không ưa núp bóng (thích trực tiếp đón sương mù lạnh lẽo và những tia nắng trực tiếp nhưng chếch chéo). Vì thế, ta hay gặp hoa vươn mình ở những vách núi cheo leo hoặc mọc xô nghiêng từng bụi bên suối mát, nơi thiên nhiên còn nhiều nét hoang dã. Nhiều người cố lấy hoa về bán (vì được giá) hoặc có ý thức bảo tồn cây quý nhưng chưa thực sự hiểu đặc tính của hoa đào chuông nên cây chỉ chơi được một thời gian là lụi dần. Cần chú ý thêm rằng hoa đào chuông ưa ẩm nhưng không chịu được úng rễ, giống như các loài hoa đỗ quyên nói chung. Nếu rễ có được ngâm thường xuyên trong nước thì nước đó cũng phải trôi chảy thường xuyên và thanh khiết như nước đầu nguồn chứ không phải một vụng nước ứ đọng.
Gọi là đào chuông nhưng hoa không thuộc họ đào mà thuộc họ đỗ quyên.
Huyện Đình Lập
(
Lạng Sơn
) từng nổi tiếng nhân được giống hoa đào chuông nhưng thực sự rất khó, rất lâu để ương hạt được một cây đào chuông từ lúc bé tới khi lớn chừng gần 1m, có khi cả năm mới nhích được vài cm mà thôi! Không thể chiết cành vì cây sinh trưởng từ hạt. Vì thế, người ta đã có cách ghép phôi đào chuông vào gốc đào ta để phục vụ mọi người mang về đồng bằng trồng như cây cảnh, nhưng thực tế chưa thấy có phản hồi nào về những cây này sẽ sống ra sao hay chỉ được một mùa chơi Tết. Đình Lập xưa kia cũng từng thuộc tỉnh Hải Ninh, cùng một đặc điểm địa chất và khí hậu và cùng có chung một loài hoa hiếm quý này. Hiện giờ, ngoài thiên nhiên miền Đông, chỉ còn chút đào chuông ở Ba Chẽ và Móng Cái.
Ở Hải Hà khoảng một vài năm trước vẫn còn thấy từng vạt hoa đào chuông ven biên giới nhưng giờ gần như không còn thấy đâu nữa. Người Hải Hà vẫn rất yêu thích hoa đào chuông, đồng bào ở các xã vùng cao như Quảng Đức, Quảng Sơn và dân chơi cây cảnh ở trị trấn Quảng Hà cũng có thu mua hoa đào chuông về trồng nhưng hoạt động chưa tạo thành một thị trường ổn định. Giờ chỉ có một nơi duy nhất của Việt Nam mà đào chuông được sống yên ổn, đấy là khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà của
Đà Nẵng
. Không phải vô cớ mà vùng này lại lấy hoa đào chuông làm hình ảnh biểu tượng văn hóa-du lịch. Với độ cao lý tưởng và độ ẩm ưa thích,
hoa đào chuông
cực kỳ thích hợp ở Bà Nà và phô sắc đầy ấn tượng. Tháng 6/2021, Đà Nẵng lần đầu tiên triển khai một đề tài khoa học cấp thành phố về bảo tồn nguồn gen hoa đào chuông. Hy vọng, kết quả của đề tài sẽ được áp dụng rộng rãi để các huyện miền Đông của tỉnh Quảng Ninh cũng mau chóng hồi lại sắc hoa đào chuông như ở
Bà Nà Hill
. Trong khi chờ đợi thì mong sao người ta đừng đào hoa đào chuông khi cây đang hoa, kể mà có nhiều cây thì chặt cành như các cụ nhà ta ngày xưa lại đỡ hơn, vì chặt cành vẫn còn lại gốc để nẩy chồi mới cho năm sau, chứ đào cả gốc rồi không biết chăm là mất luôn cả cây. Tháng 2-3 hoa nở, tháng 5-9 đậu quả. Cho dù lâu, nhưng ươm hạt là cách duy nhất để nhân giống cây đào chuông.
Người dân thị trấn Hà Cối (Hải Hà) trồng bảo tồn cây đào chuông bên khuôn viên bờ sông Hà Cối.
Người miền Đông xưa thường hay chúc nhau “thêm đinh” mỗi khi chúc Tết, cũng như tâm lý chung của ông cha ta xưa thường mong cho nhà nhà con cái đông đúc, đông con là nhiều phúc. Hoa đào chuông được người miền Đông dùng để trang trí ngày Tết không chỉ vì hoa bền, đẹp, đặc sắc ở núi rừng biên giới, mà còn vì những chùm hoa đào chuông bao gồm nhiều bông hoa chiu chít trên ngọn cây, như một lời chúc “Đông con, nhiều cháu, phúc lộc đủ đầy!”.
Theo các nhà nghiên cứu, khoảng từ thế kỷ XVII đến XIX, phong tục chơi hoa đào chuông ngày Tết không chỉ của người Trung Quốc mà còn của cả người Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, nhất là ở các vùng miền núi ven biên giới Việt-Trung. Sau này phong tục chơi hoa đào rừng, đào vườn mới dần thay thế chơi hoa đào chuông trong dịp Tết Nguyên đán. Vào cuối thế kỷ XIX, việc sử dụng hoa đào chuông làm hoa chúc mừng năm mới vẫn còn rất phổ biến. Khi đó, hầu hết hoa đào chuông bán trên thị trường đều được nhập từ Quảng Đông, Móng Cái và nơi thu mua nhiều nhất là Hồng Kông. Dân bản địa cắt toàn bộ cây hoặc cành có nhiều nụ hoa, cắm vào bình nước để hoa nở hoặc chở đến chợ để bán, tương tự như giờ chúng ta chơi hoa đào. Vào những năm 1960, trong quá trình chuyển đổi kinh tế xã hội, phần vì hoa đào chuông bị khai thác đến mức cạn kiệt vì loại này rất khó tự trồng, chỉ có thể lấy sẵn trong thiên nhiên, phần vì nhiều người nhắm đến việc theo đuổi sự giàu có xa hoa thay vì sự đông con nhiều cháu, thế hệ mới dần chấp nhận hoa đào (chứ không phải đào chuông) là hoa Tết với ý nghĩa hoa đào nở là sung túc lộc tài, vinh hoa phú quý. Sau đó, nhu cầu của công chúng đối với hoa đào chuông đã giảm xuống và dần thay thế bằng hoa đào rừng rồi đến hoa đào vườn như ngày nay.
Hoa đào chuông khoe sắc bên sông Hà Cối.
Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc đến sắc màu văn hóa truyền thống ngày Tết của đồng bào biên giới hay nhân dân các huyện miền Đông Quảng Ninh mà không nhắc tới hoa đào chuông. Loài hoa bản địa độc đáo và hiếm quý này vẫn còn được đồng bào yêu thích và dùng chơi hoa Tết như miền xuôi chơi hoa đào, người già vẫn nhắc nhớ nhiều những kỷ niệm đi chặt cành đào chuông về bày như mang cả mùa xuân vào nhà. Ngay cả những cựu chiến binh đã từng một thời gắn bó với vùng biên cũng không nguôi ký ức xuân biên giới với hoa đào chuông đẹp bền bỉ và đầy ấn tượng giữa không gian xanh của núi rừng bao la đẫm sương mù, hay giữa nền đất tường trình mộc mạc của những nếp nhà mái ngói âm dương xưa thanh nhã, giản dị khi xưa. Năm mới sắp đến, mong sao người dân Quảng Ninh bảo tồn và khôi phục lại được những mảng rừng nguyên sinh nở rộ hoa đào chuông, cũng chính là bảo tồn nét đẹp văn hóa truyền thống đặc sắc của miền Đông Bắc.
|
Đêm xuống những ngày giáp Tết Quý Mão 2023, bầu trời
Đà Nẵng
được bao trùm một màn sương dày đặc, cái lạnh bắt đầu len lỏi qua từng kẽ áo nhưng không đủ khiến những làn da đang rớm giọt mồ hôi phải se lại. Từng đợt hú hò hô hiệu lệnh của những nhóm cửu vạn nơi chợ khuya xé tan cái yên vắng lúc nửa đêm…..
Những chậu Mai, bầu Cúc đón xuân lần lượt được kéo ra khỏi chiếc xe tải, nằm gọn trên vai rồi được khuân vào đặt ngay ngắn trong các gian hàng. Tết đã về đến chợ hoa Xuân Đà Nẵng.
Chắc hẳn rằng, để có được những mùa Xuân yên bình, vui tươi và ngày càng sung túc như hôm nay là công sức, xương máu của biết bao thế hệ, bao tầng lớp Nhân dân. Người đã hi sinh cho hòa bình độc lập, Người đã cống hiến cho sự phát triển giàu đẹp hôm nay,…và cả những Người đã góp bàn tay vun trồng, nâng niu, chăm chút cho những sắc màu xinh tươi đến với mọi nhà trong mỗi dịp
Tết
. Chúng ta như bị hút hồn bởi vẻ đẹp kiêu sa của những cánh lan Hồ điệp, chất nghệ thuật của những chậu bon sai hay cả vẻ tươi vui từ những cành hoa đầy màu sắc. Tất cả đều được mang về nơi đây, khoe sắc, đưa hương cho một cái Tết ngập tràn hạnh phúc.
Khi bước vào tháng 9 âm lịch, nhà vườn đã tất bật chuẩn bị các bước cho những ruộng hoa phục vụ Tết. Tùy vào thời gian, tập tính sinh trưởng của từng loại hoa mà người thợ lựa chọn cách làm đất, đồ dùng trồng hoa và trang bị thiết bị hỗ trợ chăm sóc phù hợp…. Khoảng thời gian khá dài cho một mùa vụ hoa Tết là những tháng ngày vất vả nhưng tràn đầy niềm vui vì được góp sức làm nên mùa Xuân của đất trời. Những con người của thôn quê ấy, khi đóng vai làm bác nông dân cần mẫn bên những mầm cây đang lớn, khi là những thương nhân dày dạn trên chợ hoa Tết cho những sản phẩm mình làm ra. Họ luôn như thế từ bao lâu nay, nở một nụ cười cuối vụ hoa thôi cũng khiến ta vui theo bởi một mùa ấm no, trọn vẹn.
Những bậu Cúc sẵn sàng ra chợ sau gần 3 tháng được chăm trồng cẩn thận. Ảnh sưu tầm.
Và cũng chính mùa chim én gọi bầy, là mùa của những con người tất tả mưu sinh. Mỗi nghề nghiệp được phân công phù hợp với từng người, để rồi cộng sinh lại mà nên một xã hội đa dạng, đủ đầy. Làm sao có thể so sánh công việc, thời gian và sự nhọc nhằn của các ngành nghề với nhau, thật là khập khiễng! Có lẽ những người giờ đây đang được nghỉ ngơi trong ấm áp thì họ đã cống hiến sức lao động của mình ở một không gian và thời gian khác. Để lúc này, dưới cái se lạnh của những ngày cuối năm thì những tiểu thương, chủ vườn, tổ xe, đội cửu vạn, nghệ nhân trang trí hoa tươi, cây cảnh…lại tấp nập nơi chợ hoa phục vụ Năm mới. Họ thường chọn buổi đêm khuya để làm việc của mình kịp khi trời vừa sáng, người dân có không gian sạch đẹp và an toàn đi tham quan mua sắm. Với họ, những sản phẩm mình làm ra được khách hàng lựa chọn, nâng niu mang về để trang trí cho ngôi nhà, cơ quan hay những góc phố, vườn hoa là cả một niềm động viên to lớn xua tan nỗi mệt nhọc thường trực những ngày qua.
Những chuyến xe chở hàng về lúc nửa đêm.
Đây cũng là lúc những người thợ trổ hết tài hoa của mình mang vẻ đẹp của thiên nhiên gần lại với không gian, ý tưởng của mọi gia đình. Từ ánh mắt tinh nhanh chỉ kịp nhìn đưa ý tưởng lướt qua khối óc đầy chất nghệ sĩ ấy và hội tụ nơi bàn tay khéo léo lần lượt tạo ra những tác phẩm tuyệt vời. Sức vạm vỡ của bậc trượng phu cứ thoăn thoắt qua từng công đoạn làm ra cái đẹp vững chắc trong sự mềm mại thướt tha. Để rồi mỗi khách hàng đi qua trầm trồ tán thưởng là sự vui sướng vô bờ mà họ xem đó là điều quan trọng hơn cả giá cả, lợi nhuận của một mùa mưu sinh.
Trân quý biết bao về những điều giản dị trong cuộc sống này, những con người chất phác bước ra từ ruộng đồng đến sự rắn rỏi hiện diện nơi phố thị bon chen. Để khi đất trời bước qua một mùa Xuân tươi vui, an lạc, niềm hạnh phúc được tìm thấy trong từng mầm cây, từng nụ hoa ấy. Thật dễ hiểu khi con người ta lại chọn những sản phẩm diễm tuyệt này làm món quà tặng nhau cùng những lời chúc một năm mới an khang. Bởi cái đẹp đã được nâng niu và những tài hoa luôn được trân trọng.
Những kiệt nhân làm nên kiệt tác của mùa xuân.
Còn gì cao quý hơn những nghề làm đẹp cho đời bằng giọt mồ hôi của những con người đáng yêu ấy. Đôi bàn tay tô thắm mọi nẻo đường, mái nhà, góc phố vẫn luôn miệt mài trau luyện qua mỗi mùa vất vả. Họ đã luôn góp sức mình cùng Đất nước tìm về một mùa xuân ngời sáng của đất trời và của cả lòng người trọng nghĩa.
|
Night falls on the days leading up to Tet Quy Mao 2023, the sky
Danang
Covered in a thick mist, the cold began to creep through each crevice of the shirt, but it was not enough to make the sweaty skin freeze. Each wave of howls and shouts of orders from thousands of groups in the late night market tore apart the silence at midnight...
The pots of Apricot and Chrysanthemums to welcome spring were pulled out of the truck one by one, placed on the shoulder, then carried and placed neatly in the stalls. Tet has arrived at the Da Nang Spring flower market.
Surely, to have peaceful, joyful and increasingly prosperous springs like today is the effort and blood of many generations and many classes of people. Those who sacrificed for peace and independence, those who contributed to today's rich and beautiful development,...and those who contributed to cultivating, nurturing, and caring for the beautiful colors that come to every home. on every occasion
Tet
. We are captivated by the elegant beauty of Phalaenopsis orchids, the artistry of bonsai pots or even the cheerfulness of colorful flower branches. All are brought back here, showing off their beauty and giving incense for a Tet filled with happiness.
As the ninth month of the lunar calendar enters, gardeners are busy preparing flower fields for Tet. Depending on the time and growth habits of each type of flower, the worker chooses appropriate soil preparation methods, flower growing tools and equipment to support care... The quite long period of time for a Tet flower season is a period of hardship but full of joy because of contributing to the Spring of heaven and earth. The people of that countryside sometimes play the role of diligent farmers next to the growing seedlings, sometimes they are seasoned traders at the Tet flower market for the products they make. They have always been like that for a long time, just smiling at the end of the flower season makes us happy because of a prosperous and complete season.
The daisies are ready to go to the market after nearly 3 months of careful cultivation. Collected photos.
And it is also the season when swallows call their flocks, which is the season of people rushing to make a living. Each occupation is assigned to suit each person, then symbiotically create a diverse and complete society. How can we compare the work, time and hardship of different professions? It's so lame! Perhaps those who are now resting in the warmth have devoted their labors to another place and time. At this time, under the chilly days of the last days of the year, small traders, garden owners, cart crews, caravans, artists decorating fresh flowers, ornamental plants... are busy at the flower market to serve the New Year. They often choose late at night to do their work in time for dawn, and people have a clean, beautiful and safe space to go sightseeing and shopping. For them, the products they make are chosen and cherished by customers to decorate their homes, offices, street corners, and flower gardens, which is a great encouragement to dispel their constant fatigue. past days.
Freight trucks return at midnight.
This is also the time when craftsmen show off their talents to bring the beauty of nature closer to the space and ideas of every family. From quick eyes that could barely see, ideas passed through that artist's mind and converged in skillful hands to create wonderful works one after another. The muscular strength of a man moves quickly through each step, creating solid beauty in graceful softness. Then every customer passing by admires and admires the boundless joy that they consider to be more important than the price and profit of a season of living.
How precious are the simple things in this life, the simple people who come from the fields to the solidity present in the hustle and bustle of the city. So that when heaven and earth pass through a joyful and peaceful Spring, happiness will be found in each sprout, each flower bud. It's easy to understand why people choose these wonderful products as gifts to each other with wishes for a happy new year. Because beauty is cherished and talents are always respected.
Masterpieces create masterpieces of spring.
There is nothing more noble than the profession of beautifying life with the sweat of those lovely people. The hands that adorn every road, roof, and street corner are still diligently cultivating through each difficult season. They have always contributed to the country's search for a bright spring for heaven and earth and for all people's respectful hearts.
|
Công cuộc xây dựng nông thôn mới đã mang đến cho làng quê
Hải Dương
một diện mạo mới, ngày càng khang trang, hiện đại, song vẫn còn đó những dấu tích của làng quê cũ, những phong tục, tập quán đã trở thành hồn quê mãi không phai trong tâm thức bao người.
Nằm ở trung tâm
đồng bằng sông Hồng
, phên dậu phía đông của kinh thành Thăng Long, xứ Đông là vùng đất giàu truyền thống văn hiến. Làng quê xứ Đông vừa mang đặc trưng của làng quê
vùng đồng bằng Bắc Bộ
, vừa mang nét riêng chỉ xứ Đông – Hải Dương mới có.
Do có hệ thống sông ngòi dày đặc nên trong nhiều nhà dân ở Hải Dương luôn có thuyền làm phương tiện vận chuyển. Trong ảnh: Người dân xã Kim Anh (Kim Thành) dùng thuyền đánh cá. Ảnh tư liệu.
“Theo các di tích khảo cổ, người dân ở Hải Dương quần cư sớm. Dấu vết của người nguyên thủy từ cách đây 50.000 – 30.000 năm ở hang Thánh Hóa, núi Nhẫm Dương (Kinh Môn) rồi dấu vết của văn hóa Đông Sơn khá phổ biến trong các di tích, di vật tìm được ở Hải Dương là những minh chứng. Ở Hải Dương, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy hàng nghìn ngôi mộ quan lại nhà Hán, huyện nào cũng có… Điều đó cho thấy, đây là vùng đất cổ, có từ lâu đời”, nhà sử học Tăng Bá Hoành nói với chúng tôi như thế về mảnh đất Hải Dương – xứ Đông. Cũng theo ông Hoành, tỉnh ta hiện có nhiều ngôi làng đã nghìn năm tuổi như Hoạch Trạch (Thái Học), Mộ Trạch (Tân Hồng, cùng
huyện Bình Giang
); Cập Nhất, Cập Thượng (Tiền Tiến,
TP Hải Dương
)…
Không chỉ lâu đời, Hải Dương còn là vùng đất văn hiến, giàu truyền thống khoa bảng. Thời phong kiến, Hải Dương đứng đầu cả nước về số người học hành đỗ đạt, đặc biệt là về số tiến sĩ Nho học với 472 người, trong đó có 11 trạng nguyên. Không chỉ có làng Mộ Trạch, nơi được mệnh danh là “lò tiến sĩ xứ Đông” mới là đất học, ở Hải Dương đâu đâu cũng thấy sự hiện diện của sự học. Hầu như làng nào cũng có văn chỉ, một thiết chế văn hóa xưa để “thờ riêng những bậc khoa hoạn trong làng” – như cách nói của Phan Kế Bính trong sách Việt Nam phong tục. Còn theo nhà sử học Tăng Bá Hoành, văn chỉ chỉ có ở những làng có những người học chữ Hán đến một trình độ nhất định từ khóa sinh trở lên. Cùng với văn chỉ, các làng ở Hải Dương đều có bia ký, cho thấy trong làng có đội ngũ được học chữ Hán, am hiểu chữ nghĩa. Đây là điểm khác biệt so với nhiều làng
vùng đồng bằng Nam Bộ
, miền núi và ngay cả nhiều địa phương ở Bắc Bộ.
Theo sách Lịch sử Hải Dương tập 1 (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, năm 2021), với địa hình vùng đất đồng bằng xen đồi núi, hệ thống sông hồ dày đặc, người Hải Dương xưa đã chọn các hình thức cư trú ven sông, dưới chân đồi, trên các vùng đất cao tạo lập nên xóm làng – những đơn vị hành chính từ buổi đầu dựng nước. Từ những đơn vị cư trú đầu tiên trên các vùng đồi núi Nhẫm Dương (Kinh Môn), con người tiến xuống chinh phục đồng bằng, những vùng đất cao bãi bồi ven sông được chọn làm nơi lập làng, với nơi ở cao ráo, có tư liệu sản xuất, giao thông thuận lợi đã hình thành nên các làng cư trú ven các dòng sông và ngày càng sầm uất.
Có thể nhận ra điểm khác biệt này trong các ngôi làng ở Hải Dương. Cũng như các ngôi làng của đồng bằng Bắc Bộ, làng ở Hải Dương được bao bọc trong các lũy tre, song lại không khép kín bởi nhiều làng có sông chảy qua. Vì gắn với sông nước, nên trong nhà của người dân xưa, nhất là dân các huyện ở phía đông, phía nam của TP Hải Dương như Thanh Hà, Kim Thành, Gia Lộc… đều có thuyền và người dân thì giỏi bơi lội. Thuyền là phương tiện đi lại chính của họ. Thậm chí, cả bọn trộm, cướp các làng thời xưa cũng đi bằng đường sông. Nhiều đình làng, chợ làng nằm gần bến sông và mang tên gọi đình Bến, chợ Bến. Có làng tên gọi cũng thể hiện rõ là làng bên sông, nơi thuyền neo đậu như làng Chu Đậu, Thái Tân (Nam Sách). Trước Cách mạng Tháng Tám, tỉnh ta có nhiều làng chài, người dân dựa vào sông nước đánh bắt cá tôm để mưu sinh. Nhiều trò chơi dân gian của Hải Dương trong các lễ hội làng cũng gắn với sông nước như đi cầu thùm, bắt vịt, bơi chải…
Do địa hình, khí hậu nóng ẩm, trong mỗi ngôi làng ở xứ Đông, người dân thường xây nhà bằng vật liệu tranh tre, nứa lá; tường trát vách. Đa số nhà được làm ở hướng nam để tránh nóng với cấu trúc trong một khu vườn, gồm: cổng – ao – sân – nhà – vườn. Bếp được xây dựng tách biệt với nhà và thường ở gần ao để tiện cho việc giặt giũ, rửa ráy và cứu hỏa.
Nhiều ngôi nhà thời hiện đại vẫn mang dáng dấp nhà của người xứ Đông xưa với các tấm mành chắn nắng. Ảnh: THÀNH CHUNG.
Mối quan hệ cộng đồng làng được tạo nên từ quan hệ gắn kết giữa các dòng họ. Trong làng có nhiều dòng họ với những nguồn gốc khác nhau, trong mỗi dòng họ có sự phân chia chặt chẽ theo thứ bậc thế hệ. Nhiều làng mang tên gọi của các dòng họ như: Phạm Xá, Đỗ Xá, Vũ Xá… để ghi dấu việc dòng họ ấy là những người đầu tiên lập làng.
Dân xứ Đông xưa chủ yếu làm nông nghiệp, đánh bắt thủy sản, trồng bông, dệt vải, trồng dâu, nuôi tằm… sau này, hình thành và phát triển nhiều nghề thủ công khác.
Nằm trong không gian văn hóa vùng đồng bằng Bắc Bộ, các làng quê xứ Đông cũng mang trong mình các nét văn hóa chung của vùng như mỗi làng đều có cổng làng, có đình, chùa, một số nơi có quán. Vào dịp nông nhàn, các làng thường tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động phong phú.
Vào dịp Tết, người dân có nhiều tục tốt lành như mừng tuổi, mừng thọ, khao lão… cùng những tục kiêng cữ: kiêng quét nhà, kiêng to tiếng, kiêng nói tục. Một số làng có tục treo cây nêu ngày Tết hoặc đi lễ chùa trong đêm giao thừa… Tất cả đã tạo nên văn hóa Tết của làng quê xứ Đông.
Ngày nay, với sự phát triển chung của xã hội, làng quê Hải Dương cũng có rất nhiều biến đổi. Là tỉnh nông thôn mới với nhiều xã đã và đang xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, diện mạo làng quê Hải Dương đang ngày một khang trang, hiện đại và văn minh. Song vẫn còn đó hồn quê xứ Đông với nhiều nét văn hóa truyền thống, nhiều phong tục, tập quán được bảo tồn và phát huy.
|
The construction of new rural areas has brought benefits to the countryside
Hai Duong
A new look, increasingly spacious and modern, but there are still traces of the old village, customs and traditions that have become the soul of the countryside forever in the minds of many people.
In the center
Red river delta
, the east of Thang Long citadel, the East is a land rich in cultural tradition. Eastern villages have the characteristics of rural villages
Northern delta
, has unique features that only East - Hai Duong has.
Due to the dense river system, many houses in Hai Duong always have boats as a means of transportation. In the photo: People in Kim Anh commune (Kim Thanh) use fishing boats. Documentary photo.
“According to archaeological relics, people in Hai Duong settled early. Traces of primitive people from 50,000 - 30,000 years ago in Thanh Hoa cave, Nham Duong mountain (Kinh Mon) and traces of Dong Son culture are quite common in relics and relics found in Hai Duong. proof. In Hai Duong, archaeologists have also found thousands of tombs of Han Dynasty mandarins, in every district... That shows that this is an ancient land, dating back a long time," said historian Tang Ba Hoanh. It's the same with us about the land of Hai Duong - the East. Also according to Mr. Hoanh, our province currently has many thousand-year-old villages such as Hoach Trach (Thai Hoc), Mo Trach (Tan Hong, and
Binh Giang district
); Update Nhat, Update Thuong (Tien Tien,
Hai Duong City
)…
Not only is it ancient, Hai Duong is also a land of civilization, rich in academic tradition. During feudal times, Hai Duong ranked first in the country in the number of people who passed their studies, especially in the number of PhDs in Confucianism with 472 people, including 11 poinsettias. Not only Mo Trach village, which is known as "the East's doctor's furnace", is the land of learning, in Hai Duong, the presence of learning is found everywhere. Almost every village has a written document, an ancient cultural institution to "privately worship the wise men in the village" - as Phan Ke Binh said in the book Vietnam Customs. According to historian Tang Ba Hoanh, literature only exists in villages where people have learned Chinese characters to a certain level from birth onwards. Along with written records, villages in Hai Duong all have inscriptions, showing that there are teams in the village who have learned Chinese characters and understand the meaning of words. This is different from many villages
Southern Delta region
, mountainous areas and even many localities in the North.
According to the book History of Hai Duong, volume 1 (Truth National Political Publishing House, 2021), with the terrain of plains interspersed with hills and mountains, and a dense system of rivers and lakes, the ancient Hai Duong people chose different forms of residing along rivers, at the foot of hills, and on high lands to create villages - administrative units from the beginning of the nation's founding. From the first residential units in the hilly areas of Nham Duong (Kinh Mon), people moved down to conquer the plains, and the high alluvial lands along the river were chosen as places to establish villages, with high and dry residences. With the means of production and convenient transportation, residential villages along the rivers have been formed and are increasingly bustling.
This difference can be seen in the villages in Hai Duong. Like the villages of the Northern Delta, villages in Hai Duong are surrounded by bamboo ramparts, but they are not closed because many villages have rivers flowing through them. Because it is associated with rivers, the houses of ancient people, especially people in the eastern and southern districts of Hai Duong city such as Thanh Ha, Kim Thanh, Gia Loc... all have boats and people are good at swimming. Boats are their main means of transportation. Even thieves and robbers of ancient villages also traveled by river. Many village communal houses and village markets are located near the river wharf and are called Ben communal houses and Ben markets. There are villages whose names also clearly show that they are riverside villages, where boats anchor, such as Chu Dau village, Thai Tan (Nam Sach). Before the August Revolution, our province had many fishing villages, people relied on the river to catch fish and shrimp to make a living. Many folk games of Hai Duong in village festivals are also associated with rivers such as going on a bridge, catching ducks, swimming...
Due to the terrain and hot and humid climate, in every village in the East, people often build houses with bamboo and thatch materials; plastered wall. Most houses are built in the south to avoid heat with structures in a garden, including: gate - pond - yard - house - garden. The kitchen is built separately from the house and is often near the pond for convenience in laundry, cleaning, and firefighting.
Many modern houses still have the appearance of ancient Eastern houses with sun-blocking blinds. Photo: THANH CHUNG.
Village community relationships are created from the close relationship between clans. In the village there are many clans with different origins, within each clan there is a strict division according to generational hierarchy. Many villages bear the names of family lineages such as: Pham Xa, Do Xa, Vu Xa... to mark the fact that that family was the first to establish the village.
People in the East in the past mainly worked in agriculture, fishing, growing cotton, weaving, growing mulberries, raising silkworms... later, many other handicrafts were formed and developed.
Located in the cultural space of the Northern Delta, Eastern villages also carry common cultural features of the region such as each village has a village gate, communal house, pagoda, and some places have shops. On the occasion of leisure time, villages often organize festivals with many diverse activities.
During Tet, people have many good customs such as celebrating new year, celebrating longevity, longing for old age... along with abstinence customs: abstaining from sweeping the house, abstaining from loud voices, abstaining from profanity. Some villages have the custom of hanging trees to mark Tet or going to pagodas on New Year's Eve... All have created the Tet culture of Eastern villages.
Today, with the general development of society, Hai Duong village has also had many changes. As a new rural province with many communes that have been building improved new rural areas and model new rural areas, the appearance of Hai Duong village is increasingly spacious, modern and civilized. But there is still the soul of the Eastern countryside with many traditional cultural features, customs and practices that are preserved and promoted.
|
Tại phiên họp diễn ra trong khuôn khổ Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF) 2023, Tổng thư ký Liên hợp quốc (LHQ) Antonio Guterres chỉ trích các doanh nghiệp dầu khí ‘lừa dối’ về vai trò của họ trong vấn đề khí hậu toàn cầu ấm lên, theo đó ông nhấn mạnh các doanh nghiệp này phải chịu trách nhiệm khi những tác động tiêu cực đang ngày càng rõ rệt.
Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres. Ảnh: THX/TTXVN.
Tại phiên họp với sự tham dự của các chính trị gia và doanh nghiệp hàng đầu thế giới, Tổng thư ký Guterres cho biết, từ những năm 1970, một số nhà cung cấp nhiên liệu hóa thạch đã hoàn toàn nhận thức được sản phẩm của họ có thể khiến Trái Đất ấm lên. Tổng thư ký LHQ so sánh hành động của các công ty dầu khí với các công ty thuốc lá, cho rằng các doanh nghiệp này đã góp phần làm trầm trọng hơn những tác động tiêu cực mà họ đã ý thức được. Do đó, tương tự như những công ty thuốc lá đã phải chịu trách nhiệm vì hành động của họ, Tổng thư ký Guterres cho rằng các công ty dầu khí lớn cũng cần phải chịu trách nhiệm. Năm 1998, các bang của Mỹ đã đạt được một thỏa thuận mang tính bước ngoặt trị giá 246 tỷ USD, theo đó thu hồi chi phí điều trị cho những người bị ảnh hưởng bởi tác hại của thuốc lá.
Tổng thư ký Gueterres đề cập một nghiên cứu do tạp chí Science công bố, trong đó cho biết ExxonMobil đã phớt lờ những nghiên cứu khoa học về tác động của nhiên liệu hóa thạch đối với biến đổi khí hậu. Nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học của công ty này đã lập mô hình và dự đoán sự ấm lên toàn cầu “với độ chính xác đáng kinh ngạc”, song ban lãnh đạo công ty không có động thái thiết thực nào đối với thông tin này. ExxonMobil hiện là mục tiêu của một số vụ kiện tại
Mỹ
.
Trong bài phát biểu, Tổng thư ký LHQ kêu gọi thế giới “chấm dứt sử dụng nhiên liệu hóa thạch”, đồng thời cảnh báo rằng mục tiêu đầy tham vọng nhằm hạn chế sự ấm lên toàn cầu ở mức 1,5 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp đã “tan thành mây khói”. Tổng thư ký LHQ nêu rõ các nhà sản xuất nhiên liệu hóa thạch vẫn đang chạy đua để mở rộng sản xuất, song ông nhấn mạnh hoạt động kinh doanh này “không phù hợp với sự tồn tại của con người”.
Trong khi đó, trả lời cho câu hỏi liệu các công ty dầu mỏ có phải chịu trách nhiệm như các công ty thuốc lá hay không, đặc phái viên về khí hậu của Mỹ John Kerry cho biết Mỹ “hiện không tìm kiếm những điểm tương đồng hay khác biệt”. Ông Kerry cho biết điều quan trọng là các công ty này cần hợp tác hơn trong nỗ lực chống khủng hoảng khí hậu. Ông Kerry cho rằng mọi điều luật thúc đẩy chống biến đổi khí hậu ở các cấp quốc gia, khu vực, địa phương, thành phố, cũng như trong ngành dầu khí và ngành than cần được đẩy mạnh.
Cuối cùng, Tổng thư ký Guterres kêu gọi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra các kế hoạch “đáng tin cậy và minh bạch” vào cuối năm 2023, nhằm đạt được mục tiêu toàn cầu phát thải ròng bằng 0. Ông kêu gọi các công ty dầu khí hành động dựa trên khuyến nghị do các chuyên gia LHQ công bố tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 27 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP27) ở Ai Cập vào tháng 11/2022. Ông hối thúc các công ty dầu khí “minh bạch và rõ ràng” trong các tiêu chí và kế hoạch về khí hậu, tránh để “người tiêu dùng, nhà đầu tư và cơ quan quản lý tiếp nhận thông tin sai lệch”.
|
At the meeting taking place within the framework of the World Economic Forum (WEF) 2023, United Nations (UN) Secretary General Antonio Guterres criticized oil and gas businesses for 'deception' about their role in the gas issue. global warming, he emphasized that these businesses must take responsibility as the negative impacts are increasingly evident.
UN Secretary General Antonio Guterres. Photo: THX/TTXVN.
At the session attended by the world's leading politicians and businesses, Secretary General Guterres said that since the 1970s, some fossil fuel suppliers have been fully aware of their products. they can warm the Earth. The UN Secretary General compared the actions of oil and gas companies with tobacco companies, saying that these businesses have contributed to exacerbating the negative impacts of which they are aware. Therefore, similar to tobacco companies that have been held responsible for their actions, Secretary General Guterres said that large oil and gas companies also need to be held responsible. In 1998, US states reached a landmark agreement worth $246 billion, which recovered the costs of treating people affected by the harmful effects of tobacco.
Secretary General Gueterres mentioned a study published by Science magazine, which said ExxonMobil had ignored scientific research on the impact of fossil fuels on climate change. Research shows that the company's scientists have modeled and predicted global warming "with astonishing accuracy," but the company's leadership has made no practical move on the information. this news. ExxonMobil is currently the target of several lawsuits
America
.
In his speech, the UN Secretary General called on the world to "end the use of fossil fuels", and warned that the ambitious goal of limiting global warming to 1.5 degrees Celsius over with the pre-industrial era "dissolving into smoke". The UN Secretary General stated that fossil fuel producers are still racing to expand production, but he emphasized that this business activity is "incompatible with human existence".
Meanwhile, responding to the question of whether oil companies should be held as responsible as tobacco companies, US climate envoy John Kerry said the US "is not currently looking for similarities." same or different". Mr Kerry said it was important for these companies to cooperate more in efforts to fight the climate crisis. Mr. Kerry said that all laws promoting the fight against climate change at the national, regional, local, and city levels, as well as in the oil and gas industry and the coal industry, need to be promoted.
Finally, Secretary-General Guterres called on business leaders to present “credible and transparent” plans by the end of 2023, to achieve the global target of net zero emissions. He called on The oil and gas company acted on recommendations announced by UN experts at the 27th Summit of the Parties to the United Nations Framework Convention on Climate Change (COP27) in Egypt in November. /2022. He urged oil and gas companies to be “transparent and clear” in their climate criteria and plans, avoiding “consumers, investors and regulators from receiving misleading information.”
|
Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) đang ở giai đoạn suy giảm và câu hỏi đặt ra liệu ĐBSCL có thể bước vào chu kỳ mới tăng trưởng hay tiếp tục tình trạng suy giảm?
Cấu trúc nông nghiệp của ĐBSCL lâu nay vẫn dựa vào nông nghiệp là chính. Trong ảnh: một đồng lúa ở Tam Nông, Đồng Tháp. Ảnh: HP
Kinh tế của ĐBSCL đã có giai đoạn tăng trưởng rất cao trong các năm 2001-2010, sau đó chậm dần. Ba năm 2019-2021 là giai đoạn tuột dốc. Dịch Covid-19 là nguyên nhân trực tiếp nhưng ngay cả khi chưa có dịch, sức bật kinh tế của vùng cũng đã suy giảm. Khi kinh tế tăng trưởng tốt thì di dân ra bên ngoài thấp, khi kinh tế suy giảm, di dân ra bên ngoài lớn hơn.
ĐBSCL
đang ở giai đoạn suy giảm và câu hỏi đặt ra liệu ĐBSCL có thể bước vào chu chu kỳ mới tăng trưởng hay tiếp tục tình trạng suy giảm?
Nhưng ĐBSCL cũng đang đứng trước những cơ hội lớn khi hệ thống giao thông mới hình thành, đầu tư nước ngoài đang được cải thiện khi xuất hiện lĩnh vực mới.
Những vấn đề được cho là có ảnh hưởng tác động lớn đến nền kinh tế của vùng lâu nay là cấu trúc kinh tế dựa vào nông nghiệp; hạ tầng giao thông lạc hậu; học vấn, đào tạo yếu kém và thể chế.
Nguồn: Tác giả. Số liệu tổng hợp Niên giám thống kê Quốc gia và các tỉnh ĐBSCL.Tăng trưởng tính theo phần trăm (%), di cư thuần, tỷ suất tính theo phần ngàn (‰).
Sự phát triển nông nghiệp là lợi thế tự nhiên của ĐBSCL. Nền tảng kinh tế của vùng dựa vào đó và nhờ đó đã giải quyết được bài toán khó về cái ăn, về an ninh lương thực. Nông nghiệp và cũng từ vùng này từng được xem là trụ đỡ mỗi khi nền kinh tế gặp khó khăn. Nhưng cũng từ đây ĐBSCL rơi vào cái bẫy của lợi thế, cái bóng của thành tích trong quá khứ.
Nông nghiệp ảnh hưởng hầu hết suy nghĩ, hành động, từ phong cách làm việc đến suy nghĩ lựa chọn về học hành, đào tạo. Tư duy phát triển dựa trên lợi thế của nông nghiệp, bám vào nông nghiệp định hình quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng. Các kế hoạch phát triển chủ yếu dựa trên tầm nhìn của nông nghiệp, giải quyết vấn đề của nông nghiệp.
Hệ thống giao thông hạ tầng lạc hậu kéo dài, không thu hút được đầu tư, nền kinh tế không phát triển được.
Nguồn nhân lực chất lượng thấp và đang bị thách thức lớn khi dòng người di cư gia tăng. ĐBSCL có nhiều, rất nhiều trường đại học nhưng không có bứt phá nào trong đào tạo. Không có thay đổi nào trong bức tranh đào tạo của vùng trong nhiều thập kỷ.
Thể chế đã cản trở phát triển khi quy hoạch toàn bộ ĐBSCL là vùng sản xuất lúa gạo, giải quyết bài toán an ninh lương thực. Các chính sách kiềm chế nghiêm ngặt với đất nông nghiệp, đất lúa là rào cản cho tính năng động kinh tế của vùng. Một nguồn lực rất lớn của hàng triệu nông hộ qua quyền tài sản liên quan đất đai bị kiềm chế. Rào cản về đất cũng hạn chế quyền tiếp cận vốn, nguồn lực quan trọng thúc đẩy đầu tư.
Giờ đây ĐBSCL đang đối mặt với dòng người di cư ra bên ngoài liên tục tăng lên hàng năm. Người nông dân không quan tâm đến những vấn đề cao siêu của những lợi thế tự nhiên, an ninh lương thực. Họ cần phải nuôi sống chính mình, gia đình của mình. Khi nền kinh tế địa phương không cho họ điều đó thì họ phải đi tìm nơi khác. Dòng di dân liên tục là lời nói đầy đủ nhất về thực tế kinh tế của vùng.
Cánh đồng Tà Pạ, An Giang. Ảnh: HP
Muốn phát triển, muốn có được chu kỳ tăng trưởng mới
ĐBSCL
cần thoát ra khỏi cái bẫy của lợi thế nông nghiệp, cái bóng của quá khứ thành tích. Sự phát triển của ĐBSCL không chỉ từ nông nghiệp mà phải có thêm nhiều ngành mới hỗ trợ cho nông nghiệp và ngoài nông nghiệp. Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia những người làm ra nó cũng phải được giàu có, người làm nông nghiệp, ở nông thôn cũng có quyền tiếp cận vốn như người ở đô thị.
ĐBSCL còn phải đối mặt với những thách thức lớn do biến đổi khí hậu, chi phí sản xuất gia tăng và mất dần lợi thế so sánh của nông nghiệp.
Biến đổi khí hậu và tác động của các đập nước trên thượng nguồn, suy giảm phù sa có những tác động khó lường nhất. Điều có thể xảy ra là ưu thế nông nghiệp của vùng không còn.
Ngay hiện tại thì lợi thế so sánh của nhiều ngành nông nghiệp của vùng đang giảm. Các chuỗi giá trị nông nghiệp lớn của vùng mang về hàng tỉ đô la Mỹ xuất khẩu mỗi năm đang vật lộn với bài toán nguyên liệu, con giống và chi phí sản xuất. Các nhà máy chế biến phải nhập khẩu nguyên liệu từ bên ngoài và nay họ phải tìm cách thích ứng chuỗi cung ứng với những yếu tố rủi ro lớn hơn từ bên ngoài.
Chi phí sản xuất tiếp tục gia tăng đẩy các chuỗi ngành xuất khẩu đối mặt với bài toán phức tạp. Giá xuất khẩu như là mức trần mà họ không tự định ra được. Cạnh tranh với giá thấp trong bối cảnh chi phí tăng cao thì không thể kéo dài.
Nếu chỉ loanh quanh với nông nghiệp, làm gì với nông nghiệp thì không gỡ được bài toán này. ĐBSCL cần phát triển thêm những ngành hỗ trợ nông nghiệp.
Những nhân tố định hình bức tranh kinh tế của vùng trong thập kỷ tới
Bốn nhân tố định hình bức tranh kinh tế của vùng trong thập kỷ tới là: hệ thống giao thông, kinh tế xanh, công nghệ – kỹ thuật số, và thể chế đất đai.
Các trục – tuyến cao tốc khi hình thành sẽ định hình lại toàn bộ không gian kinh tế của vùng. Những thay đổi sẽ diễn ra sau năm 2025 các khi tuyến cao tốc đã công bố được xây dựng. Kinh tế đô thị, công nghiệp chế biến, dịch vụ, thương mại có điều kiện phát triển, nông nghiệp được tái cấu trúc. Và giá đất sẽ tăng.
Kinh tế xanh thúc đẩy hình thành nhiều ngành mới trong vùng và đòi hỏi nền nông nghiệp phải có trách nhiệm. Năng lượng tái tạo với các dự án FDI gần đây là sự khởi đầu. ĐBSCL còn nhiều tiềm năng trong lĩnh vực mới này.
Ứng dụng công nghệ – kỹ thuật số đang hỗ trợ mạnh mẽ cho nông nghiệp. Tương lai đó là một chuỗi cung ứng dịch vụ trong kinh tế vùng mà nông nghiệp là điểm tựa ban đầu. Đáp ứng yêu cầu của kinh tế xanh, yêu cầu ứng dụng kỹ thuật số đòi hỏi người nông dân phải có nền tảng học vấn, có kiến thức để lĩnh hội.
Đất nông nghiệp, đất ở nông thôn tăng giá làm tăng giá trị tài sản của nhiều hộ nông nghiệp, làm tăng cơ hội đầu tư, kinh doanh, làm tăng sức mua thị trường. Giá đất tăng cũng làm tái phân bổ lại nguồn lực từ đất. Những loại cây trồng vật nuôi mang giá trị thấp có thể không còn. Toàn bộ chuỗi giá trị của một ngành có thể được nâng cấp lên phân khúc mới nhờ vào giá cả gia tăng, nhưng cũng có thể một số chuỗi mất đi nhường cho một số chuỗi mới, những ngành mới. Những thay đổi này sẽ tác động đến thay đổi nhận thức và hành động.
Những yếu tố trên đều dẫn đến đòi hỏi nguồn lực lao động phải được nâng cấp. Trong các vấn đề khó khăn, yếu kém cản ngại sự phát triển của vùng thì đào tạo và học vấn là yếu tố cản ngại lớn nhất cho tương lai. Nút thắt này phải từ các tỉnh trong vùng gỡ ra.
Những biến động khó lường về địa chính trị đặt ĐBSCL vào những lợi thế nhiều hơn là bất lợi. Nông nghiệp vẫn là lợi thế để tạo sức mạnh riêng của vùng và kinh tế cả nước. Để nuôi dưỡng những lợi thế này cần có những ngành hỗ trợ nông nghiệp và phát triển thương mại nông nghiệp. Cần Thơ là nơi tập trung các đầu mối giao thông đáp ứng được yêu cầu này. Sân bay quốc tế Cần Thơ nên định hướng gắn với giao thương nông nghiệp của cả nước.
Thể chế đất đai phải tạo lợi thế cho người làm nông nghiệp, cho kinh tế ở khu vực nông thôn. Chiến lược tốt hơn để ĐBSCL phát triển liên quan chặt chẽ với hệ thống giao thông, cải thiện tình trạng học hành, đào tạo và chất lượng của các trường đại học.
|
Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) đang ở giai đoạn suy giảm và câu hỏi đặt ra liệu ĐBSCL có thể bước vào chu kỳ mới tăng trưởng hay tiếp tục tình trạng suy giảm?
Cấu trúc nông nghiệp của ĐBSCL lâu nay vẫn dựa vào nông nghiệp là chính. Trong ảnh: một đồng lúa ở Tam Nông, Đồng Tháp. Ảnh: HP
Kinh tế của ĐBSCL đã có giai đoạn tăng trưởng rất cao trong các năm 2001-2010, sau đó chậm dần. Ba năm 2019-2021 là giai đoạn tuột dốc. Dịch Covid-19 là nguyên nhân trực tiếp nhưng ngay cả khi chưa có dịch, sức bật kinh tế của vùng cũng đã suy giảm. Khi kinh tế tăng trưởng tốt thì di dân ra bên ngoài thấp, khi kinh tế suy giảm, di dân ra bên ngoài lớn hơn.
ĐBSCL
đang ở giai đoạn suy giảm và câu hỏi đặt ra liệu ĐBSCL có thể bước vào chu chu kỳ mới tăng trưởng hay tiếp tục tình trạng suy giảm?
Nhưng ĐBSCL cũng đang đứng trước những cơ hội lớn khi hệ thống giao thông mới hình thành, đầu tư nước ngoài đang được cải thiện khi xuất hiện lĩnh vực mới.
Những vấn đề được cho là có ảnh hưởng tác động lớn đến nền kinh tế của vùng lâu nay là cấu trúc kinh tế dựa vào nông nghiệp; hạ tầng giao thông lạc hậu; học vấn, đào tạo yếu kém và thể chế.
Nguồn: Tác giả. Số liệu tổng hợp Niên giám thống kê Quốc gia và các tỉnh ĐBSCL.Tăng trưởng tính theo phần trăm (%), di cư thuần, tỷ suất tính theo phần ngàn (‰).
Sự phát triển nông nghiệp là lợi thế tự nhiên của ĐBSCL. Nền tảng kinh tế của vùng dựa vào đó và nhờ đó đã giải quyết được bài toán khó về cái ăn, về an ninh lương thực. Nông nghiệp và cũng từ vùng này từng được xem là trụ đỡ mỗi khi nền kinh tế gặp khó khăn. Nhưng cũng từ đây ĐBSCL rơi vào cái bẫy của lợi thế, cái bóng của thành tích trong quá khứ.
Nông nghiệp ảnh hưởng hầu hết suy nghĩ, hành động, từ phong cách làm việc đến suy nghĩ lựa chọn về học hành, đào tạo. Tư duy phát triển dựa trên lợi thế của nông nghiệp, bám vào nông nghiệp định hình quy hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng. Các kế hoạch phát triển chủ yếu dựa trên tầm nhìn của nông nghiệp, giải quyết vấn đề của nông nghiệp.
Hệ thống giao thông hạ tầng lạc hậu kéo dài, không thu hút được đầu tư, nền kinh tế không phát triển được.
Nguồn nhân lực chất lượng thấp và đang bị thách thức lớn khi dòng người di cư gia tăng. ĐBSCL có nhiều, rất nhiều trường đại học nhưng không có bứt phá nào trong đào tạo. Không có thay đổi nào trong bức tranh đào tạo của vùng trong nhiều thập kỷ.
Thể chế đã cản trở phát triển khi quy hoạch toàn bộ ĐBSCL là vùng sản xuất lúa gạo, giải quyết bài toán an ninh lương thực. Các chính sách kiềm chế nghiêm ngặt với đất nông nghiệp, đất lúa là rào cản cho tính năng động kinh tế của vùng. Một nguồn lực rất lớn của hàng triệu nông hộ qua quyền tài sản liên quan đất đai bị kiềm chế. Rào cản về đất cũng hạn chế quyền tiếp cận vốn, nguồn lực quan trọng thúc đẩy đầu tư.
Giờ đây ĐBSCL đang đối mặt với dòng người di cư ra bên ngoài liên tục tăng lên hàng năm. Người nông dân không quan tâm đến những vấn đề cao siêu của những lợi thế tự nhiên, an ninh lương thực. Họ cần phải nuôi sống chính mình, gia đình của mình. Khi nền kinh tế địa phương không cho họ điều đó thì họ phải đi tìm nơi khác. Dòng di dân liên tục là lời nói đầy đủ nhất về thực tế kinh tế của vùng.
Cánh đồng Tà Pạ, An Giang. Ảnh: HP
Muốn phát triển, muốn có được chu kỳ tăng trưởng mới
ĐBSCL
cần thoát ra khỏi cái bẫy của lợi thế nông nghiệp, cái bóng của quá khứ thành tích. Sự phát triển của ĐBSCL không chỉ từ nông nghiệp mà phải có thêm nhiều ngành mới hỗ trợ cho nông nghiệp và ngoài nông nghiệp. Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia những người làm ra nó cũng phải được giàu có, người làm nông nghiệp, ở nông thôn cũng có quyền tiếp cận vốn như người ở đô thị.
ĐBSCL còn phải đối mặt với những thách thức lớn do biến đổi khí hậu, chi phí sản xuất gia tăng và mất dần lợi thế so sánh của nông nghiệp.
Biến đổi khí hậu và tác động của các đập nước trên thượng nguồn, suy giảm phù sa có những tác động khó lường nhất. Điều có thể xảy ra là ưu thế nông nghiệp của vùng không còn.
Ngay hiện tại thì lợi thế so sánh của nhiều ngành nông nghiệp của vùng đang giảm. Các chuỗi giá trị nông nghiệp lớn của vùng mang về hàng tỉ đô la Mỹ xuất khẩu mỗi năm đang vật lộn với bài toán nguyên liệu, con giống và chi phí sản xuất. Các nhà máy chế biến phải nhập khẩu nguyên liệu từ bên ngoài và nay họ phải tìm cách thích ứng chuỗi cung ứng với những yếu tố rủi ro lớn hơn từ bên ngoài.
Chi phí sản xuất tiếp tục gia tăng đẩy các chuỗi ngành xuất khẩu đối mặt với bài toán phức tạp. Giá xuất khẩu như là mức trần mà họ không tự định ra được. Cạnh tranh với giá thấp trong bối cảnh chi phí tăng cao thì không thể kéo dài.
Nếu chỉ loanh quanh với nông nghiệp, làm gì với nông nghiệp thì không gỡ được bài toán này. ĐBSCL cần phát triển thêm những ngành hỗ trợ nông nghiệp.
Những nhân tố định hình bức tranh kinh tế của vùng trong thập kỷ tới
Bốn nhân tố định hình bức tranh kinh tế của vùng trong thập kỷ tới là: hệ thống giao thông, kinh tế xanh, công nghệ – kỹ thuật số, và thể chế đất đai.
Các trục – tuyến cao tốc khi hình thành sẽ định hình lại toàn bộ không gian kinh tế của vùng. Những thay đổi sẽ diễn ra sau năm 2025 các khi tuyến cao tốc đã công bố được xây dựng. Kinh tế đô thị, công nghiệp chế biến, dịch vụ, thương mại có điều kiện phát triển, nông nghiệp được tái cấu trúc. Và giá đất sẽ tăng.
Kinh tế xanh thúc đẩy hình thành nhiều ngành mới trong vùng và đòi hỏi nền nông nghiệp phải có trách nhiệm. Năng lượng tái tạo với các dự án FDI gần đây là sự khởi đầu. ĐBSCL còn nhiều tiềm năng trong lĩnh vực mới này.
Ứng dụng công nghệ – kỹ thuật số đang hỗ trợ mạnh mẽ cho nông nghiệp. Tương lai đó là một chuỗi cung ứng dịch vụ trong kinh tế vùng mà nông nghiệp là điểm tựa ban đầu. Đáp ứng yêu cầu của kinh tế xanh, yêu cầu ứng dụng kỹ thuật số đòi hỏi người nông dân phải có nền tảng học vấn, có kiến thức để lĩnh hội.
Đất nông nghiệp, đất ở nông thôn tăng giá làm tăng giá trị tài sản của nhiều hộ nông nghiệp, làm tăng cơ hội đầu tư, kinh doanh, làm tăng sức mua thị trường. Giá đất tăng cũng làm tái phân bổ lại nguồn lực từ đất. Những loại cây trồng vật nuôi mang giá trị thấp có thể không còn. Toàn bộ chuỗi giá trị của một ngành có thể được nâng cấp lên phân khúc mới nhờ vào giá cả gia tăng, nhưng cũng có thể một số chuỗi mất đi nhường cho một số chuỗi mới, những ngành mới. Những thay đổi này sẽ tác động đến thay đổi nhận thức và hành động.
Những yếu tố trên đều dẫn đến đòi hỏi nguồn lực lao động phải được nâng cấp. Trong các vấn đề khó khăn, yếu kém cản ngại sự phát triển của vùng thì đào tạo và học vấn là yếu tố cản ngại lớn nhất cho tương lai. Nút thắt này phải từ các tỉnh trong vùng gỡ ra.
Những biến động khó lường về địa chính trị đặt ĐBSCL vào những lợi thế nhiều hơn là bất lợi. Nông nghiệp vẫn là lợi thế để tạo sức mạnh riêng của vùng và kinh tế cả nước. Để nuôi dưỡng những lợi thế này cần có những ngành hỗ trợ nông nghiệp và phát triển thương mại nông nghiệp. Cần Thơ là nơi tập trung các đầu mối giao thông đáp ứng được yêu cầu này. Sân bay quốc tế Cần Thơ nên định hướng gắn với giao thương nông nghiệp của cả nước.
Thể chế đất đai phải tạo lợi thế cho người làm nông nghiệp, cho kinh tế ở khu vực nông thôn. Chiến lược tốt hơn để ĐBSCL phát triển liên quan chặt chẽ với hệ thống giao thông, cải thiện tình trạng học hành, đào tạo và chất lượng của các trường đại học.
|
Nhìn về lịch sử văn chương Việt Nam thời trung đại, chúng ta không thể không nhắc đến
Hồ Xuân Hương
với những câu chuyện liên quan đến cuộc đời, tư tưởng, nghệ thuật của bà.
Dù còn nhiều bàn cãi, dù còn những tồn lưu chưa cho phép xác quyết, nhưng có thể nói, cái tên Hồ Xuân Hương đã trở thành một hình mẫu tượng trưng cho giá trị nghệ thuật, giá trị đời sống con người trong bối cảnh xã hội, văn hóa, tư tưởng vốn rất hà khắc thời trung đại.
Tượng đài nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ảnh:
Thu Thủy.
Trong hồ sơ đệ trình UNESCO ghi nhận và vinh danh Danh nhân văn hóa
Hồ Xuân Hương
, các nhà nghiên cứu đã đồng loạt nêu lên những căn cứ, cho phép định vị nữ sĩ Hồ Xuân Hương như một giá trị đặc biệt, không thể thay thế trong diễn trình tư tưởng, nghệ thuật Việt Nam. Đó là hệ quy chiếu hướng đến chia sẻ cùng thế giới một biểu tượng của sự tôn vinh con người gắn với tư tưởng nhân văn vĩnh hằng, tư tưởng thẩm mỹ độc đáo đã khai sinh trên quê hương Việt Nam.
Theo đó, có 7 căn cứ chủ yếu được nêu lên: Thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một tư tưởng nhân văn/ nhân bản mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống cho con người; Thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một quan niệm văn hóa và thẩm mỹ độc đáo chưa từng có về các nhu cầu cơ bản của con người như tình dục, đời sống bản năng, trần tục; Thơ Hồ Xuân Hương ca ngợi nồng nhiệt sự sống, sự lạc quan, yêu đời; Thơ Hồ Xuân Hương nhiều bài đạt tầm kiệt tác, là một đỉnh cao của thơ Nôm, là một hiện tượng hiếm có trong văn học thế giới; Thơ Hồ Xuân Hương có sức lan tỏa sâu rộng và tính cộng hưởng, tạo nên hiện tượng “đồng sáng tạo” hiếm có; Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói đấu tranh mạnh mẽ cho nữ quyền; Thơ Hồ Xuân Hương được dịch và giới thiệu rộng rãi trên thế giới (
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương – danh nhân văn hóa
, NXB Nghệ An, 2022).
Có thể nói, 7 căn cứ nêu trên là những điểm cốt lõi nhất nhằm định hình và diễn giải giá trị của hiện tượng văn hóa
Hồ Xuân Hương
. Từ góc nhìn đồng đại, có thể thấy, Hồ Xuân Hương đã tháo tung và vượt lên các khuôn khổ của thời đại mình. Từ góc nhìn lịch đại, những giá trị đó vẫn đang cho thấy sự lan tỏa, vang hưởng và bám rễ rất sâu vào cơ tầng văn hóa, giá trị sống của con người đương đại. Như thế, có thể xem Hồ Xuân Hương là một biểu tượng của những giá trị nhân văn/ nhân bản vĩnh hằng đang được nhân loại hướng tới và tôn vinh.
Trong những nghiên cứu mới nhất về Hồ Xuân Hương, phần tác phẩm của bà được giới thiệu gồm 141 bài thơ, bao gồm thơ Nôm truyền tụng, thơ chữ Hán và tập
Lưu Hương ký
(
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương – danh nhân văn hóa
, NXB Nghệ An, 2022). Độc giả Việt Nam hẳn sẽ tìm thấy trong những bài thơ ấy dấu vết của một tâm hồn nữ sĩ yêu cuộc sống, yêu con người và các giá trị nhân văn; đồng thời, từ thơ của bà cùng những giai thoại liên quan, chúng ta nhận ra sự sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh và một tinh thần vượt thoát của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Sử dụng lớp ngôn từ và hình ảnh mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng phồn thực, Hồ Xuân Hương đã mang đến những bài thơ đa nghĩa, vừa thú vị, vừa sâu sắc (
Bánh trôi nước, Đánh đu, Cái quạt, Cái giếng, Dệt cửi đêm, Quả mít
…). Lớp hình ảnh và ngôn từ này có vẻ như còn nhiều kiêng kỵ trong hệ thống từ chương bác học, cung đình.
Tuy vậy, đó lại là lối cảm, lối nghĩ và cách thức diễn đạt khá phổ biến trong môi trường văn hóa dân gian. Hồ Xuân Hương đã tận dụng phương cách ấy để thể hiện tư tưởng của mình, cũng là một ý hướng phản kháng những định chế từ các diễn ngôn trưởng thượng đạo mạo của văn chương cung đình: “Thân em như quả mít trên cây / Vỏ nó xù xì múi nó dày / Quân tử có yêu thì đóng cọc / Xin đừng mân mó nhựa ra tay” (
Quả mít
).
Một số tác phẩm của Hồ Xuân Hương.
Là một mẫu hình tiêu biểu của con người cá nhân trong không gian văn học – văn hóa trung đại (vốn khuếch trương hình mẫu con người siêu cá thể), Hồ Xuân Hương hẳn đã hiểu những hay dở của thời đại mà bà đang sống. Chính vì thế, trên diễn biến của chính thân phận mình (và những người cùng cảnh ngộ, cùng giới tính, cùng một môi trường văn hóa), trên những đường biên và giới hạn của các giá trị, Hồ Xuân Hương từng bước tháo tung các khuôn khổ để nói lên tiếng nói của con người tự do, con người đời thường gần gũi chân thực: “Canh khuya văng vẳng trống canh dồn/ Trơ cái hồng nhan với nước non / Chén rượu đưa hương, say lại tỉnh / Vừng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn / Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám / Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn / Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại / Mảnh tình san sẻ tí con con” (
Tự tình II
).
Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Xuân Hương thực sự khiến chúng ta hôm nay phải ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Đã hơn 200 năm kể từ ngày nữ sĩ mất đi, nhưng di sản của bà vẫn luôn hiện diện trong tâm thức con người đang sống. Phê phán cái nhố nhăng, lố bịch, kệch cỡm của thời đại; cất tiếng nói cảm thông, chia sẻ với phận người trong vòng cương tỏa hà khắc của lễ giáo trung đại; ca ngợi vẻ đẹp của con người, thiên nhiên và đời sống; thực hành một phong cách thơ độc đáo… Hồ Xuân Hương vừa rất truyền thống nhưng cũng hiện đại đến không ngờ. Trên hành trình đi đến các giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của loài người, những tư tưởng của Hồ Xuân Hương xứng đáng được nhân loại ghi nhận, vinh danh và chia sẻ một cách rộng rãi và bền bỉ.
|
Looking at the history of Vietnamese literature in the medieval period, we cannot help but mention it
Xuan Huong lake
with stories related to her life, thoughts, and art.
Although there are still many controversies, although there are remaining shortcomings that do not allow for confirmation, it can be said that the name Ho Xuan Huong has become a model symbolizing the value of art and the value of human life in the context of art. Society, culture, and ideology were very harsh in the Middle Ages.
Statue of female artist Ho Xuan Huong in Quynh Doi commune, Quynh Luu district, Nghe An province. Image:
Thu Thuy.
In the dossier submitted to UNESCO, cultural celebrities are recognized and honored
Xuan Huong lake
, researchers have simultaneously raised the grounds, allowing female artist Ho Xuan Huong to be positioned as a special, irreplaceable value in the process of Vietnamese thought and art. It is a frame of reference that aims to share with the world a symbol of human honor associated with the eternal humanistic ideology, the unique aesthetic ideology that was born in the homeland of Vietnam.
Accordingly, there are 7 main grounds raised: Ho Xuan Huong's poetry demonstrates a deeply humanistic/humanist ideology with the core of fighting for the right to life for humans; Ho Xuan Huong's poetry represents a unique and unprecedented cultural and aesthetic concept about basic human needs such as sex, instinctive and mundane life; Ho Xuan Huong's poetry warmly praises life, optimism, and love of life; Many of Ho Xuan Huong's poems reach the level of masterpieces, are a pinnacle of Nom poetry, and are a rare phenomenon in world literature; Ho Xuan Huong's poetry has far-reaching power and resonance, creating a rare "co-creation" phenomenon; Ho Xuan Huong's poetry is a strong voice fighting for women's rights; Ho Xuan Huong's poetry has been translated and widely introduced around the world (
Female artist Ho Xuan Huong - cultural celebrity
, Nghe An Publishing House, 2022).
It can be said that the 7 bases mentioned above are the most core points to shape and interpret the value of cultural phenomena.
Xuan Huong lake
. From a contemporary perspective, it can be seen that Ho Xuan Huong broke free and transcended the frameworks of his time. From a chronological perspective, those values are still showing their pervasiveness, resonance and deep roots in the cultural fabric and life values of contemporary people. Thus, Xuan Huong Lake can be seen as a symbol of eternal humanistic/humanistic values that humanity is aiming for and honoring.
In the latest research on Ho Xuan Huong, her works are introduced as 141 poems, including traditional Nom poems, Chinese poems and collections.
Liu Huong signed
(
Female artist Ho Xuan Huong - cultural celebrity
, Nghe An Publishing House, 2022). Vietnamese readers will surely find in those poems traces of a female soul who loves life, loves people and humanistic values; At the same time, from her poetry and related anecdotes, we realize the sharpness, intelligence, wit and an escapist spirit of female artist Ho Xuan Huong.
Using layers of words and images imbued with the imprint of traditional beliefs, Ho Xuan Huong has created poems with multiple meanings that are both interesting and profound (
Water floating cake, Swing, Fan, Well, Night weaving, Jackfruit
…). This class of images and words seems to still have many taboos in the scholarly and royal word system.
However, it is a way of feeling, thinking and expressing that is quite common in the folk culture environment. Ho Xuan Huong took advantage of that method to express his thoughts, which was also an intention to protest against the institutions of the superior discourses of royal literature: "My body is like a jackfruit on a tree / Its skin is rough and its segments are thick / If a gentleman loves it, he will stake it / Please don't touch the plastic with your hands" (
Jack fruit
).
Some works of Ho Xuan Huong.
As a typical model of the individual person in the medieval literary and cultural space (which amplified the model of the super-individual person), Ho Xuan Huong must have understood the good and bad of the era in which she lived. . Therefore, based on the evolution of his own fate (and those of people in the same situation, the same gender, the same cultural environment), on the borders and limits of values, Ho Xuan Huong gradually removed tossing out frameworks to express the voice of free people, everyday people, close to the truth: "The late night watch echoes with drums and soups / Indifferent to the beauty of young water / A cup of wine brings fragrance, drunk and wakes up / The moon's shadow is late, not yet full / Slanted across the ground, moss in clumps / Pierced the base of the clouds, kicked a few rocks / Bored of spring again and again / A piece of love shared with little children" (
Self-love II
).
The humanistic values in Ho Xuan Huong's thought truly make us surprised and admired today. It has been more than 200 years since the woman passed away, but her legacy is still present in the minds of living people. Criticizing the absurdity, ridiculousness, and ridiculousness of the times; raised his voice to sympathize and share with the fate of people within the harsh constraints of medieval rites; praising the beauty of people, nature and life; practicing a unique poetic style... Ho Xuan Huong is both very traditional but also incredibly modern. On the journey to the core, eternal values of humanity, Ho Xuan Huong's thoughts deserve to be widely and persistently recognized, honored and shared by humanity.
|
Mèo là một loài vật gần gũi với đời sống của con người. Ý nghĩa hình tượng
mèo
trong văn hóa cũng có rất nhiều điểm độc đáo.
Loài mèo là một trong những loài vật được con người thuần chủng từ rất sớm. Do đó, trong tình cảm của con người, mèo là con vật rất thân thuộc, gần gũi và đã trở thành vật cưng của rất nhiều gia đình.
Trong các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, ý nghĩa biểu tượng của mèo rất không thuần nhất, vừa xấu vừa tốt. Điểu này có thể giải thích bằng thái độ vừa dịu dàng, vừa vờ vĩnh của con vật này.
Trong Kabbale (truyền thuyết của đạo Do Thái) cũng như trong đạo Phật, mèo được liên kết với rắn: chỉ sự tội lỗi, sự lạm dụng những phúc lợi ở thế gian này. Mèo thỉnh thoảng bị coi là ma quỷ, ví dụ như nó không mang lại may mắn thậm chí là điềm xui xẻo trong nhiều nền văn hóa Trung cổ. Điển hình là niềm tin về việc một con mèo đen băng ngang đường người nào đang đi thì người đó sẽ gặp xui xẻo, hoặc chuyện mèo là những phụ tá cho các mụ phù thủy, giúp các mụ gia tăng công lực. Điều này dẫn đến việc lùng diệt mèo rộng khắp châu Âu trong thời Trung cổ. Chúng được sử dụng trong những nghi lễ hiến tế như là vật hi sinh. Ở Ai-len, khi một con mèo đen đi qua trước mặt thì có nghĩa rằng bệnh tật sẽ đến. Ở Roma, Moldavia và
Cộng hòa Séc
, quan niệm một con mèo đen đi ngang qua trước mặt bạn sẽ mang lại điềm xui vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Mèo là con vật rất thân thuộc, gần gũi và đã trở thành vật cưng của rất nhiều gia đình.
Thế nhưng không phải nơi nào ở châu Âu, mèo cũng gặp rủi ro, mà ngược lại, nó còn là biểu tượng cho sự may mắn. Tại Scotland, một con mèo đen lạ vào nhà sẽ đem theo sự thịnh vượng cho gia chủ. Các thủy thủ tại
Vương quốc Anh
lại tin tưởng sự may mắn mà chú mèo sẽ đem lại cho con tàu của họ, đặc biệt là mèo đen. Đôi khi, những người vợ thủy thủ cũng nuôi mèo ở nhà, với hy vọng chúng sẽ bảo vệ người chồng của họ trên biển.
Ở nhiều nền văn hóa của thế giới, con mèo được tôn vinh là một loài vật linh thiêng. Trong những văn tự cổ nhất, tìm thấy ở kim tự tháp, có nhắc đến một nữ thần mèo tên là Madfet. Người
Ai Cập
cổ còn tôn thờ nhiều thần mèo khác, nhưng nổi bật nhất là thần mèo Bastet, dưới hình dạng một phụ nữ với cái đầu mèo đen. Đây là vị thần bảo trợ phụ nữ và trẻ em, được người dân Ai Cập ngưỡng mộ và tôn thờ. Người Ai Cập xưa luôn tin tưởng rằng nữ thần mèo sẽ bảo vệ tất cả mọi người, vì thế hình ảnh con mèo đã xuất hiện khắp nơi trong cuộc sống và nếu một người nông dân Ai Cập nằm mơ thấy mèo, đó là điềm báo trước của một vụ mùa bội thu.
Tại
Nhật Bản
, tuy mèo không nằm trong 12 con giáp, nhưng mèo lại là biểu tượng của sự may mắn, qua câu chuyện nổi tiếng về “Chú mèo vẫy tay” Tama đã cứu sống một vị lãnh chúa khỏi bị cây đổ do sét đánh. Và ngày nay tại Nhật Bản, ngôi đền thờ chú mèo Tama này vẫn còn tồn tại.
Ở
Trung Quốc
cổ đại, mèo hay được xem như một con vật báo lành và người ta bắt chước điệu bộ của nó cũng như con báo, trong các điệu múa nông nghiệp. Ở Campuchia, người ta vẫn nhốt mèo vào lồng rồi vừa đi vừa ca hát, rước nó từ nhà này sang nhà kia để cầu mưa.
Mèo là linh vật thứ 4 trong lịch Can Chi 12 con giáp ở
Việt Nam
, đại diện cho năm Mão. Trong 12 con giáp, có 7 con vật được thuần dưỡng từ lâu đời và đã trở thành vật nuôi trong nhà (trâu, mèo, ngựa, dê, gà, chó, lợn). Con mèo tuy không phải là vật nuôi mang lợi ích kinh tế, nhưng lại là người bạn thân thiết chuyên bắt chuột bảo vệ thành quả lao động của con người nên vẫn được con người yêu quý.
Ở Việt Nam, ý nghĩa hình tượng loài mèo trong văn hóa được thể hiện qua các dòng tranh dân gian rồi đi vào văn hóa nghệ thuật. Tranh khắc gỗ làng Đông Hồ ở Việt Nam có hai bức tranh “Đám cưới chuột” và “Trạng chuột vinh quy”. Hai bức tranh này gần giống nhau, người ta bắt gặp hình ảnh tiến sĩ chuột vinh quy cưới vợ, nhưng vẫn phải biếu quà cho chú mèo đang ngồi quặp đuôi vẻ hiền lành, đưa tay ra nhận chút quà mọn trong tiếng trống, tiếng kèn.
Hình ảnh con mèo không chỉ xuất hiện ở trong tranh Đông Hồ, mà người nghệ sĩ dân gian Việt Nam còn cho nó xuất hiện trên những bức chạm khắc ở những nơi chốn tôn nghiêm như đình làng Bình Lục – Quảng Ninh, cảnh mẹ con nhà mèo quây quần, chạm nổi ở bia chùa Linh Quang – Hải Phòng, đều đã phản ánh một nét tư duy của người xưa về con vật gần gũi này.
Tranh dân gian Đông Hồ “Đám cưới chuột”.
Mèo cũng là động vật đem lại cảm hứng cho võ thuật với dáng đi uyển chuyển, không tiếng động, êm như mèo, giỏi leo trèo, có khả năng nhảy vọt là nguồn cảm hứng môn khinh công. Võ mèo hay được gọi là miêu quyền cũng là một trong những môn võ hay, những động tác mô phỏng của mèo có thể chuyển hóa, phổ quát thành các bài võ, đòn thế tự vệ, chiến đấu hữu hiệu. Ở Việt Nam, võ mèo xuất hiện rất sớm và bài Miêu tẩy diện (mèo rửa mặt) là một trong những bài võ mèo tồn tại lâu đời với khoảng 32 động tác. Ngoài ra còn có một số bài võ mèo tiêu biểu như Linh miêu độc chiến và Bạch miêu quyền.
Trong phong thủy, mèo được coi là linh vật đem lại sự cát tường, thịnh vượng, có thể nhờ linh lực để hóa giải sát khí. Với những ý nghĩa biểu tượng lớn về phong thủy như vậy, người ta thường hay trưng bày tượng con mèo trong nhà với mong muốn cầu mong điều tốt đẹp, tài lộc về cho gia đình.
Và theo một lẽ tự nhiên, hình tượng con mèo đã đi vào thơ ca, ca dao, tục ngữ, trở thành hình ảnh trong các tác phẩm nghệ thuật, văn học, ca nhạc. Những câu ca dao, tục ngữ có hình ảnh con mèo như: “Tiu nghỉu như mèo cắt tai”, “Mèo khen mèo dài đuôi”, “Lèo nhèo như mèo vật đống rơm”, “Con mèo mà trèo cây cau/ Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà/ Chú chuột đi chợ đường xa/ Mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo”,… Mỗi câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ đều có ý nghĩa liên hệ đến con người, nhằm mục đích căn dặn, nhắc nhở con người sống tốt, tận dụng những bản năng, đức tính tốt đẹp của con mèo.
|
Cats are animals that are close to human life. Symbolic meaning
cat
There are also many unique points in culture.
Cats are one of the animals that humans have domesticated since very early times. Therefore, in human affection, cats are very familiar and close animals and have become pets of many families.
In different cultures around the world, the symbolic meaning of cats is very heterogeneous, both bad and good. This can be explained by the animal's gentle and pretentious attitude.
In Kabbale (Jewish legend) as well as in Buddhism, cats are associated with snakes: indicating sin, the abuse of benefits in this world. Cats are sometimes considered evil, for example they bring bad luck and even bad luck in many medieval cultures. Typically, there is the belief that if a black cat crosses someone's path, that person will have bad luck, or that cats are assistants to witches, helping them increase their power. This led to widespread cat extermination throughout Europe during the Middle Ages. They are used in sacrificial rituals as sacrifices. In Ireland, when a black cat passes in front of you, it means that illness will come. In Rome, Moldavia and
Czech Republic
, the notion that a black cat passing in front of you will bring bad luck still persists today.
Cats are very familiar and close animals and have become pets of many families.
But not everywhere in Europe, cats are at risk, on the contrary, they are also a symbol of luck. In Scotland, a strange black cat entering the house will bring prosperity to the homeowner. Sailors at
UK
believe in the luck that the cat will bring to their ship, especially the black cat. Sometimes, sailor wives also kept cats at home, hoping they would protect their husbands at sea.
In many cultures of the world, the cat is honored as a sacred animal. In the oldest texts, found in pyramids, there is mention of a cat goddess named Madfet. People
Egypt
The ancients also worshiped many other cat gods, but the most prominent was the cat god Bastet, in the form of a woman with a black cat's head. This is the patron god of women and children, admired and worshiped by the Egyptian people. The ancient Egyptians always believed that the cat goddess would protect everyone, so the image of the cat appeared everywhere in life and if an Egyptian farmer dreamed of a cat, it was a sign. before a good harvest.
In
Japan
, although cats are not in the 12 zodiac animals, cats are a symbol of luck. Through the famous story of "The Waving Cat", Tama saved a lord from being hit by a falling tree due to lightning. And today in Japan, this temple worshiping Tama the cat still exists.
LIVE
China
In ancient times, the cat was considered an auspicious animal and people imitated its movements, as well as the leopard, in agricultural dances. In Cambodia, people still lock cats in cages and walk around singing, carrying them from house to house to pray for rain.
Cat is the 4th mascot in the 12-zodiac Can Chi calendar
Vietnam
, representing the year of the Cat. Of the 12 zodiac animals, there are 7 animals that have been domesticated for a long time and have become domestic pets (buffalo, cat, horse, goat, chicken, dog, pig). Although the cat is not a pet that brings economic benefits, it is a close friend who specializes in catching mice and protecting the fruits of human labor, so it is still loved by humans.
In Vietnam, the meaning of the cat image in culture is expressed through folk paintings and then entered into artistic culture. Wood carvings of Dong Ho village in Vietnam have two paintings "Mouse's wedding" and "Mouse's honor". These two paintings are almost identical, people see the image of Dr. Mouse honorably getting married, but still having to give a gift to the cat who is sitting with his tail tucked in, looking gentle, reaching out his hand to receive a small gift amid the sound of drums and sounds. trumpet.
The image of a cat not only appears in Dong Ho paintings, but Vietnamese folk artists also let it appear on carvings in sacred places such as Binh Luc village communal house - Quang Ninh, mother and child scenes. The house where cats gather, embossed on the stele of Linh Quang pagoda - Hai Phong, all reflect a feature of the ancients' thinking about this familiar animal.
Dong Ho folk painting "Rat wedding".
Cats are also animals that inspire martial arts with their graceful, silent, cat-like gait, good at climbing, and the ability to leap, which is the source of inspiration for flying arts. Cat martial arts, also known as cat boxing, is also one of the best martial arts, the simulated movements of cats can be transformed and generalized into martial arts exercises, effective self-defense and combat moves. In Vietnam, cat martial arts appeared very early and the cat martial arts exercise (cat washing face) is one of the long-standing cat martial arts exercises with about 32 movements. There are also some typical cat martial arts such as Lynx solo battle and White cat fist.
In feng shui, cats are considered mascots that bring good luck and prosperity, and can use spiritual energy to neutralize evil spirits. With such great symbolic meanings in feng shui, people often display cat statues in their homes with the desire to pray for good things and fortune for their family.
And naturally, the image of the cat has entered poetry, folk songs, proverbs, and become images in works of art, literature, and music. Folk songs and proverbs have images of cats such as: "Tired like a cat with its ears cut off", "A cat praises a cat for its long tail", "Meaning like a cat wrestling with a pile of straw", "A cat climbing an areca tree/ Question visit the mouse who is away from home / The mouse goes to the market far away / Buy fish sauce, buy salt to commemorate the death of the cat's father",... Each folk song, proverb, and idiom has meaning related to people, for the purpose Advise and remind people to live well, taking advantage of the cat's good instincts and virtues.
|
Ở bất kỳ một vùng miền nào trên đất nước
Việt Nam
ta, mỗi khi Tết đến Xuân về các con, các cháu đem lễ vật để dâng cúng tổ tiên, các cụ, ông bà, cha mẹ…, luôn được xem là một nét đẹp truyền thống theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “chim có tổ, người có tông”…
Gửi lễ cúng Tết là một nét đẹp truyền thống theo đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “chim có tổ, người có tông” của người Việt.
Gửi lễ cúng Tết là một phong tục đã có từ hàng nghìn năm nay. Cách gửi lễ cúng Tết ở các vùng miền nước ta thường giống nhau, nghĩa là các anh chị em được sinh ra trong một gia đình, khi lấy vợ, gả chồng thành những gia đình nhỏ bé riêng biệt, khi Tết đến Xuân về thường mỗi nhà sắm sửa một số lễ vật mang tới nhà người con trưởng – người có trách nhiệm cúng giỗ thờ phụng cha mẹ, để dâng cúng cha mẹ (nếu cha mẹ đã khuất núi), hoặc cúng ông bà, tổ tiên (nếu bố mẹ còn sống).
Ở quy mô dòng tộc, các con, cháu các đời theo sự phân công đã định trong chi tộc, dòng họ cũng phải mang lễ vật đến một nhà “đầu ngành” để cúng Tết. Phong tục gửi lễ cúng Tết thường được duy trì tới 3-4 đời, tính từ hiện tại ngược về quá khứ. Cá biệt, có dòng họ, phong tục này được duy trì thậm chí 6-7 đời mới thôi…
Lễ vật mang đi cúng Tết thường không mang nhiều giá trị về vật chất, nhưng có ý nghĩa lớn về tâm linh, tinh thần, thể hiện lòng thành kính của con cháu hướng về tiên tổ. Thông thường lễ vật gửi cúng Tết là thẻ hương thơm, hộp hương vòng, kèm theo hộp mứt, gói bánh, chai rượu. Có một số vùng miền, lễ vật gửi cúng Tết là một số loại hoa quả, kèm theo bánh trái tự làm từ nguyên liệu sản xuất được.
Một số làng quê ở
Thái Bình
,
Nam Định
…, cách gửi lễ cúng Tết cũng khá lạ, bắt buộc phải có một cặp bánh chưng vuông. Dù có đủ đầy các thứ như bánh kẹo, mứt, hương…, mà thiếu bánh chưng thì coi như lễ vật chưa đủ đầy.
Hay như một số bản làng ở các tỉnh Miền núi phía bắc, tập tục mang lễ vật gửi cúng Tết bao giờ cũng phải có một gói thịt thú rừng hong khô, kèm theo một vò rượu ngô nhỏ…
Một phong tục đẹp nữa của người Việt trong ngày Tết cổ truyền là phong tục đi chúc Tết.
Vào dịp đầu xuân năm mới, gia đình nào cũng rất chú trọng việc đi chúc Tết, bởi đây là một phong tục, một nghi thức không thể thiếu được. Việc chúc Tết các thành viên trong mỗi gia đình dòng họ, xóm giềng, bè bạn… thường phải được thực hiện trước, rồi mới đi chơi Tết, du Xuân trẩy hội.
Dù bận bịu đến đâu nhưng bắt đầu từ sáng sớm ngày đầu năm mới, và kéo dài cho tới hết mấy ngày Tết, các gia đình luôn cố gắng tụ họp các thế hệ để cùng nhau đi chúc Tết, từ nhà này sang nhà khác, từ làng trên xuống xóm dưới, từ trong thành phố ra tới tận các vùng ngoại ô. Vào nhà nào dịp Tết cũng đều nghe những lời chúc, câu chúc rộn ràng kèm nụ cười tươi rói.
Phong tục đi chúc
Tết
là nét đẹp văn hóa chứa đựng chất xúc tác, gắn kết tình cảm keo sơn giữa các gia đình, anh em trong dòng họ, xóm làng, bạn bè với nhau…
(Đại học Văn hóa)
|
In any region of the country
Vietnam
For us, every time Spring comes, our children and grandchildren bring offerings to their ancestors, grandparents, parents, etc., which is always considered a traditional beauty according to the principle "When you drink water, remember its source." , “birds have nests, people have tribes”…
Sending Tet offerings is a traditional beauty according to the Vietnamese philosophy of "When drinking water, remember its source" and "birds have nests, people have ancestors."
Sending Tet offerings is a custom that has been around for thousands of years. The way to send Tet offerings in different regions of our country is often the same, meaning that siblings are born in one family, when they get married, they form separate small families, and when Tet comes, Spring usually comes. Each family prepares a number of offerings to bring to the house of the eldest son - the person responsible for making offerings to the parents on their death anniversary, to worship the parents (if the parents have passed away), or to worship the grandparents and ancestors (if the father has passed away). mother is still alive).
At the clan scale, children and grandchildren of all generations, according to the assigned assignment within the clan or family, must also bring offerings to a "leading" house to worship during Tet. The custom of sending Tet offerings is often maintained for 3-4 generations, counting from the present to the past. In particular, in some families, this custom is maintained for even 6-7 generations...
Offerings brought to worship during Tet usually do not have much material value, but have great spiritual and spiritual significance, expressing the respect of descendants towards their ancestors. Normally, the offerings sent for Tet are scented cards, incense rings, along with jam boxes, cake packages, and wine bottles. In some regions, Tet offerings are some types of fruits, accompanied by homemade fruit cakes made from produced ingredients.
Some rural villages live
Peaceful
,
Nam Dinh
..., the way to send Tet offerings is also quite strange, requiring a pair of square banh chung. Even if there are enough things like candy, jam, incense, etc., without banh chung, the offering is considered incomplete.
Or like some villages in the Northern Mountainous provinces, the custom of bringing offerings for Tet always includes a package of dried wild animal meat, accompanied by a small jar of corn wine...
Another beautiful custom of Vietnamese people during the traditional Tet holiday is the custom of giving New Year wishes.
At the beginning of the new year, every family pays great attention to going to celebrate the New Year, because this is an indispensable custom and ritual. Wishing New Year to members of each family, clan, neighbors, friends... usually must be done first, and then going to Tet and Spring festivals.
No matter how busy they are, starting early in the morning on the first day of the New Year, and lasting until the end of the Tet days, families always try to gather generations to celebrate the New Year together, from house to house. , from the upper village to the lower hamlet, from the city to the suburbs. Every home you enter during Tet, you will hear bustling wishes and greetings accompanied by bright smiles.
The custom of giving wishes
Tet
is a cultural beauty that contains a catalyst, connecting strong emotions between families, clan brothers, villages, friends...
(University culture)
|
Là tỉnh ven biển, có nhiều lợi thế trong phát triển kinh tế biển, những năm qua
tỉnh Thái Bình
đã tập trung thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp. Nhân dịp đầu Xuân mới Quý Mão 2023, đã có cuộc trao đổi với đồng chí Ngô Đông Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình về những định hướng trong thu hút đầu tư phát triển kinh tế – xã hội ở tỉnh có tiếng là ‘vựa lúa’ vùng đồng bằng sông Hồng.
Đông chí Ngô Đông Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình. Ảnh: TTXVN.
Thưa đồng chí, những năm gần đây, Thái Bình đã tập trung mũi nhọn vào lĩnh vực gì để giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế – xã hội địa phương?
Trong hai năm 2021 – 2022, tỉnh Thái Bình đã có nhiều nỗ lực, cố gắng thực hiện mục tiêu kép là giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế sự lây lan của dịch bệnh COVID-19, không để dịch bùng phát; tiếp tục duy trì, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập toàn diện về mọi mặt.
Điển nổi bật của tỉnh Thái Bình trong hai năm qua, đó là tốc độ tăng trưởng GRDP đều nằm trong nhóm cao ở khu vực. Trong đó năm 2021 là 7,25%, năm 2022 tăng trưởng trên 9,52%; thu hút FDI trên 700 triệu USD.
Đây là những tiền đề để năm 2023 Thái Bình bắt tay vào đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế – xã hội và có những bước phát triển bứt phá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đã đề ra.
Mặt khác, do có sự chỉ đạo quyết liệt mà hai năm rưỡi của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, kinh tế địa phương vẫn giữ ổn định; trong đó có sự chuẩn bị rất dày công cả về năng lực quản lý, về chương trình, kế hoạch, quy hoạch, về môi trường đầu tư.
Cũng trong hơn 2 năm qua, tỉnh Thái Bình đã tăng cường thu hút đầu tư, song song với việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng, phát triển hạ tầng, làm tốt công tác xúc tiến đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Nhờ đó mà hạ tầng kinh tế xã hội của tỉnh đã được cải thiện một bước với nhiều tuyến đường huyết mạch quan trọng đã được khởi công và đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đi vào hoàn thành trong năm 2023.
Tỉnh cũng đã xúc tiến, tiếp xúc rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư đến các đối tác quan trọng như
Nhật Bản
,
Hàn Quốc
, Đài Loan (
Trung Quốc
),
Singapore
… Đến nay đã có nhiều nhà đầu tư quan tâm tìm hiểu và tiến tới ký kết biên bản thỏa thuận hợp tác với tỉnh Thái Bình.
Mặt khác, tỉnh Thái Bình cũng đã đẩy mạnh việc hoàn thành quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh cũng như các chương trình, kế hoạch trọng điểm khác. Đó là những tiền đề và định hướng để tiến tới thực hiện thành công mục tiêu tổng quát mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XX đề ra, sớm đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế – xã hội trở thành tỉnh phát triển khá và sẽ trở thành tỉnh phát triển mạnh khu vực đồng bằng sông Hồng.
Vậy trong năm 2023, tỉnh Thái Bình đặt ra những nhiệm vụ cụ thể nào để đạt được mục tiêu đã đề ra, thưa đồng chí?
Mục tiêu, nhiệm vụ năm 2023 là hết sức nặng nề nhưng rất quan trọng. Chắc chắn đây sẽ là một năm mà tỉnh Thái Bình bứt phá vươn lên.
Trước hết, đó là nhiều dự án quan trọng trong tỉnh sẽ đi vào hoạt động. Một số dự án đầu tư đã được khởi công đầu tư trong hơn 1 năm qua sẽ sớm đi vào hoạt động nhằm phát huy hiệu quả sau đầu tư, như dự án Khu công nghiệp Liên Hà Thái, Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, một số dự án đầu tư xây dựng ở các doanh nghiệp trong tỉnh.
Thứ hai, năm 2023 cũng là năm mà tỉnh Thái Bình tập trung đi sâu vào chuyển đổi phát triển nông nghiệp. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ đã được định hình trong những năm qua, nay đang được nhân rộng và đầu tư chiều sâu. Đây sẽ là những mô hình và dự án góp phần nâng cao giá trị nông sản của tỉnh, nhất là cây lúa; trong đó có cả dự án mà Công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình SEED hợp tác quốc tế với Nhật Bản sẽ được triển khai đi vào hoạt động.
Mặt khác, đây cũng chính là điều kiện quan trọng để người dân ở khu vực nông thôn có điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững với giá trị cao và nâng cao thu nhập. Qua đó nâng cao đời sống của một bộ phận nhân dân ở nông thôn.
Cũng trong năm 2023, Thái Bình sẽ đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện hạ tầng một số cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo hướng đảm bảo hạ tầng đồng bộ, đạt tiêu chuẩn. Qua đó, tỉnh cũng sẽ cấp phép một số dự án sản xuất gắn với khu vực nông thôn để giải quyết việc làm cho người dân khu vực nông thôn. Từ đó giúp cho những lao động thiếu việc làm, khi trở về quê hương có việc làm kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn và giải quyết được tình trạng dư thừa lao động nông nhàn; góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển khu vực nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân…
Đặc biệt, năm 2023 cũng là năm Thái Bình tập trung sớm ký kết thỏa thuận hợp tác với một số địa phương của Hàn Quốc. Theo đó, phía bạn đã cơ bản thống nhất cao với một số định hướng trong việc trao đổi lao động, nhất là lao động khu vực nông nghiệp ở những thời điểm nhất định sẽ được đưa đi xuất khẩu lao động ngắn hạn sang Hàn Quốc, góp phần cải thiện thu nhập cho người dân.
Cuối cùng, năm 2023 cũng là năm định hình các hoạt động văn hóa xã hội quay trở lại bình thường sau đại dịch COVID-19. Tỉnh đã có chủ trương đưa các hoạt động văn hóa – xã hội không chỉ trở lại bình thường mà còn đầu tư chiều sâu, thấm sâu vào trong đời sống dân cư nông thôn. Tiếp tục tạo động lực, tinh thần và điều kiện đầu tư các thiết chế văn hóa cho người dân khu vực nông thôn có đời sống văn hóa phong phú cả về vật chất và tinh thần.
Ngày 8/5/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn công tác đến khảo sát tình hình đầu tư xây dựng và hoạt động của Khu Kinh tế Thái Bình tại huyện Thái Thụy.Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Thưa đồng chí, tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình – Nam Định – Thái Bình – Hải Phòng được Chính phủ quyết định đầu tư xây dựng. Khi hoàn thiện và đưa vào sử dụng, chúng ta kỳ vọng gì để đưa kinh tế biển của Thái Bình phát triển?
Thái Bình hiện nay đang tập trung đẩy nhanh hoàn thiện một số dự án hạ tầng thiết yếu, trong đó chủ động xây dựng một số tuyến đường kết nối trực tiếp sang Hải Phòng thông qua Quốc lộ 37B và Quốc lộ 5B.
Tỉnh Thái Bình tiếp tục tăng cường kết nối với các địa phương như
Hải Dương
, Nam Định và đặc biệt là phấn đấu hoàn thành đẩy nhanh tiến độ sớm hoàn thiện tuyến đường bộ ven biển kết nối với
tỉnh Nam Định
và
TP Hải Phòng
.
Mặt khác, Thái Bình cũng đang triển khai thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, đó là triển khai đầy đủ tất cả các thủ tục sớm có thể lựa chọn được đơn vị tư vấn, nhà đầu tư BOT để triển khai xây dựng tuyến đường bộ cao tốc từ Ninh Bình đi Hải Phòng, trong đó đoạn đi qua địa bàn Thái Bình.
Trên tuyến cao tốc này sẽ có 3 nút giao nằm trên địa bàn tỉnh Thái Bình, nếu được triển khai thi công đúng theo tiến độ sẽ góp phần mở ra không gian giao thương phát triển vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Hồng và là tuyến giao thông huyết mạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh tạo ra không gian phát triển mới.
Tỉnh Thái Bình đang tiếp tục tranh thủ thu hút các nguồn lực và huy động nguồn lực nội sinh trong tỉnh, đây là điều hết sức quan trọng. Chúng tôi đã và đang chủ động việc này.
Thời gian qua, Thái Bình cũng đã khởi công được 4 tuyến đường huyết mạch quan trọng trong nội tỉnh. Ví dụ như tuyến đường nối từ thành phố Thái Bình đi cầu Nghìn, tuyến đường từ thành phố Thái Bình đi Cồn Vành và 5 tuyến đường trục trong khu kinh tế. Đây chính là những động lực trước mắt và lâu dài để đẩy nhanh phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!
|
Là tỉnh ven biển, có nhiều lợi thế trong phát triển kinh tế biển, những năm qua
tỉnh Thái Bình
đã tập trung thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tăng tỷ trọng phát triển công nghiệp. Nhân dịp đầu Xuân mới Quý Mão 2023, đã có cuộc trao đổi với đồng chí Ngô Đông Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình về những định hướng trong thu hút đầu tư phát triển kinh tế – xã hội ở tỉnh có tiếng là ‘vựa lúa’ vùng đồng bằng sông Hồng.
Đông chí Ngô Đông Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình. Ảnh: TTXVN.
Thưa đồng chí, những năm gần đây, Thái Bình đã tập trung mũi nhọn vào lĩnh vực gì để giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế – xã hội địa phương?
Trong hai năm 2021 – 2022, tỉnh Thái Bình đã có nhiều nỗ lực, cố gắng thực hiện mục tiêu kép là giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế sự lây lan của dịch bệnh COVID-19, không để dịch bùng phát; tiếp tục duy trì, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập toàn diện về mọi mặt.
Điển nổi bật của tỉnh Thái Bình trong hai năm qua, đó là tốc độ tăng trưởng GRDP đều nằm trong nhóm cao ở khu vực. Trong đó năm 2021 là 7,25%, năm 2022 tăng trưởng trên 9,52%; thu hút FDI trên 700 triệu USD.
Đây là những tiền đề để năm 2023 Thái Bình bắt tay vào đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế – xã hội và có những bước phát triển bứt phá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đã đề ra.
Mặt khác, do có sự chỉ đạo quyết liệt mà hai năm rưỡi của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, kinh tế địa phương vẫn giữ ổn định; trong đó có sự chuẩn bị rất dày công cả về năng lực quản lý, về chương trình, kế hoạch, quy hoạch, về môi trường đầu tư.
Cũng trong hơn 2 năm qua, tỉnh Thái Bình đã tăng cường thu hút đầu tư, song song với việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng, phát triển hạ tầng, làm tốt công tác xúc tiến đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Nhờ đó mà hạ tầng kinh tế xã hội của tỉnh đã được cải thiện một bước với nhiều tuyến đường huyết mạch quan trọng đã được khởi công và đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đi vào hoàn thành trong năm 2023.
Tỉnh cũng đã xúc tiến, tiếp xúc rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư đến các đối tác quan trọng như
Nhật Bản
,
Hàn Quốc
, Đài Loan (
Trung Quốc
),
Singapore
… Đến nay đã có nhiều nhà đầu tư quan tâm tìm hiểu và tiến tới ký kết biên bản thỏa thuận hợp tác với tỉnh Thái Bình.
Mặt khác, tỉnh Thái Bình cũng đã đẩy mạnh việc hoàn thành quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh cũng như các chương trình, kế hoạch trọng điểm khác. Đó là những tiền đề và định hướng để tiến tới thực hiện thành công mục tiêu tổng quát mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XX đề ra, sớm đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế – xã hội trở thành tỉnh phát triển khá và sẽ trở thành tỉnh phát triển mạnh khu vực đồng bằng sông Hồng.
Vậy trong năm 2023, tỉnh Thái Bình đặt ra những nhiệm vụ cụ thể nào để đạt được mục tiêu đã đề ra, thưa đồng chí?
Mục tiêu, nhiệm vụ năm 2023 là hết sức nặng nề nhưng rất quan trọng. Chắc chắn đây sẽ là một năm mà tỉnh Thái Bình bứt phá vươn lên.
Trước hết, đó là nhiều dự án quan trọng trong tỉnh sẽ đi vào hoạt động. Một số dự án đầu tư đã được khởi công đầu tư trong hơn 1 năm qua sẽ sớm đi vào hoạt động nhằm phát huy hiệu quả sau đầu tư, như dự án Khu công nghiệp Liên Hà Thái, Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, một số dự án đầu tư xây dựng ở các doanh nghiệp trong tỉnh.
Thứ hai, năm 2023 cũng là năm mà tỉnh Thái Bình tập trung đi sâu vào chuyển đổi phát triển nông nghiệp. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ đã được định hình trong những năm qua, nay đang được nhân rộng và đầu tư chiều sâu. Đây sẽ là những mô hình và dự án góp phần nâng cao giá trị nông sản của tỉnh, nhất là cây lúa; trong đó có cả dự án mà Công ty Cổ phần tập đoàn Thái Bình SEED hợp tác quốc tế với Nhật Bản sẽ được triển khai đi vào hoạt động.
Mặt khác, đây cũng chính là điều kiện quan trọng để người dân ở khu vực nông thôn có điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững với giá trị cao và nâng cao thu nhập. Qua đó nâng cao đời sống của một bộ phận nhân dân ở nông thôn.
Cũng trong năm 2023, Thái Bình sẽ đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện hạ tầng một số cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo hướng đảm bảo hạ tầng đồng bộ, đạt tiêu chuẩn. Qua đó, tỉnh cũng sẽ cấp phép một số dự án sản xuất gắn với khu vực nông thôn để giải quyết việc làm cho người dân khu vực nông thôn. Từ đó giúp cho những lao động thiếu việc làm, khi trở về quê hương có việc làm kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn và giải quyết được tình trạng dư thừa lao động nông nhàn; góp phần đẩy nhanh tiến trình phát triển khu vực nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân…
Đặc biệt, năm 2023 cũng là năm Thái Bình tập trung sớm ký kết thỏa thuận hợp tác với một số địa phương của Hàn Quốc. Theo đó, phía bạn đã cơ bản thống nhất cao với một số định hướng trong việc trao đổi lao động, nhất là lao động khu vực nông nghiệp ở những thời điểm nhất định sẽ được đưa đi xuất khẩu lao động ngắn hạn sang Hàn Quốc, góp phần cải thiện thu nhập cho người dân.
Cuối cùng, năm 2023 cũng là năm định hình các hoạt động văn hóa xã hội quay trở lại bình thường sau đại dịch COVID-19. Tỉnh đã có chủ trương đưa các hoạt động văn hóa – xã hội không chỉ trở lại bình thường mà còn đầu tư chiều sâu, thấm sâu vào trong đời sống dân cư nông thôn. Tiếp tục tạo động lực, tinh thần và điều kiện đầu tư các thiết chế văn hóa cho người dân khu vực nông thôn có đời sống văn hóa phong phú cả về vật chất và tinh thần.
Ngày 8/5/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn công tác đến khảo sát tình hình đầu tư xây dựng và hoạt động của Khu Kinh tế Thái Bình tại huyện Thái Thụy.Ảnh: Dương Giang/TTXVN.
Thưa đồng chí, tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình – Nam Định – Thái Bình – Hải Phòng được Chính phủ quyết định đầu tư xây dựng. Khi hoàn thiện và đưa vào sử dụng, chúng ta kỳ vọng gì để đưa kinh tế biển của Thái Bình phát triển?
Thái Bình hiện nay đang tập trung đẩy nhanh hoàn thiện một số dự án hạ tầng thiết yếu, trong đó chủ động xây dựng một số tuyến đường kết nối trực tiếp sang Hải Phòng thông qua Quốc lộ 37B và Quốc lộ 5B.
Tỉnh Thái Bình tiếp tục tăng cường kết nối với các địa phương như
Hải Dương
, Nam Định và đặc biệt là phấn đấu hoàn thành đẩy nhanh tiến độ sớm hoàn thiện tuyến đường bộ ven biển kết nối với
tỉnh Nam Định
và
TP Hải Phòng
.
Mặt khác, Thái Bình cũng đang triển khai thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, đó là triển khai đầy đủ tất cả các thủ tục sớm có thể lựa chọn được đơn vị tư vấn, nhà đầu tư BOT để triển khai xây dựng tuyến đường bộ cao tốc từ Ninh Bình đi Hải Phòng, trong đó đoạn đi qua địa bàn Thái Bình.
Trên tuyến cao tốc này sẽ có 3 nút giao nằm trên địa bàn tỉnh Thái Bình, nếu được triển khai thi công đúng theo tiến độ sẽ góp phần mở ra không gian giao thương phát triển vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Hồng và là tuyến giao thông huyết mạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh tạo ra không gian phát triển mới.
Tỉnh Thái Bình đang tiếp tục tranh thủ thu hút các nguồn lực và huy động nguồn lực nội sinh trong tỉnh, đây là điều hết sức quan trọng. Chúng tôi đã và đang chủ động việc này.
Thời gian qua, Thái Bình cũng đã khởi công được 4 tuyến đường huyết mạch quan trọng trong nội tỉnh. Ví dụ như tuyến đường nối từ thành phố Thái Bình đi cầu Nghìn, tuyến đường từ thành phố Thái Bình đi Cồn Vành và 5 tuyến đường trục trong khu kinh tế. Đây chính là những động lực trước mắt và lâu dài để đẩy nhanh phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Xin trân trọng cảm ơn đồng chí!
|
Thung lũng Tú Lệ nằm lọt thỏm giữa ba ngọn núi cao là Khau Phạ, Khau Thán và Khau Song, nên biên độ dao động nhiệt độ trong ngày lớn, đêm vì thế cũng dài hơn ngày.
Với khí hậu mát mẻ, Tú Lệ như được trời ban cho đặc sản gạo nếp nức tiếng và các cách chế biến không đâu sánh bằng. Nếp Tú Lệ khi đồ lên thành xôi có vị ngon ngọt và dẻo thơm đặc biệt, rời từng hạt, khi chế biến thành cốm thì lại có hương vị ngọt ngào và thanh mát.
Theo tiếng của người Thái, loại nếp này còn gọi là nếp Tan Lả, một đặc sản chỉ có ở thung lũng Tú Lệ. Truyền thuyết xưa kể rằng, tổ tiên người Thái được tiên ban cho giống nếp quý kèm theo lời dặn tìm nơi đất tốt để gieo trồng sẽ cho gạo dẻo, thơm, ngon.
Vâng lời tiên dạy, tổ tiên người Thái đã đi khắp vùng Tây Bắc, hễ thấy nơi nào đất tốt thì gieo trồng thử, nhưng đều không được như ý. Khi đến chân đèo Khau Phạ, nơi có dòng nước mát thơm của con suối Nậm Lung và đất đai thung lũng Tú Lệ màu mỡ, như gặp được đất của trời, giống lúa tiên lúc đó mới “khoe” hết đặc tính quý hiếm của mình.
Trong thung lũng Tú Lệ, lúa nếp được gieo trồng ở bản Phạ trên (trời cao) và Phạ dưới (trời thấp) là cho chất lượng thơm ngon nhất. Do được nuôi dưỡng trên những cánh đồng màu mỡ của Phạ (trời), nên nếp Tú Lệ có nhiều đặc tính hiếm quý là khi nấu lên thơm ngon, dẻo lâu, vị đậm, ngậy, đặc biệt cơm xôi có hương thơm ngào ngạt mang đặc trưng riêng của mảnh đất Mường Trời. Bởi vậy, đã từ bao đời nay nếp Tú Lệ được đồng bào người Thái nơi đây nâng niu, gìn giữ như “hạt ngọc Trời ban”.
Cánh đồng lúa nếp Tan Lả.
Gạo nếp Tú Lệ là loại gạo có hạt mẩy, hương thơm và vị ngọt đậm đà. Gạo khi đồ chín cho hạt xôi trắng, căng bóng rất hấp dẫn, xôi vẫn dẻo dù để nguội. Khi nấu xôi nếp Tú Lệ không cần phải thêm đỗ, thêm dừa cho đậm đà mùi vị, chỉ cần xôi gạo không thôi đã có thể thấy hết sự mộc mạc của núi rừng, sự tinh túy của trời đất. Nếp Tú Lệ khi nấu có mùi thơm mát, nồng nàn, để nguội vẫn giữ được độ dẻo và mùi thơm như mới.
Không chỉ vậy, gạo nếp Tú Lệ có hàm lượng tinh bột, đạm, protein và chất xơ cao, giúp bổ sung năng lượng tuyệt đối cho cơ thể. Ngoài ra, loại gạo nếp này còn chứa hàm lượng rất cao chất chống oxy hóa anthocyanin – một chất có tiềm năng chống lại bệnh ung thư, tim mạch và nhiều bệnh khác.
Người dân Tú Lệ thu hoạch nếp vụ mùa mới.
Nếp Tú Lệ còn là nguyên liệu làm nên những hạt cốm “biểu tượng” của mảnh đất Yên Bái. Từ gạo nếp Tú Lệ, để làm ra những hạt cốm còn giữ nguyên được hương vị đậm đà, thơm mát, mang nét đặc trưng của vùng cao Yên Bái thì khâu chế biến đặc biệt quan trọng. Các công đoạn làm cốm rất cầu kỳ và vất vả.
Từ sáng sớm tinh mơ, khi tiếng gà vừa gáy, những giọt sương mai còn vương trên cỏ cây hoa lá, những cô gái Thái ở Tú Lệ đã ra đồng thu hoạch những bông lúa nếp non gần hết nước trắng sữa mang về nhà và chế biến ngay trong ngày bởi nếu để sang ngày hôm sau hạt cốm sẽ không còn xanh non, thơm dẻo nữa.
Sau khi cắt về những bông lúa lại được chọn lựa một lần nữa, chỉ lấy những bông lúa chín vừa mới làm được cốm ngon, còn bông già thì không làm được. Sau khi tuốt thì loại bỏ hạt lép rồi mới đem rang trong chảo lớn, giữ lửa vừa và đảo đều tay trong khoảng 30 phút, đến khi nứt hạt và dậy mùi thơm. Đây được coi là công đoạn quan trọng quyết định độ thơm ngon của hạt cốm Tú Lệ.
Để giã cốm nếp Tú Lệ cũng cần phải có kỹ thuật. Chân của người giã cốm phải thật đều, nhịp nhàng để lực chày giã không được mạnh quá và cũng không được nhẹ quá; đồng thời, cần một người thực hiện việc đảo thóc ở trong cối. Nếu thấy có trấu thì lại xúc ra sảy vỏ, sau đó mới bỏ vào và tiếp tục giã.
Tùy theo độ non của lúa khi gặt, mà người giã cốm sẽ ước lượng. Trung bình khoảng 10 lần giã mới hoàn tất mẻ cốm. Cốm giã xong được gói trong lá dong xanh, vừa tăng thêm màu xanh của cốm, vừa lưu giữ mùi thơm của lúa.
Đập lúa.
Hiện người dân của các thôn bản trong xã Tú Lệ đều sản xuất cốm với sản lượng trung bình mỗi mùa khoảng 40 tạ. Cốm Tú Lệ đã trở thành sản phẩm hàng hóa nổi tiếng khắp mọi miền. Trung bình một ngày, mỗi gia đình ở bản Nà Lóng làm được khoảng 20 kg cốm với giá bán 100.000 đồng/kg. Đây là một nguồn thu nhập chính, giúp cuộc sống của người dân nơi đây ngày càng khấm khá hơn.
Hàng năm, vào tháng 8 Âm lịch, bà con trong các bản làng người Thái, xã Tú Lệ lại tổ chức lễ “Mừng cơm mới”. Với lòng thành kính và biết ơn tổ tiên, trời đất đã phù hộ cho nhân dân được mùa màng bội thu, cuộc sống sung túc, đầy đủc, các thôn bản đều chuẩn bị lễ vật để làm lễ cúng “Mừng cơm mới”.
Màn cúng chính do thầy mo phụ trách để xin các bậc thần linh, tổ tiên phù hộ và cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, bà con trong bản khỏe mạnh, sung túc, sống vui vẻ, chan hòa. Sau lễ cúng mừng cơm mới là phần hội; trong đó phần chính là hội thi giã cốm. Hội thi giã cốm có sự tham gia của các đội thi đến từ 9 thôn bản của xã Tú Lệ.
Ngay từ sáng sớm, các cô gái và chàng trai của mỗi đội thi đã ra đồng gặt những bông lúa còn đẫm sương đêm mang về làm cốm. Sau khi chọn lúa, suốt hạt, mỗi đội có 4 thí sinh tham gia phần thi giã cốm thơm, dẻo ngon, màu sắc đẹp và thi gói cốm. Dưới bàn tay khéo léo, phối hợp nhịp nhàng của các cô gái, chàng trai các khâu chọn lúa, rang thóc, đến giã cốm đều được thể hiện thuần thục, thu hút đông đảo du khách thập phương tham quan.
Với người dân Tú Lệ, cốm không chỉ là một món đặc sản giúp cuộc sống bản làng thêm ấm no, sung túc mà đã trở thành biểu tượng văn hóa, làm nên một phần thương hiệu của mảnh đất vùng cao Yên Bái.
Sảy vỏ trấu trước khi đem giã.
Cốm giã xong được gói trong lá dong xanh, vừa tăng thêm màu xanh của cốm, vừa lưu giữ mùi thơm của lúa.
Những bông lúa chín vừa mới làm được cốm ngon.
|
Tu Le Valley is located between three high mountains, Khau Pha, Khau Than and Khau Song, so the amplitude of temperature fluctuations during the day is large, and nights are therefore longer than days.
With a cool climate, Tu Le is blessed with famous sticky rice specialties and unmatched cooking methods. Tu Le sticky rice when cooked into sticky rice has a special sweet and fragrant taste, separated from each grain. When processed into green rice, it has a sweet and refreshing flavor.
In the Thai language, this type of sticky rice is also called Tan La sticky rice, a specialty only found in Tu Le valley. Ancient legend has it that the ancestors of the Thai people were given precious sticky rice seeds with instructions to find good land to plant so that the rice would be sticky, fragrant, and delicious.
Obeying the teachings of the ancestors, the Thai ancestors traveled throughout the Northwest region. Whenever they saw good soil, they tried to plant crops, but everything was not as expected. When you reach the foot of Khau Pha pass, where there is the cool, fragrant water of the Nam Lung stream and the fertile land of Tu Le valley, as if encountering heaven's land, the fairy rice variety then "shows off" all its rare characteristics. me.
In Tu Le valley, sticky rice is grown in the upper Pha (high sky) and lower Pha (low sky) villages for the most delicious quality. Because it was raised on the fertile fields of Pha (heaven), Tu Le sticky rice has many rare characteristics: when cooked, it is delicious, long-lasting, rich and creamy, especially sticky rice has a sweet aroma. bearing the unique characteristics of the land of Muong Troi. Therefore, for many generations, Tu Le sticky rice has been cherished and preserved by the Thai people here like a "jewel given by God".
Tan La sticky rice fields.
Tu Le sticky rice is a type of rice with plump grains, rich aroma and sweetness. When rice is cooked, the grains are white and shiny, very attractive, and the sticky rice remains sticky even when cooled. When cooking Tu Le sticky rice, there is no need to add beans or coconut for rich flavor, just sticky rice alone can show all the simplicity of the mountains and forests, the essence of heaven and earth. When cooked, Tu Le sticky rice has a cool, passionate aroma. When cooled, it still retains its elasticity and aroma like new.
Not only that, Tu Le sticky rice has high levels of starch, protein, protein and fiber, helping to replenish absolute energy for the body. In addition, this type of sticky rice also contains very high levels of the antioxidant anthocyanin - a substance that has the potential to fight cancer, cardiovascular disease and many other diseases.
Tu Le people harvest the new sticky rice crop.
Tu Le sticky rice is also the raw material to make the "symbolic" green rice grains of Yen Bai land. From Tu Le sticky rice, to make green rice grains that still retain the rich, fragrant flavor and characteristics of the Yen Bai highlands, the processing step is especially important. The stages of making green rice are very complicated and difficult.
From early in the morning, when the rooster crowed and drops of morning dew still lingered on the grass and flowers, the Thai girls in Tu Le went to the fields to harvest the young sticky rice flowers that were almost empty of milky white water and brought them home. Process it on the same day because if you leave it until the next day, the grains will no longer be green and fragrant.
After cutting, the rice flowers are selected again, only the ripe rice flowers that can make delicious rice flakes are taken, and the old rice flowers cannot be made. After plucking, remove the flat seeds and then roast them in a large pan, keep medium heat and stir regularly for about 30 minutes, until the seeds crack and become fragrant. This is considered an important step that determines the deliciousness of Tu Le green rice grains.
To pound Tu Le sticky rice, you also need technique. The feet of the person pounding green rice must be even and rhythmic so that the force of the pounding pestle is neither too strong nor too light; At the same time, one person is needed to stir the rice in the mortar. If you see any husks, scoop them out and remove the husks, then put them in and continue pounding.
Depending on the maturity of the rice when harvested, the person pounding the rice will estimate it. On average, it takes about 10 pounding times to complete a batch of green rice. After the crushed green rice is wrapped in green dong leaves, it not only enhances the green color of the green rice but also preserves the aroma of rice.
Thresh.
Currently, people in the villages in Tu Le commune produce green rice with an average output of about 40 quintals per season. Tu Le green rice has become a famous product in all regions. On average a day, each family in Na Long village makes about 20 kg of green rice with a selling price of 100,000 VND/kg. This is a main source of income, helping the lives of people here become increasingly better.
Every year, in the 8th lunar month, people in Thai villages and Tu Le commune organize the "Celebrating new rice" ceremony. With respect and gratitude to the ancestors, heaven and earth have blessed the people with a bountiful harvest and a prosperous and fulfilling life. The villages prepare offerings to make the "Celebrating New Rice" worship ceremony.
The main worshiping ceremony is conducted by the shaman to ask for the blessings of the gods and ancestors and pray for good weather, good crops, and people in the village are healthy, prosperous, and live happily and harmoniously. After the rice worshiping ceremony comes the festival; The main part is the green rice pounding contest. The green rice pounding contest had the participation of teams from 9 villages of Tu Le commune.
From early morning, the girls and boys of each competing team went to the fields to harvest rice flowers still drenched in dew at night to bring back to make green rice. After selecting rice and whole grains, each team has 4 contestants participating in the contest of pounding fragrant, delicious, and colorful green rice and the rice-packing contest. Under the skillful and well-coordinated hands of the girls and boys, the steps of selecting rice, roasting rice, and pounding green rice are all skillfully performed, attracting a large number of tourists from all over.
For the people of Tu Le, green rice is not only a specialty that helps make village life more prosperous and prosperous, but has become a cultural symbol, forming part of the brand of the highland land of Yen Bai.
Peel the rice husk before pounding it.
The crushed green rice is wrapped in green dong leaves, which not only enhances the green color of the green rice but also preserves the aroma of rice.
Just ripe rice flowers can make delicious green rice.
|
5 vật thể lạ hoàn toàn mới được tìm thấy ở sa mạc Băng Xanh của Nam Cực. Các nhà khoa học tin rằng chúng có thể nắm giữ câu trả lời cho sự hình thành của trái đất và cả hệ mặt trời.
Theo
Sci-News,
một nhóm nghiên cứu quốc tế đã dùng dữ liệu vệ tinh để xác định vị trí tiềm năng của những “kẻ xâm nhập” tại vũ trụ, điều đã giúp họ tìm ra 5 vật thể hoàn toàn mới trong chuyến thám hiểm Nam Cực, bao gồm một khối đá không gian nặng tới 7,6 kg.
Khu vực họ tìm thấy các thiên thạch thú vị này là Blue Ice của Nam Cực. Cái tên có nghĩa là “Băng Xanh” này được dùng để chỉ một vùng đặc biệt trên lục địa sa mạc băng rộng lớn, nơi có gió cực mạnh khiến các sông băng bị xói mòn.
Tảng thiên thạch 7,6 kg được chụp tại hiện trường ở Nam Cực – Ảnh: Maria Valdes
“Nam Cực là một nơi khó làm việc nhưng là một trong những nơi tốt nhất trên thế giới để săn thiên thạch. Điều đó một phần do Nam Cực là sa mạc và khí hậu khô hạn của nó hạn chế mức độ phong hóa của thiên thạch” – tiến sĩ Maria Valdes đến từ Bảo tàng Field và Đại học Chicago (
Mỹ
), thành viên nhóm săn tìm thiên thạch đặc biệt – nói.
Trong chuyến thám hiểm mới nhất, họ đã đem về 5 thiên thạch, trong đó đáng chú ý nhất là một tảng đá khổng lồ nặng tới 7,6 kg. Trong số 45.000 thiên thạch Nam Cực được khai quật trong thế kỷ qua, chỉ có 100 mẫu vật có kích thước cỡ này.
Ngoài 5 thiên thạch lớn, họ còn đem về một số mẫu trầm tích được cho là chứa các thiên thạch nhỏ li ti, đang được các nhà nghiên cứu trong nhóm chia ra phân tích ở nhiều cơ sở khác nhau. Năm thiên thạch lớn nhất được phân tích tại Viện Khoa học tự nhiên Hoàng gia Bỉ.
Dựa trên các dữ liệu ban đầu và độ nguyên sơ của các vật thể này, các nhà khoa học tin rằng chúng có thể chứa đựng các dữ liệu quý giá về sự hình thành trái đất và cả
hệ mặt trời
.
|
5 completely new strange objects were found in the Blue Ice Desert of Antarctica. Scientists believe they may hold the answer to the formation of the Earth and the entire solar system.
According to
Sci-News,
An international research team used satellite data to determine the potential location of "intruders" in space, which helped them find five completely new objects during their Antarctic expedition, including consisting of a block of space rock weighing up to 7.6 kg.
The area where they found these interesting meteorites is Antarctica's Blue Ice. The name, which means “Blue Ice,” refers to a particular region on the vast ice desert continent, where extremely strong winds cause glaciers to erode.
The 7.6 kg meteorite was photographed at the scene in Antarctica - Photo: Maria Valdes
“Antarctica is a difficult place to work but one of the best places in the world for meteorite hunting. That's partly because Antarctica is a desert and its dry climate limits the degree of weathering of meteorites" - Dr. Maria Valdes from the Field Museum and the University of Chicago (
America
), a member of a special meteorite hunting team – said.
During the latest expedition, they brought back 5 meteorites, the most notable of which was a giant rock weighing up to 7.6 kg. Of the 45,000 Antarctic meteorites unearthed over the past century, only 100 have been this size.
In addition to the five large meteorites, they also brought back a number of sediment samples believed to contain tiny meteorites, which are being analyzed by researchers in the group at many different facilities. The five largest meteorites were analyzed at the Royal Belgian Institute of Natural Sciences.
Based on preliminary data and the pristine nature of these objects, scientists believe they may contain valuable data about the formation of the earth and also
solar system
.
|
Cơ quan Kiểm lâm
Cuba
(CGB) mới đây cho biết nước này đã ghi nhận 284 vụ cháy rừng trong năm 2022, ảnh hưởng đến hơn 1.800 ha rừng, mức thiệt hại lớn nhất trong 3 năm qua.
Cuba đã ghi nhận 284 vụ cháy rừng trong năm 2022. Ảnh minh họa: THX/TTXVN.
Theo phóng viên tại La Habana, Giám đốc CGB Manuel Lamas Gómez cho biết 90% các vụ cháy rừng nói trên là do người dân tự ý đốt các loại thảo mộc hoặc mía, sử dụng các phương tiện không có bộ chống tia lửa và cả hoạt động săn bắn trái phép. Chỉ có 2 – 3% các vụ cháy có nguyên nhân tự nhiên như sét đánh, nhiệt độ nắng nóng và khủng hoảng khí hậu.
Hầu hết các vụ cháy rừng năm 2022 diễn ra ở tỉnh cực Tây Pinar del Río, nơi có diện tích rừng chiếm 48,07% và được xếp vào danh sách khu vực trồng rừng nhiều thứ hai ở Cuba, sau tỉnh cực Đông Guantánamo. Phần lớn các vụ cháy ghi nhận trong năm qua là các vụ hỏa hoạn nhỏ (83%), tuy nhiên cũng có những vụ cháy lớn tại các tỉnh Pinar del Río và Mayabeque.
Khoảng 70 – 75% các vụ cháy rừng trong năm ngoái xảy ra vào tháng 3 và 4. Tại Cuba, thời kỳ nguy hiểm dễ xảy ra cháy rừng là từ tháng 1 đến tháng 5 hằng năm, trùng với thời điểm mùa khô ở nước này. Hỏa hoạn là mối đe dọa đối với đa dạng sinh học của đất nước có hơn 4 triệu ha rừng này.
|
Forest Ranger Agency
Cuba
(CGB) recently said that the country has recorded 284 forest fires in 2022, affecting more than 1,800 hectares of forest, the largest loss in the past 3 years.
Cuba has recorded 284 forest fires in 2022. Illustration photo: THX/TTXVN.
According to a reporter in La Habana, CGB Director Manuel Lamas Gómez said 90% of the above forest fires were caused by people arbitrarily burning herbs or sugar cane, using vehicles without spark arrestors and even illegal hunting activities. Only 2-3% of fires have natural causes such as lightning, hot temperatures and the climate crisis.
Most of the forest fires in 2022 took place in the westernmost province of Pinar del Río, which has 48.07% of forest area and is listed as the second most forested area in Cuba, after the easternmost province of Guantánamo. The majority of fires recorded last year were small fires (83%), however there were also large fires in the provinces of Pinar del Río and Mayabeque.
About 70 - 75% of forest fires last year occurred in March and April. In Cuba, the dangerous period for forest fires is from January to May every year, coinciding with the country's dry season. This. Fires are a threat to the biodiversity of this country with more than 4 million hectares of forest.
|
Không một nền văn minh nào mà không gắn liền với một hoặc nhiều con sông, kèm theo đó là vô số nghi thức cùng lễ hội. Chúng được cho là mang đến sự liên kết mật thiết cho tất cả dòng sông, thúc đẩy những dòng nước tốt trên khắp Trái đất dâng trào không bao giờ vơi cạn.
Vào mùa xuân, các lễ hội trên sông sẽ được tổ chức dày hơn. Mục đích chính của các lễ hội này là cảm ơn thần linh, cầu phúc cho mùa màng và con người, đánh dấu thời khắc chuyển giao giữa cái cũ và cái mới.
Cuối kỳ trăng non đầu tiên, sau điểm xuân phân vào cuối tháng 3, người Babylon ở vùng Lưỡng Hà cổ đại sẽ tôn vinh sự tái sinh của thế giới tự nhiên bằng lễ mừng năm mới kéo dài nhiều ngày có tên là Akitu. Lễ này có từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên và được cho là có mối liên hệ mật thiết với tôn giáo và thần thoại. Người Babylon cổ tin rằng thế giới đã được các vị thần thanh tẩy và tái tạo một cách tượng trưng để chuẩn bị cho mùa xuân trở lại. Theo đó, tượng thần được di chuyển đến ngôi đền Akitu (Bit Akiti) nằm gần sông, trong một cuộc diễu hành long trọng. Nước của hai con sông Tigris và Euphrates linh thiêng được chứa sẵn trong một bể ở Akitu sẽ được sử dụng cho nghi lễ thanh tẩy liên quan đến lễ hội.
Tại
Ấn Độ
– xứ sở của lễ hội, lễ đón các mùa trong năm hoặc năm mới, các dịp lễ tôn giáo thường diễn ra “trong lòng nhân từ và ân sủng” của sông Hằng. Cùng với việc chứng kiến các nghi thức trên sông, người dân còn tham gia diễu hành, đi hội chợ.
Nền văn hóa
Ai Cập cổ đại
có quan hệ mật thiết với
sông Nile
. Theo nhà văn La Mã Censorinus, năm mới của người Ai Cập có lẽ tương ứng với trận lụt hằng năm nhằm đảm bảo đất canh tác vẫn màu mỡ trong năm tới. Vào khoảng tháng 7, khi ngôi sao Sirius trở thành ngôi sao sáng nhất trong đêm – lần đầu tiên có thể nhìn thấy sau 70 ngày vắng bóng, người
Ai Cập
ăn mừng sự khởi đầu mới này bằng một lễ hội đặc biệt được gọi là Wepet Renpet, có nghĩa là “lễ khai mạc của năm”. Đây được cho là thời điểm của tái sinh và trẻ hóa.
Ở
Brunei
, lễ hội Hari Raya Aidilfitri diễn ra sau tháng chay Ramadan như một dịp tự thưởng cho các nỗ lực khiết tịnh của người theo Hồi giáo. Đây là lễ hội truyền thống lớn nhất trong năm của người Brunei, kéo dài trong thời gian 4-5 ngày. Rừng mưa Borneo được ước tính có niên đại khoảng 140 triệu năm, là một trong các rừng mưa cổ nhất trên thế giới. Vì lẽ đó, các nghi lễ trên dòng Borneo được đánh giá là cổ sơ và vô cùng linh thiêng.
Ở Việt Nam, có khá nhiều lễ hội năm mới liên quan đến các dòng sông như lễ hội cúng bến sông của người Êđê, lễ gội đầu “Lúng ta” của người Thái…
Kolkata, Ấn Độ ngày 5-10-2022. Ngâm tượng nữ thần Durga dưới sông sau khi hoàn thành lễ hội Durga puja. Ảnh: shutterstock.
Theo dòng thời gian, các nghi lễ đón xuân trên các dòng sông được giản lược. Thay vào đó, người ta tổ chức các tiện ích trên sông để du khách có nhiều lựa chọn trước thềm năm mới.
Cách đây vài năm, tôi có dịp đón năm mới Dương lịch ở thủ đô Cairo ngay trên dòng sông Nile. Dọc theo bờ sông là các khách sạn nổi tiếng như InterContinental, Novotel, Grand, Kempinski… Người dân địa phương và du khách tập trung đông đúc ở các sảnh lớn nhìn ra sông hoặc trên các du thuyền, chờ đến 0 giờ để ngắm pháo hoa rực rỡ soi bóng trên dòng thiêng trong không khí se lạnh. Âm thanh rộn ràng của các loại nhạc cụ trỗi lên khắp nơi.
Vào mùa Hari Raya ở Brunei, các ngôi nhà sàn trên dòng Borneo được sửa soạn tinh tươm và mở rộng cửa đón chào khách tham quan. Chúng tôi cập thuyền vào từng nhà, tự nhiên bước lên hiên nhà hoặc vào ngồi trong phòng khách. Các loại trà, nước ca cao, bánh dừa nướng và cả bánh kẹo nhập khẩu được bày trong những chiếc hộp xinh xắn trên bàn, khách tha hồ thưởng thức. Chủ nhà vô cùng niềm nở, thân thiện. Ngày tiếp theo, chúng tôi xếp hàng vào cung điện Istana Nurul Iman để bắt tay nhà vua (dành cho nam giới) và hoàng hậu (dành cho nữ giới), nhận quà và dùng buffet do hoàng gia chiêu đãi. Vào buổi chiều, khi quạ bay đầy trời, du khách có thể ngồi du thuyền trên sông để xem biểu diễn văn hóa nghệ thuật và thưởng thức ẩm thực truyền thống.
Những chiếc thuyền chở đầy hoa đậu dọc bến kênh trong ánh chiều tà, nơi buôn bán nhộn nhịp của chợ hoa tết Nguyên đán ở TP.HCM. Ảnh: shutterstock.
Trong những ngày này, Tổng cục Du lịch Thái Lan, Cơ quan quản lý đô thị Bangkok, Cục Hàng hải và Phòng Thương mại Thái Lan, các liên minh hiệp hội thương mại kinh doanh… đang tưng bừng quảng bá chiến dịch “Năm mới EVE 2023”. Với phương châm tạo ra hạnh phúc, trân trọng những nụ cười và trao quyền cho tất cả mọi người, lễ hội “Đếm ngược Thái Lan tuyệt vời 2023” được khẳng định là cột mốc đếm ngược đẳng cấp thế giới duy nhất với những tiết mục độc đáo: Pháo hoa gạo nếp thân thiện với môi trường dài 1.400 m, ánh sáng và âm thanh ngoạn mục dọc theo bờ sông đẹp nhất Bangkok là Chao Phraya.
Tương tự Thái Lan, hầu hết các quốc gia ở Âu, Mỹ, Á, Phi, Úc… đều quảng bá rầm rộ các chương trình đón tết Dương lịch hoặc các lễ hội khác trên sông. Hoa, nến, đèn, các loại rượu và tiệc tối xa hoa sẽ diễn ra ở các nhà hàng, khách sạn ven sông hoặc trên các du thuyền với nhiều kích cỡ, tiện nghi và giá cả khác nhau. Pháo hoa sẽ làm cho khoảnh khắc giao thừa thêm đặc biệt.
Việt Nam là quốc gia có nhiều con sông lớn. Các nhà làm du lịch trên các sông Tiền, Hậu, Sài Gòn, Hương, Hàn, Hồng… cũng có các phương án đón năm mới 2023 trên sông với nhiều hình thức hấp dẫn.
Nước bao nhiêu tuổi? Sông bao nhiêu đời? Chúng ta sẽ khó lòng trả lời các câu hỏi đó nhưng hoàn toàn có thể tham dự một lễ hội đón năm mới trên một dòng sông nào đó. Để có một thời khắc riêng tư đầy ý nghĩa. Để đón an lành và cầu nguyện cho sự cân bằng của nhân gian.
|
There is no civilization that is not associated with one or more rivers, accompanied by countless rituals and festivals. They are said to bring intimate connection to all rivers, promoting good water streams across the Earth to rise and never run dry.
In spring, festivals on the river will be held more frequently. The main purpose of these festivals is to thank the gods, pray for crops and people, and mark the transition between the old and the new.
At the end of the first new moon, following the vernal equinox in late March, the Babylonians of ancient Mesopotamia would honor the rebirth of the natural world with a multi-day New Year celebration called Akitu. This holiday dates back to around 2000 BC and is believed to have a close connection with religion and mythology. The ancient Babylonians believed that the world was symbolically purified and regenerated by the gods in preparation for the return of spring. Accordingly, the idol was moved to the Akitu temple (Bit Akiti) located near the river, in a solemn parade. Water from the two sacred Tigris and Euphrates rivers stored in a tank in Akitu will be used for purification rituals related to the festival.
In
India
– the land of festivals, celebrations of the seasons or the new year, and religious occasions that often take place "in the mercy and grace" of the Ganges River. Along with witnessing rituals on the river, people also participate in parades and go to fairs.
Culture
Ancient Egypt
have a close relationship with
Nile River
. According to the Roman writer Censorinus, the Egyptian new year probably corresponded to an annual flood that ensured arable land remained fertile in the coming year. Around July, when the star Sirius became the brightest star of the night – visible for the first time after 70 days of absence, humans
Egypt
Celebrate this new beginning with a special festival called Wepet Renpet, which means “opening ceremony of the year.” This is said to be a time of rebirth and rejuvenation.
LIVE
Brunei
, the Hari Raya Aidilfitri festival takes place after the holy month of Ramadan as an occasion to reward the chastity efforts of Muslims. This is the biggest traditional festival of the year for Brunei people, lasting for 4-5 days. The Borneo rainforest is estimated to be about 140 million years old, making it one of the oldest rainforests in the world. For that reason, the rituals on the Borneo River are considered ancient and extremely sacred.
In Vietnam, there are many New Year festivals related to rivers such as the river wharf worship festival of the Ede people, the "Lung ta" hair washing ceremony of the Thai people...
Kolkata, India October 5, 2022. Immerse the statue of Goddess Durga in the river after completing the Durga puja festival. Photo: shutterstock.
Over time, spring welcoming rituals on rivers were simplified. Instead, people organize amenities on the river so that visitors have many options before the new year.
A few years ago, I had the opportunity to celebrate the New Year in the capital Cairo right on the Nile River. Along the riverbank are famous hotels such as InterContinental, Novotel, Grand, Kempinski... Locals and tourists gather in large halls overlooking the river or on yachts, waiting until midnight to watch the fireworks. Bright flowers shine on the sacred stream in the chilly air. The bustling sounds of musical instruments rose everywhere.
During the Hari Raya season in Brunei, the stilt houses on the Borneo River are neatly prepared and open to welcome visitors. We docked the boat at each house, naturally walked onto the porch or sat in the living room. Teas, cocoa drinks, toasted coconut cakes and even imported candies are displayed in lovely boxes on the table for guests to enjoy. The host is extremely welcoming and friendly. The next day, we lined up to enter the Istana Nurul Iman palace to shake hands with the king (for men) and the queen (for women), receive gifts and enjoy a buffet hosted by the royal family. In the afternoon, when crows fill the sky, visitors can take a cruise on the river to watch cultural and artistic performances and enjoy traditional cuisine.
Boats filled with flowers parked along the canal wharf in the sunset, the bustling trading place of the Lunar New Year flower market in Ho Chi Minh City. Photo: shutterstock.
During these days, the Tourism Authority of Thailand, the Bangkok Metropolitan Administration, the Maritime Administration and the Thai Chamber of Commerce, business trade association alliances... are jubilantly promoting the "New Year" campaign. EVE 2023”. With the motto of creating happiness, cherishing smiles and empowering everyone, the “Amazing Thailand Countdown 2023” festival is confirmed to be the only world-class countdown milestone with exciting performances. Unique item: 1,400 m long eco-friendly sticky rice fireworks, spectacular lights and sounds along Bangkok's most beautiful riverbank, Chao Phraya.
Similar to Thailand, most countries in Europe, America, Asia, Africa, Australia... heavily promote programs to celebrate New Year or other festivals on the river. Flowers, candles, lights, wines and lavish dinner parties will take place at restaurants, riverside hotels or on yachts of various sizes, amenities and prices. Fireworks will make New Year's Eve more special.
Vietnam is a country with many large rivers. Tourism operators on the Tien, Hau, Saigon, Huong, Han, Hong rivers... also have plans to welcome the New Year 2023 on the river with many attractive forms.
How old is the country? How old is the river? It will be difficult for us to answer those questions, but it is entirely possible to attend a New Year's festival on a certain river. To have a meaningful private moment. To welcome peace and pray for the balance of humanity.
|
Là địa điểm đặc biệt nhất trong các đảo ở Trường Sa (
huyện Trường Sa
,
tỉnh Khánh Hòa
), đảo Tiên Nữ là hòn đảo xa nhất về phía Đông trong các đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đây không chỉ là nơi đón ánh bình minh mỗi ngày đầu tiên của Tổ quốc mà ngày mới của cán bộ chiến sỹ trên đảo cũng tới sớm hơn so với các nơi khác trên đất liền khoảng một giờ đồng hồ.
Đảo Tiên Nữ, hòn đảo xa xôi nhất cực Đông của Tổ quốc.
Chúng tôi tới đảo Tiên Nữ vào một buổi sáng nhưng lúc này mặt trời đã lên khá cao. Từ xa xa, đảo hiện lên với gam màu vàng đậm đặc trưng rất nổi bật giữa màu nước biển xanh ngắt. Đảo nằm trên một dải đá san hô rộng.
Nằm ở trên rạn san hô và cách đảo khoảng vài cây số là ngọn hải đăng Tiên Nữ cao hơn hai mươi mét. Đây là ngọn hải đăng xa nhất phía cực Đông của Tổ quốc, không chỉ giúp các tàu thuyền chọn đúng hải trình trong đêm tối mà còn là cột mốc khẳng định chủ quyền vững chắc biển đảo của Tổ quốc.
Dù bắt đầu ngày mới sớm hơn so với đất liền khoảng một giờ đồng hồ nhưng thực tế cuộc sống của cán bộ chiến sỹ trên đảo bình thường như nhiều nơi khác. Tại nhà đa năng, nơi các cán bộ chiến sỹ sinh hoạt ăn uống, nghỉ ngơi và tập luyện thể dục thể thao còn có khá nhiều cây, hoa kiểng. Trên đảo khí hậu khắc nghiệt, thời tiết thường xuyên nắng nóng nên việc chăm sóc, duy trì cây hoa sinh trưởng được là một vấn đề lớn với cán bộ chiến sỹ trên đảo.
Trung sỹ Nguyễn Trần Quý, chiến sỹ công tác trên đảo Tiên Nữ cho biết hầu hết hoa cây kiểng trên đảo đều được các đoàn công tác từ đất liền đem ra vào dịp tết hàng năm. Tuy nhiên, những cây hoa trên đảo khó duy trì cuộc sống lâu vì điều kiện sống khắc nghiệt. Ngoài nắng nóng, gió biển đem hơi nước mặn cũng khiến lá và hoa nhanh chóng bị khô héo. Khác với đảo nổi có diện tích lớn, cây cối sinh trưởng tươi tốt, đảo chìm diện tích nhỏ và toàn bộ cây hoa kiểng đều được trồng trong chậu với lượng đất ít ỏi.
Mặc dù vậy, dạo một vòng quanh đảo Tiên Nữ, chúng tôi vẫn thấy những chậu rau cải, rau muống, mồng tơi, rau ngót của cán bộ chiến sỹ trên đảo khá xanh tốt. Chiến sỹ Quý bảo hơn một tháng chưa có cơn bão mạnh nào nên rau xanh trên đảo mới tươi tốt vậy. Mỗi ngày cán bộ chiến sỹ chia nhau tưới cây 3 lần vào mỗi bữa ăn để chúng được xanh tốt. Nếu các loại thực phẩm như thịt, cá, trứng… hiện nay được cung cấp khá đầy đủ và đều đặn từ đất liền thì rau xanh trên những đảo chìm vẫn là thực phẩm hiếm vào mùa sóng gió lớn. Nếu mùa khô, rau xanh được trồng nhiều hơn nhưng phải che chắn, làm màng lưới cũng như tưới và chăm sóc rất kỹ mới có thể sinh trưởng bình thường được. Dù có tủ đông lạnh nhưng các loại rau lá thường chỉ bảo quản được 1-2 tuần, các loại củ quả thì có thể bảo quản được lâu hơn nhưng nguồn cung rau chủ yếu vẫn là các cán bộ chiến sỹ tự túc gieo trồng bằng các loại hạt được đem từ đất liền ra.
Khi đi dạo một vòng trên đảo Tiên Nữ, tôi bắt gặp một chiếc lồng chim nhỏ đan bằng tre khá đơn giản, treo phía ngoài cửa sổ. Nhìn kỹ ở trong là một chú chim cu gáy. Khi thấy người, chú chim cất tiếng gáy cúc cu trầm trầm rất quen thuộc. Không chỉ ở đảo Tiên Nữ, nhiều đảo khác cán bộ chiến sỹ cũng có nuôi chim hay cá cảnh để vơi bớt nỗi nhớ nhà, nhớ gia đình trong thời gian công tác tại những hòn đảo xa ở Trường Sa. Những âm thanh quen thuộc như sợi chỉ làm gần hơn cuộc sống của đảo xa với đất liền.
Cột mốc chủ quyền trên đảo Tiên Nữ.
Những năm gần đây, khi đời sống xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, mạng lưới hạ tầng giao thông đổi thay từng ngày thì chuyện người dân tiếp cận các địa điểm mang ý nghĩa như cực Bắc, cực Nam, cực Đông… trên đất liền đã không còn xa lạ. Hình ảnh những cụ già, em bé, cô cậu học sinh… đứng cạnh cột mốc chủ quyền, dưới lá cờ đỏ sao vàng chụp hình làm kỷ niệm, đăng trên mạng xã hội chia sẻ với bạn bè người thân đã là điều khá bình thường. Những cột mốc chủ quyền ấy không chỉ giúp các thế hệ thêm hiểu, yêu và trân trọng từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc mà còn giúp giữ vững chủ quyền biên giới. Tuy nhiên, vì điều kiện đặc biệt xa xôi mà rất ít người có thể đặt chân tới đảo Tiên Nữ. Tất nhiên, những người may mắn như chúng tôi đều không quên đứng cạnh cột mốc chủ quyền thiêng thiêng của hòn đảo.
Ông Lê Đình Hải – Chủ tịch UBND huyện đảo Trường Sa (mới nghỉ hưu) chia sẻ với chúng tôi trong hải trình tới đảo Tiên Nữ rằng, hiện nay cuộc sống ở đảo chìm dù khó khăn hơn các đảo nổi nhưng nhờ sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước nên đã thay đổi rất nhiều. Trên đảo hiện đã có sóng điện thoại liên lạc, có nhà văn hóa đa năng, phòng đọc sách, trang thiết bị để tập thể dục thể thao… Ngoài ra, đảo cũng lắp đặt hệ thống năng lượng điện mặt trời đủ giúp cán bộ chiến sỹ trên đảo duy trì nguồn năng lượng thắp sáng, sinh hoạt.
Đặc biệt, do vị trí xa xôi nên đảo cũng là chỗ dựa vững chắc của nhiều ngư dân khai thác thủy sản trong vùng biển thuộc quần đảo
Trường Sa
. Mỗi năm có hàng trăm lượt ghe thuyền đánh bắt hải sản của ngư dân các tỉnh miền Trung tới đảo ký giấy hỗ trợ để được hưởng chế độ trợ cấp xăng dầu với các ghe thuyền đánh bắt khơi xa theo Quyết định 48. Ngoài ra cán bộ chiến sỹ cũng nhiều lần cứu hộ, cứu nạn và phối hợp với các đảo khác để tìm kiếm các ngư dân không may bị nạn trên vùng biển Trường Sa.
|
Is the most special place among the islands in Truong Sa (
Truong Sa district
,
Khanh Hoa province
), Tien Nu Island is the furthest island to the East among the islands under Vietnam's sovereignty. Not only is this the place to welcome the first sunrise of each day for the Fatherland, but the new day for officers and soldiers on the island also comes about an hour earlier than other places on the mainland.
Tien Nu Island, the most remote island in the East of the country.
We arrived at Tien Nu Island one morning, but by this time the sun was already quite high. From afar, the island appears with its characteristic dark yellow color that stands out among the blue sea water. The island is located on a wide coral reef.
Located on the coral reef and a few kilometers from the island is the Tien Nu lighthouse over twenty meters high. This is the farthest lighthouse in the easternmost part of the country, not only helping ships choose the right route in the dark but also being a milestone affirming the country's firm sovereignty over the seas and islands.
Although the day starts about an hour earlier than on the mainland, in reality the lives of officers and soldiers on the island are as normal as many other places. At the multi-purpose house, where officers and soldiers live, eat, rest and exercise, there are also many ornamental plants and flowers. On the island, the climate is harsh and the weather is often hot, so caring for and maintaining growing flower plants is a big problem for officers and soldiers on the island.
Sergeant Nguyen Tran Quy, a soldier working on Tien Nu Island, said that most of the ornamental flowers and plants on the island are brought out by working groups from the mainland during Tet every year. However, flower plants on the island find it difficult to maintain a long life because of harsh living conditions. In addition to the hot sun, the sea breeze bringing salt water also causes leaves and flowers to quickly wither. Unlike the floating island, which has a large area, the trees grow lushly, the submerged island has a small area and all ornamental flowers are grown in pots with a small amount of soil.
However, walking around Tien Nu Island, we still saw that the pots of mustard greens, water spinach, spinach, and spinach of the officers and soldiers on the island were quite green. Soldier Quy said there had been no strong storm for more than a month, so the green vegetables on the island were so lush. Every day, officers and soldiers share watering the plants three times at each meal to keep them green. If foods such as meat, fish, eggs, etc. are currently supplied quite adequately and regularly from the mainland, green vegetables on the submerged islands are still a rare food during the stormy season. If the season is dry, more green vegetables are grown, but they must be covered, netted, watered and cared for very carefully to grow normally. Even though there is a freezer, leafy vegetables can usually only be preserved for 1-2 weeks, and fruits and vegetables can be preserved for longer, but the main source of vegetables is still self-sufficiently grown by officers and soldiers. Nuts are brought from the mainland.
While walking around Tien Nu Island, I came across a small, simple birdcage woven from bamboo hanging outside the window. Looking closely inside is a cuckoo bird. When it sees a person, the bird makes a very familiar deep cuckoo crowing sound. Not only on Tien Nu Island, on many other islands, officers and soldiers also raise birds or ornamental fish to relieve homesickness and miss their families while working on remote islands in Truong Sa. Familiar sounds like threads bring the life of remote islands closer to the mainland.
Sovereignty milestone on Tien Nu Island.
In recent years, as social life has grown stronger and the transportation infrastructure network has changed day by day, it has become common for people to access meaningful locations such as the North Pole, South Pole, East Pole... on the Earth. The mainland is no longer strange. Images of old people, babies, students... standing next to the sovereignty milestone, under the red flag with a yellow star, taking photos as souvenirs, posting on social networks to share with friends and relatives are quite normal. often. These sovereignty milestones not only help generations understand, love and appreciate every inch of the Fatherland's sacred land but also help maintain border sovereignty. However, because of the extremely remote conditions, very few people can set foot on Tien Nu Island. Of course, lucky people like us don't forget to stand next to the island's sacred sovereignty milestone.
Mr. Le Dinh Hai - Chairman of the People's Committee of Truong Sa Island District (recently retired) shared with us during the voyage to Tien Nu Island that, currently, life on the submerged island is more difficult than on the floating islands, but thanks to the attention Party and State leaders have changed a lot. On the island, there is now a telephone signal, a multi-purpose cultural house, a reading room, and equipment for sports and exercise... In addition, the island also has a solar power system installed that is enough to help officials. Soldiers on the island maintain energy sources for lighting and daily activities.
In particular, due to its remote location, the island is also a strong support for many fishermen exploiting seafood in the waters of the archipelago.
Truong Sa
. Every year, hundreds of fishing boats from fishermen from the Central provinces come to the island to sign support papers to enjoy fuel subsidies for offshore fishing boats according to Decision 48. In addition, The soldiers also repeatedly rescued and coordinated with other islands to search for unfortunate fishermen in distress in Truong Sa waters.
|
Đất hiếm là nguyên liệu quan trọng được dùng trong quá trình sản xuất thiết bị công nghệ năng lượng tái tạo.
Mỏ khai thác đất hiếm Mountain Pass, Mỹ.
Tuy nhiên, đất hiếm cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
Mùa Xuân năm 1949, ba nhà thám hiểm người Mỹ đã tìm đến Dãy núi Clark, bang California để thăm dò uranium. Thời điểm đó, thế giới bước vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Mỹ cần uranium để xây dựng kho vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, thay vì uranium, nhóm thám hiểm đã phát hiện ra một tài nguyên kỳ lạ mang tên đất hiếm.
Đất hiếm (rare earth) là nhóm nguyên tố hiếm có hàm lượng ít nằm trong vỏ Trái đất và rất khó tách thành từng nguyên tố riêng biệt. Thực tế, đất hiếm không hiếm như tưởng tượng nhưng chúng được phân bổ trên Trái đất với trữ lượng thấp, khó khai thác. Việc tách lấy và tinh lọc chúng rất khó khăn. Đáng chú ý, đất hiếm không thể tái tạo được.
Tại Dãy núi Clark, nhóm nguyên tố được tìm thấy trong đất hiếm gồm xeri, europium… Trong vài thập kỷ tiếp theo, địa điểm này, được đổi tên là mỏ Mountain Pass, trở thành nguồn khai thác nguyên tố đất hiếm lớn nhất thế giới.
Vào cuối những năm 1980, Trung Quốc đã tăng cường tìm kiếm và khai thác đất hiếm trực tiếp trên lãnh thổ và bán với giá thấp hơn của Mỹ. Sự cạnh tranh của Trung Quốc cùng với làn sóng chỉ trích về vấn đề môi trường đã khiến Mỹ phải đóng cửa mỏ khai thác Mountain Pass vào năm 2002.
Tuy nhiên, việc khai thác tại Mountain Pass đang hoạt động trở lại từ sau cuộc cách mạng công nghệ xanh của thế kỷ 21. Hiện nay, đất hiếm được sử dụng trong các ngành công nghệ cao như thực phẩm, y tế, gốm sứ, lắp đặt thiết bị công nghệ… Trong nông nghiệp, đất hiếm bổ sung thêm chất dinh dưỡng cho cây trồng nhằm tăng năng suất, chống sâu bệnh.
Ngoài ra, để đáp ứng các mục tiêu về giảm phát thải khí nhà kính theo Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu năm 2015, các nước phải tăng cường sản xuất năng lượng tái tạo. Điều này đồng nghĩa tăng nhu cầu khai thác đất hiếm.
Các nguyên tố đất hiếm phần lớn được sử dụng như những nguyên liệu thô đầu vào cho quá trình sản xuất nam châm vĩnh cửu. Đây là một thành tố cấu tạo nên máy phát điện sử dụng trong các tuabin gió và động cơ kéo trong các phương tiện giao thông chạy điện. Cho dù có nhiều loại nam châm khác nhau, nhưng nam châm NdFeB lại được sử dụng phổ biến nhất bởi những đặc tính vượt trội của nó.
Tính đến năm 2018, các máy phát điện nam châm vĩnh cửu được sử dụng trong hầu hết mọi tuabin điện gió ngoài khơi tại châu Âu, và chiếm khoảng 76% tổng số các tuabin điện gió ngoài khơi trên biển toàn cầu.
Chính nhờ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế xanh, đất hiếm đang “nóng” hơn bao giờ hết. Dự kiến, việc khai thác đất hiếm sẽ tăng gấp 12 lần vào năm 2050.
Nhu cầu trên đã thúc đẩy các quốc gia, doanh nghiệp trên thế giới săn lùng và khai thác đất hiếm. Nhấn mạnh tầm quan trọng của khai thác đất hiếm tại Mỹ, tháng 2/2021, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã khẳng định, đây là vấn đề an ninh quốc gia.
Đất hiếm được sử dụng trong các ngành công nghệ cao và năng lượng tái tạo.
Tuy nhiên, việc khai thác đất hiếm là con dao hai lưỡi bởi chúng cũng chính là nguyên nhân gây ra các vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
Nhà địa lý học Julie Klinger, Trường ĐH Delaware, bang New Jersey, Mỹ, cho biết: “Đất hiếm được khai thác bằng cách đào những hố lộ thiên rộng trong lòng đất. Điều này có thể gây ô nhiễm môi trường và phá vỡ hệ sinh thái. Nếu quản lý kém, việc khai thác có thể tạo ra các ao nước thải chứa đầy axit, kim loại nặng hay chất phóng xạ rò rỉ vào hệ thống nước ngầm…”.
Vào năm 2010, chính quyền thành phố Bao Đầu, Trung Quốc, gần khu vực khai thác đất hiếm đã cảnh báo chất thải từ việc khai thác đất hiếm chứa phóng xạ, asen và flo đã ngấm vào đất nông nghiệp và nguồn nước địa phương. Không khí cũng bị ô nhiễm bởi khói và bụi độc hại làm giảm tầm nhìn. Nhiều người dân sống gần khu mỏ cảm thấy buồn nôn, chóng mặt, đau nửa đầu và viêm khớp.
Do đó, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc cảnh báo ngành công nghiệp đất hiếm đang gây “thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường sinh thái”. Việc khai thác cũng dẫn đến sạt lở đất và tắc nghẽn sông ngòi.
Nhìn chung, cả quá trình khai thác lẫn tách lấy đất hiếm đều gắn liền với vấn đề môi trường bởi nó thải ra nhiều chất độc hại. Chưa kể đến quá trình khai thác làm giảm hiệu quả của đất hiếm. Để khai thác một lượng nguyên tố đủ bán ra thị trường, các công ty phải mất rất nhiều thời gian và công đoạn.
Ông Santa Jansone-Popova, làm việc tại Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge, Mỹ, đánh giá: Với các phương pháp hóa học hiện nay, cần rất nhiều giai đoạn để phân tách nguyên tố đất hiếm như mong muốn. Điều này khiến toàn bộ quá trình khai thác trở nên phức tạp, tốn kém và tạo ra nhiều chất thải hơn.
Hiện nay, nhận thức được mối nguy hiểm của việc khai thác đất hiếm, nhiều quốc gia đã xây dựng chính sách để khai thác “xanh”. Đơn cử, Mỹ đang thử nghiệm giải pháp thay thế cho việc khai thác như tái chế đất hiếm từ các thiết bị điện tử cũ, phục hồi đất hiếm từ chất thải than đá…
Trung Quốc cắt giảm xuất khẩu đất hiếm trong năm 2010 xuống 40%. Tuy nhiên, điều này chỉ khiến giá cả tăng vọt và thúc đẩy khai thác đất hiếm từ những nơi khác trên thế giới.
Viện Tài nguyên Thế giới kêu gọi các quốc gia tái chế nguyên tố đất hiếm nhiều hơn để giảm nhu cầu khai thác và tách lấy mới. Tuy nhiên, việc cân bằng giữa khai thác và sử dụng đất hiếm gắn với bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu vẫn là một thách thức lớn của ngành công nghiệp đất hiếm toàn cầu. Điều đó đặt ra câu hỏi khai thác đất hiếm có thực sự là tương lai của năng lượng tái tạo hay không?
|
Rare earth is an important material used in the production of renewable energy technology equipment.
Mountain Pass rare earth mine, USA.
However, rare earths are also a cause of environmental pollution and climate change.
In the spring of 1949, three American explorers went to the Clark Mountains, California to explore for uranium. At that time, the world entered the Cold War period, the United States needed uranium to build a nuclear arsenal. However, instead of uranium, the expedition team discovered a strange resource called rare earths.
Rare earth is a group of rare elements with low concentrations in the Earth's crust and is very difficult to separate into separate elements. In fact, rare earths are not as rare as imagined, but they are distributed on Earth in low reserves and are difficult to exploit. Separating and purifying them is very difficult. Notably, rare earths are not renewable.
In the Clark Mountains, groups of elements found in rare earths include cerium, europium, etc. Over the next few decades, this site, renamed the Mountain Pass mine, became the world's largest source of rare earth elements. gender.
In the late 1980s, China increased its search and exploitation of rare earths directly on its territory and sold them at lower prices than those of the United States. Chinese competition and a wave of environmental criticism forced the United States to close the Mountain Pass mine in 2002.
However, mining at Mountain Pass is operating again since the green technology revolution of the 21st century. Currently, rare earths are used in high-tech industries such as food, medicine, and ceramics. , installing technological equipment... In agriculture, rare earths add nutrients to plants to increase productivity and fight pests.
In addition, to meet greenhouse gas emission reduction goals under the 2015 Paris Agreement on climate change, countries must increase renewable energy production. This means increased demand for rare earth mining.
Rare earth elements are largely used as raw materials for the production of permanent magnets. This is a component of generators used in wind turbines and traction motors in electric vehicles. Although there are many different types of magnets, NdFeB magnets are the most commonly used because of their outstanding properties.
As of 2018, permanent magnet generators are used in almost every offshore wind turbine in Europe, and account for approximately 76% of all offshore wind turbines at sea globally.
Thanks to its important role in promoting the green economy, rare earths are "hotter" than ever. It is expected that rare earth mining will increase 12 times by 2050.
The above demand has motivated countries and businesses around the world to hunt and exploit rare earths. Emphasizing the importance of rare earth mining in the US, in February 2021, President Joe Biden's administration affirmed that this is a matter of national security.
Rare earths are used in high-tech and renewable energy industries.
However, rare earth mining is a double-edged sword because they are also the cause of environmental pollution and climate change problems.
Geographer Julie Klinger, University of Delaware, New Jersey, USA, said: "Rare earth is mined by digging large open pits in the ground. This can pollute the environment and disrupt the ecosystem. If poorly managed, mining can create wastewater ponds filled with acids, heavy metals or radioactive substances that leak into the groundwater system...".
In 2010, the government of Baotou city, China, near a rare earth mining area, warned that waste from rare earth mining contained radioactivity, arsenic and fluorine that had seeped into agricultural soil and local water sources. . The air is also polluted by toxic smoke and dust that reduces visibility. Many people living near the mine feel nausea, dizziness, migraines and arthritis.
Therefore, China's State Council warned that the rare earth industry is causing "serious damage to the ecological environment". Mining also leads to landslides and river blockages.
In general, both the mining and extraction process of rare earths are associated with environmental problems because they release many toxic substances. Not to mention the mining process reduces the effectiveness of rare earths. To exploit a sufficient amount of elements to sell on the market, companies must spend a lot of time and effort.
Mr. Santa Jansone-Popova, working at Oak Ridge National Laboratory, USA, commented: With current chemical methods, many stages are needed to separate rare earth elements as desired. This makes the entire mining process more complicated, expensive, and creates more waste.
Currently, aware of the dangers of rare earth mining, many countries have developed policies for "green" mining. For example, the US is testing alternative solutions to mining such as recycling rare earths from old electronic devices, recovering rare earths from coal waste...
China cut rare earth exports in 2010 by 40%. However, this only causes prices to skyrocket and spurs rare earth mining from other parts of the world.
The World Resources Institute calls on countries to recycle more rare earth elements to reduce the need for new mining and separation. However, balancing rare earth exploitation and use with environmental protection and climate change is still a major challenge for the global rare earth industry. That raises the question: Is rare earth mining really the future of renewable energy?
|
Dù cả năm bận rộn bôn ba thì mỗi độ Tết đến, Xuân về người con thôn Túy Loan (
xã Hòa Phong
,
huyện Hòa Vang
,
TP Đà Nẵng
) khắp nơi đều tề tựu về quê. Với họ, Tết là ngày để gắn kết, để hướng về tổ tiên với những phong tục, lễ hội trong nếp làng thân thuộc, chan chứa ân tình..
.
Những người con của thôn Túy Loan, đặc biệt là những người xa quê thì Tết là lúc để họ bỏ lại sau lưng nhịp sống hối hả của phố thị, tìm về quê hương với sự gần gũi, yên bình. Về để được ngồi dưới mái đình làng cổ Túy Loan, một làng quê đã có hàng trăm năm tuổi thuộc xã Hòa Phong, H.Hòa Vang (TP Ðà Nẵng), về để được tham gia lễ hội đầu Xuân… điều mà họ mong chờ nhất.
Người ta nói, Túy Loan yên bình, nên thơ là bởi “Làng mà phố, phố trong làng”. Sự yên bình nhưng nhộn nhịp, cũ mà mới, tất cả cứ đan xen, hòa quyện lẫn nhau, tạo nên một nét Túy Loan rất riêng biệt. Ðất làng Túy Loan không rộng, người làng Túy Loan không đông, nhưng tình người nơi đây lúc nào cũng đầy ắp, nồng đượm.
Mái đình làng cổ Túy Loan.
Ai một lần đến với Túy Loan, chắc chắn sẽ mến con người nơi đây, chắc chắn sẽ “kết” khung cảnh xanh tươi của lũy tre và dòng sông êm ả. Đặc biệt, nơi đây giữa bốn bề đô thị hóa, nhiều dấu ấn văn hóa và nếp sống cổ truyền vẫn còn lưu giữ.
Túy Loan- vùng đất được thiên nhiên đã ưu đãi cho những lợi thế địa hình, có sông, hồ, đồng ruộng, đồi, núi… Từ đó đã định hình và cấu trúc nên các yếu tố văn hóa vùng rất đặc trưng. Theo các vị cao niên trong làng, Làng cổ Túy Loan được khai phá dưới thời vua Lê Thánh Tôn niên hiệu Hồng Đức (1470 – 1497).
Đến năm 1787, đình được trùng tu lần đầu, vào năm 1888, đình không may bị cháy. Sau đó, đình được xây dựng lại ở mảnh đất bên cạnh dòng sông Túy Loan, trên cơ sở mô phỏng theo quy mô, kiểu thức của ngôi đình cũ xây dựng thời Đồng Khánh. Đình được xây mới với diện tích hơn một trăm mười mét vuông, nằm trong khuôn viên rộng hơn tám nghìn mét vuông.
Nghi thức cúng rước sắc được các vị cao niên trong làng thực hiện.
Văn bia đặt trong đình còn có bài ký của tam giáp Tiến sĩ Nguyễn Khuê, người Thanh Trì, Hà Nội, ghi lại sự việc lập đình, trong đó có đoạn viết: Ðình gồm một tòa chính tẩm, một tòa tiền đường đều làm bằng gỗ quý và lợp ngói. Trước sân có xây trụ biểu, bình phong khá sắc sảo. Bên trái đình là một ngôi từ đường thờ các vị tiền hiền.
Văn bia ở nhà thờ ngũ tộc trong làng cũng ghi lại, vào năm Hồng Ðức (1470), năm vị tiền hiền của năm tộc Ðặng, Lâm, Nguyễn, Trần, Lê nhận chiếu Vua Lê Thánh Tông đi khẩn hoang, mở mang bờ cõi và dừng chân chọn nơi đây để lập ấp và đặt tên cho làng là Túy Loan.
Ðến nay, Túy Loan là làng cổ lịch sử hơn 500 năm của Ðà Nẵng. Đình Túy Loan hiện vẫn còn lưu giữ 20 sắc phong thần, sắc xa nhất từ đời Minh Mạng năm 1826, gần nhất đời vua Khải Định 1924, chính điều này góp phần tạo nên giá trị đặc biệt của đình. Những sắc phong này chỉ được mở ra bởi người được phong kiêm thủ sắc thần, nghĩa là người phải tốt về nhân cách, gia đình thuận hòa, con cái hiếu nghĩa.
Trải qua bao thăng trầm thời gian, mưa nắng dãi dầu, bão lũ hằng năm, đình làng Túy Loan đã được nhiều lần tu bổ, tuy không còn giữ được nguyên trạng nhưng vẫn còn vẻ uy nghi, cổ kính, nét kiến trúc cũ xưa, mang sắc thái kiến trúc tín ngưỡng làng xã, chứng tích của một làng văn hóa lâu đời nơi ngoại thành Đà Nẵng.
Rước sắc phong về đình làng.
Nằm bên dòng sông Túy Loan, trên đường Quốc lộ 14G, đình Túy Loan lập ra để thờ thần, Thành hoàng bổn xứ, các vị tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, cư dân lập ấp kiến thiết nên làng Túy Loan. Đình làng được công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia năm 1999.
Ông Đặng Bán – Chánh Hội Chủ làng Túy Loan chia sẻ: “Mái đình Túy Loan không chỉ là một địa điểm tâm linh, nơi thờ cúng linh thiêng của bà con dân làng, mà còn là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, là sợi dây gắn bó cộng đồng. Để những giá trị văn hóa làng cổ không bị mai một trước thời gian, biết bao thế hệ người làng đã cùng chắt chiu, gìn giữ”.
Theo lời của các vị cao niên trong làng, việc ở làng có thể mỗi năm khác nhau nhưng năm nào cũng vậy, phần “hội” có thể giảm nhưng phần “lễ” ở đình làng thì bao giờ cũng trang nghiêm và tuân thủ theo phong tục truyền thống bao đời nay.
“Mâm cỗ lễ đình làng không thể thiếu bánh tét, thịt heo, bánh tráng, ngũ quả… đó là những sản vật được làm nên từ chính vùng đất quê hương. Đặc biệt, văn hóa làng không mai một đi cũng chính vì có mái đình che chở, giữ được cái nôi làng là giữ được văn hóa làng. Những ngày này, các vị bô lão trong làng tập trung về đình để chuẩn bị khai xuân, các cụ tự tay lau dọn, trang trí lại đình làng, rồi chọn cây tre thẳng đẹp, còn nguyên ngọn để dựng làm cây nêu treo cờ hội trước đình làng…”, một vị cao niên trong làng cho hay.
Các đội đua tranh tài trên sông Túy Loan.
Được biết, vào mồng 9, mồng 10 Tết Âm lịch, nhân dân các thôn của làng Túy Loan cùng du khách lại tập trung tại đình làng tưng bừng tham dự lễ hội truyền thống. Lễ hội đình làng Túy Loan được bắt đầu bằng nghi thức rước sắc phong với các nghi lễ: nghinh sắc, tuyên sắc, dâng hương, dâng lễ vật… nhằm tưởng nhớ công đức các vị tiền hiền các tộc: Đặng, Lâm, Nguyễn, Trần, Lê, cầu cho quốc thái dân an, nhân dân trong làng ấm no, an lạc, quanh năm làm ăn lao động sản xuất được mùa…
Theo đó, đoàn rước sắc từ nhà thờ của phái nhì tộc Đặng ra đình làng Túy Loan sẽ đi một vòng quanh làng, sau đó mới về đình, trên đường đi dân làng nhập vào đội rước rất đông vui. Sau nghi lễ rước sắc phong đến phần hội như đua thuyền, hát hò khoan đối đáp, hát bài chòi, thi các trò chơi dân gian: gói bánh tét, nướng bánh tráng, leo cây chuối, đẩy gậy, thi kéo co… Trong đó, phần thi đua thuyền thường được bà con nhân dân trong làng mong đợi nhất.
Nếu là khách thập phương đã đến TP Đà Nẵng thì nên một lần đến với Túy Loan để dạo một vòng quanh làng, thưởng thức hương vị mì Quảng, bánh tráng Túy Loan trứ danh, chiêm ngưỡng đình làng cổ và gặp gỡ người dân bản địa vô cùng mến khách. Với bức tranh quê sông núi hữu tình, cảnh sắc thiên nhiên mộc mạc cùng không gian yên bình chắc chắn sẽ là kỷ niệm đáng nhớ cho những ai từng một lần đến với Túy Loan thân yêu.
|
Even though we are busy all year round, every Tet comes, Spring comes to the children of Tuy Loan village (
Hoa Phong commune
,
Hoa Vang district
,
Da Nang City
) from everywhere gathered to return to their hometown. For them, Tet is a day to bond, to turn to their ancestors with familiar customs and festivals in the village, filled with love.
.
For the children of Tuy Loan village, especially those far from home, Tet is the time for them to leave behind the hustle and bustle of city life and return to their homeland with closeness and peace. Come back to sit under the communal house of Tuy Loan ancient village, a hundred-year-old village in Hoa Phong commune, Hoa Vang district (Da Nang city), come back to participate in the early Spring festival... what they hope for. wait the most.
People say, Tuy Loan is peaceful and poetic because "There are streets in villages, streets in villages". Peaceful yet bustling, old yet new, all are intertwined and blended together, creating a very unique Tuy Loan feature. The land of Tuy Loan village is not large, the people of Tuy Loan village are not many, but the love of people here is always full and warm.
The roof of Tuy Loan ancient village communal house.
Anyone who once comes to Tuy Loan will definitely love the people here and will definitely "love" the lush green scenery of bamboo and the peaceful river. In particular, here in the midst of urbanization, many cultural imprints and traditional lifestyles are still preserved.
Tuy Loan - a land blessed with topographical advantages by nature, with rivers, lakes, fields, hills, mountains... Since then, it has shaped and structured very specific cultural elements of the region. According to the elders in the village, Tuy Loan Ancient Village was explored during the reign of King Le Thanh Ton in the Hong Duc era (1470 - 1497).
In 1787, the communal house was restored for the first time. In 1888, the communal house unfortunately caught fire. After that, the communal house was rebuilt on the land next to the Tuy Loan river, based on the scale and style of the old communal house built during the Dong Khanh period. The communal house was newly built with an area of more than one hundred and ten square meters, located in a campus of more than eight thousand square meters.
The ritual of worshiping and carrying flowers is performed by the elders in the village.
The epitaph placed in the communal house also has an autograph of Dr. Nguyen Khue, a native of Thanh Tri, Hanoi, recording the incident of establishing the communal house, including the following passage: The communal house consists of a main building and a front hall, both made of made of precious wood and tiled. In front of the yard there is a pillar and a rather sharp screen. On the left side of the communal house is a temple worshiping the ancestors.
The epitaph at the five-tribe church in the village also records that, in the year of Hong Duc (1470), five sages of the five clans Dang, Lam, Nguyen, Tran, and Le received an edict from King Le Thanh Tong to reclaim land and expand the coast. world and stopped and chose this place to establish a hamlet and named the village Tuy Loan.
Up to now, Tuy Loan is an ancient village with more than 500 years of history in Da Nang. Tuy Loan Communal House still retains 20 deity titles, the oldest from the reign of Minh Mang in 1826, the latest from the reign of King Khai Dinh in 1924, this contributes to the special value of the communal house. These ordinations can only be opened by the person being conferred with good character, meaning the person must have a good personality, a harmonious family, and filial children.
Through many ups and downs of time, heavy rain and sunshine, and annual storms and floods, Tuy Loan village communal house has been renovated many times. Although it can no longer maintain its original state, it still retains its majestic, ancient, old architectural features. ancient, bearing the architectural nuances of village beliefs, evidence of a long-standing cultural village on the outskirts of Da Nang.
Procession of ordination to the village communal house.
Located on the Tuy Loan river, on National Highway 14G, Tuy Loan communal house was established to worship the gods, the tutelary god of the land, the wise predecessors and later sages who made public announcements, and the residents established hamlets to build Tuy Loan village. The village communal house was recognized as a national historical-cultural relic in 1999.
Mr. Dang Ban - Chief of the Association of Tuy Loan village shared: "The Tuy Loan communal house is not only a spiritual place, a sacred place of worship for the villagers, but also a place to preserve historical values, Culture and belief are the ties that bind the community. To prevent the cultural values of the ancient village from being lost over time, many generations of villagers have worked hard to preserve them."
According to the elders in the village, things in the village may be different every year, but every year, the "festival" part may be reduced but the "ceremony" part at the village communal house is always solemn and followed. traditional customs for generations.
“The village communal feast feast cannot lack banh tet, pork, rice paper, five fruits... these are products made from the homeland. In particular, the village culture does not disappear because of the protection of the communal house. To preserve the cradle of the village is to preserve the village culture. These days, the elders in the village gather at the communal house to prepare for spring. They clean and redecorate the village communal house themselves, then choose a beautiful, straight bamboo tree with the top still intact to build it as a tree to hang the flag. meeting in front of the village communal house...", an elder in the village said.
Racing teams compete on Tuy Loan River.
It is known that on the 9th and 10th days of the Lunar New Year, people from the villages of Tuy Loan village and tourists gather at the village communal house to jubilantly attend the traditional festival. Tuy Loan village communal house festival begins with the investiture procession with rituals: ceremony, proclamation, offering incense, offering offerings... to commemorate the merits of the ancestors of the clans: Dang, Lam, Nguyen , Tran, Le, pray for peace in the country, people in the village are prosperous, peaceful, and have good harvests all year round...
Accordingly, the colorful procession from the church of the second Dang clan to Tuy Loan village communal house will go around the village, then return to the communal house. On the way, the villagers join the very crowded procession. After the investiture procession ceremony, there will be a festival such as boat racing, singing drills and answering questions, singing choi songs, competing in folk games: wrapping banh tet, baking rice paper, climbing banana trees, pushing sticks, tug-of-war competitions... In Meanwhile, the boat racing part is often most anticipated by the people in the village.
If you are a tourist who has come to Da Nang City, you should come to Tuy Loan once to walk around the village, enjoy the taste of Quang noodles, the famous Tuy Loan rice paper, admire the ancient village communal house and meet the local people. The place is extremely hospitable. With a charming picture of countryside, rivers and mountains, rustic natural scenery and peaceful space, it will definitely be a memorable memory for those who have once come to beloved Tuy Loan.
|
Sinh thời, Thanh Hóa luôn là địa phương được Bác Hồ quan tâm, dành tình cảm đặc biệt, Người đã có 4 lần về thăm
tỉnh Thanh Hóa
và mong muốn Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu.
Đây là niềm vinh dự và tự hào đối với đất và người xứ Thanh, bởi
Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều lần về thăm cũng như gửi thư thăm hỏi, động viên, biểu dương những thành tích của Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa trong sản xuất và chiến đấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nhịp cho đồng bào Thanh Hóa hát bài “Đoàn kết” tại sân vận động tỉnh ngày 12-12-1961 (ảnh tư liệu)
Năm 1947, khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được 2 tháng, mặc dù việc chỉ đạo kháng chiến vô cùng bộn bề nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định về thăm Thanh Hóa. Sáng 20-2-1947,Bác Hồ đã có mặt tại núi Rừng Thông (nay là thị trấn Rừng Thông,
huyện Đông Sơn
) để nói chuyện với cán bộ chủ chốt, thân sĩ trí thức, các tầng lớp nhân dân Thanh Hóa.
Trong buổi nói chuyện này, Bác Hồ bày tỏ mong muốn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa xây dựng tỉnh nhà thành một tỉnh “kiểu mẫu”. “Thanh Hóa muốn trở thành một tỉnh “kiểu mẫu” nhất định được, vì người đông, đất rộng, của nhiều, chỉ còn thiếu sự điều khiển sắp đặt. Xây dựng tỉnh “kiểu mẫu” trên mọi mặt phải bắt đầu từ cá nhân mỗi người trước, làm một người “kiểu mẫu”, một nhà “kiểu mẫu”, một làng “kiểu mẫu”, một huyện “kiểu mẫu”, một tỉnh “kiểu mẫu…”- Bác nhắn nhủ.
Bác nói chuyện với hơn 1 vạn đại biểu các tầng lớn nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, bà con Hoa kiều, cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc tại sân vận động thị xã Thanh Hóa ngày 13-6-1957 (ảnh tư liệu).
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhân dân Thanh Hóa lại vinh dự được đón Bác về thăm lần thứ 2 ngày 13-6-1957. Lần này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi và đánh giá cao công lao to lớn của nhân dân tỉnh Thanh trong vai trò là “hậu phương lớn” của cuộc kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại buổi nói chuyện, Bác khen ngợi: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.
Năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dành thời gian về thăm tỉnh Thanh Hóa lần thứ 3 và Bác đã chọn
Sầm Sơn
là điểm tới thăm. Bác tới dự Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ VI tại Sầm Sơn. Tại đây, Người đã hòa mình với thiên nhiên, cùng ngư dân kéo lưới. Nói chuyện với cán bộ và nhân dân Sầm Sơn, Bác căn dặn: “Nếu nơi đây có một hệ thống du lịch khách sạn và có phương tiện đưa đón khách nghỉ mát để tới hòn Mê thì sẽ thu được nhiều của cải từ đây”.
Khắc ghi lời Bác, Sầm Sơn đã từng bước vươn mình và hiện trở thành một trong những địa điểm du lịch biển nổi tiếng nhất cả nước, hàng năm đón hàng triệu lượt du khách về tham quan, nghỉ mát.
Bác đến thăm và chia quà cho các cháu nhỏ là con em cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc (ảnh tư liệu).
Hơn 1 năm sau, trong thời điểm cả nước dồn sức cho cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ, ngày 11-12-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dành cho Thanh Hóa chuyến thăm ấm áp ân tình lần thứ 4. Bác đã tới thăm HTX Nông nghiệp tiên tiến Yên Trường (xã Yên Trường,
huyện Yên Định
), là lá cờ đầu trong sản xuất nông nghiệp của huyện và tỉnh. Đây là địa phương có các phong trào thi đua lao động, sản xuất được Trung ương khen ngợi, đánh giá cao.
Trong lần về thăm này, Bác đã chuyện trò rất thân mật với lãnh đạo xã, bà con nông dân, Bác thưởng huy hiệu có in hình của Người cho những nông dân xuất sắc, có thành tích trong lao động, sản xuất. Bác cổ vũ bà con nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, coi hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội. Rồi Bác nói sẽ tặng nhân dân Yên Trường một chiếc máy cày.
Khắc ghi lời dạy lời dạy của Bác Hồ, suốt 76 năm qua, Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực, đóng góp vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Năm 1960, tại Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ VI, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về dự và phát biểu. Sau đó, Người xuống Sầm Sơn cùng ngư dân kéo lưới (ảnh tư liệu).
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Thanh Hóa đã phát huy cao độ nội lực, khơi dậy tiềm năng, lợi thế, tranh thủ thu hút đầu tư từ bên ngoài, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước. Kinh tế tăng trưởng nhanh; chất lượng tăng trưởng được nâng lên, từng bước khẳng định là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của khu vực và cả nước.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân giai đoạn 2011-2022 đạt 10,3%/năm. Đặc biệt, trong năm 2022, dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, song kinh tế của Thanh Hóa vẫn giữ vững đà tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng GRDP ước đạt 12,51%, vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch 11,5%), đứng thứ 7 cả nước, quy mô nền kinh tế đứng thứ 8 cả nước, thu ngân sách nhà nước đạt hơn 51.000 tỉ đồng, cao nhất từ trước đến nay.
Ngày 12-12-1961, Bác về thăm Thanh Hóa lần thứ 4, sau đó Bác tới thăm HTX tiên tiến Yên Trường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa (ảnh tư liệu).
Trong lần cuối cùng về thăm Thanh Hóa, Bác đã tới thăm nói chuyện với công nhân nhà máy cơ khí Thanh Hóa (ảnh tư liệu).
Chính trị ổn định, văn hóa – xã hội chuyển biến tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên; quốc phòng – an ninh được giữ vững. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng và đạt nhiều kết quả quan trọng. Quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; sự phối hợp với các cơ quan Trung ương, liên kết, hợp tác với các tỉnh, TP trong cả nước được đẩy mạnh.
Những thành tựu trên một lần nữa khẳng định vị thế chiến lược của Thanh Hóa trong khu vực Bắc Trung bộ, Nam đồng bằng Bắc Bộ và cả nước. Đây là kết quả của sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương; sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nỗ lực cố gắng của rất nhiều thế hệ lãnh đạo, sự đồng tâm, đồng sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
Khắc ghi lời Bác, suốt 76 năm qua, Thanh Hóa đã ra sức phấn đấu, đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực, đóng góp vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng Việt Nam (trong ảnh là một góc TP Thanh Hóa hôm nay).
Tại lễ kỷ niệm 75 năm ngày Bác Hồ lần đầu tiên về thăm Thanh Hóa (20-2-1947 – 20-2-2022), Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Đỗ Trọng Hưng cho rằng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân nhân dân đang bước vào giai đoạn phát triển mới với khát vọng lớn, phấn đấu đến năm 2025 Thanh Hóa trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước, trở thành một cực tăng trưởng ở phía Bắc của Tổ quốc và đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, như Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã xác định.
|
Sinh thời, Thanh Hóa luôn là địa phương được Bác Hồ quan tâm, dành tình cảm đặc biệt, Người đã có 4 lần về thăm
tỉnh Thanh Hóa
và mong muốn Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu.
Đây là niềm vinh dự và tự hào đối với đất và người xứ Thanh, bởi
Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhiều lần về thăm cũng như gửi thư thăm hỏi, động viên, biểu dương những thành tích của Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa trong sản xuất và chiến đấu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nhịp cho đồng bào Thanh Hóa hát bài “Đoàn kết” tại sân vận động tỉnh ngày 12-12-1961 (ảnh tư liệu)
Năm 1947, khi cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp được 2 tháng, mặc dù việc chỉ đạo kháng chiến vô cùng bộn bề nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định về thăm Thanh Hóa. Sáng 20-2-1947,Bác Hồ đã có mặt tại núi Rừng Thông (nay là thị trấn Rừng Thông,
huyện Đông Sơn
) để nói chuyện với cán bộ chủ chốt, thân sĩ trí thức, các tầng lớp nhân dân Thanh Hóa.
Trong buổi nói chuyện này, Bác Hồ bày tỏ mong muốn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa xây dựng tỉnh nhà thành một tỉnh “kiểu mẫu”. “Thanh Hóa muốn trở thành một tỉnh “kiểu mẫu” nhất định được, vì người đông, đất rộng, của nhiều, chỉ còn thiếu sự điều khiển sắp đặt. Xây dựng tỉnh “kiểu mẫu” trên mọi mặt phải bắt đầu từ cá nhân mỗi người trước, làm một người “kiểu mẫu”, một nhà “kiểu mẫu”, một làng “kiểu mẫu”, một huyện “kiểu mẫu”, một tỉnh “kiểu mẫu…”- Bác nhắn nhủ.
Bác nói chuyện với hơn 1 vạn đại biểu các tầng lớn nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, bà con Hoa kiều, cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc tại sân vận động thị xã Thanh Hóa ngày 13-6-1957 (ảnh tư liệu).
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhân dân Thanh Hóa lại vinh dự được đón Bác về thăm lần thứ 2 ngày 13-6-1957. Lần này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi và đánh giá cao công lao to lớn của nhân dân tỉnh Thanh trong vai trò là “hậu phương lớn” của cuộc kháng chiến chống Pháp và đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại buổi nói chuyện, Bác khen ngợi: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.
Năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dành thời gian về thăm tỉnh Thanh Hóa lần thứ 3 và Bác đã chọn
Sầm Sơn
là điểm tới thăm. Bác tới dự Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ VI tại Sầm Sơn. Tại đây, Người đã hòa mình với thiên nhiên, cùng ngư dân kéo lưới. Nói chuyện với cán bộ và nhân dân Sầm Sơn, Bác căn dặn: “Nếu nơi đây có một hệ thống du lịch khách sạn và có phương tiện đưa đón khách nghỉ mát để tới hòn Mê thì sẽ thu được nhiều của cải từ đây”.
Khắc ghi lời Bác, Sầm Sơn đã từng bước vươn mình và hiện trở thành một trong những địa điểm du lịch biển nổi tiếng nhất cả nước, hàng năm đón hàng triệu lượt du khách về tham quan, nghỉ mát.
Bác đến thăm và chia quà cho các cháu nhỏ là con em cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc (ảnh tư liệu).
Hơn 1 năm sau, trong thời điểm cả nước dồn sức cho cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ, ngày 11-12-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại dành cho Thanh Hóa chuyến thăm ấm áp ân tình lần thứ 4. Bác đã tới thăm HTX Nông nghiệp tiên tiến Yên Trường (xã Yên Trường,
huyện Yên Định
), là lá cờ đầu trong sản xuất nông nghiệp của huyện và tỉnh. Đây là địa phương có các phong trào thi đua lao động, sản xuất được Trung ương khen ngợi, đánh giá cao.
Trong lần về thăm này, Bác đã chuyện trò rất thân mật với lãnh đạo xã, bà con nông dân, Bác thưởng huy hiệu có in hình của Người cho những nông dân xuất sắc, có thành tích trong lao động, sản xuất. Bác cổ vũ bà con nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, coi hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội. Rồi Bác nói sẽ tặng nhân dân Yên Trường một chiếc máy cày.
Khắc ghi lời dạy lời dạy của Bác Hồ, suốt 76 năm qua, Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực, đóng góp vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Năm 1960, tại Đại hội đại biểu công đoàn tỉnh Thanh Hóa lần thứ VI, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về dự và phát biểu. Sau đó, Người xuống Sầm Sơn cùng ngư dân kéo lưới (ảnh tư liệu).
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Thanh Hóa đã phát huy cao độ nội lực, khơi dậy tiềm năng, lợi thế, tranh thủ thu hút đầu tư từ bên ngoài, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước. Kinh tế tăng trưởng nhanh; chất lượng tăng trưởng được nâng lên, từng bước khẳng định là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của khu vực và cả nước.
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân giai đoạn 2011-2022 đạt 10,3%/năm. Đặc biệt, trong năm 2022, dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, song kinh tế của Thanh Hóa vẫn giữ vững đà tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng GRDP ước đạt 12,51%, vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch 11,5%), đứng thứ 7 cả nước, quy mô nền kinh tế đứng thứ 8 cả nước, thu ngân sách nhà nước đạt hơn 51.000 tỉ đồng, cao nhất từ trước đến nay.
Ngày 12-12-1961, Bác về thăm Thanh Hóa lần thứ 4, sau đó Bác tới thăm HTX tiên tiến Yên Trường, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa (ảnh tư liệu).
Trong lần cuối cùng về thăm Thanh Hóa, Bác đã tới thăm nói chuyện với công nhân nhà máy cơ khí Thanh Hóa (ảnh tư liệu).
Chính trị ổn định, văn hóa – xã hội chuyển biến tiến bộ, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên; quốc phòng – an ninh được giữ vững. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được chú trọng và đạt nhiều kết quả quan trọng. Quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; sự phối hợp với các cơ quan Trung ương, liên kết, hợp tác với các tỉnh, TP trong cả nước được đẩy mạnh.
Những thành tựu trên một lần nữa khẳng định vị thế chiến lược của Thanh Hóa trong khu vực Bắc Trung bộ, Nam đồng bằng Bắc Bộ và cả nước. Đây là kết quả của sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương; sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nỗ lực cố gắng của rất nhiều thế hệ lãnh đạo, sự đồng tâm, đồng sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh.
Khắc ghi lời Bác, suốt 76 năm qua, Thanh Hóa đã ra sức phấn đấu, đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện trên các lĩnh vực, đóng góp vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng Việt Nam (trong ảnh là một góc TP Thanh Hóa hôm nay).
Tại lễ kỷ niệm 75 năm ngày Bác Hồ lần đầu tiên về thăm Thanh Hóa (20-2-1947 – 20-2-2022), Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Đỗ Trọng Hưng cho rằng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân nhân dân đang bước vào giai đoạn phát triển mới với khát vọng lớn, phấn đấu đến năm 2025 Thanh Hóa trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước, trở thành một cực tăng trưởng ở phía Bắc của Tổ quốc và đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, như Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã xác định.
|
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của
Hà Nội
, Tổng Bí thư đề nghị lãnh đạo thành phố tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới phong cách lãnh đạo, điều hành, chủ động, tích cực tranh thủ mọi thời cơ và thuận lợi, bình tĩnh, tỉnh táo vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
Chiều 19/1,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã đến thăm, chúc Tết Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân thành phố Hà Nội nhân dịp đón Xuân mới Quý Mão 2023 và chào mừng 93 năm Ngày thành lập Đảng CSVN (03/02/1930- 03/02/2023). Cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Lê Minh Hưng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm, chúc Tết Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân thành phố Hà Nội.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và với tình cảm cá nhân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi tới các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo các thời kỳ, các lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang; cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đồng bào Thủ đô lời thăm hỏi chân tình và những lời chúc mừng năm mới tốt đẹp nhất. Sau khi khái quát những kết quả nổi bật của đất nước năm 2022, Tổng Bí thư cho rằng, trong những kết quả chung đó, có sự đóng góp rất quan trọng Hà Nội.
Nhấn mạnh, năm 2023 là năm có ý nghĩa quan trọng, năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Hà Nội lại càng lớn và nặng nề hơn; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thủ đô Hà Nội tiếp tục nhận thức sâu sắc và phát huy tốt hơn nữa truyền thống ngàn năm văn hiến – anh hùng, truyền thống cách mạng kiên cường, tiếp tục đổi mới tư duy, đổi mới phong cách lãnh đạo, điều hành, chủ động, tích cực tranh thủ mọi thời cơ và thuận lợi, bình tĩnh, tỉnh táo vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói chuyện với lãnh đạo thành phố Hà Nội.
Chia sẻ với đại diện các tầng lớp công nhân viên chức, lao động của thủ đô tham dự buổi gặp mặt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ, nói đến Thủ đô Hà Nội, trong lòng mỗi người con đất Việt đều xúc động, tự hào về mảnh đất ngàn năm văn hiến và anh hùng, hào hoa và thanh lịch, Thủ đô của lương tri, phẩm giá con người, Thành phố vì hòa bình, để rồi “dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về Hà Nội”, trong suốt cuộc đời hoạt động “vì nước, vì dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho Thủ đô Hà Nội những tình cảm đặc biệt. Hà Nội cũng là nơi gắn với những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, một trong những nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất, nơi có nhiều địa danh in dấu chân Bác, khi nói về Hà Nội Bác thường dùng ba chữ “Thủ đô ta”. Cách đây 68 năm, trong bài viết đăng trên Báo Nhân Dân số 236 ra ngày đầu tiên Thủ đô được giải phóng (10/10/1954) Bác đã viết “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự, an ninh, làm cho Thủ đô ta thành một Thủ đô bình yên, tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”. Và gần đây, ngày 05/5/2022, Bộ Chính trị đã tiếp tục ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đây chính là sự quan tâm đặc biệt và cũng là yêu cầu, mong muốn, tin tưởng để Hà Nội thực sự phát triển, gương mẫu đi đầu, làm gương cho cả nước như Bác Hồ từng căn dặn với Thủ đô ta.
Tổng Bí thư chụp ảnh lưu niệm với lãnh đạo thành phố Hà Nội.
Với tinh thần đó, Tổng Bí thư nhấn mạnh, tự hào về lịch sử truyền thống vẻ vang của Thủ đô, vui chung về những kết quả, thành tích đã đạt được của năm 2022, song không được chủ quan, thỏa mãn, bởi còn nhiều việc phải làm với nhiều khó khăn, thách thức phải vượt qua. “Mỗi chúng ta thêm tự hào được làm công dân của Thủ đô, mà hơn nữa lại được sống và làm việc tại Thủ đô Hà Nội – trái tim của cả nước. Trong đó, các cán bộ có mặt tại đây là những cán bộ chủ chốt của thành phố, những người có trọng trách rất lớn càng phải gương mẫu. Hơn lúc nào hết càng thấy vinh dự, tự hào thì cũng thấy trách nhiệm của mình để không ngừng tu dưỡng, phấn đấu và rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức, năng lực công tác để lãnh đạo Đảng bộ cùng nhân dân xây dựng Thủ đô ta ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại, xứng đáng với lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu, và với niềm tin yêu của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế”, Tổng Bí thư đề nghị.
Dịp này, Tổng Bí thư chúc Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân Thủ đô đạt được nhiều thành tựu mới to lớn hơn nữa trong năm 2023, chúc cho mỗi gia đình, mỗi người dân Thủ đô năm mới dồi dào sức khỏe, an lành, nhà nhà vui tươi, người người hạnh phúc, mọi sự hanh thông./.
|
To carry out the goals and tasks of
Hanoi
, the General Secretary requested the city leaders to continue to innovate their thinking, innovate their leadership and management style, be proactive, actively take advantage of every opportunity and advantage, calmly and alertly overcome all difficulties. difficult, challenging.
On the afternoon of January 19,
General Secretary Nguyen Phu Trong
visited and wished Happy New Year to the Party Committee, Government and People of Hanoi city on the occasion of welcoming the New Year of the Cat 2023 and celebrating the 93rd anniversary of the founding of the Communist Party of Vietnam (February 3, 1930 - February 3, 2023). Also attending were Politburo member, Secretary of Hanoi Party Committee Dinh Tien Dung; Secretary of the Party Central Committee, Chief of the Central Office Le Minh Hung.
General Secretary Nguyen Phu Trong visited and wished Happy New Year to the Party Committee, Government and People of Hanoi city.
On behalf of the Party and State leaders and with personal feelings, General Secretary Nguyen Phu Trong addressed the leaders, former leaders of all periods, revolutionary veterans, heroic Mother Vietnam, Heroic Forces. armed forces; with all officers, soldiers, and compatriots of the Capital, sincere greetings and best wishes for the new year. After summarizing the country's outstanding results in 2022, the General Secretary said that among those general results, there is a very important contribution from Hanoi.
Emphasizing that 2023 is an important year, a pivotal year for implementing the Resolution of the 13th Party Congress, the requirements and tasks set for the Party Committee, the government and the People of Hanoi are even greater and heavier. more serious; General Secretary Nguyen Phu Trong proposed that the Party Committee, Government and People of Hanoi Capital continue to be deeply aware of and better promote the thousand-year tradition of culture and heroism, the resilient revolutionary tradition, continue to innovate thinking, innovate leadership and operating styles, be proactive, actively take advantage of every opportunity and advantage, calmly and alertly overcome all difficulties and challenges to successfully complete the tasks. set goals and tasks.
General Secretary Nguyen Phu Trong talks with Hanoi city leaders.
Sharing with representatives of the capital's workers and workers attending the meeting, General Secretary Nguyen Phu Trong expressed that when talking about the capital Hanoi, every Vietnamese person is touched in the heart. , proud of the land of thousands of years of civilization and heroism, pomp and elegance, Capital of conscience, human dignity, City for peace, so that "even if we go to all four directions, our hearts will still remember about Hanoi", throughout his life working "for the country and the people", President Ho Chi Minh always had special feelings for the capital Hanoi. Hanoi is also a place associated with important milestones in his life of revolutionary activities, one of the places where President Ho Chi Minh lived and worked the longest, where there are many places imprinted with Uncle Ho's footprints. When talking about Hanoi, Uncle Ho often used the three words "Our capital". 68 years ago, in an article published in Nhan Dan Newspaper Không. 236 on the first day the Capital was liberated (October 10, 1954), Uncle Ho wrote "The whole country looks to our Capital. The world looks to our Capital. We must all strive to maintain order and security, making our Capital a peaceful, beautiful, and healthy capital both physically and mentally." And recently, on May 5, 2022, the Politburo continued to issue Resolution Không. 15-NQ/TW on directions and tasks for developing Hanoi Capital until 2030, with a vision to 2045, here is a special concern as well as a request, desire, and trust for Hanoi to truly develop, lead by example, and set an example for the whole country as Uncle Ho once advised our Capital.
The General Secretary took souvenir photos with Hanoi city leaders.
With that spirit, the General Secretary emphasized and is proud of the glorious traditional history of the Capital, and is happy about the results and achievements achieved in 2022, but must not be subjective or satisfied, because There is still much work to do and many difficulties and challenges to overcome. “Each of us is more proud to be a citizen of the Capital, and moreover to live and work in Hanoi Capital - the heart of the whole country. In particular, the officials present here are key officials of the city, people with great responsibilities must be exemplary. More than ever, I feel honored and proud, and I also see my responsibility to constantly cultivate, strive and train in political bravery, qualities, ethics, and working capacity to lead the Party. Together with the people, we will build our Capital to be more and more rich, beautiful, civilized, and modern, worthy of the admonitions of our beloved Uncle Ho, and with the trust and love of the people of the whole country and international friends", General Secretary recommendation letter.
On this occasion, the General Secretary wishes the Party, Government and People of the Capital to achieve many new and greater achievements in 2023, and wishes every family and every citizen of the Capital a new year of good health and safety. Good health, happy home, happy people, everything goes smoothly./.
|
Thử ghi lại tên một số bài thơ mà
Nguyễn Bính
đã viết, trong đó có nói đến xuân và tết. Trong tập Lỡ bước sang ngang: Mưa xuân.Tập Tâm hồn tôi: Xuân về. Tập Một nghìn cửa số: Thơ xuân, Mùa xuân xanh.Tập Mười hai bến nước: Xuân tha hương.Tập Mây tần: Tết của mẹ tôi.
Đây nữa, các bài thơ lẻ mới đăng báo mà chưa in vào tập nào: Vườn xuân, Xuân thương nhớ, Tết biên thuỳ.
Tiếp đó, nếu dừng lại kỹ hơn ở các bài thơ khác không thật trực tiếp song vẫn nói đến cùng một đề tài (như Cô lái đò, Quán trọ, Khăn hồng, Vài nét rừng) thì người ta phải công nhận với nhau rằng Nguyễn Bính, trong số các nhà thơ hiện đại, là một trong những người viết nhiều về xuân và tết hơn ai hết.
Nếu lại biết rằng Nguyễn Bính qua đời vào một ngày cuối tháng giêng 1966, tức cuối năm Ất Tỵ, trước khi chuyển sang năm Bính Ngọ, thì người ta càng có quyền để cho sự liên tưởng được đẩy đi xa hơn nữa. Giai thoại Nguyễn Bính kể: một người bạn của Nguyễn Bính là Trần Lê Văn cho rằng tác giả Lỡ bước sang ngang đã tiên liệu trước cái chết của mình ngay từ thời viết mấy câu thơ trong bài Nhạc xuân:
Chúng ta có thể không hoàn toàn nghĩ như Trần Lê Văn song phải nhận là giữa Nguyễn Bính với cái thời khắc trời đất giao hoà này, đúng là có mối duyên nợ thầm kín nào đó.
Mùa xuân và tết đã được Nguyễn Bính miêu tả như thế nào?
Ở bài Xuân về, ta bắt gặp: gió, trời trong, nắng, lá non, hoa bưởi, hoa cam, cánh bướm.
Ở bài Vườn xuân: gió, bướm, mưa bụi, búp non.
Khi tả tết (như ở các bài Tết của mẹ tôi, Tết biên thuỳ) Nguyễn Bính lại cũng nói đến pháo, hoa, rượu, những nét son trên môi thiếu nữ.
Đại khái, đó là những chi tiết thông thường mà mỗi chúng ta hình dung ra, khi nghe nói đến xuân và tết. Về mặt thi liệu mà xét, chúng không có cái lạ, cái choáng ngợp, của những gì thật mới, thật độc đáo. Chỉ có điều là những chi tiết đơn sơ ấy được Nguyễn Bính thổi vào một sức sống, khiến nó hiện lên thành những bức tranh tự nhiên, đồng thời gợi lên trong lòng người đọc những xúc động mà hầu như ai cũng có, nhưng lại không hay biết.
Ý nghĩa mà mùa xuân và tết để lại trong lòng người.
Bài Thơ xuân nhắc đến đủ loại người, và ở mỗi loại xuân lại có một ý nghĩa riêng.Với các em nhỏ, xuân là đùa vui nhí nhảnh. Với các cô gái, xuân gợi chuyện ái ân. Với các chàng trai, ngày xuân cũng là những ngày bắt đầu của một mơ ước cao rộng: thi cử, đỗ đạt. Ngược lại, với các cụ già, xuân là thời gian để chiêm nghiệm việc đời.
Có thể dự đoán một bài như bài thơ Thơ xuân được viết để “góp tên góp tuổi góp chất lượng” cho một số báo tết của một cố nhân nào đó trong làng báo, nên nặng tính cách giao đãi (tất nhiên, giao đãi của Nguyễn Bính, thì cũng đã rất tài). Còn như muốn tìm cái phần thật là chân chất của Nguyễn Bính, cái phần xuân và tết riêng của ông, thì không gì bằng đọc lại những bài như Mưa xuân. Mượn lời tâm sự của một cô gái đi xem chèo không gặp người yêu, bài thơ cô kết lại ở những cảm giác âm thầm và rạo rực mà mùa xuân mang lại trong lòng mỗi người. Đây là thời gian của gieo cấy ấp ủ, của tin yêu và chờ đợi. Sau cái mưa bụi kia, trong không khí lành lạnh của những thoáng mùa đông đang còn sót lại, thực ra là bao hy vọng mơ hồ được đánh thức, nó làm cho mỗi con người, nhất là những người tuổi trẻ “ngồi không yên ổn, đứng không vững vàng”, và mặc dù đôi khi dó chỉ là những hy vọng hão, những ước mong không được đáp ứng, song nó vẫn bền chặt trong lòng người, cả đến khi đau đớn, con người ở đây vẫn không nản lòng, vẫn gắng công chờ đợi, vì ngày xuân còn dài, và theo nhịp tháng năm, sau xuân này còn có những xuân khác.
Trở lên là những bài thơ xuân Nguyễn Bính đã viết khi mới từ nông thôn lên thành thị, mới bắt đầu cuộc đời của một thi sĩ với bao náo nức.
Chỉ vài năm sau thôi, khi gió bụi kinh thành mang lại cho Nguyễn Bính nhiều chua xót, và những ngày giang hồ đôi khi đồng nghĩa với cuộc lưu đày bất dắc dĩ, thì một mô típ khác bắt đầu xuất hiện: xuân và tết gắn liền nỗi nhớ quên, nhớ những kỷ niệm êm đẹp ngày trước. Giờ đây, nhìn ngày vui của mọi người, chàng thi sĩ chợt nhận ra mình quá đơn độc. Sống giữa cái tết của người ta, chàng mong những cái tết của mình. Và trước khi làm thơ xuân cho người, chàng làm cho mình những vần thơ xuân thật đau đớn, thật tê tái. Đấy là âm hưởng toát ra qua những bài thơ như Xuân tha hương, Quán trọ, Bài hành phương Nam viết sau 1940.
Nếu trước đây, thơ xuân Nguyễn Bính thường nói đến những buổi sáng, thì nay trong thơ xuân của con người ấy có những buổi chiều, những đêm tối.
Theo hướng phát triển này, giọng thơ Nguyễn Bính có dịp tự đổi khác khá bất ngờ. Trước đấy, thơ như một thứ quà tặng mà thiên nhiên ban phát cho người nghệ sĩ tài ba, và chàng chỉ việc giơ tay ra là hái ngay được để trao tặng cho đời. Nay ta bắt gặp một sự dụng công hơn và những gì tâm huyết hơn – thơ là sản phẩm của chính con người Nguyễn Bính, kết quả của sự từng trải riêng Nguyễn Bính mới có, thơ như những giọt nước mắt đã cố kìm giữ mà cứ trào ra trên gương mặt phong trần của chàng thi sĩ. Có thể nói, những vần thơ đanh quánh rắn rỏi có hơi hướng thơ biên tái (một dòng trong thơ Đường) này như là trình ra một Nguyễn Bính mới, và cái điều mà Nguyễn Bính vẫn tự hào, là được theo đòi bút nghiên, học chữ Hán từ lúc nhỏ, điều đó đã được chứng thực một cách thuyết phục.
Nhưng có lẽ những bài thơ xuân tha hương buồn bã chỉ có tiếng vang trong lòng một lớp công chúng chật hẹp.
Với đa số bạn đọc, Nguyễn Bính vẫn là tác giả của những câu thơ đắm say tha thiết với mưa xuân, những câu thơ chúng chiều chuộng người ta mơn trớn người ta, và phải nói là khá phù hợp với những ảo tưởng tốt đẹp mà mùa xuân thường gợi ra trong lòng bất cứ ai, kiểu như:
Hoặc:
Người ta biết rằng Nguyễn Bính, con người rất nhạy cảm với phụ nữ, dễ yêu và cũng rất dễ là khổ phụ nữ này, trong đời riêng, khá bất hạnh. Cái hạnh phúc thông thường – một tình yêu trung hậu, kết thúc bằng một cuộc hôn nhân bền chặt – nhiều người bình thường có thể có, song chính Nguyễn Bính lại không có. Có lẽ vì thế người thi sĩ của chúng ta không khỏi có lúc muốn tìm tới trong thơ cái điều không đạt tới trong cuộc đời: trong cơn say sưa đã mấy lần ông gọi mùa xuân là một người con gái, và sẵn sàng đi đến cùng, trong mối quan hệ với người con gái ấy. Nhân trò chuyện với người chị ở xa là chị Trúc, ông cả quyết:
Để rồi một dịp khác ông sẽ diễn tả những luống cuống trong tình yêu và niềm khao khát tận hưởng tình yêu với người con gái – mùa xuân trong những câu thơ thuộc loại hay nhất của mình.
|
Try writing down the names of some poems
Nguyen Binh
wrote, which mentioned spring and Tet. In the episode Accidentally stepping sideways: Spring rain. In the episode My soul: Spring comes. Episode One thousand windows: Spring poetry, Green spring. Episode Twelve water ports: Spring in exile. Episode May frequency: My mother's Tet.
Here, too, are odd poems recently published in newspapers but not yet printed in any volumes: Spring Garden, Missing Spring, Bien Thuy Tet.
Next, if we stop more closely at other poems that are not so direct but still talk about the same topic (such as The Boatwoman, The Inn, The Pink Turban, A Few Strokes of the Forest), then one must admit to each other that Nguyen Binh, among modern poets, is one of those who writes more about spring and Tet than anyone else.
If we know that Nguyen Binh died on the last day of January 1966, at the end of the year At Ty, before moving to the year of Binh Ngo, then people have the right to let the association be pushed even further. Anecdotal story told by Nguyen Binh: a friend of Nguyen Binh's, Tran Le Van, said that the author of Missing a step had predicted his death right from the time he wrote a few verses in the song Spring Music:
We may not completely think like Tran Le Van, but we must admit that between Nguyen Binh and this moment of harmony between heaven and earth, there is indeed some secret relationship.
How were spring and Tet described by Nguyen Binh?
In the article Spring comes, we encounter: wind, clear sky, sunshine, young leaves, grapefruit flowers, orange flowers, butterfly wings.
In the article Spring Garden: wind, butterflies, rain, dust, buds.
When describing Tet (like in my mother's Tet songs, Tet Bien Thuy), Nguyen Binh also mentioned firecrackers, flowers, wine, and lipstick on young girls' lips.
Roughly, those are the common details that each of us imagines when we hear about spring and Tet. In terms of poetic material, they do not have the strangeness, the overwhelmingness, of something truly new and unique. It's just that Nguyen Binh breathes those simple details into life, making them appear as natural pictures, while at the same time evoking in the reader emotions that almost everyone has, but unaware.
The meaning that spring and Tet leave in people's hearts.
Spring Poems mention all kinds of people, and each type of spring has its own meaning. For children, spring is fun and playful. For girls, spring evokes love. For boys, spring days are also the starting days of a lofty dream: taking exams and passing. On the contrary, for the elderly, spring is a time to contemplate life.
It can be predicted that an article like the poem Spring Poetry was written to "contribute name, contribute age, contribute quality" to an issue of Tet newspapers by a certain veteran in the newspaper industry, so it is heavy on the character of hospitality (of course, hospitality). by Nguyen Binh, is also very talented). If you want to find the true part of Nguyen Binh, his own part of spring and Tet, there is nothing better than re-reading articles like Spring Rain. Borrowing the confession of a girl who went to the opera without seeing her lover, her poem concludes with the silent and fiery feelings that spring brings in everyone's heart. This is a time of nurturing, trusting, loving and waiting. After that dusty rain, in the cold air of the remaining winter breezes, many vague hopes were actually awakened, making every person, especially young people, "sit still." unstable, not steady", and although sometimes these are just false hopes, unfulfilled wishes, they are still firmly in people's hearts, even when it is painful, people here still do not discouraged, still trying hard to wait, because the spring days are still long, and following the rhythm of the year, after this spring there will be other springs.
Above are the spring poems Nguyen Binh wrote when he first moved from the countryside to the city, just starting his life as a poet with so much excitement.
Just a few years later, when the dust and wind of the capital brought a lot of bitterness to Nguyen Binh, and the wandering days sometimes meant forced exile, another motif began to appear: spring and Tet. associated with nostalgia, remembering the good memories of the past. Now, looking at everyone's happy day, the poet suddenly realized that he was so alone. Living in the midst of other people's Tet holidays, he looks forward to his own Tet holidays. And before writing spring poems for others, he made spring poems for himself that were so painful and numbing. That is the sound emanating through poems such as Spring in Exile, Inn, Southern March written after 1940.
If in the past, Nguyen Binh's spring poetry often talked about mornings, now in that man's spring poetry there are afternoons and dark nights.
In this direction of development, Nguyen Binh's poetic voice has the opportunity to change itself quite unexpectedly. Before that, poetry was like a gift that nature gave to a talented artist, and he just had to reach out and pick it up to give to the world. Now we encounter a more diligent and more passionate effort - poetry is the product of Nguyen Binh himself, the result of Nguyen Binh's unique experience, poetry is like tears that he tried to hold back. kept flowing out on the poet's weathered face. It can be said that these strong, strong verses that have a bit of a poetic feel (a line in Tang poetry) seem to present a new Nguyen Binh, and the thing that Nguyen Binh is still proud of is being asked to write and study. , learning Chinese characters since childhood, that has been convincingly proven.
But perhaps the sad poems of spring in exile only resonate in the hearts of a narrow public.
For the majority of readers, Nguyen Binh is still the author of verses passionately passionate about spring rain, verses that pamper and caress people, and it must be said that they are quite suitable for good illusions. that spring often evokes in anyone's heart, like:
Or:
It is known that Nguyen Binh, a man who is very sensitive to women, loves easily and is also very miserable with women, in his personal life, is quite unhappy. Ordinary happiness - a loyal love, ending in a strong marriage - many normal people can have, but Nguyen Binh himself does not have it. Perhaps that's why our poet can't help but at times want to find in poetry what cannot be achieved in life: in his drunkenness, several times he called spring a girl, and was ready to go there. Finally, in the relationship with that girl. While chatting with his far away sister, Truc, he decided:
On another occasion, he will describe his confusion in love and his desire to enjoy love with a girl - spring in one of his best poems.
|
Tết
bắt đầu từ ngày mùng một, tháng Giêng, theo lịch cổ truyền mà ta quen gọi là âm lịch – thật ra phải gọi là âm – dương hợp lịch, vì ‘tháng’ được tính theo trăng (từ ‘mùng một lá trai, mùng hai lá lúa – đến ba mươi không trăng); còn ’24 tiết’ trong năm được định theo mặt trời. Ấy là không kể lịch còn được điều chỉnh theo các vì sao, ‘nhật – nguyệt – tinh’ đều được tham chiếu để làm lịch. Do đó, âm lịch không phải là lịch thuần âm hay thuần dương.
Tết là ngày đầu năm mới, trước hết và quan trọng nhất là “mùng một”, rồi bao hàm cả “3 ngày Tết” (từ mùng một đến mùng ba). Nhưng, trong ngôn ngữ cổ truyền của người Việt, bắt đầu từ 23 tháng Chạp năm cũ, người ta gọi là “23 Tết” (ít người gọi là 23 tháng Chạp), cứ thế kéo dài đến “30 Tết” (30 tháng Chạp). Đêm ấy – hay nửa đầu đêm ấy – được coi là tối tăm nhất trong năm – “tối như đêm ba mươi Tết” – Và “ông Hùm” được bảng giá trị cổ truyền coi là thế lực đáng sợ nhất, tối tăm nhất nên lại được gọi một cách tượng trưng – văn hóa là “ông ba mươi”. “30 Tết”, qua “Giao thừa” lại được gọi là “mùng một Tết” rồi “mùng hai Tết”… cho đến ít nhất là “mùng bảy Tết”.
Thật ra lễ đầu năm mới được gọi thu gọn là Tết chứ nếu gọi một cách đầy đủ thì dân gian nói là Tết cả, hay gọi theo “tên chữ” (Hán – Việt) là Tết Nguyên đán. Nguyên là “đầu tiên”, Đán là “buổi sớm”. Theo nguyên nghĩa, “Nguyên đán” là buổi sớm đầu tiên của ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm mới. Vậy “Tết Nguyên đán” là “Tết đầu năm mới”.
Còn Tết cả nghĩa là Tết hàng đầu, Tết đứng đầu, Tết to nhất và quan trọng nhất. Với tên gọi ấy, trong tâm thức dân gian đã tiềm ẩn ý là sau Tết cả, có những tết khác, “Tết con”, Tết không to bằng, không quan trọng bằng Tết cả.
Dân ta còn gọi nhiều lễ nữa trong năm là “Tết”, thí dụ “Tết mùng ba tháng Ba” (Hàn thực hay “tiệc bánh trôi”), “Tết Đoan Ngọ” (mùng 5 tháng 5), Tết “Trung thu” (Rằm tháng Tám), “Tết cơm mới” (thường tân, mùng 10/10 hay mùng 01/10 tùy vùng).
Vậy Tết theo nghĩa rộng bao hàm những định kỳ lễ lạt trong năm và quanh năm. Tết nhân văn vẫn nương theo thời tiết tự nhiên chuyển vần theo mùa vụ một năm, chẳng hạn
Tết Đoan Ngọ
là khoảng trước sau ngày Hạ chí, Tết cơm mới ở khoảng tiết Đông chí,
Tết Trung Thu
ở khoảng tiết Thu phân… Tết cả hay
Tết Nguyên đán
là nương theo cái tiết lập Xuân.
Theo GS Trần Quốc Vượng “Tết cổ truyền là cái nhìn tâm linh huyền thoại mang tính biểu trưng, với nhiều biểu tượng và pha mầu Đạo giáo. Bảy ngày trước ngày đầu năm mới, tức 23 tháng Chạp là ngày chết tạm thời của vũ trụ, theo ước lệ.” Bảy (7) là con số thiêng biểu tượng của vũ trụ, chỉ cái Toàn thể, như 3 hồn ở tim; 7 vía ở rốn trong toàn thể hồn vía một người đàn ông; như Đức Phật sơ sinh bên Ấn Độ bước đi 7 bước, tức khắp vùng thế giới.
Một ước lệ khác: Hôm ấy ông Công ông Táo – vị thần tuy 3 mà là một trong “Tam vị nhất thể” Thổ công – Thổ địa – Thổ kỳ của Đạo giáo được Việt Nam hóa thành huyền tích “2 ông 1 bà”- vị thần Đất, vị thần Nhà và vị thần Bếp núc, cưỡi cá chép bay lên trời để lại dưới hạ giới một cảnh tượng vô chủ tâm linh. Ngày 23 Tết được gọi là Tết ông Công ông Táo. Người ta làm cỗ cúng tiễn “ông Táo chầu giời”, mua cá chép sống rồi thả “phóng sinh” xuống ao, hồ, sông lạch. Nét biện chứng, từ trong cái chết đã gieo mầm sự sống. Một nét biện chứng khác: Ngày 23 tháng Chạp, người ta dựng cây nêu. Cây nêu mang ý nghĩa phổ quát của cây vũ trụ. Sự tích cây nêu Việt Nam là huyền thoại đã được Phật hóa. Trên cành của cây nêu treo áo cà sa của đức Phật để xua đuổi quỷ dữ, là những thế lực hắc ám và bóng tối, lợi dụng lúc cuối năm vô chủ thần linh đã tiến vào dương thế, tranh giành lãnh thổ với con người. Việc người xưa dùng vôi trắng, tượng trưng cho ánh sáng, để vẽ cung tên trên sân nhà hướng về phía Đông để xua tan đêm tối. Vì mặt trời đi ngủ nên phải dựng cây nêu để đón ánh sáng, để mặt trời có chỗ đậu, vì thế cây nêu còn gọi là cây mặt trời. Để xã hội hài hòa và tương thích với vũ trụ thì từ ngày 23 Tết xưa kia, mọi công việc đồng áng, làm ăn buôn bán, học hành… đều tạm dừng. Từ đây không ai được vào rừng khai thác thu lượm lâm sản nữa. Các cơ quan công quyền ở huyện, tỉnh, trấn xứ và triều đình đều đóng cửa nghỉ việc sau khi đã làm lễ “hạp ấn” – niêm phong mọi con dấu, ấn triện… Nhà tù cũng không tiếp nhận tù nhân mới. Tóm lại đó là sự dừng nghỉ hoàn toàn, để hợp với cái chết tạm thời của vũ trụ.
Nghi thức quan trọng thứ hai của Tết, sau Tết ông Công, ông Táo là giây phút giao thừa, thời điểm chuyển tiết giữa năm cũ – năm mới, được huyền thoại quan niệm như sự giao hòa âm – dương, phối ngẫu đất trời, để từ trong cái chết – cái cũ nảy sinh sự sống – cái mới. Giao hòa, giao hợp là triết lý phồn thực. Một ông Táo mới – hay cũ mà đổi mới – lại xuống trần thế làm chủ nhà – bếp – đất trong năm mới. Người ta bày một mâm cỗ cúng ở ngoài sân để đón ông, mừng ông.
Tín ngưỡng cơ bản của người tiểu nông Việt Nam trồng lúa nước cổ truyền, pha đậm đặc thêm bởi ảnh hưởng đạo Nho, là sự thờ cúng tổ tiên. Tháng 12, lịch cổ truyền là tháng Lạp (lạp nguyệt) tức tháng Chạp, người ta đi “chạp mả”, sửa sang, thắp hương trên các mộ phần, khấn mời ông bà, ông vải, tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu.
Cùng với mâm cỗ cúng ông Táo cũ, 23 Tết là cỗ cúng tổ tiên. Cùng với mâm cỗ cúng đón ông Táo mới phút giao thừa ngoài sân là mâm cỗ cúng tổ tiên trên bàn thờ trong nhà.
Và 3 ngày hay 5 ngày đầu năm mới là 3 – 5 ngày thường xuyên sửa cỗ dâng cúng, để tổ tiên được hưởng hương hoa lễ vật; còn con cháu thụ lộc trong tinh thần cộng cảm (communion) gia đình và người thân.
Tình cảm gia đình của người Việt Nam xưa rất nặng: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà. Dù đi làm ăn buôn bán, học hành nơi đâu quanh năm suốt tháng, gần ngày Tết người ta cũng tìm mọi cách trở về quê, về nhà để cúng tổ tiên, sum họp gia đình, cộng cảm cùng thân quyến nội ngoại.
Như trên đã nói lối sống, thế ứng xử Việt 3 ngày Tết cổ truyền là:
“Mùng một thì ở nhà cha, mùng hai nhà mẹ, mùng ba nhà thầy”. Đó là đạo đức, hiếu lễ, tôn sư trọng đạo của Nho học, của người Việt.
Vì Tết là đổi mới, là sức sống mới nên gam màu chủ đạo trong trang trí Tết là màu đỏ – tượng trưng màu máu, màu của sự sống, tái sinh. Màu đỏ được coi là màu của may mắn, màu của sự sống, hồi sinh… Ở góc độ tâm linh, ma quỷ sợ màu đỏ nên những ngày vũ trụ vô chủ thần linh người ta treo câu đối đỏ hay cắm hoa đào để xua đuổi tà ma. Vì thế màu đỏ là màu chủ đạo trong những ngày Tết; từ phong bao lì xì, tràng pháo, câu đối dán cửa, miếng vải trên ngọn cây nêu đến giấy gói quà Tết, hộp mứt Tết, lạt buộc bánh chưng Tết cũng được nhuộm đỏ.
Tết là sự trình diễn những món ăn dân tộc: Giò, chả, vây bóng, thịt mỡ dưa hành. Đúc kết biểu trưng Tết, không gì cô đọng súc tích bằng đôi câu đối: Thịt mỡ – dưa hành – câu đối đỏ/ Cây nêu – tràng pháo – bánh chưng xanh.
Tết cũng có những thủ tục và điều kiêng kị, như tắm gội tất niên, mặc quần áo mới, nói lời hay ý đẹp, chúc tụng nhau năm mới, hái lộc, xuất hành, khai bút… Kiêng ăn nói thô tục, kiêng quét nhà đổ rác vì sợ mất lộc, người có tang kiêng đến nhà người khác đầu năm mới…
Sau 3 ngày hay 5 ngày, người ta làm lễ và cỗ cúng hóa vàng, đốt tiền giấy và tiễn tổ tiên về lại thế giới của người đã khuất. Từ phút giao thừa, sự sống hồi sinh tới ngày 7 thì được coi là hoàn toàn hồi phục.
Mùng 7 Tết là ngày Khai hạ, hạ nêu coi như mừng kết thúc Tết. Người ta lại làm lễ mở cửa rừng nơi rừng núi để dân đi lại vào rừng như thường lệ; làm lễ khai ấn ở các công thự quan lại và triều đình. Mọi sinh hoạt đời thường lại tiếp tục.
………………………………………..
(Theo GS.TS Nguyễn Trọng Đàn. 2011. Văn hóa ẩm thực truyền thống Việt Nam. NXB Lao động – Xã hội)
|
Tết
bắt đầu từ ngày mùng một, tháng Giêng, theo lịch cổ truyền mà ta quen gọi là âm lịch – thật ra phải gọi là âm – dương hợp lịch, vì ‘tháng’ được tính theo trăng (từ ‘mùng một lá trai, mùng hai lá lúa – đến ba mươi không trăng); còn ’24 tiết’ trong năm được định theo mặt trời. Ấy là không kể lịch còn được điều chỉnh theo các vì sao, ‘nhật – nguyệt – tinh’ đều được tham chiếu để làm lịch. Do đó, âm lịch không phải là lịch thuần âm hay thuần dương.
Tết là ngày đầu năm mới, trước hết và quan trọng nhất là “mùng một”, rồi bao hàm cả “3 ngày Tết” (từ mùng một đến mùng ba). Nhưng, trong ngôn ngữ cổ truyền của người Việt, bắt đầu từ 23 tháng Chạp năm cũ, người ta gọi là “23 Tết” (ít người gọi là 23 tháng Chạp), cứ thế kéo dài đến “30 Tết” (30 tháng Chạp). Đêm ấy – hay nửa đầu đêm ấy – được coi là tối tăm nhất trong năm – “tối như đêm ba mươi Tết” – Và “ông Hùm” được bảng giá trị cổ truyền coi là thế lực đáng sợ nhất, tối tăm nhất nên lại được gọi một cách tượng trưng – văn hóa là “ông ba mươi”. “30 Tết”, qua “Giao thừa” lại được gọi là “mùng một Tết” rồi “mùng hai Tết”… cho đến ít nhất là “mùng bảy Tết”.
Thật ra lễ đầu năm mới được gọi thu gọn là Tết chứ nếu gọi một cách đầy đủ thì dân gian nói là Tết cả, hay gọi theo “tên chữ” (Hán – Việt) là Tết Nguyên đán. Nguyên là “đầu tiên”, Đán là “buổi sớm”. Theo nguyên nghĩa, “Nguyên đán” là buổi sớm đầu tiên của ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm mới. Vậy “Tết Nguyên đán” là “Tết đầu năm mới”.
Còn Tết cả nghĩa là Tết hàng đầu, Tết đứng đầu, Tết to nhất và quan trọng nhất. Với tên gọi ấy, trong tâm thức dân gian đã tiềm ẩn ý là sau Tết cả, có những tết khác, “Tết con”, Tết không to bằng, không quan trọng bằng Tết cả.
Dân ta còn gọi nhiều lễ nữa trong năm là “Tết”, thí dụ “Tết mùng ba tháng Ba” (Hàn thực hay “tiệc bánh trôi”), “Tết Đoan Ngọ” (mùng 5 tháng 5), Tết “Trung thu” (Rằm tháng Tám), “Tết cơm mới” (thường tân, mùng 10/10 hay mùng 01/10 tùy vùng).
Vậy Tết theo nghĩa rộng bao hàm những định kỳ lễ lạt trong năm và quanh năm. Tết nhân văn vẫn nương theo thời tiết tự nhiên chuyển vần theo mùa vụ một năm, chẳng hạn
Tết Đoan Ngọ
là khoảng trước sau ngày Hạ chí, Tết cơm mới ở khoảng tiết Đông chí,
Tết Trung Thu
ở khoảng tiết Thu phân… Tết cả hay
Tết Nguyên đán
là nương theo cái tiết lập Xuân.
Theo GS Trần Quốc Vượng “Tết cổ truyền là cái nhìn tâm linh huyền thoại mang tính biểu trưng, với nhiều biểu tượng và pha mầu Đạo giáo. Bảy ngày trước ngày đầu năm mới, tức 23 tháng Chạp là ngày chết tạm thời của vũ trụ, theo ước lệ.” Bảy (7) là con số thiêng biểu tượng của vũ trụ, chỉ cái Toàn thể, như 3 hồn ở tim; 7 vía ở rốn trong toàn thể hồn vía một người đàn ông; như Đức Phật sơ sinh bên Ấn Độ bước đi 7 bước, tức khắp vùng thế giới.
Một ước lệ khác: Hôm ấy ông Công ông Táo – vị thần tuy 3 mà là một trong “Tam vị nhất thể” Thổ công – Thổ địa – Thổ kỳ của Đạo giáo được Việt Nam hóa thành huyền tích “2 ông 1 bà”- vị thần Đất, vị thần Nhà và vị thần Bếp núc, cưỡi cá chép bay lên trời để lại dưới hạ giới một cảnh tượng vô chủ tâm linh. Ngày 23 Tết được gọi là Tết ông Công ông Táo. Người ta làm cỗ cúng tiễn “ông Táo chầu giời”, mua cá chép sống rồi thả “phóng sinh” xuống ao, hồ, sông lạch. Nét biện chứng, từ trong cái chết đã gieo mầm sự sống. Một nét biện chứng khác: Ngày 23 tháng Chạp, người ta dựng cây nêu. Cây nêu mang ý nghĩa phổ quát của cây vũ trụ. Sự tích cây nêu Việt Nam là huyền thoại đã được Phật hóa. Trên cành của cây nêu treo áo cà sa của đức Phật để xua đuổi quỷ dữ, là những thế lực hắc ám và bóng tối, lợi dụng lúc cuối năm vô chủ thần linh đã tiến vào dương thế, tranh giành lãnh thổ với con người. Việc người xưa dùng vôi trắng, tượng trưng cho ánh sáng, để vẽ cung tên trên sân nhà hướng về phía Đông để xua tan đêm tối. Vì mặt trời đi ngủ nên phải dựng cây nêu để đón ánh sáng, để mặt trời có chỗ đậu, vì thế cây nêu còn gọi là cây mặt trời. Để xã hội hài hòa và tương thích với vũ trụ thì từ ngày 23 Tết xưa kia, mọi công việc đồng áng, làm ăn buôn bán, học hành… đều tạm dừng. Từ đây không ai được vào rừng khai thác thu lượm lâm sản nữa. Các cơ quan công quyền ở huyện, tỉnh, trấn xứ và triều đình đều đóng cửa nghỉ việc sau khi đã làm lễ “hạp ấn” – niêm phong mọi con dấu, ấn triện… Nhà tù cũng không tiếp nhận tù nhân mới. Tóm lại đó là sự dừng nghỉ hoàn toàn, để hợp với cái chết tạm thời của vũ trụ.
Nghi thức quan trọng thứ hai của Tết, sau Tết ông Công, ông Táo là giây phút giao thừa, thời điểm chuyển tiết giữa năm cũ – năm mới, được huyền thoại quan niệm như sự giao hòa âm – dương, phối ngẫu đất trời, để từ trong cái chết – cái cũ nảy sinh sự sống – cái mới. Giao hòa, giao hợp là triết lý phồn thực. Một ông Táo mới – hay cũ mà đổi mới – lại xuống trần thế làm chủ nhà – bếp – đất trong năm mới. Người ta bày một mâm cỗ cúng ở ngoài sân để đón ông, mừng ông.
Tín ngưỡng cơ bản của người tiểu nông Việt Nam trồng lúa nước cổ truyền, pha đậm đặc thêm bởi ảnh hưởng đạo Nho, là sự thờ cúng tổ tiên. Tháng 12, lịch cổ truyền là tháng Lạp (lạp nguyệt) tức tháng Chạp, người ta đi “chạp mả”, sửa sang, thắp hương trên các mộ phần, khấn mời ông bà, ông vải, tổ tiên về ăn Tết cùng con cháu.
Cùng với mâm cỗ cúng ông Táo cũ, 23 Tết là cỗ cúng tổ tiên. Cùng với mâm cỗ cúng đón ông Táo mới phút giao thừa ngoài sân là mâm cỗ cúng tổ tiên trên bàn thờ trong nhà.
Và 3 ngày hay 5 ngày đầu năm mới là 3 – 5 ngày thường xuyên sửa cỗ dâng cúng, để tổ tiên được hưởng hương hoa lễ vật; còn con cháu thụ lộc trong tinh thần cộng cảm (communion) gia đình và người thân.
Tình cảm gia đình của người Việt Nam xưa rất nặng: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà. Dù đi làm ăn buôn bán, học hành nơi đâu quanh năm suốt tháng, gần ngày Tết người ta cũng tìm mọi cách trở về quê, về nhà để cúng tổ tiên, sum họp gia đình, cộng cảm cùng thân quyến nội ngoại.
Như trên đã nói lối sống, thế ứng xử Việt 3 ngày Tết cổ truyền là:
“Mùng một thì ở nhà cha, mùng hai nhà mẹ, mùng ba nhà thầy”. Đó là đạo đức, hiếu lễ, tôn sư trọng đạo của Nho học, của người Việt.
Vì Tết là đổi mới, là sức sống mới nên gam màu chủ đạo trong trang trí Tết là màu đỏ – tượng trưng màu máu, màu của sự sống, tái sinh. Màu đỏ được coi là màu của may mắn, màu của sự sống, hồi sinh… Ở góc độ tâm linh, ma quỷ sợ màu đỏ nên những ngày vũ trụ vô chủ thần linh người ta treo câu đối đỏ hay cắm hoa đào để xua đuổi tà ma. Vì thế màu đỏ là màu chủ đạo trong những ngày Tết; từ phong bao lì xì, tràng pháo, câu đối dán cửa, miếng vải trên ngọn cây nêu đến giấy gói quà Tết, hộp mứt Tết, lạt buộc bánh chưng Tết cũng được nhuộm đỏ.
Tết là sự trình diễn những món ăn dân tộc: Giò, chả, vây bóng, thịt mỡ dưa hành. Đúc kết biểu trưng Tết, không gì cô đọng súc tích bằng đôi câu đối: Thịt mỡ – dưa hành – câu đối đỏ/ Cây nêu – tràng pháo – bánh chưng xanh.
Tết cũng có những thủ tục và điều kiêng kị, như tắm gội tất niên, mặc quần áo mới, nói lời hay ý đẹp, chúc tụng nhau năm mới, hái lộc, xuất hành, khai bút… Kiêng ăn nói thô tục, kiêng quét nhà đổ rác vì sợ mất lộc, người có tang kiêng đến nhà người khác đầu năm mới…
Sau 3 ngày hay 5 ngày, người ta làm lễ và cỗ cúng hóa vàng, đốt tiền giấy và tiễn tổ tiên về lại thế giới của người đã khuất. Từ phút giao thừa, sự sống hồi sinh tới ngày 7 thì được coi là hoàn toàn hồi phục.
Mùng 7 Tết là ngày Khai hạ, hạ nêu coi như mừng kết thúc Tết. Người ta lại làm lễ mở cửa rừng nơi rừng núi để dân đi lại vào rừng như thường lệ; làm lễ khai ấn ở các công thự quan lại và triều đình. Mọi sinh hoạt đời thường lại tiếp tục.
………………………………………..
(Theo GS.TS Nguyễn Trọng Đàn. 2011. Văn hóa ẩm thực truyền thống Việt Nam. NXB Lao động – Xã hội)
|
Được phát hiện vào năm 1938, nhưng đến nay câu chuyện bí ẩn về đôi rồng đá mất đầu ở Thành Nhà Hồ vẫn chưa có lời đáp.
Thành Nhà Hồ
(còn gọi là thành Tây Đô) ở
huyện Vĩnh Lộc
(
Thanh Hóa
), là một trong những công trình kiến trúc bằng đá độc đáo bậc nhất của Việt Nam. Đây là công trình được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, nó từng được coi là kinh đô, trung tâm văn hóa chính trị xã hội của nước Đại Ngu dưới triều Hồ. Trải qua hơn 600 năm tồn tại với bao biến cố của lịch sử, hầu hết hoàng thành đã bị phá hủy, nhưng thành quách vẫn gần như còn nguyên vẹn.
Đôi Rồng đá mất đầu nằm ở giữa trung tâm Thành Nhà Hồ.
Vào năm 1938, khi người Pháp làm một con đường nội địa cho thuận tiện việc đi lại trong thành thì phát hiện đôi rồng này. Đến nay, nếu đi từ cổng phía Nam sang cổng phía Bắc của tòa thành, mọi người rất dễ dàng nhận ra ở ngay trung tâm thành có đôi rồng đá được đặt song song nhưng đã bị mất đầu nằm chính giữa. Đôi rồng có chiều dài 3,8m, được làm bằng chất liệu đá, khắc rất tỷ mỉ, thân rồng thon nhỏ, uốn bảy khúc, vây và lưng đều, nhỏ, trông rất đẹp. Rồng có 4 chân, mỗi chân có 3 móng với các vân mây mềm mại. Phần đầu của đôi rồng đá này đã bị mất, giờ chỉ còn bờm uốn lượn chín nếp. Dưới phần bụng được trạm trỗ những ô tam giác nhỏ có để hình hoa cúc và móc hoa ghép nhau tạo thành bậc. Đây được xem là đôi rồng đá lớn nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam được phát hiện.
Theo các cụ cao niên địa phương, ngày xưa có rất nhiều câu chuyện khác nhau được truyền miệng về đôi rồng đá mất đầu này như: Câu chuyện dân gian, xưa kia ở làng Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc (nằm cạnh ngay cổng thành phía Nam) thường hay xảy ra các vụ cháy nhà mà không rõ nguyên nhân. Người dân cho rằng sở dĩ dân làng thường xuyên xảy ra hỏa hoạn như vậy là do đôi rồng đá trong Thành quay đầu về làng “phun lửa” nên họ đã chặt đầu đôi rồng đi để dân làng được bình yên.
Hay có những câu chuyện khác đồn tai nhau, trong mắt rồng ở cung cấm thường được vua chúa cho yểm rất nhiều vàng ngọc châu báu. Một đêm nọ, lợi dụng lúc trời đổ mưa như trút nước, trong thành hoang vắng không bóng người qua lại, hàng chục đạo tặc bí mật chặt đầu đôi rồng mang đi xa đập nát để tìm ngọc quý.
Cũng có những ý kiến cho rằng, sở dĩ hai đầu rồng bị chặt là do xưa kia nhà Minh sang sâm lược đã chặt đầu rồng – biểu tượng của nhà Hồ đã đi vào giai thời diệt vong, chấm dứt vương triều Hồ. Hoặc, thời đó nhiều người bất đồng với chính sách hà khắc của nhà Hồ nên tức và chặt đầu rồng. Hay vào thời thực dân Pháp đô hộ, người Pháp bắt nhân dân trong vùng hàng tháng, hàng năm phải trải chiếu hoa từ cổng thành đến đôi rồng đá. Quá bức xúc về việc này nên dân làng đã chặt đầu rồng…
Đôi rồng được chạm khắc tinh xảo bằng đá xanh nguyên khối, thân thon nhỏ dần về phía đuôi.
Theo Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ thì tất cả những câu chuyện đó cũng chỉ là truyền tai nhau mà chưa có một văn bản hay sử sách nào ghi chép, một cơ sở khoa học nào giải thích, chứng minh vì sao đôi rồng mất đầu, ai đã chặt đầu rồng này.
Đánh giá về đôi rồng đá ở thành Nhà Hồ, nhiều nhà sử học ở Thanh Hóa bày tỏ, đây là đôi tượng rồng đá lớn nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam được phát hiện, có nghệ thuật chạm khắc tinh xảo với đặc điểm khỏe khoắn, đầy đặn và độc đáo như rồng được chạm khắc trên thềm bậc ở
Hoàng thành Thăng Long
(
Hà Nội
), chính điện Lam Kinh (Thanh Hóa).
Ngoài đôi rồng đá bị mất đầu, trong quá trình khai quật cũng như sưu tầm, Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ cũng đã phát hiện một số con vật khác bị mất đầu như con nghê đá và việc những con vật này mất đầu cũng chưa có bất cứ sử sách nào lý giải.
|
Discovered in 1938, up to now the mysterious story of the pair of headless stone dragons at the Ho Dynasty Citadel remains unanswered.
Citadel of the Ho Dynasty
(also known as Tay Do citadel) in
Vinh Loc district
(
Thanh Hoa
), is one of the most unique stone architectural works in Vietnam. This is a work built by Ho Quy Ly in 1397. It was once considered the capital and socio-political and cultural center of Dai Ngu country under the Ho dynasty. After more than 600 years of existence and many historical events, most of the imperial citadel has been destroyed, but the citadel is still almost intact.
The pair of headless stone dragons is located in the center of the Ho Dynasty Citadel.
In 1938, when the French built an inland road to facilitate travel within the city, they discovered this pair of dragons. Up to now, if you go from the south gate to the north gate of the citadel, people can easily recognize that in the center of the citadel there are a pair of stone dragons placed parallel but with their heads missing in the middle. The pair of dragons are 3.8m long, made of stone, meticulously carved, the dragon's body is slim, curved in seven parts, the fins and back are even, small, and look very beautiful. The dragon has 4 legs, each leg has 3 claws with soft cloud patterns. The heads of this pair of stone dragons have been lost, now only the nine-fold curly mane remains. Below the abdomen are carved small triangles shaped like daisies and flower hooks joined together to form steps. This is considered the largest pair of stone dragons discovered in Vietnamese feudal dynasties.
According to local elders, in the past there were many different stories passed down orally about this pair of headless stone dragons such as: Folk tale, in the past in Xuan Giai village, Vinh Tien commune, Vinh Loc district (located next to the southern city gate) house fires often occur without a clear cause. People believe that the reason why the villagers often have fires like this is because the pair of stone dragons in the citadel turned to the village to "spit fire", so they beheaded the pair of dragons to keep the villagers at peace.
Or there are other stories rumored to each other, in the eyes of dragons in forbidden palaces, kings often enchant a lot of gold and jewels. One night, taking advantage of the pouring rain, in a deserted city with no passersby, dozens of thieves secretly beheaded a pair of dragons and took them far away to smash them to find precious gems.
There are also opinions that the reason the two dragon heads were cut off is because in the past, the Ming Dynasty cut off the dragon's head - a symbol of the Ho Dynasty going into a period of destruction, ending the Ho Dynasty. Or, at that time, many people disagreed with the harsh policies of the Ho Dynasty, so they were angry and beheaded the dragon. Or during the French colonial period, the French forced people in the area every month and every year to spread flower mats from the city gate to the pair of stone dragons. So upset about this, the villagers cut off the dragon's head...
The pair of dragons are exquisitely carved from monolithic green stone, their bodies tapering towards the tail.
According to the Ho Dynasty Citadel Heritage Conservation Center, all of those stories are just word of mouth without any written or historical records, or any scientific basis to explain and prove why this couple lives together. The dragon lost its head, who beheaded this dragon?
Evaluating the pair of stone dragons at the Ho Dynasty citadel, many historians in Thanh Hoa expressed that this is the largest pair of stone dragon statues discovered in Vietnamese feudal dynasties, with sophisticated carving art with special characteristics. Strong, plump and unique features like dragons are carved on the steps
Imperial Citadel of Thang Long
(
Hanoi
), Lam Kinh main palace (Thanh Hoa).
In addition to the pair of stone dragons with missing heads, during the excavation and collection process, the Ho Dynasty Citadel Heritage Conservation Center also discovered a number of other animals with missing heads such as stone pigs and the loss of these animals. At first, there weren't any historical books to explain it.
|
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cho rằng, chủ trương, định hướng của Đảng cần được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các chính sách, pháp luật về văn hóa giàu tính thực tiễn, có tầm nhìn xa, qua đó phá vỡ rào cản, kích thích năng lực sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, năng lực cạnh tranh, tạo động lực to lớn cho sự phát triển của văn hóa.
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa.
Thời gian qua, công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa đã có bước khởi sắc, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Thưa ông, Việt Nam có những tiềm năng gì để xây dựng thương hiệu quốc gia bằng văn hóa?
– Thương hiệu quốc gia là hình ảnh của các bản sắc có khả năng cạnh tranh của một đất nước. Từ năm 2003, Việt Nam đã khởi xướng “Chương trình thương hiệu quốc gia” với mục tiêu xây dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia có uy tín về hàng hóa và dịch vụ với chất lượng cao, gia tăng niềm tự hào và sức hấp dẫn của đất nước và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển ngoại thương và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tham gia vào việc quảng bá, xây dựng thương hiệu quốc gia là tổng hòa của nhiều yếu tố như: sản xuất, kinh doanh, thương mại, quản trị, đối ngoại, văn hóa, du lịch, truyền thông, khoa học, giáo dục, con người, các giá trị… Trong đó đóng vai trò quan trọng là sự sáng tạo, năng động, tin cậy, an toàn thể hiện trong thành tựu phát triển kinh tế, nền văn hóa, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường…
Ở nghĩa rộng, trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia, văn hóa là nhân tố chi phối, quyết định chất lượng, hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản trị, thương mại…, giúp các tổ chức, cá nhân đảm bảo chữ tín, tuân thủ pháp luật, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội. Văn hóa cũng là “sức mạnh mềm” trong các quan hệ đối ngoại; là nguồn tài nguyên nhân văn vô tận phục vụ cho các hoạt động sáng tạo; là nền tảng trong các hoạt động giáo dục, khoa học, công nghệ, là hệ thống các giá trị dẫn dắt, điều tiết, định hướng xã hội hướng tới những mục tiêu nhân văn tốt đẹp.
Ở nghĩa hẹp, các thành tố của văn hóa như: di sản, nghề thủ công truyền thống, ẩm thực, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, kiến trúc, điện ảnh, thời trang… đang tích cực đóng góp theo cách riêng để tạo dựng một hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp, thân thiện, mến khách, giàu truyền thống văn hóa, có bản sắc độc đáo, năng động và sáng tạo, cởi mở trong hội nhập.
Du lịch Việt Nam những năm gần đây ngày càng khởi sắc, khẳng định thương hiệu trên bản đồ du lịch thế giới. Du lịch văn hóa hiện nay là 1 trong 4 dòng sản phẩm chủ đạo của du lịch Việt Nam và cũng là loại hình hấp dẫn nhất, thu hút đông đảo nhất du khách quốc tế.
Là đất nước nghìn năm văn vật, Việt Nam sở hữu kho tàng di sản văn hóa vật thể phong phú với 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, hơn 4.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia, hơn 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh và hệ thống các bảo tàng lưu giữ phần lớn di sản văn hóa của quá khứ dưới dạng hiện vật, bảo vật quốc gia, cổ vật, tài liệu quý hiếm…
Trên phương diện văn hóa phi vật thể, với bề dày nghìn năm văn hiến, Việt Nam hiện có 13 di sản được UNESCO ghi danh, 7 di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới, hàng trăm di sản được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Chúng ta cũng có khoảng 5.400 làng nghề truyền thống với những sản phẩm đặc sắc, gần 8.000 lễ hội các loại thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc. Việt Nam cũng là quốc gia có nền ẩm thực độc đáo, kết hợp tinh tế ẩm thực Á – Âu.
Bên cạnh đó, chúng ta còn có nhiều tài nguyên văn hóa khác ẩn chứa trong văn chương, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, tín ngưỡng, phong tục, tập quán… có thể phục vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Nhân tố văn hóa sẽ góp phần thúc đẩy và phát triển các sản phẩm đại diện cho thương hiệu Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa và vươn ra thế giới…
Diễn xướng Dân ca quan họ Bắc Ninh, Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Những hạn chế trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người Việt Nam thời gian qua đã gây hệ lụy, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hóa. Để hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy nguồn lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học”, theo ông, cần phải làm gì?
– Để hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy nguồn lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học”, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, nhất là các quan điểm được nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; kết luận chỉ đạo quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (24/11/2021).
Trước hết, cần đẩy nhanh quá trình thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa, tập trung cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng thành chương trình, đề án cụ thể, sát thực tiễn.
Thứ ba, cần phát huy toàn diện và đầy đủ các nguồn lực văn hóa bao gồm nguồn nhân lực con người và nguồn lực tài chính, nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn từ quá trình xã hội hóa, sự đóng góp của cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cùng tham gia phát triển văn hóa.
Để phát huy được giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, thời gian tới, Quốc hội cần sớm ban hành Chương trình Mục tiêu Quốc gia về văn hóa; đồng thời, cùng với Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách Nhà nước hằng năm, đảm bảo thực hiện đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng…
Văn hóa đã, đang và sẽ mãi đi cùng với tiến trình hình thành, xây dựng và phát triển của đất nước, con người Việt Nam. Thưa ông, để gìn giữ bản sắc văn hóa, hội nhập thế giới và bước ra “biển lớn”, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là gì?
– Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra 6 nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Đó là khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Là xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia – dân tộc;
Là phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân – thiện – mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước; Là phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân…
Cùng với đó, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam.
Và cuối cùng, là xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư…
Trân trọng cảm ơn ông!
|
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cho rằng, chủ trương, định hướng của Đảng cần được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các chính sách, pháp luật về văn hóa giàu tính thực tiễn, có tầm nhìn xa, qua đó phá vỡ rào cản, kích thích năng lực sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, năng lực cạnh tranh, tạo động lực to lớn cho sự phát triển của văn hóa.
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa.
Thời gian qua, công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa đã có bước khởi sắc, các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú. Thưa ông, Việt Nam có những tiềm năng gì để xây dựng thương hiệu quốc gia bằng văn hóa?
– Thương hiệu quốc gia là hình ảnh của các bản sắc có khả năng cạnh tranh của một đất nước. Từ năm 2003, Việt Nam đã khởi xướng “Chương trình thương hiệu quốc gia” với mục tiêu xây dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia có uy tín về hàng hóa và dịch vụ với chất lượng cao, gia tăng niềm tự hào và sức hấp dẫn của đất nước và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển ngoại thương và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tham gia vào việc quảng bá, xây dựng thương hiệu quốc gia là tổng hòa của nhiều yếu tố như: sản xuất, kinh doanh, thương mại, quản trị, đối ngoại, văn hóa, du lịch, truyền thông, khoa học, giáo dục, con người, các giá trị… Trong đó đóng vai trò quan trọng là sự sáng tạo, năng động, tin cậy, an toàn thể hiện trong thành tựu phát triển kinh tế, nền văn hóa, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường…
Ở nghĩa rộng, trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc gia, văn hóa là nhân tố chi phối, quyết định chất lượng, hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản trị, thương mại…, giúp các tổ chức, cá nhân đảm bảo chữ tín, tuân thủ pháp luật, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội. Văn hóa cũng là “sức mạnh mềm” trong các quan hệ đối ngoại; là nguồn tài nguyên nhân văn vô tận phục vụ cho các hoạt động sáng tạo; là nền tảng trong các hoạt động giáo dục, khoa học, công nghệ, là hệ thống các giá trị dẫn dắt, điều tiết, định hướng xã hội hướng tới những mục tiêu nhân văn tốt đẹp.
Ở nghĩa hẹp, các thành tố của văn hóa như: di sản, nghề thủ công truyền thống, ẩm thực, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, kiến trúc, điện ảnh, thời trang… đang tích cực đóng góp theo cách riêng để tạo dựng một hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp, thân thiện, mến khách, giàu truyền thống văn hóa, có bản sắc độc đáo, năng động và sáng tạo, cởi mở trong hội nhập.
Du lịch Việt Nam những năm gần đây ngày càng khởi sắc, khẳng định thương hiệu trên bản đồ du lịch thế giới. Du lịch văn hóa hiện nay là 1 trong 4 dòng sản phẩm chủ đạo của du lịch Việt Nam và cũng là loại hình hấp dẫn nhất, thu hút đông đảo nhất du khách quốc tế.
Là đất nước nghìn năm văn vật, Việt Nam sở hữu kho tàng di sản văn hóa vật thể phong phú với 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, hơn 4.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia, hơn 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh và hệ thống các bảo tàng lưu giữ phần lớn di sản văn hóa của quá khứ dưới dạng hiện vật, bảo vật quốc gia, cổ vật, tài liệu quý hiếm…
Trên phương diện văn hóa phi vật thể, với bề dày nghìn năm văn hiến, Việt Nam hiện có 13 di sản được UNESCO ghi danh, 7 di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới, hàng trăm di sản được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Chúng ta cũng có khoảng 5.400 làng nghề truyền thống với những sản phẩm đặc sắc, gần 8.000 lễ hội các loại thể hiện rõ bản sắc văn hóa dân tộc. Việt Nam cũng là quốc gia có nền ẩm thực độc đáo, kết hợp tinh tế ẩm thực Á – Âu.
Bên cạnh đó, chúng ta còn có nhiều tài nguyên văn hóa khác ẩn chứa trong văn chương, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, tín ngưỡng, phong tục, tập quán… có thể phục vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Nhân tố văn hóa sẽ góp phần thúc đẩy và phát triển các sản phẩm đại diện cho thương hiệu Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa và vươn ra thế giới…
Diễn xướng Dân ca quan họ Bắc Ninh, Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Những hạn chế trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người Việt Nam thời gian qua đã gây hệ lụy, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hóa. Để hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy nguồn lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học”, theo ông, cần phải làm gì?
– Để hoàn thiện thể chế, chính sách, phát huy nguồn lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học”, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, nhất là các quan điểm được nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; kết luận chỉ đạo quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (24/11/2021).
Trước hết, cần đẩy nhanh quá trình thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa.
Thứ hai, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hóa, tập trung cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng thành chương trình, đề án cụ thể, sát thực tiễn.
Thứ ba, cần phát huy toàn diện và đầy đủ các nguồn lực văn hóa bao gồm nguồn nhân lực con người và nguồn lực tài chính, nguồn vốn ngân sách Nhà nước và nguồn vốn từ quá trình xã hội hóa, sự đóng góp của cộng đồng các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cùng tham gia phát triển văn hóa.
Để phát huy được giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, thời gian tới, Quốc hội cần sớm ban hành Chương trình Mục tiêu Quốc gia về văn hóa; đồng thời, cùng với Chính phủ tiếp tục quan tâm, tăng mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách Nhà nước hằng năm, đảm bảo thực hiện đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng…
Văn hóa đã, đang và sẽ mãi đi cùng với tiến trình hình thành, xây dựng và phát triển của đất nước, con người Việt Nam. Thưa ông, để gìn giữ bản sắc văn hóa, hội nhập thế giới và bước ra “biển lớn”, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới là gì?
– Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra 6 nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới. Đó là khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Là xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia – dân tộc;
Là phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân – thiện – mỹ. Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước; Là phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân…
Cùng với đó, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam.
Và cuối cùng, là xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư…
Trân trọng cảm ơn ông!
|
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều cho biết nhà thơ Giang Nam qua đời sáng nay (mùng 2 Tết), hưởng thọ 94 tuổi.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
chia sẻ: “Nhà thơ Giang Nam đã chọn Tổ quốc và thơ ca làm lẽ sống của đời mình. Và suốt đời, ông đã đi trên con đường ấy. Không có bất cứ điều gì, không thách thức nào có thể thay đổi con đường của ông.
Giang Nam sống hiền như cây, kiên định như cây, mạnh mẽ như cây và nở hoa kết trái như cây trong gió bão. Xin cúi đầu vĩnh biệt ông, tác giả bài thơ
Quê hương
bất diệt”.
Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929 trong một gia đình nhà nho bình dân yêu nước ở làng Bình Trị, xã Ninh Bình,
huyện Ninh Hòa
,
Khánh Hòa
.
Nhà thơ Giang Nam.
Ông hoạt động cách mạng từ trẻ, từng giữ các chức vụ: Phó tổng thư ký Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam, Tổng biên tập Báo Văn nghệ, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, III; Chủ tịch Hội Văn nghệ Phú Khánh…
Bài thơ nổi tiếng nhất của ông là
Quê hương
(sáng tác năm 1960), được nhiều thế hệ người Việt Nam yêu thích. Bài thơ được đưa vào giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông, từng được nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu phổ nhạc.
Ông từng nhận giải nhì thơ của Tạp chí Văn nghệ năm 1961, Giải thưởng văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ngoài thơ, Giang Nam còn sáng tác văn xuôi, chủ yếu là truyện, truyện ngắn. Ông từng sử dụng một số bút danh khác như Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh…
|
Chairman of the Vietnam Writers Association Nguyen Quang Thieu said that poet Giang Nam passed away this morning (the second day of Tet), at the age of 94.
Poet Nguyen Quang Thieu
shared: "The Giang Nam poet chose the Fatherland and poetry as his life's reason. And all his life, he walked that path. Nothing, no challenge could change his path.
Giang Nam lives gently like a tree, steadfast like a tree, strong like a tree and blooms and bears fruit like a tree in a storm. I bow my head and say goodbye to you, the author of the poem
Hometown
everlasting".
Poet Giang Nam's real name is Nguyen Sung, born in 1929 in a family of ordinary patriotic Confucian scholars in Binh Tri village, Ninh Binh commune,
Ninh Hoa district
,
Khanh Hoa
.
Poet Giang Nam.
He has been active in the revolution since he was young, holding the following positions: Deputy General Secretary of the Southern Liberation Arts Association, Editor-in-Chief of Van Nghe Newspaper, member of the Executive Committee of the Vietnam Writers' Association, terms II and III; Chairman of Phu Khanh Arts Association...
His most famous poem is
Hometown
(composed in 1960), loved by many generations of Vietnamese people. The poem is taught in high school programs and was set to music by musician Pham Trong Cau.
He received the second prize in poetry from the Arts Magazine in 1961, the Nguyen Dinh Chieu Literature and Arts Award (1960-1965) from the National Liberation Front of South Vietnam and the State Award for Literature and Arts in 1965. 2001.
In addition to poetry, Giang Nam also composed prose, mainly stories and short stories. He used to use a number of other pen names such as Chau Giang, Ha Trung, Le Minh...
|
Bia ma nhai Ngũ Hành Sơn
được UNESCO ghi danh Di sản tư liệu thuộc chương trình
Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương
và đây cũng là một trong 10 sự kiện Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiêu biểu năm 2022
.
Một trong 90 văn bản ma nhai tại 5 hang động Ngũ Hành Sơn.
Ngày 26.11.2022, tại kỳ họp thứ 9 diễn ra ở thành phố Adong (Hàn Quốc), Ủy ban chương trình
Ký ức thế giới khu vực
châu Á – Thái Bình Dương
của UNESCO đã thông qua hồ sơ “Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng” là Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đây là di sản văn hóa mang tầm quốc tế đầu tiên của thành phố Đà Nẵng.
Để có được vinh dự lớn lao này,
Đà Nẵng
đã bền bỉ phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan nghiên cứu, chuẩn bị hồ sơ một cách đầy đủ, công phu và kỹ lưỡng. Còn nhớ, năm 2017, Sở Văn hóa và Thể thao Đà Nẵng tiến hành khảo sát để làm hồ sơ đề nghị xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt cho
danh thắng Ngũ Hành Sơn
. Quá trình
này
, anh chị em trong đoàn khảo sát thấy trên rất nhiều vách đá có khắc chữ Hán, chữ Nôm. Mặc dầu chưa rõ hết nội dung và ý nghĩa, nhưng
chúng tôi
vẫn cảm nhận rằng
,
nó có một giá trị nào đó. Và chúng tôi có liên tưởng đến “
T
hơ văn trên kiến trúc cung đình Huế” được UNESCO ghi danh là di sản tư liệu thuộc chương trình
Ký ức thế giới khu vực
c
hâu Á –
T
hái Bình Dương
vào năm
2016.
Tình cờ, chúng tôi được biết Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán ở Huế đang nghiên cứu di sản Phật giáo ở Ngũ Hành Sơn, bởi nơi đây từng là một trong những trung tâm Phật giáo lớn ở Đàng Trong cũng như cả nước. Tại Hội thảo do Trung tâm Văn hóa Phật giáo này phối hợp với chùa Quán Thế Âm tổ chức vào tháng 5.2018, ma nhai được nhiều nhà nghiên cứu đề cập. Ngay sau đó, một số nhà nghiên cứu Hán Nôm và nghiên cứu lịch sử, văn hóa Phật giáo từ
Huế
vào khảo sát rất kỹ lưỡng ma nhai nơi đây suốt nhiều tháng liền.
Theo Đại đức Thích Không Nhiên: “Văn bản ma nhai hiện lưu tại 5 hang động Huyền Không, Tàng Chơn, Vân Thông, Linh Nham, Âm Phủ và một số vị trí khác tại ngọn Thuỷ Sơn; bước đầu thống kê có khoảng 90 văn bản. Trong đó, động Huyền Không chiếm số lượng áp đảo với 60 văn bản; động Tàng Chơn 20; động Linh Nham 3, động Vân Thông 3; động Âm Phủ 3 và các vị trí còn lại 3 văn bản. Tuy nhiên, đa phần các văn bản không còn nguyên vẹn, bởi số lớn bị phong hóa theo thời gian, mờ hết chữ; một số bị bôi lấp bởi sơn và xi măng. Đáng tiếc nhất là trong 8 bia ký thời Chúa Nguyễn, có đến 5 tấm đã bị đục hết nội dung chữ khắc…”. Với thực trạng như vậy, tại Hội thảo, nhà nghiên cứu Phan Đăng cho biết, đã gặp may khi tìm được một quyển sách chép tay bằng chữ Hán tồn tại trên 100 năm, chưa được in ấn lần nào, bên trong có nhiều nội dung bổ ích cho việc nghiên cứu ma nhai Ngũ Hành Sơn. Theo ông, sự tồn tại cho đến nay của quyển sách chép tay này là một điều kỳ diệu. Đó là quyển
Ngũ Hành Sơn lục
do tú tài Hồ Thăng Doanh, người làng Hóa Khê (
Ngũ Hành Sơn
) biên soạn vào đầu triều Khải Định, 1916. Nội dung cuốn sách đề cập đến nhiều chủ đề, trong đó có ghi chép, dịch nghĩa, giải thích một số thơ văn ma nhai Ngũ Hành Sơn, nhờ vậy mà nó giúp chúng ta biết được nội dung các văn bia đã bị xuống cấp, hư hỏng.
UNESCO ghi danh Bia ma nhai là Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Kết quả nghiên cứu ban đầu qua cuộc khảo sát đã được đăng trong Đặc san
Liễu Quán – Xuân Kỷ Hợi 2019
với chủ đề
Ngự chế thi và thơ văn ma nhai Ngũ Hành Sơn
. Có thể kể đến các bài:
Tổng quan hệ thống ma nhai Ngũ Hành Sơn
của Thích Không Nhiên;
Thơ Ngự chế Hoàng đế Minh Mạng về danh thắng Ngũ Hành Sơn
của Võ Vinh Quang;
Về hai văn bản ma nhai thời Đồng Khánh tại động Huyền Không
của Thích Như Tịnh;
Thơ đề của các đại thần đời Thành Thái trên ma nhai Ngũ Hành Sơn
của Phan Đăng;
Khảo sát văn bản ma nhai thời Duy Tân tại động Huyền Không
của Phạm Đức Thành Dũng;
Về các bài thơ đề vịnh Ngũ Hành Sơn thời Khải Định và Bảo Đại
của Trần Đại Vinh…
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu rất chuyên sâu nói trên, Sở Văn hóa và Thể thao Đà Nẵng đã chỉ đạo Bảo tàng Lịch sử thành phố phối hợp với Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán tổ chức Hội thảo khoa học
Thư tịch cổ và văn khắc Hán Nôm Ngũ Hành Sơn
vào tháng 3.2019 với sự tham gia của nhiều nhà khoa học và nghiên cứu đến từ Thừa Thiên Huế và Quảng Nam, Đà Nẵng. Qua Hội thảo này, có thể xác định, thơ văn ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là kho tàng di sản tư liệu quý giá bằng chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, nội dung đa dạng, hình thức thể hiện độc đáo với nhiều thể loại như ngự bút, bia ký, thơ văn, đề từ, đề danh, câu đối, hát nói… của các vua và đại thần, các bậc danh tăng, văn nhân thi sĩ từng dừng chân cảm tác, khắc ghi trên vách đá trong các hang động Ngũ Hành Sơn từ đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX.
Theo tác giả Thích Không Nhiên, kết quả nghiên cứu ban đầu cũng đã cho thấy: “Ma nhai ngũ Hành Sơn là nguồn tư liệu quý, lưu giữ nhiều thông tin có giá trị liên quan đến lịch sử hình thành, phát triển của một vùng đất – đánh dấu sự cộng cư hài hòa, sinh động giữa người Việt di cư và người Chămpa tiền trú, phản ánh xu thế tiếp biến, dung hòa và nuôi dưỡng các hệ giá trị của nhiều truyền thống văn hóa tâm linh khác nhau mà mảnh đất này đã nặng lòng cưu mang, vỗ về trong dặm dài lịch sử”.
Đối chiếu với những tiêu chí của UNESCO về xem xét để ghi danh loại hình Di sản Tư liệu thuộc Chương trình
Ký ức thế giới
như tính xác thực, tính nguyên bản, tính đại diện, giá trị nội dung, khả năng bảo tồn, giới thiệu của địa phương…, Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp với UBND quận Ngũ Hành Sơn quyết định báo cáo lãnh đạo thành phố, xin chủ trương lập hồ sơ trình lên UNESCO đề nghị ghi danh di sản tư liệu quý giá này. Các cán bộ chuyên môn của Bảo tàng Đà Nẵng đã miệt mài in dập hầu hết các văn bản ma nhai rồi số hóa kèm theo hồ sơ. Quá trình lập hồ sơ, ngành Văn hóa thành phố và quận Ngũ Hành Sơn đã nhận được sự hỗ trợ nhiệt tình, tận tâm của Cục Di sản văn hóa thuộc Bộ VHTTDL, Ủy ban Quốc gia chương trình
Ký ức thế giới khu vực châu Á
– Thái Bình Dương
Việt Nam và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán Huế.
Nằm trên con đường di sản miền Trung, nhưng từng có lúc, Đà Nẵng cảm thấy “thua chị kém em” trên lĩnh vực di sản văn hóa. Những năm gần đây, lĩnh vực này có nhiều chuyển động mạnh mẽ với hai di tích quốc gia đặc biệt được xếp hạng (Thành Điện Hải và Danh thắng Ngũ Hành Sơn), với sự phối hợp cùng tỉnh Thừa Thiên Huế trùng tu di tích quốc gia Hải Vân Quan, nay là di sản Ma nhai được UNESCO ghi danh. Vấn đề bây giờ là thành phố Đà Nẵng nói chung, quận Ngũ Hành Sơn nói riêng, cần có chương trình hành động cụ thể để bảo tồn và phát huy giá trị các di sản rất quan trọng này.
Nguyên Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Đà Nẵng
|
Ghost beer chews Ngu Hanh Son
recognized by UNESCO as a Documentary Heritage under the program
World memory in the Asia-Pacific region
and this is also one of the 10 typical Culture, Sports and Tourism events in 2022
.
One of 90 ma chewing texts in 5 Ngu Hanh Son caves.
On November 26, 2022, at the 9th meeting taking place in Adong city (Korea), the Program Committee
Regional world memories
Asia Pacific
UNESCO has approved the file "Ghost stele at Marble Mountains, Da Nang" as a Documentary Heritage of the Asia-Pacific region. This is the first international cultural heritage of Da Nang city.
To receive this great honor,
Danang
has persistently coordinated with relevant agencies and organizations to research and prepare documents fully, meticulously and thoroughly. Remember, in 2017, the Da Nang Department of Culture and Sports conducted a survey to prepare a application for classification as a special national monument for
Ngu Hanh Son scenic spot
. Progress
This
, members of the survey team saw Chinese and Nom characters engraved on many cliffs. Although the content and meaning are not completely clear, but
we
still feel that
,
it has some value. And we think of “
T
Literature on Hue royal architecture" was registered by UNESCO as a documentary heritage under the program
Regional world memories
c
Asia –
T
picking Binh Duong
in the year
2016.
By chance, we learned that the Lieu Quan Buddhist Cultural Center in Hue is researching Buddhist heritage in Marble Mountains, because this place was once one of the major Buddhist centers in Dang Trong as well as the whole country. At the conference organized by the Buddhist Cultural Center in collaboration with Avalokiteśvara Pagoda in May 2018, ma chew was mentioned by many researchers. Soon after, a number of Han Nom researchers studied the history and culture of Buddhism from
Hue
and carefully surveyed the ma chew here for many months.
According to Venerable Thich Khong Nhien: "The ma chew text is currently preserved in 5 caves Huyen Khong, Tang Chon, Van Thong, Linh Nham, Am Phu and some other locations at Thuy Son mountain; Initially, there were about 90 documents. Among them, Huyen Khong cave accounts for the overwhelming number with 60 documents; Tang Chon cave 20; Linh Nham 3 cave, Van Thong 3 cave; Am Phu cave 3 and the remaining locations 3 documents. However, most of the documents are no longer intact, because a large number have been weathered over time, leaving the words blurred; some are covered with paint and cement. The most unfortunate thing is that among the 8 inscriptions of Lord Nguyen's reign, up to 5 have had all the inscriptions carved out...". With such a situation, at the conference, researcher Phan Dang said that he was lucky to find a book handwritten in Chinese characters that existed for over 100 years, had never been printed, and had many contents inside. Useful content for studying Marble Mountains. According to him, the existence of this manuscript is a miracle. That's volume
Green Marble Mountains
by baccalaureate Ho Thang Doanh, from Hoa Khe village (
Marble
) compiled at the beginning of Khai Dinh's reign, 1916. The book's content covers many topics, including recording, translating, and explaining some Ngu Hanh Son ghost poems, so it helps us know that the contents of the epitaphs have been degraded and damaged.
UNESCO registered Ma Chew Beer as a Documentary Heritage in the Asia-Pacific region.
Initial research results from the survey were published in the Special Issue
Lieu Quan – Spring Ky Hoi 2019
with topics
Regulate poetry and ghost poetry at Ngu Hanh Son
. The following articles can be mentioned:
Overview of Ngu Hanh Son ma chew system
by Thich Khong Nhien;
Emperor Minh Mang's poem about the Ngu Hanh Son landscape
by Vo Vinh Quang;
About two ma chew documents of the Dong Khanh period at Huyen Khong cave
by Thich Nhu Tinh;
Poems of the great mandarins of the Thanh Thai dynasty on Marble Mountains
by Phan Dang;
Survey of ma chew texts of the Duy Tan period at Huyen Khong cave
by Pham Duc Thanh Dung;
About the poems about the Marble Mountains during the Khai Dinh and Bao Dai periods
by Tran Dai Vinh…
Based on the above in-depth research results, the Da Nang Department of Culture and Sports directed the City History Museum to coordinate with Lieu Quan Buddhist Cultural Center to organize a scientific conference.
Ancient bibliographies and Sino-Nom inscriptions on Marble Mountains
in March 2019 with the participation of many scientists and researchers from Thua Thien Hue, Quang Nam, and Da Nang. Through this workshop, it can be determined that ma chew poetry at the Ngu Hanh Son scenic spot is a treasure trove of valuable documentary heritage in Chinese and Nom characters with large quantities, diverse content, and unique forms of expression. Unique with many genres such as inscriptions, inscriptions, poems, epithets, epithets, couplets, spoken songs... of kings and ministers, famous monks, writers and poets who stopped to reflect and engrave inscribed on cliffs in Marble Mountains caves from the early 17th century to the mid 20th century.
According to author Thich Khong Nhien, initial research results have also shown: "Ma Nhai Ngu Hanh Son is a precious source of documents, preserving a lot of valuable information related to the history of formation and development of a land - marking a harmonious and lively community between Vietnamese migrants and the original Champa residents, reflecting the trend of acculturation, harmony and nurturing of value systems of many different spiritual cultural traditions But this land has been deeply cared for and comforted for many miles of history.
Compare with UNESCO's criteria for considering the registration of Documentary Heritage types under the Program
World memories
such as authenticity, originality, representation, content value, ability to preserve and introduce the locality..., the Department of Culture and Sports in coordination with Ngu Hanh Son District People's Committee decided to report to the leadership City, please prepare a dossier to submit to UNESCO to request registration of this valuable documentary heritage. Professional staff of the Da Nang Museum have diligently printed and stamped most of the ma chew documents and then digitized them along with the records. During the document preparation process, the Culture Sector of Ngu Hanh Son City and District received enthusiastic and dedicated support from the Department of Cultural Heritage under the Ministry of Culture, Sports and Tourism, and the National Program Committee.
World memory in Asia
- Pacific
Vietnam and Lieu Quan Hue Buddhist Cultural Center.
Located on the Central Heritage Road, there was a time when Da Nang felt "inferior to younger siblings" in the field of cultural heritage. In recent years, this field has seen many strong movements with two special national monuments being ranked (Dien Hai Citadel and Marble Mountains), in coordination with Thua Thien Hue province to restore the monuments. Hai Van Quan is now a Ma Nhai heritage site registered by UNESCO. The problem now is that Da Nang city in general, and Ngu Hanh Son district in particular, need a specific action program to preserve and promote the value of these very important heritages.
Former Director of Da Nang Department of Culture and Sports
|
Cứ sau 26 giây, Trái Đất lại “rung chuyển” ngay dưới chân chúng ta. Tuy sự rung động này không đủ mạnh để chúng ta cảm nhận được, nhưng các nhà địa chấn học trên khắp thế giới đã có thể đo được những rung động này bằng thiết bị của họ.
Vào đầu những năm 1960, Jack Oliver là nhà nghiên cứu tại Đài quan sát Địa chất Lamont của Đại học Columbia (nay được gọi là Đài quan sát Trái Đất Lamont-Doherty ở
Mỹ
). Vào thời điểm này, ông đã xuất bản một nghiên cứu về “cơn bão vi địa chấn” với thời gian khoảng 26 đến 27 giây và trở thành người đầu tiên ghi lại xung bí ẩn này.
Bài báo của Oliver tuyên bố rằng xung dường như bắt nguồn từ “phía nam hoặc xích đạo Đại Tây Dương” và thảo luận về hai giả thuyết liên quan đến cơ chế nguồn của nó.
Vào những năm 1960, một nhà nghiên cứu đã ghi lại rằng Trái Đất sẽ rung động cứ sau 26 giây một lần.
“Giả thuyết favored” cho rằng xung được tạo ra bởi sóng biển phân tán va vào bờ biển Vịnh Guinea. Nhưng một giả thuyết thứ hai cho rằng xung là một loại “chấn động điều hòa” liên quan đến hoạt động magma dưới Nam Đại Tây Dương. Oliver thậm chí còn phát hiện ra rằng rung động này giống như nhịp đập của trái tim và nó sẽ mạnh hơn trong những tháng mùa hè ở Bắc bán cầu.
Tại thời điểm đó, Oliver không có các công cụ tiên tiến như máy đo địa chấn kỹ thuật số để tùy ý sử dụng. Thay vào đó, ông ấy phải xử lý các hồ sơ giấy, điều này có thể đã hạn chế khả năng nghiên của Oliver.
Khoảng 20 năm sau, một nhà nghiên cứu của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ đã xem xét kỹ hơn về hiện tượng vi địa chấn kỳ lạ này. Nhà địa chất học Gary Holcomb đã phát hiện ra rằng xung mạnh hơn vào những thời điểm nhất định, cho phép nghiên cứu chi tiết về bản chất của nó.
Đáng buồn thay, những nghiên cứu chi tiết Holcomb và Oliver đã bị thất lạc. Nhưng vào năm 2005, một sinh viên mới tốt nghiệp tên là Greg Bensen đã tình cờ bắt gặp những rung động này của
Trái Đất
và nghiên cứu về nó.
Vào thời điểm đó, Bensen đang phân tích những dữ liệu địa chấn tại Đại học Colorado ở Boulder. Một ngày nọ, cố vấn của Bensen đã yêu cầu anh ấy trình bày những gì anh ấy đang làm và anh ấy đã lấy ra một số dữ liệu. Và Bensen đã cho rằng những rung động này một tín hiệu mạnh đến từ một nơi nào đó rất xa.
Mike Ritzwoller, một nhà địa chấn học tại Đại học Colorado, đã chia sẻ những nghiên cứu của mình về rung động của Trái Đất cho Tạp chí Khám phá. Theo đó, khi Ritzwoller và nhà nghiên cứu sau tiến sĩ Nikolai Shapiro để mắt đến rung động bất thường này, họ nhận ra rằng có điều gì đó kỳ lạ đang diễn ra. Tuy nhiên, họ không biết đó là gì.
Nhóm đã kiểm tra các tín hiệu, phân tích dữ liệu và kiểm tra các thiết bị của họ trước khi kết luận rằng thuyết vi địa chấn này thực sự có thật.
Sau đó, họ bắt đầu làm việc và lập tam giác nguồn gốc của xung đến một vị trí duy nhất ở Vịnh Guinea, ngoài khơi bờ biển phía tây châu Phi. Họ cũng khai thác các dữ liệu còn lại từ nghiên cứu của Oliver và Holcomb và xuất bản bài báo của riêng họ vào năm 2006 trên tạp chí Geophysical Research Letters.
Vào những năm 2010, một sinh viên tốt nghiệp khác đã phân tích chi tiết xung. Sinh viên này tên là Garrett Euler, đang làm việc tại phòng thí nghiệm của nhà địa chấn học Doug Wiens tại Đại học Washington ở St. Louis. Và thông qua công trình của Euler, phạm vi nguồn xung đã được thu hẹp xuống Bight of Bonny ở Vịnh Guinea.
Ngay cả khi không có động đất hoặc núi lửa phun trào (hay còn gọi là “thời gian yên tĩnh”), tiếng ồn địa chấn vẫn tồn tại trong nền của Trái Đất. Theo Ritzwoller, Mặt Trời là nguyên nhân chính dẫn đến điều này.
Mặt trời làm nóng đường xích đạo nhiều hơn các cực, sau đó tạo ra gió, bão, dòng hải lưu và sóng. Sau đó, khi một con sóng đánh vào bờ biển, năng lượng sẽ được truyền vào đất liền.
Ông giải thích, điều này tương tự như cách gõ vào bàn và nhưng năng lượng từ tiếng gõ có thể truyền qua bàn và có thể cảm nhận được ở đầu đối diện.
Sử dụng các mẫu trong tiếng ồn địa chấn xung quanh này, các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu về bên trong Trái Đất.
Bên cạnh việc thu hẹp điểm gốc của xung, Euler cũng đưa ra trường hợp sóng đánh vào bờ biển là nguyên nhân có thể dẫn đến những rung động bất thường này.
Khi sóng truyền qua đại dương, sự chênh lệch áp suất trong nước có thể không ảnh hưởng nhiều đến đáy đại dương. Nhưng khi nó va vào thềm lục địa, nơi nền đất rắn gần bề mặt hơn, áp suất sẽ làm biến dạng đáy đại dương (giống như việc gõ vào bàn) và gây ra các xung địa chấn phản ánh hoạt động của sóng. Vào năm 2013, Euler đã trình bày những phát hiện của mình tại hội nghị Hiệp hội địa chấn Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều đồng ý với nhận định này. Trong một nghiên cứu khác được công bố vào năm 2013 bởi một nhóm do Yingjie Xia từ Viện Đo đạc và Địa vật lý ở Vũ Hán, Trung Quốc, dẫn đầu, một lời giải thích khác đã được đưa ra, đó chính là núi lửa.
Đây không phải là cuộc tranh luận duy nhất trong bí ẩn này. Có một câu hỏi khác vẫn còn tồn tại như tại sao xung bắt nguồn từ Bight of Bonny? Điều gì làm cho nó trở nên độc đáo như vậy? Thật không may, các nhà nghiên cứu cụ thể ở thời điểm hiện tại vẫn chưa trả lời được điều này.
Mặc dù rất hấp dẫn, nhưng xung có thể không phải là ưu tiên hàng đầu của các nhà địa chấn học. Như Wiens nói, các nhà địa chấn học có xu hướng tập trung vào một số thứ cụ thể, chẳng hạn như xác định cấu trúc bên dưới các lục địa.
Và nghiên cứu về rung động của Trái Đất dường như không thuộc về điều này. Vì vậy, có khả năng xung nhịp được định sẵn vẫn là một ví dụ về nhiều điều chưa biết và vẫn tồn tại trên hành tinh của chúng ta.
Nguồn: Earthlymission; Nature; NASA
|
Every 26 seconds, the Earth "shakes" right under our feet. While this vibration is not strong enough for us to feel, seismologists around the world have been able to measure these vibrations with their equipment.
In the early 1960s, Jack Oliver was a researcher at Columbia University's Lamont Geological Observatory (now known as the Lamont-Doherty Earth Observatory in
America
). At this time, he published a study of “microseismic storms” with a duration of about 26 to 27 seconds and became the first person to record this mysterious pulse.
Oliver's paper claims that the pulse appears to originate in the “southern or equatorial Atlantic” and discusses two hypotheses regarding its source mechanism.
In the 1960s, a researcher recorded that the Earth vibrates once every 26 seconds.
The “favored hypothesis” holds that the pulse is generated by dispersed ocean waves hitting the coast of the Gulf of Guinea. But a second theory suggests that the pulse is a type of “harmonic tremor” related to magmatic activity under the South Atlantic Ocean. Oliver even discovered that this vibration resembles the beating of a heart and that it is stronger during the summer months in the Northern Hemisphere.
At that time, Oliver did not have advanced tools such as a digital seismometer at his disposal. Instead, he had to deal with paper files, which may have limited Oliver's research abilities.
About 20 years later, a researcher with the U.S. Geological Survey took a closer look at this strange microseismic phenomenon. Geologist Gary Holcomb discovered that the pulse was stronger at certain times, allowing detailed studies of its nature.
Sadly, Holcomb and Oliver's detailed studies have been lost. But in 2005, a graduate student named Greg Bensen stumbled upon these vibrations of
Earth
and research about it.
At the time, Bensen was analyzing seismic data at the University of Colorado at Boulder. One day, Bensen's advisor asked him to show what he was doing and he pulled out some data. And Bensen attributed these vibrations to a strong signal coming from somewhere far away.
Mike Ritzwoller, a seismologist at the University of Colorado, shared his research on Earth's vibrations with Discovery Magazine. Accordingly, when Ritzwoller and postdoctoral researcher Nikolai Shapiro laid eyes on this unusual vibration, they realized that something strange was going on. However, they don't know what it is.
The team examined the signals, analyzed the data and tested their instruments before concluding that this microseismic theory was indeed real.
They then got to work and triangulated the pulse's origin to a single location in the Gulf of Guinea, off the west coast of Africa. They also mined the remaining data from Oliver and Holcomb's study and published their own paper in 2006 in the journal Geophysical Research Letters.
In the 2010s, another graduate student analyzed the pulse in detail. The student, named Garrett Euler, was working in seismologist Doug Wiens's lab at Washington University in St. Louis. And through Euler's work, the pulse source range was narrowed down to the Bight of Bonny in the Gulf of Guinea.
Even when there are no earthquakes or volcanic eruptions (also known as “quiet times”), seismic noise still exists in the Earth's background. According to Ritzwoller, the Sun is the main cause of this.
The sun heats the equator more than the poles, which then creates winds, storms, ocean currents and waves. Then, when a wave hits the shore, the energy is transferred to land.
This is similar to tapping on a table, he explains, but the energy from the tapping can travel through the table and can be felt at the opposite end.
Using patterns in this ambient seismic noise, researchers can learn about the Earth's interior.
In addition to narrowing down the origin of the pulse, Euler also made the case that waves hitting the coast were a possible cause of these unusual vibrations.
As waves travel through the ocean, the pressure difference in the water may not have much effect on the ocean floor. But when it hits the continental shelf, where solid ground is closer to the surface, the pressure deforms the ocean floor (like tapping on a table) and causes seismic pulses that reflect wave activity. In 2013, Euler presented his findings at the Seismological Society of America conference.
However, not everyone agrees with this statement. In another study published in 2013 by a team led by Yingjie Xia from the Institute of Geodesy and Geophysics in Wuhan, China, another explanation was given: volcanoes. .
This is not the only debate in this mystery. There is another question that still exists like why did the pulse originate from the Bight of Bonny? What makes it so unique? Unfortunately, specific researchers at the present time have not been able to answer this.
Although intriguing, pulses may not be a top priority for seismologists. As Wiens says, seismologists tend to focus on a few specific things, such as determining the structure beneath continents.
And the study of Earth's vibrations does not seem to belong to this. So it's likely that the predetermined clock remains an example of the many unknowns that still exist on our planet.
Source: Earthlymission; Nature; NASA
|
Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn có trách nhiệm và có ham thú đúc kết nhân tình thế thái đặng tìm ra cho bản thân mình và bạn đọc của mình những giá trị.
Nhà văn Bảo Ninh. Ảnh: Gwangju.
Trước chiến tranh gia đình tôi sống ở một biệt thự Tây đầu phố Hàng Đẫy. Biệt thự, song chen chúc tới gần hai chục hộ. Ba tôi dạy đại học, mẹ tôi dạy phổ thông, với ba anh em chúng tôi, năm người mà “tiêu chuẩn” chỉ căn phòng ba chục thước vuông. Tầng trệt, không nằm sàn được, phải kê giường chiếm mất phần diện tích đáng kể. Giữa phòng kê bàn ăn kiêm bàn tiếp khách đồng thời cũng là bàn học của anh em tôi. Một bàn nữa ở góc trong là bàn làm việc ban ngày của mẹ tôi, bàn viết của ba tôi về đêm. Đấy là những cái bàn cái ghế thời bao cấp nhất loạt như nhau, xấu xí, bất tiện, cứng quèo mà ọp ẹp. Nhưng bên cạnh bàn làm việc của ba tôi nổi bật cái tủ sách. Mọi thứ đồ đạc trong phòng chỉ tủ sách ấy đáng gọi là “đồ nội thất”.
Đã khá xưa rồi nhưng mà kiểu tủ Tây. Phần trên, sau cánh cửa kính, phần lớn là sách tiếng nước ngoài của ba mẹ tôi. Văn học hiện đại bằng tiếng Việt chỉ một ngăn, nửa là văn học dịch, nửa là tác phẩm của các nhà văn Việt Nam nổi tiếng: Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao… nhưng không “tiền chiến”. Thơ Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận nhưng không “Thơ Mới”. Phần dưới của tủ là cửa gỗ, luôn khoá chặt. Chẳng gì được ba mẹ tôi quý báu cho bằng những cuốn sách ẩn trong đó, nhưng có lẽ cũng không gì khiến song thân tôi phải e ngại chúng tôi chạm mắt chạm tay vào đến vậy.
Cho đến mãi năm 1966, khi Mỹ bắt đầu ném bom Hà Nội, tủ sách gia đình phải dỡ ra cho vào rương để chuyển lên nơi sơ tán, tôi mới được nhìn những cuốn sách đó. Cũng vẫn là
Nguyên Hồng
,
Nguyễn Tuân
,
Chế Lan Viên
… nhưng là
Bỉ vỏ, Vang bóng một thời, Điêu tàn
… Rồi nữa:
Vũ Trọng Phụng
,
Vũ Bằng
,
Thạch Lam
, Vũ Hoàng Chương,
Hàn Mạc Tử
… và các ông Nhân văn.
[…]
Giải quyết xong xuôi vụ việc rồi, ba tôi mới nói chuyện “người lớn với nhau” với tôi. Có thể nói đấy là lần đầu tiên hai cha con nói với nhau về sự đời, về chính trị, về văn học… Ba tôi đã không nửa vời với tôi về những chuyện rất khó nói ấy, dù tôi mới chỉ là một đứa nhãi ranh học trò. Nhưng tôi thấy là ba tôi nói về những điều ấy với nỗi buồn bã và trĩu nặng lo âu. Nỗi lo ấy về sau còn nhiều lần trở lại trong tâm tình của ba tôi với tôi, nhất là khi tôi có truyện ngắn đầu tay in ở
Văn nghệ Quân đội
.
Bài viết kể về con đường đến với văn chương của Bảo Ninh được in trong tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh
bản đặc biệt. Ảnh:
NXB Trẻ.
Tuy nhiên, lo âu nặng trĩu, mà ba tôi không cản chí tôi hướng vào văn nghiệp, trái lại. Thật ra, cầm bút viết văn, ấy là đời tôi đã tiếp bước cuộc đời của ba tôi. Lặng lẽ, gần như không lời chỉ giáo bày dạy nào hết, ba tôi đã truyền cho tôi tình yêu và năng lực cảm thụ văn học, đặc biệt tình yêu, lòng tự hào đối với tiếng Việt, tiếng Việt của đời sống và tiếng Việt trong văn học. Tôi có thể viết văn được tất cả là nhờ ở ba tôi, và nhờ ở sự khuyên nhủ giúp đỡ ân cần của những người bạn của ba tôi: nhà văn Nguyễn Tuân, nhà văn Bùi Hiển, nhà văn Nguyên Ngọc, giáo sư Nguyễn Đức Nam, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến…
Truyện ngắn đầu tay tôi viết xong rất nhanh, nhưng gửi báo
Văn Nghệ
, không dùng được. Viết để đó. Hơn một năm sau, không nói với tôi, mẹ tôi lục trong ngăn bàn lấy bản viết tay đó trao cho giáo sư Hoàng Ngọc Hiến khi ông tới chơi. Tối hôm sau, trời mưa, tôi đang ở nhà một mình, giáo sư gõ cửa, bước vào, có áo tơi nhưng tóc và vai ông vẫn bị ướt. Ông nói ông đến vì cái truyện vừa đọc khi chiều. “Không đạt”, ông nói ngay. “Theo thang điểm 5 chỉ đáng 3-”. Ông mở cặp, lấy ra xấp những trang đánh máy. “Tôi nhờ văn thư trường Nguyễn Du đánh máy bản thảo cho anh lần này. Lần sau tự mà gõ lấy. Chữ anh quá tệ. Từ nay, khi viết văn, anh nên dùng máy chữ”.
“Từ nay?” Nghĩa là… giáo sư thấy mình có thể tiếp tục? Tôi tự hỏi, mơ hồ một niềm vui sướng. Tôi những mong được nghe giáo sư nói kỹ hơn, song ông chẳng chuyện nhiều, cạn chén trà ông về. Bắt tay tôi ông bảo: “Tóm lại: cái truyện này thì không ra gì, nhưng anh là người hình như có thể viết được văn. Cho nên đừng có sợ, cứ liều viết đi, biết đâu đấy. Sẽ rất cực, lại chẳng chắc đã thành, tuy vậy vẫn rất đáng để liều. Bởi vì cái đời văn chương ấy mà, tiếng vậy chứ rất vui, rất kỳ thú”.
Tôi nhớ mãi những lời thoảng qua, như là nói cho vui ấy của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Bằng những khuyên nhủ như vậy và bằng những quan tâm nho nhỏ mà chân tình, ông đã giúp tôi có được một nỗ lực văn chương suốt cuộc đời. Cái nhìn khoáng đạt và tươi tỉnh của ông về nghề cũng bước đầu cho tôi một tình cảm tốt lành, một thái độ bình thản đối với công việc sáng tác.
Sự thực thì viết văn là một nghề nghiệp (nhất là viết văn xuôi), và cũng như mọi nghề nghiệp khác trong cuộc sinh nhai của con người, nghề viết văn có những buồn khổ, phiền lụy, thất bại, những sự kỳ quặc và vô nghĩa lý nhưng cũng vô vàn những niềm vui, những sự thú vị, những thành công và những hữu ích theo kiểu của nó.
Nghề văn là nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ. Nhà văn tự xem mình là kẻ có khả năng, có trách nhiệm và có ham thú đúc kết nhân tình thế thái đặng tìm ra cho bản thân mình và bạn đọc của mình những giá trị, những ý nghĩa vừa cố định vừa đổi thay không ngừng của đời sống con người, một đời sống tuy ngắn ngủi và khá là ảm đạm, nhiều buồn đau và bất hạnh, song lại cũng hàm chứa vô cùng tận những lẽ đời đáng sống, những giá trị cao quý, những vẻ đẹp tuyệt vời, hạnh phúc và niềm vui.
|
Literature is a profession of contemplation. Writers have a responsibility and an interest in summarizing situations and situations to find values for themselves and their readers.
Writer Bao Ninh. Photo: Gwangju.
Before the war, my family lived in a villa at the western end of Hang Day street. Villas and houses are crowded with nearly two dozen households. My father taught university, my mother taught high school, with the three of us, five people, the "standard" refers to a room of thirty square meters. On the ground floor, you cannot lie on the floor, you have to put up a bed, taking up a significant amount of space. In the middle of the room is a dining table and reception table, which is also my brothers' study table. Another table in the corner is my mother's desk during the day and my father's writing desk at night. These are the same subsidized tables and chairs, ugly, inconvenient, hard and rickety. But next to my father's desk stands out the bookcase. All the furniture in the room, just that bookcase, can be called "furniture".
It's quite old, but it's Western-style. The upper part, behind the glass door, is mostly my parents' foreign language books. Modern literature in Vietnamese has only one compartment, half is translated literature, half is works by famous Vietnamese writers: Nguyen Hong, Nguyen Tuan, Nguyen Cong Hoan, Nam Cao... but not "pre-war". Poems of Che Lan Vien, Xuan Dieu, Huy Can but not "New Poetry". The bottom part of the cabinet is a wooden door, always locked tightly. There was nothing that my parents treasured as much as the books hidden there, but perhaps there was also nothing that made my parents so afraid of us touching it so much.
It wasn't until 1966, when the US started bombing Hanoi, and the family's bookcase had to be dismantled and put into a trunk to move to the evacuation area, that I was able to see those books. It's still the same
Nguyen Hong
,
Nguyen Tuan
,
Che Lan Vien
… but it is
Crushed, once glorious, ruined
… Then again:
Vu Trong Phung
,
Vu Bang
,
Heather
, Vu Hoang Chuong,
Han Mac Tu
… and the Humanities.
[…]
After the matter was resolved, my father had an "adult talk" with me. It can be said that it was the first time father and son talked to each other about life, politics, literature... My father was not half-hearted with me about those very difficult things to talk about, even though I was just a kid. student dick. But I see that my father talks about these things with sadness and heavy anxiety. That worry later returned many times in my father's feelings for me, especially when I had my first short story published in
Military Arts
.
The article tells about Bao Ninh's path to literature printed in the novel
The sadness of war
special edition. Image:
Tre Publishing House.
However, due to heavy worries, my father did not discourage me from pursuing a career in literature, on the contrary. In fact, picking up a pen to write is my life following in the footsteps of my father. Quietly, almost without any instructions, my father passed on to me the love and ability to perceive literature, especially the love and pride for the Vietnamese language, the Vietnamese language of life and language. Vietnamese in literature. I can write thanks to my father, and to the kind advice and help of my father's friends: writer Nguyen Tuan, writer Bui Hien, writer Nguyen Ngoc, professor Nguyen. Duc Nam, professor Hoang Ngoc Hien...
I finished writing my first short story very quickly, but sent it to the newspaper
Art
, cannot be used. Write it there. More than a year later, without telling me, my mother rummaged through the desk drawer, took out that manuscript and gave it to professor Hoang Ngoc Hien when he came to visit. The next night, it was raining, I was home alone, the professor knocked on the door, walked in, had a loose shirt but his hair and shoulders were still wet. He said he came because of the story he read that afternoon. “Failed,” he said immediately. “On a scale of 5, it's only worth 3-”. He opened his briefcase and took out a stack of typed pages. “I asked the Nguyen Du school secretary to type the manuscript for you this time. Next time, type it yourself. Your handwriting is so bad. From now on, when writing, you should use a typewriter."
"From now on?" Which means… do you feel like you can continue? I wondered, with a vague sense of joy. I wanted to hear the professor talk more in detail, but he didn't talk much, so he finished his cup of tea and returned home. Shaking my hand, he said: "In short: this story is not good, but you are someone who seems to be able to write. So don't be afraid, just take a risk and write, who knows. It will be very difficult, and it is unlikely to happen, but it is still worth the risk. Because that literary life, it's very fun, very interesting."
I always remember those occasional words, as if said for fun, by Professor Hoang Ngoc Hien. With such advice and small but sincere concerns, he helped me have a lifelong literary endeavor. His open and fresh outlook on his profession also initially gave me a good feeling and a calm attitude towards creative work.
The truth is that writing is a profession (especially writing prose), and like every other profession in human life, writing has sorrows, troubles, failures, and oddities. and meaningless but also infinitely fun, interesting, successful and useful in its own way.
Literature is a profession of contemplation. Writers consider themselves capable, responsible, and interested in summarizing situations and situations to find for themselves and their readers values and meanings that are both fixed and changeable. end of human life, a life that although short and quite gloomy, full of sadness and unhappiness, but also contains endless reasons worth living, noble values, and wonderful beauty. wonderful, happy and joyful.
|
Đúng ba mươi năm trước (năm 1993) khi vận động cho Huế được là di sản văn hóa thế giới, trên poster với hình ảnh điện Thái Hòa chụp qua ô cửa hình chiếc khánh, UNESO đã để một slogan rất lạ bằng ba thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp: Huế luôn luôn mới!
Ngô Đồng bên thành Huế.
Một Cố đô với sứ mệnh gìn giữ những quá vãng vàng son sao có thể “luôn luôn mới”? Nhưng cùng với thời gian, slogan ấy đã như một dự báo mang ý nghĩa biện chứng: Cách giữ gìn và tôn vinh quá khứ tốt nhất là luôn làm sống lại những giá trị văn hóa xưa cũ, đó cũng chính là sự “luôn luôn mới” của Huế mà những hội hè Festival gần một phần tư thế kỷ qua ngày càng chứng minh điều đó.
Huế
không thể có một vùng khí hậu tuyệt vời như
Đà Lạt
, không có một thiên nhiên kỳ ảo như Hạ Long, không có những bãi biển mê hồn và thuận lợi như
Nha Trang
hay
Đà Nẵng
…, nhưng Huế có một gia tài văn hóa vô giá đủ sức níu lòng du khách khắp thế giới. Khi UNESCO công nhận Huế là di sản thế giới không có nghĩa chỉ công nhận những đền đài, cung điện, lăng tẩm trải qua hàng trăm năm kia. Bài thơ đô thị Huế chính là sự hòa quyện và tương hợp giữa phong cảnh và kiến trúc, sự giao hòa giữa thiên nhiên với con người… Tất cả đã tạo cho Huế một gia tài hương hỏa văn hóa. Và Huế luôn luôn mới từ chính gia tài thiên nhiên – văn hóa ấy.
Như dòng Hương giang, bao nhiêu thi ca nhạc họa đã viết về dòng sông này nhưng mỗi mùa hội hè đến sông Hương mang lại cho Huế những góc nhìn mới, mà nào phải là điều gì lạ lẫm: Hơn hai mươi năm trước, sông Hương được mới và đẹp từ một ảnh hình xưa cũ: tái hiện những chuyến đò ngang qua bến Thừa Phủ với nữ sinh Đồng Khánh thướt tha qua sông, trình diễn áo dài trên cầu Trường Tiền, nhưng giờ đây chuyện trình diễn không còn là câu chuyện trong ngày lễ hội.
Chỉ dẫn hình ảnh cây cầu đi bộ gỗ lim duyên dáng mà hiện đại bên bờ Nam sông Hương, có ai đếm hết chỉ vài năm qua, đã có bao nhiêu triệu tấm ảnh nói theo ngôn ngữ cộng đồng mạng là “sống ảo” với hình ảnh cây cầu gỗ “sang, xịn, mịn” bên dòng Hương đã được post lên và bay đi khắp muôn trùng thế gian? Cây cầu chỉ là một ví dụ nhỏ trong câu chuyện kế thừa và phát triển, đó chính câu chuyện của “Huế luôn luôn mới”
Tôi nhớ có Festival nào đó,
sông Hương
đã được làm mới lại từ chính những ảnh hình và không gian xưa cũ, mà giờ đây, sau bao nhiêu năm tháng trôi qua, nhắm mắt tôi vẫn hình dung được một quá khứ thanh bình bước ra trong buổi chiều xuôi thuyền từ lăng Minh Mạng về cồn Hến, khi hoàng hôn bắt đầu nhuốm lên dòng sông sắc màu tím rất riêng của Huế.
Cùng với màu chiều làm cái “phông thời gian”, không gian của sông Hương như được lùi lại thế kỷ 19, hôm ấy chúng tôi đã nhìn thấy bên bờ sông Hương một đoàn quan binh tuần thú với nhạc ngựa rung vang, “ngang lưng thì thắt bao vàng – đầu đội nón dấu vai mang súng dài”… Trong bóng chiều của núi đồi đổ xuống đoàn binh, không thể không cảm giác như mình đang lạc về cả trăm năm trước. Xuôi ngang làng Hải Cát, nhìn qua mái đình cổ kính, trên bến đình các bô lão áo dài khăn đóng đang thiết hương án đón đoàn ngự đạo trên sông trong âm thanh nhạc lễ và cờ xí tung bay. Khi trôi qua bãi biền xanh mướt sắc ngô của ngôi làng Ngọc Hồ, đối diện với đồi Vọng Cảnh chợt nghe trong không gian ngân vang giọng hò của những chị em trên chuyến đò dọc, tiếng hò đối đáp loang trên sông như một lưu ảnh của cuộc sống thái hòa bình yên xưa cũ thuở nào gạo trắng nước trong. Bóng chiều phủ lên bãi bồi phù sa Lương Quán, trên thảm cỏ ven sông, những đứa trẻ mục đồng tóc chỏm trái đào vắt vẻo trên lưng trâu véo von sáo trúc, hòa điệu với tiếng sáo diều trên thinh không, đêm dần buông xuống…
Cho dù tất cả chỉ dựng lại một không gian lùi hàng thế kỷ thì những lưu ảnh như hồi quang trên đôi bờ Hương giang vẫn neo vào tâm khảm tôi, một kiểu “xuyên không” trĩu niềm hoài nhớ mà vẫn mới mẻ lạ kỳ!
Một người bạn của chúng tôi, kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng – một người con xứ Huế đã có một bút ký rất hay về “Những đô thị – dòng sông”, bước chân lãng du của người kiến trúc sư đã đi qua những sông Seine, sông Potomac, sông Nil, sông Nheva hay Danube… gặp những đô thị sinh thành bởi những con sông ấy đã trầm tư với dòng sông quê nhà: “…dòng sông Hương của tôi giờ như đang vật lộn giữa di sản và phát triển, không biết ứng xử thế nào khi kinh tế là miếng mồi ngon mà cuộc sống đang khao khát. Sông Hương đang đứng ở ngã ba đường, giữ mãi nét thanh xuân lịch lãm, trầm mặc hay nhộn nhịp sầm uất? Trở thành dòng sông của ký ức hay của đồng tiền?” Những âu lo của anh không phải không có cơ sở, nhưng nếu biết làm cho Huế mới lên từ chính Huế thì làm sao có thể “đụng độ” giữa bảo tồn và phát triển? Dựng lại cả một ngày xưa trên đôi bờ để rủ rê du khách tìm về chẳng phải là làm cho Huế luôn mới mà vẫn “gìn vàng giữ ngọc cho hay/cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời” như những người con Huế tha hương vẫn trĩu lòng mê vọng…?
Viết đến đây tôi bỗng liên tưởng đến cuộc triển lãm tranh minh họa Kiều trên pháp lam Huế ở cung An Định trong dịp Festival hôm tháng Sáu vừa rồi. Nghệ thuật pháp lam, một kỹ thuật tráng men trên đồ đồng vô cùng độc đáo của các nghệ nhân Huế tưởng đã chìm quên nay hồi sinh và phát triển đa dạng. Sự hồi sinh của pháp lam qua những bức tranh Kiều tại cung An Định lại dẫn dụ tôi liên tưởng đến câu chuyện của chính nơi này: Mấy chục năm trước, khi cung An Định, kiến trúc đẹp tuyệt tác ở Huế sau rất nhiều năm được biến thành nhà văn hóa Lao Động đã bị sơn phết hàng chục lớp vôi chồng lên những mảng tường vốn là những bức tranh, những họa tiết tinh xảo. Sau khi phát hiện ra điều này, được sự tài trợ kinh phí của Đức, một nhóm chuyên gia nước này đã phục hồi các bức tranh tường được coi là tuyệt tác của mỹ thuật Huế sau hàng chục năm bị lớp vôi chất chồng lên. Làm sao không xúc động được khi khẽ cạo bong hàng chục lớp vôi sau hàng chục năm im lìm phủ kín bỗng bất ngờ hiện ra những họa tiết lộng lẫy và tinh xảo vẫn còn khá nguyên vẹn trên tường. Điều đó dường như là một ngụ ngôn đầy sức khái quát với Huế!
Khi đôi bờ sông Hương dựng lại câu chuyện “xuyên không” với dấu thời gian lùi hàng thế kỷ, khi những bức tranh tường tuyệt đẹp hiện ra dưới màu vôi bạc phếch trên vách tường cung An Định, và bao nhiêu niềm Huế được vang lên trong vẻ đẹp hôm nay như chiếc cầu bộ hành để chiêm bái dòng sông… tất cả những điều ấy cũng là những thông điệp chứng minh cho cái slogan mà đúng 30 năm trước khi vận động cho Huế được là di sản văn hóa thế giới: Huế luôn luôn mới!
Bài:
Lê Đức Dục
Ảnh:
Bảo Minh
|
Exactly thirty years ago (in 1993), when campaigning for Hue to be a world cultural heritage, on the poster with the image of Thai Hoa Palace taken through a throne-shaped window, UNESCO placed a very strange slogan in three languages. : Vietnamese, English, French: Hue is always new!
Ngo Dong next to Hue citadel.
How can an ancient capital with the mission of preserving the golden past be "always new"? But over time, that slogan has become a prediction with dialectical meaning: The best way to preserve and honor the past is to always revive old cultural values, which is also the "always "new" of Hue, which the Festivals of nearly a quarter of a century have increasingly proven.
Hue
There cannot be such a wonderful climate
Da Lat
, does not have a magical nature like Ha Long, does not have enchanting and convenient beaches like
Nha Trang
nice
Danang
…, but Hue has a priceless cultural heritage that is enough to captivate tourists around the world. When UNESCO recognized Hue as a world heritage site, it did not mean only recognizing the temples, palaces, and mausoleums that had existed for hundreds of years. Hue's urban poem is the harmony and compatibility between landscape and architecture, the harmony between nature and people... All have created Hue a cultural heritage. And Hue is always new from that natural and cultural heritage.
Like the Perfume River, many poems, music and paintings have been written about this river, but every festival season when the Perfume River comes to Hue, it brings new perspectives to Hue, which is not something strange: More than twenty years ago, the Huong River Perfume is new and beautiful from an old image: recreating boat trips across Thua Phu wharf with Dong Khanh female students gracefully crossing the river, performing ao dai on Truong Tien bridge, but now the performance is no longer about The story of the festival.
Showing the image of the charming and modern ironwood pedestrian bridge on the southern bank of the Perfume River, can anyone count how many millions of photos there have been in the language of the online community in just the past few years? The image of the "luxurious, genuine, smooth" wooden bridge on the Perfume River has been posted and flown across the world? The bridge is just a small example in the story of inheritance and development, which is the story of "Hue is always new"
I remember there was a certain Festival,
Huong river
has been renewed from the same old images and spaces, but now, after many years have passed, closing my eyes I can still imagine a peaceful past coming out in the afternoon sailing from Minh Mausoleum. Returning to Hen Islet, when sunset begins to tint the river with Hue's very own purple color.
With the color of the afternoon as the "background of time", the space of the Perfume River seemed to be taken back to the 19th century. That day, we saw on the banks of the Perfume River a group of soldiers and soldiers patrolling animals with the music of horses ringing, "horizontal". His back was tied with a yellow sack - his head was wearing a hat that marked his shoulders and carried a long gun"... In the afternoon shadow of the mountains and hills falling on the army, it was impossible not to feel like he was lost a hundred years ago. Passing by Hai Cat village, looking through the ancient roof of the communal house, on the wharf of the communal house, elders in ao dai and turbans are setting incense burners to welcome the group on the river with the sound of ceremonial music and flying flags. As we passed by the green, maize-colored beach of Ngoc Ho village, opposite Vong Canh hill, I suddenly heard the voices of the women on the boat along the river echoing in the space, the chants and responses echoing on the river like a lingering image. of the ancient peaceful Thai life, when the rice was white and the water was clear. The afternoon shadow covers the alluvial plain of Luong Quan, on the grass along the river, shepherd children with peach-blond hair perched on the backs of buffaloes play bamboo flutes, in harmony with the sound of kite flutes in the air, night gradually falls. …
Even though everything just recreates a space that goes back centuries, the images that are like reappearing on the banks of the Huong River are still anchored in my mind, a kind of "time travel" filled with nostalgia but still strangely new!
A friend of ours, architect Nguyen Ngoc Dung - a son of Hue, has a very good memoir about "Cities - rivers", the wandering footsteps of the architect who passed through rivers. Seine, Potomac River, Nile River, Nheva River or Danube... meeting the cities created by those rivers, they contemplated their hometown river: "...my Perfume River now seems to be struggling between heritage and development. development, not knowing how to behave when the economy is the delicious bait that life is craving. Perfume River is standing at a crossroads, forever maintaining its elegant youth, quietness or bustling bustle? Become a river of memories or of money?” His worries are not unfounded, but if he knows how to make the new Hue come from Hue itself, how can there be a "clash" between conservation and development? Recreating a whole old day on the banks to entice tourists to come back is not making Hue always new but still "preserving the gold and keeping the pearls for good/to please those who are at the end of the sky" like the people of Hue in exile. still filled with hopelessness...?
Writing here, I suddenly thought of the exhibition of Kieu's illustrations on Hue dharma slides at An Dinh Palace during the Festival last June. The art of phap lam, an extremely unique enameling technique on bronze objects of Hue artisans that was thought to have been forgotten, has now been revived and developed diversely. The revival of phap lam through Kieu paintings at An Dinh palace again makes me think of the story of this place itself: Decades ago, when An Dinh palace, the beautiful architectural masterpiece in Hue after many years turned into a Labor Cultural House, dozens of layers of lime were painted over the walls, which were originally paintings and delicate patterns. After discovering this, with funding from Germany, a group of German experts restored murals considered masterpieces of Hue art after decades of being piled up with layers of lime. How can you not be moved when you gently scrape off dozens of layers of lime, after decades of silence, suddenly revealing the splendid and sophisticated patterns that are still quite intact on the wall. That seems to be a powerful allegory for Hue!
When the banks of the Perfume River recreate the story of "traveling through time" with a time stamp going back centuries, when beautiful murals appear under the faded lime color on the walls of An Dinh palace, and so many joys of Hue are echoed. rising in today's beauty like a pedestrian bridge to admire the river... all of these are also messages proving the slogan that exactly 30 years ago when campaigning for Hue to be a world cultural heritage. : Hue is always new!
Post:
Le Duc Duc
Image:
Bao Minh
|
Có lẽ, ít người biết rằng,
nhà thơ Giang Nam
đã từng được mời ra vùng tự do Bình Định năm 1954 để tập kết ra Bắc nhưng ông đã chọn ở lại với chiến trường miền Nam dù biết rằng có thể sẽ rơi vào cảnh bị địch bắt và tù đày, tra tấn cho đến chết. Chính ông đã bộc bạch: Sự lựa chọn đó đã được chứng minh là hoàn toàn đúng. Có sự lựa chọn đó mới có Giang Nam hôm nay. Nhưng phải nói thật là số người được gọi là “trí thức” dám ở lại sống chết ở chiến trường chỉ đếm được trên đầu ngón tay…
Nhà thơ Giang Nam (1929 – 2023).
Cuối những năm 70 thế kỷ trước, được sự động viên của nhà thơ Phan Minh Đạo – Trưởng Ty VHTT Thuận Hải, tôi đã mạnh dạn gởi đến nhà thơ Giang Nam – lúc này đang là Tổng Biên tập Tuần báo Văn Nghệ – Hội Nhà văn Việt Nam một chùm thơ chọn lọc.
Trong lá thư hồi đáp ngay sau đó, ông đã có những lời động viên chân thành và quý báu. Thư này đến nay, tôi vẫn còn giữ, lời ông khuyên, tôi vẫn nhớ như in. Ông viết: “… Thơ của Vinh viết rất khá, cái còn phải cố gắng nhiều là sắc thái địa phương và nét riêng của tác giả (phong cách, suy nghĩ, cảm xúc)…”. Tôi nhớ nét chữ ông phóng khoáng, bay bổng, bộc lộ một tâm hồn cởi mở, thân thiện.
Thư ông viết tháng 5.1981, đến năm 1982, tôi có chùm thơ đầu tiên được đăng trên Tuần báo Văn Nghệ. Chắc ông không hề biết: Tôi đã nghiền ngẫm lời dặn dò của ông như là một bài học vỡ lòng tâm đắc dành cho cây bút trẻ. Tháng 12.1985, tôi được mời tham dự Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ III tại thủ đô Hà Nội. Khoảng cách từ 1982-1985, tôi tiếp tục được in thơ ở Tuần báo Văn Nghệ – Hội Nhà văn Việt Nam, Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, Tuần báo Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, Tạp chí Văn Nghệ các tỉnh bạn ở miền Trung (Nghĩa Bình, Phú Khánh) và miền Tây Nam bộ (An Giang, Hậu Giang, Cửu Long, Tiền Giang).
Khi trúng cử vào Ban Chấp hành Hội VHNT tỉnh Thuận Hải (khóa I, nhiệm kỳ 1986-1993), tôi được cùng nhà thơ Phan Minh Đạo tham dự Đại hội VHNT tỉnh Phú Khánh, rồi tiếp xúc với nhà thơ Giang Nam tại nhà riêng ở đường Yersin, thành phố Nha Trang. Từ đây, tôi hiểu vì sao trong bản tham luận đọc tại đại hội trước đó, nhà thơ Phan Minh Đạo đã dành những lời trân trọng nhất khi nhắc về ông trong những năm tháng đồng cam cộng khổ, sống và viết ở chiến trường Khu VI.
Hơn 10 năm tham gia làm Trưởng ban thư ký Hội đồng biên soạn công trình Địa chí Bình Thuận (1697 – 2000), rồi được phân công biên soạn phần “Văn học viết”, tôi được nhà thơ Phan Minh Đạo – đồng chủ biên, chuyển những bài thơ viết tay của nhà thơ Giang Nam gởi cho Hội đồng biên soạn. Đó là những bài thơ viết về Khu VI và Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bài thơ “Núi vùng biển mặn” của ông, đã được chọn lọc đưa vào Phụ lục của công trình Địa chí Bình Thuận, xuất bản năm 2006.
Tại Đại hội VIII Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức vào năm 2010, tôi lại được gặp ông ở thủ đô Hà Nội. Dù đã ngoài 80 nhưng trông ông còn rất minh mẫn, nhanh nhẹn và vẫn sáng tác đều. Khi tôi ngỏ ý xin chụp với ông một tấm ảnh lưu niệm trong đại hội, ông vui vẻ nhận lời ngay và nhắc lại những kỷ niệm khó quên với khu VI trong chiến tranh. Sau giải phóng, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội tỉnh Thuận Hải, và ông xem đây chính là cơ hội tốt để ông có thể đền đáp phần nào tình nghĩa với mảnh đất cực Nam Trung bộ.
Sau này, khi tham gia Ban biên tập Tạp chí Văn Nghệ Bình Thuận cùng các anh Lê Nguyên Ngữ, Mai Sơn, tôi thường xuyên liên lạc và được ông gởi cho những bài thơ mới viết về Bình Thuận. Những bài viết của ông luôn đan xen, hòa quyện giữa quá khứ và hiện tại, mang dấu ấn đậm nét của thế hệ “những người đi từ trong rừng ra”.
Nhắc đến nhà thơ Giang Nam, độc giả nhớ ngay đến các bài thơ nổi tiếng: “Quê hương”, “Nghe em vào đại học”, “Tiếng nói Việt Nam”, “Lá thư thành phố”… Nhà nghiên cứu – phê bình Nguyễn Xuân Lạc, đã xếp các bài thơ: “Màu tím hoa sim” (Hữu Loan), “Núi Đôi” (Vũ Cao) và “Quê hương” (Giang Nam) là 3 tuyệt phẩm thơ tình trong kháng chiến cứu nước, có sức sống lâu bền qua năm tháng.
Khi nhà thơ Phan Minh Đạo chuẩn bị xuất bản tập thơ “Tiếng tơ lòng” (năm 2001), ông đã dành thời gian viết lời giới thiệu bằng tình cảm trân quý nhất của mình đối với một đồng nghiệp, một người bạn chí cốt đã từng vào sinh ra tử trong những năm kháng chiến gian khổ và ác liệt. Mỗi khi có sách in, ông đều gởi tặng nhà thơ Phan Minh Đạo như một lời nhắc nhở và động viên nhau không ngừng nghỉ trên bước đường sáng tạo. Khi tham gia Ban biên soạn công trình “Thầy giáo Nguyễn Tất Thành với mái trường Dục Thanh” xuất bản tháng 5,2011, tôi đã in lại bài thơ “Thăm trường xưa Bác dạy” ông viết khi vào viếng trường Dục Thanh năm 1976. Anh em văn nghệ sĩ Bình Thuận đánh giá, đây là một trong số không nhiều lắm những bài thơ hay viết về Bác Hồ gắn với mái trường Dục Thanh – Phan Thiết – nơi Bác dừng chân dạy học từ tháng 9.1910 – 2.1911.
Có lẽ, ít người biết rằng, nhà thơ Giang Nam đã từng được mời ra vùng tự do Bình Định năm 1954 để tập kết ra Bắc nhưng ông đã chọn ở lại với chiến trường miền Nam dù biết rằng có thể sẽ rơi vào cảnh bị địch bắt và tù đày, tra tấn cho đến chết. Chính ông đã bộc bạch: Sự lựa chọn đó đã được chứng minh là hoàn toàn đúng. Có sự lựa chọn đó mới có Giang Nam hôm nay. Nhưng phải nói thật là số người được gọi là “trí thức” dám ở lại sống chết ở chiến trường chỉ đếm được trên đầu ngón tay…
Ông đã từng được tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT đợt 1 năm 2001. Lãnh đạo
tỉnh Khánh Hòa
đã hơn một lần có văn bản đề nghị trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho ông vì những đóng góp xuất sắc cho văn học cách mạng và kháng chiến.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
– Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã từng phát biểu: Nhà thơ Giang Nam xứng đáng được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Sự việc vẫn chưa ngã ngũ và theo quy luật tự nhiên của tạo hóa, ai biết ông có còn được tận mắt nhìn thấy giải thưởng cao quý kia hay không, khi hiện nay ông đã vào hàng đại thọ 94 tuổi.
|
Perhaps, few people know that,
Jiangnan poet
He was invited to the Binh Dinh free zone in 1954 to gather in the North, but he chose to stay on the southern battlefield even though he knew that he might be captured, imprisoned, and tortured to death by the enemy. He himself confided: That choice has been proven to be completely correct. Only with that choice is Giang Nam today. But to be honest, the number of so-called "intellectuals" who dare to stay and die on the battlefield can be counted on the fingers of one hand...
Poet Jiangnan (1929 – 2023).
In the late 70s of last century, with the encouragement of poet Phan Minh Dao - Head of Thuan Hai Culture and Sports Department, I boldly sent it to poet Giang Nam - at this time the Editor-in-Chief of Van Nghe Weekly - Hoi Nha Vietnamese literature, a collection of selected poems.
In his response letter immediately afterward, he had sincere and valuable words of encouragement. I still keep this letter to this day. I still remember his advice clearly. He wrote: "... Vinh's poetry is written very well, what still needs a lot of effort is the local nuances and the author's own characteristics (style, thoughts, emotions)...". I remember his liberal, flowing handwriting, revealing an open, friendly soul.
The letter he wrote was in May 1981. By 1982, I had my first bunch of poems published in Van Nghe Weekly. You probably don't know: I have pondered your advice as a good introductory lesson for young writers. In December 1985, I was invited to attend the 3rd National Young Writers Conference in Hanoi. From 1982 to 1985, I continued to have my poems published in Van Nghe Weekly - Vietnam Writers' Association, Military Literature Magazine, and City Arts Weekly. Ho Chi Minh, Literature Magazine of provinces in the Central region (Nghia Binh, Phu Khanh) and the Southwest region (An Giang, Hau Giang, Cuu Long, Tien Giang).
When I was elected to the Executive Committee of Thuan Hai Province's Culture and Arts Association (term I, term 1986-1993), I and poet Phan Minh Dao attended the Congress of Culture and Arts of Phu Khanh province, then met with poet Giang Nam at home. Particularly on Yersin street, Nha Trang city. From here, I understand why in the speech read at the previous congress, poet Phan Minh Dao reserved the most respectful words when talking about him during the years of hardship, living and writing in the battlefields of the Zone. BECAUSE.
After more than 10 years of participating as Head of the Secretariat of the Compilation Council of Binh Thuan Geography (1697 - 2000), and then being assigned to compile the "Written Literature" section, I was co-edited by poet Phan Minh Dao - co-editor. , transferred the handwritten poems of poet Giang Nam to the Editorial Council. These are poems written about Region VI and Binh Thuan during the resistance war against the US and to save the country. His poem "Mountains in the Salty Sea" was selected and included in the Appendix of the Binh Thuan Geography project, published in 2006.
At the VIII Congress of the Vietnam Writers' Association held in 2010, I met him again in the capital Hanoi. Even though he is over 80, he still looks very alert, agile and still composes well. When I offered to take a souvenir photo with him during the congress, he happily accepted immediately and recalled unforgettable memories of Area VI during the war. After liberation, he was elected as a National Assembly Delegate of Thuan Hai province, and he saw this as a good opportunity for him to repay some of his gratitude to the southernmost land of Central Vietnam.
Later, when I joined the Editorial Board of Binh Thuan Literature and Arts Magazine with brothers Le Nguyen Ngu and Mai Son, I often contacted him and received newly written poems about Binh Thuan. His writings always intertwine and blend the past and present, bearing the bold mark of the generation of "those who came out of the forest".
When mentioning the poet Giang Nam, readers immediately remember famous poems: "Homeland", "Hearing you go to university", "Voice of Vietnam", "Letter from the city"... Researcher - critic Commentator Nguyen Xuan Lac, ranked the poems: "Purple Myrtle Flower" (Huu Loan), "Doi Mountain" (Vu Cao) and "Que Huong" (Giang Nam) as three masterpieces of love poetry in the resistance war to save the country. , has lasting vitality over the years.
When poet Phan Minh Dao prepared to publish his poetry collection "The Sound of Silk" (2001), he took the time to write an introduction with his most precious feelings for a colleague and a core friend. was born and died during the years of arduous and fierce resistance. Every time he had a printed book, he sent it to poet Phan Minh Dao as a reminder and constant encouragement on the creative path. When participating in the editorial board of the work "Teacher Nguyen Tat Thanh with the roof of Duc Thanh school" published in May 2011, I reprinted the poem "Visiting the old school Uncle taught" he wrote when visiting Duc Thanh school in 1976. Writers and artists of Binh Thuan evaluate that this is one of the few good poems written about Uncle Ho associated with Duc Thanh school - Phan Thiet - where he stopped to teach from September 1910 - February 1911.
Perhaps, few people know that the poet Giang Nam was invited to the Binh Dinh free zone in 1954 to gather in the North, but he chose to stay on the southern battlefield even though he knew that he might fall into a situation where he would be captured. The enemy captured him, imprisoned him, and tortured him to death. He himself confided: That choice has been proven to be completely correct. Only with that choice is Giang Nam today. But to be honest, the number of so-called "intellectuals" who dare to stay and die on the battlefield can be counted on the fingers of one hand...
He was awarded the first State Award for Culture and Arts in 2001. Leadership
Khanh Hoa province
More than once, there was a written proposal to award him the Ho Chi Minh Prize for his outstanding contributions to revolutionary literature and the resistance war.
Poet Nguyen Quang Thieu
– The President of the Vietnam Writers Association also once said: Poet Giang Nam deserves to receive the Ho Chi Minh Prize. The matter is not yet over and according to the natural laws of creation, who knows whether he will still be able to see that noble award with his own eyes or not, when he is now 94 years old.
|
Wladyslaw Reymont
, tên thật Stanislaw Wlasdyslaw Rejment, nhà văn Ba Lan sinh năm Đinh Mão (1867), mất năm 1925 ở làng Kobiele Wielkie, là con của một nhạc công đại phong cầm. Ông rất am hiểu văn học Ba Lan đương đại và văn học nước ngoài. Trước khi trở thành nhà văn, ông làm nhiều ngành nghề khác nhau để kiếm sống, như diễn viên sân khấu, thợ may, gác barie đường sắt…và ông đã có lần xuống tóc đi tu. Vì thế ông hiểu nhiều những người cùng khổ trong xã hội. W. Reymont rất say mê sáng tác văn học. Ông viết nhiều vở kịch, thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn…, nhưng rồi ông xé bỏ đi hết. Năm ông 26 tuổi, ông lên Warsawa, tại đây ông bắt đầu thực sự viết văn.Tập sách đầu tiên viết theo đơn đặt hàng của một tạp chílà cuốn Pielgrzymka do Jasney Gỏry (Hành hương đến núiSáng) được công luận rất chú ý. Ông là nhà văn viết tiểu thuyết hiện thực phê phán, đi sâu vào các đề tài nông thôn, theo lập trường cách mạng tư sản yêu nước, được mệnh danh “Hommer của của sinh hoạt làng quê”. Truyện ngắn đầu tay Smerc (Cái chết, 1893). W. Reymont được đánh giá là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của
Ba Lan
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Thành công đầu tiên của ông trên con đường văn nghệp là tiểu thuyết Ziemia Obiecana (Đất hứa, 1889). Năm1924, ông đoạt giải thưởng Nobel Văn học với tác phẩm Chlopi (Người nông dân, 1904-1909), là bộ tiểu thuyết 4 tập, thể hiện sức mạnh của nhân dân, với lối viết tinh tế, giàu chất thơ về một làng quê với những con người giản dị, chất phác.
John Galsworthy
, nhà văn viết kịch người Anh, sinh năm Đinh Mão (1867), mất năm 1933, đoạt giải Nobel văn học năm 1932, với bộ tiểu thuyết thứ hai về gia đình Forsyte, mang tên A Modern Comedy (Hài kịch hiện đại), hoàn thành năm 1928. John Galsworthy ở Kingston Hill Surrey, là con trai của một luật sư giàu có. Ông học luật tại Trường Đại học Oxford. Năm 1890, ông hành nghề luật sư nhưng bỏ nghề. Năm 28 tuổi, ông bắt đầu viết văn. Những tác phẩm đầu tiên cuẩ ông : Jocelyn, From the Four Winds (Bốn ngọn gió) được xuất bản dưới bút danh John Sinjohn.Nhưng sự nghiệp văn học đích thực của ông bắt đầu từ năm 1904 với tiểu thuyết The Island Pharisees (Đảo của kẻ đạo đức giả), phê phán tầng lớp giàu có trong xã hội. Với tác phẩm này J. Galsworthy mới lấy bút danh tên thật của mình.
Bộ tiểu thuyết nổi tiếng của ông The Forsyte Saga (Truyện gia đình Forsyte) gồm 5 tập, trong đó có 3 tập tiểu thuyết: The Man of Property (Người tư hữu, 1906); In Chancery (Trong thòng lọng, 1920) và To Let (Cho thuê, 1921), hai truyện ngắn: Indian Summer of a Forsyte (Mùa hè muộn của Forsyte, 1917) và Awakening (Thức tỉnh, 1920), miêu tả nhiều thế hệ của một gia đình tư sản thời Nữ hoàng Victoria
Luigi Pirandello
, nhà văn, kịch gia, người Italia, sinh năm Đinh Mão (1867), mất năm 1936, nhận giải Nobel Văn học năm 1934, với các cuốn tiểu thuyết Mittia Pascal quá cố(1904); vở kịch Sáu nhân vật đi tìm tác giả (1921) và tập tiểu thuyết Uno, nessuno e centomila (Một, không và mười vạn ,1926).
L. Pirandello là con thứ hai của một gia dình tư sản chủ mỏ lưu huỳnh. Tài năng văn học của ông thể hiện khá sớm. Khi còn là cậu học sinh phổ thống L. Pirandellođã làm thơ và viết vở kịch nhan đề Barbaro. Năm 1887, ông vào học Khoa Ngữ văn Trường Đại học Palermo và Trường Đại học Roma, nhưng ông không hài lòng về trình độ giảng dạy ở đây, ông chuyển sang học tại Trường Đại học Bonn. Năm 1889, ông xuất bản tập thơ đầu tay Mal Giocondo (Nỗi đau sung sướng). Năm 1892, ông trở về Roma cộng tác với các tạp chí văn học và công bố nhiều tập thơ, trong đó đáng chú ý tập Elegie Renane ( Những bi ca sông Rhein). Năm 1898, ông bắt đầu viết kịch.
Từ 1897 – 1922, L. Pirandello giảng dạy mỹ học và văn học ở Viện Magistere Femminile tại Roma. Năm 1901, xuất bản tiểu thuyết đầu tiên L’esclusa (Người đàn bà bị ruồng bỏ). Năm 1904, cho ra mắt cuốn tiểu thuyết Il fu Mattia Pascal ( Mittia Pascal quá cố).
Từ năm 1915, ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác kịch. Các tác phẩm của ông mang khuynh hướng duy thực, đi sâu vào tâm lý, miêu tả nỗi đau của con người.. Vở kịch Sei Personagggi in cerca d’autore (Sáu nhân vật đi tìm tác giả), viết năm 1921, đã tạo cú quyết định cho sự phát triển của nền sân khấu hiện đại của nhân loại.
Paer Fabian Lagerkvist
, nhà thơ
Thuỵ Điển
, sinh năm Tân Mão (1891), mất năm 1974. Năm 1951,ông đoạt giải thưởng Nobel Văn học với tập tiểu thuyết Barabbas(1950). Barabbas là đỉnh cao sáng tạo của P. F. Lagerkist, kể lại truyện về nhân vật Barabbas trong Kinh thánh. Tiểu thuyết này được dịch ra 9 thứ tiếng và được dựng thành phimnăm 1962.
P. F. Lagerkist yêu thích văn chương từ nhỏ và đã có ý định trở thành nhà văn. Năm 1912, ông tốt nghiệp đại học, ông đã cho in thơ và truyện. Sáng tác của ông đề cập đến các vấn[A1] [A2] [A3] [A4] [A5] đề cái thiện, cái ác trong con người. Năm 1925, ông cho xuất bản cuốn tự truyện Gaest hos verkligheten (Vị khách của thực tại, 1925), theo quan điểm nhân đạo được viết bằng ngôn ngữ giản dị, nhưng mang tính nghệ thuật cao. Năm 1940, ông được bầu làm viện sỹ Viện Hàn lâm Thuỵ Điển.
Nelly Sachs
, nữ thi sỹ Đức, sinh năm Tân Mão (1891) mất năm 1970, nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1966 với tác phẩmFluch und Verwand(Trốn chạy và biến đổi, 1959).
Nelly Sachs sinh trưởng trong một gia đình Do Thái giàu có ở Berlin,
Đức
. Từ nhỏ, bà đã yêu tích âm nhạc, văn chương, đã làm thơ và đã cho in cuốn sách gồm những giai thoại và truyền thuyết. Năm 18 tuổi, Nelly Sachs bắt đầu chính thức làm thơ về thiên nhiên và dựa trên những câu chuyện cổ tích. Một số bài thơ của bà đã được đăng tải trên các tờ báo văn học.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, người Do Thái bị Đức Quốc xã khủng bố, nelly Sachs phải chạy trốn sang Thuỵ Điển. Tại đây, bà tiếp tục sáng tác thơ và dịch thuật. Tập thơ đầu tiên sau chiến tranh của bà In der Wohnungen des Todes (Trong ngôi nhà tử thần) xuất bản Tại CHDC Đức (cũ) năm 1947. Thơ của Nelly Sachs mang tư tưởng nhân đạo, nói về nỗi thống khổ và niềm hy vọng của dân tộc Do Thái.
Saul Bellow
, tên thật Solomon Bellows, nhà văn Mỹ sinh năm Tân Mão (1891), mất năm 2005, đoạt giải Nobel văn học năm 1970, về những đóng góp lớn lao cho sự phát triển văn học Mỹ và thế giới bằng những tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc với ngôn ngữ, văn phong bậc thầy.
Saul Bellow sinh ở Lachine Quebec (nay thuộc Montreal), Canada, là con út trong một gia đình Do Thái ở Saint Petersburg,
Nga
, nhập cư vào Canada rối sang định cư ở Chicago Hoa Kỳ. S. Bellow tốt nghiệp Trường Đại học Chicago, nhận bằng danh dự ngành xã hội học và nhân chủng học của Trường Đại học Northwestern (1937), đồng thời làm nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Wisconsin. Trong thế chiến thứ hai, S. Bellow là lính thuỷ đánh bộ của quân lực
Hoa Kỳ
. Năm 1944 ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay Dangling man (Người lơ lửng, 1944), kể về một kẻ không có địa vị gì trong xã hội, không biết thích ứng, lơ lửng giữa đời. Sau chiến tranh, S, Bellow giảng dạy tại một số trường đại học ở New York, Paris, và Roma. Từ năm 1962, ông định cư ở Chicago tiếp tục viết văn. Ông nhận được nhiều giải thưởng. Năm 1948, ông được giải thưởng Guggenheimcho tiểu thuyết Victim (Nạn nhân, 1947), Năm 1976, nhận giải thưởng Pulitzer cho tác phẩm Mr. Humboldt’sgift (Món quà của Humboldt, 1975), được giải thưởng Quốc gia cho tác phẩm Adventures of Augie March ( Những cuộc phiêu lưu của Augie March, 1953).Ông là tác giả của vở kịch The last analysis ( Sự phân tích cuối cùng, 1966).
Seamus Heaney
, tên đầy đủ Seamus Jastin Heaney, nhà thơ Ireland, sinh năm Kỷ Mão (1939), mất năm 2o13, đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 1995, với tác các phẩmThe government ofthe tongue (Quyền lực của ngôn từ, 1988); The place of writing (Vị trí việc viết,1989); Seeing things (Thấy sự vật, 1991).
Seamus sinh tại một làng quê ở Bắc Ireland (gần Belfast). Ông tốt nghiệp tại Trường Đại học Hoàng gia Belfast năm 1961. Từ năm 1975 – 1980, ông dạy học tại Trường Carysfort College (Dublin). Năm 10982, ông dạy tại Trường Đại học Harvard. Năm 1984, ông được phong hàm giáo sư. Từ 1989 – 1994, dạy ở Trường Đại học Oxford. Năm 1966, ông cho in tập thơ đầu tay Death of a naturalist ( Cái chết của nhà tự nhiên học). Năm 1969 ra mắt tập thơ Door into the dark ( Cánh cửa mở vào bóng đêm). Năm 1972, in tập thơ Wintering out (Hết mùa đông).
Ông là thành viên Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Ireland và là thành viên của Viện Hàn Lâm Văn học Nghệ thuật Hoa Kỳ.
GuenterGrass: Nhà văn Đức, sinh năm Đinh Mão (1927) ở Danzig – Lamgfuhr, nay là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Ông được trao tặng nhiều giải thưởng trong đó đáng kể nhất là giải thưởng George Buechner năm 1965, giải thưởng Fontane năm 1968, giải thưởng Premio Internazional Mondello năm 1977, giành được huy chương Alexander-Majakowski ở Gdansk năm 1979, giải thưởng Antonio Feltrinelli năm 1982, huy chương Hermann Kesten năm 1995 và đặc biệt đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 1999 cho tác phẩmDie Blechtrommel(Cái trống thiếc, 1959). Ông là giáo sư danh dự của Trường Đại học Kenyon và Trường Đại học Harvard Hoa Kỳ.
|
Wladyslaw Reymont
, tên thật Stanislaw Wlasdyslaw Rejment, nhà văn Ba Lan sinh năm Đinh Mão (1867), mất năm 1925 ở làng Kobiele Wielkie, là con của một nhạc công đại phong cầm. Ông rất am hiểu văn học Ba Lan đương đại và văn học nước ngoài. Trước khi trở thành nhà văn, ông làm nhiều ngành nghề khác nhau để kiếm sống, như diễn viên sân khấu, thợ may, gác barie đường sắt…và ông đã có lần xuống tóc đi tu. Vì thế ông hiểu nhiều những người cùng khổ trong xã hội. W. Reymont rất say mê sáng tác văn học. Ông viết nhiều vở kịch, thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn…, nhưng rồi ông xé bỏ đi hết. Năm ông 26 tuổi, ông lên Warsawa, tại đây ông bắt đầu thực sự viết văn.Tập sách đầu tiên viết theo đơn đặt hàng của một tạp chílà cuốn Pielgrzymka do Jasney Gỏry (Hành hương đến núiSáng) được công luận rất chú ý. Ông là nhà văn viết tiểu thuyết hiện thực phê phán, đi sâu vào các đề tài nông thôn, theo lập trường cách mạng tư sản yêu nước, được mệnh danh “Hommer của của sinh hoạt làng quê”. Truyện ngắn đầu tay Smerc (Cái chết, 1893). W. Reymont được đánh giá là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của
Ba Lan
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Thành công đầu tiên của ông trên con đường văn nghệp là tiểu thuyết Ziemia Obiecana (Đất hứa, 1889). Năm1924, ông đoạt giải thưởng Nobel Văn học với tác phẩm Chlopi (Người nông dân, 1904-1909), là bộ tiểu thuyết 4 tập, thể hiện sức mạnh của nhân dân, với lối viết tinh tế, giàu chất thơ về một làng quê với những con người giản dị, chất phác.
John Galsworthy
, nhà văn viết kịch người Anh, sinh năm Đinh Mão (1867), mất năm 1933, đoạt giải Nobel văn học năm 1932, với bộ tiểu thuyết thứ hai về gia đình Forsyte, mang tên A Modern Comedy (Hài kịch hiện đại), hoàn thành năm 1928. John Galsworthy ở Kingston Hill Surrey, là con trai của một luật sư giàu có. Ông học luật tại Trường Đại học Oxford. Năm 1890, ông hành nghề luật sư nhưng bỏ nghề. Năm 28 tuổi, ông bắt đầu viết văn. Những tác phẩm đầu tiên cuẩ ông : Jocelyn, From the Four Winds (Bốn ngọn gió) được xuất bản dưới bút danh John Sinjohn.Nhưng sự nghiệp văn học đích thực của ông bắt đầu từ năm 1904 với tiểu thuyết The Island Pharisees (Đảo của kẻ đạo đức giả), phê phán tầng lớp giàu có trong xã hội. Với tác phẩm này J. Galsworthy mới lấy bút danh tên thật của mình.
Bộ tiểu thuyết nổi tiếng của ông The Forsyte Saga (Truyện gia đình Forsyte) gồm 5 tập, trong đó có 3 tập tiểu thuyết: The Man of Property (Người tư hữu, 1906); In Chancery (Trong thòng lọng, 1920) và To Let (Cho thuê, 1921), hai truyện ngắn: Indian Summer of a Forsyte (Mùa hè muộn của Forsyte, 1917) và Awakening (Thức tỉnh, 1920), miêu tả nhiều thế hệ của một gia đình tư sản thời Nữ hoàng Victoria
Luigi Pirandello
, nhà văn, kịch gia, người Italia, sinh năm Đinh Mão (1867), mất năm 1936, nhận giải Nobel Văn học năm 1934, với các cuốn tiểu thuyết Mittia Pascal quá cố(1904); vở kịch Sáu nhân vật đi tìm tác giả (1921) và tập tiểu thuyết Uno, nessuno e centomila (Một, không và mười vạn ,1926).
L. Pirandello là con thứ hai của một gia dình tư sản chủ mỏ lưu huỳnh. Tài năng văn học của ông thể hiện khá sớm. Khi còn là cậu học sinh phổ thống L. Pirandellođã làm thơ và viết vở kịch nhan đề Barbaro. Năm 1887, ông vào học Khoa Ngữ văn Trường Đại học Palermo và Trường Đại học Roma, nhưng ông không hài lòng về trình độ giảng dạy ở đây, ông chuyển sang học tại Trường Đại học Bonn. Năm 1889, ông xuất bản tập thơ đầu tay Mal Giocondo (Nỗi đau sung sướng). Năm 1892, ông trở về Roma cộng tác với các tạp chí văn học và công bố nhiều tập thơ, trong đó đáng chú ý tập Elegie Renane ( Những bi ca sông Rhein). Năm 1898, ông bắt đầu viết kịch.
Từ 1897 – 1922, L. Pirandello giảng dạy mỹ học và văn học ở Viện Magistere Femminile tại Roma. Năm 1901, xuất bản tiểu thuyết đầu tiên L’esclusa (Người đàn bà bị ruồng bỏ). Năm 1904, cho ra mắt cuốn tiểu thuyết Il fu Mattia Pascal ( Mittia Pascal quá cố).
Từ năm 1915, ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác kịch. Các tác phẩm của ông mang khuynh hướng duy thực, đi sâu vào tâm lý, miêu tả nỗi đau của con người.. Vở kịch Sei Personagggi in cerca d’autore (Sáu nhân vật đi tìm tác giả), viết năm 1921, đã tạo cú quyết định cho sự phát triển của nền sân khấu hiện đại của nhân loại.
Paer Fabian Lagerkvist
, nhà thơ
Thuỵ Điển
, sinh năm Tân Mão (1891), mất năm 1974. Năm 1951,ông đoạt giải thưởng Nobel Văn học với tập tiểu thuyết Barabbas(1950). Barabbas là đỉnh cao sáng tạo của P. F. Lagerkist, kể lại truyện về nhân vật Barabbas trong Kinh thánh. Tiểu thuyết này được dịch ra 9 thứ tiếng và được dựng thành phimnăm 1962.
P. F. Lagerkist yêu thích văn chương từ nhỏ và đã có ý định trở thành nhà văn. Năm 1912, ông tốt nghiệp đại học, ông đã cho in thơ và truyện. Sáng tác của ông đề cập đến các vấn[A1] [A2] [A3] [A4] [A5] đề cái thiện, cái ác trong con người. Năm 1925, ông cho xuất bản cuốn tự truyện Gaest hos verkligheten (Vị khách của thực tại, 1925), theo quan điểm nhân đạo được viết bằng ngôn ngữ giản dị, nhưng mang tính nghệ thuật cao. Năm 1940, ông được bầu làm viện sỹ Viện Hàn lâm Thuỵ Điển.
Nelly Sachs
, nữ thi sỹ Đức, sinh năm Tân Mão (1891) mất năm 1970, nhận giải thưởng Nobel Văn học năm 1966 với tác phẩmFluch und Verwand(Trốn chạy và biến đổi, 1959).
Nelly Sachs sinh trưởng trong một gia đình Do Thái giàu có ở Berlin,
Đức
. Từ nhỏ, bà đã yêu tích âm nhạc, văn chương, đã làm thơ và đã cho in cuốn sách gồm những giai thoại và truyền thuyết. Năm 18 tuổi, Nelly Sachs bắt đầu chính thức làm thơ về thiên nhiên và dựa trên những câu chuyện cổ tích. Một số bài thơ của bà đã được đăng tải trên các tờ báo văn học.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, người Do Thái bị Đức Quốc xã khủng bố, nelly Sachs phải chạy trốn sang Thuỵ Điển. Tại đây, bà tiếp tục sáng tác thơ và dịch thuật. Tập thơ đầu tiên sau chiến tranh của bà In der Wohnungen des Todes (Trong ngôi nhà tử thần) xuất bản Tại CHDC Đức (cũ) năm 1947. Thơ của Nelly Sachs mang tư tưởng nhân đạo, nói về nỗi thống khổ và niềm hy vọng của dân tộc Do Thái.
Saul Bellow
, tên thật Solomon Bellows, nhà văn Mỹ sinh năm Tân Mão (1891), mất năm 2005, đoạt giải Nobel văn học năm 1970, về những đóng góp lớn lao cho sự phát triển văn học Mỹ và thế giới bằng những tác phẩm mang tính nhân đạo sâu sắc với ngôn ngữ, văn phong bậc thầy.
Saul Bellow sinh ở Lachine Quebec (nay thuộc Montreal), Canada, là con út trong một gia đình Do Thái ở Saint Petersburg,
Nga
, nhập cư vào Canada rối sang định cư ở Chicago Hoa Kỳ. S. Bellow tốt nghiệp Trường Đại học Chicago, nhận bằng danh dự ngành xã hội học và nhân chủng học của Trường Đại học Northwestern (1937), đồng thời làm nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Wisconsin. Trong thế chiến thứ hai, S. Bellow là lính thuỷ đánh bộ của quân lực
Hoa Kỳ
. Năm 1944 ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay Dangling man (Người lơ lửng, 1944), kể về một kẻ không có địa vị gì trong xã hội, không biết thích ứng, lơ lửng giữa đời. Sau chiến tranh, S, Bellow giảng dạy tại một số trường đại học ở New York, Paris, và Roma. Từ năm 1962, ông định cư ở Chicago tiếp tục viết văn. Ông nhận được nhiều giải thưởng. Năm 1948, ông được giải thưởng Guggenheimcho tiểu thuyết Victim (Nạn nhân, 1947), Năm 1976, nhận giải thưởng Pulitzer cho tác phẩm Mr. Humboldt’sgift (Món quà của Humboldt, 1975), được giải thưởng Quốc gia cho tác phẩm Adventures of Augie March ( Những cuộc phiêu lưu của Augie March, 1953).Ông là tác giả của vở kịch The last analysis ( Sự phân tích cuối cùng, 1966).
Seamus Heaney
, tên đầy đủ Seamus Jastin Heaney, nhà thơ Ireland, sinh năm Kỷ Mão (1939), mất năm 2o13, đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 1995, với tác các phẩmThe government ofthe tongue (Quyền lực của ngôn từ, 1988); The place of writing (Vị trí việc viết,1989); Seeing things (Thấy sự vật, 1991).
Seamus sinh tại một làng quê ở Bắc Ireland (gần Belfast). Ông tốt nghiệp tại Trường Đại học Hoàng gia Belfast năm 1961. Từ năm 1975 – 1980, ông dạy học tại Trường Carysfort College (Dublin). Năm 10982, ông dạy tại Trường Đại học Harvard. Năm 1984, ông được phong hàm giáo sư. Từ 1989 – 1994, dạy ở Trường Đại học Oxford. Năm 1966, ông cho in tập thơ đầu tay Death of a naturalist ( Cái chết của nhà tự nhiên học). Năm 1969 ra mắt tập thơ Door into the dark ( Cánh cửa mở vào bóng đêm). Năm 1972, in tập thơ Wintering out (Hết mùa đông).
Ông là thành viên Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật Ireland và là thành viên của Viện Hàn Lâm Văn học Nghệ thuật Hoa Kỳ.
GuenterGrass: Nhà văn Đức, sinh năm Đinh Mão (1927) ở Danzig – Lamgfuhr, nay là Gdansk (Danzig) thuộc Ba Lan. Ông được trao tặng nhiều giải thưởng trong đó đáng kể nhất là giải thưởng George Buechner năm 1965, giải thưởng Fontane năm 1968, giải thưởng Premio Internazional Mondello năm 1977, giành được huy chương Alexander-Majakowski ở Gdansk năm 1979, giải thưởng Antonio Feltrinelli năm 1982, huy chương Hermann Kesten năm 1995 và đặc biệt đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 1999 cho tác phẩmDie Blechtrommel(Cái trống thiếc, 1959). Ông là giáo sư danh dự của Trường Đại học Kenyon và Trường Đại học Harvard Hoa Kỳ.
|
Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, bảo đảm điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân luôn là nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Trước đòi hỏi của thực tiễn, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã phát triển lý luận về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, tạo nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển của quốc gia – dân tộc nhanh và bền vững.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc.
Tham luận tại Hội thảo khoa học “Hành trình khát vọng vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, TS Đào Ngọc Tuấn (Giảng viên Khoa Triết học, Trường Đại học Luật Hà Nội) nhận định: Ngay sau khi đất nước giành được độc lập vào năm 1945, nhờ việc xác định đúng đắn vai trò của văn hóa “soi đường cho quốc dân đi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa cách mạng Việt Nam khi ấy không chỉ nhằm đấu tranh trực diện chống lại văn hóa phản động của thực dân Pháp đang áp đặt lên nước ta, mà còn phản ánh được quy luật vận động và phát triển tất yếu của văn hóa.
Trong những năm đầu đổi mới, khi nền
kinh tế Việt Nam
có sự bứt phá và đạt được nhiều kết quả, đời sống vật chất của người dân được cải thiện, mọi người thi đua lao động sản xuất và làm giàu thì việc định vị văn hóa ngày càng rõ ràng hơn và được đặt đúng vị trí là một trong những trụ cột của phát triển.
TS Đào Ngọc Tuấn cũng nhấn mạnh, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) ghi nhận một nấc thang mới trong phát triển văn hóa cách mạng của Đảng khi chủ trương “Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ” và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng đã lần đầu tiên đưa ra quan niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Theo TS Đào Ngọc Tuấn, đây là luận điểm mới mẻ, sáng tạo nói lên mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển, nhấn mạnh vị thế, vai trò của văn hóa đối với chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Trải qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển, chúng ta đã đạt được những kết quả to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, so với sự phát triển về kinh tế… thì những vấn đề về văn hóa – xã hội có sự phát triển chưa tương xứng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa… diễn ra không chỉ ở trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, mà còn diễn ra khá phổ biến trong đời sống xã hội, các tầng lớp dân cư…, có thể hiểu là sự suy thoái về văn hóa. Điều này đòi hỏi Đảng ta phải coi trọng, xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, coi văn hóa là nguồn lực “nội sinh”, là mục tiêu và động lực trong sự phát triển kinh tế – xã hội.
Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người, con người với văn hóa, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Với quan điểm con người là trung tâm, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, tạo cơ sở để xây dựng hệ giá trị văn hóa gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn với xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam.
Gìn giữ văn hóa dân tộc. (Ảnh minh họa).
TS Đào Ngọc Tuấn nhận định, thực chất, việc xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam là quá trình kết hợp nhuần nhuyễn, vừa sáng tạo, xác lập những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức mới, vừa khơi dậy làm lan tỏa những giá trị tốt đẹp của văn hóa, chuẩn mực đạo đức, tinh thần và ý chí quyết tâm, tiềm năng, thế mạnh, sức sáng tạo của con người Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy đất nước phát triển bền vững, dân tộc cường thịnh, trường tồn. Con người sáng tạo ra văn hóa và bằng văn hóa con người tạo nên sức mạnh của kinh tế, kỹ thuật, chinh phục tự nhiên, hướng đến sự hài hòa, hoàn thiện. Văn hóa gắn liền với con người không thể tách rời nhau như vậy nên trong quan điểm về phát triển bền vững của mọi quốc gia luôn bao hàm nội dung phát triển văn hóa và phát triển con người.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp lý nước ta đã đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền hưởng thụ giá trị văn hóa của con người, hòa hợp với sự phát triển của pháp luật thế giới, góp phần nâng cao vị thế của con người trong việc thực hiện quyền văn hóa, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người dân Việt Nam thực hiện quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa.
Tham luận của TS Đào Ngọc Tuấn nêu rõ, trên thực tế, quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa của các dân tộc đã được khẳng định ngay tại Điều 5 Hiến pháp năm 1980. Một phạm vi quan trọng của quyền được thụ hưởng các giá trị văn hóa là quyền sở hữu trí tuệ cũng được quy định trong Bộ luật Dân sự nước ta từ năm 1995 và nếu tính theo quy định của Hiệp định Bảo vệ sở hữu trí tuệ (TRIPS) khi chúng ta gia nhập WTO thì khía cạnh pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam được ghi nhận từ năm 2007.
Về phương diện chính sách, hệ thống chính sách văn hóa ở nước ta được hình thành như một chỉnh thể trong quá trình tác động lẫn nhau của ba nhóm cộng đồng: cộng đồng người làm văn hóa (các nghệ sĩ, nghệ nhân, nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà hoạt động văn hóa, nhà sáng tạo nghệ thuật, người làm phim, xuất bản…); cộng đồng công chúng và cộng đồng chính trị (các cơ quan Đảng, cơ quan chính quyền ở Trung ương và địa phương)…
Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam được công nhận bằng pháp lý lần đầu tiên tại Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013, tập trung vào các khía cạnh sáng tạo, tiếp cận và hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần xã hội. Cụ thể, Điều 24 quy định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Điều 39 quy định: Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập. Điều 40 quy định: Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.
Có thể nói, lối sống với các chiều cạnh chủ quan của văn hóa là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người. Xuất phát từ nguyên tắc bảo trợ thực hành lối sống văn hóa, Hiến pháp 2013 đã tạo điều kiện cho việc áp dụng tuân thủ và trao truyền nhiều phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp cũng như tiếp cận và thụ hưởng các giá trị tinh hoa ngoại nhập, là cơ sở quan trọng để điều chỉnh những mối quan hệ cụ thể xảy ra trong cộng đồng.
|
Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, bảo đảm điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân luôn là nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Trước đòi hỏi của thực tiễn, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã phát triển lý luận về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, tạo nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển của quốc gia – dân tộc nhanh và bền vững.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc.
Tham luận tại Hội thảo khoa học “Hành trình khát vọng vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, TS Đào Ngọc Tuấn (Giảng viên Khoa Triết học, Trường Đại học Luật Hà Nội) nhận định: Ngay sau khi đất nước giành được độc lập vào năm 1945, nhờ việc xác định đúng đắn vai trò của văn hóa “soi đường cho quốc dân đi” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa cách mạng Việt Nam khi ấy không chỉ nhằm đấu tranh trực diện chống lại văn hóa phản động của thực dân Pháp đang áp đặt lên nước ta, mà còn phản ánh được quy luật vận động và phát triển tất yếu của văn hóa.
Trong những năm đầu đổi mới, khi nền
kinh tế Việt Nam
có sự bứt phá và đạt được nhiều kết quả, đời sống vật chất của người dân được cải thiện, mọi người thi đua lao động sản xuất và làm giàu thì việc định vị văn hóa ngày càng rõ ràng hơn và được đặt đúng vị trí là một trong những trụ cột của phát triển.
TS Đào Ngọc Tuấn cũng nhấn mạnh, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) ghi nhận một nấc thang mới trong phát triển văn hóa cách mạng của Đảng khi chủ trương “Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ” và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng đã lần đầu tiên đưa ra quan niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Theo TS Đào Ngọc Tuấn, đây là luận điểm mới mẻ, sáng tạo nói lên mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển, nhấn mạnh vị thế, vai trò của văn hóa đối với chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Trải qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển, chúng ta đã đạt được những kết quả to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, so với sự phát triển về kinh tế… thì những vấn đề về văn hóa – xã hội có sự phát triển chưa tương xứng. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa… diễn ra không chỉ ở trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, mà còn diễn ra khá phổ biến trong đời sống xã hội, các tầng lớp dân cư…, có thể hiểu là sự suy thoái về văn hóa. Điều này đòi hỏi Đảng ta phải coi trọng, xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa, coi văn hóa là nguồn lực “nội sinh”, là mục tiêu và động lực trong sự phát triển kinh tế – xã hội.
Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người, con người với văn hóa, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Với quan điểm con người là trung tâm, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định vai trò, vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, tạo cơ sở để xây dựng hệ giá trị văn hóa gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn với xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam.
Gìn giữ văn hóa dân tộc. (Ảnh minh họa).
TS Đào Ngọc Tuấn nhận định, thực chất, việc xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam là quá trình kết hợp nhuần nhuyễn, vừa sáng tạo, xác lập những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức mới, vừa khơi dậy làm lan tỏa những giá trị tốt đẹp của văn hóa, chuẩn mực đạo đức, tinh thần và ý chí quyết tâm, tiềm năng, thế mạnh, sức sáng tạo của con người Việt Nam, tạo động lực thúc đẩy đất nước phát triển bền vững, dân tộc cường thịnh, trường tồn. Con người sáng tạo ra văn hóa và bằng văn hóa con người tạo nên sức mạnh của kinh tế, kỹ thuật, chinh phục tự nhiên, hướng đến sự hài hòa, hoàn thiện. Văn hóa gắn liền với con người không thể tách rời nhau như vậy nên trong quan điểm về phát triển bền vững của mọi quốc gia luôn bao hàm nội dung phát triển văn hóa và phát triển con người.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp lý nước ta đã đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền hưởng thụ giá trị văn hóa của con người, hòa hợp với sự phát triển của pháp luật thế giới, góp phần nâng cao vị thế của con người trong việc thực hiện quyền văn hóa, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người dân Việt Nam thực hiện quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa.
Tham luận của TS Đào Ngọc Tuấn nêu rõ, trên thực tế, quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa của các dân tộc đã được khẳng định ngay tại Điều 5 Hiến pháp năm 1980. Một phạm vi quan trọng của quyền được thụ hưởng các giá trị văn hóa là quyền sở hữu trí tuệ cũng được quy định trong Bộ luật Dân sự nước ta từ năm 1995 và nếu tính theo quy định của Hiệp định Bảo vệ sở hữu trí tuệ (TRIPS) khi chúng ta gia nhập WTO thì khía cạnh pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam được ghi nhận từ năm 2007.
Về phương diện chính sách, hệ thống chính sách văn hóa ở nước ta được hình thành như một chỉnh thể trong quá trình tác động lẫn nhau của ba nhóm cộng đồng: cộng đồng người làm văn hóa (các nghệ sĩ, nghệ nhân, nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà hoạt động văn hóa, nhà sáng tạo nghệ thuật, người làm phim, xuất bản…); cộng đồng công chúng và cộng đồng chính trị (các cơ quan Đảng, cơ quan chính quyền ở Trung ương và địa phương)…
Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa ở Việt Nam được công nhận bằng pháp lý lần đầu tiên tại Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013, tập trung vào các khía cạnh sáng tạo, tiếp cận và hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần xã hội. Cụ thể, Điều 24 quy định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật. Điều 39 quy định: Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập. Điều 40 quy định: Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.
Có thể nói, lối sống với các chiều cạnh chủ quan của văn hóa là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người. Xuất phát từ nguyên tắc bảo trợ thực hành lối sống văn hóa, Hiến pháp 2013 đã tạo điều kiện cho việc áp dụng tuân thủ và trao truyền nhiều phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp cũng như tiếp cận và thụ hưởng các giá trị tinh hoa ngoại nhập, là cơ sở quan trọng để điều chỉnh những mối quan hệ cụ thể xảy ra trong cộng đồng.
|
Joseph Stella là một danh họa, đặc biệt tạo ấn tượng và nổi tiếng về những bức họa vẽ Cây cầu Brooklyn, thế nhưng ông lại rất say mê các loại cây cỏ nhiệt đới. Hiện nay Bảo tàng Nghệ thuật Norton đang thu hút sự chú ý của những người yêu hội họa bằng những tác phẩm nghệ thuật của ông về các loài thực vật tưởng chừng như đã bị lãng quên.
Bức hoạ
Tree of my life (Cây đời tôi)
– 1919.
Danh họa Joseph Stella từng mê đắm cây cầu Brooklyn. Ông nhận thấy cây cầu – một bản thiết kế và thành tựu kỹ thuật của
nước Mĩ
– giống như hình ảnh một nhà thờ uốn lượn trên không. Ông đã vẽ nó bằng những đường nét táo bạo và những màu sắc nổi bật. Cây cầu đôi khi mang dáng vẻ trầm tư nhưng lại có lúc thể hiện sự hân hoan của một anh hùng vừa thắng trận.
Stella là một trong những họa sĩ người Mĩ đầu tiên tập trung vào các đề tài công nghiệp và thành thị. Những kiệt tác về cây cầu trong nửa đầu thế kỷ 20 trở thành những dấu ấn trong sự nghiệp của ông. Thế nhưng có một phong cách khác trong hội họa của Stella, khác biệt đến nỗi người ta có thể cảm nhận rằng những tác phẩm hội họa của ông giống như là sự sáng tạo của một họa sĩ khác. Đó chính là những bức họa của ông về thiên nhiên – những bức họa về các loài cỏ cây, hoa lá và chim muông, ong bướm vùng nhiệt đới.
Mùa đông năm nay, Bảo tàng Nghệ thuật Norton đang trưng bày các tác phẩm hội họa về thiên nhiên của Stella, gồm hơn 80 bức họa về cây cỏ và các loài thực vật. Đây là một triển lãm tranh cực kỳ ấn tượng, cho thấy khả năng sử dụng ánh sáng và bóng tối, màu sắc và hình dạng để tạo nên một thế giới thực vật trên các bức họa sơn dầu khiến cho người xem thấy vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, vừa sinh động vừa trầm mặc.
Danh họa Stella đã từng nảy ra nhiều ý tưởng tại Vườn Thực vật New York, và ông đã chắt lọc những ý tưởng đó thông qua một trí tuệ siêu phàm để khắc họa những hình ảnh sinh động tại Vườn Thực vật thông qua những bức họa thơ mộng, lãng mạn và gây rung động lòng người về thế giới thực vật, khiến cho người xem cảm nhận được cái tinh thần sâu sắc. Nhiều bức tranh thể hiện được cảm giác tự do, hiện đại tại triển lãm lần này có thể thu hút đông đúc người yêu hội họa từ Norton tiếp tục hội tụ về triển lãm tranh Art Basel Miami Beach từ mùng 1 đến mùng 3 tháng 12 năm 2022. Từ Norton về Miami, những người yêu hội họa chỉ mất 90 phút lái xe hoặc đi tàu là tới nơi.
Bức họa
Dance of Spring -Vũ điệu mùa Xuân
(Song of the Birds – Bài ca của các loài chim)
, 192…
Các nhà lịch sử mĩ thuật cho rằng danh họa Stella là một ngôi sao về hội họa những năm 1920 và 1930 trong giới họa sĩ ở New York, Paris và thành Rome, nhưng danh tiếng của ông phai mờ dần bởi ông không còn gắn với chủ đề thành thị từng khiến ông được chú ý như thuở ban đầu nữa. Những bức họa về thiên nhiên, cỏ cây hoa lá tươi đẹp của ông tưởng chừng như không bao giờ bừng lên sự say mê tương tự với chủ đề thành thị và công nghiệp nữa. Đầu những năm 1940, sức khỏe ông suy giảm, ông chủ yếu sống trong một căn hộ giản dị ở Astoria, Queens và được những người bà con chăm sóc. Năm 1946 ông qua đời ở tuổi 69 vì bệnh tim.
Triển lãm lớn cuối cùng của ông diễn ra cách đây 30 năm tại Bảo tàng Nghệ thuật Whitney của Mĩ ở New York. Những người phụ trách bảo tàng cho biết: Triển lãm nghệ thuật Norton lần này là dịp để giới thiệu ông với công chúng bằng những bức họa mang phong cách khác, màn trưng bày đầu tiên là dành cho các tác phẩm hội họa về thiên nhiên cây cỏ của danh họa Stella.
Cuộc triển lãm mang tên
Joseph Stella: Visionary Nature
(Joseph Stella: Thiên nhiên hư ảo) lần này được tổ chức bởi Bảo tàng Nghệ thuật Cao cấp ở Atlanta và Bảo tàng Nghệ thuật Brandywine ở Chadds Ford, Pennsylvania trên bờ sông Brandywine Creek thuộc một thị trấn bên ngoài Philadelphia. Bảo tàng sẽ mở cửa vào tháng hai năm 2023 và kéo dài trong 3 tháng, sau đó chuyển về Brandywine vào tháng sáu năm 2023.
Danh họa Stella, bằng những ấn tượng và cảm xúc riêng của ông đã sáng tạo nên những tác phẩm hội họa đầy tâm trạng và sắc nét về cây cầu Brooklyn, những nhà máy luyện kim, những mỏ than và những người thợ mỏ. Ông đã cùng một nhóm các họa sĩ Mĩ dẫn tạo nên sự thay đổi từ chủ nghĩa hiện thực tới chủ nghĩa trừu tượng sống động của các họa sĩ như Jackson Pollock, Willem de Kooning và Mark Rothko. Họ đều là những họa sĩ thành công sau thế chiến II. Các nhà lịch sử hội họa cho rằng trong số hàng trăm bức họa của Stella được trưng bày lần này, hơn 70 phần trăm trong số đó thể hiện được quan điểm độc đáo về thiên nhiên qua những nét vẽ của ông. Thế nhưng những bức họa thiên nhiên này trước đây đã luôn bị lu mờ bởi những bức họa nổi tiếng về
Cây cầu Brooklyn.
Bà Barbara Haskell, người phụ trách nhà Bảo tàng Nghệ thuật Whitney cho biết: “Cây cầu là một loại biểu tượng văn hóa còn những bức họa về thiên nhiên, cây cỏ thì ý nghĩa biểu tượng văn hóa ít hơn. Tôi không cho rằng những bức họa thiên nhiên này kém thành công. Tuy nhiên, ban đầu chúng lại không thu hút trí tưởng tượng của công chúng theo cách những bức họa về cây cầu Brooklyn đã từng thu hút.” Bà còn cho rằng “Nhiều họa sĩ trước đó đã từng vẽ hoa nhưng việc vẽ cây cầu của họa sĩ đã mang tính cách mạng. Không có ai vẽ về chủ đề công nghiệp và thành thị thành công như ông. Cây cầu làm nên một phong cách hội họa mới hoàn toàn. Nó là một cấu trúc mới cho một thế hệ mới. Nó khơi dậy sự chú ý của người xem.”
Bức họa
Battle of Lights (Trận chiến của ánh sáng)
1913 -1914.
Danh họa Stella đã đến New York từ thị trấn Naples thuộc phía nam
nước Ý
năm 18 tuổi. Ông từng triển lãm những bức họa đầu tiên của mình ở New York năm 1906 khi ông 29 tuổi. Nhưng phải tám năm sau, bức họa với tựa đề
Battle of Lights – Trận chiến của ánh sáng
của ông lần đầu gây được sự chú ý rộng rãi trong giới hội họa và người hâm mộ tranh. Đây là một bức họa đầy ấn tượng với những sắc màu biến ảo kinh ngạc về công viên giải trí Brooklyn. Bức tranh miêu tả những khu vui chơi sôi động những vòng quay dầm thép tỏa ra của bánh xe Ferris cùng các trò giải trí cảm giác mạnh như những tàu lượn siêu tốc hòa cùng bản giao hưởng của các loại đèn điện và những đám người đông đúc qua lại nhộn nhịp trong công viên. Bức tranh đã thống lĩnh cuộc trưng bày tại phòng Trưng bày Montross năm 1914. Sáu năm sau, danh họa Stella tiếp tục trưng bày bức họa
Cây cầu Brooklyn
đầu tiên và một kiệt tác của ông về cây cỏ với tựa đề “Tree of My Life” (Cây đời của tôi), chỉ ngay sau một thời gian ngắn vẽ xong.
Trong buổi thảo luận với Bảo tàng Nghệ thuật Norton gần đây, bà Stephanie Mayer Heydt – người phụ trách Bảo tàng Nghệ thuật Cao cấp của Mĩ cho hay: “Danh họa Stella lấy cảm hứng cho bức “Tree of My Life” trong khi ông đang vẽ bức
Cây cầu Brooklyn
đầu tiên. Khi ông đang dạo bước ở Brooklyn, ông thấy một cây hoa nhỏ nằm giữa khe của vỉa hè và một tòa nhà cao tầng đang cố gắng ngoi lên hứng ánh nắng mặt trời để dần lớn lên. Thế rồi ông cảm thấy mình giống như cái cây hoa đó bởi bản thân ông đã rời Miền nam nước Ý đầy nắng để đến sinh sống ở New York. Ông mong mỏi nước Ý và đồng thời tạo nên một kiệt tác nghệ thuật “Tree of My Life”. Quý vị sẽ nhận thấy hai phong cách hội họa hoàn toàn khác nhau này thông qua các bức họa về thiên nhiên đầy sinh động của ông.”
Những bức họa
American Landscape (Phong cảnh nước Mỹ)
, 1929, bên trái và
Smoke Stacks (Những ống khói),
1921, tại Bảo tàng Nghệ thuật Norton.
Ý tưởng cho triển lãm mới lần này là của Thomas Padon, giám đốc Bảo tàng Brandywine. Ông đã tình cờ thấy bức họa “Tree of My Life” (Cây đời của tôi) tại nhà của một nhà sưu tập tranh ở Seattle cách đây năm năm và bức họa khiến ông sững sờ ngay từ những giây phút đầu tiên. Đây là một bức họa lớn – một trong những tác phẩm nghệ thuật phức tạp nhất của danh họa Stella, một bức họa với chi tiết sôi động và khiến người xem rung động. Thoạt nhìn vào bức họa sẽ thấy mảng màu tối của thân cây xương xẩu ở chính giữa nhưng từ đó lại tỏa ra các sắc màu tươi sáng và sinh động của các loại thực vật. Hậu cảnh là phong cảnh tuyệt đẹp dưới bầu trời xanh. Thân cây giống như cây ô liu đang vươn lên bầu trời cao rộng (một loại cây có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải nơi Stella còn trẻ). Bức họa tràn đầy hình ảnh những bụi cây và các đóa hoa kỳ diệu, những gam màu của những chú chim nhỏ, những con thiên nga, những chú diệc với chiếc cổ vươn dài ra gợi nhớ tới những bức chân dung của danh họa Amedeo Clemente Modigliani.
(Theo New York Times)
|
Joseph Stella là một danh họa, đặc biệt tạo ấn tượng và nổi tiếng về những bức họa vẽ Cây cầu Brooklyn, thế nhưng ông lại rất say mê các loại cây cỏ nhiệt đới. Hiện nay Bảo tàng Nghệ thuật Norton đang thu hút sự chú ý của những người yêu hội họa bằng những tác phẩm nghệ thuật của ông về các loài thực vật tưởng chừng như đã bị lãng quên.
Bức hoạ
Tree of my life (Cây đời tôi)
– 1919.
Danh họa Joseph Stella từng mê đắm cây cầu Brooklyn. Ông nhận thấy cây cầu – một bản thiết kế và thành tựu kỹ thuật của
nước Mĩ
– giống như hình ảnh một nhà thờ uốn lượn trên không. Ông đã vẽ nó bằng những đường nét táo bạo và những màu sắc nổi bật. Cây cầu đôi khi mang dáng vẻ trầm tư nhưng lại có lúc thể hiện sự hân hoan của một anh hùng vừa thắng trận.
Stella là một trong những họa sĩ người Mĩ đầu tiên tập trung vào các đề tài công nghiệp và thành thị. Những kiệt tác về cây cầu trong nửa đầu thế kỷ 20 trở thành những dấu ấn trong sự nghiệp của ông. Thế nhưng có một phong cách khác trong hội họa của Stella, khác biệt đến nỗi người ta có thể cảm nhận rằng những tác phẩm hội họa của ông giống như là sự sáng tạo của một họa sĩ khác. Đó chính là những bức họa của ông về thiên nhiên – những bức họa về các loài cỏ cây, hoa lá và chim muông, ong bướm vùng nhiệt đới.
Mùa đông năm nay, Bảo tàng Nghệ thuật Norton đang trưng bày các tác phẩm hội họa về thiên nhiên của Stella, gồm hơn 80 bức họa về cây cỏ và các loài thực vật. Đây là một triển lãm tranh cực kỳ ấn tượng, cho thấy khả năng sử dụng ánh sáng và bóng tối, màu sắc và hình dạng để tạo nên một thế giới thực vật trên các bức họa sơn dầu khiến cho người xem thấy vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, vừa sinh động vừa trầm mặc.
Danh họa Stella đã từng nảy ra nhiều ý tưởng tại Vườn Thực vật New York, và ông đã chắt lọc những ý tưởng đó thông qua một trí tuệ siêu phàm để khắc họa những hình ảnh sinh động tại Vườn Thực vật thông qua những bức họa thơ mộng, lãng mạn và gây rung động lòng người về thế giới thực vật, khiến cho người xem cảm nhận được cái tinh thần sâu sắc. Nhiều bức tranh thể hiện được cảm giác tự do, hiện đại tại triển lãm lần này có thể thu hút đông đúc người yêu hội họa từ Norton tiếp tục hội tụ về triển lãm tranh Art Basel Miami Beach từ mùng 1 đến mùng 3 tháng 12 năm 2022. Từ Norton về Miami, những người yêu hội họa chỉ mất 90 phút lái xe hoặc đi tàu là tới nơi.
Bức họa
Dance of Spring -Vũ điệu mùa Xuân
(Song of the Birds – Bài ca của các loài chim)
, 192…
Các nhà lịch sử mĩ thuật cho rằng danh họa Stella là một ngôi sao về hội họa những năm 1920 và 1930 trong giới họa sĩ ở New York, Paris và thành Rome, nhưng danh tiếng của ông phai mờ dần bởi ông không còn gắn với chủ đề thành thị từng khiến ông được chú ý như thuở ban đầu nữa. Những bức họa về thiên nhiên, cỏ cây hoa lá tươi đẹp của ông tưởng chừng như không bao giờ bừng lên sự say mê tương tự với chủ đề thành thị và công nghiệp nữa. Đầu những năm 1940, sức khỏe ông suy giảm, ông chủ yếu sống trong một căn hộ giản dị ở Astoria, Queens và được những người bà con chăm sóc. Năm 1946 ông qua đời ở tuổi 69 vì bệnh tim.
Triển lãm lớn cuối cùng của ông diễn ra cách đây 30 năm tại Bảo tàng Nghệ thuật Whitney của Mĩ ở New York. Những người phụ trách bảo tàng cho biết: Triển lãm nghệ thuật Norton lần này là dịp để giới thiệu ông với công chúng bằng những bức họa mang phong cách khác, màn trưng bày đầu tiên là dành cho các tác phẩm hội họa về thiên nhiên cây cỏ của danh họa Stella.
Cuộc triển lãm mang tên
Joseph Stella: Visionary Nature
(Joseph Stella: Thiên nhiên hư ảo) lần này được tổ chức bởi Bảo tàng Nghệ thuật Cao cấp ở Atlanta và Bảo tàng Nghệ thuật Brandywine ở Chadds Ford, Pennsylvania trên bờ sông Brandywine Creek thuộc một thị trấn bên ngoài Philadelphia. Bảo tàng sẽ mở cửa vào tháng hai năm 2023 và kéo dài trong 3 tháng, sau đó chuyển về Brandywine vào tháng sáu năm 2023.
Danh họa Stella, bằng những ấn tượng và cảm xúc riêng của ông đã sáng tạo nên những tác phẩm hội họa đầy tâm trạng và sắc nét về cây cầu Brooklyn, những nhà máy luyện kim, những mỏ than và những người thợ mỏ. Ông đã cùng một nhóm các họa sĩ Mĩ dẫn tạo nên sự thay đổi từ chủ nghĩa hiện thực tới chủ nghĩa trừu tượng sống động của các họa sĩ như Jackson Pollock, Willem de Kooning và Mark Rothko. Họ đều là những họa sĩ thành công sau thế chiến II. Các nhà lịch sử hội họa cho rằng trong số hàng trăm bức họa của Stella được trưng bày lần này, hơn 70 phần trăm trong số đó thể hiện được quan điểm độc đáo về thiên nhiên qua những nét vẽ của ông. Thế nhưng những bức họa thiên nhiên này trước đây đã luôn bị lu mờ bởi những bức họa nổi tiếng về
Cây cầu Brooklyn.
Bà Barbara Haskell, người phụ trách nhà Bảo tàng Nghệ thuật Whitney cho biết: “Cây cầu là một loại biểu tượng văn hóa còn những bức họa về thiên nhiên, cây cỏ thì ý nghĩa biểu tượng văn hóa ít hơn. Tôi không cho rằng những bức họa thiên nhiên này kém thành công. Tuy nhiên, ban đầu chúng lại không thu hút trí tưởng tượng của công chúng theo cách những bức họa về cây cầu Brooklyn đã từng thu hút.” Bà còn cho rằng “Nhiều họa sĩ trước đó đã từng vẽ hoa nhưng việc vẽ cây cầu của họa sĩ đã mang tính cách mạng. Không có ai vẽ về chủ đề công nghiệp và thành thị thành công như ông. Cây cầu làm nên một phong cách hội họa mới hoàn toàn. Nó là một cấu trúc mới cho một thế hệ mới. Nó khơi dậy sự chú ý của người xem.”
Bức họa
Battle of Lights (Trận chiến của ánh sáng)
1913 -1914.
Danh họa Stella đã đến New York từ thị trấn Naples thuộc phía nam
nước Ý
năm 18 tuổi. Ông từng triển lãm những bức họa đầu tiên của mình ở New York năm 1906 khi ông 29 tuổi. Nhưng phải tám năm sau, bức họa với tựa đề
Battle of Lights – Trận chiến của ánh sáng
của ông lần đầu gây được sự chú ý rộng rãi trong giới hội họa và người hâm mộ tranh. Đây là một bức họa đầy ấn tượng với những sắc màu biến ảo kinh ngạc về công viên giải trí Brooklyn. Bức tranh miêu tả những khu vui chơi sôi động những vòng quay dầm thép tỏa ra của bánh xe Ferris cùng các trò giải trí cảm giác mạnh như những tàu lượn siêu tốc hòa cùng bản giao hưởng của các loại đèn điện và những đám người đông đúc qua lại nhộn nhịp trong công viên. Bức tranh đã thống lĩnh cuộc trưng bày tại phòng Trưng bày Montross năm 1914. Sáu năm sau, danh họa Stella tiếp tục trưng bày bức họa
Cây cầu Brooklyn
đầu tiên và một kiệt tác của ông về cây cỏ với tựa đề “Tree of My Life” (Cây đời của tôi), chỉ ngay sau một thời gian ngắn vẽ xong.
Trong buổi thảo luận với Bảo tàng Nghệ thuật Norton gần đây, bà Stephanie Mayer Heydt – người phụ trách Bảo tàng Nghệ thuật Cao cấp của Mĩ cho hay: “Danh họa Stella lấy cảm hứng cho bức “Tree of My Life” trong khi ông đang vẽ bức
Cây cầu Brooklyn
đầu tiên. Khi ông đang dạo bước ở Brooklyn, ông thấy một cây hoa nhỏ nằm giữa khe của vỉa hè và một tòa nhà cao tầng đang cố gắng ngoi lên hứng ánh nắng mặt trời để dần lớn lên. Thế rồi ông cảm thấy mình giống như cái cây hoa đó bởi bản thân ông đã rời Miền nam nước Ý đầy nắng để đến sinh sống ở New York. Ông mong mỏi nước Ý và đồng thời tạo nên một kiệt tác nghệ thuật “Tree of My Life”. Quý vị sẽ nhận thấy hai phong cách hội họa hoàn toàn khác nhau này thông qua các bức họa về thiên nhiên đầy sinh động của ông.”
Những bức họa
American Landscape (Phong cảnh nước Mỹ)
, 1929, bên trái và
Smoke Stacks (Những ống khói),
1921, tại Bảo tàng Nghệ thuật Norton.
Ý tưởng cho triển lãm mới lần này là của Thomas Padon, giám đốc Bảo tàng Brandywine. Ông đã tình cờ thấy bức họa “Tree of My Life” (Cây đời của tôi) tại nhà của một nhà sưu tập tranh ở Seattle cách đây năm năm và bức họa khiến ông sững sờ ngay từ những giây phút đầu tiên. Đây là một bức họa lớn – một trong những tác phẩm nghệ thuật phức tạp nhất của danh họa Stella, một bức họa với chi tiết sôi động và khiến người xem rung động. Thoạt nhìn vào bức họa sẽ thấy mảng màu tối của thân cây xương xẩu ở chính giữa nhưng từ đó lại tỏa ra các sắc màu tươi sáng và sinh động của các loại thực vật. Hậu cảnh là phong cảnh tuyệt đẹp dưới bầu trời xanh. Thân cây giống như cây ô liu đang vươn lên bầu trời cao rộng (một loại cây có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải nơi Stella còn trẻ). Bức họa tràn đầy hình ảnh những bụi cây và các đóa hoa kỳ diệu, những gam màu của những chú chim nhỏ, những con thiên nga, những chú diệc với chiếc cổ vươn dài ra gợi nhớ tới những bức chân dung của danh họa Amedeo Clemente Modigliani.
(Theo New York Times)
|
Đây không chỉ là khu dự trữ sinh quyển thứ 5 ở Việt Nam được UNESCO công nhận cho đến hiện tại mà còn là khu dự trữ lớn thứ hai trong tổng số 8 Khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam.
Một góc Vườn quốc gia U Minh Thượng. (Nguồn: TTXVN).
Nằm cách
thành phố Rạch Giá
khoảng 65km về phía Tây Nam, Vườn quốc gia U Minh Thượng là một trong ba khu vực được bảo tồn của Khu bảo tồn sinh quyển thế giới ở
tỉnh Kiên Giang
, với nhiều cấp độ mà hầu như không có khu vực bảo tồn nào của vùng đất ngập nước ở Đông Nam Á có thể sánh được.
Được hình thành và tập trung ở phía Tây bán đảo Cà Mau, tiếp giáp với dãy rừng ngập mặn dọc theo vịnh Thái Lan, U Minh Thượng là một loại rừng ngập nước phèn đặc biệt ở Việt Nam, và thậm chí còn được công nhận vào danh sách các loại rừng độc đáo và quý hiếm trên thế giới.
U Minh Thượng cũng từng là một khu vực căn cứ cách mạng ổn định trải qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở khu vực Tây Nam, Đảng ủy miền Nam, Văn phòng Trung ương Tây Nam, Ủy ban hành chính và kháng chiến miền Nam, lực lượng chính của Quân khu 9, căn cứ của tỉnh Kiên Giang với 31 di tích lịch sử và văn hóa, trở thành một khu di tích lịch sử đặc biệt của tỉnh Kiên Giang
Vườn Quốc gia U Minh Thượng thành lập theo Quyết định số 11/QĐ-TTg ngày 14/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
Vườn Quốc gia U Minh Thượng được bao bọc bởi hệ thống đê bao khép kín có chiều dài 60km, với khoảng 21.122ha thuộc diện tích tại các xã như An Minh, Minh Thuận Bắc (
huyện U Minh Thượng
), bao gồm 8.053ha vùng lõi (trong đó 7838ha là khu bảo vệ nghiêm ngặt, 200ha là khu vực kết hợp phục hồi sinh thái và bảo tồn di tích lịch sử, 15ha là phân khu hành chính) và 13.069ha vùng đệm.
Vào ngày 27/10/2006, trong phiên họp thứ 19 được tổ chức tại Paris, UNESCO đã công nhận Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang bao gồm ranh giới biển và đảo là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Đây không chỉ là khu dự trữ sinh quyển thứ 5 ở Việt Nam được UNESCO công nhận cho đến hiện tại mà còn là khu dự trữ lớn thứ hai trong tổng số 8 Khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam, sau Khu dự trữ sinh quyển ở phía Tây
tỉnh Nghệ An
.
Khu vực dành riêng cho sinh quyển của tỉnh Kiên Giang bao gồm lãnh thổ của một số huyện như Phú Quốc, Kiến Hải, Kiên Lương và U Minh Thượng (thành lập ngày 10/5/2007) với diện tích hơn 1,1 triệu ha, bao gồm ba các khu vực cốt lõi thuộc về Vườn quốc gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia Phú Quốc và Rừng phòng hộ ven biển ở Kiên Lương-Kiên Hải, tập hợp sự phong phú, đa dạng và đặc biệt về cả cảnh quan và hệ sinh thái, từ rừng ngập mặn Cajuput, rừng trên núi đá-núi đá vôi đến hệ sinh thái biển với cỏ biển và các loài cá cúi có nguy cơ tuyệt chủng được coi là loài điển hình.
Trong hệ sinh thái rừng úng phèn của Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ còn duy nhất hệ thực vật rừng của vùng lõi thuộc Vườn Quốc gia U Minh Thượng có những đặc điểm của rừng cực đỉnh nguyên sinh.
Đó là các ưu hợp rừng tràm hỗn giao và rừng tràm trên đất than bùn, với diện tích gần 3.000ha. Đây cũng là căn cứ của cách mạng trong thời kỳ kháng chiến.
Với đặc điểm này, Vườn quốc gia U Minh Thượng là một trong hai khu vực quan trọng nhất của rừng đầm lầy than bùn còn lại ở Việt Nam (khu vực khác là U Minh Hạ).
Trên than bùn còn lại những cảnh quan tự nhiên của rừng U Minh xưa với những cây tràm cổ thụ, dòng nước đỏ vùng U Minh.
Hệ sinh thái rừng tràm trên đất than bùn trở thành một hệ sinh thái có tầm quan trọng đặc biệt, là nơi nuôi dưỡng, trú ngụ của hàng trăm loài động vật hoang dã, bao gồm cả chim, thú, bò sát, lưỡng cư, cá, côn trùng và nhiều loài thủy sinh vật phân bố ở các độ sâu khác nhau trong hệ sinh thái.
Khu hệ động vật ở U Minh Thượng tuy không giàu so với các khu bảo vệ khác ở Việt Nam, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với hệ sinh thái rừng ngập nước úng phèn và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
U Minh Thượng sở hữu đa dạng sinh học nhất về các loài thực vật ở đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh sự phát triển của cây tràm, còn có hơn 254 loài thuộc 84 họ, với nhiều loài đặc hữu như phong lan đất, bèo nhọn, cây dương xỉ…
Theo dữ liệu khảo sát từ kiểm kê rừng năm 1995, Khu bảo tồn sinh học U Minh Thượng sở hữu tới 8.053ha rừng nguyên sinh, trong đó có 3.000ha rừng nguyên sinh được hình thành từ khoảng 6.000 năm trước với độ dày từ 0,3-1,5m.
Hệ động vật cũng rất phong phú với 32 loài thuộc 10 họ, 7 chi trong đó có 7 loài dơi, 10 loài được liệt kê trong Sách Đỏ của Việt Nam và thế giới như rái cá mũi lông, mèo cá, cầy vòi hương, sóc Finlayson, tê tê Java (Sunda); 188 loài chim thuộc 39 họ và 12 chi chiếm 16,6% so với 828 loài được ghi nhận ở Việt Nam, trong đó có 12 loài có giá trị bảo tồn, 8 loài đang bị đe dọa trên toàn cầu như bồ nông chân xám, chim già sói, cò quắm đầu đen, chim thợ dệt, diều cá đầu xám, đại bàng đen; 54 loài bò sát lưỡng cư, trong đó có 8 loài được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam như trăn gấm, rắn cạp nong, rắn hổ mang, rắn hổ chuột, tắc kè,..; 34 loài cá, trong đó, hai loài được gọi là: cá trê trắng và cá thác lác được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam, các loài tiêu biểu khác như cá lóc, cá lóc khổng lồ, cá rô, cá thòi lòi…
Tại U Minh Thượng có 72 loài động, thực vật quý, hiếm được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 và Danh lục đỏ IUCN 2012.
Đặc biệt các nhà khoa học phát hiện được loài Rái cá lông mũi (Lutra sumatrana) là loài hiếm ghi trong Sách Đỏ động vật Việt Nam và Sách Đỏ thế giới (IUCN).
Khảo sát khoa học cho thấy hệ sinh thái rừng Cajuput trên vùng đất than bùn trong công viên có tầm quan trọng đặc biệt, cung cấp cả sự nuôi dưỡng và nơi trú ẩn cho nhiều loài động vật hoang dã, khan hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Chúng đóng vai trò thiết yếu trong việc cân bằng sinh thái, điều hòa dòng chảy, duy trì mức khí hậu toàn cầu, chất lượng nước và cả quá trình hình thành đất đá.
Trong những năm qua, tỉnh Kiên Giang đã nỗ lực rất nhiều trong việc thực hiện quá trình bảo tồn và phục hồi tài nguyên thiên nhiên ở vùng đất than bùn, đảm bảo sự tự nhiên, hoang dã và toàn vẹn của hệ thống sinh thái, sự đa dạng và giá trị nổi bật của dân số ở Vườn quốc gia U Minh Thượng.
Năm 2012, Công viên quốc gia U Minh Thượng đã được công nhận là Công viên di sản ASEAN đầu tiên trên vùng đất than bùn của khu vực Đông Nam Á và là Vườn Quốc gia thứ 5 của Việt Nam được công nhận là Vườn Di sản ASEAN.
Năm 2015, Vườn Quốc gia U Minh Thượng được công nhận là khu Ramsar thứ 2.228 của thế giới và thứ 8 của Việt Nam.
Với những thành tựu và thành công trong công tác bảo tồn và cải thiện các giá trị “xanh” của vườn quốc gia U Minh Thượng đã đạt 5 trong tổng số 9 tiêu chí của Công ước Ramsar – một cam kết quốc tế được thực hiện để bảo tồn, sử dụng rừng ngập mặn một cách hiệu quả nhất với mục đích ngăn chặn cuộc xâm lấn vào các khu vực rừng ngập mặn cũng như sự mất mát của chúng ở hiện tại và cả trong tương lai.
Những năm gần đây, Vườn Quốc gia U Minh Thượng được du khách biết đến là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn ở miền Tây Nam Bộ và ngày càng có nhiều khách du lịch tìm đến.
Vọng lâm đài phục vụ du khách ngắm rừng Vườn Quốc gia U Minh Thượng (Kiên Giang). (Ảnh: Lê Huy Hải/TTXVN).
Là vùng đất của môi trường sinh thái đặc biệt với nhiều di tích khảo cổ, di tích lịch sử, cũng như được mô tả bởi nhiều nhà văn lớn của miền Nam như Sơn Nam, Đoàn Giây trong các tác phẩm thú vị mang đậm nét mộc mạc, sau đó các nhà làm phim cũng chọn nơi này.
Là bối cảnh cho các bộ phim như Bên cạnh sông Trẹm… không có gì lạ khiến cho Vườn quốc gia U Minh Thượng lại trở thành một điểm đến ưa thích của du khách và các nhà nghiên cứu.
Điểm đến đầu tiên mà du khách có thể ghé thăm là một gò đất xanh tươi và nhiều cây cối, nơi có một đàn dơi quạ bay lơ lửng trên ngọn cây Cajuput cao vô cùng, có một số loài dơi quạ lớn (Pteropus vampyrus Linnaeus) đang bị đe dọa tuyệt chủng.
Rời khỏi đàn dơi, tách khỏi kênh, một mặt nước mênh mông được bao phủ bởi dương xỉ nước mềm hiện ra trước mắt. Đây là bãi biển dành cho nhiều loài chim, du khách có thể ngắm hoặc chụp ảnh chim khá dễ dàng vì chúng rất thân thiện với con người.
Cùng với đó là hồ Hoa Mai, một đầm lầy được tuôn ra dưới dạng một bông hoa với năm cánh hoa, bề mặt của nó được bao phủ bởi dương xỉ xinh đẹp như tấm thảm trải dài, và nó cũng là trung tâm du lịch của Vườn quốc gia U Minh Thượng.
Du khách có thể thư giãn và giải trí bằng cách đạp thuyền thiên nga trên hồ, mang cần câu đi vòng quanh hồ để trải nghiệm như một ngư dân thực sự, hoặc thuê một chiếc thuyền để chèo dọc theo kênh rạch đầy hoa lily , xem xét một vị trí tuyệt vời để thả xuống thu hút.
Nằm bên cạnh hồ Hoa Mai, những ngôi nhà trên khu nhà sàn dành cho ẩm thực là một điểm đến cực kỳ thú vị, nơi du khách có thể thưởng thức nhiều món ăn đặc sản mang hương vị mộc mạc nhưng đậm đà của U Minh./.
|
Đây không chỉ là khu dự trữ sinh quyển thứ 5 ở Việt Nam được UNESCO công nhận cho đến hiện tại mà còn là khu dự trữ lớn thứ hai trong tổng số 8 Khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam.
Một góc Vườn quốc gia U Minh Thượng. (Nguồn: TTXVN).
Nằm cách
thành phố Rạch Giá
khoảng 65km về phía Tây Nam, Vườn quốc gia U Minh Thượng là một trong ba khu vực được bảo tồn của Khu bảo tồn sinh quyển thế giới ở
tỉnh Kiên Giang
, với nhiều cấp độ mà hầu như không có khu vực bảo tồn nào của vùng đất ngập nước ở Đông Nam Á có thể sánh được.
Được hình thành và tập trung ở phía Tây bán đảo Cà Mau, tiếp giáp với dãy rừng ngập mặn dọc theo vịnh Thái Lan, U Minh Thượng là một loại rừng ngập nước phèn đặc biệt ở Việt Nam, và thậm chí còn được công nhận vào danh sách các loại rừng độc đáo và quý hiếm trên thế giới.
U Minh Thượng cũng từng là một khu vực căn cứ cách mạng ổn định trải qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở khu vực Tây Nam, Đảng ủy miền Nam, Văn phòng Trung ương Tây Nam, Ủy ban hành chính và kháng chiến miền Nam, lực lượng chính của Quân khu 9, căn cứ của tỉnh Kiên Giang với 31 di tích lịch sử và văn hóa, trở thành một khu di tích lịch sử đặc biệt của tỉnh Kiên Giang
Vườn Quốc gia U Minh Thượng thành lập theo Quyết định số 11/QĐ-TTg ngày 14/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
Vườn Quốc gia U Minh Thượng được bao bọc bởi hệ thống đê bao khép kín có chiều dài 60km, với khoảng 21.122ha thuộc diện tích tại các xã như An Minh, Minh Thuận Bắc (
huyện U Minh Thượng
), bao gồm 8.053ha vùng lõi (trong đó 7838ha là khu bảo vệ nghiêm ngặt, 200ha là khu vực kết hợp phục hồi sinh thái và bảo tồn di tích lịch sử, 15ha là phân khu hành chính) và 13.069ha vùng đệm.
Vào ngày 27/10/2006, trong phiên họp thứ 19 được tổ chức tại Paris, UNESCO đã công nhận Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang bao gồm ranh giới biển và đảo là Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Đây không chỉ là khu dự trữ sinh quyển thứ 5 ở Việt Nam được UNESCO công nhận cho đến hiện tại mà còn là khu dự trữ lớn thứ hai trong tổng số 8 Khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam, sau Khu dự trữ sinh quyển ở phía Tây
tỉnh Nghệ An
.
Khu vực dành riêng cho sinh quyển của tỉnh Kiên Giang bao gồm lãnh thổ của một số huyện như Phú Quốc, Kiến Hải, Kiên Lương và U Minh Thượng (thành lập ngày 10/5/2007) với diện tích hơn 1,1 triệu ha, bao gồm ba các khu vực cốt lõi thuộc về Vườn quốc gia U Minh Thượng, Vườn quốc gia Phú Quốc và Rừng phòng hộ ven biển ở Kiên Lương-Kiên Hải, tập hợp sự phong phú, đa dạng và đặc biệt về cả cảnh quan và hệ sinh thái, từ rừng ngập mặn Cajuput, rừng trên núi đá-núi đá vôi đến hệ sinh thái biển với cỏ biển và các loài cá cúi có nguy cơ tuyệt chủng được coi là loài điển hình.
Trong hệ sinh thái rừng úng phèn của Đồng bằng sông Cửu Long, chỉ còn duy nhất hệ thực vật rừng của vùng lõi thuộc Vườn Quốc gia U Minh Thượng có những đặc điểm của rừng cực đỉnh nguyên sinh.
Đó là các ưu hợp rừng tràm hỗn giao và rừng tràm trên đất than bùn, với diện tích gần 3.000ha. Đây cũng là căn cứ của cách mạng trong thời kỳ kháng chiến.
Với đặc điểm này, Vườn quốc gia U Minh Thượng là một trong hai khu vực quan trọng nhất của rừng đầm lầy than bùn còn lại ở Việt Nam (khu vực khác là U Minh Hạ).
Trên than bùn còn lại những cảnh quan tự nhiên của rừng U Minh xưa với những cây tràm cổ thụ, dòng nước đỏ vùng U Minh.
Hệ sinh thái rừng tràm trên đất than bùn trở thành một hệ sinh thái có tầm quan trọng đặc biệt, là nơi nuôi dưỡng, trú ngụ của hàng trăm loài động vật hoang dã, bao gồm cả chim, thú, bò sát, lưỡng cư, cá, côn trùng và nhiều loài thủy sinh vật phân bố ở các độ sâu khác nhau trong hệ sinh thái.
Khu hệ động vật ở U Minh Thượng tuy không giàu so với các khu bảo vệ khác ở Việt Nam, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với hệ sinh thái rừng ngập nước úng phèn và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
U Minh Thượng sở hữu đa dạng sinh học nhất về các loài thực vật ở đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh sự phát triển của cây tràm, còn có hơn 254 loài thuộc 84 họ, với nhiều loài đặc hữu như phong lan đất, bèo nhọn, cây dương xỉ…
Theo dữ liệu khảo sát từ kiểm kê rừng năm 1995, Khu bảo tồn sinh học U Minh Thượng sở hữu tới 8.053ha rừng nguyên sinh, trong đó có 3.000ha rừng nguyên sinh được hình thành từ khoảng 6.000 năm trước với độ dày từ 0,3-1,5m.
Hệ động vật cũng rất phong phú với 32 loài thuộc 10 họ, 7 chi trong đó có 7 loài dơi, 10 loài được liệt kê trong Sách Đỏ của Việt Nam và thế giới như rái cá mũi lông, mèo cá, cầy vòi hương, sóc Finlayson, tê tê Java (Sunda); 188 loài chim thuộc 39 họ và 12 chi chiếm 16,6% so với 828 loài được ghi nhận ở Việt Nam, trong đó có 12 loài có giá trị bảo tồn, 8 loài đang bị đe dọa trên toàn cầu như bồ nông chân xám, chim già sói, cò quắm đầu đen, chim thợ dệt, diều cá đầu xám, đại bàng đen; 54 loài bò sát lưỡng cư, trong đó có 8 loài được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam như trăn gấm, rắn cạp nong, rắn hổ mang, rắn hổ chuột, tắc kè,..; 34 loài cá, trong đó, hai loài được gọi là: cá trê trắng và cá thác lác được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam, các loài tiêu biểu khác như cá lóc, cá lóc khổng lồ, cá rô, cá thòi lòi…
Tại U Minh Thượng có 72 loài động, thực vật quý, hiếm được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam 2007 và Danh lục đỏ IUCN 2012.
Đặc biệt các nhà khoa học phát hiện được loài Rái cá lông mũi (Lutra sumatrana) là loài hiếm ghi trong Sách Đỏ động vật Việt Nam và Sách Đỏ thế giới (IUCN).
Khảo sát khoa học cho thấy hệ sinh thái rừng Cajuput trên vùng đất than bùn trong công viên có tầm quan trọng đặc biệt, cung cấp cả sự nuôi dưỡng và nơi trú ẩn cho nhiều loài động vật hoang dã, khan hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Chúng đóng vai trò thiết yếu trong việc cân bằng sinh thái, điều hòa dòng chảy, duy trì mức khí hậu toàn cầu, chất lượng nước và cả quá trình hình thành đất đá.
Trong những năm qua, tỉnh Kiên Giang đã nỗ lực rất nhiều trong việc thực hiện quá trình bảo tồn và phục hồi tài nguyên thiên nhiên ở vùng đất than bùn, đảm bảo sự tự nhiên, hoang dã và toàn vẹn của hệ thống sinh thái, sự đa dạng và giá trị nổi bật của dân số ở Vườn quốc gia U Minh Thượng.
Năm 2012, Công viên quốc gia U Minh Thượng đã được công nhận là Công viên di sản ASEAN đầu tiên trên vùng đất than bùn của khu vực Đông Nam Á và là Vườn Quốc gia thứ 5 của Việt Nam được công nhận là Vườn Di sản ASEAN.
Năm 2015, Vườn Quốc gia U Minh Thượng được công nhận là khu Ramsar thứ 2.228 của thế giới và thứ 8 của Việt Nam.
Với những thành tựu và thành công trong công tác bảo tồn và cải thiện các giá trị “xanh” của vườn quốc gia U Minh Thượng đã đạt 5 trong tổng số 9 tiêu chí của Công ước Ramsar – một cam kết quốc tế được thực hiện để bảo tồn, sử dụng rừng ngập mặn một cách hiệu quả nhất với mục đích ngăn chặn cuộc xâm lấn vào các khu vực rừng ngập mặn cũng như sự mất mát của chúng ở hiện tại và cả trong tương lai.
Những năm gần đây, Vườn Quốc gia U Minh Thượng được du khách biết đến là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn ở miền Tây Nam Bộ và ngày càng có nhiều khách du lịch tìm đến.
Vọng lâm đài phục vụ du khách ngắm rừng Vườn Quốc gia U Minh Thượng (Kiên Giang). (Ảnh: Lê Huy Hải/TTXVN).
Là vùng đất của môi trường sinh thái đặc biệt với nhiều di tích khảo cổ, di tích lịch sử, cũng như được mô tả bởi nhiều nhà văn lớn của miền Nam như Sơn Nam, Đoàn Giây trong các tác phẩm thú vị mang đậm nét mộc mạc, sau đó các nhà làm phim cũng chọn nơi này.
Là bối cảnh cho các bộ phim như Bên cạnh sông Trẹm… không có gì lạ khiến cho Vườn quốc gia U Minh Thượng lại trở thành một điểm đến ưa thích của du khách và các nhà nghiên cứu.
Điểm đến đầu tiên mà du khách có thể ghé thăm là một gò đất xanh tươi và nhiều cây cối, nơi có một đàn dơi quạ bay lơ lửng trên ngọn cây Cajuput cao vô cùng, có một số loài dơi quạ lớn (Pteropus vampyrus Linnaeus) đang bị đe dọa tuyệt chủng.
Rời khỏi đàn dơi, tách khỏi kênh, một mặt nước mênh mông được bao phủ bởi dương xỉ nước mềm hiện ra trước mắt. Đây là bãi biển dành cho nhiều loài chim, du khách có thể ngắm hoặc chụp ảnh chim khá dễ dàng vì chúng rất thân thiện với con người.
Cùng với đó là hồ Hoa Mai, một đầm lầy được tuôn ra dưới dạng một bông hoa với năm cánh hoa, bề mặt của nó được bao phủ bởi dương xỉ xinh đẹp như tấm thảm trải dài, và nó cũng là trung tâm du lịch của Vườn quốc gia U Minh Thượng.
Du khách có thể thư giãn và giải trí bằng cách đạp thuyền thiên nga trên hồ, mang cần câu đi vòng quanh hồ để trải nghiệm như một ngư dân thực sự, hoặc thuê một chiếc thuyền để chèo dọc theo kênh rạch đầy hoa lily , xem xét một vị trí tuyệt vời để thả xuống thu hút.
Nằm bên cạnh hồ Hoa Mai, những ngôi nhà trên khu nhà sàn dành cho ẩm thực là một điểm đến cực kỳ thú vị, nơi du khách có thể thưởng thức nhiều món ăn đặc sản mang hương vị mộc mạc nhưng đậm đà của U Minh./.
|
Thật đa nghĩa, khi ta nghĩ về tên gọi của dòng sông. Đó là biếc xanh, như trường hợp nói câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển biếc biến thành ruộng dâu) khi sông trong vắt mà róc rách chảy qua vùng đồi núi khởi nguồn Chi Lăng, Hữu Lũng.
Nhưng lại là nhớ thương khi đến chỗ có ngôi làng Thương ở bờ bên phải tòa Phủ Lạng Thương, thì các cuộc tiễn đưa xưa phải chia tay ly biệt người từ kinh đô lên biên ải. Còn lúc biến âm mà nói Thương thành Xương, như khi đọc các địa danh: Thọ Xương, Xương Giang… thì đó lại thành ra là tươi tốt, thịnh giàu.
Sông Thương đoạn chảy qua TP Bắc Giang. Ảnh: Hương Giang.
Dòng sông mang cái tên nhiều nghĩa này, ngoài và cùng với chữ Thương còn được sử sách gọi bằng không ít tên khác nữa. Năm 1059, Vua Lý Thánh Tông đi săn, đến chỗ sông này đã ngự thăm nhà thủ lĩnh Thân Cảnh Phúc, để tới năm 1066 đưa Công chúa Thiên Thành gả cho thì Nam Bình chính là tên gọi vào lúc ấy của
sông Thương
.
Sách “Lĩnh ngoại đại đáp” của Chu Khứ Phi đời nhà Tống bên Bắc phương thì cho rằng, vì thấy mỗi độ xuân về, những cây đào phai lại nở hồng khắp đôi bờ nên sông Thương mới có thêm tên nữa là Đào Hoa.
Còn thời nhà Lý lại nghĩ ra các “tên chữ” như: Thiên Đức để gọi sông Đuống, Nguyệt Đức là sông Cầu, thì Nhật Đức chính là tên của sông Thương.
Nhưng, thú vị nhất thì có lẽ là cái tên Lạng Giang của sông Thương, đọc thấy trong sách “Việt điện u linh” (tập truyện về cõi u linh nước Việt), ở về cuối đời Trần. Chính vì quan hệ qua lại cái tên Lạng Giang của sông Thương này mà trước khi có một huyện Lạng Giang như bây giờ thì ở về thời Trần, đã có một phủ cũng mang tên Lạng Giang.
Phủ Lạng Giang này, sang đến thời Lê, theo sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, gồm có đến 6 huyện. Rồi đến thời Nguyễn lại có thêm hai huyện nữa. Đồng thời, theo sách “Đại Nam nhất thống chí” thì còn có cả một tòa thành làm trung tâm đầu não gọi là thành Dền, đặt ở địa phận xã Châu Xuyên, huyện Bảo Lộc (còn di tích ở phố Châu Xuyên, phường Lê Lợi, TP Bắc Giang hiện nay) nữa cũng mang tên là “Thành Phủ Lạng Giang”.
Chữ LẠNG, vừa ở trong tên của sông Thương một thời, vừa là thành tố của địa danh cả một miền đất và người rộng lớn trên đôi bờ nước sông ở về thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn, xa xưa hơn, ở về thời Lý còn chính là tên của một châu, là châu Lạng.
Châu Lạng – viết và đọc theo văn phạm tiếng Hán Việt thì thành ra Lạng châu – là một trong 12 châu của nước Đại Việt thời Lý, được chép tên vào sử sách. Đó là một châu nhưng nhiều khi cũng được coi như một lộ. “Châu Lạng tương đương với miền Lạng Sơn, nhưng châu ấy có lẽ cũng được xem là lộ”- đó là nhận định của Giáo sư Đào Duy Anh trong sách “Đất nước Việt Nam qua các đời”.
Cũng theo sách này thì: Phụ chính đại thần Hồ Quý Ly, vào và từ năm 1397 “Đổi Lạng Sơn phủ (trước đó là Lạng châu) làm trấn Lạng Sơn”. Như vậy miền đất, đơn vị hành chính và địa danh Lạng Sơn với chữ Lạng là một từ tố của tên gọi đã được hình thành và rồi thành hình trên miền biên viễn ở phía Bắc thượng nguồn sông Thương về thời Trần, trên cơ sở của châu Lạng (Lạng châu) thời Lý trước đây.
Cũng trên cơ sở của châu Lạng (Lạng châu) thời Lý, cùng với việc ra đời Lạng Sơn, thì ở thời Trần, miền đất mà dòng Lạng Giang- sông Thương, sau 70 km thượng nguồn chảy trôi qua miền núi non hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của Lạng Sơn đến và từ chỗ bây giờ là xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang bắt đầu có tiếp 87 km, dồn nước về ngã sáu Lục Đầu Giang, qua một không gian rộng dài thoáng đãng hơn, thuộc các huyện:
Lạng Giang
,
Yên Thế
và
TP Bắc Giang
(trước đây là Phủ Lạng Thương) rồi
huyện Yên Dũng
hiện nay. Do đó, từ đây cũng bắt đầu quá trình hình thành rồi thành hình cho và trên miền đất này địa danh đối sánh với Lạng Sơn (tức “miền đất Lạng có nhiều núi non”) là Lạng Giang (tức “miền đất Lạng có nhiều sông nước”).
Cuộc phân tách nhưng vẫn song song tồn tại gắn bó giữa Lạng Sơn và Lạng Giang được chính thức đánh dấu sự hoàn thành khi Nguyễn Trãi viết xong bản thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, trong đó có câu mô tả cảnh tượng thảm bại của quân xâm lược nhà Minh ở chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang: “Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường”.
Đó là lúc bắt đầu vào mùa xuân năm 1428.
Từ những ngày xuân ấy đến những ngày xuân này đã là gần 600 năm tồn tại chữ LẠNG trong địa danh của hai miền Lạng Giang (Bắc Giang) và Lạng Sơn. Chữ ấy, trong tiếng Hán Việt, có ký tự được đọc nguyên gốc, chính quy và phổ biến là Lượng. Ứng chữ Lượng này vào việc gọi tên hai miền đất có sông Thương nối liền thì Lượng Sơn và Lượng Giang chẳng thấy mấy ai nói, chẳng mấy khi được sử dụng.
Trong tình hình ấy, thấy phổ biến ở khắp nơi và qua các thời, nôm na âm LẠNG được sử dụng để đọc (nói, gọi) chữ Lượng, thành ra các địa danh quen thuộc: Lạng Sơn và Lạng Giang! Tuy nhiên, đã nôm na và quen thuộc là thế rồi, nhưng nếu có ai đứng ở Bắc Giang bây giờ mà hỏi: Lạng Giang (và Lạng Sơn) nghĩa là gì, thì rõ ràng lắc đầu hoặc im lặng là cách trả lời. Bởi vì trong quốc ngữ, “Lạng” chỉ duy nhất có nghĩa là một đơn vị cân đo đong đếm “kẻ tám lạng, người nửa cân”, hoặc “Một lạng (lượng) vàng” chẳng hạn! Do đó chẳng lẽ Lạng Giang nghĩa là “Một lạng sông nước” và (Lạng Sơn: Một lạng núi non)? Như thế, không thể tìm nghĩa của địa danh có từ tố “Lạng” trong các lớp ngôn ngữ (tiếng) Việt hoặc Hán Việt, vậy phải tìm ở đâu?
Có một lớp ngôn ngữ cổ, là tiếng mà những người xưa đã sống ở đất Bắc Giang ngày nay đã nói. Lớp ngôn ngữ cổ ấy, theo thời gian đã bị các lớp ngôn ngữ Việt và Hán Việt trùm phủ lên trên, nhưng- thỉnh thoảng và đôi nơi vẫn trồi lên mà cộng tồn cùng các lớp ngôn ngữ sau này.
Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thấy có chép việc gọi người đứng đầu một đơn vị xướng ca là Quản Giáp. Trong tiếng Việt cận hiện đại, người Quản Giáp ấy, được gọi là Kép hát. Và thế là, một thị trấn của huyện Lạng Giang hiện nay, xưa là đất của Động Giáp, bây giờ vẫn đang mang tên gọi là Kép!
Ví dụ ngôn ngữ học này cho thấy: Có thể tìm nghĩa lý đúng của chữ LẠNG ở trong lớp ngôn ngữ cổ mà khoa Ngôn ngữ học đang gọi là tiếng Tày Thái cổ. Theo đó thì, LẠNG ở đây có nghĩa là “đỉnh cao sáng láng”.
Và như thế “vỡ òa” ra: Trong khi Lạng Sơn có nghĩa là “Miền đỉnh cao sáng láng có nhiều núi non”, thì Lạng Giang mang nghĩa là “Miền đỉnh cao sáng láng có nhiều sông nước”. Và Phủ Lạng Thương – tiền thân của TP Bắc Giang bây giờ là nơi đặt thủ phủ của “Miền đỉnh cao sáng láng có nhiều sông nước ở bên sông Thương”!
Mùa xuân này, ngược xuôi theo dòng sông Thương và lưu vực có diện tích rộng đến 3.650 km2 của thủy đạo “nước chảy đôi dòng” này, chiếm gần 95% diện tích của cả
tỉnh Bắc Giang
hiện đại, ta càng thấy những gửi gắm từ nhiều đời vào cái nghĩa “Đỉnh cao sáng láng có nhiều sông nước” của địa danh ở nơi đây, đang được cố gắng làm cho trở thành hiện thực rực rỡ là như thế nào.
|
Thật đa nghĩa, khi ta nghĩ về tên gọi của dòng sông. Đó là biếc xanh, như trường hợp nói câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển biếc biến thành ruộng dâu) khi sông trong vắt mà róc rách chảy qua vùng đồi núi khởi nguồn Chi Lăng, Hữu Lũng.
Nhưng lại là nhớ thương khi đến chỗ có ngôi làng Thương ở bờ bên phải tòa Phủ Lạng Thương, thì các cuộc tiễn đưa xưa phải chia tay ly biệt người từ kinh đô lên biên ải. Còn lúc biến âm mà nói Thương thành Xương, như khi đọc các địa danh: Thọ Xương, Xương Giang… thì đó lại thành ra là tươi tốt, thịnh giàu.
Sông Thương đoạn chảy qua TP Bắc Giang. Ảnh: Hương Giang.
Dòng sông mang cái tên nhiều nghĩa này, ngoài và cùng với chữ Thương còn được sử sách gọi bằng không ít tên khác nữa. Năm 1059, Vua Lý Thánh Tông đi săn, đến chỗ sông này đã ngự thăm nhà thủ lĩnh Thân Cảnh Phúc, để tới năm 1066 đưa Công chúa Thiên Thành gả cho thì Nam Bình chính là tên gọi vào lúc ấy của
sông Thương
.
Sách “Lĩnh ngoại đại đáp” của Chu Khứ Phi đời nhà Tống bên Bắc phương thì cho rằng, vì thấy mỗi độ xuân về, những cây đào phai lại nở hồng khắp đôi bờ nên sông Thương mới có thêm tên nữa là Đào Hoa.
Còn thời nhà Lý lại nghĩ ra các “tên chữ” như: Thiên Đức để gọi sông Đuống, Nguyệt Đức là sông Cầu, thì Nhật Đức chính là tên của sông Thương.
Nhưng, thú vị nhất thì có lẽ là cái tên Lạng Giang của sông Thương, đọc thấy trong sách “Việt điện u linh” (tập truyện về cõi u linh nước Việt), ở về cuối đời Trần. Chính vì quan hệ qua lại cái tên Lạng Giang của sông Thương này mà trước khi có một huyện Lạng Giang như bây giờ thì ở về thời Trần, đã có một phủ cũng mang tên Lạng Giang.
Phủ Lạng Giang này, sang đến thời Lê, theo sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, gồm có đến 6 huyện. Rồi đến thời Nguyễn lại có thêm hai huyện nữa. Đồng thời, theo sách “Đại Nam nhất thống chí” thì còn có cả một tòa thành làm trung tâm đầu não gọi là thành Dền, đặt ở địa phận xã Châu Xuyên, huyện Bảo Lộc (còn di tích ở phố Châu Xuyên, phường Lê Lợi, TP Bắc Giang hiện nay) nữa cũng mang tên là “Thành Phủ Lạng Giang”.
Chữ LẠNG, vừa ở trong tên của sông Thương một thời, vừa là thành tố của địa danh cả một miền đất và người rộng lớn trên đôi bờ nước sông ở về thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn, xa xưa hơn, ở về thời Lý còn chính là tên của một châu, là châu Lạng.
Châu Lạng – viết và đọc theo văn phạm tiếng Hán Việt thì thành ra Lạng châu – là một trong 12 châu của nước Đại Việt thời Lý, được chép tên vào sử sách. Đó là một châu nhưng nhiều khi cũng được coi như một lộ. “Châu Lạng tương đương với miền Lạng Sơn, nhưng châu ấy có lẽ cũng được xem là lộ”- đó là nhận định của Giáo sư Đào Duy Anh trong sách “Đất nước Việt Nam qua các đời”.
Cũng theo sách này thì: Phụ chính đại thần Hồ Quý Ly, vào và từ năm 1397 “Đổi Lạng Sơn phủ (trước đó là Lạng châu) làm trấn Lạng Sơn”. Như vậy miền đất, đơn vị hành chính và địa danh Lạng Sơn với chữ Lạng là một từ tố của tên gọi đã được hình thành và rồi thành hình trên miền biên viễn ở phía Bắc thượng nguồn sông Thương về thời Trần, trên cơ sở của châu Lạng (Lạng châu) thời Lý trước đây.
Cũng trên cơ sở của châu Lạng (Lạng châu) thời Lý, cùng với việc ra đời Lạng Sơn, thì ở thời Trần, miền đất mà dòng Lạng Giang- sông Thương, sau 70 km thượng nguồn chảy trôi qua miền núi non hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của Lạng Sơn đến và từ chỗ bây giờ là xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang bắt đầu có tiếp 87 km, dồn nước về ngã sáu Lục Đầu Giang, qua một không gian rộng dài thoáng đãng hơn, thuộc các huyện:
Lạng Giang
,
Yên Thế
và
TP Bắc Giang
(trước đây là Phủ Lạng Thương) rồi
huyện Yên Dũng
hiện nay. Do đó, từ đây cũng bắt đầu quá trình hình thành rồi thành hình cho và trên miền đất này địa danh đối sánh với Lạng Sơn (tức “miền đất Lạng có nhiều núi non”) là Lạng Giang (tức “miền đất Lạng có nhiều sông nước”).
Cuộc phân tách nhưng vẫn song song tồn tại gắn bó giữa Lạng Sơn và Lạng Giang được chính thức đánh dấu sự hoàn thành khi Nguyễn Trãi viết xong bản thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, trong đó có câu mô tả cảnh tượng thảm bại của quân xâm lược nhà Minh ở chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang: “Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường”.
Đó là lúc bắt đầu vào mùa xuân năm 1428.
Từ những ngày xuân ấy đến những ngày xuân này đã là gần 600 năm tồn tại chữ LẠNG trong địa danh của hai miền Lạng Giang (Bắc Giang) và Lạng Sơn. Chữ ấy, trong tiếng Hán Việt, có ký tự được đọc nguyên gốc, chính quy và phổ biến là Lượng. Ứng chữ Lượng này vào việc gọi tên hai miền đất có sông Thương nối liền thì Lượng Sơn và Lượng Giang chẳng thấy mấy ai nói, chẳng mấy khi được sử dụng.
Trong tình hình ấy, thấy phổ biến ở khắp nơi và qua các thời, nôm na âm LẠNG được sử dụng để đọc (nói, gọi) chữ Lượng, thành ra các địa danh quen thuộc: Lạng Sơn và Lạng Giang! Tuy nhiên, đã nôm na và quen thuộc là thế rồi, nhưng nếu có ai đứng ở Bắc Giang bây giờ mà hỏi: Lạng Giang (và Lạng Sơn) nghĩa là gì, thì rõ ràng lắc đầu hoặc im lặng là cách trả lời. Bởi vì trong quốc ngữ, “Lạng” chỉ duy nhất có nghĩa là một đơn vị cân đo đong đếm “kẻ tám lạng, người nửa cân”, hoặc “Một lạng (lượng) vàng” chẳng hạn! Do đó chẳng lẽ Lạng Giang nghĩa là “Một lạng sông nước” và (Lạng Sơn: Một lạng núi non)? Như thế, không thể tìm nghĩa của địa danh có từ tố “Lạng” trong các lớp ngôn ngữ (tiếng) Việt hoặc Hán Việt, vậy phải tìm ở đâu?
Có một lớp ngôn ngữ cổ, là tiếng mà những người xưa đã sống ở đất Bắc Giang ngày nay đã nói. Lớp ngôn ngữ cổ ấy, theo thời gian đã bị các lớp ngôn ngữ Việt và Hán Việt trùm phủ lên trên, nhưng- thỉnh thoảng và đôi nơi vẫn trồi lên mà cộng tồn cùng các lớp ngôn ngữ sau này.
Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thấy có chép việc gọi người đứng đầu một đơn vị xướng ca là Quản Giáp. Trong tiếng Việt cận hiện đại, người Quản Giáp ấy, được gọi là Kép hát. Và thế là, một thị trấn của huyện Lạng Giang hiện nay, xưa là đất của Động Giáp, bây giờ vẫn đang mang tên gọi là Kép!
Ví dụ ngôn ngữ học này cho thấy: Có thể tìm nghĩa lý đúng của chữ LẠNG ở trong lớp ngôn ngữ cổ mà khoa Ngôn ngữ học đang gọi là tiếng Tày Thái cổ. Theo đó thì, LẠNG ở đây có nghĩa là “đỉnh cao sáng láng”.
Và như thế “vỡ òa” ra: Trong khi Lạng Sơn có nghĩa là “Miền đỉnh cao sáng láng có nhiều núi non”, thì Lạng Giang mang nghĩa là “Miền đỉnh cao sáng láng có nhiều sông nước”. Và Phủ Lạng Thương – tiền thân của TP Bắc Giang bây giờ là nơi đặt thủ phủ của “Miền đỉnh cao sáng láng có nhiều sông nước ở bên sông Thương”!
Mùa xuân này, ngược xuôi theo dòng sông Thương và lưu vực có diện tích rộng đến 3.650 km2 của thủy đạo “nước chảy đôi dòng” này, chiếm gần 95% diện tích của cả
tỉnh Bắc Giang
hiện đại, ta càng thấy những gửi gắm từ nhiều đời vào cái nghĩa “Đỉnh cao sáng láng có nhiều sông nước” của địa danh ở nơi đây, đang được cố gắng làm cho trở thành hiện thực rực rỡ là như thế nào.
|
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam thành lập tháng 12-1960. Đầu năm 1961 tôi được Ban Thống nhất đề cử sang tham gia hoạt động ngoại giao cho Mặt trận. Tôi được đề nghị đổi tên, một là để giữ bí mật, hai là để quốc tế dễ đọc.
Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thị Bình tại thủ đô của chính phủ đặt ở Cam Lộ – Quảng Trị, tháng 2-1973 – Ảnh tư liệu.
Các đồng chí đề nghị tên Bình – là hòa bình. Từ đấy, bí danh Yến Sa thời kháng chiến chống Pháp của tôi được đổi thành
Nguyễn Thị Bình
.
Nhiệm vụ của chúng tôi là giải thích với bạn bè quốc tế ý nghĩa và tính chính nghĩa cuộc chiến đấu của chúng ta. Mỗi khi chúng tôi lên diễn đàn, cả hội trường đều đứng dậy. Tôi bước lên nói:
“Nhân dân miền Nam Việt Nam không còn con đường nào khác là phải đứng lên chống xâm lược, cũng không có nguyện vọng nào khác là được sống trong hòa bình, một cuộc sống bình thường như mọi người trên Trái đất đang được sống ngày nay”…
Khi nói lên những lời đó, lòng tôi vô cùng xúc động. Tôi cảm nhận rõ tôi đã cố gắng nói cùng bạn bè năm châu ước vọng sâu sắc của hàng triệu đồng bào chúng ta đang đau khổ và đang chiến đấu, hy sinh vô cùng gian nan.
Năm 1968, sau sáu năm tích lũy kiến thức ngoại giao và kinh nghiệm đấu tranh chính trị, tôi được lãnh đạo Mặt trận chọn lựa và giao nhiệm vụ: bước vào cuộc đàm phán lịch sử ở Paris nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Ngày 2-11-1968, tôi đến Paris. 14h chiều, thời tiết bắt đầu lạnh, trời âm u sẩm tối, trên máy bay, từ xa tôi đã nhìn thấy đám đông người chờ đón. Hồi hộp, xúc động, mừng vui, chúng tôi bảo nhau phải tươi cười, giữ thái độ thật đàng hoàng.
Hôm ấy tôi mặc áo dài màu hồng sậm, khoác măng tô xám, khăn quàng cổ màu đen có điểm hoa. Giữa đám đông, trước mặt nhiều nhà báo, nhiếp ảnh, tôi cố gắng nói thật dõng dạc ý nghĩa sự có mặt của đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Paris.
Bình Thanh đứng cạnh tôi dịch mạch lạc, rõ ràng, nhiều người khen cô nói tiếng Pháp hay không thua gì người Pháp. Từ đó, tiền tuyến của chúng tôi là chiếc bàn với những ánh đèn chiếu vào mặt.
Suốt bốn năm liền, mỗi ngày thứ năm hằng tuần, chúng tôi lại đến trung tâm hội nghị Kléber làm nhiệm vụ nói rõ chính nghĩa vì hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất của toàn dân Việt Nam.
Cùng với đó là những buổi họp báo quốc tế liên miên, căng thẳng, có lúc truyền hình trực tiếp tới Mỹ hơn hai tiếng đồng hồ. Các nhà báo chủ yếu xoay quanh lập trường Mỹ và Việt Nam tại bàn đàm phán.
Tuy hồi hộp, tôi vẫn cố gắng bình tĩnh đối đáp đàng hoàng, mạnh mẽ nhưng hòa nhã, nêu rõ thiện chí của chúng ta muốn tìm giải pháp chính trị, chấm dứt đau khổ của nhân dân và cũng kiên quyết đến cùng vì tự do, độc lập, thống nhất thiêng liêng của đất nước.
Chúng tôi cùng bạn bè quốc tế còn tổ chức các cuộc mít tinh phản chiến ở các thành phố lớn, có lúc hẹn giờ tổ chức xuyên biên giới, xuyên Đại Tây Dương. Chúng tôi đi thăm các nước, dự các hội nghị, tận dụng mọi cơ hội để vận động cho tình hữu nghị với Việt Nam.
Tôi đã có biết bao nhiêu bạn bè quốc tế trong những năm ấy và duy trì được tình cảm tốt đẹp đến sau này. Phong trào ủng hộ hòa bình Việt Nam rất mạnh mẽ. Ở
Ấn Độ
có khẩu hiệu: “Anh là Việt Nam. Tôi là Việt Nam. Chúng ta là Việt Nam”.
Ở
Cuba
, khi chúng tôi đến, cuộc mít tinh khổng lồ tại quảng trường Jose Marti khiến tôi có cảm giác toàn bộ người dân La Habana đang có mặt. Tại đây, đồng chí Fidel Castro đã nói câu: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng dâng cả máu của mình”…
Trong bốn đoàn đàm phán, chỉ đoàn miền Nam chúng tôi là có thành viên nữ, đại diện nữ, đó cũng là lợi thế. Cùng với tình hình chiến trường, cuộc đấu lý trên bàn ngoại giao lúc thì hết sức gay gắt, lúc thì giằng co như báo chí miêu tả “cuộc nói chuyện giữa những người điếc”.
Bà Nguyễn Thị Bình.
Đó là những lúc chúng tôi chán ngán và càng nhớ gia đình. Tôi đọc đi đọc lại thư của con gái: “Chừng nào mẹ về với chúng con?”. Mỗi người trong đoàn đều có những ngổn ngang riêng, nhưng tất cả chúng tôi không bao giờ nghĩ Việt Nam có thể thất bại. Chúng ta nhất định sẽ giành được hòa bình, vấn đề chỉ là lúc nào.
Cuối năm 1972 là những ngày căng thẳng. Sau những cuộc tranh cãi nảy lửa là bàng hoàng, lo lắng trước tin tức Mỹ dùng
B52
ném bom Hà Nội, nơi chồng con tôi ở đó.
Bên nhà gọi sang báo các con tôi đã đi sơ tán và vẫn an toàn. Được gọi cấp tốc, tôi về đến
Hà Nội
giữa đêm 30-12 và được tin Mỹ chấm dứt ném bom. Ngày 21-1-1973, tôi trở lại Paris, thời tiết bớt lạnh, nắng đẹp.
Trong lòng tôi là một cảm xúc mãnh liệt bên cạnh cảm giác bình thản, vì đinh ninh cái gì phải đến ắt sẽ đến. Đặt bút ký vào hiệp định, tôi nhớ đến đồng bào đồng chí ở hai miền Nam – Bắc, nhớ đến bạn bè thế giới, nhớ những người không còn nữa để biết sự kiện này. Tôi trào nước mắt. Vinh dự được trao cho tôi thật quá to lớn, không lời nào nói lên được lòng biết ơn vô tận này.
Trước nhà hội nghị, hàng ngàn người vẫy chào, một rừng cờ nửa đỏ nửa xanh. Có cả nhiều đoàn Mỹ đến thăm chúng tôi: các bà mẹ, những người vợ của các phi công, các đoàn tôn giáo, phụ nữ, thanh niên. Đặc biệt đoàn anh Martin Fenryder dẫn đầu 24 thanh niên Mỹ đến tặng tôi bài thơ cảm động anh vừa sáng tác:
Tôi bị xô đẩy và thu hút
Bởi sức mạnh tinh thần của Việt Nam
Mắt tôi lóa đi vì một ngọn lửa
Hiện thân của sức sống Việt Nam
Tim tôi nhảy múa vì xúc động
Ôi! Tình yêu Việt Nam! Hòa bình!
Tất cả sắp là hiện thực
Trong những giờ phút Paris ngắn ngủi
Và bao nhiêu mơ ước
Và tất cả từ hai phương trời xa lắc
Sẽ hòa thành một niềm vui chung!
Một tuần sau lễ ký kết, chúng tôi cùng bà con Việt kiều ở Paris đón Tết Quý Sửu. Đây là cái Tết thứ năm và cũng là Tết cuối cùng của đoàn đàm phán trên đất Pháp. Không thể tả hết niềm hạnh phúc và hân hoan của mọi người.
Trích Hồi ký Gia đình – Bạn bè và Đất nước
|
The National Front for the Liberation of the South was established in December 1960. In early 1961, I was nominated by the Unification Committee to participate in diplomatic activities for the Front. I was asked to change my name, one to keep it a secret, two to make it easier to read internationally.
Chairman of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam Nguyen Huu Tho and Minister of Foreign Affairs Nguyen Thi Binh at the government capital located in Cam Lo - Quang Tri, February 1973 - Documentary photo.
Comrades suggested the name Binh - meaning peace. From then on, my alias Yen Sa during the resistance war against the French was changed to
Nguyen Thi Binh
.
Our mission is to explain to international friends the meaning and righteousness of our fight. Every time we went to the forum, the whole hall stood up. I stepped up and said:
“The people of South Vietnam have no other way but to stand up against invasion, and have no other wish than to live in peace, a normal life like everyone on Earth is living today. now"…
When I said those words, my heart was deeply moved. I clearly feel that I have tried to tell friends from all over the world the deep wishes of millions of our compatriots who are suffering and fighting and sacrificing extremely hard.
In 1968, after six years of accumulating diplomatic knowledge and experience in political struggle, I was selected by the Front's leadership and assigned the task: to enter into historic negotiations in Paris to end the war, restore peace in Vietnam.
On November 2, 1968, I arrived in Paris. At 2:00 p.m., the weather started to get cold, the sky was dark and gloomy. On the plane, from afar I saw a crowd of people waiting to welcome me. Nervous, emotional, happy, we told each other to smile and maintain a dignified attitude.
That day I wore a dark pink ao dai, a gray coat, and a black scarf with flowers. In the middle of the crowd, in front of many journalists and photographers, I tried to speak clearly the meaning of the presence of the delegation of the National Front for the Liberation of South Vietnam in Paris.
Binh Thanh, standing next to me, translated coherently and clearly. Many people praised her for speaking French as well as a French person. From there, our front line was the table with the lights shining on our faces.
For four consecutive years, every Thursday, we went to the Kléber conference center to do the task of articulating the cause of peace, independence, freedom and unity of the entire Vietnamese people.
Along with that are constant, stressful international press conferences, sometimes broadcast live to the US for more than two hours. Journalists mainly focused on the stance of the US and Vietnam at the negotiating table.
Even though I was nervous, I still tried to calmly respond in a dignified, strong but gentle manner, stating our willingness to find a political solution, end the suffering of the people and also be resolute to the end for freedom. freedom, independence, and sacred unity of the country.
We and our international friends also organized anti-war rallies in major cities, sometimes scheduled to be held across borders and across the Atlantic. We visit countries, attend conferences, and take advantage of every opportunity to advocate for friendship with Vietnam.
I made so many international friends during those years and have maintained good relationships ever since. The movement supporting peace in Vietnam is very strong. LIVE
India
has the slogan: "You are Vietnam. I am Vietnamese. We are Vietnam."
LIVE
Cuba
, when we arrived, the huge rally in Jose Marti square made me feel like all the people of Havana were present. Here, comrade Fidel Castro said: "For Vietnam, Cuba is willing to sacrifice its blood"...
Of the four negotiating delegations, only our Southern delegation has female members and female representatives, which is also an advantage. Along with the battlefield situation, the debate on the diplomatic table was sometimes very fierce, sometimes tense, like the press described "a conversation between deaf people".
Ms. Nguyen Thi Binh.
Those are the times when we get bored and miss our family even more. I read my daughter's letter over and over again: "When will you come back to us?" Each person in the group had their own struggles, but all of us never thought Vietnam could fail. We will definitely win peace, it's just a matter of when.
The end of 1972 were tense days. After the heated debates, there was shock and worry at the news the US used
B52
bombed Hanoi, where my husband and children lived.
The family called to say my children had evacuated and were safe. Called urgently, I arrived
Hanoi
midnight of December 30 and received news that the US had stopped bombing. On January 21, 1973, I returned to Paris, the weather was less cold and sunny.
In my heart is a strong emotion alongside a feeling of calmness, because I am sure that whatever must come will come. When I signed the agreement, I remembered my compatriots in the North and South, remembered my friends around the world, and remembered those who are no longer there to know this event. I burst into tears. The honor bestowed upon me is so great that no words can express this endless gratitude.
In front of the conference house, thousands of people waved, a forest of flags half red and half green. There were many American delegations visiting us: mothers, wives of pilots, religious groups, women, young people. In particular, Mr. Martin Fenryder led 24 young Americans to present me with a touching poem he had just composed:
I was pushed and attracted
Because of Vietnam's spiritual strength
My eyes were blinded by a fire
Embodiment of Vietnamese vitality
My heart danced with emotion
Oh! Vietnamese love! Peace!
It's all about to come true
In these short Parisian hours
And so many dreams
And all from two distant directions
Will become a common joy!
One week after the signing ceremony, we and overseas Vietnamese people in Paris celebrated the Year of the Ox. This is the fifth and last Tet of the negotiating team in France. It is impossible to describe everyone's happiness and joy.
Excerpt from Memoirs of Family - Friends and Country
|
Trong chiều dài ngàn vạn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng kiến biết bao thành trì được dựng lên bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của cha ông. Và trên vùng đất xứ Thanh địa linh nhân kiệt còn đó đến hôm nay những dấu xưa thành cổ đang âm thầm ‘kể chuyện’ lịch sử. Dấu tích thành cổ không chỉ là niềm tự hào, đó còn là minh chứng khẳng định cho vị thế của vùng đất này trong dòng chảy thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt.
Hơn 6 thế kỷ tồn tại, Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ vẫn khiến hậu thế kinh ngạc về kỹ thuật xây dựng.
Sau những năm tháng hưng thịnh, nhà Trần bộc lộ dấu hiệu suy vong. Trong tình thế ấy, Hồ Quý Ly trở thành nhân vật chính trị nổi lên trong bộ máy nhà Trần lúc bấy giờ. Với tài năng, Hồ Quý Ly đã từng bước thâu tóm và xác lập quyền lực. Ông khát vọng xây dựng đất nước hùng mạnh với hàng loạt cải cách. Đỉnh điểm, ông cho đổi Thanh Hóa làm Thanh Đô trấn và xây dựng Tây Đô tại đây vào tháng Giêng năm Đinh Sửu (1397), công trình hoàn thành đã đưa xứ Thanh chính thức trở thành trung tâm chính trị của quốc gia Đại Việt – Đại Ngu.
Thành Nhà Hồ
(Tây Kinh hay còn gọi là Tây Đô) ở xứ Thanh thay thế kinh đô Thăng Long (Đông Kinh) được xây dựng thần tốc với sự phi thường. Một tòa thành đá kiên cố với quy mô lớn hiếm có được khởi dựng và hoàn thành chỉ trong khoảng thời gian 3 tháng. Hậu thế vẫn không thể lý giải, bằng cách nào, phải huy động bao nhiêu sức người, bao nhiêu tâm lực, máu xương, nước mắt mới có thể làm nên tòa thành đá kỳ vĩ cả về kiến trúc, công năng và giá trị độc đáo.
Người ta nhắc đến Thành Nhà Hồ với tư cách kinh đô của nước Đại Ngu (niềm vui lớn) – niên hiệu của đất nước ta dưới thời nhà Hồ. Điều đó đúng, nhưng là chưa đủ. Thành được khởi dựng và hoàn thành vào đầu năm 1397, tuy nhiên phải chính thức đến năm 1400 thì Hồ Quý Ly mới xác lập việc ra đời của triều đại nhà Hồ. Có nghĩa, trong thời gian từ 1397-1400 thì Thành Nhà Hồ vẫn là kinh đô của nước Đại Việt do vua Trần đứng đầu. Và như vậy, Thành Nhà Hồ lẽ dĩ nhiên chính là kinh đô của hai triều đại Trần – Hồ nối tiếp. Như vậy, lịch sử của Tây Đô nói chung và Thành Nhà Hồ nói riêng còn là lịch sử của một cuộc dời đô trong những biến động của dân tộc.
TS Lê Ngọc Tạo – Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa nhìn nhận: “Khi Hồ Quý Ly cho dời đô từ Thăng Long (Hà Nội) về Tây Đô (Thanh Hóa) còn là vì những tính toán về mặt phòng ngự quân sự. Bởi khi ấy nhà Minh đang mưu đồ xâm lược. Vùng đất Thanh Hóa có vị thế hiểm trở, dựa vào thế núi sông, thuận lợi cho việc phòng thủ, chống đỡ với kẻ thù. Thành Nhà Hồ mang đầy đủ yếu tố của một kinh đô hành chính, phòng thủ quân sự. Và lịch sử đã chứng minh vị thế phòng thủ của Thành Nhà Hồ cả ở những giai đoạn biến động về sau. Chính vì vậy, việc Hồ Quý Ly lựa chọn Thanh Hóa làm nơi xây dựng Tây Đô với Thành Nhà Hồ (Thành Tây Giai) được xem là một bước ngoặt lịch sử trong việc khẳng định vị thế của vùng đất Thanh Hóa”.
Vùng đất
Thanh Hóa
dường như sinh ra là để trở thành nơi tìm về “thủ thế” của các triều đại mỗi lúc nguy nan. Và lịch sử dường như đã khẳng định cho nhận định ấy.
Qua những năm thái bình, thịnh trị, quốc gia dân tộc phát triển rực rỡ, nhà Lê không tránh khỏi dấu hiệu suy yếu. Đánh dấu bằng biến loạn chính trị năm 1527 khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, xưng hoàng đế. Và lúc này, sau 100 năm, vùng đất xứ Thanh lại trở thành chỗ dựa “căn bản” để quần thần giương cao ngọn cờ “phù Lê diệt Mạc”.
Năm 1546, sau 13 năm kể từ khi Vua Lê Trang tông lên ngôi phải nương nhờ Ai Lao, thì lúc này đã chính thức chọn Vạn Lại, sau đó là cả Yên Trường để xây dựng hành cung và kinh đô kháng chiến.
Một số hiện vật đá tại kinh đô kháng chiến Vạn Lại – Yên Trường còn lưu giữ đến ngày nay.
Cách Lam Kinh không xa, Vạn Lại được xem như “cửa ngõ” ra vào Lam Kinh khi xưa, đây cũng được biết đến như “phên dậu” của hương Lam Sơn. Bởi vậy, khi nhà Lê chọn Vạn Lại – Yên Trường làm nơi xây dựng kinh đô kháng chiến chống nhà Mạc thì nơi đây cũng chính thức trở thành chốn tìm về của hào kiệt bốn phương như Phùng Khắc Khoan, Hoàng Đình Ái, Lương Hữu Khánh… để dốc lòng phò tá cơ nghiệp trung hưng.
Bắt đầu từ việc đào hào, đắp lũy, xây thành trì, hành cung để nhà vua đến ở và cả thành lũy để chiến đấu. Và trong những năm tháng ấy, Vạn Lại – Yên Trường đã thực sự trở thành kinh đô kháng chiến của nhà Lê Trung hưng. Kinh đô Vạn Lại – Yên Trường được kiến thiết với đầy đủ yếu tố: Triều nghi; trường thi, đàn tế, chợ búa, phố xá…
Trong khoảng gần 50 năm, do diễn biến phức tạp của chiến sự đã dẫn đến việc di dời kinh đô kháng chiến của nhà Lê Trung hưng từ Vạn Lại về Yên Trường và Yên Trường về Vạn Lại. Trong đó “Vạn Lại là nơi căn bản vững chắc, khi chiến sự xảy ra, kinh đô Vạn Lại là nơi sống còn và gắn chặt với việc Trung hưng của nhà Lê. Yên Trường giữ vị trí chiến lược quan trọng nhằm bảo vệ kinh đô Vạn Lại từ xa, đảm bảo an toàn cho hành điện” (theo sách Kinh đô Vạn Lại – Yên Trường).
Nếu như Lam Sơn là nơi khởi phát của vương triều hậu Lê thì Vạn Lại – Yên Trường là kinh đô kháng chiến để sự nghiệp nhà Lê sau những thăng trầm được “viết” tiếp. Đáng tiếc, thời gian và những biến động lịch sử qua nhiều thế kỷ đã khiến cho kinh đô kháng chiến ngày nào giờ đây phần nhiều chỉ còn là phế tích. Có chăng, chỉ còn lại dấu tích của hệ thống thành lũy xưa, cùng những địa danh lịch sử thiêng liêng: Đồi Phủ, Giếng Mắt Rồng, Bái Tiến, Long Hồ; Bến Tiên, Hành điện Vạn Lại, Đàn tế Nam Giao… mang trong mình những câu chuyện kể lịch sử.
Theo dấu thành cổ, “lắng nghe” di tích để hiểu thêm về những kỳ tích hào hùng, vĩ đại và cả mất mát đau thương của lớp lớp cha ông đi trước. Thấu hiểu, tự hào về lịch sử, để mỗi người nỗ lực hơn trong trách nhiệm “viết tiếp” tương lai.
Bài và ảnh: Khánh Lộc
|
During the thousands of years of building and defending the country, the Vietnamese people have witnessed many strongholds built with the sweat, tears and blood of their ancestors. And in the land of Qingdao, outstanding people still exist today, the signs of ancient cities are silently 'telling stories' of history. The vestiges of the ancient citadel are not only a source of pride, but also a testament to the position of this land in the ups and downs of Vietnamese history.
After more than 6 centuries of existence, the World Cultural Heritage of Ho Dynasty Citadel still surprises posterity with its construction techniques.
After years of prosperity, the Tran Dynasty showed signs of decline. In that situation, Ho Quy Ly became an emerging political figure in the Tran dynasty at that time. With talent, Ho Quy Ly gradually acquired and established power. He aspires to build a strong country with a series of reforms. At its peak, he changed Thanh Hoa to Thanh Do town and built Tay Do here in January of the year Dinh Suu (1397). The completed project brought Thanh officially into the political center of the Dai Viet nation. – Dai Ngu.
Citadel of the Ho Dynasty
(Tay Kinh, also known as Tay Do) in Thanh Hoa, replacing the capital Thang Long (Dong Kinh), was built with extraordinary speed and extraordinary speed. A rare large-scale fortified stone citadel was built and completed in just 3 months. Posterity still cannot explain how, how much human effort, how much effort, blood, bones, and tears must be mobilized to create a magnificent stone citadel in terms of architecture, function, and value. unique.
People refer to the Ho Dynasty Citadel as the capital of Dai Ngu (great joy) - the era name of our country under the Ho Dynasty. That's true, but it's not enough. The citadel was built and completed in early 1397, but it was not until 1400 that Ho Quy Ly officially established the birth of the Ho dynasty. That means, during the period from 1397 to 1400, the Ho Dynasty Citadel was still the capital of Dai Viet country headed by King Tran. And so, the Ho Dynasty Citadel was of course the capital of two successive Tran - Ho dynasties. Thus, the history of Tay Do in general and the Ho Dynasty Citadel in particular is also the history of a capital move amid the upheavals of the nation.
Dr. Le Ngoc Tao - Chairman of Thanh Hoa Historical Science Association acknowledged: "When Ho Quy Ly moved the capital from Thang Long (Hanoi) to Tay Do (Thanh Hoa) it was also because of calculations about military defense. the. Because at that time the Ming Dynasty was plotting to invade. The land of Thanh Hoa has a rugged location, based on mountains and rivers, convenient for defense and fending off enemies. The Ho Dynasty Citadel has all the elements of an administrative and military defense capital. And history has proven the defensive position of the Ho Dynasty Citadel even in later periods of upheaval. Therefore, Ho Quy Ly's choice of Thanh Hoa as the place to build Tay Do with the Ho Dynasty Citadel (Tay Giai Citadel) is considered a historical turning point in affirming the position of Thanh Hoa land.
Land
Thanh Hoa
It seems that it was born to become a place to find "defensive posture" for dynasties in times of danger. And history seems to confirm that statement.
Through years of peace, prosperity, and the nation's brilliant development, the Le Dynasty could not avoid signs of weakness. Marked by political turmoil in 1527 when Mac Dang Dung usurped the Le dynasty and proclaimed himself emperor. And now, after 100 years, the Qing land has become the "fundamental" support for the courtiers to raise the flag of "Fu Le and destroy Mac".
In 1546, after 13 years since King Le Trang Tong came to the throne and had to rely on Ai Lao, at this time he officially chose Van Lai, then Yen Truong to build the palace and capital of resistance.
Some stone artifacts in the resistance capital of Van Lai - Yen Truong are still preserved today.
Not far from Lam Kinh, Van Lai was considered the "gateway" into and out of Lam Kinh in the past. This is also known as the "rooster phen" of Lam Son incense. Therefore, when the Le Dynasty chose Van Lai - Yen Truong as the place to build the capital of the resistance war against the Mac Dynasty, this place also officially became the place to return to famous heroes from all over the world such as Phung Khac Khoan, Hoang Dinh Ai, Luong Huu. Khanh... to wholeheartedly support the Chinese economy.
Starting from digging trenches, building ramparts, building citadels, palaces for the king to live in and ramparts for fighting. And during those years, Van Lai - Yen Truong truly became the resistance capital of the Trung Hung Le Dynasty. The capital Van Lai - Yen Truong was built with all the following elements: Imperial court; Exam halls, altars, markets, streets...
For nearly 50 years, the complicated developments of the war led to the relocation of the resistance capital of the Le Trung Hung dynasty from Van Lai to Yen Truong and Yen Truong to Van Lai. In which, "Van Lai is a strong base. When war occurs, the capital of Van Lai is a vital place and closely associated with the revival of the Le Dynasty. Yen Truong holds an important strategic position to protect the capital of Van Lai from afar, ensuring the safety of the palace" (according to the book The Capital of Van Lai - Yen Truong).
If Lam Son is the starting place of the post-Le dynasty, then Van Lai - Yen Truong is the resistance capital so that the Le dynasty's career after ups and downs can be "written" further. Unfortunately, time and historical upheavals over the centuries have left the former resistance capital now mostly in ruins. Perhaps, there are only traces left of the ancient rampart system, along with sacred historical places: Phu Hill, Dragon's Eye Well, Bai Tien, Long Ho; Ben Tien, Van Lai Palace, Nam Giao Altar... carry historical stories.
Follow the ancient citadel, "listen" to the relics to understand more about the heroic, great feats and painful losses of our ancestors. Understand and be proud of history, so that each person will make more efforts in the responsibility of "continuing to write" the future.
Article and photos: Khanh Loc
|
Không chỉ tác động đến các hộ dân tại
Nhật Bản
, cuộc khủng hoảng năng lượng còn tạo áp lực lớn cho công tác bảo tồn các bảo vật nghệ thuật và văn hóa của nước này.
Bảo tàng Quốc gia tại thủ đô Tokyo được thành lập từ năm 1872. Ảnh:
AP
.
Theo
Bloomberg
, Bảo tàng Quốc gia tại thủ đô Tokyo là một trong những cơ sở lâu đời và lớn nhất tại Nhật Bản chuyên lưu trữ và bảo quản các loại kiếm samurai cổ, tác phẩm nghệ thuật và văn kiện.
Trên tạp chí
Bungei Shunju
, ông Makoto Fujiwara, giám đốc của bảo tàng, dự đoán tiền điện tại cơ sở này sẽ tăng gấp đôi trong năm nay.
Tiền điện là một phần quan trọng trong quá trình bảo quản khoảng 120.000 hiện vật, có nguồn gốc từ
Nhật Bản
và nhiều khu vực khác của châu Á, đang được lưu trữ tại bảo tàng này.
“Các hiện vật văn hóa cần được bảo quản trong môi trường có nhiệt độ và độ ẩm phù hợp để đảm bảo chúng luôn trong tình trạng tốt”, ông Fujiwara viết trong bài báo. Cũng theo ông, bảo tàng đã phải cắt giảm chi phí mua và sửa chữa các tác phẩm văn hóa để duy trì hoạt động trong năm nay.
Bảo tàng Quốc gia tại thủ đô Tokyo là nạn nhân mới nhất của tình trạng thiếu hụt năng lượng, khiến giá khí đốt tự nhiên và than tăng vọt trong năm 2022. Giá thành cao của những loại năng lượng này đã khiến giá điện tại Nhật Bản tăng mạnh.
Bảo tàng Quốc gia thủ đô Tokyo chịu trách nhiệm bảo quản 89 hiện vật được chính phủ Nhật Bản phân loại là “Bảo vật Quốc gia”. Những hiện vật này bao gồm chiếc thắt lưng dùng trong nghi lễ cổ có từ thế kỷ II đến thế kỷ I TCN, tấm bình phong gấp từ thời kỳ Edo có nội dung mô tả khung cảnh của thành phố Kyodo.
Ngoài ra, bảo tàng này cũng chịu trách nhiệm bảo quản Mikazuki Munechika – một trong những thanh kiếm vĩ đại nhất trong lịch sử Nhật Bản.
Cơ sở này dự kiến phải bỏ ra tới
3,4 triệu USD
để chi trả tiền điện trong năm tài khóa 2023, cao gấp 2 lần con số
1,5 triệu USD
được bảo tàng dành ra để chi trả cho nhu cầu khí đốt và điện.
Đối với một bảo tàng nhận được khoản trợ cấp
15 triệu USD
hàng năm từ chính phủ Nhật Bản, ông Fujiwara cho biết cơ sở này không thể huy động thêm
1,9 triệu USD
để trả tiền điện.
Người đứng đầu Bảo tàng Quốc gia tại thủ đô Tokyo cho biết ông đã yêu cầu Cơ quan Văn hóa Nhật Bản trợ giúp về mặt tài chính nhưng không được chấp thuận.
|
Not only does it impact local households
Japan
, the energy crisis also puts great pressure on the preservation of the country's artistic and cultural treasures.
The National Museum in Tokyo was established in 1872. Photo:
AP
.
According to
Bloomberg
, the National Museum in Tokyo is one of the oldest and largest facilities in Japan specializing in storing and preserving ancient samurai swords, works of art and documents.
In the magazine
Bungei Shunju
, Mr. Makoto Fujiwara, director of the museum, predicted that electricity bills at this facility will double this year.
Electricity bills are an important part of the preservation process of about 120,000 artifacts, originating from
Japan
and many other regions of Asia, are being stored at this museum.
“Cultural artifacts need to be preserved in an environment with appropriate temperature and humidity to ensure they are always in good condition,” Mr. Fujiwara wrote in the article. According to him, the museum had to cut costs on purchasing and repairing cultural works to maintain operations this year.
The National Museum in Tokyo is the latest victim of energy shortages, causing natural gas and coal prices to skyrocket in 2022. The high cost of these types of energy has pushed up electricity prices in Japan. Strong increase.
The Tokyo Metropolitan National Museum is responsible for preserving 89 artifacts classified by the Japanese government as "National Treasures". These artifacts include an ancient ceremonial belt dating from the 2nd to 1st century BC, and a folding screen from the Edo period depicting a scene of Kyodo city.
In addition, this museum is also responsible for preserving Mikazuki Munechika - one of the greatest swords in Japanese history.
This facility is expected to cost up to
3.4 million USD
to pay electricity bills in fiscal 2023, twice the number
1.5 million USD
set aside by the museum to pay for gas and electricity needs.
For a museum to receive a grant
15 million USD
every year from the Japanese government, Mr. Fujiwara said this facility cannot mobilize more
1.9 million USD
to pay for electricity.
The head of the National Museum in Tokyo said he asked the Japan Cultural Agency for financial help but was not approved.
|
Khắc khổ, cần lao và tranh đấu là ba đặc tính của đời sống Hồ Chí Minh, đó cũng là ba đặc tính của đời sống dân tộc trải qua lịch sử.
Hồ Chí Minh
thu góp tất cả tinh hoa của đất nước và của nhân loại dẫn dắt dân tộc ta chiến đấu. 75 năm về trước, năm 1948, trong khói lửa kháng chiến, Phạm Văn Đồng đã viết về Người: “Khắc khổ, cần lao và tranh đấu là ba đặc tính của đời sống Hồ Chí Minh”, thật sâu sắc và tinh tế, thật thấu hiểu Người và thật thấu cảm về Người.
Là hiện thân và là biểu tượng của dân tộc, Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần dân tộc trong chỉnh thể tư tưởng – đạo đức – phong cách của mình, thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành động, sự nhất quán triệt để về mục đích, quan điểm lập trường, tính kiên định về nguyên tắc với sự uyển chuyển, linh hoạt về phương pháp.
Sáng tạo về phương pháp là một đặc điểm nổi bật trong hành trình tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Người suốt 60 năm tranh đấu, từ tìm đường cứu nước, cứu dân đến tổ chức và lãnh đạo toàn dân Giải phóng dân tộc, giành Độc lập và Phát triển dân tộc tới Chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng Tự do và Hạnh phúc. Phương pháp Hồ Chí Minh, từ phương pháp cách mạng, phương pháp lãnh đạo, quản lý đến phương pháp ứng xử với con người, với tổ chức, với công việc… là phương pháp khoa học ở tầm tư tưởng, là phương pháp thực hành trong lối sống, nếp sống với những chuẩn mực đạo đức đồng thời tạo nên phong cách mang dấu ấn đặc sắc riêng có của Hồ Chí Minh – con người Việt Nam đẹp nhất, cũng là người chiến sĩ quốc tế chân chính, gắn liền dân tộc với quốc tế, với thời đại và thế giới nhân loại.
Tinh thần dân tộc là hồn cốt văn hóa của dân tộc mà Hồ Chí Minh, hơn ai hết là người thấm nhuần sâu sắc nhất, lại bền bỉ thực hành sáng tạo nhất và nhờ đó, Văn hóa dân tộc Việt Nam được thăng hoa bởi Văn hóa Hồ Chí Minh. Sức mạnh Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại đã rèn luyện nên cốt cách, bản lĩnh sức mạnh Hồ Chí Minh. Người đã làm nên những chuyển tiếp lịch sử – đưa Việt Nam, Tổ quốc và dân tộc yêu quý của Người đến với thế giới và làm cho thế giới đến với Việt Nam, hiểu Việt Nam, hết lòng ủng hộ giúp đỡ Việt Nam thực hiện sứ mệnh tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân tàn bạo. Thế giới tôn vinh Người – Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất – một trong những Danh nhân có tầm ảnh hưởng lớn lao nhất trong thế giới nhân loại là vì vậy.
Nghiên cứu tiểu sử
Hồ Chí Minh
ta thấy nhiều cung bậc khác nhau, đầy ắp các sự kiện, xuyên qua những hoàn cảnh, cả những nghịch cảnh éo le, trải qua những tình huống, những thử thách hiểm nghèo nhưng trước sau vẫn chỉ là một con người Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, “một người toàn vẹn chỉ Việt Nam”. Con người ấy chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước nhà được độc lập, Tổ quốc thống nhất, dân tộc được tự do và đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Bởi mục đích, động cơ cao thượng ấy dẫn dắt và thúc đẩy mà ở Người, trước sau là một ý chí, một niềm tin, một khát vọng mãnh liệt không bao giờ thay đổi. Ở Người, ý chí và niềm tin mãnh liệt thể hiện ở nghị lực phi thường, ở tình thương yêu nhân dân vô hạn, ở đức hy sinh quên mình “vô ngã vị tha”, một lòng một dạ “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, tự mình thực hành và nêu gương thực hành cho tất cả mọi người, nhất là với cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, “tuyệt đối không màng danh lợi”, “suốt đời ở ngoài vòng danh lợi”. Người tự dặn mình và căn dặn các đồng chí mình phải theo phương châm “Dĩ công vi thượng”, “Tinh thần đoàn kết”, cũng có nghĩa là “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, “làm điều lợi cho dân, khó mấy cũng phải làm bằng được”, “hết sức tránh điều hại tới dân, dù chỉ một cái hại nhỏ”. Đủ hiểu vì sao Người nêu cao Quyết tâm, chú trọng Tín tâm, nỗ lực phát huy Đồng tâm. Đó là điểm đồng quy, là nơi phát sáng sức mạnh toàn dân tộc để kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành.
Vì nồng nàn yêu nước thương dân, vì trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân dân, với lý tưởng cao cả của Đảng: độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội mà Người suốt đời “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nỗ lực xây dựng Đảng thật trong sạch để thật vững mạnh, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đó là nơi kết tinh không chỉ tình cảm sâu sắc mà còn là trách nhiệm lớn lao của Người, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nền độc lập, thống nhất, hòa bình của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của toàn dân tộc và nhân dân. Từ đây, tinh thần dân tộc của Bác Hồ cũng ngày càng tỏ rõ, đó là sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, trở thành một trong những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là hệ giá trị quốc gia của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực xây dựng và thực hiện dưới ánh sáng tư tưởng của Người.
Trên phương diện khoa học và văn hóa, nói tới Hồ Chí Minh là nói tới nhà tư tưởng Mác xít sáng tạo, đầy bản lĩnh, có cốt cách triết gia, lại lấp lánh ánh sáng minh triết, mẫn tiệp, thông tuệ, “tư tưởng ở giữa hai dòng chữ” vừa uyên bác vừa uyên thâm làm ngạc nhiên không ít người, ngay cả những người trong giới nghiên cứu chuyên nghiệp. Là nhà tư tưởng và nhà văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh có cách biểu đạt của “Triết học vô ngôn”. Là lãnh tụ, chính khách, con người hành động, có tầm mắt đại dương, Hồ Chí Minh không ít lần đưa ra “những thông điệp không lời” trên cương vị nguyên thủ quốc gia. Nói tới Hồ Chí Minh, những người bạn quốc tế yêu mến Việt Nam đã nhắc đến “huyền thoại Hồ Chí Minh” ngay từ khi Người còn sống. Huyền thoại ấy của Người, về Người cũng lại là huyền thoại Việt Nam, huyền thoại mẹ Việt Nam, từ mẹ Hoàng Thị Loan đã sinh ra Người đến các mẹ Việt Nam anh hùng trong lịch sử dựng nước, giữ nước, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ. Từ các sự kiện lịch sử và từ những luận điểm tư tưởng của Người, có thể nhận xét rằng:
Trong các văn phẩm lý luận của Hồ Chí Minh chữ “DÂN”, chữ “NƯỚC” gắn bó máu thịt với Tổ quốc – Dân tộc – Nhân dân là những chữ có tần số lớn nhất trong bảng từ vựng Hồ Chí Minh.
Trong hoạt động thực tiễn, phần quan trọng, đặc sắc của Di sản Hồ Chí Minh, Người là lãnh tụ suốt đời gần dân, sống với dân và vì dân. Trong trái tim mênh mông của Người có tất cả mọi người, mọi cuộc đời, mọi số phận. Và trong trái tim của mỗi người chúng ta đều có hình ảnh của Người. Mỗi chặng đường lịch sử, mỗi bước ngoặt thử thách của dân tộc ta đều gắn với những thông điệp của Người. Hãy cùng nhau suy ngẫm trên một vài sự kiện và luận điểm sau đây:
Trong lán Nà Lưa, Sơn Dương, Tân Trào,
Tuyên Quang
, bên thềm Cách mạng Tháng Tám, Người chẳng may ốm nặng. Khi tỉnh dậy Người nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập”.
Trong Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giữa núi rừng Việt Bắc, căn cứ địa cách mạng vào thời điểm hệ trọng phải đón kịp lấy thời cơ, Người nhấn mạnh “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ ngày 2-9-1945, Người khẳng định “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Những sự kiện và tư tưởng đó, qua một vài ví dụ đủ cho thấy tầm vóc và ảnh hưởng của Hồ Chí Minh, cũng là hình ảnh, tinh hoa, khí phách dân tộc Việt Nam. Phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, tinh thần dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đang ra sức đổi mới sáng tạo, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn. Khát vọng ấy như ngọn lửa thiêng mà Bác Hồ đã thắp sáng trong buổi đầu xây dựng chính thể Cộng hòa Dân chủ.
Phải trở thành dân tộc thông thái
Khát vọng phát triển của Hồ Chí Minh ngày nay đang được thực hiện và nhất định sẽ làm nên kỳ tích vào giữa thế kỷ này, đúng như tâm nguyện của Người: “Dân tộc Việt Nam phải trở thành một dân tộc thông thái”, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng một xã hội văn hóa cao”.
Nỗ lực biến khát vọng thành hiện thực, đó là thể hiện trách nhiệm cao nhất với dân tộc của mỗi chúng ta. Đó cũng là thể hiện tình cảm sâu nặng của chúng ta đối với Người.
|
Khắc khổ, cần lao và tranh đấu là ba đặc tính của đời sống Hồ Chí Minh, đó cũng là ba đặc tính của đời sống dân tộc trải qua lịch sử.
Hồ Chí Minh
thu góp tất cả tinh hoa của đất nước và của nhân loại dẫn dắt dân tộc ta chiến đấu. 75 năm về trước, năm 1948, trong khói lửa kháng chiến, Phạm Văn Đồng đã viết về Người: “Khắc khổ, cần lao và tranh đấu là ba đặc tính của đời sống Hồ Chí Minh”, thật sâu sắc và tinh tế, thật thấu hiểu Người và thật thấu cảm về Người.
Là hiện thân và là biểu tượng của dân tộc, Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần dân tộc trong chỉnh thể tư tưởng – đạo đức – phong cách của mình, thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức và hành động, sự nhất quán triệt để về mục đích, quan điểm lập trường, tính kiên định về nguyên tắc với sự uyển chuyển, linh hoạt về phương pháp.
Sáng tạo về phương pháp là một đặc điểm nổi bật trong hành trình tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Người suốt 60 năm tranh đấu, từ tìm đường cứu nước, cứu dân đến tổ chức và lãnh đạo toàn dân Giải phóng dân tộc, giành Độc lập và Phát triển dân tộc tới Chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng Tự do và Hạnh phúc. Phương pháp Hồ Chí Minh, từ phương pháp cách mạng, phương pháp lãnh đạo, quản lý đến phương pháp ứng xử với con người, với tổ chức, với công việc… là phương pháp khoa học ở tầm tư tưởng, là phương pháp thực hành trong lối sống, nếp sống với những chuẩn mực đạo đức đồng thời tạo nên phong cách mang dấu ấn đặc sắc riêng có của Hồ Chí Minh – con người Việt Nam đẹp nhất, cũng là người chiến sĩ quốc tế chân chính, gắn liền dân tộc với quốc tế, với thời đại và thế giới nhân loại.
Tinh thần dân tộc là hồn cốt văn hóa của dân tộc mà Hồ Chí Minh, hơn ai hết là người thấm nhuần sâu sắc nhất, lại bền bỉ thực hành sáng tạo nhất và nhờ đó, Văn hóa dân tộc Việt Nam được thăng hoa bởi Văn hóa Hồ Chí Minh. Sức mạnh Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại đã rèn luyện nên cốt cách, bản lĩnh sức mạnh Hồ Chí Minh. Người đã làm nên những chuyển tiếp lịch sử – đưa Việt Nam, Tổ quốc và dân tộc yêu quý của Người đến với thế giới và làm cho thế giới đến với Việt Nam, hiểu Việt Nam, hết lòng ủng hộ giúp đỡ Việt Nam thực hiện sứ mệnh tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân tàn bạo. Thế giới tôn vinh Người – Anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất – một trong những Danh nhân có tầm ảnh hưởng lớn lao nhất trong thế giới nhân loại là vì vậy.
Nghiên cứu tiểu sử
Hồ Chí Minh
ta thấy nhiều cung bậc khác nhau, đầy ắp các sự kiện, xuyên qua những hoàn cảnh, cả những nghịch cảnh éo le, trải qua những tình huống, những thử thách hiểm nghèo nhưng trước sau vẫn chỉ là một con người Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, “một người toàn vẹn chỉ Việt Nam”. Con người ấy chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho nước nhà được độc lập, Tổ quốc thống nhất, dân tộc được tự do và đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Bởi mục đích, động cơ cao thượng ấy dẫn dắt và thúc đẩy mà ở Người, trước sau là một ý chí, một niềm tin, một khát vọng mãnh liệt không bao giờ thay đổi. Ở Người, ý chí và niềm tin mãnh liệt thể hiện ở nghị lực phi thường, ở tình thương yêu nhân dân vô hạn, ở đức hy sinh quên mình “vô ngã vị tha”, một lòng một dạ “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, tự mình thực hành và nêu gương thực hành cho tất cả mọi người, nhất là với cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, “tuyệt đối không màng danh lợi”, “suốt đời ở ngoài vòng danh lợi”. Người tự dặn mình và căn dặn các đồng chí mình phải theo phương châm “Dĩ công vi thượng”, “Tinh thần đoàn kết”, cũng có nghĩa là “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”, “làm điều lợi cho dân, khó mấy cũng phải làm bằng được”, “hết sức tránh điều hại tới dân, dù chỉ một cái hại nhỏ”. Đủ hiểu vì sao Người nêu cao Quyết tâm, chú trọng Tín tâm, nỗ lực phát huy Đồng tâm. Đó là điểm đồng quy, là nơi phát sáng sức mạnh toàn dân tộc để kháng chiến tất thắng, kiến quốc tất thành.
Vì nồng nàn yêu nước thương dân, vì trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân dân, với lý tưởng cao cả của Đảng: độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội mà Người suốt đời “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nỗ lực xây dựng Đảng thật trong sạch để thật vững mạnh, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đó là nơi kết tinh không chỉ tình cảm sâu sắc mà còn là trách nhiệm lớn lao của Người, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với nền độc lập, thống nhất, hòa bình của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của toàn dân tộc và nhân dân. Từ đây, tinh thần dân tộc của Bác Hồ cũng ngày càng tỏ rõ, đó là sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, trở thành một trong những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là hệ giá trị quốc gia của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực xây dựng và thực hiện dưới ánh sáng tư tưởng của Người.
Trên phương diện khoa học và văn hóa, nói tới Hồ Chí Minh là nói tới nhà tư tưởng Mác xít sáng tạo, đầy bản lĩnh, có cốt cách triết gia, lại lấp lánh ánh sáng minh triết, mẫn tiệp, thông tuệ, “tư tưởng ở giữa hai dòng chữ” vừa uyên bác vừa uyên thâm làm ngạc nhiên không ít người, ngay cả những người trong giới nghiên cứu chuyên nghiệp. Là nhà tư tưởng và nhà văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh có cách biểu đạt của “Triết học vô ngôn”. Là lãnh tụ, chính khách, con người hành động, có tầm mắt đại dương, Hồ Chí Minh không ít lần đưa ra “những thông điệp không lời” trên cương vị nguyên thủ quốc gia. Nói tới Hồ Chí Minh, những người bạn quốc tế yêu mến Việt Nam đã nhắc đến “huyền thoại Hồ Chí Minh” ngay từ khi Người còn sống. Huyền thoại ấy của Người, về Người cũng lại là huyền thoại Việt Nam, huyền thoại mẹ Việt Nam, từ mẹ Hoàng Thị Loan đã sinh ra Người đến các mẹ Việt Nam anh hùng trong lịch sử dựng nước, giữ nước, trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ. Từ các sự kiện lịch sử và từ những luận điểm tư tưởng của Người, có thể nhận xét rằng:
Trong các văn phẩm lý luận của Hồ Chí Minh chữ “DÂN”, chữ “NƯỚC” gắn bó máu thịt với Tổ quốc – Dân tộc – Nhân dân là những chữ có tần số lớn nhất trong bảng từ vựng Hồ Chí Minh.
Trong hoạt động thực tiễn, phần quan trọng, đặc sắc của Di sản Hồ Chí Minh, Người là lãnh tụ suốt đời gần dân, sống với dân và vì dân. Trong trái tim mênh mông của Người có tất cả mọi người, mọi cuộc đời, mọi số phận. Và trong trái tim của mỗi người chúng ta đều có hình ảnh của Người. Mỗi chặng đường lịch sử, mỗi bước ngoặt thử thách của dân tộc ta đều gắn với những thông điệp của Người. Hãy cùng nhau suy ngẫm trên một vài sự kiện và luận điểm sau đây:
Trong lán Nà Lưa, Sơn Dương, Tân Trào,
Tuyên Quang
, bên thềm Cách mạng Tháng Tám, Người chẳng may ốm nặng. Khi tỉnh dậy Người nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Dù có phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập”.
Trong Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, giữa núi rừng Việt Bắc, căn cứ địa cách mạng vào thời điểm hệ trọng phải đón kịp lấy thời cơ, Người nhấn mạnh “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ ngày 2-9-1945, Người khẳng định “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Những sự kiện và tư tưởng đó, qua một vài ví dụ đủ cho thấy tầm vóc và ảnh hưởng của Hồ Chí Minh, cũng là hình ảnh, tinh hoa, khí phách dân tộc Việt Nam. Phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, tinh thần dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đang ra sức đổi mới sáng tạo, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn. Khát vọng ấy như ngọn lửa thiêng mà Bác Hồ đã thắp sáng trong buổi đầu xây dựng chính thể Cộng hòa Dân chủ.
Phải trở thành dân tộc thông thái
Khát vọng phát triển của Hồ Chí Minh ngày nay đang được thực hiện và nhất định sẽ làm nên kỳ tích vào giữa thế kỷ này, đúng như tâm nguyện của Người: “Dân tộc Việt Nam phải trở thành một dân tộc thông thái”, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng một xã hội văn hóa cao”.
Nỗ lực biến khát vọng thành hiện thực, đó là thể hiện trách nhiệm cao nhất với dân tộc của mỗi chúng ta. Đó cũng là thể hiện tình cảm sâu nặng của chúng ta đối với Người.
|
Các lễ hội Tết diễn ra tại khắp ba miền Việt Nam là những nét đẹp có giá trị tinh thần, tâm linh mang đến niềm mong ước cho một năm mới trọn vẹn.
Tỉnh miền núi phía Bắc,
Lai Châu
, là nơi sinh sống của 20 dân tộc anh em với người Lự sinh sống chủ yếu ở các huyện
Sìn Hồ
và
Tam Đường
. Văn hóa tâm linh của người Lự đa dạng với nhiều phong tục đặc sắc. Tiêu biểu nhất là lễ hội cúng bản Căm Mương được tổ chức hàng năm từ đầu tháng giêng đến đầu tháng ba âm lịch.
Trong lễ hội Căm Mường, dân làng Lự cúng tế các con vật cho thần sông núi để cầu sức khỏe, xua đuổi vận đen. “Vào ngày lễ chính thức, mỗi người dân trong làng sẽ đóng góp một con gà và họ sẽ chung tiền mua rượu, lợn để chuẩn bị cúng. Qua nghi lễ, hy vọng sẽ có được một vụ mùa bội thu, đủ lương thực hàng ngày và một số dư để tích trữ, cầu chúc sức khỏe và thịnh vượng cho mọi người trong xã”.
Lễ hội Căm Mường của người Lự huyện Sìn Hồ làm nổi bật vai trò sinh hoạt văn hóa dân gian cộng đồng. Họ tin rằng sau khi tổ chức lễ, dân làng đoàn kết hơn, yêu thương nhau hơn. Bản sắc văn hóa đẹp của dân tộc Lự cần được bảo tồn và phát triển.
Đối với các tỉnh miền Bắc lễ hội chùa Hương là lễ hội được mong chờ nhất năm, kéo dài từ mùng 6 Tết đến hết tháng 3 âm lịch. Lễ hội là một lễ kỷ niệm truyền thống của Phật giáo Việt Nam, được tổ chức đồng thời tại ba địa điểm: Hương Tích, Tuyết Sơn và Long Vân. Lễ hội đông đúc nhất từ ngày 15 – 20 tháng 2 âm lịch vì thời kỳ này là ngày hội chính.
Lễ hội chùa Hương.
Không giống như nhiều lễ hội khác ở Việt Nam, lễ hội chùa Hương ở
Hà Nội
không xoay quanh những trò chơi truyền thống mà là những chuyến đi lãng mạn đến các hang động, chùa chiền và tham gia các nghi lễ cầu xin sự phù hộ của Đức Phật.
Du khách tham dự lễ hội chùa Hương thường thực hiện một số điều ước và khi lễ Phật trong chùa, họ cầu mong điều ước của mình thành hiện thực. Khách đến nhà mang theo lễ vật gồm gà luộc, đầu lợn luộc và xôi. Sau khi cầu nguyện, mỗi người sẽ lấy một phần nhỏ của lễ vật (gọi là lộc), sau đó mang về nhà cho gia đình.
Lễ hội Lim khai mạc hàng năm vào khoảng ngày 12 – 13 tháng Giêng âm lịch trong năm. Lễ hội diễn ra trên địa bàn rộng rãi của xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim, ba xã thuộc địa phận
huyện Tiên Du
,
tỉnh Bắc Ninh
,
Việt Nam
. Đó là lễ hội hát Quan họ, đã trở thành một trong những Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO từ năm 2009.
Ngày chính của lễ hội là ngày 13 Tết Nguyên đán. Lễ hội thể hiện lòng biết ơn, sự kính trọng của người dân địa phương đối với ông Nguyễn Đình Điền, người đã lập nhiều công lớn cho quê hương, đồng thời cũng là dịp để tưởng nhớ về cội nguồn của Lễ hội Lim.
Bên cạnh đó, Lễ hội Lim còn là không gian diễn ra các trò chơi dân gian như đánh đu tre, đấu vật, chọi gà, kéo co, bịt mắt đập niêu, cờ người, đập niêu… Đặc biệt du khách có thể hiểu thêm về văn hóa của người Việt vùng đồng bằng sông Hồng với hội thi dệt vải.
Hơn 300 năm tồn tại, Lễ hội Lim đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam và là niềm tự hào của người Việt.
Lễ hội mùa xuân núi Bà Đen là sự kiện thường niên được tổ chức vào tháng Giêng âm lịch hàng năm. Mặc dù vậy, các nghi lễ chính được tiến hành vào đêm 18 và ngày 19 của tháng đó. Đây là lễ hội truyền thống của các cộng đồng cư dân trong và gần quần thể Núi Bà.
Lễ hội chùa Bà.
Vào dịp đầu xuân, quần thể danh thắng núi Bà Đen thu hút hàng triệu lượt khách đến hành hương, tham quan. Họ cùng tham gia lễ hội mùa xuân núi Bà. Lễ hội kéo dài cả tháng nhưng chính xác là đêm 18 rạng sáng 19 tháng Giêng âm lịch. Ngoài ra còn có lễ hội Vía vào tháng 6 âm lịch. Trước ngày chính, người đứng đầu Điện Bà tiến hành lễ Mộc dục (tắm tượng thần) vào nửa đêm. Các thiếu nữ xinh đẹp trong bộ trang phục lấp lánh trong giai điệu của âm nhạc rửa các bức tượng. Đây không chỉ là hoạt động văn hóa mà còn là nơi để các bạn trẻ cùng nhau giao lưu, làm việc.
Hội xuân núi Bà Đen (
Tây Ninh
) được coi là một trong những nét tiêu biểu của văn hóa văn hóa dân gian Nam Bộ và đó là nơi để trở về cội nguồn. Đây cũng là một loại hình du lịch sinh thái, du lịch truyền thống cho không chỉ Tây Ninh mà cả nước.
|
Tet festivals taking place in all three regions of Vietnam are beauties with spiritual and spiritual values that bring wishes for a perfect new year.
Northern mountainous province,
Lai Chau
, is home to 20 ethnic groups with the Lu people living mainly in the districts
Sin Ho
and
Tam Duong
. The spiritual culture of the Lu people is diverse with many unique customs. The most typical is the Cam Muong village worship festival held every year from the beginning of January to the beginning of the third lunar month.
During the Cam Muong festival, Lu villagers sacrifice animals to the river and mountain gods to pray for health and ward off bad luck. “On the official holiday, each villager will contribute a chicken and they will pool their money to buy wine and pigs to prepare for offerings. Through the ritual, we hope to have a good harvest, enough food every day and a surplus to store, and wish health and prosperity for everyone in the commune."
The Cam Muong Festival of the Lu people in Sin Ho district highlights the role of community folk cultural activities. They believe that after celebrating the ceremony, the villagers are more united and love each other more. The beautiful cultural identity of the Lu ethnic group needs to be preserved and developed.
For the Northern provinces, the Perfume Pagoda Festival is the most anticipated festival of the year, lasting from the 6th day of the Lunar New Year to the end of the third lunar month. The festival is a traditional celebration of Vietnamese Buddhism, held simultaneously at three locations: Huong Tich, Tuyet Son and Long Van. The festival is most crowded from the 15th to 20th of the second lunar month because this period is the main festival day.
Perfume Pagoda Festival.
Unlike many other festivals in Vietnam, the Perfume Pagoda Festival in
Hanoi
does not revolve around traditional games but rather romantic trips to caves, temples and participating in rituals to ask for Buddha's blessing.
Visitors attending the Perfume Pagoda festival often make some wishes and when worshiping Buddha in the pagoda, they pray for their wishes to come true. Guests come to the house bringing offerings including boiled chicken, boiled pig head and sticky rice. After praying, each person will take a small part of the offering (called fortune), then bring it home to the family.
Lim Festival opens every year around the 12th - 13th day of the first lunar month of the year. The festival takes place in a large area of Noi Due commune, Lien Bao commune and Lim town, three communes in the area.
Tien Du district
,
Bac Ninh province
,
Vietnam
. It is the Quan Ho singing festival, which has become one of UNESCO's Intangible Cultural Heritages since 2009.
The main day of the festival is the 13th day of the Lunar New Year. The festival shows the gratitude and respect of local people to Mr. Nguyen Dinh Dien, who has made many great contributions to his homeland, and is also an opportunity to remember the roots of Lim Festival.
Besides, Lim Festival is also a space where folk games take place such as bamboo swinging, wrestling, cockfighting, tug of war, blindfolded pot smashing, human chess, pot smashing... Especially, visitors can understand Learn more about Vietnamese culture in the Red River Delta with a weaving contest.
For more than 300 years of existence, Lim Festival has become an indispensable part of Vietnamese culture and the pride of Vietnamese people.
Ba Den Mountain Spring Festival is an annual event held in the first lunar month of every year. Even so, the main ceremonies are conducted on the nights of the 18th and 19th of that month. This is a traditional festival of communities in and near Nui Ba complex.
Ba Pagoda Festival.
In early spring, the Ba Den mountain scenic complex attracts millions of visitors to pilgrimage and visit. They participated in the Ba Mountain Spring Festival together. The festival lasts a whole month but is exactly the night of the 18th and 19th of the first lunar month. There is also the Via festival in the 6th lunar month. Before the main day, the head of Dien Ba conducts the Moc Duc ceremony (bathing the idol) at midnight. Beautiful young women in sparkling outfits to the tune of music wash the statues. This is not only a cultural activity but also a place for young people to interact and work together.
Ba Den Mountain Spring Festival (
Tay Ninh
) is considered one of the typical features of Southern folk culture and it is a place to return to the roots. This is also a type of eco-tourism and traditional tourism for not only Tay Ninh but the whole country.
|
Ngọn đồi Fourvìere nằm bên cạnh con sông Saône chảy dọc qua thành phố Lyon phía đông nam
nước Pháp
, mang theo biết bao sự trù phú và ẩn chứa cả một nền văn minh huy hoàng thời cổ đại. Nơi đây nổi tiếng với rất nhiều địa danh có giá trị lịch sử và nghệ thuật lâu đời. Trong đó, nhà hát cổ La Mã tựa lưng vào sườn đồi Fourvìere được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Phía bên trong nhà hát cổ từng là nơi trình diễn thơ ca, những hoạt cảnh chiến đấu anh dũng trong các sử thi dưới thời đại thống trị của Đế chế La Mã.
Vị vua đầu tiên của Đế chế La Mã cổ đại Augustus đã cho xây dựng nhà hát dọc theo sườn đồi Fourvìere, ngay trung tâm của vùng thuộc địa dưới triều đại La Mã. Nhà hát được xây dựng vào năm 15 trước Công nguyên, sau đó đã được mở rộng thêm quy mô vào cuối thế kỷ 1 hoặc đầu thế kỷ 2, với sức chứa lên tới hơn 10.000 người.
Nhưng trong quá trình lịch sử, nhà hát cổ đã có lúc bị rơi vào lãng quên từ sau giai đoạn cuối của
Đế chế La Mã
. Thay vì phục vụ các buổi biểu diễn sử thi, công trình này đã biến thành một mỏ khai thác đá và bị hư hại nặng nề, thậm chí còn bị chôn vùi hoàn toàn vào thời kỳ Trung Cổ. Mãi đến cuối thế kỷ 19, nhà hát được tình cờ phát hiện trở lại. Sau đó, công cuộc khai quật, khôi phục và trùng tu được bắt đầu từ năm 1933, đưa nhà hát cổ này trở lại với vị trí biểu tượng của thành phố Lyon cổ đại.
Nhà hát có thiết kế hình bán nguyệt với đường kính 108,5m.
Nhà hát mang lối kiến trúc cổ điển, với khán đài là các bậc thang hình bán nguyệt tỏa dần đều lấy sân khấu làm trung tâm. Kích thước ban đầu của nó rất khiêm tốn với đường kính chỉ 89m, bao gồm hai dãy khán đài với 25 bậc tương đương 5.000 chỗ ngồi được bao quanh bởi một lối đi.
Vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, cùng với việc xây dựng thêm nhà hát nhỏ hơn ngay bên cạnh, mang tên Odéon, nhà hát cổ được quy hoạch mở rộng thêm đạt đến đường kính 108,5m. Lối đi bộ được thay thế bằng dãy khán đài thứ ba, nâng sức chứa của nó lên 10.000 chỗ ngồi.
Khán đài được xây dựng theo lối bậc thang từ các loại đá nguyên khối.
Các nhà khảo cổ học đã nghiên cứu vật liệu xây dựng của nhà hát bằng các phân tích hóa học và tinh thể học để tìm kiếm nguồn gốc của chúng. Vật liệu có sẵn tại địa phương dường như không phù hợp cho việc xây dựng một công trình hoành tráng đến vậy. Ngọn đồi Fourvìere thực chất là một băng tích, với nhiều đất bùn, sỏi và đá cuội. Các công trình kết cấu, móng, mái vòm, khán đài, chân tường sân khấu, được xây bằng từ các loại vật liệu khác nhau như đá granit, đá phiến và đá vôi. Trong khi đó, các điểm nhấn trang trí lại sử dụng đá cẩm thạch và đá xốp được khai thác từ Ý, Hy Lạp và Ai Cập. Sự cầu kỳ và tinh xảo của công trình hoành tráng này đã cho chúng ta thấy được sự phát triển rực rỡ của một nền văn minh huy hoàng thời bấy giờ.
Ở phía dưới chân khán đài, ngay đối diện với sân khấu, khoảng không gian hình bán nguyệt có đường kính 25,5m gồm 4 bậc ghế bằng đá cẩm thạch Carrara trắng làm chỗ ngồi dành riêng cho tầng lớp quý tộc và dàn nhạc.
Trụ đá còn sót lại theo năm tháng là tàn tích của bức tường phía sau sân khấu.
Khác với kiến trúc của những nhà hát
Hy Lạp cổ đại
với tầm nhìn mở của khán đài hướng về không gian xung quanh, thì nhà hát mang phong cách La Mã lại sử dụng những bức tường lớn phía sau sân khấu, với tác dụng tối ưu hóa các hiệu ứng âm thanh.
Mô phỏng nhà hát cổ La Mã trên đồi Fourvìere.
Tất cả những gì còn lại của bức tường ở phía sau sân khấu ngày nay chỉ còn là đế của các cột trụ. Bức tường bao gồm 3 cửa, trong đó một cửa chính giữa dành cho nhân vật chính và hai cửa bên là lối ra vào của các nhân vật phụ. Cửa trung tâm rộng 3,2m, trong khi các cửa bên rộng 2,75m.
Nhà hát cổ La Mã trên đồi Fourvìere trở thành biểu tượng của thành phố Lyon cổ đại.
Ngày nay, nhà hát cổ La Mã vẫn tiếp tục phục vụ đời sống tinh thần, văn hóa và nghệ thuật cho người dân mỗi dịp “Lễ hội Đêm dài trên đồi Fourvìere” được tổ chức hằng năm. Cùng với nhà hát cổ và Vương cung thánh đường Notre-Dame cách đó chưa tới trăm mét, đồi Fourvìere của thành phố Lyon tạo nên một khu quần thể di tích lịch sử độc đáo được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới, tiếp đón hàng triệu khách du lịch mỗi năm.
Phóng viên Báo Nhân Dân thường trú tại Pháp
|
Fourviere hill is located next to the Saône river flowing through the southeastern city of Lyon
France
, carrying so much richness and containing a glorious civilization of ancient times. This place is famous for many places with long-standing historical and artistic value. Among them, the ancient Roman theater leaning against the slopes of Fourviere hill is recognized by UNESCO as a world cultural heritage.
Inside the ancient theater was once a place for performing poetry and heroic battle scenes in epics during the era of Roman Empire domination.
The first king of the ancient Roman Empire Augustus built the theater along the slopes of Fourviere hill, right in the heart of the Roman colony. The theater was built in 15 BC, then expanded in the late 1st or early 2nd century, with a capacity of more than 10,000 people.
But in the course of history, the ancient theater at times fell into oblivion after the final stages of construction
Roman Empire
. Instead of serving epic performances, this structure was turned into a quarry and was heavily damaged, even completely buried in the Middle Ages. It was not until the end of the 19th century that the theater was accidentally discovered again. After that, the excavation, restoration and restoration work began in 1933, bringing this ancient theater back to its symbolic position in the ancient city of Lyon.
The theater has a semicircular design with a diameter of 108.5m.
The theater has classical architecture, with an auditorium consisting of semicircular steps radiating gradually, taking the stage as the center. Its original size was very modest with a diameter of only 89m, including two rows of stands with 25 steps equivalent to 5,000 seats surrounded by a walkway.
In the 2nd century AD, along with the construction of a smaller theater right next to it, named Odéon, the ancient theater was planned to be expanded to a diameter of 108.5m. The walkway was replaced by a third row of stands, increasing its capacity to 10,000 seats.
The grandstand is built in a terraced manner from monolithic stones.
Archaeologists have studied the theater's construction materials using chemical and crystallographic analyzes to search for their origins. Locally available materials do not seem to be suitable for the construction of such a monumental structure. Fourviere Hill is essentially a moraine, with lots of mud, gravel and boulders. Structural works, foundations, domes, stands, stage walls, are built from different materials such as granite, slate and limestone. Meanwhile, decorative accents use marble and porous stone quarried from Italy, Greece and Egypt. The sophistication and sophistication of this monumental work has shown us the brilliant development of a glorious civilization at that time.
At the foot of the stands, right opposite the stage, a semicircular space with a diameter of 25.5 meters includes 4 steps of white Carrara marble seats reserved for the aristocracy and the orchestra.
The stone pillar left over over the years is the remnant of the wall behind the stage.
Different from the architecture of theaters
Ancient Greek
With the grandstand's open view towards the surrounding space, the Roman-style theater uses large walls behind the stage, with the effect of optimizing sound effects.
Simulation of the ancient Roman theater on Fourviere hill.
All that remains of the wall at the back of the stage today are the bases of the pillars. The wall consists of 3 doors, of which the middle door is for the main character and the two side doors are the entrances for the supporting characters. The central door is 3.2m wide, while the side doors are 2.75m wide.
The ancient Roman theater on Fourviere hill became a symbol of the ancient city of Lyon.
Today, the ancient Roman theater continues to serve the spiritual, cultural and artistic life of the people every year when the "Long Night Festival on Fourviere Hill" is held. Along with the ancient theater and the Notre-Dame Basilica less than a hundred meters away, Lyon's Fourviere Hill creates a unique historical relic complex recognized by UNESCO as a world cultural heritage. welcomes millions of tourists every year.
Nhan Dan Newspaper reporter residing in France
|
Nhiệt độ ở thành phố cực bắc Mohe của
Trung Quốc
giảm xuống âm 53°C. Theo các nhà khí tượng học, đây là mức lạnh nhất từng được ghi nhận.
Nằm ở phía đông bắc tỉnh Hắc Long Giang và nép mình gần vùng Siberia của Nga, Mohe được mọi người biết đến là “Bắc Cực của Trung Quốc” và cũng là một trong số ít nơi ở nước này có khí hậu cận Bắc Cực.
Theo Cục Khí tượng Hắc Long Giang, nhiệt độ lúc 7 giờ sáng ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán, được ghi nhận ở mức âm 53°C. Nhiệt độ này đã đánh bại kỷ lục trước đó là âm 52,3°C vào năm 1969, các quan chức cho biết.
Ở nước láng giềng Nga, Yakutsk – nơi nổi tiếng là thành phố lạnh nhất thế giới, chứng kiến nhiệt độ giảm xuống âm 62,7°C – mức lạnh nhất trong hơn hai thập kỷ.
Mùa đông ở Mohe bắt đầu vào đầu tháng 10 và thường kéo dài đến tháng 5. Các chuyên gia cho biết, nhiệt độ trung bình trong giai đoạn này đã giảm xuống dưới mức đóng băng.
Năm 2018, hiện tượng “sương mù băng” hiếm gặp đã xảy ra, khiến chính quyền địa phương phải đưa ra cảnh báo đỏ lần đầu tiên về thời tiết lạnh tại thành phố này. Đây là hiện tượng thời tiết chỉ xảy ra ở vùng khí hậu cực lạnh khi những giọt nước trong không khí tồn tại ở dạng lỏng.
Cái lạnh liên tục của thành phố này đã thu hút khách du lịch quanh năm, nhiều người đổ xô đến các điểm tham quan tại đây. Năm 2011, hơn 10.000 du khách đến Mohe để quan sát cực quang trong lễ hội ánh sáng vùng cực hàng năm.
Một đường cao tốc nối Mohe xa xôi với thủ đô Bắc Kinh đã khai trương vào tháng 12/2019.
Biến đổi khí hậu đã làm trầm trọng thêm tần suất và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan.
Chỉ vài tháng trước, Trung Quốc đã chứng kiến đợt nắng nóng tồi tệ nhất kể từ năm 1961 – khiến điện bị cắt trên diện rộng và thậm chí khiến các con sông giảm xuống mức hạn hán. Nắng nóng gay gắt kéo dài hơn 70 ngày và lan rộng khắp các vùng rộng lớn của đất nước.
Ở tỉnh Tứ Xuyên phía tây nam, nơi sinh sống của 80 triệu người, việc cắt điện khiến các nhà máy phải đóng cửa, khiến các ngôi nhà và văn phòng rơi vào tình trạng mất điện liên tục. Ngoài ra, hàng nghìn gia cầm và cá tại các trang trại cũng không thể sống nổi.
Theo CNN
|
Temperature in Mohe's northernmost city
China
dropped to minus 53°C. According to meteorologists, this is the coldest level ever recorded.
Located in northeastern Heilongjiang province and nestled near Russia's Siberia, Mohe is known as "China's Arctic" and is also one of the few places in the country with a sub-Arctic climate.
According to the Heilongjiang Meteorological Bureau, the temperature at 7 a.m. on the first day of the Lunar New Year, was recorded at minus 53°C. The temperature beat the previous record of minus 52.3°C in 1969, officials said.
In neighboring Russia, Yakutsk – which is famous for being the coldest city in the world, saw temperatures drop to minus 62.7°C – the coldest level in more than two decades.
Winter in Mohe begins in early October and usually lasts until May. Experts say the average temperature during this period has dropped below freezing.
In 2018, a rare "ice fog" phenomenon occurred, causing local authorities to issue the first red warning about cold weather in this city. This is a weather phenomenon that only occurs in extremely cold climates when water droplets in the air exist in liquid form.
The city's constant cold attracts tourists year-round, many of whom flock to its attractions. In 2011, more than 10,000 visitors came to Mohe to observe the aurora borealis during the annual polar lights festival.
A highway connecting remote Mohe with the capital Beijing opened in December 2019.
Climate change has exacerbated the frequency and intensity of extreme weather events.
Just a few months ago, China saw its worst heatwave since 1961 – causing widespread power cuts and even reducing rivers to drought levels. The intense heat lasted for more than 70 days and spread across large areas of the country.
In the southwestern province of Sichuan, home to 80 million people, power cuts forced factories to close, leaving homes and offices in rolling blackouts. In addition, thousands of poultry and fish on farms cannot survive.
According to CNN
|
Những quan sát mới nhất của siêu kính viễn vọng James Webb về một vùng không gian siêu lạnh chứa các khối xây dựng sự sống được kỳ vọng giúp các nhà khoa học hiểu được các hành tinh có thể ở được đã ra đời như thế nào.
Kính viễn vọng không gian James Webb, được phát triển và điều hành chính bởi NASA, với sự hỗ trợ của ESA và CSA (các cơ quan vũ trụ của châu Âu và
Canada
), đã lập kỷ lục mới khi quan sát và thu thập được các chỉ số đáng ngạc nhiên về lớp băng lạnh ở nơi cực sâu của đám mây phân tử Chameleon I.
Một đám mây khí phân tử mỏng màu xanh với các đốm phát sáng từ các ngôi sao ở xa – Ảnh: James Webb/NASA/ESA/CSA.
Theo Live Science, các nhà khoa học đã sử dụng camera hồng ngoại của James Webb để xoáy vào vùng cực tối và cực lạnh của đám mây phân tử cách chúng ta 500 năm ánh sáng này.
Họ đã xác định được những thứ bất ngờ ở nơi có nhiệt độ chết chóc là âm 263 độ C, tức chỉ còn cách độ âm tuyệt đối một chút.
Đó là các phân tử đông lạnh bao gồm lưu huỳnh carbonyl, amoniac, metan, methanol…
Theo nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học
Nature,
các phân tử quen thuộc này một ngày nào đó sẽ trở thành một phần lõi nóng của một ngôi sao sơ sinh, cũng như một phần của các ngoại hành tinh mà nhiều cái trong số đó có thể ở được.
Chúng cũng nắm giữ cái gọi là “các khối xây dựng sự sống”, chờ đợi để gieo rắc mầm sống khi có một hành tinh phù hợp chào đời: Carbon, oxy, hydro, nitơ và lưu huỳnh, một “hỗn hợp phân tử sự sống” gọi là COHNS.
“Kết quả của chúng tôi cung cấp cái nhìn sâu sắc về giai đoạn hóa học tối ban đầu của sự hình thành băng trên các hạt bụi giữa các vì sao, sẽ phát triển thành những viên sỏi có kích thước cm mà từ đó các hành tinh hình thành” – tác giả chính Melissa McClure từ Đài quan sát Leden (Hà Lan), cho biết.
Những đám mây phân tử như Chameleon I – tức Tắc Kè Hoa I – là vườn ươm sao và hành tinh. Trải qua hàng triệu năm, các chất khí, băng và bụi bên trong nó sẽ tạo thành các cấu trúc lớn hơn. Một số cấu trúc nóng lên thành lõi của các ngôi sao trẻ.
Khi các ngôi sao trẻ này phát triển, chúng sẽ hút ngày càng nhiều vật chất về phía mình và ngày càng nóng hơn, cuối cùng tạo thành một ngôi sao sơ sinh với đĩa khí bụi dày đặc xung quanh, nơi nó hoài thai các hành tinh.
Nhà thiên văn McClure nói thêm: “Những quan sát này mở ra một cửa sổ mới về lộ trình hình thành các phân tử đơn giản và phức tạp cần thiết để tạo nên các khối xây dựng sự sống”.
James Webb
là kính viễn vọng không gian tối tân nhất thế giới, mà theo tuyên bố của NASA là ngoài nhiệm vụ chính là tìm kiếm các thế giới từ vũ trụ sơ khai – cách chúng ta hàng tỉ năm ánh sáng – còn có thể giúp nhân loại tìm kiếm sự sống ở những nơi mà giới thiên văn đang hoài nghi.
|
The James Webb super telescope's latest observations of an ultracold region of space containing the building blocks of life are expected to help scientists understand how habitable planets come into being.
The James Webb Space Telescope, developed and primarily operated by NASA, with support from ESA and CSA (European and
Canada
), has set a new record by observing and collecting surprising indicators of cold ice in the extreme depths of the Chameleon I molecular cloud.
A thin blue molecular gas cloud with glowing spots from distant stars – Photo: James Webb/NASA/ESA/CSA.
According to Live Science, scientists used James Webb's infrared camera to peer into the extremely dark and cold region of this molecular cloud 500 light-years away.
They have identified unexpected things in a place with a deadly temperature of minus 263 degrees Celsius, just a little away from absolute zero.
These are frozen molecules including carbonyl sulfur, ammonia, methane, methanol, etc.
According to research recently published in a scientific journal
Nature,
These familiar molecules will one day become part of the hot core of a newborn star, as well as part of exoplanets, many of which may be habitable.
They also hold the so-called “building blocks of life,” waiting to seed life when a suitable planet is born: Carbon, oxygen, hydrogen, nitrogen and sulfur, a “molecular mixture life” is called COHNS.
“Our results provide insight into the initial dark chemical stage of ice formation on interstellar dust grains, which will grow into centimeter-sized pebbles from which stars form" - said lead author Melissa McClure from the Leden Observatory (Netherlands).
Molecular clouds like Chameleon I – or Chameleon I – are nurseries for stars and planets. Over millions of years, the gases, ice and dust inside it will form larger structures. Some structures heat up into the cores of young stars.
As these young stars grow, they pull more and more matter toward themselves and get hotter and hotter, eventually forming a newborn star with a dense disk of gas and dust around it, where it conceives planets. pure.
“These observations open a new window into the pathways that form the simple and complex molecules needed to make the building blocks of life,” added astronomer McClure.
James Webb
is the world's most advanced space telescope, which according to NASA's statement, in addition to its main mission of searching for worlds from the early universe - billions of light years away from us - can also help humanity. Search for life in places where astronomers are skeptical.
|
Việt Nam
là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, biến đổi khí hậu. Cùng với quá trình đô thị hóa thì vấn đề ngập lụt đô thị đang diễn biến phức tạp, gây trở ngại cho sự phát triển của các đô thị ở Việt Nam.
Tuyến đường ven hồ Xáng Thổi, quận Ninh Kiều (Cần Thơ) bị ngập do triều cường dâng cao sáng 13/9/2022. Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN.
Tính đến tháng 12/2021, cả nước có hơn 800 đô thị, trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Các đô thị lớn là nơi thường chịu tác động của các loại hình thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, ngập lụt, dông lốc, nắng nóng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản.
Mưa lớn, ngập lụt là các loại hình thiên tai thường xuyên xảy ra, gây ảnh hưởng và thiệt hại lớn cho các đô thị, nhất là các khu vực đô thị lớn, tập trung đông dân cư và các hoạt động kinh tế, xã hội như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vinh (Nghệ An)…
Trận mưa lịch sử tại
Thủ đô Hà Nội
(từ 30/10 đến 3/11/2008) có lượng mưa rất lớn: 400-600mm, một số trạm đo được lượng mưa lớn nhất trong lịch sử quan trắc như Thanh Oai 988 mm,
Hà Đông
830 mm, Láng 597 mm. Mưa lớn đã gây lũ trên báo động 1 ở sông Hồng tại Hà Nội và ngập lụt nghiêm trọng khu vực nội thành, làm 22 người chết, 21 nhà bị sập, trôi, 34.868 nhà bị ngập, hư hại. Tổng thiệt hại vật chất ước tính trên 3.000 tỷ đồng.
Tại
thành phố Vinh
,
tỉnh Nghệ An
, trận mưa lịch sử với tổng lượng 700 mm/24 giờ ngày 16/10/2019 đã làm 5.000 hộ dân bị ngập. UBND thành phố Vinh đã phải huy động 800 người để hỗ trợ sơ tán khoảng 700 hộ dân tại các phường Trung Đô, Bến Thủy.
Do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 5, từ ngày 14-15/10/2022, trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng
đã xảy ra mưa rất lớn từ 500-700 mm. Mưa lớn kết hợp triều cường đã gây ngập lụt nghiêm trọng trên địa bàn thành phố, có nơi ngập tới 1,5-2 m. Tính đến 14 giờ ngày 18/10, mưa lớn đã làm 4 người chết, 52/56 xã, phường thuộc 7 quận, huyện với 70.000 nhà, 14 điểm trường bị ngập, trên 2000 xe ô tô và trên 30 nghìn xe máy bị ngập nước và nhiều tài sản khác của người dân bị hư hại…; ước thiệt hại tới gần 1.500 tỷ đồng.
Tại phiên chất vấn chiều 3/11/2022, Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, Đại biểu Quốc hội Trần Văn Lâm (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang) đã nêu thực trạng ngập úng đô thị xảy ra ở khắp nơi như
Lào Cai
,
Đà Lạt
,
Quảng Ninh
,
Hải Phòng
,
Nha Trang
,
TP Hồ Chí Minh
,
Cần Thơ
hay Hà Nội, các đô thị lớn ở Việt Nam cứ mưa là ngập. Đây là vấn đề được cử tri nhiều địa phương quan tâm và cần có biện pháp căn cơ, từ nhiều cơ quan, ban, ngành liên quan mới có thể giải quyết triệt để.
Theo ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), đô thị Việt Nam, đặc biệt là tại các đô thị lớn có rất nhiều hoạt động phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, cũng là nơi tập trung nhiều cơ sở hạ tầng, nhiều khu dân cư tập trung, sẽ là nơi chịu nhiều rủi ro thiên tai, trong đó có vấn đề ngập lụt đô thị, cần có biện pháp chủ động phòng ngừa và ứng phó kịp thời.
Tiến sỹ Seneka, Giám đốc Ban ứng phó khí hậu – Dự án tăng cường khả năng chống chịu khí hậu cực đoan cho khu vực đô thị ở Đông Nam Á (URCE), Trung tâm phòng, chống thiên tai châu Á cho biết: Năm 2015, dân số thành thị trên thế giới đông hơn dân số nông thôn (chiếm 54%), dân số nông thôn là 46%. Đến năm 2030, ít nhất có 61% dân số toàn cầu sẽ sống ở các thành phố và hơn 2 tỷ người trên thế giới sẽ sống ở các khu ổ chuột. Do vậy, xây dựng khả năng chống chịu của đô thị thông qua cảnh báo sớm và phản ứng nhanh là vấn đề rất quan trọng. Khả năng chống chịu của đô thị là khả năng của các cá nhân, cộng đồng, tổ chức, doanh nghiệp và hệ thống trong thành phố để tồn tại, thích ứng và phát triển.
Thiên tai ngày càng cực đoan, bất thường, trong đó mưa với cường suất rất lớn, tập trung trong thời gian ngắn (từ 3-6 giờ) như tại Hà Nội, Đà Nẵng, Vinh… Triều cường có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, gây ngập lụt nghiêm trọng cho các đô thị. Quy mô dân số tại các đô thị ngày càng gia tăng, phát triển đô thị chưa tính toán đầy đủ các yếu tố làm gia tăng rủi ro thiên tai như thiếu không gian thoát lũ, trữ lũ (các hồ, ao tự nhiên), hệ thống thoát nước không đáp ứng yêu cầu,… Các hệ thống tiêu thoát (cống tiêu, kênh tiêu…), nhất là ở nội thành đã cũ lại hư hỏng, không hoặc chưa được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, cho nên khi có mưa (dù là mưa vừa) cũng đã gây nên ngập úng nhiều khu vực.
Cùng với đó, các đô thị lớn ven biển chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu và triều cường với tần suất gia tăng. Phương án ứng phó thiên tai cho đô thị (nơi tập trung đông dân cư, cơ sở hạ tầng….) chưa được quan tâm đúng mức, việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý rủi ro thiên tai các đô thị còn hạn chế, hướng dẫn quản lý đô thị an toàn chưa được triển khai đồng bộ, đặc biệt là những vấn đề về nhà ở, hệ thống thoát nước, cây xanh,…
Năm 2022, nhiều địa phương đã có những giải pháp để phòng, chống ngập lụt đô thị. Các tỉnh thuộc khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đã và đang triển khai dự án “Cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị tăng khả năng chống chịu, phục hồi trước khí hậu” do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ không hoàn lại. Dự án được thực hiện tại 5 đô thị trong vùng trước tác động của thiên tai, gồm: Thị trấn Phát Diệm (tỉnh Ninh Bình), thị trấn Ngọc Lặc (tỉnh Thanh Hóa), thị xã Hoàng Mai (tỉnh Nghệ An), thị trấn Hương Khê và Thạch Hà (tỉnh Hà Tĩnh). Dự án này giúp các khu vực đô thị trên tăng cường khả năng chống chịu, phục hồi trước hệ quả của thiên tai và trước tác động ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu.
Để thực hiện tốt công tác phòng, chống ngập úng đô thị trong thời gian tới, cần thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về Phòng, chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định 379/QĐ-TTg ngày 17/3/2021, trong đó quy định một số nội dung liên quan đến đảm bảo an toàn thiên tai khu vực đô thị.
Giải pháp chung đối với khu vực đô thị là cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế – kỹ thuật, các quy định về bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai, nhất là tiêu chuẩn tiêu thoát nước ở các đô thị, phòng, chống bão, lũ, ngập lụt, sạt lở đối với cơ sở hạ tầng, công trình công cộng, cũng như nhà ở của người dân.
Đối với giải pháp nâng cao khả năng chống chịu, thích ứng với thiên tai, cần đầu tư, củng cố, bổ sung, nâng cấp hệ thống trữ nước, tiêu thoát nước, phòng, chống ngập úng do mưa lớn, lũ, triều cường, nhất là đối với các đô thị lớn, trong đó yêu cầu tập trung phòng, chống ngập úng do mưa lớn và triều cường.
Quản lý đô thị an toàn trước thiên tai, cần kiểm soát quy hoạch, xây dựng để hạn chế bị tác động của thiên tai làm gia tăng rủi ro; xác định tiêu chuẩn tiêu thoát nước phòng, chống ngập úng phù hợp với tác động của biến đổi khí hậu, chủ động phân vùng tiêu, chú trọng dành không gian cho thoát lũ; bố trí các hồ điều hòa để trữ nước tạm thời, chống ngập úng khi mưa lớn và nâng cao năng lực hệ thống tiêu thoát nước…
Cùng với đó, cần ngăn chặn và xử lý công trình, nhà ở, đổ chất thải lấn chiếm không gian thoát nước, đồng thời tăng cường nạo vét hệ thống tiêu, thoát nước; kiểm tra, kiểm soát các quy định về bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai đối với cơ sở hạ tầng, công trình công cộng. Xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng phòng, chống thiên tai theo quy hoạch, nhất là hệ thống đê ngăn lũ, ngăn mặn, hệ thống cống, trạm bơm, hồ điều hòa, các trục tiêu và kênh dẫn nước chống ngập úng; xây dựng hệ thống theo dõi, kiểm soát an toàn thiên tai, nhất là ngập úng.
Đề cập đến các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu tại các đô thị của Việt Nam, bà Hoàng Thị Thảo, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, cần điều tra khảo sát, đánh giá mức độ tác động của biến đổi khí hậu, đề xuất giải pháp, hình thành bản đồ đô thị – khí hậu cho đô thị; tích hợp biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cảnh báo rủi ro tại các đô thị.
Bên cạnh đó, các đơn vị chức năng cần hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến quy hoạch, phát triển đô thị trong bối cảnh gia tăng nguy cơ rủi ro từ biến đổi khí hậu; thực hiện các giải pháp công trình nhằm hạn chế, kiểm soát các ảnh hưởng tiêu cực của rủi ro khí hậu tới hệ thống đô thị, có giải pháp định cư, di dân phù hợp. Đồng thời, truyền thông nâng cao năng lực của các cấp quản lý và cộng đồng dân cư về quản lý, phát triển đô thị ứng phó biến đổi khí hậu; nghiên cứu khoa học – công nghệ, phát triển đô thị xanh, thông minh, sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu…
|
Việt Nam
là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, biến đổi khí hậu. Cùng với quá trình đô thị hóa thì vấn đề ngập lụt đô thị đang diễn biến phức tạp, gây trở ngại cho sự phát triển của các đô thị ở Việt Nam.
Tuyến đường ven hồ Xáng Thổi, quận Ninh Kiều (Cần Thơ) bị ngập do triều cường dâng cao sáng 13/9/2022. Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN.
Tính đến tháng 12/2021, cả nước có hơn 800 đô thị, trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Các đô thị lớn là nơi thường chịu tác động của các loại hình thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, ngập lụt, dông lốc, nắng nóng, gây thiệt hại lớn về người và tài sản.
Mưa lớn, ngập lụt là các loại hình thiên tai thường xuyên xảy ra, gây ảnh hưởng và thiệt hại lớn cho các đô thị, nhất là các khu vực đô thị lớn, tập trung đông dân cư và các hoạt động kinh tế, xã hội như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vinh (Nghệ An)…
Trận mưa lịch sử tại
Thủ đô Hà Nội
(từ 30/10 đến 3/11/2008) có lượng mưa rất lớn: 400-600mm, một số trạm đo được lượng mưa lớn nhất trong lịch sử quan trắc như Thanh Oai 988 mm,
Hà Đông
830 mm, Láng 597 mm. Mưa lớn đã gây lũ trên báo động 1 ở sông Hồng tại Hà Nội và ngập lụt nghiêm trọng khu vực nội thành, làm 22 người chết, 21 nhà bị sập, trôi, 34.868 nhà bị ngập, hư hại. Tổng thiệt hại vật chất ước tính trên 3.000 tỷ đồng.
Tại
thành phố Vinh
,
tỉnh Nghệ An
, trận mưa lịch sử với tổng lượng 700 mm/24 giờ ngày 16/10/2019 đã làm 5.000 hộ dân bị ngập. UBND thành phố Vinh đã phải huy động 800 người để hỗ trợ sơ tán khoảng 700 hộ dân tại các phường Trung Đô, Bến Thủy.
Do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 5, từ ngày 14-15/10/2022, trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng
đã xảy ra mưa rất lớn từ 500-700 mm. Mưa lớn kết hợp triều cường đã gây ngập lụt nghiêm trọng trên địa bàn thành phố, có nơi ngập tới 1,5-2 m. Tính đến 14 giờ ngày 18/10, mưa lớn đã làm 4 người chết, 52/56 xã, phường thuộc 7 quận, huyện với 70.000 nhà, 14 điểm trường bị ngập, trên 2000 xe ô tô và trên 30 nghìn xe máy bị ngập nước và nhiều tài sản khác của người dân bị hư hại…; ước thiệt hại tới gần 1.500 tỷ đồng.
Tại phiên chất vấn chiều 3/11/2022, Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV, Đại biểu Quốc hội Trần Văn Lâm (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Giang) đã nêu thực trạng ngập úng đô thị xảy ra ở khắp nơi như
Lào Cai
,
Đà Lạt
,
Quảng Ninh
,
Hải Phòng
,
Nha Trang
,
TP Hồ Chí Minh
,
Cần Thơ
hay Hà Nội, các đô thị lớn ở Việt Nam cứ mưa là ngập. Đây là vấn đề được cử tri nhiều địa phương quan tâm và cần có biện pháp căn cơ, từ nhiều cơ quan, ban, ngành liên quan mới có thể giải quyết triệt để.
Theo ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), đô thị Việt Nam, đặc biệt là tại các đô thị lớn có rất nhiều hoạt động phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, cũng là nơi tập trung nhiều cơ sở hạ tầng, nhiều khu dân cư tập trung, sẽ là nơi chịu nhiều rủi ro thiên tai, trong đó có vấn đề ngập lụt đô thị, cần có biện pháp chủ động phòng ngừa và ứng phó kịp thời.
Tiến sỹ Seneka, Giám đốc Ban ứng phó khí hậu – Dự án tăng cường khả năng chống chịu khí hậu cực đoan cho khu vực đô thị ở Đông Nam Á (URCE), Trung tâm phòng, chống thiên tai châu Á cho biết: Năm 2015, dân số thành thị trên thế giới đông hơn dân số nông thôn (chiếm 54%), dân số nông thôn là 46%. Đến năm 2030, ít nhất có 61% dân số toàn cầu sẽ sống ở các thành phố và hơn 2 tỷ người trên thế giới sẽ sống ở các khu ổ chuột. Do vậy, xây dựng khả năng chống chịu của đô thị thông qua cảnh báo sớm và phản ứng nhanh là vấn đề rất quan trọng. Khả năng chống chịu của đô thị là khả năng của các cá nhân, cộng đồng, tổ chức, doanh nghiệp và hệ thống trong thành phố để tồn tại, thích ứng và phát triển.
Thiên tai ngày càng cực đoan, bất thường, trong đó mưa với cường suất rất lớn, tập trung trong thời gian ngắn (từ 3-6 giờ) như tại Hà Nội, Đà Nẵng, Vinh… Triều cường có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, gây ngập lụt nghiêm trọng cho các đô thị. Quy mô dân số tại các đô thị ngày càng gia tăng, phát triển đô thị chưa tính toán đầy đủ các yếu tố làm gia tăng rủi ro thiên tai như thiếu không gian thoát lũ, trữ lũ (các hồ, ao tự nhiên), hệ thống thoát nước không đáp ứng yêu cầu,… Các hệ thống tiêu thoát (cống tiêu, kênh tiêu…), nhất là ở nội thành đã cũ lại hư hỏng, không hoặc chưa được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, cho nên khi có mưa (dù là mưa vừa) cũng đã gây nên ngập úng nhiều khu vực.
Cùng với đó, các đô thị lớn ven biển chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu và triều cường với tần suất gia tăng. Phương án ứng phó thiên tai cho đô thị (nơi tập trung đông dân cư, cơ sở hạ tầng….) chưa được quan tâm đúng mức, việc ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý rủi ro thiên tai các đô thị còn hạn chế, hướng dẫn quản lý đô thị an toàn chưa được triển khai đồng bộ, đặc biệt là những vấn đề về nhà ở, hệ thống thoát nước, cây xanh,…
Năm 2022, nhiều địa phương đã có những giải pháp để phòng, chống ngập lụt đô thị. Các tỉnh thuộc khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đã và đang triển khai dự án “Cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị tăng khả năng chống chịu, phục hồi trước khí hậu” do Liên minh châu Âu (EU) tài trợ không hoàn lại. Dự án được thực hiện tại 5 đô thị trong vùng trước tác động của thiên tai, gồm: Thị trấn Phát Diệm (tỉnh Ninh Bình), thị trấn Ngọc Lặc (tỉnh Thanh Hóa), thị xã Hoàng Mai (tỉnh Nghệ An), thị trấn Hương Khê và Thạch Hà (tỉnh Hà Tĩnh). Dự án này giúp các khu vực đô thị trên tăng cường khả năng chống chịu, phục hồi trước hệ quả của thiên tai và trước tác động ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu.
Để thực hiện tốt công tác phòng, chống ngập úng đô thị trong thời gian tới, cần thực hiện tốt Chiến lược quốc gia về Phòng, chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định 379/QĐ-TTg ngày 17/3/2021, trong đó quy định một số nội dung liên quan đến đảm bảo an toàn thiên tai khu vực đô thị.
Giải pháp chung đối với khu vực đô thị là cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế – kỹ thuật, các quy định về bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai, nhất là tiêu chuẩn tiêu thoát nước ở các đô thị, phòng, chống bão, lũ, ngập lụt, sạt lở đối với cơ sở hạ tầng, công trình công cộng, cũng như nhà ở của người dân.
Đối với giải pháp nâng cao khả năng chống chịu, thích ứng với thiên tai, cần đầu tư, củng cố, bổ sung, nâng cấp hệ thống trữ nước, tiêu thoát nước, phòng, chống ngập úng do mưa lớn, lũ, triều cường, nhất là đối với các đô thị lớn, trong đó yêu cầu tập trung phòng, chống ngập úng do mưa lớn và triều cường.
Quản lý đô thị an toàn trước thiên tai, cần kiểm soát quy hoạch, xây dựng để hạn chế bị tác động của thiên tai làm gia tăng rủi ro; xác định tiêu chuẩn tiêu thoát nước phòng, chống ngập úng phù hợp với tác động của biến đổi khí hậu, chủ động phân vùng tiêu, chú trọng dành không gian cho thoát lũ; bố trí các hồ điều hòa để trữ nước tạm thời, chống ngập úng khi mưa lớn và nâng cao năng lực hệ thống tiêu thoát nước…
Cùng với đó, cần ngăn chặn và xử lý công trình, nhà ở, đổ chất thải lấn chiếm không gian thoát nước, đồng thời tăng cường nạo vét hệ thống tiêu, thoát nước; kiểm tra, kiểm soát các quy định về bảo đảm yêu cầu phòng, chống thiên tai đối với cơ sở hạ tầng, công trình công cộng. Xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng phòng, chống thiên tai theo quy hoạch, nhất là hệ thống đê ngăn lũ, ngăn mặn, hệ thống cống, trạm bơm, hồ điều hòa, các trục tiêu và kênh dẫn nước chống ngập úng; xây dựng hệ thống theo dõi, kiểm soát an toàn thiên tai, nhất là ngập úng.
Đề cập đến các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu tại các đô thị của Việt Nam, bà Hoàng Thị Thảo, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng, cần điều tra khảo sát, đánh giá mức độ tác động của biến đổi khí hậu, đề xuất giải pháp, hình thành bản đồ đô thị – khí hậu cho đô thị; tích hợp biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cảnh báo rủi ro tại các đô thị.
Bên cạnh đó, các đơn vị chức năng cần hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến quy hoạch, phát triển đô thị trong bối cảnh gia tăng nguy cơ rủi ro từ biến đổi khí hậu; thực hiện các giải pháp công trình nhằm hạn chế, kiểm soát các ảnh hưởng tiêu cực của rủi ro khí hậu tới hệ thống đô thị, có giải pháp định cư, di dân phù hợp. Đồng thời, truyền thông nâng cao năng lực của các cấp quản lý và cộng đồng dân cư về quản lý, phát triển đô thị ứng phó biến đổi khí hậu; nghiên cứu khoa học – công nghệ, phát triển đô thị xanh, thông minh, sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu…
|
Dưới sự lãnh đạo thiên tài của Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ, chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa đã đập tan giấc mộng xâm lược của quân Mãn Thanh, giải phóng đất nước, giữ vững độc lập dân tộc.
Chương trình nghệ thuật màn Sử thi mùa xuân Kỷ Dậu 1789 tại kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN).
Ngày 26/1 (tức mùng 5 Tết Quý Mão), Lễ hội kỷ niệm 234 năm Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa đã diễn ra trang trọng tại Công viên Văn hóa Đống Đa (Hà Nội) nhằm tôn vinh, tưởng nhớ công lao to lớn của Hoàng đế
Quang Trung-Nguyễn Huệ
cùng các tướng sỹ quân Tây Sơn đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, chống giặc ngoại xâm, giữ vững độc lập dân tộc.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Trần Sỹ Thanh cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành, địa phương và đông đảo nhân dân, khách thập phương cùng tham dự.
Trước lễ kỷ niệm, các đại biểu đã dâng hoa, dâng hương tại tượng đài và đền thờ Hoàng đế Quang Trung. Cùng với đó là lễ rước kiệu, nghi thức tế lễ của các đoàn tế lễ địa phương.
Vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, nghĩa quân Tây Sơn, dưới sự chỉ huy tài tình, sáng tạo của Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ đã tiến công thần tốc, đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh, giải phóng kinh thành Thăng Long.
Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa là bản anh hùng ca bất hủ trong lịch sử đấu tranh, dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là minh chứng lịch sử khẳng định nghệ thuật quân sự tuyệt vời của nhân dân ta. Đó là nghệ thuật chuyển quân thần tốc từ Phú Xuân ra Bắc của nghĩa quân Tây Sơn; là nghệ thuật tác chiến, chiến lược trong từng trận đánh.
Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa chính là sự hội tụ, kết tinh sâu sắc của truyền thống yêu nước, yêu độc lập-tự do; cùng với đó là tinh thần đoàn kết, dũng cảm, ý chí quật cường ngàn đời của nhân dân ta.
Bằng thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo thiên tài của Hoàng đế Quang Trung-Nguyễn Huệ đã đập tan giấc mộng xâm lược của quân Mãn Thanh, giải phóng đất nước, giữ vững độc lập dân tộc.
Phát biểu tại lễ kỷ niệm, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận Đống Đa Lê Tuấn Định khẳng định tự hào tiếp nối truyền thống, khí thế hào hùng của Chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa năm xưa, phát huy truyền thống Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân quận Đống Đa đã đoàn kết, sáng tạo, phấn đấu hoàn thành toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế-xã hội.
Hoạt động kinh tế khôi phục mạnh mẽ sau ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tiếp tục duy trì đà tăng trưởng của những năm trước. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền tiếp tục được quan tâm, triển khai thực hiện có hiệu quả. Mô hình chính quyền đô thị tiếp tục được thí điểm, phát huy hiệu quả. An sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện…
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
quận Đống Đa
sẽ không ngừng nỗ lực, xây dựng quận phát triển bền vững, góp phần xây dựng
Thủ đô Hà Nội
“Văn hiến-Văn minh- Hiện đại” theo đúng phương hướng phát triển Thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngay sau lễ khai mạc là chương trình biểu diễn nghệ thuật màn sử thi kỷ niệm 234 năm Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa do Nhà hát Tuồng Việt Nam thực hiện.
Phần hội diễn ra với các hoạt động văn nghệ của các đoàn nghệ thuật, cờ tướng, cờ người, các trò chơi dân gian./.
|
Under the genius leadership of Emperor Quang Trung-Nguyen Hue, the Ngoc Hoi-Dong Da victory crushed the Manchu Qing army's dream of invasion, liberated the country, and maintained national independence.
Art program of the Spring Epic Ky Dau 1789 at the anniversary of the Ngoc Hoi-Dong Da victory. (Photo: Minh Quyet/TTXVN).
On January 26 (the 5th day of the Year of the Cat), the Festival commemorating the 234th anniversary of the Ngoc Hoi-Dong Da Victory took place solemnly at Dong Da Cultural Park (Hanoi) to honor and commemorate the merits of Emperor's greatness
Quang Trung - Nguyen Hue
Together with the generals and soldiers of the Tay Son army, they heroically fought, sacrificed, resisted foreign invaders, and maintained national independence.
Chairman of the Hanoi People's Committee Tran Sy Thanh along with leaders of departments, branches, branches, localities and a large number of people and visitors attended.
Before the celebration, delegates offered flowers and incense at the monument and temple of Emperor Quang Trung. Along with that is the palanquin procession and sacrificial rituals of local sacrificial groups.
In the spring of the Year of the Rooster 1789, the Tay Son insurgent army, under the ingenious and creative command of Emperor Quang Trung-Nguyen Hue, attacked with lightning speed, defeated 290,000 Manchu Qing troops, and liberated the capital city of Thang Long. .
The Ngoc Hoi-Dong Da victory is an immortal epic in the history of the great struggle, building and defending the country of the Vietnamese people, and is historical evidence affirming the great military art of our people. . That was the art of quickly moving troops from Phu Xuan to the North of the Tay Son insurgent army; is the art of warfare and strategy in each battle.
The Ngoc Hoi-Dong Da victory is the convergence and profound crystallization of the tradition of patriotism, love of independence and freedom; Along with that is the spirit of solidarity, courage, and the eternal will of our people.
With this great victory, our people under the genius leadership of Emperor Quang Trung-Nguyen Hue crushed the Manchu Qing army's dream of invasion, liberated the country, and maintained national independence.
Speaking at the celebration, Chairman of the People's Committee of Dong Da District Le Tuan Dinh affirmed that he is proud to continue the tradition and heroic spirit of the ancient Ngoc Hoi - Dong Da Victory, promoting the tradition of Thang Long - Hanoi has a thousand years of culture, the Party Committee, government and people of Dong Da district have united, been creative, and strived to complete all socio-economic targets.
Economic activity recovered strongly after the impact of the COVID-19 pandemic, continuing to maintain the growth momentum of previous years. Party building and government building work continues to be paid attention and implemented effectively. The urban government model continues to be piloted and promoted effectively. Social security is guaranteed, people's lives are increasingly improved...
Party committee, government and people
Dong Da district
will constantly strive to build a sustainable development district and contribute to construction
Ha Noi capital
"Civilization - Civilization - Modernity" in accordance with the direction of the Capital's development until 2030, with a vision to 2045.
Immediately after the opening ceremony was an artistic performance program celebrating the 234th anniversary of the Ngoc Hoi-Dong Da Victory by the Vietnam Tuong Theater.
The festival took place with cultural activities of art troupes, Chinese chess, human chess, and folk games./.
|
Bước ra từ chiếc ao làng nhỏ hẹp,
nghệ thuật múa rối
với những trò diễn mộc mạc, giản dị kể về cuộc sống của người nông dân nhanh chóng chinh phục đông đảo công chúng khắp nơi, sớm có vị trí trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Ra đời trong lòng xã hội nông nghiệp truyền thống, trải qua lịch sử hàng ngàn năm hình thành và phát triển, nghệ thuật múa rối tồn tại như một trò chơi dân gian, hình thức giải trí đem lại niềm vui cho người dân sau những giờ lao động mệt mỏi. Nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam bao gồm nhiều loại hình như múa rối cạn, rối nước, rối bóng, rối que, rối dây, rối tay, rối mặt nạ… nhưng có lẽ quen thuộc hơn cả là múa rối nước.
Hình ảnh trong vở diễn múa rối “Cuộc chu du của chú Cuội và chị Hằng” của Nhà hát Múa rối Thăng Long. Ảnh: Lại Tấn.
Các vở diễn trong múa rối nước mô tả những cảnh sinh hoạt đời thường và công việc nhà nông như: Đi cấy, đi bừa, chăn vịt, úp nơm, đánh cá, xay lúa, giã gạo, câu ếch, bắt vịt; các quang cảnh lễ hội như múa rồng, múa sư tử, rước kiệu, đấu vật, đánh võ, chọi trâu, chọi gà, đua thuyền, bơi chải, đánh đu; ca ngợi truyền thống chống giặc ngoại xâm của Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo; các trích đoạn chèo, tuồng như Thị Màu lên chùa, Thạch Sanh, Tấm Cám… Nhìn chung, múa rối nước tạo nên sự độc đáo, diệu kỳ, hấp dẫn từ trò, tích trò đến sân khấu.
Là tên tuổi gần như đã đóng đinh với nghệ thuật múa rối, NSƯT Chu Lượng – nguyên Phó Giám đốc Phụ trách Nhà hát Múa rối Thăng Long chia sẻ, do thể hiện đậm nét sức sống và bản sắc văn hóa Việt Nam, múa rối nước được công chúng, nhất là du khách nước ngoài rất yêu thích. Nhà hát Múa rối Việt Nam, Nhà hát Múa rối Thăng Long đã mang nghệ thuật múa rối nước đi biểu diễn ở khắp các châu lục.
Trong đó, Nhà hát Múa rối Thăng Long từng nhận được danh hiệu nhà hát duy nhất ở châu Á biểu diễn liên tục 365 ngày trong năm. Hầu hết khán giả nước ngoài đều ngạc nhiên và thán phục múa rối nước của Việt Nam. Người Pháp gọi đó là “linh hồn của đồng ruộng Việt Nam” và cho rằng múa rối nước xứng đáng là một trong những hình thức quan trọng nhất của sân khấu múa rối thế giới.
“Thật kỳ lạ!”; “Tại sao lại có loại hình nghệ thuật lấy mặt nước làm sân khấu?”; “Cuộc sống của người dân Việt Nam trình diễn trên mặt nước”; “Không thể tin nổi tại sao con rồng vừa phun lửa, vừa phun nước được chứ?”… Đó là những thông tin đăng trên báo quốc tế về múa rối nước Việt Nam lần lưu diễn của Nhà hát Múa rối Việt Nam tại Pháp năm 1984.
Kể về kỷ niệm này, NSND Vương Duy Biên – nguyên Thứ trưởng Bộ VHTT&DL cho biết: “Lúc đó tôi mới về công tác tại Nhà hát Múa rối Việt Nam, có chương trình biểu diễn nghệ thuật do Pháp mời. Phía bạn yêu cầu 3 đoàn gồm cải lương, chèo và múa rối. Các đoàn cải lương, chèo, nghệ sĩ hát rất hay, kiều bào đến xem xúc động. Nhưng những suất diễn của múa rối nước đông đảo hơn gấp bội, thu hút rất nhiều khán giả quốc tế. Có lẽ cải lương hay chèo vướng rào cản về ngôn ngữ, còn múa rối nước thì không có bất cứ rào cản nào cả”.
Với những vị khách nước ngoài, hình ảnh hai con rồng vàng thuôn dài lấp lánh uốn lượn, lặn ngụp rồi ngoi lên phun nước, phun lửa với làn khói trắng mờ ảo để lại nhiều ấn tượng. Với những nét độc đáo đó, từng có nhiều quốc gia như
Ai Cập
,
Hà Lan
… sang
Việt Nam
học hỏi nghệ thuật rối nước.
Câu chuyện về chị May Mohab là trưởng đoàn rối nước đầu tiên ở Ai Cập và Trung Đông được nhiều người nhớ đến. Theo đó, từ năm 2008, ở tuổi 23, Mohab quyết định chọn rối nước Việt Nam làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ. Bốn năm sau, chị có cơ hội lần đầu tiên tới Việt Nam tham dự liên hoan múa rối trong tư cách một nhà thiết kế sân khấu và thiết kế con rối của Nhà hát Múa rối Cairo. Đó cũng là lần đầu tiên chị được tận mắt xem múa rối nước Việt Nam. Mohab có thể ngồi hàng giờ ngắm nhìn những con rối gỗ một cách say sưa, để rồi những ý tưởng kịch bản cứ nhảy nhót trong đầu.
Năm 2013, Mohab một lần nữa trở lại
Hà Nội
để học hỏi và nghiên cứu múa rối nước Việt Nam với khát vọng mang loại hình nghệ thuật độc đáo này về phổ biến tại quê nhà. Những ngày ở Việt Nam, chị được gặp gỡ, làm việc, học hỏi với nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ rất am tường và tâm huyết với loại hình nghệ thuật này. Một trong số đó là NSƯT Chu Lượng, một người chị gọi là thầy, là “cha đỡ đầu”, người đã giúp chị rất nhiều trong quá trình học hỏi.
Với tâm huyết của mình, đoàn múa rối Ai Cập đã biểu diễn tiết mục múa rối nước “Isis và Osiris” do May Mohab làm đạo diễn vào sáng 8/3/2019 tại Nhà hát Múa rối Thăng Long. Tiết mục này là kết quả của quá trình hợp tác giữa các nghệ sĩ hai nước, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Bộ VHTT&DL Việt Nam và Bộ Văn hóa Ai Cập.
Từ năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị thành lập ngành rối Việt Nam. Mong muốn của Người là “cần có đoàn múa rối chuyên nghiệp để các cháu thiếu nhi thêm niềm vui, thêm tiếng cười”. Cho tới nay, có thể thấy vai trò của nghệ thuật múa rối đã có một chặng đường dài song hành cùng lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, nghệ thuật múa rối đang gặp rất nhiều khó khăn.
NSND Chu Lượng từng hài hước nói về sự phát triển của rối tư nhân hiện nay: “Người người làm rối, nhà nhà làm rối”. Nếu quản lý không tốt, sự nở rộ của rối về lượng sẽ dẫn đến sự suy giảm về chất. Ngay như cách kết hợp rối nước với ẩm thực một số nơi đang làm, nghệ sĩ cũng thấy chướng: “Xem múa rối là xem múa rối, cũng như xem kịch, xem opera… Vừa ăn vừa xem múa rối, thử hỏi có ra gì?”.
Có một nghịch lý là tuy múa rối nước được coi là đặc trưng của văn hóa Việt Nam nhưng chủ yếu lại dành cho khán giả nước ngoài, còn công chúng trong nước chưa quan tâm nhiều. Vì vậy, theo các chuyên gia, cần tăng cường tuyên truyền, quảng bá, nâng cao nhận thức về nghệ thuật múa rối nước cho công chúng.
Ngày nay, trong quá trình hội nhập, múa rối cũng có những thay đổi, phát triển. Trong các kỳ liên hoan sân khấu trên thế giới, ở Tây Ban Nha, rối Việt cũng sáng tạo vở diễn về đấu bò tót, ở Nhật có đấu Sumo, tại Nga có biểu diễn rối thiên nga… Đây được xem như tấm giấy thông hành giúp rối nước
Việt Nam đến với các nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
|
Stepping out of the small, narrow village pond,
puppetry art
With rustic and simple performances about the lives of farmers, they quickly conquered the public everywhere and soon found a place in the cultural and spiritual life of Vietnamese people.
Born in the heart of traditional agricultural society, through a history of thousands of years of formation and development, puppetry art exists as a folk game, a form of entertainment that brings joy to people after difficult times. tiring working hours. Vietnamese folk puppetry includes many types such as land puppetry, water puppetry, shadow puppetry, stick puppetry, string puppetry, hand puppetry, mask puppetry... but perhaps the most familiar is water puppetry.
Image from the puppet show "The Journey of Uncle Cuoi and Sister Hang" by Thang Long Puppet Theater. Photo: Lai Tan.
The plays in water puppetry depict scenes of daily life and farm work such as: Planting, harrowing, herding ducks, raising ducks, fishing, grinding rice, pounding rice, fishing for frogs, catching ducks; Festival scenes such as dragon dance, lion dance, palanquin procession, wrestling, martial arts, buffalo fighting, cock fighting, boat racing, swimming, swinging; praising the tradition of fighting against foreign invaders of Ba Trung, Ba Trieu, Le Loi, and Tran Hung Dao; Cheo and opera excerpts such as Thi Mau goes to the pagoda, Thach Sanh, Tam Cam... In general, water puppetry creates uniqueness, magic, and attraction from the game to the stage.
As a name that is almost synonymous with the art of puppetry, Meritorious Artist Chu Luong - former Deputy Director in charge of Thang Long Puppet Theater shared that, due to its bold expression of Vietnamese cultural vitality and identity, puppetry The water is very popular with the public, especially foreign tourists. Vietnam Puppet Theater and Thang Long Puppet Theater have brought the art of water puppetry to perform on all continents.
Among them, Thang Long Puppet Theater once received the title of the only theater in Asia that performs continuously 365 days a year. Most foreign audiences were surprised and admired Vietnam's water puppetry. The French call it "the soul of Vietnamese fields" and believe that water puppetry deserves to be one of the most important forms of world puppet theater.
"Strange!"; "Why is there an art form that takes the water surface as a stage?"; "The lives of Vietnamese people performed on water"; "I can't believe why the dragon breathes fire and water at the same time?"... That is the information published in international newspapers about Vietnamese water puppetry during the Vietnam Puppet Theater's tour in France in 2019. 1984.
Talking about this memory, People's Artist Vuong Duy Bien - former Deputy Minister of Culture, Sports and Tourism said: "At that time I had just returned to work at the Vietnam Puppet Theater, there was an art performance program invited by France. Your side requested 3 troupes including cai luong, cheo and puppetry. The troupes of Cai Luong, Cheo, and artists sang very well, and overseas Vietnamese came to watch and were moved. But the performances of water puppetry are much more numerous, attracting many international audiences. Perhaps Cai Luong or Cheo have language barriers, but water puppetry doesn't have any barriers at all."
For foreign guests, the image of two elongated, sparkling golden dragons winding, diving, then emerging to spray water and fire with hazy white smoke leaves many impressions. With those unique features, there were many countries such as:
Egypt
,
Netherlands
… luxurious
Vietnam
Learn the art of water puppetry.
The story of May Mohab, the leader of the first water puppet troupe in Egypt and the Middle East, is remembered by many people. Accordingly, since 2008, at the age of 23, Mohab decided to choose Vietnamese water puppetry as the research topic for his Master's thesis. Four years later, she had the opportunity to go to Vietnam for the first time to attend a puppet festival as a stage designer and puppet designer of the Cairo Puppet Theater. That was also the first time she saw Vietnamese water puppetry with her own eyes. Mohab can sit for hours passionately looking at wooden puppets, and then script ideas keep dancing in his head.
In 2013, Mohab returned once again
Hanoi
to learn and research Vietnamese water puppetry with the desire to bring this unique art form to popularize it in their homeland. During her days in Vietnam, she met, worked, and learned from many artisans and artists who are very knowledgeable and dedicated to this form of art. One of them is Meritorious Artist Chu Luong, a person she calls her teacher, her "godfather", who helped her a lot in the learning process.
With their enthusiasm, the Egyptian puppet troupe performed the water puppet show "Isis and Osiris" directed by May Mohab on the morning of March 8, 2019 at Thang Long Puppet Theater. This performance is the result of cooperation between artists of the two countries, within the framework of the cooperation program between the Ministry of Culture, Sports and Tourism of Vietnam and the Ministry of Culture of Egypt.
Since 1956, President Ho Chi Minh issued a directive to establish the puppet industry in Vietnam. His wish is "to have a professional puppet troupe to give children more joy and laughter". Up to now, it can be seen that the role of puppetry has come a long way along with the nation's history. However, puppetry is facing many difficulties.
People's Artist Chu Luong once humorously talked about the current development of private puppetry: "People make puppets, families make puppets." If not managed well, the proliferation of puppets in quantity will lead to a decline in quality. Even like the way water puppetry and cuisine are being combined in some places, artists also find it frustrating: "Watching puppetry is watching puppetry, just like watching plays, watching opera... Eating while watching puppetry, I wonder if it's possible." What?".
There is a paradox that although water puppetry is considered a characteristic of Vietnamese culture, it is mainly for foreign audiences, and the domestic public does not pay much attention. Therefore, according to experts, it is necessary to increase propaganda, promotion, and awareness of water puppetry to the public.
Today, in the process of integration, puppetry is also changing and developing. In theater festivals around the world, in Spain, Vietnamese puppets also create plays about bull fighting, in Japan there is Sumo fighting, in Russia there are swan puppet performances... This is considered a piece of paper. Onions help tangle the water
Vietnam comes to different cultures in the world.
|
Nhìn trên bản đồ không gian lãnh thổ Việt Nam,
Quảng Bình
tọa lạc ở vị trí trung lộ, nơi giao cắt của các điều kiện tự nhiên và văn hóa của cả nước từ hai hướng Bắc – Nam và ngược lại, trở thành địa bàn giao thoa, chuyển tiếp các giá trị văn hóa Bắc – Nam và bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc lâu đời.
Là vùng đất lưu giữ nhiều di tích văn hóa – lịch sử, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, Quảng Bình có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Trong ảnh: Động Phong Nha, di sản thiên nhiên thế giới, món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng Quảng Bình.
Về mặt địa lý, Quảng Bình là địa bàn nằm ở vị trí eo thắt của cả nước với khoảng cách từ bờ biển đến biên giới Việt – Lào trên đỉnh Trường Sơn chỉ chưa đầy 50 km. Trên địa bàn này chứa đựng một phức hệ sinh thái, mà cố
GS. Trần Quốc Vượng
đã tổng kết trong “hằng số: Núi – Đồi – Đèo – Biển, Đầm – Phá – Cồn – Bàu…
Quảng Bình nằm ở vị trí trung tâm, trung lộ trên con đường thiên lý Bắc – Nam về mặt địa lý. Nhưng ngược lại, về lịch sử văn hóa, Quảng Bình lại luôn ở vị thế là vùng ngoại vi, biên viễn của các quốc gia, các thế lực cát cứ kéo dài suốt cả hàng ngàn năm lịch sử.
Nằm trên lằn ranh của sự chia cắt, Quảng Bình lại là địa bàn giao thoa, chuyển tiếp các giá trị văn hóa Bắc – Nam và cũng chính là địa bàn bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc lâu đời. Vì thế, nhiều người đã xem diễn trình biến thiên lịch sử văn hóa trên địa bàn Quảng Bình như là “tờ lịch” của dòng chảy văn hóa Việt trên hình hài không gian đất nước hình chữ S.
Tồn tại trong vai trò là địa bàn biên viễn của các triều đại phong kiến Việt Nam, Quảng Bình nhận lãnh trách nhiệm làm “người lính” canh giữ vùng biên ải và cũng từ trọng trách này, mà vùng đất Quảng Bình luôn được xem là trọng trấn của các vương triều. Chính điều đó đã làm cho vùng đất Quảng Bình trở thành mối quan tâm của các thế lực, các tập đoàn phong kiến trong cuộc chiến không ngưng, không nghỉ để xác lập và mở rộng chủ quyền lãnh thổ.
Cục diện chính trị và xu thế phát triển của lịch sử đã dẫn đến các cuộc di dân ồ ạt vào Quảng Bình dưới thời Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc và chúa Nguyễn.
Nhìn trên quan điểm lịch sử, thì quá trình di dân là một bộ phận không thể tách khỏi của chính sách mở cõi, còn nhìn trên quan điểm vận động và phát triển, thì quá trình di dân đã mang đến cho Quảng Bình sự mở mang cả về kinh tế, xã hội và văn hóa, từ đó cùng với diễn trình phát triển của lịch sử là sự xếp lớp các giá trị văn hóa để có bề dày lịch sử hôm nay.
Triều đại nhà Lý đã cắm một mốc vô cùng quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu trong dòng chảy Đại Việt, không chỉ là vấn đề mở rộng địa giới, cương vực vào Quảng Bình, từ đó khởi đầu cho sự nghiệp mở cõi về phương Nam, mà quan trọng hơn vẫn là thành công trong việc đưa văn hóa Việt vào lưu vực sông Nhật Lệ, sông Linh Giang, từ đó làm tiền đề cho sự lan tỏa văn hóa Việt đến tận cùng đất nước.
Vì vậy, học giả Đào Duy Anh đã khẳng định, văn hóa Việt phương Nam hình thành và khởi phát từ lưu vực sông Nhật Lệ của Quảng Bình.
Nếu triều Lý có công đặt sự khởi đầu, khởi động, thì hai triều đại Trần, Lê, sau đó là Hồ, Mạc và Nguyễn là những triều đại đã lan tỏa hình hài làng xóm, định hình hệ thống làng Việt bền vững cho tới ngày nay.
Những tên đất, tên người trong tiến trình lịch sử Quảng Bình gắn với công lao của những nhà khai phá như Trần Bang Cẩn, Hồ Cưởng, Hoàng Hối Khanh và nhiều vị tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh khác, làm nên những sông, những hồ, những đầm, những phá, những điền trang, thái ấp trù phú với những làng nông, làng nghề như bát danh hương, cùng với các làng danh tiếng như Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Lý Hòa, Cao Lao, Lệ Mỹ, Diêm Điền, Văn La, Võ Xá, Cổ Hiền, Kim Nại, Phù Chánh, Hòa Luật, An Xá, Phan Xá, Quảng Cư, Mỹ Lộc… Điều này đã được tiến sỹ Dương Văn An (triều Lê Mạc) mô tả tường tận trong bộ sách địa chí nổi tiếng “Ô châu cận lục” từ thế kỷ XVI.
Các cuộc di cư lớn diễn ra trong thời kỳ phong kiến đã mang đến cho Quảng Bình những anh hùng hào kiệt trong công cuộc giữ gìn biên cương, lãnh thổ và sự nghiệp mở cõi như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Trương Phúc Phấn, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Sỹ, Vũ Xuân Cẩn, Hoàng Kế Viêm và nhiều danh nhân khác…
Lịch sử không chỉ có chiều thuận, mà còn có nghịch lý, và nghịch lý ấy tái diễn nhiều nhất trên đất Quảng Bình. Chiến tranh giữa các tập đoàn, các thế lực phong kiến Chăm – Hán, Chăm – Việt, Việt với Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã lôi kéo cộng đồng cư dân nơi đây vào cuộc binh lửa và để lại không ít hệ lụy.
Nhưng, có lẽ cuộc chiến tàn khốc nhất là cuộc chiến giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn trong gần 1 thế kỷ, không chỉ tàn phá về vật chất, mà còn là nỗi đau tinh thần, khi cũng chính người Quảng Bình, lúc họ là Nam Hà, lúc khác lại phải là Bắc Hà trong cùng một thời đoạn ngắn ngủi của lịch sử, chỉ để thích ứng mà tồn tại.
Nội chiến bao giờ cũng đau thương và trong đau thương ấy, Quảng Bình là một chứng nhân lịch sử khó phai mờ của quá trình đi từ giao thoa đến hội tụ, từ chia cắt đến thống nhất.
Đó là cả một quá trình xung đột rồi tiếp nhận, đan xen rồi hòa hợp các sắc thái văn hóa của Văn Lang/Việt Thường, Đại Việt/Chiêm Thành, Bắc Hà/Nam Hà và cả miền Nam/miền Bắc trong thời hiện đại.
Về văn hóa, thì đó là Đông Sơn/Sa Huỳnh, Việt/Chăm, Đàng Trong/Đàng Ngoài, Thăng Long/ Phú Xuân… Sự gặp gỡ và hội tụ ấy tạo nên sự trao truyền giá trị lịch sử văn hóa thông qua các hình thái tiếp biến, giao thoa và thụ ứng.
Vậy là, qua dòng chảy lịch sử, vùng đất Quảng Bình đã trải qua nhiều biến thiên, thăng trầm, nhưng cũng từ những thăng trầm của lịch sử, mà nơi đây đã tồn tích các giá trị văn hóa đặc sắc, lâu đời, được trao truyền qua nhiều thế hệ.
Sự hội tụ và giao cắt các yếu tố chính trị, lịch sử, văn hóa khi đi qua miền biên viễn Quảng Bình đã làm nên đặc trưng “đa văn hóa” của chủ nhân vùng đất.
Đó là sự tương hợp giữa 2 lớp văn hóa, lớp nền là văn hóa bản địa và lớp phủ là văn hóa di dân, dần dần bản địa hóa lớp văn hóa di dân thành sắc thái văn hóa Quảng Bình. Do vậy, cộng đồng dân cư ở đây có cơ hội để tích hợp trong tố chất cá nhân và cộng đồng đa nguồn gốc, đa sắc thái văn hóa.
Người bản địa vẫn là cái chất cần cù mà không cam chịu, người di cư mang đến cái chất táo bạo, thoáng đạt và lịch lãm. Sự hòa trộn nhiều thế hệ đã sản sinh ra tố chất cần cù, sáng tạo, cương cường, nhưng cũng rất dung dị, ôn hòa. Đó là đặc điểm thường thấy ở những tổ chức hợp quần.
Đặc biệt, chính sự đa nguồn gốc văn hóa cùng với sự tích hợp các giá trị có được từ tiếp biến, giao thoa và thụ ứng văn hóa 2 miền là cơ sở để xuất hiện nhân kiệt. Nếu nhân kiệt ở vùng văn hóa Hoan – Ái là sản phẩm văn hóa có bề dày thuần nhất, thì nhân kiệt ở vùng văn hóa Nam Hoành Sơn là sản phẩm văn hóa đa sắc thái, hệ quả của sự tái cấu trúc thường xuyên lặp lại. Đó là căn nguyên lý giải vì sao, vùng đất Quảng Bình không mấy giàu có về vật chất, nhưng không thời nào lại không có những anh hùng, hào kiệt.
Tất cả yếu tố về tự nhiên, lịch sử và văn hóa đã kiến tạo, rèn đúc cho chủ nhân của vùng đất – những con người Quảng Bình – đức tính cần cù mà không cam chịu, can trường mà nhân ái trước mọi thử thách.
Thêm vào đó, người Quảng Bình luôn nằm ở lằn ranh của chia cắt trong mọi thời đại, tất yếu họ phải chịu nhiều thiệt thòi của xứ biên viễn, nhưng chính sức ép “biên viễn” đã cho họ sức mạnh, đúng như sử gia nổi tiếng người Anh Arnold J. Toynbee đã nhận định, “những xứ nằm ở vùng biên viễn đều có sinh lực mạnh mẽ”.
“Sinh lực mạnh mẽ” ấy đã bộc lộ trong cuộc đấu tranh không mệt mỏi với thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Sinh lực ấy cũng nằm ngay trong tố chất quyết liệt và ngoan cường, thông minh và quyết đoán trong những cuộc đụng đầu lịch sử với giặc ngoại xâm và những thế lực đi ngược chiều lịch sử.
Nhân dân Quảng Bình đã đổ mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ quê hương trong suốt cả chiều dài lịch sử hàng ngàn năm. Những thành tựu đạt được là nguồn lực quan trọng để các tầng lớp nhân dân Quảng Bình vững vàng bước vào chặng đường lịch sử mới.
Nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử Quảng Bình
|
Nhìn trên bản đồ không gian lãnh thổ Việt Nam,
Quảng Bình
tọa lạc ở vị trí trung lộ, nơi giao cắt của các điều kiện tự nhiên và văn hóa của cả nước từ hai hướng Bắc – Nam và ngược lại, trở thành địa bàn giao thoa, chuyển tiếp các giá trị văn hóa Bắc – Nam và bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc lâu đời.
Là vùng đất lưu giữ nhiều di tích văn hóa – lịch sử, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, Quảng Bình có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Trong ảnh: Động Phong Nha, di sản thiên nhiên thế giới, món quà vô giá mà thiên nhiên ban tặng Quảng Bình.
Về mặt địa lý, Quảng Bình là địa bàn nằm ở vị trí eo thắt của cả nước với khoảng cách từ bờ biển đến biên giới Việt – Lào trên đỉnh Trường Sơn chỉ chưa đầy 50 km. Trên địa bàn này chứa đựng một phức hệ sinh thái, mà cố
GS. Trần Quốc Vượng
đã tổng kết trong “hằng số: Núi – Đồi – Đèo – Biển, Đầm – Phá – Cồn – Bàu…
Quảng Bình nằm ở vị trí trung tâm, trung lộ trên con đường thiên lý Bắc – Nam về mặt địa lý. Nhưng ngược lại, về lịch sử văn hóa, Quảng Bình lại luôn ở vị thế là vùng ngoại vi, biên viễn của các quốc gia, các thế lực cát cứ kéo dài suốt cả hàng ngàn năm lịch sử.
Nằm trên lằn ranh của sự chia cắt, Quảng Bình lại là địa bàn giao thoa, chuyển tiếp các giá trị văn hóa Bắc – Nam và cũng chính là địa bàn bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc lâu đời. Vì thế, nhiều người đã xem diễn trình biến thiên lịch sử văn hóa trên địa bàn Quảng Bình như là “tờ lịch” của dòng chảy văn hóa Việt trên hình hài không gian đất nước hình chữ S.
Tồn tại trong vai trò là địa bàn biên viễn của các triều đại phong kiến Việt Nam, Quảng Bình nhận lãnh trách nhiệm làm “người lính” canh giữ vùng biên ải và cũng từ trọng trách này, mà vùng đất Quảng Bình luôn được xem là trọng trấn của các vương triều. Chính điều đó đã làm cho vùng đất Quảng Bình trở thành mối quan tâm của các thế lực, các tập đoàn phong kiến trong cuộc chiến không ngưng, không nghỉ để xác lập và mở rộng chủ quyền lãnh thổ.
Cục diện chính trị và xu thế phát triển của lịch sử đã dẫn đến các cuộc di dân ồ ạt vào Quảng Bình dưới thời Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc và chúa Nguyễn.
Nhìn trên quan điểm lịch sử, thì quá trình di dân là một bộ phận không thể tách khỏi của chính sách mở cõi, còn nhìn trên quan điểm vận động và phát triển, thì quá trình di dân đã mang đến cho Quảng Bình sự mở mang cả về kinh tế, xã hội và văn hóa, từ đó cùng với diễn trình phát triển của lịch sử là sự xếp lớp các giá trị văn hóa để có bề dày lịch sử hôm nay.
Triều đại nhà Lý đã cắm một mốc vô cùng quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu trong dòng chảy Đại Việt, không chỉ là vấn đề mở rộng địa giới, cương vực vào Quảng Bình, từ đó khởi đầu cho sự nghiệp mở cõi về phương Nam, mà quan trọng hơn vẫn là thành công trong việc đưa văn hóa Việt vào lưu vực sông Nhật Lệ, sông Linh Giang, từ đó làm tiền đề cho sự lan tỏa văn hóa Việt đến tận cùng đất nước.
Vì vậy, học giả Đào Duy Anh đã khẳng định, văn hóa Việt phương Nam hình thành và khởi phát từ lưu vực sông Nhật Lệ của Quảng Bình.
Nếu triều Lý có công đặt sự khởi đầu, khởi động, thì hai triều đại Trần, Lê, sau đó là Hồ, Mạc và Nguyễn là những triều đại đã lan tỏa hình hài làng xóm, định hình hệ thống làng Việt bền vững cho tới ngày nay.
Những tên đất, tên người trong tiến trình lịch sử Quảng Bình gắn với công lao của những nhà khai phá như Trần Bang Cẩn, Hồ Cưởng, Hoàng Hối Khanh và nhiều vị tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh khác, làm nên những sông, những hồ, những đầm, những phá, những điền trang, thái ấp trù phú với những làng nông, làng nghề như bát danh hương, cùng với các làng danh tiếng như Lệ Sơn, La Hà, Cảnh Dương, Lý Hòa, Cao Lao, Lệ Mỹ, Diêm Điền, Văn La, Võ Xá, Cổ Hiền, Kim Nại, Phù Chánh, Hòa Luật, An Xá, Phan Xá, Quảng Cư, Mỹ Lộc… Điều này đã được tiến sỹ Dương Văn An (triều Lê Mạc) mô tả tường tận trong bộ sách địa chí nổi tiếng “Ô châu cận lục” từ thế kỷ XVI.
Các cuộc di cư lớn diễn ra trong thời kỳ phong kiến đã mang đến cho Quảng Bình những anh hùng hào kiệt trong công cuộc giữ gìn biên cương, lãnh thổ và sự nghiệp mở cõi như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Trương Phúc Phấn, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Sỹ, Vũ Xuân Cẩn, Hoàng Kế Viêm và nhiều danh nhân khác…
Lịch sử không chỉ có chiều thuận, mà còn có nghịch lý, và nghịch lý ấy tái diễn nhiều nhất trên đất Quảng Bình. Chiến tranh giữa các tập đoàn, các thế lực phong kiến Chăm – Hán, Chăm – Việt, Việt với Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đã lôi kéo cộng đồng cư dân nơi đây vào cuộc binh lửa và để lại không ít hệ lụy.
Nhưng, có lẽ cuộc chiến tàn khốc nhất là cuộc chiến giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn trong gần 1 thế kỷ, không chỉ tàn phá về vật chất, mà còn là nỗi đau tinh thần, khi cũng chính người Quảng Bình, lúc họ là Nam Hà, lúc khác lại phải là Bắc Hà trong cùng một thời đoạn ngắn ngủi của lịch sử, chỉ để thích ứng mà tồn tại.
Nội chiến bao giờ cũng đau thương và trong đau thương ấy, Quảng Bình là một chứng nhân lịch sử khó phai mờ của quá trình đi từ giao thoa đến hội tụ, từ chia cắt đến thống nhất.
Đó là cả một quá trình xung đột rồi tiếp nhận, đan xen rồi hòa hợp các sắc thái văn hóa của Văn Lang/Việt Thường, Đại Việt/Chiêm Thành, Bắc Hà/Nam Hà và cả miền Nam/miền Bắc trong thời hiện đại.
Về văn hóa, thì đó là Đông Sơn/Sa Huỳnh, Việt/Chăm, Đàng Trong/Đàng Ngoài, Thăng Long/ Phú Xuân… Sự gặp gỡ và hội tụ ấy tạo nên sự trao truyền giá trị lịch sử văn hóa thông qua các hình thái tiếp biến, giao thoa và thụ ứng.
Vậy là, qua dòng chảy lịch sử, vùng đất Quảng Bình đã trải qua nhiều biến thiên, thăng trầm, nhưng cũng từ những thăng trầm của lịch sử, mà nơi đây đã tồn tích các giá trị văn hóa đặc sắc, lâu đời, được trao truyền qua nhiều thế hệ.
Sự hội tụ và giao cắt các yếu tố chính trị, lịch sử, văn hóa khi đi qua miền biên viễn Quảng Bình đã làm nên đặc trưng “đa văn hóa” của chủ nhân vùng đất.
Đó là sự tương hợp giữa 2 lớp văn hóa, lớp nền là văn hóa bản địa và lớp phủ là văn hóa di dân, dần dần bản địa hóa lớp văn hóa di dân thành sắc thái văn hóa Quảng Bình. Do vậy, cộng đồng dân cư ở đây có cơ hội để tích hợp trong tố chất cá nhân và cộng đồng đa nguồn gốc, đa sắc thái văn hóa.
Người bản địa vẫn là cái chất cần cù mà không cam chịu, người di cư mang đến cái chất táo bạo, thoáng đạt và lịch lãm. Sự hòa trộn nhiều thế hệ đã sản sinh ra tố chất cần cù, sáng tạo, cương cường, nhưng cũng rất dung dị, ôn hòa. Đó là đặc điểm thường thấy ở những tổ chức hợp quần.
Đặc biệt, chính sự đa nguồn gốc văn hóa cùng với sự tích hợp các giá trị có được từ tiếp biến, giao thoa và thụ ứng văn hóa 2 miền là cơ sở để xuất hiện nhân kiệt. Nếu nhân kiệt ở vùng văn hóa Hoan – Ái là sản phẩm văn hóa có bề dày thuần nhất, thì nhân kiệt ở vùng văn hóa Nam Hoành Sơn là sản phẩm văn hóa đa sắc thái, hệ quả của sự tái cấu trúc thường xuyên lặp lại. Đó là căn nguyên lý giải vì sao, vùng đất Quảng Bình không mấy giàu có về vật chất, nhưng không thời nào lại không có những anh hùng, hào kiệt.
Tất cả yếu tố về tự nhiên, lịch sử và văn hóa đã kiến tạo, rèn đúc cho chủ nhân của vùng đất – những con người Quảng Bình – đức tính cần cù mà không cam chịu, can trường mà nhân ái trước mọi thử thách.
Thêm vào đó, người Quảng Bình luôn nằm ở lằn ranh của chia cắt trong mọi thời đại, tất yếu họ phải chịu nhiều thiệt thòi của xứ biên viễn, nhưng chính sức ép “biên viễn” đã cho họ sức mạnh, đúng như sử gia nổi tiếng người Anh Arnold J. Toynbee đã nhận định, “những xứ nằm ở vùng biên viễn đều có sinh lực mạnh mẽ”.
“Sinh lực mạnh mẽ” ấy đã bộc lộ trong cuộc đấu tranh không mệt mỏi với thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Sinh lực ấy cũng nằm ngay trong tố chất quyết liệt và ngoan cường, thông minh và quyết đoán trong những cuộc đụng đầu lịch sử với giặc ngoại xâm và những thế lực đi ngược chiều lịch sử.
Nhân dân Quảng Bình đã đổ mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ quê hương trong suốt cả chiều dài lịch sử hàng ngàn năm. Những thành tựu đạt được là nguồn lực quan trọng để các tầng lớp nhân dân Quảng Bình vững vàng bước vào chặng đường lịch sử mới.
Nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử Quảng Bình
|
Lập xuân là tiết khí đầu tiên của năm, đánh dấu sự chuyển mình rõ rệt của thời tiết và cảnh sắc, vậy Lập xuân 2023 là ngày nào?
“Lập” nghĩa là khởi đầu, “xuân” trong mùa xuân, tiết Lập xuân mang ý nghĩa thời điểm bắt đầu mùa xuân. Vào tiết Lập xuân, thời tiết sẽ trở nên ấm áp, độ ẩm tăng cao nên thường có mưa phùn. Đây cũng là lúc vạn vật sinh sôi, cây cối đâm chồi nảy lộc, các loài động vật ngủ đông quay trở lại kiếm ăn.
Lập xuân là gì? Lập xuân 2023 là ngày nào?
Lập xuân là khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Lập xuân là một trong 24 tiết khí của các lịch
Trung Quốc
,
Việt Nam
,
Nhật Bản
,
Triều Tiên
.
Theo lịch của người Trung Quốc cổ đại được tính theo vị trí của Trái đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt trời, nếu tính điểm xuân phân là gốc, khi kinh độ Mặt trời bằng 0 thì vị trí của điểm lập xuân là kinh độ Mặt trời bằng 315 độ.
Ngày bắt đầu tiết Lập xuân được tính theo Dương lịch hiện đại và thông thường rơi vào ngày 4 hoặc 5/2 Dương lịch và kết thúc vào ngày 18/2 hoặc 19/2 Dương lịch hàng năm, do ảnh hưởng quỹ đạo chuyển động của Trái đất xung quanh Mặt trời.
Vì vậy, tiết Lập xuân 2023 sẽ bắt đầu vào ngày 4/2/2023 Dương lịch tức 14/1 Âm lịch.
Ngày Lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác gần khu vực xích đạo ở Bắc bán cầu. Đối với các nước ở phía Bắc, ngày bắt đầu của mùa xuân là ngày diễn ra điểm xuân phân tính theo lịch Gregory. Thời điểm này ở Nam bán cầu Trái đất là đầu mùa thu.
Đặc điểm của tiết Lập xuân.
Xét về mặt thời tiết, khí hậu thì từ thời điểm này trở đi, miền Bắc Việt Nam, tính từ đèo Hải Vân trở ra, do ảnh hưởng giao thời của hai luồng gió giao mùa là gió Đông Bắc và gió Đông Nam, bắt đầu có mưa nhỏ kéo dài còn gọi là mưa phùn làm độ ẩm của không khí và đất lên cao gây ra hiện tượng nồm.
Trong nông nghiệp, hiện tượng này mang lại một số lợi ích do cây trồng bắt đầu có đủ lượng nước cần thiết để phát triển. Tuy nhiên, trong đời sống hàng ngày, thời tiết như vậy gây ra nhiều khó khăn như các loại bệnh tật đối với người và gia cầm, gia súc cũng như cây trồng, do các loại vi khuẩn có điều kiện thuận lợi để phát triển do độ ẩm cao và nhiệt độ môi trường thích hợp.
Theo phong thủy, tiết Lập xuân là một thời điểm tiết khí tốt để xuất hành, khai trương, động thổ, làm đám cưới, cúng bái… Đây là thời điểm dương khí dồi dào, tốt cho vận khí của con người.
Ngoài ra, đây cũng là thời điểm thịnh vượng của những người có mệnh Mộc, việc làm ăn, buôn bán hay học hành sẽ rất thuận lợi. Trái lại, những ai mệnh Thổ cần chú ý để tránh xui xẻo và những điều không may mắn trong ngày này.
Những việc nên làm trong ngày Lập xuân bao gồm:
Mặc đồ màu sắc tươi sáng, chọn màu hợp mệnh.
Thức dậy sớm, tập thể dục nâng cao sức khỏe.
Trồng cây xanh, bạn có thể chọn những loại cây hợp mệnh, hợp tuổi để tăng thêm vận khí.
Làm việc thiện, quan tâm và giúp đỡ người khác.
|
Lap Xuan is the first weather of the year, marking a clear change in weather and scenery. So when is Lap Xuan 2023?
“Lap” means the beginning, “spring” in spring, the period Lap Xuan means the beginning of spring. During Spring, the weather will become warm and humidity will increase, so there will often be drizzle. This is also the time when all things proliferate, trees sprout, and hibernating animals return to feed.
What is Lap Xuan? When is spring 2023?
Spring planning is a concept in the calendar planning of Eastern countries influenced by ancient Chinese culture. Lap spring is one of the 24 solar terms of the calendar
China
,
Vietnam
,
Japan
,
North Korea
.
According to the ancient Chinese calendar, it is calculated according to the position of the Earth in the orbital cycle around the Sun. If the spring equinox is calculated as the origin, when the Sun's longitude is 0, the position of the equinox point is 0. spring is the solar longitude equal to 315 degrees.
The start date of Lap Xuan period is calculated according to the modern solar calendar and usually falls on February 4 or 5 of the solar calendar and ends on February 18 or February 19 of the solar calendar every year, due to the influence of the orbit. of the Earth around the Sun.
Therefore, the Spring 2023 period will begin on February 4, 2023 of the solar calendar, which is January 14 of the lunar calendar.
Spring Day is considered the beginning of spring in Vietnam, China and some other countries near the equator in the Northern Hemisphere. For countries in the North, the beginning of spring is the day of the spring equinox according to the Gregorian calendar. This time in the Southern Hemisphere is early autumn.
Characteristics of Lap Xuan period.
In terms of weather and climate, from this point onwards, Northern Vietnam, from Hai Van Pass outward, due to the influence of two seasonal winds, the Northeast wind and the Southeast wind, begins to In the beginning, there will be a long period of light rain, also known as drizzle, causing the humidity of the air and soil to rise, causing the phenomenon of steam.
In agriculture, this phenomenon brings some benefits because plants begin to have the amount of water they need to grow. However, in daily life, such weather causes many difficulties such as diseases for humans, poultry, livestock as well as crops, because bacteria have favorable conditions to grow. due to high humidity and suitable environmental temperature.
According to feng shui, Lap Xuan is a good time for departures, grand openings, groundbreakings, weddings, worship... This is a time of abundant positive energy, good for people's fortunes.
In addition, this is also a prosperous time for people with the Wood element, business, trade or study will be very favorable. On the contrary, those with the Earth element need to pay attention to avoid bad luck and misfortune on this day.
Things to do on Spring Day include:
Wear bright colors, choose colors that match your destiny.
Waking up early, exercising to improve health.
When planting trees, you can choose trees that are suitable for your destiny and age to increase your luck.
Do good deeds, care for and help others.
|
Năm nay, năm Quý Mão 2023, chúng ta kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nửa thế kỷ đã qua mà như mới ngày nào. Là thành viên Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) tôi có vinh dự tham gia đàm phán Paris từ đầu đến cuối, từ 1968 đến 1973.
Thời gian qua đi. Những ký ức còn để lại.
Hội nghị Paris về Việt Nam, như mọi người chúng ta đều biết, là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX, một cuộc đụng đầu lịch sử giữa một bên là đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai với một bên là nhân dân Việt Nam ở cả hai miền đứng lên chống xâm lược. Đó là cuộc đối thoại giữa hai nền ngoại giao-nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường và nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Ở Hội nghị Paris đã diễn ra một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý, hai thứ mưu lược khác nhau.
Lễ ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ngày 27-1-1973. Ảnh tư liệu.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Hội nghị Paris là thất bại của Mỹ trên chiến trường. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của ta đã giáng một đòn nặng nề vào cuộc “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, không chỉ làm chuyển biến thế trận, đảo lộn chiến lược mà còn làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù. Mỹ hiểu rằng không thể thắng ta bằng chiến tranh. Nếu muốn ra khỏi chiến tranh, không có cách nào khác là phải thông qua thương lượng. Vì vậy mà đã phải chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Paris. Còn ta, chấp nhận đàm phán để mở ra một mặt trận mới về ngoại giao. Ta hiểu rõ, tại bàn đàm phán ta không thể giành lấy cái mà trên chiến trường ta không giành được. Kết quả đàm phán tùy thuộc trước hết vào so sánh lực lượng trên chiến trường. Tài trí ngoại giao không thể thay thực lực. Mặt trận ngoại giao không phải là mặt trận quyết định nhất nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở chỗ phối hợp chặt chẽ với hai mặt trận quân sự và chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi.
Câu chuyện ngoại giao ấn tượng nhất của ta tại Hội nghị Paris chính là câu chuyện các nhà đàm phán của ta thời đó đã vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, luôn kiên trì các vấn đề nguyên tắc, chiến lược nhưng rất linh hoạt, mềm dẻo về sách lược. Bác Hồ từng căn dặn cán bộ ta: Trong ngoại giao cũng như trong xử lý các tình huống phức tạp, “chính sách phải có cương, có nhu. Cương quá thì dễ gãy. Nhu quá thì hèn. Nói nên nhu. Làm nên cương”. Tại bàn đàm phán, ngoại giao của ta luôn biết hướng tới thắng lợi lớn toàn cục nhưng cũng biết giành từng thắng lợi nhỏ trong mỗi trận đấu, mỗi phiên họp. Biết tính toán kỹ lưỡng từng đường đi nước bước, chắc chắn, thận trọng nhưng không để rơi vào thế bị động. Kiên quyết phê phán những sai trái, khai thác chỗ yếu của đối phương nhưng có thái độ trọng thị với người đối thoại.
Xin nêu lên sau đây vài mẩu chuyện cụ thể:
Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đến Paris được nhìn nhận như một nhà lãnh đạo chính trị quyền uy, đầy mưu lược, nghiêm nghị mà mở lòng, biết cương, nhu đúng lúc.
Bộ trưởng Xuân Thủy được biết đến vừa như một nhà ngoại giao tài ba, nụ cười luôn nở trên trên môi, vừa là một nhà văn hóa, một nhà thơ, đàm phán rất căng thẳng nhưng
“Nắm vững phương châm giành thắng lợi/Ung dung anh vẫn dạo vườn thơ”
(Lời của nhà thơ Sóng Hồng, tức Trường Chinh, họa lại một bài thơ của Xuân Thủy vào những tháng đầu của Hội nghị).
Bộ trưởng
Nguyễn Thị Bình
ngay từ buổi đầu đặt chân đến Paris, đã được vinh danh là “Bà hoàng Việt Cộng”, người nữ chiến sĩ duyên dáng, khiêm nhường và kiên quyết, vị trưởng đoàn thường đưa ra trước bàn đàm phán nhiều giải pháp lay động, cũng là người với tư cách Bộ trưởng ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ký vào văn bản Hiệp định ngang hàng với Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Rogers.
Nhà đàm phán kỳ cựu A. Harriman tại Hội nghị hai bên (từ 13-15 đến hết tháng 10-1968), có lúc nói đại ý: “Tôi đã làm ngoại giao 40 năm, từng là nhân vật số 2 tại Hội nghị Yalta đàm phán với Xta-lin. Xta-lin rất cứng rắn nhưng vẫn “có đi có lại”. Các ông còn cứng rắn hơn Xta-lin vì trước sau các ông chỉ một mực đòi chấm dứt ném bom không điều kiện sau đó sẽ bản các việc có liên quan. Tuy nhiên các ông là những người có thể nói chuyện được, vì các ông có phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh”.
Cố vấn Nhà trắng Kissinger ngay trong buổi đầu tiếp xúc đã nhận xét về Lê Đức Thọ: “Ông lúc nào cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách trân trọng và khéo léo. Lê Đức Thọ tiếp tôi với một sự lễ phép có khoảng cách của một con người mà ưu thế hiển nhiên đến mức không thể làm khác được bằng một sự lễ phép gần như hạ cố”.
Sau này, qua những cuộc đàm không công khai sóng gió với Lê Đức Thọ và Xuân Thủy tại Paris, Kissinger lại nói: “Chúng tôi không may gặp phải một đối phương như các ông chứ nếu được lựa chọn thì chúng tôi sẽ chọn một đối phương khác”.
Vậy mà sau Hiệp định Paris, khi vào Hà Nội, thăm Bảo tàng lịch sử, được giới thiệu bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, ông ta lại thốt lên: “Đây chính là Điều I của Hiệp định Paris”. Ông nói câu đó tại Hà Nội vào ngày 8-2-1973, vào lúc ở Miền Nam, quân đội Mỹ đã bắt đầu những đợt rút quân lớn. Và đúng ngày 29-3-1973, 60 ngày sau khi Hiệp định Paris được ký kết, những chỉ huy cao nhất đội quân cuối cùng của quân đội viễn chinh Mỹ cùng với của nó đã cuốn cờ về nước, chấm dứt những ngày đen tối của họ sau hàng chục năm làm chiến tranh ở Việt Nam. Đây cũng là lần đầu tiên từ hơn 100 năm, sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài đã chấm dứt trên đất nước ta.
(nguyên thành viên Đoàn đàm phán Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris)
|
This year, the Year of the Cat 2023, we celebrate the 50th anniversary of the signing of the Paris Agreement to end the war and restore peace in Vietnam. Half a century has passed but it's like yesterday. As a member of the Delegation of the National Liberation Front of the South (later the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam), I had the honor of participating in the Paris negotiations from beginning to end, from 1968 to 1973.
Time passes. Memories remain.
The Paris Conference on Vietnam, as we all know, was the longest negotiation to end the longest war in the twentieth century, a historic confrontation between one side and the invading US imperialism. and the government's lackeys, with one side being the Vietnamese people in both regions, stood up against the invasion. It is a dialogue between two diplomatic systems - the professional diplomacy of a superpower and the diplomacy of a young revolutionary state. At the Paris Conference, a fierce struggle took place between two wills, two intelligences, two types of law and morality, two different strategies.
Signing ceremony of the Paris Agreement to end the war and restore peace in Vietnam on January 27, 1973. Documentary photo.
The direct cause of the Paris Conference was America's failure on the battlefield. Our 1968 Tet Offensive and Uprising dealt a heavy blow to America's "Local War", not only changing the situation and overturning the strategy but also shaking the will to invade. enemy strategy. America understands that it cannot win us through war. If you want to get out of war, there is no other way than through negotiation. That's why we had to agree to negotiate with us at the Paris Conference. As for us, we accept negotiations to open a new front in diplomacy. We clearly understand that at the negotiating table we cannot win what we cannot win on the battlefield. The outcome of negotiations depends first of all on the comparison of forces on the battlefield. Diplomatic intelligence cannot replace strength. The diplomatic front is not the most decisive front, but it has a particularly important meaning in that it coordinates closely with the military and political fronts, creating synergy to win victory.
Our most impressive diplomatic story at the Paris Conference is the story of how our negotiators at that time creatively applied Ho Chi Minh's diplomatic ideology, always persevering on issues of principle and strategy. strategic but very flexible and flexible in strategy. Uncle Ho once advised our officials: In diplomacy as well as in handling complex situations, "policies must have principles and needs. If it's too hard, it can break easily. Being too needy is cowardly. Speak softly. Make it hard.” At the negotiating table, our diplomacy always knows how to aim for big overall victory but also knows how to win small victories in each match and each session. Know how to carefully calculate each step, be sure and cautious but do not fall into a passive position. Resolutely criticize the opponent's mistakes, exploit the opponent's weaknesses, but have a respectful attitude towards the interlocutor.
Here are some specific stories:
Special advisor Le Duc Tho came to Paris to be seen as a powerful political leader, full of strategy, serious but open-minded, knowing how to be firm and soft at the right time.
Minister Xuan Thuy is known as both a talented diplomat, with a smile always on his face, as well as a cultural writer and poet. Negotiations are very tense but
“Mastering the motto of victory/With leisure, I still walk in the garden of poetry”
(The words of poet Song Hong, aka Truong Chinh, illustrate a poem by Xuan Thuy in the first months of the Conference).
Minister
Nguyen Thi Binh
From the first time she set foot in Paris, she was honored as the "Queen of the Viet Cong", a graceful, humble and determined female soldier. The delegation leader often brought to the negotiating table many shaking solutions. is also the person who, as Foreign Minister of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam, signed the Agreement document on equal footing with US Secretary of State Rogers.
Veteran negotiator A. Harriman at the Bilateral Conference (from October 13-15 to the end of October 1968), at one point said something like: "I have been a diplomat for 40 years, and was the number 2 person at the Conference." Yalta negotiates with Stalin. Stalin is very tough but still "reciprocal". You are even more stubborn than Stalin because you have always insisted on an unconditional cessation of bombing and then will resolve the related matters. However, you are people who can talk, because you have Ho Chi Minh's diplomatic style."
White House advisor Kissinger, right in the first meeting, commented on Le Duc Tho: "He always appeared very calm, his attitude was always beyond reproach, except once or twice. He absolutely knew what he wanted and served his ideals respectfully and skillfully. Le Duc Tho received me with the distanced politeness of a man whose superiority was so obvious that he could not do otherwise with a politeness that bordered on condescension.
Later, through stormy private talks with Le Duc Tho and Xuan Thuy in Paris, Kissinger said: "We are unfortunate to encounter an opponent like you, but if we had a choice, we would choose one." other opponent".
Yet after the Paris Agreement, when entering Hanoi, visiting the History Museum, and being introduced to the poem "Nam Quoc Son Ha" by Ly Thuong Kiet, he exclaimed: "This is Article I of the Paris Agreement ”. He said that sentence in Hanoi on February 8, 1973, at a time when in the South, the US military had begun major troop withdrawals. And on March 29, 1973, 60 days after the Paris Agreement was signed, the highest commanders of the last army of the American expeditionary army and its soldiers brought the flag home, ending the dark days. their evening after decades of war in Vietnam. This is also the first time in more than 100 years that foreign military occupation has ended in our country.
(former member of the negotiating delegation of the National Liberation Front of South Vietnam, later the negotiating delegation of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam at the Paris Conference)
|
Tảng băng Chasm-1 dày 150 m, rộng 1.550 km2, kích thước tương đương vùng London,
Anh
đã tách ra khỏi thềm băng Brunt ở Nam Cực, được cho là một hiện tượng tự nhiên.
Ngày 23/1, thông cáo báo chí của Cơ quan Khảo sát Nam Cực của Anh (BAS) cho biết, tảng băng được đặt tên Chasm-1 dày 150 m, rộng 1.550 km2, kích thước tương đương vùng London, đã tách ra khỏi thềm băng Brunt ở
Nam Cực
.
Tảng băng Chasm-1 rộng 1.550 km2 tách hoàn toàn khỏi thềm băng Brunt ở Nam Cực ngày 22/1. Nguồn: BAS.
Hiện tượng xảy ra vào lúc 19-20h, ngày 22/1, thời điểm triều cường, là sự kiện vỡ băng thứ 2 tại khu vực trong hai năm qua.
Các nhà khoa học của BAS lần đầu tiên phát hiện vết nứt lớn của Chasm-1 một thập kỷ trước và vết nứt phát triển kéo dài trên toàn bộ thềm băng trong vài năm qua, thông cáo nói, lưu ý, sự kiện là một quá trình tự nhiên.
Đồ họa thể hiện tình trạng thềm băng Brunt và vị trí của Trạm nghiên cứu Halley VI ngày 31/10/2017. Nguồn: BAS.
Thềm băng Brunt là nơi đặt Trạm nghiên cứu Halley VI của BAS và sự kiện không ảnh hưởng tới Trạm này, nơi hiện chỉ hiện diện tối thiểu 21 nhà nghiên cứu để duy trì các nguồn cung cấp năng lượng và cơ sở vật chất để các thí nghiệm khoa học hoạt động từ xa trong suốt mùa Đông, trong điều kiện trời tối trong 24 giờ và nhiệt độ xuống dưới âm 50 độ C.
Hình ảnh cho thấy tảng băng Chasm-1 tách khỏi thềm băng Brunt ở Nam Cực ngày 22/1. Nguồn: BAS.
Theo BAS, thềm băng nổi Brunt trôi với tốc độ lên tới 2 km mỗi năm về phía tây và quá trình di chuyển nó làm vỡ các tảng băng.
Vào năm 2016, đề phòng khả năng tảng băng tách ra đột ngột sau khi vết nứt bắt đầu mở rộng, BAS đã di dời Trạm Halley vào sâu hơn trong đất liền, cách vết nứt của Chasm-1 23 km.
Trạm nghiên cứu Halley VI của Cơ quan Khảo sát Nam Cực Anh BAS trên thềm băng Brunt. Nguồn: BAS.
Giáo sư Dame Jane Francis, Giám đốc BAS cho biết, sự kiện không bất ngờ và đã được dự đoán trước bởi BAS liên tục quan sát sự biến dạng và chuyển động của thềm băng nhiều lần trong ngày, thông qua hệ thống quan trắc tự động được tích hợp dữ liệu với vệ tinh từ ESA, NASA và vệ tinh TerraSAR-X của Đức.
|
The Chasm-1 iceberg is 150 m thick and 1,550 km2 wide, the size of the London area.
Older brother
has separated from the Brunt Ice Shelf in Antarctica, believed to be a natural phenomenon.
On January 23, a press release from the British Antarctic Survey (BAS) said that the iceberg named Chasm-1, 150 m thick, 1,550 km2 wide, the size of the London area, had separated. off the Brunt ice shelf at
Antarctic
.
The 1,550 square kilometer Chasm-1 iceberg completely separated from the Brunt Ice Shelf in Antarctica on January 22. Source: BAS.
The phenomenon that occurred at 7-8 p.m., January 22, at high tide, is the second ice break event in the area in the past two years.
BAS scientists first discovered Chasm-1's massive crack a decade ago, and the crack grew across the entire ice shelf over the past few years, the release said, noting, the event was a natural process.
Graphic showing the condition of the Brunt Ice Shelf and the location of Halley VI Research Station on October 31, 2017. Source: BAS.
The Brunt Ice Shelf is home to BAS's Halley VI Research Station and the event did not affect the Station, which currently has a minimum presence of 21 researchers to maintain energy supplies and facilities for The science experiment operates remotely throughout the winter, in 24-hour darkness and temperatures below minus 50 degrees Celsius.
The image shows the Chasm-1 iceberg separating from the Brunt Ice Shelf in Antarctica on January 22. Source: BAS.
According to BAS, the floating Brunt ice shelf drifts at a speed of up to 2 km per year westward and its movement breaks up ice sheets.
In 2016, to guard against the possibility of the iceberg suddenly separating after the crack began to widen, BAS moved Halley Station further inland, 23 km from Chasm-1's crack.
Halley VI research station of the British Antarctic Survey BAS on the Brunt ice shelf. Source: BAS.
Professor Dame Jane Francis, Director of BAS, said that the event was not unexpected and was predicted in advance because BAS continuously observed the deformation and movement of the ice shelf many times a day, through its automatic monitoring system. The motion integrates data with satellites from ESA, NASA and Germany's TerraSAR-X satellite.
|
Viết là tìm thấy hay đánh mất? Đó là câu hỏi luôn luôn vang lên trong tâm trí tôi kể từ sau khi tác phẩm đầu tiên của mình ra đời.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương. Ảnh: Y.N.
Viết là tìm thấy hay đánh mất? Đó là câu hỏi luôn luôn vang lên trong tâm trí tôi kể từ sau khi tác phẩm đầu tiên của mình ra đời. Có lúc tôi nghĩ là tìm thấy, nhưng không ít lần tôi lại cho rằng viết là đánh mất. Thật khó biết chính xác khi viết mình tìm thấy gì và đánh mất gì. Nhưng điều rõ nhất là tôi có một thế giới ăm ắp trong tâm trí tôi, thế giới ấy kết tạo bởi đời sống và trí tưởng tượng. Thế giới ấy biến hóa sinh động và luôn luôn hỗn độn.
Khi tôi viết ra, là đã tiết lộ với mọi người cái thế giới thầm kín kia, cũng đồng nghĩa vừa tìm thấy vừa đánh mất. Tôi tìm thấy một khoảnh khắc, cố định được nó, nhưng đánh mất những sinh trưởng của chính cái được cố định. Tôi có nhiều phương án cho cuộc đời của các nhân vật, có rất nhiều, nhưng khi viết ra tôi chỉ chọn một và tôi đã đánh mất đi sự biến hóa, sự phong phú của các nhân vật ấy, tôi đánh mất những phương án mà có thể lúc nào đó sẽ là tối ưu chứ không phải phương án đã viết ra.
Cầm cuốn tiểu thuyết đầu tay, cảm giác của tôi là tiếc nuối vì vừa hao khuyết một thế giới hỗn độn nguyên sơ trong tâm trí mình và đó là lúc câu hỏi hoài nghi vang lên trong tôi. Tôi nhận ra mình tìm thấy sự mạch lạc trong mớ hỗn mang, nhưng tôi cũng đồng thời đánh mất một thế giới bát nháo, sống động của những cảm tính. Tìm thấy và đánh mất đan xen quấn quýt nhau như thế, như những mảng đậm nhạt vờn đuổi trên Mặt Trăng. Nhưng dù sao thì tôi đã tìm thấy những độc giả đầu tiên của mình và một phần trong số đó đi cùng tôi tới tận bây giờ. Tôi tìm thấy lòng can đảm vì đã trình ra một thế giới lâu nay ủ kín trong tâm trí, dù thế giới đó không hẳn đã hoàn hảo vì không hẳn đã chính xác với thế giới trong tâm trí tôi. Nhà văn nào cũng mong muốn đạt tới sự hoàn hảo, mà sự hoàn hảo chỉ đến khi người ta ngừng viết. Khi nhà văn nằm xuống đồi núi mới trồi lên.
Bài viết “Sự không hoàn hảo của văn học” in trong cuốn Người đi vắng. Ảnh: NXB Trẻ.
Văn học không lành mạnh thẳng thớm như thể thao, nó là thứ khiến người ta ngước lên chỉ sau khi đã cúi xuống nhìn sâu vào chính bản thân mình. Tôi nghĩ, về cơ bản có hai loại người, một loại cúi nhìn trái tim mình và một loại cúi nhìn hạ bộ mình. Và tôi không xác quyết loại nào tốt, loại nào xấu, loại nào cần lên án hay loại nào cần tụng ca.
Thiên chức nhà văn, nếu có, là chỉ ra rằng trong trái tim có bóng dáng của hạ bộ, và ngược lại. Đấy là lúc nhà văn tìm thấy tiếng nói của mình và đấy cũng chính là chỗ hiểm nguy nhất của nghề viết, hiểm nguy nhưng không thể khước từ nếu anh thực sự là nhà văn.
Nhà văn tìm thấy sự trong sáng ở phần đen tối nhất, tìm thấy hòn đảo lạc quan giữa trùng trùng những lớp sóng bế tắc. Như thế, tức là anh ta đánh mất đi con người lí tưởng, theo mẫu số chung của đám đông, và bù lại, anh ta tìm thấy con người theo đúng nghĩa của nó, con người như một sự hỗn độn bát nháo nhưng không thể phủ định rằng rất thơ ngây.
[…] Nhà văn là một tế bào của xã hội và anh ta chứa đủ những gì mà cơ thể xã hội đang mang. Xã hội tràn lan dấu ấn tâm thần thì nhà văn cũng chẳng tránh khỏi, những gì anh ta viết ra cũng chẳng tránh khỏi. Hành vi tâm thần luôn là những hành vi hồn nhiên nhất vì thế mà nó cũng là tự do nhất. Con người càng hồn nhiên thì càng tự do, càng tự do thì càng tiến sâu vào huyền ảo. Đó là lộ trình tôi tin tưởng. Trong thế giới huyền ảo tôi được các nhân vật rỉ tai rằng cần thận trọng với lòng tốt của người chưa bao giờ xấu xa, rằng rốt cuộc lí tưởng vẫn là thứ cần thiết cho một đời người, rằng huyền ảo là chốn bình đẳng tuyệt vời nhất. Tôi tìm thấy nhiều điều ngay với nhân vật của mình, nhưng tôi đã đánh mất tính nhân ái phổ thông mà thế hệ nhà văn trước gieo vào tôi, thông qua các nhân vật lí tưởng hóa của họ. Tôi tìm thấy mặt đất cho nhân vật và đánh mất bầu trời của họ.
Viết là tìm thấy và viết cũng là đánh mất.
|
Is writing found or lost? That is the question that has always echoed in my mind since my first work was born.
Writer Nguyen Binh Phuong. Photo: Y.N.
Is writing found or lost? That is the question that has always echoed in my mind since my first work was born. Sometimes I think I've found it, but many times I think I've lost it by writing. It's hard to know exactly what you'll find and what you'll lose when writing. But the clearest thing is that I have a world crowded in my mind, a world created by life and imagination. That world changes dynamically and is always chaotic.
When I wrote it, I revealed to everyone that secret world, which also means both finding and losing. I found a moment, fixed it, but lost the growths of the very thing that was fixed. I have many options for the lives of the characters, there are many, but when I write I only choose one and I lose the transformation, the richness of those characters, I lose the options. which may be optimal at some point, not the written plan.
Holding my first novel, my feeling was of regret because I had just lost a pristine chaotic world in my mind and that was when the question of doubt rang out in me. I realized I found coherence in the chaos, but I also lost a chaotic, vibrant world of emotions. Found and lost are intertwined like that, like dark and light patches chasing on the Moon. But anyway, I found my first readers and some of them have stayed with me until now. I found courage because I presented a world that had long been hidden in my mind, even though that world was not necessarily perfect because it was not necessarily accurate to the world in my mind. Every writer wants to achieve perfection, and perfection only comes when one stops writing. When the writer lies down, new hills and mountains emerge.
The article "The Imperfection of Literature" is published in the book The Absent Man. Photo: Tre Publishing House.
Literature is not as straightforward and healthy as sports, it is something that makes people look up only after looking deeply into themselves. I think there are basically two types of people, one who looks down at their heart and one type who looks down at their lower body. And I do not determine which type is good, which type is bad, which type needs to be condemned or which type needs to be praised.
The vocation of a writer, if there is one, is to point out that in the heart there is the shadow of the lower body, and vice versa. That is when the writer finds his voice and that is also the most dangerous place in the writing profession, dangerous but impossible to refuse if he is truly a writer.
The writer finds clarity in the darkest part, finds an island of optimism amid layers of deadlocked waves. So, that means he lost the ideal person, according to the common denominator of the crowd, and in return, he found the person in its true sense, a person as a chaos but not I can't deny that it's very naive.
[...] The writer is a cell of society and he contains everything that the social body carries. Society is rife with mental signs, so the writer cannot avoid it, nor can what he writes. Mental behavior is always the most innocent behavior, so it is also the most free. The more innocent a person is, the more free they are; the more free they are, the deeper they go into mystery. That's the route I believe in. In the magical world, I was told by the characters that we need to be careful with the kindness of people who have never been evil, that in the end, ideals are still necessary for a human life, that fantasy is a place of absolute equality. the best. I found many things right with my characters, but I lost the universal compassion that the previous generation of writers instilled in me, through their idealized characters. I found ground for the characters and lost their sky.
To write is to find and to write is also to lose.
|
Cách đây 50 năm, người dân Việt đón Tết cổ truyền trong một bầu không khí thật đặc biệt.
Hiệp định Paris
được ký kết ngày 27/1/1973 đã thúc đẩy việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, để rồi hai năm sau, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông nối liền một dải.
Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan.
Nhân dịp Xuân mới Quý Mão, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan có cuộc trao đổi xoay quanh cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Thưa ông, xin ông cho biết bối cảnh dẫn đến Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (Hiệp định Paris) năm 1973?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Năm 1965, Mỹ đưa quân vào miền Nam nước ta để trực tiếp tham chiến đồng thời gia tăng ném bom bắn phá miền Bắc. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (Khóa III) họp vào tháng 1/1967 đã đề ra phương châm “vừa đánh vừa đàm,” “khai hỏa” mũi tiến công ngoại giao.
Ngày 27/3/1967, khi trả lời phỏng vấn nhà báo Australia Wilfred Burchet, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã nhấn mạnh chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này (tức là chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và các hành động quân sự khác đối với miền Bắc nước ta) thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới “có thể nói chuyện được.”
Trong cuộc chiêu đãi chào mừng Ngoại trưởng Mông Cổ sang thăm nước ta ngày 29/12/1967, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh đã nhắc lại tuyên bố trên nhưng có thay đổi một chữ. Lúc đó, tôi đang là phiên dịch cho Bộ trưởng. Ông nhắc tôi chú ý, thay chữ “có thể” (nói chuyện được) thành “sẽ.” Tuyên bố đó đã gây tiếng vang rộng lớn trên thế giới, mở đường cho hòa đàm Paris.
Trong thời gian 5 năm (1968 – 1973), Hiệp định Paris đã trải qua hơn 200 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, hàng nghìn cuộc phỏng vấn và mít tinh.
Ngày 23/1/1973, “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã được hai Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Henry Kissinger ký tắt. Ngày 27/1/1973, Bộ trưởng Ngoại giao 4 bên gồm Mỹ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa chính thức ký Hiệp định Paris.
Ngày 9/5/1968, Bộ trưởng Xuân Thủy, Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Pari (Pháp), tiến hành cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Hoa Kỳ. Ảnh TTXVN
Trong bối cảnh đó, Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn như thế nào để tiến tới việc ký kết thành công Hiệp định Paris?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Chúng ta có những yếu tố thuận lợi lớn là sức mạnh đoàn kết dân tộc và sự ủng hộ của nhân dân thế giới trong đó có nhân dân Mỹ. Họ ủng hộ việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam.
Về khó khăn, chúng ta đã có những mất mát, hy sinh rất lớn khi đấu tranh chống lại một thế lực hùng mạnh như Mỹ. Khó khăn thứ hai là những nước xã hội chủ nghĩa anh em của ta có nảy sinh bất đồng. Do đó, việc ứng xử với các đồng minh như thế nào trong bối cảnh họ mâu thuẫn với nhau cũng là bài toán khó cho những người làm ngoại giao Việt Nam.
Lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/01/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris, Pháp. Ảnh Tư liệu TTXVN.
Ông có đánh giá như thế nào về ý nghĩa cuộc đàm phán này?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Đây có lẽ là cuộc đàm phán để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình dài nhất trong lịch sử.
Về mặt ý nghĩa, cuộc hòa đàm Paris đã giúp chúng ta thực hiện được một nửa lời dặn của Bác Hồ. Đó là “đánh cho Mỹ cút” để rồi hai năm sau, chúng ta hoàn thành vế còn lại là “đánh cho Ngụy nhào,” thống nhất đất nước.
Hiệp định Paris giúp cho miền Bắc có điều kiện khôi phục kinh tế để tiếp viện cho miền Nam đồng thời nâng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Lúc đó, tôi mới ngoài 30 tuổi, tháp tùng Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh trong quá trình đàm phán tại Paris, rồi Hội nghị quốc tế về Việt Nam (2/3/1973) nơi 12 nước ký Định ước công nhận Hiệp định Paris. Tôi vô cùng tự hào khi Việt Nam đàng hoàng “ngang vai ngang vế” với các quốc gia khác.
Khi tiếp xúc với bạn bè quốc tế, mỗi người chúng ta đều cần phải trở thành những vị “đại sứ” chuyển tải tinh hoa văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng tới cộng đồng quốc tế.
Những trải nghiệm đó đã giúp ông rút ra những bài học gì trong sự nghiệp ngoại giao của mình sau này?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Hiệp định Paris đã để lại nhiều bài học cho những người làm ngoại giao của Việt Nam. Tôi không trực tiếp tham gia đàm phán, chỉ là người có mặt. Trên phương diện cá nhân, tôi rút ra 4 bài học, tạm gọi là 4K là: Kết hợp, Kiên định, Kiên trì và Khôn khéo.
Thứ nhất, chúng ta đã kết hợp sức mạnh của toàn dân tộc và kết hợp giữa các mặt trận khác nhau như quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của quốc tế.
Thứ hai, chúng ta kiên định giữ lập trường rằng Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất.
Thứ ba là phải kiên trì, vì chúng ta lấy yếu đánh mạnh nên thắng lợi không thể đến trong một sớm một chiều.
Cuối cùng, tôi cho rằng làm ngoại giao là phải khôn khéo. Công tác nghiên cứu chiến lược là vấn đề cực kỳ quan trọng. Nếu không hiểu cục diện chính trị, kinh tế, quân sự… thì không làm ngoại giao được.
Người làm công tác ngoại giao phải có cái nhìn tổng thể, biết mình, biết người, để đưa ra dự báo tình hình các bên. Nếu anh dự báo sai thì đàm phán sẽ thua.
Tôi rất ngưỡng mộ “thế hệ vàng” những nhà ngoại giao của Việt Nam như ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Cơ Thạch… Họ là những nhà cách mạng lão luyện, giàu kinh nghiệm trong cuộc sống, có ý chí kiên định, có tầm nhìn và bản lĩnh rất lớn.
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: TTXVN.
Những năm gần đây, việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, dân tộc, văn hóa được xem như là sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm để phát triển đất nước. Ông có suy nghĩ như thế nào về vai trò của văn hóa trong lĩnh vực ngoại giao?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Khi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara sang thăm Việt Nam, ông hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng nguyên nhân nào mà chúng ta thắng Mỹ? Đại tướng đã trả lời rằng Việt Nam thắng là nhờ văn hóa chứ không phải quân sự.
Tôi hiểu rằng Đại tướng muốn nói đến “sức mạnh mềm” của dân tộc bởi “sức mạnh cứng” tức vũ khí quân sự của chúng ta vẫn luôn hạn chế. Sức mạnh dân tộc Việt Nam được tạo ra bởi lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết. Ngoài ra, người Việt có tố chất nhân văn và tính cách cởi mở.
Tổng thống Geogre Bush (cha) cũng như nhiều quan chức các nước từng hỏi tôi rằng vì sao người Việt Nam không hề tỏ thái độ tiêu cực với cựu thù. Tôi trả lời rằng chúng tôi luôn kiên định bảo vệ non sông, đất nước của mình đồng thời rất cởi mở, khi hết chiến tranh luôn sẵn sàng khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Vả lại, nếu người Việt Nam chúng tôi nuôi hận thù mãi thì sống được với ai vì quá nhiều nước lớn đến xâm lược Việt Nam (cười).
Thiết nghĩ, khi tiếp xúc với bạn bè quốc tế, mỗi người chúng ta đều cần phải trở thành những vị “đại sứ” chuyển tải tinh hoa văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng tới cộng đồng quốc tế. Tiếc rằng, có những người chẳng những không “khoe” được cái đẹp, mà còn lộ ra những nét chưa đẹp, chưa hay. Nếu không gột sạch những “vết mờ” ấy, văn hóa dân tộc và văn hóa ngoại giao Việt Nam khó bề tỏa sáng.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh (giữa) ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Thủ đô Paris, Pháp. Ảnh TTXVN.
Nhân Xuân Quý Mão năm nay, xin ông chia sẻ kỷ niệm đón Xuân Quý Sửu 1973, thời điểm sau khi Hiệp định Paris được ký kết thành công, hẳn Tết năm đó rất đặc biệt?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Cảm xúc lúc đó vẫn còn nguyên vẹn trong tôi đến hôm nay. Tháp tùng Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh từ Pháp trở về, qua Liên Xô, Trung Quốc…, tôi được chứng kiến bầu không khí tưng bừng, hân hoan suốt dọc đường. Nhân dân quốc tế, lãnh đạo các nước và bà con Việt kiều đều hòa chung niềm vui với đoàn Việt Nam.
Chúng tôi về đến sân bay Gia Lâm cũng là lúc giáp Tết. Người dân miền Bắc đã đón một cái Tết hết sức đặc biệt: Sau những năm kháng chiến gian khổ, đạn nổ, bom rơi, mất mát, hy sinh, nay, chúng ta đón mùa Xuân tự do đầu tiên, không còn tiếng còi báo động xuống hầm trú ẩn, không còn cảnh đi sơ tán, chạy trốn.
Nhà tôi ở phố Lê Thánh Tông, gần trụ sở Thông tấn xã Việt Nam tại số 5 Lý Thường Kiệt. Những bản tin chiến thắng đều phát ra từ đây. Đêm Giao thừa, tiếng pháo cũng bắt đầu từ đây rồi lan dần đến Tràng Tiền và các khu phố khác. Gia đình tôi cũng ra Vườn hoa Tao Đàn tận hưởng không khí đón Xuân.
Tuy nhiên, phía sau không khí phấn khởi đó, Trung ương đã âm thầm lên kế hoạch cho những trận chiến mới để rồi hai năm sau, chúng ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngay sau ngày 30/4/1975, tôi nhận quyết định tháp tùng Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh sang Liên Xô dự Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày chiến thắng phát xít (9/5/1945 – 9/5/1975). Sự kiện này bỗng trở thành một cuộc chúc mừng cho hòa bình tại Việt Nam. Không khí đó khiến tôi rất xúc động và là một kỷ niệm đẹp trong sự nghiệp của tôi.
Trân trọng cảm ơn Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan./.
|
Cách đây 50 năm, người dân Việt đón Tết cổ truyền trong một bầu không khí thật đặc biệt.
Hiệp định Paris
được ký kết ngày 27/1/1973 đã thúc đẩy việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, để rồi hai năm sau, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông nối liền một dải.
Nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan.
Nhân dịp Xuân mới Quý Mão, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan có cuộc trao đổi xoay quanh cuộc đàm phán dài nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Thưa ông, xin ông cho biết bối cảnh dẫn đến Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (Hiệp định Paris) năm 1973?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Năm 1965, Mỹ đưa quân vào miền Nam nước ta để trực tiếp tham chiến đồng thời gia tăng ném bom bắn phá miền Bắc. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (Khóa III) họp vào tháng 1/1967 đã đề ra phương châm “vừa đánh vừa đàm,” “khai hỏa” mũi tiến công ngoại giao.
Ngày 27/3/1967, khi trả lời phỏng vấn nhà báo Australia Wilfred Burchet, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đã nhấn mạnh chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này (tức là chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và các hành động quân sự khác đối với miền Bắc nước ta) thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới “có thể nói chuyện được.”
Trong cuộc chiêu đãi chào mừng Ngoại trưởng Mông Cổ sang thăm nước ta ngày 29/12/1967, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh đã nhắc lại tuyên bố trên nhưng có thay đổi một chữ. Lúc đó, tôi đang là phiên dịch cho Bộ trưởng. Ông nhắc tôi chú ý, thay chữ “có thể” (nói chuyện được) thành “sẽ.” Tuyên bố đó đã gây tiếng vang rộng lớn trên thế giới, mở đường cho hòa đàm Paris.
Trong thời gian 5 năm (1968 – 1973), Hiệp định Paris đã trải qua hơn 200 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, hàng nghìn cuộc phỏng vấn và mít tinh.
Ngày 23/1/1973, “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã được hai Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Henry Kissinger ký tắt. Ngày 27/1/1973, Bộ trưởng Ngoại giao 4 bên gồm Mỹ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa chính thức ký Hiệp định Paris.
Ngày 9/5/1968, Bộ trưởng Xuân Thủy, Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Pari (Pháp), tiến hành cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Hoa Kỳ. Ảnh TTXVN
Trong bối cảnh đó, Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn như thế nào để tiến tới việc ký kết thành công Hiệp định Paris?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Chúng ta có những yếu tố thuận lợi lớn là sức mạnh đoàn kết dân tộc và sự ủng hộ của nhân dân thế giới trong đó có nhân dân Mỹ. Họ ủng hộ việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam.
Về khó khăn, chúng ta đã có những mất mát, hy sinh rất lớn khi đấu tranh chống lại một thế lực hùng mạnh như Mỹ. Khó khăn thứ hai là những nước xã hội chủ nghĩa anh em của ta có nảy sinh bất đồng. Do đó, việc ứng xử với các đồng minh như thế nào trong bối cảnh họ mâu thuẫn với nhau cũng là bài toán khó cho những người làm ngoại giao Việt Nam.
Lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27/01/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở thủ đô Paris, Pháp. Ảnh Tư liệu TTXVN.
Ông có đánh giá như thế nào về ý nghĩa cuộc đàm phán này?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Đây có lẽ là cuộc đàm phán để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình dài nhất trong lịch sử.
Về mặt ý nghĩa, cuộc hòa đàm Paris đã giúp chúng ta thực hiện được một nửa lời dặn của Bác Hồ. Đó là “đánh cho Mỹ cút” để rồi hai năm sau, chúng ta hoàn thành vế còn lại là “đánh cho Ngụy nhào,” thống nhất đất nước.
Hiệp định Paris giúp cho miền Bắc có điều kiện khôi phục kinh tế để tiếp viện cho miền Nam đồng thời nâng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Lúc đó, tôi mới ngoài 30 tuổi, tháp tùng Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh trong quá trình đàm phán tại Paris, rồi Hội nghị quốc tế về Việt Nam (2/3/1973) nơi 12 nước ký Định ước công nhận Hiệp định Paris. Tôi vô cùng tự hào khi Việt Nam đàng hoàng “ngang vai ngang vế” với các quốc gia khác.
Khi tiếp xúc với bạn bè quốc tế, mỗi người chúng ta đều cần phải trở thành những vị “đại sứ” chuyển tải tinh hoa văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng tới cộng đồng quốc tế.
Những trải nghiệm đó đã giúp ông rút ra những bài học gì trong sự nghiệp ngoại giao của mình sau này?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Hiệp định Paris đã để lại nhiều bài học cho những người làm ngoại giao của Việt Nam. Tôi không trực tiếp tham gia đàm phán, chỉ là người có mặt. Trên phương diện cá nhân, tôi rút ra 4 bài học, tạm gọi là 4K là: Kết hợp, Kiên định, Kiên trì và Khôn khéo.
Thứ nhất, chúng ta đã kết hợp sức mạnh của toàn dân tộc và kết hợp giữa các mặt trận khác nhau như quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của quốc tế.
Thứ hai, chúng ta kiên định giữ lập trường rằng Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất.
Thứ ba là phải kiên trì, vì chúng ta lấy yếu đánh mạnh nên thắng lợi không thể đến trong một sớm một chiều.
Cuối cùng, tôi cho rằng làm ngoại giao là phải khôn khéo. Công tác nghiên cứu chiến lược là vấn đề cực kỳ quan trọng. Nếu không hiểu cục diện chính trị, kinh tế, quân sự… thì không làm ngoại giao được.
Người làm công tác ngoại giao phải có cái nhìn tổng thể, biết mình, biết người, để đưa ra dự báo tình hình các bên. Nếu anh dự báo sai thì đàm phán sẽ thua.
Tôi rất ngưỡng mộ “thế hệ vàng” những nhà ngoại giao của Việt Nam như ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Cơ Thạch… Họ là những nhà cách mạng lão luyện, giàu kinh nghiệm trong cuộc sống, có ý chí kiên định, có tầm nhìn và bản lĩnh rất lớn.
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: TTXVN.
Những năm gần đây, việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, dân tộc, văn hóa được xem như là sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm để phát triển đất nước. Ông có suy nghĩ như thế nào về vai trò của văn hóa trong lĩnh vực ngoại giao?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Khi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara sang thăm Việt Nam, ông hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp rằng nguyên nhân nào mà chúng ta thắng Mỹ? Đại tướng đã trả lời rằng Việt Nam thắng là nhờ văn hóa chứ không phải quân sự.
Tôi hiểu rằng Đại tướng muốn nói đến “sức mạnh mềm” của dân tộc bởi “sức mạnh cứng” tức vũ khí quân sự của chúng ta vẫn luôn hạn chế. Sức mạnh dân tộc Việt Nam được tạo ra bởi lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết. Ngoài ra, người Việt có tố chất nhân văn và tính cách cởi mở.
Tổng thống Geogre Bush (cha) cũng như nhiều quan chức các nước từng hỏi tôi rằng vì sao người Việt Nam không hề tỏ thái độ tiêu cực với cựu thù. Tôi trả lời rằng chúng tôi luôn kiên định bảo vệ non sông, đất nước của mình đồng thời rất cởi mở, khi hết chiến tranh luôn sẵn sàng khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Vả lại, nếu người Việt Nam chúng tôi nuôi hận thù mãi thì sống được với ai vì quá nhiều nước lớn đến xâm lược Việt Nam (cười).
Thiết nghĩ, khi tiếp xúc với bạn bè quốc tế, mỗi người chúng ta đều cần phải trở thành những vị “đại sứ” chuyển tải tinh hoa văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng tới cộng đồng quốc tế. Tiếc rằng, có những người chẳng những không “khoe” được cái đẹp, mà còn lộ ra những nét chưa đẹp, chưa hay. Nếu không gột sạch những “vết mờ” ấy, văn hóa dân tộc và văn hóa ngoại giao Việt Nam khó bề tỏa sáng.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh (giữa) ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Thủ đô Paris, Pháp. Ảnh TTXVN.
Nhân Xuân Quý Mão năm nay, xin ông chia sẻ kỷ niệm đón Xuân Quý Sửu 1973, thời điểm sau khi Hiệp định Paris được ký kết thành công, hẳn Tết năm đó rất đặc biệt?
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan:
Cảm xúc lúc đó vẫn còn nguyên vẹn trong tôi đến hôm nay. Tháp tùng Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh từ Pháp trở về, qua Liên Xô, Trung Quốc…, tôi được chứng kiến bầu không khí tưng bừng, hân hoan suốt dọc đường. Nhân dân quốc tế, lãnh đạo các nước và bà con Việt kiều đều hòa chung niềm vui với đoàn Việt Nam.
Chúng tôi về đến sân bay Gia Lâm cũng là lúc giáp Tết. Người dân miền Bắc đã đón một cái Tết hết sức đặc biệt: Sau những năm kháng chiến gian khổ, đạn nổ, bom rơi, mất mát, hy sinh, nay, chúng ta đón mùa Xuân tự do đầu tiên, không còn tiếng còi báo động xuống hầm trú ẩn, không còn cảnh đi sơ tán, chạy trốn.
Nhà tôi ở phố Lê Thánh Tông, gần trụ sở Thông tấn xã Việt Nam tại số 5 Lý Thường Kiệt. Những bản tin chiến thắng đều phát ra từ đây. Đêm Giao thừa, tiếng pháo cũng bắt đầu từ đây rồi lan dần đến Tràng Tiền và các khu phố khác. Gia đình tôi cũng ra Vườn hoa Tao Đàn tận hưởng không khí đón Xuân.
Tuy nhiên, phía sau không khí phấn khởi đó, Trung ương đã âm thầm lên kế hoạch cho những trận chiến mới để rồi hai năm sau, chúng ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngay sau ngày 30/4/1975, tôi nhận quyết định tháp tùng Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh sang Liên Xô dự Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày chiến thắng phát xít (9/5/1945 – 9/5/1975). Sự kiện này bỗng trở thành một cuộc chúc mừng cho hòa bình tại Việt Nam. Không khí đó khiến tôi rất xúc động và là một kỷ niệm đẹp trong sự nghiệp của tôi.
Trân trọng cảm ơn Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan./.
|
Chưa bao giờ xã hội quan tâm đến bảo tồn và phát huy di sản văn hóa như ngày nay. Sự quan tâm ấy dường như đang trở thành phong trào. Như mọi phong trào, ắt hẳn dồi dào sức mạnh thúc đẩy và lan tỏa, song cũng tiềm ẩn những quan ngại. Làm lâu năm trong lĩnh vực bảo tồn di tích, luôn canh cánh một câu hỏi: Ấy vậy, công cuộc bảo tồn di sản văn hóa, đặc biệt di sản vật thể, có bảo đảm tính khả thi không?
Chùa Cầu – Điểm nhấn của Di sản văn hóa thế giới Đô thị cổ Hội An.Nguồn: Tieudung.
Cho đến tháng 8.2022, đã xếp hạng 10.356 di tích cấp tỉnh và thành phố, 3.594 di tích cấp quốc gia và 123 di tích cấp quốc gia đặc biệt. Số lượng di tích xếp hạng này còn được bổ sung, do công cuộc phát hiện và xác định giá trị di tích vẫn tiếp diễn.
Số lượng di tích xếp hạng này cũng có thể rà soát để giảm bớt. Một dạo tồn tại nỗi lo, không hẳn thiếu cơ sở, về nguy cơ các đình và chùa có thể bị xâm phạm, do đó nhất thiết phải được xếp hạng. Lại khá phổ biến nhận thức: hễ là công trình thuộc quá khứ thì cần đưa vào danh mục xếp hạng. Ngoài ra, việc xác định di tích chưa phải bao giờ cũng đủ độ nghiêm ngặt theo các tiêu chí khoa học, ấn định bởi Luật Di sản văn hóa. Người viết bài này thiên về đòi hỏi rà soát lại danh sách di tích đã xếp hạng, loại bớt các đối tượng chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chí giá trị, hoàn trả lại chúng cho cộng đồng xã hội vốn tạo dựng nên chúng và vẫn còn gắn bó với chúng. Việc tinh hoa hóa di sản sẽ là một trong những bảo đảm thực sự cho công cuộc bảo tồn khả thi di sản ấy.
Mới đây, nghe thông tin địa phương nọ đặt ra chỉ tiêu phấn đấu năm tới sẽ công nhận 50% di tích. Những đối tượng nào và con số là bao nhiêu được đưa vào diện 100%? Mà hễ gọi là “di tích” thì đã phải được công nhận rồi chứ? Càng nới lỏng xếp hạng, càng lạm phát hóa di sản, càng làm cho bảo tồn di tích càng thiếu tính khả thi hơn.
Với hơn một vạn rưỡi di tích được xếp hạng ở các cấp, cho đến nay vẫn chưa có những quy định và hướng dẫn mang tính thực tế về đầu tư và về những cách ứng xử trong tu bổ. Nếu với các di tích quốc gia đặc biệt thì chắc hẳn có sự đầu tư từ nguồn tài chính nhà nước và việc tu bổ phải được thực hiện nghiêm ngặt theo khoa học, tương ứng với những quy định của Luật Di sản văn hóa là lẽ tự nhiên. Với ngót bốn nghìn di tích cấp quốc gia, điều làm ta băn khoăn, liệu có đủ cán bộ chuyên môn và quản lý, đủ thợ chuyên môn hóa để thực thi việc tu bổ theo đòi hỏi khoa học bảo tồn không? Có thực tế không việc đặt ra các yêu cầu tu bổ hàng vạn di tích cấp tỉnh cũng theo bài bản khoa học, đặc biệt là việc bắt buộc sử dụng vật liệu theo gốc và bảo toàn tính nguyên gốc của di tích?
Theo cách làm phổ biến bây giờ, để tu bổ một di tích, cần dùng cả trăm m3 gỗ tứ thiết. Như thế, để tu bổ hàng trăm di tích, mỗi năm cần đến hàng vạn m3 gỗ đặc chủng. Rừng ở ta đã cạn kiệt những thứ ấy.
Cũng theo cách tính bây giờ, để tu bổ “thật cơ bản” một di tích, đòi hỏi đầu tư cả trăm tỷ đồng. Thực tế, mỗi năm, từ các nguồn, chỉ huy động được vài trăm tỷ. Trông chờ vào các nguồn xã hội hóa ư? Nhận ra sự thiên về đầu tư xây dựng các công trình tín ngưỡng mới.
Đã thực sự đến lúc cần tính toán và cân nhắc mọi bề, huy động cho được tấm lòng, tri thức, kinh nghiệm và sự cẩn trọng tối đa cho việc xác định những gì đích thực là tinh hoa của di sản văn hóa để dứt khoát giữ gìn nguyên vẹn cho được, để yên tâm trao vào tay con cháu mai sau.
Giữ lại những tinh hoa của di sản không chỉ bằng đầu tư tiền của và công sức, mà bằng cả sự chăm sóc ân cần và cặn kẽ thường nhật. Những gì quan sát được làm người viết bài này lo lắng. Tại ngôi đình Tây Đằng, di tích quốc gia đặc biệt, hoàn toàn thiếu vắng các công cụ và phương tiện phòng cháy chữa cháy. Nếu cháy thì ngôi đình cổ nhất này, ngôi nhà gỗ cổ nhất và một bảo tàng mỹ thuật dân gian độc hiếm này, khó bề không hóa thành tro bụi. Cũng ở huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội, ngôi đình Chu Quyến, di tích quốc gia đặc biệt, không được trang bị công cụ phòng cháy, chữa cháy. Nhiều lần đến thăm tuyệt tác kiến trúc gỗ từ thế kỷ 17 này, luôn phát hiện ở một góc sàn gỗ vung vãi những đầu lọc thuốc lá. Rùng mình!
Bên cạnh mối lo lớn về khả năng bảo tồn trọn vẹn ở mức tối đa có thể, di sản văn hóa vật chất của dân tộc, nhận ra những chiều hướng gây lo ngại cho sự vẹn toàn của nó.
Trước tiên, đó là xu hướng coi trọng tôn tạo di tích hơn là tu bổ duy trì, làm đẹp và làm sang nó theo cách hiểu nào đó, nhằm tăng sức hấp dẫn cho nó và thậm chí nhằm tăng thu nhập từ di tích. Hệ lụy là di tích và môi trường chung quanh bị biến dạng, bị hiện đại hóa, thậm chí rẻ rúng hóa. Đâu đó, trên những diễn đàn văn hóa, ai đó cổ súy cho việc làm kinh tế bằng di tích. Bảo tồn di sản là hoạt động có động lực và có bản chất văn hóa sâu xa.
Quá khứ xâu chuỗi bằng lịch sử. Lịch sử minh chứng bằng di tích-chứng nhân. Di tích là cái còn sót lại, may mắn thoát khỏi những tác nhân xâm hại và hủy hoại. Di tích không thể nào tái tạo, dù ta có trong tay các phương tiện hiện đại nhất. Cái được tái tạo có thể giống hoặc giông giống, song không bao giờ nó có được cái mà di tích là – sản phẩm của thời gian, không đảo ngược. Hãy gạt bỏ lối tư duy thực dụng, những toan tính trước mắt. Trước chúng ta là tổ tiên, nối tiếp chúng ta là con cháu. Vốn liếng cao đẹp chúng ta truyền vào tay hậu thế là những tinh hoa di sản văn hóa và dĩ nhiên, cả những gì thế hệ chúng ta đã tạo nên mà thời gian dung tha.
Chỉ mới ngót thế kỷ nay các thế hệ chúng ta mới giác ngộ ra về sự cần thiết phải giữ gìn những tài sản từ quá khứ, không phải với tư cách tài sản để sở hữu và sử dụng tiếp, mà là di sản văn hóa. Có lẽ thời nay tất cả các dân tộc, các quốc gia đều dành tâm sức và tiền của cho việc giữ gìn vốn liếng từ quá khứ của mình.
Phổ biến trong tu bổ di tích một cách làm, đó là chọn đại tu, tu bổ kiên cố, thay vì việc bảo quản và việc tu sửa nhỏ kịp thời. Cũng như trong xây dựng cơ bản, người ta chuộng những dự án lớn. Hễ là dự án lớn, thì vốn lớn, vật liệu nhiều, phần trăm lớn, lợi nhuận tương ứng. Từ đó, dự án tu bổ-đại tu một di tích cần đến cả trăm m3 gỗ tứ thiết, cả trăm tỷ đồng. Có lẽ các cụ ngày xưa xây cất nên cái đình, cái chùa ấy chẳng mất ngần nấy tiền. Rồi cũng như trong xây dựng, người ta tổ chức đấu thầu. Trúng thầu chưa chắc đã là anh có chuyên môn, có bề dày kinh nghiệm. Kết quả sau cuộc “tu bổ”, đại xáo trộn ấy, di tích tuy vững chắc hẳn lên, tuy dồi dào sức sống hẳn lên, thậm chí đẹp hẳn lên trong mắt ai đó, song nó khó có thể được gọi tôn kính là cụ, mà là anh. Tuổi của nó phải đếm từ ngày nó được tái sinh. Nó bị làm giả. Chứng nhân lịch sử bị làm giả.
Việc chữa trị bệnh tình cho di tích giông giống việc chữa trị người bệnh già. Khác ở chỗ, người bệnh già vừa thuyên giảm bệnh lại vừa trẻ ra thì hay quá. Còn di tích sau khi can thiệp, lại phải giữ nguyên độ tuổi, bảo lưu được giá trị chuyên biệt của mình – chứng nhân lịch sử hiếm hoi.
Suy nghĩ theo dòng này, những ai làm phận sự tu bổ bảo tồn di tích, dù là kỹ sư, chuyên gia bảo quản, kiến trúc sư, nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ, v.v. đều nên nhận rõ mình là những bác sĩ của di tích, ưu tiên phòng bệnh hơn chữa bệnh, ưu tiên can thiệp nhỏ hơn can thiệp lớn. Củng cố tăng tuổi thọ cho di tích chứ không làm cái việc cải lão hoàn đồng.
Công cuộc bảo tồn di sản văn hóa, di tích lịch sử và văn hóa, ở ta đã diễn ra hơn 60 năm nay, với quy mô ngày càng rộng lớn và những thành tựu không thể phủ định. Tuy nhiên, đã đến lúc cần thực hiện một cuộc tổng đánh giá tình hình nghiên cứu và tình trạng bảo tồn của di tích và di sản; rà soát lại danh mục các di tích đã được xếp hạng theo sự cân đối với khả năng thực tế về đầu tư mọi mặt cho bảo tồn an toàn, dựa trên sự ưu tiên tối đa, duy trì cho được những tinh hoa, những gì tiêu biểu hơn cả cho toàn bộ di sản văn hóa dân tộc; tổng đánh giá kỹ thuật và chất lượng, hiệu quả bảo quản và tu bổ di tích, nhất là các di tích quốc gia đặc biệt và trọng điểm khác. Nên chăng xây dựng một Xưởng – bệnh viện chuyên chữa trị các di tích quý giá nhất.
Duy trì nguyên vẹn di tích là việc cực kỳ khó khăn. Làm biến dạng và làm mất di tích lại dễ hơn nhiều. Sự nghiệp bảo tồn di sản nặng trĩu trách nhiệm với quá khứ-hiện tại và mai sau. Đụng chạm vào di tích, hãy dè dặt và ân cần.
|
Chưa bao giờ xã hội quan tâm đến bảo tồn và phát huy di sản văn hóa như ngày nay. Sự quan tâm ấy dường như đang trở thành phong trào. Như mọi phong trào, ắt hẳn dồi dào sức mạnh thúc đẩy và lan tỏa, song cũng tiềm ẩn những quan ngại. Làm lâu năm trong lĩnh vực bảo tồn di tích, luôn canh cánh một câu hỏi: Ấy vậy, công cuộc bảo tồn di sản văn hóa, đặc biệt di sản vật thể, có bảo đảm tính khả thi không?
Chùa Cầu – Điểm nhấn của Di sản văn hóa thế giới Đô thị cổ Hội An.Nguồn: Tieudung.
Cho đến tháng 8.2022, đã xếp hạng 10.356 di tích cấp tỉnh và thành phố, 3.594 di tích cấp quốc gia và 123 di tích cấp quốc gia đặc biệt. Số lượng di tích xếp hạng này còn được bổ sung, do công cuộc phát hiện và xác định giá trị di tích vẫn tiếp diễn.
Số lượng di tích xếp hạng này cũng có thể rà soát để giảm bớt. Một dạo tồn tại nỗi lo, không hẳn thiếu cơ sở, về nguy cơ các đình và chùa có thể bị xâm phạm, do đó nhất thiết phải được xếp hạng. Lại khá phổ biến nhận thức: hễ là công trình thuộc quá khứ thì cần đưa vào danh mục xếp hạng. Ngoài ra, việc xác định di tích chưa phải bao giờ cũng đủ độ nghiêm ngặt theo các tiêu chí khoa học, ấn định bởi Luật Di sản văn hóa. Người viết bài này thiên về đòi hỏi rà soát lại danh sách di tích đã xếp hạng, loại bớt các đối tượng chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chí giá trị, hoàn trả lại chúng cho cộng đồng xã hội vốn tạo dựng nên chúng và vẫn còn gắn bó với chúng. Việc tinh hoa hóa di sản sẽ là một trong những bảo đảm thực sự cho công cuộc bảo tồn khả thi di sản ấy.
Mới đây, nghe thông tin địa phương nọ đặt ra chỉ tiêu phấn đấu năm tới sẽ công nhận 50% di tích. Những đối tượng nào và con số là bao nhiêu được đưa vào diện 100%? Mà hễ gọi là “di tích” thì đã phải được công nhận rồi chứ? Càng nới lỏng xếp hạng, càng lạm phát hóa di sản, càng làm cho bảo tồn di tích càng thiếu tính khả thi hơn.
Với hơn một vạn rưỡi di tích được xếp hạng ở các cấp, cho đến nay vẫn chưa có những quy định và hướng dẫn mang tính thực tế về đầu tư và về những cách ứng xử trong tu bổ. Nếu với các di tích quốc gia đặc biệt thì chắc hẳn có sự đầu tư từ nguồn tài chính nhà nước và việc tu bổ phải được thực hiện nghiêm ngặt theo khoa học, tương ứng với những quy định của Luật Di sản văn hóa là lẽ tự nhiên. Với ngót bốn nghìn di tích cấp quốc gia, điều làm ta băn khoăn, liệu có đủ cán bộ chuyên môn và quản lý, đủ thợ chuyên môn hóa để thực thi việc tu bổ theo đòi hỏi khoa học bảo tồn không? Có thực tế không việc đặt ra các yêu cầu tu bổ hàng vạn di tích cấp tỉnh cũng theo bài bản khoa học, đặc biệt là việc bắt buộc sử dụng vật liệu theo gốc và bảo toàn tính nguyên gốc của di tích?
Theo cách làm phổ biến bây giờ, để tu bổ một di tích, cần dùng cả trăm m3 gỗ tứ thiết. Như thế, để tu bổ hàng trăm di tích, mỗi năm cần đến hàng vạn m3 gỗ đặc chủng. Rừng ở ta đã cạn kiệt những thứ ấy.
Cũng theo cách tính bây giờ, để tu bổ “thật cơ bản” một di tích, đòi hỏi đầu tư cả trăm tỷ đồng. Thực tế, mỗi năm, từ các nguồn, chỉ huy động được vài trăm tỷ. Trông chờ vào các nguồn xã hội hóa ư? Nhận ra sự thiên về đầu tư xây dựng các công trình tín ngưỡng mới.
Đã thực sự đến lúc cần tính toán và cân nhắc mọi bề, huy động cho được tấm lòng, tri thức, kinh nghiệm và sự cẩn trọng tối đa cho việc xác định những gì đích thực là tinh hoa của di sản văn hóa để dứt khoát giữ gìn nguyên vẹn cho được, để yên tâm trao vào tay con cháu mai sau.
Giữ lại những tinh hoa của di sản không chỉ bằng đầu tư tiền của và công sức, mà bằng cả sự chăm sóc ân cần và cặn kẽ thường nhật. Những gì quan sát được làm người viết bài này lo lắng. Tại ngôi đình Tây Đằng, di tích quốc gia đặc biệt, hoàn toàn thiếu vắng các công cụ và phương tiện phòng cháy chữa cháy. Nếu cháy thì ngôi đình cổ nhất này, ngôi nhà gỗ cổ nhất và một bảo tàng mỹ thuật dân gian độc hiếm này, khó bề không hóa thành tro bụi. Cũng ở huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội, ngôi đình Chu Quyến, di tích quốc gia đặc biệt, không được trang bị công cụ phòng cháy, chữa cháy. Nhiều lần đến thăm tuyệt tác kiến trúc gỗ từ thế kỷ 17 này, luôn phát hiện ở một góc sàn gỗ vung vãi những đầu lọc thuốc lá. Rùng mình!
Bên cạnh mối lo lớn về khả năng bảo tồn trọn vẹn ở mức tối đa có thể, di sản văn hóa vật chất của dân tộc, nhận ra những chiều hướng gây lo ngại cho sự vẹn toàn của nó.
Trước tiên, đó là xu hướng coi trọng tôn tạo di tích hơn là tu bổ duy trì, làm đẹp và làm sang nó theo cách hiểu nào đó, nhằm tăng sức hấp dẫn cho nó và thậm chí nhằm tăng thu nhập từ di tích. Hệ lụy là di tích và môi trường chung quanh bị biến dạng, bị hiện đại hóa, thậm chí rẻ rúng hóa. Đâu đó, trên những diễn đàn văn hóa, ai đó cổ súy cho việc làm kinh tế bằng di tích. Bảo tồn di sản là hoạt động có động lực và có bản chất văn hóa sâu xa.
Quá khứ xâu chuỗi bằng lịch sử. Lịch sử minh chứng bằng di tích-chứng nhân. Di tích là cái còn sót lại, may mắn thoát khỏi những tác nhân xâm hại và hủy hoại. Di tích không thể nào tái tạo, dù ta có trong tay các phương tiện hiện đại nhất. Cái được tái tạo có thể giống hoặc giông giống, song không bao giờ nó có được cái mà di tích là – sản phẩm của thời gian, không đảo ngược. Hãy gạt bỏ lối tư duy thực dụng, những toan tính trước mắt. Trước chúng ta là tổ tiên, nối tiếp chúng ta là con cháu. Vốn liếng cao đẹp chúng ta truyền vào tay hậu thế là những tinh hoa di sản văn hóa và dĩ nhiên, cả những gì thế hệ chúng ta đã tạo nên mà thời gian dung tha.
Chỉ mới ngót thế kỷ nay các thế hệ chúng ta mới giác ngộ ra về sự cần thiết phải giữ gìn những tài sản từ quá khứ, không phải với tư cách tài sản để sở hữu và sử dụng tiếp, mà là di sản văn hóa. Có lẽ thời nay tất cả các dân tộc, các quốc gia đều dành tâm sức và tiền của cho việc giữ gìn vốn liếng từ quá khứ của mình.
Phổ biến trong tu bổ di tích một cách làm, đó là chọn đại tu, tu bổ kiên cố, thay vì việc bảo quản và việc tu sửa nhỏ kịp thời. Cũng như trong xây dựng cơ bản, người ta chuộng những dự án lớn. Hễ là dự án lớn, thì vốn lớn, vật liệu nhiều, phần trăm lớn, lợi nhuận tương ứng. Từ đó, dự án tu bổ-đại tu một di tích cần đến cả trăm m3 gỗ tứ thiết, cả trăm tỷ đồng. Có lẽ các cụ ngày xưa xây cất nên cái đình, cái chùa ấy chẳng mất ngần nấy tiền. Rồi cũng như trong xây dựng, người ta tổ chức đấu thầu. Trúng thầu chưa chắc đã là anh có chuyên môn, có bề dày kinh nghiệm. Kết quả sau cuộc “tu bổ”, đại xáo trộn ấy, di tích tuy vững chắc hẳn lên, tuy dồi dào sức sống hẳn lên, thậm chí đẹp hẳn lên trong mắt ai đó, song nó khó có thể được gọi tôn kính là cụ, mà là anh. Tuổi của nó phải đếm từ ngày nó được tái sinh. Nó bị làm giả. Chứng nhân lịch sử bị làm giả.
Việc chữa trị bệnh tình cho di tích giông giống việc chữa trị người bệnh già. Khác ở chỗ, người bệnh già vừa thuyên giảm bệnh lại vừa trẻ ra thì hay quá. Còn di tích sau khi can thiệp, lại phải giữ nguyên độ tuổi, bảo lưu được giá trị chuyên biệt của mình – chứng nhân lịch sử hiếm hoi.
Suy nghĩ theo dòng này, những ai làm phận sự tu bổ bảo tồn di tích, dù là kỹ sư, chuyên gia bảo quản, kiến trúc sư, nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ, v.v. đều nên nhận rõ mình là những bác sĩ của di tích, ưu tiên phòng bệnh hơn chữa bệnh, ưu tiên can thiệp nhỏ hơn can thiệp lớn. Củng cố tăng tuổi thọ cho di tích chứ không làm cái việc cải lão hoàn đồng.
Công cuộc bảo tồn di sản văn hóa, di tích lịch sử và văn hóa, ở ta đã diễn ra hơn 60 năm nay, với quy mô ngày càng rộng lớn và những thành tựu không thể phủ định. Tuy nhiên, đã đến lúc cần thực hiện một cuộc tổng đánh giá tình hình nghiên cứu và tình trạng bảo tồn của di tích và di sản; rà soát lại danh mục các di tích đã được xếp hạng theo sự cân đối với khả năng thực tế về đầu tư mọi mặt cho bảo tồn an toàn, dựa trên sự ưu tiên tối đa, duy trì cho được những tinh hoa, những gì tiêu biểu hơn cả cho toàn bộ di sản văn hóa dân tộc; tổng đánh giá kỹ thuật và chất lượng, hiệu quả bảo quản và tu bổ di tích, nhất là các di tích quốc gia đặc biệt và trọng điểm khác. Nên chăng xây dựng một Xưởng – bệnh viện chuyên chữa trị các di tích quý giá nhất.
Duy trì nguyên vẹn di tích là việc cực kỳ khó khăn. Làm biến dạng và làm mất di tích lại dễ hơn nhiều. Sự nghiệp bảo tồn di sản nặng trĩu trách nhiệm với quá khứ-hiện tại và mai sau. Đụng chạm vào di tích, hãy dè dặt và ân cần.
|
Từ
bán đảo Sơn Trà
,
Đà Nẵng
, phóng tầm mắt nhìn ra biển rộng trời cao. Một khung cảnh đẹp đẽ, hiền hòa, trời xanh, rừng xanh, biển xanh…
Nhớ lại khung cảnh nơi đây giữa thế kỷ 19, những tiếng súng, tiếng pháo từ các tàu chiến của quân đội Pháp vang lên, bắt đầu đổ bộ xâm lược vào Việt Nam, mở đầu cho nhiều thời đoạn liên tiếp nối nhau với bạt ngàn đạn nổ, bom rơi, máu chảy. Pháp vào, rồi sau đó Mỹ can thiệp và xâm lược miền Nam Việt Nam, cũng là từ các đoàn tàu chiến nã pháo vào Sơn Trà. Dằng dặc bao nhiêu thời gian đã trôi qua, mãi sau này mới yên bình trở lại…
Việt Nam trúng cử vào Hội đồng nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025.
Sơn Trà bây giờ đã thành một địa điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng cả thế giới. Một quần thể khách sạn và khu resort cực kỳ cao cấp nương theo cây lá và sinh thái để mọc lên. Khách du lịch đến đây, vừa thư thái hưởng thụ những tiện ích phục vụ xa hoa, lại có thể thả lỏng lòng mình mà nghe gió hát, chim reo, ngắm voọc nâu, voọc trắng chuyền cành thân thiện… Nhiều tỷ phú thế giới đã đến đây nghỉ lại. Có những đám cưới vương giả của con cái những nhà giàu siêu sang trên thế giới đã diễn ra ở đây… Sơn Trà cũng là một địa điểm cho nhiều cuộc gặp gỡ lãnh đạo cấp cao của các quốc gia trên toàn cầu và đã mấy lần được chọn để tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC. Bây giờ thì cả những nghĩa tình xưa cùng với cả những thù nghịch xưa, đã trở nên là bạn bè, là đối tác tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, cùng hẹn đến Sơn Trà, để cùng bàn cách làm ăn, cùng phát triển và thịnh vượng.
Đặt vào giữa dòng chảy lịch sử bao nhiêu đời nay sẽ thấy sự thay đổi này có ý nghĩa to lớn biết chừng nào. Cũng nhớ, còn cách đây chưa lâu lắm, nhiều năm sau năm 1975, Việt Nam được nói tới trên nhiều diễn đàn thế giới, là nói về một cuộc chiến tranh dai dẳng của lịch sử thế giới hiện đại. Nhà ngoại giao kỳ cựu Lê Mai, một trong những kiến trúc sư của quá trình bình thường hóa quan hệ
Việt Nam
–
Hoa Kỳ
, đã phải đưa ra thông điệp với quốc tế: “Các bạn nên nhớ, Việt Nam là một đất nước chứ không phải là một cuộc chiến tranh!”. Từ năm 1995, Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, gia nhập ASEAN và bắt đầu tiến những bước dài trên con đường hội nhập với thế giới, tham gia vào các tổ chức quốc tế, chủ động và tự tin chia sẻ trí tuệ và nguồn lực cùng các chủ thể lớn để giải quyết các công việc của toàn cầu. Thật hạnh phúc biết bao, bây giờ chúng ta nhìn ra biển rộng trời cao là để chào đón bạn bè. Trông ra ngoài biển, ngắm nhìn từ trời cao xuống, bây giờ cũng là để nhìn vào những thay đổi, phát triển mạnh mẽ và đẹp đẽ của quốc gia.
Đất nước đã bao nhiêu năm rồi, trông ra biển, nhìn lên trời là để cảnh giác với kẻ thù đang sắp đến, là để đoán định cơn bão nào sắp cuộn lên? Cái tên gọi thành phố biển Hải Phòng của nước ta là cách gọi ngắn gọn lại từ cụm từ “Hải Tần phòng thủ” hay bắt nguồn từ cái tên đồn Hải Phòng đặt trên cửa sông Cấm ở xứ Ninh Hải xưa, thì cũng đã lý giải với cả vùng Bắc Bộ trước đây, đấy là nơi ta phải phòng thủ, phải để mắt mà canh gác. Bao nhiêu cọc gỗ đã được đẽo nhọn chờ thuyền giặc đến ở bến phà Rừng, ở sông Bạch Đằng, sông Quan Lạn ngoài Quảng Yên, Cẩm Phả… Cha ông ta đã lập bao nhiêu những trạm đồn trú trên biển, mỗi khi giặc giã lăm le tới, lại đốt khói đen bốc cao lên để thông báo cho đất liền. Rồi miên man những hải đoàn trên hải trình mờ mịt ngoài biển Đông hướng đến Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu… Xa hơn nữa, là Hoàng Sa, Trường Sa. Những chuyến đi đánh đổi bằng bao nhiêu mạng sống của những trai trẻ vùi thây nơi đáy biển hay thành mồi cho cá dữ, để tạc nên mốc chủ quyền, chưa nghĩ nhiều đến việc bao giờ sẽ khai thác sản vật, mà mới chỉ là ước mong đắp bồi thêm nhiều ấm vững cho đất liền.
Bao đời nay, những làng quê Việt bên bờ sóng biển Đông, người người lớp lớp đã cần mẫn, đổ mồ hôi sôi hạt máu đi ra với biển, để kiếm sống, để chinh phục gió bão. Hầu như ở làng xóm nào ven biển, cũng có thể nghe kể và chứng kiến những câu chuyện mặn mòi sóng biển. Các đền miếu thờ cá ông, thờ kình ngư, thờ Đông hải Đại vương… đã được lập nên ở mọi vùng biển. Ngay từ trong truyền thuyết, đồng bào ta được sinh ra trong cái bọc trăm trứng rồi nở ra trăm người con, thì cũng đã phải xẻ đàn: năm mươi người con theo mẹ lên rừng, năm mươi người con theo cha xuống biển. Khát vọng chinh phục biển khơi là tự nhiên, như máu chảy liên tục trong trái tim người Việt Nam ta…
Với những gì sử sách đã ghi, cha ông ta đã rất sớm chinh phục và phát triển kinh tế biển. Nơi sầm uất sớm nhất chính là Vân Đồn ở vùng Đông Bắc đất nước. Người Việt đã có mặt trên các đảo của vùng biển đảo Vân Đồn từ thời kỳ đồ đá mới. Di chỉ khảo cổ hang Soi Nhụ có trước cả văn hóa Hạ Long. Do ở cửa ngõ của vùng quần đảo hiểm yếu nên, theo sử sách, năm 980 ở đây đã có đồn Vân (đồn Mây, sau thành tên Vân Đồn), trấn giữ vùng biển Đông Bắc của quân đội nhà Tiền Lê. Đến triều Lý, năm 1149, vua Lý Anh Tông cho lập trang Vân Ðồn. Vân Đồn phát triển thành thương cảng đầu tiên của Đại Việt, mở hướng giao thương với các nước khu vực Đông Nam Á, rồi Đông Á và thế giới. Thương cảng Vân Đồn thịnh vượng suốt các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê… rồi suy thoái và bị lãng quên vào thời nhà Mạc. Sau thương cảng Vân Đồn, đến lượt Hội An ở miền Trung trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á. Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ 16 gắn với tên tuổi Nguyễn Hoàng và con trai là Nguyễn Phúc Nguyên. Họ đã xây dựng thành lũy, ra sức phát triển kinh tế, mở rộng giao thương buôn bán với nước ngoài và Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực là vì thế. Bây giờ, chúng ta vẫn đang được chứng kiến Hội An của cách đây năm thế kỷ đang đồng hành cùng công cuộc hội nhập thời hiện đại.
Một trăm năm sau sự ra đời của Hội An, theo bước chân của người Việt hành phương Nam, Phú Quốc và Hà Tiên được mở mang vào thế kỷ 17. Một vùng biển đảo đã vang danh “Hà Tiên thập cảnh”, “Hà Tiên thập vịnh”… Còn nhiều nữa những bước tiến ra biển của cha ông. Nhưng rồi từ giữa thế kỷ 19, nhiều kế hoạch lớn đã phải dừng lại vì lửa khói chiến tranh liên miên… Có khảo sát vào thăm thẳm những năm tháng lịch sử chinh phục, khai phá, phát triển biển từ bao đời, rồi hình dung những gì chúng ta đang làm hôm nay, mới thấy, ta đang đi những bước thật mạnh mẽ… Hy vọng sẽ đến một thời điểm hội tụ đầy đủ những yếu tố phát triển, ba vùng biển này sẽ đẹp đẽ và duyên dáng, có thể sánh vai với những thành phố biển nổi tiếng ở Địa Trung Hải, ở biển Hắc Hải như Nice (Pháp), Venice (Ý) hay Monaco…
Dọc theo bờ biển Việt Nam hôm nay đang thay đổi diện mạo nhanh chóng, đang kiến thiết sôi động, để còn thay đổi nhanh chóng hơn nữa. Này vùng vịnh Hạ Long, Bãi Cháy đã long lanh lên biết bao nhiêu, nơi cái bãi biển váng màu bụi than đen, cả trên mặt người và trên cây lá xưa, giờ tấp nập tàu thuyền du lịch thảnh thơi, những khách sạn năm sao sang trọng. Này Hải Phòng với cầu Lạch Huyện vượt biển dài kỷ lục và nhiều vùng bãi lầy tù đọng đã vươn lên thành đô thị, thành resort, khu công nghiệp, chế xuất. Đây Sầm Sơn, một vùng cửa sông tăm tối, giờ đã rực rỡ ánh đèn đêm, thánh thót đàn ca sáo nhị. Đây Quảng Bình cát trắng đang chuyển mình. Kia Bình Định, Phú Yên cũng đã kịp rực rỡ… Khó mà đếm hết những thay đổi đang diễn ra dọc bờ biển nước ta. Chỉ biết, có cảm giác như tất cả những khát vọng chinh phục và phát triển biển bao đời nay đang được cùng lúc thức dậy và vươn mình…
Thời bắt đầu làm đại lộ Hồ Chí Minh dọc đường mòn Trường Sơn thời đánh Mỹ, rồi làm đường dây 500 KV dài gần 1500 cây số tải điện từ Sông Đà vào TP Hồ Chí Minh, thấy đã hoành tráng ghê gớm lắm rồi. Bây giờ, là một đại lộ mới đang bắt đầu thênh thang dần, dọc theo bờ biển của đất nước… Ngồi trên xe phóng trên đường dài ven núi, mà trông ra biển xanh sóng trắng dào dạt, nhìn lên trời cao thăm thẳm… Tất cả đang náo nhiệt không khí của cuộc canh tân mới. Cả đất nước nhìn đâu cũng thấy dựng xây, kiến thiết. Trong cuộc canh tân mới mẻ và tầm cỡ này, phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích và đề cao mọi cá nhân cùng đất nước làm giàu, phát triển kinh tế thị trường, tôn trọng những quy luật khách quan nhưng chú trọng những đặc thù và sáng tạo riêng của quốc gia, đấy như là ta đang mở một mặt trận lớn. Trong công cuộc canh tân này, phát triển kinh tế biển là mũi nhọn đột phá.
Thiên thời, địa lợi
đã dần hội tụ về. Có lẽ, chưa bao giờ đất nước có vị thế và điều kiện để hướng tới phát triển như hiện nay. Lòng người, là
nhân hòa
, yếu tố rường cột và then chốt cho nguồn lực canh tân, đang được vun đắp. Và cần phải có thời gian, không thể sốt ruột. Những bước đi thận trọng và kiên quyết, để bóc gỡ những tồn tại và sai lạc của cả giai đoạn đã qua, đang đi dần đến đích, là sáng lên ngọn lửa
nhân hòa
trên đất liền, để chúng ta cùng đồng lòng nhất ý trông ra biển lớn. Việt Nam, một quốc gia biển cường thịnh, sẽ không chỉ là giấc mơ của dân tộc từ ngàn đời nay nữa!
|
Từ
bán đảo Sơn Trà
,
Đà Nẵng
, phóng tầm mắt nhìn ra biển rộng trời cao. Một khung cảnh đẹp đẽ, hiền hòa, trời xanh, rừng xanh, biển xanh…
Nhớ lại khung cảnh nơi đây giữa thế kỷ 19, những tiếng súng, tiếng pháo từ các tàu chiến của quân đội Pháp vang lên, bắt đầu đổ bộ xâm lược vào Việt Nam, mở đầu cho nhiều thời đoạn liên tiếp nối nhau với bạt ngàn đạn nổ, bom rơi, máu chảy. Pháp vào, rồi sau đó Mỹ can thiệp và xâm lược miền Nam Việt Nam, cũng là từ các đoàn tàu chiến nã pháo vào Sơn Trà. Dằng dặc bao nhiêu thời gian đã trôi qua, mãi sau này mới yên bình trở lại…
Việt Nam trúng cử vào Hội đồng nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025.
Sơn Trà bây giờ đã thành một địa điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng cả thế giới. Một quần thể khách sạn và khu resort cực kỳ cao cấp nương theo cây lá và sinh thái để mọc lên. Khách du lịch đến đây, vừa thư thái hưởng thụ những tiện ích phục vụ xa hoa, lại có thể thả lỏng lòng mình mà nghe gió hát, chim reo, ngắm voọc nâu, voọc trắng chuyền cành thân thiện… Nhiều tỷ phú thế giới đã đến đây nghỉ lại. Có những đám cưới vương giả của con cái những nhà giàu siêu sang trên thế giới đã diễn ra ở đây… Sơn Trà cũng là một địa điểm cho nhiều cuộc gặp gỡ lãnh đạo cấp cao của các quốc gia trên toàn cầu và đã mấy lần được chọn để tổ chức Hội nghị thượng đỉnh APEC. Bây giờ thì cả những nghĩa tình xưa cùng với cả những thù nghịch xưa, đã trở nên là bạn bè, là đối tác tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, cùng hẹn đến Sơn Trà, để cùng bàn cách làm ăn, cùng phát triển và thịnh vượng.
Đặt vào giữa dòng chảy lịch sử bao nhiêu đời nay sẽ thấy sự thay đổi này có ý nghĩa to lớn biết chừng nào. Cũng nhớ, còn cách đây chưa lâu lắm, nhiều năm sau năm 1975, Việt Nam được nói tới trên nhiều diễn đàn thế giới, là nói về một cuộc chiến tranh dai dẳng của lịch sử thế giới hiện đại. Nhà ngoại giao kỳ cựu Lê Mai, một trong những kiến trúc sư của quá trình bình thường hóa quan hệ
Việt Nam
–
Hoa Kỳ
, đã phải đưa ra thông điệp với quốc tế: “Các bạn nên nhớ, Việt Nam là một đất nước chứ không phải là một cuộc chiến tranh!”. Từ năm 1995, Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, gia nhập ASEAN và bắt đầu tiến những bước dài trên con đường hội nhập với thế giới, tham gia vào các tổ chức quốc tế, chủ động và tự tin chia sẻ trí tuệ và nguồn lực cùng các chủ thể lớn để giải quyết các công việc của toàn cầu. Thật hạnh phúc biết bao, bây giờ chúng ta nhìn ra biển rộng trời cao là để chào đón bạn bè. Trông ra ngoài biển, ngắm nhìn từ trời cao xuống, bây giờ cũng là để nhìn vào những thay đổi, phát triển mạnh mẽ và đẹp đẽ của quốc gia.
Đất nước đã bao nhiêu năm rồi, trông ra biển, nhìn lên trời là để cảnh giác với kẻ thù đang sắp đến, là để đoán định cơn bão nào sắp cuộn lên? Cái tên gọi thành phố biển Hải Phòng của nước ta là cách gọi ngắn gọn lại từ cụm từ “Hải Tần phòng thủ” hay bắt nguồn từ cái tên đồn Hải Phòng đặt trên cửa sông Cấm ở xứ Ninh Hải xưa, thì cũng đã lý giải với cả vùng Bắc Bộ trước đây, đấy là nơi ta phải phòng thủ, phải để mắt mà canh gác. Bao nhiêu cọc gỗ đã được đẽo nhọn chờ thuyền giặc đến ở bến phà Rừng, ở sông Bạch Đằng, sông Quan Lạn ngoài Quảng Yên, Cẩm Phả… Cha ông ta đã lập bao nhiêu những trạm đồn trú trên biển, mỗi khi giặc giã lăm le tới, lại đốt khói đen bốc cao lên để thông báo cho đất liền. Rồi miên man những hải đoàn trên hải trình mờ mịt ngoài biển Đông hướng đến Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu… Xa hơn nữa, là Hoàng Sa, Trường Sa. Những chuyến đi đánh đổi bằng bao nhiêu mạng sống của những trai trẻ vùi thây nơi đáy biển hay thành mồi cho cá dữ, để tạc nên mốc chủ quyền, chưa nghĩ nhiều đến việc bao giờ sẽ khai thác sản vật, mà mới chỉ là ước mong đắp bồi thêm nhiều ấm vững cho đất liền.
Bao đời nay, những làng quê Việt bên bờ sóng biển Đông, người người lớp lớp đã cần mẫn, đổ mồ hôi sôi hạt máu đi ra với biển, để kiếm sống, để chinh phục gió bão. Hầu như ở làng xóm nào ven biển, cũng có thể nghe kể và chứng kiến những câu chuyện mặn mòi sóng biển. Các đền miếu thờ cá ông, thờ kình ngư, thờ Đông hải Đại vương… đã được lập nên ở mọi vùng biển. Ngay từ trong truyền thuyết, đồng bào ta được sinh ra trong cái bọc trăm trứng rồi nở ra trăm người con, thì cũng đã phải xẻ đàn: năm mươi người con theo mẹ lên rừng, năm mươi người con theo cha xuống biển. Khát vọng chinh phục biển khơi là tự nhiên, như máu chảy liên tục trong trái tim người Việt Nam ta…
Với những gì sử sách đã ghi, cha ông ta đã rất sớm chinh phục và phát triển kinh tế biển. Nơi sầm uất sớm nhất chính là Vân Đồn ở vùng Đông Bắc đất nước. Người Việt đã có mặt trên các đảo của vùng biển đảo Vân Đồn từ thời kỳ đồ đá mới. Di chỉ khảo cổ hang Soi Nhụ có trước cả văn hóa Hạ Long. Do ở cửa ngõ của vùng quần đảo hiểm yếu nên, theo sử sách, năm 980 ở đây đã có đồn Vân (đồn Mây, sau thành tên Vân Đồn), trấn giữ vùng biển Đông Bắc của quân đội nhà Tiền Lê. Đến triều Lý, năm 1149, vua Lý Anh Tông cho lập trang Vân Ðồn. Vân Đồn phát triển thành thương cảng đầu tiên của Đại Việt, mở hướng giao thương với các nước khu vực Đông Nam Á, rồi Đông Á và thế giới. Thương cảng Vân Đồn thịnh vượng suốt các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê… rồi suy thoái và bị lãng quên vào thời nhà Mạc. Sau thương cảng Vân Đồn, đến lượt Hội An ở miền Trung trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á. Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ 16 gắn với tên tuổi Nguyễn Hoàng và con trai là Nguyễn Phúc Nguyên. Họ đã xây dựng thành lũy, ra sức phát triển kinh tế, mở rộng giao thương buôn bán với nước ngoài và Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực là vì thế. Bây giờ, chúng ta vẫn đang được chứng kiến Hội An của cách đây năm thế kỷ đang đồng hành cùng công cuộc hội nhập thời hiện đại.
Một trăm năm sau sự ra đời của Hội An, theo bước chân của người Việt hành phương Nam, Phú Quốc và Hà Tiên được mở mang vào thế kỷ 17. Một vùng biển đảo đã vang danh “Hà Tiên thập cảnh”, “Hà Tiên thập vịnh”… Còn nhiều nữa những bước tiến ra biển của cha ông. Nhưng rồi từ giữa thế kỷ 19, nhiều kế hoạch lớn đã phải dừng lại vì lửa khói chiến tranh liên miên… Có khảo sát vào thăm thẳm những năm tháng lịch sử chinh phục, khai phá, phát triển biển từ bao đời, rồi hình dung những gì chúng ta đang làm hôm nay, mới thấy, ta đang đi những bước thật mạnh mẽ… Hy vọng sẽ đến một thời điểm hội tụ đầy đủ những yếu tố phát triển, ba vùng biển này sẽ đẹp đẽ và duyên dáng, có thể sánh vai với những thành phố biển nổi tiếng ở Địa Trung Hải, ở biển Hắc Hải như Nice (Pháp), Venice (Ý) hay Monaco…
Dọc theo bờ biển Việt Nam hôm nay đang thay đổi diện mạo nhanh chóng, đang kiến thiết sôi động, để còn thay đổi nhanh chóng hơn nữa. Này vùng vịnh Hạ Long, Bãi Cháy đã long lanh lên biết bao nhiêu, nơi cái bãi biển váng màu bụi than đen, cả trên mặt người và trên cây lá xưa, giờ tấp nập tàu thuyền du lịch thảnh thơi, những khách sạn năm sao sang trọng. Này Hải Phòng với cầu Lạch Huyện vượt biển dài kỷ lục và nhiều vùng bãi lầy tù đọng đã vươn lên thành đô thị, thành resort, khu công nghiệp, chế xuất. Đây Sầm Sơn, một vùng cửa sông tăm tối, giờ đã rực rỡ ánh đèn đêm, thánh thót đàn ca sáo nhị. Đây Quảng Bình cát trắng đang chuyển mình. Kia Bình Định, Phú Yên cũng đã kịp rực rỡ… Khó mà đếm hết những thay đổi đang diễn ra dọc bờ biển nước ta. Chỉ biết, có cảm giác như tất cả những khát vọng chinh phục và phát triển biển bao đời nay đang được cùng lúc thức dậy và vươn mình…
Thời bắt đầu làm đại lộ Hồ Chí Minh dọc đường mòn Trường Sơn thời đánh Mỹ, rồi làm đường dây 500 KV dài gần 1500 cây số tải điện từ Sông Đà vào TP Hồ Chí Minh, thấy đã hoành tráng ghê gớm lắm rồi. Bây giờ, là một đại lộ mới đang bắt đầu thênh thang dần, dọc theo bờ biển của đất nước… Ngồi trên xe phóng trên đường dài ven núi, mà trông ra biển xanh sóng trắng dào dạt, nhìn lên trời cao thăm thẳm… Tất cả đang náo nhiệt không khí của cuộc canh tân mới. Cả đất nước nhìn đâu cũng thấy dựng xây, kiến thiết. Trong cuộc canh tân mới mẻ và tầm cỡ này, phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích và đề cao mọi cá nhân cùng đất nước làm giàu, phát triển kinh tế thị trường, tôn trọng những quy luật khách quan nhưng chú trọng những đặc thù và sáng tạo riêng của quốc gia, đấy như là ta đang mở một mặt trận lớn. Trong công cuộc canh tân này, phát triển kinh tế biển là mũi nhọn đột phá.
Thiên thời, địa lợi
đã dần hội tụ về. Có lẽ, chưa bao giờ đất nước có vị thế và điều kiện để hướng tới phát triển như hiện nay. Lòng người, là
nhân hòa
, yếu tố rường cột và then chốt cho nguồn lực canh tân, đang được vun đắp. Và cần phải có thời gian, không thể sốt ruột. Những bước đi thận trọng và kiên quyết, để bóc gỡ những tồn tại và sai lạc của cả giai đoạn đã qua, đang đi dần đến đích, là sáng lên ngọn lửa
nhân hòa
trên đất liền, để chúng ta cùng đồng lòng nhất ý trông ra biển lớn. Việt Nam, một quốc gia biển cường thịnh, sẽ không chỉ là giấc mơ của dân tộc từ ngàn đời nay nữa!
|
Là một người viết, thời điểm cuối năm chuẩn bị cho việc ‘tống cựu nghinh tân’ thường hay gợi cho tôi biết bao điều suy nghĩ về nghề, về thời trẻ, hay nói đúng hơn, những ý nghĩ nhiều nhất là công việc thường ngày của mình.
Thực ra không một nhà văn nào trong suốt hành trình sáng tác không có một đôi lần viết về thiếu nhi, viết cho thiếu nhi. Nhưng thành công thì không phải ai cũng đạt được. Văn học (cho) thiếu nhi và văn học (về) thiếu nhi hiện nay là cả một vấn đề lớn rất đáng được các nhà văn, các nhà giáo, các nhà nghiên cứu và cả các nhà xuất bản sách bàn luận. Mấy năm gần đây cũng đã có không ít những cuộc hội thảo sôi nổi nghiêm túc, đầy trách nhiệm, đặc biệt Nhà xuất bản Kim Đồng và Nhà xuất bản Trẻ đã có những nỗ lực thiết thực nhằm tạo nên những “cú hích” đột biến như tổ chức những cuộc thi với quy mô lớn, giải thưởng cao. Nhiều nhà văn vào cuộc và cũng nhiều nhà văn, có vào cuộc mới tự biết rằng, mình cần phải ngả mũ “chào thua” các cuộc phát động theo phong trào sớm!
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Nói như vậy không có nghĩa là ở ta không có những tác giả sáng giá viết cho thiếu nhi, viết vì thiếu nhi khi có phong trào. Nhưng người đứng riêng một mình, đi riêng một mình, một lối là hiện tượng viết sách được các em đón nhận nồng nhiệt nhất như sách của nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh
. Mấy chục năm nay anh vẫn kiên quyết làm một hiện tượng độc lập, chưa có tác giả nào sánh vai đi cùng anh! Sách của Nguyễn Nhật Ánh luôn luôn chiếm lĩnh văn đàn viết cho thiếu nhi, in với số lượng lớn mà vẫn bán hết. Có nhiều nhà văn nói với tôi, mình đã “đọc thử” sách của Nguyễn Nhật Ánh, nhưng đọc mãi vẫn không vô! Lại có nhà văn bảo, thấy con đọc say sưa, mình lấy đọc “nghiêm túc” coi thử trong ấy có cái gì mà trẻ nó ham mê vậy. Nhưng đọc không thể hết được! Tôi nghĩ, dứt khoát phải có “cái gì đó” trong bút pháp, trong thủ pháp, trong rất nhiều yếu tố như câu chuyện, lối kể chuyện, cách nắm bắt tâm lý, sự thể hiện “thế nào đó” mới khiến các em say mê đến vậy.
Tôi đem điều băn khoăn này nói chuyện với mấy người bạn có nhiều thâm niên biên tập sách ở nhà xuất bản Kim Đồng, các bạn tôi bảo, hình như Nguyễn Nhật Ánh nắm được bí quyết quan trọng nhất, ấy là tâm lý lứa tuổi thiếu nhi và anh ấy rất hiểu sở thích của các em.
Có thể nói, trong các câu chuyện của Nguyễn Nhật Ánh, anh quan tâm nhiều tới yếu tố giải trí, chọc cười. Nhận xét này theo tôi là chưa ổn, hình như vẫn còn thiếu, thiếu nhiều thứ. Nhưng, cái thiếu cơ bản là cái gì cơ! Tiếp theo, một người khác đưa ra nhận định: đó là tài năng và tâm huyết. Thêm nữa, đó là có cả yếu tố định mệnh, số phận, cơ duyên của mỗi ngòi bút!
Trong văn học, chức năng giải trí là một chức năng đặc biệt quan trọng, nhất lại là văn học viết cho các em, viết vì các em, như lâu nay ta vẫn nói. Làm tròn được một chức năng giải trí “cỡ” Nguyễn Nhật Ánh là quý hiếm lắm. Nói vậy thì tôi cũng chỉ tạm chịu vậy! Mà chịu thì chịu, nhưng tôi về tôi nghĩ, nó cứ hình như còn có chút “gì đó” khiến tôi ngờ ngợ.
Tôi vẫn cho rằng, đã là tác phẩm văn học hay thì tự nó sẽ vượt qua giới hạn của thời gian và tuổi tác, đề tài hay các món mà ta hay gọi là chức năng. Ví dụ như “Dế Mèn phiêu lưu ký” của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm điển hình, ở tuổi nào đọc cũng thấy hay, ở thời đại nào người đọc cũng thấy khoái, ở dân tộc nào đọc cũng mê.
Văn học quyết không lụy đề tài cũng như bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng, không thể nói mùa Đông rét quá chả có gì đẹp, mùa hè nóng quá ai mà chịu nổi, chỉ có mùa Thu hay mùa Xuân mới đẹp. Mỗi tác giả có cá tính sáng tạo riêng. Chính cái riêng ấy là cửa mở giúp cho người đọc bước vào thế giới mà tác giả tạo nên. Nó được đón nhận như thế nào thì cũng tùy thuộc vào sự hòa hợp giữa hai tâm hồn người viết và người đọc.
Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật ánh.
Có một lần tôi được Nguyễn Nhật Ánh tặng một thùng sách to, anh ghi rõ trang bìa phụ từng cuốn: “Chú Ánh tặng hai cháu Cún và Thỏ”.
Năm ấy Cún 11, Thỏ thì 20 tuổi. Tôi rộn ràng khuân về nhà khoe hai cháu. Không ngờ trong phòng chúng nó, chúng nó mở giá sách riêng đều đã mua gần như đủ cả. Vâng, các cháu tự mua từ lúc nào tôi cũng không hay biết!
Đầu Xuân cho phép tôi bộc bạch đôi dòng tản mạn mong góp vui cùng các bạn viết.
|
As a writer, the end of the year preparing for 'getting rid of the old and welcoming the new' often reminds me of many thoughts about my career, about my youth, or rather, the most common thoughts are about regular work. your day.
In fact, there is no writer who has not written about children or for children at least once in their creative journey. But success is not achieved by everyone. Children's literature and children's literature today is a big issue that deserves to be discussed by writers, teachers, researchers and even book publishers. In recent years, there have been many exciting, serious and responsible conferences, especially Kim Dong Publishing House and Tre Publishing House have made practical efforts to create sudden "push" variable such as organizing large-scale competitions with high prizes. Many writers get involved and many writers, once they get involved, know that they need to throw their hat in the ring and "say goodbye" to the movement's initiatives early!
Writer Nguyen Nhat Anh.
Saying this does not mean that we do not have bright authors writing for children, writing for children when there is a movement. But the person who stands alone, walks alone, goes the same way is the phenomenon of writing books that are most warmly received by children as books by writers.
Nguyen Nhat Anh
. For decades now, he has been determined to create an independent phenomenon, and no author has come close to accompanying him! Nguyen Nhat Anh's books always dominate the literature for children, printed in large quantities but still sold out. Many writers told me that they had "tried" to read Nguyen Nhat Anh's books, but they still couldn't get through them! Another writer said that when I see my child reading passionately, I read it "seriously" to see if there is anything in it that the child is so passionate about. But I can't read it all! I think, there must definitely be "something" in the writing style, in the method, in many factors such as story, storytelling, way of capturing psychology, "somehow" expression that makes the readers I'm so passionate.
I discussed this concern with my friends who have many years of experience editing books at Kim Dong publishing house. My friends said that it seems that Nguyen Nhat Anh knows the most important secret, which is age psychology. children and he understands their interests very well.
It can be said that in Nguyen Nhat Anh's stories, he pays a lot of attention to the element of entertainment and laughter. In my opinion, this comment is not good, it seems like there are still many things missing. But, what is the basic lack! Next, another person commented: it's talent and dedication. In addition, there is also the element of destiny, fate, and destiny of each pen!
In literature, the entertainment function is a particularly important function, especially literature written for children, written for them, as we have long said. Being able to fulfill an entertainment function "the size" of Nguyen Nhat Anh is very rare. Having said that, I'll just accept it for now! I can bear with it, but when I came back I thought, it still seemed like there was a bit of "something" that made me suspicious.
I still think that if it is a good literary work, it will overcome the limits of time and age, subject matter or things that we often call functions. For example, "The Adventures of Cricket" by writer To Hoai is a typical work that can be read at any age, enjoyed by readers in any era, and enjoyed by any ethnic group.
Literature is determined not to obsess over the topic as well as the four seasons Spring Summer Fall Winter, each season has its own beauty, it cannot be said that winter is too cold there is nothing beautiful, summer is too hot who can stand it, there is only autumn or summer. Beautiful new spring. Each author has his own creative personality. That uniqueness is the opening door that helps readers enter the world created by the author. How it is received depends on the harmony between the souls of the writer and the reader.
Some works of writer Nguyen Nhat Anh.
One time, I was given a large box of books by Nguyen Nhat Anh. He clearly wrote on the cover of each book: "Uncle Anh gives you two children, Dog and Rabbit."
That year, Dog was 11 and Rabbit was 20 years old. I was excited to go home and show off my two grandchildren. Unexpectedly, in their room, they opened their own bookshelves and bought almost everything. Yes, they bought it themselves without me even knowing!
Early Spring allows me to confide a few random lines with the hope of contributing to the fun of fellow writers.
|
Sau
Chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954, Hiệp định Geneve được ký kết. Theo nội dung của bản Hiệp định, Việt Nam tạm thời chia cắt làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời. Trong thời gian 2 năm sẽ thống nhất hai miền trên cơ sở một cuộc tổng tuyển cử tự do. Trong thời gian này, không nước nào được đưa vào Việt Nam các dạng vũ khí như máy bay chiến đấu, tàu hải quân, pháo lớn và xe bọc thép. Hiệp định cũng ghi rõ, không một nước nào được thiết lập căn cứ quân sự ở hai miền. Hai bên không được gia nhập vào khối liên minh quân sự nào, không được lợi dụng để tái diễn tình trạng chiến tranh.
Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Phiên khai mạc Hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Paris, ngày 25/1/1969.
Mỹ là một bên, một thành viên tham gia Hội nghị Geneve. Cho dù nước Mỹ không ký vào Hiệp định này, thì nó vẫn có giá trị pháp lý quốc tế. Tuy nhiên, Mỹ đã ngang nhiên phá hoại Hiệp định, đưa quân vào miền Nam, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Vì thế, vấn đề mấu chốt nhất trên bàn đàm phán Paris chính là vấn đề rút quân Mỹ ra khỏi chiến trường miền Nam. Và với thắng lợi của Hiệp định Paris, chúng ta đã tiến một bước dài quan trọng trong việc xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước trong suốt 20 năm ròng rã.
Ngày 8/5/1969, Đại diện cho Phái đoàn Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Trần Bửu Kiếm đưa ra đề nghị giải pháp 10 điểm cho Hội nghị Paris. Trong đó, có nội dung lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam do các bên miền Nam giải quyết. Đề nghị này, mở đường cho việc Mỹ rút lui trong danh dự mà vẫn có khả năng giữ được chính quyền tay sai Sài Gòn. Chúng ta đã nhân nhượng như vậy, nhưng Tổng thống Mỹ Nixon vẫn cố tình phớt lờ đề nghị. Ông ta ngang nhiên đưa ra yêu cầu, mặc cả với chúng ta, nếu quân Mỹ rút thì quân miền Bắc cũng phải rút khỏi miền Nam.
Người Mỹ hiểu rằng, với hơn nữa triệu quân, binh hùng tướng mạnh, vũ khí trang bị đầy đủ, hiện đại nhất thế giới mà trong suốt 4 năm, kể từ năm 1968, Mỹ và ngụy vẫn không giành được mục tiêu đề ra. Nay nếu Mỹ rút đi, tương quan so sánh lực lượng sẽ có sự chênh lệch, bất lợi cho Nguyễn Văn Thiệu. Vì thế, nếu Mỹ rút đi mà quân đội miền Bắc vẫn còn ở lại, thì sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong khi đó, chúng ta kiên trì lập luận, Mỹ là kẻ đi xâm lược, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, vì vậy, Mỹ phải rút toàn bộ quân Mỹ và quân chư hầu khỏi Việt Nam.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan
phân tích: “Quá trình đàm phán, chúng ta trước sau kiên định hai điều. Một là, Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam. Việc của Việt Nam phải do Việt Nam quyết định. Hai là dứt khoát Mỹ phải rút quân hoàn toàn ra khỏi Việt Nam. Còn quân đội Việt Nam, dù là ở miền Nam hay miền Bắc cũng trên đất Việt Nam, không có chuyện rút đi đâu cả, không thể rút ra khỏi đất nước mình”.
Còn Thiếu tướng Vũ Quang Đạo, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự cho rằng, đó là âm mưu, ý đồ của Mỹ.
“Mỹ không muốn chấp nhận ngay những yêu cầu của Việt Nam Dân chủ cộng hòa và sau này là của Chính phủ lâm thời đưa ra. Yêu cầu chấp nhận cao nhất của chúng ta là quân Mỹ rút ra, quân ta ở lại. Nói ngắn gọn là như thế. Bởi vì, Việt Nam là của chúng tôi. Mỹ xâm lược Việt Nam, bây giờ nếu muốn hòa bình ở Việt Nam thì Mỹ cứ về đi. Chúng tôi tự giải quyết. Yêu cầu cơ bản đó Mỹ biết nhưng Mỹ không chấp nhận. Và để không chấp nhận chuyện đó, họ vin vào đủ mọi cớ, để chưa đặt bút ký. Cho nên riêng chuyện Chính phủ lâm thời có được tham gia hay không phải mất mấy hội nghị bàn đi bàn lại”, Thiếu tướng Vũ Quang Đạo thông tin thêm.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng. (Ảnh: Trí thức Việt Nam).
Khi gây ra cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, Mỹ luôn rêu rao, xuyên tạc cho rằng, miền Bắc xâm lược miền Nam. Mỹ phải có trách nhiệm ngăn chặn cộng sản xuống miền Nam Việt Nam. Họ còn tuyên truyền kích động dư luận thế giới, cho rằng miền Bắc là tay sai của các thế lực cộng sản nước ngoài. Do đó, họ ngang nhiên đưa ra đòi hỏi quân đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng khẳng định: Đây là một đòi hỏi vô lý. Bởi lẽ, nước Việt Nam là một thực thể độc lập, thống nhất và có chủ quyền. Sự phân chia hai miền Nam – Bắc sau Hiệp định Geneve năm 1954, chỉ là sự phân chia mang tính tạm thời. Nhưng người Mỹ luôn tìm cách đánh đồng bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của mình với sự có mặt của quân đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam.
“Chúng ta kiên trì nguyên tắc đất nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Miền Bắc giúp đỡ miền Nam để đánh thắng kẻ thù xâm lược, chứ không đi xâm lược ai cả. Trong lịch sử, đất nước ta là một dải thống nhất. Mỹ đã cam tâm chia cắt vĩ tuyến 17 thành ranh giới quốc gia. Chúng ta kiên trì quan điểm ấy đến khoảng giữa năm 1971 thì Mỹ thôi đòi hỏi bộ đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam. Trong khi đó, chúng ta vẫn kiên trì yêu cầu Mỹ đưa ra lịch trình rút quân ra khỏi Việt Nam, rút càng nhanh càng tốt”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà chia sẻ.
Bà Nguyễn Thị Bình, đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trong cuộc họp báo tại Paris. (Nguồn: Getty Images).
Dù đã có sự tác chiến trực tiếp của quân Mỹ và quân chư hầu có thời điểm lên tới hơn nửa triệu quân, với tất cả những vũ khí tối tân hiện đại, nhưng người Mỹ vẫn thất bại. Với thực trạng đó, nếu người Mỹ rút khỏi chiến trường miền Nam thì quân đội và chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa sẽ nhanh chóng bị đè bẹp, Việt Nam sẽ thống nhất. Và ngược lại, nếu ta rút quân đội miền Bắc ra khỏi miền Nam, thì lực lượng Quân giải phóng miền Nam sẽ khó chống đỡ nổi quân lực Việt Nam Cộng hòa với sự giúp đỡ của Mỹ. Và như thế miền Nam sẽ không được giải phóng, nước Việt Nam sẽ bị chia cắt lâu dài thành hai miền giống như tình trạng của Triều Tiên và Hàn Quốc.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hà Minh Hồng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng, những mâu thuẫn trong giới chóp bu Lầu Năm Góc với chính quyền tai sai Nguyễn Văn Thiệu là bài toán nan giải, chính vì chưa đưa ra được đáp số cho bài toán này mà người Mỹ còn chần chừ, do dự khi quyết định rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.
“Đó cũng là sản phẩm họ đẻ ra họ phải chịu. Đó chính là chính quyền Việt Nam cộng hòa. Bởi vì chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nhất là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó, đã thấy rõ được là, nếu như kết thúc cuộc chiến bằng cách là Mỹ rút ra, mà để lại nguyên si cái lực lượng này. Tức là Quân Giải phóng ở lại đây, Quân đội nhân dân Việt Nam ở trên đất nước của mình, một cách tất yếu như vậy, thì sớm muộn chính quyền Việt Nam Cộng hòa sẽ không còn tồn tại. Cho nên họ tìm mọi cách để níu kéo Mỹ, lôi kéo Mỹ, không được thì họ còn phản đối Mỹ. Cho nên, mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong quá trình đàm phán ở Paris, là một trong những vấn đề, một bài toán khó giải nhất của Tổng thống Mỹ.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản. (Ảnh: Học viện cán bộ TP.HCM).
Quan điểm của chúng ta khẳng định rất rõ: Đây là đất nước Việt Nam, người Việt Nam dù ở bất cứ miền nào trên lãnh thổ Việt Nam đều có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia đánh đuổi quân xâm lược. Vì vậy, phái đoàn đàm phán của ta nhận chỉ thị phải dứt khoát đạt cho được mục tiêu: Quân Mỹ thì ra còn quân ta ở lại. Quán triệt tinh thần chỉ đạo đó, các đoàn ngoại giao của ta đã ứng biến linh hoạt để đi tới ngày ký kết. Đây cũng là nhận định của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản.
“Tôi nghĩ dĩ bất biến ở đây chính là dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, tuy nhiên để đạt được nguyên tắc đó thì phong cách, thao tác nội dung ngoại giao có những điều khoản cụ thể, chúng ta có thể uyển chuyển, nhưng cuối cùng, quan trọng nhất không thể xa rời, đó là lợi ích dân tộc. Cũng giống như trong đấu tranh Paris, chúng ta giữ vững ngay từ đầu những nguyên tắc, đó là Mỹ mang quân đến xâm lược Việt Nam thì họ buộc phải rút quân ra khỏi Việt Nam, công việc của người Việt Nam do người Việt Nam quyết định và có đủ khả năng quyết định”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hà nêu thêm.
16h ngày 29-3-1973, tại sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ làm lễ cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam. (Ảnh tư liệu).
Hai tháng sau khi Hiệp đinh Paris được ký kết, Bộ Chỉ huy Quân viễn chinh Mỹ đã làm lễ cuốn cờ, đánh dấu sự kết thúc hiện diện của 2,6 triệu lượt quân Mỹ từng có mặt ở Việt Nam trong suốt 20 năm tham chiến. Với việc quân Mỹ rút khỏi miền Nam, trong khi bộ đội miền Bắc vẫn tiếp tục ở lại, điều đó đã tạo ra tình thế mới rất có lợi để chúng ta tiếp đà thắng lợi đánh cho ngụy nhào. Như vậy, ranh giới phân chia hai miền trên lý thuyết và thực tế đã bị xóa bỏ, âm mưu chia cắt đất nước ta của người Mỹ đã biến thành ảo vọng. Để có được những thắng lợi vang dội cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán, chúng ta luôn nêu cao tinh thần tự lực, chính nghĩa. Và trên thực tế, đại nghĩa đã thắng hung tàn, chí nhân đã thay cường bạo./.
|
Sau
Chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954, Hiệp định Geneve được ký kết. Theo nội dung của bản Hiệp định, Việt Nam tạm thời chia cắt làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời. Trong thời gian 2 năm sẽ thống nhất hai miền trên cơ sở một cuộc tổng tuyển cử tự do. Trong thời gian này, không nước nào được đưa vào Việt Nam các dạng vũ khí như máy bay chiến đấu, tàu hải quân, pháo lớn và xe bọc thép. Hiệp định cũng ghi rõ, không một nước nào được thiết lập căn cứ quân sự ở hai miền. Hai bên không được gia nhập vào khối liên minh quân sự nào, không được lợi dụng để tái diễn tình trạng chiến tranh.
Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Phiên khai mạc Hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Paris, ngày 25/1/1969.
Mỹ là một bên, một thành viên tham gia Hội nghị Geneve. Cho dù nước Mỹ không ký vào Hiệp định này, thì nó vẫn có giá trị pháp lý quốc tế. Tuy nhiên, Mỹ đã ngang nhiên phá hoại Hiệp định, đưa quân vào miền Nam, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Vì thế, vấn đề mấu chốt nhất trên bàn đàm phán Paris chính là vấn đề rút quân Mỹ ra khỏi chiến trường miền Nam. Và với thắng lợi của Hiệp định Paris, chúng ta đã tiến một bước dài quan trọng trong việc xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước trong suốt 20 năm ròng rã.
Ngày 8/5/1969, Đại diện cho Phái đoàn Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Trần Bửu Kiếm đưa ra đề nghị giải pháp 10 điểm cho Hội nghị Paris. Trong đó, có nội dung lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam do các bên miền Nam giải quyết. Đề nghị này, mở đường cho việc Mỹ rút lui trong danh dự mà vẫn có khả năng giữ được chính quyền tay sai Sài Gòn. Chúng ta đã nhân nhượng như vậy, nhưng Tổng thống Mỹ Nixon vẫn cố tình phớt lờ đề nghị. Ông ta ngang nhiên đưa ra yêu cầu, mặc cả với chúng ta, nếu quân Mỹ rút thì quân miền Bắc cũng phải rút khỏi miền Nam.
Người Mỹ hiểu rằng, với hơn nữa triệu quân, binh hùng tướng mạnh, vũ khí trang bị đầy đủ, hiện đại nhất thế giới mà trong suốt 4 năm, kể từ năm 1968, Mỹ và ngụy vẫn không giành được mục tiêu đề ra. Nay nếu Mỹ rút đi, tương quan so sánh lực lượng sẽ có sự chênh lệch, bất lợi cho Nguyễn Văn Thiệu. Vì thế, nếu Mỹ rút đi mà quân đội miền Bắc vẫn còn ở lại, thì sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong khi đó, chúng ta kiên trì lập luận, Mỹ là kẻ đi xâm lược, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, vì vậy, Mỹ phải rút toàn bộ quân Mỹ và quân chư hầu khỏi Việt Nam.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan.
Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan
phân tích: “Quá trình đàm phán, chúng ta trước sau kiên định hai điều. Một là, Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam. Việc của Việt Nam phải do Việt Nam quyết định. Hai là dứt khoát Mỹ phải rút quân hoàn toàn ra khỏi Việt Nam. Còn quân đội Việt Nam, dù là ở miền Nam hay miền Bắc cũng trên đất Việt Nam, không có chuyện rút đi đâu cả, không thể rút ra khỏi đất nước mình”.
Còn Thiếu tướng Vũ Quang Đạo, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự cho rằng, đó là âm mưu, ý đồ của Mỹ.
“Mỹ không muốn chấp nhận ngay những yêu cầu của Việt Nam Dân chủ cộng hòa và sau này là của Chính phủ lâm thời đưa ra. Yêu cầu chấp nhận cao nhất của chúng ta là quân Mỹ rút ra, quân ta ở lại. Nói ngắn gọn là như thế. Bởi vì, Việt Nam là của chúng tôi. Mỹ xâm lược Việt Nam, bây giờ nếu muốn hòa bình ở Việt Nam thì Mỹ cứ về đi. Chúng tôi tự giải quyết. Yêu cầu cơ bản đó Mỹ biết nhưng Mỹ không chấp nhận. Và để không chấp nhận chuyện đó, họ vin vào đủ mọi cớ, để chưa đặt bút ký. Cho nên riêng chuyện Chính phủ lâm thời có được tham gia hay không phải mất mấy hội nghị bàn đi bàn lại”, Thiếu tướng Vũ Quang Đạo thông tin thêm.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng. (Ảnh: Trí thức Việt Nam).
Khi gây ra cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, Mỹ luôn rêu rao, xuyên tạc cho rằng, miền Bắc xâm lược miền Nam. Mỹ phải có trách nhiệm ngăn chặn cộng sản xuống miền Nam Việt Nam. Họ còn tuyên truyền kích động dư luận thế giới, cho rằng miền Bắc là tay sai của các thế lực cộng sản nước ngoài. Do đó, họ ngang nhiên đưa ra đòi hỏi quân đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng khẳng định: Đây là một đòi hỏi vô lý. Bởi lẽ, nước Việt Nam là một thực thể độc lập, thống nhất và có chủ quyền. Sự phân chia hai miền Nam – Bắc sau Hiệp định Geneve năm 1954, chỉ là sự phân chia mang tính tạm thời. Nhưng người Mỹ luôn tìm cách đánh đồng bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của mình với sự có mặt của quân đội miền Bắc ở chiến trường miền Nam.
“Chúng ta kiên trì nguyên tắc đất nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Miền Bắc giúp đỡ miền Nam để đánh thắng kẻ thù xâm lược, chứ không đi xâm lược ai cả. Trong lịch sử, đất nước ta là một dải thống nhất. Mỹ đã cam tâm chia cắt vĩ tuyến 17 thành ranh giới quốc gia. Chúng ta kiên trì quan điểm ấy đến khoảng giữa năm 1971 thì Mỹ thôi đòi hỏi bộ đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam. Trong khi đó, chúng ta vẫn kiên trì yêu cầu Mỹ đưa ra lịch trình rút quân ra khỏi Việt Nam, rút càng nhanh càng tốt”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hà chia sẻ.
Bà Nguyễn Thị Bình, đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, trong cuộc họp báo tại Paris. (Nguồn: Getty Images).
Dù đã có sự tác chiến trực tiếp của quân Mỹ và quân chư hầu có thời điểm lên tới hơn nửa triệu quân, với tất cả những vũ khí tối tân hiện đại, nhưng người Mỹ vẫn thất bại. Với thực trạng đó, nếu người Mỹ rút khỏi chiến trường miền Nam thì quân đội và chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa sẽ nhanh chóng bị đè bẹp, Việt Nam sẽ thống nhất. Và ngược lại, nếu ta rút quân đội miền Bắc ra khỏi miền Nam, thì lực lượng Quân giải phóng miền Nam sẽ khó chống đỡ nổi quân lực Việt Nam Cộng hòa với sự giúp đỡ của Mỹ. Và như thế miền Nam sẽ không được giải phóng, nước Việt Nam sẽ bị chia cắt lâu dài thành hai miền giống như tình trạng của Triều Tiên và Hàn Quốc.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hà Minh Hồng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng, những mâu thuẫn trong giới chóp bu Lầu Năm Góc với chính quyền tai sai Nguyễn Văn Thiệu là bài toán nan giải, chính vì chưa đưa ra được đáp số cho bài toán này mà người Mỹ còn chần chừ, do dự khi quyết định rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.
“Đó cũng là sản phẩm họ đẻ ra họ phải chịu. Đó chính là chính quyền Việt Nam cộng hòa. Bởi vì chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nhất là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lúc đó, đã thấy rõ được là, nếu như kết thúc cuộc chiến bằng cách là Mỹ rút ra, mà để lại nguyên si cái lực lượng này. Tức là Quân Giải phóng ở lại đây, Quân đội nhân dân Việt Nam ở trên đất nước của mình, một cách tất yếu như vậy, thì sớm muộn chính quyền Việt Nam Cộng hòa sẽ không còn tồn tại. Cho nên họ tìm mọi cách để níu kéo Mỹ, lôi kéo Mỹ, không được thì họ còn phản đối Mỹ. Cho nên, mâu thuẫn giữa Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong quá trình đàm phán ở Paris, là một trong những vấn đề, một bài toán khó giải nhất của Tổng thống Mỹ.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản. (Ảnh: Học viện cán bộ TP.HCM).
Quan điểm của chúng ta khẳng định rất rõ: Đây là đất nước Việt Nam, người Việt Nam dù ở bất cứ miền nào trên lãnh thổ Việt Nam đều có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia đánh đuổi quân xâm lược. Vì vậy, phái đoàn đàm phán của ta nhận chỉ thị phải dứt khoát đạt cho được mục tiêu: Quân Mỹ thì ra còn quân ta ở lại. Quán triệt tinh thần chỉ đạo đó, các đoàn ngoại giao của ta đã ứng biến linh hoạt để đi tới ngày ký kết. Đây cũng là nhận định của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hà, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản.
“Tôi nghĩ dĩ bất biến ở đây chính là dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, tuy nhiên để đạt được nguyên tắc đó thì phong cách, thao tác nội dung ngoại giao có những điều khoản cụ thể, chúng ta có thể uyển chuyển, nhưng cuối cùng, quan trọng nhất không thể xa rời, đó là lợi ích dân tộc. Cũng giống như trong đấu tranh Paris, chúng ta giữ vững ngay từ đầu những nguyên tắc, đó là Mỹ mang quân đến xâm lược Việt Nam thì họ buộc phải rút quân ra khỏi Việt Nam, công việc của người Việt Nam do người Việt Nam quyết định và có đủ khả năng quyết định”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hà nêu thêm.
16h ngày 29-3-1973, tại sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ làm lễ cuốn cờ rút khỏi miền Nam Việt Nam. (Ảnh tư liệu).
Hai tháng sau khi Hiệp đinh Paris được ký kết, Bộ Chỉ huy Quân viễn chinh Mỹ đã làm lễ cuốn cờ, đánh dấu sự kết thúc hiện diện của 2,6 triệu lượt quân Mỹ từng có mặt ở Việt Nam trong suốt 20 năm tham chiến. Với việc quân Mỹ rút khỏi miền Nam, trong khi bộ đội miền Bắc vẫn tiếp tục ở lại, điều đó đã tạo ra tình thế mới rất có lợi để chúng ta tiếp đà thắng lợi đánh cho ngụy nhào. Như vậy, ranh giới phân chia hai miền trên lý thuyết và thực tế đã bị xóa bỏ, âm mưu chia cắt đất nước ta của người Mỹ đã biến thành ảo vọng. Để có được những thắng lợi vang dội cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán, chúng ta luôn nêu cao tinh thần tự lực, chính nghĩa. Và trên thực tế, đại nghĩa đã thắng hung tàn, chí nhân đã thay cường bạo./.
|
“Hứa với con, ba nhé” của
tổng thống Joe Biden
phiên bản có chữ ký tay được bán với giá 28.000 USD trên Moments in Time, theo TMZ.
Thông tin từ sàn đấu giá trực tuyến Moments in Time công bố, cuốn sách có chữ ký của Tổng thống Joe Biden ”
Promise Me, Dad “,
xuất bản tiếng Việt với tên
Hứa với con, ba nhé
được bán với giá 28.000 USD.
Theo đó, cuốn sách là câu chuyện của ông Biden, được viết lúc ông còn trên cương vị phó tổng thống. Ông trải qua một khoảng thời gian đau đớn khi con trai cả của mình, Joseph (hay còn gọi là Beau) mắc ung thư. Ông phải tìm cách cân bằng giữa trách nhiệm với đất nước và trách nhiệm với gia đình. Cuốn sách có chữ ký tay cùng lời gửi gắm đã được Tổng thống Joe Biden tặng cho hai người y tá (Ron và Howard) vì đã chăm sóc con trai cả của ông trong những ngày tháng anh sắp mất. Sau đó, một nhà sưu tập đã mua nó lại và bán trên Moments in Time.
Trong cuốn sách, ông Biden viết lời đề tặng: “Tôi rất biết ơn những gì hai bạn đã làm cho con trai tôi. Hai bạn quả là những người hào phóng và rộng lượng. Các thiên thần trên bầu trời có lẽ đều là những người y tá như các bạn. Hãy luôn vững tin nhé!”. Dòng chữ này được ông Biden ghi vào ngày 19/12/2017, hai năm sau sự ra đi của con trai Beau Biden.
Beau Biden (sinh năm 1969) là một nhà chính trị gia. Năm 46 tuổi, Beau ra đi trong sự tiếc nuối vô hạn của gia đình Biden sau những tháng ngày chiến đấu với căn bệnh ung thư. Trong cuốn hồi ký
Hứa với con, ba nhé
, ông Biden luôn đánh giá cao Joseph. “Beau Biden mới là một ngôi sao đang lên trong nền chính trị đảng Dân chủ. Nó sắp kết thúc nhiệm kỳ thứ hai trong vai trò tổng chưởng lý của Delaware và đã tuyên bố ý định tranh cử chức thống đốc năm 2016. Tuyên bố của nó đã dọn sạch sân chơi; không có ai ở Delaware sẵn sàng thách thức Beau trong cuộc bầu cử sơ bộ đảng Dân chủ”, Biden viết trong cuốn sách của mình.
Trong
Hứa với con, ba nhé,
ông Biden khẳng định rằng đây là cuốn sách không viết về sự đau buồn. Phần lớn nó được lấy cảm hứng từ cuộc đời, các câu nói của Beau. Tiêu đề của cuốn sách được đặt dựa trên một câu nói của Beau: “Ba, con biết ba yêu con hơn bất kỳ ai trên thế giới này… Nhưng hãy hứa với con, ba, dù có chuyện gì xảy ra, ba sẽ vẫn ổn”. Cuốn sách được đánh giá là một tài liệu quan trọng khi tìm hiểu về ông Joe Biden.
|
“Promise me, Dad” by
President Joe Biden
the hand-signed version sold for $28,000 on Moments in Time, according to TMZ.
Information from the online auction platform Moments in Time announced that the book is signed by President Joe Biden.
Promise Me, Dad “,
published in Vietnamese with the name
Promise me, dad
sold for $28,000.
Accordingly, the book is Mr. Biden's story, written when he was still vice president. He went through a painful time when his eldest son, Joseph (also known as Beau) had cancer. He must find a way to balance his responsibility to the country and his responsibility to his family. The hand-signed book with a message was presented by President Joe Biden to two nurses (Ron and Howard) for taking care of his eldest son in the days when he was about to die. Then a collector bought it and sold it on Moments in Time.
In the book, Mr. Biden wrote the dedication: "I am very grateful for what you two have done for my son. You two are truly generous and generous people. The angels in the sky are probably all nurses like you. Always have faith!”. This line was written by Mr. Biden on December 19, 2017, two years after the death of his son Beau Biden.
Beau Biden (born 1969) is a politician. At the age of 46, Beau passed away to the immense regret of the Biden family after months of fighting cancer. In the memoir
Promise me, dad
, Mr. Biden always appreciated Joseph. “The new Beau Biden is a rising star in Democratic politics. It is nearing the end of its second term as Delaware's attorney general and has announced its intention to run for governor in 2016. Its announcement cleared the playing field; there was no one in Delaware willing to challenge Beau in the Democratic primary,” Biden wrote in his book.
In
Promise me, dad,
Mr. Biden affirmed that this is a book not about grief. Much of it is inspired by Beau's life and quotes. The title of the book is based on a quote from Beau: “Dad, I know you love me more than anyone in this world… But promise me, dad, no matter what happens, you will still fine". The book is considered an important document when learning about Mr. Joe Biden.
|
Giáo sư Nicosia Ioannis Kokkinakis cho rằng, các vị trí nguy hiểm nhất trong nhà cần tránh là cửa sổ, hành lang và cửa ra vào. Mọi người nên tránh xa những địa điểm này và ngay lập tức trú ẩn.
Hình ảnh một vụ thử ở đảo san hô Mururoa vào năm 1971. Ảnh: AFP.
Bom hạt nhân được biết đến là “kẻ hủy diệt” kinh hoàng. Song dù chúng có thể tàn phá một khu vực rộng lớn và khiến nhiều người thiệt mạng, con người hoàn toàn có thể sống sót sau một vụ nổ hạt nhân, miễn là trú ẩn ở vị trí đủ xa quả cầu lửa.
Theo nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Vật lý chất lỏng, các nhà khoa học đã xem xét cụ thể thiệt hại do sóng xung kích do vụ nổ hạt nhân tạo ra. Những đợt sóng này thường đủ mạnh và nhanh đến mức có thể nhấc bổng một người lên không trung.
Các nhà khoa học đã sử dụng các mô hình máy tính tiên tiến để xem sóng xung kích từ một quả bom hạt nhân đi qua một cấu trúc đứng vững như thế nào. Họ đã xem xét tốc độ sóng xung kích ở nhiều nơi khác nhau – bao gồm cửa sổ, cửa ra vào, hành lang và các khu vực khác nhau của căn phòng, để xem nơi tồi tệ nhất là ở đâu.
Ông Dimitris Drikakis, Giáo sư tại Đại học Nicosia ở
Cộng hoà Cyprus
, đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết: “Trước nghiên cứu của chúng tôi, mối nguy hiểm đối với những người bên trong tòa nhà bê tông cốt thép chịu được sóng nổ là không rõ ràng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng tốc độ sóng xung kích vẫn là một mối nguy hiểm đáng kể và vẫn có thể dẫn đến thương tích nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong”.
Đồng tác giả – Giáo sư Nicosia Ioannis Kokkinakis cho rằng: “Các vị trí nguy hiểm nhất trong nhà cần tránh là cửa sổ, hành lang và cửa ra vào. Mọi người nên tránh xa những địa điểm này và ngay lập tức trú ẩn”.
Tất nhiên, thời gian giữa vụ nổ và sóng xung kích xuất hiện có thể chỉ là vài giây, vì vậy, con người sẽ phải phản ứng rất nhanh khi thời điểm đó xảy đến.
Các tác giả lưu ý rằng ngoài sóng xung kích, một quả bom hạt nhân còn mang đến vô số mối nguy hiểm khác, bao gồm bụi phóng xạ, các tòa nhà bị hư hại có thể đổ nát và sụp đổ, hư hỏng đường dây điện, đường khí đốt và tất nhiên là cả đám cháy do chính quả cầu lửa gây ra.
“Mọi người nên quan tâm đến tất cả những điều trên và tìm kiếm sự trợ giúp khẩn cấp ngay lập tức”, ông Drikakis lưu ý.
Đáng chú ý, trước đây thường có quan niệm rằng những người trú ẩn bên trong tòa nhà được xây dựng kiên cố bằng bê tông cốt thép có thể chịu được sóng xung kích từ vụ nổ hạt nhân. Song điều này đã được nghiên cứu mới phủ nhận.
Theo đó, những không gian hẹp bên trong những căn phòng, các tòa nhà thực tế có thể góp phần vào tốc độ của sóng xung kích, tạo ra những “luồng gió” có thể xé toạc các góc với lực gấp 18 lần trọng lượng cơ thể con ngườii.
Tất nhiên, tình huống dễ sống sót nhất là các quốc gia không sử dụng vũ khí hạt nhân ngay từ đầu.
|
Professor Nicosia Ioannis Kokkinakis said that the most dangerous places in the house to avoid are windows, hallways and doors. People should stay away from these locations and take shelter immediately.
Image of a test at Mururoa atoll in 1971. Photo: AFP.
Nuclear bombs are known as horrifying "destroyers". But although they can devastate a large area and kill many people, humans can completely survive a nuclear explosion, as long as they take shelter far enough away from the fireball.
According to new research published in the journal Physics of Fluids, scientists looked specifically at damage caused by shock waves created by nuclear explosions. These waves are often strong and fast enough to lift a person into the air.
Scientists have used advanced computer models to see how shock waves from a nuclear bomb pass through a standing structure. They looked at shock wave speeds in various places – including windows, doors, hallways and different areas of the room, to see where the worst was.
Mr. Dimitris Drikakis, Professor at the University of Nicosia in
Republic of Cyprus
, co-author of the study, said: “Before our study, the danger to people inside reinforced concrete buildings that can withstand blast waves was unclear. Our research shows that shock wave velocity remains a significant hazard and can still lead to serious injury or even death.”
Co-author - Professor Nicosia Ioannis Kokkinakis said: "The most dangerous places in the house to avoid are windows, hallways and doors. Everyone should stay away from these locations and immediately take shelter."
Of course, the time between the explosion and the shock wave appearing can be only a few seconds, so humans will have to react very quickly when that moment comes.
The authors note that in addition to the shock wave, a nuclear bomb brings countless other dangers, including radioactive fallout, damaged buildings that can crumble and collapse, and damage to power lines. electricity, gas lines and of course the fire caused by the fireball itself.
“People should be concerned about all of the above and seek emergency help immediately,” Mr. Drikakis noted.
Notably, in the past there was a common belief that people sheltering inside buildings built solidly with reinforced concrete could withstand shock waves from nuclear explosions. But this has been denied by new research.
Accordingly, narrow spaces inside rooms and buildings can actually contribute to the speed of shock waves, creating "wind currents" that can rip corners with a force 18 times their weight. human bodyi.
Of course, the most survivable situation is for countries that do not use nuclear weapons in the first place.
|
“Đặt bút ký vào bản
Hiệp định Paris
lịch sử rất xúc động, nghĩ đến miền Nam, nghĩ đến đồng bào, đồng chí, đến gia đình, bạn bè trên cả hai miền Nam – Bắc. Trong đời tôi, đây là vinh dự lớn…”, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình chia sẻ.
Xin trân trọng giới thiệu những hồi ức của bà
Nguyễn Thị Bình
– nguyên Phó Chủ tịch nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về ngày ký kết chính thức Hiệp định Paris.
Ngày 27/1/1973, lễ ký kết chính thức “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” là ngày đáng ghi nhớ với nhân dân ta và nhân dân thế giới…
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris về Việt Nam, ngày 27/1/1973, tại Trung tâm hội nghị quốc tế ở Thủ đô Paris (Pháp).
Ảnh: TTXVN.
Đối với mỗi anh chị em chúng tôi trong hai đoàn đàm phán, ngày 27/1/1973 cũng là ngày không thể nào quên. Những ngày trước đó cả hai đoàn phải tập trung hoàn thành văn kiện, kể cả việc rà soát, in ấn. Làm việc mệt mỏi cho đến tận khuya nhưng vẫn vui…
Hôm ấy, từ tờ mờ sáng, chúng tôi đã được bạn bè ở Paris và các tỉnh, cả bạn bè mấy nước lân cận, gọi điện, gửi lẵng hoa chúc mừng thắng lợi, cổ vũ chúng ta chiến đấu đến ngày toàn thắng.
Trời Paris hửng nắng. Đúng 10 giờ, các đoàn lần lượt đến đại lộ Kléber. Điều hết sức xúc động là hai bên hè đường và trước cửa Trung tâm hội nghị quốc tế người đông nghịt giữa rừng cờ đỏ sao vàng và cờ sao vàng trên nền nửa đỏ, nửa xanh, tưng bừng vẫy gọi, chào đón chúng tôi, chúc mừng lễ ký kết.
Phần lớn bà con kiều bào và bạn bè Pháp, cùng khá đông bạn bè các nước châu Âu, châu Phi và cả những người bạn Mỹ đến chia vui với chúng ta. Mỗi người đều thấy đó là kết quả đấu tranh chung, trong đó có sự đóng góp của chính mình đã hàng chục năm kiên trì phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ và ủng hộ Việt Nam chiến đấu chính nghĩa.
Phóng viên thông tấn Mỹ AP mô tả: “Họ hô các khẩu hiệu chống Mỹ và chống Sài Gòn khi Lắm và Rogers đến; nhưng lại hò reo hoan hô các đoàn xe của bà Bình và ông Trinh – Việt Nam muôn năm! Hoan hô Chính phủ cách mạng lâm thời! Hoan hô Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Phóng viên hãng thông tấn Mỹ UPI cũng tả quang cảnh hôm đó: “Buổi lễ ký kết hòa bình ở Việt Nam diễn ra trong khung cảnh huy hoàng tráng lệ của thế kỷ 19 và những biện pháp an ninh nghiêm ngặt nhất mà thế kỷ 20 có thể tạo ra. Bốn ngoại trưởng được một đạo quân gồm 2000 cảnh sát và nhân viên an ninh bảo vệ nghiêm cẩn… Sau bốn năm làm gia chủ nơi tiến hành cuộc đàm phán, giờ đây, người Pháp tin rằng bà Nguyễn Thị Bình, các ông Nguyễn Duy Trinh, W. Rogers và Trần Văn Lắm sẽ làm cho toàn thế giới hướng về Paris trong ngày 27/1/1973”.
Đó là không khí rất trang nghiêm. Chúng tôi được quan chức lễ tân Pháp trịnh trọng hướng dẫn đi giữa hai hàng Vệ binh cộng hòa với gươm tuốt trần oai nghiêm chào đón. Phòng họp rực sáng hơn thường lệ. Trong phòng đã có mặt đại diện Chính phủ Pháp, các đại sứ của bốn nước thành viên Ủy ban quốc tế và rất đông các nhà báo, nhiếp ảnh, quay phim quốc tế…
Vẫn chiếc bàn tròn lớn phủ kín nỉ xanh mà bốn đoàn đã tranh luận suốt 174 phiên, từ ngày 25/1/1969 đến hôm nay, vừa tròn bốn năm. Đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh dẫn đầu và Bộ trưởng Xuân Thuỷ ngồi bên. Đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thị Bình dẫn đầu. Đoàn Mỹ do Ngoại trưởng William Rogers dẫn đầu, có thêm Thượng nghị sỹ Mike Mansfield, người thường xuyên chống chiến tranh Việt Nam (anh em trong đoàn cho biết, sau lễ ký, ông này đến xin tấm biển ghi tên đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời đặt trên bàn để làm kỷ niệm).
Đúng giờ, bốn bộ trưởng Ngoại giao bắt đầu ký hiệp định và bốn nghị định thư kèm theo. Mỗi ngoại trưởng phải ký tới 32 chữ ký và mỗi người có 32 cây bút để làm việc đó. Hiệp định gồm 9 chương, 23 điều…
Bà Nguyễn Thị Bình trả lời phỏng vấn của các nhà báo sau khi dự phiên họp đầu tiên bàn về thủ tục của Hội nghị 4 đoàn tại Paris (Pháp) ngày 18/1/1969.
Ảnh: TTXVN.
Đối với chúng ta, nội dung quan trọng và cơ bản nhất của Hiệp định Paris là Điều quy định Mỹ phải tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ta, quân Mỹ phải rút về nước mà không kèm theo bất cứ điều kiện gì; hành lang Nam – Bắc vẫn nối liền, hậu phương với tiền tuyến thành một dải liên hoàn thống nhất, đảm bảo cho phong trào cách mạng miền Nam dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời giữ nguyên được địa bàn, giữ nguyên được thế lực của mình để tiếp tục tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.
Đặt bút ký vào bản Hiệp định Paris lịch sử rất xúc động, nghĩ đến miền Nam, nghĩ đến đồng bào, đồng chí, đến gia đình, bạn bè trên cả hai miền Nam – Bắc…
Trong đời tôi, đây là vinh dự lớn được thay mặt nhân dân và các chiến sỹ cách mạng miền Nam Việt Nam đấu tranh trực diện với Mỹ tại Paris, được thấy niềm tự hào vinh quang cùng với ân tình sâu đậm mà cả thế giới dành cho cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta.
Tôi vô cùng biết ơn Bác Hồ và cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Đảng, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tin cậy giao cho tôi một nhiệm vụ khó khăn, nhưng rất vẻ vang này.
Tôi muốn nói lên lòng biết ơn của tôi đối với đồng bào và chiến sỹ ta từ Nam chí Bắc, đã chấp nhận mọi hy sinh và dũng cảm chiến đấu để có được thắng lợi to lớn hôm nay; cảm ơn bà con kiều bào tại Pháp và các nước xung quanh; cảm ơn sự đoàn kết, cộng tác của tất cả anh chị em trong hai đoàn đàm phán và các cơ quan, đoàn thể ta ở Paris. Và tôi nghĩ đến gia đình, đến chồng con…
Buổi lễ kéo dài hơn 10 phút. Tiếp sau đó, Chính phủ Pháp mở tiệc rượu chào mừng. Mọi người chạm cốc, bắt tay. Không khí vui vẻ, hoà giải. Tôi chạm cốc với Ngoại trưởng Mỹ William Rogers, chúc “Hoà bình”; nói chuyện với Ngoại trưởng Sài Gòn Trần Văn Lắm, ông ta nhờ tôi chuyển lời thăm “Anh Phát” (đồng chí Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời ). Bốn người phát ngôn báo chí của bốn đoàn nâng cốc chúc sức khoẻ nhau.
——————-
*
(Lược theo hồi ức của bà Nguyễn Thị Bình – nguyên Phó Chủ tịch nước cộng hòa XHCN Việt Nam, nữ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam… Bà cũng là người phụ nữ duy nhất đại diện cho Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký Hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định này).
Trường Quân sự Quân khu 7
|
“Put your signature on the copy
Paris Agreement
Very emotional history, thinking of the South, thinking of compatriots, comrades, family, friends in both North and South. In my life, this is a great honor...", former Vice President Nguyen Thi Binh shared.
We respectfully introduce her memories
Nguyen Thi Binh
– Former Vice President of the Socialist Republic of Vietnam, Head of the negotiating delegation of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam on the official signing date of the Paris Agreement.
On January 27, 1973, the official signing ceremony of the "Agreement to end the war and restore peace in Vietnam" was a memorable day for our people and the people of the world...
Minister of Foreign Affairs of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam Nguyen Thi Binh signed the Paris Agreement on Vietnam, January 27, 1973, at the International Conference Center in Paris (France).
Photo: TTXVN.
For each of us in the two negotiating teams, January 27, 1973 is also an unforgettable day. In the days before, both delegations had to focus on completing documents, including reviewing and printing. Working tirelessly until late at night but still having fun...
That day, from dawn, we received calls from friends in Paris and the provinces, including friends from neighboring countries, who sent flower baskets to congratulate us on our victory and encourage us to fight until the day of complete victory.
It's sunny in Paris. At exactly 10 o'clock, the groups arrived at Kléber Avenue one by one. What was very touching was that both sides of the sidewalk and in front of the International Convention Center were crowded with people amid a forest of red flags with yellow stars and yellow star flags on a half-red, half-green background, jubilantly waving and welcoming us. Congratulations on the signing ceremony.
Most of our overseas relatives and French friends, along with quite a few friends from European and African countries and even American friends, came to celebrate with us. Everyone sees that it is the result of a common struggle, including their own contribution of decades of persistent opposition to America's war of aggression and support for Vietnam to fight justly.
The American AP reporter described: “They shouted anti-American and anti-Saigon slogans when Lam and Rogers arrived; but cheered for the convoys of Mrs. Binh and Mr. Trinh - long live Vietnam! Hail the Provisional Revolutionary Government! Congratulations to the Democratic Republic of Vietnam."
A reporter from the American news agency UPI also described the scene that day: "The peace signing ceremony in Vietnam took place in the splendid scenery of the 19th century and the strictest security measures of the 20th century. can create. The four foreign ministers are strictly protected by an army of 2,000 police and security officers... After four years of being the owner of the place where the negotiations were held, the French now believe that Ms. Nguyen Thi Binh and Mr. Nguyen Duy Trinh, W. Rogers and Tran Van Lam will make the whole world look to Paris on January 27, 1973.
It was a very solemn atmosphere. We were solemnly guided by the French protocol officer to walk between two rows of Republican Guards with majestically drawn swords to welcome us. The meeting room was brighter than usual. In the room were representatives of the French Government, ambassadors of four member countries of the International Commission and a large number of international journalists, photographers, and videographers...
It is still the same large round table covered with green felt that the four delegations debated for 174 sessions, from January 25, 1969 to today, just four years old. The Democratic Republic of Vietnam delegation was led by Minister of Foreign Affairs Nguyen Duy Trinh and sat next to Minister Xuan Thuy. The delegation of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam was led by Minister of Foreign Affairs Nguyen Thi Binh. The American delegation was led by Secretary of State William Rogers, and included Senator Mike Mansfield, who often opposed the Vietnam War (members of the delegation said that after the signing ceremony, he came to ask for a sign with the name of the Government delegation. temporary network placed on the table as a souvenir).
On time, the four Foreign Ministers began signing the agreement and four accompanying protocols. Each secretary of state must sign up to 32 signatures and each person has 32 pens to do so. The agreement includes 9 chapters, 23 articles...
Ms. Nguyen Thi Binh answered an interview with journalists after attending the first session to discuss the procedures of the Conference of 4 delegations in Paris (France) on January 18, 1969.
Photo: TTXVN.
For us, the most important and basic content of the Paris Agreement is the Article stipulating that the United States must respect the basic rights of our people, and that American troops must withdraw home without any conditions; The South-North corridor is still connected, the rear with the front line forming a unified continuous strip, ensuring that the Southern revolutionary movement under the banner of the National Liberation Front and the Provisional Revolutionary Government remains intact. gain territory, maintain its strength to continue moving forward to win the final victory.
Signing the historic Paris Agreement was very emotional, thinking of the South, thinking of compatriots, comrades, family and friends in both North and South...
In my life, it is a great honor to represent the people and revolutionary soldiers of South Vietnam to fight head-on with America in Paris, to see the glorious pride and deep love that the whole world feels. for the heroic fight of our people.
I am extremely grateful to Uncle Ho and to the leaders of the Party, the Front and the Provisional Revolutionary Government for entrusting me with this difficult, but very glorious task.
I want to express my gratitude to our compatriots and soldiers from South to North, who accepted all sacrifices and fought courageously to achieve today's great victory; thank the overseas Vietnamese in France and surrounding countries; Thank you for the solidarity and collaboration of all brothers and sisters in the two negotiating teams and our agencies and organizations in Paris. And I think about my family, my husband and children...
The ceremony lasted more than 10 minutes. Next, the French Government opened a welcoming party. Everyone clinked glasses and shook hands. The atmosphere is happy and conciliatory. I clinked glasses with US Secretary of State William Rogers, wishing "Peace"; talking to Saigon Foreign Minister Tran Van Lam, he asked me to convey my regards to "Brother Phat" (comrade Huynh Tan Phat, Chairman of the Provisional Revolutionary Government). Four press spokespersons from four delegations toasted each other's health.
——————-
*
(Abridged from the recollections of Ms. Nguyen Thi Binh - former Vice President of the Socialist Republic of Vietnam, the first female Foreign Minister of Vietnam, Head of the negotiating delegation of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Vietnam ... She was also the only woman representing Vietnam to participate in the Four-Party Conference on Peace in Paris during the period 1968-1973. She was one of the representatives of the parties who signed the Paris Agreement in 1973 the only woman to sign this Agreement).
Military School of Military Region 7
|
Được xem là bộ óc vĩ đại của nhân loại, tạp chí Times gọi là
Albert Einstein
là ‘Person of the Century’ – tức ‘Con người của thế kỷ’, người có sức ảnh hưởng lớn lao đến nhân loại trong cả nghìn năm. Những thành tựu tri thức lớn lao đã khiến tên gọi ‘Einstein’ trở nên đồng nghĩa với từ ngữ ‘thiên tài’.
Không chỉ là nhà vật lý học vĩ đại nhất mọi thời đại mà Albert Einstein (14/3/1879 – 18/4/1955) còn là biểu tượng của văn hóa đại chúng. Thuyết tương đối với công thức nổi tiếng E = mc2 của ông là nền tảng của sự phát triển năng lượng nguyên tử, là một trong những cơ sở khoa học của các lý thuyết hiện đại về vũ trụ.
Các công trình nghiên cứu của ông còn góp phần không nhỏ vào việc khám phá những bí mật của ADN, vào cuộc cách mạng của công nghệ máy tính hiện đại, cũng như thúc đẩy tất cả các lý thuyết vật lý hiện đại cùng phát triển theo hướng hợp nhất giữa thế giới vi mô và thế giới vĩ mô.
Nổi danh là người sở hữu “bộ não thiên tài”, tuy nhiên, thời thơ ấu của Albert Einstein lại không phải quá đẹp như những vĩ nhân khác trên thế giới.
Albert Einstein từng là một cậu bé khác biệt. (Ảnh: ESP).
Albert Einstein sinh ngày 14 tháng 3 năm 1879 trong một gia đình tại thành phố Ulm thuộc tiểu bang Baden-Wurttemberg của nước
Đức
. Ngay từ khi sinh ra, nhà vật lý người Đức đã bị bác sĩ nhận định là chậm phát triển do khả năng nói bị hạn chế. Thế nhưng, bản chất bướng bỉnh khác thường của ông khi luôn không tuân theo những quy luật, đã được bộc lộ ngay từ khi ông chỉ mới 5 tuổi, chứng minh cho tương tai sẽ trở thành một thiên tài.
Đam mê đối với khoa học của ông được khơi dậy mãnh liệt từ khi gia đình ông chuyển tới Munich để thành lập công ty kỹ thuật điện. Nhà khoa học từng cho biết, có 2 thứ đã đưa ông đến với thế giới khoa học: Đó là chiếc la bàn được bố tặng khi mới 5 tuổi và cuốn sách hình học ông yêu thích ở tuổi 12.
Dẫu vậy, việc học tập của ông liên tiếp bị gián đoạn do những thất bại của gia đình trong việc kinh doanh. Mãi năm 17 tuổi, ông đậu vào trường Đại học Bách khoa Zurich để đào tạo thành giáo viên toán học và vật lý.
Sau khi ra trường ông làm thư ký kỹ thuật cho một văn phòng cấp bằng sáng chế Thụy Sĩ. Để có thời gian cho việc sáng chế nghiên cứu khoa học, ông luôn có gắng hoàn thành công việc ở văn phòng trong thời gian ngắn nhất có thể.
Được tạp chí Times xướng tên là “Person of the Century” – Con người của thế kỷ, nhà vật lý Albert Einstein cùng những thành tựu vĩ đại ngoài sức tưởng tượng của người thường, tiêu biểu là thuyết tương đối của Einstein, đã khiến “cục diện” nền khoa học nhân loại có “sự chuyển mình” vượt bậc.
– Thuyết tương đối hẹp:
Một trong những thành tựu sớm nhất và có tầm ảnh hưởng nhất thời đại của Einstein là thuyết tương đối hẹp – được công bố năm 1905 thông qua một bài báo. Công trình nghiên cứu này của ông cho thấy mối quan hệ giữa không – thời gian và các hiện tượng liên quan, qua đó thay đổi hoàn toàn cách nhìn nhận của nhà khoa học về không gian và thời gian.
Sự ra đời của thuyết tương đối hẹp đã đem đến những đổi thay lớn cho nhân loại thông qua các ứng dụng cho đời sống hàng ngày, nổi bật là hệ thống định vị toàn cầu GPS hay nam châm điện.
–
Định luật năng lượng và khối lượng
E = mc2:
Một trong những ngã rẽ bất ngờ mang tính “Biểu tượng văn hóa” trong quá trình nghiên cứu Thuyết tương đối hẹp là phương trình E = mc2. Đây là một phương trình toán học được Einstein xây dựng nhằm thể hiện mối liên hệ giữa “vật chất và năng lượng
Công thức của Einstein đã đem đến một diện mạo mới cho nền khoa học nhân loại khi được áp dụng trong việc hình thành các lò phản ứng hạt nhân, hay là xác định tuổi của cổ vật bằng đồng vị phóng xạ Cacbon 14.
– Thuyết tương đối tổng quát:
Năm 1915, Einstein đã công bố công trình nghiên cứu khoa học của mình mang tên Thuyết tương đối tổng quát trước Viện hàn lâm khoa học Phổ, qua đó làm thay đổi nhận thức về không gian – thời gian và mở ra một cánh cửa tới vũ trụ cùng những khám phá thú vị về hố đen.
Được xem là lý thuyết khoa học mang tính cách mạng nhất lịch sử, thuyết tương đối tổng quát giải thích thời gian và chuyển động tương đối như thế nào với quan sát viên. Một số hệ quả nổi bật liên quan tới thuyết này là hiểu sâu hơn quá trình hình thành và tiến hóa của vũ trụ, Big Bang, lỗ đen, hay sóng hấp dẫn.
– Thuyết lượng tử ánh sáng:
Với công trình nghiên cứu này, nhà vật lý Einstein đã giúp các nhà khoa học biết được rằng cả ánh sáng và các vật chất đều bao gồm các hạt nhỏ có đặc tính giống như sóng liên kết. Ánh sáng bao gồm các hạt gọi là photon, và vật chất gồm các hạt electron, proton, neutron. Theo đó, hệ quả của lý thuyết này là hiệu ứng quang điện – tiền đề cho sự phát minh TV cùng các thiết bị có màn hình.
Thuyết lượng tử ánh sáng đã trở thành một thành tựu có ý nghĩa quan trọng đối với Einstein và giúp ông đạt được giải thưởng Nobel Vật lý năm 1921.
Có một sự thật thú vị đó là
Einstein
chưa từng trải qua bất cứ bài kiểm tra trí não chính thức nào khi còn sống mặc dù những bài kiểm tra trí thông minh như vậy đã được áp dụng nhiều tại các trường học.
Do đó, dựa theo các dữ liệu tiểu sử, các chuyên gia xác định IQ của ông năm trong khoảng 160 đến 180 – con số chỉ dành cho những thiên tài.
Những con số không thể hoàn toàn nói đúng về sự thông thái của một người, bởi các chỉ số IQ còn bị thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố khách quan cũng như bao quát được khả năng của người đó trong cuộc sống.
Tuy nhiên, trí thông minh hơn người của
Albert Einstein
là sự thật không thể phủ nhận, nên ông chính là thước đo chính xác và cụ thể nhất cho một bộ não thiên tài.
|
Considered the greatest mind of mankind, Times magazine called it
Albert Einstein
is 'Person of the Century' - that is, 'Man of the century', a person who has had a great influence on humanity for thousands of years. His great intellectual achievements have made the name 'Einstein' synonymous with the word 'genius'.
Not only is Albert Einstein the greatest physicist of all time, but Albert Einstein (March 14, 1879 - April 18, 1955) is also a popular culture icon. The theory of relativity with his famous formula E = mc2 is the foundation of the development of atomic energy, one of the scientific bases of modern theories of the universe.
His research also contributed significantly to discovering the secrets of DNA, to the revolution of modern computer technology, as well as promoting all modern physical theories to develop together. towards the fusion between the micro world and the macro world.
Famous for possessing a "genius brain", however, Albert Einstein's childhood was not as beautiful as other great people in the world.
Albert Einstein was once a different boy. (Photo: ESP).
Albert Einstein was born on March 14, 1879 in a family in the city of Ulm in the state of Baden-Wurttemberg.
Virtue
. Right from birth, the German physicist was considered by doctors to be retarded due to limited speech ability. However, his unusually stubborn nature of always disobeying the rules was revealed when he was only 5 years old, proving that he would become a genius in the future.
His passion for science was strongly aroused when his family moved to Munich to establish an electrical engineering company. The scientist once said that there were two things that brought him to the world of science: The compass given to him by his father when he was 5 years old and the geometry book he loved at the age of 12.
However, his studies were continuously interrupted due to his family's failures in business. At the age of 17, he entered Zurich Polytechnic University to train as a mathematics and physics teacher.
After graduating, he worked as a technical secretary for a Swiss patent office. To have time for scientific research, he always tries to complete office work in the shortest time possible.
Named "Person of the Century" by Times magazine, physicist Albert Einstein and his great achievements beyond the imagination of ordinary people, typically Einstein's theory of relativity, have made The "scene" of human science has had a remarkable "transformation".
– Special theory of relativity:
One of the earliest and most influential achievements of Einstein's time was the special theory of relativity - published in 1905 through a paper. His research shows the relationship between space-time and related phenomena, thereby completely changing the way scientists perceive space and time.
The birth of the special theory of relativity has brought great changes to humanity through applications in daily life, notably the GPS global positioning system or electromagnets.
–
Laws of energy and mass
E = mc2:
One of the unexpected "Cultural Symbol" turns in the process of researching Special Relativity is the equation E = mc2. This is a mathematical equation built by Einstein to express the relationship between “matter and energy
Einstein's formula brought a new look to human science when applied in forming nuclear reactors, or determining the age of ancient artifacts using the radioactive isotope Carbon 14.
– General relativity:
In 1915, Einstein published his scientific research work titled General Relativity before the Prussian Academy of Sciences, thereby changing the perception of space and time and opening a door to the future. universe and interesting discoveries about black holes.
Considered the most revolutionary scientific theory in history, general relativity explains how time and motion are relative to observers. Some outstanding consequences related to this theory are a deeper understanding of the formation and evolution of the universe, the Big Bang, black holes, or gravitational waves.
- Light quantum theory:
With this research, physicist Einstein helped scientists learn that both light and matter are composed of small particles with coherent wave-like properties. Light consists of particles called photons, and matter consists of electrons, protons, and neutrons. Accordingly, the consequence of this theory is the photoelectric effect - a premise for the invention of TVs and devices with screens.
The quantum theory of light became a significant achievement for Einstein and helped him win the Nobel Prize in Physics in 1921.
There is an interesting fact that
Einstein
has never undergone any formal brain testing during his life, although such intelligence tests have been widely used in schools.
Therefore, based on biographical data, experts determined his IQ was between 160 and 180 - a number only for geniuses.
Numbers cannot be completely accurate about a person's intelligence, because IQ scores also change depending on objective factors as well as covering that person's abilities in life.
However, people's intelligence is better
Albert Einstein
is an undeniable truth, so he is the most accurate and specific measure of a genius brain.
|
Năm 1992 (26/11/92), khi nhà Văn Hóa
tỉnh Khánh Hòa
tổ chức đêm mừng thọ nhà thơ Quách Tấn tròn 85 tuổi (tính theo tuối ta), Giang Nam đến tham dự không với tư cách là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa mà là một nhà thơ ái mộ Quách Tấn.
Mấy tuần sau, Quách Tấn cỡi hạc vàng về miền thơ mộng. Và cũng từ đó hằng năm trong các buổi lể tưởng niệm ngày mất của nhà thơ Quách Tấn, Giang Nam đều có đến tham dự.
Năm 2007, Tạp chí Xưa và Nay có tổ chức tại
thành phố Hồ Chí Minh
buổi tưởng niệm 15 năm ngày mất của nhà thơ Quách Tấn. Từ nơi thành phố biển Nha Trang, Giang Nam đã vào tham dự và đã đọc một bài tưởng niệm vô cùng thân thiết đối với Quách Tấn.
Bài văn có những đoạn :
Nếu tính về tuổi đời, nhà thơ Quách Tấn là bậc đàn anh của tôi gần đúng một thế hệ: Mười chín năm. Vậy mà sau năm 1975, khi lần đầu tiên tôi được gặp ông, ông vẫn coi tôi như một người bạn quen thân tự thuở nào. Không phải vì lịch sự xã giao hay khách sáo mà có một điều gì đó như sự quý trọng nhau giữa những nghệ sĩ có chung suy nghĩ, chung sự rung động tâm hồn. Riêng tôi, tôi biết mình còn xa mới có được tài năng và một sự nghiệp sáng tác, nghiên cứu như ông….
…. Như trên tôi đã viết, tôi vào trường Quốc học Qui Nhơn năm1941, hồi đó ở đây đã nổi tiếng “nhóm thơ Bình Định” còn gọi là “Bàn Thành Tứ Hữu” gồm
Hàn Mặc Tử
,
Chế Lan Viên
, Quách Tấn, Yến Lan. Năm trước đó Hàn Mặc Tử vừa qua đời. Tôi khâm phục và yêu mến “trường thơ Bình Định”, như người đọc thường gọi, dù đã khuyết mất một ngôi sao. Tôi biết Quách Tấn quê vùng đất Tây Sơn (Bình Khê, Bình Định) nhưng chưa một lần được đến thăm ông tại nhà riêng. Tôi đâu biết rằng lúc ấy nhà thơ đang là một công chức của Pháp, tòng sự tại Nha Trang, quê hương của tôi. Rồi Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp bùng nổ Tôi rời Qui Nhơn về quê nhà hoạt động trong nghành tuyên truyền thông tin, văn hóa văn nghệ của một tỉnh vùng địch hậu mà kẻ thù có lực lượng rất mạnh tập trung ở Nha Trang. Trong lúc ấy nhà thơ Đường luật nổi tiếng lại đi ngược chiều về vùng tự do Liên khu 5 và tham gia công tác Cách mạng tại Bình Định bên cạnh nhiều bạn bè là những nhà văn nhà thơ tên tuổi như Nguyễn Văn Bổng, Khương Hữu Dụng,Yến Lan, Tế Hanh, Phạm Hổ… Kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhưng miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào còn nằm trong vòng kiểm soát, thống trị của địch. Theo chủ trương của ta lúc ấy, một số trí thức, nhà giáo, văn nghệ sĩ được bố trí ở lại miền Nam sống hợp pháp và dùng báo chí, văn học nghệ thuật đấu tranh cho hòa bình và thống nhất nước nhà. Quách Tấn lại trở về Nha Trang, tiếp tục làm công chức cho đến năm 1965 thì nghỉ hưu. Trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động như thế, ông vẫn kiên định con đường đi của mình: một nhà thơ yêu nước, đau đáu nổi lòng với quê hương, với tiền nhân, với bạn bè….
… Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ năm 1975, lần đầu tiên tôi được gặp Quách Tấn tại Nha Trang. Cái phong thái ung dung, đỉnh đạt của một cụ già 65 tuổi, thái độ chân tình, cở mở đã gây cho tôi một ấn tượng thật tốt đẹp. Ông hỏi thăm tôi về các bạn bè đã tập kết ra Bắc: Chế Lan Viên, Yến Lan,
Xuân Diệu
,
Tế Hanh
; ông nói về những ngày mong ngóng kháng chiến thắng lợi, bạn bè trở về; ông nói về những xót xa của người dân mất nước. Tôi kể cho ông về vùng ven Sài Gòn, khu tam giác sắt trong chiến tranh, ở đó trong hầm, dưới bom pháo tôi đã đọc say mê Xứ Trầm Hương và Nước Non Bình Định của ông.Tôi khâm phục sự thông tuệ từng trải của ông về nhiều lĩnh vực: Hán văn, Lịch sử, Địa lý,Văn hóa cả phương Đông lẫn phương Tây.
Tuy nhiên vì hồi đó tôi công tác ở Sài Gòn rồi Hà Nội nên có ít dịp về thăm ông. Mãi đến năm 1985, khi Trung ương điều tôi về công tác ở Khánh Hòa, tôi đã có gần 8 năm sống cùng thành phố và không biết bao nhiêu lần “làm khách” ở nhà 12 Bến Chợ, nơi ông sống với gia đình. Tôi được nghe một phần tâm sự của ông – vui có buồn có – và chia sẻ với ông bao nỗi niềm ở buổi xế chiều của đời mình.
Tôi nhớ lần ấy mừng thọ 85 tuối của ông, tôi được lảnh đạo của tỉnh giao cho chủ trì buổi lễ, với tư cách là đồng nghiệp, là người hiểu ông nhiều so với các nhà văn, nhà thơ khác. Buối lễ diễn ra ở Nhà Văn Hóa tỉnh thật long trọng và đầm ấm. Sức khỏe của ông đã yếu nhiều. Tuy nhiên ông vẫn cố gắng lắng nghe một cách chăm chú. Một đại diện của ban tổ chức (cũng là một nhà thơ) đọc bài diễn văn đánh giá sự nghiệp văn học của ông và tình cảm của người đọc trong cả nước dành cho ông. Ôm bó hoa mừng thọ trong lòng, ông tỏ ra rất xúc động…Kết thúc buổi lễ mừng thọ, tôi xin được phát biểu với tư cách một người em, một đồng nghiệp trẻ của ông :”Thưa nhà thơ Quách Tấn, Chung quanh anh hôm nay đông đảo anh chị em nhà văn, nhà thơ và nghệ sĩ của Khánh Hòa, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh bạn. Anh chị em mừmg anh, một trong những tên tuổi lớn của thơ Việt Nam thế kỷ 20..Anh có bao giờ nghỉ rằng một số bài thơ hay của anh luôn ở bên cạnh tôi trong những ngày chiến đấu ác liệt suốt 30 năm. Xin cảm ơn anh”
Nhà thơ Quách Tấn trong lời đáp từ đã nói: “Tôi sẽ không bao giờ quên buổi hôm nay và sẽ mang theo kỷ niệm tốt đẹp này cho đến cuối đời mình. Tôi biết quỹ thời gian của tôi không còn nhiều cho nên tôi càng quý những ngày còn lại”.
Trong tất cả các chương trình truyền hình trên VTV1, VTV2, VTV3, HTV9, HTV7 và KTV khi nói về Quách Tấn đều có sự góp mặt của nhà thơ Giang Nam. Cũng có những bài viết về Quách Tấn của Giang Nam trên các báo chí tại địa phương và
thủ đô Hà Nội
, thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 6 năm 2008, tập thơ Lắng Nghe Thời Gian của nhà thơ Giang Nam được nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.
Trong tác phẩm này nhà thơ Giang Nam đã viết về Quách Tấn: bài thơ “Tưởng nhớ tác giả Mùa Cổ Điển” là Bến Chợ Chiều Mưa.
Đọc bài thơ, chúng ta thấy Giang Nam đã đi sâu vào cuộc đời của nhà thơ cổ điển này bằng tấm lòng tri kỷ.
Trong khổ thơ đầu:
Câu thơ cuối của khổ đầu bài thơ hàm chứa không biết bao nhiêu là gợi nhớ, khiến lòng ta nghĩ đến các câu thơ trong Mùa Cổ Điển của Quách Tấn:
Thế kỷ hai mươi là thế kỷ xôn xao giữa thơ cũ và thơ mới, Quách Tấn là người đã “khép lại một thời đại trong thơ ca Việt Nam”(Lời của Hoài Thanh trong Thi Nhân Việt Nam).
Đến khổ thơ thứ hai:
Ngọn lửa niềm tin vào sự trường tồn của văn hóa dân tộc đã đốt sáng đêm đen để Quách Tấn viết văn và làm thơ trong hơn nửa thế kỷ với mấy chục ngàn trang bản thảo.
Đến khổ thơ thứ ba:
Tấm lòng của nhà thơ Giang Nam rất chân thật trong 12 câu thơ tám chữ để tưởng nhớ Quách Tấn thật vô cùng cảm xúc, nồng thắm.
Hôm nay là những ngày đầu năm năm Quý Mão nhà thơ Giang Nam đã đi gặp nhà thơ Quách Tấn. Cuộc hội ngộ vĩnh viễn sẽ vô cùng thân mến.
|
In 1992 (November 26, 2092), when the Cultural House
Khanh Hoa province
organized a night to celebrate the life of poet Quach Tan turning 85 years old (in our age), Giang Nam attended not as Vice Chairman of the People's Committee of Khanh Hoa province but as a poet who admired Quach Tan.
A few weeks later, Quach Tan rode a golden crane to the romantic region. And since then, every year at the memorial ceremonies for the death of poet Quach Tan, Giang Nam has attended.
In 2007, Past and Present Magazine was held at
Ho Chi Minh City
commemoration of the 15th anniversary of the death of poet Quach Tan. From the coastal city of Nha Trang, Giang Nam attended and read a very close tribute to Quach Tan.
The article contains the following passages:
In terms of age, poet Quach Tan is almost exactly one generation older than me: Nineteen years. Yet after 1975, when I first met him, he still considered me a close friend from childhood. It's not because of politeness or politeness, but there is something like mutual respect between artists who have the same thoughts and the same soul vibrations. As for me, I know I'm still far from having the same talent and career in writing and research as him...
…. As I wrote above, I entered Qui Nhon National School in 1941, at that time there was a famous "Binh Dinh poetry group" also known as "Ban Thanh Tu Huu" including
Han Mac Tu
,
Che Lan Vien
, Quach Tan, Yen Lan. The year before that, Han Mac Tu had just passed away. I admire and love "Binh Dinh poetry school", as readers often call it, even though a star is missing. I know that Quach Tan is from Tay Son region (Binh Khe, Binh Dinh) but I have never been able to visit him at his home. I did not know that at that time the poet was a French civil servant, working in Nha Trang, my hometown. Then the August Revolution and the resistance war against the French broke out. I left Qui Nhon to return to my hometown to work in the field of information propaganda, culture and art of a hostile province where the enemy had very strong forces concentrated in Nha Trang. Page. Meanwhile, the famous Duong Luat poet went in the opposite direction to the free zone of Inter-Region 5 and participated in Revolutionary work in Binh Dinh alongside many friends who were famous writers and poets such as Nguyen Van Bong and Khuong Huu. Dung, Yen Lan, Te Hanh, Pham Ho... The resistance war against the French was successful, but the South from the 17th parallel onwards was still under the control and domination of the enemy. According to our policy at that time, a number of intellectuals, teachers, and artists were arranged to stay in the South to live legally and use the press, literature and arts to fight for peace and unification of the country. Quach Tan returned to Nha Trang and continued to work as a civil servant until 1965, when he retired. In such a volatile country, he remained steadfast in his path: a patriotic poet, aching for his homeland, his ancestors, his friends...
… After the victory of the resistance war against the US in 1975, I met Quach Tan for the first time in Nha Trang. The leisurely and mature demeanor of a 65-year-old man, his sincere and open attitude, made a very good impression on me. He asked me about my friends who had gathered to the North: Che Lan Vien, Yen Lan,
Xuan Dieu
,
Te Hanh
; He talked about the days when he looked forward to the victory of the resistance and the return of his friends; he talked about the pain of people losing their country. I told him about the outskirts of Saigon, the iron triangle during the war, where in the bunker, under artillery bombardment, I passionately read his Land of Agarwood and Non Nuoc Binh Dinh. I admired his experienced wisdom. His works on many fields: Chinese Literature, History, Geography, and Culture both Eastern and Western.
However, because at that time I was working in Saigon and then Hanoi, so I had few opportunities to visit him. Until 1985, when the Central Committee sent me to work in Khanh Hoa, I had nearly 8 years living in the same city and countless times "being a guest" at 12 Ben Cho, where he lived with his family. I heard part of his story - both happy and sad - and shared with him many of his feelings in the twilight of his life.
I remember that time to celebrate his 85th birthday, I was assigned by the provincial leaders to preside over the ceremony, as a colleague, someone who understood him much better than other writers and poets. The ceremony taking place at the Provincial Cultural House was solemn and warm. His health was very weak. However, he still tried to listen attentively. A representative of the organizing committee (also a poet) read a speech evaluating his literary career and the love that readers throughout the country had for him. Holding a bouquet of flowers to celebrate his life, he appeared very emotional... At the end of the celebration of life, I would like to speak as his younger brother and young colleague: "Dear poet Quach Tan, around Today, there are many writers, poets and artists from Khanh Hoa, Ho Chi Minh City and many other provinces. Brothers and sisters, you are one of the great names of Vietnamese poetry in the 20th century. Have you ever thought that some of your good poems have always been by my side during the days of fierce fighting for 30 years? Thank you”
Poet Quach Tan said in response: "I will never forget today and will carry this good memory with me for the rest of my life. I know I don't have much time left, so I cherish the remaining days even more."
In all television programs on VTV1, VTV2, VTV3, HTV9, HTV7 and KTV, when talking about Quach Tan, there is the presence of poet Giang Nam. There were also articles about Guo Jin of Jiangnan in local and newspapers
Ha Noi capital
, Ho Chi Minh City.
In June 2008, the poetry collection Listening to Time by poet Giang Nam was published by the Writers' Association publishing house.
In this work, poet Giang Nam wrote about Quach Tan: the poem "In memory of the author of Classic Season" is Market Harbor in the Rainy Afternoon.
Reading the poem, we see that Giang Nam went deeply into the life of this classic poet with a sincere heart.
In the first stanza:
The last verse of the first stanza of the poem contains countless reminders, making us think of the verses in Quach Tan's Classic Season:
The twentieth century was a century of turmoil between old poetry and new poetry. Quach Tan was the person who "closed an era in Vietnamese poetry" (Words by Hoai Thanh in Vietnamese Poetry).
On to the second stanza:
The fire of belief in the longevity of national culture lit up the dark night for Quach Tan to write prose and poetry for more than half a century with tens of thousands of manuscript pages.
On to the third stanza:
Poet Giang Nam's heart is very sincere in the 12 eight-word verses commemorating Quach Tan, which is extremely emotional and passionate.
Today is the first day of the year of Quy Mao. Poet Giang Nam went to meet poet Quach Tan. The eternal reunion will be extremely dear.
|
Các loại cây này có thể phát triển tốt trên sa mạc của Dubai và vùng nước biển mặn.
Trên thực tế, tình trạng nhiệt độ tăng cao cùng các hiện tượng thời tiết cực đoan do
biến đổi khí hậu
đang khiến việc trồng trọt và các điều kiện canh tác ngày càng trở nên khó khăn, đồng thời làm gián đạn quá trình phân phối lương thực. Tuy nhiên, các nhà khoa học tại một số khu vực khô hạn nhất trên thế giới đang tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng cao sản lượng bằng cách gieo trồng những loại cây phát triển mạnh trên đất kém màu mỡ và nước biển.
Trên sa mạc ở Dubai, những người nông dân phải đối mặt với cái nóng gay gắt, lượng nước ngọt hạn chế và đất cát. Trung tâm Nông nghiệp quốc tế Biosaline (ICBA) đang thực hiện cấy và trồng siêu thực phẩm ưa mặn trong nỗ lực để mở rộng sự đa dạng lương thực trong vùng.
Nhà nông học Dionysia Angeliki Lyra tại ICBA cho biết: “Nước ngọt đang ngày càng khan hiếm. Chúng tôi phải tập trung vào việc có thể tận dụng nguồn nước mặn chất lượng thấp để trồng lương thực”.
Việc trồng trọt ở trên sa mạc đã tồn tại từ hàng nghìn năm. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại cây trồng ở sa mạc đều cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết để có thể nuôi sống dân số ngày càng gia tăng.
ICBA ra đời tại Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) vào năm 1999, với sứ mệnh tìm kiếm các loại cây trồng có giá trị dinh dưỡng cao trên toàn thế giới có thể thích nghi và sinh tồn ở trong điều kiện thời tiết cực đoan, cũng như phát triển mạnh khi tưới tiêu bằng nước biển từ những dự án khử mặn.
Cây diêm mạch được trồng trên sa mạc. Ảnh: ICBA.
Hiện nay, ICBA có một bộ sưu tập độc đáo gồm hơn 13.000 hạt giống. Chương trình này đã giới thiệu được nhiều loại hoa màu mới để trồng cho sa mạc, chẳng hạn như cây diêm mạch (quinoa) từ vùng Andes tại Nam Mỹ.
Theo đó, các nhà khoa học đã tiến hành thử nghiệm hơn 1.200 chủng cây diêm mạch, trong đó có 5 loại có thể phát triển trong điều kiện khắc nghiệt. Hiện nay, nông dân tại hơn 10 quốc gia ở Trung Đông và Bắc Phi đang sản xuất siêu thực phẩm này. Ngoài ra, ICBA cũng giới thiệu loại cây này tại các vùng nông thôn ở Trung Á.
Bên cạnh đó, ít được biết tới ngoài một số vùng của châu Âu, Bắc Mỹ, salocornia là một loài cây có nguồn gốc từ miền Nam nước Mỹ, cần nước mặn để phát triển. Loài cây này đã được chuyển tới sa mạc Dubai và đang phát triển mạnh. ICBA gọi salocornia là “
siêu anh hùng sa mạc
” bởi nó có khả năng thích nghi và tính linh hoạt cao. Salicornia còn được sử dụng để làm thức ăn và có thể được thử nghiệm làm nhiên liệu sinh học.
Theo ICBA, trung tâm này sản xuất được khoảng 200 kg cây quinoa và 500 kg salicornia để tiến hành nghiên cứu và nhân giống, đồng thời hợp tác với một công ty thực phẩm tại Dubai nhằm phát triển các thực phẩm có sử dụng salicornia. Mục đích của việc này giúp tăng lượng tiêu dùng.
Nhà nông học Dionysia Angeliki Lyra cho rằng, việc thay đổi loại cây lương thực mà những người nông dân đang trồng sẽ có tác động lâu dài tới môi trường.
Sử dụng cây salicornia giúp tạo ra những món ăn tốt cho sức khỏe của con người. Ảnh: Gulftoday.
Hiện nay, salicornia đang là loài cây phát triển mạnh tại nhiều trang trại của UAE.
Việc trồng loài cây này bắt đầu được tiến hành vào năm 2021 tại một số trang trại trên khắp UAE. Theo các nhà khoa học, salicornia có thể trở thành một thành phần thực phẩm thực sự quan trọng, bởi mầm của loài cây này giày thành phần dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe của con người, đồng thời chứa một số hoạt chất có lợi cho việc hạn chế bệnh béo phì, gan nhiễm mỡ…
Đặc biệt, salicornia được dùng trong bánh mỳ kẹp thịt có thể giúp giảm 40% hàm lượng muối ăn, tốt cho sức khỏe của người tiêu dùng.
Với khả năng thích nghi trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất, salicornia đang là loài cây cho thấy tiềm năng phát triển nền nông nghiệp bền vững trong tương lai.
Bánh mỳ kẹp có sử dụng salicornia tại Dubai. Ảnh: ICBA.
Theo các chuyên gia, những hoạt động của ICBA là một phần trong nỗ lực toàn cầu để tìm giải pháp thay thế cho vấn đề sản xuất lương thực. Theo đó, tổng nhu cầu lương thực trên toàn cầu dự kiến sẽ tăng từ 59 – 98% vào năm 2050. Tuy nhiên, với những tác động của biến đổi khí hậu, chuyên gia Joshua Katz tại công ty tư vấn McKinsey & Company, nhận định rằng, ngoài ICBA, chúng ta cần phải có nhiều giải pháp hơn để đảm bảo an ninh lương thực trong tương lai.
Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, 41 triệu người đang có nguy cơ phải chịu nạn đói. Thế nhưng thực tế chỉ có 11% diện tích đất liền ở trên Trái Đất được dùng để trồng trọt. Do đó, việc trồng trọt ở trên sa mạc trở thành một lựa chọn thực tế ở trong môi trường khắc nghiệt, khi có hàng triệu người dân sống tại những vùng đất sa mạc hóa.
Các quốc gia như UAE, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu lương thực, đang dần dựa vào các công nghệ khác nhau như trang trại thẳng đứng trong nhà và nhà kính thông minh ở trên sa mạc nhằm tăng sản lượng lương thực. Mặt khác, ICBA cũng tiến hành điều chỉnh kỹ thuật tại Trung Á, cận Sahara và châu Phi, để đa dạng hóa cây trồng, tăng năng suất và sử dụng nước hiệu quả.
Bài viết tham khảo nguồn: CNN, AFP
|
These plants can grow well in Dubai's deserts and salty ocean waters.
In fact, rising temperatures and extreme weather phenomena are caused by
Climate Change
are making farming and farming conditions increasingly difficult, while also disrupting food distribution. But scientists in some of the world's driest regions are looking for ways to boost yields by cultivating crops that thrive in less fertile soil and seawater.
In the desert of Dubai, farmers face intense heat, limited fresh water and sandy soil. The International Center for Biosaline Agriculture (ICBA) is cultivating and growing halophilic superfoods in an effort to expand food diversity in the region.
“Fresh water is becoming increasingly scarce,” said agronomist Dionysia Angeliki Lyra at ICBA. We have to focus on being able to take advantage of low-quality salt water to grow food.”
Cultivation in the desert has existed for thousands of years. However, not all desert crops provide the nutrients needed to feed a growing population.
ICBA was born in the United Arab Emirates (UAE) in 1999, with the mission of finding crops with high nutritional value worldwide that can adapt and survive in different weather conditions. extremes, as well as thriving when irrigated with seawater from desalination projects.
Quinoa is grown in the desert. Photo: ICBA.
Currently, ICBA has a unique collection of more than 13,000 seeds. This program has introduced many new crops to grow for the desert, such as quinoa from the Andes region of South America.
Accordingly, scientists have tested more than 1,200 strains of quinoa, of which 5 types can grow in harsh conditions. Currently, farmers in more than 10 countries in the Middle East and North Africa are producing this superfood. In addition, ICBA also introduced this plant in rural areas in Central Asia.
Besides, little known outside some parts of Europe and North America, salocornia is a plant native to the Southern United States that needs salt water to grow. This plant has been moved to the Dubai desert and is thriving. ICBA calls salocornia “
desert superhero
” because it has high adaptability and flexibility. Salicornia is also used as food and could be tested as biofuel.
According to ICBA, this center produces about 200 kg of quinoa and 500 kg of salicornia to conduct research and breeding, and cooperates with a food company in Dubai to develop foods using salicornia. The purpose of this is to help increase consumption.
Agronomist Dionysia Angeliki Lyra said that changing the type of food farmers are growing will have a long-term impact on the environment.
Using salicornia plants helps create dishes that are good for human health. Photo: Gulftoday.
Currently, salicornia is a thriving plant on many farms in the UAE.
Planting of the plant began in 2021 on several farms across the UAE. According to scientists, salicornia can become a really important food ingredient, because the sprouts of this plant contain nutrients that are beneficial to human health, and also contain a number of beneficial active ingredients. for limiting obesity, fatty liver...
In particular, salicornia used in burgers can help reduce salt content by 40%, which is good for consumers' health.
With the ability to adapt to the harshest weather conditions, salicornia is a tree species that shows the potential for developing sustainable agriculture in the future.
Sandwiches using salicornia in Dubai. Photo: ICBA.
According to experts, ICBA's activities are part of a global effort to find alternative solutions to food production problems. Accordingly, total global food demand is expected to increase from 59 - 98% by 2050. However, with the impacts of climate change, expert Joshua Katz at consulting firm McKinsey & Company, commented that, in addition to ICBA, we need to have more solutions to ensure food security in the future.
According to UN estimates, 41 million people are at risk of famine. But in reality only 11% of the Earth's land area is used for farming. Therefore, desert farming becomes a realistic option in harsh environments, when millions of people live in desertified lands.
Countries like the UAE, which is heavily dependent on food imports, are gradually relying on various technologies such as indoor vertical farms and smart greenhouses in the desert to increase food production. On the other hand, ICBA also conducts technical adjustments in Central Asia, sub-Saharan Africa, to diversify crops, increase productivity and use water efficiently.
Article reference sources: CNN, AFP
|
Hiểu sâu sắc về lịch sử của ngôi làng hàng trăm năm tuổi nằm bên vịnh Đà Nẵng, dưới chân đèo Hải Vân, ông Đặng Dùng đã miệt mài góp nhặt những câu chuyện của làng mình để lưu lại cho thế hệ mai sau. Người dân nơi đây gọi ông là “Sử gia làng Nam Ô”, “nhà Nam Ô học”.
Nhắc đến cái tên “Sử gia làng Nam Ô” hay “nhà Nam Ô học”, ông Đặng Dùng lắc đầu, tự nhận mình đơn thuần là người kể chuyện làng. “Tôi chỉ là người quan tâm “quá đáng” về quê xứ mình đang sống, lại mang nỗi lo bao đồng, hay ghi nhớ những chuyện của các bô lão trong làng nhiều thời, nhiều lớp tuổi kể lại…”- ông Đặng Dùng nói.
Nam Ô là một làng chài nằm bên vịnh Đà Nẵng, dưới chân đèo Hải Vân, bên có sông Cu Đê, trước có biển.
Sinh ra và lớn lên ở làng Nam Ô (phường Hòa Hiệp Nam,
quận Liên Chiểu
,
TP Đà Nẵng
), ông Đặng Dùng nói rằng, hồn cốt muối mặn ông cha cùng những câu chuyện về các di tích, di chỉ văn hóa, lịch sử Việt – Chăm đã ngấm vào người ông từ lúc nào chẳng hay.
Ông chỉ học trường làng, điều kiện học hành có hạn, không học qua bất kỳ trường lớp Sử nào. Thuở nhỏ, ông thường nghe các bậc cao niên trong làng kể chuyện. Ngày qua ngày, những câu chuyện phủ bóng thời gian đó gieo vào ông tình yêu làng, yêu văn hóa làng, hiểu về ý thức cố kết cộng đồng rất cao của người Việt, hiểu sự cần thiết phải bảo tồn những “di sản” vật thể và phi vật thể vô giá của Nam Ô – ngôi làng chài cổ bậc nhất xứ Đàng Trong.
Thói quen ghi chép và ham đọc sách được hình thành trong cậu bé Đặng Dùng. Lớn lên, hễ tìm được cuốn sách nào nói về làng Nam Ô, ông đem ra đối chiếu với những gì mà mình đã ghi lại.
Càng tìm hiểu về làng, ông càng tự hào về ngôi làng có phong cảnh hữu tình, lại nổi tiếng với nghề khai thác, đánh bắt thủy hải sản, làm nước mắm và làm pháo.
Ông Đặng Dùng kể lại những câu chuyện về làng mình.
Ông nhắc đến nghề làm nước mắm Nam Ô thơm ngon nức tiếng; nghề làm pháo nổ, pháo hoa cho ngày Tết cổ truyền thêm rộn ràng; nghề làm guốc mộc có từ cách đây cả trăm năm, từng nuôi sống nhiều gia đình của hai làng Nam Ô và Xuân Dương; rồi cả món gỏi cá trứ danh được làm từ cá ve, cá trích hay cá cơm, ăn chỉ biết no chứ không biết ngán…
Người kể chuyện làng Nam Ô luôn nói về ngôi làng của mình một cách say sưa, ánh mắt rạng rỡ khi đọc câu ca dao xưa: “Nam Ô không ở là quê/ Sông sau biển trước núi kề một bên”.
Nhiều người vẫn cắt nghĩa Nam Ô là cửa ngõ phía Nam của Châu Ô. Ông Đặng Dùng lý giải không phải “cửa ngõ” hay “cửa ô” gì cả. Tên xa xưa là Hoa Ổ, tức cồn đất có nhiều hoa. Cuốn “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn có đoạn ghi địa danh “Chân Sảng Tây thôn, giang niêm Hoa Ổ xã”.
Mẹ vua Thiệu Trị đã đổi tên Hoa Ổ thành Hóa Ổ. Dưới thời Minh Mạng, Hóa Ổ được đổi thành Nam Ổ. Người Pháp đọc không dấu thanh, đọc trại thành Nam Ô, cứ thế lâu ngày thành quen.
Nghề nước mắm Nam Ô là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Trong căn nhà nhỏ cách biển Nam Ô chỉ mấy bước chân, ông Đặng Dùng vẫn đau đáu nỗi lo của “những người muôn năm cũ” bởi ngôi làng cổ đang dần hiện đại và đổi thay theo nhịp thời gian.
“Đó là quy luật tất yếu nhưng tôi cảm thấy tiếc về những cái có thể bị mất đi. Mất cái áo, cái quần thì sắm lại dễ, nhưng mất văn hóa là không còn. Vì vậy, tôi quan tâm đến làng trong nỗi buồn phiền. Tôi lo những cái xù xì đáng ra nên được giữ lại thì sẽ mất đi theo thời gian”, ông Đặng Dùng bày tỏ.
Ông đưa chúng tôi đến những giếng cổ của làng. Giếng có 4 cạnh hình vuông được ghép bằng những tấm đá thanh dày trên 10cm, rộng 0,45cm, chồng ghép lên nhau từ mạch nước ngầm lên mặt đất. Các cạnh khớp chắc vào rãnh các trụ và tang giếng cũng bằng đá cùng loại.
Có 8 giếng như thế ở làng Nam Ô gồm: giếng Đình, giếng Thành Chung, giếng Lăng, giếng Chùa, giếng Cồn Trò, giếng Quán Hoa Ổ (bà Bang), giếng bến đò Cu Đê (ông Sõi) và giếng Tú Lâm.
“Các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm cho rằng, chẳng nơi nào có mật độ giếng cổ đông đúc như ở đây. Song, hiện chỉ còn 4 giếng thấy trên mặt đất, dưới mắt nhìn”, ông Đặng Dùng nói, rồi cho biết thêm: Theo quan niệm văn hóa tâm linh xưa gắn với yếu tố phong thủy, giếng chứa đựng 3 yếu tố là đất, nước và không khí – một tổng hòa quan trọng trong không gian sống của người xưa.
Ông Đặng Dùng bên giếng cổ của làng mình – giếng Lăng.
Ở tuổi 74, ông Đặng Dùng lo rằng, thế hệ của ông mất đi thì lớp trẻ sau này còn ai quan tâm giếng cổ; ai quan tâm đình làng, lăng, miếu, hay các lễ hội của làng Nam Ô. Ông muốn lưu giữ những ký ức lịch sử, văn hóa tâm linh, những tín ngưỡng dân gian cựu truyền, những nghề nghiệp tạo ra sản phẩm từng vang danh…
Vì vậy, ông đem những hiểu biết của mình về dấu tích, di tích, nghề nghiệp, đặc sản, lời ăn tiếng nói… viết thành từng câu chuyện của quá khứ và hiện tại, tập hợp cả những bài viết từng đăng trên các báo vào cuốn sách “Nam Ô và những chuyện kể”, vừa được NXB Đà Nẵng ra mắt trong những ngày cuối tháng 12/2022.
Cuốn sách minh chứng rằng, Nam Ô hội đủ đền thiêng, sông thiêng, núi thiêng, là tuyệt tác giữa sóng biển và mây ngàn, giữa rừng và bãi, tiếng chuông chùa hòa lẫn sóng ven sông… như vốn có từ ngàn năm trước, khi dấu chân của cư dân “Nam tiến” đầu tiên đặt đến xứ này.
Trong cuốn sách, ông ký bút danh là Đặng Phương Trứ, lấy tên của hai danh tướng mà ông ngưỡng mộ về khí phách: Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Trứ.
Cuốn sách “Nam Ô và những chuyện kể” của ông Đặng Dùng (Đặng Phương Trứ) vừa được NXB Đà Nẵng ra mắt trong những ngày cuối tháng 12/2022.
TS. Sử học Lưu Anh Rô cho rằng, ông Đặng Dùng (Đặng Phương Trứ) đã giới thiệu đến bạn đọc một Nam Ô của hư và thực, giữa cái hiện hữu và vô hình, giữa quá khứ và hiện tại đan xen, nơi là phố mà thực sự là làng, nơi là làng nhưng đang là phố, nơi giữ được sự mộc mạc, chân chất của thời Ô Lý nhưng vẫn dung hòa cái mới tân thời.
“Nam Ô trạm, Nam Ô cầu, Nam Ô đình, Nam Ô miếu, Nam Ô chợ, Nam Ô chùa, Nam Ô vịnh, Nam Ô pháo, Nam Ô mắm…, tất cả đều là những mảnh ghép bổ sung nhau làm nên một bức tranh Nam Ô hoàn chỉnh mà hồn cốt thì chẳng thể lẫn vào đâu được”, TS. Lưu Anh Rô nhận định.
Những người chuyện trò với ông Đặng Dùng đều có chung cảm nhận rằng, chưa thấy ai yêu Nam Ô như “nhà Nam Ô học” này.
Còn với ông Đặng Dùng, những chia sẻ của ông là ký ức chân thành về một làng biển cổ hiếm hoi còn sót lại, mà mỗi con sóng, hòn đá, rừng cây, giếng nước, đình, lăng, chùa, miếu đều mang chút hồn văn hóa, đang kêu gọi mọi người đừng lãng quên.
|
Deeply understanding the history of the hundred-year-old village located next to Da Nang Bay, at the foot of Hai Van Pass, Mr. Dang Dung has diligently collected stories of his village to save for future generations. People here call him "Nam O village historian", "Nam O scholar".
Mentioning the name "Nam O village historian" or "Nam O scholar", Mr. Dang Dung shook his head, claiming to be simply a village storyteller. "I'm just a person who cares too much about the hometown I live in, has many worries, and often remembers stories told by village elders from many times and many ages..." - Mr. Dang Use speak.
Nam O is a fishing village located on Da Nang Bay, at the foot of Hai Van Pass, on the side is the Cu De River, in front is the sea.
Born and raised in Nam O village (Hoa Hiep Nam ward,
Lien Chieu District
,
Da Nang City
), Mr. Dang Dung said that the salty soul of his ancestors and the stories about relics, cultural sites, and Vietnamese - Cham history have been absorbed into him without realizing it.
He only attended the village school, his educational conditions were limited, and he did not attend any history schools. As a child, he often listened to the village elders tell stories. Day after day, the stories that shadowed that time instilled in him a love of the village, a love of village culture, an understanding of the Vietnamese people's high sense of community cohesion, and an understanding of the need to preserve "heritage". Priceless tangible and intangible objects of Nam O - the most ancient fishing village in Dang Trong.
The habit of taking notes and reading books was formed in the boy Dang Dung. Growing up, whenever he found a book about Nam O village, he compared it with what he had recorded.
The more he learned about the village, the more proud he became of the village's charming scenery and famous for its occupations of mining, catching seafood, making fish sauce and making firecrackers.
Mr. Dang Dung told stories about his village.
He mentioned the famous profession of making delicious Nam O fish sauce; The profession of making firecrackers and fireworks for the traditional New Year is more bustling; The craft of making wooden clogs dates back hundreds of years, and has supported many families in the villages of Nam O and Xuan Duong; and then the famous fish salad made from cicadas, herring or anchovies, you can eat it to feel full but not bored...
The storyteller of Nam O village always talks about his village passionately, his eyes beaming when reading the old folk song: "Nam O is not a place to live / The river behind the sea is next to the mountain."
Many people still explain that Nam O is the southern gateway of Chau O. Mr. Dang Dung explained that it is not a "gateway" or a "doorway" at all. Its ancient name is Hoa O, meaning dune with many flowers. The book "Phu Bien Tap Luc" by Le Quy Don has a passage recording the place name "Chan Sang Tay village, Hoa O commune".
King Thieu Tri's mother changed Hoa O's name to Hoa O. Under Minh Mang's reign, Hoa O was changed to Nam O. The French read it without accents, reading Nam O citadel, and after a long time they became accustomed to it.
Nam O fish sauce craft is a national intangible cultural heritage.
In a small house just a few steps from Nam O beach, Mr. Dang Dung still worries about the worries of "old-fashioned people" because the ancient village is gradually modernizing and changing with the rhythm of time.
“It is an inevitable rule, but I feel sorry for what may be lost. If you lose a shirt or pants, it's easy to buy them back, but if you lose your culture, you're gone. So I care about the village in sadness. I'm worried that the rough things that should be kept will be lost over time," Mr. Dang Dung expressed.
He took us to the village's ancient wells. The well has 4 square sides made of stone slabs over 10cm thick and 0.45cm wide, overlapping each other from underground water to the ground. The edges fit firmly into the grooves of the pillars and the shaft of the well is also made of the same type of stone.
There are 8 such wells in Nam O village including: Dinh well, Thanh Chung well, Lang well, Chua well, Con Tro well, Quan Hoa O well (Mrs. Bang), Cu De ferry well (Mr. Soi) and Tu Lam well .
“Cham culture researchers say that nowhere else has the density of ancient wells as dense as here. However, currently there are only 4 wells left that can be seen on the ground, under the naked eye," Mr. Dang Dung said, then added: According to ancient spiritual cultural concepts associated with feng shui elements, wells contain 3 elements: earth. , water and air - an important combination in the living space of the ancients.
Mr. Dang Use next to his village's ancient well - Lang well.
At the age of 74, Mr. Dang Dung worries that if his generation dies, no one will care about the old well in the future; Who cares about communal houses, mausoleums, temples, or festivals of Nam O village? He wants to preserve historical memories, spiritual culture, ancient folk beliefs, and famous product-creating professions...
Therefore, he brought his knowledge about vestiges, relics, occupations, specialties, words of speech... into stories of the past and present, including articles published in newspapers. reported in the book "Nam O and its stories", just launched by Da Nang Publishing House in the last days of December 2022.
The book proves that Nam O is full of sacred temples, sacred rivers, sacred mountains, a masterpiece between ocean waves and clouds, between forests and beaches, the sound of temple bells mixed with riverside waves... as it was thousands of years ago. , when the footprints of the first "Southern" residents arrived in this land.
In the book, he signed the pen name Dang Phuong Tru, taking the names of two famous generals whose courage he admired: Nguyen Tri Phuong and Nguyen Cong Tru.
The book "Nam O and the Stories" by Mr. Dang Use (Dang Phuong Tru) has just been launched by Da Nang Publishing House in the last days of December 2022.
Dr. Historian Luu Anh Ro believes that Mr. Dang Use (Dang Phuong Tru) introduced readers to a Nam O of the imaginary and the real, between the existing and the invisible, between the past and present intertwined, where the city is. but really a village, a place that is a village but is still a city, a place that retains the simplicity and authenticity of the O Ly period but still harmonizes with the new and modern.
“Nam O Tram, Nam O Cau, Nam O Dinh, Nam O Mieu, Nam O Cho, Nam O Pagoda, Nam O Vinh, Nam O Phao, Nam O Mam..., all are complementary pieces that make up A complete Nam O painting whose soul is unmistakable", Dr. Luu Anh Ro commented.
Those who talked with Mr. Dang Dung all had the same feeling that they had never seen anyone who loved Nam O like this "Nam O scholar".
As for Mr. Dang Dung, his shares are sincere memories of a rare remaining ancient coastal village, where every wave, stone, forest, well, communal house, mausoleum, pagoda, and shrine carries A bit of cultural soul, calling on everyone not to forget.
|
Theo hãng AP, lượng mưa lịch sử kéo dài nhiều tuần ở California sẽ hỗ trợ phần nào nước sinh hoạt cho các thành phố, nhưng không đủ để chấm dứt trận hạn hán nghiêm trọng trong năm qua.
Lượng mưa lớn sẽ cung cấp lượng nước đáng kể cho các cơ quan cấp nước công cộng, phục vụ 27 triệu người dân trong bang. Các quan chức cho biết lượng nước cung cấp đang nhiều hơn so với dự kiến cách đây 1 tháng.
Các cơ quan cấp nước công cộng ở
Mỹ
hiện đã tiếp nhận được khoảng 30% lượng nước so với yêu cầu, tăng hơn so với mức 5% so với kế hoạch. Nguyên nhân lượng nước cung cấp nhiều hơn so với dự kiến vì trong 3 tuần đầu tiên của tháng Giêng, 9 con sông đã được cung cấp khoảng 32 nghìn tỷ gallon nước mưa và tuyết xuống California. Lượng nước đủ để tăng số lượng dự trữ trong 2 hồ chứa lớn nhất của bang, nâng lên tổng cộng 66% nguồn dự trữ.
“Chúng ta chưa thể thoát khỏi kỷ lục hạn hán ở California nhưng điều này chắc chắn đã giảm đi nguy cơ đáng kể”, bà Karla Nemeth, Giám đốc Sở Tài nguyên Nước California cho biết. Bang California lấy nước từ các sông và suối, sau đó lưu trữ nước trong một loạt các hồ chứa. Các quan chức tiểu bang sau đó điều chỉnh cung cấp nguồn nước đó cho 29 cơ quan công cộng, đảm bảo nước uống và sinh hoạt đến các hộ gia đình của tiểu bang và phục vụ cho đất nông nghiệp.
Nhiều năm hạn hán đã làm cạn kiệt các hồ chứa nước, khiến mực nước xuống mức thấp nghiêm trọng ở California, buộc các cơ quan cấp nước trên toàn tiểu bang phải cắt giảm lượng nước sinh hoạt đáng kể. Nhiều cơ quan áp đặt các hạn chế bắt buộc đối với khách hàng. Thống đốc bang California Gavin Newsom kêu gọi người dân và các doanh nghiệp tự nguyện giảm đi 15% lượng nước sử dụng.
Nhà cung cấp nước sinh hoạt lớn nhất tại Mỹ – Metropolitan Water District của Nam California cho các quận đông dân như Los Angeles và San Diego tháng trước đã tuyên bố tình trạng hạn hán khẩn cấp đối với 19 triệu khách hàng. Các hạn chế bắt buộc cũng áp dụng đối với 7 triệu khách hàng, nghĩa là nước sử dụng chỉ đủ tưới cỏ một ngày mỗi tuần.
Thông báo ngày 28/1 vẫn chưa đề cập đến tình trạng chấm dứt các hạn chế đối với việc sử dụng nước sinh hoạt. Ông Adel Hagekhalil, Tổng Giám đốc Cơ quan Nước sạch miền Nam California nhấn mạnh lượng nước bổ sung “chắc chắn sẽ hỗ trợ các cộng đồng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đợt hạn hán này”. Tuy nhiên, theo ông, những thách thức về nước sinh hoạt ở Nam California “còn lâu mới kết thúc.”
Các quận của bang California lấy khoảng 1/3 lượng nước từ Dự án nước tiểu bang, 1/3 từ sông Colorado và 1/3 từ các nguồn khác. Hệ thống sông Colorado đã được hưởng lợi từ những cơn bão mùa đông gần đây, nhưng không đến mức rơi vào tình trạng “nghiêm trọng” như hệ thống nước của California. Ông Hagekhalil cảnh báo Nam California có thể “chứng kiến sự sụt giảm đáng kể” từ sông Colorado bắt đầu từ năm tới.
“Để bổ sung nguồn dự trữ tại địa phương và giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung nhập khẩu, tất cả chúng ta phải sử dụng nước một cách hiệu quả nhất có thể”, ông Hagekhalil nhấn mạnh.
Những cơn bão gần đây cho thấy việc quản lý nước khó khăn ra sao. Các đợt khô hạn kéo dài thường kèm theo những đợt mưa và tuyết dữ dội khiến giới chức trách phải nhanh chóng tìm kiếm cách trữ nước trước khi nước chảy ra Thái Bình Dương. Các quy định về môi trường hạn chế lượng nước lấy ra khỏi sông sẽ đảm bảo môi trường sống cho các loài cá có nguy cơ tuyệt chủng cũng đã được áp dụng.
California đang cố gắng xây dựng 7 dự án trữ nước mới nhưng những dự án đó đã mất gần một thập kỷ để khởi công trong quá trình phê duyệt và cấp phép kéo dài. Trong khi đó, đã 17 năm kể từ khi Dự án Nước Nhà nước cung cấp 100% lượng nước được phân bổ. Theo các quan chức tiểu bang, một phần của vấn đề là do biến đổi khí hậu khiến lượng nước mưa bốc hơi vào không khí ấm hơn và thấm vào mặt đất khô thay vì chảy vào sông suối của bang.
Giới quan chức bày tỏ thận trọng về nỗ lực cung cấp nước trong năm nay. California có lượng tuyết nhiều gấp đôi ở Sierra Nevada so với mức trung bình trong lịch sử.
Lượng mưa lớn đã làm bão hòa mặt đất, có nghĩa là khi tuyết tan ở Sierra Nevada vào mùa xuân này, sẽ có ít nước được mặt đất khô hấp thụ. Vì vậy, nhiều nước hơn sẽ chảy vào các hồ chứa của tiểu bang. Tuy nhiên, ngay cả với hàng loạt trận mưa lớn thì mức nước cung cấp cho các hồ dự trữ cũng chỉ là trung bình.
“Chúng ta có thể trải qua thời điểm khô hạn khắc nghiệt và cả tình trạng ẩm ướt dữ dội trong cùng một năm”, ông Nemeth nhấn mạnh./.
|
According to AP, weeks of historic rainfall in California will provide some water support for cities, but not enough to end the severe drought of the past year.
Heavy rainfall will provide significant water supplies to public water agencies, which serve 27 million people in the state. Officials say the water supply is more than expected a month ago.
Public water supply agencies in
America
Currently, it has received about 30% of the required amount of water, an increase of 5% compared to the plan. The reason the amount of water supplied was more than expected because in the first 3 weeks of January, 9 rivers were supplied with about 32 trillion gallons of rain and snow water to California. The amount of water is enough to increase the amount of storage in the state's two largest reservoirs, bringing a total of 66% of reserves.
“We are not out of the woods yet, but this has certainly reduced the risk significantly,” said Karla Nemeth, Director of the California Department of Water Resources. The state of California obtains water from rivers and streams, then stores the water in a series of reservoirs. State officials then regulated that water supply to 29 public agencies, ensuring drinking and domestic water reached the state's households and served agricultural lands.
Years of drought have depleted reservoirs, sending water levels to critically low levels in California, forcing water agencies across the state to make significant water cuts. Many agencies impose mandatory restrictions on customers. California Governor Gavin Newsom called on people and businesses to voluntarily reduce water use by 15%.
The largest domestic water supplier in the United States - the Metropolitan Water District of Southern California to populous counties such as Los Angeles and San Diego - last month declared a drought emergency for 19 million customers. Mandatory restrictions also apply to 7 million customers, meaning water usage is limited to enough to water lawns one day per week.
The January 28 announcement still does not mention the end of restrictions on domestic water use. Mr. Adel Hagekhalil, General Director of the Southern California Clean Water Authority, emphasized that the additional water "will certainly support the communities most affected by this drought." However, he said, Southern California's water challenges are "far from over."
California counties get about one-third of their water from the State Water Project, one-third from the Colorado River, and one-third from other sources. The Colorado River system has benefited from recent winter storms, but not to the same degree as California's water system. Southern California could “see a significant decline” from the Colorado River starting next year, Mr. Hagekhalil warned.
“To replenish local reserves and reduce dependence on imported supplies, we must all use water as efficiently as possible,” Mr. Hagekhalil emphasized.
Recent storms have shown how difficult water management can be. Prolonged dry spells are often accompanied by intense rain and snow, forcing authorities to quickly find ways to store water before it flows into the Pacific Ocean. Environmental regulations limiting the amount of water taken out of rivers that would ensure habitat for endangered fish species have also been applied.
California is trying to build seven new water storage projects, but those projects have taken nearly a decade to get off the ground amid a lengthy permitting and approval process. Meanwhile, it has been 17 years since the State Water Project provided 100% of its water allocation. Part of the problem, according to state officials, is climate change causing rainwater to evaporate into warmer air and seep into dry ground instead of flowing into the state's rivers and streams.
Officials expressed caution about water supply efforts this year. California had twice as much snow in the Sierra Nevada as the historical average.
Heavy rainfall has saturated the ground, meaning that when snow melts in the Sierra Nevada this spring, less water will be absorbed by the dry ground. So more water will flow into the state's reservoirs. However, even with a series of heavy rains, the water level supplied to the reservoirs is only average.
"We can experience extreme dryness and intense wetness in the same year," Mr. Nemeth emphasized./.
|
Do chảy qua vùng đất có địa hình đồi núi, dốc cao của
dãy Trường Sơn
nên sông Tiên lắm thác ghềnh bung tỏa nhiều vẻ đẹp. Hành trình khám phá dáng hình của sông mở ra thêm nhiều câu chuyện lý thú. Đây là dòng chảy biểu tượng cho vùng đất và con người huyện trung du
Tiên Phước
(
tỉnh Quảng Nam
).
Đá xếp tầng trên một đoạn sông Tiên.
Theo câu thơ cũ, chúng tôi bước vào vùng đất sông Tiên: “Nào có chi đâu mà thương mà nhớ/ Núi thì núi Ngang, đèo Liêu, Eo Gió/ Một tiếng chim kêu cũng lượn dốc trập trùng…”. Và với người Quảng Nam thì cho rằng: “Sông Tiên nước chảy ngược dòng/ Lấy chồng Tiên Phước chẳng mong ngày về”!
Sông Tiên có chiều dài xấp xỉ khoảng 6 km, chiều rộng đôi bờ trung bình 100m. Sông khởi nguồn từ các khe suối, thác nước của dãy núi thuộc địa bàn xã Tam Lãnh,
huyện Phú Ninh
và nhánh còn lại từ
huyện Bắc Trà My
hợp lưu thành dòng chảy.
Trên hành trình chảy ngược của mình, sông hòa dòng với nhiều con sông, suối nhỏ ở nhiều khu vực như sông Cà Đong (Tiên Thọ), sông Đá Giăng (Tiên Cảnh), suối Bình An (Tiên Kỳ) và nhiều suối nhỏ ở Tiên Cẩm, Tiên Hà. Ở nơi đầu nguồn, con sông có tên là sông Quế Phương. Dòng Quế Phương xuất phát từ xã Tam Lãnh chảy đến khu vực huyện Tiên Phước tại xã Tiên Lộc. Nhánh còn lại của sông Tiên từ Bắc Trà My đổ về gặp nhánh nhỏ từ Tiên Lộc chảy ra được người dân địa phương đặt tên là sông Tiên.
Tại đây, sông Tiên len lỏi qua địa bàn các xã Tiên Lộc, Tiên Kỳ, Tiên Cẩm, Tiên Châu, Tiên Hà. Từ cầu sông Tiên, dòng sông chảy theo hướng Đông Nam-Tây Bắc ngược về hạ lưu qua xã Tiên Hà, đoạn sông này được gọi là sông Khang rồi hòa vào sông Thu Bồn để về Cửa Đại.
Sông Tiên mang một nét cá tính mạnh mẽ. Dòng chảy len qua vài khe đá. Thoát đá ghềnh bọt trắng xóa cuộn lên.
Phía tả ngạn sông Tiên là nơi có ngôi làng cổ Lộc Yên quanh năm mát mẻ, ngõ đá rêu phong, hàng rào chè tàu sum suê. Người dân trong làng tự hào khi họ là chủ nhân những ngôi nhà có tuổi đời hơn 150 năm tuổi như các ngôi nhà của hai anh em ông Nguyễn Đình Hoan, Nguyễn Đình Sưu. Ở bờ bên kia sông là thị trấn Tiên Kỳ đang ngày càng phát triển. Cuộc sống người dân đã thay đổi đi lên, bờ kè dọc sông Tiên được đổ bê-tông kiên cố tạo vẻ mỹ quan đôi bờ sông.
Nghỉ chân tại một quán nước đầu cầu sông Tiên, chúng tôi gặp gia đình ông Phan Xuân Thanh, 62 tuổi, từ TP Hồ Chí Minh cũng đang trên đường về thăm quê hương Tiên Cảnh của họ. Cuộc trò chuyện đôi mươi phút mới biết gia đình này đã hai năm qua chưa về Tiên Cảnh. “Lâu rồi gia đình chúng tôi mới về lại quê, mấy đứa cháu cứ nói tôi tranh thủ hè này chở tụi nó về tắm nước sông Tiên. Thời tôi còn nhỏ ở đây, cứ chiều chiều lại ra lội dọc sông bắt cá lên bờ nướng ăn. Chừ không biết sông Tiên còn cá cho sắp nhỏ bắt không nữa”, ông Thanh cười bảo.
Ông Thanh vẫn nhớ như in những địa danh như Chăng Lớn, Chăng Nhỏ, Bãi Lội đã gắn bó với ông từ khi còn nhỏ. Dòng chảy của sông Tiên tuy ngắn nhưng nó là một phần ký ức của người dân xứ Tiên này. Đá dưới sông có thể mòn theo năm tháng nhưng tình cảm của con người dành cho dòng sông quê hương sẽ còn mãi.
Trên đường đến với danh thắng Lò Thung, ghé vào làng Lộc Yên, một không gian vườn cây trái xanh ngát giữa đồi núi trập trùng. Mảnh đất bên bờ con sông Tiên bao quát đủ mọi không gian. Mấy dãy ruộng bậc thang ăn sát vào chân núi, đám ruộng dưới cùng lấn ra tận mép sông. Nước xô vào bờ đá, đá lấn sâu vào ruộng. Sông Tiên bao đời gắn bó với Tiên Cảnh là vậy.
Chúng tôi đi dọc theo con đường bê-tông tìm lối xuống bãi đá Lò Thung, một địa điểm nổi tiếng trên dòng sông Tiên. Từ xa đã nghe tiếng nước chảy róc rách. Trời đứng trưa, thấy có người lạ tìm đường, cô Lê Thị Thủy, 46 tuổi, trú xã Tiên Cảnh đang hái lá mùng 5 liền dừng tay nhiệt tình chỉ lối đi qua bãi đá giữa sông. Dọc theo triền đá hai bờ sông Tiên mùa này có rất nhiều lá dung, là một loại lá mà theo lời cô Thủy sẽ dùng để giải nhiệt, rất tốt cho sức khỏe. “Mấy bữa nay bắt đầu có người hỏi mua lá dung, tranh thủ sáng đi làm đồng về còn sớm là tôi ghé luôn chỗ bãi đá này hái cũng được hai bao lớn lá để trên xe rồi. Đứng trưa mới hái được mà lá toàn mọc ngoài bờ đá, đi trên mấy phiến đá nóng hực lên mệt đuối”, cô Thủy thở dốc nói.
Khúc sông Tiên chảy qua Lò Thung này trải dài tít tắp toàn đá. Vậy nên, cái tên “vương quốc đá” trên dòng sông Tiên cũng từ đó mà được dân trong vùng đặt ra. Đá phiến to, phiến nhỏ, đủ hình thù lô xô chen chúc nhau. Dòng chảy qua đoạn này phải len lỏi qua nhiều khe đá nên tốc độ con nước bị chậm lại. Chỉ tay về khoảng nước rộng giữa dòng, cô Thủy cho biết, nhìn bằng mắt thường sông Tiên có vẻ chảy chậm nhưng vào những ngày mưa trên núi đổ về, mực nước có thể đột ngột dâng lên thêm gần một mét. Thật vậy, nhìn vào những vết phù sa còn bám trên vách đá sẽ hiểu dòng Tiên dữ dội như thế nào. Một, hai, rồi ba… vũng nước sâu hàng nghìn năm mát lạnh. Nước chảy thì đá cũng mòn, thực tế đó tạo nên những dáng vẻ lạ mắt trên từng tảng đá ở Lò Thung. Có những tảng đá mang hình thù kỳ dị như bàn chân một người khổng lồ in xuống, hay như một cái cối mòn nhẵn bóng. Thấp thoáng giữa dòng sông là một hình ảnh phiến đá mỏng có hình vây cá. Những người sống ven sông Tiên gọi đó là vây cá heo hay là một chú cá niên đang cố bơi ngược dòng, loài cá dẻo dai đặc biệt chỉ có ở những con sông miền núi như sông Tiên.
“Sông Tiên mùa này có đặc sản gì không cô?”. “Bữa nay thì đang vào mùa ốc đá sinh sản nên ốc ngon lắm. Nhưng mà chỉ thấy ốc vào ban đêm thôi. Ban ngày trời nắng ốc lặn hết”, cô Thủy bảo. Trước khi chia tay chúng tôi, cô Thủy nhiệt tình chỉ về hướng có những tảng đá hình dáng đẹp để những khách thập phương như chúng tôi có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp sông Tiên.
Vào mùa hè, nước từ các con khe, suối ít đi, dòng sông Tiên vì vậy cũng cạn đi hẳn. Vài đụn cát vàng nổi lên là lối đi qua lại giữa hai bờ sông. Đá ở sông Tiên cũng lạ kỳ. Dù không phải do bàn tay con người sắp xếp, vậy mà đoạn sông nằm ở phía tây cầu treo sông Tiên là những hàng đá thẳng tắp chắn ngang sông tựa kiểu ruộng bậc thang. Ngắm nhìn dòng sông Tiên từ mỗi mỏm đá mở ra từng góc nhìn lạ lẫm. Thời điểm này, nước từ nguồn đổ về rất ít, lại phải vượt qua bao ghềnh đá, bậc thềm, hành trình sông Tiên ngược về với dòng sông Thu Bồn đang đợi phía dưới hạ lưu lại càng lâu hơn.
“Có gì không mà sông tình vấn vương/ Người lữ khách muốn vượt qua ngõ cũ/ Ánh mắt đôi môi nụ cười duyên ấy/ Khi trở về… anh mãi nhớ sông Tiên”, nhà thơ Hồ Nghĩa Phương đã đắm say vẻ đẹp đơn sơ trong nhiều cung bậc cảm xúc của vùng đất ven sông Tiên để viết nên bài thơ “Gửi nhớ sông Tiên”.
Khung cảnh thị trấn ven sông lúc chiều tà lãng đãng mây khói miền trung du vừa nên thơ cũng lắm vẻ quyến rũ. Chiều tối, trời kéo mây giông vần vũ một vùng Tiên Phước. Nhiệt độ không khí bên dòng sông Tiên giảm đột ngột, tạm xa xứ Tiên theo tỉnh lộ ĐT614, chút bồi hồi khi phải chia tay với vẻ đẹp của một “nàng tiên” sông nước. Hẹn một ngày tái ngộ với sông Tiên…
|
Do chảy qua vùng đất có địa hình đồi núi, dốc cao của
dãy Trường Sơn
nên sông Tiên lắm thác ghềnh bung tỏa nhiều vẻ đẹp. Hành trình khám phá dáng hình của sông mở ra thêm nhiều câu chuyện lý thú. Đây là dòng chảy biểu tượng cho vùng đất và con người huyện trung du
Tiên Phước
(
tỉnh Quảng Nam
).
Đá xếp tầng trên một đoạn sông Tiên.
Theo câu thơ cũ, chúng tôi bước vào vùng đất sông Tiên: “Nào có chi đâu mà thương mà nhớ/ Núi thì núi Ngang, đèo Liêu, Eo Gió/ Một tiếng chim kêu cũng lượn dốc trập trùng…”. Và với người Quảng Nam thì cho rằng: “Sông Tiên nước chảy ngược dòng/ Lấy chồng Tiên Phước chẳng mong ngày về”!
Sông Tiên có chiều dài xấp xỉ khoảng 6 km, chiều rộng đôi bờ trung bình 100m. Sông khởi nguồn từ các khe suối, thác nước của dãy núi thuộc địa bàn xã Tam Lãnh,
huyện Phú Ninh
và nhánh còn lại từ
huyện Bắc Trà My
hợp lưu thành dòng chảy.
Trên hành trình chảy ngược của mình, sông hòa dòng với nhiều con sông, suối nhỏ ở nhiều khu vực như sông Cà Đong (Tiên Thọ), sông Đá Giăng (Tiên Cảnh), suối Bình An (Tiên Kỳ) và nhiều suối nhỏ ở Tiên Cẩm, Tiên Hà. Ở nơi đầu nguồn, con sông có tên là sông Quế Phương. Dòng Quế Phương xuất phát từ xã Tam Lãnh chảy đến khu vực huyện Tiên Phước tại xã Tiên Lộc. Nhánh còn lại của sông Tiên từ Bắc Trà My đổ về gặp nhánh nhỏ từ Tiên Lộc chảy ra được người dân địa phương đặt tên là sông Tiên.
Tại đây, sông Tiên len lỏi qua địa bàn các xã Tiên Lộc, Tiên Kỳ, Tiên Cẩm, Tiên Châu, Tiên Hà. Từ cầu sông Tiên, dòng sông chảy theo hướng Đông Nam-Tây Bắc ngược về hạ lưu qua xã Tiên Hà, đoạn sông này được gọi là sông Khang rồi hòa vào sông Thu Bồn để về Cửa Đại.
Sông Tiên mang một nét cá tính mạnh mẽ. Dòng chảy len qua vài khe đá. Thoát đá ghềnh bọt trắng xóa cuộn lên.
Phía tả ngạn sông Tiên là nơi có ngôi làng cổ Lộc Yên quanh năm mát mẻ, ngõ đá rêu phong, hàng rào chè tàu sum suê. Người dân trong làng tự hào khi họ là chủ nhân những ngôi nhà có tuổi đời hơn 150 năm tuổi như các ngôi nhà của hai anh em ông Nguyễn Đình Hoan, Nguyễn Đình Sưu. Ở bờ bên kia sông là thị trấn Tiên Kỳ đang ngày càng phát triển. Cuộc sống người dân đã thay đổi đi lên, bờ kè dọc sông Tiên được đổ bê-tông kiên cố tạo vẻ mỹ quan đôi bờ sông.
Nghỉ chân tại một quán nước đầu cầu sông Tiên, chúng tôi gặp gia đình ông Phan Xuân Thanh, 62 tuổi, từ TP Hồ Chí Minh cũng đang trên đường về thăm quê hương Tiên Cảnh của họ. Cuộc trò chuyện đôi mươi phút mới biết gia đình này đã hai năm qua chưa về Tiên Cảnh. “Lâu rồi gia đình chúng tôi mới về lại quê, mấy đứa cháu cứ nói tôi tranh thủ hè này chở tụi nó về tắm nước sông Tiên. Thời tôi còn nhỏ ở đây, cứ chiều chiều lại ra lội dọc sông bắt cá lên bờ nướng ăn. Chừ không biết sông Tiên còn cá cho sắp nhỏ bắt không nữa”, ông Thanh cười bảo.
Ông Thanh vẫn nhớ như in những địa danh như Chăng Lớn, Chăng Nhỏ, Bãi Lội đã gắn bó với ông từ khi còn nhỏ. Dòng chảy của sông Tiên tuy ngắn nhưng nó là một phần ký ức của người dân xứ Tiên này. Đá dưới sông có thể mòn theo năm tháng nhưng tình cảm của con người dành cho dòng sông quê hương sẽ còn mãi.
Trên đường đến với danh thắng Lò Thung, ghé vào làng Lộc Yên, một không gian vườn cây trái xanh ngát giữa đồi núi trập trùng. Mảnh đất bên bờ con sông Tiên bao quát đủ mọi không gian. Mấy dãy ruộng bậc thang ăn sát vào chân núi, đám ruộng dưới cùng lấn ra tận mép sông. Nước xô vào bờ đá, đá lấn sâu vào ruộng. Sông Tiên bao đời gắn bó với Tiên Cảnh là vậy.
Chúng tôi đi dọc theo con đường bê-tông tìm lối xuống bãi đá Lò Thung, một địa điểm nổi tiếng trên dòng sông Tiên. Từ xa đã nghe tiếng nước chảy róc rách. Trời đứng trưa, thấy có người lạ tìm đường, cô Lê Thị Thủy, 46 tuổi, trú xã Tiên Cảnh đang hái lá mùng 5 liền dừng tay nhiệt tình chỉ lối đi qua bãi đá giữa sông. Dọc theo triền đá hai bờ sông Tiên mùa này có rất nhiều lá dung, là một loại lá mà theo lời cô Thủy sẽ dùng để giải nhiệt, rất tốt cho sức khỏe. “Mấy bữa nay bắt đầu có người hỏi mua lá dung, tranh thủ sáng đi làm đồng về còn sớm là tôi ghé luôn chỗ bãi đá này hái cũng được hai bao lớn lá để trên xe rồi. Đứng trưa mới hái được mà lá toàn mọc ngoài bờ đá, đi trên mấy phiến đá nóng hực lên mệt đuối”, cô Thủy thở dốc nói.
Khúc sông Tiên chảy qua Lò Thung này trải dài tít tắp toàn đá. Vậy nên, cái tên “vương quốc đá” trên dòng sông Tiên cũng từ đó mà được dân trong vùng đặt ra. Đá phiến to, phiến nhỏ, đủ hình thù lô xô chen chúc nhau. Dòng chảy qua đoạn này phải len lỏi qua nhiều khe đá nên tốc độ con nước bị chậm lại. Chỉ tay về khoảng nước rộng giữa dòng, cô Thủy cho biết, nhìn bằng mắt thường sông Tiên có vẻ chảy chậm nhưng vào những ngày mưa trên núi đổ về, mực nước có thể đột ngột dâng lên thêm gần một mét. Thật vậy, nhìn vào những vết phù sa còn bám trên vách đá sẽ hiểu dòng Tiên dữ dội như thế nào. Một, hai, rồi ba… vũng nước sâu hàng nghìn năm mát lạnh. Nước chảy thì đá cũng mòn, thực tế đó tạo nên những dáng vẻ lạ mắt trên từng tảng đá ở Lò Thung. Có những tảng đá mang hình thù kỳ dị như bàn chân một người khổng lồ in xuống, hay như một cái cối mòn nhẵn bóng. Thấp thoáng giữa dòng sông là một hình ảnh phiến đá mỏng có hình vây cá. Những người sống ven sông Tiên gọi đó là vây cá heo hay là một chú cá niên đang cố bơi ngược dòng, loài cá dẻo dai đặc biệt chỉ có ở những con sông miền núi như sông Tiên.
“Sông Tiên mùa này có đặc sản gì không cô?”. “Bữa nay thì đang vào mùa ốc đá sinh sản nên ốc ngon lắm. Nhưng mà chỉ thấy ốc vào ban đêm thôi. Ban ngày trời nắng ốc lặn hết”, cô Thủy bảo. Trước khi chia tay chúng tôi, cô Thủy nhiệt tình chỉ về hướng có những tảng đá hình dáng đẹp để những khách thập phương như chúng tôi có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp sông Tiên.
Vào mùa hè, nước từ các con khe, suối ít đi, dòng sông Tiên vì vậy cũng cạn đi hẳn. Vài đụn cát vàng nổi lên là lối đi qua lại giữa hai bờ sông. Đá ở sông Tiên cũng lạ kỳ. Dù không phải do bàn tay con người sắp xếp, vậy mà đoạn sông nằm ở phía tây cầu treo sông Tiên là những hàng đá thẳng tắp chắn ngang sông tựa kiểu ruộng bậc thang. Ngắm nhìn dòng sông Tiên từ mỗi mỏm đá mở ra từng góc nhìn lạ lẫm. Thời điểm này, nước từ nguồn đổ về rất ít, lại phải vượt qua bao ghềnh đá, bậc thềm, hành trình sông Tiên ngược về với dòng sông Thu Bồn đang đợi phía dưới hạ lưu lại càng lâu hơn.
“Có gì không mà sông tình vấn vương/ Người lữ khách muốn vượt qua ngõ cũ/ Ánh mắt đôi môi nụ cười duyên ấy/ Khi trở về… anh mãi nhớ sông Tiên”, nhà thơ Hồ Nghĩa Phương đã đắm say vẻ đẹp đơn sơ trong nhiều cung bậc cảm xúc của vùng đất ven sông Tiên để viết nên bài thơ “Gửi nhớ sông Tiên”.
Khung cảnh thị trấn ven sông lúc chiều tà lãng đãng mây khói miền trung du vừa nên thơ cũng lắm vẻ quyến rũ. Chiều tối, trời kéo mây giông vần vũ một vùng Tiên Phước. Nhiệt độ không khí bên dòng sông Tiên giảm đột ngột, tạm xa xứ Tiên theo tỉnh lộ ĐT614, chút bồi hồi khi phải chia tay với vẻ đẹp của một “nàng tiên” sông nước. Hẹn một ngày tái ngộ với sông Tiên…
|
Do văn học Trung đại Việt Nam chia ra 3 thời kỳ nên mỗi thời kỳ có những ý thức văn học hoàn toàn khác biệt. Điều này đã ảnh hưởng và quyết định đến tư tưởng lý luận văn học của mỗi giai đoạn.
Một tiết học ngữ văn ở bậc THPT.
Ảnh: Anh Khôi
Nhiều tác phẩm ra đời ở giai đoạn sơ kỳ lấy văn học làm phương tiện để tìm sự cảm thông giữa con người và thần linh. Có lẽ đây là một quan niệm cổ xưa nhất về văn học. Văn học, theo quan niệm ấy, có loại đi ra từ nguồn gốc thần thánh. Có khi đó là “sách trời” (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư), có khilà sự mách bảo của thần linh, như trường hợp bài Nam quốc sơn hà chẳng hạn. Trước mắt quân dân Đại Việt ở hữu ngạn sông Như Nguyệt thời ấy, bài thơ ấy không phải là tác phẩm văn học hiểu theo nghĩa thông thường, không phải của con người mà là của thần thánh.
Để xây dựng và bảo vệ đất nước, các trí thức Đại Việt đã ý thức rất rõ về tầm quan trọng của văn; họ ra sức xây dựng nền văn chương học thuật riêng. Đây là thời thịnh hành thể loại bi ký như: Văn bia chùa Linh Xứng, Văn bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh… Văn chương có giá trị lớn lao cần thiết phải dùng vào công cuộc giữ nước và xây dựng đất nước. Quan niệm này còn được thể hiện rất rõ trong thực tế lịch sử thời Lý Trần mà tiêu biểu là bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Văn chương thời kỳ đầu Trung đại là biểu hiện của cái đẹp, là tinh hoa của con người. Khuynh hướng chung là hướng về cái đẹp có tính chất cao quý, linh thiêng và siêu phàm
Sang giai đoạn trung kỳ Trung đại, văn học rẽ hướng chịu ảnh hưởng sâu sắc ý thức văn học nho giáo. Đây là giai đoạn nở rộ các công trình sưu tập, chỉnh lý thơ văn và các thi văn tập. Bên cạnh những tác phẩm có lời bình ngắn đã xuất hiện các tác phẩm nghiên cứu phê bình quy mô hơn. Ý thức văn học giai đoạn này nổi lên 3 vấn đề lớn: Văn học phải gắn bó với vận mệnh của đất nước và nhân dân; Văn học là phương tiện thể hiện chí, tâm, đạo của kẻ sĩ quân tử; Đề cao hứng, thần và vẻ đẹp cao, cổ, hùng, đạm, nhã, hậu.
Cụ thể hơn, ý thức văn học của nhà nho chính thống hậu kỳ Trung đại không thể chỉ đơn giản là “Văn dĩ tải đạo” mặc dù đạo là vấn đề lớn nhất trong mối quan tâm của nhà nho. Khái niệm đạo này lại thiên về đạo đức và coi học vấn là cái gốc. Họ nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục – giáo hóa của văn chương. Văn học của các nhà nho so với văn học của tăng sĩ đã có một bước tiến đáng kể về mặt phản ánh hiện thực. Các tác phẩm chú trọng đề cao tính hiện thực trong sáng tác văn học. Chúng ta bắt gặp khá nhiều cảnh hạn hán, lụt lội, mất mùa đến cả con cua, con cò, hoa xoan, le vịt… trong thơ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Nhưng hiện thực bề bộn về sự cùng khổ của dân chúng thông qua số phận của từng con người thì phải đợi đến Nguyễn Du, Lê Hữu Trác, Ngô gia văn phái, Cao Bá Quát… mới đậm đặc hơn.
Thực tế đã chứng minh, văn chương nghệ thuật là lĩnh vực của cái riêng, của “cái tôi” hơn tất cả các lĩnh vực sáng tạo tinh thần khác. Cá tính sáng tạo trước hết thuộc phạm trù chất lượng của văn chương. Ngay từ thời xa xưa, văn chương đã mang đậm màu sắc cá nhân. Vì vậy con người cá nhân ở đây rất khác với vấn đề con người và cá tính trong sáng tác văn học từ trung kỳ Trung đại trở về trước. Trong sáng tác văn học, họ đề cao tài, tình và cá tính. Điều này rất khác với nhà nho chính thống chỉ thiên đề cao chí, tâm, đạo. Lúc bấy giờ chí, tâm, đạo là vấn đề của con người phận vị, còn tài, tình và cá tính là vấn đề của con người cá nhân. Bên cạnh đó thì việc đề cao nghệ thuật tài tử cũng là một “điểm nhấn” trong ý thức văn học của nhà nho tài tử. Trước hết người tài tử quan niệm tài không chỉ là tài kinh bang tế thế mà là phải tài hoa, tình không chỉ là những tình cảm nằm trong ngũ luân mà còn là sự nhạy cảm đa tình và đặc biệt là ngợi ca tình yêu nam nữ. Không những thế, giai nhân lý tưởng cũng phải là người đa tình và tài hoa. Đó là nét nhận dạng dễ thấy giữa họ với nhà nho chính thống.
Khác với quan niệm của nhà nho trước đó, các nhà nho tài tử hậu kỳ Trung đại lại tìm mọi cách để bênh vực, cổ xúy và đề cao thơ chữ nôm, truyện thơ và ca dao dân ca. Bằng mọi cách họ đã ra sức bảo vệ tiểu thuyết và văn chương tiếng Việt. Nhiều ý kiến đã chứng minh được rằng tiểu thuyết – truyện thơ nôm cũng mang nội dung đạo đức. Tuy nhiên cách thức này chưa thật sự mới mẻ vì cũng không khác mấy với cách nhìn văn học có tính chất đạo đức của các nhà nho chính thống. Cách thứ hai mà các nhà nho tài tử dùng để bảo vệ tiểu thuyết – truyện thơ nôm là chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật riêng biệt của thể loại này. Đây là điểm mới mẻ trong ý thức văn học của nhà nho tài tử. Điều này thể hiện khá rõ qua cuộc phê bình về
Truyện Kiều
và cuốn “tục Truyện Kiều” –
Đào hoa mộng ký
của Nguyễn Đăng Tuyển.
(Trường ĐH KHXH & NV TP.HCM)
|
Because Vietnamese Medieval literature is divided into three periods, each period has completely different literary consciousness. This influenced and determined the literary theoretical ideology of each period.
A literature class at the high school level.
Photo: Anh Khoi
Many works created in the early stages used literature as a means to find sympathy between humans and gods. Perhaps this is the oldest concept of literature. Literature, according to that concept, comes from a divine origin. Sometimes it's a "heaven's book" (Determining destiny in a heavenly book), sometimes it's a divine tip, like in the case of the poem Nam Quoc Son Ha, for example. In the eyes of the Dai Viet army and people on the right bank of Nhu Nguyet River at that time, that poem was not a literary work in the usual sense, not of humans but of gods.
To build and protect the country, Dai Viet intellectuals were very aware of the importance of literature; They tried to build their own academic literature. This was the time when the epigraph genre was popular, such as: Epitaph of Linh Xp Pagoda, Epitaph of Sung Nghiem Dien Thanh Pagoda... Literature has great value and must be used in the work of defending and building the country. This concept is also clearly expressed in historical reality during the Ly Tran period, typically the poem Than by Ly Thuong Kiet, Hich Tuong Si by Tran Quoc Tuan. Literature of the early Middle Ages is an expression of beauty, the quintessence of humanity. The general tendency is towards beauty that is noble, sacred and sublime
In the middle period of the Middle Ages, literature turned to be deeply influenced by Confucian literary consciousness. This was the period when works of collecting and revising poetry and literary poems flourished. In addition to works with short comments, larger-scale critical research works have appeared. Three major issues emerged in literary consciousness during this period: Literature must be linked to the destiny of the country and its people; Literature is a means of expressing the will, heart, and morality of a gentleman; Promotes excitement, godhood and beauty that is tall, ancient, heroic, calm, elegant, and queenly.
More specifically, the literary consciousness of the orthodox Confucianists of the late Middle Ages cannot simply be "Literature conveys religion" even though religion is the biggest issue of concern for Confucianists. This concept of religion is more about morality and considers education as the root. They emphasized the educational and cultural significance of literature. The literature of Confucian scholars compared to the literature of monks has made a significant step forward in terms of reflecting reality. The works focus on promoting realism in literary creation. We encounter many scenes of drought, floods, crop failures, including crabs, storks, neem flowers, and ducks... in the poems of Tran Nguyen Dan, Nguyen Phi Khanh, Nguyen Trung Ngan, Nguyen Trai, Nguyen Binh Khiem... But the overwhelming reality of the people's misery through the fate of each person had to wait until Nguyen Du, Le Huu Trac, Ngo Gia Van Phai, Cao Ba Quat... to become more concentrated.
Reality has proven that literature and art is the field of the personal, of "I" more than all other fields of spiritual creativity. Creative personality belongs first and foremost to the quality category of literature. Since ancient times, literature has been deeply personal. Therefore, the individual here is very different from the issue of people and personality in literary compositions from the Middle Ages onwards. In literary creation, they promote talent, love and personality. This is very different from the orthodox Confucianists who point to high will, mind, and path. At that time, will, mind, and religion were the problems of the person's position, while talent, emotions, and personality were the problems of the individual person. Besides, the promotion of amateur art is also a "highlight" in the literary consciousness of amateur Confucian scholars. First of all, amateurs believe that talent is not only about economic talent but also about being talented, love is not only about the emotions within the five moral principles but also about amorous sensitivity and especially praising male love. female. Not only that, the ideal beauty must also be passionate and talented. That is the visible identification between them and the orthodox Confucian scholars.
Unlike the concepts of previous Confucian scholars, amateur Confucian scholars of the late Middle Ages sought every way to defend, promote and promote Nom poetry, poetic stories and folk songs. In every way they tried to protect Vietnamese novels and literature. Many opinions have proven that novels and stories of classical poetry also have moral content. However, this method is not really new because it is not much different from the ethical literary perspective of orthodox Confucian scholars. The second way that amateur Confucian scholars use to protect the novel - Nom poetic story is to point out the unique artistic characteristics of this genre. This is a new point in the literary consciousness of amateur scholars. This is shown quite clearly through the review
Kieu story
and the book "The Tale of Kieu" -
Peach blossom dream sign
by Nguyen Dang Tuyen.
(University of Social Sciences and Humanities, Ho Chi Minh City)
|
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khởi nghĩa Yên Bái, ngày thầy thuốc Việt Nam, ngày Valetine …là một số sự kiện đặc biệt trong tháng 2 năm 2023.
Những ngày lễ, sự kiện nổi bật trong nước và thế giới.
Sự kiện trong nước
Ngày 03/02 hàng năm là kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Khởi nghĩa Yên Bái cách nay 92 năm (10/2/1930 – 10/2/2022) do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo không chỉ đánh thức lòng yêu nước của toàn dân tộc mà còn làm rung chuyển nước Pháp.
Đêm 9 rạng ngày 10/2/1930, Khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ, nghĩa quân đã hạ sát được hầu hết bọn sĩ quan, hạ sĩ quan chỉ huy ở các nhà riêng, phối hợp với nghĩa quân hai cơ lính khố đỏ đồn 5 và 6 đồn Dưới nổi dậy.
Trước sân trại lính, một đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng đọc bài “Hịch khởi nghĩa” với những khẩu hiệu: “Đuổi giặc Pháp về nước Pháp/ Đem nước Nam trả người Nam/ Cho trăm họ khỏi lầm than/ Được thêm phần hạnh phúc”.
Theo một chuyên gia nghiên cứu văn hóa thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM, người Việt thờ Thần Tài với mong muốn Thần Tài mang tài lộc đến cho gia đình; gia đình sung túc, giàu có và thịnh vượng. Chính vì vậy, cứ vào ngày 10/2 mọi người lại đổ xô đi mua vàng với mong muốn may mắn và phát tài. Theo những người mua vàng cho biết tập tục này đã xuất hiện rất lâu trong tín ngưỡng người Việt. Người ta cho rằng vàng là biểu tượng của sự phú quý, tài lộc, mang nhiều may mắn cho ai sở hữu nó. Bên cạnh đó, ngày này còn là ngày để tạ ơn và tưởng nhớ đến vị Thần Tài đã mang lại tài lộc cho gia chủ trong một năm vừa qua. Ngoài ra, người dân mua vàng ngày vía Thần Tài với mong muốn được “đổi vía” – khi có vía của vị Thần Tài lộc sẽ đem đến cho gia chủ một năm mới đến thật sung túc và bình an.
Đội du kích Bắc Sơn được thành lập vào ngày 14 tháng 2 năm 1941. Đội du kích Bắc Sơn. Hoàng Văn Thụ đã thay mặt Trung ương Đảng công nhận, trao nhiệm vụ và lá cờ đỏ sao vàng cho đơn vị vũ trang đầu tiên của Đảng gồm 32 chiến sĩ, do Chu Văn Tấn và Lương Văn Tri chỉ huy (từ tháng 6-1941 do Phùng Chí Kiên chỉ huy).
Năm 1985, Đảng và Nhà nước ta quyết định lấy ngày 27/02 hàng năm là ngày Thầy thuốc Việt Nam nhằm tôn vinh những người làm trong ngành Y tế, trách nhiệm cũng như tài trí của những người cán bộ y tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời cũng là ngày để nhắc nhở về trách nhiệm mà xã hội đã giao phó cho các y, bác sĩ và những người làm công tác y tế.
Sự kiện thế giới
Ngày Thế giới Phòng chống Ung thư hay ngày Ung thư Thế giới là một sự kiện toàn cầu được tổ chức vào ngày 04/02 hàng năm do Liên minh Kiểm soát Ung thư Quốc tế (UICC) lãnh đạo.
Sự kiện này nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về căn bệnh ung thư, cách phòng chống, phát hiện và điều trị bệnh.
Ngày
Valentine
(Valentine’s Day, Saint Valentine’s Day) hay còn gọi là ngày lễ tình nhân là một trong những ngày lễ lớn được tổ chức hằng năm tại Bắc Mỹ và châu Âu. Tuy nhiên, hiện nay ngày lễ này cũng trở nên phổ biến hơn tại nhiều quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam.
Ngày Valentine được tổ chức vào ngày 14/02 hằng năm với ý nghĩa tôn vinh tình yêu đôi lứa. Vào ngày lễ tình nhân, mọi người sẽ bày tỏ tình cảm đến người yêu, vợ/chồng của mình bằng những lời yêu thương và dành tặng những món quà ý nghĩa.
Ngày tiếng mẹ đẻ Quốc tế (International Mother Language Day) được tổ chức vào ngày 21/02 hàng năm bởi UNESCO. Ngày Tiếng mẹ đẻ Quốc tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển thúc đẩy đối thoại liên văn hóa đã được đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy đối thoại liên văn hóa và đa dạng văn hóa; tăng cường sự hợp tác giữa các dân tộc/các nước.
Ngày Tiếng mẹ đẻ Quốc tế được các quốc gia thành viên UNESCO tổ chức hàng năm tại các trụ sở UNESCO nhằm quảng bá sự đa dạng ngôn ngữ, văn hóa và tính đa ngôn ngữ.
Là một quốc gia tại Tây Á, Kuwait nằm tại rìa phía bắc của miền đông bán đảo Ả Rập, và tại đầu vịnh Ba Tư, có biên giới với
Iraq
và
Ả Rập Xê Út
.
Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Kuwait vào năm 1976.Năm 2003, Việt Nam đã chọn Kuwait là quốc gia đầu tiên tại vùng Vịnh để mở đại sứ quán. Trong năm 2007, Kuwait cũng mở đại sứ quán tại Hà Nội và Tổng lãnh sự quán tại TP. Hồ Chí Minh.
Một Số Lễ Hội Đặc Sắc Trong Tháng
1
Âm Lịch
–
Hội chùa Hương (
Mỹ Đức
,
Hà Nội
): từ mùng 6/1 đến hết tháng Ba, chính hội 15/2.
– Hội Lim (
Tiên Du
,
Bắc Ninh
): từ 11 đến 14/1, chính hội 13/1.
–
Lễ hội Đền Trần (
Thái Bình
): 13 đến 18/1, chính hội: 13/1.
– Hội đền Bà Chúa Kho (Vũ Ninh, Bắc Ninh): chính hội 14/1.
– Tết Nguyên tiêu: 15/1.
–
Ngày Thơ Việt Nam
: 15/1.
– Lễ khai ấn đền Trần (
Nam Định
): đêm 14, rạng sáng 15/1.
– Hội Xuân Côn Sơn – Kiếp Bạc (
Chí Linh
,
Hải Dương
): từ 15 đến 23/1.
– Hội Đền Cửa Ông (
Quảng Ninh
): 2-3/1
|
Establishment of the Communist Party of Vietnam, Yen Bai uprising, Vietnamese Doctors' Day, Valentine's Day... are some special events in February 2023.
Holidays and outstanding events in the country and the world.
Domestic events
February 3 every year is the anniversary of the founding of the Communist Party of Vietnam. The founding of the Communist Party of Vietnam is an extremely important turning point in the history of the Vietnamese revolution, determining the development of the nation, ending the crisis in the movement's guidelines and leadership organization. Vietnamese patriotism in the early twentieth century.
The Yen Bai Uprising 92 years ago (February 10, 1930 - February 10, 2022) led by the Vietnam Nationalist Party not only awakened the patriotism of the entire nation but also shook France.
On the night of February 9 and 10, 1930, the Yen Bai Uprising broke out. The insurgent army killed most of the officers and non-commissioned officers in private houses, coordinating with the two-armed insurgent army at the red loincloth station. 5 and 6 posts under rebellion.
In front of the military camp yard, a representative of the Vietnam Nationalist Party read the song "Hich Uprising" with the slogans: "Drive the French enemy back to France/ Bring the South back to the South people/ So that hundreds of families will not be miserable/ More part of happiness".
According to a cultural research expert at Ho Chi Minh City National University, Vietnamese people worship the God of Wealth with the hope that the God of Wealth will bring fortune to the family; prosperous, wealthy and prosperous family. That's why, every February 10, people rush to buy gold with the hope of luck and fortune. According to gold buyers, this practice has appeared for a long time in Vietnamese beliefs. People believe that gold is a symbol of wealth and fortune, bringing good luck to those who own it. Besides, this day is also a day to give thanks and remember the God of Wealth who has brought fortune to the homeowner in the past year. In addition, people buy gold on the day of the God of Wealth with the hope of "changing souls" - having the soul of the God of Fortune will bring the homeowner a prosperous and peaceful new year.
Bac Son guerrilla team was established on February 14, 1941. Bac Son guerrilla team. Hoang Van Thu, on behalf of the Party Central Committee, recognized and awarded tasks and a red flag with a yellow star to the Party's first armed unit of 32 soldiers, commanded by Chu Van Tan and Luong Van Tri (from June - 1941 commanded by Phung Chi Kien).
In 1985, our Party and State decided to take February 27 every year as Vietnamese Doctors' Day to honor those working in the health sector, the responsibilities and ingenuity of medical staff in their careers. build and protect the Fatherland. At the same time, it is also a day to remind about the responsibilities that society has entrusted to doctors, nurses and other health workers.
World events
World Cancer Day or World Cancer Day is a global event held on February 4 every year led by the Union for International Cancer Control (UICC).
This event aims to raise community awareness about cancer, how to prevent, detect and treat the disease.
Day
Valentine
(Valentine's Day, Saint Valentine's Day), also known as Valentine's Day, is one of the major holidays celebrated every year in North America and Europe. However, nowadays this holiday is also becoming more popular in many countries around the world, including Vietnam.
Valentine's Day is celebrated on February 14 every year with the meaning of honoring the love of couples. On Valentine's Day, people will express their feelings to their lover and spouse with loving words and giving meaningful gifts.
International Mother Language Day is celebrated on February 21 every year by UNESCO. International Mother Language Day plays an important role in the development of promoting intercultural dialogue which has been playing a decisive role in promoting intercultural dialogue and cultural diversity; Strengthen cooperation between peoples/countries.
International Mother Language Day is organized annually by UNESCO member states at UNESCO headquarters to promote linguistic and cultural diversity and multilingualism.
A country in West Asia, Kuwait is located at the northern edge of the eastern Arabian Peninsula, and at the head of the Persian Gulf, bordering
Iraq
and
Saudi Arabic
.
Vietnam established diplomatic relations with Kuwait in 1976. In 2003, Vietnam chose Kuwait as the first country in the Gulf to open an embassy. In 2007, Kuwait also opened an embassy in Hanoi and a Consulate General in Ho Chi Minh City. Ho Chi Minh.
Some Special Festivals During the Month
first
Lunar Calendar
–
Perfume Pagoda Festival (
My Duc
,
Hanoi
): from January 6 to the end of March, main festival February 15.
- The Lim (
Tien Du
,
Bac Ninh
): from January 11 to 14, main festival January 13.
–
Tran Temple Festival (
peaceful
): January 13 to 18, main festival: January 13.
– Ba Chua Kho Temple Festival (Vu Ninh, Bac Ninh): main festival January 14.
– Lunar New Year: January 15.
–
Vietnamese Poetry Day
: January 15.
– Tran temple opening ceremony (
Nam Dinh
): the night of January 14, the morning of January 15.
– Con Son – Kiep Bac Spring Festival (
Chi Linh
,
Hai Duong
): from January 15 to 23.
– Cua Ong Temple Association (
Quang Ninh
): 2-3/1
|
Thời điểm
Đại thi hào Nguyễn Du
viết Truyện Kiều từng được tranh luận gay gắt, nay câu hỏi ấy lại được đưa ra mổ xẻ trên mạng xã hội.
Cuộc tranh luận của giới học thuật về thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều diễn ra cách đây hơn 10 năm – nay lại được khơi dậy trên khắp các hội nhóm mạng xã hội liên quan đến Truyện Kiều và Nguyễn Du. Tuy nhiên, các đáp án đưa ra khó thuyết phục bởi các bằng chứng rời rạc, mang tính suy diễn.
Đến nay, ngoài bản Kiều của Nguyễn Hữu Lập, giới nghiên cứu còn thấy bản của Tăng Hữu Ứng chép 1874, bản Nguyễn Doãn Cử, bản Diễn Châu, bản Thái Bình, bản Quế Võ, bản R2003, bản R987… Ở Bắc Thành (
Hà Nội
), sau khi Phạm Quý Thích có bản Kiều, các sĩ phu túc nho như: Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý, Chu Doãn Trí… cũng chép và làm nhiều thơ văn vịnh Kiều.
Trong suốt hơn 50 năm qua, có rất nhiều giả thuyết đưa ra để chứng minh về thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều.
Nhiều cuộc hội thảo, tranh luận lẫn “bút chiến” diễn ra nhằm chứng minh và bảo vệ các ý kiến được cho là đúng. Tuy nhiên, từ đó đến nay, hai giả thuyết có sức thuyết phục hơn cả liên quan đến hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều.
Thuyết thứ nhất khẳng định Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau thời gian đi sứ Trung Quốc (1814 – 1820). Thuyết thứ hai lại khẳng định Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi đi sứ – có thể vào khoảng cuối thời Lê, đầu thời Tây Sơn.
Học giả Trần Trọng Kim viết trong sách “Việt Nam sử lược”: “Năm Tân Mùi (1811), vua Gia Long sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử… có những truyện như “Hoa tiên” của ông Nguyễn Huy Tự, “Truyện Thúy Kiều” của Nguyễn Du cũng phát hiện ra thời bấy giờ”.
Như vậy, “Truyện Thúy Kiều” được phát hiện ra vào năm 1811, tức thuộc loại sách “dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn” – tức đã được viết ra trước khi vua Gia Long lên ngôi.
Nhà nghiên cứu Kiều học Nguyễn Khắc Bảo cho rằng: “Thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều phải là trước đời Gia Long nhưng không thể thuộc đời vua Lê – chúa Trịnh. Thời điểm đó chính là khoảng từ sau khi Nguyễn Du bị quân Tây Sơn bắt rồi thả về an trí tại quê cha”.
Ông Bảo nhấn mạnh: “Cần nắm vững vốn từ cổ thời Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều (từ 1796 – 1801) mới chọn, phiên được từ Quốc ngữ đúng”.
Trước đây, học giả Đào Duy Anh trong “Khảo luận về Kim Vân Kiều” năm 1943 cho rằng, Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi đi sứ Trung Quốc, khoảng 1805 – 1809.
Còn Hoàng Xuân Hãn dựa vào “Đại Nam liệt truyện chính biên”, cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc, khoảng 1815 – 1820. Tuy nhiên, năm 1951 khi phát hiện ra chứng cứ chắc chắn rằng Truyện Kiều viết trước “Mai đình mộng ký” nên Hoàng Xuân Hãn tự bác lại ý kiến của mình và cho rằng Truyện Kiều được viết trước năm 1809.
Nhà nghiên cứu Trương Chính căn cứ thêm vào những câu thơ trong Truyện Kiều, cũng cho rằng Nguyễn Du viết vào khoảng thời gian ở “dưới chân núi Hồng”, nghĩa là từ 1796 – 1801.
Nhiều người lại tin vào kết quả khảo cứu về chữ húy thời Lê trung hưng của GS Nguyễn Tài Cẩn, PGS Ngô Đức Thọ và PGS Đào Thái Tôn để đi đến kết luận là Truyện Kiều được viết vào những năm từ 1785 – 1790.
Bởi vậy, người yêu Truyện Kiều nhận thấy 3 mốc thời gian: Khoảng năm 1789, năm 1802 và năm 1813. Nhưng điều quan trọng là trong ba mốc ấy, Truyện Kiều chính xác được viết vào năm nào?
Hai bản “Kim Vân Kiều tân truyện”, bên trái là Liễu Văn đường tàng bản – in năm 1871, bên phải là Bảo Hoa các tàng bản – in năm 1879.
Theo nghiên cứu của PGS Lê Thanh Lân, ban đầu người ta tin rằng, Truyện Kiều được viết vào khoảng 1813 – 1820 vì hiểu chữ “hành thế”.
“Thực ra “hành thế” chỉ có nghĩa là lưu truyền trong đời, tức là được mọi người biết đến. Bởi vậy, PGS Lê Thanh Lân cho rằng rất nhiều bằng cứ cho thấy Truyện Kiều được viết trước đó rất lâu.
Học giả Hoàng Xuân Hãn từng nhắc đến Phạm Quý Thích là người đầu tiên đề thơ về Kiều trên đường vào kinh. Nhà nghiên cứu Vũ Thế Khôi cho biết bài “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường…” thật ra có tên là “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm” có trong tập “Lập Trai tiên sinh di thi tục tập”.
Học giả Hoàng Xuân Hãn từng chỉ ra: Nguyễn Lượng bị chết vào khoảng 1807. Vì có sự phê bình của ông ấy nên biết rằng Truyện Kiều được viết vào đầu đời Gia Long hoặc trước đời Gia Long.
Liên quan đến Nguyễn Lượng, giới nghiên cứu Kiều học nhận thấy trong lời bình bằng chữ Hán của ông có bốn chữ “bách chủng hoan ngu”. Chắc chắn ông không dám viết chữ “chủng” vào thời Nguyễn vì vào năm 1803 Gia Long đã có lệnh cấm dùng chữ “chủng”, và khi viết phải thay bằng chữ “Thực”.
Trương Chính nhận xét trong Truyện Kiều có những câu nghịch ngôn, như: “Bó thân về với triều đình/ Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?”, rồi “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” và khẳng định những câu này chỉ có thể được sáng tác trước thời Nguyễn.
Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo nhận thấy bản “Liễu Văn Đường 1871” còn sót các chữ đáng phải kiêng dưới thời Nguyễn. “Câu 853: Tuồng chi là giống hôi tanh. Câu 1310: Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Câu 2750: Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Trong đó những chữ “Chủng” là tên vua Gia Long hồi nhỏ, và chữ “Lan” là tên mẹ cả của vua Gia Long tức Huy Gia từ phi”.
Trước đây, nhiều người cho rằng, nhờ chuyến đi sứ Nguyễn Du mới được tiếp xúc với “Kim Vân Kiều truyện” để sau đó viết Truyện Kiều. Điều này, theo PGS Lê Thanh Lân là không đúng.
Ông Lân cho rằng, có nhiều giả thuyết về thời điểm “Kim Vân Kiều truyện” vào nước ta. Học giả Hoàng Xuân Hãn đoán do Nguyễn Nễ hoặc Đoàn Nguyễn Tuấn cùng đi sứ thời Tây Sơn, khoảng 1792 – 1793 mang về.
PGS Thạch Giang lại cho rằng, có thể trong chuyến đi sứ năm 1763, Thám hoa Nguyễn Huy Oánh đã mang “Hoa tiên” và “Kim Vân Kiều truyện” từ Trung Quốc về tàng trữ tại Phúc Giang thư viện. Nhờ đó Nguyễn Huy Hổ có điều kiện đọc “Hoa tiên”, Nguyễn Du do lui tới học tập nên đọc được “Kim Vân Kiều truyện” để sáng tác Truyện Kiều.
Song, điều chắc chắn ở truyện “Liên Hồ quận quân” trong cuốn “Lan Trì kiến văn lục”, viết vào khoảng 1793 – 1794 của Vũ Trinh, có câu: “Thúy Kiều gieo mình sông lớn”. Trước năm 1794 Vũ Trinh đã biết đến “Kim Vân Kiều truyện” thì Nguyễn Du đã tiếp cận không muộn hơn Vũ Trinh.
Thời gian chính xác mà Đại thi hào Nguyễn Du viết Truyện Kiều vẫn là ẩn số.
Trong khi chưa thể khẳng định Truyện Kiều được Nguyễn Du viết trong thời điểm nào, nhiều nhà nghiên cứu ngược dòng thời gian về năm 1786 – Nguyễn Du chịu hai cái tang lớn của anh hai Nguyễn Điều (mất 7/1786), anh cả Nguyễn Khản (mất 11/1786).
Mùa đông 1796, Nguyễn Du định vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, bị tướng Tây Sơn là Quận Công Thận bắt giam mấy tháng, rồi vì là bạn của anh Nguyễn Nễ nên được thả về an trí ở Tiên Điền, lấy biệt hiệu là Hồng Sơn liệp hộ và Nam Hải điếu đồ.
Đến lúc này, lấy việc đi săn ở Hồng Lĩnh, câu cá ở biển Nam làm sinh kế và trong lúc “Cầm đường ngày tháng thanh nhàn/ Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao”, lại nhân vì trong tủ sách của quan Tể tướng có quyển “Kim Vân Kiều truyện” nên thi hào mới dựa vào đó để sáng tác thành “Đoạn trường Tân Thanh”.
Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo phỏng đoán, những người được đọc đầu tiên có lẽ là anh rể Vũ Trinh có lời mặc bình, em ruột Nguyễn Lượng có lời chu bình rồi các cháu là Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành, Nguyễn Thị Bành, Nguyễn Thị Đài.
Sau này chỉ có những người thân thích như anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn mới được đọc và có bài thơ “Đề từ”, hoặc Tiến sĩ Phạm Quý Thích đọc và có bài “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm” mà sau này các bản Truyện Kiều đều khắc in ở đầu sách như bài “Đề từ”.
Chỉ đến tháng 8/1830, vua Minh Mạng đọc Truyện Kiều và có viết bài “Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ngự chế tổng thuyết” có câu khen ngợi Thúy Kiều: “Dùng dao nhọn sát thân, lòng trinh nữ giữ mình tiết lớn, Khuyên áo gấm quy thuận, bậc trượng phu vì nước lòng ngay. Thương chí nàng cho là hiếu trung, Xét lòng nàng cho là trinh tiết”.
Bản Kiều chép tay của Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập (có mẹ kế là con gái
Đại thi hào Nguyễn Du
) chép ở Huế năm 1870 lại do kỵ húy quá triệt để nên sửa từ ngữ của Truyện Kiều quá nhiều.
Đến tháng 3/1871 lại có bài của vua Tự Đức khen “Truyện hay nỡ để khói tan lạnh lùng”. Và có lẽ vị Hoàng đế do văn hay chữ tốt, yêu chuộng người tài nên dù có đòi nọc Nguyễn Du ra đánh trăm roi, vẫn dựa vào quyển Kiều tịch thu được trong Di cảo của thi hào mà sai người chép và vẽ 150 bức tranh minh họa cảnh vật Truyện Kiều.
Như vậy, sau khi hai vị Hoàng đế Minh Mạng và Tự Đức “bật đèn xanh” cho việc đọc Kiều thì ở Kinh thành Huế có phong trào: Làm trai mê đánh Tổ tôm/Mê ngựa hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều. Người ta tranh nhau sao chép Truyện Kiều đến nỗi “giấy hiếm và quý như giấy Lạc Đô”.
|
Thời điểm
Đại thi hào Nguyễn Du
viết Truyện Kiều từng được tranh luận gay gắt, nay câu hỏi ấy lại được đưa ra mổ xẻ trên mạng xã hội.
Cuộc tranh luận của giới học thuật về thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều diễn ra cách đây hơn 10 năm – nay lại được khơi dậy trên khắp các hội nhóm mạng xã hội liên quan đến Truyện Kiều và Nguyễn Du. Tuy nhiên, các đáp án đưa ra khó thuyết phục bởi các bằng chứng rời rạc, mang tính suy diễn.
Đến nay, ngoài bản Kiều của Nguyễn Hữu Lập, giới nghiên cứu còn thấy bản của Tăng Hữu Ứng chép 1874, bản Nguyễn Doãn Cử, bản Diễn Châu, bản Thái Bình, bản Quế Võ, bản R2003, bản R987… Ở Bắc Thành (
Hà Nội
), sau khi Phạm Quý Thích có bản Kiều, các sĩ phu túc nho như: Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý, Chu Doãn Trí… cũng chép và làm nhiều thơ văn vịnh Kiều.
Trong suốt hơn 50 năm qua, có rất nhiều giả thuyết đưa ra để chứng minh về thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều.
Nhiều cuộc hội thảo, tranh luận lẫn “bút chiến” diễn ra nhằm chứng minh và bảo vệ các ý kiến được cho là đúng. Tuy nhiên, từ đó đến nay, hai giả thuyết có sức thuyết phục hơn cả liên quan đến hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều.
Thuyết thứ nhất khẳng định Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau thời gian đi sứ Trung Quốc (1814 – 1820). Thuyết thứ hai lại khẳng định Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi đi sứ – có thể vào khoảng cuối thời Lê, đầu thời Tây Sơn.
Học giả Trần Trọng Kim viết trong sách “Việt Nam sử lược”: “Năm Tân Mùi (1811), vua Gia Long sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử… có những truyện như “Hoa tiên” của ông Nguyễn Huy Tự, “Truyện Thúy Kiều” của Nguyễn Du cũng phát hiện ra thời bấy giờ”.
Như vậy, “Truyện Thúy Kiều” được phát hiện ra vào năm 1811, tức thuộc loại sách “dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn” – tức đã được viết ra trước khi vua Gia Long lên ngôi.
Nhà nghiên cứu Kiều học Nguyễn Khắc Bảo cho rằng: “Thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều phải là trước đời Gia Long nhưng không thể thuộc đời vua Lê – chúa Trịnh. Thời điểm đó chính là khoảng từ sau khi Nguyễn Du bị quân Tây Sơn bắt rồi thả về an trí tại quê cha”.
Ông Bảo nhấn mạnh: “Cần nắm vững vốn từ cổ thời Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều (từ 1796 – 1801) mới chọn, phiên được từ Quốc ngữ đúng”.
Trước đây, học giả Đào Duy Anh trong “Khảo luận về Kim Vân Kiều” năm 1943 cho rằng, Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước khi đi sứ Trung Quốc, khoảng 1805 – 1809.
Còn Hoàng Xuân Hãn dựa vào “Đại Nam liệt truyện chính biên”, cho rằng Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc, khoảng 1815 – 1820. Tuy nhiên, năm 1951 khi phát hiện ra chứng cứ chắc chắn rằng Truyện Kiều viết trước “Mai đình mộng ký” nên Hoàng Xuân Hãn tự bác lại ý kiến của mình và cho rằng Truyện Kiều được viết trước năm 1809.
Nhà nghiên cứu Trương Chính căn cứ thêm vào những câu thơ trong Truyện Kiều, cũng cho rằng Nguyễn Du viết vào khoảng thời gian ở “dưới chân núi Hồng”, nghĩa là từ 1796 – 1801.
Nhiều người lại tin vào kết quả khảo cứu về chữ húy thời Lê trung hưng của GS Nguyễn Tài Cẩn, PGS Ngô Đức Thọ và PGS Đào Thái Tôn để đi đến kết luận là Truyện Kiều được viết vào những năm từ 1785 – 1790.
Bởi vậy, người yêu Truyện Kiều nhận thấy 3 mốc thời gian: Khoảng năm 1789, năm 1802 và năm 1813. Nhưng điều quan trọng là trong ba mốc ấy, Truyện Kiều chính xác được viết vào năm nào?
Hai bản “Kim Vân Kiều tân truyện”, bên trái là Liễu Văn đường tàng bản – in năm 1871, bên phải là Bảo Hoa các tàng bản – in năm 1879.
Theo nghiên cứu của PGS Lê Thanh Lân, ban đầu người ta tin rằng, Truyện Kiều được viết vào khoảng 1813 – 1820 vì hiểu chữ “hành thế”.
“Thực ra “hành thế” chỉ có nghĩa là lưu truyền trong đời, tức là được mọi người biết đến. Bởi vậy, PGS Lê Thanh Lân cho rằng rất nhiều bằng cứ cho thấy Truyện Kiều được viết trước đó rất lâu.
Học giả Hoàng Xuân Hãn từng nhắc đến Phạm Quý Thích là người đầu tiên đề thơ về Kiều trên đường vào kinh. Nhà nghiên cứu Vũ Thế Khôi cho biết bài “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường…” thật ra có tên là “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm” có trong tập “Lập Trai tiên sinh di thi tục tập”.
Học giả Hoàng Xuân Hãn từng chỉ ra: Nguyễn Lượng bị chết vào khoảng 1807. Vì có sự phê bình của ông ấy nên biết rằng Truyện Kiều được viết vào đầu đời Gia Long hoặc trước đời Gia Long.
Liên quan đến Nguyễn Lượng, giới nghiên cứu Kiều học nhận thấy trong lời bình bằng chữ Hán của ông có bốn chữ “bách chủng hoan ngu”. Chắc chắn ông không dám viết chữ “chủng” vào thời Nguyễn vì vào năm 1803 Gia Long đã có lệnh cấm dùng chữ “chủng”, và khi viết phải thay bằng chữ “Thực”.
Trương Chính nhận xét trong Truyện Kiều có những câu nghịch ngôn, như: “Bó thân về với triều đình/ Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?”, rồi “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” và khẳng định những câu này chỉ có thể được sáng tác trước thời Nguyễn.
Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo nhận thấy bản “Liễu Văn Đường 1871” còn sót các chữ đáng phải kiêng dưới thời Nguyễn. “Câu 853: Tuồng chi là giống hôi tanh. Câu 1310: Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Câu 2750: Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Trong đó những chữ “Chủng” là tên vua Gia Long hồi nhỏ, và chữ “Lan” là tên mẹ cả của vua Gia Long tức Huy Gia từ phi”.
Trước đây, nhiều người cho rằng, nhờ chuyến đi sứ Nguyễn Du mới được tiếp xúc với “Kim Vân Kiều truyện” để sau đó viết Truyện Kiều. Điều này, theo PGS Lê Thanh Lân là không đúng.
Ông Lân cho rằng, có nhiều giả thuyết về thời điểm “Kim Vân Kiều truyện” vào nước ta. Học giả Hoàng Xuân Hãn đoán do Nguyễn Nễ hoặc Đoàn Nguyễn Tuấn cùng đi sứ thời Tây Sơn, khoảng 1792 – 1793 mang về.
PGS Thạch Giang lại cho rằng, có thể trong chuyến đi sứ năm 1763, Thám hoa Nguyễn Huy Oánh đã mang “Hoa tiên” và “Kim Vân Kiều truyện” từ Trung Quốc về tàng trữ tại Phúc Giang thư viện. Nhờ đó Nguyễn Huy Hổ có điều kiện đọc “Hoa tiên”, Nguyễn Du do lui tới học tập nên đọc được “Kim Vân Kiều truyện” để sáng tác Truyện Kiều.
Song, điều chắc chắn ở truyện “Liên Hồ quận quân” trong cuốn “Lan Trì kiến văn lục”, viết vào khoảng 1793 – 1794 của Vũ Trinh, có câu: “Thúy Kiều gieo mình sông lớn”. Trước năm 1794 Vũ Trinh đã biết đến “Kim Vân Kiều truyện” thì Nguyễn Du đã tiếp cận không muộn hơn Vũ Trinh.
Thời gian chính xác mà Đại thi hào Nguyễn Du viết Truyện Kiều vẫn là ẩn số.
Trong khi chưa thể khẳng định Truyện Kiều được Nguyễn Du viết trong thời điểm nào, nhiều nhà nghiên cứu ngược dòng thời gian về năm 1786 – Nguyễn Du chịu hai cái tang lớn của anh hai Nguyễn Điều (mất 7/1786), anh cả Nguyễn Khản (mất 11/1786).
Mùa đông 1796, Nguyễn Du định vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, bị tướng Tây Sơn là Quận Công Thận bắt giam mấy tháng, rồi vì là bạn của anh Nguyễn Nễ nên được thả về an trí ở Tiên Điền, lấy biệt hiệu là Hồng Sơn liệp hộ và Nam Hải điếu đồ.
Đến lúc này, lấy việc đi săn ở Hồng Lĩnh, câu cá ở biển Nam làm sinh kế và trong lúc “Cầm đường ngày tháng thanh nhàn/ Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao”, lại nhân vì trong tủ sách của quan Tể tướng có quyển “Kim Vân Kiều truyện” nên thi hào mới dựa vào đó để sáng tác thành “Đoạn trường Tân Thanh”.
Nhà Kiều học Nguyễn Khắc Bảo phỏng đoán, những người được đọc đầu tiên có lẽ là anh rể Vũ Trinh có lời mặc bình, em ruột Nguyễn Lượng có lời chu bình rồi các cháu là Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành, Nguyễn Thị Bành, Nguyễn Thị Đài.
Sau này chỉ có những người thân thích như anh vợ Đoàn Nguyễn Tuấn mới được đọc và có bài thơ “Đề từ”, hoặc Tiến sĩ Phạm Quý Thích đọc và có bài “Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm” mà sau này các bản Truyện Kiều đều khắc in ở đầu sách như bài “Đề từ”.
Chỉ đến tháng 8/1830, vua Minh Mạng đọc Truyện Kiều và có viết bài “Thánh Tổ Nhân Hoàng đế ngự chế tổng thuyết” có câu khen ngợi Thúy Kiều: “Dùng dao nhọn sát thân, lòng trinh nữ giữ mình tiết lớn, Khuyên áo gấm quy thuận, bậc trượng phu vì nước lòng ngay. Thương chí nàng cho là hiếu trung, Xét lòng nàng cho là trinh tiết”.
Bản Kiều chép tay của Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập (có mẹ kế là con gái
Đại thi hào Nguyễn Du
) chép ở Huế năm 1870 lại do kỵ húy quá triệt để nên sửa từ ngữ của Truyện Kiều quá nhiều.
Đến tháng 3/1871 lại có bài của vua Tự Đức khen “Truyện hay nỡ để khói tan lạnh lùng”. Và có lẽ vị Hoàng đế do văn hay chữ tốt, yêu chuộng người tài nên dù có đòi nọc Nguyễn Du ra đánh trăm roi, vẫn dựa vào quyển Kiều tịch thu được trong Di cảo của thi hào mà sai người chép và vẽ 150 bức tranh minh họa cảnh vật Truyện Kiều.
Như vậy, sau khi hai vị Hoàng đế Minh Mạng và Tự Đức “bật đèn xanh” cho việc đọc Kiều thì ở Kinh thành Huế có phong trào: Làm trai mê đánh Tổ tôm/Mê ngựa hậu bổ, mê Nôm Thúy Kiều. Người ta tranh nhau sao chép Truyện Kiều đến nỗi “giấy hiếm và quý như giấy Lạc Đô”.
|
Nhà văn, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Ông sinh năm 1955 ở
Thanh Hoá
lớn lên ở
Hà Nội
, nguyên quán
tỉnh Bến Tre
, tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TPHCM và cử nhân báo chí Trường Tuyên huấn Trung ương Hà Nội, hiện sống tại
TPHCM
.
Huỳnh Dũng Nhân từng là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM, Tổng biên tập Tạp chí Nghề Báo; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn TPHCM, giảng viên môn phóng sự điều tra Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM và Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí Hội Nhà báo Việt Nam.
Các tác phẩm của Huỳnh Dũng Nhân đã xuất bản: Về truyện thiếu nhi có
Nối dây cho diều
(viết chung – NXB Kim Đồng),
Những vòng sóng
(viết chung – NXB Kim Đồng),
Kỷ niệm ngày sinh
(viết chung – NXB Kim Đồng),
Nghệ sĩ Đặng Thái Sơn
(NXB Kim Đồng),
Lãng mạn cùng cá sấu
(NXB Kim Đồng); Các tập phóng sự:
Ăn Tết trong rừng chó sói
(NXB Lao Động),
Ký sự Xuyên Việt
(NXB CAND),
Tôi đi bán tôi
(NXB Văn Nghệ TP HCM),
Những người đi trong gió
(NXB Trẻ),
Kính thưa Ô Sin
(NXB Thông Tấn)
Từ hầm lò Mông Dương đến nóc nhà Tây Tạng
(in chung với Đỗ Doãn Hoàng); Tập truyện ngắn:
Ba hồi chuông, Ký ức tình
(bút danh Kỳ Lâm); Tập tản văn:
Giọt lệ trên trời
(NXB Thông Tấn),
Sao băng
(NXB Văn Nghệ TP HCM); 7 tập thơ:
Dã quỳ tím, Tự tình với Facebook, Ký ức chao nghiêng, Bỗng lại hờn lại nhớ, Riêng một góc nhìn, Một chút riêng tư, Ngoảnh lại thương yêu
;
Hồi ký: Chúng tôi – Một thời mũ rơm mũ cối, Nguyễn Trọng Trúc – Bóng bàn một đời tôi đam mê
. Tác phẩm
Chúng tôi – Một Thời Mũ Rơm Mũ cối
của ông đã nhận được Tặng thưởng Hội Nhà văn TP HCM 2020.
Nhà văn Huỳnh Dũng Nhân.
Có lẽ tôi chỉ có vài năm ở Hà Nội tử thủa lên 9-10, còn lại là đi sơ tán tránh máy bay Mỹ liên miên ở các tỉnh Hà Đông, Hà Bắc. Khi lớn lên tôi đi bộ đội thì đóng ở vùng rừng núi Hòa Bình. Nhờ những năm sống ở vùng nông thôn gián đoạn và hơi vội vã ấy tôi cũng có những tình yêu quê hương non nước Việt mà bây giờ tôi như vẫn như cảm thấy mùi hương đang vương vấn trong trí nhớ. Thuở ấy các cô gái trẻ hay gội tóc bằng lá bưởi chứ làm gì có đủ loại dầu thơm như bây giờ. Ngồi sau bàn một cô bạn học mà cứ phải lén lút hít thở khoan khoái cái hương bưởi tỏa ngát từ mái tóc dài mượt của cô bạn cùng lớp.
Còn quanh hồ Thiền Quang Hà Nội, dọc đường Quang Trung, Nguyễn Du… có một hương thơm nổi tiếng đặc trưng cho Hà Nội. Đó là hoa sữa. Nhưng hoa sữa thoang thoảng thì thơm , thì nhớ , nhưng mùi hoa nặng quá , đậm đặc quá thì lại phải hạ bớt độ nồng nàn, nhưng có ở độ thơm nào, hương hoa sữa cũng đã đi vào ký ức của Hà Nôi một thời như câu hát: “Nhớ phố Quang Trung, đường Nguyễn Du – những đêm hoa sữa thơm nồng”. (Một câu hát trong bài hát “Nhớ về Hà Nội” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp)…
Nhà thơ Xuân Diệu
đã từng viết: “Đố ai phân chất một mùi hương” Bởi ai cũng thích hương hoa nhưng để hiểu được phân tích được mỗi mùi vị hương thơm thì e rằng rất khó . Trước đây tôi có đi thăm một nhà máy sản xuất nước hoa của Hàn Quốc. Ông giám đốc kể rằng nhà máy của ông trả lương rất cao cho một chuyên gia phân tích các mùi hương , có thể phân biệt hàng chục mùi nước hoa khác nhau.
Nhà văn Nguyễn Tuân
của chúng ta cũng từng viết về một vùng sản xuất rượu nổi tiếng. Ở đầu làng có một ông lão chuyên làm một việc duy nhất là nếm rượu. Ai mua bán rượu cũng phải mang cho ông nếm thử một hớp nhỏ rồi mới yên tâm về chất lượng rượu của mình.
Thời gian cũng có hương sắc của nó.
Ngày Tết, tự những tờ lịch Tết cũng đã có sự nghỉ ngơi an lành, tự mỗi mâm quả cũng có hương vị tuỳ lựa chọn của mỗi gia đình. Hương thơm phảng phất bay lên từ trái Phật thủ. Mùi thơm sột soạt từ những đứa trẻ khoe tà áo mới. Và sau này không còn đốt pháo nữa, thì những đêm giao thừa cũng có sắc màu thơm ngát của những vầng sáng pháo hoa tầm thấp.
Khi đi về nông thôn, không gian lại có những bình nước hoa vô hình của đất trời.
Đó là cái mùi thơm của củi lửa mới nhen, của tro than mới tản, và vẫn như đâu đây vương vấn khói chiều hoà quyện.
Mùi của phố thị lúc nào cũng như có mùi thơm của vôi vữa gạch đá, nhựa đường. Còn hương thơm của núi rừng đồng quê thì có mùi của gió của mây, hương thơm ấy như từ cánh đồng hoa đem đến, rừng xanh thối về. Cả đời tôi không thể quên cái Tết mừng lúa mới của đồng bào dân tộc ở cao nguyên Lang Biang Đà Lạt. Gạo mới gặt về, còn thơm phức, ít phải xay phải giã và như còn chút áo bột bọc ngoài. Khi nấu cơm lên đi ngoài sân còn thấy nuốt nước miếng…
Và tôi phải cảm ơn những năm tháng đi sơ tán tránh máy bay Mỹ về nông thôn… những cánh đồng và đường làng đã cho tôi những ký ức và trải nghiệm tuyệt vời về cuộc sống giản dị mộc mạc nhưng đầy triết lý hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” chân chất diệu kỳ của người nông dân. Cái mùi thơm khen khét của lá tranh, cái vị thơm nồng nàn của bùn đất cứ đi vào trong cả giấc ngủ. Tôi nhớ hồi nhỏ dân sơ tán chúng tôi rất thích đi làm đồng, đi nhổ sắn, đi tưới rau với các anh chị con bác chủ nhà. Và bù lại, chúng tôi được thưởng mấy sản vật đồng quê, được tận hưởng những củ sắn nướng rơm vàng ruộm trên đồi , những bát cơm gạo mới thơm phức đầu mùa gặt…
Và chính trong những năm tháng sống ở các vùng nông thôn quanh Hà Nội ấy, chúng tôi đã có những cái Tết xa nhà đầu tiên trong đời. Khi ấy chúng tôi được người dân ở đây nhường cái ăn, cái ở là vì nghĩa tình đùm bọc… Ngày Tết, bọn trẻ chúng tôi cùng nấu bếp, đi chùa với người dân ở đây. Những ngày ấy không gian xung quanh đầy mùi thơm của nhang khói trầm mặc trong những ngôi chùa cổ kính. Nhiều khi vào chùa chỉ để được thở trong cái hương vị yên bình đó cùng tiếng ngân nga chuông chùa.
Những phong tục tập quán địa phương là những pho truyền thuyết đậm màu sắc cổ tích mà bọn trẻ đường nhựa cứ tròn xoe mắt, há hốc mồm đón nhận. Mấy đứa con gái mới lớn chả biết kiếm đâu được ít hoa nhài hoa bưởi, hoa ngâu, chúng gói vào khăn tay, giấu trong túi áo, kẹp lên cả mái tóc tuổi mới lớn, chỉ là chỉ để lung lạc những thằng con trai tinh nghịch mà thôi.
Cái Tết trên vùng rừng núi Hòa Bình của tôi là cái Tết bộ đội với khẩu phần ăn, thuốc lá, bánh kẹo nhỉnh hơn ngày thường đôi chút. Nhưng đáng nhớ nhất là bữa liên hoan với thanh niên dân tộc Mường ở bản. Tôi còn nhớ như in cái vị rượu Cần của người Mường, nó chua chua ngọt ngọt, nồng say, mới uống thấy nhẹ, nhưng uống rồi thấy nó thấm đậm, sau té ngửa lúc nào không biết. Mà uống rượu cùng các cô gái Mường “không phải dạng vừa” đâu nhé. Mắt cô ấy cứ lúng liếng, má cứ hồng lên, uống kiểu gì cũng chỉ có “anh chết chứ em không chết”. Mà có khi không phải “chết vì rượu“ mà vì :
“Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen…”
Cái Tết miền Trung yên ả hơn nhiều vùng khác. Thời tiết lại lành lạnh khiến người ta thêm cái cảm giác ấm cúng, quây quần. Ăn Tết quê nghèo miền Trung, tự hào nhắc truyền thống kháng chiến, rồi ngẫu hứng thơ ca hò vè với những âm sắc đặc biệt của xứ Quảng. Khi mấy đứa cháu về Sài Gòn, một bà dì lưng còng như trái me, đưa cho vợ chồng tôi hai cái bánh tét và dặn: “Các con mang vào SG chia cho bốn đứa cháu trong đó, mỗi đứa nửa cái nghe con, nói là dì nghèo chỉ có chút quà quê vậy thôi”. Đó là thơm tình thơm nghĩa. Đó là thơm thảo.
Đúng là:
Khi đi Đà Lạt hay về Sa Đéc những xứ hoa nổi tiếng của đất nước, tôi đều tìm cách đi thăm các nơi trồng hoa. Và khi trở về tôi và nhiều người đều mua hoa về SG, tôi đã viết: “Cả chuyến bay như một vườn hoa nhỏ. Hoa của người còn hương thơm của ta”…
Sau này lớn lên, trong các hành trình đi các vùng miền đó đây, tôi còn cảm nhận được những mùi thơm đặc trưng của làn da trên cơ thể con người. Hình như đó là mùi nắng sau lưng một người lính trẻ tôi gặp trên thao trường , hay có thể là mái tóc thơm mùi xả của cô thôn nữ chở tôi đi công tác giữa rừng. Hay là mùi mồ hôi mặn mà của vạt áo cô gái vùng biển chèo thuyền thúng cho tôi ra đảo…
Tôi cảm thấy ngay cả nhan sắc cũng có hương thơm và hương thơm cũng có hình hài dáng dấp của nó.
Vậy mà thương vậy mà nhớ.
Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du khi kể – tả về “nỗi tương tư” có một câu thơ thật ý nhị: “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”.
Mấy năm gần đây tôi ít ăn Tết xa nhà, không có dịp nào được ăn Tết cùng lính, cùng người dân quê hương các vùng miền, nên những ấn tượng, những ký ức về những cái Tết xưa càng thao thiết nhớ, càng sâu đậm, càng miên man. Những cái Tết đậm đà tình nghĩa quê hương, gia đình, dân tộc đó mấy khi gặp lại được trong mỗi đời người, và dù cuộc sống có đổi thay, phôi phai hay cách tân thế nào đi nữa, nó vẫn đời đời mang hương vị nghĩa tình ấm cúng của Tết Việt Nam.
|
Nhà văn, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân vừa trở thành hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Ông sinh năm 1955 ở
Thanh Hoá
lớn lên ở
Hà Nội
, nguyên quán
tỉnh Bến Tre
, tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TPHCM và cử nhân báo chí Trường Tuyên huấn Trung ương Hà Nội, hiện sống tại
TPHCM
.
Huỳnh Dũng Nhân từng là Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM, Tổng biên tập Tạp chí Nghề Báo; Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn TPHCM, giảng viên môn phóng sự điều tra Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM và Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí Hội Nhà báo Việt Nam.
Các tác phẩm của Huỳnh Dũng Nhân đã xuất bản: Về truyện thiếu nhi có
Nối dây cho diều
(viết chung – NXB Kim Đồng),
Những vòng sóng
(viết chung – NXB Kim Đồng),
Kỷ niệm ngày sinh
(viết chung – NXB Kim Đồng),
Nghệ sĩ Đặng Thái Sơn
(NXB Kim Đồng),
Lãng mạn cùng cá sấu
(NXB Kim Đồng); Các tập phóng sự:
Ăn Tết trong rừng chó sói
(NXB Lao Động),
Ký sự Xuyên Việt
(NXB CAND),
Tôi đi bán tôi
(NXB Văn Nghệ TP HCM),
Những người đi trong gió
(NXB Trẻ),
Kính thưa Ô Sin
(NXB Thông Tấn)
Từ hầm lò Mông Dương đến nóc nhà Tây Tạng
(in chung với Đỗ Doãn Hoàng); Tập truyện ngắn:
Ba hồi chuông, Ký ức tình
(bút danh Kỳ Lâm); Tập tản văn:
Giọt lệ trên trời
(NXB Thông Tấn),
Sao băng
(NXB Văn Nghệ TP HCM); 7 tập thơ:
Dã quỳ tím, Tự tình với Facebook, Ký ức chao nghiêng, Bỗng lại hờn lại nhớ, Riêng một góc nhìn, Một chút riêng tư, Ngoảnh lại thương yêu
;
Hồi ký: Chúng tôi – Một thời mũ rơm mũ cối, Nguyễn Trọng Trúc – Bóng bàn một đời tôi đam mê
. Tác phẩm
Chúng tôi – Một Thời Mũ Rơm Mũ cối
của ông đã nhận được Tặng thưởng Hội Nhà văn TP HCM 2020.
Nhà văn Huỳnh Dũng Nhân.
Có lẽ tôi chỉ có vài năm ở Hà Nội tử thủa lên 9-10, còn lại là đi sơ tán tránh máy bay Mỹ liên miên ở các tỉnh Hà Đông, Hà Bắc. Khi lớn lên tôi đi bộ đội thì đóng ở vùng rừng núi Hòa Bình. Nhờ những năm sống ở vùng nông thôn gián đoạn và hơi vội vã ấy tôi cũng có những tình yêu quê hương non nước Việt mà bây giờ tôi như vẫn như cảm thấy mùi hương đang vương vấn trong trí nhớ. Thuở ấy các cô gái trẻ hay gội tóc bằng lá bưởi chứ làm gì có đủ loại dầu thơm như bây giờ. Ngồi sau bàn một cô bạn học mà cứ phải lén lút hít thở khoan khoái cái hương bưởi tỏa ngát từ mái tóc dài mượt của cô bạn cùng lớp.
Còn quanh hồ Thiền Quang Hà Nội, dọc đường Quang Trung, Nguyễn Du… có một hương thơm nổi tiếng đặc trưng cho Hà Nội. Đó là hoa sữa. Nhưng hoa sữa thoang thoảng thì thơm , thì nhớ , nhưng mùi hoa nặng quá , đậm đặc quá thì lại phải hạ bớt độ nồng nàn, nhưng có ở độ thơm nào, hương hoa sữa cũng đã đi vào ký ức của Hà Nôi một thời như câu hát: “Nhớ phố Quang Trung, đường Nguyễn Du – những đêm hoa sữa thơm nồng”. (Một câu hát trong bài hát “Nhớ về Hà Nội” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp)…
Nhà thơ Xuân Diệu
đã từng viết: “Đố ai phân chất một mùi hương” Bởi ai cũng thích hương hoa nhưng để hiểu được phân tích được mỗi mùi vị hương thơm thì e rằng rất khó . Trước đây tôi có đi thăm một nhà máy sản xuất nước hoa của Hàn Quốc. Ông giám đốc kể rằng nhà máy của ông trả lương rất cao cho một chuyên gia phân tích các mùi hương , có thể phân biệt hàng chục mùi nước hoa khác nhau.
Nhà văn Nguyễn Tuân
của chúng ta cũng từng viết về một vùng sản xuất rượu nổi tiếng. Ở đầu làng có một ông lão chuyên làm một việc duy nhất là nếm rượu. Ai mua bán rượu cũng phải mang cho ông nếm thử một hớp nhỏ rồi mới yên tâm về chất lượng rượu của mình.
Thời gian cũng có hương sắc của nó.
Ngày Tết, tự những tờ lịch Tết cũng đã có sự nghỉ ngơi an lành, tự mỗi mâm quả cũng có hương vị tuỳ lựa chọn của mỗi gia đình. Hương thơm phảng phất bay lên từ trái Phật thủ. Mùi thơm sột soạt từ những đứa trẻ khoe tà áo mới. Và sau này không còn đốt pháo nữa, thì những đêm giao thừa cũng có sắc màu thơm ngát của những vầng sáng pháo hoa tầm thấp.
Khi đi về nông thôn, không gian lại có những bình nước hoa vô hình của đất trời.
Đó là cái mùi thơm của củi lửa mới nhen, của tro than mới tản, và vẫn như đâu đây vương vấn khói chiều hoà quyện.
Mùi của phố thị lúc nào cũng như có mùi thơm của vôi vữa gạch đá, nhựa đường. Còn hương thơm của núi rừng đồng quê thì có mùi của gió của mây, hương thơm ấy như từ cánh đồng hoa đem đến, rừng xanh thối về. Cả đời tôi không thể quên cái Tết mừng lúa mới của đồng bào dân tộc ở cao nguyên Lang Biang Đà Lạt. Gạo mới gặt về, còn thơm phức, ít phải xay phải giã và như còn chút áo bột bọc ngoài. Khi nấu cơm lên đi ngoài sân còn thấy nuốt nước miếng…
Và tôi phải cảm ơn những năm tháng đi sơ tán tránh máy bay Mỹ về nông thôn… những cánh đồng và đường làng đã cho tôi những ký ức và trải nghiệm tuyệt vời về cuộc sống giản dị mộc mạc nhưng đầy triết lý hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” chân chất diệu kỳ của người nông dân. Cái mùi thơm khen khét của lá tranh, cái vị thơm nồng nàn của bùn đất cứ đi vào trong cả giấc ngủ. Tôi nhớ hồi nhỏ dân sơ tán chúng tôi rất thích đi làm đồng, đi nhổ sắn, đi tưới rau với các anh chị con bác chủ nhà. Và bù lại, chúng tôi được thưởng mấy sản vật đồng quê, được tận hưởng những củ sắn nướng rơm vàng ruộm trên đồi , những bát cơm gạo mới thơm phức đầu mùa gặt…
Và chính trong những năm tháng sống ở các vùng nông thôn quanh Hà Nội ấy, chúng tôi đã có những cái Tết xa nhà đầu tiên trong đời. Khi ấy chúng tôi được người dân ở đây nhường cái ăn, cái ở là vì nghĩa tình đùm bọc… Ngày Tết, bọn trẻ chúng tôi cùng nấu bếp, đi chùa với người dân ở đây. Những ngày ấy không gian xung quanh đầy mùi thơm của nhang khói trầm mặc trong những ngôi chùa cổ kính. Nhiều khi vào chùa chỉ để được thở trong cái hương vị yên bình đó cùng tiếng ngân nga chuông chùa.
Những phong tục tập quán địa phương là những pho truyền thuyết đậm màu sắc cổ tích mà bọn trẻ đường nhựa cứ tròn xoe mắt, há hốc mồm đón nhận. Mấy đứa con gái mới lớn chả biết kiếm đâu được ít hoa nhài hoa bưởi, hoa ngâu, chúng gói vào khăn tay, giấu trong túi áo, kẹp lên cả mái tóc tuổi mới lớn, chỉ là chỉ để lung lạc những thằng con trai tinh nghịch mà thôi.
Cái Tết trên vùng rừng núi Hòa Bình của tôi là cái Tết bộ đội với khẩu phần ăn, thuốc lá, bánh kẹo nhỉnh hơn ngày thường đôi chút. Nhưng đáng nhớ nhất là bữa liên hoan với thanh niên dân tộc Mường ở bản. Tôi còn nhớ như in cái vị rượu Cần của người Mường, nó chua chua ngọt ngọt, nồng say, mới uống thấy nhẹ, nhưng uống rồi thấy nó thấm đậm, sau té ngửa lúc nào không biết. Mà uống rượu cùng các cô gái Mường “không phải dạng vừa” đâu nhé. Mắt cô ấy cứ lúng liếng, má cứ hồng lên, uống kiểu gì cũng chỉ có “anh chết chứ em không chết”. Mà có khi không phải “chết vì rượu“ mà vì :
“Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen…”
Cái Tết miền Trung yên ả hơn nhiều vùng khác. Thời tiết lại lành lạnh khiến người ta thêm cái cảm giác ấm cúng, quây quần. Ăn Tết quê nghèo miền Trung, tự hào nhắc truyền thống kháng chiến, rồi ngẫu hứng thơ ca hò vè với những âm sắc đặc biệt của xứ Quảng. Khi mấy đứa cháu về Sài Gòn, một bà dì lưng còng như trái me, đưa cho vợ chồng tôi hai cái bánh tét và dặn: “Các con mang vào SG chia cho bốn đứa cháu trong đó, mỗi đứa nửa cái nghe con, nói là dì nghèo chỉ có chút quà quê vậy thôi”. Đó là thơm tình thơm nghĩa. Đó là thơm thảo.
Đúng là:
Khi đi Đà Lạt hay về Sa Đéc những xứ hoa nổi tiếng của đất nước, tôi đều tìm cách đi thăm các nơi trồng hoa. Và khi trở về tôi và nhiều người đều mua hoa về SG, tôi đã viết: “Cả chuyến bay như một vườn hoa nhỏ. Hoa của người còn hương thơm của ta”…
Sau này lớn lên, trong các hành trình đi các vùng miền đó đây, tôi còn cảm nhận được những mùi thơm đặc trưng của làn da trên cơ thể con người. Hình như đó là mùi nắng sau lưng một người lính trẻ tôi gặp trên thao trường , hay có thể là mái tóc thơm mùi xả của cô thôn nữ chở tôi đi công tác giữa rừng. Hay là mùi mồ hôi mặn mà của vạt áo cô gái vùng biển chèo thuyền thúng cho tôi ra đảo…
Tôi cảm thấy ngay cả nhan sắc cũng có hương thơm và hương thơm cũng có hình hài dáng dấp của nó.
Vậy mà thương vậy mà nhớ.
Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du khi kể – tả về “nỗi tương tư” có một câu thơ thật ý nhị: “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”.
Mấy năm gần đây tôi ít ăn Tết xa nhà, không có dịp nào được ăn Tết cùng lính, cùng người dân quê hương các vùng miền, nên những ấn tượng, những ký ức về những cái Tết xưa càng thao thiết nhớ, càng sâu đậm, càng miên man. Những cái Tết đậm đà tình nghĩa quê hương, gia đình, dân tộc đó mấy khi gặp lại được trong mỗi đời người, và dù cuộc sống có đổi thay, phôi phai hay cách tân thế nào đi nữa, nó vẫn đời đời mang hương vị nghĩa tình ấm cúng của Tết Việt Nam.
|
Kiểm tra tiến độ thi công dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, tinh thần đã nói là phải làm, đã cam kết phải thực hiện có hiệu quả đo đếm được, ai không làm thì để người khác làm.
Sáng nay (29/1), Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng đoàn công tác của Chính phủ đến thăm hỏi người dân ở khu tái định cư Lộc An – Bình Sơn và kiểm tra tiến độ thi công dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành (sân bay Long Thành) tại
huyện Long Thành
,
Đồng Nai
.
Tại khu tái định cư Lộc An – Bình Sơn, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã gặp gỡ, thăm hỏi và tặng quà cho bà con đã chuyển đến đây sinh sống để nhường đất cho dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, muốn lắng nghe nhiều hơn ý kiến của nhiều người dân nhưng chỉ có một vài hộ đại diện, nên yêu cầu lãnh đạo tỉnh Đồng Nai rút kinh nghiệm việc này và phải làm cho cuộc sống của người dân tái định cư bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
“Tôi muốn nghe ý kiến người dân, còn báo cáo thì tôi đã nghe nhiều rồi”, Thủ tướng nói.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tặng quà cho người dân ở khu tái định cư sân bay Long Thành – Ảnh: H.H
Ông Cao Tiến Dũng, Chủ tịch UBND Đồng Nai báo cáo, có khoảng 7.000 hộ được bố trí khu tái định cư nhưng chỉ có khoảng 1.500 hộ đã xây nhà và sinh sống tại đây. Các công trình trường học, điện, đường, trường, trạm sẽ hoàn tất trước tháng 8/2023 để phục vụ người dân khu tái định cư sân bay.
Sau khi nghe báo cáo, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, khu tái định cư 7.000 hộ nhưng đến nay mới có khoảng 1.500 hộ đến sinh sống là quá ít.
“Chính quyền phải xây hạ tầng y tế, hạ tầng giáo dục là phải đi trước một bước. Người dân đến đây mà nước không có, điện không có cũng không sống được”, Thủ tướng lưu ý.
Thủ tướng cũng trực tiếp tham quan trường học và một số cơ sở hạ tầng tại đây, sau đó cùng đoàn công tác đến kiểm tra tiến độ thi công dự án sân bay Long Thành.
Thủ tướng động viên, thăm hỏi cán bộ, nhân viên làm việc tại dự án sân bay Long Thành – Ảnh: H.H
Tại công trường Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm hỏi, tặng quà cán bộ, công nhân đang thi công. Hiện nay, các đơn vị thi công dự án thành phần đang xây dựng các hạng mục như: Nhà ga hành khách, nhà ga hàng hóa, khu bảo trì, đường cất hạ cánh, đường lăn, sân đỗ máy bay, giao thông nội cảng, công trình giao thông kết nối…
Thủ tướng cầu các bộ, ngành, địa phương, chủ đầu tư phải đẩy nhanh tiến độ, các công tác chuẩn bị đầu tư, thiết kế, đấu thầu. Cùng với việc triển khai các hạng mục cảng hàng không cần phải tiến hành song song các công trình hạ tầng kết nối. Thủ tướng yêu cầu phải lập kế hoạch cụ thể cho từng hạng mục, có thời gian cụ thể; giám sát, đôn đốc thực hiện. Trong đó chính quyền địa phương phải tập trung công tác giải phóng mặt bằng đảm bảo tiến độ, chất lượng.
Đặc biệt, Thủ tướng nhắc nhở: “Tinh thần đã nói là phải làm, đã cam kết phải thực hiện, thực hiện phải có hiệu quả có thể đo đếm được”.
Sau khi kiểm tra thực tế, Thủ tướng Chính phủ đã làm việc với các bộ, ngành, địa phương, Ban quan lý dự án, các nhà thầu… về tình hình triển khai dự án Cảng Hàng không Quốc tế Long Thành.
Thủ tướng cùng đoàn công tác của Chính phủ kiểm tra tiến độ thi công các hạng mục dự án sân bay Long Thành – Ảnh: H.H
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh thêm chủ trương đầu tư xây dựng Cảng Hàng không Quốc tế Long Thành là công trình trọng điểm quốc gia, được Đảng, Nhà nước rất quan tâm chỉ đạo xây dựng và người dân rất mong chờ. Do đó, Thủ tướng yêu cầu các cơ quan cần xác định lại trách nhiệm, căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để tổ chức thực hiện các công việc được giao liên quan đến dự án sân bay Long Thành.
Ở thời điểm này năm 2022 khi Thủ tướng kiểm tra hiện trường, dự án chưa có thiết kế, thẩm định, thậm chí chưa có con dấu để hoạt động, chưa có trụ sở để làm việc. Đến nay, kiểm tra thực tế cho thấy công việc đã có tiến bộ, chuyển biến, nhưng về cơ bản chưa đạt tiến độ đề ra.
Thủ tướng nêu rõ 3 nhóm công việc cần tập trung giải quyết thời gian tới.
Thứ nhất
, về giải phóng mặt bằng, tỉnh Đồng Nai tỉnh đã có nhiều cố gắng, nỗ lực nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Thủ tướng yêu cầu Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, chậm nhất hết quý I/2023 phải hoàn thành bàn giao mặt bằng giai đoạn 1; cố gắng hết quý II, bàn giao xong mặt bằng 2 đường dẫn, đường hậu cần vào sân bay.
Trên công trường, Thủ tướng cũng yêu cầu các nhà thầu tranh thủ thời tiết thuận lợi của mùa khô, huy động nhân lực, phương tiện làm việc 24/24 với 3 ca 4 kíp để cơ bản hoàn thành san lấp mặt bằng dự án.
Thứ hai
, về 4 dự án thành phần xây lắp sân bay Long Thành, Quyết định 1777 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án Cảng Hàng không Long Thành giai đoạn 1 và Kết luận của Thủ tướng sau cuộc làm việc dịp Tết năm 2022 đã phân công rõ các công việc của các cơ quan.
Thủ tướng nhấn mạnh, dự án thành phần số 2 và số 3 có ý nghĩa quyết định, đã bố trí được ngân sách, vấn đề lớn nhất là phối hợp, tổ chức thực hiện. Trong đó, gói thầu phần thân nhà ga hành khách bị hủy thầu, ACV là chủ đầu tư và Bộ GTVT, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chịu trách nhiệm về điều này, sắp tới sẽ kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm.
Thủ tướng nhấn mạnh: ACV phải có trách nhiệm khắc phục hậu quả, trong đó có việc chuẩn bị các phương án để đấu thầu, lựa chọn nhà thầu theo thẩm quyền; cần hỗ trợ thì đề nghị các cơ quan liên quan; nếu không làm được thì báo cáo các cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. “Đã hứa phải làm, đã cam kết phải thực hiện”, Thủ tướng nêu rõ.
Thứ ba
, Thủ tướng Chính phủ – Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành GTVT – đã giao Phó Thủ tướng Lê Văn Thành và sau đó là Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà trực tiếp chỉ đạo công trình này. Nay Thủ tướng yêu cầu lập Tổ công tác của Chính phủ để đôn đốc, kiểm tra, khớp nối các công việc; giao Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà làm Tổ trưởng với sự tham gia của lãnh đạo các bộ.
|
Checking the construction progress of the Long Thanh International Airport project, Prime Minister Pham Minh Chinh emphasized that the spirit of saying something must be done, committing to implementing it with measurable effectiveness, those who do not do it, let it go. others do.
This morning (January 29), Prime Minister Pham Minh Chinh and the Government delegation visited people in the Loc An - Binh Son resettlement area and inspected the construction progress of the Long International Airport project. Thanh (Long Thanh airport) at
Long Thanh district
,
Dong Nai
.
At the Loc An - Binh Son resettlement area, Prime Minister Pham Minh Chinh met, visited and gave gifts to people who moved here to give up land for the Long Thanh International Airport project.
Prime Minister Pham Minh Chinh said that he wanted to listen more to the opinions of many people but there were only a few representative households, so he asked the leaders of Dong Nai province to learn from this experience and make things better for people's lives. resettlement equal to or better than the old place of residence.
"I want to hear people's opinions, but I have heard a lot about the report," the Prime Minister said.
Prime Minister Pham Minh Chinh gives gifts to people in the Long Thanh airport resettlement area - Photo: H.H
Mr. Cao Tien Dung, Chairman of Dong Nai People's Committee, reported that about 7,000 households were allocated resettlement areas but only about 1,500 households built houses and lived here. School, electricity, road, school and station projects will be completed before August 2023 to serve people in the airport resettlement area.
After listening to the report, Prime Minister Pham Minh Chinh said that the resettlement area has 7,000 households but so far only about 1,500 households have come to live, which is too few.
“The government must build medical infrastructure and educational infrastructure to be one step ahead. People come here without water or electricity and cannot live," the Prime Minister noted.
The Prime Minister also directly visited schools and some infrastructure here, then went with the delegation to inspect the construction progress of the Long Thanh airport project.
The Prime Minister encouraged and visited officials and employees working at the Long Thanh airport project - Photo: H.H
At the construction site, Prime Minister Pham Minh Chinh visited and gave gifts to officials and workers under construction. Currently, the component project construction units are building items such as: Passenger terminal, cargo terminal, maintenance area, runway, taxiway, aircraft apron, internal traffic. ports, connecting traffic works...
The Prime Minister requested ministries, branches, localities, and investors to speed up the progress of investment preparation, design, and bidding. Along with the implementation of airport items, it is necessary to carry out connection infrastructure works in parallel. The Prime Minister requested to make specific plans for each item, with a specific time; Supervise and urge implementation. Local authorities must focus on site clearance work to ensure progress and quality.
In particular, the Prime Minister reminded: "The spirit of what has been said must be done, what has been committed must be done, and the implementation must have measurable effectiveness."
After the actual inspection, the Prime Minister worked with ministries, branches, localities, project management boards, contractors... on the implementation situation of the Long Thanh International Airport project.
The Prime Minister and the Government delegation inspected the construction progress of Long Thanh airport project items - Photo: H.H
Prime Minister Pham Minh Chinh further emphasized the policy of investing in building Long Thanh International Airport as a key national project, the Party and State are very interested in directing its construction and people are looking forward to it. Therefore, the Prime Minister requested agencies to redefine responsibilities, based on functions, tasks and powers to organize and carry out assigned work related to the Long Thanh airport project.
At this time in 2022 when the Prime Minister inspects the scene, the project has not yet been designed, appraised, does not even have a seal to operate, and does not have a headquarters to work. Up to now, actual inspection shows that the work has made progress and changes, but basically has not reached the set progress.
The Prime Minister clearly stated 3 groups of work that need to be focused on in the coming time.
The first
, regarding site clearance, Dong Nai province has made many efforts but has not yet achieved the set goals and requirements. The Prime Minister requested the Secretary of the Dong Nai Provincial Party Committee to mobilize the entire political system to participate, no later than the first quarter of 2023 to complete the handover of phase 1; At the end of the second quarter, we will complete the handover of the 2 access roads and the logistics road to the airport.
On the construction site, the Prime Minister also asked contractors to take advantage of the favorable weather of the dry season, mobilize human resources and vehicles to work 24/7 with 3 shifts of 4 crews to basically complete the project's site leveling. .
Monday
, about 4 Long Thanh airport construction component projects, Decision 1777 in 2020 of the Prime Minister approving the Long Thanh Airport project phase 1 and the Prime Minister's Conclusion after the meeting on Tet holiday in 2022 The tasks of the agencies have been clearly assigned.
The Prime Minister emphasized that component projects Không. 2 and Không. 3 are decisive, the budget has been arranged, the biggest problem is coordination and implementation. In particular, the bidding package for the passenger terminal body was canceled. ACV is the investor and the Ministry of Transport and the State Capital Management Committee at the enterprise are responsible for this. In the near future, they will review and clarify responsibilities. responsibility.
The Prime Minister emphasized: ACV must be responsible for overcoming consequences, including preparing plans for bidding and selecting contractors according to authority; If you need support, please request relevant agencies; If unable to do so, report to competent authorities for consideration and decision. "Promise must be done, commitment must be fulfilled," the Prime Minister stated clearly.
Tuesday
, Prime Minister - Head of the State Steering Committee for important national works and projects, key transport sectors - assigned Deputy Prime Minister Le Van Thanh and then Deputy Prime Minister Tran Hong Ha to directly direct this project. Now the Prime Minister has requested the establishment of a Government Working Group to urge, inspect and coordinate work; assigned Deputy Prime Minister Tran Hong Ha as Team Leader with the participation of leaders of ministries.
|
Theo các chuyên gia, những thành công trong năm 2022 tạo niềm tin cho năm 2023 phát triển một cách vững chắc, phấn đấu đạt được mục tiêu đã đề ra trên tinh thần khẩn trương ngay từ ngày làm việc đầu tiên.
Trong chỉ thị đôn đốc nhiệm vụ trọng tâm sau kỳ nghỉ Tết,
Thủ tướng Phạm Minh Chính
yêu cầu các bộ ngành, địa phương phải khẩn trương tập trung ngay vào công việc, bảo đảm kịp thời, chất lượng, hiệu quả, không để chậm trễ, tạo không khí phấn khởi và khí thế mới.
Sáng 27/1, Thủ tướng đi kiểm tra thực địa tuyến đường Vành đai 4 – vùng Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Viết Thành.
Thủ tướng yêu cầu cán bộ, công chức và các cơ quan thực hiện nghiêm kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động, khẩn trương tập trung giải quyết, xử lý công việc ngay từ ngày làm việc đầu tiên, đặc biệt là những công việc tồn đọng, chậm tiến độ do nghỉ Tết.
Người đứng đầu Chính phủ yêu cầu không tổ chức du xuân, liên hoan, chúc Tết làm ảnh hưởng đến thời gian và hiệu quả làm việc. Tuyệt đối không đi lễ hội trong giờ hành chính. Lãnh đạo các bộ, cơ quan, địa phương không tham dự lễ hội nếu không được cấp có thẩm quyền phân công.
Ông Trần Văn Lâm, Ủy viên Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội nhớ lại bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong những tháng đầu năm 2022, dẫn đến các vấn đề đều ‘cực kỳ khó khăn’, thậm chí tâm lý trong xã hội khi đó đều rất bi quan.
“Khó khăn như vậy, nhưng năm 2022, tốc độ tăng trưởng vẫn đạt được kết quả mỹ mãn, khoảng 8,02%”, ông Lâm nói.
Tuy nhiên, năm 2023, nhận định nền kinh tế có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn.
Theo ông Trần Văn Lâm, so với năm Nhâm Dần vừa qua, năm Quý Mão 2023 có nhiều thuận lợi hơn để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
Cơ sở để ông Lâm đưa ra nhận định như vậy là do dịch bệnh đã được kiểm soát, hơn nữa cũng đã có kinh nghiệm ứng phó với Covid-19. Xung đột giữa Nga và Ukraine chưa chấm dứt, nhưng các nền kinh tế trên thế giới dần thích nghi với điều này.
Ông Trần Văn Lâm cho rằng, cùng với việc thị trường thế giới dần ổn định, Trung Quốc mở cửa trở lại là điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nhiều mặt hàng.
Đặc biệt, thị trường chứng khoán, bất động sản trong nước từng bước ổn định sau khi ‘xác định đúng vấn đề’, đưa ra giải pháp kịp thời.
Công trường cầu Vĩnh Tuy 2 (TP Hà Nội) những ngày cuối năm. Ảnh: Quang Phong.
“Tất cả những yếu tố trên tạo cho chúng ta niềm tin năm 2023 và giai đoạn năm 2025 sẽ phát triển một cách vững chắc hơn, ổn định hơn và đạt được mục tiêu đã đề ra”, ông Trần Văn Lâm nói.
Theo ông Trần Văn Lâm, không chỉ trong năm 2023, khó khăn, thách thức lúc nào cũng có, nhưng vấn đề là phải nhận thức, nhận diện được để đưa ra những giải pháp vượt qua.
“Cơ quan chức năng nêu ra những khó khăn, thách thức trong năm 2023 để nhắc nhở không được thỏa mãn với những kết quả đạt được trong năm qua. Tuy nhiên, cũng không nên thấy những khó khăn, thách thức mà mất đi ý chí, ngược lại phải quyết tâm, phấn đấu để đạt được kết quả cao nhất”, ông Lâm nhấn mạnh.
Đại biểu Quốc hội Trương Xuân Cừ, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam cho rằng, trong bối cảnh như hiện nay, mục tiêu tăng trưởng 6,5% trong năm 2023 cũng là một thách thức rất lớn.
Theo ông Trương Xuân Cừ, để đạt được mục tiêu đặt ra trong năm 2023, các cơ quan từ Trung ương đến địa phương phải cùng vào cuộc gánh vác, chia sẻ khó khăn với các doanh nghiệp.
“Đặc biệt, ngay đầu năm 2023, Trung Quốc đã mở cửa trở lại, chúng ta phải tích cực xuất khẩu sang thị trường hơn 1,4 tỷ dân. Có như vậy mới bù đắp được những khoảng trống của thị trường châu Âu, Mỹ để lại”, ông Trương Xuân Cừ nói.
Để làm được điều đó, theo ông Trương Xuân Cừ, mỗi cơ quan không để xảy ra tình trạng ăn Tết kéo dài, tâm lý tháng Giêng là tháng ăn chơi, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, công việc của quý đầu năm 2023. “Nếu cả xã hội cùng vào cuộc ngay từ ngày đầu, tháng đầu, tôi tin mức tăng trưởng 6,5% trong năm 2023 là khả thi”, ông Trương Xuân Cừ nói.
Theo PGS.TS. Trần Kim Chung, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, để đạt được thành tích tăng trưởng cao như năm 2022 vừa qua là kết quả của sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị ngay từ đầu năm.
“Chưa có năm nào, các chính sách được thực hiện một cách quyết liệt, sát sao như vậy”, ông Trần Kim Chung nhận định.
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, năm 2023, cơ hội và thách thức song hành. PGS.TS. Trần Kim Chung nêu ra nhiều ‘điểm sáng’ trong năm Quý Mão như vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục chảy vào Việt Nam; các chính sách đi vào thực tiễn; sự tích cực của hệ thống chính trị tiếp tục được phát huy.
PGS. TS. Trần Kim Chung cũng chỉ ra những thách thức, lo ngại về viễn cảnh đợt suy thoái mới của nền kinh tế toàn cầu. Hoặc, cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục diễn ra, điều đó ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta.
“Năm 2022 khó khăn, thách thức như vậy mà chúng ta đều thích nghi được, chống đỡ được thì tình hình năm 2023 không quá lo ngại”, PGS.TS. Trần Kim Chung nói thêm.
Để năm 2023 tiếp đà thành tích như năm 2022, theo PGS.TS. Trần Kim Chung, cần tập trung rà soát gỡ bỏ các rào cản đầu tư. Cải thiện môi trường đầu tư để nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài, trong đẩy mạnh xuất nhập khẩu và tạo việc làm.
Bên cạnh đó cần tăng cường hoạt động của 3 ban chỉ đạo khắc phục các khó khăn của nền kinh tế được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ cuối năm 2022. Trong đó, tập trung xử lý vấn đề trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm 2023 và năm 2024. Đồng thời, xử lý linh hoạt vấn đề lãi suất, tín dụng để vừa nâng đỡ thị trường vừa tránh được lạm phát.
Đặc biệt, theo PGS.TS. Trần Kim Chung, cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số và giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các công trình hạ tầng quan trọng. Phấn đấu giải ngân 100% vốn đầu tư công dự kiến và hoàn thành đầy đủ các hạng mục công trình đầu tư công.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, nghiên cứu, ban hành 3 luật liên quan đến thị trường bất động sản theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 5 Khóa XIII: Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản.
|
According to experts, successes in 2022 create confidence for 2023 to develop steadily, striving to achieve the set goals in a spirit of urgency right from the first working day.
In the directive urging key tasks after the Tet holiday,
Prime Minister Pham Minh Chinh
requires ministries and localities to urgently focus on work, ensuring timeliness, quality, efficiency, without delay, creating an exciting atmosphere and new momentum.
On the morning of January 27, the Prime Minister went on a field inspection of Ring Road 4 - Hanoi Capital region. Photo: Viet Thanh.
The Prime Minister requested officials, civil servants and agencies to strictly implement administrative discipline and labor discipline, and urgently focus on solving and handling work right from the first working day, especially those in public works. Backlog and slow progress due to Tet holiday.
The head of the Government requested not to organize spring trips, parties, or New Year wishes, which would affect working time and efficiency. Absolutely do not go to festivals during office hours. Leaders of ministries, agencies and localities do not attend the festival unless assigned by competent authorities.
Mr. Tran Van Lam, Standing Member of the National Assembly's Finance and Budget Committee, recalled the complicated context of the Covid-19 epidemic in the first months of 2022, leading to 'extremely difficult' problems. , even the psychology in society at that time was very pessimistic.
"With such difficulties, in 2022, the growth rate will still achieve satisfactory results, about 8.02%," Mr. Lam said.
However, in 2023, it is estimated that the economy will have mixed opportunities, advantages and difficulties, but the difficulties and challenges will be more.
According to Mr. Tran Van Lam, compared to the last year of the Tiger, the year of the Cat 2023 will be more favorable to achieve socio-economic development goals.
The basis for Mr. Lam to make such comments is that the epidemic has been controlled, and he also has experience in dealing with Covid-19. The conflict between Russia and Ukraine has not ended, but economies around the world are gradually adapting to this.
Mr. Tran Van Lam said that, along with the world market gradually stabilizing, China's reopening is a favorable condition for the export of many products.
In particular, the domestic stock and real estate markets have gradually stabilized after 'correctly identifying the problem' and providing timely solutions.
Vinh Tuy 2 Bridge construction site (Hanoi City) in the last days of the year. Photo: Quang Phong.
"All of the above factors give us confidence that 2023 and the period 2025 will develop more firmly, more stably and achieve the set goals," Mr. Tran Van Lam said.
According to Mr. Tran Van Lam, not only in 2023 will there always be difficulties and challenges, but the problem is to be aware and identified to come up with solutions to overcome them.
“Authorities raised difficulties and challenges in 2023 to remind us not to be satisfied with the results achieved in the past year. However, we should not see difficulties and challenges and lose our will, on the contrary, we must be determined and strive to achieve the highest results," Mr. Lam emphasized.
National Assembly delegate Truong Xuan Cu, Vice Chairman of the Central Vietnam Association of the Elderly, said that, in the current context, the growth target of 6.5% in 2023 is also a huge challenge.
According to Mr. Truong Xuan Cu, to achieve the goal set in 2023, agencies from central to local levels must join hands and share difficulties with businesses.
“In particular, at the beginning of 2023, China has reopened, we must actively export to a market of more than 1.4 billion people. Only then can we make up for the gaps left by the European and American markets," Mr. Truong Xuan Cu said.
To do that, according to Mr. Truong Xuan Cu, each agency must not let the situation of prolonged Tet celebration occur, with the mentality that January is a month of entertainment, affecting the production, business and work activities of the company. first quarter of 2023. "If the whole society gets involved from the first day and first month, I believe a growth rate of 6.5% in 2023 is feasible," Mr. Truong Xuan Cu said.
According to Associate Professor, PhD. Tran Kim Chung, former Deputy Director of the Central Institute for Economic Management Research, achieving such high growth achievements as in 2022 is the result of the drastic intervention of the entire political system from the beginning of the year. .
"In no other year have policies been implemented so drastically and closely," said Mr. Tran Kim Chung.
Former Deputy Director of the Central Institute for Economic Management Research said that in 2023, opportunities and challenges go hand in hand. Associate Professor, PhD. Tran Kim Chung pointed out many 'bright spots' in the Year of the Cat such as foreign investment capital continuing to flow into Vietnam; policies put into practice; The positivity of the political system continues to be promoted.
Associate Professor. Dr. Tran Kim Chung also pointed out challenges and concerns about the prospect of a new recession in the global economy. Or, the competition to attract foreign investment capital continues, which affects our country's economy.
"If 2022 is difficult and challenging, if we can all adapt and withstand it, the situation in 2023 will not be too worrying," Associate Professor, PhD. Tran Kim Chung added.
In order for 2023 to continue with the same achievements as 2022, according to Associate Professor, PhD. Tran Kim Chung, it is necessary to focus on reviewing and removing investment barriers. Improve the investment environment to further enhance competitiveness in attracting foreign investment, promoting import and export and creating jobs.
In addition, it is necessary to strengthen the activities of the 3 steering committees to overcome economic difficulties established by the Prime Minister's decision at the end of 2022. In particular, focus on handling the issue of corporate bonds maturing in 2023 and 2024. At the same time, flexibly handle interest rate and credit issues to both support the market and avoid inflation.
In particular, according to Associate Professor, PhD. Tran Kim Chung, it is necessary to continue promoting digital transformation and disbursement of public investment, especially for important infrastructure projects. Strive to disburse 100% of expected public investment capital and complete all public investment project items.
In addition, it is necessary to promote the improvement of socialist-oriented market economic institutions. In particular, research and promulgate 3 laws related to the real estate market in the spirit of Resolution 18-NQ/TW of the 5th Central Conference, Session XIII: Land Law, Housing Law, Business Law real estate.
|
Tại đám mây phân tử Chamaeleon I, cách trái đất hơn 500 năm ánh sáng, kính James Webb thu thập được dữ liệu cho thấy sự hiện diện của carbon, hydro, ôxy, nitơ và lưu huỳnh (gọi chung là CHONS), nhóm vật liệu cần thiết để khí quyển hình thành.
Đám mây phân tử Chamaeleon I, cách trái đất hơn 500 năm ánh sáng. NASA/ESA/CSA
“Đây là những thành phần quan trọng của các phân tử tiền sinh học như axít amino, và vì thế có thể nói chúng là những vật liệu cơ bản của sự sống”, theo nhà thiên văn học Maria Drozdovskaya của Đại học Bern (
Đức
), một trong những người tham gia việc phân tích dữ liệu của kính James Webb.
Bên cạnh đó, từ cùng dữ liệu trên, đội ngũ chuyên gia quốc tế do nhà thiên văn học Melissa McClure của Đại học Leiden (
Hà Lan
) dẫn đầu cũng phát hiện bên trong đám mây phân tử Chamaeleon I những dạng đông lạnh của các phân tử phức tạp hơn, như nước, khí mêtan, carbonyl sulfide và phân tử sinh học methanol, theo báo cáo trên chuyên san
Nature Astronomy
.
Những khối lạnh, cô đặc của các đám mây phân tử là nơi những hệ thống sao và hành tinh hình thành. Các nhà khoa học tin rằng CHONS và những phân tử đã từng hiện diện trong đám mây phân tử “thai nghén” mặt trời, và một số vật liệu được chuyển đến trái đất sau đó thông qua các vụ va chạm với sao chổi và tiểu hành tinh.
Dù các thành phần và phân tử tìm thấy bên trong đám mây Chamaeleon I hiện vẫn âm thầm lơ lửng giữa không gian, một ngày trong tương lai chúng có thể đóng góp vào quá trình hình thành các hành tinh, chuyển giao những vật liệu cần thiết cho sự trỗi dậy của sự sống ở những hành tinh non trẻ.
Thông qua phát hiện mới, nhà thiên văn học Will Rocha của Đài thiên văn Leiden (Hà Lan) cho rằng sự hiện diện của các phân tử tiền sinh học bên trong những hệ thống hành tinh có thể là kết quả thường thấy của quá trình hình thành sao, chứ không chỉ là đặc điểm chỉ có ở
hệ mặt trời
.
|
In the Chamaeleon I molecular cloud, more than 500 light years from Earth, the James Webb telescope collected data showing the presence of carbon, hydrogen, oxygen, nitrogen and sulfur (collectively known as CHONS), a group of objects. materials needed for an atmosphere to form.
Chamaeleon I molecular cloud, more than 500 light years from Earth. NASA/ESA/CSA
“These are important components of prebiotic molecules such as amino acids, and therefore they can be said to be the basic materials of life,” according to astronomer Maria Drozdovskaya of the University of Bern (
Virtue
), one of the people involved in the data analysis of the James Webb glasses.
Besides, from the same data above, a team of international experts led by astronomer Melissa McClure of Leiden University (
Netherlands
) also discovered within the Chamaeleon I molecular cloud frozen forms of more complex molecules, such as water, methane, carbonyl sulfide and the biomolecule methanol, reported in the journal
Nature Astronomy
.
These cold, condensed masses of molecular clouds are where star and planetary systems form. Scientists believe that CHONS and molecules were once present in the molecular cloud that conceived the sun, and that some of the material was delivered to Earth later through collisions with comets and asteroids. planet.
Although the components and molecules found inside the Chamaeleon I cloud are currently silently floating in space, one day in the future they could contribute to the formation of planets, transferring the necessary materials essential for the emergence of life on young planets.
Through new findings, astronomer Will Rocha of the Leiden Observatory (Netherlands) believes that the presence of prebiotic molecules inside planetary systems may be a common result of the process. star formation, not just a characteristic found only in
solar system
.
|
Tôi có may mắn được làm việc ở Tạp chí
Văn nghệ Quân đội
ngót ngét 40 năm. Ở Nhà số 4, tôi lại may mắn được gần những bậc thầy, những bậc đàn anh về viết báo, làm báo như Thanh Tịnh, Mai Ngữ, Hồ Phương, Xuân Thiều, Vương Trí Nhàn, Ngô Thảo…, đặc biệt là “sư phụ” ThanhTịnh, Tổng Biên tập thứ hai của
Văn nghệ Quân đội
. Những câu chuyện làm báo của ông cả trong cương vị lãnh đạo
Văn nghệ Quân đội
và ở vị trí một người làm báo đều khiến tôi nhớ mãi.
Ðược ở gần nhà thơ Thanh Tịnh chừng hai chục năm thôi, nhưng tôi biết ông là một “tỉ phú” về ngôn từ, chữ nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà anh em báo chí văn nghệ ở “phố nhà binh” gọi ông là “pho tự điển sống” là “bậc huynh trưởng”. Ông không chỉ viết báo, làm báo giỏi mà còn chỉ cho nhiều nhà báo trẻ cách viết báo, làm báo một cách rất cụ thể, như thầy trò, như bầu bạn như đồng nghiệp… Thanh Tịnh là vậy, làm báo, viết báo, kể cả báo Tết, báo Xuân, báo số đặc biệt…, làm cái gì cũng cứ nhẹ tênh tênh, nhưng để theo ông, học ông thật chẳng dễ chút nào. Ðôi khi chỉ là để hiểu ý ông thôi mà mươi năm, thậm chí cả đời người vẫn chưa làm được.
Ðời làm báo của ông, như ông kể, tháng nào tuần nào cũng phải tự “trình diện” trước bạn đọc, bạn viết và… cấp trên. Tết, làm báo Tết mới bận rộn làm sao! Ở Tạp chí
Văn nghệ Quân đội
có lệ mỗi lần Tết đến, mọi phóng viên trong tòa soạn phải góp một bài cho số báo đặc biệt này. Thơ còn không ngại, chứ đến truyện ngắn và các mục râu ria như giai thoại, thơ vui, câu đối cùng nhiều thể tài gọi là “bài vụn” khác, thì quả thật viết đã khó, mà chạy ra bài lấp đầy các số báo cũng không dễ… Tôi từng nghe kể, những lúc ấy nhà văn Nguyễn Minh Châu thường nhìn cánh “trực biên tập” (tức là đang lo dựng các số báo) một cách thương hại và tủm tỉm: “Trông kia kìa, chắc cụ Thanh Tịnh đã viết được vài bài rồi, giờ lại đang viết tiếp đấy. Tết năm ngoái đọc sơ sơ các báo, mình đếm chắc chưa đầy đủ mà đã có đến chục bài kí tên Thanh Tịnh. Ở nhà này về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng”. Để tưởng nhớ nhà văn Tổng biên tập (Chủ nhiệm Tạp chí VNQĐ đời thứ 2, sau tướng Văn Phác), tôi xin kể vài câu chuyện về ông:
Văn phẩm Thanh Tịnh để lại không thật đồ sộ, nhưng ông được người đời gọi là nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ. Là nhà văn bởi ông có các tập truyện ngắn
Ngậm ngải tìm trầm
(1943) và trước đó là tập
Quê mẹ
(1941). Là nhà thơ bởi ngay từ năm 1937, lúc mới 26 tuổi ông đã cho in tập thơ
Hận chiến trường
nổi tiếng và đến năm 1942 được ghi danh trong
Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh và Hoài Chân với những thi phẩm nổi tiếng như
Mòn mỏi
,
Tơ trời và tơ lòng
,
Rồi một hôm
… Trước đó, năm 1936 ông đã đoạt giải Nhất về thơ do tờ
Hà Nội báo
tổ chức. Ông còn để lại cho đời rất nhiều câu ca dao bất hủ như:
Nhà tan cửa nát cũng ừ/ Quyết tâm thắng Mỹ cực chừ sướng sau. Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong. Hà Nội, Huế, Sài Gòn/ Là cây một gốc là con một nhà…
Đời ông, một nhà thơ xứ Huế, một sĩ quan cao cấp của quân đội, nhưng lại đã từng
“Trải qua mấy chục năm trường / Ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân”
ở Hà Nội. Những năm tháng “ngày Bắc, đêm Nam” ấy ông đẫ để lại biết bao nhiêu kỉ niệm trong làng văn, làng báo cùng rất nhiều giai thoại dọc “phố nhà binh” – Phố Lý Nam đế Hà Nội.
Thanh Tịnh luôn luôn có những câu nói “xuất khẩu thành vần”. Một lần có một bạn đọc đến thăm ông tại căn phòng vừa là chỗ ở vừa là nơi làm việc ở số 4 – Lý Nam Đế hỏi ông: “Dạ thưa bác, bác đi làm có xa không ạ?” Thanh Tịnh trả lời rằng “Thưa không phải đi đâu ạ!”.
Người nọ còn ngỡ ngàng chưa hiểu ra thì nhà thơ đã giải thích: “Tôi được người ta gọi bằng bốn danh hiệu: nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ. Nhưng xin thưa: bốn nhà ấy hiện không nhà ở!”. Về sau, khi đã được Quân đội chia một căn hộ riêng bên số 8 – Lý Nam Đế, nhắc đến câu nói kia ông đề nghị sửa chữa thành:
Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà nghèo
. Ông bảo đó là “chân dung tự họa” của ông.
Biên tạp viên tờ báo nọ đến đặt Thanh Tịnh viết bài cho số báo tất niên. Anh ta thưa với nhà thơ rằng ông là một tác giả viết nhanh, luôn đúng hẹn, lại là người “sáng lập” ra mục “những đoạn văn ngắn” của tờ
Văn nghệ Quân đội
và đặt vấn đề với ông viết cho một truyện ngắn. Anh biên tập viên tin rằng với thời gian “cần”, “gấp” nhất định nhà thơ sẽ có truyện ngắn gửi đăng. Nghe xong Thanh Tịnh bảo: Sao không đặt mình viết truyên dài? Người khách nọ: Dạ sợ bác không đủ thời gian ạ. Nhà thơ cười: Vậy ra theo anh làm một cái đồng hồ nhỏ và chạy tốt lại dễ hơn làm cái đồng hồ to à?.
Nhà thơ Thanh Tịnh xa quê đúng 30 năm và đón
Tết
một mình cũng đủ 30 lần. Nhưng với ông, Tết nhất luôn luôn phải vui vẻ. Buồn đến chết, Tết cũng vui, ông hay nhắc đi nhắc lại câu ấy mỗi năm hoa đào nở. Và như đã thành tục lệ, dù là “ăn cơm tập thể, nằm giườmg cá nhân” mỗi Tết trong phòng ông đều có bánh chưng, hoa đào và dĩ nhiên là cả báo Tết cùng một vài câu đối do ông sáng tác để mừng xuân, mừng Tết, mừng tuổi bạn bè, người thân… Có một năm, hai mươi ba Tết ông Táo rồi mà ông vẫn chưa nghĩ được một vế tiếp theo của đôi câu đối mừng một tờ báo lớn kỉ niệm 50 năm ra số đầu tiên. Nhìn chiếc bánh chưng, cành đào nhỏ và chồng báo Tết của ông, người bạn nhà báo tức cảnh làm mấy câu thơ:
Tết nhất năm nay bác rất xôm
Bánh chưng xếp lộn với văn chương
Cành đào hé đúng mười ba nụ
Câu đối mừng ai viết nửa chừng…
Nghe vậy nhà thơ xứ Huế cười xí xóa: “Mới chiều 23 mà. Thời gian từ đây đến giao thừa con dài dài. Thế nào rồi cũng xong. Với tui “tuổi tuy hưu trí, chí chưa hưu” mà!”
Tờ báo nọ dự định ra số xuân sớm hơn mọi năm vì quan niệm báo Tết là thứ hàng hóa, phải kịp thời đến tay bạn đọc. Nhưng hiềm một nỗi ông họa sĩ “mi” tính toán số chữ không chính xác nên khi “bông” ra thấy “thủng” rất nhiều chỗ. Đưa ảnh vào cũng được nhưng kiếm không ra, đưa bài khác vào thì đảo lộn hết ý đồ mà cũng chẳng đủ “đất”. Viên thư kí tòa soạn nhanh ý guồng xe đến “cụ” Thanh Tịnh xin vài mẩu chuyện hoặc câu đối để “lấp chỗ trống”.
Năm ấy tuổi đã thất thập cổ lai hi nên viết lách có phần chậm. Có tí vốn liếng nào cũng “bị” các báo Tết khác nhanh chân hơn đến “chộp” trước mất rồi, vì thế nên khi nghe lời “thỉnh cầu” đầy vẻ S.O.S của người thư kí tòa soạn ông cũng rất lo. Nhưng chỉ một thoáng đã thấy ông hỏi:
– Bản bông có đây không?
Người thư kí mở cặp đưa ra cho nhà thơ xem. Quả là bị “thủng” đến mấy chỗ. Dường như không phải suy nghĩ nhiều, nhà thơ cao niên vớ lấy cây bút bi, giương kính lão lên và viết liền vào mấy chỗ trống kia. Chỗ thì chữ “vi nhét”, chỗ thì chữ “hoa đào”. Chỗ “thủng” hơi to thấy ông “lia” vội “câu đố”:
Phần đầu tôi mệt lắm rồi
Phần đuôi lặng lẽ giúp người che thân
Nếu ai đem ghép hai phần
Tôi kêu một tiếng xa gần biết tên
Sau đó ghi thêm chữ “là chữ gì?” trong ngoặc đơn và tiếp chữ “xem giải đáp trang…”. Ông lật đi lật lại bản “bông” và tìm ra một chỗ “thủng” khác để “lia” bút viết lời giải đó: Pháo (ph: mệt phờ + áo = pháo). Đoạn ông bỏ kính, cất bút trao bản “bông” cho người khách và bảo “ổn chưa?” Người nọ chỉ biết “dạ” và guồng xe trở lại nhà in…
Trang bìa Tạp chí Văn nghệ Quân đội số Tết 1987 kỉ niệm 30 năm ngày thành lập. Ảnh: Nhà văn Trần Đức Tiến cung cấp.
Năm ấy nghe tin Thanh Tịnh ốm nặng, Đỗ Chu vừa từ
Bắc Ninh
xuống sang ngay nhà thăm. Lâu ngày đôi bạn một già nột trẻ mới gặp nhau, chuyện trò vui vẻ đến nỗi Thanh Tịnh như khỏe ra. Ông gượng dậy lấy rượu mời Đỗ Chu và câu chuyện thêm vui, thêm cả buồn lẫn lộn. Nghe Thanh Tịnh nói về cuộc đời phiêu bạt, đơn côi của mình, Đỗ Chu thương lắm. Là người biết ít chữ Hán, chữ lại đẹp anh bèn cầm cây bút dạ viết luôn câu:
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
(trong bài thơ chữ Hán
Dạ hành
của
thi hào Nguyễn Du
) tặng nhà thơ già. Thanh Tịnh trân trọng treo câu thơ đó lên tường sát chỗ giường nằm.
Không ngờ mấy ngày sau bệnh ông càng thêm nặng, ông phải vào Viện Quân y 108… Và trước phút tác giả của
Quê mẹ
về quê mẹ, Đỗ Chu cũng có mặt. Nhà thơ còn níu nhìn người bạn văn trẻ và thều thào đọc câu thơ nọ
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
(nghĩa là: Trên con đường nhỏ, gió lạnh dồn thổi vào một người – thơ Nguyễn Du)… Không một ai ở đó khi ấy cầm nổi nước mắt!
Quả câu thơ rất hợp với ông, nhưng tôi nghĩ con đường xưa ông đi, quá khứ đời ông trải không chỉ có gió lạnh, đường xa và sự đơn côi mà còn có cả những chặng đường hoa cùng những ngày ấm áp nơi chiến khu xa và trên những con đường đường
Hà Nội
rụng vàng lá me lá sấu!
Thập Tam trại, trung thu 2022
|
Tôi có may mắn được làm việc ở Tạp chí
Văn nghệ Quân đội
ngót ngét 40 năm. Ở Nhà số 4, tôi lại may mắn được gần những bậc thầy, những bậc đàn anh về viết báo, làm báo như Thanh Tịnh, Mai Ngữ, Hồ Phương, Xuân Thiều, Vương Trí Nhàn, Ngô Thảo…, đặc biệt là “sư phụ” ThanhTịnh, Tổng Biên tập thứ hai của
Văn nghệ Quân đội
. Những câu chuyện làm báo của ông cả trong cương vị lãnh đạo
Văn nghệ Quân đội
và ở vị trí một người làm báo đều khiến tôi nhớ mãi.
Ðược ở gần nhà thơ Thanh Tịnh chừng hai chục năm thôi, nhưng tôi biết ông là một “tỉ phú” về ngôn từ, chữ nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà anh em báo chí văn nghệ ở “phố nhà binh” gọi ông là “pho tự điển sống” là “bậc huynh trưởng”. Ông không chỉ viết báo, làm báo giỏi mà còn chỉ cho nhiều nhà báo trẻ cách viết báo, làm báo một cách rất cụ thể, như thầy trò, như bầu bạn như đồng nghiệp… Thanh Tịnh là vậy, làm báo, viết báo, kể cả báo Tết, báo Xuân, báo số đặc biệt…, làm cái gì cũng cứ nhẹ tênh tênh, nhưng để theo ông, học ông thật chẳng dễ chút nào. Ðôi khi chỉ là để hiểu ý ông thôi mà mươi năm, thậm chí cả đời người vẫn chưa làm được.
Ðời làm báo của ông, như ông kể, tháng nào tuần nào cũng phải tự “trình diện” trước bạn đọc, bạn viết và… cấp trên. Tết, làm báo Tết mới bận rộn làm sao! Ở Tạp chí
Văn nghệ Quân đội
có lệ mỗi lần Tết đến, mọi phóng viên trong tòa soạn phải góp một bài cho số báo đặc biệt này. Thơ còn không ngại, chứ đến truyện ngắn và các mục râu ria như giai thoại, thơ vui, câu đối cùng nhiều thể tài gọi là “bài vụn” khác, thì quả thật viết đã khó, mà chạy ra bài lấp đầy các số báo cũng không dễ… Tôi từng nghe kể, những lúc ấy nhà văn Nguyễn Minh Châu thường nhìn cánh “trực biên tập” (tức là đang lo dựng các số báo) một cách thương hại và tủm tỉm: “Trông kia kìa, chắc cụ Thanh Tịnh đã viết được vài bài rồi, giờ lại đang viết tiếp đấy. Tết năm ngoái đọc sơ sơ các báo, mình đếm chắc chưa đầy đủ mà đã có đến chục bài kí tên Thanh Tịnh. Ở nhà này về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng”. Để tưởng nhớ nhà văn Tổng biên tập (Chủ nhiệm Tạp chí VNQĐ đời thứ 2, sau tướng Văn Phác), tôi xin kể vài câu chuyện về ông:
Văn phẩm Thanh Tịnh để lại không thật đồ sộ, nhưng ông được người đời gọi là nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ. Là nhà văn bởi ông có các tập truyện ngắn
Ngậm ngải tìm trầm
(1943) và trước đó là tập
Quê mẹ
(1941). Là nhà thơ bởi ngay từ năm 1937, lúc mới 26 tuổi ông đã cho in tập thơ
Hận chiến trường
nổi tiếng và đến năm 1942 được ghi danh trong
Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh và Hoài Chân với những thi phẩm nổi tiếng như
Mòn mỏi
,
Tơ trời và tơ lòng
,
Rồi một hôm
… Trước đó, năm 1936 ông đã đoạt giải Nhất về thơ do tờ
Hà Nội báo
tổ chức. Ông còn để lại cho đời rất nhiều câu ca dao bất hủ như:
Nhà tan cửa nát cũng ừ/ Quyết tâm thắng Mỹ cực chừ sướng sau. Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong. Hà Nội, Huế, Sài Gòn/ Là cây một gốc là con một nhà…
Đời ông, một nhà thơ xứ Huế, một sĩ quan cao cấp của quân đội, nhưng lại đã từng
“Trải qua mấy chục năm trường / Ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân”
ở Hà Nội. Những năm tháng “ngày Bắc, đêm Nam” ấy ông đẫ để lại biết bao nhiêu kỉ niệm trong làng văn, làng báo cùng rất nhiều giai thoại dọc “phố nhà binh” – Phố Lý Nam đế Hà Nội.
Thanh Tịnh luôn luôn có những câu nói “xuất khẩu thành vần”. Một lần có một bạn đọc đến thăm ông tại căn phòng vừa là chỗ ở vừa là nơi làm việc ở số 4 – Lý Nam Đế hỏi ông: “Dạ thưa bác, bác đi làm có xa không ạ?” Thanh Tịnh trả lời rằng “Thưa không phải đi đâu ạ!”.
Người nọ còn ngỡ ngàng chưa hiểu ra thì nhà thơ đã giải thích: “Tôi được người ta gọi bằng bốn danh hiệu: nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ. Nhưng xin thưa: bốn nhà ấy hiện không nhà ở!”. Về sau, khi đã được Quân đội chia một căn hộ riêng bên số 8 – Lý Nam Đế, nhắc đến câu nói kia ông đề nghị sửa chữa thành:
Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà nghèo
. Ông bảo đó là “chân dung tự họa” của ông.
Biên tạp viên tờ báo nọ đến đặt Thanh Tịnh viết bài cho số báo tất niên. Anh ta thưa với nhà thơ rằng ông là một tác giả viết nhanh, luôn đúng hẹn, lại là người “sáng lập” ra mục “những đoạn văn ngắn” của tờ
Văn nghệ Quân đội
và đặt vấn đề với ông viết cho một truyện ngắn. Anh biên tập viên tin rằng với thời gian “cần”, “gấp” nhất định nhà thơ sẽ có truyện ngắn gửi đăng. Nghe xong Thanh Tịnh bảo: Sao không đặt mình viết truyên dài? Người khách nọ: Dạ sợ bác không đủ thời gian ạ. Nhà thơ cười: Vậy ra theo anh làm một cái đồng hồ nhỏ và chạy tốt lại dễ hơn làm cái đồng hồ to à?.
Nhà thơ Thanh Tịnh xa quê đúng 30 năm và đón
Tết
một mình cũng đủ 30 lần. Nhưng với ông, Tết nhất luôn luôn phải vui vẻ. Buồn đến chết, Tết cũng vui, ông hay nhắc đi nhắc lại câu ấy mỗi năm hoa đào nở. Và như đã thành tục lệ, dù là “ăn cơm tập thể, nằm giườmg cá nhân” mỗi Tết trong phòng ông đều có bánh chưng, hoa đào và dĩ nhiên là cả báo Tết cùng một vài câu đối do ông sáng tác để mừng xuân, mừng Tết, mừng tuổi bạn bè, người thân… Có một năm, hai mươi ba Tết ông Táo rồi mà ông vẫn chưa nghĩ được một vế tiếp theo của đôi câu đối mừng một tờ báo lớn kỉ niệm 50 năm ra số đầu tiên. Nhìn chiếc bánh chưng, cành đào nhỏ và chồng báo Tết của ông, người bạn nhà báo tức cảnh làm mấy câu thơ:
Tết nhất năm nay bác rất xôm
Bánh chưng xếp lộn với văn chương
Cành đào hé đúng mười ba nụ
Câu đối mừng ai viết nửa chừng…
Nghe vậy nhà thơ xứ Huế cười xí xóa: “Mới chiều 23 mà. Thời gian từ đây đến giao thừa con dài dài. Thế nào rồi cũng xong. Với tui “tuổi tuy hưu trí, chí chưa hưu” mà!”
Tờ báo nọ dự định ra số xuân sớm hơn mọi năm vì quan niệm báo Tết là thứ hàng hóa, phải kịp thời đến tay bạn đọc. Nhưng hiềm một nỗi ông họa sĩ “mi” tính toán số chữ không chính xác nên khi “bông” ra thấy “thủng” rất nhiều chỗ. Đưa ảnh vào cũng được nhưng kiếm không ra, đưa bài khác vào thì đảo lộn hết ý đồ mà cũng chẳng đủ “đất”. Viên thư kí tòa soạn nhanh ý guồng xe đến “cụ” Thanh Tịnh xin vài mẩu chuyện hoặc câu đối để “lấp chỗ trống”.
Năm ấy tuổi đã thất thập cổ lai hi nên viết lách có phần chậm. Có tí vốn liếng nào cũng “bị” các báo Tết khác nhanh chân hơn đến “chộp” trước mất rồi, vì thế nên khi nghe lời “thỉnh cầu” đầy vẻ S.O.S của người thư kí tòa soạn ông cũng rất lo. Nhưng chỉ một thoáng đã thấy ông hỏi:
– Bản bông có đây không?
Người thư kí mở cặp đưa ra cho nhà thơ xem. Quả là bị “thủng” đến mấy chỗ. Dường như không phải suy nghĩ nhiều, nhà thơ cao niên vớ lấy cây bút bi, giương kính lão lên và viết liền vào mấy chỗ trống kia. Chỗ thì chữ “vi nhét”, chỗ thì chữ “hoa đào”. Chỗ “thủng” hơi to thấy ông “lia” vội “câu đố”:
Phần đầu tôi mệt lắm rồi
Phần đuôi lặng lẽ giúp người che thân
Nếu ai đem ghép hai phần
Tôi kêu một tiếng xa gần biết tên
Sau đó ghi thêm chữ “là chữ gì?” trong ngoặc đơn và tiếp chữ “xem giải đáp trang…”. Ông lật đi lật lại bản “bông” và tìm ra một chỗ “thủng” khác để “lia” bút viết lời giải đó: Pháo (ph: mệt phờ + áo = pháo). Đoạn ông bỏ kính, cất bút trao bản “bông” cho người khách và bảo “ổn chưa?” Người nọ chỉ biết “dạ” và guồng xe trở lại nhà in…
Trang bìa Tạp chí Văn nghệ Quân đội số Tết 1987 kỉ niệm 30 năm ngày thành lập. Ảnh: Nhà văn Trần Đức Tiến cung cấp.
Năm ấy nghe tin Thanh Tịnh ốm nặng, Đỗ Chu vừa từ
Bắc Ninh
xuống sang ngay nhà thăm. Lâu ngày đôi bạn một già nột trẻ mới gặp nhau, chuyện trò vui vẻ đến nỗi Thanh Tịnh như khỏe ra. Ông gượng dậy lấy rượu mời Đỗ Chu và câu chuyện thêm vui, thêm cả buồn lẫn lộn. Nghe Thanh Tịnh nói về cuộc đời phiêu bạt, đơn côi của mình, Đỗ Chu thương lắm. Là người biết ít chữ Hán, chữ lại đẹp anh bèn cầm cây bút dạ viết luôn câu:
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
(trong bài thơ chữ Hán
Dạ hành
của
thi hào Nguyễn Du
) tặng nhà thơ già. Thanh Tịnh trân trọng treo câu thơ đó lên tường sát chỗ giường nằm.
Không ngờ mấy ngày sau bệnh ông càng thêm nặng, ông phải vào Viện Quân y 108… Và trước phút tác giả của
Quê mẹ
về quê mẹ, Đỗ Chu cũng có mặt. Nhà thơ còn níu nhìn người bạn văn trẻ và thều thào đọc câu thơ nọ
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
(nghĩa là: Trên con đường nhỏ, gió lạnh dồn thổi vào một người – thơ Nguyễn Du)… Không một ai ở đó khi ấy cầm nổi nước mắt!
Quả câu thơ rất hợp với ông, nhưng tôi nghĩ con đường xưa ông đi, quá khứ đời ông trải không chỉ có gió lạnh, đường xa và sự đơn côi mà còn có cả những chặng đường hoa cùng những ngày ấm áp nơi chiến khu xa và trên những con đường đường
Hà Nội
rụng vàng lá me lá sấu!
Thập Tam trại, trung thu 2022
|
Tình cờ thấy trên mạng có đoạn trích từ một chương trình trò chơi của truyền hình. Người dẫn chương trình đưa ra câu đố: Trong bài hát
Hà Nội mười hai mùa hoa
của nhạc sĩ Giáng Son, hoa xoan nở vào tháng mấy?
Có người trả lời là tháng ba. Người thì nói mùa xuân.
(Câu trả lời như vậy là đúng, hoa xoan nở vào mùa xuân).
Nhưng người dẫn chương trình khẳng định: Sai. Không chính xác.
Vừa lúc có người thuộc lời bài hát kia, bèn hát lên: Trở về tuổi thơ hoa xoan tháng tám.
Đáp án: Chính xác.
***
Hoa xoan.
Nhưng đáp án “chính xác” của người dẫn lại là không chính xác. Không đúng. Hoàn toàn không.
Tháng tám nắng rám trái bưởi. Nếu hoa xoan mà trụ được từ tháng ba đến lúc ấy thì tàn héo khô quắt.
Nhạc sĩ không có kiến thức dân gian. Nhạc sĩ cũng không thuộc thơ đấy thôi:
Cũng không cần thơ phú cho xa xôi, nhạc sĩ cũng chưa nghe bài hát
Hoa xoan đêm hội
của đồng nghiệp Đặng Nguyễn:
Cái bịa của các nghệ sĩ, rất nhiều khi bay bổng đáng yêu. Nhưng cái bịa trong bài
Hà Nội mười hai mùa
hoa
thật gượng ép, khiên cưỡng.
Không ai dựa vào tác phẩm nghệ thuật để thu nhận kiến thức. Nhưng kiến thức sai trong tác phẩm nghệ thuật cho người ta biết trình độ và độ trải nghiệm của tác giả. Càng đáng ngại khi cái sai trong tác phẩm lại cứ véo von lên nịnh tai một bộ phận công chúng.
Tin rằng từ một trường hợp như thế này, người đọc có thể nối dài danh sách những câu những bài những công trình nghệ thuật đầy rẫy cái sai, không chỉ làm khó chịu mà còn tức cười.
Nói thế này, thế nào cũng có người chống chế: Hoa xoan trong bài là dâu da xoan. Nghe nói nhạc sĩ, rồi một ca sĩ nào đó, đã tự sửa lời, “hoa xoan” thành “dâu da xoan”. Đấy cũng chỉ là một cách vụng chèo mà không khéo chống. Dù sao thì bài gốc đã lan truyền rồi.
Dù biện hộ thế nào đi nữa thì hoa xoan mùa xuân mới là hình ảnh thi vị của thơ ca nhạc họa. Dù xoan hay dâu da xoan thì tháng tám cũng ra quả hoặc quả đã khô. Chỉ còn lại sự sáo rỗng viển vông trong bài ca.
***
Nhân cái chuyện đố vui có thưởng này, lại nhớ một câu đố vui đã thành kinh điển. Nó bắt đầu từ một câu chuyện. Một ông tướng cầm quân ra trận và chiến thắng trở về. Nhà vua ban thưởng và trong lời khen ngợi có kèm theo một ý: Nhà ngươi đã mất một cánh tay trong chiến trận, khá khen, nhưng nếu ngươi mất cả hai cánh tay thì ta còn ban thưởng nhiều gấp bội. Nghe vua nói đến đó, viên tướng bèn rút phắt kiếm ra, chém đứt nốt cánh tay còn lại của mình. Câu đố đưa ra là: “Vậy sau đó nhà vua có thưởng thêm cho viên tướng hay không?”
Nhà văn Hồ Anh Thái bên vịnh Seattle – Mỹ.
Người trả lời rằng:“Có”, lập luận: Vua sẽ thưởng, bởi đã hứa, và bởi viên tướng đã chứng tỏ thêm lòng dũng cảm, bởi sự hy sinh gấp đôi.
Người bảo rằng:“Không”, lập luận: Vua chỉ thưởng cho cánh tay bị mất vì chiến đấu chứ không phải tự gây thương tích như vậy.
Câu hỏi này gây ra tranh luận sôi nổi. Cho đến khi một tiếng nói cất lên.
Đó là câu hỏi ngược trở lại người hỏi:”Nhưng viên tướng phải dùng đến cánh tay nào để chặt nốt cánh tay còn lại của mình?”
Thì ra câu hỏi không phải để đòi hỏi kiến thức và trải nghiệm, mà là đòi hỏi sự sáng suốt và tinh nhạy.
***
Trở lại với câu hỏi của người dẫn chương trình trên truyền hình về hoa xoan. Không đặt câu hỏi đúng, tức là hoa xoan nở vào tháng mấy, mà lại đặt câu hỏi rằng hoa xoan nở vào tháng mấy trong bài hát nọ. Người đặt câu hỏi tất nhiên cũng không có kiến thức về hoa xoan. Người trả lời tất nhiên nhắc lại thêm một lần nữa cái sai truyền đạt trong bài hát. Cái sai được nhân lên.
Không có một người nào trong cả đám đông ở trường quay đặt lại câu hỏi phản biện theo kiểu: “ Tháng tám ở
Hà Nội
có còn hoa xoan không?”
Lý do cũng đơn giản: đám đông có mặt ở trường quay, và nhiều người xem truyền hình, đã bị dẫn dụ theo kịch bản. Kiểu kịch bản ấy cũng đôi lúc dành phần cho ngẫu hứng, nhưng rốt cuộc bao giờ cũng phải bám sát định hướng. Cả một đám đông công chúng bị thôi miên tập thể, bị tước đoạt hoàn toàn khả năng tư duy. Trong khi bị thao túng, bị dẫn đi trong cái mê cung hội chứng tập thể, không ai có thể bừng thức mà đặt câu hỏi phản biện. Trong trường hợp này là phản biện câu hát, rằng tháng tám không có hoa xoan. Rằng nhạc sĩ đã sa vào sự tối kỵ của nghệ thuật: chỉ vì sự tiện lợi cho mình mà viết những lời gượng ép.
Đấy là một trong nhiều lý do khiến các nhà giáo dục châu Âu và Mỹ khuyến nghị các bậc phụ huynh hạn chế cho con em ôm lấy cái tivi. Nơi ấy người ta dễ bị thôi miên tập thể, đánh mất khả năng tư duy và trí tưởng tượng.
Cũng cần nhắc lại: sự gượng ép, thiếu tự nhiên, thiếu kiến thức, thiếu trải nghiệm, không chỉ thể hiện trong một ca khúc cụ thể nào, cũng không chỉ ở trên truyền hình.
|
Accidentally saw an excerpt from a television game show online. The host gave a riddle: In the song
Hanoi has twelve flower seasons
by musician Giang Son, what month do Ao Dai flowers bloom?
Someone answered March. Some people say spring.
(That answer is correct, Ao Dai flowers bloom in spring).
But the host affirmed: Wrong. Incorrect.
Just then, someone knew the lyrics of that song and sang it: Back to childhood, the oval flowers in August.
Correct answer.
***
Oval flower.
But the narrator's "correct" answer is incorrect. Incorrect. Absolutely not.
In August, the sun tanned the grapefruit. If the oval flower lasts from March until then, it will wither and wither.
The musician has no folk knowledge. Musicians don't know poetry either:
There is no need for poetry to be written far away, even if the musician has not heard the song
Oval flowers at the festival night
from colleague Dang Nguyen:
Artists' fabrications are often so lovely. But the lie in the article
Hanoi has twelve seasons
flower
It's so forced and forced.
No one relies on works of art to acquire knowledge. But wrong knowledge in works of art tells people the level and experience of the author. It's even more disturbing when the mistakes in the work keep flattering a section of the public.
Believe that from a case like this, the reader can make a long list of articles about works of art full of mistakes, not only annoying but also funny.
Saying it like this, there will certainly be people who will object: The ao dai in the article is a mulberry with an oval skin. It is said that a musician, and then a singer, changed the lyrics himself, "oval flower" to "oval strawberry". That's just a clumsy way of rowing without skillful resistance. Anyway, the original post has already gone viral.
No matter how one defends it, the spring neem flower is the poetic image of poetry, music and painting. Whether it is a strawberry or a strawberry, it will bear fruit in August or the fruit will already be dry. Only the vain cliché remains in the song.
***
In light of this fun quiz with prizes, let's remember a fun quiz that has become a classic. It starts with a story. A general led his army into battle and returned victorious. The king gave a reward and in the praise there was an idea: You lost an arm in battle, quite a compliment, but if you lose both arms, I will reward you even more. Hearing what the king said, the general immediately pulled out his sword and cut off his remaining arm. The question given was: "Then did the king give the general a bonus or not?"
Writer Ho Anh Thai on Seattle Bay - USA.
He answered: "Yes", arguing: The king will reward, because he promised, and because the general has shown more courage, by double sacrifice.
The person said: "No", arguing: The king only rewarded the arm lost because of fighting, not because he injured himself like that.
This question caused heated debate. Until a voice spoke up.
That was a question thrown back at the questioner: "But which arm did the general have to use to cut off his remaining arm?"
It turns out that the question is not asking for knowledge and experience, but rather asking for insight and sensitivity.
***
Returning to the TV presenter's question about oval flowers. Not asking the right question, that is, what month do the oval flowers bloom, but instead asking the question that what month do the oval flowers bloom in that song. The person asking the question, of course, has no knowledge about Adelweiss. The respondent of course repeated once again the mistake conveyed in the song. Wrongs are multiplied.
Not a single person in the entire crowd at the studio asked a critical question like: “In August
Hanoi
Is there still aloe vera flower?”
The reason is simple: the crowd present at the studio, and many television viewers, were lured by the script. That type of script also sometimes leaves room for improvisation, but in the end it always has to stick to the direction. The entire public was subjected to collective hypnosis, completely deprived of the ability to think. While being manipulated and led through the maze of collective syndrome, no one can wake up and ask critical questions. In this case, it is an argument against the song saying that there are no oval flowers in August. That the musician has fallen into the taboo of art: just for his own convenience, he writes forced lyrics.
That is one of the many reasons why European and American educators recommend that parents limit their children's exposure to television. There, people are easily subjected to mass hypnosis, losing their ability to think and imagine.
It is also important to reiterate: forcedness, lack of naturalness, lack of knowledge, lack of experience, are not only shown in a specific song, nor only on television.
|
Chiều tối 29-1, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự lễ phát lệnh thực hiện chuyến hàng đầu năm tại cảng Tân Cảng – Cát Lái (
TP.HCM
) của Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn thuộc Quân chủng Hải quân.
Thủ tướng cùng lãnh đạo Chính phủ, lãnh đạo TP.HCM dự lễ phát lệnh làm chuyến hàng đầu năm tại Tân Cảng – Cát Lái – Ảnh: TTXVN.
Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn từ một cảng quân sự cũ, sau 34 năm xây dựng và phát triển đã thành một thương hiệu thành công không chỉ trong lĩnh vực kinh tế biển trong nước mà còn vươn tầm quốc tế; thực hiện tốt chủ trương về “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế; kinh tế với quốc phòng, an ninh”.
Với phiên hiệu Quân cảng Sài Gòn, tổng công ty đã cùng các lực lượng trong quân đội và Quân chủng Hải quân làm tốt vai trò nòng cốt phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn là một trong những doanh nghiệp hàng đầu của toàn quân và được đề xuất trong nhóm bảy doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, phát huy vai trò dẫn dắt, mở đường của nền kinh tế đất nước.
Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn hiện đang quản lý, điều hành tám cảng container (trong đó có ba cảng container hiện đại, lớn nhất Việt Nam), chiếm 55% thị phần container xuất nhập khẩu cả nước; đứng thứ 18/20 nhóm cụm cảng container có sản lượng lớn nhất thế giới.
Năm 2022, doanh thu toàn hệ thống tăng 5,4%; lợi nhuận tăng mạnh 16,2% (đạt trên 4.500 tỉ đồng); nộp ngân sách trên 1.900 tỉ đồng. Lần thứ bảy liên tiếp tổng công ty được vinh danh “Thương hiệu quốc gia”, lần thứ 4 đoạt giải thưởng “Doanh nghiệp tiêu biểu vì người lao động”.
Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn là một trong những doanh nghiệp dẫn đầu toàn quân – Ảnh: TTXVN.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng chúc mừng và biểu dương những thành tích của tập thể lãnh đạo và cán bộ, công nhân viên, người lao động Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn trong năm 2022 và những năm qua đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước.
“Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn thực sự vừa là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động, sản xuất”, Thủ tướng chỉ rõ.
Thủ tướng bày tỏ phấn khởi có mặt tại một trong những bến cảng quan trọng nhất của Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn – cảng Tân Cảng – Cát Lái – cảng biển lớn nhất Việt Nam, cửa ngõ thông thương hàng hóa xuất nhập khẩu lớn nhất cả nước – một trong những “mũi nhọn” đóng góp khoảng 18% tổng thu ngân sách của TP.HCM – “đầu tàu kinh tế” của cả nước.
Theo Thủ tướng, năm 2023 tình hình thế giới cũng như trong nước còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, khó đoán định; trong đó khó khăn, thách thức nhiều hơn. Tuy vậy, chúng ta vững tin sẽ hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2023: giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Thủ tướng nhấn mạnh, để thực hiện được nhiệm vụ trên, việc bảo đảm lưu thông hàng hóa xuất nhập khẩu là một trong những điều kiện quan trọng. Chính phủ, Thủ tướng tiếp tục chia sẻ, lắng nghe; khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và có các giải pháp hỗ trợ kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.
Người đứng đầu Chính phủ cũng đề nghị các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải, logistics cùng đồng tâm, hiệp lực, chung tay xây dựng, phát triển ngành vận tải và logistics Việt Nam hiện đại, hiệu quả, đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới; vừa đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, vừa giảm thiểu chi phí dịch vụ, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
“Đề nghị Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn đầu tư phát triển hệ thống cảng thủy nội địa, nhất là ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và phía Nam để qua đó góp phần phát triển kinh tế sông nước ở khu vực này”, Thủ tướng đề nghị.
Tại buổi lễ, Thủ tướng và các đại biểu đã thực hiện nghi thức phát lệnh thực hiện chuyến hàng đầu năm Quý Mão 2023 của cảng Tân Cảng – Cát Lái, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, mang theo những kỳ vọng, niềm tin vào một năm hoạt động xuất nhập khẩu sôi động, thành công, với kim ngạch tăng trưởng mạnh mẽ.
Phát triển kinh tế sông bên cạnh kinh tế biển
Thủ tướng tặng quà các cho các công nhân, lao động làm việc trong ca trực tối mùng 8 Tết – Ảnh: N.BÌNH
Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng năm 2023 tiếp tục là một năm thắng lợi của Tổng công ty với nhiều thành tích nổi bật, nhiều mốc tăng trưởng mới, nhiều kỷ lục mới, giữ vững vị trí tập đoàn kinh tế quốc phòng hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế biển và dịch vụ logistics, sớm trở thành thương hiệu uy tín toàn cầu, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh kết nối lưu thông hàng hóa, phát triển kinh tế biển của cả nước.
Thủ tướng cũng khuyến khích Tổng công ty nghiên cứu đầu tư, phát triển kinh tế sông, cảng thuỷ nội địa.
“Chiều nay, ngồi trên tàu tôi và đồng chí Nên (Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên – PV) cũng bàn về cái này. Vừa qua, Chính phủ đã hoàn thiện quy hoạch cảng thuỷ nội địa nhưng những năm rồi chúng ta chưa quan tâm đúng mức. Tôi đề nghị các đồng chí cần phải tập trung thêm đầu tư vào cảng thủy nội địa, các sông và đặc biệt là cái vùng sông nước thành phố, vùng sông nước
ĐBSCL
để khai thác kinh tế sống, bên cạnh kinh tế biển đang được khai thác rất hiệu quả”, Thủ tướng nói.
|
On the evening of January 29, Prime Minister Pham Minh Chinh attended the ceremony to issue the order to carry out the first shipment of the year at Tan Cang - Cat Lai port (
Ho Chi Minh City
) of Saigon Newport Corporation under the Navy.
The Prime Minister and Government leaders and leaders of Ho Chi Minh City attended the ceremony to issue orders for the first shipment of the year at Tan Cang - Cat Lai - Photo: VNA.
Saigon Newport Corporation, from a former military port, after 34 years of construction and development, has become a successful brand not only in the domestic marine economy but also internationally; well implement the policy of "combining defense and security with the economy; economics with national defense and security.
With the name Saigon Military Port, the corporation has joined forces in the army and the Navy to play a key role in developing the marine economy associated with firmly protecting the sacred sovereignty of the Fatherland.
Saigon Newport Corporation is one of the leading enterprises of the entire army and is proposed in the group of seven large-scale state-owned enterprises, promoting its leading role and paving the way for the country's economy.
Saigon Newport Corporation currently manages and operates eight container ports (including the three largest modern container ports in Vietnam), accounting for 55% of the country's import-export container market share; Ranked 18/20 in the group of container port clusters with the largest output in the world.
In 2022, system-wide revenue increases by 5.4%; Profit increased sharply by 16.2% (reaching over 4,500 billion VND); contributed over 1,900 billion VND to the budget. For the seventh consecutive time, the corporation was honored with "National Brand" and won the "Typical Enterprise for Workers" award for the fourth time.
Saigon Newport Corporation is one of the leading enterprises in the entire army - Photo: TTXVN.
On behalf of the Government, the Prime Minister congratulated and praised the achievements of the leadership, officers, employees, and workers of Saigon Newport Corporation in 2022 and in recent years for their positive contributions. into socio-economic development and the cause of building and protecting the country.
"Saigon Newport Corporation is truly both a fighting army, a working army, a labor and production army," the Prime Minister pointed out.
The Prime Minister expressed his excitement to be present at one of the most important ports of Saigon Newport Corporation - Tan Cang - Cat Lai port - the largest seaport in Vietnam, a major gateway for import and export goods. in the country - one of the "spearheads" contributing about 18% of total budget revenue of Ho Chi Minh City - the "economic engine" of the country.
According to the Prime Minister, in 2023, the situation in the world as well as in the country will still have many complicated, unpredictable, and unpredictable developments; which is more difficult and challenging. However, we firmly believe that we will successfully complete the socio-economic development goals for 2023: maintaining macroeconomic stability, controlling inflation, promoting growth and ensuring major balances. of the economy.
The Prime Minister emphasized that to carry out the above task, ensuring the circulation of import and export goods is one of the important conditions. The Government and Prime Minister continue to share and listen; Urgently improve policy mechanisms, promote reform of administrative procedures, improve the business investment environment and have timely support solutions to remove difficulties and create favorable conditions for businesses to develop. develop.
The Head of the Government also requested businesses operating in the field of transportation and logistics to work together and join hands to build and develop a modern, effective, and qualified transportation and logistics industry in Vietnam. advanced in the region and the world; not only meets the import and export needs of businesses, but also reduces service costs, contributing to improving the competitiveness of Vietnamese goods.
"It is recommended that Saigon Newport Corporation invest in developing the inland waterway port system, especially in the Mekong Delta and the South to thereby contribute to the development of the river economy in this area" , the Prime Minister proposed.
At the ceremony, the Prime Minister and delegates performed the ceremony of issuing orders to carry out the first shipment of the Year of the Cat 2023 from Tan Cang - Cat Lai port, Saigon Newport Corporation, bringing with them expectations and beliefs. in a year of vibrant and successful import-export activities, with strong turnover growth.
Develop river economy alongside marine economy
The Prime Minister gives gifts to workers and laborers working on shift on the evening of the 8th day of Tet - Photo: N.BINH
Prime Minister Pham Minh Chinh believes that 2023 will continue to be a successful year for the Corporation with many outstanding achievements, many new growth milestones, many new records, maintaining its position as a leading defense economic group. of Vietnam in the field of marine economy and logistics services, soon becoming a prestigious global brand, successfully completing the mission of connecting goods circulation and developing the country's marine economy.
The Prime Minister also encouraged the Corporation to research investment and develop the economy of rivers and inland ports.
“This afternoon, sitting on the train, comrade Nen and I (Ho Chi Minh City Party Secretary Nguyen Van Nen - Reporter) also discussed this. Recently, the Government has completed the planning of inland waterway ports, but in recent years we have not paid enough attention. I suggest that comrades need to focus more on investing in inland ports, rivers and especially the city's river areas and river areas.
Mekong Delta
to exploit the living economy, in addition to the marine economy which is being exploited very effectively," the Prime Minister said.
|
Bà Morera cho biết, bà sống đến 115 tuổi, qua cả chiến tranh, đại dịch nhờ tránh tiếp xúc với những người “độc hại”.
Kỷ lục Guinness Thế giới vừa xác nhận bà Maria Branyas Morera là người già nhất thế giới vào ngày 19/1. Hiện bà Morera vẫn khỏe mạnh.
Sinh ngày 4/3/1907 ở San Francisco (
Mỹ
), bà Morera chuyển đến
Tây Ban Nha
khi 8 tuổi. Bà kết hôn năm 1931, có 3 người con, 11 cháu và 13 chắt. Bà đã sống qua cả Thế chiến và đại dịch cúm năm 1918 trước khi nghỉ hưu và sống trong viện dưỡng lão 22 năm.
Vào ngày đầu tiên của năm 2023, bà chia sẻ: “Đối với bất kỳ ai, cuộc sống đều không phải là vĩnh cửu… Ở tuổi của tôi, một năm mới là một món quà, một lễ kỷ niệm khiêm nhường, một cuộc phiêu lưu mới, một hành trình tươi đẹp, một khoảnh khắc hạnh phúc. Hãy tận hưởng cuộc sống”.
Bà Morera cho rằng mình thọ nhờ sống “kỷ luật, tĩnh lặng, gắn kết với gia đình và bạn bè, tiếp xúc với thiên nhiên, ổn định cảm xúc, không lo lắng, không hối tiếc, suy nghĩ tích cực và tránh xa những người độc hại”. Đôi khi, bà đăng những lời triết lý trên tài khoản mạng xã hội.
Theo Kỷ lục Guinness Thế giới, bà Morera tâm sự: “Tôi nghĩ tuổi thọ cũng do may mắn và di truyền tốt”.
Bà Morera là người còn sống nhiều tuổi nhất thế giới. Ảnh: Indianexpress.
Nghiên cứu chỉ ra, duy trì các mối quan hệ xã hội là một phần quan trọng để sống lâu nhưng việc ở gần những người tiêu cực có thể gây hại nhiều hơn có lợi.
Khảo sát từ năm 2020, phỏng vấn hơn 3.000 người trung niên và cao tuổi, cho thấy những lời chỉ trích liên tục từ bạn đời có tác động mạnh nhất đến sức khỏe và tỷ lệ tử vong của một người.
Nhóm tác giả cho biết, phát hiện ghi nhận chất lượng mối quan hệ có tác động lớn hơn đến nguy cơ tử vong của một người so với việc có kết hôn hay không. Điều đó cho thấy, độc thân có thể lành mạnh hơn có chồng/vợ quá khắt khe.
Các phân tích khác đã liên kết mối quan hệ độc hại với trầm cảm và huyết áp cao. Nhà trị liệu Shannon Thomas nói với
Insider,
khách hàng của cô có các mối quan hệ tiêu cực thường gặp các vấn đề về tiêu hóa và trí nhớ.
|
Ms. Morera said she lived to be 115 years old, through wars and pandemics, by avoiding contact with "toxic" people.
Guinness World Records has just confirmed Maria Branyas Morera as the oldest person in the world on January 19. Currently, Ms. Morera is still healthy.
Born on March 4, 1907 in San Francisco (
America
), Mrs. Morera moved in
Spain
at 8 years old. She married in 1931, had 3 children, 11 grandchildren and 13 great-grandchildren. She lived through both World War II and the 1918 flu pandemic before retiring and living in a nursing home for 22 years.
On the first day of 2023, she shared: “For anyone, life is not eternal… At my age, a new year is a gift, a humble celebration, a new year. new adventure, a beautiful journey, a happy moment. Enjoy life.”
Ms. Morera attributed her longevity to living "disciplined, quiet, connected with family and friends, in contact with nature, emotionally stable, not worried, not regretful, thinking positively and avoiding toxic people”. Sometimes, she posts philosophical words on her social network accounts.
According to Guinness World Records, Ms. Morera confided: "I think longevity is also due to luck and good genetics."
Mrs. Morera is the oldest living person in the world. Photo: Indianexpress.
Research shows that maintaining social relationships is an important part of living a long life, but being around negative people can do more harm than good.
The survey from 2020, which interviewed more than 3,000 middle-aged and elderly people, found that constant criticism from a partner has the strongest impact on a person's health and mortality.
The findings noted that relationship quality has a greater impact on a person's risk of death than whether or not they are married, the authors said. That said, being single can be healthier than having a husband/wife who is too strict.
Other analyzes have linked the toxic relationship to depression and high blood pressure. Therapist Shannon Thomas tells
Insider,
Her clients with toxic relationships often experience digestive and memory problems.
|
Khi Đặng Trần Côn (khoảng 1705-1745) viết “Chinh phụ ngâm khúc”, toàn cõi Việt đều chìm trong khói lửa chiến tranh và nổi loạn, bối cảnh ấy đã thôi thúc ông viết một khúc trường thi tâm tình của người vợ xa chồng.
Tâm tình này chạm vào cõi lòng không chỉ của những nữ sĩ, mà còn lay động tâm tư của nhiều bậc nam nhi. Ở đây Đặng Trần Côn không chỉ dành tình thương cho người vợ chờ chồng mà còn chạm tới ước ao lớn lao hơn mà bất cứ ai còn trái tim đều mong mỏi: hòa bình.
Trong những câu cuối cùng của “Chinh phụ ngâm khúc”, ông viết: “Duyên xưa cùng chàng này còn vẹn nguyên/ Bạc đầu kết đôi mãi ước nguyền /Hoán đổi công danh bù xa cách/ Thanh bình âu yếm mãi triền miên”. (Hà Thủy Nguyên dịch, phiên âm Hán Việt: Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên/ Giao kỉnh thành song đáo lão thiên/ Thường liễu công danh ly biệt trái/ Tương liên tương thủ thái bình niên).
Một trang trong ấn bản “Chinh phụ ngâm khúc” năm 1912. Nguồn: Thư viện Quốc gia.
Người Á Đông quan niệm “Thi dĩ ngôn chí”, tức “thơ là để nói lên tâm tư và hoài bão, để bày tỏ những ý nguyện của mình. Trước Đặng Trần Côn, “chinh phụ” đã trở thành một thể tài phổ biến trong thơ ca Trung Quốc, không chỉ được ưa chuộng bởi các thi nhân mà còn bởi các chiến tướng. Vị chiến tướng, đồng thời là vị vua nhà Ngụy thời Tam Quốc – Tào Phi, đồng thời cũng là nhà thơ bậc nhất của thể tài chinh phụ.
Sinh thời, từ khi còn trẻ tuổi, ông đã viết rất nhiều bài thuộc thể tài chinh phụ, nổi tiếng nhất là chùm bài “Yên ca hành” với chuỗi tâm tư trông ngóng người chồng trở về: “Chia lìa dễ sao khó gặp chàng/ Sông núi xa vời đường mênh mang/ Nhớ nhung kết lại lời gan ruột/ Gửi theo mây nổi nào quay về/ Lệ rơi mưa táp hủy dung nhan/ Ai người lặng nhớ chẳng thở than”. (Hà Thủy Nguyên dịch, phiên âm Hán Việt: Biệt nhật hà dị hội nhật nan/ Sơn xuyên du viễn lộ man man/ Uất đào tư quân vị cảm ngôn/ Ký thư phù vân vãng bất hoàn/ Thế linh vũ diện hủy hình nhan/ Thuỳ năng hoài ưu độc bất than). Sau Tào Phi, các cây bút Đường thi nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Lý Hạ… đều có bài viết về chinh phụ.
Tư tưởng Nho giáo quan niệm người đàn ông cần đảm đương những trọng trách nam nhi, cần lập công, lập danh và coi công danh như chí nguyện của mình. Nhưng giữa trọng trách nam nhi và ý nguyện nhân sinh của đời người luôn có mâu thuẫn: trọng trách nam nhi đòi hỏi người đàn ông phải xông pha nơi chiến trận, trong khi ý nguyện nhân sinh dẫu đàn ông hay phụ nữ đều hướng tới bình an. Trong tiếng Hán, chữ “An” có bộ “Miên” ở trên, chữ “Nữ” ở dưới, ý muốn biểu thị An, tương đương với người phụ nữ được yên ấm dưới mái nhà của mình.
Chọn hình ảnh người chinh phụ, một thiếu phụ vẫn ở dưới mái nhà, nhưng trong lòng lúc nào cũng phấp phỏng âu lo, mong ngóng đợi chờ… cho thấy một trạng thái “an” thiếu chắc chắn, lúc nào cũng có thể bị đe dọa bởi loạn lạc. Loạn lạc chiến tranh đã phân tách trạng thái “an” thành hai thái cực: thái cực động là trang nam nhi thuộc dòng hào môn, xông pha chiến trận để thiên hạ thái bình; thái cực tĩnh có được cái an thân xác nhưng tinh thần thì hoàn toàn bất an. Hai thái cực này thường xuyên xuất hiện trong các bài thơ chinh phụ và đặc biệt biến ảo dị thường trong “Chinh phụ ngâm khúc”.
Nếu các bài thơ chinh phụ khác chỉ dừng ở trạng thái tĩnh đầy bất an của người vợ chờ chồng, thì Đặng Trần Côn dựng nên hai tâm cảnh tương phản động – tĩnh, phu – phụ, chinh chiến – nhớ nhung… với hai thể tài phản chiến Á Đông: biên tái – chinh phụ. Thông thường, khi đọc “Chinh phụ ngâm khúc”, các độc giả thường bị cuốn theo nỗi sầu muộn của người chinh phụ mà bỏ quên khía cạnh thể tài biên tái trong những câu khắc họa cảnh chiến trường. Chúng ta thường diễn giải rằng khung cảnh ấy là tâm cảnh của người chinh phụ, mà quên mất rằng dù là biên tái hay chinh phụ đều là hai sắc thái tâm cảnh của Đặng Trần Côn.
Lăng mộ Đặng Trần Côn tại phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Những câu thơ biên tái của Đặng Trần Côn có thể nói, sánh ngang với bất cứ bài Đường thi nào cùng thể tài: “Kỳ Sơn mả cũ trăng mênh mang/ Phì Thủy mộ mới gió lạnh lùng/ Gió lạnh lùng lồng lộng hồn tử sĩ/ Trăng mênh mang soi rõ mặt chinh phu/ Mặt chinh phu này ai phác nét/ Hồn tử sĩ này ai khóc thương/ Thương người chinh chiến non sông cũ/ Người đi xa ấy tình vấn vương/ Xưa nay chinh chiến ai về nhỉ/ Ban Siêu ngày về tóc điểm sương”.
(Hà Thủy Nguyên dịch, Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang/ Phì thủy tân phần phong niểu niểu/ Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn/ Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo/ Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh/ Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu/ Khả liên tranh đấu cựu giang sơn/ Hành nhân quá thử tình đa thiểu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn/ Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban”).
Ngay cả ở trạng thái động của tâm cảnh nam nhi, Đặng Trần Côn đã khẳng định tinh thần phản chiến mạnh mẽ bằng cảnh tang tóc và chết chóc của chiến trường, không còn chí khí “bình thiên hạ” thường thấy trong khẩu khí của trang quân tử. Do đó, dẫu tâm cảnh phân tách, hai thái cực vẫn chạm nhau ở cõi mộng, khi phu phụ tái hợp và thiên hạ lại thái bình. Nỗi nhung nhớ của người thiếu phụ, suy cho cùng là sự ước ao một trạng thái an trọn vẹn, khi bổn phận đã được hoàn thành.
Không giống với quan niệm buông bỏ của Phật giáo hay hình ảnh người đàn ông sẵn sàng trút bỏ những trách nhiệm vì luyến ái cá nhân trong các câu chuyện diễm tình, tâm cảnh chinh phu của Đặng Trần Côn, dù khát khao bình yên, dù chứng kiến chiến trận khắc nghiệt, dù đau đớn trước sinh mạng mong manh như cây cỏ, vẫn chấp nhận xông pha nơi chiến địa như một bổn phận tất yếu. Ngay từ những câu đầu tiên của ngâm khúc, bối cảnh khởi loạn được đánh dấu bằng cuộc đột kích của kẻ địch ngoài biên ải. Đứng trước tình cảnh ấy, lựa chọn “Rời bỏ ấm êm theo chinh chiến”.
(Phiên âm tiếng Hán: “Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến”) là con đường duy nhất để bảo toàn cho chúng dân, mà người vợ yêu thương và toàn bộ gia tộc cũng nằm trong số ấy. Dù rằng Đặng Trần Côn vẫn bị ảnh hưởng của thời đại, ông đồng nhất thái độ thực hiện bổn phận với nợ công danh và tinh thần trung quân, nhưng hình mẫu con người bổn phận mang sắc thái của bậc trượng phu hi sinh hạnh phúc cá nhân vì lợi ích của muôn người, hơn là vì tham vọng cá nhân.
Nhưng dầu vậy, ở thái cực của người chinh phụ ngóng trông, thời gian trôi qua, mọi biến chuyển của sự vật và sự việc biến mọi kết quả của hành động dù thành hay bại cũng đều hư vô. Người chinh phụ không còn trải rộng hồn mình trong cõi mộng như những ngày mới chia xa, mà bắt đầu đưa hướng quan sát của mình vào sự chuyển dịch của thời gian.
Thời gian trôi đi mà lẽ sinh diệt là hiện thể có thể chứng kiến, khiến toàn bộ nỗ lực hoàn thành bổn phận trở nên vô nghĩa, bởi hạnh phúc và bình an trở thành giấc mộng không thể với tới, dù thân thể dần hư hoại, đời người cứ thế qua đi: “Tiếc nuối nào để chi/ Nhan sắc còn tươi màu hé nụ/ Oán than nào để chi/ Bóng nắng buông rơi chẳng quay về/ Trách phận mỏng uổng tháng năm/ Rối bời tơ tóc điểm màu sương”. (Hà Thủy Nguyên dịch, phiên âm tiếng Hán: Thán tích hà dĩ vi/ Nhan sắc do hồng như nộn hoa/ Tư ta hà dĩ vi/ Quang âm nhất trịch vô hồi qua/ Tư mệnh bạc tích niên hoa/ Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà).
Chọn lựa nhập vai người chinh phụ nhớ chồng thay vì nhập vai khách chinh phu nhớ cảnh ấm êm, Đặng Trần Côn đã ký thác lựa chọn chính trị của mình trước thời cuộc loạn lạc ở thời đại ông sống. Thấu suốt ngắn ngủi của đời người, không bị chi phối bởi bất cứ hệ tư tưởng nào, Đặng Trần Côn đã kháng lại ý thức hệ Nho giáo để đối diện với những tâm cảnh chân thực nhất được xây dựng bởi bao điều mắt thấy tai nghe từ hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Con người bổn phận tuy mạnh mẽ và bi tráng nhưng đã hòa quyện vào khao khát con người bình dị nhất: hòa bình và êm ấm. Thật nghịch lý, con người bổn phận của đấng trượng phu vì nghĩa lớn hi sinh trong chiến trận để đạt được hòa bình, để vươn tới chữ “an”, nhưng rồi, càng dấn sâu vào bổn phận ấy thì càng rời xa ước nguyện của mình, để rồi, người chinh phụ nhận ra rằng nắm bắt những khắc thời hạnh phúc là cách duy nhất để thoát khỏi sự hư vô của thời gian – điều mà cả chinh phu và chinh phụ đều đã bỏ lỡ và chỉ có thể thốt lên: “Xót thiếp thay ôi xót chàng thay!” (Phiên âm Hán: Vị thiếp ta hề vị quân ta).
|
Khi Đặng Trần Côn (khoảng 1705-1745) viết “Chinh phụ ngâm khúc”, toàn cõi Việt đều chìm trong khói lửa chiến tranh và nổi loạn, bối cảnh ấy đã thôi thúc ông viết một khúc trường thi tâm tình của người vợ xa chồng.
Tâm tình này chạm vào cõi lòng không chỉ của những nữ sĩ, mà còn lay động tâm tư của nhiều bậc nam nhi. Ở đây Đặng Trần Côn không chỉ dành tình thương cho người vợ chờ chồng mà còn chạm tới ước ao lớn lao hơn mà bất cứ ai còn trái tim đều mong mỏi: hòa bình.
Trong những câu cuối cùng của “Chinh phụ ngâm khúc”, ông viết: “Duyên xưa cùng chàng này còn vẹn nguyên/ Bạc đầu kết đôi mãi ước nguyền /Hoán đổi công danh bù xa cách/ Thanh bình âu yếm mãi triền miên”. (Hà Thủy Nguyên dịch, phiên âm Hán Việt: Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên/ Giao kỉnh thành song đáo lão thiên/ Thường liễu công danh ly biệt trái/ Tương liên tương thủ thái bình niên).
Một trang trong ấn bản “Chinh phụ ngâm khúc” năm 1912. Nguồn: Thư viện Quốc gia.
Người Á Đông quan niệm “Thi dĩ ngôn chí”, tức “thơ là để nói lên tâm tư và hoài bão, để bày tỏ những ý nguyện của mình. Trước Đặng Trần Côn, “chinh phụ” đã trở thành một thể tài phổ biến trong thơ ca Trung Quốc, không chỉ được ưa chuộng bởi các thi nhân mà còn bởi các chiến tướng. Vị chiến tướng, đồng thời là vị vua nhà Ngụy thời Tam Quốc – Tào Phi, đồng thời cũng là nhà thơ bậc nhất của thể tài chinh phụ.
Sinh thời, từ khi còn trẻ tuổi, ông đã viết rất nhiều bài thuộc thể tài chinh phụ, nổi tiếng nhất là chùm bài “Yên ca hành” với chuỗi tâm tư trông ngóng người chồng trở về: “Chia lìa dễ sao khó gặp chàng/ Sông núi xa vời đường mênh mang/ Nhớ nhung kết lại lời gan ruột/ Gửi theo mây nổi nào quay về/ Lệ rơi mưa táp hủy dung nhan/ Ai người lặng nhớ chẳng thở than”. (Hà Thủy Nguyên dịch, phiên âm Hán Việt: Biệt nhật hà dị hội nhật nan/ Sơn xuyên du viễn lộ man man/ Uất đào tư quân vị cảm ngôn/ Ký thư phù vân vãng bất hoàn/ Thế linh vũ diện hủy hình nhan/ Thuỳ năng hoài ưu độc bất than). Sau Tào Phi, các cây bút Đường thi nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Lý Hạ… đều có bài viết về chinh phụ.
Tư tưởng Nho giáo quan niệm người đàn ông cần đảm đương những trọng trách nam nhi, cần lập công, lập danh và coi công danh như chí nguyện của mình. Nhưng giữa trọng trách nam nhi và ý nguyện nhân sinh của đời người luôn có mâu thuẫn: trọng trách nam nhi đòi hỏi người đàn ông phải xông pha nơi chiến trận, trong khi ý nguyện nhân sinh dẫu đàn ông hay phụ nữ đều hướng tới bình an. Trong tiếng Hán, chữ “An” có bộ “Miên” ở trên, chữ “Nữ” ở dưới, ý muốn biểu thị An, tương đương với người phụ nữ được yên ấm dưới mái nhà của mình.
Chọn hình ảnh người chinh phụ, một thiếu phụ vẫn ở dưới mái nhà, nhưng trong lòng lúc nào cũng phấp phỏng âu lo, mong ngóng đợi chờ… cho thấy một trạng thái “an” thiếu chắc chắn, lúc nào cũng có thể bị đe dọa bởi loạn lạc. Loạn lạc chiến tranh đã phân tách trạng thái “an” thành hai thái cực: thái cực động là trang nam nhi thuộc dòng hào môn, xông pha chiến trận để thiên hạ thái bình; thái cực tĩnh có được cái an thân xác nhưng tinh thần thì hoàn toàn bất an. Hai thái cực này thường xuyên xuất hiện trong các bài thơ chinh phụ và đặc biệt biến ảo dị thường trong “Chinh phụ ngâm khúc”.
Nếu các bài thơ chinh phụ khác chỉ dừng ở trạng thái tĩnh đầy bất an của người vợ chờ chồng, thì Đặng Trần Côn dựng nên hai tâm cảnh tương phản động – tĩnh, phu – phụ, chinh chiến – nhớ nhung… với hai thể tài phản chiến Á Đông: biên tái – chinh phụ. Thông thường, khi đọc “Chinh phụ ngâm khúc”, các độc giả thường bị cuốn theo nỗi sầu muộn của người chinh phụ mà bỏ quên khía cạnh thể tài biên tái trong những câu khắc họa cảnh chiến trường. Chúng ta thường diễn giải rằng khung cảnh ấy là tâm cảnh của người chinh phụ, mà quên mất rằng dù là biên tái hay chinh phụ đều là hai sắc thái tâm cảnh của Đặng Trần Côn.
Lăng mộ Đặng Trần Côn tại phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Những câu thơ biên tái của Đặng Trần Côn có thể nói, sánh ngang với bất cứ bài Đường thi nào cùng thể tài: “Kỳ Sơn mả cũ trăng mênh mang/ Phì Thủy mộ mới gió lạnh lùng/ Gió lạnh lùng lồng lộng hồn tử sĩ/ Trăng mênh mang soi rõ mặt chinh phu/ Mặt chinh phu này ai phác nét/ Hồn tử sĩ này ai khóc thương/ Thương người chinh chiến non sông cũ/ Người đi xa ấy tình vấn vương/ Xưa nay chinh chiến ai về nhỉ/ Ban Siêu ngày về tóc điểm sương”.
(Hà Thủy Nguyên dịch, Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang/ Phì thủy tân phần phong niểu niểu/ Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn/ Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo/ Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh/ Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu/ Khả liên tranh đấu cựu giang sơn/ Hành nhân quá thử tình đa thiểu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn/ Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban”).
Ngay cả ở trạng thái động của tâm cảnh nam nhi, Đặng Trần Côn đã khẳng định tinh thần phản chiến mạnh mẽ bằng cảnh tang tóc và chết chóc của chiến trường, không còn chí khí “bình thiên hạ” thường thấy trong khẩu khí của trang quân tử. Do đó, dẫu tâm cảnh phân tách, hai thái cực vẫn chạm nhau ở cõi mộng, khi phu phụ tái hợp và thiên hạ lại thái bình. Nỗi nhung nhớ của người thiếu phụ, suy cho cùng là sự ước ao một trạng thái an trọn vẹn, khi bổn phận đã được hoàn thành.
Không giống với quan niệm buông bỏ của Phật giáo hay hình ảnh người đàn ông sẵn sàng trút bỏ những trách nhiệm vì luyến ái cá nhân trong các câu chuyện diễm tình, tâm cảnh chinh phu của Đặng Trần Côn, dù khát khao bình yên, dù chứng kiến chiến trận khắc nghiệt, dù đau đớn trước sinh mạng mong manh như cây cỏ, vẫn chấp nhận xông pha nơi chiến địa như một bổn phận tất yếu. Ngay từ những câu đầu tiên của ngâm khúc, bối cảnh khởi loạn được đánh dấu bằng cuộc đột kích của kẻ địch ngoài biên ải. Đứng trước tình cảnh ấy, lựa chọn “Rời bỏ ấm êm theo chinh chiến”.
(Phiên âm tiếng Hán: “Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến”) là con đường duy nhất để bảo toàn cho chúng dân, mà người vợ yêu thương và toàn bộ gia tộc cũng nằm trong số ấy. Dù rằng Đặng Trần Côn vẫn bị ảnh hưởng của thời đại, ông đồng nhất thái độ thực hiện bổn phận với nợ công danh và tinh thần trung quân, nhưng hình mẫu con người bổn phận mang sắc thái của bậc trượng phu hi sinh hạnh phúc cá nhân vì lợi ích của muôn người, hơn là vì tham vọng cá nhân.
Nhưng dầu vậy, ở thái cực của người chinh phụ ngóng trông, thời gian trôi qua, mọi biến chuyển của sự vật và sự việc biến mọi kết quả của hành động dù thành hay bại cũng đều hư vô. Người chinh phụ không còn trải rộng hồn mình trong cõi mộng như những ngày mới chia xa, mà bắt đầu đưa hướng quan sát của mình vào sự chuyển dịch của thời gian.
Thời gian trôi đi mà lẽ sinh diệt là hiện thể có thể chứng kiến, khiến toàn bộ nỗ lực hoàn thành bổn phận trở nên vô nghĩa, bởi hạnh phúc và bình an trở thành giấc mộng không thể với tới, dù thân thể dần hư hoại, đời người cứ thế qua đi: “Tiếc nuối nào để chi/ Nhan sắc còn tươi màu hé nụ/ Oán than nào để chi/ Bóng nắng buông rơi chẳng quay về/ Trách phận mỏng uổng tháng năm/ Rối bời tơ tóc điểm màu sương”. (Hà Thủy Nguyên dịch, phiên âm tiếng Hán: Thán tích hà dĩ vi/ Nhan sắc do hồng như nộn hoa/ Tư ta hà dĩ vi/ Quang âm nhất trịch vô hồi qua/ Tư mệnh bạc tích niên hoa/ Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà).
Chọn lựa nhập vai người chinh phụ nhớ chồng thay vì nhập vai khách chinh phu nhớ cảnh ấm êm, Đặng Trần Côn đã ký thác lựa chọn chính trị của mình trước thời cuộc loạn lạc ở thời đại ông sống. Thấu suốt ngắn ngủi của đời người, không bị chi phối bởi bất cứ hệ tư tưởng nào, Đặng Trần Côn đã kháng lại ý thức hệ Nho giáo để đối diện với những tâm cảnh chân thực nhất được xây dựng bởi bao điều mắt thấy tai nghe từ hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Con người bổn phận tuy mạnh mẽ và bi tráng nhưng đã hòa quyện vào khao khát con người bình dị nhất: hòa bình và êm ấm. Thật nghịch lý, con người bổn phận của đấng trượng phu vì nghĩa lớn hi sinh trong chiến trận để đạt được hòa bình, để vươn tới chữ “an”, nhưng rồi, càng dấn sâu vào bổn phận ấy thì càng rời xa ước nguyện của mình, để rồi, người chinh phụ nhận ra rằng nắm bắt những khắc thời hạnh phúc là cách duy nhất để thoát khỏi sự hư vô của thời gian – điều mà cả chinh phu và chinh phụ đều đã bỏ lỡ và chỉ có thể thốt lên: “Xót thiếp thay ôi xót chàng thay!” (Phiên âm Hán: Vị thiếp ta hề vị quân ta).
|
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cùng các đại biểu dâng hương tưởng nhớ các bậc tiền nhân có công với đất nước tại
Hoàng thành Thăng Long
.
Nhân dịp đầu Xuân Quý Mão, sáng 30/1, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dự lễ Khai xuân tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội, thành tâm dâng hương tưởng nhớ các bậc tiên đế, các bậc hiền tài có công với đất nước tại
Điện Kính Thiên
.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các đại biểu dâng hương tại Hoàng thành Thăng Long.
Cùng tham gia đoàn có Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường; Chủ tịch UBND TP Hà Nội Trần Sỹ Thanh.
Trong không khí linh thiêng, trước điện Kính Thiên, Hoàng thành Thăng Long, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cùng các đại biểu đã thành kính dâng hương tưởng nhớ, kính cẩn cáo trước anh linh các bậc tiền nhân có công với đất nước về những thành quả xây dựng, phát triển đất nước; cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, dịch bệnh tiêu trừ.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chụp ảnh lưu niệm tại Hoàng thành Thăng Long.
Đồng thời, khẳng định quyết tâm phát huy truyền thống văn hiến, anh hùng của Thăng Long – Hà Nội và những giá trị cao quý của dân tộc; vun đắp khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trò chuyện thân mật với các cán bộ Khu di tích Hoàng thành Thăng Long, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, đây là nơi ghi dấu lịch sử nghìn năm, hội tụ hồn thiêng sông núi, tinh hoa văn hóa dân tộc, nơi các triều đại kế tiếp nhau mở mang nghiệp nước, xây dựng và bảo vệ non sông gấm vóc.
Chủ tịch Quốc hội mong muốn cán bộ, nhân viên Khu di tích sẽ nỗ lực gìn giữ những giá trị quý báu của Hoàng thành Thăng Long; tích cực tuyên truyền về những giá trị lịch sử của di tích, góp phần xây dựng Thủ đô và đất nước.
|
National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and delegates offered incense to commemorate ancestors who contributed to the country at the ceremony.
Imperial Citadel of Thang Long
.
On the occasion of the beginning of Spring, on the morning of January 30, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue attended the Spring Opening Ceremony at the Thang Long Imperial Citadel relic site, Hanoi, sincerely offering incense to commemorate the emperors and sages. talented and meritorious to the country
Kinh Thien Palace
.
National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and delegates offered incense at Thang Long Imperial Citadel.
Also joining the delegation were General Secretary of the National Assembly, Chairman of the National Assembly Office Bui Van Cuong; Chairman of Hanoi People's Committee Tran Sy Thanh.
In the sacred atmosphere, in front of Kinh Thien Palace, Thang Long Imperial Citadel, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and delegates respectfully offered incense to commemorate and respectfully pay tribute to the heroic spirits of our predecessors who had contributed to the country. about the achievements of building and developing the country; Pray for peace in the country and people, good weather, and eradication of epidemics.
Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue took souvenir photos at Thang Long Imperial Citadel.
At the same time, affirming the determination to promote the cultural and heroic traditions of Thang Long - Hanoi and the noble values of the nation; Cultivate the great solidarity of all people, build a country that is increasingly prosperous, democratic, equitable, and civilized.
In an intimate conversation with officials of the Thang Long Imperial Citadel, the Chairman of the National Assembly emphasized that this is a place marking a thousand years of history, converging the sacred souls of rivers and mountains, the quintessence of national culture, where dynasties Successive generations expanded the country's industry, built and protected rich rivers and mountains.
The Chairman of the National Assembly hopes that officials and employees of the Relic Site will make efforts to preserve the precious values of Thang Long Imperial Citadel; Actively propagate the historical values of the monument, contributing to building the Capital and the country.
|
Sáng 30-1, tại thôn Trường Sơn, xã Chân Sơn,
huyện Yên Sơn
,
tỉnh Tuyên Quang
,
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
dự Lễ phát động thi đua và Tết trồng cây năm 2023 tỉnh Tuyên Quang.
Cùng dự có các đồng chí lãnh đạo các cơ quan của Quốc hội, ban, bộ, ngành ở Trung ương và tỉnh Tuyên Quang.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu.
Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, tại vùng đất ATK Việt Bắc, năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc và cổ vũ: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất”.
“Suốt 75 năm qua, tinh thần ấy là động lực to lớn của phong trào thi đua yêu nước phát triển không ngừng, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, dựng nên cơ đồ đất nước hôm nay”, Chủ tịch Quốc hội nói.
Chủ tịch Quốc hội vui mừng ghi nhận, cùng với cả nước, phong trào thi đua yêu nước của tỉnh Tuyên Quang không ngừng đổi mới, sáng tạo, thiết thực và đạt được nhiều kết quả to lớn, tạo nên những đổi thay mạnh mẽ.
Đặc biệt, Tuyên Quang là tỉnh đi đầu cả nước về bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp. Diện tích đất lâm nghiệp chiếm 76% diện tích tự nhiên, trong đó diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ chiếm 37,8%.
Chủ tịch Quốc hội tham gia Tết trồng cây tại Tuyên Quang.
Tỉnh thực hiện tốt quy hoạch phân 3 loại rừng; triển khai tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng; trồng mới trên 11 nghìn héc-ta hằng năm; hình thành vùng rừng nguyên liệu với gần 200 nghìn héc-ta, tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 65%; duy trì hệ sinh thái đa dạng, bền vững, góp phần quan trọng bảo tồn nguồn gen và tạo nguồn sinh thủy; chủ động phòng chống một cách hiệu quả lụt bão, hạn hán, sạt lở… cho vùng trung du Bắc Bộ.
Những năm gần đây, Tuyên Quang tiếp tục phát huy hiệu quả thế mạnh về phát triển kinh tế lâm nghiệp; tạo cơ chế thu hút nhiều nhà đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao từ gỗ rừng trồng, được thị trường trong nước và các thị trường Nhật Bản, châu Âu, Mỹ ưa chuộng.
Tốc độ tăng trưởng của ngành lâm nghiệp bình quân đạt 9%/năm, đóng góp trên 4%/năm giá trị tăng trưởng GRDP của tỉnh, tạo việc làm cho hàng trăm nghìn lao động.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao và nhiệt liệt chúc mừng những kết quả quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang trong phong trào thi đua yêu nước và công tác trồng rừng, bảo vệ rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp.
Sang năm 2023, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các cấp, các ngành tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh đồng bộ, thiết thực và hiệu quả hơn nữa phong trào thi đua yêu nước gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; không ngừng phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, hợp lực của toàn dân thực hiện tốt các nghị quyết của Ðảng, nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách năm 2023 nhằm khai thác mọi tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh phát triển toàn diện kinh tế – xã hội, bảo đảm an sinh xã hội với mục tiêu trung tâm là nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.
Chủ tịch Quốc hội đánh trống phát động phong trào thi đua tại tỉnh Tuyên Quang.
Từng ngành, từng địa phương, mỗi tổ chức, mỗi cơ quan, đơn vị tiếp tục xác định và chỉ đạo chặt chẽ các phong trào thi đua với mục tiêu thi đua rõ ràng, nội dung phù hợp, biện pháp khả thi nhằm thu hút sâu rộng mọi tầng lớp, lứa tuổi, trải khắp mọi ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn, làm cho phong trào thi đua thực sự trở thành nếp sống hằng ngày, trở thành nhu cầu bằng các lợi ích thiết thân; cổ vũ thực hành tiết kiệm, hăng hái phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, cải cách hành chính; nhất là làm tốt công tác phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng các mô hình hiệu quả; đổi mới công tác khen thưởng, tạo động lực nội sinh cổ vũ các tổ chức, mọi cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo vị trí và trách nhiệm của mình, thiết thực kỷ niệm 75 năm Ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái quốc (11-6-1948/11-6-2023).
Chủ tịch Quốc hội cho rằng, Xuân Quý Mão 2023 tiếp tục là “Tết trồng cây” từ Xuân Canh Tý tròn 63 năm trước theo tiếng gọi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu; là sự cam kết của chúng ta thực hiện yêu cầu của Ban Bí thư tại Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12-1-2017 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng nhằm xây dựng một “nền kinh tế xanh”, phát triển đất nước hài hòa và bền vững.
Chủ tịch Quốc hội và nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội đề nghị thực hiện cho kỳ được vấn đề cốt lõi nhất: Những người trồng rừng phải sống được bằng rừng và giàu lên từ rừng, quyết tâm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Tuyên Quang là Trung tâm lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao và trung tâm sản xuất, chế biến gỗ vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ theo yêu cầu tại Nghị quyết 11-NQ/TW, ngày 10-2-2022, của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.
|
On the morning of January 30, in Truong Son village, Chan Son commune,
Yen Son district
,
Tuyen Quang province
,
Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue
Attending the Emulation Launching Ceremony and Tree Planting Festival 2023 in Tuyen Quang province.
Also attending were leaders of agencies of the National Assembly, departments, ministries and branches at the Central Government and Tuyen Quang province.
National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue spoke.
Speaking at the ceremony, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue said that in the land of ATK Viet Bac, in 1948, President Ho Chi Minh called for patriotic emulation and encouraged: "Emulation is patriotism, If you love your country, you have to compete, and those who compete are the most patriotic."
“For the past 75 years, that spirit has been a great driving force of the constantly developing patriotic emulation movement, contributing to great achievements of historical significance in the cause of building and protecting the Fatherland. Vietnam, building the country's fortune today," said the National Assembly Chairman.
The Chairman of the National Assembly was pleased to note that, along with the whole country, the patriotic emulation movement of Tuyen Quang province is constantly innovative, creative, practical and achieves many great results, creating strong changes. .
In particular, Tuyen Quang is the leading province in the country in forest protection and forestry economic development. The area of forestry land accounts for 76% of the natural area, of which the area of special-use forests and protection forests accounts for 37.8%.
Chairman of the National Assembly participates in the Tree Planting Festival in Tuyen Quang.
The province has well implemented the planning of 3 types of forests; Implement well the work of forest protection and development; New planting of over 11 thousand hectares annually; Forming a raw forest area with nearly 200 thousand hectares, the forest coverage rate is over 65%; maintain a diverse and sustainable ecosystem, making an important contribution to preserving genetic resources and creating aquatic resources; proactively and effectively prevent floods, droughts, landslides... for the Northern midland region.
In recent years, Tuyen Quang has continued to effectively promote its strengths in forestry economic development; creating a mechanism to attract many investors to build processing factories, creating many products with high economic value from planted forest wood, favored by the domestic market and the Japanese, European, and American markets. .
The average growth rate of the forestry industry reaches 9%/year, contributing over 4%/year to the province's GRDP growth value, creating jobs for hundreds of thousands of workers.
On behalf of the Party and State leaders, the Chairman of the National Assembly acknowledged, appreciated and warmly congratulated the important results of the Party, government and people of all ethnic groups in Tuyen Quang province in the love emulation movement. water and afforestation, forest protection and forestry economic development.
In 2023, the Chairman of the National Assembly requested all levels and sectors to continue to innovate and promote more synchronously, practically and effectively the patriotic emulation movement associated with studying and following ideology and ethics. , Ho Chi Minh style; Continuously promote the spirit of solidarity, the strength of the entire political system, the consensus and synergy of the entire people to well implement the Party's resolutions and the National Assembly's resolutions on socio-economic development and The 2023 budget aims to exploit all potentials and advantages, promote comprehensive socio-economic development, and ensure social security with the central goal of improving all aspects of people's lives.
The Chairman of the National Assembly beat the drum to launch the emulation movement in Tuyen Quang province.
Each industry, each locality, each organization, each agency and unit continues to identify and closely direct emulation movements with clear emulation goals, appropriate content, and feasible measures to attract revenue. Deeply attracts all classes and ages, spreads across all professions, fields, and areas, making the emulation movement truly become a daily lifestyle, a need with tangible benefits; encourage thrift practices, actively prevent and combat corruption, waste, negativity, and administrative reform; especially do a good job of discovering, fostering and replicating effective models; innovate the work of rewarding and creating internal motivation to encourage organizations and individuals to successfully complete tasks according to their positions and responsibilities, practically commemorating the 75th anniversary of Uncle Ho's call for competitions. patriotic race (June 11, 1948/June 11, 2023).
The Chairman of the National Assembly said that Spring Quy Mao 2023 will continue to be the "Tree Planting Festival" since Spring Canh Ty 63 years ago according to the call of the People's Republic of China.
Ho Chi Minh president
Dear; is our commitment to implement the Secretariat's request in Directive Không. 13-CT/TW dated January 12, 2017 on strengthening the Party's leadership in management, protection and development. forests to build a "green economy" and develop the country harmoniously and sustainably.
Chairman of the National Assembly and people of Tuyen Quang province.
On this occasion, the Chairman of the National Assembly proposed to fully implement the most core issue: Forest growers must be able to live from forests and get rich from forests, determined to realize the goal of building Tuyen Quang as a center High-tech applied forestry and wood production and processing center in the Northern Midlands and Mountains as required in Resolution 11-NQ/TW, dated February 10, 2022, of the Politburo on the direction socio-economic development, ensuring national defense and security in the Northern Midlands and Mountains until 2030, with a vision to 2045.
|
Cựu binh Mỹ Peter Mathews đang giữ cuốn nhật ký của một người lính Việt Nam trong chiến tranh. Ông mong muốn tìm tung tích tác giả cuốn nhật ký đó, có tên là Cao Xuân Tuất, ở Hà Tĩnh.
Báo NorthJersey ngày 27/1/2023 đăng bài của Megan Burrow về câu chuyện một cựu binh Mỹ, hiện đang giữ cuốn nhật ký của một người lính Việt Nam, mong muốn tìm tung tích tác giả của cuốn nhật ký đó.
(Ảnh:
“Tôi không nghĩ cuốn sổ có thông tin hay bí mật quân sự. Dù sao tôi cũng không cho ai xem, chỉ để nó trong túi của mình.”
(Ảnh:
Khi giải ngũ, trở về nhà ở New Jersey, Mathews kết hôn, lập gia đình và mở một doanh nghiệp ngành xây dựng. Cuốn nhật ký nhỏ dài 93 trang được đặt trong một chiếc hộp trên gác mái của nhà Mathews ở Bergenfield.
Giờ đây, sau hơn nửa thế kỷ, Peter Mathews, hiện đã 77 tuổi, đang tìm kiếm tác giả của cuốn nhật ký hoặc những người thân còn sống của người lính Việt Nam ấy.
Ước mơ của Mathews lúc này là có thể tìm thấy chủ nhân của cuốn nhật ký.
Pater Mathews là người gốc Hà Lan, đến Hoa Kỳ năm 1963. Anh sống ở Teaneck và làm những công việc lặt vặt trong khi chờ lấy thẻ xanh. Năm 1966, Mathews nhập ngũ vào Quân đội Hoa Kỳ.
Sang Việt Nam, Mathews là một xạ thủ súng máy. Sau 5 tháng, Mathews trở thành tiểu đội trưởng ở Sư đoàn Kỵ binh số 1.
Michael Rockland, giáo sư Nghiên cứu Hoa Kỳ tại Đại học Rutgers, người có thâm niên giảng dạy về chiến tranh, cho biết vào cuối năm 1967, khi Mathews tìm thấy cuốn nhật ký, cuộc chiến ở Việt Nam đang ở đỉnh điểm của sự khốc liệt.
Trận Đăk Tô tháng 11 năm 1967 là một trận đánh ác liệt kéo dài hàng tháng trời trên địa hình Tây Nguyên hoang vu. Mathews kể, những người lính Việt thường để ba lô của họ ở một khu vực tập kết thay vì vác theo ba lô nặng lên đồi khi chiến đấu với lính Mỹ. Cuốn nhật ký được tìm thấy ở trong một ba lô dưới chân đồi 724 (tên đồi được đặt theo độ cao của nó so với mực nước biển), chiếc ba lô nằm rải rác giữa một đống ba lô và thi thể của một số người lính. Chiếc ba lô không ở bên cạnh một người nào, cho nên Mathews cũng không biết chủ nhân của nó là ai, ở đâu, còn sống hay đã chết.
Grant Coates, chủ tịch Ủy ban các vấn đề về POW/MIA của Cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam, cho rằng thông tin cuốn sổ nhật ký được tìm thấy trong một trận đánh lớn như vậy có thể giúp ích cho việc tìm kiếm chủ nhân của nó.
Thông qua một chương trình có tên là Sáng kiến Cựu chiến binh, Coates làm việc với các đối tác ở Việt Nam để tìm kiếm thi thể của những người lính mất tích trong chiến tranh. Trong 29 năm của chương trình, thông qua các vật dụng cá nhân mà các cựu chiến binh mang về nhà và bản đồ các trận đánh được vẽ bằng tay, sáng kiến này đã cung cấp thông tin về các địa điểm có thể có của khoảng 14.000 hài cốt bộ đội Việt Nam.
Ông Coates cho biết, trong khi ở Hoa Kỳ có nhiều nhóm cựu chiến binh thì ở Việt Nam chỉ có một tổ chức duy nhất là Hội Cựu chiến binh Việt Nam, với hơn 3 triệu thành viên. Do vậy, hồ sơ được phía Việt Nam lưu giữ rất tỉ mỉ về các đơn vị. Do vậy, nếu được phía Việt Nam hỗ trợ, hy vọng sẽ sớm tìm được tác giả của cuốn nhật ký.
Coates cho biết nhiều cựu chiến binh Mỹ trong những năm gần đây xem xét lại những kỷ vật chiến tranh của mình, muốn khép lại tất cả và cho rằng đây là lúc để trả lại những món đồ gắn với kỷ niệm chiến trường về đúng nơi của nó.
Mathews cũng vậy, từ Việt Nam trở về Mỹ, thỉnh thoảng ông lấy cuốn nhật ký ra khỏi nơi lưu giữ để cho các thành viên trong gia đình xem, nhưng ông không bao giờ nói nhiều về trải nghiệm chiến tranh của mình với 4 người con, giờ đã ở độ tuổi 40, 50. Cuốn sổ nằm trong một cái hộp, đặt trên căn gác mái và đôi khi ông cũng quên.
Cách đây hơn 1 năm, khi Mathews làm việc tại Upper Saddle River, khi tới một văn phòng đặt tại nhà của một khách hàng, ông bắt gặp chiếc nón lá Việt Nam. Điều đó khơi mào cho cuộc trò chuyện giữa ông với vị khách hàng này, người đã nhận nuôi hai đứa trẻ từ Việt Nam và đã đến thăm đất nước này nhiều lần. Mathews mang cuốn nhật ký tới nhà của người khách hàng đó, ông này lại nhờ bạn của mình dịch một số trang. Sau đó Mathews bắt đầu đăng các trang trong cuốn nhật ký lên mạng xã hội với hy vọng thu thập được thêm thông tin. Ông nhận được phản hồi từ một giáo sư tại Harvard, người quan tâm đến việc cùng sinh viên của mình nghiên cứu cuốn nhật ký, và có một nhà sưu tập đã đề nghị trả 1.200 đô la để mua cuốn sổ đó.
Andrew Phạm, người đã dịch “Tôi mơ về hòa bình,” cuốn nhật ký thời chiến của nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm và nhà báo Frances Fitzgerald, người viết nhiều về chiến tranh Việt Nam và từng viết lời giới thiệu cho cuốn sách; cả hai đều đưa ra lời khuyên Mathews xem xét việc xuất bản cuốn nhật ký.
Khi một số trang trong cuốn nhật ký được dịch, Mathews bất ngờ khi trong đó có ghi tên của người lính là Cao Xuân Tuất, cũng như địa chỉ của người đó tại một xã thuộc
huyện Kỳ Anh
,
tỉnh Hà Tĩnh
. Mathews cũng biết khu vực này bị ném bom nặng nề trong chiến tranh và nhiều người đã rời đi nơi khác sinh sống. Do vậy việc tìm kiếm thân nhân của người lính có thể sẽ khó khăn. Mathews dự định tạo một trang web, nơi ông sẽ đăng những bức ảnh và những trang của cuốn nhật ký.
Trong cuốn nhật ký có thơ ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh, có những trang người lính viết về lòng căm thù kẻ địch ở bên kia chiến tuyến. Người đó cũng viết về tình yêu của mình dành cho gia đình và rằng mình có thể sẽ có rất ít cơ hội được gặp lại người thân. Càng xem kỹ cuốn nhật ký, mà giờ đây vẫn được để nguyên trong lớp bìa bọc nylon, các trang giấy giờ đã ròn, cũ theo thời gian- đã làm dấy lên trong Mathews những cảm xúc phức tạp.
“Tôi đã cố không nghĩ về Việt Nam trong một thời gian dài. Giờ đây cuốn nhật ký gợi lại những ký ức và cảm xúc khó quên. Nhưng có lẽ điều đó là tốt, vì bây giờ tôi có thể nói về Việt Nam, về chiến tranh. Tôi có một nỗi buồn, nhưng không có hận thù. Đây là một con người, giống như bất kỳ ai khác”.
|
American veteran Peter Mathews is keeping the diary of a Vietnamese soldier during the war. He wanted to find the whereabouts of the author of that diary, named Cao Xuan Tuat, in Ha Tinh.
NorthJersey newspaper on January 27, 2023 published an article by Megan Burrow about the story of an American veteran who currently holds the diary of a Vietnamese soldier, wishing to find the whereabouts of the author of that diary.
(Image:
“I don't think the notebook contains military information or secrets. I didn't show it to anyone anyway, I just kept it in my pocket.”
(Image:
Upon discharge, returning home to New Jersey, Mathews got married, started a family and opened a construction business. The small 93-page diary was kept in a box in the attic of the Mathews home in Bergenfield.
Now, more than half a century later, Peter Mathews, now 77 years old, is searching for the author of the diary or the living relatives of that Vietnamese soldier.
Mathews' dream now is to find the owner of the diary.
Pater Mathews is a native of the Netherlands who came to the United States in 1963. He lived in Teaneck and worked odd jobs while waiting to get his green card. In 1966, Mathews enlisted in the United States Army.
Coming to Vietnam, Mathews was a machine gunner. After 5 months, Mathews became a squad leader in the 1st Cavalry Division.
Michael Rockland, a professor of American Studies at Rutgers University who has long taught about the war, said that in late 1967, when Mathews found the diary, the war in Vietnam was at its peak. intense.
The Battle of Dak To in November 1967 was a fierce battle that lasted for months on the desolate terrain of the Central Highlands. Vietnamese soldiers often left their backpacks in an assembly area instead of carrying heavy backpacks up hills when fighting American soldiers, Mathews said. The diary was found in a backpack at the foot of Hill 724 (the hill is named after its height above sea level), the backpack was scattered among a pile of backpacks and the bodies of several people. soldier. The backpack was not next to anyone, so Mathews did not know who its owner was, where he was, whether he was alive or dead.
Grant Coates, chairman of the Vietnam Veterans of America POW/MIA Affairs Committee, said that diary information found during such a major battle could help in the search. Its owner.
Through a program called the Veterans Initiative, Coates worked with partners in Vietnam to recover the bodies of soldiers missing from the war. During the program's 29 years, through personal items that veterans brought home and hand-drawn battle maps, the initiative has provided information about the possible locations of approximately 14,000 remains of Vietnamese soldiers.
Mr. Coates said that while in the United States there are many veteran groups, in Vietnam there is only one organization, the Vietnam Veterans Association, with more than 3 million members. Therefore, records are kept meticulously by the Vietnamese side about the units. Therefore, if supported by the Vietnamese side, we hope to soon find the author of the diary.
Coates said many American veterans in recent years have looked back at their war memorabilia, wanting closure and thinking this is the time to return items associated with battlefield memories to the right place. its.
Mathews, too, returned to the US from Vietnam. He occasionally took the diary out of storage to show family members, but he never talked much about his war experiences with the four people. children, now in their 40s and 50s. The notebook is in a box, placed in the attic and sometimes he forgets it.
More than a year ago, when Mathews worked in Upper Saddle River, when he went to an office located in a customer's home, he encountered a Vietnamese conical hat. That sparked a conversation between him and this customer, who had adopted two children from Vietnam and had visited the country many times. Mathews brought the diary to the customer's home, who in turn asked his friend to translate some of the pages. Mathews then began posting pages from the diary on social media in hopes of gathering more information. He heard back from a professor at Harvard who was interested in researching the diary with his students, and a collector offered $1,200 for it.
Andrew Pham, who translated “I Dream of Peace,” the wartime diary of female doctor Dang Thuy Tram, and journalist Frances Fitzgerald, who wrote extensively about the Vietnam War and wrote the introduction to the book; both advised Mathews to consider publishing the diary.
When some pages in the diary were translated, Mathews was surprised to see that the soldier's name was Cao Xuan Tuat, as well as that person's address in a commune in
Ky Anh district
,
Ha Tinh province
. Mathews also knew that the area was heavily bombed during the war and many people had left to live elsewhere. Therefore, finding the soldier's relatives may be difficult. Mathews plans to create a website where he will post photos and pages from the diary.
In the diary, there are poems praising leader Ho Chi Minh, and there are pages where soldiers write about their hatred for the enemy on the other side of the front line. The person also wrote about his love for his family and that he would likely have little chance of seeing his loved ones again. The closer he looked at the diary, which was still in its original nylon cover, the pages now brittle and worn out over time - aroused complex emotions in Mathews.
“I tried not to think about Vietnam for a long time. Now the diary evokes unforgettable memories and emotions. But maybe that's good, because now I can talk about Vietnam, about the war. I have sadness, but no hatred. This is a human being, just like anyone else.”
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.