vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 1 dưới đây: Quá trình tạo lập văn bản được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo để hiểu rõ về các bước tạo lập văn bản để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. Mời các bạn cùng tham khảo Soạn bài quá trình tạo lập văn bản mà chúng tôi sưu tầm được. I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Các bước tạo lập văn bản Khi có nhu cầu tạo lập văn bản, người viết phải tiến hành theo các bước sau: a) Định hướng tạo lập văn bản; Đây là khâu quan trọng, có ý nghĩa tiên quyết đối với việc tạo lập một văn bản. Để định hướng cho quá trình tạo lập văn bản, cần phải xác định các vấn đề xoay quanh những câu hỏi sau: b) Tìm ý và sắp xếp thành dàn ý theo bố cục rõ ràng, hợp lí đáp ứng những yêu cầu định hướng trên. Từ những nội dung đã xác định được trong bước định hướng, đến đây, người tạo lập văn bản tiến hành thiết lập hệ thống các ý, sắp xếp chúng theo bố cục hợp lí, đảm bảo liên kết nội dung, mạch lạc văn bản. c) Viết thành văn bản hoàn chỉnh. Đây là khâu trực tiếp cho ra “sản phẩm”. Người tạo lập văn bản dùng lời văn của mình diễn đạt các ý thành câu, đoạn, phần hoàn chỉnh. Ở bước này, các phương tiện liên kết hình thức được huy động để triển khai chủ đề, thể hiện liên kết nội dung, đảm bảo mạch lạc cho văn bản. Việc viết thành văn cần đạt được tất cả các yêu cầu: đúng chính tả, đúng ngữ pháp, dùng từ chính xác, sát bố cục, có tính liên kết, mạch lạc, kể chuyện hấp dẫn, lời văn trong sáng. d) Kiểm tra lại văn bản. Đây là khâu cuối cùng của quá trình tạo lập văn bản. “Sản phẩm” phải được kiểm tra lại, điều chỉnh những nội dung, cách diễn đạt chưa hợp lí, sửa các lỗi về dùng từ, đặt câu, viết đoạn, chuyển ý,… Lưu ý: Xem lại những kiến thức về liên kết, bố cục, mạch lạc. II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Hãy trả lời các câu hỏi sau để tự kiểm tra lại các văn bản mà em đã tạo lập: a) Điều em muốn nói trong các văn bản ấy có thực sự cần thiết không? b) Các văn bản đã hướng tới những đối tượng giao tiếp cụ thể chưa? Việc sử dụng ngôi nhân xưng đã phù hợp với đối tượng (nghe, đọc) ấy chưa? c) Em có lập dàn bài trước khi viết (nói) các văn bản ấy không? Các văn bản ấy thường được bố cục như thế nào? Đã chú ý tới nhiệm vụ của từng phần trong bố cục chung của văn bản chưa? d) Sau khi hoàn thành văn bản, em có kiểm tra lại không? Kiểm tra những gì và đã từng sửa chữa ra sao? Gợi ý: Đọc lại các bài viết của mình, nhớ lại các bước đã tiến hành khi làm. Tham khảo bài văn và xem gợi ý ở phần trước để tự đối chiếu với các văn bản đã tạo lập. 2. Dưới dạng văn bản báo cáo thành tích học tập trong Hội nghị học tốt của trường, có bạn đã làm như sau: (1) Chỉ kể lại việc mình đã học như thế nào và đã đạt được thành tích gì trong học tập. (2) Mở đầu mỗi đoạn đều có câu “Thưa các thầy cô” và liên tục xưng là “em” hoặc “con” trong lời văn. Theo em, làm như thế có đúng không? Cần phải điều chỉnh như thế nào? Gợi ý: Xem lại bài Bố cục trong văn bản, mục II – 3 và lưu ý ở đây không chỉ là thuật lại công việc học tập rồi kể ra những thành tích của mình mà quan trọng còn là biết rút ra kinh nghiệm, cách học để các bạn cùng tham khảo, học tập; không nên dùng nhiều những câu mang tính khẩu ngữ như “Thưa các thầy các cô”, chỉ nên nói câu này ở phần Mở bài và phần Kết bài; tránh dùng quá nhiều những đại từ nhân xưng như “em” hoặc “con”, nếu dùng, nên dùng “em”, hơn nữa, đối tượng giao tiếp mà văn bản hướng tới không chỉ có các thầy cô giáo mà còn có các đại biểu, các bạn học sinh nên xưng hô phải hướng tới tất cả các đối tượng ấy. 3. Muốn tạo lập một văn bản thì phải tiến hành lập dàn bài, xây dựng bố cục. Hãy trả lời các câu hỏi sau để rút ra cách làm một dàn bài: a) Dàn bài có bắt buộc phải viết thành những câu hoàn chỉnh, đầy đủ như khi viết văn bản không? Có phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt sự liên kết không? b) Làm thế nào để phân biệt các nội dung tương ứng với các đề mục lớn, nhỏ? Làm thế nào để biết được các ý trong từng mục đã đủ chưa và đã sắp xếp rành mạch, hợp lí chưa? Gợi ý: 4. Dưới vai En-ri-cô, em hãy viết một bức thư cho bố nói lên nỗi ân hận của mình vì trót thiếu lễ độ với mẹ. Gợi ý: Trước hết phải xác định được định hướng tạo lập văn bản thông qua việc trả lời các câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết như thế nào? Đối tượng hướng tới ở đây là người bố, con viết cho bố; mục đích là viết để bày tỏ sự ân hận, mong bố tha lỗi; đề tài là viết về việc đã trót thiếu lễ độ với mẹ và suy nghĩ của mình trước lỗi lầm đó. Lưu ý: văn bản này viết dưới dạng một bức thư, nhân xưng ngôi thứ nhất – “con” – En-ri-cô, trò chuyện trực tiếp với bố. Các ý chính sẽ là: kể lại sơ lược về hành động thiếu lễ độ của mình đối với mẹ; suy nghĩ của mình sau khi nhận được thư của bố; bày tỏ sự ân hận; bày tỏ lòng kính trọng, thương yêu bố mẹ; hứa sẽ không bao giờ có hành động như thế nữa,…
Instruct The lesson preparation for Literature subject grade 7, semester 1 is below: The process of creating a text is collected and introduced by VnDoc for students to refer to to clearly understand the steps of creating a text to prepare well for the lesson. of my upcoming new semester. We invite you to take a look at the preparation process of the documents we have collected. I. BASIC KNOWLEDGE 1. Steps to create a document When there is a need to create a document, the writer must follow these steps: a) Orientation for creating documents; This is an important step, which has a prerequisite meaning for creating a document. To guide the process of creating documents, it is necessary to identify issues surrounding the following questions: b) Find ideas and arrange them into an outline according to a clear and reasonable layout that meets the above orientation requirements. From the content identified in the orientation step, here, the document creator proceeds to establish a system of ideas, arrange them in a reasonable layout, ensuring content connection and text coherence. . c) Write in complete text. This is the direct step to produce the "product". The writer uses his or her own words to express ideas into complete sentences, paragraphs, and sections. In this step, formal means of connection are mobilized to develop the topic, show content links, and ensure the coherence of the text. Written writing must meet all the requirements: correct spelling, correct grammar, accurate word usage, close layout, cohesion, coherence, compelling storytelling, and clear writing. d) Check the text again. This is the final step of the document creation process. The "product" must be rechecked, adjusted to inappropriate content and expressions, corrected errors in word usage, sentence formation, paragraph writing, transitions, etc. Note: Review knowledge about links, layout, and coherence. II. PRACTISE SKILL 1. Answer the following questions to self-check the documents you have created: a) Is what you want to say in those documents really necessary? b) Are the documents aimed at specific communication audiences? Is the use of personal pronouns appropriate for the audience (listening, reading)? c) Did you make an outline before writing (speaking) those documents? How are those documents usually arranged? Have you paid attention to the tasks of each part in the general layout of the text? d) After completing the document, do you check it again? What was checked and how was it repaired? Suggestion: Reread your articles, recall the steps you took while working. Refer to the text and see the suggestions in the previous section to compare yourself with the documents you have created. 2. In the form of a written report on academic achievements in the school's Good Study Conference, some students did the following: (1) Just recount how you learned and what achievements you achieved in your studies. (2) At the beginning of each paragraph, there is the sentence "Dear teachers" and continuously address yourself as "me" or "son" in the text. In your opinion, is it correct to do so? What adjustments need to be made? Suggestion: Review the article Composition in Text, Sections II - 3 and note here that not only is it narrating your study work and listing your achievements, but it is also important to know how to draw from experience and how to study for your friends to refer to and study together; You should not use many verbal sentences like "Dear teachers", you should only say this sentence in the Introduction and Conclusion; Avoid using too many personal pronouns such as "you" or "con", if used, you should use "em", moreover, the communication audience that the text is aimed at is not only teachers but also other students. Representatives and students should address all of those subjects. 3. If you want to create a document, you must make an outline and build a layout. Answer the following questions to figure out how to make an outline: a) Is the outline required to be written in complete, complete sentences like when writing a text? Do we have to use linguistic means to express connection? b) How to distinguish the contents corresponding to large and small topics? How do you know if the ideas in each section are complete and arranged clearly and reasonably? Suggest: 4. Under the role of Enrique, write a letter to your father expressing your regret for being disrespectful to your mother. Suggestion: First of all, you must determine the direction of creating the document by answering the questions: Who are you writing for? What to write for? What to write about? How to write? The target audience here is the father, the child writes to the father; The purpose is to write to express regret and hope that my father will forgive me; The topic is to write about being disrespectful to my mother and my thoughts on that mistake. Note: this text is written in the form of a letter, speaking in the first person - "son" - Enrique, talking directly to his father. The main ideas will be: briefly recount your disrespectful actions towards your mother; my thoughts after receiving my father's letter; express regret; Express respect and love for parents; Promise to never act like that again...
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. TÌM HIỂU CHUNG VỀ PHÉP LẬP LUẬN GIẢI THÍCH 1. Mục đích và phương pháp giải thích a) Trong đời sống hàng ngày, có biết bao nhiêu là câu hỏi Vì sao? đặt ra đòi hỏi chúng ta phải có sự hiểu biết để trả lời, chẳng hạn: Vì sao lại có nguyệt thực? Vì sao nước biển lại mặn? Vì sao lá cây lại có màu xanh?… Trả lời những câu hỏi như thế, nghĩa là chúng ta đi giải thích một vấn đề. b) Trong văn nghị luận, việc giải thích thường gắn với những vấn đề khái quát có liên quan đến tư tưởng, đạo lí, các chuẩn mực đạo đức, lối sống,… Chẳng hạn: Tình bạn là gì? Thế nào là trung thực? Vì sao phải khiêm tốn? Thế nào là Có chí thì nên?… c) Đọc bài văn sau đây và trả lời các câu hỏi. LÒNG KHIÊM TỐN Lòng khiêm tốn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật. Điều quan trọng của khiêm tốn là chính nó đã tự nâng cao giá trị cá nhân của con người trong xã hội. Khiêm tốn là biểu hiện của con người đứng đắn, biết sống theo thời và biết nhìn xa. Con người khiêm tốn bao giờ cũng là người thường thành công trong lĩnh vực giao tiếp với mọi người. Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhất của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác. Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa. Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa. Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu cũng luôn luôn phải học thêm, học mãi mãi. Tóm lại, con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đối với mọi người. Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên con đường đời. (Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế) Bài văn giải thích vấn đề gì? Gợi ý: Nhan đề của bài văn có tác dụng nêu lên vấn đề giải thích không? Hãy tìm những câu ở dạng định nghĩa như: Lòng khiêm tốn có thể coi là một bản tính,… Thử nhận xét về cách giải thích của bài văn này. Gợi ý: Những câu ở dạng định nghĩa: Cách giải thích: Để giải thích về “lòng khiêm tốn”, tác giả đã nêu ra những nhận định mang tính định nghĩa về lòng khiêm tốn, liệt kê các biểu hiện của lòng khiêm tốn, so sánh giữa người khiêm tốn và kẻ không khiêm tốn. Đây cũng chính là các cách giải thích. Chỉ ra cái lợi của khiêm tốn – cái hại của không khiêm tốn, nguyên nhân của thói không khiêm tốn chính là nội dung giải thích. Vậy thế nào là văn giải thích? Giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ,… cần được giải thích, qua đó nâng cao nhận thức, bồi dưỡng trí tuệ, tình cảm cho con người. Để giải thích một vấn đề nào đó, người ta thường sử dụng cách nêu định nghĩa, liệt kê những biểu hiện, so sánh với các hiện tượng cùng loại khác, chỉ ra cái lợi, cái hại, nguyên nhân, hậu quả, cách phát huy hoặc ngăn ngừa,… Không nên dùng những cái khó hiểu hoặc không ai hiểu để giải thích những điều người ta chưa hiểu, cần hiểu. 1. Các bài văn dưới đây giải thích vấn đề gì? Hãy tóm tắt những ý chính mà người viết dùng để giải thích cho các vấn đề đó. LÒNG NHÂN ĐẠO Lòng nhân đạo tức là lòng biết thương người. Thế nào là lòng biết thương người và thế nào là lòng nhân đạo? Hằng ngày chúng ta thường có dịp tiếp xúc với đời sống bên ngoài, trước mắt chúng ta, loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ. Từ một ông lão già nua răng long tóc bạc, lẽ ra phải được sống trong sự chăm sóc đùm bọc của con cháu, thế mà ông lão ấy phải sống kiếp đời hành khất sống bằng của bố thí của kẻ qua đường, đến một đứa trẻ thơ, quá bé bỏng mà lại sống bằng cách đi nhặt từng mẩu bánh của người khác ăn dở, thay vì được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ… Những hình ảnh ấy và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương, và tìm cách giúp đỡ. Đó chính là lòng nhân đạo. Con người cần phải phát huy lòng nhân đạo của mình đối với mọi người xung quanh. Thánh Găng-đi có một phương châm: “Chinh phục được mọi người ai cũng cho là khó, nhưng tạo được tình thương, lòng nhân đạo, sự thông cảm giữa con người với con người lại càng khó hơn. Điều kiện duy nhất để tạo sự kính yêu và mến phục đối với quần chúng, tốt nhất là phải làm sao phát huy lòng nhân đạo đến cùng và tột độ vậy”. (Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa và xử thế) Gợi ý: Giải thích vấn đề “lòng nhân đạo”; Các ý chính: ÓC PHÁN ĐOÁN VÀ ÓC THẨM MĨ Chính Xanh-tơ Bơ-vơ cũng đã nói: “Tôi biết nhiều người có óc phán đoán rất đúng mà đồng thời lại thiếu óc thẩm mĩ, vì óc thẩm mĩ biểu hiện một cái gì tinh vi nhất, thuộc về bản năng nhất trong cái chỗ tế nhị mơ hồ nhất của các giác quan của ta”. Muốn thưởng thức một bài văn, ta đọc nó chầm chậm một hai lần, xem có cảm thấy cái hay của nó không đã; khi cảm được rồi, ta mới tìm hiểu nó hay ở chỗ nào. Ta dùng trái tim của ta trước rồi sau mới dùng lí trí. Nếu lòng ta không cảm thì càng phân tích lại càng không hiểu được gì cả. Văn học khác khoa học ở chỗ đó; và óc thẩm mĩ khác óc phán đoán cũng ở chỗ đó: một đằng là sự ưa thích của lòng, một đằng là sự sáng suốt của óc, một đằng cần nhiều cảm thụ tính, một đằng cần nhiều luận lí tính. Nói vậy không phải là óc thẩm mĩ và óc phán đoán tương phản nhau mà ta không bao giờ dùng lí trí để hiểu được cái đẹp đâu. Vẫn có nhiều cái đẹp có thể giảng được và ai cũng thấy nó hợp lí: chỉ một số tế nhị quá mới có những lí lẽ riêng của nó mà lí trí không sao phân tích nổi, và muốn nhận thức được, ta phải luyện mĩ cảm bằng cách sống thật nhiều, đọc nhiều tác phẩm bất hủ của mọi xứ và mọi thời. (Theo Nguyễn Hiến Lê, Hương sắc trong vườn văn) Gợi ý: Giải thích vấn đề mối quan hệ giữa phán đoán (lí trí) và thẩm mĩ (rung động thẩm mĩ); Các ý chính: TỰ DO VÀ NÔ LỆ Loài người hơn loài vật là có quyền tự do. Một con hổ đói nhảy xả vào bất cứ cái gì có thể ăn được bày ra trước mắt nó; một người đói trông thấy vật gì có thể ăn được còn biết suy xét có nên ăn hay không. Con hổ bị cái đói sai khiến không tự kiềm chế được mình; trái lại người ta không để cho cái đói có thể sai khiến được mình, như vậy là người ta được tự do theo ý muốn riêng. Quyền tự do là của quý báu nhất của loài người. Không có tự do người ta cũng chỉ như súc vật. Tự do đây không phải nghĩa là hoàn toàn muốn làm gì thì làm: một thứ tự do vô tổ chức và vô ý thức. Vì loài người sống thành đoàn thể, sống thành xã hội cho nên phải hiểu tự do có nghĩa là muốn làm gì thì làm, nhưng làm theo lẽ phải, theo lí trí, để không phạm tới sự tự do của người khác và không phạm đến quyền lợi chung của đoàn thể. Trái với tự do là nô lệ. Người nô lệ là người phải chịu phục tòng sự đè nén, sự sai khiến bất công của một người hay một thế lực nào khác mạnh hơn mình. Người nô lệ không còn có thể làm việc gì theo ý muốn của mình, theo tài năng của mình để mưu hạnh phúc cho mình nữa. Không tự do tức là chết. (Nghiêm Toản, Việt luận) Gợi ý: Giải thích vấn đề “tự do và nô lệ”; Các ý chính: 2. Nhận xét cách giải thích của các bài văn trên. Gợi ý: Sau khi đã nắm được vấn đề của từng bài, hệ thống hoá được các ý chính của từng bài, ta mới xem bài văn lập luận giải thích bằng cách nào. Tức là xem xét cách trình bày các ý, cách thiết lập mối quan hệ giữa các ý để giải thích cho vấn đề nêu ra.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Tìm hiểu chung về phép lập luận giải thích được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. TÌM HIỂU CHUNG VỀ PHÉP LẬP LUẬN GIẢI THÍCH 1. Mục đích và phương pháp giải thích a) Trong đời sống hàng ngày, có biết bao nhiêu là câu hỏi Vì sao? đặt ra đòi hỏi chúng ta phải có sự hiểu biết để trả lời, chẳng hạn: Vì sao lại có nguyệt thực? Vì sao nước biển lại mặn? Vì sao lá cây lại có màu xanh?… Trả lời những câu hỏi như thế, nghĩa là chúng ta đi giải thích một vấn đề. b) Trong văn nghị luận, việc giải thích thường gắn với những vấn đề khái quát có liên quan đến tư tưởng, đạo lí, các chuẩn mực đạo đức, lối sống,… Chẳng hạn: Tình bạn là gì? Thế nào là trung thực? Vì sao phải khiêm tốn? Thế nào là Có chí thì nên?… c) Đọc bài văn sau đây và trả lời các câu hỏi. LÒNG KHIÊM TỐN Lòng khiêm tốn có thể được coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật. Điều quan trọng của khiêm tốn là chính nó đã tự nâng cao giá trị cá nhân của con người trong xã hội. Khiêm tốn là biểu hiện của con người đứng đắn, biết sống theo thời và biết nhìn xa. Con người khiêm tốn bao giờ cũng là người thường thành công trong lĩnh vực giao tiếp với mọi người. Vậy khiêm tốn là gì? Khiêm tốn là tính nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn luôn hướng về phía tiến bộ, tự khép mình vào những khuôn thước của cuộc đời, bao giờ cũng không ngừng học hỏi. Hoài bão lớn nhất của con người là tiến mãi không ngừng, nhưng không nhằm mục đích tự khoe khoang, tự đề cao cá nhân mình trước người khác. Người có tính khiêm tốn thường hay tự cho mình là kém, còn phải phấn đấu thêm, trau dồi thêm, cần được trao đổi, học hỏi nhiều thêm nữa. Người có tính khiêm tốn không bao giờ chịu chấp nhận sự thành công của cá nhân mình trong hoàn cảnh hiện tại, lúc nào cũng cho sự thành công của mình là tầm thường, không đáng kể, luôn luôn tìm cách để học hỏi thêm nữa. Tại sao con người lại phải khiêm tốn như thế? Đó là vì cuộc đời là một cuộc đấu tranh bất tận, mà tài nghệ của mỗi cá nhân tuy là quan trọng, nhưng thật ra chỉ là những giọt nước bé nhỏ giữa đại dương bao la. Sự hiểu biết của mỗi cá nhân không thể đem so sánh với mọi người cùng chung sống với mình. Vì thế, dù tài năng đến đâu cũng luôn luôn phải học thêm, học mãi mãi. Tóm lại, con người khiêm tốn là con người hoàn toàn biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công của cá nhân mình cũng như không bao giờ chấp nhận một ý thức chịu thua mang nhiều mặc cảm tự ti đối với mọi người. Khiêm tốn là một điều không thể thiếu cho những ai muốn thành công trên con đường đời. (Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa xử thế) Bài văn giải thích vấn đề gì? Gợi ý: Nhan đề của bài văn có tác dụng nêu lên vấn đề giải thích không? Hãy tìm những câu ở dạng định nghĩa như: Lòng khiêm tốn có thể coi là một bản tính,… Thử nhận xét về cách giải thích của bài văn này. Gợi ý: Những câu ở dạng định nghĩa: Cách giải thích: Để giải thích về “lòng khiêm tốn”, tác giả đã nêu ra những nhận định mang tính định nghĩa về lòng khiêm tốn, liệt kê các biểu hiện của lòng khiêm tốn, so sánh giữa người khiêm tốn và kẻ không khiêm tốn. Đây cũng chính là các cách giải thích. Chỉ ra cái lợi của khiêm tốn – cái hại của không khiêm tốn, nguyên nhân của thói không khiêm tốn chính là nội dung giải thích. Vậy thế nào là văn giải thích? Giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ,… cần được giải thích, qua đó nâng cao nhận thức, bồi dưỡng trí tuệ, tình cảm cho con người. Để giải thích một vấn đề nào đó, người ta thường sử dụng cách nêu định nghĩa, liệt kê những biểu hiện, so sánh với các hiện tượng cùng loại khác, chỉ ra cái lợi, cái hại, nguyên nhân, hậu quả, cách phát huy hoặc ngăn ngừa,… Không nên dùng những cái khó hiểu hoặc không ai hiểu để giải thích những điều người ta chưa hiểu, cần hiểu. 1. Các bài văn dưới đây giải thích vấn đề gì? Hãy tóm tắt những ý chính mà người viết dùng để giải thích cho các vấn đề đó. LÒNG NHÂN ĐẠO Lòng nhân đạo tức là lòng biết thương người. Thế nào là lòng biết thương người và thế nào là lòng nhân đạo? Hằng ngày chúng ta thường có dịp tiếp xúc với đời sống bên ngoài, trước mắt chúng ta, loài người còn đầy rẫy những cảnh khổ. Từ một ông lão già nua răng long tóc bạc, lẽ ra phải được sống trong sự chăm sóc đùm bọc của con cháu, thế mà ông lão ấy phải sống kiếp đời hành khất sống bằng của bố thí của kẻ qua đường, đến một đứa trẻ thơ, quá bé bỏng mà lại sống bằng cách đi nhặt từng mẩu bánh của người khác ăn dở, thay vì được cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ… Những hình ảnh ấy và thảm trạng ấy khiến cho mọi người xót thương, và tìm cách giúp đỡ. Đó chính là lòng nhân đạo. Con người cần phải phát huy lòng nhân đạo của mình đối với mọi người xung quanh. Thánh Găng-đi có một phương châm: “Chinh phục được mọi người ai cũng cho là khó, nhưng tạo được tình thương, lòng nhân đạo, sự thông cảm giữa con người với con người lại càng khó hơn. Điều kiện duy nhất để tạo sự kính yêu và mến phục đối với quần chúng, tốt nhất là phải làm sao phát huy lòng nhân đạo đến cùng và tột độ vậy”. (Theo Lâm Ngữ Đường, Tinh hoa và xử thế) Gợi ý: Giải thích vấn đề “lòng nhân đạo”; Các ý chính: ÓC PHÁN ĐOÁN VÀ ÓC THẨM MĨ Chính Xanh-tơ Bơ-vơ cũng đã nói: “Tôi biết nhiều người có óc phán đoán rất đúng mà đồng thời lại thiếu óc thẩm mĩ, vì óc thẩm mĩ biểu hiện một cái gì tinh vi nhất, thuộc về bản năng nhất trong cái chỗ tế nhị mơ hồ nhất của các giác quan của ta”. Muốn thưởng thức một bài văn, ta đọc nó chầm chậm một hai lần, xem có cảm thấy cái hay của nó không đã; khi cảm được rồi, ta mới tìm hiểu nó hay ở chỗ nào. Ta dùng trái tim của ta trước rồi sau mới dùng lí trí. Nếu lòng ta không cảm thì càng phân tích lại càng không hiểu được gì cả. Văn học khác khoa học ở chỗ đó; và óc thẩm mĩ khác óc phán đoán cũng ở chỗ đó: một đằng là sự ưa thích của lòng, một đằng là sự sáng suốt của óc, một đằng cần nhiều cảm thụ tính, một đằng cần nhiều luận lí tính. Nói vậy không phải là óc thẩm mĩ và óc phán đoán tương phản nhau mà ta không bao giờ dùng lí trí để hiểu được cái đẹp đâu. Vẫn có nhiều cái đẹp có thể giảng được và ai cũng thấy nó hợp lí: chỉ một số tế nhị quá mới có những lí lẽ riêng của nó mà lí trí không sao phân tích nổi, và muốn nhận thức được, ta phải luyện mĩ cảm bằng cách sống thật nhiều, đọc nhiều tác phẩm bất hủ của mọi xứ và mọi thời. (Theo Nguyễn Hiến Lê, Hương sắc trong vườn văn) Gợi ý: Giải thích vấn đề mối quan hệ giữa phán đoán (lí trí) và thẩm mĩ (rung động thẩm mĩ); Các ý chính: TỰ DO VÀ NÔ LỆ Loài người hơn loài vật là có quyền tự do. Một con hổ đói nhảy xả vào bất cứ cái gì có thể ăn được bày ra trước mắt nó; một người đói trông thấy vật gì có thể ăn được còn biết suy xét có nên ăn hay không. Con hổ bị cái đói sai khiến không tự kiềm chế được mình; trái lại người ta không để cho cái đói có thể sai khiến được mình, như vậy là người ta được tự do theo ý muốn riêng. Quyền tự do là của quý báu nhất của loài người. Không có tự do người ta cũng chỉ như súc vật. Tự do đây không phải nghĩa là hoàn toàn muốn làm gì thì làm: một thứ tự do vô tổ chức và vô ý thức. Vì loài người sống thành đoàn thể, sống thành xã hội cho nên phải hiểu tự do có nghĩa là muốn làm gì thì làm, nhưng làm theo lẽ phải, theo lí trí, để không phạm tới sự tự do của người khác và không phạm đến quyền lợi chung của đoàn thể. Trái với tự do là nô lệ. Người nô lệ là người phải chịu phục tòng sự đè nén, sự sai khiến bất công của một người hay một thế lực nào khác mạnh hơn mình. Người nô lệ không còn có thể làm việc gì theo ý muốn của mình, theo tài năng của mình để mưu hạnh phúc cho mình nữa. Không tự do tức là chết. (Nghiêm Toản, Việt luận) Gợi ý: Giải thích vấn đề “tự do và nô lệ”; Các ý chính: 2. Nhận xét cách giải thích của các bài văn trên. Gợi ý: Sau khi đã nắm được vấn đề của từng bài, hệ thống hoá được các ý chính của từng bài, ta mới xem bài văn lập luận giải thích bằng cách nào. Tức là xem xét cách trình bày các ý, cách thiết lập mối quan hệ giữa các ý để giải thích cho vấn đề nêu ra.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Luyện tập lập luận chứng minh được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. LUYỆN TẬP LẬP LUẬN CHỨNG MINH 1. Chuẩn bị ở nhà Cho đề văn: Chứng minh rằng nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn luôn sống theo đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”. a) Tìm hiểu đề và tìm ý b) Lập dàn ý c) Viết một số đoạn văn: Mở bài, đoạn chứng minh bằng phân tích lí lẽ, đoạn chứng minh bằng dẫn chứng thực tế, Kết bài. 2. Thực hành trên lớp a) Trình bày dàn ý đã chuẩn bị trước tổ hoặc nhóm theo sự hướng dẫn của thầy, cô giáo b) Chú ý tham khảo ý kiến của các bạn, cùng trao đổi về cách lập luận, về các dẫn chứng thực tế c) Ghi chép những nhận xét của thầy cô giáo để bổ sung, điều chỉnh dàn ý, lắng nghe các đoạn văn hay so sánh để hoàn thiện phần viết của mình. 1. Để lập dàn ý cho bài văn lập luận chứng minh với đề bài trên, em phải làm các bước với nội dung cụ thể như thế nào? Gợi ý: Luận điểm của bài văn không phải là tính đúng đắn của hai câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” mà là từ xưa đến nay nhân dân ta đã luôn luôn sống theo đạo lí đúng đắn được đúc kết trong hai câu này. Việc hiểu ý nghĩa của hai câu tục ngữ là để xác định cái đạo lí mà nhân ta luôn coi trọng ở đây là gì, từ đó mới có thể xác định được các lí lẽ, dẫn chứng cũng như định hướng lập luận cho phù hợp. 2. Xác định các ý cho từng phần (Mở bài, Thân bài, Kết luận) theo lập luận nhất định. Làm sao vừa đảm bảo được mối quan hệ chặt chẽ giữa các phần, vừa thiết lập được mối quan hệ giữa các đoạn trong phần Thân bài Có thể lập luận theo trình tự thời gian từ xưa đến nay, hoặc theo mức độ từ chung đến riêng, từ rộng đến hẹp của các dẫn chứng.
Instruct The following lesson preparation for Grade 7 Literature, Semester 2 with the lesson: Practicing arguments and proofs is collected and introduced by VnDoc for students to refer to and prepare well for their upcoming new semester's lectures. . PRACTICE PROOF ARGUMENTS 1. Prepare at home For the topic: Prove that the Vietnamese people from ancient times to present have always lived by the moral principle "When eating fruit, remember the person who planted the tree", "Drinking water, remember the source". a) Understand the topic and find ideas b) Make an outline c) Write some paragraphs: Introduction, paragraph proving by analyzing arguments, paragraph proving by actual evidence, Conclusion. 2. Practice in class a) Present the prepared outline to the group or group according to the guidance of the teacher b) Pay attention to consult your friends, discuss arguments and practical evidence c) Take notes of the teacher's comments to supplement and adjust the outline, listen to passages or compare to perfect your writing. 1. To create an outline for an argumentative essay to prove the above topic, what steps must you take with specific content? Suggest: The thesis of the essay is not the correctness of the two sentences "When eating fruit, remember the person who planted the tree" and "Drinking water, remember the source" but that from ancient times until now, our people have always lived according to the correct moral principles drawn up. in these two sentences. Understanding the meaning of the two proverbs is to determine what is the morality that people always value here, from there we can determine the arguments, evidence as well as orient the argument accordingly. . 2. Determine the ideas for each part (Introduction, Body, Conclusion) according to certain arguments. How to ensure a close relationship between parts and establish a relationship between paragraphs in the body of the essay? Arguments can be made in chronological order from past to present, or according to the level of evidence from general to specific, from broad to narrow.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây: Ca Huế trên sông Hương do Hà Ánh Minh sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu. Soạn bài mẫu bài Ca Huế trên sông Hương dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. CA HUẾ TRÊN SÔNG HƯƠNG (Hà Ánh Minh) Ca Huế trên sông Hương thuộc thể loại bút kí. Xét về tính chất, bút kí gần với tuỳ bút (xem thể loại tuỳ bút trong bài Một thứ quà của lúa non: cốm). Cả hai loại đều là thể kí, tức là những ghi chép về người thật, việc thật nhưng mang sắc thái trữ tình. Tuy nhiên, so với tuỳ bút thì bút kí thể hiện ý nghĩa khách quan rõ nét hơn. Trong bút kí, các nhân vật, sự kiện được miêu tả khá chi tiết. Tình cảm, thái độ của tác giả được thể hiện qua cách lựa chọn, miêu tả đối tượng. 1. Cố đô Huế là thành phố đẹp và cổ kính bên bờ sông Hương. Trong chương trình Ngữ văn đã có câu ca dao về xứ Huế: “Đường vô xứ Huế quanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ – Ai vô xứ Huế thì vô”. Đặc điểm của xứ Huế là Huế đẹp và Huế thơ, Huế mộng mơ. Giọng Huế dịu dàng. Người xứ Huế thanh lịch. Huế nổi tiếng với cung điện, lăng tẩm, núi Ngự, sông Hương, chùa Thiên Mụ,… 2. Các làn điệu dân ca Huế rất phong phú, đa dạng. Về các điệu hò thì có: chèo cạn, bài thai, đưa linh, giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung, hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện,… Các điệu hát có: lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam, nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân, tứ đại cảnh. Các nhạc cụ được nhắc tới gồm: đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam, đàn bầu, sáo, cặp sanh. 3. Sau khi đọc bài văn, người đọc biết Huế không chỉ nổi tiếng bởi danh lam thắng cảnh và các di tích lịch sử, Huế không chỉ nổi tiếng bởi nón bài thơ, các món ăn tinh tế, mà còn nổi tiếng bởi các làn điệu dân ca và âm nhạc cung đình. Nghe ca Huế trong thuyền rồng trên sông Hương là một thú tao nhã, đầy quyến rũ. 4. Về ca Huế: a) Ca Huế được hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình. b) Ca Huế sôi nổi, tươi vui, trang trọng, uy nghi chính là vì nó tiếp thu tính chất của hai dòng nhạc. Sôi nổi, tươi vui (có cả buồn cảm, bâng khuâng, tiếc thương ai oán) là có nguồn gốc từ nhạc dân gian. Còn trang trọng, uy nghi là có nguồn gốc từ nhạc cung đình. c*) Nghe ca Huế là một thú tao nhã bởi vì cách thức nghe ca trên thuyền rồng, trên dòng sông Hương thơ mộng giữa trời nước mênh mang đã là một cách thưởng thức độc đáo. Mặt khác, nội dung ca Huế trang trọng, trong sáng, gợi tình người, tình đất nước. Những lời ca đẹp đó lại được những ca sĩ duyên dáng, lịch sự của xứ Huế trình diễn với dàn nhạc phụ hoạ gồm những nhạc công điêu luyện, tài hoa. Nghe ca Huế để thêm hiểu, thêm yêu xứ Huế, cũng là thêm yêu đất nước mình. Bởi thế đó là một thú vui thanh cao và lịch sự. 1. Tóm tắt Huế nổi tiếng với các điệu hò, các làn điệu dân ca. Ca Huế trên sông Hương là một sinh hoạt văn hoá tao nhã, đầy sức quyến rũ, được các ca sĩ, nhạc công tài hoa biểu diễn trên thuyền rồng. 2. Cách đọc Với loại văn bản này, khi đọc cần thể hiện giọng điệu nhẹ nhàng, truyền cảm. Cần chú ý: trong bài, thủ pháp liệt kê thường xuyên được tác giả sử dụng nhằm làm rõ vẻ đẹp phong phú, đa dạng của ca Huế, cần đọc rõ ràng, rành mạch từng yếu tố để tăng ý nghĩa biểu cảm. 3. Tuỳ địa phương sinh sống mà mỗi học sinh có thể kể ra những làn điệu dân ca khác nhau của quê mình. Hãy thử tập hát theo những làn điệu ấy
Instruct The 7th grade Literature lesson, semester 2, is below: Ca Hue on the Perfume River composed by Ha Anh Minh is collected and introduced by VnDoc. Preparing a sample lesson of Ca Hue on the Perfume River below will help students refer to and prepare well for their upcoming new semester's lectures. SINGING HUE ON THE HUONG RIVER (Ha Anh Minh) Ca Hue on the Perfume River belongs to the memoir genre. In terms of nature, memoir is close to essay (see essay genre in the article A gift of young rice: green rice). Both types are memoirs, that is, records about real people and real things but with lyrical nuances. However, compared to autobiography, autographs express a clearer objective meaning. In the memoir, the characters and events are described in quite detail. The author's feelings and attitudes are expressed through the way he chooses and describes the subject. 1. Hue ancient capital is a beautiful and ancient city on the banks of the Perfume River. In the Literature program, there is a folk song about Hue: "The road to Hue is all around - The mountains are green and the water is as blue as a painting - Whoever comes to Hue will come." The characteristics of Hue are beautiful Hue, poetic Hue, dreamy Hue. Hue's voice is gentle. People from Hue are elegant. Hue is famous for its palaces, mausoleums, Ngu Mountain, Perfume River, Thien Mu Pagoda,... 2. Hue folk songs are very rich and diverse. Regarding the melodies, there are: dry rowing, tai tai, bringing spirit, pounding rice, lulling children, pounding lime, pounding scallop, bai choi, bai shop, she swing, ho luo, ho o, rice milling, pounding,... The singing melodies include: Ly con flute, Ly Hoai Xuan, Ly Hoai Nam, Nam ai, Nam Binh, Widow, Nam Xuan, Tuong Tu Khuc, Hanh Van, Four Great Scenes. The musical instruments mentioned include: zither, moon lute, pipa, zither, tam, monochord, flute, pair of samsam. 3. After reading the article, the reader knows that Hue is not only famous for its landscapes and historical relics, Hue is not only famous for its poetic hats and exquisite dishes, but also famous for its folk songs and royal music. Listening to Hue songs in a dragon boat on the Perfume River is an elegant, charming pleasure. 4. About Ca Hue: a) Ca Hue was formed from folk music and royal music. b) Ca Hue is vibrant, cheerful, solemn, and majestic precisely because it absorbs the characteristics of two genres of music. Excitement and joy (including sadness, wistfulness, and grief) originate from folk music. As for solemnity and majesty, it originates from court music. c*) Listening to Hue songs is an elegant hobby because listening to songs on a dragon boat, on the poetic Perfume River amidst the vast sky and water is a unique way of enjoying it. On the other hand, the content of Hue songs is solemn, pure, and evokes love for people and country. Those beautiful lyrics were performed by graceful and polite singers from Hue with an accompanying orchestra of skilled and talented musicians. Listening to Hue songs helps you understand and love Hue more, and also love your country more. Therefore, it is a noble and polite pleasure. 1. Summary Hue is famous for its folk songs and dances. Ca Hue on the Perfume River is an elegant, charming cultural activity, performed by talented singers and musicians on dragon boats. 2. How to read With this type of text, when reading, you need to have a gentle and inspiring tone. It should be noted: in the article, the method of listing is often used by the author to clarify the rich and diverse beauty of Hue songs. It is necessary to read each element clearly and distinctly to increase the expressive meaning. 3. Depending on the locality in which each student lives, each student can name different folk songs of their hometown. Try practicing singing along to those melodies
Hướng dẫn Giải bài tập SGK Tiếng Anh lớp 7 Chương trình mới Unit 12 GETTING STARTED, A CLOSER LOOK 1, A CLOSER LOOK 2 hướng dẫn học tốt Tiếng Anh lớp 7 Unit 12: An overcrowded world (Một thế giới quá đông đúc) các phần: Getting Started (phần 1-5 trang 58-59 SGK Tiếng Anh 7 mới – thí điểm), A Closer Look 1 (phần 1-6 trang 60-61 SGK Tiếng Anh 7 mới – thí điểm), A Closer Look 2 (phần 1-5 trang 61-62 SGK Tiếng Anh 7 mới – thí điểm). Giải bài tập SGK Tiếng Anh lớp 7 Chương trình mới Unit 10 COMMUNICATION, SKILLS 1 Giải bài tập SGK Tiếng Anh lớp 7 Chương trình mới Unit 11 GETTING STARTED, A CLOSER LOOK 1, A CLOSER LOOK 2 Tiếng Anh lớp 7 Chương trình mới Unit 11 TRAVELLING IN THE FUTURE Từ vựng – Ngữ pháp Tiếng Anh lớp 7 Chương trình mới Unit 11 TRAVELLING IN THE FUTURE Unit 12 lớp 7: Getting started (phần 1 → 5 trang 58-59 SGK Tiếng Anh 7 mới – thí điểm) 1. Listen and read (Nghe và đọc) Hướng dẫn dịch MỘT CÂU CHUYỆN TRONG KÌ NGHỈ Nam: Chào mừng trở lại, Phương! Brazil thật tuyệt đúng không? Phuong: Đúng rồi Nam, và rất đa dạng. Nam: Ý bạn là sao? Phuong: Những bãi biển ở phía nam rất thanh bình, trong khi đó những thành phố như Rio lại quá đông đúc. Nam: Thế còn người dân? Phuong: Ở Rio một số người rất giàu và có tiêu chuẩn sống cao. Nhưng cũng có những người nghèo sống trong những khu ổ chuột. Nam: Cuộc sống trong khu ổ chuột chắc là rất khó khăn. Phuong: Ừ, những khu ổ chuột quá đông đúc và tội phạm là một vấn đề lớn ở đó. Nam: Tội phạm ảnh hưởng đến tất cả mọi người trong thành phố đúng không? Phuong: Đúng rồi, Nam. Nhưng có lẽ có những vấn đề khác ở khu ổ chuột nữa như là bệnh tật, dịch vụ y tế kém,… Nam: Wow, bạn có tự mình thấy điều đó không? Phuong: Không, khách tham quan thường không đến những khu ổ chuột. Nó quá nguy hiểm. Nam: Có lẽ có ít thứ để ngắm và làm ở đó đúng không? Phuong: Ừ. Tuy vậy tớ vẫn thích Brazil và tớ đã rất vui khi ở đó. Nam: Chắc chắn rồi, đó là một trải nghiệm thực tế đúng không? Phuong: Phải rồi. a. Read the conversation again and tick (✓) true (T) or false (F.) (Đọc bài hội thoại và đánh dấu (✓) đúng (T) hoặc sai (F)) 1. T 2. F 3. F 4. T 5. F Hướng dẫn dịch 1. Phương nghĩ rằng Braxin thật thú vị. 2. Những nơi ở Braxin rất khác biệt. 3. Những vấn đề của Rio chỉ nằm ở khu ổ chuột. 4. Không an toàn cho du khách khi đến thăm những khu ổ chuột. 5. Nam nghĩ rằng chuyến đi của Phương đến Braxin không xứng đáng. b. Read the conversation again. Find a word or phrase to match the following. (Đọc lại bài hội thoại. Tìm một từ hoặc cụm từ để nối.) 1. very different – diverse. 2. rich – wealthy. 3. big or serious – major. 4. small houses in bad condition where poor people live – slums. 5. bad action against the community – crime. 2. Match the words in the box with the pictures. Then listen and repeat the words. (Nối các từ trong khung với hình ảnh. Sau đó nghe và lặp lại các từ.) 1. a 2. c 3. b 4. e 5. d 3. Use some of the words in 2 to describe a person or a place you know. (Sử dụng các từ trong bài 2 đeer miêu tả một người hay một địa điểm bạn biết.) 1. Ha Noi is overcrowded now. 2. There are a lot of wealthy people in the U.S. 3. Our country is beautiful and peaceful. 4. There are a lot of poor people in this slum. 5. Our garden is not so spacious. 4. Work in groups. Make a list of the problems which you think are connected to an overcrowded area. (Làm việc theo nhóm. Lên danh sách các vấn đề bạn nghĩ có liên quan đến một vùng đông dân.) There is not enough space to play in. The atmosphere is polluted. The traffic is bad. There are a lot of thieves and robbers. There is so much noise. Life is too fast and people are usually not friendly. 5. Share your list with the class and see if they agree with you. (Chia sẻ danh sách với cả lớp và xem xem họ có đồng ý với bạn không.) Unit 12 lớp 7: A closer look 1 (phần 1 → 5 trang 60 SGK Tiếng Anh 7 mới – thí điểm) 1. Listen and number the words in the order you hear them. (Nghe và đánh các từ theo thú tự bạn nghe thấy.) 1. crime 2. malnutrition 3. poverty 4. shortage 5. disease 6. space 7. dense 8. healthcare 2. Complete the sentences with some of the words from 1. (Hoàn thành câu với các từ trong bài 1.) 1. healthcare 2. crime 3. disease 4. malnutrition 5. poverty Hướng dẫn dịch 1. Y tế tốt giúp mọi người khỏe mạnh và sống lâu hơn. 2. Khi mọi người quá cần tiền, họ có thể phạm tội. 3. Bệnh lan truyền nhanh hơn ở khu vực quá đông đúc. 4. Sự suy dinh dưỡng là nguyên nhân chính dẫn tới cái chết của những đứa trẻ sống trong khu ổ chuột. 5. ở những thành phố lớn có nhiều người giàu, nhưng nghèo khổ cũng là một vấn đề. 3. Match a cause with its effect. (Nối nguyên nhân với hệ quả của nó.) 1. b 2. a 3. f 4. d 5. c 6. e 4. Work in groups. Think of some problems for each place below and write them under the place. Share your ideas with the class. (Làm việc theo nhóm. Nghĩ về vấn đề của mỗi nơi và viết chúng bên dưới nơi đó. Chia sẻ ý kiến của bạn với cả lớp.) a. boring, lack of jobs, activities, entertainment and other services. b. poverty, disease, crime, thieves, malnutrition, unemployment, poor healthcare. c. pollution, overpopulation, to much noise, shortage of water, crime, too fast life and people are not friendly, not enough space. 5. Listen and mark (‘) the stress in the words. (Nghe và đánh dấu (‘) vào trọng âm của từ) 6. Listen and repeat each pair. Mark (‘) the stress on the words in the table below. (Nghe vả lặp lại mỗi cặp từ. Đánh dấu (‘) lên trọng âm của từ trong bảng sau.) Unit 12 lớp 7: A closer look 2 (phần 1 → 5 trang 61-62 SGK Tiếng Anh 7 mới – thí điểm) 1. Read the sentences. (Đọc các câu sau.) 1. Children in the slums have more diseases than those in wealthy areas. (Trẻ em ở trong các khu ổ chuột mắc nhiều bệnh hơn những đứa trẻ ở khu nhà giàu.) 2. The countryside has fewer problems than a big city. (Vùng quê có ít vấn đề hơn thành phố lớn.) 2a. Read the information about two cities. (Đọc các thông tin về 2 thành phố.) b. Read the comparisons of the two cities, and decide if they are true. If they are not, correct them. (Đọc các so sánh về 2 thành phố, quyết định xem nó đúng không? Nếu nó không đúng, hãy sửa.) 3. 3. Fill tfhe sentences with more, less or fewer (Hoàn thành các câu với more, less hoặc fewer.) 1. fewer 2. more 3. more 4. fewer 5. less Hướng dẫn dịch 1. Tháng Hai có ít ngày hơn tháng Giêng. 2. Dân số quá đông đang gây ra nhiều vấn đề hơn chúng ta tưởng tượng. 3. Những thành phố lớn chịu ô nhiễm nhiều hơn vùng quê. 4. Một giáo viên cần ít calo hơn một nông dân. 5. Một đứa trẻ khỏe mạnh cần ít sự chăm sóc hơn một đứa trẻ bị bệnh. 4. Check if the tags are correct. If they are not correct them. (Kiểm tra xem phần đuôi có đúng không. Nếu chúng không đúng, hãy sửa chúng.) 1. F 2. F 3. T 4. T 5. F 6. F 1. You live in the countryside, don’t you? 2. Immigration causes overpopulation in big cities, doesn’t it? 3. Lower death rate is one reason for population growth, isn’t it? 4. These narrow streets can’t support more traffic, can they? 5. Complete the interview with the tags in the box. (Hoàn thành bài phỏng vấn với các phần đuôi trong hộp.) 1. don’t they. 2. isn’t it. 3. can’t we. 4. is it. Hướng dẫn dịch Người phỏng vấn: Những nơi quá đông đúc có nhiều vấn đề có phải không? Khách mời: Đúng rồi. Tắc đường, ô nhiễm, ồn ào… Người phỏng vấn: Tắc đường là vấn đề nghiêm trọng nhất đúng không? Khách mời: Không hẳn. Chúng ta có thể thấy nhiều người vô gia cư trong những thành phố lớn đúng không? Thành phố không thể xây đủ nhà cho tất cả dân ở đó. Người phỏng vấn: Vì vậy họ sống ở bất cứ chỗ nào có thể, dưới một cây cầu, trong một ngôi nhà hoang… Khách mời: Vâng, và vài người trong số họ trở thành những tên tội phạm
Instruct Solving English textbook exercises for grade 7 New program Unit 12 GETTING STARTED, A CLOSER LOOK 1, A CLOSER LOOK 2 guide to studying English well for grade 7 Unit 12: An overcrowded world (An overcrowded world) parts: Getting Started (parts 1-5 pages 58-59 of the new English 7 textbook – pilot), A Closer Look 1 (parts 1-6 pages 60-61 of the new English 7 textbook – pilot), A Closer Look 2 (part 1-5 pages 61-62 new English 7 textbook - pilot). Solving English textbook exercises for grade 7 New program Unit 10 COMMUNICATION, SKILLS 1 Solving English textbook exercises for grade 7 New program Unit 11 GETTING STARTED, A CLOSER LOOK 1, A CLOSER LOOK 2 Grade 7 English New program Unit 11 TRAVELLING IN THE FUTURE Vocabulary - English Grammar grade 7 New program Unit 11 TRAVELLING IN THE FUTURE Unit 12 grade 7: Getting started (part 1 → 5 pages 58-59 new English 7 textbook - pilot) 1. Listen and read (Listen and read) Translation instructions A HOLIDAY STORY Nam: Welcome back, Phuong! Brazil is great, right? Phuong: That's right, Nam, and very diverse. Nam: What do you mean? Phuong: The beaches in the south are very peaceful, while cities like Rio are too crowded. Nam: What about the people? Phuong: In Rio some people are very rich and have a high standard of living. But there are also poor people living in slums. Nam: Life in the slum must be very difficult. Phuong: Yeah, the slums are overcrowded and crime is a big problem there. Nam: Crime affects everyone in the city, right? Phuong: That's right, Nam. But perhaps there are other problems in the slums too such as diseases, poor medical services, etc. Nam: Wow, did you see that yourself? Phuong: No, visitors usually don't go to slums. It's too dangerous. Nam: There are probably a few things to see and do there, right? Phuong: Yes. However, I still like Brazil and I had a lot of fun there. Nam: Sure, it was a real experience, right? Phuong: Right. a. Read the conversation again and tick (✓) true (T) or false (F.) (Read the conversation and tick (✓) true (T) or false (F)) 1 T 2. F 3. F 4. T 5.F Translation instructions 1. Phuong thinks Brazil is interesting. 2. Places in Brazil are very different. 3. Rio's problems are only in the favelas. 4. It is not safe for tourists to visit slums. 5. Nam thinks that Phuong's trip to Brazil is not worth it. b. Read the conversation again. Find a word or phrase to match the following. (Read the conversation again. Find a word or phrase to connect.) 1. very different – ​​diverse. 2. rich – wealthy. 3. big or serious – major. 4. small houses in bad conditions where poor people live – slums. 5. bad action against the community – crime. 2. Match the words in the box with the pictures. Then listen and repeat the words. (Match the words in the box with the pictures. Then listen and repeat the words.) 1. a 2 C 3. b 4. e 5. d 3. Use some of the words in 2 to describe a person or a place you know. (Use the words from lesson 2 to describe a person or place you know.) 1. Hanoi is overcrowded now. 2. There are a lot of wealthy people in the U.S. 3. Our country is beautiful and peaceful. 4. There are a lot of poor people in this slum. 5. Our garden is not so spacious. 4. Work in groups. Make a list of the problems that you think are connected to an overcrowded area. (Work in groups. Make a list of issues you think are relevant to a densely populated area.) There is not enough space to play in. The atmosphere is polluted. The traffic is bad. There are a lot of thieves and robbers. There is so much noise. Life is too fast and people are usually not friendly. 5. Share your list with the class and see if they agree with you. (Share the list with the class and see if they agree with you.) Unit 12 grade 7: A closer look 1 (part 1 → 5 pages 60 new English 7 textbook - pilot) 1. Listen and number the words in the order you hear them. (Listen and type the words as you hear them.) 1. crime 2. malnutrition 3. poverty 4. shortage 5. disease 6. spaces 7. dense 8. healthcare 2. Complete the sentences with some of the words from 1. (Complete the sentences with words from lesson 1.) 1. healthcare 2. crime 3. disease 4. malnutrition 5. poverty Translation instructions 1. Good healthcare helps people stay healthy and live longer. 2. When people are in desperate need of money, they may commit crimes. 3. Disease spreads faster in overcrowded areas. 4. Malnutrition is the main cause of death among children living in slums. 5. In big cities there are many rich people, but poverty is also a problem. 3. Match a cause with its effect. (Connect the cause with its effect.) 1. b 2 a 3. f 4. d 5. c 6. e 4. Work in groups. Think of some problems for each place below and write them under the place. Share your ideas with the class. (Work in groups. Think about the problems for each place and write them below that place. Share your ideas with the class.) a. boring, lack of jobs, activities, entertainment and other services. b. poverty, disease, crime, thieves, malnutrition, unemployment, poor healthcare. c. pollution, overpopulation, to much noise, shortage of water, crime, too fast life and people are not friendly, not enough space. 5. Listen and mark (‘) the stress in the words. (Listen and mark (‘) the stress of the word) 6. Listen and repeat each pair. Mark (‘) the stress on the words in the table below. (Listen and repeat each pair of words. Mark (‘) the word stress in the following table.) Unit 12 grade 7: A closer look 2 (part 1 → 5 pages 61-62 new English 7 textbook - pilot) 1. Read the sentences. (Read the following sentences.) 1. Children in the slums have more diseases than those in wealthy areas. (Children in slums have more diseases than children in rich areas.) 2. The countryside has fewer problems than a big city. (The countryside has fewer problems than the big city.) 2 a. Read the information about two cities. (Read information about the two cities.) b. Read the comparisons of the two cities, and decide if they are true. If they are not, correct them. (Read the comparison of the two cities, decide if it is correct? If it is not correct, correct it.) 3. 3. Fill tfhe sentences with more, less or fewer (Complete the sentences with more, less or fewer.) 1. fewer 2. more 3. more 4. fewer 5. less Translation instructions 1. February has fewer days than January. 2. Overpopulation is causing more problems than we imagine. 3. Big cities suffer from more pollution than the countryside. 4. A teacher needs fewer calories than a farmer. 5. A healthy child needs less care than a sick child. 4. Check if the tags are correct. If they are not correct them. (Check that the endings are correct. If they are not correct, correct them.) 1. F 2. F 3 T 4. T 5.F 6.F 1. You live in the countryside, don't you? 2. Immigration causes overpopulation in big cities, doesn't it? 3. Lower death rate is one reason for population growth, isn't it? 4. These narrow streets can't support more traffic, can they? 5. Complete the interview with the tags in the box. (Complete the interview with the endings in the box.) 1. don't they. 2. isn't it. 3. can't we. 4. is it. Translation instructions Interviewer: Don't overcrowded places have many problems? Guest: That's right. Traffic jams, pollution, noise... Interviewer: Traffic congestion is the most serious problem, right? Guest: Not really. We can see many homeless people in big cities, right? The city cannot build enough houses for all the people there. Interviewer: So they live wherever they can, under a bridge, in an abandoned house... Guest: Yes, and some of them became criminals
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Sống chết mặc bay do Phạm Duy Tốn sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. SỐNG CHẾT MẶC BAY (Phạm Duy Tốn) 1. Thể loại Sống chết mặc bay được xếp vào thể loại truyện ngắn. Ở Việt Nam, khoảng đầu thế kỉ XX, khái niệm này còn khá mới mẻ. Thời trung đại cũng đã có truyện hoặc các tác phẩm có tính chất tự sự nhưng không có tác phẩm nào thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại này. Truyện ngắn thuộc loại hình tự sự, đặc trưng cơ bản nhất của nó là ngắn. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn không hoàn toàn quyết định tính chất thể loại. Như trên đã nói, nhiều tác phẩm (có tính tự sự) thời trung đại nhưng không thể xếp vào loại truyện ngắn bởi ngoài tính chất về dung lượng, truyện ngắn còn có một số đặc trưng khác. Khác với các truyện dài (ví dụ: tiểu thuyết) và truyện vừa thường tái hiện trọn vẹn cuộc đời một nhân vật, một sự kiện, hoàn cảnh,… truyện ngắn chỉ là một lát cắt, một khoảnh khắc, một hiện tượng nổi bật (cũng có thể khác thường) của cuộc sống. Để đảm bảo với một dung lượng nhỏ mà chuyển tải được những ý nghĩa lớn, ngôn ngữ truyện ngắn phải hàm súc đến mức tối đa. Các chi tiết “thừa” (đối với việc thể hiện nội dung cốt truyện), các chi tiết rườm rà đều bị lược bỏ để tập trung vào những chi tiết chủ yếu nhất. Trong truyện ngắn, dường như hiện thực đời sống đã được “nén” chặt lại nhằm mục đích khắc hoạ nổi bật một hiện tượng, một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. 2. Tác giả Phạm Duy Tốn (1883-1924) là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi bật nhất. Mặc dù còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của xu hướng đạo đức truyền thống nhưng những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn đã thiên về phản ánh hiện thực xã hội thối nát thời bấy giờ. Trong Sống chết mặc bay, ông tố cáo giai cấp thống trị độc ác bất nhân, chỉ ham ăn chơi phè phỡn, để mặc dân chúng trong cảnh ngập lụt. 1. Truyện ngắn Sống chết mặc bay có thể chia làm 3 đoạn: 2. Theo định nghĩa về phép tương phản: a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ. b) Những người dân hộ đê: Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử cả rồi; trong khi mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm”. c) Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, các tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi cách cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết. d) Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi bật sự đối lập. Người có trách nhiệm thì vô trách nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, sự vô trách nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt. 3. a) Phép tăng cấp đã được sử dụng để miêu tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước sông càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi. b) Phép tăng cấp cũng được sử dụng để miêu tả thái độ vô trách nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi cách cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét. c*) Sự kết hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhưng y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự kết hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc. 4. Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt. Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại. Giá trị nghệ thuật: Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính cách. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, kết hợp với lời bình luận trực tiếp để tố cáo và phê phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ bản chất xấu xa, vô trách nhiệm qua các hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân. 1. Tóm tắt Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to, khúc đê làng X có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Thế mà tại ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung cùng các quan đánh bài. Có người báo đê vỡ, ngài vẫn thản nhiên quát mắng. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to, cũng là lúc “khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn”. 2. Cách đọc Trong một truyện ngắn, giọng điệu có ý nghĩa rất quan trọng đối với giá trị của tác phẩm. Với đặc trưng hàm súc, tác giả truyện ngắn tận dụng tối đa những lợi thế của giọng điệu để thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của mình, đồng thời khắc hoạ đời sống một cách sâu sắc. Từ giọng điệu của tác giả cho đến giọng điệu của các nhân vật, khi đọc cần chú ý thể hiện sinh động và chính xác. Cụ thể, trong truyện ngắn này có những nhân vật chủ yếu sau: 3. Các hình thức đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay: 4.* Qua ngôn ngữ đối thoại của tên quan phủ, có thể tháy hắn hiện lên với một nhân cách xấu xa, bỉ ổi. Đó là một tên quan vô trách nhiệm, tham lam và tàn bạo. Từ đây cũng cần phải rút ra một nhận định rằng: trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên tính cách của nhân vật.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Sống chết mặc bay do Phạm Duy Tốn sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. SỐNG CHẾT MẶC BAY (Phạm Duy Tốn) 1. Thể loại Sống chết mặc bay được xếp vào thể loại truyện ngắn. Ở Việt Nam, khoảng đầu thế kỉ XX, khái niệm này còn khá mới mẻ. Thời trung đại cũng đã có truyện hoặc các tác phẩm có tính chất tự sự nhưng không có tác phẩm nào thể hiện được những đặc trưng cơ bản của thể loại này. Truyện ngắn thuộc loại hình tự sự, đặc trưng cơ bản nhất của nó là ngắn. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn không hoàn toàn quyết định tính chất thể loại. Như trên đã nói, nhiều tác phẩm (có tính tự sự) thời trung đại nhưng không thể xếp vào loại truyện ngắn bởi ngoài tính chất về dung lượng, truyện ngắn còn có một số đặc trưng khác. Khác với các truyện dài (ví dụ: tiểu thuyết) và truyện vừa thường tái hiện trọn vẹn cuộc đời một nhân vật, một sự kiện, hoàn cảnh,… truyện ngắn chỉ là một lát cắt, một khoảnh khắc, một hiện tượng nổi bật (cũng có thể khác thường) của cuộc sống. Để đảm bảo với một dung lượng nhỏ mà chuyển tải được những ý nghĩa lớn, ngôn ngữ truyện ngắn phải hàm súc đến mức tối đa. Các chi tiết “thừa” (đối với việc thể hiện nội dung cốt truyện), các chi tiết rườm rà đều bị lược bỏ để tập trung vào những chi tiết chủ yếu nhất. Trong truyện ngắn, dường như hiện thực đời sống đã được “nén” chặt lại nhằm mục đích khắc hoạ nổi bật một hiện tượng, một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. 2. Tác giả Phạm Duy Tốn (1883-1924) là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại, trong đó Sống chết mặc bay là tác phẩm nổi bật nhất. Mặc dù còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của xu hướng đạo đức truyền thống nhưng những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn đã thiên về phản ánh hiện thực xã hội thối nát thời bấy giờ. Trong Sống chết mặc bay, ông tố cáo giai cấp thống trị độc ác bất nhân, chỉ ham ăn chơi phè phỡn, để mặc dân chúng trong cảnh ngập lụt. 1. Truyện ngắn Sống chết mặc bay có thể chia làm 3 đoạn: 2. Theo định nghĩa về phép tương phản: a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ. b) Những người dân hộ đê: Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử cả rồi; trong khi mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: “Tình cảnh trông thật là thảm”. c) Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, các tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi cách cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, “tình cảnh thảm sầu” không sao kể xiết. d) Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi bật sự đối lập. Người có trách nhiệm thì vô trách nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Những người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chống chọi với thiên nhiên một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, sự vô trách nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt. 3. a) Phép tăng cấp đã được sử dụng để miêu tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước sông càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi. b) Phép tăng cấp cũng được sử dụng để miêu tả thái độ vô trách nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi cách cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét. c*) Sự kết hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhưng y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự kết hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc. 4. Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt. Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại. Giá trị nghệ thuật: Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính cách. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, kết hợp với lời bình luận trực tiếp để tố cáo và phê phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ bản chất xấu xa, vô trách nhiệm qua các hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân. 1. Tóm tắt Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to, khúc đê làng X có nguy cơ sẽ vỡ. Hàng trăm hàng nghìn người dân ra sức chống chọi với sức nước. Thế mà tại ngôi đình trên một khúc đê gần đó, quan phụ mẫu vẫn ung dung cùng các quan đánh bài. Có người báo đê vỡ, ngài vẫn thản nhiên quát mắng. Cuối cùng, khi quan ù ván bài thật to, cũng là lúc “khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn”. 2. Cách đọc Trong một truyện ngắn, giọng điệu có ý nghĩa rất quan trọng đối với giá trị của tác phẩm. Với đặc trưng hàm súc, tác giả truyện ngắn tận dụng tối đa những lợi thế của giọng điệu để thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ của mình, đồng thời khắc hoạ đời sống một cách sâu sắc. Từ giọng điệu của tác giả cho đến giọng điệu của các nhân vật, khi đọc cần chú ý thể hiện sinh động và chính xác. Cụ thể, trong truyện ngắn này có những nhân vật chủ yếu sau: 3. Các hình thức đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay: 4.* Qua ngôn ngữ đối thoại của tên quan phủ, có thể tháy hắn hiện lên với một nhân cách xấu xa, bỉ ổi. Đó là một tên quan vô trách nhiệm, tham lam và tàn bạo. Từ đây cũng cần phải rút ra một nhận định rằng: trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên tính cách của nhân vật.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 1 dưới đây: Cổng trường mở ra do Lí Lan sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo để hiểu rõ bố cục, tính nghệ thuật của tác phẩm Cổng trường mở ra để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. CỔNG TRƯỜNG MỞ RA (Lí Lan) I. VỀ TÁC PHẨM Tác phẩm là một văn bản nhật dụng. Về tính chất, văn bản nhật dụng đề cập những yếu tố gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống hằng ngày của con ngư­ời và xã hội đư­ơng đại nh­ư thiên nhiên, môi trường, dân số, sức khoẻ, quyền trẻ em, hiểm hoạ ma tuý… Ph­ương thức biểu đạt của văn bản nhật dụng rất đa dạng. Có thể là bút kí, phóng sự, ghi chép, thư­ tín… Các bài học: Cổng trường mở ra của Lí Lan, Mẹ tôi (trích Những tấm lòng cao cả) của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi, Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài, Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh thuộc kiểu văn bản nhật dụng. II. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Ngày mai con đến trường. Người mẹ thức suốt đêm, suy nghĩ triền miên về ngày đi học đầu tiên của con trong khi đứa con, vì còn nhỏ nên rất vô tư, chỉ háo hức một chút, sau đó đã ngủ ngon lành. Điều khiến người mẹ không ngủ được không phải vì quá lo lắng cho con. 2. Đêm trước ngày khai trường, tâm trạng của người mẹ và đứa con có những biểu hiện khác nhau. Đứa con vô cùng háo hức vì ngày mai được vào lớp Một. Nhưng “cũng như trước một chuyến đi xa, trong lòng con không còn mối bận tâm nào khác ngoài chuyện ngày mai thức dậy cho kịp giờ”. Trong khi đó, người mẹ cứ bâng khuâng, trằn trọc mãi mà không ngủ được (mẹ không tập trung được vào việc gì cả; mẹ lên giường và trằn trọc,…). 3. Người mẹ trằn trọc không phải vì quá lo lắng cho con mà là vì đang sống lại với những kỉ niệm xưa của chính mình. Ngày khai trường của đứa con đã làm sống dậy trong lòng người mẹ một ấn tượng thật sâu đậm từ ngày còn nhỏ, khi cũng như đứa con bây giờ, lần đầu tiên được mẹ (tức bà ngoại của em bé bây giờ) đưa đến trường. Cảm giác chơi vơi hốt hoảng khi nhìn người mẹ đứng ngoài cánh cổng trường đã khép còn in sâu mãi cho đến tận bây giờ. 4*. Xét về hình thức bề ngoài, về cách xưng hô thì dường như người mẹ đang nói với đứa con nhưng trong thực tế, mẹ đang tự nói với mình. Đối thoại hoá ra độc thoại, nói với con mà lại là tâm sự với chính lòng mình – đó là tâm trạng của những người mẹ yêu thương con như yêu máu thịt, một phần cuộc sống của mình. Cách nói ấy vừa thể hiện được tình cảm mãnh liệt của người mẹ đối với đứa con, vừa làm nổi bật tâm trạng, khắc hoạ được tâm tư tình cảm, diễn đạt được những điều khó nói ra được bằng những lời trực tiếp. 5. Vẫn bằng giọng đối thoại, tác giả đã khéo léo chuyển hướng để nói về tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của các thế hệ mai sau. Nêu lên một hiện tượng về sự quan tâm của các quan chức Nhật đối với giáo dục, tác giả đi đến khái quát: “Ai cũng biết rằng mỗi sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ mai sau, và sai lầm một li có thể đưa thế hệ ấy đi chệch cả hàng dặm sau này”. 6. “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”. Câu văn này đã nói lên ý nghĩa to lớn của nhà trường trong cuộc đời mỗi con người. Như trong một câu chuyện cổ tích kì diệu, phía sau cánh cổng kia là cả một thế giới vô cùng hấp dẫn đối với những người ham hiểu biết, yêu lao động và yêu cuộc sống, thế giới của tri thức bao la, của tình bạn, tình thầy trò nồng ấm tha thiết, chắp cánh cho chúng ta bay cao, bay xa tới những chân trời của ước mơ và khát vọng. III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Tóm tắt Đêm trước ngày đưa con đến trường, người mẹ không ngủ. Ngắm nhìn con ngủ say, lòng người mẹ bồi hồi xúc động: nhớ lại những hành động của con ban ngày, nhớ về thuở nhỏ với những kỉ niệm sâu sắc trong ngày khai giảng đầu tiên… Lo cho tương lai của con, người mẹ liên tưởng đến ngày khai trường ở Nhật – một ngày lễ thực sự của toàn xã hội – nơi mà ai cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến thế hệ tương lai. Đó cũng là tình cảm, niềm tin và khát vọng của người mẹ đối với tương lai của đứa con. 2. Cách đọc Cần bám sát diễn biến tâm trạng của người mẹ để lựa chọn giọng đọc cho phù hợp: 3. Ngày khai trường để vào lớp Một là ngày có dấu ấn sâu đậm nhất trong tâm hồn của mỗi con người. Có thể nêu ra các lí do sau: 4. Để viết được đoạn văn cần:
Instruct The essay for Literature subject grade 7, semester 1 below: The school gate opens, composed by Ly Lan, is collected and introduced by VnDoc for students to refer to to understand the layout and artistry of the work School Gate. open to prepare well for the upcoming new semester's lectures. SCHOOL GATE OPEN (Li Lan) I. ABOUT THE WORK The work is a daily-use text. In terms of nature, daily-use texts address close and urgent elements to the daily lives of people and contemporary society such as nature, environment, population, health, children's rights, and dangers. drug disaster… The expression methods of daily-use texts are very diverse. Can be memoirs, reports, notes, letters... Lessons: The school gate opens by Ly Lan, My Mother (excerpt from Noble Hearts) by Et-mondo de Ami-xi, The Farewell of the Dolls by Khanh Hoai, Ca Hue on Perfume River by Ha Anh Minh is a Japanese-style text. II. BASIC KNOWLEDGE 1. Tomorrow I go to school. The mother stayed up all night, thinking endlessly about her child's first day of school while the child, because he was still young, was very carefree, only a little excited, then slept soundly. What makes a mother unable to sleep is not because she is too worried about her child. 2. The night before the first day of school, the moods of the mother and child have different expressions. The child is extremely excited because tomorrow he will enter first grade. But "just like before a long trip, in my heart there is no other concern other than waking up on time tomorrow." Meanwhile, the mother kept feeling restless and tossing and turning but could not sleep (she could not concentrate on anything; she went to bed and tossed and turned,...). 3. The mother is restless not because she is too worried about her child but because she is reliving her own old memories. The child's first day of school revived in the mother's heart a deep impression from when she was a child, when, like the child now, she was first brought to school by her mother (the child's grandmother). school. The feeling of relief and panic when looking at the mother standing outside the closed school gate is still deeply imprinted until now. 4*. In terms of appearance and way of addressing, it seems that the mother is talking to her child, but in reality, the mother is talking to herself. Dialogue turns into a monologue, talking to their children but also confiding in their own hearts - that is the mood of mothers who love their children like they love their flesh and blood, a part of their lives. That way of speaking not only shows the mother's strong feelings for her child, but also highlights the mood, portrays emotional feelings, and expresses things that are difficult to say with direct words. 5. Still in a conversational tone, the author cleverly changed direction to talk about the importance of education for the development of future generations. Pointing out a phenomenon of Japanese officials' interest in education, the author summarizes: "Everyone knows that every mistake in education will affect the entire future generation, and mistakes One inch of mistake can lead that generation miles astray in the future.” 6. "Go, my child, be brave, this world is yours, step through the school gate and a magical world will open." This sentence speaks of the great significance of school in every person's life. Like in a magical fairy tale, behind that gate is an extremely attractive world for those who are curious, love work and love life, a world of immense knowledge and love. Friends, the warm and sincere love between teachers and students, give us wings to fly high and far to the horizons of dreams and aspirations. III. PRACTISE SKILL 1. Summary The night before taking her child to school, the mother did not sleep. Watching her child sleep soundly, the mother's heart is filled with emotion: remembering her child's actions during the day, remembering her childhood with profound memories of the first day of school... Worried about her child's future, the mother reminiscent of the first day of school in Japan - a true holiday for the entire society - where everyone shows deep concern for future generations. That is also the mother's feelings, beliefs and aspirations for her child's future. 2. How to read It is necessary to closely follow the changes in the mother's mood to choose the appropriate reading voice: 3. The first day of school to enter first grade is the day that has the deepest impression on every person's soul. The following reasons can be given: 4. To write a paragraph, you need:
Hướng dẫn Soạn văn lớp 7 bài Qua đèo Ngang do Bà huyện Thanh Quan sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo. Bài soạn văn mẫu Qua đèo Ngang nhằm giúp các em hiểu rõ về cảnh đẹp thiên nhiên của Đèo Ngang được thể hiện qua ngòi bút của tác giả để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. Bà Huyện Thanh Quan I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1. Tác giả Bà Huyện Thanh Quan (? -?), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Bình ngày nay), do đó có tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bà là một nữ sĩ vào loại tài danh hiếm có thời phong kiến. Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng. 2. Thể loại Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn bát cú. Đây là một trong hai dạng cơ bản, phổ biến nhất của thơ Đường luật, gồm thất ngôn bát cú (7 chữ, 8 câu) và thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu). Thơ thất ngôn bát cú Đường luật có những quy định rất chặt chẽ về bố cục (tổ chức cơ bản về nội dung và hình thức), luật (quy định về vần, thanh trong cả bài, đối giữa các cặp câu 3 – 4, 5 – 6), niêm (sự liên kết giữa các câu 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7). II. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Nhận dạng thể thơ của bài Qua Đèo Ngang về số câu, số chữ, về cách gieo vần và về phép đối. Gợi ý: Dựa vào phần giới thuyết thể thơ ở trên, tự kiểm tra về số câu, số chữ, cách gieo vần và phép đối của bài thơ. 2. Cảnh vật được miêu tả và lúc chiều tà. Thời điểm đó dễ gợi lên tâm trạng buồn, cô đơn nhất là với người lữ thứ. 3. Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi tiết: cỏ cây, hoa lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, tiếng chim quốc, chim đa đa, có vài chú tiều phu. Các chi tiết này cho thấy cảnh Đèo Ngang um tùm, rậm rạp. Con người thì ít ỏi, thưa thớt. Các từ láy: lom khom, lác đác, các từ tượng thanh: quốc quốc, đa đa có tác dụng lớn trong việc gợi hình, gợi cảm và càng gợi lên cảm giác hoang vắng, quạnh hiu. 4. Cảnh Đèo Ngang là cảnh thiên nhiên, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng rất hoang sơ. Cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của kẻ xa quê nên cảnh gợi lên cảm giác buồn, hoang sơ, vắng lặng. 5. Có thể thấy, ấn sâu kín trong bức tranh thiên nhiên là tâm trạng của người lữ thứ (Bà Huyện Thanh Quan). Đó là tâm trạng buồn, cô đơn, hoài cổ. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tiếng kêu da diết của chim quốc, chim đa đa cũng chính là tiếng lòng tha thiết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước. Câu thơ cuối cùng chính là cao trào của nỗi buồn, nỗi cô đơn của người khách xa quê. 6. Giữa cảnh trời, non, nước và một mảnh tình riêng có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì tình càng cô đơn, con người càng nhỏ bé. Như thế, rõ ràng cảnh góp phần khiến nỗi cô đơn của tác giả càng lớn hơn, nặng nề hơn. III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Cách đọc Đọc một bài thơ thất ngôn bát cú, trước hết phải chú ý đọc đúng nhịp (4/3), sau nữa là chú ý đến phép đối trong hai cặp 3 – 4, 5 – 6. Riêng với bài thơ này, cần chú ý đọc chậm, diễn cảm, thể hiện được nỗi buồn sâu lắng của tác giả. 2. Tìm hàm nghĩa của cụm từ ta với ta. Gợi ý: nghĩa của từng từ và của cả cụm là:
Instruct The 7th grade essay, Crossing Ngang Pass, written by Mrs. Thanh Quan district, was collected and introduced by VnDoc for students to refer to. The sample essay Through Ngang Pass aims to help students clearly understand the natural beauty of Ngang Pass expressed through the author's pen to prepare well for the upcoming new semester's lectures. Ms. Thanh Quan District I. ABOUT THE AUTHOR AND WORKS 1. Author Ms. Huyen Thanh Quan (? -?), real name is Nguyen Thi Hinh, from Nghi Tam village now in Tay Ho district, Hanoi. Her husband was the governor of Thanh Quan district (in present-day Thai Binh), so she was called Ba Huyen Thanh Quan. She was a female artist with rare talent during the feudal period. Her work currently includes six poems, including the famous poem Qua Deo Ngang. 2. Genre This poem is written in seven-word, eight-syllable form. This is one of the two basic and most popular forms of Tang Luat poetry, including seven words, eight sentences (7 words, 8 sentences) and seven words, four verses (7 words, 4 sentences). Tang luat seven-word, eight-syllable poetry has very strict regulations on layout (basic organization of content and form), rules (regulations on rhyme and tone throughout the poem, and contrast between pairs of 3-4 sentences). , 5 – 6), seal (the connection between sentences 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7). II. BASIC KNOWLEDGE 1. Identify the poetic form of the song Qua Deo Ngang in terms of number of sentences, number of words, rhyme scheme and parallelism. Suggestion: Based on the introduction to poetic form above, check yourself on the number of sentences, words, rhyme scheme and parallelism of the poem. 2. The scene is described at dusk. That time easily evokes a sad and lonely mood, especially for travelers. 3. The scene of Ngang Pass is described with details: grass, flowers, mountains, river, market, a few houses, the sound of national birds, partridges, and a few woodcutters. These details show that Ngang Pass is luxuriant and dense. Humans are few and sparse. The words: crouched, scattered, onomatopoeia: national, da da have a great effect in evoking images, evocative and further evoking the feeling of desolation and loneliness. 4. Ngang Pass scene is a natural scene, vast mountain passes, glimpses of human life but very wild. The scene is described at dusk, and is seen from the mood of someone far from home, so the scene evokes a feeling of sadness, wilderness, and silence. 5. It can be seen that deeply hidden in the natural picture is the mood of the traveler (Ba Huyen Thanh Quan). It's a sad, lonely, nostalgic mood. Reading the poem, we feel the heart-wrenching cries of the national bird and the partridge are also the sound of our hearts yearning for home and the country's past. The last verse is the climax of the sadness and loneliness of a guest far from home. 6. There is an opposing relationship between the sky, mountains, water and a private love. The larger the scene, the lonelier the love and the smaller the person. Thus, it is clear that the scene contributes to making the author's loneliness even greater and more severe. III. PRACTISE SKILL 1. How to read When reading a poem with seven words and eight sentences, first of all you have to pay attention to the correct rhythm (4/3), then pay attention to the parallelism in the two pairs 3 - 4, 5 - 6. For this poem specifically, you need to pay attention. The intention is to read slowly and expressively, expressing the author's deep sadness. 2. Find the meaning of the phrase me and me. Hint: the meaning of each word and the whole phrase is:
Hướng dẫn Bài soạn văn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 1 dưới đây: Các yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản biểu cảm được VnDoc sưu tầm và giới thiệu. Bài soạn văn mẫu lớp 7 này sẽ giúp các em học sinh tham khảo để hiểu rõ về các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn bản biểu cảm và để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. TRONG VĂN BẢN BIỂU CẢM I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Tự sự và miêu tả trong văn bản biểu cảm a) Hãy chỉ ra các yếu tố tự sự và miêu tả trong bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá và nhận xét về ý nghĩa của chúng đối với bài thơ. Gợi ý: Xem lại bài đọc hiểu văn bản để thấy được sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm trong bài thơ này. Ở mỗi phần của bài thơ, các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm được sử dụng khác nhau: hai câu đầu tự sự, ba câu tiếp miêu tả; từ câu 6 đến câu 10: tự sự kết hợp với biểu cảm (kể chuyện trẻ con cướp mái tranh, bộc lộ sự uất ức); từ câu 11 đến câu 18: tự sự + miêu tả + biểu cảm; đoạn cuối: biểu cảm. Bằng sự kết hợp ba yếu tố tự sự, miêu tả và biểu cảm, bài thơ đã khắc hoạ đậm nét tình cảnh khốn cùng của nhà thơ khi căn nhà bị gió thu phá nát từ đó bộc lộ khát vọng cao cả về mái nhà che chở cho mọi người. b) Đọc đoạn văn sau và chỉ ra các yếu tố tự sự, miêu tả trong đó. Các yếu tố tự sự và miêu tả đã giúp gì cho việc bộc lộ tình cảm của tác giả? Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã. Người ta nói “đấy là bàn chân vất vả”. Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm. Đêm nào bố cũng ngâm nước nóng hoà muối, gãi lấy gãi để rồi xỏ vào đôi guốc mộc. Khi ngủ bố rên, rên vì đau mình, nhưng cũng rên vì nhức chân. Rượu tê thấp không tài nào xoa bóp khỏi. Bố đi chân đất. Bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước, xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sương còn đẫm ngọn cây ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm. Cái thúng câu bao lần chà đi xát lại bằng sắn thuyền. Cái ống câu nhẵn mòn, cái cần câu bóng dấu tay cầm… Con chỉ biết cái hòm đồ nghề cắt tóc sực mùi dầu máy tra tông-đơ, cái ghế xép bao lần thay vải, nó theo bố đi xa lắm Bố ơi! Bố chữa làm sao được lành lặn đôi chân ấy: đôi bàn chân dầm sương dãi nắng đã thành bệnh. (Duy Khán, Tuổi thơ im lặng) Gợi ý: Tác giả miêu tả bàn chân bố; kể chuyện bố ngâm chân nước muối, bố rên vì đau, bố đi sớm về hôm và bộc lộ tình thương của người con đối với bố. Việc miêu tả bàn chân bố, kể chuyện về bố làm nền tảng cho việc bộc lộ cảm xúc thương bố ở cuối bài. c) Đoạn văn trên miêu tả, tự sự trong niềm hồi tưởng. Hãy cho biết tình cảm đã chi phối tự sự và miêu tả trong đoạn văn trên như thế nào? Gợi ý: Việc miêu tả, tự sự trong niềm hồi tưởng khiến cho hình ảnh bàn chân dầm sương dãi nắng, nỗi vất vả sớm hôm của người bố không còn chỉ là hình ảnh, sự việc đơn thuần mà đã hoà thấm với tình cảm thương yêu vô hạn của người con. Hồi tưởng về người bố với tình cảm ấy, những hình ảnh và sự việc trở lên giàu sức gợi, có sức truyền cảm mạnh mẽ. II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Hãy kể lại nội dung bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ bằng một bài văn xuôi biểu cảm. Gợi ý: Cần tái hiện lại biến cố nhà tranh của Đỗ Phủ bị gió thu phá nát nhưng mục đích không phải là miêu tả, kể chuyện thuần tuý. Điều quan trọng là qua việc kể lại biến cố của nhà thơ Đỗ Phủ, miêu tả cảnh mái nhà bị gió thu phá nát tơi bời, chuyện trẻ con cướp tranh chạy mất, chuyện tủi cực trong đêm mưa gió trong ngôi nhà dột nát… để thể hiện sự cảm thông trước tình cảnh khốn cùng của thi sĩ, đồng thời bày tỏ lòng cảm phục, nỗi xúc động đối với ước muốn cao cả của ông. Ông ước mơ có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ. 2. Trên cơ sở bài văn Kẹo mầm của Băng Sơn, hãy viết lại thành một bàI văn biểu cảm. Gợi ý: Để chuyển văn bản này thành một bài văn biểu cảm cần chú ý thể hiện được những điểm sau đây trong bài viết của mình:
Instruct The essay for Literature subject grade 7, semester 1 is below: Narrative and descriptive elements in expressive text are collected and introduced by VnDoc. This sample essay for grade 7 will help students refer to it to clearly understand the narrative and descriptive elements in expressive writing and to prepare well for the upcoming new semester's lectures. IN EXPRESSIVE TEXT I. BASIC KNOWLEDGE 1. Narration and description in expressive writing a) Point out the narrative and descriptive elements in the song "Song of the Thatched House Destroyed by the Wind" and comment on their meaning to the poem. Suggestion: Review the reading comprehension text to see the combination of narrative, description and expression in this poem. In each part of the poem, narrative, descriptive, and expressive elements are used differently: the first two sentences narrate, the next three describe; from verses 6 to 10: narrative combined with expression (telling the story of children robbing thatched roofs, expressing frustration); from verses 11 to 18: narrative + description + expression; last paragraph: expression. By combining the three elements of narrative, description and expression, the poem clearly depicts the poet's miserable situation when his house was destroyed by the autumn wind, thereby revealing his noble desire for a roof over his head. carry everyone. b) Read the following passage and point out the narrative and descriptive elements in it. How do the narrative and descriptive elements help express the author's feelings? Dad's toes were cupped, always clinging to the ground to avoid slipping. People say "those are hard feet". The soles of the feet are always gray and pockmarked, always missing a piece, not as full as other people's soles. The instep of the foot has white mold, the skin peels off in patches, and there are spots. Every night, my father soaked himself in hot water mixed with salt, scratched himself and then put on wooden clogs. When he slept, his father groaned and groaned because his body hurt, but he also groaned because his legs hurt. Alcohol numbs rheumatism and cannot be massaged away. Dad went barefoot. I don't understand where Dad goes from east to west. I just see my dad dipping his feet in the water and mud every day to fish. Dad was busy walking while the dew was still soaking the tops of the trees and grass. When Dad returned, the grass was drenched in night dew. The fishing basket was rubbed over and over again with cassava. The fishing reel is smooth and worn, the fishing rod is shiny with marks on the handle... I only know that the barber's toolbox smells of clipper oil, the sofa has had its cloth changed many times, it has followed dad a long way. Dad! Dad, how could he heal those feet? Those feet, soaked in dew and exposed to the sun, had become sick. (Duy Khan, Silent Childhood) Hint: The author describes his father's feet; Telling the story of his father soaking his feet in salt water, his father groaning in pain, his father returning home early that day and revealing his son's love for his father. Describing his father's feet and telling stories about his father serve as the basis for expressing his feelings of pity for his father at the end of the article. c) The above paragraph describes and narrates in remembrance. Please tell us how emotions have influenced the narrative and description in the above passage? Suggestion: The description and narrative in remembrance makes the image of the father's feet soaked in dew and the morning's hardships no longer just a simple image or event, but mixed with emotions. the infinite love of a child. Reminiscing about his father with that feeling, the images and events become rich in evocation and strong inspiration. II. PRACTISE SKILL 1. Retell the content of Du Phu's "Song of a Thatched House Destroyed by the Wind" in expressive prose. Suggestion: It is necessary to recreate the incident where Du Phu's cottage was destroyed by the autumn wind, but the purpose is not to simply describe or tell a story. The important thing is through recounting the incident of poet Do Phu, describing the scene of the roof being destroyed by the autumn wind, the story of children stealing paintings and running away, the story of misery on a rainy and windy night in a dilapidated house... to show sympathy for the poet's miserable situation, and at the same time express admiration and emotion for his noble desire. He dreamed of having a sturdy house of thousands of spaces to protect all the poor people in the world. 2. Based on Bang Son's essay Sprouted Candy, rewrite it into an expressive essay. Hint: To turn this text into an expressive essay, you need to pay attention to expressing the following points in your writing:
Hướng dẫn Soạn bài lớp 7: Tìm hiểu chung về văn nghị luận dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 7 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Mời các bạn cùng tham khảo bài soạn văn tìm hiểu chung về văn nghị luận dưới đây. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VĂN NGHỊ LUẬN 1. Nhu cầu nghị luận Để giải quyết các vấn đề được đặt ra dưới đây, em có thể dùng văn bản tự sự, miêu tả hay biểu cảm được không? Vì sao? Gợi ý: Như vậy, với các vấn đề, cũng là các tình huống giao tiếp, đặt ra ở trên, chúng ta không thể sử dụng văn tự sự, miêu tả hay biểu cảm để giải quyết. Chỉ có thể giải quyết các vấn đề tương tự như thế này, người ta phải sử dụng nghị luận như một phương thức biểu đạt chính, với các lí lẽ chặt chẽ, thuyết phục. Trên thực tế, chúng ta vẫn thường gặp các tình huống mà không thể không sử dụng nghị luận. Đó có thể là lời phát biểu, nêu ra ý kiến, có thể là một bài xã luận, bình luận, đánh giá về một vấn đề nào đó của đời sống. 2. Thế nào là văn bản nghị luận? Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: CHỐNG NẠN THẤT HỌC Quốc dân Việt Nam! Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sánh ngu dân. Chúng hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối dân ta và bóc lột dân ta. Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước ta là 95 phần trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được? Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí […] Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây phong trào truyền bá Quốc ngữ, giúp đồng bào thất học. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học tại tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình. Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử. Công việc này, mong các anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức. Chủ tịch Chính phủ nhân dân lâm thời Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000) a) Bác Hồ viết bài văn này để làm gì? Gợi ý: Trong bài viết này, Bác vạch rõ tình trạng dân trí chung của xã hội ta từ đó đề cập đến việc cần thiết phải học tập, kêu gọi mọi người cùng học tập. b) Hãy tóm tắt những ý chính của bài viết. Tìm các câu văn mang luận điểm. Gợi ý: Các câu văn mang luận điểm chính của bài văn: c) Để thuyết phục người đọc, người viết đã làm gì? Hãy liệt kê các lí lẽ của bài văn. Gợi ý: Để tạo sức thuyết phục cho bài viết, người viết đã triển khai những luận điểm chính với các lí lẽ chặt chẽ: d) Trong bài văn, tác giả có sử dụng kể chuyện, miêu tả, biểu cảm không? Vì sao? Gợi ý: Để giải quyết vấn đề “Chống nạn thất học” như trên, không thể sử dụng kể chuyện, miêu tả hay biểu cảm. Sức thuyết phục chỉ có thể được tạo nên bằng hệ thống các luận điểm, trình bày với lí lẽ lôgic, chặt chẽ. Nhiệm vụ giải quyết vấn đề đặt ra đòi hỏi phải sử dụng nghị luận. đ) Văn bản nghị luận là gì? Gợi ý: Văn bản nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó bằng những luận điểm rõ ràng, với lí lẽ chặt chẽ, dẫn chứng xác thực. 1. a) Bài văn dưới đây có phải là bài văn nghị luận không? Vì sao? CẦN TẠO RA THÓI QUEN TỐT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Có thói quen tốt và thói quen xấu. Luôn dậy sớm, luôn đúng hẹn, giữ lời hứa, luôn đọc sách,… là thói quen tốt. Hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự là thói quen xấu. Có người biết phân biệt tốt và xấu, nhưng vì đã thành thói quen nên rất khó bỏ, khó sửa. Chẳng hạn vì thói quen hút thuốc lá, nên cũng có thói quen gạt tàn bừa bãi ra nhà, cả trong phòng khách lịch sự, sạch bong. Người biết lịch sự thì còn sửa một chút bằng cách xin chủ nhà cho mượn cái gạt tàn. Một thói quen xấu ta thường gặp hàng ngày, ở bất cứ đâu là thói quen vứt rác bừa bãi. Ăn chuối xong cứ tiện tay là vứt toẹt ngay cái vỏ ra cửa, ra đường… Thói quen này thành tệ nạn… Một xóm nhỏ, con mương sau nhà thành con sông rác… Những nơi khuất, nơi công cộng, lâu ngày rác cứ ùn lên, khiến nhiều khu dân cư phải chịu hậu quả mất vệ sinh nặng nề. Tệ hại hơn có người có cái cốc vỡ, cái chai vỡ cũng tiện tay ném ra đường. Vì thế trẻ em, cụ già giẫm phải, chảy máu chân rất nguy hiểm. Tạo được thói quen tốt là rất khó. Nhưng nhiễm thói quen xấu thì dễ. Cho nên mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội? (Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường) Gợi ý: Có vấn đề nào được đưa ra và giải quyết trong bài văn này không? Tác giả nêu lên ý kiến nào? Có mục đích thuyết phục người đọc về ý kiến ấy không? Văn bản trên là một văn bản nghị luận. Tác giả bàn đến vấn đề tập thói quen tốt, loại bỏ những thói quen xấu trong đời sống hàng ngày. b) Tóm tắt những ý chính của bài văn. Để tạo cho bài văn có sức thuyết phục, người viết đã trình bày các luận điểm với lí lẽ và dẫn chứng như thế nào? Gợi ý: Luận điểm chính của bài văn thể hiện ở: Luận điểm chính trên được triển khai với các lí lẽ: c) Vấn đề mà bài viết trên bàn bạc có đúng với thực tế của đời sống không? Những gì mà người viết giải quyết trong bài viết có ý nghĩa như thế nào? Gợi ý: Vấn đề bảo vệ môi trường, giữ gìn nếp sống văn minh có phải là vấn đề nóng bỏng hiện nay không? Em có hay được nghe nói đến vấn đề này trên các phương tiện thông tin không? Với việc đó nên tán thành hay phản đối? 2. Nhận xét về bố cục của bài văn trên. Gợi ý: Có thể chia bài văn thành mấy phần? Nội dung chính của từng phần là gì? Bài văn có bố cục 3 phần: Mở bài (Nêu vấn đề thói quen và thói quen tốt); Thân bài (Tác hại của thói quen xấu và việc cần thiết phải loại bỏ thói quen xấu); Kết bài (Kêu gọi mọi người loại bỏ thói quen xấu, tự điều chỉnh mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội.) 3. Sưu tầm thêm một số văn bản nghị luận mà em biết. Gợi ý: Tìm trên những tờ báo mà em đang có (hoặc mượn của người khác) để chép lại các đoạn văn theo yêu cầu. 4. Bài văn sau đây có phải là văn bản nghị luận không? HAI BIỂN HỒ Người ta bảo ở bên Pa-le-xtin có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi. Ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Ga-li-lê. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này. Nhưng điều kì lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng. Nước sông Gioóc-đăng chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Ga-li-lê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú, con người. Một định lí trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình: Một ánh lửa sẻ chia là một ánh lửa lan toả, một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Thật bất hạnh cho ai cả đời chỉ biết giữ cho riêng mình. “Sự sống” trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển Chết… (Theo Quà tặng của cuộc sống) Gợi ý: Mặc dù có sử dụng tự sự nhưng văn bản trên vẫn là một văn bản nghị luận. Kể chuyện “Hai biển hồ” là để luận bàn về hai cách sống: cách sống chỉ biết giữ cho riêng mình và cách sống biết sẻ chia cùng mọi người. Hình ảnh hai biển hồ mang ý nghĩa tượng trưng cho hai cách sống đối lập
Hướng dẫn Soạn bài lớp 7: Tìm hiểu chung về văn nghị luận dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 7 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Mời các bạn cùng tham khảo bài soạn văn tìm hiểu chung về văn nghị luận dưới đây. TÌM HIỂU CHUNG VỀ VĂN NGHỊ LUẬN 1. Nhu cầu nghị luận Để giải quyết các vấn đề được đặt ra dưới đây, em có thể dùng văn bản tự sự, miêu tả hay biểu cảm được không? Vì sao? Gợi ý: Như vậy, với các vấn đề, cũng là các tình huống giao tiếp, đặt ra ở trên, chúng ta không thể sử dụng văn tự sự, miêu tả hay biểu cảm để giải quyết. Chỉ có thể giải quyết các vấn đề tương tự như thế này, người ta phải sử dụng nghị luận như một phương thức biểu đạt chính, với các lí lẽ chặt chẽ, thuyết phục. Trên thực tế, chúng ta vẫn thường gặp các tình huống mà không thể không sử dụng nghị luận. Đó có thể là lời phát biểu, nêu ra ý kiến, có thể là một bài xã luận, bình luận, đánh giá về một vấn đề nào đó của đời sống. 2. Thế nào là văn bản nghị luận? Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi: CHỐNG NẠN THẤT HỌC Quốc dân Việt Nam! Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sánh ngu dân. Chúng hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối dân ta và bóc lột dân ta. Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước ta là 95 phần trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao được? Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí […] Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây phong trào truyền bá Quốc ngữ, giúp đồng bào thất học. Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học tại tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình. Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử. Công việc này, mong các anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức. Chủ tịch Chính phủ nhân dân lâm thời Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000) a) Bác Hồ viết bài văn này để làm gì? Gợi ý: Trong bài viết này, Bác vạch rõ tình trạng dân trí chung của xã hội ta từ đó đề cập đến việc cần thiết phải học tập, kêu gọi mọi người cùng học tập. b) Hãy tóm tắt những ý chính của bài viết. Tìm các câu văn mang luận điểm. Gợi ý: Các câu văn mang luận điểm chính của bài văn: c) Để thuyết phục người đọc, người viết đã làm gì? Hãy liệt kê các lí lẽ của bài văn. Gợi ý: Để tạo sức thuyết phục cho bài viết, người viết đã triển khai những luận điểm chính với các lí lẽ chặt chẽ: d) Trong bài văn, tác giả có sử dụng kể chuyện, miêu tả, biểu cảm không? Vì sao? Gợi ý: Để giải quyết vấn đề “Chống nạn thất học” như trên, không thể sử dụng kể chuyện, miêu tả hay biểu cảm. Sức thuyết phục chỉ có thể được tạo nên bằng hệ thống các luận điểm, trình bày với lí lẽ lôgic, chặt chẽ. Nhiệm vụ giải quyết vấn đề đặt ra đòi hỏi phải sử dụng nghị luận. đ) Văn bản nghị luận là gì? Gợi ý: Văn bản nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó bằng những luận điểm rõ ràng, với lí lẽ chặt chẽ, dẫn chứng xác thực. 1. a) Bài văn dưới đây có phải là bài văn nghị luận không? Vì sao? CẦN TẠO RA THÓI QUEN TỐT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Có thói quen tốt và thói quen xấu. Luôn dậy sớm, luôn đúng hẹn, giữ lời hứa, luôn đọc sách,… là thói quen tốt. Hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự là thói quen xấu. Có người biết phân biệt tốt và xấu, nhưng vì đã thành thói quen nên rất khó bỏ, khó sửa. Chẳng hạn vì thói quen hút thuốc lá, nên cũng có thói quen gạt tàn bừa bãi ra nhà, cả trong phòng khách lịch sự, sạch bong. Người biết lịch sự thì còn sửa một chút bằng cách xin chủ nhà cho mượn cái gạt tàn. Một thói quen xấu ta thường gặp hàng ngày, ở bất cứ đâu là thói quen vứt rác bừa bãi. Ăn chuối xong cứ tiện tay là vứt toẹt ngay cái vỏ ra cửa, ra đường… Thói quen này thành tệ nạn… Một xóm nhỏ, con mương sau nhà thành con sông rác… Những nơi khuất, nơi công cộng, lâu ngày rác cứ ùn lên, khiến nhiều khu dân cư phải chịu hậu quả mất vệ sinh nặng nề. Tệ hại hơn có người có cái cốc vỡ, cái chai vỡ cũng tiện tay ném ra đường. Vì thế trẻ em, cụ già giẫm phải, chảy máu chân rất nguy hiểm. Tạo được thói quen tốt là rất khó. Nhưng nhiễm thói quen xấu thì dễ. Cho nên mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội? (Theo Băng Sơn, Giao tiếp đời thường) Gợi ý: Có vấn đề nào được đưa ra và giải quyết trong bài văn này không? Tác giả nêu lên ý kiến nào? Có mục đích thuyết phục người đọc về ý kiến ấy không? Văn bản trên là một văn bản nghị luận. Tác giả bàn đến vấn đề tập thói quen tốt, loại bỏ những thói quen xấu trong đời sống hàng ngày. b) Tóm tắt những ý chính của bài văn. Để tạo cho bài văn có sức thuyết phục, người viết đã trình bày các luận điểm với lí lẽ và dẫn chứng như thế nào? Gợi ý: Luận điểm chính của bài văn thể hiện ở: Luận điểm chính trên được triển khai với các lí lẽ: c) Vấn đề mà bài viết trên bàn bạc có đúng với thực tế của đời sống không? Những gì mà người viết giải quyết trong bài viết có ý nghĩa như thế nào? Gợi ý: Vấn đề bảo vệ môi trường, giữ gìn nếp sống văn minh có phải là vấn đề nóng bỏng hiện nay không? Em có hay được nghe nói đến vấn đề này trên các phương tiện thông tin không? Với việc đó nên tán thành hay phản đối? 2. Nhận xét về bố cục của bài văn trên. Gợi ý: Có thể chia bài văn thành mấy phần? Nội dung chính của từng phần là gì? Bài văn có bố cục 3 phần: Mở bài (Nêu vấn đề thói quen và thói quen tốt); Thân bài (Tác hại của thói quen xấu và việc cần thiết phải loại bỏ thói quen xấu); Kết bài (Kêu gọi mọi người loại bỏ thói quen xấu, tự điều chỉnh mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội.) 3. Sưu tầm thêm một số văn bản nghị luận mà em biết. Gợi ý: Tìm trên những tờ báo mà em đang có (hoặc mượn của người khác) để chép lại các đoạn văn theo yêu cầu. 4. Bài văn sau đây có phải là văn bản nghị luận không? HAI BIỂN HỒ Người ta bảo ở bên Pa-le-xtin có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi. Ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Ga-li-lê. Đây là biển hồ thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này. Nhưng điều kì lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng. Nước sông Gioóc-đăng chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Ga-li-lê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú, con người. Một định lí trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình: Một ánh lửa sẻ chia là một ánh lửa lan toả, một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Thật bất hạnh cho ai cả đời chỉ biết giữ cho riêng mình. “Sự sống” trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển Chết… (Theo Quà tặng của cuộc sống) Gợi ý: Mặc dù có sử dụng tự sự nhưng văn bản trên vẫn là một văn bản nghị luận. Kể chuyện “Hai biển hồ” là để luận bàn về hai cách sống: cách sống chỉ biết giữ cho riêng mình và cách sống biết sẻ chia cùng mọi người. Hình ảnh hai biển hồ mang ý nghĩa tượng trưng cho hai cách sống đối lập
Hướng dẫn Soạn văn 7 bài Luyện nói phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo. Bài soạn văn mẫu lớp 7 này được sưu tầm nhằm giúp các em luyện tập phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học tại nhà và trên lớp để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC I. HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN 1. Chuẩn bị ở nhà Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về một trong hai bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cảnh khuya, Rằm tháng giêng. a) Tìm hiểu đề và tìm ý Xác định đối tượng biểu cảm: Định hướng tình cảm cho bài làm: b) Lập dàn bài Lập dàn ý cho từng phần theo bố cục ba phần: Mở bài: Giới thiệu khái quát về bài thơ và tác giả bài thơ; nêu cảm nghĩ chung của mình về bài thơ. Thân bài: Kết bài: Nhấn mạnh tình cảm của mình đối với bài thơ. 2. Thực hành trên lớp a) Chia tổ để tập nói theo dàn bài đã chuẩn bị; b) Nghe và tự nhận xét lẫn nhau, tự sửa chữa bài nói của mình; c) Nghe các bài nói tiêu biểu của cả lớp, ghi chép những nhận xét, sửa chữa của thầy, cô giáo; tự hoàn thiện bài của mình. II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG Lập dàn ý cho bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học lớp 7. Yêu cầu Thể loại: Văn biểu cảm Nội dung:
Instruct Prepare 7 essays to practice speaking and express thoughts about literary works collected by VnDoc and introduce them to students for reference. This sample essay for grade 7 was collected to help students practice expressing their thoughts about literary works at home and in class to prepare well for their upcoming new semester's lectures. ABOUT LITERARY WORKS I. IMPLEMENTATION INSTRUCTIONS 1. Prepare at home Topic: Express your feelings about one of President Ho Chi Minh's two poems: Late Night Scene, Full Moon of January. a) Understand the topic and find ideas Identify expressive objects: Emotional orientation for the assignment: b) Make an outline Outline each section according to a three-part layout: Introduction: General introduction to the poem and its author; State your general thoughts about the poem. Body of the article: Conclusion: Emphasize your feelings for the poem. 2. Practice in class a) Divide into groups to practice speaking according to the prepared outline; b) Listen and comment on each other, correct your own speech; c) Listen to typical speeches of the whole class, record comments and corrections from teachers; Complete your own essay. II. PRACTISE SKILL Create an outline for an expressive essay about a 7th grade literary work. Request Genre: Expressive writing Content:
Hướng dẫn Soạn bài lớp 7: Tục ngữ về con người và xã hội dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 7 của học kì 2 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. TỤC NGỮ VỀ CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI (Xem thêm trong bài Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất) Ngoài các cách gieo vần tương tự như ở bài Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất, các câu tục ngữ về con người và xã hội còn nổi bật ở những khía cạnh khác: Không thầy đố mày làm nên Học thầy không tày học bạn. Không nên căn cứ vào ý nghĩa của câu sau để phủ nhận vai trò của người thầy cũng như đề cao vai trò của bạn quá mức. Thực ra, đây chỉ là những cách nói hình ảnh. Nói đến “thầy” là nói đến nhà trường, đến những tri thức sách vở, còn nói đến “bạn” là nói đến thực tiễn đời sống muôn màu vẻ. Có câu “Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi“, tri thức đời sống rất quan trọng nhưng không ai có thể phủ nhận vai trò của nhà trường, của tri thức sách vở trong việc mở mang vốn tri thức, bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách của con người. Tri thức sách vở và tri thức đời sống đều cần thiết, không loại trừ nhau, trái lại, phải bổ sung cho nhau để con người được hoàn thiện. 1. Đọc kĩ văn bản và chú thích các từ mặt người và không tày. 2. Phân tích từng câu tục ngữ mà câu tục ngữ thể hiện 3.* Câu tục ngữ nêu mối quan hệ thầy trò, bình luận, đánh giá vai trò của người thầy và xác định việc tiếp thu học hỏi từ bạn bè được nhân dân đúc kết: Mới đọc tưởng chừng hai câu tục ngữ đối lập nhau nhưng thực chất lại bổ sung chặt chẽ cho nhau. Cả hai câu, câu nào cũng đề cao việc học, chỉ có học tập, biết tìm thầy mà học thì con người mới có thể thành tài, có khả năng đóng góp cho xã hội và sống mới có ý nghĩa. 4. Các giá trị nổi bật của các đặc điểm trong tục ngữ: * Diễn đạt bằng so sánh: Phép so sánh được sử dụng rất đa dạng, linh hoạt. Trong câu thứ nhất, so sánh “bằng”, hai âm “ươi” (người – mười) vần và đối nhau qua từ so sánh. Trong câu thứ hai cũng diễn đạt quan hệ đó, dân gian so sánh “tày”, vần với âm “ay” trong vế đưa ra so sánh (thầy). Câu thứ ba dùng phép so sánh “như”. Các cách sử dụng đó có tác dụng dễ thuộc, dễ nhớ, chuyển tải ý tưởng một cách dễ dàng. * Diễn đạt bằng hình ảnh ẩn dụ: Hình ảnh ẩn dụ trong câu thứ nhất: từ quả – cây nghĩa đen chuyển sang thành quả và người có công giúp đỡ, sinh thành… Tương tự như vậy, cây và non chuyển sang nghĩa một cá nhân và việc lớn, việc khó… là những phép ẩn dụ có tác dụng mở rộng nghĩa, diễn đạt uyển chuyển các ý tưởng cần nêu. * Dùng từ và câu có nhiều nghĩa: Các cách dùng từ này tạo ra các lớp nghĩa phong phú, thích ứng với nhiều tình huống diễn đạt và hoàn cảnh giao tiếp.8 1. Cách đọc Cách đọc tục ngữ cơ bản giống nhau, đều phải đảm bảo đọc đúng vần, đúng nhịp. Ngay cả với những câu tục ngữ có hình thức ca dao (“Một cây làm chẳng nên non…”) thì tính chất đúc rút kinh nghiệm vẫn là chủ yếu, cần đọc rõ ràng, rành mạch, không cần chú ý nhiều đến yếu tố truyền cảm. 2. Tìm những câu tục ngữ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với những câu tục ngữ đã học trong bài này. Gợi ý: Tham khảo các câu tục ngữ sau: Đồng nghĩa: Trái nghĩa:
Instruct 7th grade lesson preparation: The following proverbs about people and society are collected and introduced by VnDoc to you for reference to help you study well in 7th grade Literature of the 2nd semester to prepare for the upcoming lectures of me. PROVERBS ABOUT PEOPLE AND SOCIETY (See more in the article Proverbs about nature and productive labor) In addition to similar rhyming methods as in the Proverbs about nature and productive labor, proverbs about people and society also stand out in other aspects: Should not his teacher Learning from the teacher is not good at learning from friends. You should not rely on the meaning of the following sentence to deny the role of the teacher or to promote your role too much. Actually, these are just visual ways of speaking. When we talk about "teacher" we talk about school, we talk about book knowledge, and when we talk about "friend" we talk about the colorful realities of life. There is a saying "All theories are just gray, but the tree of life is forever green", life knowledge is very important but no one can deny the role of school and book knowledge in expanding capital. knowledge, fostering human qualities and personality. Book knowledge and life knowledge are both necessary, they do not exclude each other, on the contrary, they must complement each other for humans to be perfect. 1. Read the text carefully and annotate the words human and indifferent. 2. Analyze each proverb which the proverb represents 3.* The proverb stating the teacher-student relationship, commenting and evaluating the role of the teacher and determining the absorption of learning from friends was summarized by the people: At first reading, it seems like the two proverbs are opposites, but in fact they closely complement each other. Both sentences emphasize learning. Only by studying and knowing how to find a teacher can people become talented, be able to contribute to society and live a meaningful life. 4. Outstanding values ​​of characteristics in proverbs: * Expressed by comparison: Comparisons are used very diversely and flexibly. In the first sentence, comparing "equal", the two sounds "orang" (people - ten) rhyme and oppose each other through the word comparison. In the second sentence, which also expresses that relationship, people compare "tay", rhyming with the sound "ay" in the clause giving the comparison (teacher). The third sentence uses the comparison "like". These usages are easy to memorize, easy to remember, and easily convey ideas. * Expressed using metaphorical images: Metaphorical image in the first sentence: from fruit - tree literally changes to fruit and the person who helps and gives birth... Similarly, tree and sapling change to the meaning of an individual and big, difficult work... are metaphors that have the effect of expanding meaning and flexibly expressing the ideas that need to be stated. * Use words and sentences with multiple meanings: These ways of using words create rich layers of meaning, adapting to many expression situations and communication situations.8 1. How to read The basic way to read proverbs is the same, you must ensure you read them with the correct rhyme and rhythm. Even with proverbs that have the form of folk songs ("A tree cannot make a young tree..."), the nature of drawing from experience is still the main thing, it needs to be read clearly and distinctly, without needing to pay much attention to the weak points. inspirational factor. 2. Find proverbs that have the same or opposite meaning as the proverbs learned in this lesson. Suggestion: Refer to the following proverbs: Synonymous: Opposite:
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài soạn văn Bố cục và phương pháp lập luận trong bài văn nghị luận. Bài soạn văn 7 này được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. BỐ CỤC VÀ PHƯƠNG PHÁP LẬP LUẬN TRONG BÀI VĂN NGHỊ LUẬN 1. Bố cục trong bài văn nghị luận Đọc lại bài Tinh thần yêu nước và cho biết: Gợi ý: Văn bản có bố cục ba phần: Phần Mở bài nêu lên vấn đề sẽ bàn luận: tinh thần yêu nước của nhân dân ta – luận điểm lớn; Phần Thân bài cụ thể hoá luận điểm lớn bằng các luận điểm nhỏ: Phần Kết bài khẳng định những luận điểm đã trình bày: Bổn phận chúng ta ngày nay trong việc phát huy tinh thần yêu nước. 2. Lập luận trong bài văn nghị luận Lập luận là cách đưa ra những luận cứ (lí lẽ và dẫn chứng) để thuyết phục người đọc (nghe) về tư tưởng, quan điểm của người viết (nói) (thể hiện ở luận điểm chính). Từ luận điểm, người ta tiến hành xác định lí lẽ cho phù hợp. Sau đó, từ lí lẽ, người ta tiến hành lựa chọn dẫn chứng cho phù hợp. Như vậy, lí lẽ và dẫn chứng phải phù hợp với nhau và phù hợp với luận điểm. Có lập luận tổng thể của cả bài – lập luận theo chiều dọc và có lập luận bộ phận của từng đoạn – lập luận theo chiều ngang. Mở bài: Lập luận theo quan hệ nguyên nhân – kết quả Kết bài: Lập luận theo quan hệ suy luận tương đồng Đọc bài văn sau đây và trả lời câu hỏi. HỌC CƠ BẢN MỚI CÓ THỂ TRỞ THÀNH TÀI LỚN Ở đời có nhiều người đi học, nhưng ít ai biết học cho thành tài. Danh hoạ I-ta-li-a Lê-ô-na đơ Vanh-xi (1452 – 1519) thời còn bé, cha thấy có năng khiếu hội hoạ, mới cho theo học danh hoạ Vê-rô-ki-ô. Đơ Vanh-xi thì muốn học cho nhanh, nhưng cách dạy của Vê-rô-ki-ô rất đặc biệt. Ông bắt cậu bé học vẽ trứng gà mấy chục ngày liền, làm cậu ta phát chán. Lúc bấy giờ cậu thầy mới nói:”Em nên biết rằng trong một nghìn cái trứng, không bao giờ có hai cái hình dáng hoàn toàn giống nhau! Cho dù là một cái trứng, chỉ cần ta thay đổi góc nhìn nó lại hiện ra một hình dáng khác. Do vậy nếu không cố công luyện tập thì không vẽ đúng được đâu.!”. Thầy Vê-rô-ki-ô còn nói, vẽ đi vẽ lại cái trứng còn là cách luyện mắt cho tinh, luyện tay cho dẻo. Khi nào mắt tinh tay dẻo thì mới vẽ được mọi thứ. Học theo cách của thầy quả nhiên về sau Đơ Vanh-xi trở thành hoạ sĩ lớn của thời Phục hưng. Chuyện vẽ trứng của Đơ Vanh-xi cho người ta thấy chỉ ai chịu khó luyện tập động tác cơ bản thật tốt, thật tinh thì mới có tiền đồ. Và cũng chỉ có những ông thầy lớn mới biết dạy cho học trò những điều cơ bản nhất. Người xưa nói, chỉ có thầy giỏi mới đào tạo được trò giỏi, quả không sai. (Theo Xuân Yên) a) Bài văn nêu tư tưởng gì? Tư tưởng ấy thể hiện ở những luận điểm nào? Tìm những câu mang luận điểm. Gợi ý: Bài văn nêu tư tưởng: vai trò của học cơ bản đối với một nhân tài. Luận điểm chính của bài văn thể hiện rõ từ nhan đề của bài văn: học cơ bản mới có thể trở thành tài lớn; nói cách khác: để trở thành tài phải học từ cơ bản. Để thể hiện được luận điểm, người viết đã thiết lập lí lẽ và dẫn chứng: b) Bài văn trên được bố cục ra sao? Hãy nhận xét về cách lập luận của bài văn. Gợi ý: Quan sát các mô hình sau: Lập luận của toàn bài, lập luận chiều dọc: Quan hệ tổng phân hợp.
Instruct The essay for Literature subject grade 7, semester 2 below includes the composition and argumentation method in an argumentative essay. This 7th essay is collected and introduced by VnDoc for students to refer to and prepare well for their upcoming new semester's lectures. LAYOUT AND METHOD OF ARGUMENT IN DISCUSSION ESSAY 1. Arrangement in an argumentative essay Read the article Patriotism again and say: Suggest: The text has a three-part layout: The Introduction raises the issues to be discussed: the patriotic spirit of our people - the big argument; The body of the essay concretizes the big thesis with small arguments: The conclusion of the article affirms the presented arguments: It is our duty today to promote the spirit of patriotism. 2. Argument in an argumentative essay Argument is a way of giving arguments (reasons and evidence) to convince the reader (listener) of the writer's (speaking) thoughts and opinions (expressed in the main thesis). From the thesis, people proceed to determine the appropriate argument. Then, from reason, people proceed to choose appropriate evidence. Thus, arguments and evidence must be consistent with each other and consistent with the thesis. There is the overall argument of the whole article - vertical argument and there is the partial argument of each paragraph - horizontal argument. Introduction: Arguing based on cause-effect relationships Conclusion: Reasoning based on similar inference relationships Read the following text and answer the questions. LEARNING THE BASICS CAN BECOME A GREAT TALENT In life, there are many people who go to school, but few know how to study to become talented. When he was a child, the famous Italian painter Leona de Vanxi (1452 - 1519) saw his father have a talent for painting, so he studied with the famous painter Verokio. De Vanci wanted to learn quickly, but Verokio's teaching style was very special. He forced the boy to learn how to draw chicken eggs for dozens of days, making him bored. At that time, the teacher said: "You should know that in a thousand eggs, there will never be two exactly the same shape! Even if it is an egg, as long as we change the angle of view, it will appear in a different shape. Therefore, if you don't practice hard, you won't be able to draw correctly!". Mr. Verokio also said that drawing an egg over and over again is a way to train your eyes to be sharp and your hands to be supple. Only when your eyes are sharp and your hands flexible will you be able to draw anything. Learning his way, de Vanxi later became a great painter of the Renaissance. De Vanxi's story of drawing eggs shows people that only those who work hard to practice basic movements well and thoroughly will have a future. And only great teachers know how to teach students the most basic things. The ancients said that only good teachers can train good students, which is not wrong. (According to Xuan Yen) a) What ideas does the article express? In what arguments is that thought expressed? Find sentences that carry a thesis. Suggestion: The article presents the idea: the role of basic education for a talented person. The main argument of the essay is clear from the title of the essay: learning the basics can become great talent; In other words: to become talented, you must learn from the basics. To express the thesis, the writer has established arguments and evidence: b) How is the above essay organized? Please comment on the argument of the article. Hint: Observe the following models: Argument of the whole article, vertical argument: The relationship of synthesis and synthesis.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Luyện tập về phương pháp lập luận trong văn nghị luận. Bài soạn văn 7 này được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. LUYỆN TẬP VỀ PHƯƠNG PHÁP LẬP LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN 1. Lập luận trong đời sống a) Đọc các ví dụ sau và cho biết bộ phận nào là luận cứ, bộ phận nào là kết luận. (1) Hôm nay trời mưa, chúng ta không đi chơi công viên nữa. (2) Em rất thích đọc sách, vì qua sách em học được nhiều điều. (3) Trời nóng quá, đi ăn kem đi. Gợi ý: Lập luận là cách đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng (luận cứ) để dẫn dắt thuyết phục người nghe (đọc) chấp nhận một quan điểm, tư tưởng nào đó của người nói (viết). Quan điểm, tư tưởng cần được chấp nhận ấy là kết luận. Quan sát bảng sau: Nhận xét về vị trí, mối quan hệ giữa kết luận và luận cứ trong các câu trên. Có thể hoán đổi vị trí giữa luận cứ với kết luận được không? Gợi ý: Quan sát bảng sau: Có thể hoán đổi vị trí giữa luận cứ và kết luận, ví dụ: Chúng ta không đi chơi công viên nữa, (vì) hôm nay trời mưa. b) Dưới đây là các kết luận, hãy lựa chọn những luận cứ thích hợp để xây dựng thành một lập luận hoàn chỉnh (điền vào vị trí dấu ba chấm). (1) Em rất yêu trường em… (2) Nói dối rất có hại… (3)… nghỉ một lát để nghe nhạc thôi. (4)… chúng ta cần biết nghe lời cha mẹ. (5)… em rất thích đi tham quan. Gợi ý: c) Dưới đây là các luận cứ, hãy viết tiếp phần kết luận. (1) Ngồi mãi ở nhà chán lắm… (2) Ngày mai đã thi rồi mà bài vở còn nhiều quá… (3) Nhiều bạn nói năng thật khó nghe… (4) Các bạn đã lớn rồi, làm anh làm chị chúng nó… (5) Cậu này ham bóng đá thật… Gợi ý: Chú ý lựa chọn kết luận phù hợp với luận cứ cho trước và đúng với thực tế. 2. Lập luận trong văn nghị luận a) Dưới đây là các luận điểm thường gặp trong văn nghị luận. Hãy đọc và nhận xét về đặc điểm chung của chúng. (1) Chống nạn thất học. (2) Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. (3) Cần tạo ra thói quen tốt trong đời sống xã hội. (4) Sách là người bạn lớn của con người. (5) Học cơ bản mới có thể trở thành tài lớn. Gợi ý: Hãy so sánh với các kết luận trong mục 1. b trên để thấy được đặc điểm của luận điểm trong văn nghị luận. Luận điểm trong văn nghị luận là những kết luận có tính khái quát, có ý nghĩa phổ biến đối với xã hội, khác với những kết luận của lập luận trong đời sống là những luận điểm gắn với những tình huống giao tiếp nhất định. b) Tuỳ chọn một đề bài nghị luận đã được giới thiệu trong các bài học trước, hãy hình thành lập luận bằng cách đặt ra những câu hỏi sau: Gợi ý: Trả lời các câu hỏi trên, thực chất là tiến hành xác định các luận điểm nhỏ, các luận cứ thích hợp và sắp xếp chúng cho hợp lí, nhằm dẫn dắt đến kết luận, làm cho người đọc, người nghe đồng ý với luận điểm của mình. Chẳng hạn, với đề bài “Sách là người bạn lớn của con người”, có thể đặt ra những câu hỏi như sau: Đọc lại bài Ích lợi của việc đọc sách (bài 19) để kiểm tra lại các phương án trả lời. 1. Đọc lại hai truyện Thầy bói xem voi và Ếch ngồi đáy giếng. Với mỗi truyện, hãy rút ra một kết luận dưới dạng một luận điểm để có thể dùng làm đề bài cho bài văn nghị luận. Gợi ý: 2. Lập luận cho hai luận điểm vừa xác định được. Gợi ý: Xây dựng lập luận chính: Từ những lập luận chính đã xác định được, hãy đặt các câu hỏi để xây dựng luận điểm phụ và các luận cứ tương ứng; sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo bố cục 3 phần. Chú ý thiết lập mối quan hệ lập luận giữa ba phần, chẳng hạn, với đề Không được chủ quan, kiêu ngạo, có thể lập luận theo quan hệ tổng phân hợp như sau:
Instruct The lesson preparation for Literature subject grade 7, semester 2 is below with the lesson: Practice on argumentation methods in argumentative writing. This 7th essay is collected and introduced by VnDoc for students to refer to and prepare well for their upcoming new semester's lectures. PRACTICE IN REASONING METHODS IN LITERATURE 1. Reasoning in life a) Read the following examples and tell which part is the argument and which part is the conclusion. (1) It's raining today, so we won't go to the park anymore. (2) I really like reading books, because through books I learn many things. (3) It's so hot, let's go eat ice cream. Suggestion: Argument is a way of giving reasons and evidence (arguments) to persuade the listener (reader) to accept a certain point of view or idea of ​​the speaker (writer). The viewpoint and thought that needs to be accepted is the conclusion. Observe the following table: Comment on the position and relationship between the conclusion and arguments in the above sentences. Can the position of argument and conclusion be interchanged? Hint: Observe the following table: Arguments and conclusions can be interchanged, for example: We don't go to the park anymore, (because) it's raining today. b) Below are the conclusions, choose the appropriate arguments to build a complete argument (fill in the ellipsis). (1) I love my school very much… (2) Lying is very harmful… (3)… take a break to listen to music. (4)… we need to listen to our parents. (5)... I really like to go sightseeing. Suggest: c) Below are the arguments, continue writing the conclusion. (1) Sitting at home is so boring... (2) The exam is tomorrow but there's too much homework... (3) Many of you speak harshly... (4) You are grown up now, you are their brother and sister... (5) This guy really loves football... Suggestion: Pay attention to choosing a conclusion that is consistent with the given argument and true to reality. 2. Argument in argumentative writing a) Below are common arguments in argumentative writing. Read and comment on their common characteristics. (1) Combat illiteracy. (2) Our people have a passionate patriotism. (3) Need to create good habits in social life. (4) Books are man's great friends. (5) Learning the basics can become great talent. Suggestion: Compare with the conclusions in section 1. b above to see the characteristics of the argument in the essay. Arguments in argumentative writing are general conclusions with common meaning to society, unlike conclusions in arguments in real life, which are arguments associated with certain communication situations. b) Choosing an argumentative topic introduced in previous lessons, form an argument by asking the following questions: Suggestion: Answering the above questions is essentially identifying small points and appropriate arguments and arranging them appropriately to lead to conclusions and make readers and listeners agree. agree with your argument. For example, with the topic "Books are man's great friend", the following questions can be asked: Reread the article Benefits of reading books (lesson 19) to check the answer options. 1. Reread the stories The Fortune Teller and the Elephant at the Bottom of the Well. For each story, draw a conclusion in the form of an argument that can be used as a topic for an argumentative essay. Suggest: 2. Argument for the two points just identified. Suggest: Build the main argument: From the identified main arguments, ask questions to build secondary arguments and corresponding arguments; Arrange arguments and arguments in a 3-part layout. Pay attention to establishing an argumentative relationship between the three parts, for example, with the topic Do not be subjective or arrogant, you can argue according to the following synthesis relationship:
Hướng dẫn Soạn bài: Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động (tiếp theo) được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các bạn học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. mời các bạn tải và tham khảo bài viết dưới đây Soạn bài: Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động (tiếp theo) I. Cách chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động Câu 1: Hai câu đã cho: + Giống nhau: Miêu tả cùng một sự việc. + Khác nhau: Câu (a) có dùng từ được, câu (b) không dùng từ được. Câu 2: 2 cách chuyển đổi câu chủ động thành một kiểu câu bị động. + Chuyển từ (hoặc cụm từ) chỉ đối tượng của hoạt động lên đầu cầu và thêm các từ bị hay được vào sau từ (cụm từ) ấy. + Chuyển từ (cụm từ) chỉ đối tượng của hoạt động trên đầu câu, đồng thời lược bỏ hoặc biến đổi từ (cụm từ) chỉ chủ thể của hoạt động thành một bộ phận không bắt buộc trong câu. Không phải câu nào có các từ bị, được cũng là câu bị động. Câu 3: Những câu sau không phải là câu bị động vì chủ ngữ trong hai câu này không phải là đối tượng được hoạt động của người hay vật khác hướng vào. II. Luyện tập Câu 1: Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động: + Tất cả cánh cửa chùa được (người ta) làm bằng gỗ lim. + Tất cả cánh cửa chùa (người ta) làm bằng gỗ lim. + Con ngựa được buộc bên gốc đào. + Một lá cờ được dựng giữa sân. Câu 2: a. + Em được thầy giáo phê bình. + Em bị thầy giáo phê bình. b. + Ngôi nhà ấy đã được người ta phá đi. + Ngôi nhà ấy đã bị người ta phá đi. c. + Sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn đã được trào lưu đô thị hoá thu hẹp. + Sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn đã bị trào lưu đô thị hoá thu hẹp. – Câu bị động có từ “được” khác với câu bị động có từ “bị” ở sắc thái biểu đạt: Câu bị động có từ được mang hàm ý đánh giá tích cực, câu bị động có từ bị mang hàm ý đánh giá tiêu cực. – Vì có sự khác nhau trên nên khi chuyển đổi cần lưu ý: Câu (a) nên dùng từ “bị”, câu (b) có thể dùng cả 2 từ, câu (c) nên dùng từ “được” vì sự thu hẹp khoảng cách giữa đô thị và nông thôn vốn là điều tích cực, trong mong muốn của mọi người. Câu 3: 2. Viết một đoạn văn nói về lòng say mê của em đối với văn học, đối với một tác phẩm văn học, hoặc về ảnh hưởng của tác phẩm văn học nào đó tới em trong đó có sử dụng câu bị động. “Mùa khô đã tới. Nạn hạn hán xảy ra. Hàng trăm mảnh ruộng bị khô nứt. Hàng ngàn cây bị héo. Chúng sẽ được người ta gom về chỉ để làm củi. Nhưng đâu có gì để nấu. Người ta đang bị đói. Rau xanh bị còi. Cỏ cũng úa vàng. Mấy con gà toi đã trở thành món quý. Chúng được bỏ vào nồi bởi lẽ không còn gì cho chúng ăn. Vài hạt mè cũng bị giành giật. Côn trùng cũng bị biến mất. Nhanh lắm là hai ngày nữa họ mới được phát lương khô với nước uống. Thuốc cũng được mang đến. Đó là hàng cứu trợ của Tổ chức Y tế thế giới. Mấy búp non đã bị các chú sâu ngôn dần. Lá già thì bị quặn lại. Cụm cải này bị tàn mất. Nhưng không! Dường như có hai chồi được đâm ra từ phía dưới thân kia. Hôm nọ, vạt cải này đã được cậu chủ châm bón, xịt thuốc. Các cụm cải đang được hồi sinh”.
Instruct Lesson preparation: Converting active sentences into passive sentences (continued) is collected by VnDoc and introduced to students for reference to prepare well for their upcoming new semester's lectures. Please download and refer to the article below Lesson preparation: Convert active sentences into passive sentences (continued) I. How to convert active sentences into passive sentences Question 1: Two sentences are given: + Similar: Describes the same event. + Difference: Sentence (a) can use words, sentence (b) cannot use words. Question 2: 2 ways to convert an active sentence into a passive sentence. + Move the word (or phrase) indicating the object of the activity to the beginning of the bridge and add common words after that word (phrase). + Move the word (phrase) indicating the object of the activity at the beginning of the sentence, and at the same time omit or change the word (phrase) indicating the subject of the activity into an optional part of the sentence. Not every sentence with the words be and be is also a passive sentence. Question 3: The following sentences are not passive sentences because the subject in these two sentences is not the object directed by the activity of another person or thing. II. Practice Question 1: Convert active sentences into passive sentences: + All temple doors are made of ironwood. + All (people's) temple doors are made of ironwood. + The horse is tied to the peach tree. + A flag is placed in the middle of the field. Question 2: a. + I was criticized by the teacher. + I was criticized by the teacher. b. + That house was demolished. + That house was destroyed. c. + The difference between urban and rural areas has been narrowed by the urbanization trend. + The difference between urban and rural areas has been narrowed by the urbanization trend. – Passive sentences with the word “be” are different from passive sentences with the word “be” in terms of expression: Passive sentences with the word be carry a positive evaluation connotation, passive sentences with the word be carry an evaluation connotation negative. – Because of the above difference, when converting, it is important to note: Sentence (a) should use the word "be", sentence (b) can use both words, sentence (c) should use the word "be" for convenience. Narrowing the gap between urban and rural areas is a positive thing in everyone's wish. Question 3: 2. Write a paragraph about your passion for literature, for a literary work, or about the influence of a certain literary work on you, using passive sentences. . “The dry season has arrived. Drought occurred. Hundreds of fields were dry and cracked. Thousands of trees withered. They will be gathered by people only to be used as firewood. But there's nothing to cook. People are hungry. Green vegetables are stunted. The grass is also yellow. My chickens have become a precious dish. They were put in the pot because there was nothing left for them to eat. A few sesame seeds were also snatched. Insects also disappeared. It will be two more days before they will be given dry food and water. Medicines were also brought. It is relief goods from the World Health Organization. The young buds have been bitten by the worms. Old leaves are shriveled. This cluster of mustard greens was destroyed. But not! It looks like there are two buds coming out from under the other stem. The other day, this mustard patch was fertilized and sprayed by the master. The mustard clusters are being revived."
Hướng dẫn Soạn bài: Luyện tập viết đoạn văn chứng minh được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các bạn học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. mời các bạn tải và tham khảo bài viết dưới đây Luyện tập viết một đoạn văn chứng minh một số đoạn văn tham khảo Đoạn 1. Văn chương luyện những tình cảm ta sẵn có. “Đọc những bài ca dao tình nghĩa con người, ta càng thêm yêu ông bà, cha mẹ ta hơn. Qua những bài ca, những câu hát than thân, ta càng hiểu rõ và càng thương cha ông ta, nhất là những người chị, người mẹ Việt Nam ngày xưa. Tương tự như thế, đọc chùm thơ Đường của Lý Bạch, của Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, tình yêu quê hương của chúng ta được bồi đắp bởi những cung bậc rung động thật tinh tế. Qua bài kí: “Một thứ quà lúa non: Cốm”; “Mùa xuân của tôi”, ta thấm thía thêm biết bao vẻ đẹp của cây lúa Việt Nam, của mùa xuân Hà Nội, mùa xuân Tổ quốc ta… kể sao cho hết, dẫn sao cho cùng những tác dụng… công dụng kì diệu của văn chương. (Theo Vũ Dương Quỹ) Đoạn 2. Nói dối là có hại cho bản thân. Nói dối là có hại cho bản thân. Bởi lẽ những người nói dối không bao giờ nhớ hết những điều mình đã nói. Vì vậy, sớm hoặc muộn những điều họ nói dối sẽ bị mọi người phát giác. Đến lúc đó chẳng còn ai tin họ nữa, danh dự, uy tín sẽ bị đánh mất. Chắc các bạn còn nhớ câu chuyện “Chú bé chăn cừu”. Chuyện kể rằng có chú bé chăn cừu bỗng một hôm la lên: “Có chó sói tới ăn thịt cừu” mọi người đổ xô đến nơi mới biết đó là trò đùa tai quái của chú bé. Lần sau bầy sói đến thật, chú bé la lên kêu cửu nhưng chẳng còn ai đến nữa. Đây là hậu quả tai hại của việc nói dối. Tôi và các bạn đừng ai nói dối nữa nhé! Đoạn 3. Chứng minh cần phải chọn sách mà đọc. Sách là tri thức của nhân loại, là chân trời của cuộc đời. Nhưng sách cũng có sách tốt, sách xấu, vì vậy chúng ta phải biết lựa chọn sách mà đọc cho phù hợp với trình độ, lứa tuổi, nghề nghiệp. Là học sinh, bạn hãy nên chọn những quyển sách giải đáp những kiến thức về khoa học tự nhiên khoa học xã hội, về vũ trụ, về cây cối, và hoạt động của cơ thể con người. Chẳng hạn như bộ sách hàng vạn câu hỏi vì sao? Lịch sử Việt Nam bằng tranh, danh nhân thế giới, thế giới tâm hồn… Đó là những quyển sách thật bổ ích. Bạn hãy tránh xa những cuốn sách có nội dung xấu: Đồi truỵ, phản động. Nó làm cho tâm hồn con người trở nền đen tối u buồn, lao vào những thú vui tầm thường, nhạt nhẽo. Và tất nhiên bạn cũng nền hạn chế đọc những truyện tranh. Bởi vì những câu văn trong truyện tranh thường quá ngắn, ít tính văn chương, hình ảnh thường có tính bạo lực, nội dung truyện bị rút gọn đến mức tối đa, ta không thấy được diễn biến tâm lí và vẻ đẹp của tâm hồn nhân vật.
Instruct Lesson preparation: Practice writing proof paragraphs collected by VnDoc and introduced to students for reference to prepare well for your upcoming new semester's lectures. Please download and refer to the article below Practice writing a paragraph that proves some reference paragraphs Paragraph 1. Literature trains our existing emotions. “Reading folk songs about human love makes us love our grandparents and parents even more. Through songs and songs of mourning, we understand more clearly and love our ancestors, especially the Vietnamese sisters and mothers of the past. Similarly, reading a series of Tang poems by Ly Bach, Ha Tri Chuong, and Du Phu, our love for our homeland is fostered by subtle levels of vibration. Through the memoir: "A gift of young rice: Com"; "My Spring", we deeply understand the beauty of Vietnamese rice, Hanoi's spring, our Fatherland's spring... how to tell it all, how to explain the effects... miraculous uses of literature. (According to Vu Duong Fund) Paragraph 2. Lying is harmful to yourself. Lying is harmful to yourself. Because liars never remember everything they said. Therefore, sooner or later their lies will be discovered by everyone. By then no one will believe them anymore, honor and prestige will be lost. Surely you remember the story "The Shepherd Boy". The story goes that one day a shepherd boy suddenly shouted: "There is a wolf coming to eat sheep." Everyone rushed to the place to find out that it was the boy's cruel joke. The next time the wolves really came, the boy screamed but no one came anymore. This is the harmful consequence of lying. Let me and you not lie anymore! Paragraph 3. Prove that it is necessary to choose books to read. Books are human knowledge, the horizon of life. But there are also good books and bad books, so we must know how to choose books to read that are appropriate to our level, age, and profession. As a student, you should choose books that answer knowledge about natural sciences, social sciences, the universe, plants, and the activities of the human body. For example, the book series of thousands of questions why? Vietnamese history in pictures, world famous people, spiritual world... These are really useful books. Stay away from books with bad content: Depraved, reactionary. It makes the human soul dark and sad, plunging into trivial, bland pleasures. And of course you should also limit reading comics. Because the sentences in comics are often too short, less literary, the images are often violent, the story content is shortened to the maximum, we cannot see the psychological development and beauty of the soul. figure.
Hướng dẫn Soạn bài: Ôn tập văn nghị luận được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các bạn học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. mời các bạn tải và tham khảo bài viết dưới đây Soạn bài: Ôn tập văn nghị luận Câu 1: Các bài văn nghị luận đã học: TT Tên bài Tác giả Đề tài nghị luận Luận điểm chính Phương pháp lập luận 1 Tinh thần yêu nước của nhân dân ta Hồ Chí Minh Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Chứng minh 2 Sự giàu đẹp của tiếng Việt Đặng Thai Mai Sự giàu đẹp của tiếng Việt Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Chứng minh (kết hợp với giải thích) 3 Đức tính giản dị của Bác Hồ Phạm Văn Đồng Đức tính giản dị của Bác Hồ ở mọi phương diện, Bác Hồ đều giản dị. Sự giản dị hoà hợp với đời sống tinh thần phong phú, với tư tưởng và tình cảm cao đẹp. Chứng minh (kết hợp với giải thích, bình luận) 4 ý nghĩa văn chương Hoài Thanh Nguồn gốc, nhiệm vụ, công dụng của văn chương trong lịch sử nhân loại Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha; văn chương là hình ảnh của sự sống đa dạng; văn chương sáng tạo ra sự sống, gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm sẵn có; cho nên: Không thể thiếu văn chương trong đời sống tinh thần của nhân loại. Giải thích (kết hợp với bình lu Câu 2: Những nét đặc sắc nghệ thuật của mỗi bài: – Tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng – Sự giàu đẹp của tiếng Việt: + Bố cục mạch lạc. + Chứng minh kết hợp giải thích. + Luận cứ xác đáng, giàu sức thuyết phục. – Đức tính giản dị của Bác Hồ + Dẫn chứng cụ thể, xác thực. + Chứng minh kết hợp giải thích và bình luận, biểu cảm. – Ý nghĩa văn chương + Trình bày những vấn đề phức tạp một cách ngắn gọn, giản dị, sáng sủa. + Giải thích kết hợp với bình luận. + Văn giàu hình ảnh. Câu 3: a. Các yếu tố có trong văn bản tự sự, trữ tình và nghị luận: b. Đặc điểm nổi bật của văn nghị luận là việc sử dụng các yếu tố luận điểm, luận cứ để lập luận. Tuy nhiên, trong văn nghị luận người ta có thể sử dụng miêu tả, kể chuyện, biểu cảm để làm tăng sức thuyết phục. c. Các câu tục ngữ trong Bài 18, 19 là nghị luận. Căn cứ vào đặc trưng của từng loại văn để nhận diện đặc điểm của các câu tục ngữ về phương thức biểu đạt. Nếu cho rằng các câu tục ngữ này là một loại văn bản nghị luận thì phải chứng minh được rằng chúng mang những đặc điểm cơ bản của văn nghị luận.
Instruct Lesson preparation: Review the argumentative essays collected by VnDoc and introduce them to students for reference to prepare well for their upcoming new semester's lectures. Please download and refer to the article below Prepare lesson: Review argumentative essay Question 1: Essays learned: TT Title of article Author Discussion topic Main argument Reasoning method first Patriotism of our people Ho Chi Minh The patriotic spirit of the Vietnamese people Our people have an ardent patriotic hearts. That is a precious tradition of our people. Prove 2 The richness and beauty of Vietnamese Dang Thai Mai The richness and beauty of Vietnamese Vietnamese has the characteristics of a beautiful language, a good language. Proof (combined with explanation) 3 Uncle Ho's simple virtue Pham Van Dong Uncle Ho's simple virtue In every aspect, Uncle Ho was simple. Simplicity is in harmony with a rich spiritual life, with noble thoughts and feelings. Proof (combined with explanations and comments) 4 literary meaning Nostalgic Origin, tasks, uses of literature in human history The essential origin of literature is emotion, altruism; Literature is an image of diverse life; Literature creates life, gives us feelings we don't have, and trains existing feelings; Therefore: Literature is indispensable in the spiritual life of humanity. Explanation (combined with jar Question 2: Unique artistic features of each song: – The patriotic spirit of our people: Model of argument, structure and evidence – The richness and beauty of Vietnamese: + Coherent layout. + Proof combined with explanation. + Reasonable and convincing arguments. – Uncle Ho's simple virtue + Provide specific, authentic evidence. + Proof combining explanation, comment, and expression. – Literary meaning + Present complex issues in a concise, simple, and clear manner. + Explanation combined with comments. + The text is rich in images. Question 3: a. Elements present in narrative, lyrical and argumentative texts: b. The outstanding feature of argumentative writing is the use of thesis and argument elements to make arguments. However, in argumentative writing, people can use description, storytelling, and expression to increase persuasion. c. The proverbs in Lessons 18 and 19 are argumentative. Based on the characteristics of each type of literature, identify the characteristics of proverbs in terms of expression. If we believe that these proverbs are a type of argumentative text, it must be proven that they possess the basic characteristics of argumentative writing.
Hướng dẫn Soạn bài: Ôn tập về phần tập làm văn được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các bạn học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. Mời các bạn cùng tải bài Luyện tập làm văn bản đề nghị và báo cáo dưới đây. Soạn bài: Ôn tập về phần tập làm văn I. Về văn biểu cảm Câu 1: Các bài văn biểu cảm được học và đọc trong ngữ văn 7 – Cổng trường mở ra của Lý Lan – Trường học của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi – Mẹ tôi của Ét-môn-đô đỡ A-mi-xi – Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài – Thư cho một người bạn hiểu về đất nước mình của I-ri-na Ki-xlô-va – Tấm gương của Băng Sơn – Tản văn Mai Văn Tạo của Mai Văn Tạo – Cây sấu Hà Nội của Tạ Việt Anh – Sấu Hà Nội của Nguyễn Tuân – Cây tre Việt Nam của Thép Mới – Người ham chơi của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Những tấm lòng cao cả của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi – Mõm Lũng Cú tột Bắc của Nguyễn Tuân – Cỏ dại của Tô Hoài – Quà bánh tuổi thơ của Đặng Anh Đào – Tuổi thơ im lặng của Duy Khán – Kẹo mầm của Băng Sơn – Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch Lam – Sài Gòn tôi yêu của Minh Hương – Mùa xuân của tôi của Vũ Bằng Câu 2: Đặc điểm của văn biểu cảm: – Văn biểu cảm chủ yếu viết ra để bày tỏ suy nghĩ, tình cảm của người viết với đối tượng biểu cảm (con người, cây cối, con vật, đồ vật, tác phẩm văn học,… ) – Bố cục 3 phần: + Mở bài: Nêu đối tượng biểu cảm, khái quát cảm xúc ban đầu + Thân bài: Nêu cảm nghĩ về đối tượng + Kết bài: Khẳng định lại cảm xúc mà mình dành cho đối tượng – Tình cảm thể hiện phải trong sáng, rõ ràng, chân thực. Câu 3: Vai trò của yếu tố miêu tả trong văn biểu cảm Trong bài văn biểu cảm, yếu tố miêu tả cảnh vật, đồ vật, con người chủ yếu là để bộc lộ tư tưởng, tình cảm. Do đó, ta không miêu tả cụ thể, hoàn cảnh chính mà chỉ chọn những chi tiết, thuộc tính, sự việc nào có khả năng gợi cảm để biểu hiện cảm xúc, tư tưởng mà thôi. Câu 4: Ý nghĩa của yếu tố tự sự trong văn biểu cảm Yếu tố tự sự có tác dụng gợi cảm rất lớn, nhất là khi kể các hành động cao cả, nghĩa khí, vị tha hoặc các hành vi thiếu đạo đức. Trong văn biểu cảm, cái quan trọng là ý nghĩa sâu xa của sự việc buộc người ta nhớ lâu và suy nghĩ, cảm xúc về nó. Câu 5: Cách biểu đạt tình cảm trong bài văn biểu cảm Để bày tỏ tình thương yêu, lòng ngưỡng mộ, ngợi ca đối với một con người, sự vật, hiện tượng, ta phải nêu lên tính chất, đặc điểm cơ bản, nổi bật của con người, sự vật, hiện tượng đó. Ta có thể chọn một hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng để gửi gắm tình cảm, tư tưởng, hoặc biểu đạt bằng cách thổ lộ trực tiếp những nỗi niềm, cảm xúc trong lòng. Tình cảm trong bài phải rõ ràng, trong sáng, chân thực. Câu 6: Ngôn ngữ biểu cảm Ngoài cách biểu cảm tình cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, văn biểu cảm còn sử dụng các biện pháp tự sự, miêu tả để khêu gợi tình cảm, nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, điệp từ… Câu 7: Nội dung văn bản biểu cảm Biểu đạt một tư tưởng tình cảm, cảm xúc về con người, sự vật kỉ niệm… Mục đích biểu cảm Khêu gợi sự đồng cảm của người đọc, làm cho người đọc cảm nhận được cảm xúc của người viết Phương tiện biểu cảm Ngôn ngữ và hình ảnh thực tế để biểu đạt tư tưởng, tình cảm. Phương tiện ngôn ngữ bao gồm từ ngữ, hình thức câu văn, vần, điệu, ngắt nhịp, biện pháp tu từ… Câu 8: Bố cục bài văn biểu cảm (xem lại câu 2 ở trên) II. Về văn nghị luận Câu 1: Các bài văn nghị luận đã học và đọc trong Ngữ văn 7 – Chống nạn thất học của Hồ Chí Minh – Cần tạo ra thói quen tốt trong đời sống xã hội của Bằng Sơn – Hai biển hồ – Học thầy, học bạn của Nguyễn Thanh Tú – Ích lợi của việc đọc sách của Thành Mĩ – Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của Hồ Chí Minh – Học cơ bản mới có thể thành tài lớn của Xuân Yên – Sự giàu đẹp của tiếng Việt của Đặng Thai Mai – Tiếng Việt giàu và đẹp của Phạm Văn Đồng – Đừng sợ vấp ngã – Không sợ sai lầm của Hồng Diễm – Có hiểu đời mới hiểu văn của Nguyễn Hiến Lê – Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm Văn Đồng – Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân tộc của Phạm Văn Đồng – Ý nghĩa của văn chương của Hoài Thanh – Lòng khiêm tốn của Lâm Ngữ Đường – Lòng nhân đạo của Lâm Ngữ Đường – Óc phán đoán và óc thẩm mĩ của Nguyễn Hiến Lê – Tự do và nô lệ của Nghiêm Toản Câu 2: – Trên báo chí, văn bản nghị luận xuất hiện dưới những dạng bài xã luận, diễn đàn, bàn về… – Trong sách giáo khoa, văn bản nghị luận xuất hiện dưới những dạng bài làm văn nghị luận, hội thảo chuyên đề… Câu 3: Yếu tố cơ bản trong bài văn nghị luận – Luận điểm là những kết luận có tính khái quát, có ý nghĩa phổ biến đối với xã hội. – Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải chân thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới giúp cho luận điểm có sức thuyết phục. – Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết phục. Câu 4: – Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình thức cau khẳng định (hay phủ định). Luận điểm phải đúng đắn, chân thực, đáp ứng nhu cầu thực tế, mới có sức thuyết phục. Câu a và câu d là luận điểm. Câu b là câu cảm thán.
Instruct Prepare lessons: Review the writing exercises collected by VnDoc and introduce to students for reference to prepare well for their upcoming new semester's lectures. We invite you to download the Practice paper on making proposals and reports below. Prepare lesson: Review writing practice I. About expressive writing Question 1: Expressive essays are learned and read in literature grade 7 – Ly Lan's school gate opened – School of Edmondo de Amisi – My mother of Edmondo supported Amisi – The farewell of Khanh Hoai's dolls – Letter to a friend who understands her country by Irina Kislova – The example of Bang Son – Essay by Mai Van Tao by Mai Van Tao – Hanoi crocodile tree by Ta Viet Anh – Hanoi crocodile by Nguyen Tuan – Vietnamese bamboo from Thep Moi – The playful person of Hoang Phu Ngoc Tuong – The noble hearts of Ezmondo de Amisi – Lung Cu Muzzle in the North by Nguyen Tuan – Weeds by To Hoai – Childhood cake gift from Dang Anh Dao – Duy Khan's silent childhood – Bang Son sprout candy – A gift of young rice: Thach Lam's green rice – Saigon I love by Minh Huong – My Spring by Vu Bang Question 2: Characteristics of expressive writing: – Expressive writing is mainly written to express the writer's thoughts and feelings towards expressive objects (people, trees, animals, objects, literary works, etc.) – 3-part layout: + Introduction: State the expressive object and summarize the initial emotions + Body: State your feelings about the subject + Conclusion: Reaffirm the feelings you have for the subject – The feelings expressed must be pure, clear, and genuine. Question 3: The role of descriptive elements in expressive writing In expressive writing, the elements describing scenes, objects, and people are mainly used to express thoughts and feelings. Therefore, we do not describe specifically or the main situation, but only choose details, attributes, and events that have the ability to be evocative to express emotions and thoughts. Question 4: The meaning of narrative elements in expressive writing The narrative element has a great evocative effect, especially when telling noble, virtuous, altruistic or unethical actions. In expressive writing, what is important is the deep meaning of the event, forcing people to remember it for a long time and think and feel about it. Question 5: How to express emotions in expressive writing To express love, admiration, and praise for a person, thing, or phenomenon, we must highlight the basic and outstanding properties and characteristics of that person, thing, or phenomenon. We can choose an image with metaphorical or symbolic meaning to convey feelings, thoughts, or express by directly revealing the feelings and emotions in our heart. The feelings in the article must be clear, pure, and true. Question 6: Expressive language In addition to direct emotional expressions such as cries and lamentations, expressive writing also uses narrative and descriptive devices to evoke emotions, and many rhetorical devices such as comparison, metaphor, symbolism, alliteration… Question 7: Expressive text content Expressing an emotional thought, feeling about people, things, memories... Expressive purpose Evoke the reader's sympathy, making the reader feel the writer's emotions Expressive means Realistic language and images to express thoughts and feelings. Linguistic means include words, sentence forms, rhymes, rhythms, rhythm, rhetorical devices... Question 8: Arrange an expressive essay (see question 2 above) II. About essay writing Question 1: Argumentative essays learned and read in Literature 7 – Ho Chi Minh's fight against illiteracy – Need to create good habits in Bang Son's social life – Two seas and lakes – Studying with teachers and friends of Nguyen Thanh Tu – Benefits of reading Thanh My's books – Ho Chi Minh's patriotic spirit of our people – Only by learning the basics can Xuan Yen become a great talent – The richness and beauty of Vietnamese by Dang Thai Mai – Rich and beautiful Vietnamese by Pham Van Dong – Don't be afraid of falling – Not afraid of Hong Diem's ​​mistakes – Only by understanding life can you understand Nguyen Hien Le's writing – Uncle Ho's simplicity by Pham Van Dong – President Ho, the image of the nation by Pham Van Dong – The meaning of Hoai Thanh's literature – Lam Ngu Duong's humility – Lam Ngu Duong's humanity – Nguyen Hien Le's judgment and aesthetic sense – Freedom and slavery of Nghiem Toan Question 2: – In the press, discussion texts appear in the form of editorials, forums, discussions about... – In textbooks, argumentative texts appear in the form of argumentative essays, seminars, etc. Question 3: Basic elements in an argumentative essay – Theses are general conclusions that have common meaning for society. – Argument is the reason and evidence given as a basis for a thesis. The argument must be truthful, correct, and typical to make the argument convincing. – Argument is a way of stating arguments leading to a thesis. The argument must be strong and reasonable for the essay to be convincing. Question 4: – Thesis is an opinion expressing the thoughts and opinions of the essay stated in the form of an affirmative (or negative) statement. The argument must be correct, truthful, and meet practical needs to be convincing. Sentences a and d are arguments. Sentence b is an exclamation.
Hướng dẫn Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như Lượm hoặc Đêm nay Bác không ngủ) được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 7 và chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Mời các bạn tải và tham khảo Đề bài: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như Lượm hoặc Đêm nay Bác không ngủ) theo những ngôi kể khác nhau (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất). Hướng dẫn lập dàn ý A. Mở bài: Giới thệu (tưởng tượng) về câu chuyện mà em định kể (Lượm hay Đêm nay Bác không ngủ). Lưu ý xác định ngôi kể ngay từ đầu (đóng vai nhân vật người chú hoặc nhân vật anh lính – ngôi thứ nhất; đóng vai một người đứng ngoài câu chuyện để kể lại – ngôi thứ ba). B. Thân bài: 1. Kể lần lượt các chi tiết, các sự kiện diễn ra trong câu chuyện: Ví dụ: Với chuyện Lượm, ta lần lượt kể: – Chi tiết người chú gặp Lượm. – Ấn tượng của người chú về hình dáng và tính cách Lượm. – Chi tiết Lượm đi chuyển thư. – Lượm hi sinh,… 2. Suy nghĩ của người kể và con người Lượm hoặc về Hồ Chí Minh. C. Kết bài: Tưởng tượng về kết thúc của câu chuyện, ví dụ: – Sau ngày giải phóng, người chú về thăm mộ Lượm. – Anh lính sau đó được đi làm cùng Bác. Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như “Lượm” hoặc “Đêm nay Bác không ngủ”) theo những ngôi kể khác nhau (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất). Trong cuộc đời tôi, những ngày tháng đẹp nhất là những ngày tôi được sống và chiến đấu bên cạnh Bác. Những ngày ấy thực sự đã để lại trong tôi những kỷ niệm không thể nào quên. Lúc ấy, tôi là một anh lính mới (người chiến sĩ khi đó thường được gọi là đội viên). Đơn vị tôi vừa mới hành quân ra mặt trận thì cũng vừa lúc Bác trực tiếp ra chiến trường để chỉ đạo tiến quân. Đêm đó Bác ngủ lại cùng anh em ở đơn vị. Và cũng trong đêm đó, Bác đã để lại trong niềm yêu kính của tôi một ấn tượng khó phai. Khoảng quá nửa đêm khi tất cả anh em chiến sĩ đã say sưa trong giấc ngủ thì không hiểu sao tôi lại bỗng nhiên chợt thức. Tôi chưa kịp nhổm dậy nhưng đã nhìn thấy khuôn mặt Bác. Bác còn thức và hình như Bác chưa hề ngủ. Bác ngồi trầm ngâm lặng yên bên bếp lửa. Ngoài trời mưa đã lác đác rơi. Tôi nhìn dáng Bác, càng nhìn tôi lại càng thương. Bác đang khơi ngọn lửa. Người cha già tóc bạc đang đốt lửa sưởi ấm cho tôi. Tôi vẫn lặng yên và quan sát. Tôi thấy Bác đứng dậy. Bác đi dém lại những mảnh chăn một cách nhẹ nhàng. Nhìn Bác, tôi mơ màng như đang nằm trong giấc mộng. Bác mênh mông quá! Ấm nóng và cao quý quá! Tôi thổn thức và thì thầm hỏi nhỏ: – Bác ơi! Bác chưa ngủ! Bác có lạnh lắm không? Bác quay lại nhìn tôi trìu mến: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Tôi vâng lời Bác nhắm mắt nhưng không sao ngủ được. Tôi bồn chồn, nằm và lo Bác Ốm. Chiến địch vẫn còn dài và bao khó khăn vẫn đợi chờ phía trước. Lần thứ ba tôi tỉnh giấc. Tôi hốt hoảng giật mình khi thấy Bác vẫn ngồi đinh ninh, chòm râu im phăng phắc. Tôi vội vàng luống cuống: – Bác ơi! Trời sắp sáng mất rồi, Bác nghỉ đi một lát. Bác vẫn nhẹ nhàng như lần trước: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Bác ngủ không ngon vì Bác không thấy an lòng. Trời mưa như vậy không biết các cô chú dân công ăn ngủ làm sao. Ở trong rừng mà có mỗi manh áo mồng thì chắc là ướt mất. Bác thấy nóng ruột quá. Bác mong sao trời sáng thật mau. Tôi nhìn Bác, lòng tôi ấm áp và vui sướng mênh mông. Đêm ấy, tôi thức luôn cùng Bác. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng bởi tôi đã nhận ra một điều dường như đã trở thành chân lý: Bác của chúng ta vĩ đại bởi Bác đã dành trọn cuộc đời cho những lo lắng và yêu thương. Kể lại nội dung một câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự như (Lượm) theo ngôi thứ nhất? Đó là những ngày ở Huế bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, năm 1947. Tôi lúc bấy giờ ở Hà Nội nhận lệnh khẩn cấp về Huế. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp một chú bé giao liên tên Lượm, ở Hàng Bè. Lượm là một chú bé có dáng người nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn. Chú đeo một cái túi xinh xinh bên mình. Chú có một đôi chân thoăn thoắt và cái đầu nghênh nghênh. Vẻ hồn nhiên và vui tươi ấy càng được tôn thêm bởi chiếc ca lô đội lệch, và mồm luôn huýt sáo như chú chim chích nhảy trên đường vàng. Giữa những ngày kháng chiến toàn dân, chú bé liên lạc như làm tăng thêm niềm tin trong lòng người lính chúng tôi. Tranh thủ phút rảnh rỗi, tôi lại gần hỏi han, trò chuyện với chú. Chú vừa cười vừa nói với tôi: “Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà” Tôi thật sự xúc động trước sự vô tư và hồn nhiên của chú bé. Cháu cười mà hai mí híp cả lại, má đỏ nâu như trái bồ quân chín tới… Chiến tranh còn dài, chúng tôi chia tay nhau, mỗi người đều quyết tâm làm tròn bổn phận của mình. Tôi lưu luyến nhìn theo bóng Lượm xa dần mà lòng thầm mong gặp lại cháu trong ngày khải hoàn ca chiến thắng. Nhưng chiến tranh vẫn chứa nhiều tàn nhẫn. Vào một ngày tháng sáu, có giao liên đem tin đến, tôi bàng hoàng được tin Lượm đã hi sinh! Mắt tôi nhoà đi theo lời kể của người liên lạc… “Lượm hi sinh khi đang làm nhiệm vụ. Cháu bị một viên đạn địch bắn tỉa. Nhìn cháu nằm trên lúa, tay còn nắm chặt bông, lá thư đề “Thượng khẩn” còn nằm trong cái xắc… mọi người không cầm được nước mắt…” Cổ họng tôi nghẹn lại, hình ảnh yêu thương ngày nào của cháu hiện lên rõ mồn một: “Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng” … Tôi giật mình tỉnh giấc, nước mắt còn đẫm trên mi… Giấc mơ trôi qua mà lòng tôi mãi còn bồi hồi xúc động. Khói lửa chiến tranh đã tắt hẳn lâu rồi. Lớp trên chúng tôi đang sống những ngày tháng thanh bình và có thể nói là đầy đủ, sung túc. Tất cả là do cha mẹ đã không quản công lao chăm chút, nhưng không thể không kể đến sự hi sinh to lớn của những người anh hùng, trong đó có Lượm – chú giao liên quả cảm! Hãy ngủ yên Lượm ơi! Chúng tôi xin hứa sẽ cố gắng học thật giỏi để gìn giữ và xây dựng đất nước này. Giữa những ngày tháng thanh bình, trang viết của tôi thay nén hương thơm, xin được tri ân những người anh hùng vị quốc vong thân… Kể lại nội dung bài thơ Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ thành một câu chuyện theo những ngôi kể khác nhau (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất). Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Cao – Bắc – Lạng (còn gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô… Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi. Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi trú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác không ngủ. Người ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng trán rộng. Đêm đã khuya. Cảnh vật chìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Đồng đội của tôi đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả. Tôi trở mình, quay mặt về phía đông lửa và lặng lẽ nhìn Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm toả khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì bà mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con. Tôi dõi theo từng cử chỉ của Bác mà trong lòng trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác lồng lộng trên vách nứa đơn sơ. Tình thương của Bác đã sưởi ấm trái tim chiến sĩ trước giờ ra trận. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ: – Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không? Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ: – Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc! Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi. Thời gian vẫn âm thầm trôi qua. Trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt trĩu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi bèn lên tiếng: – Thưa Bác! Xin Bác chợp mắt một chút cho khỏe ạ! Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi: Cháu đừng bận tâm! Bác không thể yên lòng mà ngủ. Trời thì mưa lạnh thế này, dân công ngủ ngoài rừng, tránh sao cho khỏi ướt?! Bác nóng ruột lắm, chỉ mong trời mau sáng!
Hướng dẫn Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như Lượm hoặc Đêm nay Bác không ngủ) được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 7 và chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. Mời các bạn tải và tham khảo Đề bài: Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như Lượm hoặc Đêm nay Bác không ngủ) theo những ngôi kể khác nhau (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất). Hướng dẫn lập dàn ý A. Mở bài: Giới thệu (tưởng tượng) về câu chuyện mà em định kể (Lượm hay Đêm nay Bác không ngủ). Lưu ý xác định ngôi kể ngay từ đầu (đóng vai nhân vật người chú hoặc nhân vật anh lính – ngôi thứ nhất; đóng vai một người đứng ngoài câu chuyện để kể lại – ngôi thứ ba). B. Thân bài: 1. Kể lần lượt các chi tiết, các sự kiện diễn ra trong câu chuyện: Ví dụ: Với chuyện Lượm, ta lần lượt kể: – Chi tiết người chú gặp Lượm. – Ấn tượng của người chú về hình dáng và tính cách Lượm. – Chi tiết Lượm đi chuyển thư. – Lượm hi sinh,… 2. Suy nghĩ của người kể và con người Lượm hoặc về Hồ Chí Minh. C. Kết bài: Tưởng tượng về kết thúc của câu chuyện, ví dụ: – Sau ngày giải phóng, người chú về thăm mộ Lượm. – Anh lính sau đó được đi làm cùng Bác. Kể lại nội dung câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự (như “Lượm” hoặc “Đêm nay Bác không ngủ”) theo những ngôi kể khác nhau (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất). Trong cuộc đời tôi, những ngày tháng đẹp nhất là những ngày tôi được sống và chiến đấu bên cạnh Bác. Những ngày ấy thực sự đã để lại trong tôi những kỷ niệm không thể nào quên. Lúc ấy, tôi là một anh lính mới (người chiến sĩ khi đó thường được gọi là đội viên). Đơn vị tôi vừa mới hành quân ra mặt trận thì cũng vừa lúc Bác trực tiếp ra chiến trường để chỉ đạo tiến quân. Đêm đó Bác ngủ lại cùng anh em ở đơn vị. Và cũng trong đêm đó, Bác đã để lại trong niềm yêu kính của tôi một ấn tượng khó phai. Khoảng quá nửa đêm khi tất cả anh em chiến sĩ đã say sưa trong giấc ngủ thì không hiểu sao tôi lại bỗng nhiên chợt thức. Tôi chưa kịp nhổm dậy nhưng đã nhìn thấy khuôn mặt Bác. Bác còn thức và hình như Bác chưa hề ngủ. Bác ngồi trầm ngâm lặng yên bên bếp lửa. Ngoài trời mưa đã lác đác rơi. Tôi nhìn dáng Bác, càng nhìn tôi lại càng thương. Bác đang khơi ngọn lửa. Người cha già tóc bạc đang đốt lửa sưởi ấm cho tôi. Tôi vẫn lặng yên và quan sát. Tôi thấy Bác đứng dậy. Bác đi dém lại những mảnh chăn một cách nhẹ nhàng. Nhìn Bác, tôi mơ màng như đang nằm trong giấc mộng. Bác mênh mông quá! Ấm nóng và cao quý quá! Tôi thổn thức và thì thầm hỏi nhỏ: – Bác ơi! Bác chưa ngủ! Bác có lạnh lắm không? Bác quay lại nhìn tôi trìu mến: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Tôi vâng lời Bác nhắm mắt nhưng không sao ngủ được. Tôi bồn chồn, nằm và lo Bác Ốm. Chiến địch vẫn còn dài và bao khó khăn vẫn đợi chờ phía trước. Lần thứ ba tôi tỉnh giấc. Tôi hốt hoảng giật mình khi thấy Bác vẫn ngồi đinh ninh, chòm râu im phăng phắc. Tôi vội vàng luống cuống: – Bác ơi! Trời sắp sáng mất rồi, Bác nghỉ đi một lát. Bác vẫn nhẹ nhàng như lần trước: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Bác ngủ không ngon vì Bác không thấy an lòng. Trời mưa như vậy không biết các cô chú dân công ăn ngủ làm sao. Ở trong rừng mà có mỗi manh áo mồng thì chắc là ướt mất. Bác thấy nóng ruột quá. Bác mong sao trời sáng thật mau. Tôi nhìn Bác, lòng tôi ấm áp và vui sướng mênh mông. Đêm ấy, tôi thức luôn cùng Bác. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng bởi tôi đã nhận ra một điều dường như đã trở thành chân lý: Bác của chúng ta vĩ đại bởi Bác đã dành trọn cuộc đời cho những lo lắng và yêu thương. Kể lại nội dung một câu chuyện được ghi trong một bài thơ có tính chất tự sự như (Lượm) theo ngôi thứ nhất? Đó là những ngày ở Huế bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, năm 1947. Tôi lúc bấy giờ ở Hà Nội nhận lệnh khẩn cấp về Huế. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp một chú bé giao liên tên Lượm, ở Hàng Bè. Lượm là một chú bé có dáng người nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn. Chú đeo một cái túi xinh xinh bên mình. Chú có một đôi chân thoăn thoắt và cái đầu nghênh nghênh. Vẻ hồn nhiên và vui tươi ấy càng được tôn thêm bởi chiếc ca lô đội lệch, và mồm luôn huýt sáo như chú chim chích nhảy trên đường vàng. Giữa những ngày kháng chiến toàn dân, chú bé liên lạc như làm tăng thêm niềm tin trong lòng người lính chúng tôi. Tranh thủ phút rảnh rỗi, tôi lại gần hỏi han, trò chuyện với chú. Chú vừa cười vừa nói với tôi: “Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà” Tôi thật sự xúc động trước sự vô tư và hồn nhiên của chú bé. Cháu cười mà hai mí híp cả lại, má đỏ nâu như trái bồ quân chín tới… Chiến tranh còn dài, chúng tôi chia tay nhau, mỗi người đều quyết tâm làm tròn bổn phận của mình. Tôi lưu luyến nhìn theo bóng Lượm xa dần mà lòng thầm mong gặp lại cháu trong ngày khải hoàn ca chiến thắng. Nhưng chiến tranh vẫn chứa nhiều tàn nhẫn. Vào một ngày tháng sáu, có giao liên đem tin đến, tôi bàng hoàng được tin Lượm đã hi sinh! Mắt tôi nhoà đi theo lời kể của người liên lạc… “Lượm hi sinh khi đang làm nhiệm vụ. Cháu bị một viên đạn địch bắn tỉa. Nhìn cháu nằm trên lúa, tay còn nắm chặt bông, lá thư đề “Thượng khẩn” còn nằm trong cái xắc… mọi người không cầm được nước mắt…” Cổ họng tôi nghẹn lại, hình ảnh yêu thương ngày nào của cháu hiện lên rõ mồn một: “Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng” … Tôi giật mình tỉnh giấc, nước mắt còn đẫm trên mi… Giấc mơ trôi qua mà lòng tôi mãi còn bồi hồi xúc động. Khói lửa chiến tranh đã tắt hẳn lâu rồi. Lớp trên chúng tôi đang sống những ngày tháng thanh bình và có thể nói là đầy đủ, sung túc. Tất cả là do cha mẹ đã không quản công lao chăm chút, nhưng không thể không kể đến sự hi sinh to lớn của những người anh hùng, trong đó có Lượm – chú giao liên quả cảm! Hãy ngủ yên Lượm ơi! Chúng tôi xin hứa sẽ cố gắng học thật giỏi để gìn giữ và xây dựng đất nước này. Giữa những ngày tháng thanh bình, trang viết của tôi thay nén hương thơm, xin được tri ân những người anh hùng vị quốc vong thân… Kể lại nội dung bài thơ Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ thành một câu chuyện theo những ngôi kể khác nhau (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất). Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Cao – Bắc – Lạng (còn gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô… Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi. Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi trú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác không ngủ. Người ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng trán rộng. Đêm đã khuya. Cảnh vật chìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Đồng đội của tôi đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả. Tôi trở mình, quay mặt về phía đông lửa và lặng lẽ nhìn Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm toả khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì bà mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con. Tôi dõi theo từng cử chỉ của Bác mà trong lòng trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác lồng lộng trên vách nứa đơn sơ. Tình thương của Bác đã sưởi ấm trái tim chiến sĩ trước giờ ra trận. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ: – Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không? Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ: – Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc! Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi. Thời gian vẫn âm thầm trôi qua. Trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt trĩu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi bèn lên tiếng: – Thưa Bác! Xin Bác chợp mắt một chút cho khỏe ạ! Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi: Cháu đừng bận tâm! Bác không thể yên lòng mà ngủ. Trời thì mưa lạnh thế này, dân công ngủ ngoài rừng, tránh sao cho khỏi ướt?! Bác nóng ruột lắm, chỉ mong trời mau sáng!
Hướng dẫn Soạn bài: Viết bài tập làm văn số 5: Văn lập luận chứng minh được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các bạn học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. mời các bạn tải và tham khảo bài viết dưới đây Soạn bài: Viết bài tập làm văn số 5: Văn lập luận chứng minh Đề 1: Ít lâu nay, một số bạn trong lớp em có phần lơ là học tập. Em hãy viết một bài văn để thuyết phục bạn: Nếu khi còn trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích! Dàn bài: A. Mở bài: – Dẫn dắt để giới thệu được tình hình của lớp (có nhiều bạn lơ là học tập). – Đưa ra chân lí: Nếu khi trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn lên ta sẽ chẳng làm được việc gì có ích. B. Thân bài: – Kể lại tình hình của lớp thời gian qua (tưởng tượng về chuyện có nhiều bạn lơ là học tập, say mê vào các trò chơi như: Điện tử, cờ bạc, chat,…). – Chứng minh cho các bạn thấy: Nếu không chịu khó học tập từ khi còn trẻ, thì sẽ có nhiều cái hại: + Sẽ không có thời gian để bổ sung kiến thức. + Không có kiến thức để làm việc sau này. + Bị tụt hậu so với sự phát triển của xã hội nói chung. + Ảnh hưởng đến gia đình và xã hội sau này. C. Kết bài: Khẳng định lại chân lí vừa nêu. Động viên các bạn tập trung vào việc học. Đề 2: Hãy chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. A. Mở bài: – Nêu khái quát vai trò của rừng đối với cuộc sống của chúng ta. – Khẳng định: Bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống. B. Thân bài: Chứng minh bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta: 1. Nêu những ích lợi của rừng: – Cung cấp không khí. – Ngăn lũ lụt, lở đất. – Cung cấp sản vật, hoa cỏ, gỗ,… – Tạo lớp mùn cho đất. 2. Vì thế, bảo vệ rừng là bảo vệ cuốc sống của chúng ta, bởi: – Nghĩa là chúng ta đang bảo vệ sự trong lành của sự sống. – Nghĩa là chúng ta đang bảo vệ mình khỏi những thiên tai. – Nghĩa là chúng ta đang gìn giữ cho những ích lợi lâu dài của cả cộng đồng. C. Kết bài: Nêu trách nhiệm của bản thân và gửi thông điệp bảo vệ rừng đến mọi người. Đề 3: Dân gian ta có câu tục ngữ: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Nhưng có bạn lại bảo: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. Em hãy viết một bài văn chứng minh thuyết phục bạn ấy theo ý kiến của em. A. Mở bài: – Khái quát nội dung câu tục ngữ. – Giới thiệu câu tục ngữ. – Nêu ý kiến của bạn nọ. B. Thân bài: 1. Giải thích ý nghĩa câu tục ngữ: – Nghĩa đen. – Nghĩa bóng. – Ý nghĩa tổng quát của câu tục ngữ là gì? 2. Khẳng định tính đúng đắn của câu tục ngữ bằng việc đưa ra các dẫn chứng trong thực tế mà em biết. 3. Mở rộng câu tục ngữ. – Câu tục ngữ là một chân lí nhưng còn mang tính cực đoan. – Cũng có những trường hợp: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. – Câu tục ngữ chỉ đúng với những người luôn có ý thức học hỏi. 4. Về ý kiến mà bạn đã nêu, có thể khẳng định: Ý kiến đó tuy có phần đúng nhưng không thể khẳng định tuyệt đối như vậy được. C. Kết bài: Tán thành phần đúng trong ý kiến mà bạn nọ đã nêu. Nhưng cần khẳng định tính đúng đắn theo hướng thuận chiều của câu tục ngữ, bởi đó là một chân lí đã được thực tế chứng minh. Đề 4: Hãy chứng minh rằng đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu mỗi người không có ý thức bảo vệ môi trường sống. Từ thuở con người xuất hiện trên Trái Đất, môi trường sống là một điều kiện không thể thiếu cho sự sinh tồn của sự vật và con người. Hiện nay, do nhu cầu đời sống vật chất cao nên ít ai quan tâm đến và làm cho môi trường ngày càng trở nên xấu đi do những kẻ vô lương tâm phá hoại. Môi trường là không gian sống của con người, động vật,…Bao gồm tất cả những gì xung quanh ta và được phân thành hai loại: Môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. Môi trường tự nhiên là các yếu tố thiên nhiên như không khí, nước, đất, rừng,… Là lá phổi xanh của Trái Đất, là những ngọn núi cao hùng vĩ, là ánh sáng rạng ngời,… Môi trường rất quan trọng đối với đời sống của mỗi người. Vì thế, chúng ta phải bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sức khỏe của chính mình. Môi trường là bầu không khí cho ta hít thở. Nhưng bây giờ thì bầu không khí ấy đang bị ô nhiễm do những nhà máy, xí nghiệp mà ta đã tự hào dựng lên, thả khí độc nghi ngút, làm cho một giây Trái Đất nặng thêm một tấn bụi. Những chiếc xe ô tô, xe máy tấp nập liên tục chạy trên đường, khói xả ra đen bụi cả đường phố. Làm cho không khí trở nên ngột ngạt nặng nề. Từ đó, tầng ô-zôn ngăn cản sức nóng của Mặt Trời cũng đang bị thủng ngày một lớn hơn. Sức nóng ấy làm băng tan ra và tràn vào đất liền gây ngập lụt, bão, và sóng thần. Không chỉ thế, không khí bị ô nhiễm gây ra mưa a-xit làm hư hại mùa màng, phá hủy nhiều rừng cây và đời sống của các sinh vật cũng bị đe dọa. Cây xanh là nguồn cung cấp không khí trong lành. Cây còn ngăn lũ, cho bóng mát, bảo vệ đời sống con người. Vì thế, cây xanh cũng rất quan trọng trong môi trường. Nhưng có một số người không hiểu điều đó, chặt phá cây, đốt rừng, xuất hiện đất trống đồi trọc. Màu xanh dần dần biến mất, khí hậu trở nên ngột ngạt. Lũ lụt tràn về gây nhiều thiệt hại. Những nguồn lợi quý giá như gỗ, nguyên liệu làm thuốc,…dường như cũng bị cuốn vào những lưỡi cưa phá hoại rừng. Chỉ một hành động tàn nhẫn đó đã phá hoại vẻ đẹp thiên nhiên, mà con người không thể tạo ra. Đâu chỉ có vậy, rừng còn là nơi cư trú của các loài động vật hoang dã, quý báu mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta. Con người đã săn bắn thú quý hiếm bán cho nhau. Chỉ vì cái lợi trước mắt mà tàn phá thiên nhiên. Bây giờ một số loài đã và đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Chúng ta nên bảo vệ, xây dựng nhiều khu bảo tồn để bảo vệ các thú vật quý hiếm. Thành phần tiếp theo cũng có không ít vai trò quan trọng đó chính là nước. Nước là vật chất không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của con người và sự vật. Ví dụ như: Làm nước uống, giao thông đường biển, và nhiều sinh hoạt khác. Hãy nghĩ xem nếu một ngày không có nước thì mọi vật sẽ ra sao? Sẽ chất dần, héo dần vì mất nước, khô khan. Điều đó sẽ xảy ra nếu chúng ta cứ phung phí, không biết sử dụng hợp lí. Người ta thường nói “rừng vàng, biển bạc” mà giờ đây mặt biển lại bập bềnh toàn rác thải. Những ao, hồ bị ô nhiễm do rác của con người quá nhiều làm cho cá, tôm chết, nhiễm bệnh hàng loạt. Rồi con người lại sử dụng nguồn nước đó, ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh bệnh. Ôi, thật kinh khủng! Nguồn nước bị ô nhiễm chẳng những không sử dụng được mà còn gây ô nhiễm môi trường do mùi hôi thối. Như mọi người cũng đã biết, Hồ Gươm là nơi rất sạch đẹp, dành cho mọi người đi tham quan, ngắm cảnh ở đây. Nhưng cách đây không lâu có một bài báo đưa tin về việc ý thức người dân bị giảm sút làm cho hồ bị ô nhiễm, mất đi vẻ đẹp văn hóa của Hồ Gươm. Hiện nay, sự ô nhiễm môi trường đã đến mức báo động. Chúng ta nên bảo vệ môi trường bằng những hành động thiết thực. Không khí bị ô nhiễm thì cần phải có những biện pháp lọc không khí. Nguồn nước bị ô nhiễm thì phải bảo vệ và tiết kiệm nước. Rừng bị tàn phá thì phải trồng thêm cây. Tích cực tham gia các hoạt động phong trào như: Mùa hè xanh, Ngày chủ nhật,… Nếu mỗi người đóng góp một ít thì chẳng bao lâu môi trường sẽ ngày càng xanh tươi. Môi trường sống là rất quan trọng. Nếu không có môi trường thì sẽ không có chúng ta, không có sự sống. Nhưng đã có nó thì phải biết giữ gìn, bảo vệ. Chúng ta không nên có thêm hành động nào phá hoại môi trường. Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt nhất để hành tinh luôn xanh tươi. Đề 5: Hãy chứng tỏ rằng Bác Hồ sống vô cùng giản dị, thanh bạch.
Hướng dẫn Soạn bài: Viết bài tập làm văn số 5: Văn lập luận chứng minh được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các bạn học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. mời các bạn tải và tham khảo bài viết dưới đây Soạn bài: Viết bài tập làm văn số 5: Văn lập luận chứng minh Đề 1: Ít lâu nay, một số bạn trong lớp em có phần lơ là học tập. Em hãy viết một bài văn để thuyết phục bạn: Nếu khi còn trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích! Dàn bài: A. Mở bài: – Dẫn dắt để giới thệu được tình hình của lớp (có nhiều bạn lơ là học tập). – Đưa ra chân lí: Nếu khi trẻ ta không chịu khó học tập thì lớn lên ta sẽ chẳng làm được việc gì có ích. B. Thân bài: – Kể lại tình hình của lớp thời gian qua (tưởng tượng về chuyện có nhiều bạn lơ là học tập, say mê vào các trò chơi như: Điện tử, cờ bạc, chat,…). – Chứng minh cho các bạn thấy: Nếu không chịu khó học tập từ khi còn trẻ, thì sẽ có nhiều cái hại: + Sẽ không có thời gian để bổ sung kiến thức. + Không có kiến thức để làm việc sau này. + Bị tụt hậu so với sự phát triển của xã hội nói chung. + Ảnh hưởng đến gia đình và xã hội sau này. C. Kết bài: Khẳng định lại chân lí vừa nêu. Động viên các bạn tập trung vào việc học. Đề 2: Hãy chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. A. Mở bài: – Nêu khái quát vai trò của rừng đối với cuộc sống của chúng ta. – Khẳng định: Bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống. B. Thân bài: Chứng minh bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta: 1. Nêu những ích lợi của rừng: – Cung cấp không khí. – Ngăn lũ lụt, lở đất. – Cung cấp sản vật, hoa cỏ, gỗ,… – Tạo lớp mùn cho đất. 2. Vì thế, bảo vệ rừng là bảo vệ cuốc sống của chúng ta, bởi: – Nghĩa là chúng ta đang bảo vệ sự trong lành của sự sống. – Nghĩa là chúng ta đang bảo vệ mình khỏi những thiên tai. – Nghĩa là chúng ta đang gìn giữ cho những ích lợi lâu dài của cả cộng đồng. C. Kết bài: Nêu trách nhiệm của bản thân và gửi thông điệp bảo vệ rừng đến mọi người. Đề 3: Dân gian ta có câu tục ngữ: Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Nhưng có bạn lại bảo: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. Em hãy viết một bài văn chứng minh thuyết phục bạn ấy theo ý kiến của em. A. Mở bài: – Khái quát nội dung câu tục ngữ. – Giới thiệu câu tục ngữ. – Nêu ý kiến của bạn nọ. B. Thân bài: 1. Giải thích ý nghĩa câu tục ngữ: – Nghĩa đen. – Nghĩa bóng. – Ý nghĩa tổng quát của câu tục ngữ là gì? 2. Khẳng định tính đúng đắn của câu tục ngữ bằng việc đưa ra các dẫn chứng trong thực tế mà em biết. 3. Mở rộng câu tục ngữ. – Câu tục ngữ là một chân lí nhưng còn mang tính cực đoan. – Cũng có những trường hợp: Gần mực chưa chắc đã đen, gần đèn chưa chắc đã rạng. – Câu tục ngữ chỉ đúng với những người luôn có ý thức học hỏi. 4. Về ý kiến mà bạn đã nêu, có thể khẳng định: Ý kiến đó tuy có phần đúng nhưng không thể khẳng định tuyệt đối như vậy được. C. Kết bài: Tán thành phần đúng trong ý kiến mà bạn nọ đã nêu. Nhưng cần khẳng định tính đúng đắn theo hướng thuận chiều của câu tục ngữ, bởi đó là một chân lí đã được thực tế chứng minh. Đề 4: Hãy chứng minh rằng đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu mỗi người không có ý thức bảo vệ môi trường sống. Từ thuở con người xuất hiện trên Trái Đất, môi trường sống là một điều kiện không thể thiếu cho sự sinh tồn của sự vật và con người. Hiện nay, do nhu cầu đời sống vật chất cao nên ít ai quan tâm đến và làm cho môi trường ngày càng trở nên xấu đi do những kẻ vô lương tâm phá hoại. Môi trường là không gian sống của con người, động vật,…Bao gồm tất cả những gì xung quanh ta và được phân thành hai loại: Môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. Môi trường tự nhiên là các yếu tố thiên nhiên như không khí, nước, đất, rừng,… Là lá phổi xanh của Trái Đất, là những ngọn núi cao hùng vĩ, là ánh sáng rạng ngời,… Môi trường rất quan trọng đối với đời sống của mỗi người. Vì thế, chúng ta phải bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sức khỏe của chính mình. Môi trường là bầu không khí cho ta hít thở. Nhưng bây giờ thì bầu không khí ấy đang bị ô nhiễm do những nhà máy, xí nghiệp mà ta đã tự hào dựng lên, thả khí độc nghi ngút, làm cho một giây Trái Đất nặng thêm một tấn bụi. Những chiếc xe ô tô, xe máy tấp nập liên tục chạy trên đường, khói xả ra đen bụi cả đường phố. Làm cho không khí trở nên ngột ngạt nặng nề. Từ đó, tầng ô-zôn ngăn cản sức nóng của Mặt Trời cũng đang bị thủng ngày một lớn hơn. Sức nóng ấy làm băng tan ra và tràn vào đất liền gây ngập lụt, bão, và sóng thần. Không chỉ thế, không khí bị ô nhiễm gây ra mưa a-xit làm hư hại mùa màng, phá hủy nhiều rừng cây và đời sống của các sinh vật cũng bị đe dọa. Cây xanh là nguồn cung cấp không khí trong lành. Cây còn ngăn lũ, cho bóng mát, bảo vệ đời sống con người. Vì thế, cây xanh cũng rất quan trọng trong môi trường. Nhưng có một số người không hiểu điều đó, chặt phá cây, đốt rừng, xuất hiện đất trống đồi trọc. Màu xanh dần dần biến mất, khí hậu trở nên ngột ngạt. Lũ lụt tràn về gây nhiều thiệt hại. Những nguồn lợi quý giá như gỗ, nguyên liệu làm thuốc,…dường như cũng bị cuốn vào những lưỡi cưa phá hoại rừng. Chỉ một hành động tàn nhẫn đó đã phá hoại vẻ đẹp thiên nhiên, mà con người không thể tạo ra. Đâu chỉ có vậy, rừng còn là nơi cư trú của các loài động vật hoang dã, quý báu mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta. Con người đã săn bắn thú quý hiếm bán cho nhau. Chỉ vì cái lợi trước mắt mà tàn phá thiên nhiên. Bây giờ một số loài đã và đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Chúng ta nên bảo vệ, xây dựng nhiều khu bảo tồn để bảo vệ các thú vật quý hiếm. Thành phần tiếp theo cũng có không ít vai trò quan trọng đó chính là nước. Nước là vật chất không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của con người và sự vật. Ví dụ như: Làm nước uống, giao thông đường biển, và nhiều sinh hoạt khác. Hãy nghĩ xem nếu một ngày không có nước thì mọi vật sẽ ra sao? Sẽ chất dần, héo dần vì mất nước, khô khan. Điều đó sẽ xảy ra nếu chúng ta cứ phung phí, không biết sử dụng hợp lí. Người ta thường nói “rừng vàng, biển bạc” mà giờ đây mặt biển lại bập bềnh toàn rác thải. Những ao, hồ bị ô nhiễm do rác của con người quá nhiều làm cho cá, tôm chết, nhiễm bệnh hàng loạt. Rồi con người lại sử dụng nguồn nước đó, ảnh hưởng đến sức khỏe, sinh bệnh. Ôi, thật kinh khủng! Nguồn nước bị ô nhiễm chẳng những không sử dụng được mà còn gây ô nhiễm môi trường do mùi hôi thối. Như mọi người cũng đã biết, Hồ Gươm là nơi rất sạch đẹp, dành cho mọi người đi tham quan, ngắm cảnh ở đây. Nhưng cách đây không lâu có một bài báo đưa tin về việc ý thức người dân bị giảm sút làm cho hồ bị ô nhiễm, mất đi vẻ đẹp văn hóa của Hồ Gươm. Hiện nay, sự ô nhiễm môi trường đã đến mức báo động. Chúng ta nên bảo vệ môi trường bằng những hành động thiết thực. Không khí bị ô nhiễm thì cần phải có những biện pháp lọc không khí. Nguồn nước bị ô nhiễm thì phải bảo vệ và tiết kiệm nước. Rừng bị tàn phá thì phải trồng thêm cây. Tích cực tham gia các hoạt động phong trào như: Mùa hè xanh, Ngày chủ nhật,… Nếu mỗi người đóng góp một ít thì chẳng bao lâu môi trường sẽ ngày càng xanh tươi. Môi trường sống là rất quan trọng. Nếu không có môi trường thì sẽ không có chúng ta, không có sự sống. Nhưng đã có nó thì phải biết giữ gìn, bảo vệ. Chúng ta không nên có thêm hành động nào phá hoại môi trường. Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt nhất để hành tinh luôn xanh tươi. Đề 5: Hãy chứng tỏ rằng Bác Hồ sống vô cùng giản dị, thanh bạch.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Tìm hiểu chung về phép lập luận chứng minh được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. TÌM HIỂU CHUNG VỀ PHÉP LẬP LUẬN CHỨNG MINH 1. Trong đời sống, chúng ta vẫn thường làm sáng tỏ một việc gì đó cho người khác thấy hoặc làm cho ai đó tin vào nhận định của mình. Người ta chỉ có thể tin vào nhận định của ai đó khi nhận định đó có căn cứ đúng đắn, dựa trên những sự thật được thừa nhận. Chẳng hạn, em sơ ý đánh rơi một chiếc bút máy rất quý, em biết có một bạn ở lớp khác (không quen em) nhặt được, em gặp để xin lại nhưng bạn đó muốn em chứng tỏ được rằng chiếc bút máy đó là của em. Trong tình huống này, em phải làm gì? Em phải chứng minh cho bạn đó tin rằng chiếc bút máy đó là của em. Làm thế nào để bạn đó tin? Em không thể chỉ giải thích suông, cần đưa ra những chứng cứ xác thực, ví dụ: trên thân bút có khắc tên em, loại mực trong bút, một vết sứt nhỏ ở bên trong ruột bút, một bạn khác cùng xác nhận chiếc bút đó đúng là của em,… Vậy, chứng minh là gì? Chứng minh là dùng cái được thừa nhận là đúng, có thật để chứng tỏ một điều gì đó là đáng tin. 2. Đọc bài văn nghị luận sau và trả lời câu hỏi: ĐỪNG SỢ VẤP NGÃ Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ. Lần đầu tiên chập chững bước đi, bạn đã bị ngã. Lần đầu tiên tập bơi, bạn uống nước và suýt chết đuối phải không? Lần đầu tiên chơi bóng bàn, bạn có đánh trúng bóng không? Không sao đâu vì… Oan Đi-xnây từng bị toà báo sa thải vì thiếu ý tưởng. Ông cũng nếm mùi phá sản nhiều lần trước khi sáng tạo nên Đi-xnây-len. Lúc còn học phổ thông, Lu-i Pa-xtơ chỉ là một học sinh trung bình. Về môn Hoá, ông đứng hạng 15 trong số 22 học sinh của lớp. Lép Tôn-xtôi, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng Chiến tranh và hoà bình, bị đình chỉ học đại học vì “vừa không có năng lực, vừa thiếu ý chí học tập”. Hen-ri Pho thất bại và cháy túi tới năm lần trước khi thành công. Ca sĩ ô-pê-ra nổi tiếng En-ri-cô Ca-ru-xô bị thầy giáo cho là thiếu chất giọng và không thể nào hát được. Vậy xin bạn chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội chỉ vì không cố gắng hết mình. (Theo Trái tim có điều kì diệu) a) Xác định luận điểm chính của bài văn Đừng sợ vấp ngã. Tìm những câu văn mang luận điểm. Gợi ý: Nhan đề của bài văn thể hiện luận điểm chính đừng sợ vấp ngã. Bài văn sử dụng phép lập luận chứng minh để thuyết phục về luận điểm này. Các câu mang luận điểm: b) Bài văn đã lập luận như thế nào để chứng minh cho luậnđiểm đừng sợ vấp ngã? Các sự thật được dẫn ra có đáng tin cậy không? Các sự thật này có tác dụng như thế nào trong phép lập luận chứng minh mà người viết xây dựng? Gợi ý: Người viết đưa ra những dẫn chứng hết sức xác thực. Toàn là những tên tuổi lừng lẫy mà không ai không biết. Nghĩa là những sự thực dẫn ra mặc nhiên đều được thừa nhận. Điều này quyết định đến độ thuyết phục của luận điểm và cùng với lí lẽ chặt chẽ tạo nên một lập luận chứng minh hoàn chỉnh. 1. Xác định luận điểm chính của bài văn sau: KHÔNG SỢ SAI LẦM Bạn ơi, nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào, làm gì được nấy, thì đó hoặc là bạn ảo tưởng, hoặc là bạn hèn nhát trước cuộc đời. Một người mà lúc nào cũng sợ thất bại, làm gì cũng sợ sai lầm là một người sợ hãi thực tế, trốn tránh thực tế, và suốt đời không bao giờ có thể tự lập được. Bạn sợ sặc nước thì bạn không biết bơi; bạn sợ nói sai thì bạn không nói được ngoại ngữ! Một người mà không chịu mất gì thì sẽ không được gì. Sai lầm cũng có hai mặt. Tuy nó đem lại tổn thất, nhưng nó cũng đem đến bài học cho đời. Khi tiến bước vào tương lai, bạn làm sao tránh được sai lầm? Nếu bạn sợ sai thì bạn chẳng dám làm gì. Người khác bảo bạn sai chưa chắc bạn đã sai, vì tiêu chuẩn đúng sai khác nhau. Lúc đó bạn chớ ngừng tay, mà cứ tiếp tục làm, dù cho có gặp trắc trở. Thất bại là mẹ của thành công. Tất nhiên bạn không phải là người liều lĩnh, mù quáng, cố ý mà phạm sai lầm. Chẳng ai thích sai lầm cả. Có người phạm sai lầm thì chán nản. Có kẻ sai lầm rồi thì tiếp tục sai lầm thêm. Nhưng có người biết suy nghĩ, rút kinh nghiệm, tìm con đường khác để tiến lên. Những người sáng suốt dám làm, không sợ sai lầm, mới là người làm chủ số phận của mình. (Theo Hồng Diễm) Gợi ý: Nhan đề Không sợ sai lầm chính là luận điểm chính của bài văn. 2. Tìm những câu văn mang luận điểm chính của bài văn trên. Gợi ý: Để chứng minh cho luận điểm không sợ sai lầm, bài viết đã triển khai những luận điểm nhỏ nào? Các câu mang luận điểm: 3. Trong bài văn trên, để chứng minh luận điểm của mình, người viết đã đưa ra những lí lẽ nào? Gợi ý: Các lí lẽ: 4. So sánh với cách lập luận của bài văn trên với cách lập luận của bài Đừng sợ vấp ngã. Gợi ý: Để lập luận chứng minh, trong bài Đừng sợ vấp ngã, người viết đã sử dụng lí lẽ và nhân chứng, còn ở bài Không sợ sai lầm người viết sử dụng lí lẽ và phân tích lí lẽ.
Instruct The following lesson preparation for Literature subject grade 7, semester 2: General understanding of argumentation and proof is collected and introduced by VnDoc for students to refer to and prepare well for the upcoming new semester's lectures. here is mine. LEARN GENERAL ON PROOF REASONING 1. In life, we often clarify something for others to see or make someone believe in our judgment. People can only trust someone's judgment when that judgment is well-founded, based on accepted facts. For example, I accidentally dropped a very precious fountain pen. I knew a friend in another class (who didn't know me) picked it up. I met him to ask for it back, but he wanted me to prove that the fountain pen was real. mine. In this situation, what should I do? I have to prove to that friend that the fountain pen is mine. How do you believe that? You can't just explain, you need to provide real evidence, for example: your name is engraved on the body of the pen, the type of ink in the pen, a small chip on the inside of the pen, and another friend confirms the pen. That pen is indeed mine... So, what is proof? To prove is to use something that is accepted as true and real to prove that something is trustworthy. 2. Read the following essay and answer the questions: DON'T BE AFRAID OF FALLING How many times have you stumbled and fallen without even remembering? The first time you took a step, you fell. The first time you learned to swim, you drank water and almost drowned, right? The first time you played table tennis, did you hit the ball? It's okay because… Oan Disney was fired from the newspaper for lack of ideas. He also experienced bankruptcy many times before creating Diesel. When he was in high school, Louis Pasteur was just an average student. In Chemistry, he ranked 15th out of 22 students in the class. Lev Tonxti, author of the famous novel War and Peace, was suspended from university because of "both incapacity and lack of will to study". Henri Pho failed and went broke five times before succeeding. Famous opera singer Enrico Caruso was told by his teacher that he lacked voice and could not sing. So, do not afear fail. What's scarier is that you've missed many opportunities just because you didn't try your best. (According to The Heart Has Miracles) a) Identify the main argument of the essay Don't be afraid to stumble. Find sentences that carry a thesis. Suggest: The title of the essay represents the main argument: don't be afraid to stumble. The essay uses demonstrative arguments to convince of this point. Argumentative sentences: b) How does the essay argue to prove the point of not being afraid to stumble? Are the facts cited reliable? How do these facts play into the proof argument that the writer constructs? Suggest: The writer gives very authentic evidence. These are all famous names that no one knows. This means that the facts cited are implicitly accepted. This determines the persuasiveness of the argument and, together with strong arguments, creates a complete proof argument. 1. Identify the main argument of the following essay: DON'T BE AFRAID OF MISTAKES My friend, if you want to live a life without making any mistakes and doing whatever you want, then you are either delusional or cowardly towards life. A person who is always afraid of failure, afraid of making mistakes in everything he does is a person who is afraid of reality, avoids reality, and can never be independent for the rest of his life. If you're afraid of choking on water, you don't know how to swim; If you're afraid of saying the wrong thing, you can't speak a foreign language! A person who refuses to lose anything will gain nothing. Mistakes also have two sides. Although it brings losses, it also brings lessons for life. As you move into the future, how can you avoid mistakes? If you are afraid of making mistakes, you won't dare do anything. Someone telling you that you are wrong does not necessarily mean that you are wrong, because the standards of right and wrong are different. At that time, don't stop, just keep working, even if you encounter difficulties. Failure is the mother of success. Of course you are not someone who is reckless, blind, or intentionally making mistakes. No one likes mistakes. Some people make mistakes and get discouraged. Some people make mistakes and continue to make more mistakes. But there are people who know how to think, learn from experience, and find another way to move forward. Smart people who dare to do things, not afraid of mistakes, are the ones who control their own destiny. (According to Hong Diem) Hint: The title Not afraid of mistakes is the main argument of the essay. 2. Find sentences that carry the main argument of the above article. Suggestion: To prove the point of not being afraid of mistakes, what small points did the article develop? Argumentative sentences: 3. In the above article, to prove his thesis, what arguments did the writer give? Suggestions: Arguments: 4. Compare the argument of the above article with the argument of the article Don't be afraid to stumble. Suggestion: To prove the argument, in the article Don't be afraid to stumble, the writer used reason and witnesses, while in the article Don't be afraid of mistakes, the writer used reason and analysis of reason.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Những trò lố hay là Va-Ren và Phan Bội Châu do Nguyễn Ái Quốc sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. NHỮNG TRÒ LỐ HAY LÀ VA-REN VÀ PHAN BỘI CHÂU (Nguyễn Ái Quốc) 1. Tác giả Nguyễn Ái Quốc là tên gọi rất nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được dùng từ năm 1919 đến năm 1945. Bút danh Nguyễn Ái Quốc gắn với tờ báo Người cùng khổ, nhiều truyện kí (sau này in thành Truyện kí Nguyễn Ái Quốc) và tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết trên đất Pháp, bằng tiếng Pháp trong thời gian từ 1922 đến 1925. 2. Tác phẩm Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu được viết ngay sau khi nhà cách mạng Phan Bội Châu bị bắt cóc (18-6-1925) ở Trung Quốc bị giải về giam ở Hoả Lò – Hà Nội và sắp bị xử án, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Tác phẩm được viết với mục đích cổ động phong trào của nhân dân trong nước đòi thả Phan Bội Châu. 1. Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu là một truyện ngắn có tính chất kí sự nhưng thực tế là hư cấu, do tác giả tưởng tượng và sáng tạo từ sự việc trước khi sang Đông Dương nhậm chức, Va-ren có tuyên bố sẽ quan tâm tới Phan Bội Châu. 2. a) Trước khi sang Đông Dương, do sức ép của công luận ở Pháp và Đông Dương, Va-ren đã hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu. b) Nhưng thực chất đó chỉ là một lời hứa dối trá nhằm trấn an công luận, trấn an nhân dân Việt Nam đang đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Tác giả đã sử dụng biện pháp châm biếm sâu cay để lật tẩy bộ mặt giả dối của Va-ren. Y đã hứa một cách “nửa chính thức”, tức là hứa ỡm ờ, hứa mà không nhất thiết phải thực hiện. Tiếp theo Người lại viết: “giả thử cứ cho rằng một vị Toàn quyền Đông Dương mà lại biết giữ lời hứa đi chăng nữa…”. Viết như thế, Người đã ngầm cho độc giả (nhân dân Việt Nam) nhận rõ bộ mặt thật của những tên quan thực dân. Trong quá trình cai trị, để có thể vơ vét được nhiều của cải, để bóc lột được công sức lao động của nhân dân Đông Dương một cách tàn tệ, thậm chí đi làm bia đỡ đạn cho chúng, chúng đã hứa rất nhiều nhưng không bao giờ giữ lời hứa, nhất là khi những lời hứa ấy lại không mang đến lợi ích cho chúng. 3. a) Trong đoạn văn có hai nhân vật: Va-ren và Phan Bội Châu, được xây dựng theo quan hệ tương phản, đối lập nhau: Va-ren là một viên toàn quyền, còn Phan Bội Châu là một người tù. Một bên là kẻ bất lương nhưng thống trị, bên kia là người cách mạng vĩ đại nhưng đã thất thế. Tác giả dành một số lượng từ ngữ lớn, hình thức ngôn ngữ trần thuật để khắc hoạ tính cách Va-ren. Còn với Phan Bội Châu, tác giả dùng sự im lặng làm phương thức đối lập. Đây là một cách viết vừa tả vừa gợi, rất thâm thuý, sinh động và lí thú. b) Trong cuộc đối thoại (tưởng tượng) của tác giả, hầu như chỉ có Va-ren nói, còn Phan Bội Châu thì im lặng. Bởi vậy, ngôn ngữ của Va-ren thực chất là ngôn ngữ độc thoại, tự nói một mình. Qua lời nói, cử chỉ, Va-ren bộc lộ rõ tính cách nham hiểm, thâm độc. Y không ngừng ve vuốt, dụ dỗ, bịp bợm một cách trắng trợn nhằm thuyết phục Phan Bội Châu từ bỏ tư tưởng cách mạng, cộng tác với chúng (thực chất là đầu hàng). Thậm chí y còn đem cả thân thế (từng là một kẻ phản bội đồng đội, đồng chí trong Đảng Xã hội) ra để thuyết phục Phan Bội Châu hãy theo gương y để có được một cuộc sống sung sướng. c) Ngược lại với sự ba hoa, khoác lác của Va-ren, từ đầu đến cuối Phan Bội Châu chỉ im lặng. Ông phớt lờ, coi như không có Va-ren trước mặt. Sự im lặng, dửng dưng của Phan Bội Châu thể hiện một thái độ khinh bỉ cực độ, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh kiên cường của nhà cách mạng trước kẻ thù, cho dù đó là Toàn quyền Đông Dương đi chăng nữa. 4. Ý nghĩa của bài văn sẽ giảm đi rất nhiều nếu không có những lời bình vừa hóm hỉnh vừa sắc sảo của tác giả. Từ đầu cuộc đối thoại, tác giả như đang ngồi ngay bên cạnh, chứng kiến Va-ren giở đủ mọi ngón nghề và cũng chứng kiến sự thất bại thảm hại của y trước người tù cách mạng. Sau đó tác giả đưa ra lời bình: “Nhưng cứ xét binh tình, thì đó chỉ là vì (Phan) Bội Châu không hiểu Va-ren cũng như Va-ren không hiểu (Phan) Bội Châu”. Thật hóm hỉnh và sâu sắc. Hai chữ “không hiểu” được tác giả giải thích một phần (không phải vì không hiểu tiếng nói của nhau vì đã có thông ngôn), còn lại để cho bạn đọc tự suy ngẫm. Như vậy, hai con người không hiểu được nhau chỉ có thể vì họ không thể và không bao giờ cùng tư tưởng, chí hướng, không bao giờ đi chung một con đường. Dù Va-ren có nói gì chăng nữa thì với Phan Bội Châu, y cũng chỉ là một kẻ xa lạ, một kẻ không đáng để Phan Bội Châu phải bận tâm. Kết thúc cuộc đối thoại (mà thực chất là độc thoại), tác giả còn dẫn lời của một nhân vật tưởng tượng khác (anh lính dõng) để tạo cho câu chuyện cảm giác khách quan. Theo lời anh lính dõng, anh ta có thấy “đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay, và cái đó chỉ diễn ra có một lần thôi”. Với chi tiết này, trong con mắt của Phan Bội Châu, Va-ren cũng chỉ là một đứa trẻ. 5.* Dường như thế vẫn chưa diễn tả hết được thái độ khinh miệt của Phan Bội Châu đối với Va-ren, tác giả còn đưa ra lời của một nhân chứng tưởng tượng khác mà theo lời của tác giả, “chẳng dám nêu tên”, quả quyết rằng Phan Bội Châu đã nhổ vào mặt Va-ren. Và Người lại còn chua thêm: “cái đó thì có thể”. Sự trần thuật xen lẫn các yếu tố bình luận rất phong phú, đa dạng của tác giả khiến cho câu chuyện hết sức hấp dẫn, góp phần làm nổi bật tình cảnh vừa lố bịch vừa hài hước của Va-ren, đồng thời cũng làm rõ thêm thái độ, tính cách, bản lĩnh của Phan Bội Châu. 1. Tóm tắt Đoạn trích khắc hoạ hai nhân vật có tính cách hoàn toàn đối lập nhau: Va-ren thì gian trá, lố bịch, đại diện cho thực dân Pháp phản động ở Đông Dương; Phan Bội Châu kiên cường, bất khuất, xứng đáng là vị anh hùng, tiêu biểu cho khí phách của dân tộc Việt Nam. 2. Cách đọc Với văn bản này, cần chú ý giọng điệu của hai nhân vật: Trong cả cuộc đối thoại, Phan Bội Châu không nói một lời, do đó không cần chú ý đến giọng điệu của nhân vật này. Tuy nhiên, nổi bật lên trong đó là lời bình luận của người kể chuyện cũng như thái độ của nhân vật đó (và cũng có thể coi là thái độ của nhân vật khi nói đến Phan Bội Châu. Đó là thái độ kính phục đối với người chiến sĩ cách mạng, đồng thời sự mỉa mai, châm biếm càng tăng lên khi nói đến sự “lố” của viên quan Toàn quyền. 3. Trong truyện tuy không nói, thế nhưng chúng ta có thể nhận rõ thái độ khinh bỉ của Phan Bội Châu đối với Va-ren. Thái độ lạnh nhạt, thờ ơ với nụ cười khinh bỉ chính là những minh chứng chứng minh cho điều đó. 4. Cụm từ “những trò lố” trong nhan đề tác phẩm chính là có ý vạch trần những hành động lố lăng và bản chất xấu xa của Va-ren. Nó bóc trần những hành động giả tạo, kệch kỡm của tên toàn quyền.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Những trò lố hay là Va-Ren và Phan Bội Châu do Nguyễn Ái Quốc sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. NHỮNG TRÒ LỐ HAY LÀ VA-REN VÀ PHAN BỘI CHÂU (Nguyễn Ái Quốc) 1. Tác giả Nguyễn Ái Quốc là tên gọi rất nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được dùng từ năm 1919 đến năm 1945. Bút danh Nguyễn Ái Quốc gắn với tờ báo Người cùng khổ, nhiều truyện kí (sau này in thành Truyện kí Nguyễn Ái Quốc) và tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết trên đất Pháp, bằng tiếng Pháp trong thời gian từ 1922 đến 1925. 2. Tác phẩm Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu được viết ngay sau khi nhà cách mạng Phan Bội Châu bị bắt cóc (18-6-1925) ở Trung Quốc bị giải về giam ở Hoả Lò – Hà Nội và sắp bị xử án, còn Va-ren thì chuẩn bị sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương. Tác phẩm được viết với mục đích cổ động phong trào của nhân dân trong nước đòi thả Phan Bội Châu. 1. Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu là một truyện ngắn có tính chất kí sự nhưng thực tế là hư cấu, do tác giả tưởng tượng và sáng tạo từ sự việc trước khi sang Đông Dương nhậm chức, Va-ren có tuyên bố sẽ quan tâm tới Phan Bội Châu. 2. a) Trước khi sang Đông Dương, do sức ép của công luận ở Pháp và Đông Dương, Va-ren đã hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu. b) Nhưng thực chất đó chỉ là một lời hứa dối trá nhằm trấn an công luận, trấn an nhân dân Việt Nam đang đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Tác giả đã sử dụng biện pháp châm biếm sâu cay để lật tẩy bộ mặt giả dối của Va-ren. Y đã hứa một cách “nửa chính thức”, tức là hứa ỡm ờ, hứa mà không nhất thiết phải thực hiện. Tiếp theo Người lại viết: “giả thử cứ cho rằng một vị Toàn quyền Đông Dương mà lại biết giữ lời hứa đi chăng nữa…”. Viết như thế, Người đã ngầm cho độc giả (nhân dân Việt Nam) nhận rõ bộ mặt thật của những tên quan thực dân. Trong quá trình cai trị, để có thể vơ vét được nhiều của cải, để bóc lột được công sức lao động của nhân dân Đông Dương một cách tàn tệ, thậm chí đi làm bia đỡ đạn cho chúng, chúng đã hứa rất nhiều nhưng không bao giờ giữ lời hứa, nhất là khi những lời hứa ấy lại không mang đến lợi ích cho chúng. 3. a) Trong đoạn văn có hai nhân vật: Va-ren và Phan Bội Châu, được xây dựng theo quan hệ tương phản, đối lập nhau: Va-ren là một viên toàn quyền, còn Phan Bội Châu là một người tù. Một bên là kẻ bất lương nhưng thống trị, bên kia là người cách mạng vĩ đại nhưng đã thất thế. Tác giả dành một số lượng từ ngữ lớn, hình thức ngôn ngữ trần thuật để khắc hoạ tính cách Va-ren. Còn với Phan Bội Châu, tác giả dùng sự im lặng làm phương thức đối lập. Đây là một cách viết vừa tả vừa gợi, rất thâm thuý, sinh động và lí thú. b) Trong cuộc đối thoại (tưởng tượng) của tác giả, hầu như chỉ có Va-ren nói, còn Phan Bội Châu thì im lặng. Bởi vậy, ngôn ngữ của Va-ren thực chất là ngôn ngữ độc thoại, tự nói một mình. Qua lời nói, cử chỉ, Va-ren bộc lộ rõ tính cách nham hiểm, thâm độc. Y không ngừng ve vuốt, dụ dỗ, bịp bợm một cách trắng trợn nhằm thuyết phục Phan Bội Châu từ bỏ tư tưởng cách mạng, cộng tác với chúng (thực chất là đầu hàng). Thậm chí y còn đem cả thân thế (từng là một kẻ phản bội đồng đội, đồng chí trong Đảng Xã hội) ra để thuyết phục Phan Bội Châu hãy theo gương y để có được một cuộc sống sung sướng. c) Ngược lại với sự ba hoa, khoác lác của Va-ren, từ đầu đến cuối Phan Bội Châu chỉ im lặng. Ông phớt lờ, coi như không có Va-ren trước mặt. Sự im lặng, dửng dưng của Phan Bội Châu thể hiện một thái độ khinh bỉ cực độ, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh kiên cường của nhà cách mạng trước kẻ thù, cho dù đó là Toàn quyền Đông Dương đi chăng nữa. 4. Ý nghĩa của bài văn sẽ giảm đi rất nhiều nếu không có những lời bình vừa hóm hỉnh vừa sắc sảo của tác giả. Từ đầu cuộc đối thoại, tác giả như đang ngồi ngay bên cạnh, chứng kiến Va-ren giở đủ mọi ngón nghề và cũng chứng kiến sự thất bại thảm hại của y trước người tù cách mạng. Sau đó tác giả đưa ra lời bình: “Nhưng cứ xét binh tình, thì đó chỉ là vì (Phan) Bội Châu không hiểu Va-ren cũng như Va-ren không hiểu (Phan) Bội Châu”. Thật hóm hỉnh và sâu sắc. Hai chữ “không hiểu” được tác giả giải thích một phần (không phải vì không hiểu tiếng nói của nhau vì đã có thông ngôn), còn lại để cho bạn đọc tự suy ngẫm. Như vậy, hai con người không hiểu được nhau chỉ có thể vì họ không thể và không bao giờ cùng tư tưởng, chí hướng, không bao giờ đi chung một con đường. Dù Va-ren có nói gì chăng nữa thì với Phan Bội Châu, y cũng chỉ là một kẻ xa lạ, một kẻ không đáng để Phan Bội Châu phải bận tâm. Kết thúc cuộc đối thoại (mà thực chất là độc thoại), tác giả còn dẫn lời của một nhân vật tưởng tượng khác (anh lính dõng) để tạo cho câu chuyện cảm giác khách quan. Theo lời anh lính dõng, anh ta có thấy “đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay, và cái đó chỉ diễn ra có một lần thôi”. Với chi tiết này, trong con mắt của Phan Bội Châu, Va-ren cũng chỉ là một đứa trẻ. 5.* Dường như thế vẫn chưa diễn tả hết được thái độ khinh miệt của Phan Bội Châu đối với Va-ren, tác giả còn đưa ra lời của một nhân chứng tưởng tượng khác mà theo lời của tác giả, “chẳng dám nêu tên”, quả quyết rằng Phan Bội Châu đã nhổ vào mặt Va-ren. Và Người lại còn chua thêm: “cái đó thì có thể”. Sự trần thuật xen lẫn các yếu tố bình luận rất phong phú, đa dạng của tác giả khiến cho câu chuyện hết sức hấp dẫn, góp phần làm nổi bật tình cảnh vừa lố bịch vừa hài hước của Va-ren, đồng thời cũng làm rõ thêm thái độ, tính cách, bản lĩnh của Phan Bội Châu. 1. Tóm tắt Đoạn trích khắc hoạ hai nhân vật có tính cách hoàn toàn đối lập nhau: Va-ren thì gian trá, lố bịch, đại diện cho thực dân Pháp phản động ở Đông Dương; Phan Bội Châu kiên cường, bất khuất, xứng đáng là vị anh hùng, tiêu biểu cho khí phách của dân tộc Việt Nam. 2. Cách đọc Với văn bản này, cần chú ý giọng điệu của hai nhân vật: Trong cả cuộc đối thoại, Phan Bội Châu không nói một lời, do đó không cần chú ý đến giọng điệu của nhân vật này. Tuy nhiên, nổi bật lên trong đó là lời bình luận của người kể chuyện cũng như thái độ của nhân vật đó (và cũng có thể coi là thái độ của nhân vật khi nói đến Phan Bội Châu. Đó là thái độ kính phục đối với người chiến sĩ cách mạng, đồng thời sự mỉa mai, châm biếm càng tăng lên khi nói đến sự “lố” của viên quan Toàn quyền. 3. Trong truyện tuy không nói, thế nhưng chúng ta có thể nhận rõ thái độ khinh bỉ của Phan Bội Châu đối với Va-ren. Thái độ lạnh nhạt, thờ ơ với nụ cười khinh bỉ chính là những minh chứng chứng minh cho điều đó. 4. Cụm từ “những trò lố” trong nhan đề tác phẩm chính là có ý vạch trần những hành động lố lăng và bản chất xấu xa của Va-ren. Nó bóc trần những hành động giả tạo, kệch kỡm của tên toàn quyền.
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 2 dưới đây với bài: Luyện nói bài văn giải thích một vấn đề được Thư viện đề thi VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh. Soạn văn bài luyện nói bài văn giải thích một vấn đề là tài liệu tham khảo chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. Mời các bạn cùng tải soạn bài lớp 7 bài Luyện nói bài văn giải thích một vấn đề dưới đây. LUYỆN NÓI: BÀI VĂN GIẢI THÍCH MỘT VẤN ĐỀ Với một trong các đề văn sau, hãy lập dàn bài cho bài văn nói. (1) Trường em tổ chức một cuộc thi giải thích các câu tục ngữ. Để tham gia cuộc thi đó, em hãy chọn một câu tục ngữ mình tâm đắc và giải thích nó. (2) Vì sao những tấn trò mà Va-ren bày ra với Phan Bội Châu lại được Nguyễn Ái Quốc gọi là những trò lố? (3) Vì sao nhà văn Phạm Duy Tốn lại đặt nhan đề Sống chết mặc bay cho truyện ngắn của mình? (4) Em thường đọc những sách gì? Hãy giải thích vì sao em thích đọc loại sách ấy. Gợi ý: Thực hiện các bước Tìm hiểu đề và tìm ý, Lập dàn bài theo bố cục ba phần. Tra từ điển, hoặc chú thích ở bài đọc văn bản để giải nghĩa các từ ngữ quan trọng của vấn đề sẽ giải thích. Ví dụ: tra từ điển giải thích tục ngữ để nắm được nghĩa của câu tục ngữ mình chọn để giải thích (1), xem chú thích để hiểu thế nào là trò lố, tra Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam để biết thế nào là Sống chết mặc bay,… Chú ý sắp xếp các ý theo trình tự trước – sau hợp lí. Ví dụ: Để giải thích Vì sao những tấn trò mà Va-ren bày ra với Phan Bội Châu lại được Nguyễn Ái Quốc gọi là những trò lố, nên giải thích ý nghĩa của cụm từ trò lố trước, tiếp theo nói rõ những trò của Va-ren là gì, rồi giải thích những trò ấy lố ở chỗ nào. Đây là bài văn giải thích ở dạng nói nên cần chú ý: Tập nói trước ở nhà theo dàn bài. Có thể đứng trước gương để tự điều chỉnh điệu bộ, cử chỉ,… Thực hành theo yêu cầu của thầy, cô giáo Chú ý điều chỉnh giọng nói, ngữ điệu khi trình bày sao cho rõ ràng, mạch lạc, có sắc thái biểu cảm khi cần thiết, nhấn mạnh những nội dung giải thích trọng tâm; cần tập tư thế đĩnh đạc, tự tin, từ tốn; khi nói nên chú ý hướng tới người nghe. Nếu có hình thức thực hành theo tổ thì:
Instruct The following lesson for Literature subject grade 7, semester 2: Practice speaking an essay explaining a problem is collected and introduced to students by the VnDoc Exam Library. Preparing a speaking practice essay explaining an issue is a good reference to prepare for your upcoming new semester's lectures. We invite you to download and prepare the 7th grade lesson on Speaking Practice, an essay explaining an issue below. SPEAKING PRACTICE: AN ESSAY EXPLAINING A PROBLEM With one of the following topics, create an outline for the speaking essay. (1) My school organized a competition to explain proverbs. To participate in that contest, choose a proverb you like and explain it. (2) Why were the tricks that Varen played with Phan Boi Chau called ridiculous tricks by Nguyen Ai Quoc? (3) Why did writer Pham Duy Ton give his short story the title Live or Die? (4) What books do you often read? Please explain why you like reading that type of book. Suggest: Follow the steps of Understanding the topic and finding ideas, Prepare an outline according to a three-part layout. Look up the dictionary, or make notes in the text to explain the meaning of important words of the problem to be explained. For example: look up the proverb explanation dictionary to grasp the meaning of the proverb you choose to explain (1), look at the caption to understand what a joke is, look up the Vietnamese Idioms and Proverbs Dictionary to know What is life and death?... Pay attention to arranging ideas in a logical first-next order. For example: To explain why the tricks Varen played with Phan Boi Chau were called tricks by Nguyen Ai Quoc, you should explain the meaning of the phrase tricks first, then clearly state the tricks. What is Varen's, and then explain where those games go wrong. This is an explanatory essay in spoken form, so pay attention: Practice speaking in advance at home according to the outline. You can stand in front of a mirror to adjust your posture, gestures, etc. Practice according to the teacher's requests Pay attention to adjusting your voice and intonation when presenting to be clear, coherent, have expressive nuances when necessary, and emphasize key explanatory content; Need to practice poise, confidence, and gentleness; When speaking, pay attention to the listener. If there is a form of group practice:
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 1 dưới đây: Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo để hiểu rõ tính nghệ thuật, ý nghĩa của những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước và con người để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. NHỮNG CÂU HÁT VỀ TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI I. Đọc – hiểu văn bản Câu 1. Ý kiến b và ý kiến c là đúng. – Khác với những bài ca dao trong phần “Những câu hát về tình cảm gia đình” mà chúng ta đã học, thường có lời của một người và chỉ có một phần. Bài ca dao này có hai vế đối và đáp. Phần đầu là lời chàng trai và cô gái. Phần sau là lời người con gái đáp lại lời đố của chàng trai. – Đây là hình thức khá phổ biến trong ca dao – dân ca. Mục đích thử tài nhau, thường được sử dụng vào những dịp lễ hội hoặc vui chơi trong lao động. Câu 2. – Chàng trai hỏi đố cô gái chủ yếu là những địa danh nổi tiếng ở vùng Bắc Bộ. – Dùng những đặc điểm về địa danh để hỏi đáp là để thử tài nhau, thử tài về kiến thức địa lí: “Sông nào sáu khúc”, “Nút thắt cổ bồng”… Thử tài về kiến thức lịch sử văn hóa: “Ở đâu năm cửa”, “Đền nào thiêng nhất”, “Nơi nào thánh sinh”… – Đó là sự biểu hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương đất nước: Từ Hà Nội đến Hải Dương, từ Lạng Sơn, Bắc Giang xuôi về Thanh Hóa, ở đâu cũng có những vẻ đẹp riêng, thơ mộng hữu tình, giàu truyền thống văn hóa. Câu 3. a. Cụm từ “Rủ nhau” đứng ở đầu bài ca dao có ý nghĩa. – Người ta chỉ “Rủ nhau” khi giữa mọi người có mối quan hệ thân thiết gần gũi. – Mọi người cùng có chung ý muốn, sở thích. – Điều mà khiến cho mọi người “Rủ nhau” phải có sự hấp dẫn hứng thú, không thể không đi, không thể không làm, niềm háo hức của người làm cảnh. b. Cách tả của bài ca dao – Không miêu tả cụ thể mà liệt kê những địa danh và những thắng cảnh nổi bật. – Ý nghĩa: Vẻ đẹp của cảnh là vô cùng phong phú, đa dạng. c. Cảm xúc gợi lên từ cảnh. – Đây là địa danh nổi tiếng bậc nhất của chốn kinh kì ngàn năm văn vật, đã đi vào máu thịt tâm hồn của mọi người. – Cảnh vừa có hồ (hồ Hoàn Kiếm) vừa có đền (đền Ngọc Sơn) vừa có cầu (cầu Thê Húc) lại vừa có Đài Nghiên, Tháp Bút, một quần thể thiên tạo và nhân tạo hài hòa với nhau, làm cho cảnh không chỉ hữu tình mà còn rất thiêng liên bởi yếu tố văn hóa và lịch sử. d. Câu hỏi kết thúc bài thơ. – Gợi nhắc đến công lao của cha ông đã tạo đựng nên thắng cảnh. – Đó còn là lời nhắn nhủ con cháu cần phải có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn và xây dựng để cho đất nước ngày càng đẹp hơn. Câu 4. a. Nhận xét về cảnh trí và cảnh tả: – Phong cảnh xứ Huế rất nên thơ, hữu tình làm ngơ ngẩn hồn người, tựa như một bức tranh sơn thủy thơ mộng. – Không miêu tả cụ thể mà dùng thủ pháp so sánh để cực tả vẻ đẹp của cảnh. b. Phân tích đại từ “Ai”. – “Ai” đại từ phiếm chỉ: + Là những người đã quen + Những người chưa quen + Những người có lòng với Huế mến cảnh mến người – Lời nhắn gửi: “Ai vô xứ Huế thì vô…”: + Lời mời ngắn gọn dừng lại ở câu lục chỉ 6 chữ, thay vì kết thúc một bài ca dao lục bát là câu bát (8 chữ). + Người mời vừa rất chân thành, nhưng vừa rất kiêu hãnh tự hào về xứ Huế nên thơ: “Xứ Huế quyến rũ vậy đấy, đố ai cưỡng nổi lòng mình” vừa mời vừa thách đố. Câu 5. – Dòng thơ 12 tiếng thay vì 6 tiếng và 8 tiếng (lục, bát) mà chúng ta vẫn thường gặp ở các bài ca dao khác. – Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật: Đối xứng, điệp ngữ, đạo từ: Đứng bên ni đồng – Đứng bên tê đồng – > Điệp từ và đối Mênh mông bát ngát – Bát ngát mênh mông – > Đảo điệp – Ý nghĩa tác dụng: + Làm tăng thêm sự rộng lớn mênh mông của cánh đồng. + Thể hiện sự sống căng nồng, tốt tươi của cánh đồng đang thì con gái. Câu 6. – Phép so sánh: Cô gái như chẽn lúa đòng đòng trong buổi sáng mai vừa thể hiện sự trẻ trung đầy sức sống và sự tinh khôi thanh khiết, lại vừa rất duyên dáng mảnh mai của người con gái. – Sự hài hòa giữa con người và cảnh vật một cách tuyệt đẹp, cánh đồng trù phú mênh mông, lòng người phơi phới rạo rực. Câu 7. – Có lẽ đây là lời của người con gái; đi thăm đồng một buổi sáng mai, vừa ngắm nhìn cánh đồng tươi đẹp mênh mông vừa nghĩ tới mình với niềm vui rạo rực của tuổi thanh xuân. – Nhưng cũng có một số ý kiến cho rằng đây là lời của chàng trai, chàng trai đang nói về cánh đồng và cô gái đẹp trẻ trung đầy sức sống. – Ý kiến này cũng có sơ sở song chưa thật hợp lí lắm. Bởi vì cụm từ “Thân em như” thường là dùng để người con gái tự nói về mình. Ví dụ như: – Thân em như tấm lụa đào – Thân em như miếng cau khô – Thân em như hạt mưa sa. II. Luyện tập. Câu 1. Em có nhận xét gì về thể thơ trong bốn bài ca. – Bốn bài ca dao sử dụng thể thơ lục bát và lục bát biến thể. + Bài 1: Lục bát biến thể. Bởi vì có những dòng lục phải 6 tiếng: Câu thứ 3 – lối đáp của cô gái. Có những dòng bát không phải là 8 tiếng là 9 tiếng: Câu thứ 2 ở lời của chàng trai và câu thứ 2 ở lời đáp của cô gái. + Bài 4: Hai dòng đầu: 12 tiếng. Dòng 3: 7 tiếng Dòng 4: 8 tiếng Câu 2. Tình cảm chung thể hiện trong bốn bài ca là gì? – Bốn bài ca dao có những giọng điệu, những vẻ đẹp khác nhau, nhưng đều mang một nét chung là tình yêu quê hương đất nước tha thiết. – Điều này đã cụ thể trong ghi nhớ, em đừng quên học thuộc.
Instruct Essay for Literature subject grade 7, semester 1 below: Songs about love for homeland, country, and people are collected and introduced by VnDoc for students to refer to to understand the artistry and meaning. of songs about love for homeland, country and people to prepare well for the upcoming new semester's lectures. SONG ABOUT LOVE HOMETOWN, COUNTRY, PEOPLE I. Read - understand the text Question 1. Opinions b and c are correct. - Different from the folk songs in the section "Songs about family love" that we have learned, which usually have the words of one person and only one part. This folk song has two sides: answer and answer. The first part is the words of the boy and the girl. The following part is the girl's response to the boy's riddle. – This is a quite popular form in folk songs. The purpose is to test each other's skills, often used during festivals or fun at work. Question 2. – The boy asked the girl questions mainly about famous places in the Northern region. – Using characteristics of place names to ask and answer is to test each other's skills, test their knowledge of geography: "Which river has six sections", "The knotted neck"... Test your skills on historical and cultural knowledge: " Where are the five gates", "Which temple is the most sacred", "Where the saint was born"... – It is an expression of love and pride for the homeland: From Hanoi to Hai Duong, from Lang Son, Bac Giang down to Thanh Hoa, everywhere has its own beauty, poetic and charming, rich in cultural traditions. Question 3. a. The phrase "Invite each other" at the beginning of the folk song has meaning. – People only "Invite each other" when there is a close relationship between everyone. – Everyone has the same wishes and interests. – The thing that makes people "Invite each other" must have the attraction and excitement, the can't not go, can't not do, the excitement of a landscaper. b. How to describe folk songs – Do not describe specifically but list prominent places and landscapes. – Meaning: The beauty of the scene is extremely rich and diverse. c. Emotions evoked by the scene. – This is the most famous place of the thousand-year-old cultural period, which has entered the blood, flesh and soul of everyone. – The scene has both a lake (Hoan Kiem Lake), a temple (Ngoc Son Temple), a bridge (The Huc Bridge), and Dai Nghien and Pen Tower, a natural and man-made complex in harmony with each other, making The scene is not only charming but also very sacred due to cultural and historical factors. d. The question ends the poem. – Reminiscent of the contributions of our ancestors in creating the landscape. – It is also a message to children and grandchildren that they need to be responsible for protecting, preserving and building to make the country more and more beautiful. Question 4. a. Comments on scenery and descriptions: – The landscape of Hue is very poetic and charming, leaving people bewildered, like a poetic mountain and water painting. – Do not describe specifically, but use the technique of comparison to describe the beauty of the scene. b. Analyze the pronoun “Who”. – “Who” is a trivial pronoun: + Are familiar people + People who are unfamiliar + Those who have a heart for Hue love the scenery and love the people – Message: "Whoever comes to Hue will go to...": + The short invitation stops at the six-word verse, instead of ending a six-letter folk song with the eight-word verse. + The inviter was both very sincere and very proud of Hue and poetically said: "Hue is so charming, no one can resist me" both inviting and challenging. Question 5. – Poetry lines have 12 hours instead of 6 hours and 8 hours (six, eight) that we often encounter in other folk songs. – Use many artistic measures: Symmetry, alliteration, alliteration: Standing next to the ni dong – Standing next to the dong – > Paraphrase and opposite Immense and immense – Vast and immense – > Scallop island – Meaning of effect: + Increases the vastness of the field. + Represents the vibrant, lush life of a girl's growing field. Question 6. – Comparison: The girl is like a rice field in the morning, showing both youthful vitality and purity, as well as the slender grace of a girl. – The harmony between people and landscape is beautiful, the fields are vast and rich, people's hearts are fluttering. Question 7. – Perhaps these are the words of a girl; Going to visit the fields tomorrow morning, looking at the vast beautiful fields while thinking of myself with the fiery joy of youth. – But there are also some opinions that these are the words of the boy, the boy is talking about the fields and the beautiful, youthful girl full of vitality. – This opinion also has some basis but is not very reasonable. Because the phrase "My body is like" is often used for girls to talk about themselves. Eg: – Your body is like peach silk – My body is like a piece of dried areca nut – My body is like falling raindrops. II. Practice. Question 1. Do you have any comments on the poetic form in the four songs? – Four folk songs use six-eight verses and six-eight variations. + Lesson 1: Six eight variations. Because there are lines that have 6 words: 3rd sentence - the girl's response. There are eight lines that are not 8 hours but are 9 hours: The second sentence is in the boy's words and the second sentence is in the girl's response. + Lesson 4: First two lines: 12 hours. Line 3: 7 hours Line 4: 8 hours Question 2. What is the common sentiment expressed in the four songs? – The four folk songs have different tones and different beauties, but they all have one thing in common: passionate love for the homeland. – This is specific in memorization, don't forget to memorize it.
Hướng dẫn Soạn bài lớp 7: Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 7 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình. TỤC NGỮ VỀ THIÊN NHIÊN VÀ LAO ĐỘNG SẢN XUẤT Tục ngữ là một trong những thể loại của văn học dân gian. Khác với ca dao, dân ca là những khúc hát tâm tình, thiên về khía cạnh tinh thần, tình cảm, tục ngữ có chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm sống trên rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống hằng ngày. Vì thế, tục ngữ được xem là kho kinh nghiệm và tri thức thực tiễn vô cùng phong phú. Phần lớn các câu tục ngữ có hình thức ngắn, có vần hoặc không vần: Một số khác có hình thức câu dài, nhiều vế: Của làm ra để trên gác, của cờ bạc để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ. Có câu còn có hình thức của một câu ca dao, thể lục bát: Chuồn chuồn bay thấp thì mưa Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm Dù dài hay ngắn, có vần hay không vần, nói chung tục ngữ đều là những câu dễ nhớ, dễ thuộc. Đặc điểm này của tục ngữ chủ yếu được tạo nên từ vần điệu. Những câu tục ngữ không có vần tác động đến người đọc, người nghe bởi kết cấu đối lập hoặc những ấn tượng đặc biệt nào đó. Ví dụ trong câu Tre già măng mọc là quy luật kế thừa, câu Lươn ngắn lại chê chạch dài lại dựa trên những yếu tố đối lập,… Những câu tục ngữ được dẫn trong bài nói chung đều ngắn (chỉ có một câu hai dòng), được chia thành các vế (có câu 4 vế), các vế liên kết với nhau bởi vần điệu (Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống). Chủ đề chung của những câu tục ngữ này là những kinh nghiệm về thiên nhiên và lao động sản xuất. 1. Đọc kĩ các câu tục ngữ và chú thích trong bài để hiểu văn bản và những từ ngữ khó. 2. Có thể chia những câu tục ngữ thành hai nhóm: 3. Phân tích nội dung từng câu tục ngữ: (1) Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối. (2) Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa. (3) Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ. (4) Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt. (5) Tấc đất tấc vàng (6) Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền. (7) Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. (8) Nhất thì, nhì thục. 4. Minh hoạ đặc điểm hình thức của tục ngữ: 1. Cách đọc Hầu hết các câu trong bài đều được chia thành các vế, liên kết với nhau bởi các vần nên khi đọc cần chú ý ngắt nhịp theo từng vế câu. Giọng đọc rõ ràng, rành mạch. 2. Có thể kể thêm một số câu tục ngữ nói về các hiện tượng thời tiết mưa, nắng, bão, lụt. Chuồn chuồn bay thấp thì mưa Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm. Gió bấc hiu hiu, sếu kêu thì rét Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa. Hoẵng kêu trời nắng Nai giác, trời mưa. (Tục ngữ Tày, Nùng) Ráng mỡ gà thì gió, ráng
Instruct 7th grade lesson preparation: The proverbs about nature and productive labor below are collected and introduced by VnDoc to you for reference to help you study Literature well in grade 7 to prepare for your upcoming lectures. PROVERBS ABOUT NATURE AND PRODUCTION LABOR Proverbs are one of the genres of folk literature. Unlike folk songs, folk songs are sentimental songs, focusing on the spiritual and emotional aspects. Proverbs have the main function of summarizing life experiences in many areas of daily life. Therefore, proverbs are considered an extremely rich storehouse of practical experience and knowledge. Most proverbs have short forms, rhymed or unrhymed: Some others have the form of long sentences with many clauses: Things made for work are kept upstairs, things for gambling are left in the yard, things for vanity are left in the alley. Some sentences also have the form of a folk song, in six-eight form: When dragonflies fly low, it rains If you fly high it's sunny, if you fly low it's shady Whether long or short, rhymed or not, proverbs are generally easy to remember and memorize. This feature of proverbs is mainly created from rhyme. Unrhymed proverbs affect readers and listeners by contrasting structures or certain special impressions. For example, in the sentence "Bamboo grows old, shoots grow" is the rule of inheritance, while the sentence "Eel" is short, "Eel" criticizes "long" based on opposing elements,... The proverbs quoted in the article are generally short (only one sentence with two lines), divided into clauses (some have 4 clauses), the clauses are linked together by rhyme (Nhat water, two parts, three parts). need, four varieties). The common theme of these proverbs is the experience of nature and productive labor. 1. Read carefully the proverbs and notes in the article to understand the text and difficult words. 2. Proverbs can be divided into two groups: 3. Analyze the content of each proverb: (1) The night of May has not yet been laid down, but it is already dawn Dated October was not laughed at. (2) If there is a star then it will be sunny, if there is no star then it will rain. (3) Fry chicken fat, keep it if you have a house. (4) In July, there are ants crawling around, just worry about another flood. (5) Inch of land, inch of gold (6) One canh maintain, two canh garden, three canh field. (7) One water, two divisions, three needs, four varieties. (8) First time, second time. 4. Illustrate the formal characteristics of proverbs: 1. How to read Most of the sentences in the article are divided into clauses, linked together by rhymes, so when reading, you need to pay attention to pausing each clause. Reading voice is clear and distinct. 2. Some more proverbs can be added about the weather phenomena of rain, sunshine, storms, and floods. When dragonflies fly low, it rains If you fly high it's sunny, if you fly low it's shady. The north wind is lonely, the crane's cry is cold Summer is sunny, white chicken grass is raining. The muntjac calls to the sunny weather Deer, it's raining. (Tay and Nung proverbs) Frying chicken fat is windy and windy
Hướng dẫn Bài soạn môn Ngữ văn lớp 7 học kì 1 dưới đây: Từ láy được VnDoc sưu tầm và giới thiệu tới các em học sinh tham khảo để hiểu rõ về các loại từ láy, ý nghĩa và đặc điểm của từ láy để chuẩn bị tốt cho bài giảng của học kì mới sắp tới đây của mình. TỪ LÁY I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Các loại từ láy a) Xem xét hình thức âm thanh của các từ láy (được in đậm) trong các câu dưới đây. So sánh để nhận thấy sự khác nhau về đặc điểm âm thanh giữa các từ đăm đăm, mếu máo, liêu xiêu. – Em cắn chặt môi im lặng, mắt lại đăm đăm nhìn khắp sân trường, từ cột cờ đến tấm bảng tin và những vạch than vẽ ô ăn quan trên hè gạch. – Tôi mếu máo trả lời và đứng như chôn chân xuống đất, nhìn theo cái bóng bé nhỏ liêu xiêu của em tôi trèo lên xe. (Trích Cuộc chia tay của những con búp bê) Gợi ý: Từ láy được cấu tạo như thế nào? Trong các từ láy in đậm trên, các tiếng được láy lại toàn bộ hay bộ phận? Căn cứ vào đặc điểm về âm thanh này của các từ để chia chúng thành các loại: láy toàn bộ, láy bộ phận (láy phụ âm đầu, láy phần vần). b) Tìm thêm các từ láy cùng loại với các từ trên rồi điền vào bảng sau: d) Các từ in đậm trong ví dụ dưới đây đúng hay sai? Nếu sai, hãy chữa lại cho đúng. Vừa nghe thấy thế, em tôi bất giác run lên bật bật, kinh hoàng đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn tôi. Cặp mắt đen của em lúc này buồn thẳm thẳm, hai bờ mi đã sưng mọng lên vì khóc nhiều. Gợi ý: Các từ bật bật, thẳm thẳm sai về nguyên tắc cấu tạo từ láy toàn bộ. Từ láy toàn bộ có trường hợp láy lại nguyên dạng âm gốc như đăm đăm, song cần lưu ý các trường hợp do sự hoà phối âm thanh nên tiếng láy có biến đổi thanh điệu, phụ âm cuối, chẳng hạn: đo trong đo đỏ, xôm trong xôm xốp, bần trong bần bật, thăm trong thăm thẳm,… Các từ này vẫn thuộc loại từ láy toàn bộ. 2. Nghĩa của từ láy a) Nghĩa của các từ láy ha hả, oa oa, tích tắc, gâu gâu được tạo thành do đặc điểm gì về âm thanh? Gợi ý: Các từ này được tạo thành dựa trên nguyên tắc mô phỏng âm thanh (còn gọi là từ láy tượng thanh): Ha hả như tiếng cười, oa oa giống như âm thanh tiếng khóc của em bé, tích tắc giống như âm thanh quả lắc đồng hồ, gâu gâu giống như âm thanh của tiếng chó sủa. b) Nhận xét về đặc điểm âm thanh của các nhóm từ láy sau: (1) lí nhí, li ti, ti hí. (2) nhấp nhô, phập phồng, bập bềnh. Gợi ý: c) So sánh giữa nghĩa của tiếng gốc và nghĩa của từ láy trong các trường hợp sau: Gợi ý: Thực hiện theo các bước như sau: II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG 1. Tìm và phân loại từ láy trong đoạn đầu văn bản Cuộc chia tay của những con búp bê (từ “Mẹ tôi, giọng khản đặc…” cho đến “nặng nề thế này.”). Gợi ý: Tìm và phân loại theo bảng. 2. Cấu tạo từ láy từ những tiếng gốc cho trước theo bảng sau: 3. Chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong các câu sau: nhẹ nhàng, nhẹ nhõm: xấu xí, xấu xa: tan tành, tan tác: Gợi ý: Đọc kĩ để phân biệt sắc thái nghĩa của mỗi câu. Các từ in đậm là phù hợp với câu đầu. 4. Đặt câu với mỗi từ: Nhỏ nhắn, nhỏ nhặt, nhỏ nhẻ, nhỏ nhen, nhỏ nhoi. Gợi ý: 5. Các từ sau đây là từ láy hay từ ghép? Máu mủ, mặt mũi, nhỏ nhen, tóc tai, râu ria, khuôn khổ, ngọn ngành, tươi tốt, nấu nướng, ngu ngốc, học hỏi, mệt mỏi, nảy nở. Gợi ý: Kiểm tra bằng cách đối chiếu với các đặc điểm của từ láy và từ ghép (các từ đã cho đều là từ ghép). 6*. Các tiếng chiền (trong chùa chiền), nê (trong no nê), rớt (trong rơi rớt), hành (trong học hành) có nghĩa là gì? Các từ chùa chiền, no nê, rơi rớt, học hành là từ ghép hay từ láy? Gợi ý: Nghĩa của các từ: Theo cách giải nghĩa trên đây thì các từ đã cho là từ ghép.
Instruct The lesson preparation for Literature subject grade 7, semester 1 is below: Red words are collected and introduced by VnDoc for students to refer to to clearly understand the types of red words, meanings and characteristics of red words to prepare well. for my upcoming new semester's lectures. ALLITERATIVE EXPRESSIONS I. BASIC KNOWLEDGE 1. Types of words a) Consider the sound form of the words (in bold) in the sentences below. Compare to notice the difference in sound characteristics between the words dull, sad, and languid. – I bit my lip and remained silent, my eyes staring blankly across the schoolyard, from the flagpole to the bulletin board and the charcoal lines drawing mandarin boxes on the brick sidewalk. – I answered with a smile and stood rooted to the ground, watching my brother's small, shaky shadow climb into the car. (Excerpt from The Dolls' Farewell) Hint: How are words formed? In the repeated words in bold above, are the words repeated in whole or in part? Based on these sound characteristics of the words, we can divide them into types: complete rhyming, partial rhyming (initial consonant rhyming, rhyming rhyming). b) Find more words of the same type as the above words and fill in the following table: d) Are the words in bold in the example below true or false? If it's wrong, please correct it. As soon as I heard that, my sister suddenly trembled and looked at me in horror and despair. Her black eyes were now deeply sad, her eyelids were swollen from crying so much. Suggestion: The words "turn on" and "abyss" are wrong in terms of the principle of entire redundancy formation. There are cases in which the entire word repeats the original sound, such as stammering, but it is necessary to pay attention to cases where, due to the sound combination, the repeated sound has changes in tone and final consonant, for example: measured in measured red. , som in som spongy, som in soggy, som in abyss,... These words still belong to the category of complete redundancy. 2. Meaning of the word lie a) The meaning of the words lie ha ha, oa oa, tick, woof woof is created by what sound characteristics? Hint: These words are created based on the principle of sound imitation (also known as onomatopoeia): Ha ha like laughter, woah like the sound of a baby crying, tick like the sound The sound of a clock pendulum, woof, is like the sound of a dog barking. b) Comment on the sound characteristics of the following groups of mixed words: (1) mumble, tiny, tiny. (2) undulating, heaving, bobbing. Suggest: c) Compare the meaning of the original language and the meaning of the word lie in the following cases: Suggestion: Follow these steps: II. PRACTISE SKILL 1. Find and classify words in the first paragraph of the text The Dolls' Farewell (from "My mother, her voice is hoarse..." to "This heavy."). Hint: Find and sort by table. 2. Construct alliteration from the given base words according to the following table: 3. Choose the appropriate word to fill in the blanks in the following sentences: gently, gently: ugly, ugly: shattered, shattered: Hint: Read carefully to distinguish the meaning of each sentence. Words in bold are suitable for the first sentence. 4. Make sentences with each word: Small, petty, small, petty, small. Suggest: 5. Are the following words mixed words or compound words? Blood, face, petty, hair, beard, frame, branch, lush, cooking, stupid, learning, tired, growing. Hint: Check by comparing the characteristics of compound words and compound words (the given words are all compound words). 6*. What do the sounds chien (in pagodas), ne (in full), phat (in falling), and hanh (in studying) mean? Are the words temple, satiety, fall, study, compound words or compound words? Suggest: Meaning of words: According to the above interpretation, the given words are compound words.
Hướng dẫn Tôi yêu thích hoa mai hơn bất kì một loài hoa nào khác. Không phải vì hoa mai to lớn hay rực rỡ mà bởi vì không có loài hoa nào bung nở đồng loạt như loài hoa mai trong dịp tết đến xuân về. Chiều hôm qua, nó còn trơ cành khẳng khiu, những búp nụ âm thầm tưởng chừng như sự sống đang ngừng lại. Thế mà sáng nay, giữa khu vườn, nó vươn mình trở thành một tòa tháp vàng rực rỡ. (Loài hoa yêu thích) Không biết loài hoa mai xuất hiện trên trái đất từ bao giờ. Từ thuở xa xưa, con người mê mẩn cái đẹp của hoa nên đã mang về trồng trước sân nhà mình. Và từ khi nào con người biết thưởng thức vẻ đẹp tuyệt mĩ của nó? Chỉ biết rằng, khi đóa hoa mai đầu tiên rực nở, những búp nụ khác cũng đồng loạt vươn cánh dệt nên chiếc đèn lồng vàng khổng lồ khiến cho cả đất trời ngất ngây, hồn người mê mẩn, ong bướm rộn ràng khởi đầu khúc ca xuân tuyệt diệu. Hoa mai thường rộ nở một lần rồi cũng đồng loạt rụng xuống. Cũng chỉ qua một đêm, khi ngày tết đi qua, sắc xuân phai nhạt. Lúc ấy, hoa mai rực rỡ lạ thường như cố vươn hết mọi tinh diệu, mọi sắc màu cho cuộc đời rồi héo rũ. Những cánh hoa vàng rụng đầy gốc cây, co héo lại giã biệt bầu trời. Bởi thế, người xưa thường ví hoa mai như cái đẹp vội đến vội đi, cái đẹp mong manh khó giữ. Dáng mai cứng cỏi, khô cằn nhưng ẩn chứa sức sống mạnh mẽ. Bởi thế, mai được ví như khí cốt của người quân tử. Bên ngoài lặng lẽ, trầm tư với nắng mưa. Nhưng bên trong, một sức sống mãnh liệt lúc nào cũng chực tung phá ra ngoài. Tết nào về thăm ông, tôi cũng ra sân vườn ngắm nhìn cây mai cổ thụ ấy. Những dải lụa vàng mắc võng, đu đưa trên những cành khẳng khiu, lung linh dưới nắng. Thỉnh thoảng lại rung lên bần bật khi con gió tạt ngang qua. Hoa vàng phủ từ thân đến ngọn cây. Chúng chen chúc nhau như thể muốn gần nhau để trò chuyện cho thỏa những tháng ngày ươm nụ. Dưới mặt đất, đã thấy nhiều cánh hoa lác đác rụng xuống, nằm khắc khoải như chiếc thảm vàng. Cánh hoa héo hắt cuộn tròn theo gió. Ông tôi quý cây mai già ấy lắm. Ông kể ngày trước ông không biết trồng mai đâu. Cuộc sống nghèo khó, đâu còn tâm trí để mà trồng mai. Một hôm, lúc đi ngang kênh Cà Cuống, thấy một cây mai con héo hắt, ai vứt bỏ, ông liền mang về trồng. Tưởng cây mai không sống nổi. Ai ngờ qua một năm, nó đã lớn cao, bung tàn lá sum xuê. Kể từ đó, ông cố công chăm bón cây mai càng thêm tươi tốt. Hai năm sau, không phụ lòng ông, cây mai đơm hoa vàng rực một gốc sân. Ai tới chơi cũng trầm trồ khen ngợi. Mười lăm năm trôi qua, cây mai con ngày ấy đã thành một gốc mai già kiêu hãnh giữa đất trời.
Instruct I love apricot blossoms more than any other flower. Not because apricot blossoms are big or brilliant, but because there is no other flower that blooms simultaneously like apricot blossoms during Tet and spring. Yesterday afternoon, it was still bare and spindly, its buds silently seemed as if life had stopped. Yet this morning, in the middle of the garden, it rose to become a brilliant golden tower. (Favorite flower) It is not known when apricot flowers appeared on earth. Since ancient times, people have been fascinated by the beauty of flowers, so they brought them home and planted them in their front yards. And since when did people know how to enjoy its beautiful beauty? Just know that, when the first apricot flower blooms, the other buds also simultaneously spread their wings to weave a giant golden lantern that makes the whole world swoon, people's souls are fascinated, bees and butterflies bustle at the beginning of the song. wonderful spring song. Apricot flowers often bloom once and then fall all at once. Just overnight, when Tet passed, the spring colors faded. At that time, the apricot blossoms were unusually brilliant as if trying to reach all the beauty and colors of life and then withered. The yellow petals fell all over the tree, wilting and saying goodbye to the sky. Therefore, ancient people often compared apricot blossoms to beauty that quickly comes and goes, fragile beauty that is difficult to maintain. The carapace is tough and dry but contains strong vitality. Therefore, tomorrow is likened to the bones of a gentleman. It was quiet outside, contemplating the sun and rain. But inside, a strong vitality is always waiting to break out. Every Tet when I visit him, I go to the garden to look at that ancient apricot tree. Yellow silk strips hung in hammocks, swaying on spindly branches, shimmering in the sunlight. Occasionally it vibrates when the wind passes by. Yellow flowers cover from the trunk to the top of the tree. They crowded together as if they wanted to be close to each other to chat to satisfy the days of growing buds. On the ground, we saw many scattered flower petals falling down, lying restlessly like a yellow carpet. Withered flower petals curl in the wind. My grandfather loved that old apricot tree very much. He said that in the past he did not know how to grow apricot trees. Life is poor, there is no mind left to grow apricot trees. One day, while passing by Ca Cuong canal, he saw a withered apricot tree that someone had thrown away, so he immediately brought it home and planted it. I thought the apricot tree wouldn't survive. Who would have thought that after a year, it had grown tall and spread out its luxuriant leaves. Since then, he has worked hard to nurture the apricot tree to make it more lush. Two years later, not disappointing him, the apricot tree bloomed with bright yellow flowers at the root of the yard. Everyone who came to visit also admired and praised it. Fifteen years have passed, and the young apricot tree that day has become a proud old apricot tree in the middle of heaven and earth.
Hướng dẫn Ngày ấy, mẹ tôi còn trẻ. Ở Ninh Thuận được năm năm, bố mẹ tôi quyết định chuyển về Đồng Tháp, quê nội tôi để sinh sống. Từ vùng cát trắng khô hanh, quen với cái gió nồm nam thổi suốt ngày đêm, lúc nào bên tai cũng nghe tiếng ù ù; quen với cái nắng hừng hực và ánh sáng gay gắt của miền cát trắng; đột ngột đối diện với những cơn mưa dầm dề, đối diện với cái không khí âm ẩm nóng đến khó chịu và những đàn muỗi lì lợm, cứ thấy người là liều lĩnh xông tới, mẹ tôi vất vả vô cùng. Vì yêu chồng, thương con lại muốn được chăm sóc bà nội những ngày cuối đời, mẹ tôi đã cắn răng chịu đựng vượt qua tất cả khó nhọc. (Cảm nhân về mẹ). Ba đi làm trên thành phố. Thỉnh thoảng ba mới ghế về thăm nhà. Một mình mẹ gánh vác lo toan tất cả. Sáng bán rau, chiều chợ nổi. Cả ngày mẹ đi ngược về suôi kiếm tiền nuôi lớn anh em tôi. Tôi nhớ có lần lúc hái rau muống ở ngoài đìa, một con đỉa to tướng đã bám vào chân mẹ mà không hay biết. Mẹ vốn rất sợ các loài thân mềm. Nên thấy con đỉa khuôn mặt mẹ tái nhợt vì sợ hãi. Loài đỉa vốn bám rất chặt nên khi bắt được nó ra, chân mẹ cũng chảy máu rất nhiều. Lúc ấy tôi còn bé lắm, chưa hiểu hết được những vất vả của mẹ. Khi lớn khôn rồi, mẹ tôi đã đỡ khổ nhọc hơn nhưng những lo âu vẫn còn hằn trên nét mặt. Càng nghĩ về những tháng ngày cơ nhọc, tôi càng thương mẹ nhiều. Mỗi lần đi xa về, mẹ không quên mua cho anh em chúng tôi cái gì đó. Tôi nhớ lần mẹ từ thị xã về và mang cho anh em chúng tôi thật nhiều bánh lá dừa. Ôi, những chiếc bánh lá dừa ngọt ngào biết bao! Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái vị ngọt béo đến tê tê đầu lưỡi. Nhớ cái mùi thơm nồng nàn còn phản phất đâu đây.
Instruct At that time, my mother was young. Having lived in Ninh Thuan for five years, my parents decided to move to Dong Thap, my paternal hometown, to live. From the dry white sand area, accustomed to the south wind blowing day and night, always hear the buzzing sound in my ears; accustomed to the hot sun and harsh light of the white sand region; Suddenly facing the pouring rain, facing the uncomfortably hot and humid air and stubborn mosquitoes, recklessly rushing in every time she saw someone, my mother had an extremely hard time. Because she loved her husband, loved her children, and wanted to take care of her grandmother in her final days, my mother gritted her teeth and endured all the hardships. (Thank you mother). Dad goes to work in the city. Occasionally my father comes home to visit. Mother alone takes care of everything. Selling vegetables in the morning, floating market in the afternoon. All day my mother went back and forth to the river to earn money to raise my brothers and me. I remember one time when I was picking water spinach outside, a huge leech clung to my mother's leg without realizing it. Mom was always afraid of mollusks. So when I saw the leech, my mother's face turned pale with fear. The leech clings very tightly, so when she got it out, the mother's leg bled a lot. At that time, I was very young and did not fully understand my mother's hardships. When she grew up, my mother's hardships became less difficult, but worries were still written on her face. The more I think about those difficult days, the more I love my mother. Every time I come home from a long trip, my mother doesn't forget to buy us all something. I remember the time my mother came home from town and brought us a lot of coconut leaf cakes. Oh, how sweet are the coconut leaf cakes! Until now I still remember the sweet, fatty taste that tingled my tongue. Remember the passionate scent that still lingers here and there.
Hướng dẫn Tôi đến với núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều nắng xế. Đứng trên đỉnh đồi cao, phóng tầm mắt ra xa xa, những ruộng bậc thang trải dài đẹp tựa như một bức tranh lụa thêu. Quang cảnh Tây Bắc buổi chiều tàn chẳng khác gì chốn bồng lai tiên cảnh nơi trần gian. Càng nhìn ngắm càng thêm yêu mến. (Miêu tả ruộng bậc thang Tây Bắc) Không một cánh đồng, không một thử ruông nào có vẻ đẹp như ruộng bậc thang Tây Bắc khi buổi chiều nắng xuống. Nếu đứng nhìn từ xa, trên một đỉnh cao như nơi tôi đang đứng thì ruộng bậc thang Tây Bắc lung linh kì diệu như một bức tranh tuyệt cảnh nào đó mà ta hay tưởng tượng hoăc trông thấy. Đến với Tây Bắc, du khách nào cũng muốn một lần được chiêm ngưỡng cảnh sắc tuyệt diệu ấy. Chính vì thế, mỗi khi nghĩ về Tây Bắc người ta thường nghĩ đến những ruộng bậc thang trùng trùng bất tận màu xanh lá non hoặc màu vàng tơ óng ánh chứ không phải là những dãy núi cao trơ trọi đá hay khe núi sâu thăm thẳm hoặc những vực đá chênh vênh đầy hiểm nguy. Thật kì diệu thay! Có ai lại nghĩ ruộng lúa nước lại ở trên núi cao bao giờ? Thế mà người dân Tây Bắc đã làm nên điều kì diệu ấy. Có lẽ thuở ban đầu, người ta san những mảnh đất nhỏ trên núi cao để trồng cây hoa màu. Nhưng sau thấy đất giữ nước tốt nên mới mang cây lúa lên trồng chăng? Không như ở đồng bằng, mặt đất vốn đã phẳng, việc đấp bờ ngăn giữ nước rất dễ dàng. Ở miền tây sơn cước, để có được một mảnh ruộng nhỏ, người ta phải tốn rất nhiều công sức đào đất, san bậc, đắp bờ…Cứ thế, cứ thế, những ô ruộng hình vòng cung ôm dáng núi hình thành từ trên đỉnh đồi xuống đến chân đồi. Càng xuống thấp, thang ruộng càng rộng ra. Bờ ruộng lượn theo dáng núi tạo thành những đường cong đồng tâm như một chiếc mâm xôi khổng lồ trông thật đẹp mắt. Buổi chiều Tây bắc sương giăng mơ màng. Nhìn về hướng thung lũng, những ngọn đồi lúa xanh ngút ngàn trong buổi chiều bảng lãng khiến ta không khỏi bồi hồi. Lúa đương thì con gái xanh mơn mởn. Sau trận mưa đêm qua, lá rờn xanh thắm biếc. Thỉnh thoảng, con gió nhẹ lướt qua ngọn đồi, tạo nên gợn sóng lúa chạy dài đến thung lũng xa. Phía xa là khu rừng xanh rậm lá. Những cây chò vươn cao mình như bức bình phong chắn gió che chở cho đồi lúa. Ánh nắng chiều nghiêng nghiêng trải một màu vàng mơ khắp thung lũng. Những tia nắng chiếu xuyên qua lùm cây. Ánh sáng lung linh trong tàn lá nhấp nháy như chiếc đèn màu treo giữa nền trời. Những giọt mưa còn đọng trên lá non lấp lóa ánh trời. Tôi đứng nhìn say mê cảnh vật không muốn rời chân dù hoàng hôn đang dần xuống. Ánh sáng lùi dần nhường chỗ cho làn sương mờ đang tràn xuống từ đỉnh núi xa. Chiều Tây Bắc sương mềm mại như nhung. Trên lưng chừng núi, một khóm sương trắng bồng bềnh trôi về phía xa. Một đàn cò trắng lượn vòng rồi đáp nhẹ xuống mương nước. Chúng đứng lặng im, trầm tư như đang nghĩ ngợi điều gì đó. Trong lùm cây ở mé bìa rừng ríu rít tiếng chim kêu. Tôi nhận ra giọng hót của chú chào mào, có cả giọng gắt gỏng của cô sáo nâu và giọng leo lẻo của anh chèo bẻo nữa. Tiếng kêu rộn ràng, inh ỏi, náo động cả rừng chiều. Thỉnh thoảng, có một con bay vút lên trời kêu chí chóe, rồi lẩn mất trong tán lá rừng thâm u. Bản đồng ca buổi chiều đôi khi im bặt rồi bất ngờ vang vang trở lại. Có lẽ, chúng đang kể cho nhau nghe những câu chuyện hay của khắp các phương trời sau một ngày kiếm ăn vất vả. Đây cũng là dịp để chúng chơi đùa, trêu ghẹo thỏa thuơ trước khi vũ trụ chìm vào bống tối. Một con cu gáy “cúc cu” cất tiếng gọi bạn trên cành cây mằng lăng đơn độc bên dòng suối. Lúc chiều về, chúng muốn đi từng đôi. Phía cuối làng, từng đàn trâu trở về trong tiếng sáo véo von của mấy đứa trẻ. Một chú bé mặc chiếc áo thổ cẩm, ngồi vắt vẻo trên lưng con trâu trắng lững thững đi đầu. Tiếng sáo trong trẻo, lanh lãnh réo rắt gọi đàn về.
Instruct I came to the Northwest mountains and forests on a sunny afternoon. Standing on the top of a high hill, looking out into the distance, the terraced fields stretch beautifully like an embroidered silk painting. The view of the Northwest in the late afternoon is like a fairyland on earth. The more I look at it, the more I love it. (Description of terraced fields in the Northwest) No field, no field is as beautiful as the Northwest terraced fields when the afternoon sun sets. If you stand from afar, on a high peak like where I am standing, the Northwest terraced fields shimmer magically like some wonderful picture that we often imagine or see. Coming to the Northwest, every tourist wants to once admire that wonderful scenery. That's why, every time people think of the Northwest, they often think of endless terraced fields of young green or iridescent yellow color, not of high, bare, rocky mountains or deep ravines. or dangerous cliffs. What a miracle! Who would have thought that wet rice fields would be high in the mountains? Yet the people of the Northwest have created that miracle. Perhaps in the beginning, people leveled small plots of land on high mountains to grow crops. But then we saw that the soil held water well, so we brought rice to plant it? Unlike in the plains, the ground is inherently flat, so building banks to hold back water is very easy. In the western mountainous region, to have a small piece of field, people have to spend a lot of effort digging the ground, leveling, building banks... Just like that, circular fields hugging the shape of the mountain are formed from above. the top of the hill down to the bottom of the hill. The lower you go, the wider the field ladder becomes. The edge of the field curves along the shape of the mountain, forming concentric curves like a giant raspberry, which looks truly beautiful. The Northwest afternoon is foggy and dreamy. Looking towards the valley, the endless green rice hills in the afternoon make us feel excited. The rice fields are green and lush. After last night's rain, the leaves are green. Occasionally, a gentle wind passes over the hill, creating ripples of rice stretching to the far valley. In the distance is a leafy green forest. The bamboo trees stand tall like a wind screen protecting the rice hills. The slanted afternoon sunlight spread a dreamy yellow color across the valley. Sun rays shine through the trees. The shimmering light in the leaves flickered like a colored lamp hanging in the sky. The raindrops still on the young leaves sparkled in the sunlight. I stood and looked fascinated at the scene, not wanting to leave my feet even though the sunset was gradually falling. The light gradually receded to give way to the mist pouring down from the distant mountain top. The Northwest afternoon mist is as soft as velvet. Halfway up the mountain, a clump of white mist floated into the distance. A flock of white storks circled and landed lightly in the ditch. They stood silently, thoughtful as if thinking about something. In the bushes at the edge of the forest, birds were chirping. I recognized the song of the crested tortoiseshell, including the grumpy voice of the brown starling and the rowdy voice of the rower. The bustling, loud screams disturbed the entire afternoon forest. Occasionally, a bird soared into the sky, screeching, then disappeared into the dark forest foliage. The afternoon chorus sometimes falls silent and then suddenly resounds again. Perhaps, they are telling each other good stories from all over the world after a hard day of foraging. This is also an opportunity for them to play and tease freely before the universe sinks into darkness. A "cuckoo" cuckoo calls out to you on the branch of a lone mangrove tree next to the stream. When the afternoon came, they wanted to go in pairs. At the end of the village, herds of buffaloes returned to the sound of children's flutes. A little boy wearing a brocade shirt, sitting on the back of a white buffalo, walked slowly ahead. The clear, crisp sound of the flute calls the instrument home.
Hướng dẫn Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác. Trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Nếu rừng bị phá hoại, diện tích bao phủ của rừng giảm sẽ gây ra những tai họa khủng khiếp. Điều đó đe dọa trực tiếp đến đời sống của con người. Vì thế, bảo vệ rừng xanh là trách nhiệm của mỗi con người trên trái đát này. Nếu cây rừng bị tàn phá, lớp thảm thực vật xanh cũng biến mất. Diện tích rừng giảm khiến lượng khí cacbonic tăng cao, khí oxi giảm thấp. Hiện tượng hiệu ứng nhà kính tăng cường mạnh mẽ làm trái đất nóng lên. Nguy hiểm nhất là băng ở hai cực sẽ tan nhanh, triều cường dữ dội hơn. Một phần đất đai sẽ bị chìm sâu dưới biển. Đất ở và đất sản xuất thu hẹp. Nhất là các đồng bằng ven biển. Biển lấn sâu hơn vào đất liền ảnh hưởng đến dân sinh và anh ninh lương thực thế giới. Theo báo cáo của các tổ chức môi trường thế giới, trong những năm qua, diện tích rừng trên thế giới liên tục bị thu hẹp bởi sự tàn phá của con người để lấy đất làm nông nghiệp hoặc xây dựng các nhà máy. Diện tích rừng nguyên sinh có mật đọ bao phủ dày cũng dần biến mất. Khi diện tích rừng bị thu hẹp, người ta cũng nhận thấy các hiện tượng khí hậu cực đoan cũng diễn ra trầm trọng và ngày càng có dấu hiệu tăng dần về mức độ và khả năng tàn phá đời sống con người. Nếu rừng bị phá hủy, đất đai bị xói mòn nghiêm trọng. Hiện tượng khô kiệt đất phổ biến. Quá trình sa mạc hóa cũng diễn ra mãnh liệt. Nguồn nước ngọt bề mặt và trong lòng đất bị hao hụt làm một phần lớn diện tích đất không thể trồng trọt được nữa. Ngày nay, những miền đất hoang vắng không người ở, bị khô cằn, quanh năm phơi nắng, phơi mưa khá phổ biến khắp nơi trên thế giới. Một nguyên nhân dễ thấy đó là diện tích rừng bị tàn phá, khiến cho hiện tượng đất nghèo hóa diễn ra nhanh chóng, không thể phục hồi được. Nếu rừng bị tàn phá, vòng tuần hoàn của nước cũng bị ảnh hưởng nhiều. Cây xanh hút nước trong lòng đất và giải phóng vào không khí, tạo nên đội ẩm, thúc đẩy vòng đối lưu. Khi rừng bị tàn phá, cây không còn giải phóng hơi nước nữa. Điều này khiến cho khí hậu nóng bức, khô hạn ở nhiều nơi. Có thể nhận thấy khí hậu trên trái đất ngày càng nóng lên rõ rệt. Độ ẩm trong không khí cũng suy giảm tác động trực tiếp sức khỏe và các hoạt động sản xuất của con người. Rừng có vai trò điều phối nguồn nước bề mặt và nguồn nước ngầm. Không có rừng, toàn bộ nguồn nước bề mặt bị chảy nhanh ra biển, nguồn nước ngầm dần bị cạn kiệt. Tính trên toàn thế giới, có gần 1.2 tỉ người không thể tiếp cận được nguồn nước sạch. Cứ 6 người thì có 1 người chịu ảnh hưởng của tình trạng thiếu nước. Tỉ lệ này còn tiếp tục tăng cao. Đặc biệt nhiêm trọng hơn ở các nước châu Phi. Trên toàn bộ lục địa đen này có khoảng 360 triệu người không có nước sạch hằng ngày. Phá rừng sẽ làm giảm sự đa dạng sinh học và làm môi trường bị suy kiệt. Hằng năm có hàng trăm loài bị tuyệt chủng và hàng trăm loài khác rơi vào tình trạng giảm số lượng nghiêm trọng. Nếu tính từ khi các loài hình thành trên trái đất cho đến ngày nay, đã có hơn 80% các loài vật đã không còn được tìm thấy trên trái đất. Số loài bị tuyệt chủng tiếp tục tăng cao trong tương lai nếu con người không có những giải pháp thiết thực và hiệu quả đối với việc phục hồi và bảo vệ rừng cây trên trái đất. Một ngày nào đó, rất có thể, trái đất sẻ trở thành hành tinh chết khi con người đã tàn phá hết cây xanh. Rừng bị tàn phá, hủy hoại làm ảnh hưởng nghiêm trọng nền kinh tế các nước nhiệt đới có thế mạnh về rừng. Nguồn nguyên liệu cho các ngành chế biến gỗ suy giảm làm ngưng động các nhà máy sản xuất. Việc khai thác bừa bãi không kết hợp với việc tái tạo rừng đã để lại bài học đắt giá tại các quốc gia này. Chính con người là tác nhân lớn nhất hủy hoại rừng. Các hoạt đọng sản xuất của con người từng ngày giết chết sự sống của rừng. Một ngày nào đó, khi rừng cây không còn nữa, sự sống của con người thật khó mà tiếp diễn. Hãy dừng ngay các hành động tàn phá rừng nhằm lấy đất làm nông nghiệp hoặc xây dựng các công xưởng, sân golf,… Mỗi cây xanh bị chặt xuống khiến chúng ta phải trả giá đắt hơn những gì ta thu được từ hoạt động sản xuất. Lập tức phục hồi các diện tích rừng đã bị tàn phá. Nhanh chống phủ xanh các đồi trọc và tăng cường độ che phủ của cây xanh để lấy lại màu xanh cho trái đất. Mỗi cây xanh là nguồn sống, là hơi thở, là linh hồn của trái đất. Hãy biết quý trọng nó dù là mầm xanh nhỏ nhất. Hãy bảo vệ những rừng xanh còn lại bằng mọi giá bởi phải mất đến vài chục năm. Thậm chí là vài trăm năm chúng ta mới có được những cánh rừng như thế. Phải mất vài chục năm, một mầm xanh mới phủ bóng. Nhưng chỉ vài phút là có thể đón hạ nó. Một cây xanh bị đốn hạ chẳng khác nào giết chết một tế bào sống trong một cơ thể. Không có gì bù đắp nổi thiệt hại nếu chúng ta đốn hạ một cây đại thụ trăm năm tuổi. Hãy vì tương lai trái đất, vì những con người trên các lục địa đang phải gánh chịu hậu quả do lòng tham của chúng ta gây ra. Hãy ra sức tuyên truyền, giải thích về vai trò và lợi ích của rừng cây đối với mọi người. Thường xuyên nói về những tác hại ghê gớm mà con cháu chúng ta phải gánh chịu. Hãy cổ động con người ra sức trồng cây, ra sức bảo vệ rừng và yêu rừng như yêu chính cuộc sống của chúng ta.
Instruct Forest is an ecosystem that includes forest plant populations, forest animals, forest microorganisms, forest soil and other environmental factors. In which trees, bamboo or typical flora are the main components with forest canopy coverage of 0.1 or more. If forests are destroyed, the area covered by forests will decrease, causing terrible disasters. That directly threatens human life. Therefore, protecting green forests is the responsibility of every person on this earth. If forest trees are destroyed, the green vegetation also disappears. Decreased forest area causes carbon dioxide levels to increase and oxygen levels to decrease. The greenhouse effect is strongly enhanced, causing global warming. The most dangerous thing is that the ice at the poles will melt quickly and the storm surge will be more intense. Part of the land will sink deep into the sea. Residential and production land is shrinking. Especially the coastal plains. The sea encroaches deeper into the mainland, affecting people's livelihoods and world food security. According to reports from world environmental organizations, in recent years, the world's forest area has been continuously shrinking due to human destruction to clear land for agriculture or to build factories. The area of ​​primeval forest covered with thick density is also gradually disappearing. As the forest area shrinks, people also notice that extreme climate phenomena are becoming more serious and increasingly showing signs of increasing in severity and in their ability to devastate human life. If forests are destroyed, the land will be seriously eroded. The phenomenon of soil drying is common. The process of desertification is also taking place intensely. The loss of surface and underground fresh water makes a large portion of the land area no longer suitable for cultivation. Nowadays, desolate, uninhabited, arid lands exposed to sun and rain all year round are quite common all over the world. One obvious reason is that the forest area is destroyed, causing the phenomenon of soil impoverishment to occur quickly and irreversibly. If forests are destroyed, the water cycle is also greatly affected. Trees absorb water from the ground and release it into the air, creating moisture and promoting convection. When forests are destroyed, trees no longer release water vapor. This causes hot and dry climate in many places. It can be seen that the climate on earth is getting noticeably warmer. Humidity in the air also reduces direct impacts on human health and production activities. Forests play a role in coordinating surface water sources and underground water sources. Without forests, all surface water sources quickly flow into the sea, and underground water sources are gradually depleted. Worldwide, nearly 1.2 billion people cannot access clean water. 1 in 6 people is affected by water shortage. This rate continues to increase. It is especially more serious in African countries. On the entire continent, there are about 360 million people without clean water every day. Deforestation will reduce biodiversity and deplete the environment. Every year, hundreds of species become extinct and hundreds of other species fall into serious population decline. If we count from the time species were formed on earth until today, more than 80% of animal species have no longer been found on earth. The number of extinct species will continue to increase in the future if humans do not have practical and effective solutions for restoring and protecting forests on earth. One day, most likely, the earth will become a dead planet when humans have destroyed all the green trees. Deforestation and destruction seriously affect the economies of tropical countries with strengths in forests. The decline in raw material sources for the wood processing industry has stopped production factories. Indiscriminate exploitation not combined with forest regeneration has left valuable lessons in these countries. Humans are the biggest factor destroying forests. Human production activities kill forest life every day. One day, when the forests are no longer there, it will be difficult for human life to continue. Stop destroying forests to use land for agriculture or to build factories, golf courses, etc. Every tree cut down costs us more than what we gain from production activities. . Immediately restore destroyed forest areas. Quickly regreen bare hills and increase tree coverage to restore greenness to the earth. Every green tree is the source of life, the breath, and the soul of the earth. Know how to appreciate even the smallest green sprout. Please protect the remaining green forests at all costs because it will take decades. It even takes several hundred years for us to have forests like that. It takes several decades for a new green sprout to shine. But it only takes a few minutes to take it down. A tree being cut down is like killing a living cell in a body. Nothing can compensate for the damage if we cut down a hundred-year-old giant tree. For the future of the earth, for the people on every continent who are suffering the consequences of our greed. Try your best to propagate and explain the role and benefits of forests to everyone. Frequently talk about the terrible harm that our children and grandchildren have to endure. Let's encourage people to try their best to plant trees, protect forests and love forests like we love our own lives.
Hướng dẫn Với tài thơ kiệt xuất, đương thời Lý Bạch được ca ngợi là một trong ba nhà thơ vĩ đại nhất thời Đường. Suốt mấy mươi năm cuộc đời, Lý Bạch “chống kiếm rời quê hương, từ biệt cha mẹ viễn du” khắp thiên hạ. Nơi đâu có cảnh đẹp, dù có cách trở ông vẫn tìm đến thưởng ngoạn. Thế nhưng hình ảnh quê hương lúc nào cũng ẩn sâu trong lòng ông. Tình cảm ấy được ông ghi tạc sâu sắc trong bài thơ Tĩnh dạ tư (Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh). Với con người, quê hương là nguồn cội sinh thành, là điểm quy hướng tinh thần, là sức mạnh chở che mỗi khi ta thất vọng, đau buồn hay lạc lõng. Với Lý Bạch, sông núi miền Tứ xuyên đã trở thành một phần máu thịt, là tất cả trong kí ức dù có xa cách mấy mươi năm cũng không thể phai mờ. Những đêm trăng kiêu bạc uống rượu trên đỉnh núi Nga My huyền ảo hay những đêm múa kiếm trên núi Thanh Thành, lòng nuôi chí lớn mà hừng hực khí thế phiêu du vẫn còn ngời sáng theo trăng. Nếu bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” (Vọng Lư Sơn bộ bố) là một bức tranh thiên nhiên hùng tráng, rực rỡ sắc màu thì “Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh” (Tĩnh dạ tư) là một bức thủy mặc trầm lắng xúc động lòng người. Nếu so sánh toàn diện hai bài thơ này thì rõ ràng là hai bức tranh hoàn toàn trái ngược cả về tâm thế lẫn tâm cảnh. Nếu thời gian trong “Xa ngắm thác núi Lư” là một buổi chiều rực rỡ, ánh sáng chiếu rọi khắp mặt đất bao la, quang cảnh vô cùng tráng lệ, kì vĩ đến phi thường, tiếng thác nước chảy dội vang vách núi. Người đứng trước cảnh thấy lòng rạo rực, yêu cây mến cảnh vô cùng, càng làm tăng khát vọng đi xa. Ngược lại, “Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh”là một đêm vắng lặng, ánh trăng bàng bạc khắp không gian, đất trời hòa trong ánh sáng huyền hồ. Người nhìn ánh sáng ngỡ ngàng không biết là ánh trăng hay là sương trên mặt đất. lòng bỗng nhớ quê tha thiết, muốn trở về nơi cố xứ yêu thương: “Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương Ngẩn đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương”. Lý Bạch đã dùng ba câu thơ ngũ ngôn ngắn gọn để miêu tả cảnh vật. Cảnh thật mà cũng chính là tâm cảnh đấy thôi. Đêm thanh tĩnh là đêm vắng lặng, không còn thứ âm thanh nào vang dội nữa. Tất cả đã chìm sâu và giấc ngủ miên trung. Đêm thanh tĩnh là đêm của trời trăng, vũ trụ mơ màng trong ánh sáng. Ngay từ câu thơ đầu, Lý Bạch đã lấy trăng làm dấu hiệu của đêm thanh tĩnh ấy:
Instruct With outstanding poetic talent, Li Bai was hailed as one of the three greatest poets of the Tang Dynasty. For decades of his life, Ly Bach "left his homeland with his sword, said goodbye to his parents and traveled" all over the world. Wherever there is beautiful scenery, no matter how difficult it is, he still goes to enjoy it. However, the image of his homeland is always hidden deep in his heart. He deeply engraved that feeling in the poem Tinh Da Tu (Thoughts in a Quiet Night). For humans, homeland is the source of birth, the point of spiritual direction, and the strength to protect us when we are disappointed, sad, or lost. For Ly Bach, the rivers and mountains of Sichuan have become a part of his flesh and blood, everything in his memories that cannot fade away even after decades of separation. The moonlit nights of drinking wine on the magical peak of Nga My mountain or the nights of sword dancing on Thanh Thanh mountain, the great ambition and spirit of adventure still shine brightly with the moon. If the poem "From afar looking at Lu mountain waterfall" (Vong Lu Son bo bo) is a majestic, colorful natural picture, then "Thoughts in the quiet night" (Tinh Da Tu) is a deep watercolor painting. touches people's hearts. If these two poems are comprehensively compared, it is clear that the two pictures are completely opposite in both mood and context. If the time in "Distant View of Lu Mountain Waterfall" is a brilliant afternoon, the light shines across the vast ground, the scene is extremely magnificent, extraordinary and majestic, the sound of the waterfall reverberates on the cliffs. People standing in front of the scene feel excited, love the tree and love the scene immensely, increasing their desire to go far. On the contrary, "Thoughts in a Quiet Night" is a quiet night, the moonlight spreads throughout the space, heaven and earth blend in the mysterious light. People looking at the light were surprised, not knowing if it was moonlight or dew on the ground. My heart suddenly missed my hometown so much, I wanted to return to my beloved homeland: “The moonlight shines at the head of the bed I thought the ground was covered in frost Raise your head and look at the bright moon Bow your head and remember your hometown." Ly Bach used three short five-syllable verses to describe the scene. The real scene is also the mental scene. A quiet night is a quiet night, with no more resounding sounds. Everything was deep and endless sleep. A quiet night is the night of the moon and sky, the universe is dreamy in light. Right from the first verse, Ly Bach used the moon as a sign of that peaceful night:
Hướng dẫn Tôi vốn thích những chú ngựa Pony từ rấtt lâu rồi. Mỗi lần sang nhà Lan chơi, thấy những chú ngựa pony đủ màu trong hộp là tôi không khỏi háo hức. Bộ đồ chơi ấy ba Lan mua từ năm ngoái. Lan quý bộ đồ chơi ấy lắm. mỗi lần tôi sang, Lan đều lấy ra chơi cùng tôi vì Lan biết tôi cũng rất thích nó. Tôi thầm cảm ơn Lan về điều đó. Lan đúng là một cô bạn tốt nhất của tôi. (Cảm nghĩ về món quà ý nghĩa) Có lần tôi xin mẹ mua cho tôi bộ đồ chơi hấp dẫn ấy. Nhưng mẹ đều từ chối. Mẹ nói rằng tôi đã có quá nhiều đồ chơi rồi. Nhà chật chội, mẹ sẽ không mua thêm nữa. những lúc như thế, tôi buồn vô cùng. Chiều hôm qua, bác Ba sang nhà tôi chơi. Thấy tôi buồn buồn bác bế tôi dỗ dành: – Cháu của bác, sao cháu lại buồn thế. Tôi không dám nói ra ý định của mình vì có mẹ ở nhà. Nghe bác hỏi, mẹ từ trong bếp phàn nàn: – Con bé đòi mua bộ đồ chơi Pony đấy bác à. Nó nhiều đồ chơi lắm rồi, em không cho mua thêm nữa. Mà ngựa Pony ở đây cũng không có. Muốn mua phải đặt hàng từ Hà Nội gửi vào cơ. Bác Ba mỉm cười, ôm đầu tôi khẽ lắc lắc: – À, à! Cháu của bác thích chơi ngựa Pony à. Ngày mai bác đi Hà Nội công tác đấy. Bác sẽ tìm mua cho cháu. – Anh cứ chìu nó, nó hư. Mẹ tôi lại phàn nàn. Tôi lặng im, không dám nói lời nào. Sợ đòi mua mẹ sẽ mắng. Nhưng tôi biết bác ba sẽ giữ lời hứa. Quả đúng như mẹ nói, tôi có nhiều đồ chơi thật. Chỉ riêng đồ chơi thú nhồi bông tôi có đến hai thùng đầy. Vì chơi chán, tôi vứt lung tung. Mẹ đã phải gom từng con, giặt sạch sẽ và cất vào thùng. Mẹ bảo hôm nào sẽ đem cho con chú Sáu. Rồi đến búp bê Elsa tôi cũng có tới vài chục con. Trước đây tôi thích chơi với Elsa lắm. Nhưng chơi lâu thấy cũng chán chắn. Chỉ quanh đi quẩn lại mấy trò đóng giả bắt cóc, nấu ăn, làm vườn khiến tôi không còn hứng thú nữa. Còn bộ Lego đang lắp ghép chưa xong tôi cũng bỏ dở. Chiều hôm qua, vừa đi học về, mở cửa bước vào phong tôi không khỏi sung sướng reo lên khi thấy bộ đồ chơi Pony ở trên bàn. Vậy là bác Ba đã về. Bác Ba đã mua nó cho tôi. Bác ba đã giữ đúng lời hứa. Tôi ôm bộ đồ chơi quý giá ấy chạy lòng vòng khắp nhà. Mẹ tôi vừa khâu áo vừa mỉm cười nhìn theo: – Bác ba đã về đêm qua. Sáng bác mang sang cho con đấy. Chơi cho cẩn thận, không được vứt lung tung đấy nhé. Tôi dạ ran một tiếng rồi chạy sang nhà Lan khoe bộ đồ chơi mới. Lan cũng vui lắm, liền lấy những chú ngụa Pony của Lan ra chơi cùng tôi. Chúng tôi sắp những chú ngựa Pony theo từng cặp. Mỗi con một vẻ, không con nào giống con nào. Những chú ngựa với mái tóc dài phủ xuống cả sau thành cái bờm thật dễ thương. Chúng lại có cánh và thật nhiều màu sắc nữa. Trên trán chúng có cái sừng trông thật kì dị. Lan lấy thảm cỏ rồi sắp xếp mỗi con một vị trí. Nhìn vào giống như một đàn ngựa đang đùa giỡn trên thảo nguyên xanh trông thật thích mắt. Chúng tôi say mê bày biện đủ trò, đến tận chiều tối mới chịu về. Đêm ấy tôi không sao ngủ được. Trong đầu cứ nghĩ về những chú Pony ngộ nghĩnh và dễ thương. Những chú ngựa thiên thần có cánh. Người ta nói ngựa Pony là một sinh vật thần thoại. Pony còn có tên gọi là ngựa kỳ lân. Ngựa kỳ lân thường xuất hiện với hình dáng một con ngựa trắng có một sừng trên trán và hai cánh. Ngựa kỳ lân thường mang đến niềm may mắn cho con người mỗi khi chúng xuất hiện.
Instruct I have liked Pony horses for a long time. Every time I go to Lan's house and see colorful ponies in the box, I can't help but get excited. Poland bought that toy set last year. Lan loves that toy set very much. Every time I come over, Lan takes it out to play with me because Lan knows I also like it very much. I silently thank Lan for that. Lan is truly my best friend. (Thoughts about a meaningful gift) One time I asked my mother to buy me that attractive set of toys. But my mother refused. Mom says I already have too many toys. The house is cramped, I won't buy any more. At times like that, I feel extremely sad. Yesterday afternoon, Uncle Ba came to my house to visit. Seeing me sad, he held me and comforted me: – My nephew, why are you so sad? I didn't dare say my intentions because my mother was at home. Hearing my uncle's question, my mother complained from the kitchen: – She asked to buy a Pony toy set. He already has too many toys, I won't let him buy any more. There are no Pony horses here either. If you want to buy, you have to order it from Hanoi and have it sent to you. Uncle Ba smiled, hugged my head and shook it gently: – Ah, ah! Your nephew likes to play Pony. Tomorrow I'm going to Hanoi on business. I will find and buy it for you. – You keep pampering it, it's broken. My mother complained again. I was silent, not daring to say a word. Afraid that if I ask to buy it, my mother will scold me. But I know he will keep his promise. It's true as my mother said, I do have many toys. I have two boxes full of stuffed toys alone. Because I got bored playing it, I threw it around. Mom had to collect each animal, wash it and put it in a box. Mom said she would bring it to Uncle Sau someday. Then I also have several dozen Elsa dolls. I used to like playing with Elsa very much. But if you play for a long time, you will get bored. Just going around pretending to be a kidnapper, cooking, and gardening makes me no longer interested. As for the Lego set I was assembling before I finished it, I left it unfinished. Yesterday afternoon, as soon as I got home from school, when I opened the door and entered the room, I couldn't help but shout with joy when I saw the Pony toy set on the table. So Uncle Ba has returned. Uncle Ba bought it for me. Uncle Dad kept his promise. I hugged that precious toy and ran around the house. My mother sewed the shirt and smiled as she watched: – Uncle came back last night. I'll bring it to you this morning. Play carefully, don't throw it around. I felt relieved for a moment then ran to Lan's house to show off my new toy set. Lan was also very happy, so she took Lan's ponies out to play with me. We arrange the ponies in pairs. Each bird has its own look, no two are alike. Horses with long hair falling down the back into manes are so cute. They have wings and are very colorful. On their foreheads they have a strange-looking horn. Lan took the grass and arranged each bird in a position. Looking at it, it looks like a herd of horses playing on the green steppe, which is really pleasing to the eye. We indulged in all sorts of tricks and didn't return until late in the evening. That night I couldn't sleep. In my head, I kept thinking about funny and cute Ponies. Winged angel horses. People say the Pony is a mythical creature. Pony is also called unicorn horse. The unicorn horse often appears as a white horse with one horn on its forehead and two wings. Unicorn horses often bring luck to people every time they appear.
Hướng dẫn Nhà nó ở cạnh nhà tôi, trong khu chung cư. Gia đình tôi mới chuyển về đây ở tạm trong khi chờ đợi căn nhà ở Quận 5 xây xong. Nó học cùng lớp với tôi. Và tôi chưa bao giờ thấy thân thiện với nó dù gặp nhau hằng ngày ở lớp và ở nhà. (Kể về người bạn thân) Tôi vốn ghét nó. Thậm chí là ghét cay ghét đắng. Bởi mẹ tôi thường hay lấy tôi so sánh với nó. “Con hãy xem kìa, Kim Đỉnh nó vất vả thế mà học giỏi. Còn con học hành chẳng ra gì”. Hay đại khái như “Học là phải giỏi. Học không giỏi thì học làm gì. Con hãy xem Kim Đỉnh học ấy”. Nhiều lúc mẹ gắt gỏng lên vì thành tích bê bết của tôi: “Kim Đỉnh nó học giỏi và được đi Úc tham quan đấy. Cô giáo chủ nhiệm vừa gọi cho mẹ thông báo thành tích của con. Mẹ thấy thật xấu hổ”. Nhiều lúc tôi chỉ ước nó không học chung lớp với tôi hoặc nó không có trên đời này để mẹ tôi không phải từng ngày so sánh. Tôi không trách mẹ tôi. Mẹ đã rất yêu thương và lo lắng cho tôi. Mẹ luôn mong tôi học giỏi để sau này còn thay bố mẹ xây dựng công ty vững mạnh. Còn tôi chỉ thích chơi, không thích học. Ghét nó, tôi bày đủ trò để trêu chọc nó. Có lần, nhân lúc nó vừa trở vè nhà, tôi lén lấy đôi giày nó bỏ vào thùng rác. Cái đôi giày rách rưới và bẩn thỉu ấy bỏ đi cho rồi. Lúc đi ra, không thấy giày đâu, nó ngơ ngác tìm. Tôi dứng cười khúc khích. Nó hỏi tôi: – Cậu giấu đôi giày của mình phải không? Tôi cáu kỉnh trả lời. – Vứt đi rồi. Trong thùng rác đó. Rách rồi bỏ đi. Đôi mắt nó đỏ hoe. Nó lại thùng rác lấy đôi giày ra, không nói gì, nó bỏ vào trong nhà. Tôi hụt hẫng. Lần khác, đợi nó vừa về tới cửa, tôi bê cả chậu nước tạt vào nó. Nó giật mình thảng thốt vì lạnh. Nó quay lại nhìn tôi. Mắt lại đỏ hoe khong nói gì rồi bỏ vào nhà. Tôi lại hụt hẫng. Tôi muốn làm nó giận mà nó không hề giận. Chưa bao giờ nó la tôi hay méc mẹ vì những trò nghịch ngợm của tôi. Nhưng mẹ lại biết tất cả. Qua khung cửa sổ, mẹ chứng kiến tất cả những trò tinh nghịch của tôi. Mẹ chỉ thở dài thất vọng về đứa con gái của mẹ. Mẹ cũng không la tôi vì mẹ biết tôi chỉ đùa nghịch chứ không có ác ý. Một buổi sớm, khi mở cửa ra, tôi đã thấy Kim Đỉnh đứng ở cửa, dáng vẻ lúng túng. Tôi lừ lừ nhìn nó hỏi: – Làm gì mà đứng ở đây vậy? Nó ngập ngừng chìa ra trước mắt tôi một chiếc hộp: – Mình mua cho Kim Anh đấy. Một chú chim Kiwi. Mình vừa ở Úc về đêm qua. Trời. Nó gọi thẳng tên tôi luôn. Còn có quà cho tôi nữa chứ. Tôi vô cùng bối rối, không biết làm thế nào trong tình thế ấy. Tôi chỉ biết đưa tây nhận lấy món quà rồi lẳng lặng khép của lại mà không nói được lời cảm ơn. Phía sau cánh cửa, Kim Đỉnh mỉm cười. Tôi vốn rất thích chim Kiwi và ao ước có được một chú chim Kiwi bằng bông. Nhiều lần tôi đòi mẹ mua cho nhưng mẹ không cho. Tôi cũng không biết làm sao Kim Đỉnh biết được điều đó. Tôi mở hộp quà ra xem. Đúng thật đó là một chú chim Kiwi thật dễ thương. Tôi bần thần suy nghĩ. Tôi ghét nó đến thế, trêu chọc nó nhiều đến thế, vậy mà nó không giạn tôi, còn mua quà đắt tiền cho tôi nữa chứ. Kim Đỉnh thật là người rộng lượng. Cậu ấy hiểu tôi và sẵn sàng tha thứ cho tất cả lỗi lầm của tôi. Tôi chợt nhớ đến có lần Kim Đỉnh bảo “gắng học để mai này làm người tốt”. Tôi thấy hối hận quá. Thấy mình thật là ích kỉ, chỉ biết nghĩ cho riêng mình. Thấy mình nhỏ nhen, không biết yêu thương, đồng cảm hay se chia khó khăn với người khác. Tôi sẽ sang cảm ơn Kim Đỉnh. Nhất định rồi. Kim Đỉnh vẫn nghĩ đến tôi dù tôi không tốt với cậu ấy. Tôi không thể phụ lòng mẹ. Tôi phải học giỏi hơn nữa. tôi phải được như Kim Đỉnh để mẹ vui lòng. Ngày hôm sau, thực hiện lời mẹ dặn, tôi ôm tập sang nhà Kim Đỉnh. Tôi cảm ơn cậu ấy về món quà và muốn được cậu ấy chỉ cho học bài. Kim Đỉnh cười vui vẻ nhận lời. Kim Đỉnh quả thật học thật giỏi. Bài tập nào cậu ấy cũng giải được hết. Cậu ấy còn viết văn rất hay nữa chứ. Giờ tôi mới biết, Kim Đỉnh thường hay ghi lại những cảm nhận về cuộc sống quanh mình, ghi lại những gì cậu ấy nghĩ và dùng nó làm những bài tập làm văn. Hèn gì, bài văn nào cậu ấy cũng đạt điểm cao nhất lớp. Năm đó, nhờ Kim Đỉnh chăm chỉ hướng dẫn tôi học tôi tiến bộ vượt bậc. Cuối năm, từ học sinh trung bình-khá, tôi vươn lên học sinh giỏi. Thành tích ấy khiến mẹ tôi rất hài lòng. Tôi nhận rõ vai trò của sự nỗ lực và ý nghĩa của tình bạn. Kim Đỉnh đã giúp tôi thấy được niềm tin yêu cuộc sống, giúp tôi biết kiên trì trong học tập và không ngừng phấn đáu vươn lên.
Instruct His house is next to mine, in an apartment complex. My family just moved here temporarily while waiting for the house in District 5 to be completed. He is in the same class as me. And I never felt friendly with him even though we met every day in class and at home. (Talking about a close friend) I used to hate it. Even hate it. Because my mother often compares me to her. “Look, Kim Dinh works so hard but studies well. And I'm not good at studying." Or something like “Learning is having to be good. If you don't study well, why study? You should watch Kim Dinh learn it." Many times my mother was grumpy because of my poor achievements: "Kim Dinh studied well and was able to go to Australia to visit. The homeroom teacher just called me to inform me of my child's achievements. I feel so ashamed." Many times I just wish he wasn't in the same class as me or that he wasn't in this world so my mother wouldn't have to compare every day. I don't blame my mother. Mom loved and worried about me very much. My mother always wanted me to study well so that in the future I could replace my parents in building a strong company. And I just like to play, don't like to study. Hating it, I played all sorts of tricks to tease it. One time, when he had just returned home, I secretly took his shoes and put them in the trash. Get rid of those tattered and dirty shoes. When he went out, he couldn't find his shoes, so he looked confused. I stood up giggling. It asked me: – You hid your shoes, right? I replied irritably. – Throw it away. In that trash can. Tear and throw away. Its eyes were red. He went to the trash can and took out the shoes. Without saying anything, he put them inside the house. I was disappointed. Another time, when he had just arrived at the door, I brought a basin of water and threw it at him. He was startled by the cold. It turned back to look at me. His eyes were red again and he didn't say anything and then went into the house. I was disappointed again. I wanted to make him angry but he wasn't angry. He has never yelled at me or scolded his mother for my naughty things. But mom knows everything. Through the window, my mother witnessed all my mischievous acts. Mom just sighed in disappointment about her daughter. Mom didn't yell at me because she knew I was just joking and had no malice. One early morning, when I opened the door, I saw Kim Dinh standing at the door, looking confused. I glared at it and asked: – Why are you standing here? He hesitantly held out a box before my eyes: – I bought it for Kim Anh. A Kiwi bird. I just got back from Australia last night. God. It called me directly by name. I still have a gift for me. I was extremely confused, not knowing what to do in that situation. I could only accept the gift and then quietly close the door without saying thank you. Behind the door, Kim Dinh smiled. I really like kiwi birds and wish to have a cotton kiwi bird. Many times I asked my mother to buy it for me but she wouldn't let me. I also don't know how Kim Dinh knew that. I opened the gift box to see. That's true, it's a really cute Kiwi bird. I was lost in thought. I hate him so much, tease him so much, yet he doesn't tease me and even buys me expensive gifts. Kim Dinh is truly a generous person. He understands me and is willing to forgive all my mistakes. I suddenly remembered the time when Kim Dinh told me to "study hard so that tomorrow I can be a good person". I feel so regretful. I feel so selfish, I only think about myself. Feeling petty, not knowing how to love, sympathize or share difficulties with others. I will go thank Kim Dinh. Definitely. Kim Dinh still thinks of me even though I'm not good to him. I cannot disappoint my mother. I must study better. I have to be like Kim Dinh to make my mother happy. The next day, following my mother's instructions, I went to Kim Dinh's house. I thanked him for the gift and wanted him to show me the lesson. Kim Dinh smiled happily and accepted. Kim Dinh is really good at studying. He can solve every exercise. He also writes very well. Now I know that Kim Dinh often records his feelings about life around him, writes down what he thinks and uses it as writing exercises. No wonder, he got the highest score in every essay in the class. That year, thanks to Kim Dinh diligently guiding me in my studies, I made great progress. At the end of the year, from an average-good student, I became an excellent student. That achievement made my mother very satisfied. I clearly realize the role of effort and the meaning of friendship. Kim Dinh has helped me see the faith in love for life, helped me persevere in studying and constantly strive to improve.
Hướng dẫn Là học sinh, ai cũng gắn bó với sách vở từng ngày. Sách vở theo ta đến trường. Sách vở cùng ta thao thức mỗi đêm. Bởi cùng nhau vượt qua bao gian khó trong học tập nên đối với mỗi người sách vở chính là một người bạn thân thiết không thể nào quên. Không biết từ bao giờ, cứ mỗi khi gần bắt đầu năm học mới, lòng tôi lại rạo rực đến lạ. Sau một mùa hè thoải mái, tôi muốn được đến trường, muốn được gặp thầy cô và bạn bè, muốn được học bài và làm bài mỗi đêm. Tôi yêu sách vở từ trước khi tôi được đi học. Mỗi khi nhìn chị tôi lấy sách vở ra học bài, tôi đều ngồi bên cạnh ngóng ngóng đọc chữ. Khuôn mặt tối háo hức như thể đã đọc được chữ rồi vậy. Mỗi lần như thế, chị tôi cốc vào đầu tôi bảo đợi đi học biết chữ rồi đọc. Tôi chỉ biết vừa gãi đầu vừa cười ngượng ngùng. Từ ngày tôi biết đọc, tôi rất ham đọc sách. Chị có bộ truyện tranh nào là tôi ngấu nghiến đọc hết. Đến nỗi mắt tôi bị cận lúc nào không hay. Mẹ tôi hết sức lo lắng, lúc nào cũng trong chừng tôi, sợ tôi đọc nhiều, bị cận nặng thêm nữa. Quả thực, sách vở vô cùng quan trọng đối với mõi con người. Không riêng gì học sinh, ai đọc sách đều nhận được từ đó những giá trị lớn lao. Bước vào trang sách là bước vào một thế giới muôn màu với biết bao điều kì thú. Sách là một kho tri thức vô tận mà nhân loại đã dày công tích lũy. Muốn hiểu biết điều gì, bạn cứ tìm đến trang sách sẽ có. Sách là người thầy thông thái âm thầm kể cho bạn nghe về thế giới này. Đọc sách giúp tôi biết nhiều về quê hương đất nước mình. Đất nước ta rộng lớn và tươi đẹp biết bao. Mỗi khi đọc về danh lam thắng cảnh hay cuộc sống của mọi miền quê, tôi lại háo hức muốn được đến tận nơi để chiêm ngưỡng, hòa mình vào trong ấy. Sách con đưa tôi trở về với những trang lịch sử hào hùng của dân tộc, bồi dưỡng cho tôi tình yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống và biết ơn những con người anh hùng đã không tiếc máu xương để bảo vệ lấy, gìn giữ lấy mảnh đất thiêng liêng này. Mỗi trang sách tôi đọc được đều bồi đắp tâm hồn tôi biết bao phẩm chất tốt đẹp. Sách gắn kết tôi với mọi người trên khắp thế giới. Qua sách, tôi hiểu hơn về cuộc sống loài người và cảm thông với những số phận bất hạnh trong cuộc đời này. Không phải ai sinh ra cũng có được hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp. Sách như một chiếc gương thần xanh mở cho tôi thấy biết bao điều kì diệu. Ngoài kia, trong thế giới rộng lớn, nhiều em bé đang phải từng ngày vật lộn với cuộc sống để sinh tồn. Có biết bao cái vừa mất đi và bao cái vừa mới hình thành. Cả nhân loại đang kết chặt vòng tay thân ái. Cuộc sống rất cần có tình yêu thương để cùng nhau vượt qua những khó khăn, trở ngại. Sách chính là sứ giả đến nói với chúng ta điều đó.
Instruct As a student, everyone is attached to books every day. Books follow us to school. Books keep us awake every night. Because we have overcome many difficulties in studying together, for each person, books are a close and unforgettable friend. I don't know when, but every time the new school year nears the start, my heart feels strangely excited. After a comfortable summer, I want to go to school, meet teachers and friends, and study and do homework every night. I have loved books since before I went to school. Every time I watched my sister take out her books to study, I sat next to her, waiting to read the words. The dark face was excited as if he had already read the words. Every time that happened, my sister hit me on the head and told me to wait until I went to school to become literate and then read. I could only scratch my head and smile shyly. Since the day I learned to read, I have loved reading books. If you have any comic books, I will read them all. So much so that my eyes became nearsighted without even realizing it. My mother was extremely worried, always watching me, afraid that if I read too much, my nearsightedness would get worse. Indeed, books are extremely important for every human being. Not only students, everyone who reads books receives great value from it. Stepping into the book is entering a colorful world with so many wonderful things. Books are an endless treasure trove of knowledge that humanity has diligently accumulated. If you want to understand something, just go to the book page and you will find it. Books are wise teachers who silently tell you about this world. Reading books helps me know a lot about my homeland. Our country is so large and beautiful. Every time I read about landscapes or the life of any countryside, I eagerly want to go to that place to admire and immerse myself in it. This book takes me back to the pages of our nation's heroic history, fostering in me love for my homeland, love for life, and gratitude for the heroic people who spared no effort to protect it. Preserve this sacred land. Every page of the book I read enriches my soul with so many good qualities. Books connect me with people around the world. Through books, I understand more about human life and sympathize with the unfortunate fates in this life. Not everyone is born with happiness and a good life. Books are like a green magic mirror that opens up for me to see so many wonderful things. Out there, in the big world, many children are struggling every day to survive. There are so many things that have just been lost and so many things that have just been formed. The whole human race is clasping a loving embrace. Life needs love to overcome difficulties and obstacles together. Books are messengers who come to tell us that.
Hướng dẫn Để thành công trong học tập và cuộc sống, con người cần rèn luyện cho mình nhiều đức tính tốt đẹp. Một trong những đức tính cần phải có đó là đức tính trung thực. Trung thực là tôn trọng sự thật, tôn trọng chan lí lẽ phải. trung thực còn là luôn sống ngay thẳng, thật thà và dám dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Người có đức tính trung thực luôn tôn trọng sự thật và lẽ phải. Họ không gian dối trong lời nói và hành động. Lúc nào họ cũng biết tuân thủ các nguyên tác, chuẩn mực, đạo lí ở đời. Người có đức tính trung thực luôn sống hòa đồng với mọi người xung quanh và thường giúp đỡ người khác. Không bao giờ họ thù ghét hay nghi kị người khác. Người có đức tính trung thực dũng cảm chống lại cái xấu, sự gian dối trong cuộc sống để bảo vệ người yếu đuối. Để có tính trung thực, trước hết học sinh không ngừng phấn đấu trong học tập. Luôn có ý thức rèn luyện đạo đức, nhân cách, nhân phẩm trở thành người hữu ích cho xã hội. Không gian dối trong học tập và không lừa dối người khác. Siêng năng, nhiệt tình trong công việc chung của trường học, lớp học. Sống hòa đồng, gắn kết với bạn bè, thầy cô. Phê phán: Trong cuộc sống, vẫn còn có nhiều người không có đức tính trung thực. Họ thường hay nói dối và lừa dối người khác để trốn tránh trách nhiệm cuarm ình trong công việc hoặc mưu lợi cho riêng mình. những người như thế thật đáng chê trách. Bài học: Học sinh cần phải rèn luyện đức tính trung thực và thực hành đức tính ấy trong học tập và trong đời sống. Thiếu đức tính trung thực học sinh không thể trở thành người tốt được.
Instruct To be successful in study and life, people need to practice many good qualities. One of the virtues that must be possessed is the virtue of honesty. Honesty is respecting the truth, respecting reason. Honesty also means always living uprightly, honestly and courageously admitting mistakes when you make mistakes. People with honest qualities always respect truth and righteousness. They are not deceitful in words and actions. They always know how to comply with principles, standards, and ethics in life. People with honest qualities always live in harmony with people around them and often help others. They never hate or suspect others. People with honest qualities courageously fight against evil and deceit in life to protect the weak. To be honest, first of all, students constantly strive in their studies. Always be conscious of practicing morality, personality, and dignity to become a useful person for society. Do not lie in your studies and do not deceive others. Diligent and enthusiastic in general school and classroom work. Live sociably and bond with friends and teachers. Criticism: In life, there are still many people who do not have the virtue of honesty. They often lie and deceive others to avoid their responsibilities at work or to seek their own benefits. Such people are truly reprehensible. Lesson: Students need to practice the virtue of honesty and practice that virtue in study and in life. Without the virtue of honesty, students cannot become good people.
Hướng dẫn Ca dao, tục ngữ là kho tàng trí tuệ của con người. Bằng những câu nói ngắn gọn súc tích cha ông ta gửi gắm vào đó những lời khuyên bổ ích về đời sống xã hội và lao động sản xuất. Không chỉ là lời khuyên bảo, tục ngữ còn là kết tinh của biết bao tình cảm yêu mến, khát vọng hướng đến tương lai của lớp lớp cha ông đi trước nhằm bồi đắp cho các thế hệ mai sau những phẩm chát tốt đẹp nhất. Câu tục ngữ: Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” thể hiện sâu sắc tâm tư, tình cảm đó. * Giải thích: – Về nghĩa đen: + Một cây: là số ít, chỉ cá nhân. + Ba cây: là số nhiều, chỉ tập thể. + Non, hòn núi cao: chỉ thành công, sự nghiệp lớn lao. Ý nghĩa: Một người khó có thể làm nên thành công. Nhưng nhiều người biết họp sức lại sẽ tạo dựng được thành công lớn. * Chứng minh Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Một người đâu phải nhân gian. Sống trong một đóm lửa tàn mà thôi”. Mọi thành công có được là do sự kiên trì của con người trong công việc muốn có thành công thì phải biết hợp sức cùng người khác, tương trợ lẫn nhau cùng hướng đến mục đích chung. Bởi không có ai trong chúng ta mạnh bằng tất cả chúng ta. Sức mạnh tập thể là một sức mạnh to lớn, có thể đưa tập thể vượt qua mọi khó khăn thử thách mà mỗi cá nhân không thể làm được. Câu chuyện bó đũa đã để lại cho ta bài học hết sức thâm thúy về tinh thần đoàn kết, tương trợ ấy. Chuyện kể rằng, có một phú ông lúc sắp lâm chung đã gọi các con lại và đưa ra một bó đũa rồi nói: – Trong các con, ai bẻ gãy được bó đũa này sẽ được phần nhiều nhất trong số tài sản cha để lại. Lần lượt từng người đều cố gắng hết sức không thấy bé gãy. Phú ông nhận lại bó đũa và điềm tĩnh bẻ gãy từng chiếc đũa trước sự kinh ngạc của cá người con. Rồi ông nói: “Mỗi chiếc đũa khi tách ra khỏi bó dễ dàng bị bẽ gãy. Nhưng nếu chúng hợp sức lại thì không ai có thể bẽ gãy chúng. Các con cũng phải thế. Khi cha mất đi, các con phải biết đoàn kết lại, đừng vì vật chất của cải mà rời xa nhau”. Bác Hồ cũng từng nói: “Đoàn kết thì sống. Chia rẽ thì chết “. Chính sự hợp sức của nhiều người nên sức mạnh to lớn. Giống như việc một cái cây đơn độc sẽ dễ bị quật ngã bởi gió bão. Nhưng gió bão không thể nào hủy diệt nỗi một khu rừng khi các cây đứng tựa vào nhau. Tinh thần đoàn kết đã làm nên sức mạnh của dân tộc ta từ bao đời nay. Trong quá khứ, khi đất nước có chiến tranh, tinh thần ấy tạo nên một làn sóng mạnh mẽ quét sạch kẻ xâm lăn ra khỏi bờ cõi. Khi đất nước hòa bình tinh thần ấy trở thành sức mạnh hăng say trong lao động sản xuất. Phê phán: Trông cuộc sống, vẫn còn có nhiều người không có tinh thần đoàn kết. Họ sống ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân. Những người như thế thật đáng chê trách. Bài học: Sống phải biết đoàn kết gắn bó với nhau.
Instruct Folk songs and proverbs are treasures of human wisdom. With short, concise sentences, our ancestors conveyed useful advice about social life and productive labor. Not only is it advice, proverbs are also the crystallization of many love feelings and aspirations towards the future of our ancestors to foster the best qualities for future generations. Proverb: A tree cannot make a young person. "Three trees gathered together form a high mountain" deeply expresses those thoughts and feelings. * Explain: – Literally: + One tree: is singular, indicating an individual. + Three trees: is plural, indicating collective. + Mountains, high mountains: only success, great career. Meaning: It is difficult for one person to become successful. But many people know that working together will create great success. * Prove Poet To Huu once said: “A person is not a human being. Just living in a dying fire." All success is due to people's perseverance in work. If you want to be successful, you must know how to cooperate with others, support each other and work towards a common goal. Because none of us is stronger than all of us. Collective strength is a great power that can help the group overcome all difficulties and challenges that each individual cannot do. The story of the bundle of chopsticks has left us with a very profound lesson about that spirit of solidarity and mutual support. The story is told that when a rich man was about to die, he called his children together, gave him a bunch of chopsticks, and said: - Among you children, whoever can break this bundle of chopsticks will receive the largest portion of the inheritance left by their father. Each person in turn tried their best not to see the baby break. The rich man received the bundle of chopsticks back and calmly broke each chopstick to the surprise of his children. Then he said: “Each chopstick when separated from the bundle can easily be broken. But if they join forces, no one can break them. You have to do the same. When your father passes away, you must unite and not be separated from each other because of material wealth." Uncle Ho also once said: “Unity is life. Division leads to death. It is the cooperation of many people that creates great strength. Just like a single tree can easily be blown down by a storm. But storm winds cannot destroy a forest when the trees stand against each other. The spirit of solidarity has been the strength of our nation for many generations. In the past, when the country was at war, that spirit created a strong wave that swept away the invaders from the land. When the country is at peace, that spirit becomes an enthusiastic strength in productive labor. Criticism: Looking at life, there are still many people who do not have the spirit of solidarity. They live selfishly, only thinking about their own benefits. Such people are truly reprehensible. Lesson: To live, we must know how to unite and stick together.
Hướng dẫn Từ xa xưa ông cha ta đã coi trọng người thầy giáo. Người xưa thường nói đi học mà không hiểu bài giảng thì cũng như không có học nên người đời có câu tục ngữ “Không thầy đố mày làm nên” Câu tục ngữ có nghĩa sâu sắc đề cao vai trò của người thầy đối với học trò. Thầy là người truyền thụ kiến thức nâng cao hiểu biết cho chúng ta những người học sinh, thầy soi đường dẫn lối đưa chúng ta đến những chân trời mới, những ước mơ, khát vọng trang bị đầy đủ kiến thức giúp chúng ta tự tin bước vào đời. Thầy không những truyền đạt cho chúng ta một kiến thức sâu rộng, bổ ích mà dạy dỗ ta những đạo lý làm người. Họa sĩ lừng danh Leonardo Da Vanci nếu không nhờ người thầy Verrocchio khắt khe dạy từng nét vẽ đơn giản đến thành tài thì chúng ta đã không có một người họa sĩ thiên tài Có nhiều người họ coi thường người thầy giáo. Họ cho rằng lời khuyên của những câu tục ngữ là nhảm nhí. Nhưng kết quả họ phải nhận lại là một tương lai đầy cay đắng. Sự rèn luyện của người họa sĩ tài ba. Sự khắt khe với học sinh của người thầy tuyệt vời tất cả đã làm nên một người họa sĩ tài ba. Ý nghĩa câu tục ngữ cho ta nhiều bài học cho bản thân không ngừng cố gắng có người thầy bên cạnh nghiêm khắc dạy dỗ chúng ta. Chúng ta có quyết tâm học hành thì nhất định sẽ có một tương lai sáng ngời Kết bài
Instruct Since ancient times, our ancestors have respected teachers. The ancients often said that going to school without understanding the lecture is like not having learned, so people have a proverb "If you don't have a teacher, you can do it." The proverb has a profound meaning that emphasizes the role of teachers towards students. The teacher is the one who imparts knowledge to improve understanding to us students, he lights the way to lead us to new horizons, dreams, aspirations, fully equipped with knowledge to help us be confident. enter life. He not only imparts to us profound and useful knowledge but also teaches us human ethics. Famous painter Leonardo Da Vanci, if it weren't for the strict teacher Verrocchio who taught him how to draw simple strokes to perfection, we wouldn't have a genius artist. There are many people who despise teachers. They think the advice of proverbs is nonsense. But the result they have to receive is a bitter future. The training of a talented artist. The great teacher's strictness with his students all made him a talented artist. The meaning of the proverb gives us many lessons for ourselves to constantly try to have a teacher by our side to strictly teach us. If we are determined to study, we will definitely have a bright future. Conclusion
Hướng dẫn Trong cuộc sống của ta, đạo đức là một yếu tố cực kì quan trọng để hình thành nên nhân cách. Đạo đức thể hiện qua sự văn minh tính cách của riêng họ. Trong đó có cả sự biết ơn, nhớ ơn những người đã giúp đỡ mình vượt qua khó khăn. Đó là chân lí, chính vì vậy ông cha ta luôn có câu: “Uống nước nhớ ngồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây.” Từ việc mượn hình ảnh “ăn quả” và “trồng cây” ý nói rằng khi hưởng thụ thành quả, cần nhớ tới những người đã bỏ ra công sức, mồ hôi nước mắt để làm ra. Về nghĩa đen: quả là sản phẩm của cây, kẻ trồng cây là người đã trồng và chăm bón cho cây. => ý nghĩa: khi ăn quả của cây này hãy nhớ ơn người đã trồng ra. Về nghĩa bóng: quả là thành quả lao động, kẻ trồng cây là người tạo ra thàng quả lao động ấy. => ý nghĩa: khi hưởng thụ thành quả lao động do người khác làm ra, hãy ghi nhớ công ơn của họ. Biết ơn là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Chúng ta biết ơn cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ đã sinh ra tổ tiên ngày xưa. Biết ơn ngững vị vua Hùng đã khổ công gây dựng nên non nước này. Biết ơn những anh hùng đã hi sinh thân mình bảo vệ đất nước. Chúng ta cần phải biết ơn cuộc sống này đã cho ta muôn vàng thách thức để rèn luyện lại chính mình. Và chúng ta trả ơn họ và cuộc sống này bằng cách giúp đỡ người khác như ông cha ta ngày xưa. Có hai người mà em nợ ơn họ cả đời này em trả cũng chẳng hết đó chính là ba mẹ. Người sinh ra ta nuôi nấng ta mà không cần đến sự đền đáp. Khó có thể nói rằng ai cũng có đủ tình cha và tình mẹ. Có những người họ không có đủ tình thương của cả hai. Thật vậy lòng biết ơn rất cần thiết đối với con người, giúp con người gắn kết lại với nhau. Nếu như không có lòng biết ơn thì dù mình có khổ cực đến mấy cũng sẽ không có ai giúp đỡ. Sự gắn kết giữa người với người là minh chứng cho lòng biết ơn sâu sắc.
Instruct In our lives, morality is an extremely important factor in forming personality. Morality is expressed through their own civility and character. Including gratitude and gratitude to those who have helped me overcome difficulties. That is the truth, that's why our ancestors always had the saying: "When drinking water, remember the source", "when eating fruit, remember the person who planted the tree." Borrowing the images of "eating fruit" and "planting trees", it means that when enjoying the fruits, we need to remember the people who put in the effort, sweat and tears to produce them. Literally: fruit is the product of the tree, the grower is the person who planted and nurtured the tree. => Meaning: When eating the fruit of this tree, remember to be grateful to the person who planted it. Figuratively: fruit is the fruit of labor, the person who plants the tree is the one who creates the fruit of that labor. => meaning: when enjoying the fruits of labor done by others, remember their gratitude. Gratitude is a precious tradition of our people from ancient times to present. We are grateful to father Lac Long Quan and mother Au Co for giving birth to our ancestors in the past. Grateful to the Hung Kings who worked hard to build this country. Grateful to the heroes who sacrificed themselves to protect the country. We need to be grateful that this life has given us countless challenges to retrain ourselves. And we repay them and this life by helping others like our ancestors did. There are two people to whom I owe a debt of gratitude for the rest of my life that I cannot fully repay: my parents. The person who gave birth to us raises us without asking for anything in return. It is difficult to say that everyone has enough fatherly love and motherly love. There are people who don't have enough love from both. Indeed, gratitude is very necessary for humans, helping people bond together. If we don't have gratitude, no matter how miserable we are, no one will help us. The connection between people is a testament to deep gratitude.
Hướng dẫn Trong thời hiện đại hiện nay, những thói quen tốt thì cần được phát huy còn những thói quen xấu thì cần được loại bỏ ở mỗi người. Nhất là học sinh hiện nay, những thói quen xấu ấy đang lấn áp thói quen xấu của học sinh. Những thói quen xấu ấy đã làm hư hỏng các học sinh ở các trường học và làm các hành động như: nói tục chữi thề, vô lễ với thầy cô, học hành xa sút, yêu đương nhăn nhít,… Và nặng hơn đó là tệ nạn bạo lực học đường, đánh bạn. Những hành động ấy đáng được lên án vì một số lí do vô lí như nói xấu nhau trên facebook, và yêu đương nhăn nhít nảy sinh ra ghen nên đánh bạn. Những hành động ấy đáng được lên án lập biên bản và xử lí học sinh theo nội quy nhà trường. Ngoài những thói quen xấu ra thì còn có những thói quen có ở một số học sinh. Thói quen tốt được các bạn thể hiện rất đẹp đẽ và đáng khen ngợi như lễ phép với thầy cô, học hành chăm chỉ,thực hiện điều bác hồ dạy, luôn thương yêu ông bà, cha mẹ, thầy cô và giúp đỡ bạn bè,… Những thói quen ấy cần được phát huy, gìn giữ nó cho tốt đẹp và càng ngày càng tốt đẹp hơn. Những học sinh ấy thật là đáng khen ngợi, luôn phẩm chất tốt đẹp.
Instruct In today's modern times, good habits need to be promoted and bad habits need to be eliminated in each person. Especially for students today, those bad habits are overwhelming the bad habits of students. These bad habits have spoiled students in schools and caused actions such as swearing, being disrespectful to teachers, falling behind in studies, falling in love, etc. And what's worse is School violence, beating friends. These actions are worthy of condemnation for a number of unreasonable reasons such as talking bad about each other on Facebook, and being in a relationship that causes jealousy and leads to hitting your friend. These actions deserve to be condemned and recorded and students will be punished according to school rules. In addition to bad habits, there are also habits found in some students. The good habits shown by you are very beautiful and praiseworthy such as being polite to teachers, studying hard, doing what Uncle Ho teaches, always loving grandparents, parents, teachers and helping friends. ,... Those habits need to be promoted, maintained and become better and better. Those students are truly commendable and always have good qualities.
Hướng dẫn Trong cuộc sống em đã từng gặp rất nhiều câu chuyện cảm động. Những câu chuyện đó gợi lên những cảm xúc khó diễn tả từ một người nào đó. Nhưng có lẽ câu chuyện mà em cảm động nhất về người bạn thân của em. Người bạn đó tên là Vân. Gia đình bạn rất nghèo, bạn sống chung với bà và mẹ, bà bạn bị ung thư khá nặng phải chi trả rất nhiều để chữa được bệnh. Nhưng gia đình Vân lại không có đủ điều kiện để chữa trị cho bà. Hằng ngày, mẹ Vân phải đi làm từ sáng đến tối để có thể mua thuốc và lo cho bà và Vân đi học. Bạn ấy thường chia sẻ về chuyện gia đình cho em nghe em cảm thấy rất là tội nghiệp cho mẹ của bạn. Có lần bạn ấy còn nói với mẹ: -“ Mẹ ơi! ” – Mẹ Vân đáp: “ Gì vậy con? ” -“ Mẹ ơi, hay mẹ cho con nghỉ học đi để con có thể đi làm kiếm tiền phụ mẹ và mua thuốc cho bà được không ạ? ” – Mẹ mỉm cười và nói: “ Con à, mẹ biết con muốn đi làm để phụ gia đình nhưng con còn nhỏ chưa hiểu chuyện mấy nhưng mẹ còn khỏe nên có thể lo được cho gia đình và lo cho con ăn học nên con đừng lo về những chuyện đó.” – Vân đáp lại với giọng buồn buồn: “ Dạ …” Tuy vậy nhưng Vân vẫn muốn giúp mẹ. Buổi sáng thì bạn ấy đi học tới chiều về Vân đã đi bán vé số tới tối trước khi mẹ Vân về. Bán xong thì bạn ấy ngồi học bài tới khuya xong mới đi ngủ. Mỗi ngày cứ tiếp tục như thế Vân vẫn đi học vẫn đi bán để giúp mẹ. Rồi có một hôm thì chỗ làm việc của mẹ bạn cho nghỉ một ngày nên tối mẹ bạn được về sớm. Khi về tới nhà thì mẹ Vân đã không thấy bạn tưởng Vân đã qua nhà bạn hàng xóm chơi nên không mấy lo. Lúc đó trời cũng đã tối, mẹ Vân qua nhà bạn hàng xóm mà Vân thường qua chơi thì bạn đó nói là Vân không có qua chơi. Lúc đó mẹ Vân mặt tái mép chạy vội vã đi tìm Vân khắp nơi. Lúc đó Vân bán cũng gần sắp hết nên định là trên đường về nhà sẽ bán hết luôn. Nhưng trên đường đi thì mẹ Vân đã thấy bạn đi bán vé số lúc đó mẹ Vân đã chạy đến chỗ Vân và ôm chặc lấy Vân và khóc rất nhiều. Lúc đó đã hoảng hốt tự hỏi mình là “ Sao mẹ mình tìm được mình và sao biết mình ở đây? ” Vân đã rất sợ vì tưởng là mẹ sẽ la mắng mình nhưng thay vì la mắng thì mẹ Vân lại cảm ơn Vân và nói với Vân không được làm vậy nữa. Thế là hai mẹ con đang trên đường về nhà thì có cái bác hàng xóm gọi điện thoại cho mẹ Vân và bảo: -“ alo, có phải mẹ của bé Vân không?” – Mẹ Vân trả lời: “ Dạ, tôi là mẹ của Vân đây có gì không chị?” – Cô hàng xóm đáp: “ Chị ơi! Chị mau vào bệnh viện nhanh lên bà Vân bị té ngã ở cầu thang bất tỉnh rồi chị mau vào bệnh viện nhanh lên!” Lúc đó mẹ bạn như người không hồn khóc với vẻ mặt đày lo lắng chạy thẳng vào bệnh viện gặp được bà nhưng bác sĩ đã nói rằng:
Instruct In my life, I have encountered many touching stories. Those stories evoke indescribable emotions from someone. But perhaps the story that touches me the most is about my best friend. That friend's name is Van. Your family is very poor, you live with your grandmother and mother, your grandmother has quite severe cancer and has to pay a lot to cure the disease. But Van's family did not have enough conditions to treat her. Every day, Van's mother has to go to work from morning to night to be able to buy medicine and take care of her and Van's schooling. She often shares family stories with me and I feel very sorry for her mother. One time she even told her mother: -" Mommy! ” – Van's mother replied: "What is it, child?" ” - “Mom, can you please let me drop out of school so I can work to earn money for mom and buy medicine for her? ” – Mom smiled and said: "Son, I know you want to work to support the family, but you're still young and don't understand much, but I'm still healthy so I can take care of the family and take care of your education, so don't worry." worry about those things.” – Van replied with a sad voice: “Yes…” However, Van still wants to help her mother. In the morning, she went to school and when she returned in the afternoon, Van sold lottery tickets until the evening before Van's mother returned. After selling, he sat and studied until late at night before going to bed. Every day continues like that, Van still goes to school and sells to help her mother. Then one day, your mother's workplace gave her a day off, so she was able to leave early that night. When she got home, Van's mother didn't see her friend. She thought Van had gone to a neighbor's house to play, so she wasn't worried. At that time, it was already dark. Van's mother went to the neighbor's house that Van often visited, but that friend said that Van did not come over. At that time, Van's mother, her face pale, ran quickly to look for Van everywhere. At that time, Van was almost sold out, so she planned to sell it all on the way home. But on the way, Van's mother saw her friend selling lottery tickets. At that time, Van's mother ran to Van and hugged her tightly and cried a lot. At that time, I panicked and asked myself, "How did my mother find me and how did she know I was here?" ” Van was very scared because she thought her mother would scold her, but instead of scolding her, Van's mother thanked Van and told Van not to do that again. So mother and daughter were on their way home when a neighbor called Van's mother and said: - “Hello, are you Van's mother?” – Van's mother replied: "Yes, I am Van's mother, is that okay?" – The neighbor replied: “Sister! Please go to the hospital quickly. Mrs. Van fell down the stairs and lost consciousness. Please go to the hospital quickly! At that time, your mother was crying like a soulless person with a worried look on her face and ran straight to the hospital to see her, but the doctor said:
Hướng dẫn “Dũng cảm vượt qua mọi bệnh tật các em nhé!”, “Cười lên nhé các em. Mọi nỗi đau sẽ qua, hạnh phúc lại đến”… là những thông điệp yêu thương được viết nắn nót vào nhụy hàng trăm bông hoa hướng dương sáng 11-11. Cô bé Vươn cũng sinh ra và lớn lên như bao người khác. Em được sống trong một gia đình dù không giàu có nhưng cũng được sưởi ấm trong vòng tay của ba mẹ và tất cả mọi người. Nhưng nửa cuộc đời về sau em sẽ phải đối mặt với những khó khăn khi mà cuộc đời em bị chắn ngang bởi một bi kịch năm em 12 tuổi, dường như nó đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời em, đã làm cuộc đời em đảo lộn, mất phương hướng khi mắc phải căn bệnh ung thư máu… Một cái tuổi đáng lẽ ra đã cắp sách đến trường, có thêm một mái nhà, một người mẹ và cũng như được tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thay vào đó em phải đối mặt với cái nỗi đau quằn quại dường như không ai thấu hiểu được. Em đã phải trải qua thời gian dài sống chung với hóa chất, phòng bệnh. Nếu không mắc bệnh, có lẽ giờ này em đang được vui chơi, đùa nghịch cùng bạn bè; được học tập và được nhìn những con điểm chứ không phải nằm trên giường bệnh với bông băng, dây truyền kín người cùng những đau đớn do căn bệnh gây ra… Trở thành bác sỹ, thầy giáo, họa sỹ, cầu thủ bóng đá… có lẽ là những ước muốn rất đỗi bình thường của một đứa trẻ khỏe mạnh. Thế nhưng, với Vươn đang hàng ngày phải “chiến đấu” với căn bệnh ung thư, điều đó dường như là cả một chặng đường dài. Lúc nhỏ, mọi người ở xóm luôn khen em có một mái tóc giống như công chúa, thướt tha và óng ả, khuôn mặt tròn, màu da trắng hồng khiến ai cũng thích. Cả em vẫn luôn tự hào nói với mẹ rằng: “Mẹ này, sau này tóc con sẽ như công chúa tóc dài mẹ nhé!” Và về sau, em đã biết rằng mình sẽ không bao giờ thực hiện được lời nói đó khi tóc của em càng ngày càng ít đi và em đã phải đội mũ của bệnh nhân ung thư. Căn bệnh đã biến em trở thành một con người khác với lúc trước. Mái tóc của em đã mất đi và em đã trở nên mặc cảm với điều đó, em không dám đối diện với tất cả mọi người, giờ đây một cô bé với gương mặt đáng yêu đã trở nên gầy gò, xanh xao biết mấy, một cô bé thân thiện, tự tin, năng động đã bị căn bệnh đánh gục, trở thành một cô bé rụt rè, nhút nhát.
Instruct “Be brave enough to overcome all illnesses!”, “Smile, kids. All pain will pass, happiness will come again"... are messages of love neatly written on the pistils of hundreds of sunflowers on the morning of November 11. Little girl Vuon was born and raised like everyone else. I live in a family that, although not rich, is warmed in the arms of my parents and everyone. But the next half of my life I will have to face difficulties when my life is interrupted by a tragedy when I was 12 years old, it seems to have completely changed my life, changed my life. upset and disoriented when suffering from leukemia... At an age when I should have gone to school, had a home, a mother and also had contact with the outside world, instead I had to face agonizing pain that seemed like no one else. understand. I had to spend a long time living with chemicals and disease prevention. If I didn't get sick, I would probably be having fun and joking with friends right now; being able to study and see the scores instead of lying in a hospital bed with bandages, an IV line covering your body and the pain caused by the disease... Becoming a doctor, teacher, artist, soccer player... are probably very normal desires of a healthy child. However, for Vuon who has to "fight" cancer every day, it seems like a long road. When I was little, everyone in my neighborhood always complimented me on having princess-like hair, smooth and shiny, a round face, and a pinkish white skin color that everyone liked. I still proudly tell my mother: "Mom, in the future my hair will be like a long-haired princess!" And later, I knew that I would never be able to fulfill those words when my hair became less and less and I had to wear a cancer patient's hat. The disease has turned me into a different person than before. My hair has disappeared and I have become self-conscious about it, I don't dare to face everyone, now a little girl with a lovely face has become so thin and pale. A friendly, confident, active girl was defeated by the disease and became a timid and shy girl.
Hướng dẫn Việt Nam có đường bờ biển khá dài, cùng với đó là nhiều vịnh biển đẹp. Em thường được mọi người nhắc đến các thành phố biển có vẻ đẹp tiềm ẩn, lộng lẫy và say mê lòng người. Hè vừa rồi, em được mẹ thưởng cho một chuyến du lịch đến thành phố biển Nha Trang nổi tiếng, nhờ có kết quả học tập tốt ở năm học vừa qua. Trước khi khởi hành, em luôn háo hức và mong đợi chuyến đi chơi thật là vui vẻ và sẽ có them nhiều điều bổ ích để mở rọng kiến thức nhiều hơn. Chuyến đi sắp tới em cảm thấy vô cùng phấn khích khi được lần đầu tiên đi máy bay. Cùng với đó là sự hồi hộp, lo lắng nên trong đêm trước đó em không thể nào ngủ được, em cứ nằm lăn qua lăn lại rồi ngủ lức nà không hay. Sáng hôm sau, em là người dậy sớm nhất. Sau đó cả gia đình cùng đón taxi đến sân bay Tân Sơn Nhất, bắt đầu chuyến du lịch hè thú vị và vui vẻ. Trong khu ngồi chờ, em hỏi mẹ rất nhiều câu hỏi như “Còn bao lâu nữa vậy mẹ?” hay “Ở đó có đẹp không mẹ?”… khiến mẹ vô cùng đau đầu vì nếu trả lời xong câu hỏi này thì sẽ có một câu hỏi nữa xuất hiện. Bỗng nhiên cô phát thanh viên thông báo: “Còn mười lăm phút nữa, chuyến bay từ thành phố Hồ Chí Minh đến Nha Trang sẽ được khởi hành. Mong quý khách nhanh chóng làm thủ tục và lên máy bay đúng giờ”. Chuyến bay kéo dài hơn một giờ đồng hồ và chuẩn bị hạ cánh. Em vui mừng đứng dậy và nhìn quang cảnh xung quanh cùng câu nói: “Tới nơi rồi hả mẹ? Ôi thật tuyệt vời!”. Gia đình em đã thuê một khách sạn đầy đủ tiện nghi gần bờ biển. Sau đó, mọi người cùng nhau ăn sang. Tiếp đó, em đã được đi ra ngoài tắm biển. Tinh thần của mọi người rất tươi và vui vẻ với nhau. Hai bên đường là hang cây xanh phấp phới cùng những hạt sương lấp lánh đọng lại trong đêm. Bầu trời trong xanh cao vút như vô tận. Những đám mây tráng bồng bềnh trôi như cây kẹo bông gòn em từng ăn lúc trước. Chúng tạo thành những hình thù kỳ lạ trông thật ấn tượng. Ánh bang mai buổi sớm chiếu sáng cả một khoảng biển phía xa xa đường chân trời. Những chiếc tàu đánh cá đang trở về cùng với thành quả mà những người ngư dân đã đạt được sau một chuyến đi xa. Không khí ở nơi đây thật dễ chịu và trong lành, không có những khói bụi xe nơi thành phố tấp nập ngày nào. Em có cảm giác rằng nơi đây thật giản dị và cuộc sống thật đơn giản. Hàng dừa xanh nghiêng mình trước gió biển. Tiếng song vỗ rì rào như lời ru của mẹ thiên nhiên dành cho những con người hiền lành, chân chất và thật thà. Trên những đầu ngọn sóng, những tia nắng chiếu sáng lấp lánh như tấm lụa được đính kèm vàng bạc, trang sức đang giới thiệu những giá trị tiềm ẩn của mình. Cùng với sóng, biển còn có them bãi cát vàng mịn óng ánh, nơi con người có thể nghỉ ngơi và thư giản, ngắm nhìn khung cảnh yên bình ở thành phố này. Vẻ đẹp của thành phố quả thật rất xứng đáng với danh hiệu “một trong hai mươi chin vịnh đẹp nhất thế giới”. Khung cảnh trước mắt em còn đẹp hơn những bộ phim được đầu tư mà em đã được xem trước đó. Phía xa đường chân trời có những hòn đảo xanh cao cao như những viên ngọc quý của biển cả. Sau một hồi đắm chìm trước vẻ đẹp của biển, em đã đi xuống chinh phục và tắm biển. Cảm giác thật mát mẻ với dòng nước biển trong xanh. Nếu như tăm hồ thì em sẽ được an toàn thì tắm biển mang lại cho em sự thích thú và muôn được khám phá. Xung quanh có những vị khách du lịch chơi lái canô khiến song lượn mạnh hơn bình thường. Ngoài tắm biển thì còn có rất nhiều trò chơi dưới biển được mọi người lựa chọn như lướt sóng, lái cano, chèo thuyền ván… Trên bờ biển, những cánh diều với rất nhiều hình dáng như batman, đại bàng, siêu nhân, chim,… được mọi người thả bay rất cao. Buổi sang đầu tiên em được sống với biển, được chơi với biển thoải mái và an lành như vậy. Nhịp sống nơi đây khác xa so với nhịp sống sôi động, tấp nập ở thành phố. Những ngày sau đó, em được đi tham quan các địa danh nổi tiếng của thành phố với những di tích lịch sử hào hung như chùa Long Sơn, tháp bà Ponagar… Với những điều thú vị tại thành phố biển mà em đã được tận hưởng, em thấy rằng biển rất đẹp và yên bình. Nơi đó có thể là nơi mình được thư giãn và nghỉ ngơi sau chuỗi ngày học tập vất vả. Em sẽ cố gắng học thật tốt và mong rằng sẽ có cơ hội để trở lại nơi đây, nơi in dấu những kỷ niệm tốt cùng gia đình.
Instruct Vietnam has a quite long coastline, along with many beautiful bays. I often hear people mention coastal cities that have hidden beauty, splendor and enchantment. Last summer, my mother rewarded me with a trip to the famous coastal city of Nha Trang, thanks to my good academic results in the past school year. Before departing, I was always excited and expected the trip to be fun and to have many useful things to expand my knowledge. On my upcoming trip, I feel extremely excited to be able to fly for the first time. Along with that, I was nervous and worried, so the night before I couldn't sleep. I kept tossing and turning and falling asleep without realizing it. The next morning, I was the first to wake up. Then the whole family took a taxi to Tan Son Nhat airport, starting an interesting and fun summer trip. In the waiting area, I asked my mother many questions like "How much longer?" or "Is it beautiful there?"... giving me a huge headache because if I answer this question, another question will appear. Suddenly the announcer announced: "In fifteen minutes, the flight from Ho Chi Minh City to Nha Trang will depart. We hope you will quickly check in and board the flight on time." The flight lasted more than an hour and was about to land. She happily stood up and looked at the surrounding scenery and said: "Are you there yet, Mom?" Wow, that's wonderful!". My family rented a fully equipped hotel near the beach. After that, everyone ate together. Next, I went out to swim in the sea. Everyone's spirit was very bright and happy with each other. On both sides of the road are caves of fluttering green trees and sparkling dew drops lingering in the night. The clear blue sky seemed endless. The fluffy clouds float by like the cotton candy I ate before. They form strange shapes that look impressive. The early morning light illuminates a stretch of sea beyond the horizon. The fishing boats are returning with the results that the fishermen have achieved after a long trip. The air here is pleasant and fresh, without the car fumes and dust of the bustling city. I have the feeling that this place is so simple and life is so simple. Green coconut trees lean against the sea breeze. The murmuring sound of the song is like mother nature's lullaby for gentle, sincere and honest people. On the tips of the waves, the rays of sunlight sparkle like silk sheets attached to gold, silver, and jewelry, introducing their hidden values. Along with the waves, the sea also has smooth, sparkling golden sand, where people can rest and relax, admiring the peaceful scenery in this city. The beauty of the city is truly worthy of the title "one of the twenty-nine most beautiful bays in the world". The scene before my eyes was even more beautiful than the invested movies I had seen before. Far away on the horizon there are tall green islands like precious gems of the sea. After a while of being immersed in the beauty of the sea, I went down to conquer and swim in the sea. It feels so cool with the clear blue sea water. If swimming in the lake will keep you safe, then swimming in the sea brings you excitement and the desire to explore. There were tourists playing canoeing around, causing the waves to glide more powerfully than usual. In addition to swimming, there are also many sea games that people choose from such as surfing, canoeing, paddleboarding... On the beach, people fly kites with many shapes such as Batman, eagle, superhero, bird, etc. very high. The first morning I got to live with the sea, play with it comfortably and peacefully like that. The pace of life here is very different from the vibrant and bustling pace of life in the city. In the following days, I visited famous landmarks of the city with heroic historical relics such as Long Son Pagoda, Ponagar Tower... With the interesting things in the coastal city that I have enjoyed, I find that the sea is very beautiful and peaceful. That place can be a place where I can relax and rest after a series of hard studying days. I will try to study well and hope to have the opportunity to return to this place, where good memories are imprinted with my family.
Hướng dẫn Bài làm Trong thành phố, có rất nhiều chợ nổi tiếng. Nhưng chợ làm tôi ấn tượng nhất là chợ Bến Thành. Nằm ngay ở khu vực trung tâm thành phố, từ lâu chợ Bến Thành đã trở thành biểu tượng của Sài Gòn. Không chỉ thuần túy là nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa mà còn là địa điểm tham quan không thể thiếu cho những chuyến du lịnh đi đến Thành phố Hồ Chí Minh. Chợ Bến thành là một hình ảnh của xóm chợ tạo nên sự ồn ào, tấp nập và đông vui. Mẹ và tôi bắt đầu đi khi sương vẫn còn đọng trên những vòm lá. Nhìn từ xa, khu chợ rất to nhưng khi mẹ và tôi bước vào chợ thấy người qua kẻ lại đông. Chợ Bến Thành có rất nhiếu khu: khu quà lưu niệm, khu thực phẩm,khu ăn uống,… Khu đầu tiên mẹ, tôi đi là khu thực phẩm, khi bước vào gian hàng đầu tiên là các loại rau…: Những quả cà chua đỏ ối căng mọng được xếp vào từng giỏ lớn cạnh những bó hành được dọc xanh ngay ngắn, bó rau muống, rau dền và các loại rau khác xanh bắt mắt nó như được tắm sạch sẽ. Những trái bắp cải chắc nịch xanh non trông thật thích mắt. Gian hàng này được nhiều người tới mua, người nào người nấy cũng lựa chọn cho mình rau củ quả tươi ngon. Bên cạnh là gian hàng bán các loại trái cây: Nào là những quả chuối vàng ruộm, căng mịn, đều đặn như những ngón tay em bé khum khum xòe ra. Qủa bưởi to, tròn giữa màu nắng ấm. Những chùm nho mọng nước để trên những chiếc dĩa xinh xắn, hình như những quả trứng bên trong cũng có nhiều nước.Gian hàng kế bên là nhiều người chen chúc là gian hàng bán cá, tôm,… Nào là cá trê, cá lóc, cá mè quẩy tung bắn nước như nói lên đừng đụng vào tôi, đừng đụng vào tôi để chúng cá không bị làm thịt. Gian hàng tiếp theo là những chú gà, vịt,… Nào là chú vịt lông trắng mượt mà như lông của các diễn viên múa, ngoài ra có những con gà, vịt bị chói hai chân lại chốc chốc lại kêu” cục tác, cạp, cạp” đạp phành phạch inh ỏi làm cho tôi thấy rất tội nghiệp. Mẹ và tôi đi hết khu thưc phẩm, lại qua tiếp khu quà lưu niệm.Khu quà lưu niệm chỉ có bốn gian hàng nhưng gian hàng nào cũng rất dài và nhiều đồ. gian hàng đầu tiên là: móc khóa có hình thú cưng, chữ viết có thể gắn vào cặp hoặc gắn vào chìa khóa. Có những con vật được làm bằng đồng, điêu khắc rất đẹp và bóng, nhìn rất xinh xắn và bắt mắt. gian hàng thứ hai là vòng tay được khắc tên hoặc một chữ nào đó, dây chuyền có rất nhiều loại, dây chuyền phật được làm bằng tay thật khéo léo.
Instruct Assignment In the city, there are many famous markets. But the market that impressed me the most was Ben Thanh market. Located right in the city center, Ben Thanh market has long become a symbol of Saigon. Not only is it purely a place to trade and exchange goods, but it is also an indispensable tourist destination for trips to Ho Chi Minh City. Ben Thanh Market is an image of a market village that creates noise, bustle and crowd. Mom and I started walking while the dew was still on the leaves. From a distance, the market was very big, but when my mother and I entered the market, we saw a large number of people passing by. Ben Thanh Market has many areas: souvenir area, food area, dining area,... The first area my mother and I went to was the food area. When we entered the first stall, there were vegetables...: Plump red tomatoes were arranged in large baskets next to bunches of green, neatly arranged onions. Water spinach, amaranth and other green vegetables are eye-catching, as if they have been bathed cleanly. The young green cabbages look really pleasing to the eye. Many people come to this stall, everyone chooses fresh fruits and vegetables for themselves. Next to it is a stall selling fruits: Bananas are yellow, smooth, and regular like a baby's fingers cupped and spread out. The grapefruit is big and round in the warm sunlight. Bunches of succulent grapes are placed on lovely plates, it seems like the eggs inside also have a lot of water. The next stall with many people crowded is the stall selling fish, shrimp, etc. These are catfish and snakehead fish. , the silver carp splashed around in the water as if saying don't touch me, don't touch me so the fish won't be eaten. The next stall has chickens, ducks, etc. These are ducks with white feathers as smooth as the feathers of dancers. In addition, there are chickens and ducks whose legs are swollen and sometimes make "clucking" sounds. , "scraper" kicked loudly, making me feel very sorry. Mom and I went to the end of the food area, then went to the souvenir area. The souvenir area only had four stalls, but each stall was very long and had many items. The first booth is: keychains with pictures of pets and writing that can be attached to briefcases or keys. There are animals made of bronze, beautifully sculpted and shiny, looking very pretty and eye-catching. The second booth has bracelets engraved with a name or a certain word, necklaces have many types, and Buddha necklaces are skillfully made by hand.
Hướng dẫn Năm nào cũng vậy, mỗi khi em được nghỉ hè hoặc nghỉ lễ ba mẹ đều dành ra vài ngày để về quê thăm ông bà nội. Nhà nội em nằm ngay bên cạnh đồng lúa, mỗi sáng em thức dậy ở nhà nội đều thấy cánh đồng lúa đang vươn mình đón lấy những tia nắng đầu tiên của ngày mới. Cánh đồng lúa quê em rộng mênh mông, trải dài đến khắp mọi phía. Em nghe bà nội kể rằng: Ngày xưa ông nội em chọn mảnh đất sát đồng lúa vì ở đây không khí trong lành, mát mẻ tốt cho sức khỏe của mọi người trong gia đình và khi vào vụ mùa thì cũng rất thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển, cày cuốc,… Vào dịp hè em về thăm quê, cánh đồng lúa quê em đang thì con gái có màu xanh mượt mà, óng ả. Một màu xanh khi có ánh sáng mặt trời chiếu vào trông rất bắt mắt và độc đáo. Ở giữa cánh đồng lúa có một con đường dẫn ra quốc lộ, vì thế ở đây luôn tấp nập người qua lại. Cánh đồng lúa vào buổi sáng và buổi chiều hoàn toàn khác nhau tạo nên những màu sắc khác biệt. Buổi sáng, cánh đồng lúc như uống cạn từng giọt sương cuối cùng còn đọng lại trên lá, còn khi chiều về, cánh đồng lúa chào đón những cơn gió bằng những gợn sóng nhẹ nhàng, nhấp nhô như những dải lụa nhấp nhô trong gió, em có cảm giác nếu chạm vào thì sẽ mềm mượt như sờ lông của một chú mèo con. Khi chiều xuống, có những bạn dẫn trâu ra gặm cỏ, em và những bạn cùng trang lứa với em chơi thả diều và những trò chơi dân gian mà trên thành phố mình ít khi được chơi như: ô ăn quan, nhảy dây,… Dưới nắng hoàng hôn, trên cánh đồng lúa, thỉnh thoảng những chú châu chấu và cào cào thi nhau nhảy xem ai nhảy cao hơn. Xa xa thấp thoáng những chú trâu thung thăng gặm cỏ, chốc chốc lại ngẩng đầu lên lắng nghe tiếng sáo diều bay trên cao. Đám trẻ con chúng em thì nằm vạt ra cỏ mềm, ngửa mặt lên xem những chú chim đang chao liệng.
Instruct Every year, every time I have a summer break or a holiday, my parents spend a few days going back to my hometown to visit my grandparents. My grandmother's house is located right next to the rice fields. Every morning when I wake up at my father's house, I see the rice fields reaching out to catch the first rays of the new day. The rice fields in my hometown are vast, stretching in all directions. I heard my grandmother tell me: In the past, my grandfather chose a piece of land close to a rice field because the air here is fresh and cool, which is good for the health of everyone in the family, and when the harvest comes, it is also very convenient for farming. Traveling, transporting, plowing,... During the summer when I went back to visit my hometown, the rice fields in my hometown were green, smooth and shiny. A blue color when sunlight shines on it looks very eye-catching and unique. In the middle of the rice fields, there is a road leading to the highway, so it is always crowded with people passing by. The rice fields in the morning and afternoon are completely different, creating different colors. In the morning, the fields seem to drink up every last drop of dew left on the leaves, and in the afternoon, the rice fields welcome the wind with gentle ripples, undulating like silk strips undulating in the wind. , I have the feeling that if I touch it, it will be as soft as touching the fur of a kitten. When afternoon falls, there are people who take their buffaloes out to graze, me and my friends of the same age play kite flying and folk games that we rarely get to play in the city such as mandarin umbrellas, jumping rope,... Under the sunset sun, in the rice fields, grasshoppers and locusts sometimes compete to see who can jump higher. In the distance, buffaloes can be seen grazing, occasionally raising their heads to listen to the sound of flutes and kites flying high above. We children lay down on the soft grass, looking up at the flying birds.
Hướng dẫn Bài làm 1: Cuộc sống của chúng ta có muôn vàn điều mới mẻ. Trong đó có những thứ con người cảm thấy vô cùng quý giá, trân trọng, không có bất cứ thứ gì có thể đong đếm hoặc mua bằng tiền được. Đó chính là tình yêu thương, tình yêu thương giúp con người trở nên vui vẻ, hạnh phúc. Một con người có lòng yêu thương chính là người có nhân cách đẹp và luôn hướng đến những việc hoàn mĩ hơn. Vậy tình yêu thương là gì? Tình yêu thương là tình cảm tốt đẹp của con người được xuất phát từ tấm lòng, từ tâm tưởng mỗi người giúp đỡ người khác không mong nhận lại được điều gì. Trong xã hội luôn có những người kém may mắn hơn mình, họ cần sự giúp đỡ từ cộng đồng. Vậy tại sao những người có đầy đủ về hạnh phúc, vật chất lại không thể dang tay giúp đỡ họ? Có thể chúng ta giúp đỡ họ về mặt tinh thần, vật chất nhưng tất cả những điều đó đều phải xuất phát từ trong tim chứ đừng giúp đỡ với ý nghĩ điều đó là hiển nhiên. Chúng ta khi đi đường thường gặp đèn đỏ có thấy cụ bà già yếu đi từng xe hỏi có mua vé số không thì chúng lại phất lờ đi và không quan tâm. Nhưng khi chúng ta mua giùm cụ bà ấy một tờ vé số để cho bà vui, để cho bà có bữa cơm ăn. Khi chúng ta làm vậy chúng ta sẽ thấy thật ý nghĩa và hạnh phúc. Ngoài những người biết quan tâm giúp đỡ người khác thì có những kẻ ích kỷ, nhỏ mọn chỉ biết sống cho riêng mình. Họ vô tâm làm ngơ trước sự khó khăn của người khác. Một số còn đối xử tệ bạc đối với những người đã tốn công sức để nuối dưỡng họ, bỏ mặc những lời kêu thảm thiết của những đứa trẻ ở đầu đường xó chợ. Mở lòng để giúp đỡ mọi người bạn sẽ nhận lại được hạnh phúc trong tâm hồn. Thật tuyệt vời vì trên thế giới còn có những con người đầy tình yêu thương cho người khác. Mỗi chúng ta hãy nuôi dưỡng trong trái tim mình những viên đá ngũ sắc yêu thương để tô vẻ cho đcuộc đời thêm vui vử và hạnh phúc. Bài làm 2: Xung quanh ta, có rất nhiều câu chuyện khiến cho chúng ta cảm động. Nhưng có một câu chuyện khiến cho tôi cảm động. Tôi đã từng thấy một tin tức nói về một chú chó tên là Fushi. Chú chó đó sống với một người phụ nữ ở thành phố Busan ( Hàn Quốc). Người phụ nữ và chú chó đó có một thời gian sống vui vẻ với nhau, nhưng bi kịch đã xảy ra. Từ ba năm trước, chủ của chú chó Fushi đó bị xuất huyết não. Gia đình đã quyết định đưa người phụ nữ vào viện dưỡng lão để bà ấy được chăm sóc tốt hơn và chú chó nhỏ phải ở nhà một mình. Chú chó đáng thương đó ngày qua ngày đều ngồi ở cổng nhà đợi người chủ đó suốt ba năm. Nhưng Fushi lại không hay biết rằng là người chủ của mình sẽ không bao giờ quay lại nữa! Những người hàng xóm của người hàng đó vừa cảm thấy thương xót cho chú đó. Hàng ngày, những người hàng xóm đó luôn đưa thức ăn chó Fushi và kể lại câu chuyện buồn đó cho trung tâm cứu hộ động vật. Chú chó nhỏ đó được kiểm tra sức khoẻ và được biết là chú chó này được tám tuổi, mắc căn bệnh giun đường ruột. Mặc dù được chửa khỏi bệnh nhưng không thể nào chửa được nỗi buồn vì nhớ chủ và xa chủ của mình được. Câu chuyện của chú chó Fushi được lan truyền trên khắp trang mạng xã hội. Đã có một gia đình tới nhận nuôi và đặt tên mới là Sky. Gia đình ấy chắc cũng mong muốn lắp lại khoảng trống và nỗi nhớ về người chủ cũ của Fushi. Qua câu chuyện của chú chó này, đã giúp cho tôi nhận ra là tình cảm đẹp giữa con người và động vật. Xung quanh ta cũng có nhiều câu chuyện cảm động về nhiều động vật. Chúng ta phải chung tay bảo vệ động vật vì nó giống với con người chúng ta. Bài làm 3: Trong con hẻm của một khu phố nhỏ, có 1 người đàn ông quần áo rách rưới, bẩn thỉu, hắn ta là tên tội phạm giết người bị truy nã. Từ xa có 1 xe bán trái cây đi lại gần, hắn nhìn những trái quýt căng tròn, mọng nước trông vô cùng hấp dẫn nhưng trong túi hắn đã không còn tiền. Hắn đi lại gần xe bán trái cây nhưng trong đầu đang phân vân: Nên ăn xin hay ăn cướp. Hắn rút con dao đã thủ sẵn trong mình ra và bước đến gần. Khi vừa đến thì trước mặt hắn xuất hiện 3 trái quýt làm hắn bất ngờ và cất dao vào người mình – Anh ăn đi, tôi không lấy tiền đâu! Hắn do dự nhìn ông chủ sạp trái cây rồi nhận lấy 1 quả quýt bóc ra ăn rồi hắn bỏ đi không nói một lời nào Ba ngày sau, hắn quay lại sạp trái cây. Ông chủ sạp lúc đầu cũng ngạc nhiên nhưng cũng dần hiểu, ông lấy quýt trên sạp mình đưa cho hắn – Cám ơn! Tên tội phạm nhận lấy quýt từ tay ông chủ sạp rồi bỏ đi Lúc dọn dẹp sạp, ông chủ nhìn thấy tờ báo nghĩ chắc của khách nào bỏ quên nên ông mở ra xem thử. Nhưng ông vô cùng ngạc nhiên khi xem đến mục truy nã, người đàn ông trong đó vô cùng giống người đàn ông mà ông đã cho quýt. Ông vô cùng lo sợ không biết nên báo cảnh sát không nhưng do dự một lúc ông liền lấy điện thoại gọi cho cảnh sát. Mấy ngày sau, cảnh sát liên tục mai phục sạp bán trái cây của ông. Mấy ngày sau, hắn lại xuất hiện nhưng trên tay là con dao, đi lại gần hắn buông dao xuống đất, đưa tay lên đầu hàng không chần chừ cảnh sát liền ra bắt hắn – Đợi một lát, tôi muốn nói với ông chủ sạp vài câu! Thấy cảnh sát do dự hắn liền nói: – Trên người tôi không còn hung khí nào hết. Chờ cảnh sát đi lại xe hắn liền nói với ông chủ: – Tờ báo kia là do tôi để cám ơn ông! Hắn mỉm cười rồi đi lại xe
Instruct Exercise 1: Our lives are full of new things. There are things that people feel are extremely valuable and cherished, there is nothing that can be measured or bought with money. That is love, love helps people become cheerful and happy. A loving person is someone who has a beautiful personality and always aims for more perfect things. So what is love? Love is a good human feeling that comes from the heart, from the mind of each person helping others without expecting to receive anything in return. In society, there are always people who are less fortunate than us, they need help from the community. So why can't people who have enough happiness and material things extend a helping hand? We can help them mentally and materially, but all of that must come from the heart, not helping with the thought that it is obvious. When we go on the road, we often encounter red lights and see frail old ladies going from car to car asking if they want to buy lottery tickets, but they ignore them and don't care. But when we buy her a lottery ticket to make her happy, so she can have a meal. When we do that, we will feel meaningful and happy. In addition to those who know how to care and help others, there are selfish and petty people who only know how to live for themselves. They carelessly ignore the difficulties of others. Some also treat the people who have worked hard to care for them poorly, ignoring the pitiful cries of children on the streets and corners of the market. Open your heart to help people and you will receive happiness in your soul. It's wonderful because in the world there are people full of love for others. Let each of us nurture in our hearts the five-colored stones of love to beautify our lives with more joy and happiness. Exercise 2: Around us, there are many stories that touch us. But there is one story that touched me. I once saw a news story about a dog named Fushi. That dog lives with a woman in Busan city (South Korea). The woman and the dog had a happy life together, but tragedy happened. Three years ago, the owner of that dog Fushi suffered from a brain hemorrhage. The family decided to put the woman in a nursing home so she could receive better care and the little dog would have to stay home alone. That poor dog sat at the gate day after day waiting for that owner for three years. But Fushi doesn't know that his master will never come back! That man's neighbors just felt sorry for him. Every day, those neighbors always give Fushi dog food and tell that sad story to the animal rescue center. The little dog was examined for health and found out that the dog was eight years old and had intestinal worms. Even though he was cured of his illness, he could not cure the sadness of missing his master and being far away from his master. The story of Fushi the dog spread across social networks. A family came to adopt her and named her Sky. That family probably also wants to fill the void and nostalgia for Fushi's former owner. Through this dog's story, it helped me realize the beautiful relationship between humans and animals. There are also many touching stories about many animals around us. We must join hands to protect animals because they are similar to us humans. Exercise 3: In the alley of a small neighborhood, there was a man with tattered, dirty clothes. He was a wanted murderer. From afar, a fruit cart approached. He looked at the round, succulent tangerines that looked extremely attractive, but he had no money left in his pocket. He walked closer to the fruit cart but was wondering: Should he beg or rob. He pulled out the knife he had in his possession and stepped closer. As soon as he arrived, 3 tangerines appeared in front of him, surprising him and causing him to put a knife on him – You eat, I won't take money! He hesitantly looked at the fruit stall owner, then took a tangerine, peeled it, ate it, and left without saying a word. Three days later, he returned to the fruit stall. The stall owner was surprised at first but gradually understood, he took the tangerine from his stall and gave it to him. - Thank you! The criminal took the tangerine from the stall owner's hand and left While cleaning up the stall, the boss saw a newspaper, thinking it must have been left by a customer, so he opened it to take a look. But he was extremely surprised when he saw the wanted section, the man in there was extremely similar to the man he gave the tangerine to. He was extremely scared and didn't know if he should call the police, but after hesitating for a moment, he took out his phone and called the police. A few days later, the police repeatedly ambushed his fruit stall. A few days later, he appeared again but with a knife in his hand. As he approached, he dropped the knife on the ground, raised his hand to surrender, and without hesitation, the police came out to arrest him. – Wait a moment, I want to say a few words to the stall owner! Seeing the police hesitate, he immediately said: – There are no weapons left on my body. Waiting for the police to return to the car, he said to the boss: – That newspaper is for me to thank you! He smiled and walked back to the car
Hướng dẫn Ca dao tục ngữ là kho tàng trí tuệ của con người được tích lũy qua nhiều thế hệ. Người xưa thường tổng kết kinh nghiệm của mình bằng những câu nói ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ. Một trong những câu tục ngữ như thế đó là: Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối. Trước hết, hãy hiểu hơn về thể loại văn học dân dan này. Ca dao, tục ngữ là những câu nói nhân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về tự nhiên, lao động, sản xuất, xã hội, được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Kết tinh từ cuộc sống, tục ngữ trở lại bồi đắp thêm cho tâm hồn con người nhiều kinh nghiệm quý báu, làm cho đời sống tinh thần thêm phong phú. Câu tục ngữ trên nghe có vẻ nghịch lí. Bởi vì thời gian của ngày và đêm làm sao có thể dài và ngắn khác nhau được. Nhưng nó lại hết sức đúng đắn theo sự quan sát của con người. Vào tháng năm, mùa hạ, ngày dài hơn đêm. Vào tháng mười, mùa đông, đêm dài hơn ngày. Thứ nhất về kiến thức địa lí: Trái đất thì chuyển động quanh Mặt trời. Trục Trái đất luôn nghiêng về một phía không đổi nên lần lượt từng nửa cầu ngả về phía mặt trời còn nửa kia thì chếch xa. Bởi thế, khí hậu trên trái đất chia làm 4 mùa khác nhau. Hiện tượng tháng năm ngày dài đêm ngắn hay tháng mười ngày ngắn đêm dài cũng được lí giải dựa trên quy luật đó. Sự kì diệu của tự nhiên vẫn còn là điều bí ẩn đối với con người. Càng đi xa vào vũ trụ, con người càng lí giải được nhiều điều mà trước đây vốn là bí mật. Nước ta nàm ở Bắc bán cầu. Từ tháng 3 đến tháng 9, Bắc bán cầu ngả về phía mặt trời. Nghĩa là, Bắc bán cầu nhận nhiều ánh sáng hơn Nam bán cầu. Do vật mùa xuân và mùa hạ ở Bắc bán cầu ngày dài hơn đêm, Nam bán cầu mùa thu đông đêm dài hơn ngày. Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, Nam bán cầu ngả về phía mặt trời. Nghĩa là Nam bán cầu nhận được nhiều ánh sáng hơn Bắc bán cầu.Do vậy, mùa xuân hạ ở nam bán cầu ngày dài hơn đêm, bắc bán cầu mùa thu đông đêm dài hơn ngày. Ở xích đạo quanh năm ngày đêm dài bằng nhau, càng xa xích đạo độ dài ngày đêm càng lệch. Đó là những kiến thức khoa học về những quy luật chuyển biến của thiên nhiên. Còn đối với những người làm nông dân chất phác thì họ chỉ dựa vào những kinh nghiệm đúc kết từ bao nhiêu năm để họ hình dung về những ảnh hưởng của thiên nhiên khí hậu đến với họ như thế nào. Vào khoảng tháng 5 âm lịch, đó là những ngày hè oi bức thì đây cũng là mùa vụ của người nông dân. Người nông dân thường làm việc rất vất vả vào thời điểm này. Sau một ngày dài làm việc vất vả họ chỉ mong mau đến tối để được nghỉ ngơi, thư giãn nhưng chưa nghỉ được bao lâu thì trời lại sáng ( chưa nằm đã sáng ). Vậy là họ phải tiếp tục thức dậy để bắt đầu một ngày làm việc vất vả mới.
Instruct Proverbs and folk songs are a treasure of human wisdom accumulated over many generations. Ancient people often summarized their experiences in short, easy-to-understand and memorable sentences. One such proverb is: The night of May has not yet begun to dawn Dated October was not laughed at. First of all, let's understand more about this genre of folk literature. Folk songs and proverbs are short, stable human sayings with rhythm and images, expressing people's experiences about nature, labor, production, and society, and are used by the people. into daily life, thoughts and speech. Crystallized from life, proverbs return to enrich the human soul with many valuable experiences, enriching spiritual life. The above proverb sounds paradoxical. Because how can the length of day and night be different? But it is extremely correct according to human observation. In May and summer, days are longer than nights. In October, winter, the nights are longer than the days. First about geographical knowledge: The Earth moves around the Sun. The Earth's axis is always tilted to one side, so each half of the sphere leans toward the sun while the other half tilts away. Therefore, the climate on earth is divided into 4 different seasons. The phenomenon of long days and short nights in May or short days and long nights in October is also explained based on that rule. The magic of nature is still a mystery to humans. The further we go into space, the more people can understand things that were previously secret. Our country is in the Northern Hemisphere. From March to September, the Northern Hemisphere tilts toward the sun. That is, the Northern Hemisphere receives more light than the Southern Hemisphere. Because in spring and summer in the Northern Hemisphere, days are longer than nights, in the Southern Hemisphere, in autumn and winter, nights are longer than days. From October to March of the following year, the Southern Hemisphere tilts toward the sun. That means the Southern Hemisphere receives more light than the Northern Hemisphere. Therefore, in spring and summer in the Southern Hemisphere, days are longer than nights, and in the Northern Hemisphere, in autumn and winter, nights are longer than days. At the equator day and night are of equal length all year round, the further away from the equator the length of day and night becomes more different. That is scientific knowledge about the laws of natural change. As for simple farmers, they only rely on experiences gathered over many years to help them visualize the effects of natural climate on them. Around the 5th lunar month, which is the hot summer days, this is also the farmer's season. Farmers often work very hard at this time. After a long day of hard work, they just hope that evening will come soon so they can rest and relax, but before they can rest for long, it will be morning again (it's already morning before they lie down). So they have to continue to wake up to start a new hard working day.
Hướng dẫn Bài làm 1: Con người trở nên mạnh mẽ không phải bởi ở sức khỏe mà là bởi ở ý chí. Ý chí là sức mạnh duy nhất không kiệt quệ và cũng là sức mạnh ai cũng có. Nhiệt tình vĩ đại có thể chiến thắng mọi thứ. Vì vậy, chúng ta có thể nói, một người chỉ cần kiên trì mạnh mẽ theo đuổi không ngừng nghỉ nhất định có thể đạt đến mục đích. Bởi thế, cha ông ta từng khuyên rằng: có chí thì nên, người có ý chí nhát định đạt đến thành công. Ý chí có nghĩa là hoài bão, lí tưởng sống tốt đẹp, là nghị lực kiên cường, sự kiên trì. Ý chí là động lực đưa ta đến thành công. Ai có ý chí, sống có ước mơi, hoài bão lớn lao, lí tưởng cao đẹp, sống vì người khác thì nhất định sẽ đạt được ước nguyện,thành công trong cuộc sống. Câu tực ngữ khẳng định mạnh mẽ vai trò và ý nghĩa to lớn của ý chí trong cuộc sống. Ai có ý chí mạnh mẽ nhất định sẽ thành công. Chứng minh: Sức mạnh của con người là sự tổng hòa của rất nhiều năng lực, trong đó có ý chí. Chỉ có con người mới có thể dựa vào sức manh ý chí để đấu tranh với tự sinh, giành lấy cơ hội sinh tồn. Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường. Điều chúng ta đáng tự hào nhất không phải là không vấp ngã, mà là sau khi vấp ngã phải mạnh mẽ đứng dậy. Khi đối diện với những khó khăn trong cuộc sống, chính nhờ ý chí mà con người không chịu đàu hàng, không chịu khuất phục, mạnh mẽ vươn lên chiến thắng nghịch cảnh. Đó chính là sức mạnh lớn lao giúp con người tiến xa hơn trong tiến trình chinh phục và cải biến thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của mình. Xét về lí lẽ ta thấy, bất cứ việc gì, dù xem ra có vẻ đơn giản nhưng không có chí, không chuyên tâm, không kiên trì thì chưa hẳn đã làm được. Huống gì ở đời, làm việc gì mà không gặp khó khăn. Nếu gặp khó khăn mà chán nản, bỏ dở thì chẳng làm được gì. Người xưa từng nói, việc gì khó khăn nhr thì thành công nhỏ, khó khăn lớn thì thành công lớn, không có khó khăn thì không có thành công. Làm việc dễ thành thì sinh lòng kiêu ngạo. Càng kiêu ngạo càng dễ thất bại. Bởi thế, có thể nói chính khó khăn là điều kiện để rèn luyện ý chí ở con người. Xét về thực tế, xưa nay đã có biết bao tấm gương nêu cao ý chí, nhờ có chí mà thành công. Những người có ý chí đều thành công trong cuộc sống. Hay nói cách khác, những người thành công đều là những người có ý chí. Thành công càng lớn, ý chí càng cao. Nhờ có ý chí phi thường mà Mạc Đĩnh Chi vượt qua điều kiện khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn, kiên trì học tập. Vì không có đèn, Mạc Đĩnh Chi đã học tập dưới ánh sáng của đống rác, ánh sắng của vầng trăng, của đôm đóm mà thành tài, trở thành bậc trí tuệ phi thường, hiếm có, làm rạng rỡ danh tiếng đất Việt. Chính nhờ có ý chí sự kiên trì vĩ đại mà nhà bác học Edison, sau hàng nghìn lần thất bại đã chế tạo ra bóng đèn điện, xe điện và các thiết bị điện khác. Nếu không có Edison, nhân loại sẽ chìm trong bóng tối thêm vài thập kỉ nữa. Những việc làm phi thường luôn khiến người ta phải kinh ngạc. Thành tựu của nó không phải là do may mắn mà chính do ý chí kết tinh mà thành. Thầy Nguyễn Ngọc Kí là người sinh ra đã không lành lặn như bao người khác. Đôi tay thầy bị bại liệt, không thể cầm nắm được. Tưởng rằng cuộc đời nhỏ bé ấy mãi mãi chìm lấp trong vòng xoay nghiệt ngã của số phận. Nhưng nhờ tinh thần ham học và ý chí không chịu khuất phục, thầy đã kiên trì luyện viết chữ bằng đôi chân. Mọt nghịch lí quá lớn khiến không ai dám tin rằng thầy sẽ làm được. Thế nhưng, sau một thời gian, không những thầy đã viết được chữ mà còn viết chữ rất đẹp và trở thành thầy giáo. Cuộc đời và số phận thầy Nguyễn Ngọc kí trở thành nguồn cảm hứng tiếp sức cho những người khác mạnh mẽ vượt lên nghịch cảnh, không chịu đầu hành số phận. Cũng nhờ có ý chí kiên định, niềm tin sắc đá và lòng yêu nước vô bờ bến, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã nuôi dưỡng ước mơ tìm kiếm một con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ra khỏi xiềng xích, áp bức của thực dân. Ba mươi năm bôn ba năm châu bốn bể, chịu không biết bao khổ cực, cuối cùng, Người cũng tìm được lí tưởng cách mạng. Bằng ý chí và sức mạnh của niềm tin, Hồ Chí Minh đã cùng dân tộc kiên cường đấu tranh, đánh đổ Thực dân Pháp, giành lại đất nước và cuộc sống hòa bình. Nơi nào có ý chí, nơi đó có cơ hội, tình yêu và sự sống. bằng ý chí và niềm tin chiến thắng, con người đã từng bước tách mình ra khỏi cuộc sống tự nhiên, tiến lên làm chỉ tự nhiên và ngày càng tiến xa hơn vào vũ trụ bằng sức manhij của khoa học. Có ý chí mới có chiến thắng và thành công. Có thành công mới có sáng tạo. Khát vọng được sáng tạo là khát vọng lớn nhất của loài người. Nó được duy trì và liên tục bồi dưỡng bởi ý chí kiên định, phi thường. Mỗi người chỉ sống có một lần, chỉ có một thời tuổi trẻ, nếu không có ý chí, không cơ ước mơ, hoài bão, lí tưởng cao đẹp, mạnh mẽ để làm một công việc xứng đáng, chẳng phải là đáng tiếc lắm sao. Cho nên có ý chí, hoài bõa lớn lao là điều rất đáng quý, nhưng đáng quý hơn nữa là ở nghị lực và niềm tin chiến thắng, nó đảm bảo cho sự thành công của con người. Bài làm 2: Sống có ước mơ, hoài bão, ý chí và nghị lực mạnh mẽ là điêu không thể thiếu đối với những ai muốn thành đạt. Bởi cuộc sống luôn đặt ra những khó khăn để con người vượt qua và chiến thắng. Không có một thành công nào tự đến với chugns ta mà không cần phải cố gắng. Câu tục ngữ: “Có chí thì nên” khẳng định tầm quan trọng đó. Sống tức là chinh phục những khó khăn trong cuộc đời. Không có ý chí, nghị lực, niềm tin thì không thể nào đạt được thành công. Quả không sai vì khi ta có “chí” (tức là ước mơ, ý chí, nghị lực, sự quyết tâm) thì sẽ làm “nên” (tức là thành công, đạt được thứ mà ta mong muốn). Mỗi người thành công đều để lại cho ta một bài học sâu sắc về cuộc đời, về nghị lược đã được chứng minh qua bao đời. Nói về tục ngữ “Có chí thì nên” không thể nào không nói đến thầy Nguyễn Ngọc Ký. Thầy sinh ra đã bị khuyết tật đôi tay. Nhưng với khát khao được đến trường, được học, thầy đã không đầu hàng số phận. Ngày ngày thầy vẫn miệt mài luyện tập để viết bằng chân. Những nét chữ nghệch ngoặt đầu tiên không khỏi khiến thầy buồn lòng. Không những thế, khi viết bằng chân thầy còn gặp phải muôn vàn khó khăn. Nhiều khi, vì quá cố gắng, đôi chân thầy bị tê cứng, đau nhức, khó kiểm soát bàn chân. Toàn thân ê ẩm. Nhưng với khát khao mãnh liệt cùng với nghị lực phi thường thầy đã không nản lòng mà ngày ngày vẫn chăm chỉ luyện tập. Ngày qua ngày cuối cùng thầy cũng đã viết được bằng chân. Và rồi những nét chữ của người viết bằng tay cũng không thể nào đẹp bằng chữ viết bằng chân của thầy được. Không những vậy bây giờ thầy còn là một nhà giáo ưu tú được bao nhiêu người yêu mến và kính trọng. Ngoài ra không thể nào không kể đến Bác Hồ. Bác là một người được sinh ra trong nước Việt Nam. Với ước muốn sẽ dành lại độc lập cho đất nước nên Bác Hồ đã qua các nước phương Tây xem họ phát triển đất nước của họ như thế nào để Bác về phát triển đất nước của chúng ta. Sau bao nhiêu năm bôn ba ngoài thế giới và gặp muôn vàn những khó khăn nào là thời tiết khắc nghiệt, rào cản ngôn ngữ, sự phân biệt chủng tộc,… Nhưng với sự quyết tâm, kiên cường và lòng yêu nước vô hạn, Bác đã vượt qua những khó khăn đó, để đem lại ánh sáng tri thức về cho dân tộc ta. Và rồi như ước muốn ban đầu, Bác đã giành lại được sự độc lập, dân chủ cho đất nước chúng ta. Nếu không có nghị lực, niềm tin của Bác thì chắc chắn bây giờ nước ta vẫn còn đang bị cái trị bởi bọn giặc độc ác. Vì thế, mỗi người dân Việt Nam luôn yêu mến, kính trọng và biết ơn đến vị lãnh tụ đã trọn đời cống hiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Mỗi nhà khoa học đều lên một tấm gương sáng ngời về ý chí và nghị lược vươn lên. Cuộc đời và sự nghiệp của họ khẳng định mạnh mẽ chân lí “có chí thì nên”. Nhà khoa học Edison nếu không có ý chí, kiên nhẫn, niềm tí thì Edison không thể nào làm ra bóng đèn sau hàng nghìn lần thất bại. Nếu không có đủ ý chí và nghị lực cùng với đức hi sinh vì khoa học, Mary Quyri không đã không đủ dũng cảm để tiến hành các thí nghiệm với chất phóng xạ đậy nguy hiểm và rủi ro, Colompo không mạo hiểm lênh đenh tren biển cả để tìm ra đại lục mới,…
Hướng dẫn Bài làm 1: Con người trở nên mạnh mẽ không phải bởi ở sức khỏe mà là bởi ở ý chí. Ý chí là sức mạnh duy nhất không kiệt quệ và cũng là sức mạnh ai cũng có. Nhiệt tình vĩ đại có thể chiến thắng mọi thứ. Vì vậy, chúng ta có thể nói, một người chỉ cần kiên trì mạnh mẽ theo đuổi không ngừng nghỉ nhất định có thể đạt đến mục đích. Bởi thế, cha ông ta từng khuyên rằng: có chí thì nên, người có ý chí nhát định đạt đến thành công. Ý chí có nghĩa là hoài bão, lí tưởng sống tốt đẹp, là nghị lực kiên cường, sự kiên trì. Ý chí là động lực đưa ta đến thành công. Ai có ý chí, sống có ước mơi, hoài bão lớn lao, lí tưởng cao đẹp, sống vì người khác thì nhất định sẽ đạt được ước nguyện,thành công trong cuộc sống. Câu tực ngữ khẳng định mạnh mẽ vai trò và ý nghĩa to lớn của ý chí trong cuộc sống. Ai có ý chí mạnh mẽ nhất định sẽ thành công. Chứng minh: Sức mạnh của con người là sự tổng hòa của rất nhiều năng lực, trong đó có ý chí. Chỉ có con người mới có thể dựa vào sức manh ý chí để đấu tranh với tự sinh, giành lấy cơ hội sinh tồn. Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường. Điều chúng ta đáng tự hào nhất không phải là không vấp ngã, mà là sau khi vấp ngã phải mạnh mẽ đứng dậy. Khi đối diện với những khó khăn trong cuộc sống, chính nhờ ý chí mà con người không chịu đàu hàng, không chịu khuất phục, mạnh mẽ vươn lên chiến thắng nghịch cảnh. Đó chính là sức mạnh lớn lao giúp con người tiến xa hơn trong tiến trình chinh phục và cải biến thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của mình. Xét về lí lẽ ta thấy, bất cứ việc gì, dù xem ra có vẻ đơn giản nhưng không có chí, không chuyên tâm, không kiên trì thì chưa hẳn đã làm được. Huống gì ở đời, làm việc gì mà không gặp khó khăn. Nếu gặp khó khăn mà chán nản, bỏ dở thì chẳng làm được gì. Người xưa từng nói, việc gì khó khăn nhr thì thành công nhỏ, khó khăn lớn thì thành công lớn, không có khó khăn thì không có thành công. Làm việc dễ thành thì sinh lòng kiêu ngạo. Càng kiêu ngạo càng dễ thất bại. Bởi thế, có thể nói chính khó khăn là điều kiện để rèn luyện ý chí ở con người. Xét về thực tế, xưa nay đã có biết bao tấm gương nêu cao ý chí, nhờ có chí mà thành công. Những người có ý chí đều thành công trong cuộc sống. Hay nói cách khác, những người thành công đều là những người có ý chí. Thành công càng lớn, ý chí càng cao. Nhờ có ý chí phi thường mà Mạc Đĩnh Chi vượt qua điều kiện khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn, kiên trì học tập. Vì không có đèn, Mạc Đĩnh Chi đã học tập dưới ánh sáng của đống rác, ánh sắng của vầng trăng, của đôm đóm mà thành tài, trở thành bậc trí tuệ phi thường, hiếm có, làm rạng rỡ danh tiếng đất Việt. Chính nhờ có ý chí sự kiên trì vĩ đại mà nhà bác học Edison, sau hàng nghìn lần thất bại đã chế tạo ra bóng đèn điện, xe điện và các thiết bị điện khác. Nếu không có Edison, nhân loại sẽ chìm trong bóng tối thêm vài thập kỉ nữa. Những việc làm phi thường luôn khiến người ta phải kinh ngạc. Thành tựu của nó không phải là do may mắn mà chính do ý chí kết tinh mà thành. Thầy Nguyễn Ngọc Kí là người sinh ra đã không lành lặn như bao người khác. Đôi tay thầy bị bại liệt, không thể cầm nắm được. Tưởng rằng cuộc đời nhỏ bé ấy mãi mãi chìm lấp trong vòng xoay nghiệt ngã của số phận. Nhưng nhờ tinh thần ham học và ý chí không chịu khuất phục, thầy đã kiên trì luyện viết chữ bằng đôi chân. Mọt nghịch lí quá lớn khiến không ai dám tin rằng thầy sẽ làm được. Thế nhưng, sau một thời gian, không những thầy đã viết được chữ mà còn viết chữ rất đẹp và trở thành thầy giáo. Cuộc đời và số phận thầy Nguyễn Ngọc kí trở thành nguồn cảm hứng tiếp sức cho những người khác mạnh mẽ vượt lên nghịch cảnh, không chịu đầu hành số phận. Cũng nhờ có ý chí kiên định, niềm tin sắc đá và lòng yêu nước vô bờ bến, người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã nuôi dưỡng ước mơ tìm kiếm một con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ra khỏi xiềng xích, áp bức của thực dân. Ba mươi năm bôn ba năm châu bốn bể, chịu không biết bao khổ cực, cuối cùng, Người cũng tìm được lí tưởng cách mạng. Bằng ý chí và sức mạnh của niềm tin, Hồ Chí Minh đã cùng dân tộc kiên cường đấu tranh, đánh đổ Thực dân Pháp, giành lại đất nước và cuộc sống hòa bình. Nơi nào có ý chí, nơi đó có cơ hội, tình yêu và sự sống. bằng ý chí và niềm tin chiến thắng, con người đã từng bước tách mình ra khỏi cuộc sống tự nhiên, tiến lên làm chỉ tự nhiên và ngày càng tiến xa hơn vào vũ trụ bằng sức manhij của khoa học. Có ý chí mới có chiến thắng và thành công. Có thành công mới có sáng tạo. Khát vọng được sáng tạo là khát vọng lớn nhất của loài người. Nó được duy trì và liên tục bồi dưỡng bởi ý chí kiên định, phi thường. Mỗi người chỉ sống có một lần, chỉ có một thời tuổi trẻ, nếu không có ý chí, không cơ ước mơ, hoài bão, lí tưởng cao đẹp, mạnh mẽ để làm một công việc xứng đáng, chẳng phải là đáng tiếc lắm sao. Cho nên có ý chí, hoài bõa lớn lao là điều rất đáng quý, nhưng đáng quý hơn nữa là ở nghị lực và niềm tin chiến thắng, nó đảm bảo cho sự thành công của con người. Bài làm 2: Sống có ước mơ, hoài bão, ý chí và nghị lực mạnh mẽ là điêu không thể thiếu đối với những ai muốn thành đạt. Bởi cuộc sống luôn đặt ra những khó khăn để con người vượt qua và chiến thắng. Không có một thành công nào tự đến với chugns ta mà không cần phải cố gắng. Câu tục ngữ: “Có chí thì nên” khẳng định tầm quan trọng đó. Sống tức là chinh phục những khó khăn trong cuộc đời. Không có ý chí, nghị lực, niềm tin thì không thể nào đạt được thành công. Quả không sai vì khi ta có “chí” (tức là ước mơ, ý chí, nghị lực, sự quyết tâm) thì sẽ làm “nên” (tức là thành công, đạt được thứ mà ta mong muốn). Mỗi người thành công đều để lại cho ta một bài học sâu sắc về cuộc đời, về nghị lược đã được chứng minh qua bao đời. Nói về tục ngữ “Có chí thì nên” không thể nào không nói đến thầy Nguyễn Ngọc Ký. Thầy sinh ra đã bị khuyết tật đôi tay. Nhưng với khát khao được đến trường, được học, thầy đã không đầu hàng số phận. Ngày ngày thầy vẫn miệt mài luyện tập để viết bằng chân. Những nét chữ nghệch ngoặt đầu tiên không khỏi khiến thầy buồn lòng. Không những thế, khi viết bằng chân thầy còn gặp phải muôn vàn khó khăn. Nhiều khi, vì quá cố gắng, đôi chân thầy bị tê cứng, đau nhức, khó kiểm soát bàn chân. Toàn thân ê ẩm. Nhưng với khát khao mãnh liệt cùng với nghị lực phi thường thầy đã không nản lòng mà ngày ngày vẫn chăm chỉ luyện tập. Ngày qua ngày cuối cùng thầy cũng đã viết được bằng chân. Và rồi những nét chữ của người viết bằng tay cũng không thể nào đẹp bằng chữ viết bằng chân của thầy được. Không những vậy bây giờ thầy còn là một nhà giáo ưu tú được bao nhiêu người yêu mến và kính trọng. Ngoài ra không thể nào không kể đến Bác Hồ. Bác là một người được sinh ra trong nước Việt Nam. Với ước muốn sẽ dành lại độc lập cho đất nước nên Bác Hồ đã qua các nước phương Tây xem họ phát triển đất nước của họ như thế nào để Bác về phát triển đất nước của chúng ta. Sau bao nhiêu năm bôn ba ngoài thế giới và gặp muôn vàn những khó khăn nào là thời tiết khắc nghiệt, rào cản ngôn ngữ, sự phân biệt chủng tộc,… Nhưng với sự quyết tâm, kiên cường và lòng yêu nước vô hạn, Bác đã vượt qua những khó khăn đó, để đem lại ánh sáng tri thức về cho dân tộc ta. Và rồi như ước muốn ban đầu, Bác đã giành lại được sự độc lập, dân chủ cho đất nước chúng ta. Nếu không có nghị lực, niềm tin của Bác thì chắc chắn bây giờ nước ta vẫn còn đang bị cái trị bởi bọn giặc độc ác. Vì thế, mỗi người dân Việt Nam luôn yêu mến, kính trọng và biết ơn đến vị lãnh tụ đã trọn đời cống hiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước. Mỗi nhà khoa học đều lên một tấm gương sáng ngời về ý chí và nghị lược vươn lên. Cuộc đời và sự nghiệp của họ khẳng định mạnh mẽ chân lí “có chí thì nên”. Nhà khoa học Edison nếu không có ý chí, kiên nhẫn, niềm tí thì Edison không thể nào làm ra bóng đèn sau hàng nghìn lần thất bại. Nếu không có đủ ý chí và nghị lực cùng với đức hi sinh vì khoa học, Mary Quyri không đã không đủ dũng cảm để tiến hành các thí nghiệm với chất phóng xạ đậy nguy hiểm và rủi ro, Colompo không mạo hiểm lênh đenh tren biển cả để tìm ra đại lục mới,…
Hướng dẫn Bài làm 1: Ngôn ngữ và chữ viết là sáng tạo đọc đáo của mỗi dân tộc, nó thể hiện sức sống mãnh liệt và bản lĩnh của dân tộc đó. Tiếng Việt là do người Việt ta sáng tạo ra. Tuy được kí âm bằng chữ cái Latinh nhưng thể hiện sâu sắc văn hóa và đời sống tinh thần của người Việt. Một trong những đặc điểm nổi bậc nhất đó là Tiếng Việt ta rất giàu và đẹp. Đặc điểm ấy được cụ thể hóa rõ nét trong văn bản Sự giàu đẹp của Tiếng Việt của tác giải Đặng Thai Mai. Ngôn ngữ là một tổng hòa các giá trị cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Ngôn ngữ được phát triển theo thời gian. người Việt Nam ta ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. So với các ngon ngữ khác trên thế giới, nếu so sánh về mặt chữ viết, Tiếng Việt ta thuộc loại sinh sau đẻ muộn. Chữ Quốc ngữ chính thức được công nhận và sử dụng như một ngôn ngữ chính thống của dân tộc vào giữa thế kỉ 20. Thế nhưng, tiếng nói lại có trước đó hơn 4000 năm. Trải qua lịch sử phát triển lâu dài, Tiếng Việt đã tích lũy được một vốn từ to lớn. bởi thế Tiếng Việt có đầ đủ khả năng để diễn đạt tình cảm tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu càu đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử, đủ sức biểu đạt đời sống sản xuất và đời sống tinh thần đằm thắm, hồn hậu của người Việt. Tiếng Việt có một hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú. Tiếng Việt lại có 6 thanh điệu, 2 âm bình và 4 âm trắc. Do đó, Tiếng Việt có thể kể là một trong những thứ tiếng giàu hình tượng ngữ âm và nhạc tính bậc nhất thế giới. Người nước ngoài khi nghe người Việt ta nói chuyện họ cảm nhận như người Việt ta đang hát bởi ngon ngữ có tính nhạc cao, lúc trầm, lúc bổng, du dương như lời ca tiếng nhạc. Giá trị của tiếng nói cố nhiên không dừng ở chuyện chất nhạc. Cái giàu có thực sự của Tiếng Việt đó là ở cấu tạo từ ngữ phong phú và hình thức biểu đạt tài tình của nó. Trước hết là về mặt từ ngữ, Tiếng Việt không thua kém bất kì ngôn ngữ nào về mặt từ ngữ. Trải qua thời gian, số lượng từ ngữ ngày càng tăng lên nhiều. Ngữ pháp cũng dần trở nên uyển chuyển hơn, chính xác hơn. Có người cho rằng ngữ pháp Tiếng Việt lỏng lẻo, thiếu ổn định. Đặc điểm đó một phần là do sự biến chuyển không ngừng của ngữ pháp Tiếng Việt, một phần là do lối sống hài hòa, thích ứng cao của người Việt ta. Dựa vào đặc tính ngữ âm của bản than mình và năng lực sáng tạo, tiếp nhận của dân tộc, Tiếng Việt đã không ngừng đặt ra những từ mới, những cách nói mới hoặc Việt hóa những từ và những cách nói của các dân tộc anh em và những dân tộc láng giềng, để biểu hiện những khái niệm mới, để thỏa mãn yêu cầu của đời sống văn hóa ngày một phức tạp về mọi mặt kinh tế, chính trị, khoa học, kĩ thuật, văn nghệ,… Bởi thế, Tiếng Việt không ngừng tiếp thu về mình những giá trị tinh hoa của thế gới và ngày một trở nên giàu có hơn. Tiếng Việt ta rất giù bởi do đời sống muôn màu, đời sống tư tưởng, tình cảm dồi đà của dân tộc ta; bởi kinh nghiệm đấu tranh lâu đời và phong phú, kinh nghiệm đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, đấu tranh với thiện nhiên và đấu tranh chống giạc ngoại xâm; bỡi những kinh nghiệm sống của bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước (Phạm văn Đồng) Có thể nói Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Đẹp ở khả năng biểu đạt và hay ở âm điệu. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu, mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Vẻ đẹp ấy có thể thấy qua hệ thống những câu tục ngữ, bài ca dao, câu hò, câu hát đằm thắm mang đậm sắc thái của đời sống người Việt ta mà không nơi nào có được. Vẻ đẹp của tiếng Việt thể hiện sâu sắc trước hết là ở cách dùng từ đặt câu. Từ ngữ tiếng Việt không những phong phú mà còn đa nghĩa đa chiều, tinh tế và sâu sắc vô cùng. Cách nói của người Việt không những mang tính truyền tin mà còn gợi tình, gợi ý. Ngôn ngữ thực sự là một phương tiện dùng để truyền tải đời sống lao động sản xuất lẫn đời sống tình cảm của con người. Tiếng Việt ta đẹp như thiên nhiên, đất nước. Tiếng Việt ta đẹp là bởi tâm hồn người Việt ta rất đẹp. Người Việt yêu thiên nhiên, gửi gắm ở thiên nhiên một tình yêu rất lớn. tiếng Việt ta rất đẹp là bởi đời sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ trước đến nay là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp (Phạm Văn Đồng). Dựa trên những lí lẽ và dãn chứng hùng hồn đó, chúng ta có thể khẳng định rằng: cấu tạo của tiếng Việt, với khả năng thích ứng với hoàn cảnh lịch sử là một chứng cớ rất rõ về sức sống của nó, cũng là một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tọc Việt Nam. Bài làm 2: Tiếng Việt là một niềm tự hào của dân tộc. Sự giàu có và nét đẹp của tiếng Việt trong thật tao nhã và thanh cao. Tiếng việt là nguồn cảm hứng sâu sắc to lớn để viết lên những bài thơ, lời hát truyền đạt tình cảm đến người đọc. Cấu tạo của tiếng Việt rất đẹp và nhẹ nhàng như từng giai điệu âm nhạc. Sự hài hòa về thanh điệu của tiếng Việt đã tạo nên một tuyệt phẩm nhân gian. Từng câu từng chữ Việt được người dân ta nói ra nghe thật êm tai và tuyệt diệu. Dường như tiếng Việt chỉ thật sự hoàn hảo khi được người dân đất Việt nói ra. Giống như đ Những người ngoại quốc sang thăm nước ta đã có dịp nghe tiếng nói của nhân dân ta, họ nói rằng “từng câu nói như tiếng hát êm dịu và sâu lắng nhưng đôi khi mãnh liệt một tình yêu đất nước của dân tộc việt nam. Dù trải qua hàng ngàn năm đấu tranh chống giặc nhưng người dân ta vẫn giữ được cái nét đẹp của tiếng việt. Người ta thường nói: ”Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” quả không sai. Tiếng Việt nhìn đơn giản, quen thuộc như vậy nhưng thật ra rất phong phú. Chúng ta có thể sử dụng tiếng việt trong nhiều việc khác nhau. Dùng tiếng việt cùng với sự khéo léo chọn từ ngữ cho phù hợp để làm một bài văn hay. Dùng tiếng cùng suy nghĩ bằng đầu óc, lí lẽ để thảo luận, đưa ra ý kiến của mình.
Instruct Exercise 1: Language and writing are the unique creations of each nation, expressing the strong vitality and bravery of that nation. Vietnamese was created by Vietnamese people. Although it is written in Latin letters, it deeply represents the culture and spiritual life of the Vietnamese people. One of the most outstanding features is that our Vietnamese language is very rich and beautiful. That characteristic is clearly concretized in the text The Richness and Beauty of Vietnamese by author Dang Thai Mai. Language is a combination of both material and spiritual values. Language develops over time. Vietnamese people today have complete and solid reasons to be proud of their voice. Compared to other languages ​​in the world, in terms of writing, Vietnamese is a late-born language. The National Language was officially recognized and used as the official language of the nation in the mid-20th century. However, the language existed more than 4,000 years earlier. Through a long history of development, Vietnamese has accumulated a large vocabulary. Therefore, Vietnamese has enough ability to express the thoughts and feelings of the Vietnamese people and to satisfy the needs of the country's cultural life through historical periods, capable of expressing production and daily life. live the loving, soulful spirit of the Vietnamese people. Vietnamese has a rich system of vowels and consonants. Vietnamese has 6 tones, 2 neutral tones and 4 trill tones. Therefore, Vietnamese can be said to be one of the languages ​​rich in phonetic and musical images in the world. When foreigners listen to Vietnamese people talk, they feel like Vietnamese people are singing because the language is highly musical, sometimes low, sometimes high, and melodious like the lyrics of music. The value of the voice of course does not stop at the quality of the music. The real richness of Vietnamese is in its rich vocabulary structure and ingenious forms of expression. First of all, in terms of vocabulary, Vietnamese is not inferior to any other language in terms of vocabulary. Over time, the number of words has increased more and more. Grammar also gradually becomes more flexible and precise. Some people think that Vietnamese grammar is loose and unstable. That characteristic is partly due to the constant changes in Vietnamese grammar, partly due to the harmonious and highly adaptive lifestyle of the Vietnamese people. Based on its own phonetic characteristics and the creative and receptive capacity of the nation, Vietnamese has constantly created new words, new ways of speaking or Vietnameseized words and ways of speaking of different ethnic groups. brothers and neighboring peoples, to express new concepts, to satisfy the requirements of increasingly complex cultural life in all aspects of economics, politics, science, technology, arts,... Therefore, Vietnamese constantly absorbs the world's elite values ​​and becomes richer day by day. Our Vietnamese language is very rich because of the colorful life, rich ideological and emotional life of our people; by the long and rich experience of struggle, experience of class struggle, social struggle, struggle with nature and struggle against foreign invaders; by the life experiences of four thousand years of history of building and defending the country (Pham Van Dong) It can be said that Vietnamese has the characteristics of a beautiful language, a good language. Beautiful in expression and good in tone. Saying that means saying: Vietnamese is a language that is harmonious in terms of sound and tone, but also very delicate and flexible in the way it forms sentences. That beauty can be seen through the system of proverbs, folk songs, chants, and loving songs imbued with nuances of Vietnamese life that cannot be found anywhere else. The beauty of Vietnamese is deeply expressed first of all in the way words are used to form sentences. Vietnamese words are not only rich but also multi-faceted, extremely subtle and profound. The way Vietnamese people speak is not only informative but also suggestive and suggestive. Language is truly a means used to convey both the productive working life and the emotional life of people. Our Vietnamese language is as beautiful as nature and country. Our Vietnamese language is beautiful because the soul of Vietnamese people is very beautiful. Vietnamese people love nature and have a great love for nature. Our Vietnamese language is very beautiful because the life and struggle of our people have always been noble, great, meaning very beautiful (Pham Van Dong). Based on those arguments and eloquent evidence, we can affirm that: the structure of the Vietnamese language, with its ability to adapt to historical circumstances, is a very clear proof of its vitality, as well as its vitality. an eloquent expression of the vitality of the Vietnamese people. Exercise 2: Vietnamese is a pride of the nation. The richness and beauty of Vietnamese is truly elegant and noble. Vietnamese is a great source of profound inspiration for writing poems and lyrics that convey emotions to readers. The structure of Vietnamese is very beautiful and gentle like each musical melody. The harmony of the tones of the Vietnamese language has created a masterpiece in the human world. Every Vietnamese sentence and word spoken by our people sounds so soothing and wonderful. It seems that Vietnamese is only truly perfect when spoken by Vietnamese people. Like d Foreigners who visit our country have had the opportunity to hear the voice of our people. They say that "each sentence is like a soft and profound, but sometimes intense, song of love for the country of the Vietnamese people." Despite thousands of years of fighting against invaders, our people still retain the beauty of the Vietnamese language. People often say: "Winds and storms are not equal to Vietnamese grammar" which is not wrong. Vietnamese looks so simple and familiar but is actually very rich. We can use Vietnamese for many different things. Use Vietnamese along with cleverly choosing appropriate words to write a good essay. Use language and think with your mind and reason to discuss and give your opinion.
Hướng dẫn Bài làm: Nhân cách, nhân phẩm, đạo đức của con người trở nên tốt đẹp hay xấu xí có một phần tác động rất lớn từ môi trường sống xung quanh. Bởi thế, nhân dân ta từ xưa có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Ngẫm kĩ, câu nói trên thật đúng đắn và hữu ích. Mực có màu đen, tượng trưng cho những thứ xấu xa, không tốt đẹp. Cũng giống khi ta dính mực ta sẽ bị màu đen của mực dính. Gần mực thì ta cũng bị vấy bẩn như đen của mực. Đèn có ánh sáng, giúp ta nhìn rõ mọi thứ trong bóng tối. Nói cách khác, ánh sáng giúp soi rõ tâm trí mọi người, làm ta có ý thức nhìn nhận những vấn đề xung quanh. Nhu vậy tiếp xúc với đèn, ta sẽ có một cuộc sống tốt đẹp làm mạnh,tích cực. Câu tục ngữ muốn khuyên bảo rằng ta nên tiếp xúc với những gì tốt đẹp và nên tránh xa những cái gì xấu xa trong cuộc sống này để trau dòi, rèn luyện mình trở nên tốt đẹp và hữu ích. Đó là một lời khuyên vô cùng đúng đắn. Trong học tập, không phải tất cả đều là học sinh ngoan hiền. Một vài bạn lười học, ham vui, vô kỉ luật, sa sút trong học tập. Nhưng cũng có bạn chăm học,lễ phép, hoà đồng với bạn bè. Vậy nếu chọn chơi chung với các bạn hư ta sẽ lười biếng giống các bạn và dần sa sút trong học tập. Ngược lại ta học từ các bạn ngoan giỏi, ta sẽ từ từ tiến bộ trong học tập Ở đời không có gì là hoàn hảo. Cả câu tục ngữ này cũng vậy, vẫn có điểm khuyết. Một số người sinh ra trong môi trường xấu nhưng không bị lây nhiễm bởi điều đó. Sống vất vả, hàng ngày đều tiếp xúc với hàng tá vấn nạn xã hội nhưng không sao cả vẫn sống một cuộc sống làm mạnh tích cực.
Instruct Assignment: Whether a person's personality, dignity, or morality becomes good or ugly is largely influenced by the surrounding environment. Therefore, our people have long had a saying: "Near ink, it's black, near lamp, it's bright." Think carefully, the above statement is true and useful. The ink is black, symbolizing evil and not good things. Just like when we get ink, we get black color from the sticky ink. Near ink, we are also stained like black ink. Lamps have light, helping us see things clearly in the dark. In other words, light helps clarify people's minds, making us aware of the problems around us. So when exposed to the light, we will have a good, strong and positive life. The proverb wants to advise that we should come into contact with good things and stay away from bad things in this life to cultivate and train ourselves to become good and useful. That is extremely sound advice. In studying, not all are good students. Some students are lazy to study, want to have fun, are undisciplined, and fall behind in their studies. But there are also people who study hard, are polite, and get along well with friends. So if we choose to hang out with bad friends, we will be lazy like them and gradually decline in our studies. On the contrary, when we learn from good and good friends, we will slowly progress in our studies Nothing in life is perfect. This proverb, too, still has flaws. Some people are born in a bad environment but are not infected by it. Living a hard life, being exposed to dozens of social problems every day, but no matter what, still living a strong and positive life.
Hướng dẫn Bài làm 1: Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước cho dân tộc ta đã hình thành một truyền thống yêu nước quý báo. Truyền thống ấy đã thấm sâu vào trong mọi con người Việt Nam tạo nên một sức mạnh của dân tộc như Bác Hồ đã nói ”Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mọi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nỗi nó kết thành một làng sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Chúng ta đi làm rõ nhận định trên: Truyền thống yêu nước của nhân dân ta như thế nào? Trong công cuộc xây dựng đất nước. Từ bao đời nay, ông cha ta đã khai thiên ra nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Từ một đất nước nghèo nàng lạc hậu và dần dần trở thành một nước có nền kinh tế vững mạnh. Một đất nước giàu mạnh về mọi lịch vật để cùng sánh vai với khác cường quốc năm châu. Và đặc biệt trong công cuộc bảo vệ đất nước chảy qua bao nhiêu cuộc kháng chiến ông cha và bao lớp người đi trước đã hi sinh ko biết bao nhiêu xương máu để giữ vững hoà bình cho dân tộc. Từ khi mới độc lập thì đất nước phải đương đầu vs giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Và bik bao nhiêu thế lực của địch đg trong phá đất nước nhưng chúng ta vẫn kiên quyết đề phòng chiến tranh. Lịch sử đã chứng minh tinh thần chiến đấu, chiến thắng bọn xâm lược. Trong lịch sử phong kiến Lý Thường Kiệt đánh quân Tống trên sông Như Nguyệt. Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Mông nguyên trên sông Bạch Đằng. Lê lợi kháng chiến chống quân Minh trong mười năm. Quang Trung đánh tan quân Thanh, khiến giặc phương Bắc trong nhiều thập kỉ không dám xâm phạm bờ cõi nước ta. Tinh thần yêu nước của nhân dân ta vô cùng to lớn,chính vì tinh thân đoàn kết chung sức vì một lòng với tổ quốc thân yêu đã giữ vững nên độc lập dân tộc thống nhất đất nước. Trong giai đoạn hiện nay thì tinh thần yêu nước ấy vẫn đc giữ vững vừa là bảo vệ vừa là xây dựng đất nước. Bài làm 2: Dân ta có một lòng nông nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của của con người Việt Nam ta. Mỗi khi bị xâm lăng thì tinh thần ấy trở nên sôi nổi và ko chịu khuất phục trước khó khăn,nhũng trái tim của con người yêu nước ko sợ kẻ thù sẽ kết hợp lại làm một và sẽ biến một làn sóng khổng lồ, mạnh mẽ, to lớn, lướt qua bao trở ngại để đem về một niềm hân hoan cho đất nước tổ tiên, con người Việt nam chúng ta. Từ xa xưa nhũng con người đã bộc lộ rõ ràng nhất, kiên cường nhất là tấm gương cũng là anh hùng được dân nhân tôn trọng như bà Trưng, bà Triệu,….. những thời kì đầy chiến tranh tàn khóc. Cũng như bây giờ, tất cả những thời kì kỉ thuật hoá, các dụng cụ, máy móc ngày càng hữu dụng nhung chỉ có mỗi tấm lòng yêu nước của từng người dân vn sẽ ko bao giờ thay đổi và sự biết ơn đến từng người anh hùng của đất nước này Mỗi lãnh thổ, mỗi dân tộc đều có những nguồn gốc phong tục tập quán khác nhau nhưng tinh thần Ìu nước vẫn luôn là một nét đẹp đặc sắc quý báu của con người Việt chúng ta.
Instruct Exercise 1: The history of fighting to build and defend the country for our people has formed a precious patriotic tradition. That tradition has penetrated deeply into every Vietnamese person, creating a national strength as Uncle Ho said, "Our people have a passionate patriotism. That is a precious tradition of our people. From ancient times until now, every time the country is invaded, that spirit boils up to the point that it forms an extremely strong and huge wave, it overcomes all dangers and difficulties, it drowns all traitors. and country robbers". Let's clarify the above statement: What is the patriotic tradition of our people like? In the work of building the country. For many generations, our ancestors created the Democratic Republic of Vietnam. From a poor, backward country, it gradually became a country with a strong economy. A country rich and strong in all aspects of history to stand shoulder to shoulder with other great powers in five continents. And especially in the work of protecting the country, through many resistance wars, our ancestors and predecessors have sacrificed countless lives to maintain peace for the nation. Since independence, the country has had to confront hunger, ignorance, and foreign invaders. And knowing how many enemy forces are destroying the country, we are still determined to prevent war. History has proven the fighting spirit and victory over invaders. In feudal history, Ly Thuong Kiet fought the Song army on Nhu Nguyet River. Tran Hung Dao defeated the Mongol army on the Bach Dang River. Le Loi fought against the Ming army for ten years. Quang Trung defeated the Qing army, making the Northern invaders not dare to violate our country's borders for many decades. The patriotic spirit of our people is extremely great, it is because of the spirit of solidarity and solidarity with our beloved homeland that has maintained national independence and unified the country. In the current period, that patriotic spirit is still maintained to both protect and build the country. Exercise 2: Our people have a patriotic heart. It is a precious tradition of our Vietnamese people. Every time there is an invasion, that spirit becomes excited and refuses to give in to difficulties. The hearts of patriots who are not afraid of enemies will combine into one and will turn into a giant, powerful wave. Strong, big, overcoming many obstacles to bring joy to our ancestral country and Vietnamese people. Since ancient times, people have shown themselves the most clearly and resiliently, being role models and heroes respected by the people such as Ms. Trung, Ms. Trieu,... during times full of brutal wars. Just like now, in all periods of technology, tools and machines are becoming more and more useful, but only the patriotic heart of each Vietnamese person will never change and the gratitude to each person will never change. heroes of this country. Each territory and each nation has different origins and customs, but the spirit of patriotism is always a unique and precious beauty of our Vietnamese people.
Hướng dẫn Bài làm 1: Thật không có lời lẽ nào có thể nói hết những đức tính tốt đẹp của Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc. Không phải là tôn sùng lãnh tụ hay thần tượng hóa cá nhân một cách sáo rỗng, ở Bác Hồ hội tụ một cách hoàn hảo những phẩm chất cao quý vốn có ở con người. Trong đó nổi bậc nhất là đức tính và lối sống giản dị, thanh bạch, hiền hòa mang đậm phong cách Đông phương. Văn bản Lối sống giản dị của Bác Hồ của tác giả Phạm Văn Đồng cho ta hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của Người. Viết về Bác Hồ, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không dùng những lời lẽ to lớn hay cao ngạo, cũng không áp đặt cái nhìn cá nhân khi nói về lãnh tụ – người thầy vĩ đại, người đồng chí thân thiết của ông. Tác phẩm Đức tính giản dị của Bác Hồ lôi cuốn người đọc bằng tư tưởng sâu sắc và giản dị, tình cảm sôi nổi, lời văn trong sáng hấp dẫn. Bằng cách viết như kể chuyện tâm tình, tác giả đã làm nổi bậc đức tính và lối sống vô cùng giản dị của Bác. Bác Hồ giản dị trong đời sống, trong cách ăn, cách ở và cả trong mối quan hệ với mọi người. Cả trong cách viết hay lời nói, người cũng hết sức giản dị và điềm đạm. Qua những chứng cứ cụ thể và nhận xét sâu sắc, thắm đượm tình cảm chân thành người đọc thấy được ở Bác, sự giản dị hòa hợp với đời sống tinh thần phong phú, với tư tưởng và tình cảm cao đẹp. Với một sự nghiệp chính trị lay trời chuyển đất, thế mà đời sóng của Người lại vô cùng giản dị và khiêm tốn. Dù lúc còn trẻ tuổi hay khi đã trở thành Chủ tịch nước, Bác Hồ vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một người chiến sĩ cách mạng, tất cả vì nước, vì dân, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch và tuyệt đẹp. Trước hết là ở trong đời sống, Bác Hồ sống cuộc đời giản dị hiếm có. Đức tính giản dị thể hiện ngay trong bữa cơm, đồ dùng, cái nhà, lối sống. Bác ăn uống hết sức đạm bạc. Mỗi bữa chỉ vài ba món quen thuộc như cá kho, rau luộc, cà muối. Đặc biệt, Người rất thích ăn cà muối. Có lẽ, đó là thói quen và cũng là một cách để nghĩ về quê hương xứ Nghệ với món cà muối nổi tiếng. Khi ăn, Người không bao giờ để rơi vãi hạt cơm nào bởi Người luôn có ý thức quý trọng sức lao động của người nông dân. Ăn xong, cái bát lức nào cũng sạch sẽ, thức ăn còn lại được sắp xếp tươm tất. Nơi ở của Bác là ngôi nhà sàn vẻn vẹn chỉ có vài ba gian phòng. Bao quanh là khu vường với đủ loại cây trồng mà Người đã tự tay trồng lấy. Trong lúc tâm hồn Bác lộng gió thời đại thì căn nhà nhỏ ấy cũng luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn. Một đời sống như vậy thanh bạch và tao nhã biết bao. Đồ dùng của Bác cũng chẳng có gì nhiều. Không bao giờ người xa hoa, lãng phí mua sắm những thứ không cần thiết hoặc chưa cần dùng tới. Ngoài cái vali với vài bộ quần áo, đôi dép cao su, một vài món đồ kỉ niệm, gia sản của Bác không có gì thêm nữa. Trong đời sống của mình, việc gì Bác tự làm được thì không cần người giúp. Cho nên, quanh bác cũng chẳng có nhiều người phục vụ. Bác cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như thế nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khác khổ theo lối nhà tu hành khổ hạnh hay kiểu nhà hiền triết ẩn đạt. Bác luôn đứng giữ cuộc đời, tận lực vì đất nước. Đời sống Bác giản dị, thậm chí là khắc khổ bởi vì Người sống sôi nổi, tinh thần phong phú, tất cả vì cuộc đấu tranh gian khổ và ác liệt của quần chúng nhân dân. Khi cả dân tộc lầm than đói khổ, Người không cho phép mình lãng phí bất kì một tài sản nào của nhân dân, cũng không một mình mà tận hưởng sự sung sướng. Mặc khác, đời sống vật chất giản dị càng hòa hợp với đời sống tinh thần phong phú, với những giá trị tư tưởng, tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất. Bác Hồ còn giản dị trong cả cách viết, cách nói, cách đối xử với mọi người. Khi viết, bác luôn hướng đến đối tượng người đọc, với lời lẽ chân thành, dễ hiểu nhất. Mục đích là làm sao cho dông đảo quần chúng nhân dân hiểu được, nhớ được. Lời bác nói lúc nào cũng nhẹ nhàng, đầm ấm. Chưa bao giờ ta thấy Bác nặng lời chỉ trích một ai. Ai có lỗi thì Bác phê bình, nhắc nhở. Ai có công, Bác khen ngợi, trọng thưởng. Với người lớn tuổi, Bác lễ phép, kính trọng. Với trẻ em, nhi đồng, Bác mến yêu, giáo dục. Với anh em đồng chí, Bác khiêm tốn, tôn trọng và lắng nghe. Trong công việc, lúc nào Bác cũng kiên trì, quyết liệt. Bởi thế mà, nhân cách và đức độ của Người đã trở thành niềm cảm phục, chiếm lĩnh hàng triệu trái tim người Việt Nam từ trước đến giờ. Không những người Việt Nam ta dành cho Bác những lời khen ngợi và tình cảm mến yêu to lớn mà cả anh em đồng chí quốc tế cũng kinh ngạc và cảm phục về cuộc đời và lối sống của Người. Chủ tịch Thượng nghị viện Chi-lê Xan-va-đo A-giên-đê, sau khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tháng 5-1969, nhận xét: “Chưa bao giờ chúng tôi thấy sự giản dị và sự vĩ đại lại kết tinh ở một con người như Hồ Chí Minh”. Ông M.Kha-li của Cộng hòa A-rập thống nhất khẳng định: “Thiên thần thoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cuộc sống giản dị, khiêm tốn”. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác Hồ mãi mãi là một niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đời ấy cao đẹp không những nó vĩ đại mà còn bởi nó rất khiêm nhường và giản dị đến kinh ngạc. Lối sống và nhân cách, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi là ngọn đèn sáng bất diệt soi hướng cho dân tộc Việt Nam bước đến tương lai. Bài làm 2: Bác Hồ là một người cha già đáng kính luôn hiện hữu trong tim của chín mươi ba triệu người dân Việt Nam. Người anh hùng của cả dân tộc, luôn là tấm gương sáng ngời cho chúng ta noi theo. Ở Bác có rất nhiều phẩm chất tốt đẹp, đặc biệt là lối sống giản dị, hòa hợp với thiên nhiên của Bác. Là chủ tịch của một đất nước nhưng lối sống sinh hoạt của Bác lại vô cùng giản dị. Trong bữa ăn của Bác cũng chỉ có vài ba món ăn đạm bạc. Khi ăn Bác không bao giờ để rơi vãi, bát chén lúc nào cũng sạch sẽ và gọn gàng. Điều đó thể hiện sự tôn trọng cùng với lòng biết ơn của Bác đối với những người nông dân vất vả. Ngay cả cách ăn mặc của Bác cũng rất giản dị, gắn liền với Bác luôn là bộ quần áo ka-ki đơn sơ cùng với đôi dép cao su và đồng hồ Liên Xô, thêm một điếu thuốc trên tay luôn là hình ảnh của Bác trong lòng nhân dân.
Instruct Exercise 1: There are truly no words that can express all the good qualities of Uncle Ho - the beloved old father of the nation. Rather than worshiping a leader or idolizing an individual in an empty way, Uncle Ho perfectly converges the noble qualities inherent in humans. The most prominent of these are the virtues and lifestyle of simplicity, purity, and gentleness imbued with Eastern style. The text Uncle Ho's Simple Lifestyle by author Pham Van Dong gives us a better understanding of his beauty. Writing about Uncle Ho, the late Prime Minister Pham Van Dong did not use loud or arrogant words, nor did he impose his personal view when talking about the leader - his great teacher and close comrade. The work The Simplicity of Uncle Ho attracts readers with its profound and simple thoughts, vibrant emotions, and clear and attractive prose. By writing like a sentimental story, the author highlights Uncle Ho's virtues and extremely simple lifestyle. Uncle Ho was simple in life, in the way he ate, in the way he lived, and in his relationships with people. Both in writing and speaking, he is very simple and calm. Through specific evidence and profound comments, imbued with sincere feelings, readers can see that in Uncle Ho, simplicity is in harmony with a rich spiritual life, with noble thoughts and feelings. With a political career that shook heaven and earth, his life was extremely simple and humble. Whether when he was young or when he became President, Uncle Ho still maintained the noble qualities of a revolutionary soldier, doing everything for the country, for the people, for a great cause, pure, transparent and honest. wonderful. First of all, in life, Uncle Ho lived a rare and simple life. The virtue of simplicity is shown in meals, utensils, home, and lifestyle. He ate and drank very frugally. Each meal only has a few familiar dishes such as braised fish, boiled vegetables, and pickled eggplant. In particular, he loves eating pickled eggplant. Perhaps, it is a habit and also a way to think about the homeland of Nghe An with its famous salted eggplant dish. When eating, he never let a grain of rice fall out because he was always conscious of appreciating the labor of farmers. After eating, every bowl is clean, the remaining food is neatly arranged. Uncle Ho's residence is a stilt house with only a few rooms. Surrounded by a garden with all kinds of plants that he planted himself. While Uncle Ho's soul was windy in the times, that small house was also always windy and light, with the scent of garden flowers. How pure and elegant such a life is. Uncle Ho's belongings didn't have much. People should never be extravagant or wasteful by buying unnecessary or unwanted things. Besides a suitcase with a few sets of clothes, rubber sandals, and a few souvenirs, Uncle Ho's estate has nothing else. In my life, I don't need anyone's help if I can do anything myself. Therefore, there are not many people around to serve you. He was so diligent, frugal, honest, righteous, and impartial, but don't misunderstand that he lived a different life in the style of an ascetic or a hidden sage. He always stood by his life and devoted himself to the country. Uncle Ho's life was simple, even austere, because he lived a vibrant, rich spirit, all because of the arduous and fierce struggle of the masses. When the whole nation was suffering from hunger and poverty, he did not allow himself to waste any of the people's assets, nor did he enjoy happiness alone. On the other hand, a simple material life is more in harmony with a rich spiritual life, with the highest ideological, emotional, and spiritual values. Uncle Ho was also simple in the way he wrote, spoke, and treated people. When writing, he always targets the reader, with the most sincere and easy-to-understand words. The goal is to make the masses understand and remember. Your words are always gentle and warm. We have never seen Uncle Ho harshly criticize anyone. If anyone makes a mistake, Uncle Ho will criticize and remind them. Whoever has merit, Uncle Ho praises and rewards. With elders, Uncle Ho was polite and respectful. With children, children, Uncle loves and educates. With his comrades, Uncle Ho was humble, respectful and listened. At work, Uncle Ho was always persistent and determined. Therefore, his personality and virtue have become a source of admiration, capturing the hearts of millions of Vietnamese people up to now. Not only do Vietnamese people give Uncle Ho great praise and love, but also international comrades are surprised and impressed by his life and lifestyle. President of the Chilean Senate, Sanvado Agende, after being received by President Ho Chi Minh in May 1969, commented: "Never before have we seen such simplicity and greatness." crystallizes in a man like Ho Chi Minh." Mr. M. Khali of the United Arab Republic affirmed: "President Ho Chi Minh's myth is a simple, humble life." Uncle Ho's life and great revolutionary career will forever be a great pride of the entire Vietnamese people. That life is beautiful not only because it is great but also because it is very humble and surprisingly simple. Ho Chi Minh's lifestyle, personality, and ideology will forever be an eternal light guiding the Vietnamese people into the future. Exercise 2: Uncle Ho is a respected old father who always exists in the hearts of ninety-three million Vietnamese people. The hero of the entire nation, always a shining example for us to follow. There are many good qualities in Uncle Ho, especially his simple lifestyle, in harmony with nature. As the president of a country, Uncle Ho's lifestyle is extremely simple. In Uncle Ho's meals, there were only a few frugal dishes. When eating, Uncle never let it fall apart, his bowls and dishes were always clean and neat. That shows Uncle Ho's respect and gratitude for the hardworking farmers. Even Uncle Ho's way of dressing is very simple, associated with him is always a simple khaki outfit with rubber sandals and a Soviet watch, and a cigarette in his hand is always the image of Uncle Ho. in the hearts of the people.
Hướng dẫn Trong sản xuất nông nghiệp, không có gì quý trọng hơn tấc đất. Bởi mọi cây trồng, vật nuôi đều phụ thuộc vào đất. Vì vậy, tục ngữ có câu “Tấc đất, tấc vàng” nhằm khẳng định mạnh mẽ giá trị ấy. Một tấc đất cũng quý như một tấc vàng. Câu tục ngữ đề cao ý nghĩa và giá trị của đất đai đối với đời sống con người. Mọi sinh vật sống được đều có mặt đất nâng đỡ. Trong sản xuất, đất đai đóng vai trò quyết định năng suất cây trồng và hậu quả sản xuất. Nếu đất đai cây trồng phát triển thuận lợi cho năng suất cao. Làm cuộc sống no đủ nếu đất xấu, khô cằng cây cối khó phát triển năng suất thấp, đời sống đói kém. Không có đất trồng, con người không có nơi sản xuất, không thể tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người. Ở vai trò này có thể nói đất đai còn quý hơn vàng bạc. Đất đai còn là nơi để con người Việt Nam đất gắn bó như sinh mạng của mình. Đất chứa đựng trong mình biết bao nhiêu cuộc đời, biết bao tình cảm mà con người đã gửi gắm trong nó.
Instruct In agricultural production, nothing is more precious than an inch of land. Because all crops and livestock depend on the soil. Therefore, the proverb has the saying "An inch of land, an inch of gold" to strongly affirm that value. An inch of land is as precious as an inch of gold. The proverb emphasizes the meaning and value of land for human life. Every living thing is supported by the ground. In production, land plays a decisive role in crop productivity and production consequences. If the soil grows favorably, crops will have high yields. Make life full if the soil is bad and dry, plants have difficulty growing, productivity is low, and life is hungry. Without arable land, people have no place to produce and cannot create material wealth to feed people. In this role, it can be said that land is more valuable than gold and silver. Land is also a place where Vietnamese people are attached to the land like their lives. The land contains so many lives, so many emotions that people have put into it.
Hướng dẫn Môi trường sống quyết định đến sự tồn tại của các loài sinh vạt trên trái đất. Nhưng giờ đây, môi trường sống đang bị ô nhiễm nặng nề. Các quốc gia đều đang và đã xử lí nhưng do ý thức của con người không tốt, mỗi ngày tình trạng môi trường ngày càng tăng. Bảo vệ môi trường thiên nhiên, bảo vệ sự sống trên trái đất là nhiệm vụ cấp bách của toàn nhân loại. Môi trường là tất cả những điệu kiện tự nhiên bao quanh và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của con người và các loài sinh vật khác. Môi trường được phân làm hai loại: Môi trường tự nhiên là môi trường có sẵn trong thiên nhiên như rừng núi,sông biển,… Môi trường nhân tạo là môi trường do con người tạo ra để phục vụ cuộc sống như nhà cửa,trường học,bệnh viện,… Môi trường tự nhiên vốn tồn tại và phát triển bền vũng theo các quy luật cuat tự nhiên. Con người cũng là một phần của tự nhiên. Con người khai thác tự nhiên để cung cấp cho đời sống của minh và sống gắn kết chặt chẽ với các quy luật của nó. Thế nhưng, từ khi nền sản xuất của con người phát triển mạnh, môi trường tự nhiên bị khai thác quá mức, làm đảo lộn hoàn toàn các quy luật tự nhiên, tạo ra các thảm họa khủng khiếp. Hàng năm,các nhà máy nguyên tử, hạt nhân, khói bụi từ các xe cộ thải vào không khí làm cho con người bị nhiễm nặng nề. Các loại bệnh liên quan tới đường hô hấp như viêm phổi viêm lao,…bùng phát vượt tầm kiểm soát. Một số thành phố trong đó có cả Việt Nam bị ô nhiễm trầm trọng,hiện tượng sương đen bao phủ mờ sáng là không hiếm. Rừng- nơi sinh sống của các loài thú hoang dã cũng đang bị khai thácđến cạn kiệt. Hàng trăm ngàn héc-ta rừng bị khai thác mỗi năm để lấy gỗ cho xây dựng, khiến cho động vật trong rừng phải di cư sang nơi khác hoặc chết dần chết mòn vì không có nơi ở và thức ăn để sống. Biển cả, sông hồ cũng đang bị ô nhiễm đến mức báo động. Nước thải từ các nhà nhựa,các loại thuốc trong nông nghiệp,.. không kiểm soát chặt chẽ, không kiểm định rõ thải ngay ra sông khiến các dòng sông đen ngòm, bóc mùi hôi nặng. Rác thải dường như đã thống trị nhiều dòng sông tren thế giới. Đất trồng cũng không tránh khỏi ô nhiễm bởi rác, hiện tượng xói mòn, bạc màu và thuốc bảo vệ thực vật. Bầu khí quyển cũng đang phải gánh lấy một lượng khí thải độc hại vô cùng lớn được thải ra hằng ngày bởi các nhà máy sản xuất công nghiệp. Một vài nơi của tầng ô zôn đã bị chọc thủng, bức xạ mặt trời tăng cao, trái đất nóng dần lên đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại của các loài sinh vật trên trái đất. Đó không phải là lời cảnh báo mà là hiện thực đang diễn ra. Một hiện thực tàn khốc đến khủng khiếp. Rất nhiều loài đã bị tuyệt chủng mãi mãi. Rất nhiều loài khác đang phải chống chọi từng ngày với nguy cơ bị xóa sổ. Sự sống trên trái đất đang trở nên bức bách vô cùng, muốn tồn tại, các loài phải dối mặt với những khó khăn đáng sợ. Muốn bảo vệ môi trường sống, bảo vệ lấy sự sống của loài người trên trái đất, hãy dừng ngay những hành động hủy hoại môi trường. Trước hết là tìm cách phục hồi lại những cánh rừng xanh trên trái đất. Bởi rừng xnah chính là lá phổi thanh lọc mọi chất bẩn và chất đọc trong không khí, nó làm trái đất trở nen mát mẻ hơn. Hãy quý trọng những mầm xanh, dù là mầm xanh nhỏ nhất. Bởi mỗi một mầm xanh nhỏ bé ấy góp phần làm nên màu xanh bất tận trên trái đất này. Hãy mạnh mẽ chống lại những kẻ tham lam, vì tiền mà hủy hoại môi trường, hủy hoại sự sống. Dừng ngay việc khai thác tài nguyên khoáng sản và tìm cách thay thế chúng. Dừng ngay việc chặt phá rừng xanh và trồng lại, trồng thêm, trồng nhiều hơn nữa. phủ xanh các cánh rừng là may thêm bộ áo mới, che chắn cuộc sống này và làm dịu lại cơn thịnh nộ của mẹ tự nhiên quyết trừng phạt những hành động xúc phạm của con người. Hãy chung tay giữa gìn vệ sinh môi trường sống trong cộng đồng và xã hội. Trước hết là thực hiện lối sống vệ sinh, văn minh, tiến bộ. Sau đó là kiến quyết lên án, phê phán những hành vi xâm hại hoặc hủy hoại môi trường sống. Giáo dục, giải thích vai trò của môi trường sống đối với đời sống của con người. Tuyên truyền cổ động mọi người xây dựng lối sống trong sạch, vững mạnh. Hạn chế sử dụng những đò vật có thể làm ô nhiễm môi trường. Tìm cách thay thế các vật liệu quý hiếm lấy từ tự nhiên. Tận dụng tối đa giá trị sửu dụng của vật chất. Chỉ dùng những thứ cần thiết, tránh làm lãng phí, thất thoát, tổn hại vật chất trong cuộc sống. Thực hành lối sống tiết kiệm, gắn bó với thiên nhiên.
Instruct The living environment determines the existence of living species on earth. But now, the living environment is heavily polluted. All countries are and have been dealing with it, but due to poor human awareness, the environmental situation is increasing every day. Protecting the natural environment and protecting life on earth is an urgent task for all humanity. Environment is all the natural conditions that surround and directly affect the existence of humans and other living beings. Environment is divided into two types: Natural environment is the environment available in nature such as forests, mountains, rivers, seas, etc. Artificial environment is the environment created by humans to serve life such as houses, schools. school, hospital,... The natural environment exists and develops sustainably according to natural laws. Humans are also part of nature. Humans exploit nature to provide for their lives and live in close association with its laws. However, since human production has thrived, the natural environment has been over-exploited, completely overturning the laws of nature, creating terrible disasters. Every year, atomic and nuclear plants and dust from vehicles are released into the air, making people seriously infected. Diseases related to the respiratory tract such as pneumonia, tuberculosis, etc. are breaking out of control. Some cities, including Vietnam, are seriously polluted; the phenomenon of black fog covering the morning is not rare. Forests - the habitat of wild animals - are also being exploited to the point of exhaustion. Hundreds of thousands of hectares of forest are exploited each year to get wood for construction, causing animals in the forest to migrate to other places or gradually die because they have no place to live and food to live. The sea, rivers and lakes are also being polluted to alarming levels. Wastewater from plastic houses, agricultural drugs, etc., without strict control or inspection, is immediately discharged into the rivers, causing the rivers to turn black and have a strong odor. Garbage seems to have dominated many rivers around the world. Cultivation land cannot avoid being polluted by trash, erosion, discoloration, and pesticides. The atmosphere is also burdened with an extremely large amount of toxic emissions released daily by industrial factories. Some parts of the ozone layer have been punctured, solar radiation has increased, and the earth is warming, directly threatening the existence of creatures on earth. That is not a warning but an ongoing reality. A horrifyingly cruel reality. Many species have become extinct forever. Many other species are struggling every day with the risk of being wiped out. Life on earth is becoming extremely urgent. To survive, species must face terrifying difficulties. If you want to protect the living environment and protect human life on earth, stop immediately actions that destroy the environment. First of all, find a way to restore green forests on earth. Because the forest is the lung that purifies all impurities and toxins in the air, it makes the earth cooler. Appreciate green sprouts, even the smallest green sprouts. Because each of those tiny green sprouts contributes to creating endless green on this earth. Be strong against those who are greedy, because of money they destroy the environment and destroy life. Immediately stop exploiting mineral resources and find ways to replace them. Stop cutting down green forests and replant, plant more, plant more. Greening the forests means sewing a new set of clothes, shielding this life and calming the wrath of mother nature, determined to punish people's offensive actions. Let's join hands to keep the living environment clean in the community and society. First of all, practice a hygienic, civilized and progressive lifestyle. Next is the determination to condemn and criticize acts of harming or destroying the living environment. Educate and explain the role of the living environment in human life. Propagating and encouraging people to build a clean and strong lifestyle. Limit the use of substances that can pollute the environment. Find ways to replace rare materials taken from nature. Make the most of the use value of materials. Use only what is necessary, avoid waste, loss, and material damage in life. Practice a frugal lifestyle and stick with nature.
Hướng dẫn Gửi bạn thân mến của tôi! Tôi muốn nói với bạn rằng nếu không biết quý trọng những gì bạn đang có thì nhất định một ngày nào đó bạn sẽ bị nỗi cô đơn giày vò khủng khiếp. Tôi không mong điều đó sẽ xảy đến nhưng đó sẽ là hậu quả tất yếu nếu bạn không thay đổi từ hôm nay. Đã biết bao năm tháng chúng ta chơi với nhau, chia sẻ những nổi buồn, niềm vui cho nhau. Và chúng ta cũng biết rõ cách ứng xử với mọi người của bạn và của tôi. Tôi đã muốn nói với bạn từ rất lâu rồi. Nhưng tôi còn ngần ngại vì điều đó có thể làm cho bạn tôi tổn thương. Nhân ngày hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ bạn nên tôi sẽ chia sẻ thật lòng về những gì tôi đã trông thấy. Bằng những dòng chữ này và tôi mong bạn sẽ thay đổi và làm cha mẹ bạn cảm thấy hài lòng và tự hào về bạn và cảm thấy hạnh phúc, từ ngày hôm nay đến mãi mãi về sau. “Đi khắp thế gian không ai sánh bằng mẹ. Gian khổ cuộc đời ai nặng gánh hơn cha”. Tôi chắc chắn bạn đã nhiều lần nghe câu nói ấy. “Hiếu thành kính tổ tiên ơn gia độ. Báo ân phụ mẫu nghĩa sinh thành”. Truyền thống ấy vốn đã có từ ngàn đời nay trong văn hóa dân tộc. Và đến bây giờ nó vẫn còn nguyên giá trị. Chắc hẳn bạn cũng suy nghĩ như tôi. Và chắn rằng bạn cũng đã từng nghe: “Vạn cổ tình thâm ơn cúc dục. Thiên thu nghĩa trọng đức sinh thành”. Công ơn sinh thành dưỡng dục ấy sâu nặng nhất vũ trụ này. Không có cha mẹ, không có bạn ở trên đời. Và xin bạn đừng quên: “Còn mẹ đời càng thêm tươi. Con yêu mẹ quá nụ cười bao dung Mẹ nằm chỗ ướt canh sương Chỗ khô lót tiếng ru nhường con thơ”. Ơn sâu nghĩa nặng như trời cao, biển rộng, sông dài. Đừng vì một chút kiêu ngạo hay dỗi hờn mà phụ tấm lòng cao quý ấy. Điều quan trọng và cao quý nhất để trở thành một con người hoàn thiện đó chính là biết vâng lời cha mẹ. Đó không những là bổn phận làm con vẹn tròn đạo hiếu nghĩa mà còn thể hiện và khẳng định phẩm chất con người. Bởi cha là bắt đầu cho nguồn gốc, lý tưởng và tương lai. Mẹ là bắt đầu cho sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Không có cha như căn nhà mất nóc. Không có mẹ cuộc đời vạn khổ đau. Con hiếu thảo thì cha mẹ vui lòng. Nhà hoà thuận muôn việc dễ thành công. Thế mà, ngày hôm qua, bạn đã nặng lời với mẹ, cãi lại lời cha. Không những thế, bạn còn tỏ thái độ thờ ơ đối với những lời khuyên, lời dạy bảo của ba mẹ khi chính bạn là người mắc lỗi. Tôi cảm thấy bức xúc khi bạn xem cái tôi của bạn quá lớn. Bạn luôn làm theo những gì bản thân mình thích và không hề quan tâm đến suy nghĩ của mọi người xung quanh. Điều đó khiến tôi vô cùng thất vọng và không ngừng suy nghĩ về những hành động, thái độ và cách cư xử của bạn thể hiện đối với chính ba mẹ của mình. Và với cả tương lai của bạn nữa. Cha mẹ là người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng chúng ta từ lúc chào đời đến tận bây giờ. Luôn dành cho ta những gì tốt đẹp nhất. Cha mẹ là những thiên thần mà ông trời dã gửi đến cho chúng ta cùng với những món quà vô giá. Mọi Cha mẹ đều sẽ rầy la, khiển trách chúng ta khi chúng ta làm sai, mắc lỗi. Tuy nhiên bên cạnh đó họ luôn cho ta những lời khuyên nhủ để giúp ta sửa chữa lỗi lầm. Không ba mẹ nào lại muốn đánh, la mắng con của mình, một đứa con mà mình đã chợ đợi từng ngày để được nhìn thấy cả. Ơn sinh thành lớn lắm, nó có thể to lớn hơn cả vũ trụ này mà không có thứ gì so sánh được. Cho nên bạn phải biết vâng lời cha mẹ, người đã cho ta mọi thứ trong cuộc đời này. Lỗi lầm nào cũng có thể sửa chữa. Nhưng để làm thay đổi bản tính và cái tôi của một con người là cả một quá trình. Mình có thể hiểu rõ rằng bạn không biết nên bắt đầu từ đâu phải không? Nhưng bạn cứ yên tâm có mình ở đây mình sẽ luôn sát cánh bên bạn và mình sẽ cho bạn những lời khuyên thiết thực nhất có thể. Mình chắc rằng bạn sẽ nghĩ để biết vâng lời ba mẹ sẽ làm những việc rất khó khắn, cực nhọc. Nhưng không, bạn chỉ cần luôn lắng nghe và làm theo lời ba mẹ dạy bảo, khuyên nhủ, luôn tỏ thái độ kính trọng, nói năng lễ phép với ba mẹ của mình. Chỉ cần những hành động đó đã đủ rèn luyện bạn trở thành một người con hiếu thảo, biết vâng lời cha mẹ và có một nhân cách tốt đẹp. Nước biển mênh mông cũng không đong đầy tình mẹ. Mây trời lồng lộng không thể phủ kín công cha. Khi bạn còn là một bào thai nhỏ bé, ai đã mang nặng đẻ đau? Khi bạn cất tiếng khóc chào đời, ai đã mỉm cười hạnh phúc? Lúc bạn chập chững bước đi, ai đã nâng tay đỡ ngã? Còn khi bạn ốm đau, ai đã từng đêm thức trắng? Ai đã dắt bạn đến trường trong buổi học đầu tiên của cuộc đời? Tất cả đều là miễn phí. Đó là vất vả, gian lao bạn có hiểu không? Mỗi ngày bạn lên lớp, ai đã tảo tần kiếm tiền trang trải cuộc sống? Ai đã đi sớm về khuya, khổ nhọc với đời để bạn có áo quần đẹp, sách vở mới? Đó là đức hi sinh bạn có biết không? Ai đã gửi gắm niềm tin tưởng, mong bạn chăm ngoan, học giỏi, được thầy yêu, bạn mến? Ai đã che chở cho bạn khi người khác bắt nạt hay làm khó bạn? Từ những niềm tin nhỏ, ước mơ sẽ cất cánh bay về tương lai. Đó là tin tưởng bạn có biết không? Bạn đã từng làm những điều ấy với ai chưa? Nếu bạn chưa từng làm điều ấy thì bạn không thể cảm nhận hết nỗi vất vả, đức hi sinh và niềm tin tưởng mà cha mẹ đã dành cho bạn, cho riêng bạn mà thôi. Hỡi người bạn thân của tôi! Hãy mau trở về nhà và xin lỗi cha mẹ bạn để được tha thứ. Hay làm vơi đi nỗi khổ đau mà cha mẹ bạn đang chất chứa ở trong lòng vì những hành động bạn đã gây ra. Mọi lỗi lầm của bạn sẽ được tha thứ nếu bạn thành tâm hối lỗi. Xin bạn đừng ngần ngại vì cha mẹ bạn đang chờ đợi điều đó. Ai cũng có lỗi làm trong cuộc đời của mình. Và tha thứ cho con là bản năng của các bậc cha mẹ đó. Vâng lời cha mẹ nghĩa là đáp trả lại tấm lòng mong mỏi ấy. Đừng vô lễ với cha mẹ dù bất kì lí do gì. Hãy làm cho cha mẹ bạn thấy vui lòng và an tâm bằng việc có gắng học tập cho thật tốt. Đừng nghĩ gì xa xôi và đừng cầu mong may mắn sẽ đến khi bạn không chăm lo học tập. Ông trời chỉ mang may mắn đến cho những ai không ngừng cố gắng mà thôi. Hãy bằng nghị lực của bạn mà chiếm lĩnh tri thức càng nhiều càng tốt. Bởi tri thức là sức mạnh, ai có tri thức người đó có sức mạnh.
Instruct Dear my friend! I want to tell you that if you don't know how to appreciate what you have, one day you will definitely be terribly tormented by loneliness. I don't expect that to happen, but it will be the inevitable consequence if you don't change from today. For many years we played together, shared each other's sadness and joy. And we also know clearly how to treat people like you and me. I've wanted to tell you for a long time. But I hesitate because it might hurt my friend. Since today is your mother's birthday, I will honestly share what I saw. With these words and I hope you will change and make your parents feel satisfied and proud of you and feel happy, from today until forever. “Going around the world, no one can compare to my mother. Whose life's hardships are heavier than my father? I'm sure you've heard that saying many times. “Be filial and respectful to your ancestors. Repaying the gratitude to parents for the meaning of birth." That tradition has existed for thousands of years in national culture. And until now it still has its value. Surely you also think like me. And surely you have also heard: "Eternal love is grateful to the chrysanthemum. Thousands of people are born with the meaning of respecting their virtues." The gratitude for birth and upbringing is the deepest in this universe. Without parents, there are no friends in this world. And please don't forget: “And mother, life is even brighter. I love you so much, your tolerant smile Mother lay in a wet place watching the dew The dry place is filled with lullabies for the children." Gratitude is as deep and heavy as the sky is high, the ocean is wide, and the river is long. Don't let down that noble heart because of a little pride or sulking. The most important and noble thing to become a perfect human being is to obey your parents. It is not only the duty of being a filial child but also expressing and affirming human qualities. Because father is the beginning of origin, ideals and future. Mother is the beginning of life, love and happiness. Not having a father is like a house without a roof. Without a mother, life is full of suffering. Filial children make their parents happy. If a house is in harmony, everything will be successful. However, yesterday, you spoke harshly to your mother and argued against your father's words. Not only that, you also show indifference to your parents' advice and teachings when you are the one making a mistake. I feel annoyed when you consider your ego too big. You always do what you like and don't care about what people around you think. That makes me extremely disappointed and I constantly think about the actions, attitudes and behaviors you show towards your own parents. And with your future too. Parents are the people who have created and raised us from birth until now. Always give us the best. Parents are angels that God has sent to us with priceless gifts. All parents will scold and reprimand us when we do wrong or make mistakes. However, besides that, they always give us advice to help us correct our mistakes. No parent wants to hit or scold their child, a child they have waited every day to see. The grace of birth is very great, it can be bigger than this universe without anything being comparable. So you must obey your parents, who have given us everything in this life. Any mistake can be corrected. But to change a person's nature and ego is a process. I can clearly understand that you don't know where to start, right? But you can rest assured that I am here, I will always stand by your side and I will give you the most practical advice possible. I'm sure you will think that in order to obey your parents, you will have to do very difficult and arduous things. But no, you just need to always listen and follow your parents' teachings and advice, always show respect and speak politely to your parents. Just those actions are enough to train you to become a filial child, obey your parents and have a good personality. The vast sea water is not filled with mother's love. The clouds in the sky cannot cover my father's work. When you were a small fetus, who carried the heavy burden of giving birth? When you were born crying, who smiled happily? When you first took a step, who lifted your hand to stop you from falling? And when you are sick, who stays up all night? Who took you to school in the first lesson of your life? All are free. It's hard and arduous, do you understand? Every day you go to class, who is working hard to make money to cover your living? Who went home early and came home late, struggling with life so you could have nice clothes and new books? That's the virtue of sacrifice, do you know? Who has entrusted your trust and hope that you will be obedient, study well, and be loved by your teachers and friends? Who protected you when others bullied or made things difficult for you? From small beliefs, dreams will take off and fly into the future. That's trust, you know? Have you ever done those things with anyone? If you have never done that, you cannot fully feel the hardships, sacrifices and trust that your parents have given you and only you. O my dear friend! Please return home quickly and apologize to your parents to be forgiven. Or ease the pain your parents are harboring in their hearts because of the actions you have caused. All your mistakes will be forgiven if you sincerely repent. Please don't hesitate because your parents are waiting for it. Everyone makes mistakes in their life. And forgiving children is the instinct of those parents. Obeying parents means responding to that desire. Don't be disrespectful to your parents for any reason. Make your parents feel happy and secure by trying your best to study well. Don't think too far away and don't pray for luck to come when you don't take care of your studies. God only brings luck to those who constantly try. Use your energy to gain as much knowledge as possible. Because knowledge is power, whoever has knowledge has power.
Hướng dẫn Ca dao tục ngữ là kho tàng trí tuệ của con người. Mượn những câu nói ngắn gọn, xúc tích, cha ông ta gửi gắm ở trong đó biết bao bài học quý báu. Câu tục ngữ đói cho sạch rách cho thơm khẳng định mạnh mẽ vai trò ấy. Giải thích: Đói và rách là tình cảnh nghèo khó, túng thiếu và đói khát của con người. Sạch và thơm là trạng thái sạch sẽ, thơm tho, biểu hiện của cuộc sống đầy đủ, dư giả của con người. Nghĩa đen: Đói cho sạch rách cho thơm có nghĩa là dù có khó khăn hay đói rách cũng phải giữ gìn cuộc sống sạch sẽ, thom tho đàng hoàng. Nghĩa bóng, dù có khó khắn hay đói rách cũng phải gìn giữ lấy đời sống trong sạch, nhân cách tốt đẹp, phẩm chất cao quý. Không vì vật chất mà đánh mất bản thân mình. Bàn luận: Đó là quan niệm sống tốt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay. Nó là biểu hiện của lối sống trọng tình trọng nghĩa, đề cao nhân cách và phẩm giá của con người. Chính nhân cách, nhân phẩm làm nên giá trị của một con người chứ không phải là tiền bạc vật chất. Vật chất mất đi rồi có thể tìm kiếm lại được còn nhân cách, danh dự con người mất đi thì khó cấy lại được. Trong ngheo khó cũng phải gìn giữ lấy danh dự, nhân cách tốt đẹp. Người có nhân cách tốt đẹp mới được mọi người tôn trọng, yêu quý và giúp đỡ. Người có nhân cách xấu xa, phẩm chất thấp hèn thì dẫu có lắm tiền nhiều của cũng bị xã hội khinh bỉ và lên án. Không ngừng học tập tri thức, nâng cao nhân cách nhân phẩm của mình. Chính học tập là con đường tốt nhất để hình thành và hoàn thiện nhân cách ở mỗi con người. Đề cao lối sống tình nghĩa, không tham lam vụ lợi hay chạy theo đời sống vật chất mà đánh mất tình người. Xây dựng lối sống trong sạch, vững mạnh, văn minh và tiến bộ trong cộng đồng.
Instruct Proverbs and folk songs are a treasure trove of human wisdom. Borrowing short, concise sentences, our ancestors conveyed many valuable lessons in them. The proverb "Hunger until it's clean and torn until it's fragrant strongly affirms that role." Explain: Hunger and poverty are the human condition of poverty, need and hunger. Clean and fragrant is a state of cleanliness and fragrance, a sign of a full and abundant human life. Literally: Hungry until clean and torn until fragrant means that no matter how difficult or hungry you are, you must maintain a clean and dignified life. Figuratively, no matter how difficult or hungry you are, you must maintain a clean life, good character, and noble qualities. Don't lose yourself because of material things. Discuss: That is the concept of a good life of our people for many generations. It is an expression of a lifestyle that respects love and respect, promoting human personality and dignity. It is personality and dignity that make a person's value, not material money. Lost material things can be found again, but lost personality and honor are difficult to restore. In times of hardship, one must also preserve honor and good character. People with good personalities will be respected, loved and helped by everyone. People with bad personalities and low qualities, even if they have a lot of money, are despised and condemned by society. Continuously study knowledge and improve your personality and dignity. Studying is the best way to form and perfect the personality of each person. Promote a lifestyle of gratitude, do not be greedy for personal gain or pursue material life at the expense of human love. Building a clean, strong, civilized and progressive lifestyle in the community.
Hướng dẫn Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến những nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Những mục đích của ngày hôm nay có thể biến những thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai. Bửi thế, nhân dân ta từng khuyên rằng: Có công mài sắt có ngày nên kim. Nếu ta đem một thanh sắt mài mãi, đến lúc đó sẽ thành kim nhỏ. Việc mài sắt thành kim là biểu tượng của lòng kiên trì nhẫn nại sẽ thành công mà nhân dân ta gửi gấm qua câu tục ngữ. Trong lao động sản xuất: nhân dân ta trải qua hàng ngàn năm lao động bền bỉ để tạo dựng đất nước trở nên giàu đẹp như ngày nay. Nhiều nhà khoa học kiên trì nghiên cứu mang lại lợi ích cho cuộc sống như: Trần Đại Nghĩa nhà chế tạo vũ khí phục vụ kháng chiến, Lương Định Của nhà bác học nông nghiệp lại tạo được nhiều giống cây trồng cho năng xuất cao, Tôn Thất Tùng giáo sư y học nổi tiếng về bệnh nhồi máu cơ tim… Trong học tập: có nhiều gương kiên trì học tập đạt kết quả cao như Mạc Đinh Chi, nhà nghèo, hàng ngày phải đi kiếm củi, chỉ học lén qua của lớp hc và tự học dưới ánh đèn đom đóm vạy à đã thành đạt cao. Trương Hán Siêu học giỏi nhưng chữ viết quá xáu làm ảnh hưởng đến kết quả học tập. Ông đã kiên trì tập viết sau trở thành người viết chữ đẹp nổi tiếng. Nuyễn Ngọc Ký đã bị liệt hai tay từ nhỏ nhưng vẫn khao khác đến trường nhờ có sự động viết giúp đở của cha mẹ, thày cô giáo, bạn bè Ký cắng răng tập viết bằng chân, sự kiên trì nhẫn nại đã giúp ông là người có ích cho xã hội Trong chiến đấu: Dân tộc Việt Nam hàng nghìn năm kiên chì chống thiên tai để duy trì cuộc sống và chống cáu tập đoàn phong kiến phương bắc như: Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của đảng dân tộc ta kiên trì chịu đựng bao nhiêu gian khổ hi sinh để tạo nên “một Điện Biên chấn động địa cầu”, kết thúc cuộc kháng chiến chóng thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng mùa xuân 1975 lịch sử đã thống nhất đất nước sau 20 năm bị đế quốc Mĩ chia cắt.
Instruct Today's patience can turn yesterday's frustrations into tomorrow's discoveries. Today's goals can turn yesterday's failures into tomorrow's determination. Because of this, our people once advised that: If you work hard, you will make money one day. If we keep grinding an iron bar, it will eventually become a small needle. Grinding iron into needles is a symbol of perseverance and success, which our people send brocade through proverbs. In productive labor: our people spent thousands of years of persistent labor to build the country into the rich and beautiful it is today. Many scientists persevere in research to bring benefits to life, such as: Tran Dai Nghia, a weapons manufacturer serving the resistance war, and Luong Dinh Cua, an agricultural scientist who created many high-yield plant varieties. Ton That Tung, famous professor of medicine, specializes in myocardial infarction... In studying: there are many examples of persevering in studying and achieving high results such as Mac Dinh Chi, who comes from a poor family, has to collect firewood every day, only sneaks through classes and studies by himself under the light of fireflies. High. Truong Han Sieu studies well, but his handwriting is too shabby, affecting his academic results. He persevered in practicing writing and later became a famous handwriter. Nuyen Ngoc Ky had both arms paralyzed since he was young but still wanted to go to school thanks to the help of his parents, teachers, and friends. Ky gritted his teeth and practiced writing with his feet. His perseverance and patience helped him become a teacher. people who are useful to society In combat: The Vietnamese people have for thousands of years persevered against natural disasters to maintain their lives and against northern feudal groups such as the Han, Song, Yuan, Ming, Qing... to protect the homeland under the leadership of the Vietnamese people. The leadership of our national party persevered and endured many hardships and sacrifices to create "a Dien Bien that shook the world", ending the resistance war against the French colonialists. The historic victory in the spring of 1975 unified the country after 20 years of being divided by the American empire.
Hướng dẫn Hãy chứng minh nhân dân Việt Nam từ sư đến nay luôn sống theo đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” là một trong những bài học đạo lý về lòng biết ơn của nhân dân ta Dân tộc ta từ xưa luôn nhắc nhở nhau sống phải có tinh thần đoàn kết, biết tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong khó khăn hoạn nạn. Bên cạnh đó, làm người rất cần phải biết ơn những ai đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn hay cưu mang, đùm bọc ta trong cuộc sống. Bởi thế, tinh thần uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây vốn đã ăn sâu trong đời sống tinh thần dân tộc bao đời nay, trở thành truyền thống tốt đẹp còn truyền lại cho đến bây giờ. Hiểu theo nghĩa đen: là khi ta ăn một trái cây nào đó thì ta phải nhớ đén người trồng cây đó. Hiểu theo nghĩa bóng: ăn là được đoán nhận, được thùa hưởng một điều tốt đẹp. Quả là kết quả, thành quả lao động tốt đẹp ở đời. Câu tục ngữ khuyên ta khi được hưởng hạnh phúc tốt đẹp thì ta phải biết ơn người đem lại hạnh phúc cho chúng ta. Trong gia đình: con cháu phải piết ơn, kính trọng ông bà, cha mẹ, biết đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục bằng hành động cụ thể. Dân tộc ta còn có tập tục thờ cúng ông bà tổ tiên đó cũng là biểu tượng của lòng biết ơn Ngoài xã hội: Nhân dân ta luon nhớ ơn người lao động đã tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người để xã hội tồn tại, phát triển. Dân tộc ta thường tổ chức ngày lễ Hùng Vương đẻ nhớ ơn người có công dựng nước. Những việt làm như: xây dựng tượng đài, lập đèn thờ các anh hùng kiệt sĩ, tổ chức kĩ niệm ngày sinh, ngày mất của các bật anh hùng ỉ niệm các ngày chiến thắng, ngày lễ….đều là biểu hiện cho lòng biết ơn của nhân dân ta
Instruct Let's prove that the Vietnamese people from monks to present have always lived by the morality "When eating fruit, remember the person who planted the tree", "Drinking water, remember the source" is one of the moral lessons of gratitude of our people. Our people have always reminded each other to live in a spirit of solidarity, to know how to love each other, and to help each other in difficulties and tribulations. Besides, as humans, we need to be grateful to those who have helped us, shared our difficulties, or supported and supported us in life. Therefore, the spirit of drinking water, remember the source, when eating fruit, remember the person who planted the tree has been deeply ingrained in the nation's spiritual life for many generations, becoming a good tradition that has been passed down until now. Literally understood: when we eat a certain fruit, we must remember the person who planted that tree. Understand figuratively: eating means being recognized, enjoying something good. What a result, a good result of labor in life. The proverb advises us that when we enjoy good happiness, we must be grateful to the person who brings us happiness. In the family: children and grandchildren must be grateful and respectful to grandparents and parents, and know how to repay the debt of birth and upbringing with concrete actions. Our people also have the custom of worshiping ancestors, which is also a symbol of gratitude In society: Our people are always grateful to the workers who create material wealth to feed people so that society can survive and develop. Our people often celebrate Hung King's Day to pay tribute to those who have contributed to building the country. Activities such as: building monuments, setting up lamps to worship great heroes, organizing celebrations of the birth and death days of heroes, commemorating victory days, holidays... are all expressions of the heart. gratitude of our people
Hướng dẫn Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây là biểu hiện của đạo lí ghi nhớ và đền đáp công ơn của người khác. Đó là đạo lí tốt đẹp của dân tộc, được gìn giữ và kế thừa qua mấy nghìn năm, trở thành lối ứng xử văn hóa của dân tộc từ xưa đến nay. Uống và ăn có nghĩa là nhận lấy, là hưởng thụ vật chất của con người. Nguồn và kẻ trồng cây là nhân tố tạo ra vaath chất. Nhớ là ghi khắc vào trong lòng để sau đó là biến thành hành động có ý nghĩa. Bằng hình ảnh ẩn dụ hết sức gần gũi, bình dị, qua câu tcuj ngữ, người xưa muốn khuyên nhủ rằng khi thụ hưởng một giá trị, một thành quả lao động nào đó ta phải biết ghi nhớ và đền đáp công ơn người đã tạo ra và để lại cho ta thành quả lao động ấy. Đạo lí về lòng biết ơn được nhân dân ta thể hiện rõ trong đời sống hàng ngày. Trong gia đình: nhân dân ta phải piết ơn, kính trọng ông bà, cha mẹ, biết đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục bằng. Truyền thống tốt đẹp ấy còn được thể hiện qua nhiều câu ca dao tục ngữ, trở thành bài học trong hệ thống các luân lí xã hội. Ghi nhớ công ơn ông bà, cha mẹ là nghĩa cử thành kính, thiêng liêng nhất của con người: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Ngó lên nuộc lạt mái nhà Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu. Tri ân công ơn dạy dỗ của thầy cô là đạo lí cao quý của dân tộc từ nghìn đời nay: Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy Gắng công mà học có ngày thành danh Con ơi ghi nhớ lời này Công cha, nghĩa mẹ, công thầy chớ quên Gươm vàng rớt xuống hồ Tây Công cha cũng trọng, nghĩa thầy cũng sâu Dân tộc ta còn có tập tục thờ cúng ông bà, tổ tiên và những người đã khuất. Tục tồn thờ thần phật, cung kính đối với các vị thần bảo trợ, che chở con người trong cuộc sống. Dù đó chỉ có ý nghĩa tâm linh nhưng lại là biểu tượng của lòng biết ơn. Ngoài xã hội: Nhân dân ta luôn nhớ ơn người lao động đã tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người để xã hội tồn tại, phát triển. Dân tộc ta thường tổ chức ngày lễ Hùng Vương để nhớ ơn người có công dựng nước. Nhân dân ta đã cụ thể đạo lí ấy bằng những hành động ý nghĩa. Xây dựng tượng đài, lập đền thờ các anh hùng kiệt sĩ. Tổ chức kỉ niệm trọng thể ngày sinh, ngày mất của các bật anh hùng. Kỉ niệm các ngày chiến thắng, ngày lễ. Tôn vinh những người có đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tất cả đều là biểu hiện cho lòng biết ơn của nhân dân ta
Instruct When drinking water, remember the source, when eating fruit, remember the person who planted the tree is a manifestation of the morality of remembering and repaying the kindness of others. That is the good morality of the nation, preserved and inherited over thousands of years, becoming the nation's cultural behavior from past to present. Drinking and eating means receiving, enjoying human material things. The source and the grower are the factors that create substance. Remembering is engraving it in your heart and then turning it into meaningful action. With a very close and simple metaphor, through the saying, the ancients wanted to advise that when enjoying a value, a certain result of labor, we must know how to remember and repay the kindness of the person who gave us the gift. create and leave us the fruits of that labor. The morality of gratitude is clearly demonstrated by our people in daily life. In the family: our people must be grateful, respect grandparents and parents, and know how to repay the kindness of birth and upbringing. That beautiful tradition is also expressed through many folk songs and proverbs, becoming lessons in the system of social ethics. Remembering the gratitude of grandparents and parents is the most respectful and sacred gesture of a human being: The father as a mountain Motherhood is like water flowing from a source. Looking up at the roof How much I miss my grandparents. Gratitude for teachers' teachings is a noble moral of the nation for thousands of generations: Father's food, mother's clothes, teacher's words Study hard and one day you will become famous My child, remember this Don't forget the merits of your father, mother, and teacher The golden sword fell into West Lake A father's work is also important, and a teacher's kindness is also deep Our people also have the custom of worshiping grandparents, ancestors and the deceased. The custom of worshiping Buddha and reverence for the gods who protect and protect people in life. Although it only has a spiritual meaning, it is a symbol of gratitude. In society: Our people are always grateful to the workers who create material wealth to feed people so that society can survive and develop. Our people often celebrate Hung King's Day to remember the people who contributed to building the country. Our people have demonstrated that morality through meaningful actions. Build monuments and temples to honor heroes and heroes. Organize solemn commemorations of the birth and death anniversaries of heroes. Celebrate victory days and holidays. Honoring those who have made great contributions to the cause of building and protecting the country. All are expressions of our people's gratitude
Hướng dẫn Sức mạnh không đến từ thể chất. Sức mạnh chỉ đến từ ý chí bất khuất. Chính ý chí làm nên sức mạnh chinh phục vĩ đại của con người. Bởi thế, người xưa từng khẳng định: có chí thì nên. Có ý chí thì việc khó nào cũng vượt qua được và vươn tới thành công. “Chí” là ý chí, là lý tưởng, hoài bảo, nghị luật, sự kiên trì của con người. Ý chí là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần của con người trong cuộc sống hoặc khi đói diện với nghịch cảnh. “Nên” là những kết quả, thành quả tốt đẹp ở đời. Câu tục ngữ khuyên con người cần có ý chí nghị lực,quyết tâm để thực hiện những ước muốn đẻ thành công trong mọi việc. Quả thực có chí thì làm nên. Thực tế đã chứng minh rằng con người mạnh mẽ bởi con người có ý chí và hành động theo ý chí. Không có ý chí, nghị lực thì không làm được gì cả. Ý chí giúp cho con người vượt qua mọi trở ngại để làm được moi đều như ý muốn. Để tạo ra bóng đèn điện chiếu sáng, Edison đã có hơn một nghìn lần thất bại. Phải trải qua biết bao gian khổ và hi sinh, Cristoforo Colombo mới tìm ra được châu Mĩ. Hơn 30 năm bôn ba khắp thế giới, chịu không biết bao nhiêu khổ cực, Bác Hồ mới tìm thấy con đường giải phóng dân tộc. Và phải hơn 30 năm nữa kể từ ngày Đảng cộng sản Việt nam ra đời và lãnh đạo đấu tranh, kẻ thù mới bị đánh bại, đất nước ta mới được giải phóng. Nếu không có ý chí thì những thành tựu kì vĩ ấy đã không thể có được. Cuộc sống luôn đặt ra những khó khăn, thử thách buộc chúng ta phải vượt qua. Nếu có đủ ý chí, ta sẽ làm được điều mình mong muốn. Nếu không có ý chí, không những ta dễ bị khuất phục và thất bại trong cuộc sống mà còn có thể gây hại cho xã hội vì lòng ham muốn của mình. Người không có ý chí dễ đầu hàng trước khó khăn, thử thách và thường đưa ra những lí do để né tránh.
Instruct Strength does not come from physicality. Strength comes only from indomitable will. It is the will that creates man's great conquering power. Therefore, the ancients once asserted: where there is a will, there is a way. If you have the will, you can overcome any difficulty and achieve success. “Will” is the will, the ideal, the ambition, the law, the perseverance of a person. Willpower is a symbol of human spiritual strength in life or when facing adversity. “Should” is good results and achievements in life. The proverb advises people to have willpower and determination to fulfill their desires to succeed in everything. Truly, where there is a will, there is a way. Reality has proven that people are strong because they have will and act according to their will. Without will and energy, you cannot do anything. Willpower helps people overcome all obstacles to do everything they want. To create an electric light bulb, Edison had more than a thousand failures. It took many hardships and sacrifices for Cristoforo Columbus to discover America. After more than 30 years of traveling around the world, enduring countless hardships, Uncle Ho found the path to national liberation. And it took more than 30 years from the day the Communist Party of Vietnam was born and led the struggle for the enemy to be defeated and our country to be liberated. Without will, those wonderful achievements would not have been possible. Life always poses difficulties and challenges that force us to overcome. If we have enough will, we can do what we want. If we do not have will, not only can we easily be overcome and fail in life, but we can also harm society because of our desires. People without willpower easily surrender to difficulties and challenges and often give reasons to avoid them.
Hướng dẫn Học tập là một nhu cầu thiết yếu đối với con người. Học tập giúp con người hiểu biết nhiều điều, làm được nhiều việc có ích cho đời. Học tập là con đường vô cùng gian khó. Muốn học tập thành công đòi hỏi ở người học rất nhiều công sức và thời gian. Vì thế học tập là việc cần phải được thực hiện khi còn trẻ và duy trì xuyên suốt cuộc đời như người xưa từng dạy: nếu khi còn trẻ t không chịu học tập thì lớn lên sẽ chẳng làm được việc gì có ích. Đối với lứa tuổi học sinh, học tập là tiếp thu kiến thức dưới sự hướng dẫn của thầy cô giáo. Đồng thời phải biết mở rộng việc học trong đời sống hàng ngày bằng năng lực quan sát và nghiên cứu. Vừa học tập theo chương trình giáo dục của quốc gia vừa tự học để mở nhận thức, nâmg cao năng lực và tích lũy kinh nghiệm làm việc, kinh nghiệm sống. Do đó muốn học phải hỏi, muốn giỏi phải thực hành. Đó là con đường chiếm lĩnh tri thức chắc chắn, hiệu quả và bền vững nhất. Kiến thức của nhân loại mênh mông như biển ca còn sự hiểu biết của mổi người chúng ta chỉ như giọt nước. Trong khi phát minh của nhân loại không ngừng ra đời làm sao chúng ta học hết được. Vì thế việc học tập phải là suốt đời mới giúp cho con người không bị lạc hậu, không bị rớt lại phía sau đà phát triển của xã hội nhân loại Có người nói rằng nỗi vất vả trong việc học chỉ là tạm thời, rồi nó cũng sẽ qua đi còn nỗi khổ đau vì không chịu học sẽ là mãi mãi. Nghĩa là công việc học tập sẽ mang lại cho chúng ta thành công, niềm vui và hạnh phúc. Bởi thế, không nên vì một khó khăn, trở ngại nào đó mà rời bỏ nhiệm vụ học tập trong cuộc sống này. Nhỏ không học lớn lên làm việc gì cũng thấy khó, bản thân sẽ sống trong nghèo khổ, khổ đau. Thực tế những ai không chăm lo học tập từ nhỏ, lơn lên thường trở thành người kém cỏi, chẳng làm nên việc gì lớn lao. Còn những người có tinh thần học hỏi đều dễ thành công trong cuộc sống Trần Minh “khố chuối” rất nghèo nhưng có ý chí quyết tâm học tập mà sau đổ trạng nguyên. Châu Trí quét lá đa, đốt láy ánh sáng để học sau đỗ đàu kì thi Hương. Nguyễn Hiền chăn trâu học ké con nhà phú ông đổ trạng nguyên. Tiến sĩ sĩ nông học Lương Định Của đã lao động cần cù lai tạo giống lúa mới. Ông bà Mari curie đã chiết lọc 8 tấn quặng để khám phá ra các nguyên tố. Lu-I-Pasteur nhà bác học pháp thế kĩ XIX bỏ cả đời mình nguyên cứu vi sinh vât để tìm ra vắc xin chủng ngừa bệnh dại cho con người. Hiện nay có rất nhiều tấm gương học tập của các học sinh, sinh viên nghèo. Và còn biết bao con người khác đang từng ngày, từng giờ vượt qua khó khăn, trở ngại của hoàn cảnh để học tập, tiếp nhận ánh sáng của tri thức. Họ biết vươn lên từ sự bất hạnh, nghèo khó để có tiền học tập. Không ít người đã thành tài làm được nhiều việc có ích cho đời. Mọi thứ đều sẽ nhàm chán, trừ học hỏi. Việc cố gắng học hỏi đem lại cho ta nhiều phương tiện, phương cách hay sự lựa chọn thay vì cam chịu số phận “không biết gì”. Ngay trong thời đại công nghệ như ngày nay, không học tập không thể hòa nhập được với cuộc sống của mọi người. Học tập đem đến cho con người biết bao hạnh phúc. Đến người bị liệt cả hai tay như thày giáo Nguyễn Ngọc Ký tập viết bằng chân để học tập. Bởi thầy biết chắc rằng chỉ có học tập mới có thể giúp thầy vượt len trên số phận và sống một cuộc sống có ý nghĩa.
Instruct Learning is an essential need for humans. Studying helps people understand many things and do many useful things in life. Studying is an extremely difficult path. Successful learning requires a lot of effort and time from the learner. Therefore, learning is something that needs to be done when young and maintained throughout life as the ancients taught: if you do not study when you are young, you will not be able to do anything useful when you grow up. For students, learning is acquiring knowledge under the guidance of teachers. At the same time, we must know how to expand learning in daily life with the ability to observe and research. Study according to the national education program while self-studying to open awareness, improve capacity and accumulate work and life experience. Therefore, if you want to learn, you must ask, and if you want to be good, you must practice. That is the surest, most effective and sustainable way to gain knowledge. Human knowledge is as vast as a sea of ​​songs and the understanding of each of us is just like a drop of water. While human inventions are constantly being created, how can we learn them all? Therefore, learning must be lifelong to help people not become outdated or fall behind the development momentum of human society. Some people say that the difficulty of studying is only temporary, it will pass, and the pain of not studying will be forever. That means studying will bring us success, joy and happiness. Therefore, one should not abandon the task of learning in this life because of any difficulty or obstacle. Children who don't learn and grow up will find it difficult to do anything, and they will live in poverty and suffering. In fact, those who do not take care of their studies from a young age often become incompetent people when they grow up and cannot do anything great. Those who have the spirit of learning can easily succeed in life. Tran Minh "banana loincloth" is very poor but has the will and determination to study and later falls in love. Chau Tri swept banyan leaves and lit a light to study and pass the Huong exam. Nguyen Hien herds buffaloes and learns from the rich man's son. Agronomist Dr. Luong Dinh Cua worked diligently to breed new rice varieties. Mr. and Mrs. Mari curie extracted 8 tons of ore to discover the elements. Lu-I-Pasteur, a 19th century French scientist, spent his life researching microorganisms to find a rabies vaccine for humans. Currently, there are many learning examples of poor students. And there are countless other people who, day by day, hour by hour, overcome difficulties and obstacles in their circumstances to study and receive the light of knowledge. They know how to rise from misfortune and poverty to have money to study. Many people have become talented and done many useful things in life. Everything will be boring, except learning. Trying to learn gives us many means, ways or choices instead of resigning ourselves to the fate of "knowing nothing". Even in today's technological age, without studying, it is impossible to integrate into everyone's life. Learning brings people so much happiness. Even people with both arms paralyzed, like teacher Nguyen Ngoc Ky, practice writing with their feet to study. Because I know for sure that only studying can help me overcome fate and live a meaningful life.
Hướng dẫn Ca dao tục ngữ là những bài học, những lời khuyên có ích cho mọi người trong cuộc sống. Một trong những bài học đó là tinh thần đoàn kết. Đoàn kết là một yếu tố không thể thiếu được trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế từ ngàn xưa, nhân dân ta khuyên nhủ nhau qua câu tục ngữ: “Một cây làm chẳn lên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Ý nghĩa của câu tục ngữ: “một cây” là biểu tượng cho số ít, số đơn lẽ không thể tạo nên rừng núi. “Ba cây” là biểu tượng cho số nhiều, nếu cả cây và núi hợp lại sẽ tạo nên rừng rậm, núi cao. Trong cuộc sống của con người cũng vậy, nếu chỉ có một mình thì khó có thể tạo nên sức mạnh để làm nên việc lớn. Nhưng nếu biết đoàn kết nhiều người thì sẽ tạo nên sức mạnh để làm được những việc to lớn vĩ đại. Câu tục ngữ khuyên mọi người phải đoàn kết tạo nên sức mạnh để làm được nhiều việc. Tinh thần đoàn kết tạo sức mạnh lớn lao của nhân dân ta biểu hiện trong cuộc sống: Đoàn kết trong lao động sản xuất: Đoàn kết giúp nhân dân ta trong công cuộc khai thác thiên nhiên tạo dựng cuộc sống lập nên xóm làng, thành phố rộng lớn. Đoàn kết mở ra các vùng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi, các xí nghiệp, nhà máy, các hệ thống đê điều, công trình thủy lợi, thủy điện…Sự đoàn kết gắn bó của dân tộc đang làm cho đất nước có một nền công nông nghiệp hiện đại, khoa hoạc kỹ thật phát triển để đất nước ngày càng giàu mạnh. Đoàn kết trong chiến đấu: lịch sử giữ nước của dân tộc ta là lịch sử toàn dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm. Trong lịch sử hàng ngàn năm chống phong kiến phương Bắc, với tinh thần đoàn kết nhân dân đã phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, dẹp Thanh giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc. Dân tộc ta đã phát huy tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng để làm nên cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược, làm nên cuộc cách mạng tháng 8/ 1945 đi đến thành công. Kết quả ấy khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta đã tạo nên chiên thắng Địện Biên Phủ chấn động cả địa cầu kết thúc 9 năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chấm dứt hoàn toàn ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp ở nước ta. Toàn dân ta lại đoàn kết tiêu diệt lũ bè tay sai và đé quốc Mỹ chia cắt đát nước để dành lại độc lập, thống nhất tổ quốc mà thành công rực rở nhất là chiến thắng mùa xuân 1975 đưa dân tộc ta bước vào kỉ nguyên mới. Đoàn kết trong các lĩnh vực khác: trải qua 4000 năm toàn dân tộc ta đoàn kết tạo nên các công trình văn hóa thể hiện truyền thống bản sắc dân tộc. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật của dân tọc với đóng góp nhiều người, nhiều thế hệ để tạo ra sự phong phú đọc đáo mang nét riêng của người Việt Nam. Hiện nay, toàn dân cùng tham gia đấu tranh chống tham nhũng, tiêu quốc, bảo vệ môi trường “sạch và xanh”. Cả dân tộc ta đồng lòng nhất trí cùng nhau xây dựng nước Việt Nam hòa bình độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Instruct Proverbs and folk songs are lessons and useful advice for everyone in life. One of those lessons is the spirit of solidarity. Solidarity is an indispensable element in our lives. Therefore, since ancient times, our people have advised each other through the proverb: "A tree makes even mountains. Three trees gathered together form a high mountain. The meaning of the proverb: "one tree" is a symbol of the few, a single number cannot create forests and mountains. "Three trees" is a symbol of the plural, if both trees and mountains combine, they will create dense forests and high mountains. In human life, too, if you are alone, it is difficult to create the strength to do great things. But if we know how to unite many people, we will create the strength to do great things. The proverb advises people to unite to create strength to do many things. The spirit of solidarity creates great strength for our people, manifested in life: Solidarity in productive labor: Solidarity helps our people in exploiting nature to create a life to establish large villages and cities. Solidarity opens up lands for cultivation, livestock farming, enterprises, factories, dyke systems, irrigation works, hydroelectricity... The solidarity of the nation is making the country have A modern agricultural industry and science and technology are developed to make the country increasingly rich and strong. Solidarity in battle: the history of our nation's defense of the country is the history of all people united against foreign invaders. In the thousands of years of anti-feudal history in the North, with the spirit of people's solidarity, they destroyed the Song Dynasty, pacified the Nguyen Dynasty, destroyed the Ming Dynasty, and suppressed the Qing Dynasty, maintaining national independence and sovereignty. Our nation has promoted the spirit of solidarity and unity under the leadership of the Party to wage a holy resistance war against the French colonialists, making the August 1945 revolution a success. That result gave birth to the Democratic Republic of Vietnam. The united strength of our people created the victory of Dien Bien Phu that shook the whole world, ending 9 long years of resistance against the French colonial invaders, completely ending more than 80 years of French colonial domination. in our country. All our people united to destroy the henchmen and force the American nation to divide the country to regain independence and unify the motherland, with the most brilliant success being the victory in the spring of 1975, bringing our nation into the new era. new. Solidarity in other fields: for 4,000 years, our entire nation has united to create cultural works that demonstrate the traditions of national identity. The cultural and artistic activities of the people with the contributions of many people and many generations create a unique richness that is uniquely Vietnamese. Currently, all people join together to fight against corruption, destroy the country, and protect a "clean and green" environment. Our entire nation unanimously agreed to work together to build a peaceful, independent, democratic and strong Vietnam.
Hướng dẫn Mở bài: Sự khác biệt lớn nhất giữa người chiến thắng và kẻ thất bai không phải là sức mạnh, tiền bạc hay địa vị mà chính là ở ý chí. Ý chí mạnh mẽ biến việc khó thành việc dễ, giúp ta kiên trì, bền bỉ trong công việc, vượt qua khó khăn, trở ngại đễ đạt đến thành công. Bởi thế, người xưa từng nói: có chí thì nên. Có chí nghĩa là có nghị lực, quyết tâm vững vàng. Nên là đạt đến thắng lợi, thành công trong cuộc sống. Câu tục ngữ ngắn gọn bốn từ, tách hai vế sóng đôi bổ sung kết hợp chặt chẽ như một quy luật tất yếu trong cuộc sống. Khẳng định đức kiên nhẫn, bền bỉ chính là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công. Đó là một lời khuyên, một bài học mà ông cha ta đã đúc kết từ ngàn đời truyền lại cho con cháu hôm nay và mai sau; có sự kiên trì nhẫn nại và quyết tâm lớn thì việc gì cũng làm xong cho dù việc đó rất khó khăn tưởng như khong thể hoàn thành được. Con người ai cũng muốn thành đạt trong công việc nhưng con đường dẫn đến thành công thường quanh co khúc khuỷu và lắm chông gai. Bác Hồ đã từng khẳng địn trong bài “Đi đường” “Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” Xác định được điều ấy, chúng ta mới xác định được lập trường, lí tưởng,mục đích và trước mọi chông gai khó khăn chúng ta mới sẵn sàng đối phó. Và lúc này ý chí, nghị lực là yếu tố đầu tiên giúp ta vượt qua trở ngại đó. Ý chí sẽ giúp chúng ta có niềm tin vững vàng và chính trong gian khổ đó, trước những tai ương gặp trong đời sẽ nung rèn tinh thần chúng ta thêm hăng hái, tôi luyện hơn. “Ví không có cảnh đông tàn Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân Nghĩ mình trong bước gian truân Tai ương, rèn luyện tinh thần thêm hăng” Trong lịch sử chống ngoại xâm, dân tộc ra phải thực hiện chiến lược trường kì kháng chiến. Từ cuộc kháng chiến chống quân Minh của vua tôi nhà Lê cách đây mấy thế kỉ, cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của nhân dân ta. Tất cả đều thể hiện ý chí, nghị lực kiên cường, bất khuất của dân tộc. Cuối cùng chính sự bền chí ấy dẫn chúng ta đến thắng lợi vẻ vang giữ vững chủ quyền độc lập dân tộc. Trong cuộc sống lao động sản xuất, nhân dân ta cũng thể hiện đức tính kiên nhẫn, bền bĩ đáng khâm phục. Nhìn con đê sừng sững ven sông Hồng, chúng ta mới hiểu được tổ tiên ta đã kiên trì, nhẫn nại tới mức nào để tạo bức tường thành ngăn dòng nước luc bảo vệ mùa màng Cuộc đời của Bác Hồ là những dẫn chứng hùng hồn về sự kiên trì nhẫn nại, về quyết tâm vượt qua thử thách, về niềm tin và tinh thần lạc quan cách mạng. Trên con đường cứu nước, sống ở nước ngoài, biết bao vất vả và cực nhọc nhưng Bác chẳng sờn lòng. Có chí vững vàng sẽ giúp chúng ta thêm nghị lực, sức mạnh để đối phó với khó khăn. Có những việc tưởng chừng không làm được nhưng có ý chí giú ta dễ dàng khuất phục cho dù có là việc đào núi lấp biển, ý chí giúp chúng ta trước khó khăn có thêm sáng tạo để giải quyết. “Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên” Chúng ta mạnh dạn phê phán những kẻ ngại khó sợ khó hay nản ý ngã lòng bi quan trước khó khăn. Nhưng đừng nghĩ rằng chủ quan tự mãn là thái độ đúng đắn. Lời khuyên của ông cha luôn đúng đắn thiết thực. Nó còn ý nghĩa hơn khi chúng ta thực hiện lời dạy đó. Vận dụng trong hoàn cảnh thực tế ngày nay, câu tục ngữ là bài học quý báu. Sống ở trên đời bất cứ việc gì khi đã xác định được mục đích, muốn đến thành công không dễ dàng. Nếu có ý chí nghị lực vững vàng, chúng ta sẽ vượt qua được thử thách. Có ý chí sẽ rèn luyện được tinh thần tự chủ không dựa dẫm, tự tin trong cuộc sống. Nhà văn phương Tây đã khẳng định “Thiên tài là một sự kiên nhân lâu dài”. Qủa đúng như vậy. Nhưng ngoài đức tính kiên trì nhẫn nại, chúng ta cần phải vận dụng óc thông minh sáng tạo để đạt được hiệu quả cao trong công việc.
Instruct Opening: The biggest difference between winners and losers is not strength, money or status, but will. Strong will turns difficult things into easy ones, helping us persevere and persevere in work, overcome difficulties and obstacles to achieve success. Therefore, the ancients once said: if there is a will, there is a way. Having will means having strong will and determination. Should be to achieve victory and success in life. A short proverb with four words, separating two complementary clauses and closely combining them as an inevitable rule in life. Affirming that patience and perseverance are important factors leading to success. That is an advice, a lesson that our ancestors have learned for thousands of generations to pass on to their children today and tomorrow; If you have great patience and determination, you will be able to accomplish anything, even if it is very difficult and seems impossible to complete. Everyone wants to be successful at work, but the road to success is often winding and full of thorns. Uncle Ho once affirmed in the article "On the road" “On the road, we know the hardships High mountains, then high mountains again" Once we determine that, we will be able to determine our stance, ideals, and goals, and we will be ready to deal with all the difficulties. And at this time, will and energy are the first factors to help us overcome that obstacle. The will will help us have strong faith and it is in that hardship that the disasters we encounter in life will forge our spirit to be more enthusiastic and tempered. “For there is no winter scene There is no such thing as a glorious spring day Think of yourself in arduous steps Disasters, train the spirit to be more energetic" In the history of fighting foreign invaders, the nation had to carry out a long-term resistance strategy. From the resistance war against the Ming army of the Le dynasty several centuries ago, to the resistance war against the French and Americans of our people. All demonstrate the resilient and indomitable will and energy of the nation. In the end, it was that perseverance that led us to glorious victory in maintaining national sovereignty and independence. In their productive working life, our people also demonstrate admirable qualities of patience and perseverance. Looking at the towering dyke along the Red River, we can understand how persistent and patient our ancestors were to create a wall to block the flow of water to protect crops. Uncle Ho's life is eloquent evidence of perseverance, determination to overcome challenges, faith and revolutionary optimism. On the road to saving the country, living abroad, there were many hardships and hardships, but Uncle Ho did not lose heart. Having a strong will will help us have more energy and strength to cope with difficulties. There are things that seem impossible to do, but having the will to help us easily overcome them, even if it means digging mountains and filling the sea, the will helps us to be more creative in solving difficulties. "Nothing is difficult Only fear unstable heart Digging up mountains and filling in seas Surely made a firm decision" We boldly criticize those who are afraid of difficulties or feel discouraged and pessimistic in the face of difficulties. But don't think that complacency is the right attitude. My father's advice is always correct and practical. It is even more meaningful when we practice that teaching. Applied in today's practical situations, the proverb is a valuable lesson. Living in anything in life once you have determined your purpose and wanting to succeed is not easy. If we have strong will and strength, we will overcome challenges. Having the will will help you practice self-reliance and confidence in life. Western writers have affirmed that "Genius is a long-term patience". That's right. But in addition to the virtue of perseverance, we need to apply intelligence and creativity to achieve high efficiency at work.
Hướng dẫn Công cha, nghĩa mẹ là ơn đức thiêng liêng nhất trong vũ trụ này. Không có cha mẹ, không có ta ở trên đời. Yêu kính và tri ân công đức cha mẹ là bổn phận của mỗi con người. Nhắc nhở con người về nghĩa cử ấy, người xưa có câu: “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Người Việt Nam ta rất coi trọng đời sống tình cảm và lễ nghi. Đạo hiếu là một trong những phẩm đức hàng đầu mà con người nhất định cần phải có. Nói về công lao của cha mẹ, câu ca dao đã đưa ra những hình ảnh lớn lao, giàu sức biểu cảm để so sánh với công đức của cha, nghĩa tình của mẹ. Công cha được ví như “núi Thái Sơn”, một ngọn núi nổi tiếng ở Trung Quốc. Núi Thái Sơn là hình ảnh tượng trưng cho những gì lớn lao, vĩ đại. Khi so sánh công cha như núi Thái Sơn, nhân dân ta muốn nhấn mạnh công lao của người cha trong việc nuôi dạy con cái là vô cùng lớn lao, vô cùng vĩ đại. Nghĩa mẹ được ví như “nước trong nguồn”, dòng chảy cuồn cuộn, không ngừng, không bao giờ dứt, không bao giờ cạn. Nước nguồn ví như tình yêu thương con vô hạn của người mẹ. Người xưa ví công cha với ngọn núi cao nhất còn nghĩa mẹ so sánh với nước nguồn bất tận là sự đề cao ơn nghĩa sinh thành. Câu ca dao nhắc nhở con người phải ghi nhớ và đền đáp ơn cao nghĩa nặng ấy. Hai hình ảnh cao và dài để biểu hiện tình cảm của cha mẹ, nghệ thuật so sánh như núi Thái Sơn và nước nguồn với công cha, nghĩa mẹ thật đặc sắc. Hai hình cảnh khác nhau nhưng phù hợp với vai trò và vị trí của cha và mẹ trong gia đình. Chữ “công” nói về cha chữ “nghĩa” nói về mẹ. Mẹ là người sinh ra ta, cho ta hình hài. Đó là cái nghĩa thiêng liêng nhất trong thế gian này. Cha là người vất vả nuôi dạy ta, che chở và dẫn bước ta vào đời. Đó cũng là cái ơn vĩ đại nhất trong vũ trụ này. Núi Thái Sơn và nước trong nguồn là hai hình ảnh tượng trưng cho sự lớn lao vô cùng, vô tận. Cha mẹ có công sinh ra ta, nuôi dưỡng ta từ khi chào đời cho đến lúc trưởng thành. Cha là trụ cột chính của gia đình, lo kinh tế cho gia đình. Mẹ càng cực khổ hơn, chín tháng cưu mang, mang nặng đẻ đau. Khi trái gió trở trời, mẹ lo từng viên thuốc, bát cháo và thức suốt đêm bên con. Cha mẹ đã làm cho con tất cả sức lực của mình, công lao kể sao cho hết! Cha mẹ nuôi con khôn lớn, dạy dỗ con nên người. Con vấp ngã trên đường đời, cha mẹ là người nâng con đứng lên, con càng lớn là lúc cha mẹ già yếu đi, đạo làm con phải đền đáp công ơn của cha mẹ: Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Instruct Fatherhood and motherhood are the most sacred virtues in this universe. Without parents, there is no me in this world. Loving and appreciating the merits of parents is the duty of every human being. Reminding people of that gesture, the ancients had a saying: "A father's merit is like Mount Thai Son. Motherhood is like water flowing from a source." Vietnamese people attach great importance to emotional life and rituals. Filial piety is one of the top virtues that people must have. Talking about the merits of parents, the folk song offers great, expressive images to compare with the merits of the father and the love of the mother. Cong Cha is compared to "Thai Son Mountain", a famous mountain in China. Thai Son Mountain is a symbolic image of great things. When comparing a father's work to Thai Son mountain, our people want to emphasize that the father's contribution in raising children is extremely great and great. The mother's meaning is likened to "water in the source", the flowing stream, unceasing, never ending, never running out. Source water is like a mother's infinite love for her child. The ancients compared a father's merit to the highest mountain and a mother's merit to an endless source of water, which is an appreciation of the gratitude of birth. The folk song reminds people to remember and repay that great gratitude. Two tall and long images to express the feelings of parents, the art of comparison like Thai Son mountain and source water with the father's merits and mother's deeds is very unique. The two scenes are different but consistent with the roles and positions of father and mother in the family. The word "merit" refers to the father and the word "meaning" refers to the mother. Mother is the one who gave birth to me and gave me my form. That is the most sacred meaning in this world. Father is the one who worked hard to raise us, protect us and guide us through life. That is also the greatest grace in this universe. Thai Son Mountain and the water in the source are two images that symbolize infinite greatness and infinity. Our parents are responsible for giving birth to us and nurturing us from birth until adulthood. The father is the main breadwinner of the family, taking care of the family's finances. The mother suffered even more hardship, nine months of pregnancy and heavy labor. When the weather turns bad, my mother takes care of every pill, bowl of porridge and stays up all night with her child. Parents have done everything they can for their children, no matter how much effort they put in! Parents raise their children to grow up and teach them to be good people. When children stumble on the path of life, their parents are the ones who lift them up. The older they get, the older their parents become and the weaker they become. As a child, they must repay their kindness: One Heart Worship Mother Glass Father Fulfilling filial piety is the way of children
Hướng dẫn I. Tác giả, tác phẩm: – Ét – môn – đô đơ A – mi – xi (1846 – 190 8), nhà văn của nước ý. – Tác giả của các tác phẩm: “Cuộc đời của các chiến binh”, “Những tấm lòng cao cả”, … – Thể loại: Nhật dụng, hình thức viết thư. – Xuất xứ: Trích “Những tấm lòng cao cả”. – Đại ý: Tâm trạng của người bố khi thấy con vô lễ với mẹ trước mặt cô giáo. Đồng thời nhắc nhở chúng ta phải biết kính trọng, thương yêu, biết ơn cha mẹ của mình. II. Đọc hiểu văn bản: Nguyên nhân dẫn đến việc bố viết thư: Do En – ri -cô đã hỗn láo với mẹ trước mặt cô giáo. – Sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bố. – Bố không thể nén nổi cơn tức giận. – Con hãy nhớ rằng tình yêu thương cha mẹ là một tình cảm thiêng liêng hơn cả. – Bố mong con hiểu công lao, hi sinh vô bờ bến của mẹ. Sự buồn bã, đau đớn + Thức suốt đêm trông chừng hơi thở của con. + Quằn quại vì lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng sẽ mất con. + Sẵn sàng bỏ một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn. + Đi ăn xin để nuôi con. – Phải xin lỗi mẹ.
Instruct I. Authors and works: – Et – mon – do A – mi – xi (1846 – 1908), Italian writer. – Author of works: "Life of warriors", "Noble hearts", ... – Genre: Japanese use, letter writing form. – Origin: Excerpt from “Noble hearts”. – General idea: The father's mood when he sees his child being disrespectful to his mother in front of the teacher. At the same time, it reminds us to respect, love, and be grateful to our parents. II. Read and understand the text: The reason why dad wrote the letter: En-rico was rude to mom in front of the teacher. – Your insolence is like a knife stabbing into my heart. – Dad couldn't contain his anger. – Remember that love for parents is the most sacred feeling. – I hope you understand your mother's endless efforts and sacrifices. Sadness, pain + Stay up all night watching your child's breathing. + Writhing with fear, sobbing at the thought of losing her child. + Be willing to give up a year of happiness to avoid giving your child an hour of pain. + Beg to feed your children. – I must apologize to my mother.
Hướng dẫn I. Tác giả, tác phẩm: 1. Tác giả – Lý Lan sinh ngày 17/6/1957, quê ở Bình Dương. – Trước làm giáo viên dạy các trường ở Long An, Hùng Vương (Tp HCM), sau dạy ở trường Đại học Văn Lang. – Thường viết truyện cho thiếu nhi. – Các tác phẩm như: “Ngôi nhà trong cỏ” đạt giải Văn học Nghệ thuật. – Là người đã dịch truyện “Harry Potter” sang tiếng Việt. 2. Tác phẩm – Thể loại: văn bản nhật dụng. – Xuất xứ: Trích báo “Yêu trẻ”. – Bốc cục: 2 phần + Đoạn 1: từ đầu tới “mà mẹ bước vào”. + Đoạn 2: còn lại – Tóm tắt: Vào đêm trước ngày khai trường đầu tiên của con, người mẹ không ngủ được, nghĩ đến giây phút cánh cổng trường mở ra để đón đứa con vào thế giới kì diệu. Tình yêu con sâu nặng của người mẹ gắn liền với niềm tin vào vai trò to lớn của nhà trường và niềm hi vọng toàn xã hội sẽ quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ cho tương lai đất nước. – Đại ý: Viết về tâm trạng của người mẹ trong đêm không ngủ trước ngày khai trường của con. II. Tìm hiểu văn bản: Hoàn cảnh nảy sinh tâm trạng: Đêm trước ngày khai trường của con: a. Con – Háo hức như trước một chuyến đi xa nhưng giấc ngủ đến một cách nhẹ nhàng. – Không có mối bận tâm nào khác ngoài việc ngày mai dạy cho kịp giờ. b. Mẹ – Không tập trung được vào việc gì cả. – Trằn trọc không ngủ được. – Xem lại những thứ đã chuẩn bị cho con. – Nhớ lại kỉ niệm ngày khai trường đầu tiên của mình. Tâm trạng nôn nao, hồi hộp, chơi vơi, lo lắng. Mẹ suy nghĩ triền miên. Nghệ thuật: Sử dụng từ láy, từ ghép, tương phản. Nội dung: Là một người mẹ rất thương con, một người có tâm hồn tinh tế và nhạy cảm. – Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra. – Người mẹ nhận thức rất rõ về vai trò của nhà trường, của giáo dục đối với thế hệ trẻ. – Đôc thoại, giọng tâm tình. Ghi nhớ Sgk/9 III. Luyện tập.
Instruct I. Authors and works: 1. Author – Ly Lan was born on June 17, 1957, from Binh Duong. – Previously worked as a teacher at schools in Long An and Hung Vuong (HCMC), then taught at Van Lang University. – Often writes stories for children. – Works such as: "The House in the Grass" won the Literature and Arts award. – Is the person who translated the story "Harry Potter" into Vietnamese. 2. Works – Genre: Japanese text. – Origin: Excerpt from the newspaper “Love Children”. – Layout: 2 parts + Paragraph 1: from the beginning to "that mother walked in". + Paragraph 2: remaining – Summary: On the night before her child's first day of school, the mother couldn't sleep, thinking about the moment the school gates opened to welcome her child into the magical world. A mother's deep love for her children is associated with her belief in the great role of the school and her hope that the whole society will pay attention to educating the young generation for the country's future. – General idea: Write about the mother's mood during the sleepless night before her child's first day of school. II. Learn text: Circumstances that give rise to mood: The night before your child's first day of school: a. Child – Excited like before a long trip, but sleep comes gently. – There are no other concerns other than teaching on time tomorrow. b. Mom – Cannot concentrate on anything. – Tossing and turning and not being able to sleep. – Review the things you have prepared for your child. – Recalling the memory of my first school day. Feeling nauseous, nervous, restless, worried. Mom thinks constantly. Art: Using mixed words, compound words, and contrast. Content: A mother who loves her children very much, a person with a delicate and sensitive soul. – Go, be brave, this world is yours, step through the school gate and a magical world will open. – Mothers are very aware of the role of school and education for the young generation. – Dialogue, emotional voice. Remember Textbook/9 III. Practice.
Hướng dẫn I. Giới thiệu: Cùng với tình cảm gia đình, thì tình yêu quê hương, đất nước, con người cũng là chủ đề lớn của ca dao, dân ca, xuyên thấm trong nhiều câu hát. Những bài ca dao thuộc chủ đề này rất đa dạng, có những cách diễn tả riêng, nhiều bài thể hiện rất rõ màu sắc địa phương. Đằng sau những câu hát đối đáp, lời mời, những bức tranh phong cảnh của vùng miền là tình yêu chân chất, niềm tự hào sâu sắc đối với quê hương, đất nước, con người II. Thế nào là cao dao, dân ca? Ca dao dân ca diễn tả đời sống tâm hồn, tình cảm của một số kiểu nhân vật trữ tình: người mẹ, người vợ, người chồng, người con, … trong gia đình, chàng trai cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu, … người dân thường, người vợ, người phụ nữ trong quan hệ xã hội. III. Tìm hiểu văn bản. * Bài 1: – Ở đâu năm cửa nàng ơi? Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng? Sông nào bên đục, bên trong? Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh? Đền nào thiêng nhất xứ Thanh? Ở đâu mà lại có thành tiên xây?… – Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng. Nước sông Thương bên đục bên trong, Núi Đức Thánh Tản thắt cổ bồng lại có thánh sinh. Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây. Nội dung: – Hình thức: hát đối đáp. – Đối tượng: chàng trai và cô gái. – Những cô gái, chàng trai dùng những địa danh để hỏi, đáp trước hết để thử tài nhau, đo độ hiểu biết về lịch sử, địa lí, đồng thời để thể hiện, chia sẻ sự hiểu biết cũng như niềm tự hào về quê hương, đất nước. – Cả chàng trai, cô gái điều là những người lịch lãm, tế nhị. Qua lời hỏi và đáp, chàng trai và cô gái đã bày tỏ niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương, đất nước. Nghệ thuật: – Lối hát giao duyên mềm mại, trữ tình. – Thể thơ lục bát uyển chuyển, ohuf hợp với tiếng hát của con người. * Bài 4: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Nội dung: – Đây là lời của cô gái tự nói về bản thân mình. Dòng thơ kéo dài 12 tiếng để gợi sự dài, rộng và to lớn cánh đồng. – Cô gái tự so sánh mình như chẽn lúa đòng đòng có sự tương đồng ở nét trẻ trung, phơi phới và sức sống đang xuân. Cô gái ấy mảnh mai, bé nhỏ nhưng không bị cánh đồng che lấp. – Cũng có thể hiểu bài ca dao là lời của chàng trai ngợi ca cánh đồng, ngợi ca vẻ đẹp của cô gái. Qua đó bày tỏ tình cảm của mình một cách tế nhị. Nghệ thuật: – Sử dụng kết cấu lời hỏi đáp; giọng điệu tha thiết, tự hào. – Sử dụng thể thơ lục bát và lục bát biến thể, … IV. Luyện tập. * Bài tập 1/40: Thể thơ trong các bài: Thể lục bát biến thể. Bài 1 – Thể thơ tự do * Bài tập 2/40: Tình cảm chung thể hiện trong các bài ca dao này là tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Instruct I. Introduction: Along with family love, love for homeland, country, and people is also a big theme of folk songs and folk songs, penetrating in many songs. Folk songs on this topic are very diverse, with their own ways of expressing it, many of which clearly show local colors. Behind the response songs, invitations, and landscape paintings of the region is genuine love and deep pride for the homeland, country, and people. II. What are folk songs and folk songs? Folk songs describe the spiritual and emotional life of certain types of lyrical characters: mothers, wives, husbands, children,... in the family, boys and girls in friendship and love relationships. love, ... common people, wives, women in social relationships. III. Learn the text. * Lesson 1: – Where is five doors, dear? Which river has six sections of water flowing down one stream? Which river is cloudy on the inside? On which mountain can a saint be born? Which temple is the most sacred in Thanh country? Where is there a citadel built?… – Hanoi has five doors, my dear Luc Dau River has six sections of water flowing down one stream. The water of the Thuong River is turbid inside, On the mountain of Duc Thanh Tan, a saint was born. Song Temple is the most sacred in Thanh country In Lang province, there is a fairy-built citadel. Content: – Format: singing and answering. – Target audience: boys and girls. – Girls and boys use place names to ask and answer questions, first of all to test each other's skills, measure their knowledge of history and geography, and at the same time to express and share their understanding and pride about homeland. – Both boys and girls are elegant and tactful. Through questions and answers, the boy and girl expressed their pride and love for their homeland and country. Art: – The love singing style is soft and lyrical. – The six-eight poetic form is flexible and ohuf, suitable for human singing. * Lesson 4: Standing next to the fields, looking at the fields, vast and immense, Standing next to the fields, looking at the fields, vast fields. My body is like a rice stalk, Floating under the pink morning sunlight. Content: – These are the words of a girl talking about herself. The line of poetry lasts 12 hours to evoke the length, breadth and enormousness of the field. – The girl compares herself to a rice field with similarities in youthfulness, exuberance and spring vitality. The girl was slim and small, but not hidden by the field. – The folk song can also be understood as the words of a boy praising the field and praising the beauty of the girl. Thereby expressing your feelings delicately. Art: – Use question and answer structure; earnest, proud tone. – Use six-eight verses and six-eight variations,... IV. Practice. * Exercise 1/40: Poetry form in the lessons: Six-eight variations. Lesson 1 – Free verse * Exercise 2/40: The common sentiment expressed in these folk songs is love for homeland, country, and people.
Hướng dẫn Từ khi có văn minh, sách không ngừng biến đổi từ thế kỉ này đến thế kỉ khác. Trải qua những năm tháng sách càng phát triển hơn với những họa tiết màu sắc tân tiến. Với những trang viết, những bài học bổ ích, khiến người đọc càng thêm thích thú và chú ý đến sách hơn và nâng tầm quan trọng của sách với con người. Bởi thế, tục ngữ có câu:“Sách là ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người”. Trải qua nhiều năm lịch sử con người lại càng gắn bó với sách và coi sách như người bạn thân thiết không thể thiếu trong cuộc sống. Có thể nói sách giúp biết về những đất nước trên thế giới, hiểu biết những phong tục tập quán, cuộc sống của con người ở khắp mọi nơi. Do thời gian và các tiết học không có thể đủ triền tải được những cuộc sống của họ và các phong tục hay các di tích lịch sử nên thường thì thầy cô chỉ có thể truyền tải được 50% bài học đang dạy và không thể tiếp thu được nhiều kiến thức bên ngoài cho học sinh. Vì thế chúng ta nên tìm hiểu một chút gì về cuộc sống của nước khác hoặc xem trên các báo, giúp phát triển trí tuệ một cách toàn diện. Sách có rất nhiều loại đa dạng và chúng ta phải biết chọn lọc đọc những điều bỏ ích cho học tập chứ đừng học những điều bạo lực hay nhưng chuyện nhảm nhí nhé. Ví dụ: sách Lịch sử sẽ bao quát những phát kiến của các nhà thám hiển và các bậc anh hùng, ông cha đã xây dựng đất nước như thế nào? Sách địal í sẽ giúp bạn hiểu biết về thieenn nhiên, phong cảnh, địa hình, địa chất của đất nước và thế giới. Sách văn học sẽ giụp bạn khám phá những cảm xúc mãnh liệt ẩn sâu trong tâm hồn mình, làm bạn biết trân trọng cuộc sống và yêu thương con người nhiều hơn. Mỗi quyển sách ý nghĩa giúp tâm hồn ta dần lớn lên. Bạn thử nghỉ xem nếu không có sách, con người sẽ sống cuộc sống nhàm chán này như thế nào. Tri thức sẽ dần bị lãng quên. Trẻ em khi sinh ra sẽ không ai biết nhân loại đã làm ra những thành công tưởng rằng không thành công, xã hội sẽ đi lùi phát triển, không còn hiểu biết mà ngược lại với sự thông minh và phát triển. Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ. Đừng để ngọn đèn đó phải tắt chỉ vì sự lười biếng hoặc thờ ơ của bạn đối với sách. Đọc sách phải biết chọn lọc. Cái nào tốt bổ ích thì đọc. Cái gì không tốt thì nhất quyết không đọc. Hãy đọc những quyển sách tốt và bổ ích giúp tư duy bạn phát triển và sau này làm những việc tốt cho xã hội. Sách là người bạn trung thành của con người là lúc bạn biết giữ gìn và trân trọng. Khi bạn viết chọn lọc và sưu tầm tiềm tòi những sách bổ ích, có ích và loại bỏ sách không bổ ích có nội dung không tốt, xem sách như người bạn rất cần thiết cho con người.
Instruct Since the beginning of civilization, books have continuously changed from century to century. Over the years, the book has developed even more with modern color patterns. With written pages, useful lessons, making readers more interested and attentive to books and increasing the importance of books to people. Therefore, there is a proverb that says: "Books are the eternal lamp of human intelligence". Over many years of history, people have become more and more attached to books and consider books as indispensable close friends in life. It can be said that books help to know about countries around the world, understand the customs and lives of people everywhere. Because time and lessons are not enough to convey their lives, customs or historical sites, teachers often can only convey 50% of the lessons they are teaching and cannot continue. Gain a lot of outside knowledge for students. Therefore, we should learn a little about the lives of other countries or read the newspapers to help develop our intelligence comprehensively. There are many different types of books and we must know how to choose and read things that are not useful for learning, and not read things that are violent or just nonsense. For example, History books will cover the discoveries of explorers and heroes. How did our ancestors build the country? Geography books will help you understand the nature, landscape, topography, and geology of the country and the world. Literary books will help you discover the intense emotions hidden deep in your soul, making you appreciate life and love people more. Every meaningful book helps our soul gradually grow. Try to think about how people would live this boring life without books. Knowledge will gradually be forgotten. When children are born, no one will know that humanity has achieved successes and thought they were unsuccessful. Society will go backwards in development, no longer understanding, but the opposite of intelligence and development. Books are eternal lights of wisdom. Don't let that light go out just because of your laziness or indifference towards books. Reading books must be selective. Read anything that is good and useful. If anything is not good, definitely don't read it. Read good and useful books to help your thinking develop and later do good things for society. Books are man's loyal friends when you know how to preserve and appreciate them. When you write, select and collect potentially useful and useful books and eliminate unhelpful books with bad content, consider books as very necessary friends for people.
Hướng dẫn Bài văn miêu tả quang cảnh Đà Lạt Mở bài: Nếu bạn muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp thần tiên ngay trên mặt đất thì hãy một lần đến với Đà Lạt. Quang cảnh tuyệt đẹp của Đà Lạt khiến tôi vẫn cứ nhớ hoài, nhớ mãi. Nào là tháp nước, đồi thông, hồ Tuyền Lâm, chợ đêm Đà Lạt,… Tất cả mọi thứ khiến tôi mê mệt vì vẻ đẹp của nó. Thân bài: Đà Lạt nổi tiếng với mùa hoa cải nở. Mùi hương, màu sắc của nó, tôi không biết phải diễn tả như thế nào nữa, vì nó quá đẹp. Vừa bước khỏi chiếc xe taxi, mùi hương của hoa cải trắng đã tỏa hương ngay khứu giác của tôi, mùi hương dễ chịu lắm, không khí không còn bụi bẩn hay những tiếng còi xe ở thành phố nữa, nó đã kéo tôi vào cuộc sống yên tĩnh. Màu sắc thì không thể nào không tả đến, một màu màu trắng tinh khôi nổi bậy trên nền màu xanh khiến ai phải đặt chân xuống đây đều say đắm giữa vẻ đẹp thiên nhiên này, những khóm hoa đua nhau nở, đung đưa theo gió mang mùi hương đi khắp nơi. Bông cải thường hay nở rộ vào cuối tháng 12. Nhưng dạo gần đây, do thời tiết ấm áp, bông cải đã nở sớm hơn. Dưới ánh nắng mặt trời, những bông cải trắng nhỏ trở nên mong manh và dịu dàng hơn bao giờ hết. Khi ngược nắng, những bông cải trở nên thu hút và rực rỡ. Những mùa hoa nối tiếp nhau khiến cho Đà Lạt trở thành thiên đường hoa tren mặt đất. Trong đó có hoa cải trắng dệt nên sắc trắng mơ màng vô cùng cho Đà Lạt trong nhưng ngày rét lạnh. Sau khi tham quan cánh đồng hoa cải trắng, chúng ta có thể tham quan trại dế, Thác Voi hoặc thưởng thức những ly cafe thơm ngon Mê Linh. Và đây cũng là địa điểm đang được mọi người đến nhiều nhất. Khi nào có dịp tôi sẽ đến Đà Lạt và phải tham quan lại cánh đồng hoa cải trắng này một lần nữa. Tôi cũng thích dạo thuyền trên hồ Tuyền Lâm vào buổi chiều bãng lãng. Giữa núi rừng yên tịch, bao la mặt nước, tiếng chuông chùa vọng vang lao xao mặt hồ trong. Thuyền nhẹ đi trên nước. Đâu đó, cánh chim giật mình bay lên từ bụi rậm. Ánh nắng chiều nghiêng nghiêng vắt ngang ngọn đồi. Phong cảnh huyền hồ như đang ở giữ xứ sở thần tiên nào đó, không một bóng người khiến tôi chợt thấy lòng nao vừa như sợ hãi giữ chốn hoang sơ vừa như thích thú được lạc vào một thế giới chỉ có riêng mình. Trên thuyền ai cũng yên lặng ngắm nhìn như quên đi thời gian. Anh hướng dẫn viên cũng không muốn thuyết trình nữa, cứ để mọi người tự phiêu lạc vào dòng suy tư, tự tìm kiếm cái thích thú riêng mình. Đêm Đà Lạt cô đọng trong ánh đèn mờ mưa. Mưa ở đây không dữ dội như ở Sài Gòn. Mưa nhẹ rơi như thêu như dệt không gian sắc lạnh, rân rân cảm giác. Tôi thích nhất là lúc ấy, ngồi một mình bên cửa sổ, huơ bàn tay ra ngoài trời đón từng ợi rét, cảm thấy là lạ, thích thú.
Instruct The article describes the scenery of Da Lat Opening: If you want to admire the magical beauty right on the ground, come to Da Lat once. The beautiful scenery of Da Lat makes me remember it forever. There are water towers, pine hills, Tuyen Lam lake, Da Lat night market,... Everything makes me fascinated by its beauty. Body of the article: Da Lat is famous for its mustard flower blooming season. Its scent, its color, I don't know how else to describe it, because it's so beautiful. As soon as I stepped out of the taxi, the scent of white mustard flowers spread to my sense of smell, the scent was very pleasant, the air was no longer dusty or the city's car horns were blowing, it pulled me into it. live quietly. The colors are indescribable, a pure white color that stands out on a blue background, making anyone who sets foot here fall in love with this natural beauty, the flowers blooming and swaying in the wind. Carry scent everywhere. Broccoli usually blooms at the end of December. But recently, due to warm weather, broccoli has bloomed earlier. Under the sunlight, small white cabbage flowers become more fragile and tender than ever. When exposed to sunlight, the broccoli becomes attractive and brilliant. Successive flower seasons make Da Lat become a flower paradise on earth. Among them are white mustard flowers that create an extremely dreamy white color for Da Lat on cold days. After visiting the white mustard flower fields, we can visit the cricket farm, Elephant Waterfall or enjoy delicious cups of Me Linh coffee. And this is also the place that most people visit. When I have a chance, I will go to Da Lat and visit this white mustard flower field again. I also like taking a boat ride on Tuyen Lam Lake in the afternoon. Amidst the quiet mountains and forests, vast water surface, the sound of temple bells echoing across the clear lake surface. The boat moves lightly on the water. Somewhere, a startled bird flew up from the bushes. The afternoon sunlight tilted across the hill. The mysterious lake landscape was like being in some fairyland, without a single person in sight, making me suddenly feel both scared of the wild place and excited to be lost in a world that was all my own. Everyone on the boat watched quietly as if forgetting about time. The tour guide also didn't want to lecture anymore, just let everyone wander into their own thoughts and find their own interests. Da Lat's night is condensed in the dim light of rain. The rain here is not as intense as in Saigon. Light rain falls like embroidery, weaving a cold, tingling feeling into the space. I liked that moment the most, sitting alone by the window, waving my hand outside to catch every cold breath, feeling strange and excited.
Hướng dẫn BÀI LÀM Thế là đã mấy chục năm qua rồi… Thuở ấy giặc Mĩ rất ác độc đã đem bom thả xuống những quê hương làng xóm yên bình ở miền Bắc. Quê anh Khoa cũng tiêu điều và lỗ chỗ những hố bom. Chiến tranh đã tàn phá những ao sen, đã giết chết cả những chú Dế Mèn đang ngồi bên gốc tre vuốt râu nhìn hoa phượng thắm. Và chiến tranh đã làm cho con Vàng của anh Khoa không trở về nhà nữa. Hôm ấy, anh Khoa đang đi học, khi nghe tiếng máy bay quần rít ở phía đầu làng nơi có chiếc cầu qua sông, cô giáo giục mọi người vào hầm tru ẩn. Và đinh tai, nhức ốc, những tiếng bom nổ rung chuyển cả đầt trời. Cả căn hầm như muốn bay lên. Các bạn gái khóc thét mặc dù đã bịt cả hai tai. Thế nhưng anh Khoa lại ngồi im bất động khi đợt bom thứ hai làm cho không khí khét lẹt và nghe rào rào, xèn xẹt của những mảnh bom rơi trong lũy tre. Anh Khoa nói thành lời: – Chao ôi, không biết có ai buộc dây cổ con Vàng không? Nghe tiếng pháo Tết mà nó cũng chạy mất ba bốn ngày thì nghe tiếng bom kinh thiên động địa này nó có lẽ phải trốn đến cả năm… Và, điều ấy đã không sai. Đi học về, không kịp ăn cơm, chỉ rửa mặt qua loa, anh Khoa bươn bả đi tìm Vàng. Linh tinh đã mách anh điều không may. Anh cứ đi, cứ đi lang thang hết vườn nhà này, sang những lùm cây nhà nọ. Anh vượt cánh động này đến cánh đồng kia? “Chỉ lo đợt bom thứ hai thôi, vì nó nổ gần, và lại Vàng lúc đó đã phát điên vì sợ hãi mà chạy ra gần bom chàng?” Anh Khoa nghĩ vậy và đi về phía đó, Giữa trưa nắng lúa như rẽ đường mách bảo cho anh. Phía xa xa giữa hai bờ lúa một màu vàng thân thuộc mà anh Khoa không thể không nhận ra. Anh chạy lại. Con Vàng của anh đang nằm vắt ngang đường bờ mẫu nhỏ xíu và thấp. Anh đứng nhìn nó, lặng người. Không nghi ngờ gì nữa, nó đã bị thương trong lúc chạy nạn. Nó nằm nghiêng mặt quay về phía nhà nó, đôi mắt như đăm đắm hướng về phía có ngôi nhà thân yêu. Dường như nghe tiếng thét của anh Khoa “ Vàng ơi, Vàng ơi!” nó khẽ quay đầu một chút nhìn chủ với đôi mắt đờ đẫn bất động. Anh Khoa ngồi xuống bên Vàng, vuốt bộ lông đã bết cục lại bởi bùn và máu. Mặt trời thì chọi gắt mà sào xung quanh anh cứ lạnh lẽo, thảm đạm. Bàn tay của anh không thấy ấm áp như ngày nào bắt Vàng nằm trước hiên nhà để giết bọ chét trên người nó. Đôi mắt của Vàng ngày ấy sao ấm áp lóng lanh, long lanh như tinh nghịch, như cầu xin trước đừng trừng phạt nếu như mình phạm lỗi vì quá mừng khi chủ về. Giờ đôi mắt ấy ướt nhèm nhẹp và đang mỗi lúc một đờ đi, trông trắng dã. Cái đuôi như chiếc chổi lông múa may quay tít mỗi khi gặp chủ, giờ đây buông thõng xuống nhúng cả một đầu xuống nước và một chú cua nhỏ xíu đang bò trong cái chổi lạ kì này. Anh Khoa để tay vào cái mõm nó. Nơi cái mũi loáng đen trước đây thường huých vào chân chủ một cách vụng về mong chủ đang ăn ném xuống cho một cục xương thì nầy, nó lạnh ngắt, hai lỗ mũi ấy bầy nhày một thứ nước như nước mũi bị mặt trời thiêu đốt, nó sền sệt, tanh tanh và đám ruồi muỗi đã đánh hơi thấy đang kéo nhau đến. Hơi thở của Vàng vẫn còn khò khè, vết thương nhỏ ở bụng Vàng đã làm Vàng chảy máu nhiều. Vàng chưa chết, dường như nó đang hôn mê trong cơn hấp hối. Nó không nhận ra chủ hay là cái đuôi của nó không đủ sức để mà rảy mấy con cua vô duyên để mà phe phẩy nói với chủ mình vẫn còn sống. Anh Khoa cứ ngồi vậy mà trầm ngâm Đồng lúa như buồn bã không còn rập rờn đuổi nhau đến tận chân trời nữa. Anh cứ đặt tay lên mình Vàng, vừa khóc vừa kể lể: – Vàng ơi, sao mày lại nỡ bỏ tao sao. Từ nay ai chờ tao nhiệt tình như mày mỗi lúc tao đi học về? Từ nay mày làm sao có thể để cho tao bắt bọ chét? Từ nay mày đâu còn được giỡn với con mèo Miu ở nhà?…
Instruct ASSIGNMENT So it's been several decades... At that time, the American invaders were very cruel and dropped bombs on peaceful homelands and villages in the North. Khoa's hometown is also desolate and riddled with bomb craters. The war destroyed the lotus ponds and killed even the Crickets sitting by the bamboo tree, stroking their beards, looking at the bright poinciana flowers. And the war caused Mr. Khoa's Vang to never return home. That day, Mr. Khoa was going to school. When he heard the sound of a plane whistling at the beginning of the village where there was a bridge over the river, the teacher urged everyone to go into the bunker and hide. And deafening, heart-wrenching, bomb explosions shook the whole world. The whole basement seemed to want to fly up. The girls cried even though they covered both their ears. However, Mr. Khoa sat motionless when the second round of bombs made the air scorching and the rustling sound of shrapnel falling in the bamboo fence was heard. Mr. Khoa said: – Alas, I wonder if anyone has tied a string around the Golden child's neck? Hearing the sound of Tet fireworks, he ran away for three or four days, but when he heard this earth-shattering bomb, he probably had to hide for a whole year... And, that was not wrong. Coming home from school, not having time to eat and only washing his face, Mr. Khoa struggled to find Vang. The ghost told him something unfortunate. He kept walking, just wandering from this house's garden to the groves of that house. You cross this cave to that field? "Only worried about the second round of bombs, because it exploded close by, and Vang at that time went crazy with fear and ran near his bomb?" Mr. Khoa thought so and walked towards that direction. In the midday sun, the rice fields seemed to tell him. In the distance, between the two rice banks, there was a familiar yellow color that Mr. Khoa could not help but recognize. He ran back. His Golden is lying across the small and low shore line. He stood looking at it, dumbfounded. There is no doubt that it was injured while fleeing. It lay on its side facing its house, its eyes staring intently at the direction of its beloved home. It seemed like I heard Mr. Khoa scream, "Gold, Gold!" It turned its head slightly and looked at its owner with dull and motionless eyes. Mr. Khoa sat down next to Vang, stroking his fur that was matted with mud and blood. The sun was beating fiercely, but the surroundings around him were cold and gloomy. His hand did not feel as warm as the day he forced Vang to lie on the porch to kill the fleas on his body. Vang's eyes that day were so warm and sparkling, sparkling with mischief, as if begging in advance not to punish him if he made a mistake because he was so happy when his master returned. Now those eyes are wet and are becoming more and more dull, looking white. The tail is like a feather duster that spins around every time it meets its owner. Now it hangs down and dips one end into the water and a tiny crab is crawling inside this strange brush. Mr. Khoa put his hand on its muzzle. Where the shiny black nose used to clumsily nudge the owner's leg, hoping the owner would throw down a bone when he was eating, it was cold, and those nostrils were covered with mucus like snot burned by the sun. , it was viscous, fishy and the flies and mosquitoes smelled it and were coming. Vang's breathing was still wheezing, the small wound in Vang's abdomen had caused Vang to bleed profusely. Gold is not dead, it seems to be in a coma in agony. It didn't recognize its owner or its tail wasn't strong enough to shake off the ungainly crabs so it could wave to tell its owner that it was still alive. Mr. Khoa just sat there in contemplation. The rice fields seemed sad and no longer chased each other to the horizon. He kept placing his hands on Vang's body, crying and saying: – Gold, why did you leave me? From now on, who waits for me as enthusiastically as you every time I come home from school? How can you let me catch fleas from now on? From now on you can no longer play with the cat Miu at home?...
Hướng dẫn Tuổi học trò có biết bao kỉ niệm đẹp, nhưng ngồi trước bài tập làm văn bạn không nghĩ ra được kỉ niệm nào ấn tượng và hay nhất. Để giúp bạn nhớ và viết lại những kỉ niệm đã qua tại trường trong bài tập làm văn lần này, vanmau.net sẽ hướng dẫn các bạn cách lập dàn ý và những bài văn mẫu hay. Các bạn cùng tham khảo nhé. Hướng dẫn lập dàn ý: Mở bài: – Thời gian kể chuyện cho bố mẹ nghe (sau bữa cơm tối, trước khi đi ngủ hoặc lúc đang ngồi xem ti vi). – Giới thiệu truyện mình sẽ kể (truyện biểu cảm, truyện cười hay cảm động). Thân bài: – Đưa ra thời gian, địa điểm chính xác câu chuyện em sắp kể (bao giờ, ở đâu). – Những nhân vật trong câu chuyện là gi? Em có mặt trong đấy không hay chỉ chứng kiến và kể lại? – Diễn biến của câu chuyện. Trong truyện có các tình tiết cảm động, vui, buồn hoặc gây cười hay không? – Kết thúc câu chuyện em rút ra bài học gì? Em có suy nghĩ gì về câu chuyện đó không? – Ghi lại thái độ của bố mẹ? Bố mẹ có lời khuyên gì hay không? Kết bài: – Không khí gia đình sau khi nghe câu chuyện em kể. – Nêu cảm xúc và suy nghĩ của bạn thân. Tham khảo những bài văn mẫu dưới đây Chiều qua, khi hồi trống tan trường vừa điểm tôi vội vã đi thẳng về phía nhà xe. Trên con đường quen thuộc, đôi chân tôi guồng những vòng xe mạnh mẽ hơn. Tôi đạp xe về nhà mà trong lòng háo hức. Tôi vừa xúc động lại vừa thấy vui vui. Tôi mong sao được kể thật nhanh cho cả nhà nghe câu chuyện cảm động mà tôi vừa được chứng kiến ở trường mình. Chả là để thể hiện lòng biết ơn thực sự của các thế hệ con cháu đối với sự hy sinh của cha ông, trường tôi có mời một đoàn ca nhạc về trường biểu diễn. Điều đặc biệt là các ca sĩ đều là những người đã phải gánh chịu ít nhiều những di chứng của chất độc màu da cam. Người thì bị mất đôi chân, người thì không con đôi mắt. Đáng thương hơn khi có những người dường như chỉ còn tồn tại một vài bộ phận trong con người. Thế nhưng tất cả những con người ấy đã khiến cho cả trường chúng tôi phải vô cùng khâm phục bởi họ là những tấm gương tuyệt vời về ý chí và sự quyết lâm. Thú thực, mới đầu chúng tôi đi xem chỉ vì đứa nào cùng háo hức tò mò. Thế nhưng khi tấm màn nhung khép lại chương trình biểu diễn thì chúng tôi đứa nào đứa nấy đều cảm thấy xúc động sâu xa. Buổi diễn bắt đầu bằng những lời giới thiệu chân thật và lay động lòng người của chú trưởng đoàn. Nó dường như là một bài diễn thuyết được chuẩn bị kỹ càng từ trước. Thế nhưng khi chính những mảnh đời đau khổ kia lên tiếng thì mọi người bắt đầu rơi nước mắt. Những cái tên, những quê quán, những cuộc đời và những lý do… Tất cả, tất cả đều bắt đầu bằng những ước mơ, những khát khao yên bình và hạnh phúc. Thế nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả. Chiến tranh tàn bạo đến mức không cho cả những ước mơ nhỏ nhoi nhất được hình thành. Mười ca sĩ là mười cảnh tàn tật khác nhau, mười lý do bất hạnh khác nhau. Và tất nhiên phía sau mười con người cần được cảm thông và chia sẻ ấy còn bao nhiêu người khác đang ngày đêm ngậm ngùi ôm những nỗi đau đớn xót xa. Khác hẳn với màn giới thiệu, buổi trình diễn lại chẳng có một chút gì gợi ra cảnh đau thương. Rất nhiều và rất nhiều bài hát đã được biểu diễn bởi những chất giọng khác nhau. Thế nhưng chúng đều có chung một đặc điểm đó là đều ngợi ca những ước mơ, lòng bác ái và sự công bằng; ngợi ca những ước mơ và khát khao của tuổi thơ của những người đang sống và cả những người đã khuất. Chương trình cuốn hút tất cả người xem, thậm chí nhiều bạn, trong đó có cả tôi đã bước lên sân khấu để tặng hoa và để cùng hát lên những lời ca chia sẻ. Chúng tôi đã khóc, khóc thực sự trong niềm thân ái, trong sự yêu thương và mong ước được sẻ chia. Buổi trình diễn nằm ngoài sự hình dung của tất cả chúng tôi. Nó thực sự khiến chúng tôi bất ngờ và xúc động. Câu chuyện được tôi kể cho gia đình nghe ngay sau khi mọi người dùng xong cơm trưa. Nhấp một chút nước trà, bố tôi vừa dặn đò vừa tâm sự: “Các con còn nhỏ hiểu được như thế là rất quý. Thế nhưng, những gì các con đã làm là chưa thật lớn đâu. Các con còn phải làm nhiều việc tốt lành hơn nữa để đền đáp công ơn của những người đã hy sinh để mang lại hạnh phúc cho cuộc đời mình”. BÀI LÀM “Tùng! Tùng! Tùng!”- tiếng trống tan học vừa dứt, tôi vội chạy ngay về nhà với hộp quà cầm trên tay. Ôi! Con đường hôm nay sao mà dài quá, đi mãi một lúc tôi mới về nhà. Tôi khẽ đi vào phòng khách, mẹ đang ngồi say sưa đọc báo. Nhìn thấy tôi, mẹ ngạc nhiên bảo; – Ơ, sao hôm nay về trễ thế con? Còn quà gì đó? – Mẹ ơi, hôm nay cô giáo đã cho chúng con một bất ngờ cảm động vào tiết sinh hoạt lớp đấy ạ! Để con kể cho mẹ nghe nhé! – Ừ, con kể đi!- Mẹ tôi vui vẻ trả lời. – Dạ, hôm nay vào tiết tư, chúng con đang học thực hành môn Tin ở phòng thực hành thì bỗng có vài bạn xin thầy cho về lớp trước. Mọi người còn chưa hết ngạc nhiên thì tiết tư kết thúc. Tất cả chạy ùa vào lớp. Lớp học được trang trí rất đẹp: những quả bong bong nhỏ xinh dược treo khắp các cửa sổ cùng những dải kim tuyến lấp lánh. Trên bảng được viết dòng chữ: “Chúc mừng sinh nhật” bằng phấn phấn màu rất đẹp. Con vô cùng ngạc nhiên vì không biết các bạn tổ chức sinh nhật cho ai, mà trong tháng mười này lại có ngày sinh nhât của con. – Chà, thú vị thật đó, con mau kể tiếp đi! –Mẹ tôi háo hức nói. – Vâng ạ. Thế rồi, cô giáo bước vào lớp và bắt nhịp cho các bạn hát bài “Happy birthday”. Cô và các bạn đồng thanh hát và vỗ tay rất nhịp nhàng. Rồi, cô thay mặt cho tập thể lớp phát biểu rằng: “Các con ạ, tháng Mười này lớp ta có sinh nhật của các bạn Uyên Phương, Bảo Khánh và Như Ngọc. Cô và ban cán sự lớp đã bí mật tổ chức sinh nhật cho các bạn. Cô chúc các con có một bữa tiệc sinh nhật thật vui vẻ bên tập thể lớp, ngày càng chăm ngoan, học giỏi để ba mẹ và thầy cô vui lòng nhé! Cả lớp cho các bạn một tràng vỗ tay nào!”. “Hoan hô cô giáo! Hoan hô cô giáo!”. Và, tiếng vỗ tay từ các bạn vang lên không ngớt. Cô cho chúng con lên bảng để nhận quà sinh nhật từ lớp. Rồi cả lớp ngồi thưởng thức những tiết mục văn nghệ tuyệt vời của các bạn. Chúng con xúc động vô cùng. Con được đại diện cho các bạn lên phát biểu. Mọi việc đều bất ngời khiến con lúng túng quá, phải mất mấy phút con mới nói được lời cảm ơn cô và các bạn: “Chúng con xin cảm ơn cô giáo và các bạn trong lớp đã tổ chức sinh nhật cho chúng con. Đây là bữa tiệc sinh nhật ý nghĩa nhất mà chúng con sẽ không bao giờ quên. Chúng con hứa sẽ cố gắng chăm ngoan, học giỏi để không phụ long cô giáo và các bạn.”. Cả lớp vỗ tay rào rào không ngớt khiến con sung sướng vô cùng. Thật là thú vị và cảm động phải không mẹ?- Ừ, từ nay con phải chăm ngoan, học thật tốt để xứng đáng với tình yêu thương mà cô và các bạn đã dành cho con đấy! – Vâng ạ! con xin hứa! Sau bữa tiệc sinh nhật đó, cô trò chúng tôi đã gắn bó với nhau hơn rất nhiều. Tập thể lớp 7/3 chúng tôi nhất định sẽ luôn đoàn kết, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau. Cảm ơn cô giáo và các bạn đã cho chúng tôi một bữa sinh nhật tuyệt vời và ý nghĩa./. Sau bữa cơm, gia đình tôi quây quần trong phòng khách. Bỗng tôi chợt nhớ đến chuyện sáng nay và muốn kể ngay cho bố mẹ nghe. Thế là tôi nhanh nhảu “Bố mẹ ơi, lớp con có chuyện này vui lắm. Con kể cho bố mẹ nghe nhé”. Bố mẹ tôi mỉm cười gật đầu, tôi hào hứng: “Hôm nay, ở lớp con, cô giáo đã kể cho chúng con nghe một câu chuyện, vui và cảm động lắm. Câu chuyện vừa xảy ra vào ngày chủ nhật, hôm 20-11. Ba bạn Nga lớp con là bác sĩ, đồng thời là hội trưởng hội phụ phuynh của lớp. Chiều thứ 7, ngày 19-11, ba của bạn Nga ghé thăm cô và tặng cô một chục cam sành. Cô giáo con cảm ơn bác hội trưởng nhưng đã đem túi cam tặng lại cho thím Tư, một thím nghèo, sống cô đơn ở căn nhà nhỏ đầu hẻm. Ai ngờ, lần này, thím Tư thấy chục cam lớn quá, một mình ăn không hết, bèn mang đến tặng lại cho một người bà con đông con, nghèo hơn mình. Cả cô giáo, cả thím Tư lẫn người bà con nghèo của thím đều không giở kỹ túi cam nên không thấy một tấm thiệp nhỏ lọt giữa những quả cam sành to tướng, tấm thiệp do Nga cắt và ghi vào đó lời chúc mừng cô thật tình cảm”.
Hướng dẫn Tuổi học trò có biết bao kỉ niệm đẹp, nhưng ngồi trước bài tập làm văn bạn không nghĩ ra được kỉ niệm nào ấn tượng và hay nhất. Để giúp bạn nhớ và viết lại những kỉ niệm đã qua tại trường trong bài tập làm văn lần này, vanmau.net sẽ hướng dẫn các bạn cách lập dàn ý và những bài văn mẫu hay. Các bạn cùng tham khảo nhé. Hướng dẫn lập dàn ý: Mở bài: – Thời gian kể chuyện cho bố mẹ nghe (sau bữa cơm tối, trước khi đi ngủ hoặc lúc đang ngồi xem ti vi). – Giới thiệu truyện mình sẽ kể (truyện biểu cảm, truyện cười hay cảm động). Thân bài: – Đưa ra thời gian, địa điểm chính xác câu chuyện em sắp kể (bao giờ, ở đâu). – Những nhân vật trong câu chuyện là gi? Em có mặt trong đấy không hay chỉ chứng kiến và kể lại? – Diễn biến của câu chuyện. Trong truyện có các tình tiết cảm động, vui, buồn hoặc gây cười hay không? – Kết thúc câu chuyện em rút ra bài học gì? Em có suy nghĩ gì về câu chuyện đó không? – Ghi lại thái độ của bố mẹ? Bố mẹ có lời khuyên gì hay không? Kết bài: – Không khí gia đình sau khi nghe câu chuyện em kể. – Nêu cảm xúc và suy nghĩ của bạn thân. Tham khảo những bài văn mẫu dưới đây Chiều qua, khi hồi trống tan trường vừa điểm tôi vội vã đi thẳng về phía nhà xe. Trên con đường quen thuộc, đôi chân tôi guồng những vòng xe mạnh mẽ hơn. Tôi đạp xe về nhà mà trong lòng háo hức. Tôi vừa xúc động lại vừa thấy vui vui. Tôi mong sao được kể thật nhanh cho cả nhà nghe câu chuyện cảm động mà tôi vừa được chứng kiến ở trường mình. Chả là để thể hiện lòng biết ơn thực sự của các thế hệ con cháu đối với sự hy sinh của cha ông, trường tôi có mời một đoàn ca nhạc về trường biểu diễn. Điều đặc biệt là các ca sĩ đều là những người đã phải gánh chịu ít nhiều những di chứng của chất độc màu da cam. Người thì bị mất đôi chân, người thì không con đôi mắt. Đáng thương hơn khi có những người dường như chỉ còn tồn tại một vài bộ phận trong con người. Thế nhưng tất cả những con người ấy đã khiến cho cả trường chúng tôi phải vô cùng khâm phục bởi họ là những tấm gương tuyệt vời về ý chí và sự quyết lâm. Thú thực, mới đầu chúng tôi đi xem chỉ vì đứa nào cùng háo hức tò mò. Thế nhưng khi tấm màn nhung khép lại chương trình biểu diễn thì chúng tôi đứa nào đứa nấy đều cảm thấy xúc động sâu xa. Buổi diễn bắt đầu bằng những lời giới thiệu chân thật và lay động lòng người của chú trưởng đoàn. Nó dường như là một bài diễn thuyết được chuẩn bị kỹ càng từ trước. Thế nhưng khi chính những mảnh đời đau khổ kia lên tiếng thì mọi người bắt đầu rơi nước mắt. Những cái tên, những quê quán, những cuộc đời và những lý do… Tất cả, tất cả đều bắt đầu bằng những ước mơ, những khát khao yên bình và hạnh phúc. Thế nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả. Chiến tranh tàn bạo đến mức không cho cả những ước mơ nhỏ nhoi nhất được hình thành. Mười ca sĩ là mười cảnh tàn tật khác nhau, mười lý do bất hạnh khác nhau. Và tất nhiên phía sau mười con người cần được cảm thông và chia sẻ ấy còn bao nhiêu người khác đang ngày đêm ngậm ngùi ôm những nỗi đau đớn xót xa. Khác hẳn với màn giới thiệu, buổi trình diễn lại chẳng có một chút gì gợi ra cảnh đau thương. Rất nhiều và rất nhiều bài hát đã được biểu diễn bởi những chất giọng khác nhau. Thế nhưng chúng đều có chung một đặc điểm đó là đều ngợi ca những ước mơ, lòng bác ái và sự công bằng; ngợi ca những ước mơ và khát khao của tuổi thơ của những người đang sống và cả những người đã khuất. Chương trình cuốn hút tất cả người xem, thậm chí nhiều bạn, trong đó có cả tôi đã bước lên sân khấu để tặng hoa và để cùng hát lên những lời ca chia sẻ. Chúng tôi đã khóc, khóc thực sự trong niềm thân ái, trong sự yêu thương và mong ước được sẻ chia. Buổi trình diễn nằm ngoài sự hình dung của tất cả chúng tôi. Nó thực sự khiến chúng tôi bất ngờ và xúc động. Câu chuyện được tôi kể cho gia đình nghe ngay sau khi mọi người dùng xong cơm trưa. Nhấp một chút nước trà, bố tôi vừa dặn đò vừa tâm sự: “Các con còn nhỏ hiểu được như thế là rất quý. Thế nhưng, những gì các con đã làm là chưa thật lớn đâu. Các con còn phải làm nhiều việc tốt lành hơn nữa để đền đáp công ơn của những người đã hy sinh để mang lại hạnh phúc cho cuộc đời mình”. BÀI LÀM “Tùng! Tùng! Tùng!”- tiếng trống tan học vừa dứt, tôi vội chạy ngay về nhà với hộp quà cầm trên tay. Ôi! Con đường hôm nay sao mà dài quá, đi mãi một lúc tôi mới về nhà. Tôi khẽ đi vào phòng khách, mẹ đang ngồi say sưa đọc báo. Nhìn thấy tôi, mẹ ngạc nhiên bảo; – Ơ, sao hôm nay về trễ thế con? Còn quà gì đó? – Mẹ ơi, hôm nay cô giáo đã cho chúng con một bất ngờ cảm động vào tiết sinh hoạt lớp đấy ạ! Để con kể cho mẹ nghe nhé! – Ừ, con kể đi!- Mẹ tôi vui vẻ trả lời. – Dạ, hôm nay vào tiết tư, chúng con đang học thực hành môn Tin ở phòng thực hành thì bỗng có vài bạn xin thầy cho về lớp trước. Mọi người còn chưa hết ngạc nhiên thì tiết tư kết thúc. Tất cả chạy ùa vào lớp. Lớp học được trang trí rất đẹp: những quả bong bong nhỏ xinh dược treo khắp các cửa sổ cùng những dải kim tuyến lấp lánh. Trên bảng được viết dòng chữ: “Chúc mừng sinh nhật” bằng phấn phấn màu rất đẹp. Con vô cùng ngạc nhiên vì không biết các bạn tổ chức sinh nhật cho ai, mà trong tháng mười này lại có ngày sinh nhât của con. – Chà, thú vị thật đó, con mau kể tiếp đi! –Mẹ tôi háo hức nói. – Vâng ạ. Thế rồi, cô giáo bước vào lớp và bắt nhịp cho các bạn hát bài “Happy birthday”. Cô và các bạn đồng thanh hát và vỗ tay rất nhịp nhàng. Rồi, cô thay mặt cho tập thể lớp phát biểu rằng: “Các con ạ, tháng Mười này lớp ta có sinh nhật của các bạn Uyên Phương, Bảo Khánh và Như Ngọc. Cô và ban cán sự lớp đã bí mật tổ chức sinh nhật cho các bạn. Cô chúc các con có một bữa tiệc sinh nhật thật vui vẻ bên tập thể lớp, ngày càng chăm ngoan, học giỏi để ba mẹ và thầy cô vui lòng nhé! Cả lớp cho các bạn một tràng vỗ tay nào!”. “Hoan hô cô giáo! Hoan hô cô giáo!”. Và, tiếng vỗ tay từ các bạn vang lên không ngớt. Cô cho chúng con lên bảng để nhận quà sinh nhật từ lớp. Rồi cả lớp ngồi thưởng thức những tiết mục văn nghệ tuyệt vời của các bạn. Chúng con xúc động vô cùng. Con được đại diện cho các bạn lên phát biểu. Mọi việc đều bất ngời khiến con lúng túng quá, phải mất mấy phút con mới nói được lời cảm ơn cô và các bạn: “Chúng con xin cảm ơn cô giáo và các bạn trong lớp đã tổ chức sinh nhật cho chúng con. Đây là bữa tiệc sinh nhật ý nghĩa nhất mà chúng con sẽ không bao giờ quên. Chúng con hứa sẽ cố gắng chăm ngoan, học giỏi để không phụ long cô giáo và các bạn.”. Cả lớp vỗ tay rào rào không ngớt khiến con sung sướng vô cùng. Thật là thú vị và cảm động phải không mẹ?- Ừ, từ nay con phải chăm ngoan, học thật tốt để xứng đáng với tình yêu thương mà cô và các bạn đã dành cho con đấy! – Vâng ạ! con xin hứa! Sau bữa tiệc sinh nhật đó, cô trò chúng tôi đã gắn bó với nhau hơn rất nhiều. Tập thể lớp 7/3 chúng tôi nhất định sẽ luôn đoàn kết, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau. Cảm ơn cô giáo và các bạn đã cho chúng tôi một bữa sinh nhật tuyệt vời và ý nghĩa./. Sau bữa cơm, gia đình tôi quây quần trong phòng khách. Bỗng tôi chợt nhớ đến chuyện sáng nay và muốn kể ngay cho bố mẹ nghe. Thế là tôi nhanh nhảu “Bố mẹ ơi, lớp con có chuyện này vui lắm. Con kể cho bố mẹ nghe nhé”. Bố mẹ tôi mỉm cười gật đầu, tôi hào hứng: “Hôm nay, ở lớp con, cô giáo đã kể cho chúng con nghe một câu chuyện, vui và cảm động lắm. Câu chuyện vừa xảy ra vào ngày chủ nhật, hôm 20-11. Ba bạn Nga lớp con là bác sĩ, đồng thời là hội trưởng hội phụ phuynh của lớp. Chiều thứ 7, ngày 19-11, ba của bạn Nga ghé thăm cô và tặng cô một chục cam sành. Cô giáo con cảm ơn bác hội trưởng nhưng đã đem túi cam tặng lại cho thím Tư, một thím nghèo, sống cô đơn ở căn nhà nhỏ đầu hẻm. Ai ngờ, lần này, thím Tư thấy chục cam lớn quá, một mình ăn không hết, bèn mang đến tặng lại cho một người bà con đông con, nghèo hơn mình. Cả cô giáo, cả thím Tư lẫn người bà con nghèo của thím đều không giở kỹ túi cam nên không thấy một tấm thiệp nhỏ lọt giữa những quả cam sành to tướng, tấm thiệp do Nga cắt và ghi vào đó lời chúc mừng cô thật tình cảm”.
Hướng dẫn Hướng dẫn lập dàn ý A. Mở bài: Giới thệu (tưởng tượng) về câu chuyện mà em định kể (Lượm hay Đêm nay Bác không ngủ). Lưu ý xác định ngôi kể ngay từ đầu (đóng vai nhân vật người chú hoặc nhân vật anh lính – ngôi thứ nhất; đóng vai một người đứng ngoài câu chuyện để kể lại – ngôi thứ ba). B. Thân bài: 1. Kể lần lượt các chi tiết, các sự kiện diễn ra trong câu chuyện: Ví dụ: Với chuyện Lượm, ta lần lượt kể: – Chi tiết người chú gặp Lượm. – Ấn tượng của người chú về hình dáng và tính cách Lượm. – Chi tiết Lượm đi chuyển thư. – Lượm hi sinh,… 2. Suy nghĩ của người kể và con người Lượm hoặc về Hồ Chí Minh. C. Kết bài: Tưởng tượng về kết thúc của câu chuyện, ví dụ: – Sau ngày giải phóng, người chú về thăm mộ Lượm. – Anh lính sau đó được đi làm cùng Bác. Trong cuộc đời tôi, những ngày tháng đẹp nhất là những ngày tôi được sống và chiến đấu bên cạnh Bác. Những ngày ấy thực sự đã để lại trong tôi những kỷ niệm không thể nào quên. Lúc ấy, tôi là một anh lính mới (người chiến sĩ khi đó thường được gọi là đội viên). Đơn vị tôi vừa mới hành quân ra mặt trận thì cũng vừa lúc Bác trực tiếp ra chiến trường để chỉ đạo tiến quân. Đêm đó Bác ngủ lại cùng anh em ở đơn vị. Và cũng trong đêm đó, Bác đã để lại trong niềm yêu kính của tôi một ấn tượng khó phai. Khoảng quá nửa đêm khi tất cả anh em chiến sĩ đã say sưa trong giấc ngủ thì không hiểu sao tôi lại bỗng nhiên chợt thức. Tôi chưa kịp nhổm dậy nhưng đã nhìn thấy khuôn mặt Bác. Bác còn thức và hình như Bác chưa hề ngủ. Bác ngồi trầm ngâm lặng yên bên bếp lửa. Ngoài trời mưa đã lác đác rơi. Tôi nhìn dáng Bác, càng nhìn tôi lại càng thương. Bác đang khơi ngọn lửa. Người cha già tóc bạc đang đốt lửa sưởi ấm cho tôi. Tôi vẫn lặng yên và quan sát. Tôi thấy Bác đứng dậy. Bác đi dém lại những mảnh chăn một cách nhẹ nhàng. Nhìn Bác, tôi mơ màng như đang nằm trong giấc mộng. Bác mênh mông quá! Ấm nóng và cao quý quá! Tôi thổn thức và thì thầm hỏi nhỏ: – Bác ơi! Bác chưa ngủ! Bác có lạnh lắm không? Bác quay lại nhìn tôi trìu mến: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Tôi vâng lời Bác nhắm mắt nhưng không sao ngủ được. Tôi bồn chồn, nằm và lo Bác Ốm. Chiến địch vẫn còn dài và bao khó khăn vẫn đợi chờ phía trước. Lần thứ ba tôi tỉnh giấc. Tôi hốt hoảng giật mình khi thấy Bác vẫn ngồi đinh ninh, chòm râu im phăng phắc. Tôi vội vàng luống cuống: – Bác ơi! Trời sắp sáng mất rồi, Bác nghỉ đi một lát. Bác vẫn nhẹ nhàng như lần trước: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Bác ngủ không ngon vì Bác không thấy an lòng. Trời mưa như vậy không biết các cô chú dân công ăn ngủ làm sao. Ở trong rừng mà có mỗi manh áo mồng thì chắc là ướt mất. Bác thấy nóng ruột quá. Bác mong sao trời sáng thật mau. Tôi nhìn Bác, lòng tôi ấm áp và vui sướng mênh mông. Đêm ấy, tôi thức luôn cùng Bác. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng bởi tôi đã nhân ra một điều đường như đã trở thành chân lý: Bác của chúng ta vĩ đại bởi Bác đã dành trọn cuộc đời cho những lo lắng và yêu thương. Đó là những ngày ở Huế bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, năm 1947. Tôi lúc bấy giờ ở Hà Nội nhận lệnh khẩn cấp về Huế. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp một chú bé giao liên tên Lượm, ở Hàng Bè. Lượm là một chú bé có dáng người nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn. Chú đeo một cái túi xinh xinh bên mình. Chú có một đôi chân thoăn thoắt và cái đầu nghênh nghênh. Vẻ hồn nhiên và vui tươi ấy càng được tôn thêm bởi chiếc ca lô đội lệch, và mồm luôn huýt sáo như chú chim chích nhảy trên đường vàng. Giữa những ngày kháng chiến toàn dân, chhu1 bé liên lạc như làm tăng thêm niềm tin trong lòng người lính chúng tôi. Tranh thủ ph1ut rảnh rỗi, tôi lại gần hỏi han, trò chuyện với chú. Chú vừa cười vừa nói với tôi: “Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà” Tôi thật sự xúc động trước sự vô tư và hồn nhiên của chú bé. Cháu cười mà hai mí híp cả lại, má đỏ nâu như trái bồ quân chín tới… Chiến tranh còn dài, chúng tôi chia tay nhau, mỗi người đều quyết tâm làm tròn bổn phận của mình. Tôi lưu luyến nhình theo bóng Lượm xa dần mà lòng thầm mong gặp lại cháu trong ngày khải hoàn ca chiến thắng. Nhưng chiến tranh vẫn chứa nhiều tàn nhẫn. Vào một ngày tháng sáu, có giao liên đem tin đến, tôi bàng hoàng được tin Lượm đã hi sinh! Mắt tôi nhoà đi theo lời kể của người liên lạc… “Lượm hi sinh khi đang làm nhiệm vụ. Cháu bị một viên đạn địch bắn tỉa. Nhìn cháu nằm trên lúa, tay còn nắm chặt bông, lá thư đề “Thượng khẩn” còn nằm trong cái xắc… mọi người không cầm được nước mắt…” Cổ họng tôi nghẹn lại, hình ảnh yêu thương ngày nào của cháu hiện lên rõ mồn một: “Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng” … Tôi giật mình tỉnh giấc, nước mắt còn đẫm trên mi… Giấc mơ trôi qua mà lòng tôi mãi còn bồi hồi xúc động. Khói lửa chiến tranh đã tắt hẳn lâu rồi. Lớp trên chúng tôi đang sống những ngày tháng thanh bình và có thể nói là đầy đủ, sung túc. Tất cả là do cha mẹ đã không quản công lao chăm chút, nhưng không thể không kể đến sự hi sinh to lớn của những người anh hùng, trong đó có Lượm – chú giao liên quả cảm! Hãy ngủ yên Lượm ơi! Chúng tôi xin hứa sẽ cố gắng học thật giỏi để gìn giữ và xây dựng đất nước này. Giữa những ngày tháng thanh bình, trang viết của tôi thay nén hương thơm, xin được tri ân những người anh hùng vị quốc vong thân… Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Cao – Bắc – Lạng (còn gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô… Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi. Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi trú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác không ngủ. Người ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng trán rộng. Đêm đã khuya. Cảnh vật chìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Đồng đội của tôi đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả. Tôi trở mình, quay mặt về phía đông lửa và lặng lẽ nhìn Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm toả khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì bà mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con. Tôi dõi theo từng cử chỉ của Bác mà trong lòng trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác lồng lộng trên vách nứa đơn sơ. Tình thương của Bác đã sưởi ấm trái tim chiến sĩ trước giờ ra trận. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ: – Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không? Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ: – Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc! Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi. Thời gian vẫn âm thầm trôi qua. Trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt trĩu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi bèn lên tiếng: – Thưa Bác! Xin Bác chợp mắt một chút cho khỏe ạ! Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi: Cháu đừng bận tâm! Bác không thể yên lòng mà ngủ. Trời thì mưa lạnh thế này, dân công ngủ ngoài rừng, tránh sao cho khỏi ướt?! Bác nóng ruột lắm, chỉ mong trời mau sáng!
Hướng dẫn Hướng dẫn lập dàn ý A. Mở bài: Giới thệu (tưởng tượng) về câu chuyện mà em định kể (Lượm hay Đêm nay Bác không ngủ). Lưu ý xác định ngôi kể ngay từ đầu (đóng vai nhân vật người chú hoặc nhân vật anh lính – ngôi thứ nhất; đóng vai một người đứng ngoài câu chuyện để kể lại – ngôi thứ ba). B. Thân bài: 1. Kể lần lượt các chi tiết, các sự kiện diễn ra trong câu chuyện: Ví dụ: Với chuyện Lượm, ta lần lượt kể: – Chi tiết người chú gặp Lượm. – Ấn tượng của người chú về hình dáng và tính cách Lượm. – Chi tiết Lượm đi chuyển thư. – Lượm hi sinh,… 2. Suy nghĩ của người kể và con người Lượm hoặc về Hồ Chí Minh. C. Kết bài: Tưởng tượng về kết thúc của câu chuyện, ví dụ: – Sau ngày giải phóng, người chú về thăm mộ Lượm. – Anh lính sau đó được đi làm cùng Bác. Trong cuộc đời tôi, những ngày tháng đẹp nhất là những ngày tôi được sống và chiến đấu bên cạnh Bác. Những ngày ấy thực sự đã để lại trong tôi những kỷ niệm không thể nào quên. Lúc ấy, tôi là một anh lính mới (người chiến sĩ khi đó thường được gọi là đội viên). Đơn vị tôi vừa mới hành quân ra mặt trận thì cũng vừa lúc Bác trực tiếp ra chiến trường để chỉ đạo tiến quân. Đêm đó Bác ngủ lại cùng anh em ở đơn vị. Và cũng trong đêm đó, Bác đã để lại trong niềm yêu kính của tôi một ấn tượng khó phai. Khoảng quá nửa đêm khi tất cả anh em chiến sĩ đã say sưa trong giấc ngủ thì không hiểu sao tôi lại bỗng nhiên chợt thức. Tôi chưa kịp nhổm dậy nhưng đã nhìn thấy khuôn mặt Bác. Bác còn thức và hình như Bác chưa hề ngủ. Bác ngồi trầm ngâm lặng yên bên bếp lửa. Ngoài trời mưa đã lác đác rơi. Tôi nhìn dáng Bác, càng nhìn tôi lại càng thương. Bác đang khơi ngọn lửa. Người cha già tóc bạc đang đốt lửa sưởi ấm cho tôi. Tôi vẫn lặng yên và quan sát. Tôi thấy Bác đứng dậy. Bác đi dém lại những mảnh chăn một cách nhẹ nhàng. Nhìn Bác, tôi mơ màng như đang nằm trong giấc mộng. Bác mênh mông quá! Ấm nóng và cao quý quá! Tôi thổn thức và thì thầm hỏi nhỏ: – Bác ơi! Bác chưa ngủ! Bác có lạnh lắm không? Bác quay lại nhìn tôi trìu mến: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Tôi vâng lời Bác nhắm mắt nhưng không sao ngủ được. Tôi bồn chồn, nằm và lo Bác Ốm. Chiến địch vẫn còn dài và bao khó khăn vẫn đợi chờ phía trước. Lần thứ ba tôi tỉnh giấc. Tôi hốt hoảng giật mình khi thấy Bác vẫn ngồi đinh ninh, chòm râu im phăng phắc. Tôi vội vàng luống cuống: – Bác ơi! Trời sắp sáng mất rồi, Bác nghỉ đi một lát. Bác vẫn nhẹ nhàng như lần trước: – Chú cứ việc ngủ ngon. Ngày mai đi đánh giặc. Bác ngủ không ngon vì Bác không thấy an lòng. Trời mưa như vậy không biết các cô chú dân công ăn ngủ làm sao. Ở trong rừng mà có mỗi manh áo mồng thì chắc là ướt mất. Bác thấy nóng ruột quá. Bác mong sao trời sáng thật mau. Tôi nhìn Bác, lòng tôi ấm áp và vui sướng mênh mông. Đêm ấy, tôi thức luôn cùng Bác. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng bởi tôi đã nhân ra một điều đường như đã trở thành chân lý: Bác của chúng ta vĩ đại bởi Bác đã dành trọn cuộc đời cho những lo lắng và yêu thương. Đó là những ngày ở Huế bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, năm 1947. Tôi lúc bấy giờ ở Hà Nội nhận lệnh khẩn cấp về Huế. Trên đường đi, tôi tình cờ gặp một chú bé giao liên tên Lượm, ở Hàng Bè. Lượm là một chú bé có dáng người nhỏ nhắn mà nhanh nhẹn. Chú đeo một cái túi xinh xinh bên mình. Chú có một đôi chân thoăn thoắt và cái đầu nghênh nghênh. Vẻ hồn nhiên và vui tươi ấy càng được tôn thêm bởi chiếc ca lô đội lệch, và mồm luôn huýt sáo như chú chim chích nhảy trên đường vàng. Giữa những ngày kháng chiến toàn dân, chhu1 bé liên lạc như làm tăng thêm niềm tin trong lòng người lính chúng tôi. Tranh thủ ph1ut rảnh rỗi, tôi lại gần hỏi han, trò chuyện với chú. Chú vừa cười vừa nói với tôi: “Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà” Tôi thật sự xúc động trước sự vô tư và hồn nhiên của chú bé. Cháu cười mà hai mí híp cả lại, má đỏ nâu như trái bồ quân chín tới… Chiến tranh còn dài, chúng tôi chia tay nhau, mỗi người đều quyết tâm làm tròn bổn phận của mình. Tôi lưu luyến nhình theo bóng Lượm xa dần mà lòng thầm mong gặp lại cháu trong ngày khải hoàn ca chiến thắng. Nhưng chiến tranh vẫn chứa nhiều tàn nhẫn. Vào một ngày tháng sáu, có giao liên đem tin đến, tôi bàng hoàng được tin Lượm đã hi sinh! Mắt tôi nhoà đi theo lời kể của người liên lạc… “Lượm hi sinh khi đang làm nhiệm vụ. Cháu bị một viên đạn địch bắn tỉa. Nhìn cháu nằm trên lúa, tay còn nắm chặt bông, lá thư đề “Thượng khẩn” còn nằm trong cái xắc… mọi người không cầm được nước mắt…” Cổ họng tôi nghẹn lại, hình ảnh yêu thương ngày nào của cháu hiện lên rõ mồn một: “Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng” … Tôi giật mình tỉnh giấc, nước mắt còn đẫm trên mi… Giấc mơ trôi qua mà lòng tôi mãi còn bồi hồi xúc động. Khói lửa chiến tranh đã tắt hẳn lâu rồi. Lớp trên chúng tôi đang sống những ngày tháng thanh bình và có thể nói là đầy đủ, sung túc. Tất cả là do cha mẹ đã không quản công lao chăm chút, nhưng không thể không kể đến sự hi sinh to lớn của những người anh hùng, trong đó có Lượm – chú giao liên quả cảm! Hãy ngủ yên Lượm ơi! Chúng tôi xin hứa sẽ cố gắng học thật giỏi để gìn giữ và xây dựng đất nước này. Giữa những ngày tháng thanh bình, trang viết của tôi thay nén hương thơm, xin được tri ân những người anh hùng vị quốc vong thân… Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Cao – Bắc – Lạng (còn gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô… Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi. Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi trú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác không ngủ. Người ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng trán rộng. Đêm đã khuya. Cảnh vật chìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Đồng đội của tôi đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả. Tôi trở mình, quay mặt về phía đông lửa và lặng lẽ nhìn Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm toả khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì bà mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con. Tôi dõi theo từng cử chỉ của Bác mà trong lòng trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác lồng lộng trên vách nứa đơn sơ. Tình thương của Bác đã sưởi ấm trái tim chiến sĩ trước giờ ra trận. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ: – Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không? Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ: – Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc! Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi. Thời gian vẫn âm thầm trôi qua. Trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt trĩu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi bèn lên tiếng: – Thưa Bác! Xin Bác chợp mắt một chút cho khỏe ạ! Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi: Cháu đừng bận tâm! Bác không thể yên lòng mà ngủ. Trời thì mưa lạnh thế này, dân công ngủ ngoài rừng, tránh sao cho khỏi ướt?! Bác nóng ruột lắm, chỉ mong trời mau sáng!
Hướng dẫn Bài làm Giờ đây, dù cho mái trường mầm non đã không còn gắn bó với em hơn 7 năm trời, thế nhưng, những hình ảnh về nó cũng như người giáo viên hiền hậu vẫn còn im đậm trong tâm trí em. Người ta thường nói: “Con có lớn khôn mới hay lòng cha mẹ”, người làm thầy, làm cô cũng giống như cha mẹ của chúng ta vậy, chỉ khi đủ lớn để biết suy nghĩ về công ơn dưỡng dục thì khi ấy chúng ta mới biết ơn những người giáo viên một cách thực sự. Với riêng em, phải mất tới hơn 7 năm trời em mới cảm nhận được phần nào sự tảo tần, chăm chỉ, luôn cố gắng dốc hết sức mình cho sự nghiệp trồng người của một cô giáo thuở mầm non. Cô giáo mang tên một loài hoa quyến rũ: Trần Ánh Hồng, mọi người thường gọi cô với cái tên “Hồng thắm” bởi gương mặt cô luôn ánh lên vẻ tươi thắm, rạng rỡ nhờ nụ cười thường trực trên môi. Sự hiền từ của cô được biểu hiện qua đôi mắt dịu dàng và luôn sáng lên mỗi khi nhìn thấy những cô, cậu học trò nhỏ. Mái tóc dài mượt mà cùng dáng người có phần mũm mĩm chính là đặc điểm khiến mọi người dễ nhận ra cô ngay cả ở phía xa. Với sở thích khoác trên mình những bộ váy hoa sặc sỡ, cô “hút” ánh nhìn của mọi đứa trẻ ngay từ những phút đầu gặp gỡ. Có thể nói, đối với em cũng như các bạn cùng trang lứa lúc bấy giờ thì cô Hồng giống như một nàng tiên bước ra từ những câu chuyện cổ tích. Nghĩ lại những ngày tháng đó, tự nhiên em thấy nể phục cô bội phần, hẳn là một người có tâm với nghề giáo và thực sự yêu quý những đứa trẻ thì mới đủ kiên nhẫn “giảng đạo lý” cho chúng ngay cả khi chúng đang tìm cách “nổi loạn”, Và cũng nhờ cái tâm đó mà người ta thường thấy một cô giáo không bao giờ ngủ trưa mà thay vào đó là rón rén đến bên giường mỗi bé để chăm chút cho giấc ngủ thêm say nồng. Trong tâm trí em vẫn còn lờ mờ hình ảnh một cô giáo trẻ được vây quanh bởi một lũ con nít, đứa thì đòi cô buộc tóc, đứa lại bắt cô kể chuyện cho nghe, chốc chốc lại có ứa chạy lại mách cô rằng có bạn trêu chọc… Cứ thế, lớp học đôi khi như một mớ hỗn độn giữa cuộc sống vốn đã ồn ào, thế nhưng bằng nghiệp vụ và tình yêu của mình, cô đã nhanh chóng lập lại trật tự để không khí rộn tiếng cười của những cô, cậu nhóc ngoan ngoãn, biết nghe lời luôn là “không khí chủ đạo” trong lớp học. tả cô giáo mầm non của em – văn mẫu lớp 7
Instruct Assignment Now, even though the kindergarten is no longer attached to me for more than 7 years, the images of it as well as the gentle teacher are still deep in my mind. People often say: "Only when you grow up will you know your parents' hearts." Teachers and aunts are just like our parents. Only when they are old enough to think about the merit of raising them will they We are truly grateful to teachers. For me, it took more than 7 years for me to feel some of the diligence, diligence, and always trying to devote my best to the career of a preschool teacher. The teacher has the name of a charming flower: Tran Anh Hong, people often call her "Dark Pink" because her face always shines bright and radiant thanks to the permanent smile on her lips. Her gentleness is expressed through her gentle eyes that always light up every time she sees young students. Her long, smooth hair and somewhat chubby figure are the characteristics that make people easily recognize her even from afar. With her hobby of wearing colorful floral dresses, she "attracted" the attention of every child right from the first minute of meeting her. It can be said that for me and my peers at that time, Ms. Hong was like a fairy coming out of fairy tales. Thinking back to those days, I suddenly feel a lot more respect for her. She must have been a person who had a heart for teaching and truly loved children to have the patience to "preach morality" to them even when they were angry. is looking for a way to "rebel", and thanks to that mind, people often see a teacher who never takes a nap but instead tiptoes to each child's bed to take care of the child's sleep more deeply. In my mind, there is still a vague image of a young teacher surrounded by a group of children, some asking her to tie her hair, some asking her to tell stories, and from time to time they ran to tell her that there was something wrong. you tease... Just like that, the classroom sometimes seemed like a mess amidst the already noisy life, but with her professionalism and love, she quickly restored order so that the atmosphere was filled with laughter. Obedient and obedient girls and boys are always the "main atmosphere" in the classroom. Describe your kindergarten teacher - 7th grade sample essay
Hướng dẫn Bài làm Sau những giờ học căng thẳng trên lớp hay khi có chuyện buồn, tôi chỉ mong trở về nhà thật nhanh để nhìn thấy người mẹ thân yêu của tôi. Với tôi, mẹ là người vô cùng quan trọng, chẳng ai có thể thay thế mẹ của tôi. Với tôi, mẹ là người sinh thành, nuôi nấng, chở che … Mẹ là niềm hạnh phúc của đời tôi. Mẹ luôn dành cho tôi những tình cảm yêu thương, tốt đẹp nhất. Mẹ tôi đã gần bốn mươi tuổi. Mẹ có dáng người thon thả, làn da mẹ màu dám nắng. Tóc mẹ dài đến ngang vai, màu hoe vàng. Mẹ có khuôn mặt phúc hậu. Khi nhìn gương mặt ấy tôi biết mẹ yêu tôi đến nhường nào. Khi tôi buồn, tôi ốm, đôi mắt mẹ trũng sâu hằn lên những nỗi lo lắng suy tư. Tôi vui, mắt mẹ ánh lên những tia sáng hy vọng. Tôi yêu nhất ở mẹ đôi mắt, đôi mắt mẹ là cánh cửa của tâm hồn mà mẹ luôn dang rộng để đón tôi vào. Biểu cảm về người thân Nhưng tôi yêu quý mẹ còn bởi những gì tốt đẹp mẹ mang đến cho tôi. Mẹ rất thích công việc của mình – nghề giáo viên. Nhưng sau khi sinh ra tôi và em tôi, mẹ phải nghỉ một năm ở nhà để chăm sóc anh em tôi. Mẹ hy sinh tất cả để cho gia đình mình có giây phút đầm ấm bên nhau. Mẹ dạy anh em tôi học bài trên lớp, cách nói năng, cư xử với mọi người. Khi chúng tôi sai là mẹ lại nhẹ nhàng nhắc nhở. Mẹ nói em tôi là con gái nên phải cẩn thận, khéo léo. Mẹ thường cho em tôi đi chợ để học cách chọn rau quả, thịt, cá … Lúc nấu ăn mẹ cũng cho nó phụ cùng, vừa nấu mẹ vừa giảng giải, hướng dẫn chuyện bếp núc. Vì mẹ tôi là giáo viên dạy nhiều bộ môn nên chuyện học hành của anh em tôi môn nào mẹ cũng hướng dẫn được. Tôi lớn lên được như bây giờ, đã biết khóc biết cười đúng cảm xúc của mình, tôi cười, mẹ cũng mỉm cười làm niềm vui của tôi nhân lên nhiều lần. Khi tôi buồn, mẹ chia sẻ làm nỗi buồn của tôi vơi bớt đi. Mẹ luôn chia sẻ niềm vui nỗi buồn cùng tôi. Với tôi, mẹ là người phụ nữ hoàn mĩ nhất thế gian.
Instruct Assignment After stressful hours in class or when something sad happens, I just want to return home quickly to see my beloved mother. To me, my mother is a very important person, no one can replace my mother. To me, my mother is the one who gave birth to me, raised me, protected me... She is the happiness of my life. Mom always gives me the best love and affection. My mother is nearly forty years old. My mother has a slim figure and her skin is the color of the sun. Mom's hair is shoulder-length and blonde. Mom has a kind face. When I look at that face, I know how much my mother loves me. When I was sad or sick, my mother's eyes were sunken and filled with worries and thoughts. I was happy, my mother's eyes shone with rays of hope. What I love most about my mother is her eyes. Her eyes are the door to her soul that she always opens wide to welcome me in. Expressions about relatives But I love my mother also because of the good things she brings to me. Mom really likes her job - being a teacher. But after giving birth to me and my brother, my mother had to take a year off to stay home to take care of my brother and me. Mom sacrificed everything so that her family could have a warm moment together. My mother taught my brothers and me how to study in class, how to speak, and how to behave with people. When we are wrong, mother gently reminds us. My mother said that my sister was a girl so she had to be careful and tactful. My mother often took my brother to the market to learn how to choose vegetables, meat, fish... When cooking, my mother also let him help. While cooking, she explained and guided me in the kitchen. Because my mother is a teacher who teaches many subjects, she can guide my brothers and I in any subject. When I grew up like this, I knew how to cry and laugh according to my emotions. I smiled and my mother also smiled, multiplying my joy many times over. When I'm sad, my mother shares her feelings to ease my sadness. Mom always shares joys and sorrows with me. To me, my mother is the most perfect woman in the world.
Hướng dẫn Chúng ta từng biết và cảm thông với tấm lòng của những người phải sống xa quê hương, trĩu nặng tình quê trong thơ Đường của Lí Bạch, Đỗ Phủ, Hạ Tri Chương,.., Ở Việt Nam, cách đây không lâu cũng có một nghệ sĩ do hoàn cảnh riêng và yêu cầu công tác cách mạng phải xa rời quê hương miền Bắc vào sống ở miền Nam mấy chục năm trời, nhà văn Vũ Bằng – một nhà văn từng nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tấm lòng của Vũ Bằng đối với quê hương đã được gửi gắm trong tác phẩm tuỳ bút – bút kí đặc sắc Thương nhớ mười hai mà đoạn trích Mùa xuân của tôi là tiêu biểu. Đoạn trích Mùa xuân của tôi là một phần trong thiên tuỳ bút dài có tên Tháng giêng mơ về trăng non, rét ngọt, mở đầu cho nỗi “thương nhớ mười hai” của nhà văn Vũ Bằng. Đoạn trích đã tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê. Vì là đoạn trích từ một thiên tuỳ bút nên không có bố cục hoàn chỉnh của một tác phẩm. Tuy vậy, đọc bài văn Mùa xuân của tôi, chúng ta vẫn hiểu và suy ngẫm về ý nghĩ và tình cảm của tác giả theo ba đoạn nhỏ: Đoạn mở đầu: từ đầu đến “… mê luyến mùa xuân” ; Con người say mê lưu luyến mùa xuân là một điều tất yếu, tự nhiên. Đoạn thứ hai: từ “Tôi yêu sông xanh…” đến “… mở hội liên hoan”: Cảnh sắc và không khí mùa xuân ở Hà Nội, miền Bắc. Đoạn ba: từ “Đẹp quá đi…” đến hết bài: Cảnh sắc, đất trời mùa xuân miền Bắc từ sau rằm tháng giêng. “Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội…”. Ớ phần đầu đoạn hai, nhà văn Vũ Bằng đã nhớ về quê hương bằng một câu văn ngân nga như những tiếng reo vui như thế. Sau đó, qua hồi tưởng của ông, cảnh sắc và không khí ngày tết – mùa xuân Hà Nội – hiện ra đẹp quá, vui quá, đáng yêu, đáng nhớ làm sao. Tín hiệu báo xuân về là: “Mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ nhũng thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình…”. Mưa riêu riêu là mưa thế nào? Tiếng hát huê tình là gì? Mưa riêu riêu là mưa phùn, hạt nhỏ, kéo dài, mưa xuân âm ẩm, mát lành. Tiếng hát huê tình là tiếng hát tỏ tình, tiếng hát của trai gái yêu nhau… Trước cảnh sắc mùa xuân như thế, nhà văn Vũ Bằng — người đang sống li hương – đã nhớ kỉ niệm xưa của mình và sống lại, kể lại bằng những câu văn trữ tình đằm thắm. Nào là “Người yêu cảnh… khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài… không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa… sự sống!”. Nào là “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai…”. Nào là “Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn… Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót kiếm ăn, anh cũng “sống lại” và thèm khất yêu thương. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa…”. Có thể nói, đối với mùa xuân quê hương, nhà văn Vũ Bằng mang một tình yêu nồng nàn, đằm thắm. Ông đã tự vẽ lại hình ảnh của chính mình khi còn sống ở Hà Nội với biết bao lời văn, bao cách so sánh đẹp đẽ, Ngỡ như, trước mùa xuân, ông đã hoá thân thành muôn loài cỏ cây, muông thú để được tắm trong mùa xuân, hưởng thụ tất cả sức sống tràn trề của mùa xuân để lớn lên, trẻ lại cùng mùa xuân. Đoạn văn xuôi tuy bút, ngẫu hứng y như đoạn thơ trữ tình mà ở đó, cái tôi nhà văn trở thành một thi sĩ đa tình, say đắm, đáng cảm thông. Đọng lại của cảnh sắc mùa xuân Hà Nội và nỗi nhớ quê hương của Vũ Bằng là hình ảnh gia đình người Hà Nội bày cỗ đón xuân, bái vọng tổ tiên trở về vui xuân cùng co.n cháu: “Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng…”. Cảnh sắc mùa xuân không chỉ hiện lên bằng vẻ đẹp thiên nhiên mà còn hiện lên bằng nhũng nét đẹp trong cuộc sống nghĩa tình của con người. Đó là nét văn hoá truyền thống của thủ đô Hà Nội, của đất Bắc, của Việt Nam quê hương chúng ta. Cảm nhận và ngợi ca quê hương miền Bắc mùa xuân bằng đoạn văn phóng túng vừa miêu tả vừa tự sự, miêu tả để biểu cảm, ngòi bút Vũ Bằng như không muốn dừng lại. Do đó, xuống đoạn ba, ông tiếp tục khẳng định: “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”. Sau đó, cảm xúc và bút lực như lắng lại, trầm tĩnh hơn. Nhà văn tâm sự: “Tôi yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng…”. Đến đây, nhà văn phát hiện một vẻ đẹp khác nữa của mùa xuân đất Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự hồi sinh, của đất trời, cây cỏ trổ lộc, đơm hoa, kết trái. “Đào hơi phai, nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh, nhưng… lại nức một mùi hương man mác… mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn… Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa… người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị… các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật…”. Những hình ảnh thiên nhiên từ sau ngày rằm tháng giêng không sôi động, rực rỡ bằng những ngày Tết mà như đang bình tĩnh trở lại, đang tích tụ, chưng cất sức sống của mùa xuân để nối tiếp cuộc tuần hoàn kì diệu trong đời sống con người và đất trời, cây cỏ. Ở đoạn này, cái tôi nhà văn không trực tiếp hiện ra như ở đoạn trên mà đang nằm dài nhìn ra cửa sổ… để chiêm ngưỡng, để nhớ thương, và khao khát ngày mai trở lại quê hương, về gặp lại mùa xuân đất Bắc. Từ tình yêu mùa xuân thiên nhiên, tấm lòng thương nhớ quê hương, lòng yêu Tổ quốc của nhà văn Vũ Bằng mỗi lúc một đằm sâu, thấm thìa. Từ ngữ, câu văn, các biện pháp tu từ mỗi lúc một chắt lọc, vừa chính xác vừa in đậm phong cách văn chương của tác giả, rất tài hoa, phóng túng.
Instruct We have known and sympathized with the hearts of people who had to live far from their homeland, burdened with love for their homeland in the Tang poems of Ly Bach, Do Phu, Ha Tri Chuong, etc. In Vietnam, not long ago there were also An artist who, due to personal circumstances and revolutionary work requirements, had to leave his homeland in the North and live in the South for decades, writer Vu Bang - a famous writer before the August Revolution in 1945. Vu Bang's heart for his homeland was expressed in his unique essay - Memoir Twelve, of which the excerpt My Spring is typical. The excerpt My Spring is part of a long essay titled January dreams of a new moon, sweet cold, opening the "longing for twelve" of writer Vu Bang. The excerpt recreates the natural scenery and spring atmosphere in Hanoi and the North through the deep nostalgia of a person far from home. Because it is an excerpt from an essay, there is no complete layout of the work. However, reading the essay My Spring, we still understand and reflect on the author's thoughts and feelings in three small paragraphs: Prologue: from the beginning to "... fall in love with spring"; People's passion for spring is inevitable and natural. Second paragraph: from "I love the green river..." to "... opening a festival": Scenery and spring atmosphere in Hanoi, the North. Paragraph three: from "So beautiful..." to the end of the song: Scenery, earth and sky in spring in the North from after the full moon of January. “My spring – North Vietnam spring, Hanoi spring…”. At the beginning of the second paragraph, writer Vu Bang remembered his homeland with a sentence that echoed like joyful cries. After that, through his recollections, the scenery and atmosphere of Tet holiday - spring in Hanoi - appeared so beautiful, so happy, so lovely, so memorable. The signal announcing the arrival of spring is: "Raining rain, cold wind, the sound of swallows calling in the blue night, the sound of rowing drums echoing from far away villages, there are love songs...". What kind of rain is rain? What is love song? Raining rain is drizzle, small drops, prolonged, damp, cool spring rain. The song of love is the song of confession, the song of a boy and girl in love... Faced with such spring scenery, writer Vu Bang - who is living abroad - remembered his old memories and relived them, recounting them. with loving lyrical sentences. Which is "The person who loves the scenery... wears a fur coat, holds a pipe, opens the door and goes out... without drinking strong alcohol as his heart is drunk... with life!". Which is “I can't stand sitting still. The life sap in the body swells like the blood swells in the deer's buds...". Which is "With the return of spring, people's hearts also seem to get younger, and beat harder... Just like animals lying in a place to hide from the cold, when they see the warm sunshine returning, they crawl out to jump and look for it." eating, he also "resurrects" and craves love. When I go out, I see everyone wanting to love me, and when I come home, I feel loved too..." It can be said that for the spring of his homeland, writer Vu Bang has a passionate and loving love. He painted his own image when he was still living in Hanoi with so many beautiful words and comparisons. It was as if, before spring, he had transformed into all kinds of plants and animals to win. bathe in spring, enjoy all the vitality of spring to grow up and become young again with spring. The prose is as pen and spontaneous as the lyrical poem, in which the writer's ego becomes an amorous, passionate, sympathetic poet. Remaining in the spring scenery of Hanoi and Vu Bang's nostalgia for his homeland is the image of a Hanoian family presenting a feast to welcome spring, praying for their ancestors to return to enjoy spring with their children and grandchildren: "Incense sticks, candles." , and especially the peaceful atmosphere of family reunion, on the glass and on the ground, in front of Buddha altars, Saint altars, and ancestral altars, makes my heart strangely warm...". The spring scenery not only shows up with natural beauty but also shows up with the beauty in people's meaningful lives. That is the traditional culture of the capital Hanoi, of the North, of our homeland Vietnam. Feeling and praising the Northern homeland in the spring with liberal prose that is both descriptive and narrative, descriptive to express, Vu Bang's pen seems to not want to stop. Therefore, in paragraph three, he continued to affirm: "It's so beautiful, spring - the spring of beloved Hanoi, of beloved North Vietnam." After that, emotions and writing seemed to calm down and become calmer. The writer confided: "I love spring especially after the full moon day of the first month...". Coming here, the writer discovered another beauty of spring in the North. That is the beauty of resurrection, of heaven and earth, of plants blossoming, blooming, and bearing fruit. "The peaches are a bit faded, but the pistils are still strong, the grass is not green, but... it exudes a subtle scent... spring rain has begun to replace the drizzle... On the lychee trellis, a few industrious bees have flown in search of stamens... people began to return to simple meals... Tet fun also temporarily ended to make room for peaceful daily life...". The images of nature after the full moon day of the first lunar month are not as vibrant and brilliant as those during Tet, but seem to be calming down, accumulating and distilling the vitality of spring to continue the magical cycle in life. human life, earth, sky, and plants. In this paragraph, the writer's ego does not appear directly as in the above paragraph, but is lying down looking out the window... to admire, to miss, and longing to return to his homeland tomorrow, to see the spring of the land again. North. From the love of natural spring, the longing for the homeland, the love for the Fatherland of writer Vu Bang becomes deeper and deeper each time. Words, sentences, and rhetorical devices are increasingly refined, both precise and bold in the author's literary style, very talented and liberal.
Hướng dẫn Trong kho tàng văn hoá truyền thống Việt Nam, chèo là một loại hình quan trọng Và độc đáo. Chèo tổng hợp trong nó cả văn học, vũ đạo, hội hoạ, ca nhạc, diễn xướng,… dân gian. Trong kịch, mục sân khấu chèo, Quan Âm Thị Kính là vở diễn nổi tiếng, được phổ biến rộng rãi trên mọi miền Tổ quốc, được nhiều nước trên thế giới ca ngợi. Vở diễn này tiêu biểu cho sàn khấu chèo về: tích truyện, kịch tính, nhân vật, các làn điệu dân ca, các điệu dân vũ,… Trong Quan Âm Thị Kính, đoạn Nỗi oan hại chồng giúp chúng ta hiểu những nét đặc sắc của cả tác phẩm, nhất là về mặt kịch bản văn học. Nỗi oan hại chồng là bi kịch đầu tiên của cuộc đời Thị Kính – nhân vật chính của vở chèo. Đoạn trích diễn tả cụ thể, sinh động tình cảnh bi thảm, bế tắc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Các nhân vật đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch. Câu chuyện được kể theo ba tình huống (còn gọi là ba cảnh) chính: 1.Vợ chồng Thiện Sĩ và Thị Kính chung hưởng hạnh phúc gia đình. Chồng đọc sách, vợ khâu vá, chăm sóc chồng (Từ đầu đến chi tiết Thiện Sĩ choàng dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên). 2.Sùng bà vu oan giáng hoạ cho Thị Kính, đánh đuổi nàng dâu. Thị Kính kêu oan, nhưng không được. Xung đột nổ ra, mỗi lúc một căng thẳng, không thể dung hoà (Từ chi tiết Thiện Sĩ kêu “Hỡi cha! Hỡi mẹ!…” đến chi tiết Sùng bà dúi tay đẩy Thị Kính ngã, có tiếng Sùng ông nói từ ngoài cửa). 3.Đoạn còn lại: Cha con Thị Kính than thở về nỗi oan. Cha dắt con về. Thị Kính không về nhà, mà quyết định xuống tóc đi tu để “cầu Phật chứng minh” cho oan tình của mình. Xung đột kịch lên đỉnh điểm và cách giải quyết xung đột. Đoạn trích vừa mang tính kịch (biến diễn các xung đột) vừa tự sự, kể chuyện. Tất cả các chi tiết, tình huống xoay quanh mâu thuẫn giữa hai gia đình, tiêu biểu cho hai tầng lớp, hai giai cấp giàu và nghèo trong xã hội xưa. Trong đó nổi bật và tập trung vào xung đột giữa hai nhân vật: Sùng bà và Thị Kính. Do đó, tìm hiểu và suy nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng chúng ta có thể kết hợp xung đột kịch và những đặc điểm số phận, tính cách của hai nhân vật chính ấy. Sùng bà đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến, là một con người tàn nhẫn, thô bạo trong hành động ; ngoa ngoắt, hợm hĩnh, vu khống trong lời nói, ý nghĩ. Vừa nghe con trai kêu “thấy dao kìa kề cổ”, không cần hỏi han, tra xét cụ thể, Sùng bà đã buộc tội cho Thị Kính là “mày định giết con bà à”, rồi tiếp sau, dồn dập bao nhiêu lời cáo buộc, vu khống trắng trợn. Nào là “Mày trót say hoa đắm nguyệt”, nào là “Gái say trai lập chí giết chồng”. Chao ôi, toàn là những tội tày đình mà người mẹ chồng ấy đã suy đoán hồ đồ, để cố tình buộc tội con dâu, gieo xuống số phận Thị Kính một cái án, một nỗi oan thê thảm. Từ những ý nghĩ lạnh lùng, vô căn cứ đó, Sùng bà đã đối xử với Thị Kính bằng những cử chỉ, hành động rất tàn nhẫn, thô bạo. Mụ “dúi đầu Thị Kính xuống”, rồi “bắt Thị Kính ngửa mặt lên”. Không cho Thị Kính phân bua, giải thích, mụ lấp liếm vừa nói vừa hát bằng một giọng điệu cay độc, khinh ghét. Cuối cùng, mụ “dúi tay, đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống”, rồi bỏ vào nhà. Người mẹ chồng ấy đã đuổi con dâu một cách tàn nhẫn. Trong lời nói, điệu hát, Sùng bà liên tục đay nghiến, nhiếc mắng Thị Kính. Dường như mỗi lần mụ cất lời, Thị Kính lại thêm một tội. Đặc biệt là khi nói, Sùng bà luôn cố ý so sánh, đối chiếu để phân biệt đẳng cấp giữa hai gia đình: – Giống nhà bà đây giống phượng giống công. – Mày là con nhà cua ốc. – Nhà bà đây cao môn lệnh tộc, – Tuồng bay mèo mả, gà đồng. – Trứng rồng lại nở ra vồng. – Liu điu lại nở ra dòng liu điu. Các tác giả dân gian ngày xưa đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ thật sinh động. Lời nói, bài ca của người mẹ chồng ấy đã dụng nên một loạt hình ảnh tạo vật trái ngược nhau, tô đậm thêm sự đối lập, tính xung đột của câu chuyện. Lời lẽ của mụ Sùng thật phong phú, da dạng, nhưng đều tập trung ở một tư tưởng: sự phân biệt “cao – thấp”, “giàu nghèo”. Trong lời lẽ ấy vừa chứa đụng thói kiêu căng của tầng lớp của chủ phong kiến vừa bộc lộ quan hệ đối lập mẹ chồng, nàng dâu vốn là quan hệ căng thẳng trong xã hội xưa, những kẻ giàu cố thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến luôn luôn khinh rẻ những người thuộc tầng lớp lao động, nghèo khó. Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được Sùng bà chấp nhận bởi vì nàng không thuộc nguồn gốc “con nhà giống phượng, giống công”. Mâu thuẫn giữa Sùng bà (và cả gia đình) với Thị Kính (kể cả Mãng ông) tuy chỉ là mâu thuẫn trong hôn nhân, gia đình nhưng có ý nghĩa phản ánh mâu thuẫn giai cấp trong xã hội phong kiến. Nhân vật Sùng bà chỉ ra trò, xuất hiện trong một lớp kịch, một tình huống truyện nhung rất tiêu biểu cho một loại vai trong chèo cổ: vai mụ ác. Ở nhân vật này tập trung cao độ tính cách của kẻ hợm của, khoe dòng giống, tàn nhẫn, độc đoán, cả vú lấp miệng em. Lúc nào mụ Sùng cũng lấy mình làm chuẩn để tỏ rõ phép nhà. Mụ là kẻ tạo ra “luật lệ” trong gia đình, chỉ huy tất cả, bắt tất cả từ chồng, đến con trai và con dâu phải theo ý mình, phải nể sợ, tôn trọng lời nói và hành động của mình. Trong đoạn chèo Nỗi oan hụi chồng, nhân vật Sùng bà hiện lên thật sống, động, gây cho người đọc, người xem cảm xúc ghê sợ, khinh ghét, cần phải phê phán. Đối lập với nhân vật Sùng bà là nhân vật Thị Kính. Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo. Nàng đại diện cho người phụ nữ lao động, những người dân bình thường, lương thiện. Cảnh ngộ của nàng thật thảm thương. Năm lần Thị Kính kêu oan. Trong năm lần ấy thì bốn lần tiếng kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng: “Giời ơi! Mẹ ơi, oan con lắm mẹ ơi”, “Oan cho con lắm mẹ ơi”… “Oan thiếp lắm chàng ơi”… “Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!”. Thị Kính kêu oan với mẹ chồng, nhưng vô ích. Đối với Sùng bà, nhũng lời ấy như đổ thêm dầu vào lửa, càng làm bùng lên ngọn lửa khinh ghét, càng nối dài thêm nhũng lời đay nghiên vô lí, tức tối. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan càng dày thêm. Còn với Thiện Sĩ thì..: đó là một người chồng đớn hèn, bạc nhược. Thiện Sĩ hoàn toàn bỏ mặc người vợ đã từng yêu thương, chăm chút gắn bó với mình, bỏ mặc nàng cho mẹ hành hạ. Trong cảnh ngộ thê thảm của Thị Kính, Thiện Sĩ là một người… thừa. Khi Thị Kính cầu cứu chồng “Oan thiếp lắm chàng ơi”, Thiện Sĩ vẫn im lặng như vô cảm, thật đáng trách. Xem chèo hoặc đọc kịch bản đến tình huống này, không ai không xúc động. Xúc động vì tức giận mẹ con Thiện Sĩ và xúc động vì xót thương Thị Kính. Nàng là người vợ hiền thảo, chăm chỉ và thương yêu chồng đến như thế mà bị hàm oan, bị hắt hủi. Chỉ đến lần cuối cùng, lần thứ năm, kêu oan với cha (Mãng ông), người đàn bà bất hạnh ấy mới nhận được sự cảm thông. Nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Càng đến cuối, xung đột của lớp kịch, cảnh ngộ của Thị Kính càng thê thảm. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng. Trước khi ra khỏi nhà, nàng còn cố níu lại chút kỉ niệm hạnh phúc ngắn ngủi với chồng. Đi theo cha được vài bước, nàng quay vào nhìn từ cái kỉ sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở bóp chặt trong tay, thở than một mình: Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi. Những từ chỉ thời gian “bấy lâu” và “bỗng”, những hình ảnh tạo vật “sắt cầm tịnh hảo”, “chăn gối lẻ loi” đối lập với nhau, xung đột nhau cùng cất lên tiếng than thống thiết về sự tan vỡ hạnh phúc lứa đôi, dự cảm về một ngày mai đơn độc. Từ lời than, Thị Kính hờn trách: Trách lòng ai nỡ phụ lòng Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi… Tuy là lời “trách ai” đấy, nhưng chỉ là những lời “tự bạch”, tự giãi bày, than thở mà thôi. Nói khác đi, câu hát cuối cùng đó của Thị Kính – nạn nhân trong vụ “án oan” này – chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh thêm cảnh ngộ đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Trước cảnh ngộ đau khổ ấy, Thị Kính đã làm gì? Nếu là người phụ nữ khác, hẳn sẽ có suy nghĩ khác và ứng xử khác. Nhưng, Thị Kính lại buông xuôi, chỉ đành ngửa mặt than với trời, mong “Nhật nguyệt rạng soi – Thấu tình chăng nhẽ”. Sau đó, nàng tạm biệt gia đình, cha mẹ, xuống tóc, giả trai vào chùa đi tu. Hành động này của Thị Kính có mặt tích cực là ước muốn được sống nơi trong sạch để tỏ rõ người đoan chính, nhưng mặt tiêu cực là nàng đổ tại số phận và tìm cách giải thoát bằng sự khổ hạnh, tu tâm, nhẫn nhục, chịu đựng. Cả sau này, khi bị hàm oan trong vụ án hoang thai của Thị Mầu, Kính Tâm – cuộc đời thứ hai của người đàn bà bất hạnh, Thị Kính – vẫn buông xuôi, nhẫn nhục đợi chờ “Nhật nguyệt rạng soi”. So với một vài nhân vật phụ nữ khác trong truyện cổ tích như nàng Tiên Dung (truyện Chử Đồng Tử), cô Tấm (truyện Tấm Cám), hoặc trong các vở chèo như Thị Phương (chèo Trương Viên), Thị Kính chưa có đủ bản lĩnh vượt trên hoàn cảnh, chưa có nghị lực cứng cỏi đứng lên chống lại những oan trái bất công trong xã hội bấy giờ. Nàng là người phụ nữ nêu tấm gương đoan chính, lương thiện, nhẫn nhục để tu tâm tích đức.
Hướng dẫn Trong kho tàng văn hoá truyền thống Việt Nam, chèo là một loại hình quan trọng Và độc đáo. Chèo tổng hợp trong nó cả văn học, vũ đạo, hội hoạ, ca nhạc, diễn xướng,… dân gian. Trong kịch, mục sân khấu chèo, Quan Âm Thị Kính là vở diễn nổi tiếng, được phổ biến rộng rãi trên mọi miền Tổ quốc, được nhiều nước trên thế giới ca ngợi. Vở diễn này tiêu biểu cho sàn khấu chèo về: tích truyện, kịch tính, nhân vật, các làn điệu dân ca, các điệu dân vũ,… Trong Quan Âm Thị Kính, đoạn Nỗi oan hại chồng giúp chúng ta hiểu những nét đặc sắc của cả tác phẩm, nhất là về mặt kịch bản văn học. Nỗi oan hại chồng là bi kịch đầu tiên của cuộc đời Thị Kính – nhân vật chính của vở chèo. Đoạn trích diễn tả cụ thể, sinh động tình cảnh bi thảm, bế tắc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Đoạn trích Nỗi oan hại chồng có năm nhân vật: Thiện Sĩ, Thị Kính, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông. Các nhân vật đều tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch. Câu chuyện được kể theo ba tình huống (còn gọi là ba cảnh) chính: 1.Vợ chồng Thiện Sĩ và Thị Kính chung hưởng hạnh phúc gia đình. Chồng đọc sách, vợ khâu vá, chăm sóc chồng (Từ đầu đến chi tiết Thiện Sĩ choàng dậy, hốt hoảng nắm lấy dao kêu lên). 2.Sùng bà vu oan giáng hoạ cho Thị Kính, đánh đuổi nàng dâu. Thị Kính kêu oan, nhưng không được. Xung đột nổ ra, mỗi lúc một căng thẳng, không thể dung hoà (Từ chi tiết Thiện Sĩ kêu “Hỡi cha! Hỡi mẹ!…” đến chi tiết Sùng bà dúi tay đẩy Thị Kính ngã, có tiếng Sùng ông nói từ ngoài cửa). 3.Đoạn còn lại: Cha con Thị Kính than thở về nỗi oan. Cha dắt con về. Thị Kính không về nhà, mà quyết định xuống tóc đi tu để “cầu Phật chứng minh” cho oan tình của mình. Xung đột kịch lên đỉnh điểm và cách giải quyết xung đột. Đoạn trích vừa mang tính kịch (biến diễn các xung đột) vừa tự sự, kể chuyện. Tất cả các chi tiết, tình huống xoay quanh mâu thuẫn giữa hai gia đình, tiêu biểu cho hai tầng lớp, hai giai cấp giàu và nghèo trong xã hội xưa. Trong đó nổi bật và tập trung vào xung đột giữa hai nhân vật: Sùng bà và Thị Kính. Do đó, tìm hiểu và suy nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng chúng ta có thể kết hợp xung đột kịch và những đặc điểm số phận, tính cách của hai nhân vật chính ấy. Sùng bà đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến, là một con người tàn nhẫn, thô bạo trong hành động ; ngoa ngoắt, hợm hĩnh, vu khống trong lời nói, ý nghĩ. Vừa nghe con trai kêu “thấy dao kìa kề cổ”, không cần hỏi han, tra xét cụ thể, Sùng bà đã buộc tội cho Thị Kính là “mày định giết con bà à”, rồi tiếp sau, dồn dập bao nhiêu lời cáo buộc, vu khống trắng trợn. Nào là “Mày trót say hoa đắm nguyệt”, nào là “Gái say trai lập chí giết chồng”. Chao ôi, toàn là những tội tày đình mà người mẹ chồng ấy đã suy đoán hồ đồ, để cố tình buộc tội con dâu, gieo xuống số phận Thị Kính một cái án, một nỗi oan thê thảm. Từ những ý nghĩ lạnh lùng, vô căn cứ đó, Sùng bà đã đối xử với Thị Kính bằng những cử chỉ, hành động rất tàn nhẫn, thô bạo. Mụ “dúi đầu Thị Kính xuống”, rồi “bắt Thị Kính ngửa mặt lên”. Không cho Thị Kính phân bua, giải thích, mụ lấp liếm vừa nói vừa hát bằng một giọng điệu cay độc, khinh ghét. Cuối cùng, mụ “dúi tay, đẩy Thị Kính ngã khuỵu xuống”, rồi bỏ vào nhà. Người mẹ chồng ấy đã đuổi con dâu một cách tàn nhẫn. Trong lời nói, điệu hát, Sùng bà liên tục đay nghiến, nhiếc mắng Thị Kính. Dường như mỗi lần mụ cất lời, Thị Kính lại thêm một tội. Đặc biệt là khi nói, Sùng bà luôn cố ý so sánh, đối chiếu để phân biệt đẳng cấp giữa hai gia đình: – Giống nhà bà đây giống phượng giống công. – Mày là con nhà cua ốc. – Nhà bà đây cao môn lệnh tộc, – Tuồng bay mèo mả, gà đồng. – Trứng rồng lại nở ra vồng. – Liu điu lại nở ra dòng liu điu. Các tác giả dân gian ngày xưa đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ thật sinh động. Lời nói, bài ca của người mẹ chồng ấy đã dụng nên một loạt hình ảnh tạo vật trái ngược nhau, tô đậm thêm sự đối lập, tính xung đột của câu chuyện. Lời lẽ của mụ Sùng thật phong phú, da dạng, nhưng đều tập trung ở một tư tưởng: sự phân biệt “cao – thấp”, “giàu nghèo”. Trong lời lẽ ấy vừa chứa đụng thói kiêu căng của tầng lớp của chủ phong kiến vừa bộc lộ quan hệ đối lập mẹ chồng, nàng dâu vốn là quan hệ căng thẳng trong xã hội xưa, những kẻ giàu cố thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến luôn luôn khinh rẻ những người thuộc tầng lớp lao động, nghèo khó. Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được Sùng bà chấp nhận bởi vì nàng không thuộc nguồn gốc “con nhà giống phượng, giống công”. Mâu thuẫn giữa Sùng bà (và cả gia đình) với Thị Kính (kể cả Mãng ông) tuy chỉ là mâu thuẫn trong hôn nhân, gia đình nhưng có ý nghĩa phản ánh mâu thuẫn giai cấp trong xã hội phong kiến. Nhân vật Sùng bà chỉ ra trò, xuất hiện trong một lớp kịch, một tình huống truyện nhung rất tiêu biểu cho một loại vai trong chèo cổ: vai mụ ác. Ở nhân vật này tập trung cao độ tính cách của kẻ hợm của, khoe dòng giống, tàn nhẫn, độc đoán, cả vú lấp miệng em. Lúc nào mụ Sùng cũng lấy mình làm chuẩn để tỏ rõ phép nhà. Mụ là kẻ tạo ra “luật lệ” trong gia đình, chỉ huy tất cả, bắt tất cả từ chồng, đến con trai và con dâu phải theo ý mình, phải nể sợ, tôn trọng lời nói và hành động của mình. Trong đoạn chèo Nỗi oan hụi chồng, nhân vật Sùng bà hiện lên thật sống, động, gây cho người đọc, người xem cảm xúc ghê sợ, khinh ghét, cần phải phê phán. Đối lập với nhân vật Sùng bà là nhân vật Thị Kính. Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo. Nàng đại diện cho người phụ nữ lao động, những người dân bình thường, lương thiện. Cảnh ngộ của nàng thật thảm thương. Năm lần Thị Kính kêu oan. Trong năm lần ấy thì bốn lần tiếng kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng: “Giời ơi! Mẹ ơi, oan con lắm mẹ ơi”, “Oan cho con lắm mẹ ơi”… “Oan thiếp lắm chàng ơi”… “Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!”. Thị Kính kêu oan với mẹ chồng, nhưng vô ích. Đối với Sùng bà, nhũng lời ấy như đổ thêm dầu vào lửa, càng làm bùng lên ngọn lửa khinh ghét, càng nối dài thêm nhũng lời đay nghiên vô lí, tức tối. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan càng dày thêm. Còn với Thiện Sĩ thì..: đó là một người chồng đớn hèn, bạc nhược. Thiện Sĩ hoàn toàn bỏ mặc người vợ đã từng yêu thương, chăm chút gắn bó với mình, bỏ mặc nàng cho mẹ hành hạ. Trong cảnh ngộ thê thảm của Thị Kính, Thiện Sĩ là một người… thừa. Khi Thị Kính cầu cứu chồng “Oan thiếp lắm chàng ơi”, Thiện Sĩ vẫn im lặng như vô cảm, thật đáng trách. Xem chèo hoặc đọc kịch bản đến tình huống này, không ai không xúc động. Xúc động vì tức giận mẹ con Thiện Sĩ và xúc động vì xót thương Thị Kính. Nàng là người vợ hiền thảo, chăm chỉ và thương yêu chồng đến như thế mà bị hàm oan, bị hắt hủi. Chỉ đến lần cuối cùng, lần thứ năm, kêu oan với cha (Mãng ông), người đàn bà bất hạnh ấy mới nhận được sự cảm thông. Nhưng đó là sự cảm thông đau khổ và bất lực. Càng đến cuối, xung đột của lớp kịch, cảnh ngộ của Thị Kính càng thê thảm. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng. Trước khi ra khỏi nhà, nàng còn cố níu lại chút kỉ niệm hạnh phúc ngắn ngủi với chồng. Đi theo cha được vài bước, nàng quay vào nhìn từ cái kỉ sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở bóp chặt trong tay, thở than một mình: Thương ôi! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi. Những từ chỉ thời gian “bấy lâu” và “bỗng”, những hình ảnh tạo vật “sắt cầm tịnh hảo”, “chăn gối lẻ loi” đối lập với nhau, xung đột nhau cùng cất lên tiếng than thống thiết về sự tan vỡ hạnh phúc lứa đôi, dự cảm về một ngày mai đơn độc. Từ lời than, Thị Kính hờn trách: Trách lòng ai nỡ phụ lòng Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi… Tuy là lời “trách ai” đấy, nhưng chỉ là những lời “tự bạch”, tự giãi bày, than thở mà thôi. Nói khác đi, câu hát cuối cùng đó của Thị Kính – nạn nhân trong vụ “án oan” này – chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh thêm cảnh ngộ đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. Trước cảnh ngộ đau khổ ấy, Thị Kính đã làm gì? Nếu là người phụ nữ khác, hẳn sẽ có suy nghĩ khác và ứng xử khác. Nhưng, Thị Kính lại buông xuôi, chỉ đành ngửa mặt than với trời, mong “Nhật nguyệt rạng soi – Thấu tình chăng nhẽ”. Sau đó, nàng tạm biệt gia đình, cha mẹ, xuống tóc, giả trai vào chùa đi tu. Hành động này của Thị Kính có mặt tích cực là ước muốn được sống nơi trong sạch để tỏ rõ người đoan chính, nhưng mặt tiêu cực là nàng đổ tại số phận và tìm cách giải thoát bằng sự khổ hạnh, tu tâm, nhẫn nhục, chịu đựng. Cả sau này, khi bị hàm oan trong vụ án hoang thai của Thị Mầu, Kính Tâm – cuộc đời thứ hai của người đàn bà bất hạnh, Thị Kính – vẫn buông xuôi, nhẫn nhục đợi chờ “Nhật nguyệt rạng soi”. So với một vài nhân vật phụ nữ khác trong truyện cổ tích như nàng Tiên Dung (truyện Chử Đồng Tử), cô Tấm (truyện Tấm Cám), hoặc trong các vở chèo như Thị Phương (chèo Trương Viên), Thị Kính chưa có đủ bản lĩnh vượt trên hoàn cảnh, chưa có nghị lực cứng cỏi đứng lên chống lại những oan trái bất công trong xã hội bấy giờ. Nàng là người phụ nữ nêu tấm gương đoan chính, lương thiện, nhẫn nhục để tu tâm tích đức.
Hướng dẫn Qua những áng văn chương, chúng ta đã được thưởng thức biết bao nét đẹp của nhiều vùng đất nước. Ở miền Bắc, tiêu biểu là Hà Nội, có cốm Vòng thơm dẻo, có mùa xuân dịu dàng… Ở miền Nam, tiêu biểu có Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh – cảnh ngọc ngà, người nhân hậu… Còn ở miền Trung, vùng đất ờ giữa thân hình Tổ quốc Việt Nam – cố đô Huế thì sao? Nhiều nghệ sĩ xưa và nay từng gọi Huế là vùng đất mộng và thơ. Một trong những chất mộng và thơ ấy của Huế là kho tàng nhũng bài ca dao – dân ca, là những cuộc biểu diễn và thưởng thức ca nhạc Huế trên sông Hương vào những đêm trăng trong, gió mát. Đấy là một nét đẹp văn hoá của xứ Huế. Đọc bài bút kí Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh, chúng ta sẽ được tham dự, thưởng thức một sinh hoạt đậm màu sắc văn hoá độc đáo của vùng đất miền Trung ruột thịt ấy. Vì là bút kí – một thể văn xuôi trữ tình – nên bài văn không có bố cục chặt chẽ. Ngôn từ, hình ảnh cứ tự nhiên buông thả, trôi theo dòng suy nghĩ, cảm xúc của người viết. Đọc văn, chúng ta cũng có cảm giác được trôi theo ý, tình của tác giả, để cùng tác giả suy nghĩ, rung động trong tiếng nhạc, lời ca xứ Huế, trôi trên sông nước Hương Giang, trôi trong ánh trăng thanh, hơi gió mát… “Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò…”. Tác giả Hà Ánh Minh nhận xét như thế. Và đã điểm qua một số làn điệu dân ca Huế với những đặc điểm nổi bật đáng ghi nhớ: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã. Hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện thì gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Ngoài ra còn có các điệu lí như lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam,… Tuy mỗi làn điệu mang âm sắc, tiết tấu khác nhau, nhưng dường như dân ca xứ Huế đều giống nhau là: “Thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế”. Tâm hồn ấy như thế nào? Phải chăng đó là tình yêu quê hương, đất nước, là tình người nhân hậu thuỷ chung, là những khát vọng về cuộc sống luôn được ấm no, hạnh phúc,… hoà trong tâm hồn Việt Nam ở mọi miền đất nước? Sau khi suy ngẫm, tìm hiểu về kho tàng các điệu hò, bài hát dân gian xứ Huế, chúng ta được tác giả dắt xuống thuyền rồng, tham dự một đêm trăng nghe ca nhạc Huế. Chiếc thuyền đẹp quá, sang trọng nữa chứ! Có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dùng cho vua chúa. Giữa thuyền là “một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên…”. Tuy nhỏ, nhưng con thuyền vẫn đủ không gian của một sân khấu ca nhạc. Điều khác sân khấu trong rạp là khán giả và người biểu diễn cận kề bên nhau thân mật như người nhà. Trước khi thưởng thức ca nhạc, ta hãy ngắm nhìn các diễn viên. Đấy cũng là những con người đẹp quý và không kém sang trọng! Các ca công nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Nhìn ra không trung, cảnh Huế hoà với con người, chiếc thuyền cũng đẹp và thơ mộng làm sao. “Trăng lên. Gió mơn man, dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn lòng…”. Ngòi bút miêu tả và biểu cảm của tác giả êm nhẹ, trong trẻo và say đắm mơ mộng làm sao! Thưởng thức ca nhạc như thế đúng là một sinh hoạt văn hoá dân gian, khác hẳn nghe ca nhạc trong rạp hát hoặc băng, đĩa tại gia đình… Sinh hoạt văn hoá dân gian thường mang tính nguyên hợp, nghĩa là nó hoà đồng, tổng hợp, mà ở đó, không gian, người diễn xướng và người thưởng thức… đồng hiện, gắn bó với nhau tạo nên bức tranh cuộc sống sinh động, lõi cuốn. Buổi diễn xướng bắt đầu. Cả không gian, ánh trăng, mặt nước, lòng người cùng bùng lên bởi những âm thanh của các loại nhạc khí hoà họp với giọng ca diu dặt, uyển chuyển của các ca công. Những bản nhạc có mang những cái tên độc đáo: “lưu thuỷ, kim tiền, xuân phong, long hổ…” ngân lên dưới các ngón,đàn tài hoa, trau chuốt “nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chóp, búng, ngón phi, ngón rãi…”. Tiếng’ đàn khoan nhật làm xao động tận đáy hồn người. Nhũng lời ca cũng ngân lên hoà trong thanh sắc của tiếng đàn, nhịp phách. Khúc điệu Nam – Nam ai, Nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn. Khúc tứ đại cảnh mang âm hưởng điệu Bắc pha điệu Nam không buồn không vui mà lâng lâng biết bao nỗi niềm. Tất cả, âm thanh, lời hát, ánh trăng, sóng nước, tâm hồn người nghệ sĩ và người thưởng thức hoà quyện với nhau khi sôi nổi, tươi vui, lúc bâng khuâng, tiếc thương, ai oán, khi thong thả, trang trọng, lúc dồn dập, thiết tha gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch,… Nhà văn Hà Ánh Minh thật tinh tế, đắm say khi vừa miêu tả phong cảnh, vừa ghi âm các bản nhạc, lời ca, vừa suy ngẫm, nhận diện tên các tác phẩm dân gian đặc sắc xứ Huế. Hoà trong cảm nhận, nghĩ suy ấy của tác giả, chung ta hiểu thêm nhiều điệu thức, bài ca độc đáo của Huế mộng và thơ. Những nét độc đáo ấy được hình thành từ đâu mà đa dạng, phong phú thế? Theo tác giả “Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng, thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc…”. Ca Huế là sự hoà quyện, giao lưu giữa chất dân gian mộc mạc và chất bác học trau chuốt, đạt tới độ hoàn thiện, hoàn mĩ. Vì thế, thưởng thức ca Huế, nhất là trong khung cảnh đêm trăng ngời sáng, trên sông nước Hương Giang bồng bềnh, cận kề ngay cạnh các nghệ sĩ nam thanh nữ tú là một thú vui tao nhã đầy sức quyến rũ. Nói khác đi, đây là một sinh hoạt văn hoá thanh cao, lịch sự, dễ gây được cảm tình và lòng yêu mến giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm. Hà Ánh Minh, người viết văn bản này, người được trực tiếp dự một đêm ca Huế trên sông Hương đã cảm nhận được vẻ đẹp như thế về con gái Huế, và chắc cũng đã nhiều phút xao xuyến, đắm say, yêu mến nhũng’bài ca, khúc nhạc, ánh trăng, mặt nước, con thuyền rồng, đất trời cùng tất cả con người xứ Huế. Còn chúng ta đọc bài bút kí này, dự một đêm ca Huế trên sông Hương, qua ngôn từ, hình ảnh, nhạc điệu, ý và tình của văn chương, cũng thấy lòng bồi hồi thích thú. Ca Huế vốn phong phú đa dạng. Cảnh và người xứ Huế mộng và thơ. Tác giả đã sử dụng ngòi bút miêu tả hài hoà với kể chuyện ; biểu ý hài hoà với biểu cảm, liệt kê được khá nhiều danh từ gọi tên các bài ca, các khúc nhạc, nhạc cụ ; hài hoà với nhiều tính từ, động từ đặc tả tính chất, động tác ; câu văn dài ngắn, khoan nhặt, co duỗi, lên bổng, xuống trầm,… đã tái hiện được một bức tranh sinh động của đêm nghe ca Huế trên sông Hương. Nghệ thuật ấy, ý và tình ấy phần nào đã tương xứng với những nét đẹp văn hoá của xứ Huế…
Hướng dẫn Qua những áng văn chương, chúng ta đã được thưởng thức biết bao nét đẹp của nhiều vùng đất nước. Ở miền Bắc, tiêu biểu là Hà Nội, có cốm Vòng thơm dẻo, có mùa xuân dịu dàng… Ở miền Nam, tiêu biểu có Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh – cảnh ngọc ngà, người nhân hậu… Còn ở miền Trung, vùng đất ờ giữa thân hình Tổ quốc Việt Nam – cố đô Huế thì sao? Nhiều nghệ sĩ xưa và nay từng gọi Huế là vùng đất mộng và thơ. Một trong những chất mộng và thơ ấy của Huế là kho tàng nhũng bài ca dao – dân ca, là những cuộc biểu diễn và thưởng thức ca nhạc Huế trên sông Hương vào những đêm trăng trong, gió mát. Đấy là một nét đẹp văn hoá của xứ Huế. Đọc bài bút kí Ca Huế trên sông Hương của Hà Ánh Minh, chúng ta sẽ được tham dự, thưởng thức một sinh hoạt đậm màu sắc văn hoá độc đáo của vùng đất miền Trung ruột thịt ấy. Vì là bút kí – một thể văn xuôi trữ tình – nên bài văn không có bố cục chặt chẽ. Ngôn từ, hình ảnh cứ tự nhiên buông thả, trôi theo dòng suy nghĩ, cảm xúc của người viết. Đọc văn, chúng ta cũng có cảm giác được trôi theo ý, tình của tác giả, để cùng tác giả suy nghĩ, rung động trong tiếng nhạc, lời ca xứ Huế, trôi trên sông nước Hương Giang, trôi trong ánh trăng thanh, hơi gió mát… “Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò…”. Tác giả Hà Ánh Minh nhận xét như thế. Và đã điểm qua một số làn điệu dân ca Huế với những đặc điểm nổi bật đáng ghi nhớ: chèo cạn, bài thai, hò đưa linh buồn bã. Hò giã gạo, ru em, giã vôi, giã điệp, bài chòi, bài tiệm, nàng vung náo nức nồng hậu tình người. Hò lơ, hò ô, xay lúa, hò nện thì gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh. Ngoài ra còn có các điệu lí như lí con sáo, lí hoài xuân, lí hoài nam,… Tuy mỗi làn điệu mang âm sắc, tiết tấu khác nhau, nhưng dường như dân ca xứ Huế đều giống nhau là: “Thể hiện lòng khao khát, nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế”. Tâm hồn ấy như thế nào? Phải chăng đó là tình yêu quê hương, đất nước, là tình người nhân hậu thuỷ chung, là những khát vọng về cuộc sống luôn được ấm no, hạnh phúc,… hoà trong tâm hồn Việt Nam ở mọi miền đất nước? Sau khi suy ngẫm, tìm hiểu về kho tàng các điệu hò, bài hát dân gian xứ Huế, chúng ta được tác giả dắt xuống thuyền rồng, tham dự một đêm trăng nghe ca nhạc Huế. Chiếc thuyền đẹp quá, sang trọng nữa chứ! Có lẽ con thuyền này xưa kia chỉ dùng cho vua chúa. Giữa thuyền là “một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên…”. Tuy nhỏ, nhưng con thuyền vẫn đủ không gian của một sân khấu ca nhạc. Điều khác sân khấu trong rạp là khán giả và người biểu diễn cận kề bên nhau thân mật như người nhà. Trước khi thưởng thức ca nhạc, ta hãy ngắm nhìn các diễn viên. Đấy cũng là những con người đẹp quý và không kém sang trọng! Các ca công nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Nhìn ra không trung, cảnh Huế hoà với con người, chiếc thuyền cũng đẹp và thơ mộng làm sao. “Trăng lên. Gió mơn man, dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh. Đêm nằm trên dòng Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn lòng…”. Ngòi bút miêu tả và biểu cảm của tác giả êm nhẹ, trong trẻo và say đắm mơ mộng làm sao! Thưởng thức ca nhạc như thế đúng là một sinh hoạt văn hoá dân gian, khác hẳn nghe ca nhạc trong rạp hát hoặc băng, đĩa tại gia đình… Sinh hoạt văn hoá dân gian thường mang tính nguyên hợp, nghĩa là nó hoà đồng, tổng hợp, mà ở đó, không gian, người diễn xướng và người thưởng thức… đồng hiện, gắn bó với nhau tạo nên bức tranh cuộc sống sinh động, lõi cuốn. Buổi diễn xướng bắt đầu. Cả không gian, ánh trăng, mặt nước, lòng người cùng bùng lên bởi những âm thanh của các loại nhạc khí hoà họp với giọng ca diu dặt, uyển chuyển của các ca công. Những bản nhạc có mang những cái tên độc đáo: “lưu thuỷ, kim tiền, xuân phong, long hổ…” ngân lên dưới các ngón,đàn tài hoa, trau chuốt “nhấn, mổ, vỗ, vả, ngón bấm, day, chóp, búng, ngón phi, ngón rãi…”. Tiếng’ đàn khoan nhật làm xao động tận đáy hồn người. Nhũng lời ca cũng ngân lên hoà trong thanh sắc của tiếng đàn, nhịp phách. Khúc điệu Nam – Nam ai, Nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn. Khúc tứ đại cảnh mang âm hưởng điệu Bắc pha điệu Nam không buồn không vui mà lâng lâng biết bao nỗi niềm. Tất cả, âm thanh, lời hát, ánh trăng, sóng nước, tâm hồn người nghệ sĩ và người thưởng thức hoà quyện với nhau khi sôi nổi, tươi vui, lúc bâng khuâng, tiếc thương, ai oán, khi thong thả, trang trọng, lúc dồn dập, thiết tha gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch,… Nhà văn Hà Ánh Minh thật tinh tế, đắm say khi vừa miêu tả phong cảnh, vừa ghi âm các bản nhạc, lời ca, vừa suy ngẫm, nhận diện tên các tác phẩm dân gian đặc sắc xứ Huế. Hoà trong cảm nhận, nghĩ suy ấy của tác giả, chung ta hiểu thêm nhiều điệu thức, bài ca độc đáo của Huế mộng và thơ. Những nét độc đáo ấy được hình thành từ đâu mà đa dạng, phong phú thế? Theo tác giả “Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng, thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc…”. Ca Huế là sự hoà quyện, giao lưu giữa chất dân gian mộc mạc và chất bác học trau chuốt, đạt tới độ hoàn thiện, hoàn mĩ. Vì thế, thưởng thức ca Huế, nhất là trong khung cảnh đêm trăng ngời sáng, trên sông nước Hương Giang bồng bềnh, cận kề ngay cạnh các nghệ sĩ nam thanh nữ tú là một thú vui tao nhã đầy sức quyến rũ. Nói khác đi, đây là một sinh hoạt văn hoá thanh cao, lịch sự, dễ gây được cảm tình và lòng yêu mến giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Con gái Huế nội tâm thật phong phú và âm thầm, kín đáo, sâu thẳm. Hà Ánh Minh, người viết văn bản này, người được trực tiếp dự một đêm ca Huế trên sông Hương đã cảm nhận được vẻ đẹp như thế về con gái Huế, và chắc cũng đã nhiều phút xao xuyến, đắm say, yêu mến nhũng’bài ca, khúc nhạc, ánh trăng, mặt nước, con thuyền rồng, đất trời cùng tất cả con người xứ Huế. Còn chúng ta đọc bài bút kí này, dự một đêm ca Huế trên sông Hương, qua ngôn từ, hình ảnh, nhạc điệu, ý và tình của văn chương, cũng thấy lòng bồi hồi thích thú. Ca Huế vốn phong phú đa dạng. Cảnh và người xứ Huế mộng và thơ. Tác giả đã sử dụng ngòi bút miêu tả hài hoà với kể chuyện ; biểu ý hài hoà với biểu cảm, liệt kê được khá nhiều danh từ gọi tên các bài ca, các khúc nhạc, nhạc cụ ; hài hoà với nhiều tính từ, động từ đặc tả tính chất, động tác ; câu văn dài ngắn, khoan nhặt, co duỗi, lên bổng, xuống trầm,… đã tái hiện được một bức tranh sinh động của đêm nghe ca Huế trên sông Hương. Nghệ thuật ấy, ý và tình ấy phần nào đã tương xứng với những nét đẹp văn hoá của xứ Huế…
Hướng dẫn Chảy trong dòng sông văn học Việt Nam, giai đoạn đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945, truyện ngắn Những trò tố hay lủ Va-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái Quốc mang một màu sắc và âm điệu độc đáo: được viết bằng tiếng Pháp, xuất hiện trên đất Pháp, “có tính chiến đấu cao và bút pháp điêu luyện, hiện đại”. Trong khi các tác giả trong nước bóng bảy phê phán bọn phong kiến ươn hèn, để nhân dân đói khổ (như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học), hoặc gửi gắm tình yêu nước, lo đời kín đáo, mơ hồ (như Tản Đà, Trần Tuấn Khải) thì Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn và trực tiếp vạch mặt lũ thực dân xâm lược xảo trá, dã man ; bày tỏ tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mạnh mẽ, cháy bỏng. Trái tim người cầm bút yêu, ghét thật rõ ràng. Vì thế, tuy xuất bản ở nước ngoài, song truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu cùng nhiều tác phẩm khác mà Bác Hồ viết với bút danh Nguyễn Ái Quốc vẫn có giá trị như một áng văn Việt Nam đích thực, góp phần làm sôi động dòng chảy của văn chương dân tộc. Đọc truyện, chúng ta bắt gặp hai hình tượng nhân vật đối lập nhau: tên thực dân xảo trá và người chiến sĩ yểu nước đầy bản lĩnh. 1.Va-ren,một chính khách thực dân xảo quyệt, một kẻ phản bội nhục nhã. Ngay những dòng đầu, Va-ren đã được giới thiệu như một kẻ có lời nói và hành động mập mờ: “nửa chính thức hứa… giả thử… biết giữ lời hứa, liệu quan Toàn quyền Va-ren sẽ “chăm sóc” vụ ấy vào lúc nào và ra làm sao”. Đó là những từ ngữ mỉa mai, châm biếm nhẹ, mà sâu. Từ đó, tác giả định hướng cho nhân vật hiện lên trong thời gian (vào lúc nào) và mang những phẩm chất tính cách cụ thể (ra làm sao). Về thời gian, Toàn quyền Va-ren chỉ muốn chăm sóc vụ Phan Bội Châu “khi nào yên vị thật xong xuôi ở bên ấy đã”. Nghĩa là, hắn lo cho cái ghế thống trị thật vững vàng trước đã. Hắn muốn tỏ rõ uy quyền thực dân với công chúng ở Đông Dương trước đã. Còn Phan Bội Châu ra sao, hãy đợi đấy. Do đó, sau khi rời nước Pháp với lời hứa “nửa chính thức” sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu, Toàn quyền Va-ren đã làm một chuyến đi rề rà, lững thững, để nhấm nháp, hưởng thụ những của ngon vật lạ, những lời nói, cử chỉ tâng bốc của lũ tay sai cấp dưới. Tác giả sử dụng ngòi bút kể chuyện xen kẽ miêu tả, đối chúng bằng điệp ngữ và những câu văn kéo dài chia chuyến đi của Va-ren thành ba chặng. Chặng thứ nhất: Va-ren đến Sài Gòn. Chặng thứ hai: Va-ren ra Huế. Chặng thứ ba: Va-ren đến Hà Nội, tới đích, những trò lố chính thức của Va-ren đã diễn ra. Như vậy, Va-ren đúng là kẻ chỉ hứa suông, tuyên bố sẽ xem xét vụ Phan Bội Châu, thực tâm hắn chẳng chút động lòng nào tới số phận đau khổ của cụ Phan, hắn chẳng phải là viên quan nêu cao trách nhiệm trong công việc. Tới Hà Nội – cái đích quan trọng nhất của chuyến đi – những trò lố chính thức của Va-ren mới thực sự diễn ra, bộ mặt hề mồi, phản trắc, xảo quyệt của tên chính khách thực dân mới thực sự phơi bày. Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng, nhà văn dẫn người đọc vào “tận cổng nhà lao chính, tận xà lim, nơi người đồng bào tôn kính của chúng ta đang rên xiết”… “Ôi, thật là một tấn kịch!”, nhà văn kêu lên, như muốn người đọc tập trung chú ý và cùng nhau suy ngẫm. Nếu những cảnh trên là “hài kịch”, thì đến đây “tấn kịch” diễn ra vừa hài vừa bi. Màn chưa mở. Tác giả dành một đoạn văn trữ tình ngoại đề để tóm tắt tiểu sử bất hảo của Va-ren, đồng thời ngợi ca phẩm chất anh hùng của Phan Bội Châu. Về Va-ren, chúng ta đọc thấy rặt những dòng chữ đen ngòm, nhơ nhớp: “Con người đã phản bội […] tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi […], kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình…”. Sự nhơ nhớp mà tác giả gọi là những trò lố diễn ra suốt buổi Va-ren gặp Phan Bội Châu. Trong cuộc “chạm trán” này, hắn luôn tỏ ra chủ động, một con người cao sang, hào hiệp: “Tôi đem tự do đến cho ông đây!”. Hắn tuyên bố, rồi cúi xuống bắt tay Phan Bội Châu, nâng cái gông to kệch ở cổ người tù. Chỉ thế thôi, Va-ren đã treo cái bánh vẽ tự do trước đối thủ, rồi “tấn công”, ào ạt, liên hồi… bằng những lời nói dài dòng, vòng vo, khi chân thành, thống thiết, lúc châm chọc, mỉa mai, lên bổng xuống trầm. Đúng là giọng lưỡi của một anh hề. Va-ren nói những gì? Trước hết, hắn mặc cả với Phan Bội Châu về hai chữ “tự do”. Một bên hắn hứa “đem trả tự do cho Phan Bội Châu”, một bên khuyên – hay là ép buộc – Phan, hãy: “từ bỏ nhũng món đồ […] chớ tìm cách xúi giục đồng bào […], hãy bảo họ cộng tác với người Pháp…”. Như vậy, Va ­ren đâu có “quý trọng” Phan như hắn nói. Thực chất là hắn đã khuyên người chiến sĩ kiên cường, bất khuất kia đầu hàng, phản lại lí tưởng chiến đấu suốt đời của mình. Lời Va-ren nói, nghe ngọt xớt. Đó là vị ngọt chứa thuốc độc của kẻ phản bội. Tiếp sau, Va-ren nêu những tên tuổi, những chính khách nổi tiếng… về sự… phản bội. Từ Nguyễn Bá Trác – người Việt Nam, đến những Guy-xta-vơ, nhũng A-lếch-xăng, A-ri-xtít, những An-be, Pôn, và Lê-ông – người Pháp. Cuối cùng hắn khoe sự thành đạt, bước đường thăng tiến của bản thân. “Trước tôi là đảng viên Xã hội đấy, và giờ đày thì tôi làm Toàn quyền…!”. Trơ trẽn thay, lố bịch thay là kẻ cầm quyền thực dân Pháp tôn thờ sự phản bội, lấy sự phản bội làm chuẩn mực dể ngợi ca nhũng nhân cách bỉ ổi. Do đó, tất cả những lời nói của Va-ren lọt vào tai Phan Bội Châu như “nước đổ lá khoai”, nghĩa là nó trôi tuột đi. Tất cả những thái độ “nhiệt tình, chân thành” của kẻ phản Bội đã khiến Phan Bội Châu “dửng dưng”, hoặc “nhếch” đôi ngọn râu mép (…) lên một chút”, rồi “nhổ vào mặt Va-ren”. Càng về cuối truyện, nhân vật Va-rén càng hiện rõ bản chất xấu xa. Những trò lố của hắn đã tự lột trần cái bộ mặt tên chính khách xảo quyệt, “kẻ phản bội nhục nhã”. Miêu tả chân dung Va-ren, Nguyễn Ái Quốc dùng ngòi bút lạnh lùng, hóm hỉnh, thông minh, sắc sảo. Đó là ngòi bút điêu luyện, hiện đại, kết hợp chất châu Âu sôi nổi với âm điệu Á Đông thâm trầm. Càng về cuối càng thâm trầm. Sử dụng ba chi tiết miêu tả thái độ và cử chỉ của Phan Bội Châu trước những lời lố bịch của Va-ren, tác giả đã đập thẳng vào mặt kẻ thù – kẻ thù của cụ Phan, kẻ thù của cả dân tộc – nhũng đòn chí mạng. Đó là lưỡi gươm sắc bén mà người thanh niên yêu nước – Nguyễn Ái Quốc – đã vung lên trong buổi đầu chiến đấu chống ngoại xâm vì nền độc lập, tự do của dân tộc. 2.Phan Bội Châu – người anh hùng. Với kẻ thù – ở đây là nhân vật Toàn quyền Va-ren – ngòi bút Nguyễn Ái Quốc mang tính chiến đấu mạnh mẽ bao nhiêu thì, với người anh hùng dân tộc – ở đây là nhân vật Phan Bội Châu – ngòi bút ấy mềm mại, nâng niu, trân trọng bấy nhiêu. Tuy không miêu tả chi tiết, song hình tượng Phan Bội Châu vẫn rõ nét, luôn song song với nhân vật Va-ren, như một đối xúng của hai màu sắc chọi nhau trong một hoạ phẩm. Viết về nhân vật Phan Bội Châu, tác giả đã dành những từ ngữ đẹp nhất để ngợi ca. Khi tác giả gọi Phan là “người đồng bào tôn kính của chúng ta”, “con người đã hi sinh cả gia đình và của cải”, lúc nâng lên tầm của “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân”. Những phó danh từ bậc, vị, đấng đâu phải để nói về người bình thường. Đó là cách định danh mang tính thần thánh. Càng về cuối, tính cách thần thánh của hình tượng Phan Bội Châu càng được tô đậm thêm. Trong suốt buổi gặp, để mặc cho Va-ren diễn thuyết, cụ Phan chỉ “im lặng, dửng dưng”. Tai cụ không nghe, nét mặt cụ bình thản, cụ ngồi… im như một pho tượng… “làm cho Va-ren sửng sốt cả người”. Đấy chính là nhân cách hiên ngang, bất khuất của người chiến sĩ, luôn tỉnh táo, cảnh giác trước nhũng giọng lưỡi kẻ thù. Đó cũng là cách chiến đấu chống lại kẻ thù, phủ nhận, bác bỏ mọi mun ma chước quỷ của bọn ngoại xâm. Khi ngọn râu mép của Phan Bội Chậu “nhếch lên một chút” theo lời anh lính dõng kể – nhất là lúc cụ Phan “nhổ vào mặt Va-ren” như lời nhân chúng thứ hai quả quyết – thì cuộc chiến đấu trở nên quyết liệt. Người anh hùng ấy đã chiến thắng. Bởi vì, đối với Phan Bội Châu, tất cả lời lẽ và thái độ của Va-ren chỉ là một… trò lố bịch, một trò hề. Có thể nói, trong truyện ngắn này, hình tượng Phan Bội Châu được khắc hoạ bằng ngòi bút chấm phá kiểu Á Đông. Chỉ vài nét thông thoáng, tả ít, gợi nhiều, nhân vật nổi lèn rõ rệt một chân dung, một thần thái có đủ hình dáng, tư thế và phẩm chất. Phan Bội Châu là người chiến sĩ hiên ngang, bất khuất trước mưu mô nham hiểm, thâm độc của kẻ thù. Phan Bội Châu là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân” vô cùng đáng kính của tác giả Nguyễn Ái Quốc và của chủng ta – những bạn đọc ngày nay.
Hướng dẫn Chảy trong dòng sông văn học Việt Nam, giai đoạn đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945, truyện ngắn Những trò tố hay lủ Va-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái Quốc mang một màu sắc và âm điệu độc đáo: được viết bằng tiếng Pháp, xuất hiện trên đất Pháp, “có tính chiến đấu cao và bút pháp điêu luyện, hiện đại”. Trong khi các tác giả trong nước bóng bảy phê phán bọn phong kiến ươn hèn, để nhân dân đói khổ (như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học), hoặc gửi gắm tình yêu nước, lo đời kín đáo, mơ hồ (như Tản Đà, Trần Tuấn Khải) thì Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn và trực tiếp vạch mặt lũ thực dân xâm lược xảo trá, dã man ; bày tỏ tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mạnh mẽ, cháy bỏng. Trái tim người cầm bút yêu, ghét thật rõ ràng. Vì thế, tuy xuất bản ở nước ngoài, song truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu cùng nhiều tác phẩm khác mà Bác Hồ viết với bút danh Nguyễn Ái Quốc vẫn có giá trị như một áng văn Việt Nam đích thực, góp phần làm sôi động dòng chảy của văn chương dân tộc. Đọc truyện, chúng ta bắt gặp hai hình tượng nhân vật đối lập nhau: tên thực dân xảo trá và người chiến sĩ yểu nước đầy bản lĩnh. 1.Va-ren,một chính khách thực dân xảo quyệt, một kẻ phản bội nhục nhã. Ngay những dòng đầu, Va-ren đã được giới thiệu như một kẻ có lời nói và hành động mập mờ: “nửa chính thức hứa… giả thử… biết giữ lời hứa, liệu quan Toàn quyền Va-ren sẽ “chăm sóc” vụ ấy vào lúc nào và ra làm sao”. Đó là những từ ngữ mỉa mai, châm biếm nhẹ, mà sâu. Từ đó, tác giả định hướng cho nhân vật hiện lên trong thời gian (vào lúc nào) và mang những phẩm chất tính cách cụ thể (ra làm sao). Về thời gian, Toàn quyền Va-ren chỉ muốn chăm sóc vụ Phan Bội Châu “khi nào yên vị thật xong xuôi ở bên ấy đã”. Nghĩa là, hắn lo cho cái ghế thống trị thật vững vàng trước đã. Hắn muốn tỏ rõ uy quyền thực dân với công chúng ở Đông Dương trước đã. Còn Phan Bội Châu ra sao, hãy đợi đấy. Do đó, sau khi rời nước Pháp với lời hứa “nửa chính thức” sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu, Toàn quyền Va-ren đã làm một chuyến đi rề rà, lững thững, để nhấm nháp, hưởng thụ những của ngon vật lạ, những lời nói, cử chỉ tâng bốc của lũ tay sai cấp dưới. Tác giả sử dụng ngòi bút kể chuyện xen kẽ miêu tả, đối chúng bằng điệp ngữ và những câu văn kéo dài chia chuyến đi của Va-ren thành ba chặng. Chặng thứ nhất: Va-ren đến Sài Gòn. Chặng thứ hai: Va-ren ra Huế. Chặng thứ ba: Va-ren đến Hà Nội, tới đích, những trò lố chính thức của Va-ren đã diễn ra. Như vậy, Va-ren đúng là kẻ chỉ hứa suông, tuyên bố sẽ xem xét vụ Phan Bội Châu, thực tâm hắn chẳng chút động lòng nào tới số phận đau khổ của cụ Phan, hắn chẳng phải là viên quan nêu cao trách nhiệm trong công việc. Tới Hà Nội – cái đích quan trọng nhất của chuyến đi – những trò lố chính thức của Va-ren mới thực sự diễn ra, bộ mặt hề mồi, phản trắc, xảo quyệt của tên chính khách thực dân mới thực sự phơi bày. Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng, nhà văn dẫn người đọc vào “tận cổng nhà lao chính, tận xà lim, nơi người đồng bào tôn kính của chúng ta đang rên xiết”… “Ôi, thật là một tấn kịch!”, nhà văn kêu lên, như muốn người đọc tập trung chú ý và cùng nhau suy ngẫm. Nếu những cảnh trên là “hài kịch”, thì đến đây “tấn kịch” diễn ra vừa hài vừa bi. Màn chưa mở. Tác giả dành một đoạn văn trữ tình ngoại đề để tóm tắt tiểu sử bất hảo của Va-ren, đồng thời ngợi ca phẩm chất anh hùng của Phan Bội Châu. Về Va-ren, chúng ta đọc thấy rặt những dòng chữ đen ngòm, nhơ nhớp: “Con người đã phản bội […] tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi […], kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình…”. Sự nhơ nhớp mà tác giả gọi là những trò lố diễn ra suốt buổi Va-ren gặp Phan Bội Châu. Trong cuộc “chạm trán” này, hắn luôn tỏ ra chủ động, một con người cao sang, hào hiệp: “Tôi đem tự do đến cho ông đây!”. Hắn tuyên bố, rồi cúi xuống bắt tay Phan Bội Châu, nâng cái gông to kệch ở cổ người tù. Chỉ thế thôi, Va-ren đã treo cái bánh vẽ tự do trước đối thủ, rồi “tấn công”, ào ạt, liên hồi… bằng những lời nói dài dòng, vòng vo, khi chân thành, thống thiết, lúc châm chọc, mỉa mai, lên bổng xuống trầm. Đúng là giọng lưỡi của một anh hề. Va-ren nói những gì? Trước hết, hắn mặc cả với Phan Bội Châu về hai chữ “tự do”. Một bên hắn hứa “đem trả tự do cho Phan Bội Châu”, một bên khuyên – hay là ép buộc – Phan, hãy: “từ bỏ nhũng món đồ […] chớ tìm cách xúi giục đồng bào […], hãy bảo họ cộng tác với người Pháp…”. Như vậy, Va ­ren đâu có “quý trọng” Phan như hắn nói. Thực chất là hắn đã khuyên người chiến sĩ kiên cường, bất khuất kia đầu hàng, phản lại lí tưởng chiến đấu suốt đời của mình. Lời Va-ren nói, nghe ngọt xớt. Đó là vị ngọt chứa thuốc độc của kẻ phản bội. Tiếp sau, Va-ren nêu những tên tuổi, những chính khách nổi tiếng… về sự… phản bội. Từ Nguyễn Bá Trác – người Việt Nam, đến những Guy-xta-vơ, nhũng A-lếch-xăng, A-ri-xtít, những An-be, Pôn, và Lê-ông – người Pháp. Cuối cùng hắn khoe sự thành đạt, bước đường thăng tiến của bản thân. “Trước tôi là đảng viên Xã hội đấy, và giờ đày thì tôi làm Toàn quyền…!”. Trơ trẽn thay, lố bịch thay là kẻ cầm quyền thực dân Pháp tôn thờ sự phản bội, lấy sự phản bội làm chuẩn mực dể ngợi ca nhũng nhân cách bỉ ổi. Do đó, tất cả những lời nói của Va-ren lọt vào tai Phan Bội Châu như “nước đổ lá khoai”, nghĩa là nó trôi tuột đi. Tất cả những thái độ “nhiệt tình, chân thành” của kẻ phản Bội đã khiến Phan Bội Châu “dửng dưng”, hoặc “nhếch” đôi ngọn râu mép (…) lên một chút”, rồi “nhổ vào mặt Va-ren”. Càng về cuối truyện, nhân vật Va-rén càng hiện rõ bản chất xấu xa. Những trò lố của hắn đã tự lột trần cái bộ mặt tên chính khách xảo quyệt, “kẻ phản bội nhục nhã”. Miêu tả chân dung Va-ren, Nguyễn Ái Quốc dùng ngòi bút lạnh lùng, hóm hỉnh, thông minh, sắc sảo. Đó là ngòi bút điêu luyện, hiện đại, kết hợp chất châu Âu sôi nổi với âm điệu Á Đông thâm trầm. Càng về cuối càng thâm trầm. Sử dụng ba chi tiết miêu tả thái độ và cử chỉ của Phan Bội Châu trước những lời lố bịch của Va-ren, tác giả đã đập thẳng vào mặt kẻ thù – kẻ thù của cụ Phan, kẻ thù của cả dân tộc – nhũng đòn chí mạng. Đó là lưỡi gươm sắc bén mà người thanh niên yêu nước – Nguyễn Ái Quốc – đã vung lên trong buổi đầu chiến đấu chống ngoại xâm vì nền độc lập, tự do của dân tộc. 2.Phan Bội Châu – người anh hùng. Với kẻ thù – ở đây là nhân vật Toàn quyền Va-ren – ngòi bút Nguyễn Ái Quốc mang tính chiến đấu mạnh mẽ bao nhiêu thì, với người anh hùng dân tộc – ở đây là nhân vật Phan Bội Châu – ngòi bút ấy mềm mại, nâng niu, trân trọng bấy nhiêu. Tuy không miêu tả chi tiết, song hình tượng Phan Bội Châu vẫn rõ nét, luôn song song với nhân vật Va-ren, như một đối xúng của hai màu sắc chọi nhau trong một hoạ phẩm. Viết về nhân vật Phan Bội Châu, tác giả đã dành những từ ngữ đẹp nhất để ngợi ca. Khi tác giả gọi Phan là “người đồng bào tôn kính của chúng ta”, “con người đã hi sinh cả gia đình và của cải”, lúc nâng lên tầm của “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân”. Những phó danh từ bậc, vị, đấng đâu phải để nói về người bình thường. Đó là cách định danh mang tính thần thánh. Càng về cuối, tính cách thần thánh của hình tượng Phan Bội Châu càng được tô đậm thêm. Trong suốt buổi gặp, để mặc cho Va-ren diễn thuyết, cụ Phan chỉ “im lặng, dửng dưng”. Tai cụ không nghe, nét mặt cụ bình thản, cụ ngồi… im như một pho tượng… “làm cho Va-ren sửng sốt cả người”. Đấy chính là nhân cách hiên ngang, bất khuất của người chiến sĩ, luôn tỉnh táo, cảnh giác trước nhũng giọng lưỡi kẻ thù. Đó cũng là cách chiến đấu chống lại kẻ thù, phủ nhận, bác bỏ mọi mun ma chước quỷ của bọn ngoại xâm. Khi ngọn râu mép của Phan Bội Chậu “nhếch lên một chút” theo lời anh lính dõng kể – nhất là lúc cụ Phan “nhổ vào mặt Va-ren” như lời nhân chúng thứ hai quả quyết – thì cuộc chiến đấu trở nên quyết liệt. Người anh hùng ấy đã chiến thắng. Bởi vì, đối với Phan Bội Châu, tất cả lời lẽ và thái độ của Va-ren chỉ là một… trò lố bịch, một trò hề. Có thể nói, trong truyện ngắn này, hình tượng Phan Bội Châu được khắc hoạ bằng ngòi bút chấm phá kiểu Á Đông. Chỉ vài nét thông thoáng, tả ít, gợi nhiều, nhân vật nổi lèn rõ rệt một chân dung, một thần thái có đủ hình dáng, tư thế và phẩm chất. Phan Bội Châu là người chiến sĩ hiên ngang, bất khuất trước mưu mô nham hiểm, thâm độc của kẻ thù. Phan Bội Châu là “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân” vô cùng đáng kính của tác giả Nguyễn Ái Quốc và của chủng ta – những bạn đọc ngày nay.
Hướng dẫn Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tấm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn. Đoạn một: từ “Gần một giờ đêm…” đến “… Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn hai: từ “Ây, lũ con dân…” đến “… Điếu mày”: cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn ba: phần còn lại: cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tổng – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân “hộ đê”. Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động… Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt. Về thời gian, đây là lúc “gần một giờ đêm” nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà Văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. “Mưa tầm tã”, rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. “Nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng! “Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau…”. Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau: “tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm”, kết hợp một hình ảnh so sánh “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán “xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trự tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta. Bức tranh đòi thứ hai, tương phản với cảnh nhãn dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. “Đèn thắp sáng trưng ; nha lệ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…”. Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn “uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra đệ cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…”. Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi… chơi! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm mình trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp đợi chờ ván bài ù to. Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ!”. Tên quan gắt: “Mặc kệ!”. Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin “Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi” thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng: “Đê vỡ rồi!… thời ông cách cổ chúng mày, bỏ tù chúng mày!”. Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề “tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…” (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”. Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hưởng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!”. Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyên vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Hướng dẫn Bước vào thế kỉ XX, văn học nói chung, truyện (truyện ngắn, truyện dài) Việt Nam nói riêng có nhiều đổi mới, mang tính hiện đại. Truyện ngắn hiện đại thiên về tính chất hư cấu, cốt truyện phức tạp hơn, khắc hoạ được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động nhằm phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tấm hồn con người phong phú, tinh tế hơn truyện cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết thời xưa. Một trong những tác phẩm mở đầu cho truyện ngắn hiện đại là truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Tác phẩm kể chuyện một viên quan phủ đang làm nhiệm vụ cai quản, chỉ đạo nhân dân đắp đê chống bão lụt ở một vùng sông nước Bắc Bộ trong một đêm vào đầu thế kỉ XX. Câu chuyện có thể chia ba đoạn. Đoạn một: từ “Gần một giờ đêm…” đến “… Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ đê vỡ và sự chống đỡ tuyệt vọng của người dân. Đoạn hai: từ “Ây, lũ con dân…” đến “… Điếu mày”: cảnh quan phủ và nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”. Đoạn ba: phần còn lại: cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu. Với tiêu đề Sống chết mặc bay, dường như tác giả Phạm Duy Tốn muốn tập trung phát hiện và nghiêm khắc phê phán thái độ vô trách nhiệm, bỏ mặc nhân dân trong tình cảnh khốn cùng của một viên quan phủ khi xuống địa phương chỉ đạo việc hộ đê. Đọc tác phẩm, chúng ta nhận rõ nhà văn đã xây dựng các chi tiết, tình huống tương phản, tăng cấp rất đặc sắc. Hai mặt tương phản đó là: trong khi nhân dân phải vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước bão lụt thì viên quan phủ cùng nha lại, chánh tổng – những kẻ chức sắc ở địa phương – say sưa cờ bạc, không mảy may nghĩ tới việc chỉ đạo dân “hộ đê”. Đúng là hai bức tranh đời tương phản, đối lập gay gắt, khiến người đọc phải suy ngẫm và xúc động… Bức tranh thứ nhất, cảnh nhân dân chống bão lụt. Về thời gian, đây là lúc “gần một giờ đêm” nghĩa là thời điểm khuya khoắt, mà khi bình thường, mọi người đang ngủ say. Xác định thời gian nửa đêm như thế, nhà Văn muốn nói rằng: cuộc hộ đê của nhân dân nơi đây đã kéo dài suốt cả ngày đến tối tới tận đêm khuya mà chưa được ngơi nghỉ. Nặng nề và căng thẳng biết bao! Trong khi đó, mưa, gió mỗi lúc một mạnh. “Mưa tầm tã”, rồi lại “trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống”. Phối hợp với mưa, nước sông cũng mỗi lúc một dâng cao. “Nước sông Nhị Hà lên to quá” rồi lại “nước cứ cuồn cuộn bốc lên”. Giữa cảnh trời, nước dữ dằn, bạo liệt như thế, công cuộc hộ đê của nhân dân diễn ra thế nào? Nhốn nháo, căng thẳng, vất vả, cơ cực, khốn khổ, hiểm nguy vô cùng! “Hằng trăm nghìn con người … kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy… người nào người nấy lướt thướt như chuột lột… Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau…”. Ngôn ngữ miêu tả rất tập trung. Những tính từ, động từ dồn dập, nối nhau: “tầm tã… tầm tã… cuồn cuộn, đội, vác, đắp, cừ,… bì bõm”, kết hợp một hình ảnh so sánh “người nào người nấy lướt thướt như chuột lột” khiến cho người đọc có cảm tưởng được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy, và đang sống giữa một cuộc đắp đê chống bão lụt có thật. Cùng với những từ ngữ, câu văn tả thực, nhà văn điểm vào vài ba câu cảm thán “xem chừng núng thế lắm… không khéo thì vỡ mất… Tình cảnh trông thật là thảm … Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Lo thay! Nguy thay Sự yếu kém của đê điều, sức lực của con người trước thiên tai mỗi lúc một thê thảm, rất đáng lo ngại, rất đáng xót thương! Phạm Duy Tốn đã kết hợp ngòi bút tả thực với biểu cảm, trự tình, dẫn người đọc vào trung tâm cuộc chống đê lay động lòng người, đánh thức những tình cảm đúng đắn trong chúng ta. Bức tranh đòi thứ hai, tương phản với cảnh nhãn dân chống lụt cơ cực, vất vả là cảnh viên quan phủ cùng tay chân chơi bời, cờ bạc, hưởng thụ, để dân… Sống chết mặc bay. Ở bức tranh này, nhà văn cũng dùng ngòi bút tả thực, chân thực đến… lạnh lùng, về địa điểm, bọn quan lại ấy đang ngồi ở trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. Quang cảnh, không khí tĩnh mịch, trang nghiêm, mọi người nhàn nhã đánh tổ tôm. “Đèn thắp sáng trưng ; nha lệ, lính tráng kẻ hầu người hạ đi lại…”. Đặc biệt là hình ảnh viên quan phủ. Hắn “uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra đệ cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…”. Bên cạnh, xung quanh hắn là bọn lính lệ chầu chực đợi sai khiến và những vật dụng quý giá, đắt tiền như bát yến hấp đường phèn, khay khảm, tráp đồi mồi đựng trầu vàng, cau đậu,… Lại thêm cả đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm bạc, ngoáy tai, ví thuốc,… Đúng là hình ảnh của một kẻ giàu sang, phú quý, mang danh đi chỉ đạo dân hộ đê mà như đi chơi, để khoe khoang của cải. Đúng là hắn đi… chơi! Giữa lúc nhân dân đang trăm thảm, nghìn sầu thì tên quan cùng đồng bọn say sưa, đắm mình trên chiếu bạc. Ngồi xung quanh hắn, một lũ tay chân nín thin thít hầu hạ quan, tạo mọi điều kiện để quan được thắng bạc. Đến thời điểm ngoài kia đê sắp vỡ, sự gắng sức của dân lên đến đỉnh điểm, thì viên quan hồi hộp đợi chờ ván bài ù to. Ở phần cuối bức tranh, quan phủ ngồi đợi thắng bạc, tác giả sử dụng nghệ thuật miêu tả tăng cấp rất ấn tượng, rất hồi hộp. Hình ảnh đối lập vì thế càng gay gắt. Nghe ngoài xa vẳng vào tiếng kêu vang trời, có người khẽ nói: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ!”. Tên quan gắt: “Mặc kệ!”. Khi một người nhà quê hớt hải chạy vào báo tin “Bẩm quan lớn đê vỡ mất rồi” thì tên quan đỏ mặt tía tai quát mắng: “Đê vỡ rồi!… thời ông cách cổ chúng mày, bỏ tù chúng mày!”. Hắn đã quên hết nhiệm vụ giúp dân chống lụt, để chỉ đợi một quân bài. Sự đối lập giữa tình cảnh khốn khổ của dân chúng, nỗi âu lo của mọi người xung quanh và thái độ vô trách nhiệm của tên quan lên đến đỉnh điểm. Nhưng chưa dừng lại. Sự đối lập vẫn tiếp tục tăng cấp. Trong khi thầy đề “tay run cầm cập thò vào đĩa nọc…” (nghĩa là người nhân viên này cùng mọi người xung quanh rất lo sợ trước cảnh đê vỡ), thì tên quan sung sướng hả hê ngả ra những quân bài, ù một ván to. Không những thế, hắn còn vỗ tay xuống sập kêu to, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”. Nghĩa là kẻ quan liêu, vô trách nhiệm ấy reo vui, sung sướng đến tột đỉnh được hưởng thụ một món tiền lớn, giữa lúc nhân dân đau khổ cũng đến mức độ thẳm sâu, không thể đo được. Tình huống truyện diễn biến đến đây quả là căng thẳng, sự tương phản, đối lập quả là gay gắt, mâu thuẫn không thể dung hoà. Người đọc như bị cuốn vào câu chuyện và cũng cảm thấy căng thẳng, ngột ngạt, bức bối, tràn đầy nỗi tức giận, căm ghét tên quan vô trách nhiệm, tham tiền và tràn đầy tình cảm xót thương những người dân khốn khổ bị lãng quên, bị bỏ mặc… Giận và thương, hai cung bậc cảm xúc ấy dường như thấm đẫm trong từng từ ngữ, câu văn. Kết thúc truyện nhà văn viết: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết ; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!”. Câu văn kéo dài, nhấn mạnh hai bức tranh đời tương phản, vừa kể chuyên vừa miêu tả, vừa biểu ý vừa biểu cảm. Nhịp câu biền ngẫu, đối xứng lâm li, hài hoà tiếng nấc nghẹn, căm phẫn với dòng nước mắt xót đau, thương cảm.
Hướng dẫn Ngay từ nhỏ, chúng, ta đã được nghe ông bà kể chuyện cổ tích, nghe mẹ hát ru những bài ca dao – dân ca. Lớn lên, chúng ta được đọc, được học những bài thơ, những truyện ngắn và một vài cuốn tiểu thuyết,… cổ tích, ca dao, những bài thơ, các tác phẩm truyện ấy chính là những áng văn chương. Chúng ta đến với văn chương một cách hồn nhiên, theo sự rung động của tình cảm. Mấy ai đã suy ngẫm về ý nghĩa của văn chương đối với bản thân ta cũng như với mọi người. Vậy văn chương có ý nghĩa gì? Đọc văn thơ, học văn thơ, chúng ta thu lượm được những gì? Muốn giải đáp nhũng câu hỏi mang tính lí luận sâu rộng rất thú vị ấy, chúng ta hãy đọc bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh – một nhà phê bình văn học có uy tín lớn. Văn bản được viết năm 1936 (in trong sách Văn chương và hành động). Đây là tác phẩm thuộc thể nghị luận văn chương, bàn về những vấn đề thuộc văn chương, khác bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là văn chính luận bàn về vấn đề chính trị xã hội… Vì là đoạn trích trong một bài nghị luận dài nên văn bản chúng ta được học không gồm ba phần hoàn chỉnh: đặt, giải quyết và kết thúc vấn đề. Nổi bật trong văn bản là ba nội dung quan trọng mà tác giả Hoài Thanh gọi chung là Ý nghĩa văn chương: nguồn gốc, nhiệm vụ của văn chương nói chung, của các tác phẩm thơ, văn, kịch nói riêng. 1.Nguồn gốc của văn chương. Đi vào văn bản, chúng ta bắt gặp ngay ở phần đầu một câu chuyện đời xưa thú vị. Từ câu chuyện ấy, tác giả giải thích nguồn gốc của văn chương. Theo Hoài Thanh, “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài”. Quan niệm ấy đúng không? Rất đúng, nhưng không phải là duy nhất. Có nhiều nhà lí luận giải thích: Văn chương bắt nguồn từ lao động, hoặc văn chương bắt nguồn từ những nỗi đau, những khát vọng cao cả của con người… Tuy ý kiến của Hoài Thanh khác với các quan niệm trên, nhưng không đối lập, không loại trừ nhau. Ngược lại, ý kiến của ông đã bổ sung, làm giàu thêm cho một vấn đề quan trọng trong lí luận về nguồn gốc của văn chương. Do đó, tác giả dùng từ cốt yếu sau từ nguồn gốc để chỉ rõ nguồn gốc chính, nguồn gốc quan trọng của văn chương là lòng thương.,. Đây là một cách nói mềm dẻo, khéo léo, không áp đặt, cũng không khẳng định quan niệm của mình là bao quát mọi quan niệm khác. Từ ý kiến của Hoài Thanh, tiếp tục suy nghĩ và học tập, lên các lớp trên, chắc chúng ta sẽ được biết sâu thêm về vấn đề này. 2.Nhiệm vụ của văn chương. Từ một câu văn ngắn gọn giải thích nguồn gốc văn chương, nhà văn giải thích tiếp: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Hai câu văn cô đọng nêu ra nhiệm vụ, chức năng cơ bản của văn chương, tập trung trong hai cụm từ “hình dung của sự sống”, “sáng tạo ra sự sống”. Điều đó nghĩa là gì? Phải chăng tác giả muốn nói: Văn chương có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống? ở đây, hình dung là danh từ, nó có nghĩa như hình ảnh, kết quả của sự phản ánh, sự miêu tả trong văn chương. Hai câu thơ của Bác Hồ “Tiếng suối trong như tiếng hát xa – Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” (Cảnh khuya) đã hình dung, phản ánh, tái hiện bức tranh phong cảnh đêm rừng Việt Bắc tuyệt đẹp. Hay qua bài Sài Gòn tôi yêu, tác giả Minh Hương cũng đã hình dung cảnh và người, sự sống rất đáng yếu của mảnh đất Sài Gòn ngọc ngà xưa và nay. Cách hình dung, cách tái hiện, phản ánh cuộc sống của văn chương vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng đúng như Hoài Thanh nói. Mỗi nhà văn, nhà thơ có cách phản ánh, cách hình dung lại sự sống riêng tuỳ thuộc vốn sống, tài năng và tâm hồn của mình. Tâm hồn của con người thì bao la, vô tận. Do đó, Hoài Thanh viết: “Vũ trụ này tầm thường, chật hẹp, không đủ thoả mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”. Đó cũng là nhiệm vụ của văn chương: nhiệm vụ sáng tạo. Điều ấy nghĩa là gì? Nghĩa là: qua các áng văn chương, bằng trí tưởng tượng bay bổng, bằng khát vọng tốt lành, nhà văn dựng nên bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống vượt trên thực tế, đẹp hơn cuộc đời thực tại. Nguyễn Trãi chẳng hạn. Sau khi đất nước thanh bình, đời ông gặp nhiều ẩn ức. ông đã cáo quan, về Côn Sơn. Rừng núi nơi đây vẫn như xưa, có suối chảy, có đá rêu phong, có thông, có trúc… lặng im, vô cảm. Vậy mà, trong Bài ca Côn Sơn, tất cả đã sống dậy, có đàn cầm tấu nhạc, có chiếu êm, giường phẳng, mái nhà râm mát và… ngân nga tiếng thơ nhàn tản, thảnh thơi của con người. Nguyễn Trãi đã sáng tạo ra sự sống khác hẳn cuộc sống mà ông vừa đối mặt. Không chỉ sáng tạo ra sự sống cho riêng mình để giải toả những ẩn ức, bế tắc, nhà văn còn gửi gắm những thông điệp, những mong muốn, khát vọng tới bạn đọc để nhắc nhở chúng ta hãy yêu, ghét đúng đắn, hãy chia sẻ, cộng hưởng niềm vui, nỗi buồn, những ước mơ, khát vọng với nhà văn để quyết tâm làm những điều thiện, điều có ích, để cuộc sống mà nhà văn hình dung được ngày càng tốt đẹp hơn, mới mẻ hơn, thậm chí khác hẳn sự sống trong áng văn chương. Miêu tả cảnh đêm rừng Việt Bắc trong bài Cảnh khuya, nhà thơ Hồ Chí Minh mong muốn cuộc kháng chiến lúc bấy giờ sớm thành công để núi rừng Việt Bắc, Tổ quốc Việt Nam sẽ đẹp hơn, cuộc sống của nhân dân sẽ hạnh phúc hơn. Ca ngợi mảnh đất và con người Sài Gòn trong bài Sài Gòn tôi yêu, nhà văn Minh Hương mong muốn “mọi người đều yêu Sài Gòn như tôi”. Tình yêu sẽ thúc đẩy con người làm được nhiều điều tốt đẹp. Yêu Sài Gòn, “mọi người” – trong đó có nhà văn – và bạn đọc sẽ góp phần tích cực tạo ra một Sài Gòn đẹp hơn, đáng yêu hơn. Sau những áng văn chương, sự sống bao giờ cũng được nối dài, được phát triển trong tâm hồn, ý chí, khát vọng và hành động của bạn đọc… Phải chăng đấy chính là nhiệm vụ “sáng tạo sự sống” của văn chương như Hoài Thanh quan niệm. 3.Công dụng của văn chương. Nói tới nhiệm vụ hình dung lại, sáng tạo ra sự sống, cũng là đề cập tới một ý nghĩa quan trọng nữa của văn chương. “Và vì thế – Hoài Thanh viết – Công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha”. Phần hai của văn bản Ý nghĩa văn chương tập trung giảng giải, bình luận về công dụng của văn chương. Chúng ta hiểu nghĩa từ công dụng là: tác dụng, là hiệu quả, là sự bồi đắp trí tuệ, sự truyền cảm… của văn chương đối với bạn đọc nói riêng, con người nói chung. Vậy, qua ý kiến của Hoài Thanh, chúng ta hiểu công dụng của văn chương như thế nào? Hoài Thanh viết: “Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình… khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu,…”. Nghĩa là văn chương có khả năng lay động tâm hồn, giúp ta biết chia sẻ buồn, vui, đau khổ, hạnh phúc… với mọi người, dắt chúng ta sống gần với nhau hơn trong tình nhân ái, tình thương yêu, đoàn kết giữa con người với con người… “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp tình cảm tốt đẹp cho người đọc, làm giàu thêm thế giới tâm hồn của chúng ta. Không những thế, văn chương còn góp phần tô điểm biết bao sắc màu, âm thanh làm cho thế giới, con người, cuộc sống được tốt đẹp hơn, đáng yêu hơn. […] Từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cổ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay…Hoài Thanh Viết như thế, đã nhấn mạnh thêm công dụng của văn chương. Hiểu và suy ngẫm những ý kiến ấy, rồi liên tưởng tới các áng văn chương đã được đọc, được học, ta thấy quả đúng như vậy. Đọc những bài ca dao tình nghĩa con người, ta càng thêm yêu ông bà, cha mẹ ta hơn. Qua những bài ca, những câu hát than thân, ta càng hiểu rõ và càng thương cha ông ta, nhất là những người chị, người mẹ Việt Nam ngày xưa. Tương tự như thế, đọc chùm thơ Đường của Lí Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, tình yêu quê hương của chúng ta được bồi đắp bởi những cung bậc rung động thật tinh tế. Qua hai bài kí: Một thứ quà của lúa non: Cốm, Mùa xuân của tôi, ta thấm thìa thêm biết bao vẻ đẹp của cây lúa Việt Nam, của mùa xuân Hà Nội, mùa xuân Tổ quốc ta,… Kể sao cho hết, dẫn sao cho cùng những tác dụng, những công dụng kì diệu của văn chương! Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp cho chúng ta biết bao tình cảm trong sáng, hướng ta tới những điều đúng, những điều tốt và những cái đẹp. Văn chương góp phần tôn vinh cuộc sống của con người. Có nhà lí luận nói chức năng của văn chương là đem lại cho con người, hướng con người tới những điều “Chân, Thiện, Mĩ”. Hoài Thanh, tuy không dùng những từ mang tính khái quát như thế, nhưng qua những lí lẽ giản dị, kết hợp những cảm xúc nhẹ nhàng và lời văn giàu hình ảnh, cũng đã nói được khá đầy đủ công dụng, hiệu quả, tác dụng của văn chương. Nói khác đi, bài viết của Hoài Thanh là những lời đẹp, những ý hay ca ngợi văn chương, tôn vinh tài hoa và công lao của các văn nghệ sĩ. “Nếu pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực nào…!”. Câu cuối văn bản thật thú vị. Tác giả vừa như muốn khẳng định vai trò kì diệu của văn nghệ sĩ vừa nhấn mạnh ý nghĩa của văn chương. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta hãy biết ơn các nhà văn, hãy quý trọng các áng thơ văn nói riêng và văn chương nói chung. Đó là một câu văn hàm nhiều nghĩa, buộc chúng ta phải tiếp tục suy ngẫm…
Hướng dẫn Ngay từ nhỏ, chúng, ta đã được nghe ông bà kể chuyện cổ tích, nghe mẹ hát ru những bài ca dao – dân ca. Lớn lên, chúng ta được đọc, được học những bài thơ, những truyện ngắn và một vài cuốn tiểu thuyết,… cổ tích, ca dao, những bài thơ, các tác phẩm truyện ấy chính là những áng văn chương. Chúng ta đến với văn chương một cách hồn nhiên, theo sự rung động của tình cảm. Mấy ai đã suy ngẫm về ý nghĩa của văn chương đối với bản thân ta cũng như với mọi người. Vậy văn chương có ý nghĩa gì? Đọc văn thơ, học văn thơ, chúng ta thu lượm được những gì? Muốn giải đáp nhũng câu hỏi mang tính lí luận sâu rộng rất thú vị ấy, chúng ta hãy đọc bài Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh – một nhà phê bình văn học có uy tín lớn. Văn bản được viết năm 1936 (in trong sách Văn chương và hành động). Đây là tác phẩm thuộc thể nghị luận văn chương, bàn về những vấn đề thuộc văn chương, khác bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là văn chính luận bàn về vấn đề chính trị xã hội… Vì là đoạn trích trong một bài nghị luận dài nên văn bản chúng ta được học không gồm ba phần hoàn chỉnh: đặt, giải quyết và kết thúc vấn đề. Nổi bật trong văn bản là ba nội dung quan trọng mà tác giả Hoài Thanh gọi chung là Ý nghĩa văn chương: nguồn gốc, nhiệm vụ của văn chương nói chung, của các tác phẩm thơ, văn, kịch nói riêng. 1.Nguồn gốc của văn chương. Đi vào văn bản, chúng ta bắt gặp ngay ở phần đầu một câu chuyện đời xưa thú vị. Từ câu chuyện ấy, tác giả giải thích nguồn gốc của văn chương. Theo Hoài Thanh, “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài”. Quan niệm ấy đúng không? Rất đúng, nhưng không phải là duy nhất. Có nhiều nhà lí luận giải thích: Văn chương bắt nguồn từ lao động, hoặc văn chương bắt nguồn từ những nỗi đau, những khát vọng cao cả của con người… Tuy ý kiến của Hoài Thanh khác với các quan niệm trên, nhưng không đối lập, không loại trừ nhau. Ngược lại, ý kiến của ông đã bổ sung, làm giàu thêm cho một vấn đề quan trọng trong lí luận về nguồn gốc của văn chương. Do đó, tác giả dùng từ cốt yếu sau từ nguồn gốc để chỉ rõ nguồn gốc chính, nguồn gốc quan trọng của văn chương là lòng thương.,. Đây là một cách nói mềm dẻo, khéo léo, không áp đặt, cũng không khẳng định quan niệm của mình là bao quát mọi quan niệm khác. Từ ý kiến của Hoài Thanh, tiếp tục suy nghĩ và học tập, lên các lớp trên, chắc chúng ta sẽ được biết sâu thêm về vấn đề này. 2.Nhiệm vụ của văn chương. Từ một câu văn ngắn gọn giải thích nguồn gốc văn chương, nhà văn giải thích tiếp: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống”. Hai câu văn cô đọng nêu ra nhiệm vụ, chức năng cơ bản của văn chương, tập trung trong hai cụm từ “hình dung của sự sống”, “sáng tạo ra sự sống”. Điều đó nghĩa là gì? Phải chăng tác giả muốn nói: Văn chương có nhiệm vụ phản ánh cuộc sống? ở đây, hình dung là danh từ, nó có nghĩa như hình ảnh, kết quả của sự phản ánh, sự miêu tả trong văn chương. Hai câu thơ của Bác Hồ “Tiếng suối trong như tiếng hát xa – Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” (Cảnh khuya) đã hình dung, phản ánh, tái hiện bức tranh phong cảnh đêm rừng Việt Bắc tuyệt đẹp. Hay qua bài Sài Gòn tôi yêu, tác giả Minh Hương cũng đã hình dung cảnh và người, sự sống rất đáng yếu của mảnh đất Sài Gòn ngọc ngà xưa và nay. Cách hình dung, cách tái hiện, phản ánh cuộc sống của văn chương vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng đúng như Hoài Thanh nói. Mỗi nhà văn, nhà thơ có cách phản ánh, cách hình dung lại sự sống riêng tuỳ thuộc vốn sống, tài năng và tâm hồn của mình. Tâm hồn của con người thì bao la, vô tận. Do đó, Hoài Thanh viết: “Vũ trụ này tầm thường, chật hẹp, không đủ thoả mãn mối tình cảm dồi dào của nhà văn. Nhà văn sẽ sáng tạo ra những thế giới khác”. Đó cũng là nhiệm vụ của văn chương: nhiệm vụ sáng tạo. Điều ấy nghĩa là gì? Nghĩa là: qua các áng văn chương, bằng trí tưởng tượng bay bổng, bằng khát vọng tốt lành, nhà văn dựng nên bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống vượt trên thực tế, đẹp hơn cuộc đời thực tại. Nguyễn Trãi chẳng hạn. Sau khi đất nước thanh bình, đời ông gặp nhiều ẩn ức. ông đã cáo quan, về Côn Sơn. Rừng núi nơi đây vẫn như xưa, có suối chảy, có đá rêu phong, có thông, có trúc… lặng im, vô cảm. Vậy mà, trong Bài ca Côn Sơn, tất cả đã sống dậy, có đàn cầm tấu nhạc, có chiếu êm, giường phẳng, mái nhà râm mát và… ngân nga tiếng thơ nhàn tản, thảnh thơi của con người. Nguyễn Trãi đã sáng tạo ra sự sống khác hẳn cuộc sống mà ông vừa đối mặt. Không chỉ sáng tạo ra sự sống cho riêng mình để giải toả những ẩn ức, bế tắc, nhà văn còn gửi gắm những thông điệp, những mong muốn, khát vọng tới bạn đọc để nhắc nhở chúng ta hãy yêu, ghét đúng đắn, hãy chia sẻ, cộng hưởng niềm vui, nỗi buồn, những ước mơ, khát vọng với nhà văn để quyết tâm làm những điều thiện, điều có ích, để cuộc sống mà nhà văn hình dung được ngày càng tốt đẹp hơn, mới mẻ hơn, thậm chí khác hẳn sự sống trong áng văn chương. Miêu tả cảnh đêm rừng Việt Bắc trong bài Cảnh khuya, nhà thơ Hồ Chí Minh mong muốn cuộc kháng chiến lúc bấy giờ sớm thành công để núi rừng Việt Bắc, Tổ quốc Việt Nam sẽ đẹp hơn, cuộc sống của nhân dân sẽ hạnh phúc hơn. Ca ngợi mảnh đất và con người Sài Gòn trong bài Sài Gòn tôi yêu, nhà văn Minh Hương mong muốn “mọi người đều yêu Sài Gòn như tôi”. Tình yêu sẽ thúc đẩy con người làm được nhiều điều tốt đẹp. Yêu Sài Gòn, “mọi người” – trong đó có nhà văn – và bạn đọc sẽ góp phần tích cực tạo ra một Sài Gòn đẹp hơn, đáng yêu hơn. Sau những áng văn chương, sự sống bao giờ cũng được nối dài, được phát triển trong tâm hồn, ý chí, khát vọng và hành động của bạn đọc… Phải chăng đấy chính là nhiệm vụ “sáng tạo sự sống” của văn chương như Hoài Thanh quan niệm. 3.Công dụng của văn chương. Nói tới nhiệm vụ hình dung lại, sáng tạo ra sự sống, cũng là đề cập tới một ý nghĩa quan trọng nữa của văn chương. “Và vì thế – Hoài Thanh viết – Công dụng của văn chương cũng là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha”. Phần hai của văn bản Ý nghĩa văn chương tập trung giảng giải, bình luận về công dụng của văn chương. Chúng ta hiểu nghĩa từ công dụng là: tác dụng, là hiệu quả, là sự bồi đắp trí tuệ, sự truyền cảm… của văn chương đối với bạn đọc nói riêng, con người nói chung. Vậy, qua ý kiến của Hoài Thanh, chúng ta hiểu công dụng của văn chương như thế nào? Hoài Thanh viết: “Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình… khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu,…”. Nghĩa là văn chương có khả năng lay động tâm hồn, giúp ta biết chia sẻ buồn, vui, đau khổ, hạnh phúc… với mọi người, dắt chúng ta sống gần với nhau hơn trong tình nhân ái, tình thương yêu, đoàn kết giữa con người với con người… “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp tình cảm tốt đẹp cho người đọc, làm giàu thêm thế giới tâm hồn của chúng ta. Không những thế, văn chương còn góp phần tô điểm biết bao sắc màu, âm thanh làm cho thế giới, con người, cuộc sống được tốt đẹp hơn, đáng yêu hơn. […] Từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa cổ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim kêu, tiếng suối chảy làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay…Hoài Thanh Viết như thế, đã nhấn mạnh thêm công dụng của văn chương. Hiểu và suy ngẫm những ý kiến ấy, rồi liên tưởng tới các áng văn chương đã được đọc, được học, ta thấy quả đúng như vậy. Đọc những bài ca dao tình nghĩa con người, ta càng thêm yêu ông bà, cha mẹ ta hơn. Qua những bài ca, những câu hát than thân, ta càng hiểu rõ và càng thương cha ông ta, nhất là những người chị, người mẹ Việt Nam ngày xưa. Tương tự như thế, đọc chùm thơ Đường của Lí Bạch, Hạ Tri Chương, Đỗ Phủ, tình yêu quê hương của chúng ta được bồi đắp bởi những cung bậc rung động thật tinh tế. Qua hai bài kí: Một thứ quà của lúa non: Cốm, Mùa xuân của tôi, ta thấm thìa thêm biết bao vẻ đẹp của cây lúa Việt Nam, của mùa xuân Hà Nội, mùa xuân Tổ quốc ta,… Kể sao cho hết, dẫn sao cho cùng những tác dụng, những công dụng kì diệu của văn chương! Rõ ràng, văn chương đã bồi đắp cho chúng ta biết bao tình cảm trong sáng, hướng ta tới những điều đúng, những điều tốt và những cái đẹp. Văn chương góp phần tôn vinh cuộc sống của con người. Có nhà lí luận nói chức năng của văn chương là đem lại cho con người, hướng con người tới những điều “Chân, Thiện, Mĩ”. Hoài Thanh, tuy không dùng những từ mang tính khái quát như thế, nhưng qua những lí lẽ giản dị, kết hợp những cảm xúc nhẹ nhàng và lời văn giàu hình ảnh, cũng đã nói được khá đầy đủ công dụng, hiệu quả, tác dụng của văn chương. Nói khác đi, bài viết của Hoài Thanh là những lời đẹp, những ý hay ca ngợi văn chương, tôn vinh tài hoa và công lao của các văn nghệ sĩ. “Nếu pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến bực nào…!”. Câu cuối văn bản thật thú vị. Tác giả vừa như muốn khẳng định vai trò kì diệu của văn nghệ sĩ vừa nhấn mạnh ý nghĩa của văn chương. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta hãy biết ơn các nhà văn, hãy quý trọng các áng thơ văn nói riêng và văn chương nói chung. Đó là một câu văn hàm nhiều nghĩa, buộc chúng ta phải tiếp tục suy ngẫm…
Hướng dẫn Chúng ta, nhất là thanh thiếu niên Việt Nam từng được nghe nhiều người kể chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh — Bác Hồ kính yêu của dân tộc, về những kỉ niệm được gặp Bác Hồ, được làm việc bên Bác, học tập ở Bác biết bao điều bổ ích. Một trong những người được gần gũi và hiểu Hồ Chủ tịch nhất là Phạm Văn Đồng, nguyên Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam trong nhiều năm. Phạm Văn Đồng là người học trò xuất sắc, là cộng sự gần gũi của Hồ Chí Minh. Suốt mấy chục năm liền, ông được sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ. Vì vậy, ông đã viết nhiều bài và sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng sự hiểu biết tường tận và lòng kính yêu chân thành, thắm thiết của mình. Bài Đức tính giản dị của Bác Hồ là một trong số văn bản ấy. Văn bản trong sách giáo khoa là đoạn trích từ bài diễn văn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc trong lễ kỉ niệm tám mươi năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 – 5 – 1970). Học văn bản này, chúng ta có thêm một phương diện nữa để nhớ và noi gương Bác Hồ vĩ đại. Đây là văn bản thuộc thể văn nghị luận chứng minh, xen kẽ đôi đoạn giải thích, bình luận. Vấn đề mà tác giả nghị luận là: Đức tính giản dị của Bác Hồ được biểu hiện trong cách ăn ở, sinh hoạt, cách ứng xử và trong lời nói, bài viết. Vì là đoạn trích, nên văn bản này không đầy đủ ba phần trong bố cục thông thường của bài nghị luận. Bài chỉ có hai phần: Mở bài (từ đầu đến “… thanh bạch, tuyệt đẹp”) sự nhất quán giữa cuộc đời cách mạng và phong cách sống giản dị, thanh bạch ở Bác Hồ. Thân bài (đoạn còn lại) chứng minh sự giản dị của Bác Hồ trong phong cách sống, trong lời nói, bài viết. Bài văn lập luận sáng tỏ, rành mạch, liên kết với nhau rất chặt chẽ. Tác giả sử dụng các lí lẽ và dẫn chứng, dùng thao tác chúng minh, giải thích, bình luận (chứng minh là chính) một cách hài hoà, tự nhiên, đầy thuyết phục. Theo sự dẫn dắt ấy, chúng ta hiểu và suy ngẫm, rút ra được nhiều bài học bổ ích, vừa nhớ vừa thêm kính yêu Bác. Ngay ở phần đầu trong luận đề, tác giả đã nêu một nét đặc trưng tiêu biểu trong nhân cách vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “nhất quán giữa đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn”. Câu văn gồm hai vế đối lập, bổ sung cho nhau: “đời hoạt động lay trời chuyển đất” và “đời sống bình thường vô cùng giản dị…”. Điều đó giúp chúng ta hiểu rằng Bác Hồ vừa là bậc vĩ nhân, lỗi lạc, phi thường vừa là người bình thường, rất gần gũi, thân thương đối với mọi người. Điều đó xua tan quan điểm của một vài người muốn thần thánh hoá Bác, coi Bác là siêu nhân huyền thoại xa vời, chỉ để thờ phụng mà không chịu tìm hiểu, học tập. Nhấn mạnh thêm nét đặc trung về “sự nhất quán” trong cuộc đời và phong cách sống của Bác, tác giả giải thích: “trong 60 năm của một cuộc đời đầy sóng gió…, Bác Hồ vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một người chiến sĩ cách mạng, tất cả vì nước, vì dân, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch…”. Phẩm chất vừa vĩ đại vừa giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng về nhân dân, gắn bó với hạnh phúc nhân dân. Sự trong sáng, thanh bạch của Bác vừa bắt nguồn từ nhân dân vừa bổ sung, góp phần nâng cao cuộc đời và phẩm giá làm người trong sáng, thanh bạch của nhân dân. Luận đề và cách lập luận của Phạm Văn Đồng ngắn gọn mà sâu sắc biết bao. Đức tính giản dị của Bác Hồ được toả sáng ở từng từ, từng câu văn trong cách lập luận ấy. Đến phần thứ hai – thân bài – tác giả chứng minh, xen kẽ vài ý giải thích, bình luận ngắn gọn đức tính giản dị của Bác Hồ. ớ đây có hai luận.điểm. Trước hết, tác giả nêu ra và giải quyết luận điểm một: Đời sống của Bác Hồ giản dị. Dẫn chứng ngắn gọn, bằng lời văn kể chuyện nhỏ nhẹ: “Bữa cơm chỉ có vài ba món rất giản đơn, lúc ăn Bác không để rơi vãi một hột cơm, ăn xong, cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn còn lại thì được sắp xếp tươm tất… Cái nhà sàn của Bác vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng … luôn lộng gió và ánh sáng… Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ việc rất lớn… đến việc rất nhỏ… việc gì Bác tự làm được thì không cần người giúp…”. Xen giữa những lời kể, những dẫn chứng, tác giả bình luận, đánh giá cũng bằng lời văn nhỏ nhẹ mà thấm thìa. Chẳng hạn về cách ăn uống của Bác, tác giả viết: “ở việc làm nhỏ đó, chúng ta càng thấy Bác quý trọng biết bao kết quả sản xuất của con người và kính trọng như thế nào người phục vụ”. Nhận xét căn nhà, phong cách sinh hoạt của Bác, tác giả viết: “Một đợi sống như vậy thanh bạch và tao nhã biết bao!”. Nhấn thêm một bước nữa, tác giả giải thích cội nguồn, đối chiếu đức tính giản dị của Bác bằng vài ba lí lẽ dễ hiểu mà sâu sắc. Bác sống giản dị không phải là theo lối sống khắc khổ của các nhà tu hành, cũng không phải kiểu nhà hiền triết ẩn dật. Sống giản dị về đời sống vật chất bởi vì Bác Hồ có đời sống tinh thần phong phú. Đó là cuộc sống cách mạng vì một lí tưởng cao đẹp. Đọc văn của Phạm Văn Đồng, chúng ta nhớ lại chính Bác Hồ cũng tự kể về cuộc sống của mình trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó… mà Người làm ở Việt Bắc năm 1941: Sáng ra bờ suối tối vào hang, Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng, Băn đá chông chênh dich sử Đảng, Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sự giản dị về vật chất, càng làm nổi bật sự phong phú về đời sống tinh thần khiến cho Bác luôn sống vui, sống khoẻ như Bác tự nhận xét “Sống quen thanh đạm nhẹ người – Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung” (Sáu mươi ba tuổi) và như nhà thơ Tố Hữu ca ngợi: “Mong manh áo vải hồn muôn trượng…” Theo chân Bác). Có thể nói, phong cách sống giản dị của Bác Hồ “là đời sống thực sự văn minh, nêu gương sáng cho thế giới ngày nay”. Đoạn văn được sơ kết bằng câu văn như thế, vừa có giá trị khái quát, nhấn mạnh luận điểm, vừa rút ra bài học thiết thực của tác giả. Từ đó chuyển tới bạn đọc chúng ta ngày nay lời thông điệp tâm huyết: Hãy tìm hiểu, hãy suy ngẫm về đức tính giản dị trong cách sống của Bác Hồ, để nhớ Bác, biết ơn, kính trọng và mãi mãi noi gương Bác. Văn nghị luận vốn chỉ biểu ý, ít biểu cảm. Nhưng trong những lời văn ấy vẫn toát ra tình cảm của người viết làm lay động tình cảm người đọc. “Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong, Hồ Chủ tịch cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết”. Câu văn chuyển ý rất tự nhiên, từ luận điểm một vào luận điểm hai. Chứng minh ý này, tác giả lập luận theo kiểu nhân – quả. Phạm Văn Đồng nêu “Vì muốn quần chúng hiểu được, nhớ được, làm được”, rồi đưa ra hai dẫn chứng lời nói bài viết giản dị của Bác: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ; Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi. Hai câu văn trên được trích từ những văn kiện quan trọng mà Hồ Chí Minh đã viết, đã đọc trước nhân dân cả nước. Câu thứ nhất, Bác viết, rồi đọc trong thời kì chống Mĩ cứu nước sôi động, năm 1967. Câu thứ hai, Bác phát biểu giữa những ngày căng thẳng, nóng bỏng đầu năm 1946. Chúng ta cũng có thể dẫn ra nhiều bài thơ, câu văn, bài văn, lời nói giản dị mà sâu sắc của Bác. Chẳng hạn lời Bác hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không” trong giờ phút đọc Tuyên ngôn Độc lập, những bài thơ Bác viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp, những câu văn của Bác trong bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, v.v. Nhiều câu nói, lời văn của Bác tuy giản dị nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc như những chân lí. Vì vậy, khái quát, đánh giá ý nghĩa và hiệu quả của chúng, Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: “Những chân lí giản dị mà sâu sắc đó lúc thâm nhập vào quả tim và bộ óc của hàng triệu con người đang chờ đợi nó, thì đó là sức mạnh vô địch, đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng”. Câu văn bình luận ấy vừa ngợi ca hiệu quả, tác dụng của những bài viết, những tư tưởng của Bác Hồ, vừa sơ kết, khái quát luận điểm hai trong áng văn nghị luận. Có thể nói, ở văn bản này, nghệ thuật nghị luận của tác giả Phạm Văn Đồng giàu sức thuyết phục, vì: luận điểm rõ ràng, rành mạch, dẫn chứng tọàn diện, phong phú, xác thực, chen giữa dẫn chứng là đôi ba ý giải thích, bình luận nhẹ nhàng, sâu sắc. Hơn nữa, những điều tác giả nói ra được đảm bảo bằng mối quan hệ gần gũi, lâu dài, gắn bó của tác giả với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hướng dẫn Chúng ta, nhất là thanh thiếu niên Việt Nam từng được nghe nhiều người kể chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh — Bác Hồ kính yêu của dân tộc, về những kỉ niệm được gặp Bác Hồ, được làm việc bên Bác, học tập ở Bác biết bao điều bổ ích. Một trong những người được gần gũi và hiểu Hồ Chủ tịch nhất là Phạm Văn Đồng, nguyên Thủ tướng chính phủ nước Việt Nam trong nhiều năm. Phạm Văn Đồng là người học trò xuất sắc, là cộng sự gần gũi của Hồ Chí Minh. Suốt mấy chục năm liền, ông được sống và làm việc bên cạnh Bác Hồ. Vì vậy, ông đã viết nhiều bài và sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng sự hiểu biết tường tận và lòng kính yêu chân thành, thắm thiết của mình. Bài Đức tính giản dị của Bác Hồ là một trong số văn bản ấy. Văn bản trong sách giáo khoa là đoạn trích từ bài diễn văn của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc trong lễ kỉ niệm tám mươi năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 – 5 – 1970). Học văn bản này, chúng ta có thêm một phương diện nữa để nhớ và noi gương Bác Hồ vĩ đại. Đây là văn bản thuộc thể văn nghị luận chứng minh, xen kẽ đôi đoạn giải thích, bình luận. Vấn đề mà tác giả nghị luận là: Đức tính giản dị của Bác Hồ được biểu hiện trong cách ăn ở, sinh hoạt, cách ứng xử và trong lời nói, bài viết. Vì là đoạn trích, nên văn bản này không đầy đủ ba phần trong bố cục thông thường của bài nghị luận. Bài chỉ có hai phần: Mở bài (từ đầu đến “… thanh bạch, tuyệt đẹp”) sự nhất quán giữa cuộc đời cách mạng và phong cách sống giản dị, thanh bạch ở Bác Hồ. Thân bài (đoạn còn lại) chứng minh sự giản dị của Bác Hồ trong phong cách sống, trong lời nói, bài viết. Bài văn lập luận sáng tỏ, rành mạch, liên kết với nhau rất chặt chẽ. Tác giả sử dụng các lí lẽ và dẫn chứng, dùng thao tác chúng minh, giải thích, bình luận (chứng minh là chính) một cách hài hoà, tự nhiên, đầy thuyết phục. Theo sự dẫn dắt ấy, chúng ta hiểu và suy ngẫm, rút ra được nhiều bài học bổ ích, vừa nhớ vừa thêm kính yêu Bác. Ngay ở phần đầu trong luận đề, tác giả đã nêu một nét đặc trưng tiêu biểu trong nhân cách vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “nhất quán giữa đời hoạt động chính trị lay trời chuyển đất với đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn”. Câu văn gồm hai vế đối lập, bổ sung cho nhau: “đời hoạt động lay trời chuyển đất” và “đời sống bình thường vô cùng giản dị…”. Điều đó giúp chúng ta hiểu rằng Bác Hồ vừa là bậc vĩ nhân, lỗi lạc, phi thường vừa là người bình thường, rất gần gũi, thân thương đối với mọi người. Điều đó xua tan quan điểm của một vài người muốn thần thánh hoá Bác, coi Bác là siêu nhân huyền thoại xa vời, chỉ để thờ phụng mà không chịu tìm hiểu, học tập. Nhấn mạnh thêm nét đặc trung về “sự nhất quán” trong cuộc đời và phong cách sống của Bác, tác giả giải thích: “trong 60 năm của một cuộc đời đầy sóng gió…, Bác Hồ vẫn giữ nguyên phẩm chất cao quý của một người chiến sĩ cách mạng, tất cả vì nước, vì dân, vì sự nghiệp lớn, trong sáng, thanh bạch…”. Phẩm chất vừa vĩ đại vừa giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng về nhân dân, gắn bó với hạnh phúc nhân dân. Sự trong sáng, thanh bạch của Bác vừa bắt nguồn từ nhân dân vừa bổ sung, góp phần nâng cao cuộc đời và phẩm giá làm người trong sáng, thanh bạch của nhân dân. Luận đề và cách lập luận của Phạm Văn Đồng ngắn gọn mà sâu sắc biết bao. Đức tính giản dị của Bác Hồ được toả sáng ở từng từ, từng câu văn trong cách lập luận ấy. Đến phần thứ hai – thân bài – tác giả chứng minh, xen kẽ vài ý giải thích, bình luận ngắn gọn đức tính giản dị của Bác Hồ. ớ đây có hai luận.điểm. Trước hết, tác giả nêu ra và giải quyết luận điểm một: Đời sống của Bác Hồ giản dị. Dẫn chứng ngắn gọn, bằng lời văn kể chuyện nhỏ nhẹ: “Bữa cơm chỉ có vài ba món rất giản đơn, lúc ăn Bác không để rơi vãi một hột cơm, ăn xong, cái bát bao giờ cũng sạch và thức ăn còn lại thì được sắp xếp tươm tất… Cái nhà sàn của Bác vẻn vẹn chỉ có vài ba phòng … luôn lộng gió và ánh sáng… Bác suốt đời làm việc, suốt ngày làm việc, từ việc rất lớn… đến việc rất nhỏ… việc gì Bác tự làm được thì không cần người giúp…”. Xen giữa những lời kể, những dẫn chứng, tác giả bình luận, đánh giá cũng bằng lời văn nhỏ nhẹ mà thấm thìa. Chẳng hạn về cách ăn uống của Bác, tác giả viết: “ở việc làm nhỏ đó, chúng ta càng thấy Bác quý trọng biết bao kết quả sản xuất của con người và kính trọng như thế nào người phục vụ”. Nhận xét căn nhà, phong cách sinh hoạt của Bác, tác giả viết: “Một đợi sống như vậy thanh bạch và tao nhã biết bao!”. Nhấn thêm một bước nữa, tác giả giải thích cội nguồn, đối chiếu đức tính giản dị của Bác bằng vài ba lí lẽ dễ hiểu mà sâu sắc. Bác sống giản dị không phải là theo lối sống khắc khổ của các nhà tu hành, cũng không phải kiểu nhà hiền triết ẩn dật. Sống giản dị về đời sống vật chất bởi vì Bác Hồ có đời sống tinh thần phong phú. Đó là cuộc sống cách mạng vì một lí tưởng cao đẹp. Đọc văn của Phạm Văn Đồng, chúng ta nhớ lại chính Bác Hồ cũng tự kể về cuộc sống của mình trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó… mà Người làm ở Việt Bắc năm 1941: Sáng ra bờ suối tối vào hang, Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng, Băn đá chông chênh dich sử Đảng, Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sự giản dị về vật chất, càng làm nổi bật sự phong phú về đời sống tinh thần khiến cho Bác luôn sống vui, sống khoẻ như Bác tự nhận xét “Sống quen thanh đạm nhẹ người – Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung” (Sáu mươi ba tuổi) và như nhà thơ Tố Hữu ca ngợi: “Mong manh áo vải hồn muôn trượng…” Theo chân Bác). Có thể nói, phong cách sống giản dị của Bác Hồ “là đời sống thực sự văn minh, nêu gương sáng cho thế giới ngày nay”. Đoạn văn được sơ kết bằng câu văn như thế, vừa có giá trị khái quát, nhấn mạnh luận điểm, vừa rút ra bài học thiết thực của tác giả. Từ đó chuyển tới bạn đọc chúng ta ngày nay lời thông điệp tâm huyết: Hãy tìm hiểu, hãy suy ngẫm về đức tính giản dị trong cách sống của Bác Hồ, để nhớ Bác, biết ơn, kính trọng và mãi mãi noi gương Bác. Văn nghị luận vốn chỉ biểu ý, ít biểu cảm. Nhưng trong những lời văn ấy vẫn toát ra tình cảm của người viết làm lay động tình cảm người đọc. “Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người, trong tác phong, Hồ Chủ tịch cũng rất giản dị trong lời nói và bài viết”. Câu văn chuyển ý rất tự nhiên, từ luận điểm một vào luận điểm hai. Chứng minh ý này, tác giả lập luận theo kiểu nhân – quả. Phạm Văn Đồng nêu “Vì muốn quần chúng hiểu được, nhớ được, làm được”, rồi đưa ra hai dẫn chứng lời nói bài viết giản dị của Bác: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ; Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lí ấy không bao giờ thay đổi. Hai câu văn trên được trích từ những văn kiện quan trọng mà Hồ Chí Minh đã viết, đã đọc trước nhân dân cả nước. Câu thứ nhất, Bác viết, rồi đọc trong thời kì chống Mĩ cứu nước sôi động, năm 1967. Câu thứ hai, Bác phát biểu giữa những ngày căng thẳng, nóng bỏng đầu năm 1946. Chúng ta cũng có thể dẫn ra nhiều bài thơ, câu văn, bài văn, lời nói giản dị mà sâu sắc của Bác. Chẳng hạn lời Bác hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không” trong giờ phút đọc Tuyên ngôn Độc lập, những bài thơ Bác viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp, những câu văn của Bác trong bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, v.v. Nhiều câu nói, lời văn của Bác tuy giản dị nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc như những chân lí. Vì vậy, khái quát, đánh giá ý nghĩa và hiệu quả của chúng, Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: “Những chân lí giản dị mà sâu sắc đó lúc thâm nhập vào quả tim và bộ óc của hàng triệu con người đang chờ đợi nó, thì đó là sức mạnh vô địch, đó là chủ nghĩa anh hùng cách mạng”. Câu văn bình luận ấy vừa ngợi ca hiệu quả, tác dụng của những bài viết, những tư tưởng của Bác Hồ, vừa sơ kết, khái quát luận điểm hai trong áng văn nghị luận. Có thể nói, ở văn bản này, nghệ thuật nghị luận của tác giả Phạm Văn Đồng giàu sức thuyết phục, vì: luận điểm rõ ràng, rành mạch, dẫn chứng tọàn diện, phong phú, xác thực, chen giữa dẫn chứng là đôi ba ý giải thích, bình luận nhẹ nhàng, sâu sắc. Hơn nữa, những điều tác giả nói ra được đảm bảo bằng mối quan hệ gần gũi, lâu dài, gắn bó của tác giả với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hướng dẫn Chúng ta là người Việt Nam, hằng ngày dùng tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của toàn dàn – tiếng Việt – để suy nghĩ, nói năng, giao tiếp. Nhưng đã mấy ai biết tiếng nói Việt Nam có những đặc điểm, những giá trị gì và sức sống của nó ra sao. Trong thơ và âm nhạc đã có vài ba người ca ngợi vẻ đẹp, nét độc đáo của tiếng Việt. Song muốn hiểu sâu để cảm nhận một cách thích thú vẻ đẹp, sự độc đáo của tiếng nói dân tộc Việt Nam, ta hãy đi tìm các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn chương. Một trong những người ấy là Giáo sư Đặng Thai Mai, tác giả bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt. Bài nghị luận ấy ngắn gọn mà sâu sắc đã giải thích và chứng minh một cách thuyết phục nét đặc trưng cơ bản của tiếng nói Việt Nam chúng ta: “giàu và đẹp”. Bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt (tên bài do người soạn sách đặt) là đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, in lần đầu năm 1967, được bổ sung và đưa vào Tuyển tập Đặng Thai Mai. Tuy là đoạn trích, song văn bản mà chúng ta được đọc vẫn có cấu tạo khá trọn vẹn như một áng văn nghị luận thể văn chúng minh. Chúng ta có thể đọc văn bản ấy theo ba đoạn: Mở bài (từ “Người Việt Nam ngày nay…” đến “… các thời kì lịch sử”): Nhận định tiếng Việt là thứ tiếng nói đẹp và hay, giải thích ngắn gọn nhận định ấy. Đây là phần nêu vấn đề trong bài nghị luận. Thân bài (“Tiếng Việt, trong cấu tạo,..” đến ”…. kĩ thuật, văn nghệ, v.v.”): chứng minh cái đẹp và sự giàu có (cái hay) của tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Kết bài (câu văn còn lại): Nhấn mạnh, khẳng định cái đẹp, cái hay của tiếng Việt chính là sức sống của tiếng Việt, cũng có ý nghĩa biểu hiện sức sống của dân tộc. Vì là bài nghị luận nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ, nên tác giả dùng lí lẽ và dẫn chứng thuộc phạm vi ngôn ngữ và thực tiễn, chứ không đưa ra nhũng ví dụ cụ thể về những ngữ liệu văn chương hay tiếng nói trong đời sống hằng ngày. Do đó, khi tìm hiểu áng văn này, chúng ta cần kết họp việc suy ngẫm về các lí lẽ, các dẫn chứng của tác giả với những liên tưởng vốn liếng văn chương, tiếng nói hằng ngày để chia sẻ và thấu hiểu tư tưởng, tình cảm tác giả. Mở đầu bài viết, Đặng Thai Mai dẫn chúng ta vào ngay vấn đề bằng hai câu biểu cảm ” Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó”. Câu thứ nhất cấu tạo bình thường. Câu sau rút gọn, ẩn chủ ngữ theo kiểu câu “tách trạng ngữ thành câu riêng”. Kiểu câu không bình thường này, kết hợp hai từ biểu cảm tự hào, tin tưởng thể hiện rõ tình yêu, thái độ trân trọng của tác giả đối với tiếng nói Việt Nam. Từ đó, tác giả lôi cuốn người đọc vào vấn đề “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay”. Câu văn thứ ba vừa toát ra tình cảm mến yêu, trân trọng, và bày tỏ sự suy nghĩ sâu sắc mang tính khoa học về giá trị của tiếng nói Việt Nam. Vị trí cũng như nội dung của nó đúng là câu nêu vấn đề (luận đề) trong bài nghị luận. Tác giả nhấn mạnh hai tính từ “đẹp” và “hay”. Sau đó giải thích khái quát nghĩa của hai nét đẹp và hay của tiếng Việt: … một thứ tiếng hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu (tức là nói về từ vựng), tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu (tức là nói về cú pháp), có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam – tức là đánh giá vai trò, hiệu quả, tác dụng trong cuộc sống của tiếng Việt. Mạch văn trôi chảy, dồn dập, nếu độc nhanh, đọc lướt, chúng ta khó nắm bắt các luận điểm, các ý tưởng của người viết. Văn phong khoa học là như thế, văn ngắn gọn, ý hàm súc. Nhưng xuống phần hai, tác giả lại trình bày luận điểm và minh hoạ bằng các dẫn chứng khá rành mạch, sáng tỏ và chặt chẽ. Luận điểm thứ nhất: tác giả khẳng định và chứng minh Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó,… của một thứ tiếng khá đẹp. Nét đẹp ấỵ được minh hoạ bằng các dẫn chúng về giàu chất nhạc (trong ngữ âm, tiếng Việt có hai thanh bằng, bốn thanh trắc, thanh điệu phong phú. Trong cú pháp, tiếng Việt cân đối, nhịp nhàng, về từ vựng, tiếng Việt dồi dào vốn từ về cả ba mặt thơ, nhạc, hoạ). Do đó, nhà nghiên cứu khẳng định: “tác dụng của đặc tính này đối với văn học là rất quan trọng”. Để hỗ trợ cho các dẫn chứng về khoa học, tác giả bổ sung thêm dẫn, chúng thực tế. Ông kể: nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta nhận xét rằng tiếng Việt là thứ tiếng giàu chất nhạc. Rồi ông dẫn ý kiến một giáo sĩ nói: “tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ””. Xen kẽ các dẫn chứng, tác giả dùng phép so sánh “ “tiếng Việt… giàu hình tượng ngữ âm như những âm giai trong bản nhạc trầm bổng”. Nhũng dẫn chúng phong phú, đa dạng, cách liên tưởng và viết câu nhịp nhàng, uyển chuyển như thế chứng tỏ nhà nghiên cún Đặng Thai Mai rất thích thú, say sưa và tự hào về chất nhạc của tiếng nói Việt Nam. Còn chúng ta, đọc văn của ông, cũng cảm thấy bị lôi cuốn. Chúng ta nhớ đến những bài thơ, những áng văn sống động, đa thanh, giàu chất nhạc trong kho tàng văn học Việt Nam. Ta hãy đọc đoạn thơ sau trong bài Lượm: Chú bé loắt cho ắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh – Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng… Nhạc tính của tiếng Việt đã tấu lên những âm sắc, những thanh điệu, cú pháp đẹp đẽ, uyển chuyển, sinh động biết bao trong đoạn thơ ấy của nhà thơ Tố Hữu. Và chúng ta nhớ tới bao nhiêu câu tục ngữ, bài ca dao, cả những câu nói bình thường hằng ngày ta nghe từ tiếng nói của mẹ cha, ông bà, của thầy, cô và bè bạn. Làm sao minh hoạ cho hết được tính nhạc, cái đẹp của tiếng Việt Nam chúng ta. Hãy trở lại với bài văn của Đặng Thai Mai. Sau khi chứng minh chất nhạc – vẻ đẹp – nhà nghiên cứu khẳng định tiếp: tiếng Việt là thứ tiếng huy. Rồi ông minh hoạ bằng vài nét khái quát: tiếng Việt có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ, về hình thức diễn đạt, ngữ pháp đang dần dần uyển chuyển hơn, chính xác hơn, không ngừng đặt ra những từ mới, cách nói mới, đồng thời Việt hoá những từ và cách nói của các dân tộc anh em và các dân tộc láng giềng… Dồn dập những dẫn chứng, vừa mang tính khoa học vừa đẫm chất thực tế. Điều đó giúp chúng ta vừa nâng cao hiểu biết về lí thuyết vừa thúc đẩy chúng ta liên hệ thực tế, để cảm thông, chia sẻ với tác giả niềm say mê trong khám phá khoa học và tình yêu tiếng mẹ đẻ Việt Nam. Ngoài Tố Hữu, qua các câu tục ngữ, các bài ca dao, chúng ta còn được học biết bao tác phẩm văn chương của cha ông xưa từ Trần Quang Khải, đến Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,… những tác phẩm của Bác Hồ, của các nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, các nhà thơ Minh Huệ, Xuân Quỳnh,… trong thời đại ngày nay. Nhờ sự giàu và đẹp của tiếng Việt mà các văn nghệ sĩ sáng tạo ra biết bao áng văn chương tuyệt tác và cũng nhờ sự sáng tạo và tình yêu tiếng nói Việt Nam của các tác giả mà tiếng Việt càng ngày càng giàu, càng đẹp hơn, sức sống càng ngày càng dồi dào hơn. Xuống câu văn cuối cùng, vẻ đẹp và sức sống ấy của tiếng Việt được Đặng Thai Mai nhấn mạnh: “Cấu tạo của tiếng Việt, với khả nãng thích ứng với hoàn cảnh lịch sử như chúng ta vừa nói trên đây, là một chứng cớ khá rõ về sức sống của nó”. Sức sống của tiếng nói Việt Nam chính là một biểu hiện sức sống của dân tộc Việt Nam vậy. Bài văn nghị luận, đến đây vừa trọn vẹn. Về nội dung, tác giả đã có một phát hiện khoa học lí thú về vẻ đẹp tiếng nói Việt Nam. Về nghệ thuật, bài văn cũng đạt tới trình độ đáng khâm phục, đáng học tập: kết hợp giải thích với chứng minh, bình luận nhẹ nhàng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng khá toàn diện, bao quát, viết câu linh hoạt, dùng câu rút gọn (ở phần đầu), phối hợp với câu mở rộng (ở phần hai)…
Hướng dẫn Chúng ta là người Việt Nam, hằng ngày dùng tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của toàn dàn – tiếng Việt – để suy nghĩ, nói năng, giao tiếp. Nhưng đã mấy ai biết tiếng nói Việt Nam có những đặc điểm, những giá trị gì và sức sống của nó ra sao. Trong thơ và âm nhạc đã có vài ba người ca ngợi vẻ đẹp, nét độc đáo của tiếng Việt. Song muốn hiểu sâu để cảm nhận một cách thích thú vẻ đẹp, sự độc đáo của tiếng nói dân tộc Việt Nam, ta hãy đi tìm các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, văn chương. Một trong những người ấy là Giáo sư Đặng Thai Mai, tác giả bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt. Bài nghị luận ấy ngắn gọn mà sâu sắc đã giải thích và chứng minh một cách thuyết phục nét đặc trưng cơ bản của tiếng nói Việt Nam chúng ta: “giàu và đẹp”. Bài Sự giàu đẹp của tiếng Việt (tên bài do người soạn sách đặt) là đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, in lần đầu năm 1967, được bổ sung và đưa vào Tuyển tập Đặng Thai Mai. Tuy là đoạn trích, song văn bản mà chúng ta được đọc vẫn có cấu tạo khá trọn vẹn như một áng văn nghị luận thể văn chúng minh. Chúng ta có thể đọc văn bản ấy theo ba đoạn: Mở bài (từ “Người Việt Nam ngày nay…” đến “… các thời kì lịch sử”): Nhận định tiếng Việt là thứ tiếng nói đẹp và hay, giải thích ngắn gọn nhận định ấy. Đây là phần nêu vấn đề trong bài nghị luận. Thân bài (“Tiếng Việt, trong cấu tạo,..” đến ”…. kĩ thuật, văn nghệ, v.v.”): chứng minh cái đẹp và sự giàu có (cái hay) của tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Kết bài (câu văn còn lại): Nhấn mạnh, khẳng định cái đẹp, cái hay của tiếng Việt chính là sức sống của tiếng Việt, cũng có ý nghĩa biểu hiện sức sống của dân tộc. Vì là bài nghị luận nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ, nên tác giả dùng lí lẽ và dẫn chứng thuộc phạm vi ngôn ngữ và thực tiễn, chứ không đưa ra nhũng ví dụ cụ thể về những ngữ liệu văn chương hay tiếng nói trong đời sống hằng ngày. Do đó, khi tìm hiểu áng văn này, chúng ta cần kết họp việc suy ngẫm về các lí lẽ, các dẫn chứng của tác giả với những liên tưởng vốn liếng văn chương, tiếng nói hằng ngày để chia sẻ và thấu hiểu tư tưởng, tình cảm tác giả. Mở đầu bài viết, Đặng Thai Mai dẫn chúng ta vào ngay vấn đề bằng hai câu biểu cảm ” Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó”. Câu thứ nhất cấu tạo bình thường. Câu sau rút gọn, ẩn chủ ngữ theo kiểu câu “tách trạng ngữ thành câu riêng”. Kiểu câu không bình thường này, kết hợp hai từ biểu cảm tự hào, tin tưởng thể hiện rõ tình yêu, thái độ trân trọng của tác giả đối với tiếng nói Việt Nam. Từ đó, tác giả lôi cuốn người đọc vào vấn đề “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay”. Câu văn thứ ba vừa toát ra tình cảm mến yêu, trân trọng, và bày tỏ sự suy nghĩ sâu sắc mang tính khoa học về giá trị của tiếng nói Việt Nam. Vị trí cũng như nội dung của nó đúng là câu nêu vấn đề (luận đề) trong bài nghị luận. Tác giả nhấn mạnh hai tính từ “đẹp” và “hay”. Sau đó giải thích khái quát nghĩa của hai nét đẹp và hay của tiếng Việt: … một thứ tiếng hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu (tức là nói về từ vựng), tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu (tức là nói về cú pháp), có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam – tức là đánh giá vai trò, hiệu quả, tác dụng trong cuộc sống của tiếng Việt. Mạch văn trôi chảy, dồn dập, nếu độc nhanh, đọc lướt, chúng ta khó nắm bắt các luận điểm, các ý tưởng của người viết. Văn phong khoa học là như thế, văn ngắn gọn, ý hàm súc. Nhưng xuống phần hai, tác giả lại trình bày luận điểm và minh hoạ bằng các dẫn chứng khá rành mạch, sáng tỏ và chặt chẽ. Luận điểm thứ nhất: tác giả khẳng định và chứng minh Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó,… của một thứ tiếng khá đẹp. Nét đẹp ấỵ được minh hoạ bằng các dẫn chúng về giàu chất nhạc (trong ngữ âm, tiếng Việt có hai thanh bằng, bốn thanh trắc, thanh điệu phong phú. Trong cú pháp, tiếng Việt cân đối, nhịp nhàng, về từ vựng, tiếng Việt dồi dào vốn từ về cả ba mặt thơ, nhạc, hoạ). Do đó, nhà nghiên cứu khẳng định: “tác dụng của đặc tính này đối với văn học là rất quan trọng”. Để hỗ trợ cho các dẫn chứng về khoa học, tác giả bổ sung thêm dẫn, chúng thực tế. Ông kể: nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta nhận xét rằng tiếng Việt là thứ tiếng giàu chất nhạc. Rồi ông dẫn ý kiến một giáo sĩ nói: “tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ””. Xen kẽ các dẫn chứng, tác giả dùng phép so sánh “ “tiếng Việt… giàu hình tượng ngữ âm như những âm giai trong bản nhạc trầm bổng”. Nhũng dẫn chúng phong phú, đa dạng, cách liên tưởng và viết câu nhịp nhàng, uyển chuyển như thế chứng tỏ nhà nghiên cún Đặng Thai Mai rất thích thú, say sưa và tự hào về chất nhạc của tiếng nói Việt Nam. Còn chúng ta, đọc văn của ông, cũng cảm thấy bị lôi cuốn. Chúng ta nhớ đến những bài thơ, những áng văn sống động, đa thanh, giàu chất nhạc trong kho tàng văn học Việt Nam. Ta hãy đọc đoạn thơ sau trong bài Lượm: Chú bé loắt cho ắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh – Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng… Nhạc tính của tiếng Việt đã tấu lên những âm sắc, những thanh điệu, cú pháp đẹp đẽ, uyển chuyển, sinh động biết bao trong đoạn thơ ấy của nhà thơ Tố Hữu. Và chúng ta nhớ tới bao nhiêu câu tục ngữ, bài ca dao, cả những câu nói bình thường hằng ngày ta nghe từ tiếng nói của mẹ cha, ông bà, của thầy, cô và bè bạn. Làm sao minh hoạ cho hết được tính nhạc, cái đẹp của tiếng Việt Nam chúng ta. Hãy trở lại với bài văn của Đặng Thai Mai. Sau khi chứng minh chất nhạc – vẻ đẹp – nhà nghiên cứu khẳng định tiếp: tiếng Việt là thứ tiếng huy. Rồi ông minh hoạ bằng vài nét khái quát: tiếng Việt có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ, về hình thức diễn đạt, ngữ pháp đang dần dần uyển chuyển hơn, chính xác hơn, không ngừng đặt ra những từ mới, cách nói mới, đồng thời Việt hoá những từ và cách nói của các dân tộc anh em và các dân tộc láng giềng… Dồn dập những dẫn chứng, vừa mang tính khoa học vừa đẫm chất thực tế. Điều đó giúp chúng ta vừa nâng cao hiểu biết về lí thuyết vừa thúc đẩy chúng ta liên hệ thực tế, để cảm thông, chia sẻ với tác giả niềm say mê trong khám phá khoa học và tình yêu tiếng mẹ đẻ Việt Nam. Ngoài Tố Hữu, qua các câu tục ngữ, các bài ca dao, chúng ta còn được học biết bao tác phẩm văn chương của cha ông xưa từ Trần Quang Khải, đến Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,… những tác phẩm của Bác Hồ, của các nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, các nhà thơ Minh Huệ, Xuân Quỳnh,… trong thời đại ngày nay. Nhờ sự giàu và đẹp của tiếng Việt mà các văn nghệ sĩ sáng tạo ra biết bao áng văn chương tuyệt tác và cũng nhờ sự sáng tạo và tình yêu tiếng nói Việt Nam của các tác giả mà tiếng Việt càng ngày càng giàu, càng đẹp hơn, sức sống càng ngày càng dồi dào hơn. Xuống câu văn cuối cùng, vẻ đẹp và sức sống ấy của tiếng Việt được Đặng Thai Mai nhấn mạnh: “Cấu tạo của tiếng Việt, với khả nãng thích ứng với hoàn cảnh lịch sử như chúng ta vừa nói trên đây, là một chứng cớ khá rõ về sức sống của nó”. Sức sống của tiếng nói Việt Nam chính là một biểu hiện sức sống của dân tộc Việt Nam vậy. Bài văn nghị luận, đến đây vừa trọn vẹn. Về nội dung, tác giả đã có một phát hiện khoa học lí thú về vẻ đẹp tiếng nói Việt Nam. Về nghệ thuật, bài văn cũng đạt tới trình độ đáng khâm phục, đáng học tập: kết hợp giải thích với chứng minh, bình luận nhẹ nhàng, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng khá toàn diện, bao quát, viết câu linh hoạt, dùng câu rút gọn (ở phần đầu), phối hợp với câu mở rộng (ở phần hai)…
Hướng dẫn Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, trước kia có tên gọi là Sài Gòn. Ba trăm năm từ khi được thành lập cho đến ngày nay, thành phố Sài Gòn đã trải qua bao thăng trầm, biến đổi và ngày càng lớn lên, trở thành đô thị lớn nhất, có dân số đông nhất trong các tỉnh, thành phố của nước ta, là trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam. Để hiểu một phần nét đẹp, nét đặc trưng của Sài Gòn, chúng ta hãy đọc bài tuỳ bút Sải Gòn tôi yêu của cây bút đương đại Minh Hương. Là tuỳ bút, nên áng văn này mang đặc điểm nghệ thuật tương tự tác phẩm Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch Lam. Nếu Thạch Lam vừa. miêu tả, tự sự vừa biểu cảm, miêu tả, tự sự xen kẽ bình luận, cảm xúc xen kẽ suy ngẫm, thì Minh Hương thiên về miêu tả, kể chuyện và biểu cảm, xen đôi ba nhận xét nhẹ nhàng mà ít bình luận. Ngòi bút của tác giả khá phóng túng, nhưng bố cục vẫn mạch lạc. Ngôn ngữ, hình ảnh, ý tưởng và cảm xúc được tổ chức hài hoà trong những phát hiện tinh tế về Sài Gòn và một mối tình dai dẳng, bền chặt đối với Sài Gòn. Bốn câu mở đầu, từ “Sài Gòn vẫn trẻ” đến cái đô thị ngọc ngà này” là đoạn thứ nhất: Cảm nhận chung về sức sống và vẻ đẹp, quý của Sài Gòn. Đoạn thứ hai, từ “Tôi yêu Sài Gòn …” đến “… hơn năm triệu”. Nhà văn biểu hiện tình yêu Sài Gòn qua những phát hiện nét đặc trưng của thành phố về khí hậu, con người, cuộc sống,… Bốn câu cuối: từ “Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn …” đến hết: Nhấn mạnh tình cảm đằm thắm, dai dẳng, da diết của mình đối với Sài Gòn. Đọc bài tuỳ bút, chúng ta thấy cái tôi tác giả biểu hiện trực tiếp trong từng đoạn, từng hình ảnh, sự việc bằng hai cung bậc: sự phát hiện tinh tế và tình cảm nồng nàn, đằm thắm. Ngay mấy câu mở đầu, nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp đặc trưng của Sài Gòn bằng cách đối chiếu, so sánh, ẩn dụ khéo léo. Đối chiếu ba trăm năm tuổi của Sài Gòn với năm ngàn năm tuổi của đất nước, nhà văn khẳng định: “Cái đô thị này còn xuân chán”. Tiếp đó là một so sánh: “Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà…” và một ẩn dụ: “cái đô thị ngọc ngà này…”. Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh vừa mang vóc dáng của con người đang độ xuân xanh, vừa khoẻ khoắn, vươn cao, tràn trề nhựa sống của một loài cây non tơ nõn nà, lại vừa thu gọn trong hình hài của ngọc ngà quý hiếm. Những cụm từ “còn xuân chán”, “cứ trẻ hoài…”, “đương độ nõn nà trên đà thay da đổi thịt…” biểu hiện rõ sức sống đang lên của Sài Gòn, tình yêu và niềm tự hào của nhà văn đối với mảnh đất mình đang sống. Xuống đoạn hai, sự phát hiện và tình cảm của tác giả phong phú, tinh tế hơn và nồng nàn hơn. Mở đầu đoạn văn lại là một so sánh khá táo bạo: “Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm ấp bóng dáng mối tình đầu chứa nhiều ngang trái”. Nhà văn yêu Sài Gòn ở những phương diện nào, từ đó phát hiện những đặc trưng nào của Sài Gòn? Trước hết, tác giả cảm nhận về khí hậu Sài Gòn với các đặc điểm ít nơi trên đất nước ta có được. Nào là “nắng sớm… ngọt ngào, buổi chiều lộng gió”. Nào là “thời tiết trái chứng, trời đang ui ui buồn bã bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh…”. Trong thời tiết ấy, phố phường Sài Gòn lúc thì “náo động dập dìu xe cộ”, lúc “tĩnh lặng buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch…”. Điều thú vị là điệp từ yêu được nhắc lại tới năm lần liên tiếp, rồi được nhấn mạnh thêm hai lần trong câu ca dao như muốn sơ kết một cung bậc cảm xúc: Yêu nhau yêu cả đường đì… Tiếp theo nét đặc trưng của khí hậu Sài Gòn là vẻ đẹp và phong cách sống của người dân Sài Gòn. Tác giả giới thiệu thành phần dân cư Sài Gòn thật khéo: “ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me… mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả”. Câu văn vừa điểm qua nguồn gốc người Sài Gòn vừa khẳng định tính đoàn kết gắn bó, tính thống nhất của dân cư nơi đây. Từ đó, nhà văn hồi tưởng những năm đầu, mình từ quê hương miền Trung vào Sài Gòn, được gặp gỡ, được đón nhận bởi những con người “ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà dễ dãi”, “rất chơn thành, bộc trực”. Nhà văn coi đó là nét bản địa trong phong cách sống và ứng xử. Nét riêng của người dân Sài Gòn có lẽ tập trung và được bộc lộ rõ nhất ở nữ giới, nhất là các cô gái thị tììiềng. Bằng một vài câu văn miêu tả, nhà văn vẽ trước mặt chúng ta chân dung cô gái Sài Gòn khá cụ thể: Tóc buông thõng trên vai, trên lưng, hoặc tết bím. Nón (mũ) vải trắng vành rộng. Áo bà ba trắng. Quần đen rộng. Giày bố trắng, hay xăng-đan da. Hoặc guốc vuông trơn trắng nõn. Dáng đi khoẻ khoắn, mạnh dạn. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây… Cũng có lúc, các cô gái Sài Gòn yểu điệu thướt tha, hoặc e thẹn ngượng ngùng. Tất cả nét cụ thể ấy hài hoà tạo thành cái duyên chung của người Sài Gòn, những con người mang “cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu”, như nhà văn nhận xét. Song đó không phải loại người thô thiển, tầm thường, trái lại người Sài Gòn, các cô gái Sài Gòn hài hoà vẻ đẹp chân thành, bộc trực và tính e thẹn, ngượng ngùng, cứ y như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sát úng mây. Cách ứng xử của các cô gái Sài Gòn cũng thật đẹp. Gặp người lớn, các cô cúi đầu chào. Gặp bạn bè cùng trang lứa, thì hơi cúi đầu và cười. Nụ cười của các cô ý nhị, vừa phải ngậm miệng, chúm chím, mủm mỉm… Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, hóm hỉnh. Ngỡ như đấy là những con người yếu mềm, hay e thẹn. Nhưng, khi bước vào những thời kì sôi sục chiến đấu chống ngoại xâm từ sau Cách mạng đến năm 1975, các cô gái Sài Gòn, người dân Sài Gòn đã đứng lên, hiên ngang, bất khuất không chút do dự, dấn thân vào khó khăn… Chẳng cần suy nghĩ nhiều, qua đoạn văn vừa miêu tả vừa nhận xét, bình luận nhẹ nhàng của tác giả Minh Hương, chúng ta được tiếp xúc với những người dân Sài Gòn mang những nét riêng rất đáng yêu, đáng trọng, ở đoạn này, nhà văn không dùng một từ yêu nào, khác hẳn ở đoạn trên. Nhưng bằng những hình ảnh đẹp, những động từ, tính từ đặc tả, gợi hình, nhà văn vẫn bộc lộ biết bao tình yêu, lòng quý trọng và cả sự biết ơn đối với mảnh đất và con người Sài Gòn giản dị, chân thành, nhàn hậu,… Cuối đoạn hai này, tác giả khẳng định: Sài Gòn là một đô thị hiền hoà của mảnh đất lành miền Nam. Tục ngữ ta cố câu “Đất lành chim đậu”. Với những lớp người từ các vùng quê, mảnh đất khác vào sống ở Sài Gòn thì… Sài Gòn đúng là mảnh đất lành, sẵn sàng đón nhận người dân tứ xứ tụ hội lại để tạo nên miền quê mới rất đỗi thân thương. Dường như, khi nghĩ tới mảnh đất lành Sài Gòn, nhà văn đã liên tưởng tới câu tục ngữ trên để từ đó bàn về các loại chim từ nhiều phương trời về sống trên lùm cây, mái nhà của Sài Gòn. Đoạn văn lướt qua, điểm tên vài loài chim như những cánh bay vụt thoáng trên bầu trời mà vẫn đem đến cho người đọc ấn tượng thú vị về các giống chim ở Sài Gòn: nhạn, én, quạ, sáo, vành khuyên, sắc ô, áo già,… Nhưng rồi chỉ lướt qua thôi, sau khi than thở, chê trách một số tay súng sát hại chim chóc, huỷ hoại môi trường, tác giả lại trở về nói tới con người, ca ngợi con người: “Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có con người… Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu”. Đúng là mảnh đất hào phóng và thuận lợi, nơi đất lành phía Nam của Tổ quốc ta. Bốn câu kết của bài tuỳ bút trở về với âm điệu nhẹ nhàng, truyền cảm. Những từ biểu cảm được dùng ở một tần số dồn dập thể hiện cảm xúc mạnh hơn, đằm thắm hơn. Tôi yêu Sài Gòn … và yêu cả con người … Thương mến bao nhiêu… Tôi ước mọi người … đều yêu Sài Gòn … Đúng là một mối tình dai dẳng, bền chặt không bút nào tả xiết được.
Hướng dẫn Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, trước kia có tên gọi là Sài Gòn. Ba trăm năm từ khi được thành lập cho đến ngày nay, thành phố Sài Gòn đã trải qua bao thăng trầm, biến đổi và ngày càng lớn lên, trở thành đô thị lớn nhất, có dân số đông nhất trong các tỉnh, thành phố của nước ta, là trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam. Để hiểu một phần nét đẹp, nét đặc trưng của Sài Gòn, chúng ta hãy đọc bài tuỳ bút Sải Gòn tôi yêu của cây bút đương đại Minh Hương. Là tuỳ bút, nên áng văn này mang đặc điểm nghệ thuật tương tự tác phẩm Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch Lam. Nếu Thạch Lam vừa. miêu tả, tự sự vừa biểu cảm, miêu tả, tự sự xen kẽ bình luận, cảm xúc xen kẽ suy ngẫm, thì Minh Hương thiên về miêu tả, kể chuyện và biểu cảm, xen đôi ba nhận xét nhẹ nhàng mà ít bình luận. Ngòi bút của tác giả khá phóng túng, nhưng bố cục vẫn mạch lạc. Ngôn ngữ, hình ảnh, ý tưởng và cảm xúc được tổ chức hài hoà trong những phát hiện tinh tế về Sài Gòn và một mối tình dai dẳng, bền chặt đối với Sài Gòn. Bốn câu mở đầu, từ “Sài Gòn vẫn trẻ” đến cái đô thị ngọc ngà này” là đoạn thứ nhất: Cảm nhận chung về sức sống và vẻ đẹp, quý của Sài Gòn. Đoạn thứ hai, từ “Tôi yêu Sài Gòn …” đến “… hơn năm triệu”. Nhà văn biểu hiện tình yêu Sài Gòn qua những phát hiện nét đặc trưng của thành phố về khí hậu, con người, cuộc sống,… Bốn câu cuối: từ “Vậy đó mà tôi yêu Sài Gòn …” đến hết: Nhấn mạnh tình cảm đằm thắm, dai dẳng, da diết của mình đối với Sài Gòn. Đọc bài tuỳ bút, chúng ta thấy cái tôi tác giả biểu hiện trực tiếp trong từng đoạn, từng hình ảnh, sự việc bằng hai cung bậc: sự phát hiện tinh tế và tình cảm nồng nàn, đằm thắm. Ngay mấy câu mở đầu, nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp đặc trưng của Sài Gòn bằng cách đối chiếu, so sánh, ẩn dụ khéo léo. Đối chiếu ba trăm năm tuổi của Sài Gòn với năm ngàn năm tuổi của đất nước, nhà văn khẳng định: “Cái đô thị này còn xuân chán”. Tiếp đó là một so sánh: “Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây tơ đương độ nõn nà…” và một ẩn dụ: “cái đô thị ngọc ngà này…”. Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh vừa mang vóc dáng của con người đang độ xuân xanh, vừa khoẻ khoắn, vươn cao, tràn trề nhựa sống của một loài cây non tơ nõn nà, lại vừa thu gọn trong hình hài của ngọc ngà quý hiếm. Những cụm từ “còn xuân chán”, “cứ trẻ hoài…”, “đương độ nõn nà trên đà thay da đổi thịt…” biểu hiện rõ sức sống đang lên của Sài Gòn, tình yêu và niềm tự hào của nhà văn đối với mảnh đất mình đang sống. Xuống đoạn hai, sự phát hiện và tình cảm của tác giả phong phú, tinh tế hơn và nồng nàn hơn. Mở đầu đoạn văn lại là một so sánh khá táo bạo: “Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm ấp bóng dáng mối tình đầu chứa nhiều ngang trái”. Nhà văn yêu Sài Gòn ở những phương diện nào, từ đó phát hiện những đặc trưng nào của Sài Gòn? Trước hết, tác giả cảm nhận về khí hậu Sài Gòn với các đặc điểm ít nơi trên đất nước ta có được. Nào là “nắng sớm… ngọt ngào, buổi chiều lộng gió”. Nào là “thời tiết trái chứng, trời đang ui ui buồn bã bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tinh…”. Trong thời tiết ấy, phố phường Sài Gòn lúc thì “náo động dập dìu xe cộ”, lúc “tĩnh lặng buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch…”. Điều thú vị là điệp từ yêu được nhắc lại tới năm lần liên tiếp, rồi được nhấn mạnh thêm hai lần trong câu ca dao như muốn sơ kết một cung bậc cảm xúc: Yêu nhau yêu cả đường đì… Tiếp theo nét đặc trưng của khí hậu Sài Gòn là vẻ đẹp và phong cách sống của người dân Sài Gòn. Tác giả giới thiệu thành phần dân cư Sài Gòn thật khéo: “ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me… mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả”. Câu văn vừa điểm qua nguồn gốc người Sài Gòn vừa khẳng định tính đoàn kết gắn bó, tính thống nhất của dân cư nơi đây. Từ đó, nhà văn hồi tưởng những năm đầu, mình từ quê hương miền Trung vào Sài Gòn, được gặp gỡ, được đón nhận bởi những con người “ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà dễ dãi”, “rất chơn thành, bộc trực”. Nhà văn coi đó là nét bản địa trong phong cách sống và ứng xử. Nét riêng của người dân Sài Gòn có lẽ tập trung và được bộc lộ rõ nhất ở nữ giới, nhất là các cô gái thị tììiềng. Bằng một vài câu văn miêu tả, nhà văn vẽ trước mặt chúng ta chân dung cô gái Sài Gòn khá cụ thể: Tóc buông thõng trên vai, trên lưng, hoặc tết bím. Nón (mũ) vải trắng vành rộng. Áo bà ba trắng. Quần đen rộng. Giày bố trắng, hay xăng-đan da. Hoặc guốc vuông trơn trắng nõn. Dáng đi khoẻ khoắn, mạnh dạn. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây… Cũng có lúc, các cô gái Sài Gòn yểu điệu thướt tha, hoặc e thẹn ngượng ngùng. Tất cả nét cụ thể ấy hài hoà tạo thành cái duyên chung của người Sài Gòn, những con người mang “cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu”, như nhà văn nhận xét. Song đó không phải loại người thô thiển, tầm thường, trái lại người Sài Gòn, các cô gái Sài Gòn hài hoà vẻ đẹp chân thành, bộc trực và tính e thẹn, ngượng ngùng, cứ y như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sát úng mây. Cách ứng xử của các cô gái Sài Gòn cũng thật đẹp. Gặp người lớn, các cô cúi đầu chào. Gặp bạn bè cùng trang lứa, thì hơi cúi đầu và cười. Nụ cười của các cô ý nhị, vừa phải ngậm miệng, chúm chím, mủm mỉm… Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, hóm hỉnh. Ngỡ như đấy là những con người yếu mềm, hay e thẹn. Nhưng, khi bước vào những thời kì sôi sục chiến đấu chống ngoại xâm từ sau Cách mạng đến năm 1975, các cô gái Sài Gòn, người dân Sài Gòn đã đứng lên, hiên ngang, bất khuất không chút do dự, dấn thân vào khó khăn… Chẳng cần suy nghĩ nhiều, qua đoạn văn vừa miêu tả vừa nhận xét, bình luận nhẹ nhàng của tác giả Minh Hương, chúng ta được tiếp xúc với những người dân Sài Gòn mang những nét riêng rất đáng yêu, đáng trọng, ở đoạn này, nhà văn không dùng một từ yêu nào, khác hẳn ở đoạn trên. Nhưng bằng những hình ảnh đẹp, những động từ, tính từ đặc tả, gợi hình, nhà văn vẫn bộc lộ biết bao tình yêu, lòng quý trọng và cả sự biết ơn đối với mảnh đất và con người Sài Gòn giản dị, chân thành, nhàn hậu,… Cuối đoạn hai này, tác giả khẳng định: Sài Gòn là một đô thị hiền hoà của mảnh đất lành miền Nam. Tục ngữ ta cố câu “Đất lành chim đậu”. Với những lớp người từ các vùng quê, mảnh đất khác vào sống ở Sài Gòn thì… Sài Gòn đúng là mảnh đất lành, sẵn sàng đón nhận người dân tứ xứ tụ hội lại để tạo nên miền quê mới rất đỗi thân thương. Dường như, khi nghĩ tới mảnh đất lành Sài Gòn, nhà văn đã liên tưởng tới câu tục ngữ trên để từ đó bàn về các loại chim từ nhiều phương trời về sống trên lùm cây, mái nhà của Sài Gòn. Đoạn văn lướt qua, điểm tên vài loài chim như những cánh bay vụt thoáng trên bầu trời mà vẫn đem đến cho người đọc ấn tượng thú vị về các giống chim ở Sài Gòn: nhạn, én, quạ, sáo, vành khuyên, sắc ô, áo già,… Nhưng rồi chỉ lướt qua thôi, sau khi than thở, chê trách một số tay súng sát hại chim chóc, huỷ hoại môi trường, tác giả lại trở về nói tới con người, ca ngợi con người: “Thành phố hiếm hoi dần chim chóc. Thì đã có con người… Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu”. Đúng là mảnh đất hào phóng và thuận lợi, nơi đất lành phía Nam của Tổ quốc ta. Bốn câu kết của bài tuỳ bút trở về với âm điệu nhẹ nhàng, truyền cảm. Những từ biểu cảm được dùng ở một tần số dồn dập thể hiện cảm xúc mạnh hơn, đằm thắm hơn. Tôi yêu Sài Gòn … và yêu cả con người … Thương mến bao nhiêu… Tôi ước mọi người … đều yêu Sài Gòn … Đúng là một mối tình dai dẳng, bền chặt không bút nào tả xiết được.
Hướng dẫn Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Trên mảnh đất Việt Nam, cây lúa – hạt gạo đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp kì diệu của mảnh đất và tâm hồn tinh tế của con người. Bằng một tình yêu đằm thắm, nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong tác phẩm Bài ca Hắc Hải đã ca ngợi đồng lúa, đất trời Việt Nam trong hai câu thơ rất truyền cảm như trên. Trước Nguyễn Đình Thi có một nhà văn, bằng thiên tuỳ bút văn xuôi cũng đã dành tình yêu và biết bao ngôn từ đẹp như thơ để ca ngợi cây lúa Việt Nam. Đó là Thạch Lam (1910 — 1942) với bài: Một thứ quà của lúa non: cốm. Cốm là sản vật được tạo nên bởi những hạt lúa nếp non, một sản vật độc đáo của ruộng đồng nhiều miền quê Việt Nam, nhung không đâu làm ra được loại cốm thơm, dẻo, ngọt ngon bằng làng Vòng, trước kia là ngoại thành, nay thuộc quận Cầu Giấy, nội thành thủ đô nước ta. Xin mời bạn cùng tôi đọc văn Thạch Lam, thưởng thức cốm Vòng – đặc sản Hà Nội, đặc sản Việt Nam. Tuỳ bút là một thể loại văn xuôi miêu tả hình ảnh, ghi chép sự việc, từ đó biểu hiện những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả. Tuy gần với văn tự sự, nhưng tuỳ bút thiên về biểu cảm, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đậm chất trữ tình. Bài tuỳ bút: Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch Lam là như thế. Bài văn nói vể cốm Vòng Hà Nội bình dị, thanh nhã, bằng một ngòi bút đa dạng, phong phú, lúc miêu tả, khi kể chuyện, vừa tả vừa biểu cảm, vừa kể vừa suy ngẫm, bình luận,… Cái tôi trữ tình của nhà văn ẩn sau câu chữ, hoà vào ngôn từ, cuốn theo, trôi nổi chập chờn trong nhạc điệu, thanh sắc của văn chương. Tuy viết theo tuỳ hứng, ngẫu hứng, nhưng bài văn vẫn bố cục mạch lạc. Do đó ta có thể cảm nhận bài văn theo ba đoạn: Đoạn một: Từ đầu đến “… chiếc thuyền rồng”. Từ hương thơm của lúa non mùa thu, nhà văn nhớ đến cốm và sự hình thành của cốm Vòng – một thứ quà tinh tuý của thiên nhiên hoà quyện bàn tay khéo léo của người dân làng Vòng. Đoạn hai: Từ “Cốm là thức quà riêng biệt….” đến “… kín đáo và nhũn nhặn”. Nhà văn nêu những giá trị của cốm. Bên cạnh trái hồng đỏ, cốm trở thành vật phẩm thanh nhã, trong những sinh hoạt cộng đồng mang thuần phong mĩ tục Việt Nam. Đoạn còn lại. Từ “Cốm không phải thức quà…” đến hết. Nhà văn bàn về cách thưởng thức, cách ăn cốm sao cho tinh tế, nhũn nhặn, phù hợp với những đặc điểm thanh khiết, tao nhã của thứ sản phẩm kết tinh nhiều giá trị của đất trời quê hương nước Việt. Đi vào mỗi đoạn văn, chúng ta hiểu và suy ngẫm, rung cảm được biết bao điều quý báu. Mở đầu bài tuỳ bút, vào đoạn một, cảm hứng của nhà văn được gợi lên từ hương thơm của lá sen, đầm sen cuối hè, báo hiệu sang thu, báo mùa về “của thứ quà thanh nhã và tinh khiết”. Thứ quà gì, nhà văn chưa nói ngay mà dùng một câu hỏi gợi trí tò mò của người đọc. Từ đó, dẫn chúng ta qua những cánh đồng xanh, nhìn ngắm những hạt thóc nếp trĩu thân, ngửi mùi thơm thoang thoảng của lúa non… Ở đây, nhà văn sử dụng ngòi bút miêu tả kết hợp cảm xúc và suy ngẫm rất tinh tế. Nhiều tính từ, động từ gợi tả nối nhau xuất hiện: nhuần thấm, thanh nhã, tinh khiết, thơm mút, trắng thơm, phảng phất, trong sạch… Mắt quan sát, mũi cảm nhận, tâm hồn đắm say của người nghệ sĩ khiến cho những hạt sữa của bông lúa, tiền thân của cốm được liên tưởng và đánh giá bằng nhũng hình ảnh đẹp, cao quý làm sao. Nào là thức quà thanh nhã và tinh khiết. Nào là hương vị ngàn hoa cỏ, chất quý trong sạch của trời. Hạt cốm chưa hoài thai mà đã được giới thiệu bằng biết bao lời văn đẹp như thơ vậy. Do đó, ở đoạn ngắn tiếp theo, nhà văn chỉ nói sơ qua về cách làm cốm, giới thiệu sơ qua về những cô gái làng Vòng quẩy gánh cốm bán trên các phố phường Hà Nội, người đọc cũng đã thấy khát khao được nhìn ngắm, chiêm ngưỡng, chứ chưa dám ước được ăn cốm. Đó vừa là thứ quà tinh khiết của đất trời, vừa là những hạt lúa nếp non trắng như sữa được nhào nặn, hoá thân trong bàn tay khéo, trong dáng hình xinh xinh thơ mộng và nhất là trong đức tính cần cù đầy sáng tạo của người dân quê Hà Nội xưa. Nhà văn viết: cốm là quà của lúa non. Nhưng qua đoạn một của thiên tuỳ bút, chúng ta hiểu rằng cốm là báu vật hoà quyện hương trời, sữa lúa và tài năng, tâm hồn người nông dân Việt Nam, người nghệ sĩ chân lấm tay bùn Việt Nam. Nếu ai được đọc thêm bài Cốm, cũng thuộc thể văn tuỷ bút dơ nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1973, sẽ cảm nhận rõ thêm quá trình vật vã, gian khổ của hạt lúa non để thành hạt cốm. Nhưng hẹn dịp khác. Bây giờ ta hãy trở lại với Thạch Lam. Sang đoạn thứ hai, nhà văn tiếp tục cảm nhận, đánh giá rồi miêu tả những vẻ đẹp của cốm. Ông gọi cốm là “quà riêng biệt” là “thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát”. Cốm “mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”. Cốm dùng làm quà sêu tết với sự “vương vít của tơ hồng”… Cốm còn đẹp hơn nữa, duyên hơn nữa khi gặp gỡ và vương vít với những trái hồng chín. Nhà văn đã dùng bao nhiêu ý hay, lời đẹp để so sánh, miêu tả cặp bạn bè “tốt đôi” giữa cốm và hồng. “Màu xạnh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thử ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được lâu bền”. Đúng là một đoạn thơ bằng văn xuôi, đã nâng giá trị của cốm, thứ quà đồng quê lên tầm ngọc quỷ biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi, góp phần vun xới cho biết bao đôi lứa Việt Nam bền lâu, chung thuỷ. Những suy ngẫm của chúng ta về vệ đẹp và giá trị của cốm sau đoạn một đã được Thạch Lam minh hoạ bằng những câu văn bình luận đẫm chất trữ tình. Ông không chỉ trân trọng hạt cốm mà còn trân trọng cả những tập quán có tính truyền thống mang bản sắc văn hoá Việt Nam. Lời văn và ý tường của ông cách chúng ta hơn nửa thế kỉ mà vẫn nóng hổi tính thời sự, nhất là mấy câu ông viết trong ngoặc đơn, ngỡ như chỉ điểm xuyết tình cờ mà biết bao day dứt có ý nghĩa cảnh tỉnh nghiêm khắc: “Thật đáng tiếc… những thức quý của đất mình thay dần bằng những thức bóng bảy hào nhoáng và thô kệch bắt chước người ngoài…”. Nếu ở đoạn thứ nhất, ngòi bút nhà văn vừa miêu tả vừa biểu cảm, thì đến đoạn thứ hai này vẫn vừa tả vừa biểu cảm, nhưng bổ sung thêm một chút bình luận. Tuỳ bút là như thế, ngòi bút nhà văn vừa ngẫu hứng trôi theo cảm xúc nhưng vẫn lắng sâu những suy luận, triết lí, thơ và văn xuôi hài hoà, mạch văn thông thoáng mà vẫn tập trung vào chủ đề… Đến đoạn văn cuối, chất tuỳ bút tiếp nối. Ngòi bút Thạch Lam vừa tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp và giá trị của cốm, vừa bình luận, nhắn gửi bặn đọc về cách thưởng thức, cách ăn cốm. “Cốm không phải thức quà của người ăn vội ; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ…”. Đoạn văn mở đầu bằng câu chốt như thế. Ý tưởng và cảm xúc của tác giả tập trung ở cụm từ “ăn cốm phải … thong thả và ngẫm nghĩ”. Vì sao thế? Vì cốm chứa trong nó sự tinh tuý của hương sen mang thêm mùi ngan ngát của hoa sen, của đầm nước và được chào mời bởi cô gái làng Vòng có đôi tay mềm mại “giở từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng “lá cốm” sạch sẽ và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào”. Cốm, Vòng Hà Nội mang tinh hoa của đất Tràng An thanh lịch như thế không thể chấp nhận bất cứ cách đối xử thô bạo, tầm thường, thiếu thanh lịch nào! Thạch Lam nâng niu từng từ ngữ, trau chuốt từng câu văn mà ở đó mỗi từ, mỗi câu còn vương mùi thơm thoang thoảng tinh khôi, thanh đạm của thứ quà đặc sản thủ đô. Do đó, nghe lời căn dặn về cách ăn cốm của nhà văn, chúng ta dễ dàng đồng tình và thầm hứa với nhà văn sẽ làm như vậy “Hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ… Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa…” để con người “được trang nhã và đẹp đẽ hơn…”..Với Thạch Lam, ăn cốm là thưởng thức những giá trị kết tinh của bao nhiêu báu vật trên đất trời Việt Nam. Đấy là cái nhìn văn hoá của cách ăn uống, chúng ta gọi là văn hoá ẩm thực. Đấy cũng là tình yêu và niềm tự hào của nhà văn đối với quê hương, đồng ruộng, cây lúa và con người Việt Nam nói chung, mảnh đất và con người Hà Nội nói riêng. Tuy chưa được ăn cốm, nhưng lúc đọc văn Thạch Lam, chúng ta như đang được thưởng thức thứ quà tinh khiết, thanh cao, quà của lúa non, quà của bàn tay lao động và quà ngôn ngữ tiếng Việt rất tinh tế, tài hoa trong thiên tuỳ bút. Văn Thạch Lam cũng là một loại cốm dịu dàng, thanh đạm của tâm hồn người nghệ sĩ Việt Nam, những giọt sữa tinh khiết của tiếng Việt chúng ta…
Hướng dẫn Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Trên mảnh đất Việt Nam, cây lúa – hạt gạo đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp kì diệu của mảnh đất và tâm hồn tinh tế của con người. Bằng một tình yêu đằm thắm, nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong tác phẩm Bài ca Hắc Hải đã ca ngợi đồng lúa, đất trời Việt Nam trong hai câu thơ rất truyền cảm như trên. Trước Nguyễn Đình Thi có một nhà văn, bằng thiên tuỳ bút văn xuôi cũng đã dành tình yêu và biết bao ngôn từ đẹp như thơ để ca ngợi cây lúa Việt Nam. Đó là Thạch Lam (1910 — 1942) với bài: Một thứ quà của lúa non: cốm. Cốm là sản vật được tạo nên bởi những hạt lúa nếp non, một sản vật độc đáo của ruộng đồng nhiều miền quê Việt Nam, nhung không đâu làm ra được loại cốm thơm, dẻo, ngọt ngon bằng làng Vòng, trước kia là ngoại thành, nay thuộc quận Cầu Giấy, nội thành thủ đô nước ta. Xin mời bạn cùng tôi đọc văn Thạch Lam, thưởng thức cốm Vòng – đặc sản Hà Nội, đặc sản Việt Nam. Tuỳ bút là một thể loại văn xuôi miêu tả hình ảnh, ghi chép sự việc, từ đó biểu hiện những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả. Tuy gần với văn tự sự, nhưng tuỳ bút thiên về biểu cảm, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đậm chất trữ tình. Bài tuỳ bút: Một thứ quà của lúa non: Cốm của Thạch Lam là như thế. Bài văn nói vể cốm Vòng Hà Nội bình dị, thanh nhã, bằng một ngòi bút đa dạng, phong phú, lúc miêu tả, khi kể chuyện, vừa tả vừa biểu cảm, vừa kể vừa suy ngẫm, bình luận,… Cái tôi trữ tình của nhà văn ẩn sau câu chữ, hoà vào ngôn từ, cuốn theo, trôi nổi chập chờn trong nhạc điệu, thanh sắc của văn chương. Tuy viết theo tuỳ hứng, ngẫu hứng, nhưng bài văn vẫn bố cục mạch lạc. Do đó ta có thể cảm nhận bài văn theo ba đoạn: Đoạn một: Từ đầu đến “… chiếc thuyền rồng”. Từ hương thơm của lúa non mùa thu, nhà văn nhớ đến cốm và sự hình thành của cốm Vòng – một thứ quà tinh tuý của thiên nhiên hoà quyện bàn tay khéo léo của người dân làng Vòng. Đoạn hai: Từ “Cốm là thức quà riêng biệt….” đến “… kín đáo và nhũn nhặn”. Nhà văn nêu những giá trị của cốm. Bên cạnh trái hồng đỏ, cốm trở thành vật phẩm thanh nhã, trong những sinh hoạt cộng đồng mang thuần phong mĩ tục Việt Nam. Đoạn còn lại. Từ “Cốm không phải thức quà…” đến hết. Nhà văn bàn về cách thưởng thức, cách ăn cốm sao cho tinh tế, nhũn nhặn, phù hợp với những đặc điểm thanh khiết, tao nhã của thứ sản phẩm kết tinh nhiều giá trị của đất trời quê hương nước Việt. Đi vào mỗi đoạn văn, chúng ta hiểu và suy ngẫm, rung cảm được biết bao điều quý báu. Mở đầu bài tuỳ bút, vào đoạn một, cảm hứng của nhà văn được gợi lên từ hương thơm của lá sen, đầm sen cuối hè, báo hiệu sang thu, báo mùa về “của thứ quà thanh nhã và tinh khiết”. Thứ quà gì, nhà văn chưa nói ngay mà dùng một câu hỏi gợi trí tò mò của người đọc. Từ đó, dẫn chúng ta qua những cánh đồng xanh, nhìn ngắm những hạt thóc nếp trĩu thân, ngửi mùi thơm thoang thoảng của lúa non… Ở đây, nhà văn sử dụng ngòi bút miêu tả kết hợp cảm xúc và suy ngẫm rất tinh tế. Nhiều tính từ, động từ gợi tả nối nhau xuất hiện: nhuần thấm, thanh nhã, tinh khiết, thơm mút, trắng thơm, phảng phất, trong sạch… Mắt quan sát, mũi cảm nhận, tâm hồn đắm say của người nghệ sĩ khiến cho những hạt sữa của bông lúa, tiền thân của cốm được liên tưởng và đánh giá bằng nhũng hình ảnh đẹp, cao quý làm sao. Nào là thức quà thanh nhã và tinh khiết. Nào là hương vị ngàn hoa cỏ, chất quý trong sạch của trời. Hạt cốm chưa hoài thai mà đã được giới thiệu bằng biết bao lời văn đẹp như thơ vậy. Do đó, ở đoạn ngắn tiếp theo, nhà văn chỉ nói sơ qua về cách làm cốm, giới thiệu sơ qua về những cô gái làng Vòng quẩy gánh cốm bán trên các phố phường Hà Nội, người đọc cũng đã thấy khát khao được nhìn ngắm, chiêm ngưỡng, chứ chưa dám ước được ăn cốm. Đó vừa là thứ quà tinh khiết của đất trời, vừa là những hạt lúa nếp non trắng như sữa được nhào nặn, hoá thân trong bàn tay khéo, trong dáng hình xinh xinh thơ mộng và nhất là trong đức tính cần cù đầy sáng tạo của người dân quê Hà Nội xưa. Nhà văn viết: cốm là quà của lúa non. Nhưng qua đoạn một của thiên tuỳ bút, chúng ta hiểu rằng cốm là báu vật hoà quyện hương trời, sữa lúa và tài năng, tâm hồn người nông dân Việt Nam, người nghệ sĩ chân lấm tay bùn Việt Nam. Nếu ai được đọc thêm bài Cốm, cũng thuộc thể văn tuỷ bút dơ nhà văn Nguyễn Tuân viết năm 1973, sẽ cảm nhận rõ thêm quá trình vật vã, gian khổ của hạt lúa non để thành hạt cốm. Nhưng hẹn dịp khác. Bây giờ ta hãy trở lại với Thạch Lam. Sang đoạn thứ hai, nhà văn tiếp tục cảm nhận, đánh giá rồi miêu tả những vẻ đẹp của cốm. Ông gọi cốm là “quà riêng biệt” là “thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát”. Cốm “mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam”. Cốm dùng làm quà sêu tết với sự “vương vít của tơ hồng”… Cốm còn đẹp hơn nữa, duyên hơn nữa khi gặp gỡ và vương vít với những trái hồng chín. Nhà văn đã dùng bao nhiêu ý hay, lời đẹp để so sánh, miêu tả cặp bạn bè “tốt đôi” giữa cốm và hồng. “Màu xạnh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thử ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được lâu bền”. Đúng là một đoạn thơ bằng văn xuôi, đã nâng giá trị của cốm, thứ quà đồng quê lên tầm ngọc quỷ biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi, góp phần vun xới cho biết bao đôi lứa Việt Nam bền lâu, chung thuỷ. Những suy ngẫm của chúng ta về vệ đẹp và giá trị của cốm sau đoạn một đã được Thạch Lam minh hoạ bằng những câu văn bình luận đẫm chất trữ tình. Ông không chỉ trân trọng hạt cốm mà còn trân trọng cả những tập quán có tính truyền thống mang bản sắc văn hoá Việt Nam. Lời văn và ý tường của ông cách chúng ta hơn nửa thế kỉ mà vẫn nóng hổi tính thời sự, nhất là mấy câu ông viết trong ngoặc đơn, ngỡ như chỉ điểm xuyết tình cờ mà biết bao day dứt có ý nghĩa cảnh tỉnh nghiêm khắc: “Thật đáng tiếc… những thức quý của đất mình thay dần bằng những thức bóng bảy hào nhoáng và thô kệch bắt chước người ngoài…”. Nếu ở đoạn thứ nhất, ngòi bút nhà văn vừa miêu tả vừa biểu cảm, thì đến đoạn thứ hai này vẫn vừa tả vừa biểu cảm, nhưng bổ sung thêm một chút bình luận. Tuỳ bút là như thế, ngòi bút nhà văn vừa ngẫu hứng trôi theo cảm xúc nhưng vẫn lắng sâu những suy luận, triết lí, thơ và văn xuôi hài hoà, mạch văn thông thoáng mà vẫn tập trung vào chủ đề… Đến đoạn văn cuối, chất tuỳ bút tiếp nối. Ngòi bút Thạch Lam vừa tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp và giá trị của cốm, vừa bình luận, nhắn gửi bặn đọc về cách thưởng thức, cách ăn cốm. “Cốm không phải thức quà của người ăn vội ; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ…”. Đoạn văn mở đầu bằng câu chốt như thế. Ý tưởng và cảm xúc của tác giả tập trung ở cụm từ “ăn cốm phải … thong thả và ngẫm nghĩ”. Vì sao thế? Vì cốm chứa trong nó sự tinh tuý của hương sen mang thêm mùi ngan ngát của hoa sen, của đầm nước và được chào mời bởi cô gái làng Vòng có đôi tay mềm mại “giở từng lớp lá sen, chúng ta thấy hiện ra từng “lá cốm” sạch sẽ và tinh khiết, không có mảy may một chút bụi nào”. Cốm, Vòng Hà Nội mang tinh hoa của đất Tràng An thanh lịch như thế không thể chấp nhận bất cứ cách đối xử thô bạo, tầm thường, thiếu thanh lịch nào! Thạch Lam nâng niu từng từ ngữ, trau chuốt từng câu văn mà ở đó mỗi từ, mỗi câu còn vương mùi thơm thoang thoảng tinh khôi, thanh đạm của thứ quà đặc sản thủ đô. Do đó, nghe lời căn dặn về cách ăn cốm của nhà văn, chúng ta dễ dàng đồng tình và thầm hứa với nhà văn sẽ làm như vậy “Hãy nhẹ nhàng mà nâng đỡ… Phải nên kính trọng cái lộc của Trời, cái khéo léo của người, và sự cố sức tiềm tàng và nhẫn nại của thần Lúa…” để con người “được trang nhã và đẹp đẽ hơn…”..Với Thạch Lam, ăn cốm là thưởng thức những giá trị kết tinh của bao nhiêu báu vật trên đất trời Việt Nam. Đấy là cái nhìn văn hoá của cách ăn uống, chúng ta gọi là văn hoá ẩm thực. Đấy cũng là tình yêu và niềm tự hào của nhà văn đối với quê hương, đồng ruộng, cây lúa và con người Việt Nam nói chung, mảnh đất và con người Hà Nội nói riêng. Tuy chưa được ăn cốm, nhưng lúc đọc văn Thạch Lam, chúng ta như đang được thưởng thức thứ quà tinh khiết, thanh cao, quà của lúa non, quà của bàn tay lao động và quà ngôn ngữ tiếng Việt rất tinh tế, tài hoa trong thiên tuỳ bút. Văn Thạch Lam cũng là một loại cốm dịu dàng, thanh đạm của tâm hồn người nghệ sĩ Việt Nam, những giọt sữa tinh khiết của tiếng Việt chúng ta…
Hướng dẫn Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh thường hướng về những hình ảnh, những sự việc bình dị, gần gũi trong đời sống thường nhật trong gia đình, tình yêu, tình mẹ con, bà cháu,… Bài thơ Tiếng gà trưa là một bài thơ như thế. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh cả nước chống đế quốc Mĩ xâm lược. Như nhiều tác phẩm đương thời, thơ Xuân Quỳnh hướng vào chủ đề bao trùm của cả nền văn học bấy giờ là lòng yêu quê hương, đất nước và cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn dân, trước hết là của những người cầm súng. Do đó, tuy bài thơ có nhiều kỉ niệm riêng của bản thân nhà thơ, nhưng hình tượng nhân vật trữ tình lại là người chiến sĩ đang trên đường hành quân, ra tiền tuyến. Cái tôi riêng của người nghệ sĩ và cải ta chung của cả thế hệ, cả dân tộc hoà hợp tự nhiên, hồn nhiên, toả ra những cảm hứng vừa thân thương, gần gũi vừa cao cả thiêng liêng, lay động lòng người. Đây là tác phẩm viết theo thể thơ tự do, trừ cụm từ Tiếng gà trưa ba tiếng, còn lại, mỗi câu thơ gồm năm âm tiết, nối nhau, mở đầu và kết thúc theo ý tưởng và cảm xúc của nhà thơ. Ta có thể coi bài Tiếng gà trưa là thơ ngũ ngôn, một thể thơ gốc Việt Nam, bắt nguồn từ thể hát dặm Nghệ Tĩnh và vè dân gian. Bài thơ, vì thế, có giọng điệu kể chuyện tâm tình, nhẹ nhàng, thủ thỉ, tự sự, miêu tả và biểu cảm xen nhau. Trong bài thơ, cụm từ ba âm tiết Tiếng gà trưa điệp lại bốn lần ở đầu mỗi khổ thơ. Mỗi lần cất lên, câu thơ ấy gợi một hình ảnh, hoặc sự việc trong kỉ niệm tuổi thơ của chính tác giả và của nhân vật trữ tình – người chiến sĩ đang hành quân. Điệp ngũ Tiếng gà trưa như dòng nhạc chủ âm vừa kết nối các đoạn thơ vừa điểm nhịp cho từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Dựa vào mạch cảm xúc và điệp ngữ ấy, chúng ta có thể hiểu và suy ngẫm vê bài thơ theo ba đoạn: Tiếng gà cất lên trên đường hành quân – đoạn một (khổ một, bảy câu đầu) ; Tiếng gà gọi về tuổi thơ – đoạn hai (khổ hai, ba, bốn, năm, sáu – hai mươi sáu câu tiếp theo) ; Tiếng gà giục giã tinh thần chiến đấu – đoạn ba (hai khổ thơ cuối). Đoạn một: Người chiến sĩ chống Mĩ cứu nước – đoàn quân ra tiền tuyến, trong đó có nhà thơ – kể một sự việc bình thường mà thú vị. Trên đường hành quân, lúc tạm nghỉ ở một xóm nhỏ bên đường, chiến sĩ ta bỗng nghe tiếng gà nhảy ổ vang lên Cục… cục tác, cục tu. Câu thơ ghi âm tiếng gà kêu nghe rất đỗi thân thương, gần gũi. Tiếp sau đó, điệp từ nghe nối nhau, nhắc lại ba lần như những dư ba kì diệu của tiếng gà. Tiếng gà làm xao động, làm dịu bớt cái nắng trưa gay gắt, xua tan những mệt mỏi nơi người chiến sĩ và … đánh thức những kỉ niệm xa xưa, gợi về tuổi thơ, đưa các anh, các chị sống lại những năm tháng hồn nhiên, tươi đẹp nhất của đời người. Bài thơ Tiếng gà trưa ra đời trong những ngày cả nước chống Mĩ sôi động và quyết liệt. Đoạn mở đầu này kể về một sự việc đời thường, thơ mộng, góp phần làm dịu bớt không khí nóng bức của chiến tranh, mở ra một không gian và thời gian thanh bình sâu lắng giúp cho những người lính, những bạn đọc thuở ấy cũng như chúng ta ngày nay được chút thời gian yên tĩnh trong cõi lòng để lắng sâu suy cảm. Sau tiếng gà nhảy ổ ở hiện tại, sang đoạn hai, tiếng gà gọi về những kỉ niệm tuổi thơ. Ba khổ thơ, hai mươi sáu câu nối nhau cùng với Tiếng gà trưa điệp lại những ngày thơ bé với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương. Qua thơ, chúng ta được cùng người chiến sĩ ấy sống những ngày tháng thật là dịu êm trong tình yêu thương của người bà, và… câu chuyện về những con gà cũng rất đáng yêu. Nào là hình hài màu sắc của mấy chị “Gà mái mơ, khắp mình hoa đốm trắng”, “Gà mái vàng, lông óng như màu nắng”. Nào là chuyện nhìn gà đẻ, bị bà mắng yêu. Nào là hình ảnh bà soi trứng, theo dõi quá trình gà ấp với bàn tay khum khum, với tấm lòng chắt chiu, nâng đỡ từng sự sống nhỏ nhoi trong từng quả trứng. Rồi chuyện bà: Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới Ôi cái quần chéo go Ống rộng dài quét đất Cái áọ cánh trúc bâu Đi qua nghe sột soạt… Càng về cuối, kỉ niệm tuổi thơ càng da diết cảm động. Qua những dòng thơ êm nhẹ, thánh thót như những nốt nhạc trong veo, hình ảnh người bà Việt Nam hiện lên đẹp như một bà tiên vậy. Bà dành tất cả sức lực và tình thương yêu cho đứa cháu nhỏ. Bà đã tần tảo, chắt chiu chăm sóc, nâng đỡ từng quả trứng, từng chú gà con, như chắt chiu, nâng đỡ những ước mơ hạnh phúc đon sơ, nhỏ bé của đứa cháu yêu. Hình ảnh đứa cháu được mặc bộ quần áo mới do công lao nuôi gà của bà ban tặng, hồn nhiên, ngây thơ làm sao. Chỉ là “cái quần chéo go”, “cái áo cánh chúc bâu” (những loại vải rẻ tiền, mà ngày nay ít người dùng) nhưng đứa cháu – chắc là một cô gái – đã vô cùng cảm động, sung sướng. Đấy đâu chỉ là bộ quần áo dài rộng, cựa quậy một tí là bật ra tiếng sột soạt, mà là biết bao hạnh phúc, biết bao tấm lòng bà đã dành cho cháu. Hình ảnh và tâm trạng người thiếu niên – những chiến sĩ chống Mĩ thuở ấu thơ – được khắc hoạ chân thực, mang bản chất nông dàn, bản sắc Việt Nam, thật là đáng trân trọng. Đó là những con người giản dị, được lớn lên trong tình thương yêu, nâng đỡ của quê hương, của những người ruột thịt. Được hưởng hạnh phúc ấy, họ thực sự cảm động và mãi nhớ ơn quê hương, ông bà, cha mẹ. Riêng với nữ sĩ Xuân Quỳnh, có lẽ mối tình sâu nặng và ân nghĩa nhất là tình bà cháu. Nếu không nhớ thương, biết ơn bà, làm sao mà viết được những câu thơ, ghi lại được những kỉ niệm đẹp như thế. Thơ với đời, hiện tại và quá khứ cứ đan xen, gắn bó hài hoà, tự nhiên, hồn nhiên, trong veo như nắng trưa và gió mát ngày hè vậy. Từ tiếng gà trưa gọi về tuổi thơ ở đoạn hai, đến những câu thơ cuối, người chiến sĩ – tác giả Xuân Quỳnh – trở lại với cuộc sống và cương vị của con người hiện tại. Tiếng gà trưa trở thành tiếng nói của quê hương, của nhũng người ruột thịt, của cả dân tộc và đất nước lúc bấy giờ nhắc nhở giục giã người cầm súng. Họ tự nhủ. và nhắn với bà: Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu TỔ quốc Vì xóm làng thân thụ ộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ổ trứng hồng tuổi thơ. Từ những kỉ niệm tuổi thơ thấm đẫm tình bà cháu, cảm húng thơ mở rộng hướng tới tình yêụ đất nước, nhắc nhở, giục giã những chiến sĩ – trong đó có nhà thơ Xuân Quỳnh – hãy chắc tay súng tiến lên chống kẻ thù xâm lược bảo vệ gia đình, làng xóm quê hương và nền Độc lập, Tự do của Tổ quốc. Tóm lại, bài thơ Tiếng gà trưa viết về một loại âm thanh quen thuộc, bình dị trên quê hương, đất nước ta, nhưng đã thể hiện những suy nghĩ rất sâu sắc, những cảm xúc thật cao đẹp của nữ sĩ Xuân Quỳnh. “Tiếng gà trưa” đã gọi về những kỉ niệm của tuổi thơ thơ mộng và tình bà cháu đậm đà thắm thiết. Những tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu nước và nhắc nhở chúng ta tinh thần, trách nhiệm đối với đất nước.
Hướng dẫn Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh thường hướng về những hình ảnh, những sự việc bình dị, gần gũi trong đời sống thường nhật trong gia đình, tình yêu, tình mẹ con, bà cháu,… Bài thơ Tiếng gà trưa là một bài thơ như thế. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh cả nước chống đế quốc Mĩ xâm lược. Như nhiều tác phẩm đương thời, thơ Xuân Quỳnh hướng vào chủ đề bao trùm của cả nền văn học bấy giờ là lòng yêu quê hương, đất nước và cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn dân, trước hết là của những người cầm súng. Do đó, tuy bài thơ có nhiều kỉ niệm riêng của bản thân nhà thơ, nhưng hình tượng nhân vật trữ tình lại là người chiến sĩ đang trên đường hành quân, ra tiền tuyến. Cái tôi riêng của người nghệ sĩ và cải ta chung của cả thế hệ, cả dân tộc hoà hợp tự nhiên, hồn nhiên, toả ra những cảm hứng vừa thân thương, gần gũi vừa cao cả thiêng liêng, lay động lòng người. Đây là tác phẩm viết theo thể thơ tự do, trừ cụm từ Tiếng gà trưa ba tiếng, còn lại, mỗi câu thơ gồm năm âm tiết, nối nhau, mở đầu và kết thúc theo ý tưởng và cảm xúc của nhà thơ. Ta có thể coi bài Tiếng gà trưa là thơ ngũ ngôn, một thể thơ gốc Việt Nam, bắt nguồn từ thể hát dặm Nghệ Tĩnh và vè dân gian. Bài thơ, vì thế, có giọng điệu kể chuyện tâm tình, nhẹ nhàng, thủ thỉ, tự sự, miêu tả và biểu cảm xen nhau. Trong bài thơ, cụm từ ba âm tiết Tiếng gà trưa điệp lại bốn lần ở đầu mỗi khổ thơ. Mỗi lần cất lên, câu thơ ấy gợi một hình ảnh, hoặc sự việc trong kỉ niệm tuổi thơ của chính tác giả và của nhân vật trữ tình – người chiến sĩ đang hành quân. Điệp ngũ Tiếng gà trưa như dòng nhạc chủ âm vừa kết nối các đoạn thơ vừa điểm nhịp cho từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Dựa vào mạch cảm xúc và điệp ngữ ấy, chúng ta có thể hiểu và suy ngẫm vê bài thơ theo ba đoạn: Tiếng gà cất lên trên đường hành quân – đoạn một (khổ một, bảy câu đầu) ; Tiếng gà gọi về tuổi thơ – đoạn hai (khổ hai, ba, bốn, năm, sáu – hai mươi sáu câu tiếp theo) ; Tiếng gà giục giã tinh thần chiến đấu – đoạn ba (hai khổ thơ cuối). Đoạn một: Người chiến sĩ chống Mĩ cứu nước – đoàn quân ra tiền tuyến, trong đó có nhà thơ – kể một sự việc bình thường mà thú vị. Trên đường hành quân, lúc tạm nghỉ ở một xóm nhỏ bên đường, chiến sĩ ta bỗng nghe tiếng gà nhảy ổ vang lên Cục… cục tác, cục tu. Câu thơ ghi âm tiếng gà kêu nghe rất đỗi thân thương, gần gũi. Tiếp sau đó, điệp từ nghe nối nhau, nhắc lại ba lần như những dư ba kì diệu của tiếng gà. Tiếng gà làm xao động, làm dịu bớt cái nắng trưa gay gắt, xua tan những mệt mỏi nơi người chiến sĩ và … đánh thức những kỉ niệm xa xưa, gợi về tuổi thơ, đưa các anh, các chị sống lại những năm tháng hồn nhiên, tươi đẹp nhất của đời người. Bài thơ Tiếng gà trưa ra đời trong những ngày cả nước chống Mĩ sôi động và quyết liệt. Đoạn mở đầu này kể về một sự việc đời thường, thơ mộng, góp phần làm dịu bớt không khí nóng bức của chiến tranh, mở ra một không gian và thời gian thanh bình sâu lắng giúp cho những người lính, những bạn đọc thuở ấy cũng như chúng ta ngày nay được chút thời gian yên tĩnh trong cõi lòng để lắng sâu suy cảm. Sau tiếng gà nhảy ổ ở hiện tại, sang đoạn hai, tiếng gà gọi về những kỉ niệm tuổi thơ. Ba khổ thơ, hai mươi sáu câu nối nhau cùng với Tiếng gà trưa điệp lại những ngày thơ bé với biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương. Qua thơ, chúng ta được cùng người chiến sĩ ấy sống những ngày tháng thật là dịu êm trong tình yêu thương của người bà, và… câu chuyện về những con gà cũng rất đáng yêu. Nào là hình hài màu sắc của mấy chị “Gà mái mơ, khắp mình hoa đốm trắng”, “Gà mái vàng, lông óng như màu nắng”. Nào là chuyện nhìn gà đẻ, bị bà mắng yêu. Nào là hình ảnh bà soi trứng, theo dõi quá trình gà ấp với bàn tay khum khum, với tấm lòng chắt chiu, nâng đỡ từng sự sống nhỏ nhoi trong từng quả trứng. Rồi chuyện bà: Mong trời đừng sương muối Để cuối năm bán gà Cháu được quần áo mới Ôi cái quần chéo go Ống rộng dài quét đất Cái áọ cánh trúc bâu Đi qua nghe sột soạt… Càng về cuối, kỉ niệm tuổi thơ càng da diết cảm động. Qua những dòng thơ êm nhẹ, thánh thót như những nốt nhạc trong veo, hình ảnh người bà Việt Nam hiện lên đẹp như một bà tiên vậy. Bà dành tất cả sức lực và tình thương yêu cho đứa cháu nhỏ. Bà đã tần tảo, chắt chiu chăm sóc, nâng đỡ từng quả trứng, từng chú gà con, như chắt chiu, nâng đỡ những ước mơ hạnh phúc đon sơ, nhỏ bé của đứa cháu yêu. Hình ảnh đứa cháu được mặc bộ quần áo mới do công lao nuôi gà của bà ban tặng, hồn nhiên, ngây thơ làm sao. Chỉ là “cái quần chéo go”, “cái áo cánh chúc bâu” (những loại vải rẻ tiền, mà ngày nay ít người dùng) nhưng đứa cháu – chắc là một cô gái – đã vô cùng cảm động, sung sướng. Đấy đâu chỉ là bộ quần áo dài rộng, cựa quậy một tí là bật ra tiếng sột soạt, mà là biết bao hạnh phúc, biết bao tấm lòng bà đã dành cho cháu. Hình ảnh và tâm trạng người thiếu niên – những chiến sĩ chống Mĩ thuở ấu thơ – được khắc hoạ chân thực, mang bản chất nông dàn, bản sắc Việt Nam, thật là đáng trân trọng. Đó là những con người giản dị, được lớn lên trong tình thương yêu, nâng đỡ của quê hương, của những người ruột thịt. Được hưởng hạnh phúc ấy, họ thực sự cảm động và mãi nhớ ơn quê hương, ông bà, cha mẹ. Riêng với nữ sĩ Xuân Quỳnh, có lẽ mối tình sâu nặng và ân nghĩa nhất là tình bà cháu. Nếu không nhớ thương, biết ơn bà, làm sao mà viết được những câu thơ, ghi lại được những kỉ niệm đẹp như thế. Thơ với đời, hiện tại và quá khứ cứ đan xen, gắn bó hài hoà, tự nhiên, hồn nhiên, trong veo như nắng trưa và gió mát ngày hè vậy. Từ tiếng gà trưa gọi về tuổi thơ ở đoạn hai, đến những câu thơ cuối, người chiến sĩ – tác giả Xuân Quỳnh – trở lại với cuộc sống và cương vị của con người hiện tại. Tiếng gà trưa trở thành tiếng nói của quê hương, của nhũng người ruột thịt, của cả dân tộc và đất nước lúc bấy giờ nhắc nhở giục giã người cầm súng. Họ tự nhủ. và nhắn với bà: Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu TỔ quốc Vì xóm làng thân thụ ộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ổ trứng hồng tuổi thơ. Từ những kỉ niệm tuổi thơ thấm đẫm tình bà cháu, cảm húng thơ mở rộng hướng tới tình yêụ đất nước, nhắc nhở, giục giã những chiến sĩ – trong đó có nhà thơ Xuân Quỳnh – hãy chắc tay súng tiến lên chống kẻ thù xâm lược bảo vệ gia đình, làng xóm quê hương và nền Độc lập, Tự do của Tổ quốc. Tóm lại, bài thơ Tiếng gà trưa viết về một loại âm thanh quen thuộc, bình dị trên quê hương, đất nước ta, nhưng đã thể hiện những suy nghĩ rất sâu sắc, những cảm xúc thật cao đẹp của nữ sĩ Xuân Quỳnh. “Tiếng gà trưa” đã gọi về những kỉ niệm của tuổi thơ thơ mộng và tình bà cháu đậm đà thắm thiết. Những tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu nước và nhắc nhở chúng ta tinh thần, trách nhiệm đối với đất nước.
Hướng dẫn Năm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trong giai đoạn khó khăn, phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị người chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến không khỏi âu lo, trằn trọc. Nỗi lòng ấy của Người đã được thể hiện tinh tế trong bài thơ cảnh khuya mà chúng ta từng đọc. Bước sang năm 1948, tình hình đất nước và sự nghiệp kháng chiến có nhiều chuyển biến khả quan. Niềm vui đang trở lại. Do đó vào đêm rằm tháng giêng (âm lịch) năm đó, sau một cuộc họp bàn việc quốc kế quân cơ, Bác đã hứng khởi sáng tác bài thơ: Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng). Phiên âm chữ Hán: Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên ; Yên ba thâm xứ đùm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Xuân Thuỷ dịch: Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân ; Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. Tác phẩm thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nguyên văn bằng chữ Hán. Nếu chúng ta dịch nghĩa của bản phiên âm thì bài thơ ấy có thể như sau: Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất, Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân ; Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân, Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền. Nhà thơ Xuân Thuỷ dịch Nguyên tiêu sang thơ tiếng Việt chuyển thành thơ lục bát, thể hiện khá tốt nội dung, ý nghĩa, nhưng đã làm hao hụt phần nào âm điệu và ngôn từ của bài thơ nguyên tác. Do đó, khi đọc bài thơ, ta cần cố gắng kết hợp bản dịch thơ với nguyên tác thì mới cảm nhận chính xác vẻ đẹp của thơ Bác. Bài Nguyên tiêu viết về đề tài tả cảnh thiên nhiên, rất gần với thơ Đường. Cả những hình ảnh, từ ngữ, âm điệu, vần điệu của bài thơ cũng vậy. Đọc bài thơ, lắng nghe âm điệu và thoáng qua các chất liệu tạo vật như trăng tròn, sông xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng, nửa đêm, đầy thuyền… ta có cảm giác thơ của Bác Hồ giống thơ của Trương Kế trong bài Phong Kiều dạ bạc (Đêm ngủ ở bến Phong Kiều), nhất là câu cuối của hai bài. Kết bài Phong Kiều dạ bạc, Trương Kế viết: “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”. Hồ Chí Minh viết: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”, về vóc dáng, hai câu thơ gần giống nhau, nhung về cốt cách, bản chất thì khác nhau một trời một vực. Nói khác đi, bài thơ Nguyên tiêu tuy sử dụng nhiều chất liệu cổ thi, nhưng vẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Hồ Chí Minh, mang vẻ đẹp, sức sống và tinh thần của thời đại mới. Bác làm thơ Đường nhưng không máy móc mà đầy sáng tạo. Mỗi bài thơ của Người thể hiện tài năng và tâm hồn, trí tuệ của người chiến sĩ cách mạng hài hoà phong cách người nghệ sĩ ngày nay. Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang, xuân thuỷ, tiếp xuân thiên ; (Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân) Hai câu thơ đầu vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng giêng sáng quá, đẹp quá. Bầu trời cao rộng, thoáng đãng. Trăng tròn đầy. Cả không gian tràn ngập sức sống, trải mênh mang tưởng như không có giới hạn. Tất cả đều tươi trẻ, dào dạt cảnh xuân. Dòng sông mùa xuân, nước mùa xuân nối liền với bầu trời xuân. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả dùng điệp từ “xuân” ba lần liền mạch, nối nhau, ngân nga như một dòng nhạc xanh êm dịu. Câu thơ có bảy tiếng thì năm tiếng có thanh không: Xuân giang, xuân…, xuân thiên mang âm hưởng bay bổng, gợi cảm giác trong trẻo, rộng lớn, thảnh thơi, thanh bình, thú vị làm,sao. Nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn dùng ngòi bút chấm phá chọn nét cảnh tiêu biểu, ấn tượng, hài hoà thống nhất với nhau, đã tạo ra một bức tranh đêm rằm tháng giêng ở chiến khu Việt Bắc năm 1948, vừa mang vẻ đẹp của tạo vật vừa ẩn dụ cho tình hình kháng chiến đầy triển vọng lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy, là một cái nhìn, một cảm hứng, một phong thái bình tĩnh, ung dung, thanh thản của người nghệ sĩ — chiến sĩ. Đến hai câu kết của bài thơ thì chất chiến sĩ – nghệ sĩ càng hiện rõ: Yên ba thảm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. (Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) Một cuộc họp bàn việc quốc kế quân cơ đã diễn ra trong đêm rằm tháng giêng ấy. Vị trí cuộc họp ở đâu? ớ “yên ba thâm xứ” tức là ở “trên khói sóng nơi sâu thẳm”, bí mật và thiêng liêng như trong huyền thoại vậy. Thế giới từng gọi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta là “cuộc kháng chiến thần thánh”, có lẽ cũng căn cứ một phần vào cơ quan đầu não – những người chỉ huy kháng chiến – tài ba, huyền thoại này chăng? Cuộc họp ấy đã bàn bạc, nhận định và quyết định những điều gì, chúng ta không biết. Song điều chắc chắn chúng ta có thể tin được là cuộc họp ấy đã thành công rực rỡ, đem lại niềm vui, niềm tin cho mọi người. Do đó, lúc tan họp, mọi người ra về giữa đêm khuya, thấy trời như sáng ra, trăng như tròn hơn, ánh trăng ăm ắp đầy cả khoang thuyền: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền). Cả câu thơ nguyên tác lẫn câu thơ dịch đều đẹp. Những chiến sĩ kháng chiến chống ngoại xâm như được ngồi trên ánh sáng, tắm trong ánh trăng. Tất cả, ánh trăng rằm trên bầu trời Tổ quốc, con thuyền trên dòng sông quê hương và những tướng lĩnh của cuộc kháng chiến, tiêu biểu nhất là Hồ Chí Minh đã hoà hợp với nhau, cùng toả sáng cho nhau trong sức sống thanh xuân, trong niềm lạc quan và niềm tin chiến thắng.
Instruct In 1947, our nation's resistance war against the French colonialists was in a difficult and complicated period. President Ho Chi Minh, as the supreme commander of the resistance war, could not help but feel worried and restless. That feeling of his was expressed delicately in the late-night poem that we have read. Entering 1948, the country's situation and the resistance war had many positive changes. Joy is returning. Therefore, on the full moon night of the first month (lunar calendar) of that year, after a meeting to discuss military plans, Uncle Ho excitedly composed the poem: Nguyen Tieu (First Full Moon). Transliteration of Chinese characters: Kim Da Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien, Spring flows, spring waters follow spring heaven; Yen ba deep land of military support, Da semi-returning to the lunar boat. Xuan Thuy translates: The spring full moon shines brightly, Spring river, water and sky color add spring; In the midst of discussing military affairs, Late at dawn moon filled the boat. The work belongs to the seven-word, four-literate Tang Luat poem form, originally written in Chinese characters. If we translate the meaning of the phonetic version, the poem might look like this: Tonight, the full moon night of January, the moon is at its fullest, Spring river, spring water adjacent to spring sky; In a deep place filled with smoke and waves, discussing military affairs, Returning at midnight, the moon filled the boat. Poet Xuan Thuy translated Nguyen Tieu into Vietnamese poetry and converted it into six-eight poetry, which expressed the content and meaning quite well, but somewhat lost the tone and language of the original poem. Therefore, when reading the poem, we need to try to combine the translation with the original to accurately feel the beauty of Uncle Ho's poetry. The poem Nguyen Tieu is written on the topic of describing natural scenes, very close to Tang poetry. The same goes for the images, words, sounds, and rhymes of the poem. Reading the poem, listening to the melody and catching a glimpse of the materials of creation such as the full moon, spring river, spring water, spring sky, wave smoke, midnight, full boat... we have the feeling that Uncle Ho's poetry is similar to Truong's poetry. Next in the song Phong Kieu Da Bac (Night sleeping at Phong Kieu wharf), especially the last sentence of the two songs. At the end of Phong Kieu's article, Truong Ke wrote: "Yes, the boat is sold to customers." Ho Chi Minh wrote: "Da semi-gui lai moon man boat", in terms of physique, the two verses are almost identical, but in terms of style and nature, they are worlds and oceans different. In other words, although the Nguyen Tieu poem uses many ancient poetic materials, it is still a unique artistic creation of Ho Chi Minh, bringing the beauty, vitality and spirit of the new era. He wrote Tang poetry, but not mechanically, but full of creativity. Each of his poems shows the talent, soul, and intelligence of a revolutionary soldier, harmonizing the style of today's artists. Kim Da Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien, Spring river, spring water, next spring heaven; (Spring full moon shines brightly, Spring river, water and sky color add spring) The first two verses paint a picture of nature on the full moon night of January, so bright and beautiful. The sky is high, wide and airy. Full moon. The whole space is filled with vitality, spreading out seemingly without limits. Everything is young and full of spring. Spring river, spring water connected to the spring sky. In the original Chinese work, the author uses the word "spring" three times seamlessly, one after another, humming like a gentle blue music. If the poem has seven words, five of them are clear or empty: Xuan Giang, Xuan..., Xuan Thien carries a soaring sound, evoking a feeling of clarity, vastness, carefree, peaceful, interesting work. Poet Ho Chi Minh still used his pen to highlight and select typical, impressive, and harmonious scenes, creating a painting of the full moon night of the first lunar month in the Viet Bac war zone in 1948, both bearing the beauty of The creature was both a metaphor for the promising resistance situation at that time. Behind that painting is a look, an inspiration, a calm, leisurely, and serene demeanor of the artist - the soldier. In the last two sentences of the poem, the soldier-artist quality becomes even more evident: Yen Ba carpet is the land of military talks, Da semi-returning to the lunar boat. (In the midst of discussing military affairs, Late at dawn moon filled the boat) A meeting to discuss military plans took place on the full moon night of the first lunar month. Where is the meeting location? Being in "Yen Ba Deep Land" means being "above the smoke and waves in the depths", as secret and sacred as in a legend. The world once called our nation's resistance war against the French colonialists the "holy resistance war", perhaps partly based on this talented and legendary headquarters - resistance commanders. perhaps? We do not know what that meeting discussed, assessed and decided. But what we can definitely believe is that the meeting was a great success, bringing joy and confidence to everyone. Therefore, at the end of the meeting, everyone left in the middle of the night, seeing the sky seemed brighter, the moon seemed rounder, the moonlight filled the entire cabin: "Yes, half return to the full moon boat" filled the boat). Both the original verse and the translated verse are beautiful. The resistance fighters against foreign invaders seemed to be sitting on the light, bathed in moonlight. All, the full moon in the sky of the Fatherland, the boat on the homeland river and the generals of the resistance war, most notably Ho Chi Minh, were in harmony with each other, shining for each other in pure vitality. spring, in optimism and belief in victory.
Hướng dẫn Chủ tịch Hồ Chí Minh – Bác Hồ muôn vàn kính yêu – được nhân dân ta và thế giới suy tôn là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá. Trong hoạt động và lãnh đạo cách mạng, mỗi khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, Người thường hứng khởi sáng tác thơ ca. Mỗi bài thơ của Bác là một mảnh tâm hồn trong sáng, cao đẹp hài hoà chất nghệ sĩ và chiến sĩ. Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp – từ năm 1947 đến 1954 – Bác đã sáng tác một số bài thơ như thế. Trong số thơ kháng chiến, cảnh khuya là một bài thơ khá đặc sắc được Bác viết năm 1947, vào một đêm trăng rừng Việt Bắc đẹp, gợi biết bao nỗi niềm: Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa. Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Bài thơ được làm theo thể thơ tứ tuyệt Đường thi, bốn câu, mỗi câu bảy tiếng mang thanh điệu, vần điệu, bố cục tương tự những bài tứ tuyệt Đường thi và thơ ca trung đại Việt Nam mà chúng ta từng biết. Điều thú vị là tác giả – Hồ Chí Minh – đã sáng tạo khi ngắt nhịp ở câu 1 và câu 4. Trong các câu thơ làm theo luật thơ Đường, các nhà thơ thường ngắt nhịp 4/3. Ở câu 1, bài cảnh khuya ngắt 3/4 (“Tiếng suối trong/ như tiếng hát xa”) và ở câu 4 là 2/5 (“Chưa ngủ/ vì lo nỗi nước nhà”). Điều đó vừa làm cho nhạc thơ được mới lạ vừa thể hiện chính xác cung bậc cảm xúc của tác giả lúc bấy giờ. Hai câu đầu tả cảnh trăng rừng Việt Bắc: Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa. Câu thứ nhất tả âm thanh tiếng suối trong vắt vẳng từ xa lại. Nghe tiếng suối, nhà thơ ngỡ như nghe tiếng ai đó đang hát. Nghệ thuật so sánh ở đây thật đặc sắc. Trước kia, Nguyễn Trãi trong Bài ca Côn Sơn cũng tả tiếng suối, cũng dùng phép so sánh: “Côn Sơn suối chảy rì rầm – Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”. Cách so sánh của người xưa tuy hay nhưng dù sao vẫn là từ âm thanh của tự nhiên liên tưởng tới âm thanh vẫn của tự nhiên. Còn Bác Hồ – trong thời đại ngày nay – đã so sánh tiếng suối, âm thanh của tự nhiên với tiếng người hát, âm thanh phát ra từ con người. Điều ấy khiến cho tiếng suối của rùng Việt Bắc trở nên gần gũi với con người hơn và mang sức sống trẻ trung hơn. Sống giữa thiên nhiên, Bác Hồ luôn cảm thấy như được sống với con người. Hay nói khác đi, Bác luôn coi thiên nhiên là bè bạn, tri kỉ, tri âm biết chia sẻ buồn vui với mình. Câu thơ thứ hai: “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa” tiếp tục tả cảnh thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên dạt dào sức sống. Đây là bức tranh có nhiều tầng lớp, nhiều đường nét, hình khối và lung linh ánh sáng. Có nét đậm là dáng hình của vòm cổ thụ ở trên cao lấp loáng ánh trăng. Có nét thanh mảnh ảo huyền là bóng lá, bóng trăng in vào khóm hoa, in lên mặt đất hay trên sàn nhà lấp lánh, xao động như những hình hoa thêu dệt. Bức tranh chỉ dùng hai màu sáng tối mà tạo nên vẻ đẹp lung linh chập chờn và ấm áp, hoà hợp giữa các chi tiết của thiên nhiên, tạo vật. Điều đó được nhà thơ biểu hiện tập trung ở điệp từ “lồng”: “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Đọc thơ, ta ngỡ trăng, cổ thụ và hoa, ba vật thể cách nhau ngàn trùng, cao thấp, lớn bé cũng rất khác nhau, vậy mà vẫn “lồng” vào nhau, soi sáng cho nhau, nâng đỡ nhau, cùng nhau hoạ nên bức tranh tuyệt mĩ. Bức tranh ấy do thiên nhiên vẽ ra, hay chính là do tài năng và sự cảm nhận tinh tế của tác giả – Hồ Chí Minh – tạo dụng? Thiên nhiên thì bao giờ, ở đâu chẳng thế. Điều quyết định vẻ đẹp tươi (hay sự xấu xa buồn thảm) của bức tranh thiên nhiên là ở lòng người. Nói khác đi, Hồ Chí Minh đã thổi vào cảnh rừng đêm Việt Bắc một linh hồn để dựng lại thành một bức tranh lung linh, sống động. Đến hai câu cuối, cảnh đêm rừng Việt Bắc vừa được khẳng định đẹp như tranh vừa gợi biết bao nỗi niềm tâm trạng của người ngắm cảnh: Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Đối với một tâm hồn nhạy cảm mang phong thái thi sĩ thì Bác Hồ của chúng ta khẳng định cảnh đêm rừng Việt Bắc đẹp như một bức tranh là điều rõ ràng. Trước cảnh đẹp như thế, Người, đã say sưa thưởng thức đến độ quên cả giấc ngủ. Chưa ngủ được, vì cảnh đẹp quá, đáng yêu quá. Nếu chỉ dừng bài thơ ở đây, tâm hồn tác giả cũng đã rất đáng trân trọng rồi. Bởi vì, yêu cảnh đẹp thiên nhiên, đất nước đến độ không ngủ được chính là tấm lòng yêu quê hương, đất nước thiết tha vậy. Song hồn thơ của Bác vẫn tiếp tục xao động. Hai chữ chưa ngủ không chỉ sơ kết ba dòng thơ, biểu hiện tấm lòng nhà thơ với cảnh đẹp mà còn mở ra một cung bậc cảm xúc mới nữa. Chưa ngủ được điệp lại và dẫn dắt theo một dòng thơ, dòng tình cảm bất ngờ, khơi sâu cảm xúc cả bài thơ: “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Điệp từ chưa ngủ như cái bản lề khép mở hai phía tâm trạng của một con người: càng say mê, yêu mến cảnh Việt Bắc bao nhiêu thì Người càng thao thức nghĩ suy, lo lắng về sự nghiệp kháng chiến, về việc nước, việc dân bấy nhiêu. Hai nét tâm trạng ấy thống nhất trong Bác, thể hiện sự hài hoà phong thái thi sĩ và cốt cách chiến sĩ của anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh.
Instruct President Ho Chi Minh - the beloved Uncle Ho - is revered by our people and the world as a national hero and cultural celebrity. During his revolutionary activities and leadership, whenever he encountered a special situation, he was often inspired to compose poetry. Each of Uncle Ho's poems is a piece of his pure, beautiful soul that harmonizes the qualities of artist and soldier. During the resistance war against the French colonialists - from 1947 to 1954 - Uncle Ho composed a number of poems like that. Among resistance poems, Late Scene is a quite unique poem written by Uncle Ho in 1947, on a beautiful moonlit night in the Viet Bac forest, evoking so many feelings: The sound of a stream is as clear as a distant song, The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages. The late night scene is like painting, people haven't slept yet, Not sleep, worrying that country. The poem is written in the Tang poetry quatrain form, four lines, each with seven words, with tones, rhymes, and layouts similar to the Tang poetry quatrains and Vietnamese medieval poetry that we know. The interesting thing is that the author - Ho Chi Minh - was creative in stopping the rhythm in verses 1 and 4. In verses made according to the rules of Tang poetry, poets often break the rhythm in 4/3. In verse 1, the late night scene is 3/4 (“The sound of a clear stream/ like a distant song”) and in verse 4 it is 2/5 (“Not sleeping/ because of worries about the country”). That both makes the music and poetry new and accurately represents the author's emotions at that time. The first two sentences describe the moonscape of the Viet Bac forest: The sound of a stream is as clear as a distant song, The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages. The first sentence describes the sound of a clear stream coming from afar. Hearing the sound of the stream, the poet thought he heard someone singing. The comparative art here is truly unique. Previously, Nguyen Trai in Song of Con Son also described the sound of the stream, also using the comparison: "Con Son stream murmurs - I hear it like the sound of a harp in my ears." Although the ancients' comparison is good, it still refers to the sound of nature as referring to the sound of nature. And Uncle Ho - in this day and age - compared the sound of streams, the sounds of nature, with the sound of people singing, the sounds emanating from humans. That makes the stream sound of the Viet Bac forest become closer to people and bring more youthful vitality. Living among nature, Uncle Ho always felt like he was living with people. Or to put it another way, Uncle Ho always considered nature a friend, a confidant, a confidant who knew how to share joy and sorrow with him. The second verse: "The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages" continues to describe the natural scene, a picture of nature filled with vitality. This is a painting with many layers, lines, shapes and sparkling light. A bold feature is the shape of an ancient tree arch high above, glistening with moonlight. There are delicate and magical features like the shadow of leaves and moon shadow printed on the flower cluster, printed on the ground or on the sparkling, fluttering floor like embroidered flower patterns. The painting uses only two colors, light and dark, to create a shimmering and warm beauty, harmonizing the details of nature and creation. That is expressed by the poet in the refrain "cage": "The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages". Reading poetry, we think that the moon, the ancient tree and the flower are three objects that are thousands of miles apart, very different in height, height, size, and size, yet still "interlocked" with each other, illuminating each other, supporting each other, working together. paints a wonderful picture. Was that picture drawn by nature, or was it created by the talent and subtle perception of the author - Ho Chi Minh? Nature is always the same, everywhere. What determines the fresh beauty (or sad ugliness) of a natural picture is the human heart. In other words, Ho Chi Minh breathed a soul into the Viet Bac night forest scene to create a shimmering, vivid picture. In the last two sentences, the night scene of Viet Bac forest is both affirmed as picturesque and evokes many emotions of the viewer: The late night scene is like painting, people haven't slept yet, Not sleep, worrying that country. For a sensitive soul with a poetic style, it is clear that our Uncle Ho affirmed that the night scene of the Viet Bac forest is as beautiful as a painting. Before such a beautiful scene, he was so absorbed in enjoying it that he even forgot to sleep. I couldn't sleep because the scene was so beautiful and lovely. If we just stopped the poem here, the author's soul would already be very respectable. Because, loving the natural beauty and country to the point of not being able to sleep is the heart that loves the homeland and the country so passionately. But Uncle Ho's poetic soul continues to stir. The two words not sleeping not only summarize the three lines of the poem, expressing the poet's heart for the beautiful scene, but also open up a new level of emotions. Haven't Been Sleeping yet repeats and leads with a line of poetry, an unexpected emotional line, deepening the emotions of the whole poem: "Haven't been able to sleep because I'm worried about my country". Sleepless alliteration is like a hinge that opens and closes both sides of a person's mood: the more he is fascinated and loves the scene of Viet Bac, the more he stays awake thinking and worrying about the resistance cause, about the country's affairs, that's what people do. These two moods are unified in Uncle Ho, expressing the harmony of the poet's style and the soldier's character of the national hero and cultural celebrity Ho Chi Minh.
Hướng dẫn Tình bạn là một trong số đề tài có truyền thống lâu đời trong lịch sử văn học Việt Nam. Bạn đến chơi nhà là một bài thơ thuộc loại hay nhất trong đề tài tình bạn và cũng thuộc loại hay nhất trong thơ Nguyễn Khuyến nói riêng, thơ Nôm Đường luật nói chung. Đã bấy lâu nay bác tới nhà, Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Ao sâu nước cá, khôn chài cá, Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta. Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan viết Qua Đèo Ngang, Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ Bạn đến chơi nhà theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với sự phối hợp thanh điệu, vần điệu, bố cục, đối xứng, số tiếng, số câu rất hài hoà. Đây cũng là bài thơ viết bằng chữ Nôm, dùng từ ngũ thuần Việt giản dị, dân dã mà rất đỗi trong sáng, thanh cao. Trong và thanh hơn cả là một tấm lòng chân thành đối với bạn. Nhà thơ như muốn nói với bạn và với tất cả chúng ta rằng: Tình bạn, tình người cao hơn của cải. Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui: Đã bấy lảu nay, bác tới nhà Cụm từ bấy lâu nay chứng tỏ người bạn của nhà thơ từ lâu rồi chưa đến thăm nhà thơ. Và cũng chứng tỏ việc hôm nay bác tới nhà thật là quý báu, rất đáng mừng, đáng vui, đáng… mở tiệc đãi bạn để thoả lòng mong nhớ, thoả tình nghĩa cố nhân. Lời thơ tự nhiên, như lời nói thường mà vẫn toát lên tình cảm mừng vui chân thành của một người bạn. Sáu câu tiếp theo, từ câu 2 đến câu 7, thơ chuyển giọng, từ giọng vui sang giọng kể và miêu tả. Nhà thơ kể về gia cảnh của mình: vợ con đi vắng, chợ ở xa, ao sâu không đánh được cá, vườn rộng, không bắt được gà, rau cải quá non, cây cà mới nhú nụ, giàn bầu, giàn mướp cũng chỉ nụ với hoa,… Tất cả đều thiếu vắng, trống trơn không có thứ gì gọi là… “để đãi bạn”. Thậm chí miếng trầu để vào chuyện theo tập quán quê hương “Miếng trầu là đầu câu chuyện” cũng không có nốt. Lời thơ cứ nhỏ nhẹ, chân chất, thật thà mà hóm hỉnh, vừa như để thanh minh với bạn, vừa để giới thiệu cảnh sông thanh bần của gia đình mình. Nếu chú ý giọng điệu thơ và cách dùng từ ngữ của Nguyễn Khuyến, ta sẽ thấy, đằng sau cái nghèo thiếu, hiện hữu như vẫn ẩn chứa, hứa hẹn một cuộc sống giàu có, phong lun. Ngắm lại cửa nhà của cụ Tam Nguyên ấy, ta thấy, cụ đâu có cô độc, nhà đâu có quá heo hút. Cụ vẫn có vợ con, trẻ già, gia đình vẫn có thể đi chợ mua bán. Nhà vẫn có ao sâu nuôi cá, lại có vườn rộng nuôi gà, nhà gieo được cải, trồng được cà, có giàn bầu, giàn mướp,… Tất cả đang sẵn sàng, thịt cá không thiếu, rau quả đang non tơ mơn mởn. Có điều – bác ơi, đúng dịp bác đến thì… gia cảnh nhà tôi chẳng có gì gọi là xứng đáng để đãi bác! Đằng sau những câu thơ kể thực, tả thực kia như thẩm thì những tiếng thanh minh, hóm hỉnh vui đùa của Nguyễn Khuyến. Nói khác đi, nhà thơ đã nói rất khéo léo, rất sang trọng về sự nghèo thiếu của mình. Trong nghèo thiếu, con người không bi quan, than thở, trái lại vẫn bình thản để giãi bày, tìm sự cảm thông, chia sẻ. Do đó, đến câu kết của bài thơ, âm điệu và ngôn từ bỗng thay đổi, thân mật và ngọt ngào: Bác đến chơi đây, ta với ta! Bao nhiêu nghèo thiếu, bao nhiêu lúng túng, ngượng ngùng bỗng tan đi hết, để cho tình bạn, tình người thăng hoa. Mọi của cải vật chất đều không còn ý nghĩa gì nữa. “Bác đến chơi đây, ta với ta” là đủ, là điều mà tôi cần nhất, tôi khái khao, trông chờ nhất. Cụm từ ta với ta trong bài thơ này của Nguyễn Khuyến gợi nhớ đến cụm từ ta với ta trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, về ngôn ngữ, hai cụm từ đó hoàn toàn giống nhau. Nhưng về ý nghĩa thì chúng rất khác nhau. Đại từ ta trong thơ Thanh Quan dùng để nói chính nhà thơ, nói về một “cái tôi” riêng lẻ thầm kín buồn lặng, cô đơn. Hai chữ ta nhưng chỉ là một nghĩa. Còn ta trong thơ Nguyễn Khuyến là nói về hai người, nhà thơ và bạn. Nói về hai người bằng một âm của một đại từ nhân xưng như thế, cụ Yên Đổ đã ca ngợi một tình bạn gắn bó, thân mật tưởng không thể tách rời, chia đôi. Thêm nữa, cụm từ ta với ta gắn với mấy tiếng trước Bác đến chơi đây và đặt sau những dòng thơ kể sự thiếu thốn vật chất bỗng như một tiếng cười xoà bật lên, thật là vui vẻ. Rõ ràng, tình, bạn, tình người là quý nhất, cao hơn của cải, vật chất. Kết cấu thơ và cách dùng từ, chơi chữ của nhà thơ đất Hà Nam thật tài hoa.
Instruct Friendship is one of the topics with a long tradition in the history of Vietnamese literature. You come to visit is a poem that is one of the best on the topic of friendship and also one of the best in Nguyen Khuyen's poetry in particular and Nom Duong Luat poetry in general. It's been a long time since you came home, When children are away, the market is far away. Deep pond with fish water, clever fishing, Large garden fence sparse, hard chase chickens. Cabbage has just sprouted, eggplant has just buds, Newly elected cord, melon or flowers. At the beginning of the game of receiving guests, there was no betel, I'm here to play, you and me. Just like Ba Huyen Thanh Quan wrote Qua Deo Ngang, Nguyen Khuyen composed the poem You come to visit in the seven-word, eight-syllable form of Tang Lu with the combination of tones, rhymes, composition, symmetry, number of sounds, and numbers. Very harmonious sentences. This is also a poem written in Nom, using simple and rustic Vietnamese five-word words but very pure and noble. The clearest and clearest thing is a sincere heart towards you. The poet seems to want to say to you and to all of us: Friendship and human love are higher than wealth. The poem opens like a shout of joy: It's been a while since you came home This long-standing phrase shows that the poet's friend has not visited the poet for a long time. And it also proves that your coming to my house today is truly precious, very worthy of celebration, worthy of joy, worthy of... holding a party for you to satisfy your longing and gratitude for your old friends. The lyrics are natural, like normal speech, but still exude the sincere joy and feelings of a friend. In the next six verses, from verses 2 to 7, the poem changes tone, from a happy tone to a narrative and descriptive tone. The poet tells about his family situation: his wife and children are away, the market is far away, the pond is so deep that you can't catch fish, the garden is large, you can't catch chickens, the vegetables are too young, the eggplant trees have just budded, the gourd trellis, the luffa trellis are also just buds and flowers... Everything is missing, empty with nothing called... "to treat you to". Even the betel piece used in the story according to the hometown custom of "The betel piece is the beginning of the story" is missing. The lyrics are small, sincere, honest and humorous, both to explain to you and to introduce the poverty of your family. If we pay attention to Nguyen Khuyen's poetic tone and use of words, we will see that behind poverty, existence still lurks, promising a rich and prosperous life. Looking back at the door of Mr. Tam Nguyen's house, we see that he is not alone, his house is not too remote. He still has a wife and children, young and old, and his family can still go to the market to buy and sell. The house still has a deep pond to raise fish, a large garden to raise chickens, the house can sow mustard greens, grow eggplants, have a gourd trellis, a luffa trellis, etc. Everything is ready, there is no shortage of meat and fish, and vegetables and fruits are flourishing. . But - uncle, on the occasion of your arrival... my family's family situation is not worthy of treating you! Behind those verses that tell the truth and describe reality like a judge, there are the clear, witty and playful voices of Nguyen Khuyen. In other words, the poet spoke very skillfully and elegantly about his poverty. In poverty, people do not feel pessimistic or complain, on the contrary, they still calmly confide, seek sympathy, and share. Therefore, at the end of the poem, the tone and words suddenly change, becoming intimate and sweet: I'm here to play, you and me! All the poverty, all the confusion and shyness suddenly disappeared, allowing friendship and human love to flourish. All material possessions no longer have any meaning. "Come here to visit, me and you" is enough, it's what I need the most, I long for, look forward to the most. The phrase I and I in this poem by Nguyen Khuyen is reminiscent of the phrase I and I in the poem Qua Deo Ngang by Ba Huyen Thanh Quan. In terms of language, those two phrases are completely similar. But in meaning they are very different. The pronoun ta in Thanh Quan's poetry is used to refer to the poet himself, talking about an individual "self" that is secretly sad and lonely. The two words ta have only one meaning. As for me in Nguyen Khuyen's poetry, it is about two people, the poet and his friend. Speaking about the two people with the same pronoun, Mr. Yen Do praised a close, intimate friendship that seemed inseparable or indivisible. In addition, the phrase me and me associated with a few hours ago when Uncle came here to visit and placed after the lines of poetry about the lack of material things suddenly burst out like a burst of laughter, so happy. Obviously, love, friendship, and human love are the most precious, higher than wealth and material things. The poetic structure and way of using words and wordplay of the Ha Nam poet are very talented.
Hướng dẫn Cùng với các nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm…, Bà Huyện Thanh Quan đã góp phần làm vinh dự cho nền văn học trung đại Việt Nam chúng ta. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, nhưng là một tài danh hiếm có. Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng và rất quen thuộc với bạn đọc: Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi, tiều vài chú, Lác đác bêu sông, chợ mấy nhà. Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia. Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta. Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thuộc thể Đường luật thất ngôn bát cú (mỗi càu bảy tiếng, mỗi bài tám câu) với thanh điệu, vần điệu, bố cục, đối xứng rất hài hoà, tự nhiên, đúng niêm luật, đọc lên nghe xuôi tai, rất dễ thuộc, dễ nhớ. Lướt qua một lần từ câu chữ mở đầu đến kết thúc, chúng ta nhận rõ bài thơ đẹp như một bức tranh vẽ lại một vùng non nước miền Trung đất Việt hùng vĩ, mà hoang sơ, gợi cảm. Câu mở đầu cho ta biết cảnh Đèo Ngang hiện lên vào lúc xế tà, nắng nhạt. Cảnh vật gồm: cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, vài chú tiều. Đường nét, màu sắc, chi tiết thưa thoáng, nhẹ nhàng, thanh đạm. Nét vẽ của nhà thơ chấm phá từ gần đến xa. Hoà với đường nét, văng vẳng vọng lại mấy âm thanh, tiếng kêu “nhớ nước” của chim cuốc, tiếng than “nhớ nhà” (muốn tìm về tổ) của chim đa đa. Trong nghệ thuật kết cấu thơ, tác giả thật khéo dùng câu đối xứng “Lom khom dưới núi tiều vài chú” đối xứng với “Lác đác bên sông chợ mấy nhà”, đường nét đối xứng với đường nét, hình ảnh cuộc sống con người đối xứng với nhau. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” đối xứng với “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”, âm thanh, loài vật đối xứng với nhau, hài hoà, cân đối. Trong nghệ thuật dùng từ, tác giả chọn những từ láy lom khom, lác đác, các từ tượng thanh quốc quốc, gia gia gợi hình, gợi cảm, tác động vào sự suy ngẫm, liên tưởng của người đọc. Thêm nữa, trong cấu trúc câu, xuất hiện phép đảo ngữ tài tình. Ở câu ba, động từ lom khom đảo lên trước danh từ tiều vài chú, xuống câu bốn, tính từ lác đác đảo lên trước danh từ chợ mấy nhà. Nhờ đó, ấn tượng về dáng hình vất vả của người tiều phu, sự thưa thớt, quạnh hiu của lều chợ được nhấn mạnh như nét đậm trong bức tranh… Có thể nói, sáu câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống con người, nhưng còn hoang sơ. Cảnh được nhìn vào lúc chiều tà, tác giả đang trong cảnh ngộ phải xa nhà, mang tâm trạng cô đơn, nên không gợi nên cảm giác vui, đẹp mà buồn và vắng lặng. Từ cảnh, toát ra tình cảm con người. Mỗi câu thơ đều có ý nghĩa biểu cảm, trĩu nặng hồn người. Đọc thơ, chúng ta hiểu tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan: buồn, cô đơn, hoài cổ. Tiếng chim quốc nhớ nước, tiếng chim đa đa (đọc trệch thành gia gia) thương nhà cũng chính là tiếng lòng thiết tha, da diết của tác giả nhớ gia đình, nhớ quá khứ của đất nước. Hai từ quốc quốc và gia gia vừa tả thực, nói về hai loại chim, vừa ẩn dụ, gợi liên tưởng tới quốc – gia, Tổ quốc và gia đình, nước và nhà đã và đang cất lên tiếng kêu, tiếng gọi tha thiết khiến lòng người không thể thờ ơ. Đến hai câu thơ cuối: Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta. thì “lòng người”, tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan được giãi bày trực tiếp. Đến đây, ngòi bút tả cảnh ngụ tình chuyển sang ngòi bút tâm trạng, thơ hướng nội, tâm tình. Đối mặt trước cảnh trời, non, nước bao la, hùng vĩ, nhà thơ cảm thấy mình như nhỏ bé hẳn lại, nỗi nhớ nhà, thương nước càng thêm da diết, thẳm sâu. Vậy mà không có ai, không tìm được ai để san sẻ, tâm tình, đành ta với ta, “Một mình mình biết, một mình mình hay” (Nguyễn Du – Truyện Kiều). Ở đây lại xuất hiện một đối lập nữa. Cảnh trời, non, nước, rộng lớn đối lập với một mảnh tình riêng nhỏ hẹp. Cảnh càng rộng lớn, hùng vĩ bao nhiêu thì mảnh tình riêng càng nặng nề, khép kín bấy nhiêu. Cụm từ ta với ta bộc lộ nỗi cô đơn gần như tuyệt đối của tác giả. Nhưng đây không phải là nỗi cô đơn tiêu cực, bi luỵ mà là tấm lòng đau đáu, thiết tha của nữ sĩ Thanh Quan đối với đất nước, đối với gia đình, đáng cảm thông và trân trọng.
Instruct Along with female writers Ho Xuan Huong, Doan Thi Diem..., Ms. Huyen Thanh Quan has contributed to honoring our Vietnamese medieval literature. Ms. Huyen Thanh Quan does not compose much, but is a rare talent. Her work currently includes six Duong Luat poems, including the famous Qua Deo Ngang poem and is very familiar to readers: Stepping to Ngang Pass, the shadow of sunset, Chen stone plants, leaves flowers chen. Crouching under the mountain, making a few notes, Scattered river and market houses. It hurts to miss my country, I am a child of my country, Trade the mouth so adhered fatigue. Stop, stop, sky, mountains, water, A piece of me with my own situation. The poem is written in Nom, in the seven-word, eight-syllable Tang luat style (each stanza has seven sounds, each poem has eight lines) with tones, rhymes, composition, and symmetry that are very harmonious, natural, and punctual. Read aloud, easy to memorize, easy to remember. Glancing once from the opening words to the ending, we clearly realize that the poem is as beautiful as a painting depicting a majestic, wild, and sexy region of Central Vietnam. The opening sentence tells us that the scene of Ngang Pass appears at dusk, with pale sunlight. Scenery includes: grass, trees, flowers, leaves, mountains, river, market, a few houses, a few trees. Lines, colors, details are sparse, gentle, and frugal. The poet's drawing touches from near to far. Blending with the lines, there are a few sounds echoing, the cry of "missing water" of the coot, the cry of "homesickness" (wanting to find the nest) of the partridge. In the art of poetic structure, the author skillfully uses the symmetrical sentence "Hooping under the mountain to make a few trees" to be symmetrical with "Scattered by the river, a few houses", symmetrical lines with lines, images of children's lives. people who are symmetrical to each other. "Missing the country is painful for the country" is symmetrical with "The family is tired of talking about the grandfather", the sounds and animals are symmetrical to each other, harmonious and balanced. In the art of using words, the author chooses words that are sloppy and scattered, onomatopoeia and words that are suggestive and suggestive, affecting the reader's contemplation and association. Furthermore, in the sentence structure, clever inversions appear. In sentence three, the verb lom khom inverts before the noun tieu several notes, in sentence four, the adjective sporadic inverts before the noun several houses market. Thanks to that, the impression of the hard-working figure of the woodcutter and the sparseness and loneliness of the market tent are emphasized as bold strokes in the painting... It can be said that the first six verses are a picture of the natural landscape in Ngang Pass, a vast mountain pass, has glimpses of human life, but is still wild. The scene is seen at dusk, the author is in a situation of having to leave home, feeling lonely, so it does not evoke a feeling of happiness and beauty, but of sadness and silence. From the scene, human emotions exude. Each verse has an expressive meaning, heavy on the soul. Reading poetry, we understand the mood of Ba Huyen Thanh Quan: sad, lonely, nostalgic. The sound of the national bird missing the country, the sound of the partridge (translated as grandfather) loving the family is also the sound of the author's passionate heart, missing his family, missing his country's past. The two words "national" and "family" are both realistic, talking about two types of birds, and also metaphorical, evoking thoughts of nation, fatherland and family, country and home have been raising their cries and earnest calls. makes people's hearts indifferent. To the last two verses: Stop, stop, sky, mountains, water, A piece of me with my own situation. then "the human heart" and the mood of Ba Huyen Thanh Quan are expressed directly. At this point, the pen describing love scenes turns to the pen of mood, introspective, sentimental poetry. Faced with the vast and majestic scenery of sky, mountains, and water, the poet feels as if he has become smaller, and his homesickness and love for the country becomes even more intense and profound. Yet without anyone, unable to find anyone to share and confide in, I have to tell myself, "Only I know, I alone know" (Nguyen Du - Tale of Kieu). Here again another contradiction appears. The vast landscape of sky, mountains, and water contrasts with a small and narrow piece of love. The larger and more majestic the scene, the heavier and more closed the private love. The phrase me and I reveals the author's almost absolute loneliness. But this is not negative loneliness or sadness, but the pain and passion of female artist Thanh Quan for her country and her family, worthy of sympathy and respect.
Hướng dẫn Trong đội ngũ những nhà thơ nữ của thời kì văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được coi là nhà thơ tài hoa và độc đáo nhất. Tuy cuộc đời gặp nhiều éo le ngang trái, nhưng tác phẩm thơ ca của bà vẫn thấm đẫm tình thương con người, ngời sáng niềm tin yêu và trân trọng đối với con người, trước hết là đối với người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho đời trên dưới 50 bài thơ Đường luật bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, nổi tiếng nhất là những bài thơ Nôm. Do đó, bà được tôn xưng là Bà Chúa Thơ Nôm. Một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của Hồ Xuân Hương là bài Bánh trôi nước. Đây là một tác phẩm biểu cảm đa nghĩa, vừa đậm đà tính dân tộc vừa tập trung nét tiêu biểu của hồn thơ Hồ Xuân Hương. Tên bài thơ Bánh trôi nước, ta hiểu nhà thơ viết về cái bánh trôi – một đặc sản của dân tộc ta mà những người dân bình thường Việt Nam từ thành thị đến nông thôn ai cũng biết. Điều thú vị là tác giả không đứng ngoài quan sát rồi miêu tả mà hoá thân, nhập hồn vào bánh trôi để cất tiếng tự miêu tả mình, tự giãi bày tâm sự của mình. Nói khác đi, Hồ Xuân Hương đã nhân hoá cái bánh trôi, để cho chiếc bánh trò chuyện, giao tiếp với người đọc: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mù em vẫn giữ tấm lòng son. Tuy bài thơ thuộc thể Đường luật thất ngôn tứ tuyệt, nhung trừ một từ ghép “nước non” là từ Hán Việt, còn lại tất cả từ ngữ trong bài thơ đều thuần Việt, nôm na, giản dị mà rất trong sáng, đẹp đẽ. Thêm nữa, trong bài thơ mở đầu bằng hai tiếng Thân em, dùng thành ngữ “bảy nổi ba chìm…” và cụm từ “tấm lòng son” rất gần với cách nói của nhân dân trong văn học dân gian. Như vậy, từ đề tài đến ngôn ngữ, giọng điệu, bài thơ Bánh trôi nước đậm đà bản sắc dân tộc, rất đáng quý. Đáng quý hơn nữa là ở tính đa nghĩa, giàu cảm xúc của bài thơ. Nghĩa thứ nhất, còn gọi là nghĩa tả thực, nghĩa nổi: qua lời tâm sự của “bánh trôi”, người đọc thấy hiển hiện hình ảnh và quá trình hình thành của chiếc bánh. Bánh trôi mang màu trắng của bột nếp, có hình tròn xinh xẻo. Nếu người làm bánh nhào bột nhiều nước quá thì bánh “nát” (nhão), ít nước quá thì “rắn” (cứng). Khi cho vào nước nguội, bánh chìm, lúc nước sôi, chín tới, sẽ nổi lên. Dù bánh rắn, hay nát, tròn hay méo thế nào, cái nhân đường bên trong vẫn ngọt ngào, tươi đỏ, chiếc bánh vẫn đem lại cho mọi người niềm vui, miếng ngon trong ngày lễ, ngày hội,… Hồ Xuân Hương quả là một người biết miêu tả sự vật. Qua ngôn ngữ thơ của bà, hình ảnh chiếc bánh trôi hiện ra thật đáng yêu. Chiếc bánh đáng yêu vì bản thân nó đẹp xinh, ngon ngọt mà còn đáng yêu hơn nữa ở cách nói, điệu nói của bánh trôi: Thân em…, mù em… sao duyên dáng, khiêm nhường và tình cảm đến thế. Nghe lời tâm sự của bánh trôi, chúng ta ngỡ đây không phải vật vô tri mà là một sinh thể có trí tuệ và tâm hồn. Chiếc bánh trôi có linh hồn, hay chính Hồ Xuân Hương đã thổi hồn vào hình ảnh, ngôn ngữ của thơ? Do đó, người đọc hiểu ngay rằng ẩn sạu lời chiếc bánh trôi là lời tâm sự, những nỗi niềm da diết của con người. Nghĩa thứ hai của bài thơ rõ ràng là nói về nhan sắc, thân phận và phẩm chất của con người, những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Hai câu thơ đầu vừa tả nhan sắc, vừa kể về thân phận con người. Nhân vật trữ tình dùng đại từ “em” để xưng hô: “Thân em”, gần gũi với cách nói của biết bao bài ca dao – dân ca quen thuộc, nghe vừa dịu dàng, khiêm tốn vừa có chút tội nghiệp đáng thương. Tiếp sau, cô gái, hay người phụ nữ tự giới thiệu mình “vừa trắng lại vừa tròn”. Nghệ thuật dùng từ thật khéo. Nghĩa tả thực đúng là vẻ đẹp của chiếc bánh trôi. Nhưng nghĩa ẩn dụ thì đây chính là nhan sắc, phẩm hạnh người phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam đẹp quá, da dẻ trắng trẻo, thân hình tròn lẳn, phúc hậu. Phẩm hạnh cũng nhân hậu, ứng xử trước sau trọn vẹn, thuỷ chung. Với từ “tròn” ý nghĩa của thơ trở nên lấp lánh, tỏ mờ khiến người đọc không thể suy nghĩ vội vàng. Ai đó hiểu giản đơn rằng: câu thơ tả hình ảnh người phụ nữ vừa trắng trẻo vừa tròn trịa… thì thật nực cười. Đọc thơ, nhất là thơ trữ tình, ta không chỉ dừng lại ở nghĩa tả thực mà phải tưởng tượng, suy ngẫm rộng và sâu để hiểu hết, hiểu đúng ý nghĩa ẩn dụ, hiểu đúng, tinh thần của ngôn ngữ và cảm xúc của tác giả. Giới thiệu về người phụ nữ như cách nói ờ câu thơ thứ nhất, Hồ Xuân Hương không chỉ ca ngợi nhan sắc, vẻ đẹp bên ngoài mà còn trân trọng cả tâm hồn, đức hạnh bên trong, cách nói năng ứng xử khiêm nhường duyên dáng của chị em. Tiếp sau, đến câu thơ thứ hai, giọng thơ có chút chùng xuống để kể về thân phận chị em: “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Thành ngữ dân gian ta có câu: “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” dùng để tóm tắt cuộc đời con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội xưa. Hồ Xuân Hương đã sử dụng thành ngữ một cách sáng tạo trong thơ của mình, nêu rõ cuộc đời long đong, vất vả của con người. Cụm từ với nước non nhấn mạnh thêm cuộc đời long đong, chìm nổi, vất vả ấy. Giới từ “với” đi liền cùng hình ảnh “nước non” cho ta hiểu số phận, cuộc đời người phụ nữ bấp bênh, chìm nổi, xuống ghềnh, lên thác vì chồng, vì con và vì cả mọi người, cả non sông, đất nước. Một cuộc đời xả thân, vị tha như thế cao cả biết bao nhiêu, đáng cảm thương và đáng trân trọng biết bao nhiêu. Đến hai câu thơ cuối, thân phận của người phụ nữ càng được nhấn mạnh thêm, phẩm hạnh, bản chất, đạo đức của chị em càng được đề cập hơn: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mù em vẫn giữ tấm lòng son. Nếu câu thứ hai, nhà thơ cùng chị em than thở về số phận chìm nổi, long đong thì đến câu ba, lại bổ sung thêm một cấp độ tệ hại hơn nữa của số phận là: sự phụ thuộc. Câu thơ “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” đã hình tượng hoá cuộc đời không được làm chủ, không được tự quyết định tương lai hạnh phúc của người phụ nữ xưa… Hai từ “rắn, nát…” đọc lên nghe thật tội nghiệp, thân phận con người ngỡ như một vật dụng nhỏ nhoi, tầm thường nhất. Nhưng bản lĩnh của con người, nhất là phụ nữ Việt Nam, trong đó có nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì luôn luôn vượt trên cảnh ngộ. Do đó, hai câu thơ cuối có cấu trúc liền mạch theo kiểu câu ghép kết nối nhau bằng liên từ ghép “Mặc dầu… mà”, tạo nên hai nghĩa đối lập rất ấn tượng. Ta có thể diễn xuôi cặp câu đó thế này được chăng: Mặc dầu cuộc đời em rắn nát, phụ thuộc tay kẻ nặn, nhưng em vân giữ vững tấm lòng son sắt, thuỷ chung… Rõ ràng, những người phụ nữ Việt Nam đã vượt lên trên, đã thách thức và chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận, để giữ vũng phẩm chất, đạo đức, tấm lòng nhân hậu, tròn đầy, chung thuỷ với cuộc đời, với con người. Hình ảnh tấm lòng son ở cuối bài thơ ánh lên vẻ đẹp của bản lĩnh lam người, thắm đỏ tình người, sẽ sáng mãi trong tâm hồn bạn đọc chúng ta.
Hướng dẫn Trong đội ngũ những nhà thơ nữ của thời kì văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được coi là nhà thơ tài hoa và độc đáo nhất. Tuy cuộc đời gặp nhiều éo le ngang trái, nhưng tác phẩm thơ ca của bà vẫn thấm đẫm tình thương con người, ngời sáng niềm tin yêu và trân trọng đối với con người, trước hết là đối với người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho đời trên dưới 50 bài thơ Đường luật bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, nổi tiếng nhất là những bài thơ Nôm. Do đó, bà được tôn xưng là Bà Chúa Thơ Nôm. Một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của Hồ Xuân Hương là bài Bánh trôi nước. Đây là một tác phẩm biểu cảm đa nghĩa, vừa đậm đà tính dân tộc vừa tập trung nét tiêu biểu của hồn thơ Hồ Xuân Hương. Tên bài thơ Bánh trôi nước, ta hiểu nhà thơ viết về cái bánh trôi – một đặc sản của dân tộc ta mà những người dân bình thường Việt Nam từ thành thị đến nông thôn ai cũng biết. Điều thú vị là tác giả không đứng ngoài quan sát rồi miêu tả mà hoá thân, nhập hồn vào bánh trôi để cất tiếng tự miêu tả mình, tự giãi bày tâm sự của mình. Nói khác đi, Hồ Xuân Hương đã nhân hoá cái bánh trôi, để cho chiếc bánh trò chuyện, giao tiếp với người đọc: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mù em vẫn giữ tấm lòng son. Tuy bài thơ thuộc thể Đường luật thất ngôn tứ tuyệt, nhung trừ một từ ghép “nước non” là từ Hán Việt, còn lại tất cả từ ngữ trong bài thơ đều thuần Việt, nôm na, giản dị mà rất trong sáng, đẹp đẽ. Thêm nữa, trong bài thơ mở đầu bằng hai tiếng Thân em, dùng thành ngữ “bảy nổi ba chìm…” và cụm từ “tấm lòng son” rất gần với cách nói của nhân dân trong văn học dân gian. Như vậy, từ đề tài đến ngôn ngữ, giọng điệu, bài thơ Bánh trôi nước đậm đà bản sắc dân tộc, rất đáng quý. Đáng quý hơn nữa là ở tính đa nghĩa, giàu cảm xúc của bài thơ. Nghĩa thứ nhất, còn gọi là nghĩa tả thực, nghĩa nổi: qua lời tâm sự của “bánh trôi”, người đọc thấy hiển hiện hình ảnh và quá trình hình thành của chiếc bánh. Bánh trôi mang màu trắng của bột nếp, có hình tròn xinh xẻo. Nếu người làm bánh nhào bột nhiều nước quá thì bánh “nát” (nhão), ít nước quá thì “rắn” (cứng). Khi cho vào nước nguội, bánh chìm, lúc nước sôi, chín tới, sẽ nổi lên. Dù bánh rắn, hay nát, tròn hay méo thế nào, cái nhân đường bên trong vẫn ngọt ngào, tươi đỏ, chiếc bánh vẫn đem lại cho mọi người niềm vui, miếng ngon trong ngày lễ, ngày hội,… Hồ Xuân Hương quả là một người biết miêu tả sự vật. Qua ngôn ngữ thơ của bà, hình ảnh chiếc bánh trôi hiện ra thật đáng yêu. Chiếc bánh đáng yêu vì bản thân nó đẹp xinh, ngon ngọt mà còn đáng yêu hơn nữa ở cách nói, điệu nói của bánh trôi: Thân em…, mù em… sao duyên dáng, khiêm nhường và tình cảm đến thế. Nghe lời tâm sự của bánh trôi, chúng ta ngỡ đây không phải vật vô tri mà là một sinh thể có trí tuệ và tâm hồn. Chiếc bánh trôi có linh hồn, hay chính Hồ Xuân Hương đã thổi hồn vào hình ảnh, ngôn ngữ của thơ? Do đó, người đọc hiểu ngay rằng ẩn sạu lời chiếc bánh trôi là lời tâm sự, những nỗi niềm da diết của con người. Nghĩa thứ hai của bài thơ rõ ràng là nói về nhan sắc, thân phận và phẩm chất của con người, những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Hai câu thơ đầu vừa tả nhan sắc, vừa kể về thân phận con người. Nhân vật trữ tình dùng đại từ “em” để xưng hô: “Thân em”, gần gũi với cách nói của biết bao bài ca dao – dân ca quen thuộc, nghe vừa dịu dàng, khiêm tốn vừa có chút tội nghiệp đáng thương. Tiếp sau, cô gái, hay người phụ nữ tự giới thiệu mình “vừa trắng lại vừa tròn”. Nghệ thuật dùng từ thật khéo. Nghĩa tả thực đúng là vẻ đẹp của chiếc bánh trôi. Nhưng nghĩa ẩn dụ thì đây chính là nhan sắc, phẩm hạnh người phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam đẹp quá, da dẻ trắng trẻo, thân hình tròn lẳn, phúc hậu. Phẩm hạnh cũng nhân hậu, ứng xử trước sau trọn vẹn, thuỷ chung. Với từ “tròn” ý nghĩa của thơ trở nên lấp lánh, tỏ mờ khiến người đọc không thể suy nghĩ vội vàng. Ai đó hiểu giản đơn rằng: câu thơ tả hình ảnh người phụ nữ vừa trắng trẻo vừa tròn trịa… thì thật nực cười. Đọc thơ, nhất là thơ trữ tình, ta không chỉ dừng lại ở nghĩa tả thực mà phải tưởng tượng, suy ngẫm rộng và sâu để hiểu hết, hiểu đúng ý nghĩa ẩn dụ, hiểu đúng, tinh thần của ngôn ngữ và cảm xúc của tác giả. Giới thiệu về người phụ nữ như cách nói ờ câu thơ thứ nhất, Hồ Xuân Hương không chỉ ca ngợi nhan sắc, vẻ đẹp bên ngoài mà còn trân trọng cả tâm hồn, đức hạnh bên trong, cách nói năng ứng xử khiêm nhường duyên dáng của chị em. Tiếp sau, đến câu thơ thứ hai, giọng thơ có chút chùng xuống để kể về thân phận chị em: “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Thành ngữ dân gian ta có câu: “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” dùng để tóm tắt cuộc đời con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội xưa. Hồ Xuân Hương đã sử dụng thành ngữ một cách sáng tạo trong thơ của mình, nêu rõ cuộc đời long đong, vất vả của con người. Cụm từ với nước non nhấn mạnh thêm cuộc đời long đong, chìm nổi, vất vả ấy. Giới từ “với” đi liền cùng hình ảnh “nước non” cho ta hiểu số phận, cuộc đời người phụ nữ bấp bênh, chìm nổi, xuống ghềnh, lên thác vì chồng, vì con và vì cả mọi người, cả non sông, đất nước. Một cuộc đời xả thân, vị tha như thế cao cả biết bao nhiêu, đáng cảm thương và đáng trân trọng biết bao nhiêu. Đến hai câu thơ cuối, thân phận của người phụ nữ càng được nhấn mạnh thêm, phẩm hạnh, bản chất, đạo đức của chị em càng được đề cập hơn: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mù em vẫn giữ tấm lòng son. Nếu câu thứ hai, nhà thơ cùng chị em than thở về số phận chìm nổi, long đong thì đến câu ba, lại bổ sung thêm một cấp độ tệ hại hơn nữa của số phận là: sự phụ thuộc. Câu thơ “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” đã hình tượng hoá cuộc đời không được làm chủ, không được tự quyết định tương lai hạnh phúc của người phụ nữ xưa… Hai từ “rắn, nát…” đọc lên nghe thật tội nghiệp, thân phận con người ngỡ như một vật dụng nhỏ nhoi, tầm thường nhất. Nhưng bản lĩnh của con người, nhất là phụ nữ Việt Nam, trong đó có nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì luôn luôn vượt trên cảnh ngộ. Do đó, hai câu thơ cuối có cấu trúc liền mạch theo kiểu câu ghép kết nối nhau bằng liên từ ghép “Mặc dầu… mà”, tạo nên hai nghĩa đối lập rất ấn tượng. Ta có thể diễn xuôi cặp câu đó thế này được chăng: Mặc dầu cuộc đời em rắn nát, phụ thuộc tay kẻ nặn, nhưng em vân giữ vững tấm lòng son sắt, thuỷ chung… Rõ ràng, những người phụ nữ Việt Nam đã vượt lên trên, đã thách thức và chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận, để giữ vũng phẩm chất, đạo đức, tấm lòng nhân hậu, tròn đầy, chung thuỷ với cuộc đời, với con người. Hình ảnh tấm lòng son ở cuối bài thơ ánh lên vẻ đẹp của bản lĩnh lam người, thắm đỏ tình người, sẽ sáng mãi trong tâm hồn bạn đọc chúng ta.
Hướng dẫn Trong cuộc đời con người, khi phải chia tay tiễn biệt – người thân, hoặc bạn bè – ai mà chẳng buồn rầu. Trong các cuộc chia tay, đưa tiễn, có lẽ cuộc tiễn đưa người thân ra trận để lại trong lòng người nhiều nỗi buồn lo nhất. Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc đã ghi lại cuộc chia tay như thế và hơn thế là: người chồng ấy ra đi không phải vì dân vì nước mà vì quyền lợi của giai cấp thống trị, ra đi để đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân ở nửa đầu thế kỉ XVIII trong xã hội phong kiến Việt Nam. Do đó, khi tiễn chồng ra đi, người vợ đã vô cùng buồn lo, sầu muộn. Đoạn trích Chinh phụ ngâm khúc mà chúng ta được đọc trong sách Ngữ văn 7, tập một chính là một cuộc chia li ngập tràn nỗi buồn lo sầu muộn đó: Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp thì về buồng cũ chiểu chăn … Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Điều đầu tiên ta cần lưu ý là: Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc do ông Đặng Trần Côn sáng tác (khoảng năm 1741 – 1742) bằng chữ Hán, theo thể thơ tự do cổ điển. Sau đó, tác phẩm được một nữ sĩ cùng thời là bà Đoàn Thị Điểm dịch sang tiếng Việt (viết bằng chữ Nôm), theo thể thơ song thất lục bát. Song thất lục bát là thể thơ do chính người Việt Nam chúng ta sáng tạo ra. So với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú và lục bát, thơ song thất lục bát có nhạc tính phong phú hơn. GS. Phan Ngọc từng nhận xét: “Cần phải có hình thức ấy, tình cảm mới có thể mang hình thức một đợt sóng đi lên với hai câu thất, dừng lại ở câu lục ngắn gọn để toả ra trong câu bát dài nhất rồi lại vươn lên trong một khổ mới, cứ thế, đợt sóng tình cảm lên xuống ăn khớp với hình thức của ngôn ngữ”. Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc là một bài thơ song thất lục bát, dài tới 408 câu đã thể hiện muôn vàn đợt sóng tình cảm của người chinh phụ – người vợ có chồng ra trận. Đoạn thơ trích nói trên tập trung thể hiện tình cảm hai vợ chồng trong những ngày đầu chia li. Đoạn thơ gồm ba khổ song thất lục bát, mười hai câu thơ, mỗi khổ ghi lại một cung bậc tình cảm. Khổ thơ thứ nhất: Chàng thì đi cõi xa mưa gió Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn Đoái trông theo đã cách ngăn Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. ghi cảm xúc phút đầu chia li. Tác giả dùng nghệ thuật đối lập: Chàng thì đi… thiếp thì về, miêu tả thật chính xác cảnh hai vợ chồng, hai phương trời đối nghịch mỗi lúc một cách xa nhau. Chồng đi vào cõi xa mưa gió biết bao gian khổ. Còn vợ thì buồng cũ chiếu chăn, sống cảnh đơn độc, vò võ, mòn mỏi với những đồ vật cũ kĩ, tàn tạ. Sự ngăn cách đã là sự thật khắc nghiệt. Nỗi sầu chia li nặng nề tưởng như phủ lên màu biếc của trời mây, trải vào màu xanh của núi ngàn. Các động từ “tuôn”, “trải” kết hợp hình ảnh mây biếc, núi xanh gợi lên cái mênh mang, nét vần vũ, quằn quại của thiên nhiên vũ trụ khiến nỗi buồn chia li thêm da diết, rộng lớn tưởng đến không cùng. Nỗi buồn chia li tăng dần, trở thành nỗi sầu muộn dâng lên tràn ngập cả cõi lòng kẻ ở người đi. Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Những địa danh Hàm Dương, Tiêu Tương không phải dùng-để tả thực mà chỉ mang ý nghĩa tượng trưng cho hai vị trí xa cách của đôi vợ chồng. Ớ khổ thơ thứ hai này, cũng vẫn bằng cách nói tương phản “Chàng còn ngảnh lại… Thiếp hãy trông sang” phối hợp cách điệp từ và đảo vị trí của hai địa danh “Chốn Hàm Dương – Bến Tiêu Tương, Bến Tiêu Tương – Cây Hàm Dương”, tác giả muốn chia đều cảm xúc của hai người, nhấn mạnh nỗi sầu xa cách. Tình cảm buồn thương, nhung nhớ cứ tăng dần, tăng dần. Điều đó cho thấy sự chia li ở đây là chia li về cuộc sống và thể xác, còn trong tình cảm, tâm hồn hai vợ chồng ấy vẫn gắn bó thiết tha. Họ vẫn hướng về nhau, dõi theo, để tìm nhau, nhìn thấy nhau. Nhung càng hướng về nhau thì không gian, thời gian càng đẩy họ xa nhau. Ở đoạn trên chỉ là “cách ngăn” đến đây sự cách ngăn thành “cách mấy trùng”. Do đó, lời thơ không chỉ biểu hiện nỗi sầu chia li mà còn nhấn mạnh sự oái oăm, nghịch chướng: gắn bó mà phải chia xa, càng dõi nhìn nhau, càng không thấy nhau… Đến khổ thơ thứ ba thì nỗi sầu chia li, cảnh nghịch chướng càng tăng thêm nữa: Cùng trông lại mù cùng chang thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Ở đoạn này, nghệ thuật đối nghịch được bổ sung bằng những điệp từ, điệp ngữ rất ấn tượng: cùng, thấy, xanh xanh, xanh ngắt, ngàn dâu,… Ớ trên, ít ra còn có tên hai địa danh Hàm Dương và Tiêu Tương gợi một ý niệm về địa điểm cụ thể, về vị trí hai người để có thể hướng tới nhau. Đến đây, mọi địa điểm, vị trí bị xoá mờ, hai hình hài chàng và thiếp cũng bị xoá mờ. Chỉ còn lại ngàn dâu, rất nhiều ngàn dâu nối nhau “xanh xanh” rồi “xanh ngắt” mênh mông khắp trời. Choán tất cả vũ trụ là màu xanh, xanh đến rợn ngợp, xanh não nề, nhức buốt tận đáy lòng. Từ ghép “xanh ngắt” với thanh “sắc” ở tiếng “ngắt” như mũi kim chích vào da thịt vậy. Tất cả, mười một câu thơ ở trên tập trung tả cảnh, tả cử chỉ của đôi vợ chồng, từ đó biểu hiện tâm tư, tình cảm. Đó là kiểu văn biểu cảm, mượn cảnh để biểu lộ tâm hồn. Qua cảnh vật và sự việc, người đọc thấm thìa cảm xúc của nhân vật và của tác giả. Nhân vật trong đoạn thơ này là hai vợ chồng người lính trận, chủ yếu là nhân vật chinh phụ, người chồng ra trận. Họ chia li về hình hài thể xác, nhưng tình thương và nỗi nhớ, sự gắn bó thì không chia li, rời cắt. Họ cố dõi theo nhau, tìm nhau để mãi mãi thấy nhau. Vậy mà càng cố gắng, họ càng tuyệt vọng. Do đó, đến câu thơ cuối cùng, một tiếng kêu đã cất lên: Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Không dùng cách tả cảnh ngụ tình nữa, nhà thơ trực tiếp nói lên tiếng lòng của nhân vật và tiếng cảm thương của chính mình. Từ “sầu” trong câu thơ cuối này như đúc kết lại tất cả nhũng cung bậc tình cảm ở mười một câu thơ trên, Nỗi buồn li biệt đã nhân lên, dàng trào, trở thành một khối sầu thương, trĩu nặng trong tâm hồn người chinh phụ.
Instruct In human life, when we have to say goodbye - to relatives or friends - everyone is sad. Among farewells and farewells, perhaps sending off loved ones to war leaves people with the most sadness and worry. The work Chinh Phu Ngu Khuc recorded such a farewell and more: that the husband left not for the people or the country but for the interests of the ruling class, left to suppress the uprisings of the people. farmers in the first half of the 18th century in Vietnamese feudal society. Therefore, when she saw her husband leave, the wife was extremely sad and worried. The excerpt from Chinh Phu's recitation that we read in Literature book 7, volume one is a farewell filled with sadness and anxiety: He went to a far away place in the rain and wind I went back to my old room to spread the blanket … Thousands of green strawberries are one color Whose heart is sadder than the other? The first thing we need to note is: The work Chinh Phu Ngam Khuc was composed by Mr. Dang Tran Con (around 1741 - 1742) in Chinese characters, following the classic free verse form. After that, the work was translated into Vietnamese (written in Nom) by a female artist of the same time, Ms. Doan Thi Diem, in the song-that-six-eight poetic form. Song That Luc Bat is a form of poetry created by Vietnamese people. Compared to the seven-word, four-parameter, seven-word, eight-point, and six-eight verses, the seven-sixteen parallel poetry has a richer musical quality. GS. Phan Ngoc once commented: "There needs to be that form, for emotions to take the form of an upward wave with two seven sentences, stopping at the short sixth sentence to radiate in the longest eight sentences and then reaching out again." rises in a new stanza, and so on, the emotional waves rise and fall in accordance with the form of the language. The work The Conqueror's Wife Soaks the Song is a poem in seventy-eight verses, up to 408 lines long, expressing countless emotional waves of the conquest's wife - the wife whose husband went to war. The poem quoted above focuses on expressing the love between husband and wife in the early days of separation. The poem consists of three stanzas, seven and eight, twelve verses, each stanza records an emotional level. First stanza: He went to a far away place in the rain and wind I went back to my old room to get blankets Looking forward to stopping Flowing with blue clouds, thousands of green mountains. Record your feelings at the first minute of separation. The author uses the art of contrast: The guy goes away... the concubine comes back, accurately depicting the scene of the couple, two opposing worlds that are always far away from each other. The husband went into a far away world filled with many hardships. As for his wife, she lives in an old room with blankets and blankets, living alone, exhausted, and tired of old, worn-out things. Separation was a harsh reality. The heavy sadness of separation seemed to cover the blue sky and clouds, spreading into the green of the mountains. The verbs "flow" and "spread" combined with the images of blue clouds and green mountains evoke the immensity, the rhythmic, writhing features of the nature of the universe, making the sadness of separation more intense and vast, seemingly immeasurable. together. The sadness of separation gradually increased, becoming a rising sadness that filled the hearts of the bereaved. In Ham Duong, he still retreats Ben Tieu Tuong, please look forward Tieu Tuong wharf is far from Ham Duong Ham Duong tree is a few miles away from Tieu Tuong. The place names Ham Duong and Tieu Tuong are not used to describe reality but only have a symbolic meaning for the two distant locations of the couple. In this second stanza, also by contrasting "You're still turning away... I'll look over" combining alliteration and reversing the position of the two place names "Ham Duong Place - Ben Tieu Tuong, Ben Tieu Tuong – Ham Duong Tree", the author wants to divide the feelings of two people equally, emphasizing the sadness of separation. The feelings of sadness and longing keep increasing gradually. This shows that the separation here is a separation in life and body, but in love, the souls of the couple are still passionately attached. They still look towards each other, follow each other, to find each other, to see each other. The more they move towards each other, the more space and time push them apart. In the above paragraph, it's just "how to separate" and here the separation becomes "how many times". Therefore, the poem not only expresses the sadness of separation but also emphasizes the irony and adversity: being together but having to separate, the more we look at each other, the less we see each other... In the third stanza, the sadness of separation and adversity increases even more: Seeing but being blind and not seeing Seeing thousands of strawberries green and green Thousands of green strawberries are one color Whose heart is sadder than the other? In this paragraph, the art of opposition is supplemented by very impressive alliteration and repetition: same, see, green, blue, thousands of strawberries,... Above, at least there are the names of two places Ham Duong and Tieu Tuong suggests an idea of ​​a specific location, of the position where two people can move towards each other. At this point, all places and positions were erased, and the two figures of him and his concubine were also erased. There are only thousands of strawberries left, many thousands of strawberries, "green" and "green" one after another, vast across the sky. Filling the entire universe is blue, overwhelmingly blue, painfully blue, aching to the bottom of my heart. The compound word "green" with the tone "sharp" in the sound "cut" is like a needle pricking the skin. In all, the eleven verses above focus on describing the scene and gestures of the couple, thereby expressing their thoughts and feelings. It is an expressive writing style, borrowing scenes to express the soul. Through scenes and events, readers absorb the emotions of the characters and the author. The characters in this poem are a soldier and his wife, mainly the conquering character, the husband who goes to war. They are physically separated, but their love, nostalgia, and attachment are not separated or separated. They try to follow each other, find each other to see each other forever. Yet the more they tried, the more desperate they became. Therefore, in the last verse, a cry was raised: Whose heart is sadder than the other? No longer using the description of a love scene, the poet directly speaks the character's heart and his own compassion. The word "sadness" in this last verse seems to summarize all the emotional levels in the eleven verses above. The sadness of separation has multiplied, easily overflowed, becoming a mass of sadness, weighing heavily on the soul. conqueror.
Hướng dẫn Trong thời kì văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người,… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của vua Trần Nhân Tông, Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế. Qua hai bức tranh cảnh vật và con. người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng. Bài thứ nhất: Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra). Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục đồng địch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền. Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác cố dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Tương truyền: sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hoà, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có đường không Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhoà, mờ tỏ, bán vô bán hữu nửa như có, nửa như không. Khói toả từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là nhũng làn sương chiều lãng đãng hoà quyện với những vầng khói thổi cơm từ nhũng mái nhà lan toả thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng, thanh thản, khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người như cũng lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hoà hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động: Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muốn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người, vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hoà nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật. Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hoà với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà súng tác những vần thơ gợi hình gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã. Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông bộc lộ một tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điểu đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần. Bài thứ hai: Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi. Nguyên tác bài thơ này bằng chữ Hán viết theo thể thơ khác và khá dài. Ở đây, chúng ta được đọc một đoạn dịch theo thể thơ lục bát mang vóc dáng thơ ca dân tộc: Côn Sơn suối chảy rì rầm… … Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Về Nguyễn Trãi, chúng ta biết rằng: ông là người có công lớn trong việc phụ tá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thế kỉ XV. Nhưng khi hoà bình trở lại, đất nước đi vào công cuộc xây dựng và phát triển thì ông bị ghen ghét, nghi ngờ bởi những kẻ xấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan về ở ẩn. Sau đó, ông lại bị chết thảm thương trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thế giới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hoá. Bài thơ Côn Sơn ca có thể được ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉ niệm từ thuở ấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thuỷ hữu tình. Đây là đất được phong của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻ sống ở đây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi về với Côn Sơn như về với nơi chôn nhau, cắt rốn, về với bạn bè tri kỉ tri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vị danh nhân văn hoá bằng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài Côn Sơn ca là tiếng nói cất lên từ trái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi. Trước hết, chúng ta cần hiểu đại từ “ta” trong đoạn thơ là để chỉ ai? “Ta” chính là Nguyễn Trãi. Trong đoạn thơ tám dòng lục bát mà xuất hiện năm lần đại từ “ta”. “Ta” hiện ra liền mạch, nối tiếp trong những dòng thơ tám âm tiết, riêng dòng thứ sáu “ta” điệp hai lần liền: “ta lên ta nằm”. Nếu để ý sẽ thấy kết cấu đoạn thơ khá chặt chẽ. Câu sáu tả cảnh, câu tám xuất hiện “ta” với những hành động cụ thể mang ý nghĩa tác giả tự hoạ chân dung mình. Điều đó gợi cảm giác gi.ữa thiên nhiên cây rừng, đá núi, suối reo của Côn Sơn, hình ảnh Nguyễn Trãi thấp thoáng, đan cài, vấn vít, hoà quyện không phút nào rời xa. Con người và thiên nhiên như muốn nhập làm một, tạo thành sự sống của toàn cảnh Côn Sơn. Sống giữa Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm, suy ngẫm và làm những việc gì? Đoạn thơ chia làm hai đoạn nhỏ thể hiện hai khía cạnh nội dung. Ta hãy đọc bốn dòng thơ đầu: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trẽn đá như ngồi chiếu êm. Nghe tiếng suối rì rầm, nhà thơ mường tượng ra tiếng đàn khi trầm, khi bổng, réo rắt bên tai. Nhìn thấy mặt đá phẳng có rêu phơi, nhà thơ ngồi trên đá mà ngỡ như đang “ngồi chiếu êm”. Tri tưởng tượng và nghệ thuật so sánh của Nguyễn Trãi thật lãng mạn, thật tài hoa. Tạo vật thiên nhiên bỗng hoá thành những vật dụng của con người, gần gũi, thân thương với con người. Đôi tai nhạy cảm của thi sĩ đã thổi hồn vào tiếng suối, khiến cho nó vốn đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, cuốn hút. Xúc giác tinh tế của nhà thơ đã hoá thân cho mặt đá vốn khô rắn thành mặt chiếu dịu êm. Những biến đổi ấy kì diệu làm sao! Nguyễn Trãi đã thưởng thức những nét đẹp ấy ở Côn Sơn một cách say mê, hào hứng. Đến bốn dòng thơ sau, niềm say mê hào hứng ấy tiếp tục được đẩy lên cao hơn: Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Câu năm và câu sáu tiếp tục nghệ thuật so sánh tài hoa và một cử chỉ thanh thản tuyệt vời. Đọc thơ, ta ngỡ Nguyễn Trãi đang nằm giữa một rừng thông xanh ngắt, mát rợp, thả hồn trong sắc màu của cỏ cây, đắm chìm trong bóng râm, gió thoảng, ngủ một giấc ngon lành, để quên hết sự đời, rũ bỏ mọi vướng bận, để hoá thân vào hư vô, vũ trụ. Nhưng đến hai câu cuối thì bất ngờ thay, Nguyễn Trãi không ngủ, trái lại ông đã cất tiếng ngâm thơ, nhũng bài “thơ nhàn”. Nếu có điều kiện đọc tiếp những dòng thơ sau đoạn này, ta sẽ thấy nhũng bài “thơ nhàn” của Nguyễn Trãi không phải nói về thú vui nhàn tản vô vị như nhiều nhà nho bế tắc thời trung đại mà là những suy nghĩ, nhũng quan niệm sâu sắc mang tính triết lí thời đại, triết lí nhân sinh tiến bộ. Tóm lại, đoạn thơ tám dòng của Bài ca Côn Sơn cho ta thấy một sự giao hoà tuyệt đối giữa Nguyễn Trãi với cảnh vật Côn Sơn. Sự giao hoà đó vừa nói lên nhân cách thanh cao, vừa nói lên phẩm chất thi sĩ lớn lao của Nguyễn Trãi vì tất cả là dựa trên một triết lí sâu xa: con người và thiên nhiên là một, muốn sống thanh thản, con người hãy đến với thiên nhiên, tìm ở thiên nhiên những vẻ đẹp, những biến đổi kì diệu để có cách ứng xử đúng nhất…
Hướng dẫn Trong thời kì văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người,… thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Hai bài thơ Thiên Trường vãn vọng của vua Trần Nhân Tông, Côn Sơn ca của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế. Qua hai bức tranh cảnh vật và con. người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên – hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng. Bài thứ nhất: Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra). Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên Mục đồng địch lí ngưu quy tận Bạch lộ song song phi hạ điền. Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác cố dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Tương truyền: sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hoà, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có đường không Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhoà, mờ tỏ, bán vô bán hữu nửa như có, nửa như không. Khói toả từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là nhũng làn sương chiều lãng đãng hoà quyện với những vầng khói thổi cơm từ nhũng mái nhà lan toả thành một màn sương – khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng, thanh thản, khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người như cũng lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hoà hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động: Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muốn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người, vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc…, tất cả đã hoà nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật. Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hoà với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà súng tác những vần thơ gợi hình gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã. Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông bộc lộ một tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điểu đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần. Bài thứ hai: Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi. Nguyên tác bài thơ này bằng chữ Hán viết theo thể thơ khác và khá dài. Ở đây, chúng ta được đọc một đoạn dịch theo thể thơ lục bát mang vóc dáng thơ ca dân tộc: Côn Sơn suối chảy rì rầm… … Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Về Nguyễn Trãi, chúng ta biết rằng: ông là người có công lớn trong việc phụ tá vua Lê Lợi cầm quân đánh thắng giặc Minh xâm lược thế kỉ XV. Nhưng khi hoà bình trở lại, đất nước đi vào công cuộc xây dựng và phát triển thì ông bị ghen ghét, nghi ngờ bởi những kẻ xấu xa. Đang làm quan, Nguyễn Trãi phải cáo quan về ở ẩn. Sau đó, ông lại bị chết thảm thương trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442. Với công lao to lớn và tài năng toàn diện, Nguyễn Trãi đã được nhân dân ta tôn vinh là anh hùng dân tộc và thế giới đã tặng ông danh hiệu Danh nhân văn hoá. Bài thơ Côn Sơn ca có thể được ra đời khi Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Với Nguyễn Trãi, Côn Sơn là vùng đất gắn bó bằng nhiều kỉ niệm từ thuở ấu thơ đến lúc tuổi già. Nơi đây có núi non hùng vĩ, cây cối tốt tươi, sơn thuỷ hữu tình. Đây là đất được phong của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại Nguyễn Trãi. Cha Nguyễn Trãi từng đến dạy học nơi đây, rồi kết duyên với tiểu thư con gái quan tư đồ. Bản thân Nguyễn Trãi cũng đã nhiều năm tuổi trẻ sống ở đây. Khi cáo quan, Nguyễn Trãi về với Côn Sơn như về với nơi chôn nhau, cắt rốn, về với bạn bè tri kỉ tri âm. Mỗi hòn đá, gốc cây, ngọn suối, đất nước và mây trời Côn Sơn gắn bó với người anh hùng, vị danh nhân văn hoá bằng tình cảm máu thịt. Vì thế, bài Côn Sơn ca là tiếng nói cất lên từ trái tim sâu nặng, da diết của Nguyễn Trãi. Trước hết, chúng ta cần hiểu đại từ “ta” trong đoạn thơ là để chỉ ai? “Ta” chính là Nguyễn Trãi. Trong đoạn thơ tám dòng lục bát mà xuất hiện năm lần đại từ “ta”. “Ta” hiện ra liền mạch, nối tiếp trong những dòng thơ tám âm tiết, riêng dòng thứ sáu “ta” điệp hai lần liền: “ta lên ta nằm”. Nếu để ý sẽ thấy kết cấu đoạn thơ khá chặt chẽ. Câu sáu tả cảnh, câu tám xuất hiện “ta” với những hành động cụ thể mang ý nghĩa tác giả tự hoạ chân dung mình. Điều đó gợi cảm giác gi.ữa thiên nhiên cây rừng, đá núi, suối reo của Côn Sơn, hình ảnh Nguyễn Trãi thấp thoáng, đan cài, vấn vít, hoà quyện không phút nào rời xa. Con người và thiên nhiên như muốn nhập làm một, tạo thành sự sống của toàn cảnh Côn Sơn. Sống giữa Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã nhìn ngắm, suy ngẫm và làm những việc gì? Đoạn thơ chia làm hai đoạn nhỏ thể hiện hai khía cạnh nội dung. Ta hãy đọc bốn dòng thơ đầu: Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trẽn đá như ngồi chiếu êm. Nghe tiếng suối rì rầm, nhà thơ mường tượng ra tiếng đàn khi trầm, khi bổng, réo rắt bên tai. Nhìn thấy mặt đá phẳng có rêu phơi, nhà thơ ngồi trên đá mà ngỡ như đang “ngồi chiếu êm”. Tri tưởng tượng và nghệ thuật so sánh của Nguyễn Trãi thật lãng mạn, thật tài hoa. Tạo vật thiên nhiên bỗng hoá thành những vật dụng của con người, gần gũi, thân thương với con người. Đôi tai nhạy cảm của thi sĩ đã thổi hồn vào tiếng suối, khiến cho nó vốn đơn điệu trở thành cây đàn đa thanh, cuốn hút. Xúc giác tinh tế của nhà thơ đã hoá thân cho mặt đá vốn khô rắn thành mặt chiếu dịu êm. Những biến đổi ấy kì diệu làm sao! Nguyễn Trãi đã thưởng thức những nét đẹp ấy ở Côn Sơn một cách say mê, hào hứng. Đến bốn dòng thơ sau, niềm say mê hào hứng ấy tiếp tục được đẩy lên cao hơn: Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Câu năm và câu sáu tiếp tục nghệ thuật so sánh tài hoa và một cử chỉ thanh thản tuyệt vời. Đọc thơ, ta ngỡ Nguyễn Trãi đang nằm giữa một rừng thông xanh ngắt, mát rợp, thả hồn trong sắc màu của cỏ cây, đắm chìm trong bóng râm, gió thoảng, ngủ một giấc ngon lành, để quên hết sự đời, rũ bỏ mọi vướng bận, để hoá thân vào hư vô, vũ trụ. Nhưng đến hai câu cuối thì bất ngờ thay, Nguyễn Trãi không ngủ, trái lại ông đã cất tiếng ngâm thơ, nhũng bài “thơ nhàn”. Nếu có điều kiện đọc tiếp những dòng thơ sau đoạn này, ta sẽ thấy nhũng bài “thơ nhàn” của Nguyễn Trãi không phải nói về thú vui nhàn tản vô vị như nhiều nhà nho bế tắc thời trung đại mà là những suy nghĩ, nhũng quan niệm sâu sắc mang tính triết lí thời đại, triết lí nhân sinh tiến bộ. Tóm lại, đoạn thơ tám dòng của Bài ca Côn Sơn cho ta thấy một sự giao hoà tuyệt đối giữa Nguyễn Trãi với cảnh vật Côn Sơn. Sự giao hoà đó vừa nói lên nhân cách thanh cao, vừa nói lên phẩm chất thi sĩ lớn lao của Nguyễn Trãi vì tất cả là dựa trên một triết lí sâu xa: con người và thiên nhiên là một, muốn sống thanh thản, con người hãy đến với thiên nhiên, tìm ở thiên nhiên những vẻ đẹp, những biến đổi kì diệu để có cách ứng xử đúng nhất…
Hướng dẫn Trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên xâm lược đời Trần, Thượng tướng Trần Quang Khải đã lập được nhiều chiến công to lớn. Sau chiến thắng Hàm Tử, rồi chiến thắng Chương Dương năm 1285, trong ngày vui đất nước được giải phóng, Trần Quang Khải vinh dự đón nhà vua về kinh đô. Trên đường đi, ông đã hứng khởi sáng tác bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư. Bài thơ nguyên văn bằng chữ Hán, theo thể Đường luật ngũ ngôn tứ tuyệt, toàn bài bốn câu, mỗi câu năm tiếng tuyệt hay. Tuy tác phẩm thuộc loại biểu ý là chính, nhưng đằng sau những ý tưởng lớn lao vẫn dạt dào biết bao cảm xúc sâu lắng. Đây là khúc khải hoàn đầu tiên của dân tộc ta trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trước thời đại nhà Trần, dân tộc ta từng đã nhiều lần đánh tan bọn giặc ngoại xâm. Nhưng sau những chiến công ấy, chúng ta chưa được đọc, được nghe một tác phẩm văn chương nào viết về chiến thắng, hoan ca khúc khải hoàn. Do đó, bài thơ Phò giá về kinh của vị thượng tướng – thi sĩ không những có tính lịch sử mà còn có giá trị văn chương. Chúng ta hãy đọc nguyên tác bài thơ phiên âm chữ Hán: Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hổ Hàm Tử quan. Thúi bình tu trí lực, Vạn cổ thử giang san. Và đọc bản dịch thơ của Trẩn Trọng Kim: Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thúi bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu. Bố cục tác phẩm gồm hai phần khá mạch lạc. Hào khí chiến thắng được thể hiện ở hai câu đầu: Chương Dương cướp giáo qiặc, Hàm Tử bắt quân thù. Tìm hiểu lịch sử, biết rằng trong công cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên đời Trần, quân dân ta đã giành nhiều chiến thắng trong nhiều chiến dịch, nổi tiếng nhất là chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Nhưng Trần Quang Khải chỉ nói tới hai chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Tại sao? Phải chăng đây là hai chiến dịch tiêu biểu, có tính quyết định để giành thắng lợi cuối cùng? Phải chăng nhờ hai chiến thắng này, xa giá nhà vua và cả triều đình sau thời gian sơ tán, tạm lánh về nông thôn, được trở về kinh đô, vui lắm, phấn khởi lắm, đáng làm thơ, đáng ca hát lắm? Trong thực tế, chiến thắng Hàm Tử diễn ra trước (tháng 4 năm 1285), chiến thắng Chương Dương sau (tháng 6 năm 1285). Tại sao tác giả nêu Chương Dương trước, sau đó là Hàm Tử? Đây cũng là câu hỏi thú vị. Tìm hiểu lịch sử, ta biết rằng, ở chiến thắng trước – Hàm Tử – người chỉ huy là tướng Trần Nhật Duật, còn Trần Quang Khải chỉ tham gia hỗ trợ. Còn tại Chương Dương, Thượng tướng Trần Quang Khải thống lĩnh ba quân, trực tiếp chỉ huy và giành thắng lợi giòn giã, để rồi ngay sau đó đón nhà vua về kinh. Niềm vui chiến thắng, đi liền niềm vui được “phò giá” dồn dập nối tiếp nhau lay động trí tuệ và tâm hồn. Có lẽ vì thế trong phút ngẫu hứng, vị thượng tướng đã nhắc ngay tới Chương Dương, rồi mới hồi tưởng Hàm Tử. Trong cả hai chiến dịch Chương Dương và Hàm Tử, quân dân ta đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, khí thế trận mạc vô cùng sôi động, thành tích chiến đấu vô cùng phong phú,… Song, tác giả chỉ đúc lại trong hai câu thơ ngắn gọn, mười âm tiết, ở mỗi chiến thắng, cũng đúc lại bằng hai từ: “đoạt sáo” (cướp giáo), “cầm Hồ” (bắt quân Hồ). Cần chú ý câu thơ nguyên tác “đoạt sáo”. “Đoạt” nghĩa gốc là “lấy hẳn được về cho mình qua đấu tranh với người khác”. Như vậy, dùng từ “đoạt sáo”, nhà thơ vừa ghi chiến công vừa ngợi ca hành động chính nghĩa và dũng cảm của quân dân ta. Bản dịch dùng từ “cướp giáo” làm giảm phần nào vẻ đẹp của chiến thắng, ở Chương Dương, ta giành được gươm giáo, vũ khí quân giặc. Còn ở Hàm Tử, ta bắt được quân tướng của chúng. Mỗi chiến dịch một thành tích khác nhau, bổ sung cho nhau, thật hài hoà, toàn diện. Trong chiến trận, chắc có thương vong, quân giặc chắc bị ta tiêu diệt, giết chết, đuổi chạy khá nhiều. Nhưng lời thơ không nói tới cảnh máu chảy, đầu rơi, mà chỉ nhắc hai hành động “đoạt sáo”, “cầm Hồ”. Cách nói ấy nhẹ mà sâu, biểu hiện rõ mục đích chiến đấu của dân tộc ta không phải là chém giết mà là giành lại nền độc lập, bắt kẻ thù phải quy thuận, trả lại non sông, đất nước cho ta. Câu thơ dồn nén, biểu ý rắn khoẻ. Nhưng nhịp thơ, âm điệu vẫn toát ra niềm vui, niềm tự hào phơi phới. Đọc thơ, ta có cảm giác vị thượng tướng ấy đang ngẩng cao đầu, vừa đi giữa đoàn quân chiến thắng vừa sang sảng cất tiếng ngâm thơ. Tiếng ngâm lan truyền và được ba quân nối tiếp, trở thành khúc ca hào hùng vang động núi sông. Đúng là khúc khải hoàn ca. Xuống hai câu dưới, âm điệu thơ như lắng lại. Nhà thơ suy nghĩ về tương lai đất nước: Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu. Đây là lời tự nhủ của vị thượng tướng về ngày mai của đất nước, cũng là lời nhắn nhủ toàn thể quân dân ta bấy giờ. Tiếng nói, khát vọng, của một người đã trở thành ý nghĩ, quyết tâm của toàn dân tộc. Trần Quang Khải tự nhắc mình nêu cao trách nhiệm, cố gắng “tu trí lực”, tức là rèn luyện, tu dưỡng tài năng, sức lực. Đồng thời ông động viên quân dân “gắng sức, đồng lòng” phát huy thành quả chiến thắng để xây dựng đất nước thanh bình bền vững dài lâu. Câu thơ kết “Vạn cổ thử giang san” vừa chỉ ra cái đích đi tới của đất nước vừa bày tỏ lòng mong muốn, niềm khát khao mãnh liệt về một tương lai tươi sáng muôn đời của dân tộc. Nghĩa của thơ biểu ý, nhưng nhạc của thơ biểu cảm. Lời răn dạy hài hoà với niềm tin, niềm hi vọng. Ba năm sau khi bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư ra đời, vào tháng 4 năm 1288, trong buổi tế thần tại Chiêu Lăng (lăng vua Trần Thái Tông), đức vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng đọc hai câu thơ: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng) Phải chăng hai câu thơ trên của nhà vua đã đồng vọng với bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Thượng tướng Trần Quang Khải? Và phải chăng đấy cũng chính là hào khí của cả dân tộc ta thời đại nhà Trần, mà sau này người đời gọi là Hào khí Đông A? Hào khí Đông A nghĩa là thế nào? Đông A là chiết tự tên họ Trần, gồm hai chữ: chữ Đông ghép với chữ A trong Hán tự. Hào khí Đông A là lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, là khí thế, quyết tâm lớn lao của quân dân đời Trần trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước thanh bình, bền vững. Hào khí Đông A không chỉ là tư tưởng, tâm hồn của con người mà còn là nội dung tư tưởng, là âm hưởng bao trùm trong rất nhiều tác phẩm thơ văn Việt Nam thời nhà Trần, thế kỉ XII, XIII.
Instruct During the resistance war against the Mongol-Nguyen invaders during the Tran Dynasty, Senior Lieutenant General Tran Quang Khai achieved many great victories. After the Ham Tu victory, then the Chuong Duong victory in 1285, on the happy day the country was liberated, Tran Quang Khai honorably welcomed the king back to the capital. On the way, he was inspired to compose the poem Tung Gia Hoan Kinh Su. The original poem is written in Chinese characters, following the Five Words and Four Absolutes Tang Luat form, the entire poem has four lines, each line has five beautiful words. Although the work is mainly of the symbolic type, behind the great ideas there are still many deep emotions. This is the first triumph of our nation in the resistance war against foreign invaders. Before the Tran Dynasty, our people defeated foreign invaders many times. But after those victories, we have not read or heard any literary works about victory and triumphant songs. Therefore, the poem "Pho Gia on Kinh" by the general - the poet is not only historical but also has literary value. Let's read the original poem transliterated in Chinese: Winning the flute of Chuong Duong Do, Holding the Tiger Ham Tu Quan. Use a vase to cultivate wisdom, Thousands of years ago, the rivers and rivers were tested. And read the translation of Tran Trong Kim's poem: Chuong Duong stole the enemy's spear, Ham Tu captured the enemy. You should try your best, That country is thousands of years old. The composition of the work consists of two quite coherent parts. The spirit of victory is expressed in the first two sentences: Chuong Duong robbed the enemy's spear, Ham Tu captured the enemy. Learning about history, knowing that during the resistance war against the Mongol-Nguyen invaders during the Tran Dynasty, our army and people won many victories in many campaigns, the most famous being the victory on the Bach Dang River. But Tran Quang Khai only mentioned two victories at Chuong Duong and Ham Tu. Why? Are these two typical, decisive campaigns for ultimate victory? Is it possible that thanks to these two victories, the king and the whole court, after being evacuated and temporarily retreating to the countryside, returned to the capital, very happy, very excited, worth writing poetry, worth singing about? In reality, the Ham Tu victory took place first (April 1285), the Chuong Duong victory came later (June 1285). Why does the author mention Chuong Duong first, then Ham Tu? This is also an interesting question. Studying history, we know that, in the previous victory - Ham Tu - the commander was General Tran Nhat Duat, while Tran Quang Khai only participated in support. And in Chuong Duong, Lieutenant General Tran Quang Khai commanded three armies, directly commanded and won a decisive victory, and then immediately welcomed the king back to the capital. The joy of victory, followed by the joy of being "promoted" one after another, moves the mind and soul. Perhaps that's why, in a moment of improvisation, the general immediately mentioned Truong Duong, then recalled Ham Tu. In both the Chuong Duong and Ham Tu campaigns, our army and people fought extremely bravely, the battle atmosphere was extremely exciting, the combat achievements were extremely rich,... However, the author only summarized two of them. The short, ten-syllable verse, for each victory, is also recast in two words: "capture the flute" (capture the spear), "capture Ho" (capture the Ho army). It is important to pay attention to the original poem "winning the flute". "Winning" originally means "to win for yourself through fighting with others". Thus, using the word "winning the flute", the poet both recorded the victory and praised the righteous and courageous actions of our people and soldiers. The translation uses the word "stealing the spear" to somewhat reduce the beauty of the victory. In Chuong Duong, we won the enemy's swords, spears and weapons. And in Ham Tu, we captured their general. Each campaign has a different achievement, complementing each other, truly harmonious and comprehensive. In battle, there will certainly be casualties, the enemy troops will probably be destroyed, killed, and chased away quite a lot by us. But the poem does not mention the scenes of blood flowing or heads falling, but only mentions the two actions of "taking the flute" and "holding the Ho". That way of speaking is light but profound, clearly demonstrating that our nation's fighting purpose is not to kill but to regain independence, force the enemy to submit, and return the mountains and country to us. The poem is compressed and strong in meaning. But the rhythm and tone of the poem still exude joy and pride. Reading poetry, we have the feeling that the general is holding his head high, walking in the middle of the victorious army while reciting poetry loudly. The chant spread and was followed by three armies, becoming a heroic song that echoed through the mountains and rivers. Truly a triumphant song. In the two sentences below, the poetic tone seems to calm down. The poet thinks about the country's future: Peace should strive, That country is thousands of years old. This was the general's self-talk about the country's future, and also a message to all our people and soldiers at that time. The voice and aspirations of one person have become the thoughts and determination of the entire nation. Tran Quang Khai reminded himself to uphold his responsibility and try to "cultivate intelligence", that is, practice and cultivate talent and strength. At the same time, he encouraged the army and people to "try their best and unite" to promote the results of victory to build a long-lasting, peaceful country. The concluding verse "Van Co Tri Giang San" not only points to the country's destination but also expresses the nation's strong desire and longing for an eternally bright future. The meaning of poetry is expressive, but the music of poetry is expressive. Teachings are in harmony with faith and hope. Three years after the poem Tung Gia Hoan Kinh Su was published, in April 1288, during the sacrificial ceremony at Chieu Lang (the mausoleum of King Tran Thai Tong), King Tran Nhan Tong spontaneously read two verses: Xa Tac Bihu Lao Thach Ma, Son Ha Thien Ancient Golden Palace. (The commune has two times weasels and horses fight, Mountains and rivers are forever strong and stable) Is it true that the above two lines of the king's poem resonate with the poem Chanting Gia Hoan Kinh Su by Lieutenant General Tran Quang Khai? And is that also the pride of our entire nation during the Tran Dynasty, which people later called the Pride of Dong A? What does Dong A's pride mean? Dong A is a derivative of the Tran family name, consisting of two words: the word Dong combined with the letter A in Chinese characters. Dong A's pride is patriotism, national pride, and the great spirit and determination of the Tran dynasty's army and people in the cause of fighting against foreign invaders and building a peaceful and sustainable country. The pride of Dong A is not only the thoughts and souls of people but also the ideological content and the overarching sound in many Vietnamese poetic works during the Tran Dynasty, 12th and 13th centuries.
Hướng dẫn Ông cha ta kể rằng: Năm 1076, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh). Bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền Trương tướng quân (thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát là hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt) có tiếng thơ ngâm vẳng ra: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phân tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Đó là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt theo thể Đường luật, nguyên văn chữ Hán. Chúng ta có thể đọc bản dịch thơ như sau: Sông núi nước Nam- vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chưa xác định ai là tác giả bài thơ. Vì bài thơ được vọng ra từ một đền thờ linh thiêng có tác dụng khích lệ quân dân ta quyết tâm chiến đấu chống giặc, nên người đời gọi đây là bài “Thơ Thần”. Bài thơ không có tên. Để tiện ghi nhớ, nhiều người đặt tên là bài Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam). Như vậy, từ hoàn cảnh ra đời, đến việc tiếp nhận, truyền bá, việc tìm tác giả, việc đặt tên, tác phẩm thơ này đậm chất huyền thoại, linh thiêng. Đó không còn là tiếng nói của con người, mà âm vang tiếng thánh thần, không còn là suy ngẫm cảm xúc của một người – tác giả – mà là trí tuệ, tâm hồn của cả dân tộc Việt Nam xưa cũng như nay. Nói bài thơ làm theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt vì mỗi câu thơ gồm bảy tiếng (bảy chữ, đọc ra bảy âm), cả bài gồm bốn câu. Trong bài thơ, câu 1, 2, 4 vần với nhau ở tiếng cuối: đế cư, thiên thư, bại hư. Ba tiếng bắt vần với nhau đều là Vần bằng, thanh không. Ở bản dịch thơ, ba tiếng cuối câu 1, 2, 4 cũng vần với nhau: ở, sở, vỡ, khác với bản nguyên tác là người dịch dùng vần trắc, hai thanh “hỏi, ngã”, nhưng vẫn đúng luật thơ, đọc lên ta vẫn thấy xuôi tai, mang âm điệu của thơ trung đại, hài hoà cân đối. Bài thơ Nam quốc sơn hà là tác phẩm thiên về biểu ý, ý tưởng lộ rõ trong các nghĩa của ngôn từ (kiểu nghị luận). Còn nội dung biểu cảm thì “ẩn kín” sau các lớp ý nghĩa, đòi hỏi người đọc phải nhạy cảm, vừa hiểu ý thơ vừa suy ngẫm, liên tưởng, tưởng tượng để đồng cảm với tác giả, rung động cùng hồn thơ. Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên đinh phận tại thiên thư Nước Nam là của người Nam ở. Điều hiển nhiên đó đã được sách trời ghi rõ, xác định rõ. Ở câu đầu, ta chú ý hai chữ “Nam đế”. Nam đế là hoàng đế nước Nam, hiểu là “vua nước Nam”. Tại sao tác giả không dùng chữ “Nam vương”, cũng có nghĩa là “vua nước Nam”? Bởi vì, trong quan niệm của những kẻ thống trị phong kiến phương Bắc, thì chỉ có vua của họ ‘mới được phép xưng là “đế”. Họ tự cho mình là “thiên tử” (con trời), hơn tất cả các vị vua ở các xứ sở khác. Dùng chữ “Nam đế”, tác giả Nam quốc sơn hà biểu hiện một niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Đằng sau câu thơ, ta như nghe được một tiếng nói mạnh mẽ, kiêu hãnh: Phương Nam ta cũng có đế, bình đẳng, ngang hàng với phương Bắc, không kẻ nào được phép coi thường. Sau câu thứ nhất vừa sáng ngời ý tưởng vừa dạt dào cảm hứng tự hào, đến câu sau tiếp tục ý tưởng và cảm hứng ấy. “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” mang âm trầm hùng, rắn chắc như một lời khẳng định dút khoát. Hai chữ cuối “thiên thư” nghĩa là “sách trời, ý của trời”, tiếp tục nhấn mạnh một lẽ đương nhiên, ngày nay ta gọi là chân lí, là lẽ phải. Như vậy, về nội dung “biểu ý”, hai câu thơ đầu khẳng định chủ quyền đất nước, quyền độc lập, bình đẳng của dân tộc ta. Đồng thời từ ý nghĩa, từ âm điệu và ngôn ngữ thơ toát ra niềm tự hào, kiêu hãnh, thái độ hiên ngang, tư thế ngẩng cao đầu của tác giả bài thơ, của cả dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Hai câu sau: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Nội dung biểu ý cũng thật rõ ràng: kẻ thù kia, không được xâm phạm. Nếu xâm phạm tới, chúng bay sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. Lời lẽ và âm điệu rắn đanh lại, vừa nêu một phán đoán, vừa cảnh cáo bọn ngoại xâm. Nghe được lời thơ này, hẳn quân dân ta – những con người đã ý thức được chủ quyền đất nước, tin ở luật hiển nhiên của tạo hoá, tin ở “sách trời” – sẽ vô cùng phấn khởi, càng thêm niềm tin và quyết tâm xốc tới, tiêu diệt kẻ thù. Còn bọn ngoại xâm phi nghĩa, khi nghe những lời này – lời thơ, lời thánh thần truyền dạy, – hẳn sẽ không thể yên lòng. Chúng sẽ hoang mang, nghĩ tới tương lai, số phận “thủ bại hư”, sự thất bại tất yếu phải nhận lấy. Lời thơ khác nào lời kêu gọi, truyền hịch, truyền niềm tin, niềm phấn khởi cho quân ta, đồng thời cũng là lời cảnh cáo, lời báo hiệu, gieo sự hoang mang, hoảng hốt tới quân thù. Cũng giống hai câu thơ trên, hai câu thơ cuối bài này đã hài hoà ý tưởng với tình cảm, tính “biểu ý” hài hoà tính “biểu cảm”. Tính biểu ý nổi rõ trên bề mặt ngôn từ, còn tính biểu cảm ẩn sâu trong chữ nghĩa, trong nhạc điệu và trong sự cảm nhận, liên tưởng suy đoán tự nhiên của người đọc.
Instruct Our ancestors said: In 1076, the Song army led by Quach Quy invaded our country. King Ly Nhan Tong ordered Ly Thuong Kiet to lead troops to stop the enemy at the Nhu Nguyet river defense line (a section of Cau river, now in Yen Phong district, Bac Ninh). Suddenly one night, the soldiers suddenly heard from the temple of General Truong (worshiping the two brothers Truong Hong and Truong Hat, two good generals of Trieu Quang Phuc, revered as Nhu Nguyet river gods) a poetic voice reciting: Southern country, mountains and rivers, Southern empire Absolutely determined in the book of heaven Like the breach of the hole invasion Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft. It is a four-syllable poem in the Tang Dynasty style, with the original Chinese text. We can read the poetic translation as follows: Mountains and rivers of the South where the King of the South resides The heavenly book divides the land Why did the evil enemy commit this crime? You must be broken. To date, researchers have not determined who the author of the poem is. Because the poem comes from a sacred temple and has the effect of encouraging our people and soldiers to be determined to fight against the enemy, people call this poem "God's Poetry". The poem has no name. For ease of remembering, many people named the song Nam Quoc Son Ha (Southern Mountain River). Thus, from the circumstances of its birth, to its reception, dissemination, finding the author, and naming, this poetic work is full of legendary and sacred qualities. It is no longer the voice of humans, but echoes the voice of the gods, no longer reflecting on the emotions of one person - the author - but the wisdom and soul of the entire Vietnamese people, past and present. It is said that the poem is made in the Tang Luat style, with no four words because each verse consists of seven words (seven words, pronounced seven sounds), the whole poem consists of four sentences. In the poem, verses 1, 2, and 4 rhyme with each other in the last syllable: empire, heaven, defeat. The three words that rhyme together are all flat and empty. In the poetic translation, the last three syllables of verses 1, 2, 4 also rhyme with each other: at, so, broken. Different from the original version, the translator used metrical rhyme, two tones "ask, fall", but still in accordance with poetic law. , reading it, we still find it pleasing to the ear, with the tone of medieval poetry, harmonious and balanced. The poem Nam Quoc Son Ha is a work that focuses on expression, ideas revealed clearly in the meanings of words (discussion style). As for the expressive content, it is "hidden" behind layers of meaning, requiring the reader to be sensitive, to both understand the poetic meaning and reflect, associate, and imagine to sympathize with the author and be moved by the soul of the poem. Southern country, mountains and rivers, Southern empire Truly fate is in heaven The country of the South belongs to the people of the South. That obvious thing has been clearly written and determined by the heavenly book. In the first sentence, we pay attention to the two words "Nam Emperor". Nam De is the emperor of the South, understood as "king of the South". Why doesn't the author use the word "Nam Vuong", which also means "King of the South"? Because, in the concept of the Northern feudal rulers, only their king is allowed to be called "emperor". They considered themselves "heavenly sons" (sons of heaven), superior to all kings in other countries. Using the word "Nam De", the author of Nam Quoc Son Ha expressed a sense of national pride and self-respect. Behind the verse, we seem to hear a strong, proud voice: In the South, we also have an empire, equal and equal to the North, no one is allowed to look down on us. After the first sentence, which is both bright with ideas and full of proud inspiration, the next sentence continues that idea and inspiration. “Determining fate is in the book of heaven” has a strong, deep sound like a decisive affirmation. The last two words "heavenly books" mean "heaven's book, heaven's will", continuing to emphasize a natural truth, today we call truth, reason. Thus, regarding the "symbolic" content, the first two verses affirm the country's sovereignty, independence and equality of our people. At the same time, from the meaning, from the tone and poetic language, the pride, arrogance, the proud attitude, the posture with heads held high of the author of the poem and of the entire Vietnamese people at that time emerged. The following two sentences: Like the breach of the hole invasion Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft. The content of the message is also very clear: the enemy must not be invaded. If they invade, they will suffer a disastrous defeat. The words and tone were sharp, both stating a judgment and warning the foreign invaders. Hearing this poem, surely our soldiers and people - people who are aware of the country's sovereignty, believe in the obvious laws of creation, believe in the "book of heaven" - will be extremely excited, with even more faith and confidence. determined to rush forward and destroy the enemy. As for the unjust foreign invaders, when they hear these words - poetic words, divine teachings - they will certainly not be able to rest assured. They will be confused, thinking about the future, the fate of "failure", the inevitable failure they must accept. The poem is no different from a call, a message of encouragement, of confidence and excitement to our troops, and at the same time a warning, a signal, sowing confusion and panic to the enemy. Like the two verses above, the last two verses of this poem harmonize ideas with emotions, the "symbolic" nature harmonizes the "expressive" nature. The expressiveness is clearly visible on the surface of the words, while the expressiveness is hidden deep in the words, in the music and in the natural feelings, associations and speculations of the reader.
Hướng dẫn Trong kho tàng – dân ca Việt Nam, cùng với những bài ca về tình cảm gia đình, những bài ca tình yêu quê hương đất nước, con người, những tiếng hát than thân, mảng ca dao châm biếm chiếm một số lượng đáng kể. Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Qua các hình thức ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược và phóng đại, v.v. những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, ngược đời, phê phán những thói hư, tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười, đúng chê trách trong cuộc sống. Nói khác đi, ca dao châm biếm là vũ khí tinh thần sắc bén của nhân dân ta. Trong số hàng trăm, hàng ngàn câu ca dao châm biếm, bốn bài trong văn bản Những câu hát châm biếm và ba bài đọc thêm mà học sinh lớp 7 được học có lẽ là tiêu biểu nhất. Trước hết, chúng ta thử điểm mặt xem đối tượng nhân dàn ta châm biếm, chê trách là hạng người nào, là hiện tượng gì? Đó là “chú tôi” – một chàng trai làng – nào đó, là một ông thầy bói, là một “cậu cai” (trong bài học chính). Đó là một ông thầy cúng luôn tay gõ chập cheng, là “con mèo” – một loại quan chức, địa chủ trong làng. Đó còn là ông “quan tướng” (trong phần đọc thêm). Về hiện tượng xã hội, ca dao châm biếm tập trung nói tới việc ma chay trong làng (bài 3, văn bản chính), hoặc cưới hỏi, lễ bái ở đình chùa,… Tất cả những chân dung con người ấy điển hình cho loại người vô công rồi nghề, loại người chức sắc, quan lại từ nhỏ đến lớn, loại người chuyên nghề mê tín dị đoan,… Họ lười biếng, bê tha, gian dối, tàn ác, sách nhiễu nhân dân, gây ra biết bao hiện tượng tiêu cực trong xóm ngoài làng, gieo biết bao đau khổ cho nhân dân. Họ thật đáng cười, đáng chê trách và lên án. Trước hết là cái anh chàng “chú tôi” mà tác giả bài ca muốn giới thiệu với “cô yếm đào” xinh đẹp, trẻ trung. “Chú” lười biếng và lắm thói hư, tật xấu. “Chú” nghiên rượu (hay tửu, hay tăm), nghiện chè (hay nước chè đặc), thường ngủ muộn, thích nằm dài mong nhiều “ngày mưa”, ước đêm kéo dài (thừa trống canh) để không phải ra đồng cày ruộng. Tác giả bài ca đã sử dụng điệp từ (“hay” nhắc lại bốn lần, “ngày” hai lần, “ước” hai lần, “đêm” hai lần) gợi cảm giác kéo dài, quanh quẩn, rất bức bối, khó chịu. Đồng thời, lối chơi chữ, nói ngược (hay tửu, hay tăm, hay nước chè đặc,…) bên ngoài có vẻ như khen ông chú tài giỏi, nhưng thực ra là để giễu cợt, chê trách. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán khá sâu cay. Tiếp sau chân dung “chú tôi” là chân dung ông thầy bói và “cậu cai”, ở bài thứ hai, tác giả nhại lời thầy bói, ghi âm nguyên văn nhũng lời phán của thầy trước một cô gái mê tín. Thầy đoán về những điều gì và phán thế nào? Toàn là những điều quan trọng mà cô “đệ tử” ước ao điều tốt lành, điều mới mẻ. Nhưng thầy phán toàn là những lời vô nghĩa, những điều vốn nó như thế, hiển nhiên chẳng cần bói toán, suy đoán gì cả. “Số cô chẳng giàu thì nghèo – Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà…”, đấy là thầy đoán về “tài lộc” của cô gái. Còn về “gia cảnh, về “nhân duyên” thì… “cô có mẹ, mẹ là đàn bà, có cha, cha là đàn ông, cô sẽ có chồng, có chồng sẽ có con, con gái hoặc con trai”… Rõ ràng cái nhà ông thầy bói này chỉ ba hoa, mồm mép, nói nhũng điều ai cũng biết. Tục ngữ ta có câu “thầy bói nói mò”. Ông thầy bói này không chỉ “nói mò” mà nói lăng nhăng, vô vị, thật đáng cười. Đáng cười hơn nữa là giọng nói của thầy. Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật “nói nước đôi”, nói phóng đại, càng nói càng vô vị, vô nghĩa. Rõ ràng, bài ca dao đã phê phán những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, lừa bịp lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, bài ca cũng giễu cợt, phê phán những người ít hiểu biết, thiếu niềm tin cuộc sống, tìm đến sự bỏi toán, lễ bái vu vơ, phản khoa học, nhiều khi thêm lo nghĩ không cần thiết “Bói ra ma, quét nhà ra rác”. Cha ông ta từng nhắc nhở như thế. Phê phán ông thầy bói, bài ca dao đồng thời cảnh tỉnh chúng ta. Còn “cậu cai” – trong bài thứ tư – thì có gì đáng phê phán và cách phê phán thế nào? Chân dung “cậu cai”, được vẽ bằng hai nét đối chọi nhau. Hằng ngày cậu ăn mặc khá sang trọng, nào “nón dấu lông gà”, nào “ngón tay đeo nhẫn”. Nhưng khi có công việc, cần sự sang trọng, cần uy quyền thì “Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê”, nghĩa là cậu chẳng có của cải, tài năng đích thực gì. Đó là một thân phận rởm, uy quyền rởm mà thôi! Tác giả dân gian vừa dùng nghệ thuật đối lập (bên ngoài oai vệ bên trong tầm thường) kết hợp với cường điệu (ba năm một chuyến sai, áo mượn, quần thuê) để hạ bệ “cậu cai”, cũng có nghĩa là châm biếm, phê phán tầng lóp thống trị xưa. Chúng lố lăng, bắng nhắng, nhưng bản chất thì rất tầm thường, quyền hành thảm hại đến nực cười… Cũng với chân dung con người cụ thể, ca dao châm biếm còn vẽ lại khá nhiều bức tranh xã hội đáng chê trách. Đó là cảnh một đám tang ở nông thôn trong bài ca dao thứ ba. Điều thú vị là tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng. Các nhân vật trong đám tang đều là những con vật. Tang chủ là gia đình cố – một loại nhà nghèo, thân phận bé mọn. Có người thân chết, “cò con” lo “làm ma”, vừa đau thương vừa bối rối. Vậy mà những bạn bè, người thân xa gần kéo đến thì ồn ào, nhốn nháo, không phải để chia buồn, giúp đỡ việc tang. Trái lại, “cà cuống” thì uống rượu. Chim ri thì “lấy phần”. Chào mào “đánh trống”. Chim chích “vác mõ đi rao”, chắc là để báo tin cho cả làng biết, tiếp tục kéo đến… Mỗi con vật ẩn dụ một loại người trong làng xóm, đủ cả già trẻ, trai gái, bề trên, kẻ dưới,… Những từ đặc tả, từ láy, từ ghép “la đà”, “ríu rít”, “cởi trần”,… chụp được những chân dung cử chỉ, hành động thật cụ thể, rất rõ nét. Cảnh tượng ấy hoàn toàn không hợp với việc tang. Một việc đáng buồn thương, nghiêm chỉnh bỗng trở nên một màn hài kịch, thành cuộc đánh chén, chia chác om sòm. Thật chua chát, đáng cười và … đáng khóc. Bài ca dao đã nghiêm khắc phê phán một hủ tục của làng quê ngày xưa…
Instruct In the treasure trove of Vietnamese folk songs, along with songs about family affection, songs about love for one's homeland, people, songs of self-pity, and satirical folk songs, they account for a significant amount. . The satirical songs have quite concentratedly expressed the unique features of Vietnamese folk satirical art. Through the forms of metaphor, symbolism, inversion and exaggeration, etc. The satirical songs exposed contradictory and paradoxical events, criticized bad habits, bad habits, laughable and blameworthy people and phenomena in life. In other words, satirical folk songs are a sharp spiritual weapon of our people. Among the hundreds or thousands of satirical folk songs, the four songs in the satirical songs text and three additional readings that 7th grade students learn are probably the most typical. First of all, let's try to identify what kind of person and what phenomenon is the object of our ridicule and criticism? That's "my uncle" - a certain village boy, a fortune teller, a "warden" (in the main lesson). It was a shaman who was always banging his cymbal, a "cat" - a type of official and landowner in the village. That is also the "general" (in the further reading section). Regarding social phenomena, satirical folk songs focus on funerals in the village (article 3, main text), or weddings, worshiping at temples, etc. All of these human portraits are typical for The type of unemployed people, the type of dignitaries, mandarins from small to large, the type of superstitious professional people,... They are lazy, self-indulgent, deceitful, cruel, harassing people, causing people to know. There are so many negative phenomena in the neighborhood and outside the village, bringing so much suffering to the people. They are laughable, blameworthy and condemnable. First of all, there is the guy "my uncle" that the author of the song wants to introduce to the beautiful, youthful "little girl". "Uncle" is lazy and has many bad habits and habits. "Uncle" loves alcohol (or wine, or toothpicks), is addicted to tea (or thick tea), often sleeps late, likes to lie down hoping for more "rainy days", wishes the night lasts (with extra empty soup) so he doesn't have to go to the fields. plow. The author of the song used alliteration ("hay" repeated four times, "day" twice, "wish" twice, "night" twice) to evoke a lingering, lingering, very frustrating and difficult feeling. bear. At the same time, the puns and back-talking (or wine, or toothpick, or thick tea, etc.) on the outside seem to compliment the talented uncle, but are actually meant to mock and criticize. The words are light and humorous, but the criticism is quite harsh. Following the portrait of "my uncle" is the portrait of the fortune teller and "the fortune teller". In the second song, the author imitates the fortune teller's words, recording verbatim the fortune teller's words to a superstitious girl. What do you predict and how do you say? These are all important things that the "disciple" wishes for good and new things. But the teacher said it was all meaningless words, things were just like that, obviously there was no need for divination or speculation at all. "If you're not rich, you'll be poor - On the thirtieth day of the Lunar New Year meat hanging in the house...", that was the teacher's guess about the girl's "fortune". As for "family background, about "predestination", then... "you have a mother, your mother is a woman, you have a father, your father is a man, you will have a husband, if you have a husband you will have children, daughters or sons"... Clearly It's clear that this fortune teller's family only brags, talks foul, and says things that everyone knows. There is a proverb that says "the fortuneteller speaks nonsense". This fortune teller doesn't just "talk nonsense" but talks promiscuously and is tasteless, which is laughable. Even more laughable is the teacher's voice. Folk authors have used the art of "double talk", exaggerating, the more they talk, the more tasteless and meaningless they become. Obviously, the folk song criticizes those who practice superstition and deceive other people's beliefs to make money. At the same time, the song also mocks and criticizes those who have little understanding and faith in life, resorting to idle math and worship, being anti-scientific, and sometimes adding unnecessary worries about "Fortune-telling ghosts". , sweep the house out of trash". His father once reminded him like that. Criticizing the fortune teller, the folk song also warns us. As for the "old boy" - in the fourth article - what is there to criticize and how to criticize? The portrait of the "old boy", drawn with two contrasting strokes. Every day he dresses quite luxuriously, with a "hat marked with chicken feathers" and "a ring on his finger". But when he has a job, needs luxury, needs authority, "Borrow short shirts, rent long pants", meaning he has no real wealth or talent. That's just a fake identity and fake power! The folk author has just used the art of opposition (outwardly majestic, but mediocre inwardly) combined with exaggeration (a trip every three years, borrowed shirts, rented pants) to bring down the "old boy", which also means satirizing and criticizing the ancient ruling class. They are ridiculous and ridiculous, but their nature is very trivial, their power is ridiculously pathetic... Along with specific human portraits, satirical folk songs also portray many reprehensible social pictures. It is the scene of a funeral in the countryside in the third folk song. What is interesting is that the author uses metaphor and symbolism. The characters in the funeral are all animals. The owner of the funeral is from a great-grandfather's family - a poor family with a small status. When a loved one dies, the "little stork" worries about "being a ghost", both sad and confused. Yet friends and relatives from near and far came to make noise and chaos, not to offer condolences or help with the funeral. On the contrary, "ca cuong" drinks alcohol. The bird "takes a share". Greetings "drum beating". Warblers "carry their beaks to advertise", probably to inform the whole village, and continue to come... Each animal symbolizes a type of people in the village, both old and young, male and female, superior, inferior, ... Descriptive words, red words, compound words "la da", "chirping", "naked",... capture very specific and clear portraits of gestures and actions. That scene was completely inappropriate for mourning. A sad, serious matter suddenly turned into a comedy, into a noisy fight and sharing of money. It's bitter, laughable and... worth crying. The folk song severely criticized a custom of ancient villages...
Hướng dẫn Một trong những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của ca dao – dân ca Việt Nam là dùng phép so sánh, ẩn dụ. Trong những câu ca dao ẩn dụ, các tác giả dân gian thường dùng hình ảnh những con vật bé nhỏ gần gũi với cuộc sống hằng ngày của mình để ngầm ví với cuộc đời, thân phận cơ cực vất vả của con người. Tiêu biểu cho những con vật xuất hiện nhiều trong ca dao là con cò, con cá bống, con kiến, con tằm, con ong, con ốc, con hạc,… Chùm ca dao Những câu hát than thân, trừ bài số ba sử dụng hình ảnh con người – cô gái – còn hai bài trên, mười hai dòng thơ đều nói tới những con vật gần gũi chốn đồng quê. Ớ bài thứ nhất, cuộc đời lận đận, vất vả của con người được diễn tả thật cụ thể, đầy tính ẩn dụ: Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? Tác giả bài ca đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật vô cùng phong phú. Đó là những hình ảnh đối lập (nước non rộng lớn đối với một mình đơn côi, lên thác đối với xuống ghềnh, bể đầy đối với ao cạn). Nghệ thuật đối lập này thể hiện một nghịch lí của cuộc đời con cò, cũng chính là cuộc đời của người lao động ngày xưa: Một mình phải đối mặt với biết bao sự vật thiên nhiên to lớn, dữ dội (nước non, thác, ghềnh), với biết bao biến động ở đời (bể thì đầy, ao lại cạn). Cố gắng, tần tảo, lận đận đến như thế, bươn chải khắp nơi như thế mà kết quả thì lại quá nhỏ nhoi, ít ỏi, không đủ nuôi con nên cò con vẫn … “gầy”. Kết hợp với phép đối lập là các từ ghép nước non, từ láy lận đận, từ gợi tả thân cò, cò con, nhất là câu hỏi tu từ ở cuối bài “Ai làm cho…?” bộc lộ một tâm trạng buồn thương, ngao ngán và trách cứ, dỗi hờn. Mỗi dòng thơ là một tiếng than, tiếng thở dài chua xót. Do đó, ngoài nội dung than thân vì phải sống vất vả, bài ca dao còn có nội dung phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến trước đây. Sống trong xã hội áp bức bất công ấy, người dân lao động phải lên thác, xuống ghềnh để mưu sinh mà hạnh phúc, ấm no chẳng có. Ai gây nên điều này, nếu không phải là bọn thống trị lúc bấy giờ. Câu cuối bài ca là câu hỏi tu từ, bỏ lửng. Nhưng mạch thơ và dòng cảm xúc của thơ đã khơi gợi cho người nghe, người đọc lời đáp đó… Khác với bài ca thứ nhất lời người hát tự than về mình, ở bài ca thứ hai người hát đứng bên cạnh đối tượng để chia sẻ, cảm thông với đối tượng. Và khác hơn nữa là ở bài ca thứ nhất chỉ có một “thân cò”, còn trong bài ca này xuất hiện bốn con vật. Mỗi cặp câu mở đầu bằng hai tiếng “thương thay”, đi liền theo là thân phận khổ đau, vất vả của “con tằm”, “lũ kiến”, “chim hạc” và “con cuốc”. Nhìn bao quát, chúng ta thấy hiện lên một bức tranh loài vật thật đa dạng, phong phú. Mỗi con một dáng vẻ, một số phận riêng. Tằm thì ăn ít, phải nhả tơ nhiều. Kiến nhỏ li ti vẫn “phải đi kiếm mồi” (về nuôi kiến chúa). Chim hạc bay mỏi cánh không nghỉ. Còn chim cuốc thì “kêu ra máu”, giọng kêu khắc khoải, tha thiết, quặn đau đến ứa máu mà người đời chẳng ai nghe, chẳng ai đoái hoài… Người hát bài ca này mang một trái tim lớn, nhân hậu bao la, cảm thương, chia sẻ với từng con vật bé nhỏ. Cao cả, rộng lớn, sâu sắc hơn là lòng thương con người, sự đồng cảm với những cuộc đời người dân lao động bé nhỏ, vất vả, đói nghèo. Bức tranh loài vật khổ đau, chính là bức tranh của kiếp người ngày xưa. Điệp ngữ “thương thay” cứ nối nhau kéo dài suốt cả tám dòng thơ diễn tả tình cảm xúc động không ngừng, truyền sóng dư ba trong lòng người đọc. Còn bài ca cuối – “Thân em như trái bần trôi…” – thì văn bản dắt chúng ta trở về nghe trực tiếp tiếng than của người phụ nữ, hoặc xô gái. Lời than mở đầu bằng hai tiếng thân em ùa dậy trong trí nhớ ta biết bao bài ca có giọng điệu và nội dung tương tự: – Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. – Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. – Thân em như giếng giữa làng Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân… Đây là chùm ca dao diễn tả một cách xúc động những đắng cay của cuộc đời người phụ nữ ngày xưa. Trọng xã hội phong kiến, người phụ nữ không được tự quyết định cuộc đời mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Họ dù xinh đẹp, tài hoa đến mấy thì số phận họ vẫn chỉ như những vật dụng hằng ngày, hoặc như “tấm lụa”, như “hạt mưa”, hoặc như “trái bần”,… trôi nổi, vật vờ, rủi may, hạnh phúc, bất hạnh không sao lường trước được. Số phận người phụ nữ như thế đã được nữ sĩ Hồ Xuân Hương mô tả qua bài thơ đặc sắc Bánh trôi nước, cũng mở đầu bằng hai tiếng Thân em: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi,ba chìm với nước non… Những bài ca dao cũng như bài thơ của Hồ Xuân Hương mãi mãi âm vang trong lòng chúng ta.
Instruct One of the outstanding artistic features of Vietnamese folk songs is the use of comparisons and metaphors. In metaphorical folk songs, folk authors often use images of small animals close to their daily lives to implicitly compare the life and hardship of humans. Typical animals that appear a lot in folk songs are the stork, the goby, the ant, the silkworm, the bee, the snail, the crane... Using the image of a person - a girl - in the two poems above, the twelve lines of poetry all talk about animals close to the countryside. In the first article, the difficult and difficult life of people is described specifically and metaphorically: The country struggles alone, The stork's body has been going up waterfalls and rapids all this time. Who filled that tank, Let that pond dry up, let the little stork be skinny? The author of the song used extremely rich artistic methods. These are contrasting images (vast young water versus being alone, going up a waterfall versus going down rapids, a full tank versus a shallow pond). This contrasting art represents a paradox of the stork's life, which is also the life of ancient workers: Having to face so many huge, fierce natural things (mountain water, waterfalls) alone. , rapids), with so many changes in life (the tank is full, the pond is dry). Trying, working so hard, struggling so much, struggling everywhere like that, but the results are so small, meager, not enough to feed the baby so the baby stork is still... "skinny". Combined with the contrast are the compound words young water, the word tricky, words that describe the body of a stork, a baby stork, especially the rhetorical question at the end of the article "Who made...?" Expressing a sad, frustrated, blaming, and sulky mood. Each line of poetry is a lament, a bitter sigh. Therefore, in addition to the content of self-pity for having to live a hard life, the folk song also has content of protest and denunciation of the previous feudal society. Living in that oppressive and unjust society, working people have to go up waterfalls and rapids to make a living, but happiness and prosperity are not there. Who caused this, if not the rulers at that time? The last sentence of the song is a rhetorical question, left unfinished. But the poetic flow and emotional flow of the poem evoke a response from the listener and reader... Unlike the first song where the singer laments about himself, in the second song the singer stands next to the subject to share and sympathize with the subject. And what's more different is that in the first song there is only one "stork body", while in this song four animals appear. Each pair of sentences begins with the words "how pitiful" and is followed by the suffering and hardships of the "silkworm", "ants", "crane" and "hoe". Looking broadly, we see a picture of diverse and rich animals. Each child has its own appearance and destiny. Silkworms eat little and have to spin a lot of silk. Tiny ants still "have to go looking for food" (return to feed the queen). The crane flies with tired wings without rest. As for the coot, it "screams for blood", its voice is anxious, earnest, painful to the point of bleeding, but no one in the world listens, no one cares... The person who sings this song has a big heart, immense kindness. , feel compassion and share with each little animal. Greater, broader, and deeper is compassion for people, sympathy for the lives of small, hard-working, and poor people. The picture of suffering animals is the picture of ancient human life. The alliteration "how pitiful" continues one after another throughout all eight lines of the poem, expressing endless emotional feelings, sending waves in the reader's heart. As for the last song - "My body is like a floating cork fruit..." - the text takes us back to directly listening to the woman's lament, or the girl's voice. The lament that begins with the two words of your body brings to mind many songs with similar tones and content: – My body is like falling raindrops Seeds go into the cisterns, seeds go to the plowed fields. – Your body is like peach silk Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to? – Your body is like a well in the middle of the village Pure people wash their faces, mortals wash their feet... This is a series of folk songs that emotionally describes the bitterness of women's lives in the past. In feudal society, women were not allowed to decide their own lives but were completely dependent on others. No matter how beautiful and talented they are, their fate is still just like everyday objects, or like "silk", like "raindrops", or like "cork fruit",... floating, pretending, and misfortune. luck, happiness, misfortune are unpredictable. The fate of such a woman was described by the female artist Ho Xuan Huong in the unique poem Banh troi nuoc, which also begins with the two words My dear: Her body is both white and round Seven floating sunken with water… Ho Xuan Huong's folk songs and poems forever resonate in our hearts.
Hướng dẫn Nếu ca dao – dân ca về tình cảm gia đình thường là những bài hát ru, thì ca dao – dân ca về tình yêu quê hương, đất nước, con người thường là những bài hát đối đáp, những khúc ca ngẫu húng tự nhiên cất lên trong sinh hoạt cộng đồng, trong lễ hội, khi ngoạn cảnh, lúc đứng ngắm đồng ruộng quê hương,… Chùm ca dao Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người (Ngữ văn 7, tập một) có lẽ là những bài ca tiêu biểu. Điều thú vị là chỉ bốn bài ca ngắn gọn mà chúng ta nghe được nhiều giọng điệu khác nhau, nhìn ngắm, thưởng thức được nhiều địa danh, nhiều phong cảnh kì thú khác nhau. Ở bài ca dao thứ nhất, chàng trai, cô gái hỏi – đáp về những địa danh mang nhũng đặc điểm nổi bật. Thành Hà Nội năm cửa, sông Lục Đầu sáu khúc chảy êm đềm, nước sông Thương bên đục bên trong, núi Tản Viên, đền Sòng, thành tiên ở Lạng Sơn… Chàng trai hỏi, cô gái đáp, hỏi đáp rất hài hoà, ăn ý. Đây là một hình thức ca hát dân gian thường xuất hiện trong những lễ hội, hội mùa xuân, hội mùa thu ở nhiều vùng quê Việt Nam: hội hát xoan Phú Thọ, hội Lim Bắc Ninh, hát phường vải Nghệ – Tĩnh, hát ví ghẹo, giao duyên ở đồng bằng Bắc Bộ, ở miền Trung và nhiều tỉnh Nam Bộ,… Qua hát đối đáp, đôi bên nam, nữ (có thể là chàng trai cô gái, cũng có thể là cụ ông, cụ bà,…) thử tài nhau về kiến thức lịch sử, địa lí, văn hoá, cũng là để chia sẻ với nhau tình yêu nam nữ, tình bạn, tình yêu quê hương, đất nước. Lắng nghe lời hỏi, đáp của hai nhân vật trữ tình trong bài ca Ở đâu năm cửa nàng ơi…, chúng ta thấy hiện lên nhiều địa danh từ thủ đô Hà Nội đến Hải Dương, Bắc Giang, vào Thanh Hoá, rồi ngược Lạng Sơn. Mỗi vùng có một nét đẹp riêng, hợp thành một bức tranh non nước Việt Nam thơ mộng, giàu truyền thống văn hoá. Không trực tiếp nói ra, nhưng cả người hỏi lẫn người đáp đều biểu hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương, Tổ quốc mình. Bài ca còn kéo dài hơn nữa. Chẳng hạn, chàng trai hỏi tiếp: Ở đâu có chín từng mây Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng? Chùa nào mà lại ở hang Ở đâu lắm gỗ thì nàng biết không?… Cô gái đáp: Trên trời có chín từng mây Dưới sông lắm nước, núi nay nhiều vàng Chùa Hương Tích thì lại ở hang Trên rừng lắm gỗ, hỡi chàng biết không… Như vậy, chàng trai, cô gái trong cuộc hát giao duyên này nói riêng, nhân dân lao động Việt Nam ta nói chung không chỉ say đắm, mến yêu, tự hào về giang sơn Việt Nam cẩm tú mà còn tỏ ra là những người lịch lãm, hào hoa, tế nhị và giàu hiểu biết, thật đáng noi theo. Tiếp sau những cuộc hát đối đáp là những chuyên du lịch. Một nhóm người, hoặc cả đoàn người đông vui chung niềm khao khát được thưởng thức cảnh đẹp ở đất kinh kì, ở xứ Huế cố đô “rủ nhau”, gọi nhau,… Cảnh ở kinh kì thật phong phú, có hồ (Kiếm Hồ), có cầu (Thê Húc), có đền (Ngọc Sơn), có đài, có tháp, cảnh thiên tạo hài hoà với cảnh nhân tạo, nét đẹp tự nhiên hài hoà với nét đẹp lịch sử, văn hoá. Còn ở Huế, cảnh mới thơ mộng làm sao, đường quanh quanh uốn lượn hài hoà với “non xanh”, “nước biếc”, sơn thuỷ hữu tình. Với cảnh ở Hà Nội, tác giả dân gian không tả mà chỉ kể, theo kiểu liệt kê, các chi tiết cảnh nối nhau thật phong phú, đa dạng. Còn với Huế, cảnh được miêu tả theo kiểu chấm phá lướt qua: đường, núi, nước. Mỗi đối tượng được nhấn mạnh bằng một tính từ gợi hình. Đường thì “quanh quanh”, núi thì “xanh”, nước (sông Hương) thì “biếc”. Thêm nữa, từ láy hoàn toàn “quanh quanh” và phép so sánh “như tranh hoạ đồ” khiến cho xứ Huế càng… mộng và… thơ. Thăm Hà Nội kinh kì, rồi vô xứ Huế cố đô, chúng ta được ngắm cảnh, được thăm viếng những di tích lịch sử, văn hoá, lòng càng thêm yêu Tổ quốc tươi đẹp, trí càng thêm rộng mở và lắng sâu, ghi nhớ công ơn người xưa đã tôn tạo và giữ gìn “bức tranh hoạ đồ” quý giá. Bài ca dao thứ tư, thú vị thay, giọng ca, lời ca phóng khoáng linh hoạt, cảnh thiên nhiên và nhân vật trữ tình hoà hợp, đậm chất đồng quê, khác hẳn hai bài trước: Đứng bên ni đồng, ngó hên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đừng bên tê đồng, ngố bên ni đồng, bút ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Về bố cục, bài ca dao này gồm hai phần vừa độc lập vừa gắn bó với nhau. Hai câu đầu tả cảnh đồng lúa trong buổi bình minh. Hai câu sau miêu tả dáng hình cô thôn nữ đẹp đẽ, thơ mộng như đồng lúa, như những chẽn lúa… về giọng điệu, đây là loại bài ca tự do, ngôn ngữ được nới rộng theo đối tượng miêu tả và tâm trạng nhân vật trữ tình. Hai câu đầu, mỗi câu kéo dài mười hai tiếng. Câu thứ ba không phải sáu tiếng mà là bảy tiếng. Chỉ câu bốn mới trở lại tám tiếng bắt vần với câu ba giống thể thơ lục bát. Đây là bài ca dao lục bát biến thể, một thể thơ khá phổ biến trong kho tàng ca dao Việt Nam. Điều cần trao đổi vể bài ca này là chủ thể trữ tình. Ai “đứng… ngó” cánh đồng? Ai nói: “thân em”? Đây là lời người khác hỏi, hay lời cô gái tự than? Có người cho rằng đây là lời chàng trai làng. Chàng trai thấy cánh đồng mênh mông, bát ngát, thấy cô gái xinh đẹp, mảnh mai…, tỏ lời ca ngợi cánh đồng, tỏ tình với cô gái. Có người lại hiểu: đây là lời cô gái. Đứng ngắm đồng quê xanh tốt, lúa đang ngậm đòng, cô thôn nữ đã cất lời ca, ca ngợi cảnh giàu đẹp của cánh đồng, từ đó nghĩ về mình, nhan sắc và thân phận mình… Nếu hiểu theo cách thứ nhất – lời chàng trai – thì bài ca này thuộc nhóm ca dao tỏ tình, ví ghẹo. Ví dụ: Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi. Hoặc: Ai đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm. Mở đầu các bài ca này thường là tiếng gọi, rồi tiếp sau là một câu hỏi ỡm ờ, đưa duyên. Hoặc nếu không thì cũng là những lời ca ngợi khéo léo để làm đẹp lòng người mình đang hướng tới. Ví dụ: Trúc xinh trúc mọc đầu đình Em xinh, em đứng một mình cũng xinh. Nếu hiểu theo cách hai – lời cô gái – thì bài ca này thuộc nhóm ca dao mượn cảnh ngụ tình, trước thiên nhiên và cuộc sống, con người giãi bày tâm sự. Ví dụ: Một ngày hai buổi cơm đèn Còn gì má phấn, răng đen, hỡi chàng. Hoặc: -Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. -Thân em như hạt mưa sa… Suy ngẫm trên cơ sở văn bản, cả nội dung, cảm hứng lẫn giọng điệu, ngôn từ, có lẽ hiểu bài ca dao “Đứng bên ni đồng…” theo cách hai là sát hợp hơn. Đây là lời cô thôn nữ trước đồng ruộng quê hương, vừa ca ngợi cảnh đẹp cánh đồng vừa tự ngắm rồi dự cảm về thân phận mình. Nếu là lời chàng trai, e rằng không sát, vì không ai tỏ tình lại nói với đối tượng bằng từ “thân em” nghe không duyên dáng, thiếu tế nhị. Dù hiểu thế nào thì chúng ta cũng đều cảm nhận rằng bài ca dao này là tiếng hát chứa chan tình cảm đối với đồng ruộng, quê hương và con người quê hương. Hai câu đầu, hai dòng thơ kéo dài, kết hợp điệp từ, đảo từ và đối xứng (đứng bên tê đồng – đứng bên ni đồng ; mênh mông bát ngát – bát ngát mênh mông) đặc tả vẻ đẹp của đồng lúa. Nhìn từ đâu, nhìn ở phía nào cũng thấy đồng ruộng mênh mông, rộng lớn, đẹp đẽ, trù phú và mang sức sống trẻ trung, phơi phới. Trước một cánh đồng như thế, ai chẳng xúc động, chẳng mến yêu quê hương mình, nhất là các cô thôn nữ. Bởi vì, tất cả nét đẹp và trù phú kia không phải trời cho mà chính từ đôi bàn tay, từ công sức của con người, trong đó có mình. Từ cảnh mà sinh tình, ngắm cánh đồng, cô gái tự ngắm mình, vui thú, tự hào về vóc dáng nhỏ xinh, mềm mại của mình “Thân em như chẽn lúa đòng đòng…”. Mình xinh đẹp, tràn trề sức sống, nhưng tương lai ra sao thì… khó đoán được. Nghệ thuật so sánh (như chẽn lúa) kết hợp các từ “thân em”, “phất phơ” vừa tả vẻ đẹp vừa biểu hiện tâm trạng cô gái. Cô gái tự hào vì mình đang tuổi thanh xuân, tươi tắn hoà hợp trong vẻ đẹp và sức sống của đồng ruộng quê hương. Nhưng cô không khỏi bâng khuâng, lo lắng về số phận ngày mai. “Nắng sớm thì đẹp, cánh đồng thì rất rộng, nhưng chẽn lúa thì nhỏ nhoi, vô định giữa một biển lúa không bờ. Chẽn lúa phất phơ trong cánh đồng quá rộng này cũng như dải lụa đào phất phơ giữa chợ, không biết số phận mình sẽ được an bài như thế nào đây”… Tâm sự của cô gái trong bài ca dao này cũng là nỗi niềm của rất nhiều cô gái xinh đẹp trong nhiều bài ca dao khác gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về thân phận con người trong xã hội ngày xưa.
Hướng dẫn Nếu ca dao – dân ca về tình cảm gia đình thường là những bài hát ru, thì ca dao – dân ca về tình yêu quê hương, đất nước, con người thường là những bài hát đối đáp, những khúc ca ngẫu húng tự nhiên cất lên trong sinh hoạt cộng đồng, trong lễ hội, khi ngoạn cảnh, lúc đứng ngắm đồng ruộng quê hương,… Chùm ca dao Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người (Ngữ văn 7, tập một) có lẽ là những bài ca tiêu biểu. Điều thú vị là chỉ bốn bài ca ngắn gọn mà chúng ta nghe được nhiều giọng điệu khác nhau, nhìn ngắm, thưởng thức được nhiều địa danh, nhiều phong cảnh kì thú khác nhau. Ở bài ca dao thứ nhất, chàng trai, cô gái hỏi – đáp về những địa danh mang nhũng đặc điểm nổi bật. Thành Hà Nội năm cửa, sông Lục Đầu sáu khúc chảy êm đềm, nước sông Thương bên đục bên trong, núi Tản Viên, đền Sòng, thành tiên ở Lạng Sơn… Chàng trai hỏi, cô gái đáp, hỏi đáp rất hài hoà, ăn ý. Đây là một hình thức ca hát dân gian thường xuất hiện trong những lễ hội, hội mùa xuân, hội mùa thu ở nhiều vùng quê Việt Nam: hội hát xoan Phú Thọ, hội Lim Bắc Ninh, hát phường vải Nghệ – Tĩnh, hát ví ghẹo, giao duyên ở đồng bằng Bắc Bộ, ở miền Trung và nhiều tỉnh Nam Bộ,… Qua hát đối đáp, đôi bên nam, nữ (có thể là chàng trai cô gái, cũng có thể là cụ ông, cụ bà,…) thử tài nhau về kiến thức lịch sử, địa lí, văn hoá, cũng là để chia sẻ với nhau tình yêu nam nữ, tình bạn, tình yêu quê hương, đất nước. Lắng nghe lời hỏi, đáp của hai nhân vật trữ tình trong bài ca Ở đâu năm cửa nàng ơi…, chúng ta thấy hiện lên nhiều địa danh từ thủ đô Hà Nội đến Hải Dương, Bắc Giang, vào Thanh Hoá, rồi ngược Lạng Sơn. Mỗi vùng có một nét đẹp riêng, hợp thành một bức tranh non nước Việt Nam thơ mộng, giàu truyền thống văn hoá. Không trực tiếp nói ra, nhưng cả người hỏi lẫn người đáp đều biểu hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương, Tổ quốc mình. Bài ca còn kéo dài hơn nữa. Chẳng hạn, chàng trai hỏi tiếp: Ở đâu có chín từng mây Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng? Chùa nào mà lại ở hang Ở đâu lắm gỗ thì nàng biết không?… Cô gái đáp: Trên trời có chín từng mây Dưới sông lắm nước, núi nay nhiều vàng Chùa Hương Tích thì lại ở hang Trên rừng lắm gỗ, hỡi chàng biết không… Như vậy, chàng trai, cô gái trong cuộc hát giao duyên này nói riêng, nhân dân lao động Việt Nam ta nói chung không chỉ say đắm, mến yêu, tự hào về giang sơn Việt Nam cẩm tú mà còn tỏ ra là những người lịch lãm, hào hoa, tế nhị và giàu hiểu biết, thật đáng noi theo. Tiếp sau những cuộc hát đối đáp là những chuyên du lịch. Một nhóm người, hoặc cả đoàn người đông vui chung niềm khao khát được thưởng thức cảnh đẹp ở đất kinh kì, ở xứ Huế cố đô “rủ nhau”, gọi nhau,… Cảnh ở kinh kì thật phong phú, có hồ (Kiếm Hồ), có cầu (Thê Húc), có đền (Ngọc Sơn), có đài, có tháp, cảnh thiên tạo hài hoà với cảnh nhân tạo, nét đẹp tự nhiên hài hoà với nét đẹp lịch sử, văn hoá. Còn ở Huế, cảnh mới thơ mộng làm sao, đường quanh quanh uốn lượn hài hoà với “non xanh”, “nước biếc”, sơn thuỷ hữu tình. Với cảnh ở Hà Nội, tác giả dân gian không tả mà chỉ kể, theo kiểu liệt kê, các chi tiết cảnh nối nhau thật phong phú, đa dạng. Còn với Huế, cảnh được miêu tả theo kiểu chấm phá lướt qua: đường, núi, nước. Mỗi đối tượng được nhấn mạnh bằng một tính từ gợi hình. Đường thì “quanh quanh”, núi thì “xanh”, nước (sông Hương) thì “biếc”. Thêm nữa, từ láy hoàn toàn “quanh quanh” và phép so sánh “như tranh hoạ đồ” khiến cho xứ Huế càng… mộng và… thơ. Thăm Hà Nội kinh kì, rồi vô xứ Huế cố đô, chúng ta được ngắm cảnh, được thăm viếng những di tích lịch sử, văn hoá, lòng càng thêm yêu Tổ quốc tươi đẹp, trí càng thêm rộng mở và lắng sâu, ghi nhớ công ơn người xưa đã tôn tạo và giữ gìn “bức tranh hoạ đồ” quý giá. Bài ca dao thứ tư, thú vị thay, giọng ca, lời ca phóng khoáng linh hoạt, cảnh thiên nhiên và nhân vật trữ tình hoà hợp, đậm chất đồng quê, khác hẳn hai bài trước: Đứng bên ni đồng, ngó hên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đừng bên tê đồng, ngố bên ni đồng, bút ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Về bố cục, bài ca dao này gồm hai phần vừa độc lập vừa gắn bó với nhau. Hai câu đầu tả cảnh đồng lúa trong buổi bình minh. Hai câu sau miêu tả dáng hình cô thôn nữ đẹp đẽ, thơ mộng như đồng lúa, như những chẽn lúa… về giọng điệu, đây là loại bài ca tự do, ngôn ngữ được nới rộng theo đối tượng miêu tả và tâm trạng nhân vật trữ tình. Hai câu đầu, mỗi câu kéo dài mười hai tiếng. Câu thứ ba không phải sáu tiếng mà là bảy tiếng. Chỉ câu bốn mới trở lại tám tiếng bắt vần với câu ba giống thể thơ lục bát. Đây là bài ca dao lục bát biến thể, một thể thơ khá phổ biến trong kho tàng ca dao Việt Nam. Điều cần trao đổi vể bài ca này là chủ thể trữ tình. Ai “đứng… ngó” cánh đồng? Ai nói: “thân em”? Đây là lời người khác hỏi, hay lời cô gái tự than? Có người cho rằng đây là lời chàng trai làng. Chàng trai thấy cánh đồng mênh mông, bát ngát, thấy cô gái xinh đẹp, mảnh mai…, tỏ lời ca ngợi cánh đồng, tỏ tình với cô gái. Có người lại hiểu: đây là lời cô gái. Đứng ngắm đồng quê xanh tốt, lúa đang ngậm đòng, cô thôn nữ đã cất lời ca, ca ngợi cảnh giàu đẹp của cánh đồng, từ đó nghĩ về mình, nhan sắc và thân phận mình… Nếu hiểu theo cách thứ nhất – lời chàng trai – thì bài ca này thuộc nhóm ca dao tỏ tình, ví ghẹo. Ví dụ: Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi. Hoặc: Ai đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm. Mở đầu các bài ca này thường là tiếng gọi, rồi tiếp sau là một câu hỏi ỡm ờ, đưa duyên. Hoặc nếu không thì cũng là những lời ca ngợi khéo léo để làm đẹp lòng người mình đang hướng tới. Ví dụ: Trúc xinh trúc mọc đầu đình Em xinh, em đứng một mình cũng xinh. Nếu hiểu theo cách hai – lời cô gái – thì bài ca này thuộc nhóm ca dao mượn cảnh ngụ tình, trước thiên nhiên và cuộc sống, con người giãi bày tâm sự. Ví dụ: Một ngày hai buổi cơm đèn Còn gì má phấn, răng đen, hỡi chàng. Hoặc: -Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. -Thân em như hạt mưa sa… Suy ngẫm trên cơ sở văn bản, cả nội dung, cảm hứng lẫn giọng điệu, ngôn từ, có lẽ hiểu bài ca dao “Đứng bên ni đồng…” theo cách hai là sát hợp hơn. Đây là lời cô thôn nữ trước đồng ruộng quê hương, vừa ca ngợi cảnh đẹp cánh đồng vừa tự ngắm rồi dự cảm về thân phận mình. Nếu là lời chàng trai, e rằng không sát, vì không ai tỏ tình lại nói với đối tượng bằng từ “thân em” nghe không duyên dáng, thiếu tế nhị. Dù hiểu thế nào thì chúng ta cũng đều cảm nhận rằng bài ca dao này là tiếng hát chứa chan tình cảm đối với đồng ruộng, quê hương và con người quê hương. Hai câu đầu, hai dòng thơ kéo dài, kết hợp điệp từ, đảo từ và đối xứng (đứng bên tê đồng – đứng bên ni đồng ; mênh mông bát ngát – bát ngát mênh mông) đặc tả vẻ đẹp của đồng lúa. Nhìn từ đâu, nhìn ở phía nào cũng thấy đồng ruộng mênh mông, rộng lớn, đẹp đẽ, trù phú và mang sức sống trẻ trung, phơi phới. Trước một cánh đồng như thế, ai chẳng xúc động, chẳng mến yêu quê hương mình, nhất là các cô thôn nữ. Bởi vì, tất cả nét đẹp và trù phú kia không phải trời cho mà chính từ đôi bàn tay, từ công sức của con người, trong đó có mình. Từ cảnh mà sinh tình, ngắm cánh đồng, cô gái tự ngắm mình, vui thú, tự hào về vóc dáng nhỏ xinh, mềm mại của mình “Thân em như chẽn lúa đòng đòng…”. Mình xinh đẹp, tràn trề sức sống, nhưng tương lai ra sao thì… khó đoán được. Nghệ thuật so sánh (như chẽn lúa) kết hợp các từ “thân em”, “phất phơ” vừa tả vẻ đẹp vừa biểu hiện tâm trạng cô gái. Cô gái tự hào vì mình đang tuổi thanh xuân, tươi tắn hoà hợp trong vẻ đẹp và sức sống của đồng ruộng quê hương. Nhưng cô không khỏi bâng khuâng, lo lắng về số phận ngày mai. “Nắng sớm thì đẹp, cánh đồng thì rất rộng, nhưng chẽn lúa thì nhỏ nhoi, vô định giữa một biển lúa không bờ. Chẽn lúa phất phơ trong cánh đồng quá rộng này cũng như dải lụa đào phất phơ giữa chợ, không biết số phận mình sẽ được an bài như thế nào đây”… Tâm sự của cô gái trong bài ca dao này cũng là nỗi niềm của rất nhiều cô gái xinh đẹp trong nhiều bài ca dao khác gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về thân phận con người trong xã hội ngày xưa.
Hướng dẫn Ca dao – dân ca là “tiếng hát đi từ trái tim lên miệng”, là thơ ca trữ tình dân gian. Ca dao – dân ca Việt Nam là cây đàn muôn điệu của tâm hồn nhân dân, nhất là những người lao động Việt Nam. Rất tự nhiên, tâm hồn, tình cảm con người bao giờ cũng bắt đầu từ tình cảm, ân nghĩa đối với những người ruột thịt trong gia đình. Truyền thống văn hoá Việt Nam rất đề cao gia đình và tình nghĩa gia đình. Bài ca tình nghĩa gia đình trong kho tàng ca dao – dân ca Việt Nam vô cùng phong phú. Trong đó, bốn bài ca của văn bản Những câu hát vê tình cảm gia đình là tiêu biểu, vừa sâu sắc về nội dung, vừa sinh động, tinh tế về ngôn ngữ nghệ thuật: – Công cha như núi ngất trời… – Chiều chiều ra đứng ngõ sau… – Ngó lên nuộc lạt mái nhà… – Anh em nào phải người xa… Lời của những bài ca. dao trên là lời của ai, nói với ai thế? Qua âm điệu, ý nghĩa các từ ngữ và hình ảnh những nhân vật trữ tình của chùm ca dao, chúng ta hiểu rằng: đây là lời ru con của mẹ, nói với con ; là lời người con gái lấy chồng xa quê hướng về quê mẹ, nói với mẹ ; là lời của cháu nói với ông và cuối cùng, ở bài thứ tư thì lời nói nghĩa tình ngân lên một khúc hát nhiều bè, có thể là lời của ông bà, hoặc cô bác nói với cháu, của cha mẹ răn bảo con, hoặc của anh em ruột thịt tâm sự, bảo ban nhau. Những câu hát về tình cảm gia đình trong ca dao – dấn ca Việt Nam chúng ta đẹp như một bản hợp ca vừa chân thành, thân mật, ấm cúng, vừa thiêng liêng, trang trọng, xuyên thấm từ đời này sang đời khác. Trong bốn bài ca dao trên, có lẽ lay động sâu sắc tâm hồn, trí tuệ chúng ta nhất là bài 1 và bài 4. Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Sáu tiếng mở đầu ngân theo ba nhịp như khúc dạo nhạc nhẹ nhàng, thủ thỉ của một bài hát ru. Đây là lời ru của mẹ, ru cho đứa con thơ bé ngủ ngon, đồng thời nhắc nhở công lao trời biển của cha mẹ đối với con và bổn phận, trách nhiệm của con cái đối với cha me. Mẹ sinh ra con, dành tất cả những dòng sữa thơm ngọt nuôi phần xác của con và hằng đêm cất tiếng ru êm dịu rót thêm những dòng sữa âm thanh nuôi lớn phần hồn của con. Là những người con, mỗi chúng ta ai mà chẳng đã từng được nghe lời ru của mẹ để rồi cùng với sữa mẹ, những bài hát ru ấy đã nuôi lớn chúng ta, hoàn thiện cho ta những bước trưởng thành cả tâm hồn và thể xác. Ớ bài hát ru này, người mẹ đã ví công lao sinh thành, nuôi dạy của cha mẹ đối với con cái cao như “núi ngất trời”, rộng như “nước biển Đông”. Đây là cách nói ví quen thuộc của ca dao Việt Nam để ca ngợi công ơn cha mẹ đối với con cái. “Công cha”, “nghĩa mẹ” là những ý niệm trừu tượng được so sánh bởi hình ảnh tạo vật cụ thể “núi cao”, “biển rộng”, biểu tượng cho sự vĩnh hằng bất diệt của thiên nhiên. Những hình ảnh ấy được miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ (núi ngất trời: núi rất cao, ngọn núi lẫn trong mây trời ; biển rộng mênh mông: biển rộng không sao đo được). Một hình ảnh vẽ chiều đúng, hài hoà với hình ảnh vẽ chiều ngang dựng một không gian bát ngát, mênh mang, rất gợi cảm. Thêm nữa, hai từ “núi” và “biển” được nhắc lại hai lần (điệp từ) bổ sung thêm nét điệp trùng, nối tiếp của núi, của biển khiến cho chiều cao của núi càng thêm cao, chiều rộng của biển càng thêm rộng… Chỉ những hình ảnh to lớn, cao rộng không cùng và vĩnh hằng ấy mới diễn tả nổi công ơn sinh thành, nuôi dạy con cái của cha mẹ. “Núi ngất trời”, “biển rộng mênh mông” không thể nào đo được, cũng như công ơn cha mẹ đối với con cái không thể nào tính được. Qua nghệ thuật so sánh, dùng từ đặc tả, từ láy và điệp từ, kết hợp giọng thơ lục bát ngọt ngào của điệu hát ru, ba câu đầu của bài ca dao đã khẳng định và ngợi ca công ơn to lớn của cha mẹ đối với con cái. Đây không phải là lời giáo huấn khô khan về chữ hiếu mà là những tiếng nói tâm tình truyền cảm, lay động trái tim chúng ta. Do đó, đến câu cuối “Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”, tuy lời ru chỉ rõ công ơn cha mẹ bằng một thành ngữ “chín chữ cù lao” hơi khó hiểu, nhưng chúng vẫn thấm thìa những tình nghĩa cha mẹ đối với con cái. Có thể nói, công ơn cha mẹ đối với con cái không chỉ gói lại ở con số chín (sinh: đẻ, cúc: nâng đỡ, phủ: vuốt ve, súc: cho bú, trưởng: nuôi lớn, dục: dạy dỗ, cố: trông nom, phục: theo dõi, phúc: che chở) mà mở rộng đến vô cùng. Câu thơ tám tiếng chia đều hai nhịp: bốn tiếng đầu “cù lao chín chữ” nhấn mạnh công ơn cha mẹ, bốn tiếng sau “ghi lòng con ơi” nhắc nhở thái độ và hành động của con cái đền đáp công ơn ấy. Về mặt bố cục và mạch lạc văn bản, bài hát ru này khá chặt chẽ. Nhiều bài ca dao khác của dân tộc ta cũng thường bố cục tương tự: miêu tả sự vật, kể sự việc, rồi nhắc nhở, răn dạy ; nội dung hiện thực, hài hoà mang tính giáo huấn ; lay động người nghe bằng tình cảm, sau đó mới nhắc nhở bằng lí trí, ý thức. Ngoài bài ca dao mà sách giáo khoa giới thiệu, nhiều người Việt Nam còn nhớ một số bài khác có nội dung tương tự như: Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang. Hoặc: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra… Cùng với bài hát ru về công cha, nghĩa mẹ, cha ông ta cũng thường hát ru con cháu về tình cảm anh em thân thương ruột thịt. Bài ca dao thứ tư là lời răn dạy về tình cảm ấy và cũng có bố cục gần giống bài thứ nhất. Phần thứ nhất: Người ru, người hát vừa kể vừa tả quan hệ anh em trong một nhà: Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Quan hệ anh em khác biệt rõ ràng với quan hệ láng giềng, xã hội. Lời ca dùng phép đối chiếu, dùng hai tiếng “người xa” mở đầu mang âm điệu bình thản như vô cảm, rồi đối lại bằng một dòng tám tiếng liền mạch “Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân” nghe vừa như thân mật, tha thiết vừa thiêng liêng, trang trọng. Những hình ảnh “bác” (cha), “mẹ”, “một nhà” kết hợp các từ “cùng” đã nhấn mạnh quan hệ anh em, thân thương, ruột thịt. Lời ca nhẹ nhàng, tự nhiên, ý nghĩa, nội dung sâu sắc mà khơi gợi biết bao tình cảm mặn nồng, tha thiết. Phần tiếp sau là lời răn bảo cụ thể: Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy. Lời răn bảo dùng cách so sánh khéo léo. Tình anh em, yêu thương, hoà thuận, trên kính dưới nhường như tay gắn bó với chân, sự gắn bó bằng đường gân, mạch máu. Đây cũng là cách dùng một ý niệm trừu tượng “tình thương yêu” đối chiếu, so sánh với hình ảnh cụ thể “tay, chân”, mở ra trong suy nghĩ của người nghe nhiều liên tưởng, tưởng tượng rộng và sâu. Nói khác đi, ông bà, cha mẹ luôn mong muốn con cái trong một nhà thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó với nhau như tay với chân trong một cơ thể. Cái cơ thể ấy chính là gia đình. Người tiêu biểu cho gia đình chính là cha mẹ. Tình cảm anh em nằm trong tình thương yêu của cha mẹ. Vì thế, anh em hoà thuận sẽ đem lại niềm vui, hạnh phúc cho cha mẹ “Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy”. Lời ca kết lại, nhưng cảm xúc và ước vọng vẫn tiếp tục mở ra. Những từ ghép “yêu nhau”, “hoà thuận”, “vui vầy” thuộc nhóm từ biểu cảm cứ ngàn lên, lan toả mãi trong lòng người…
Hướng dẫn Ca dao – dân ca là “tiếng hát đi từ trái tim lên miệng”, là thơ ca trữ tình dân gian. Ca dao – dân ca Việt Nam là cây đàn muôn điệu của tâm hồn nhân dân, nhất là những người lao động Việt Nam. Rất tự nhiên, tâm hồn, tình cảm con người bao giờ cũng bắt đầu từ tình cảm, ân nghĩa đối với những người ruột thịt trong gia đình. Truyền thống văn hoá Việt Nam rất đề cao gia đình và tình nghĩa gia đình. Bài ca tình nghĩa gia đình trong kho tàng ca dao – dân ca Việt Nam vô cùng phong phú. Trong đó, bốn bài ca của văn bản Những câu hát vê tình cảm gia đình là tiêu biểu, vừa sâu sắc về nội dung, vừa sinh động, tinh tế về ngôn ngữ nghệ thuật: – Công cha như núi ngất trời… – Chiều chiều ra đứng ngõ sau… – Ngó lên nuộc lạt mái nhà… – Anh em nào phải người xa… Lời của những bài ca. dao trên là lời của ai, nói với ai thế? Qua âm điệu, ý nghĩa các từ ngữ và hình ảnh những nhân vật trữ tình của chùm ca dao, chúng ta hiểu rằng: đây là lời ru con của mẹ, nói với con ; là lời người con gái lấy chồng xa quê hướng về quê mẹ, nói với mẹ ; là lời của cháu nói với ông và cuối cùng, ở bài thứ tư thì lời nói nghĩa tình ngân lên một khúc hát nhiều bè, có thể là lời của ông bà, hoặc cô bác nói với cháu, của cha mẹ răn bảo con, hoặc của anh em ruột thịt tâm sự, bảo ban nhau. Những câu hát về tình cảm gia đình trong ca dao – dấn ca Việt Nam chúng ta đẹp như một bản hợp ca vừa chân thành, thân mật, ấm cúng, vừa thiêng liêng, trang trọng, xuyên thấm từ đời này sang đời khác. Trong bốn bài ca dao trên, có lẽ lay động sâu sắc tâm hồn, trí tuệ chúng ta nhất là bài 1 và bài 4. Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Sáu tiếng mở đầu ngân theo ba nhịp như khúc dạo nhạc nhẹ nhàng, thủ thỉ của một bài hát ru. Đây là lời ru của mẹ, ru cho đứa con thơ bé ngủ ngon, đồng thời nhắc nhở công lao trời biển của cha mẹ đối với con và bổn phận, trách nhiệm của con cái đối với cha me. Mẹ sinh ra con, dành tất cả những dòng sữa thơm ngọt nuôi phần xác của con và hằng đêm cất tiếng ru êm dịu rót thêm những dòng sữa âm thanh nuôi lớn phần hồn của con. Là những người con, mỗi chúng ta ai mà chẳng đã từng được nghe lời ru của mẹ để rồi cùng với sữa mẹ, những bài hát ru ấy đã nuôi lớn chúng ta, hoàn thiện cho ta những bước trưởng thành cả tâm hồn và thể xác. Ớ bài hát ru này, người mẹ đã ví công lao sinh thành, nuôi dạy của cha mẹ đối với con cái cao như “núi ngất trời”, rộng như “nước biển Đông”. Đây là cách nói ví quen thuộc của ca dao Việt Nam để ca ngợi công ơn cha mẹ đối với con cái. “Công cha”, “nghĩa mẹ” là những ý niệm trừu tượng được so sánh bởi hình ảnh tạo vật cụ thể “núi cao”, “biển rộng”, biểu tượng cho sự vĩnh hằng bất diệt của thiên nhiên. Những hình ảnh ấy được miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ (núi ngất trời: núi rất cao, ngọn núi lẫn trong mây trời ; biển rộng mênh mông: biển rộng không sao đo được). Một hình ảnh vẽ chiều đúng, hài hoà với hình ảnh vẽ chiều ngang dựng một không gian bát ngát, mênh mang, rất gợi cảm. Thêm nữa, hai từ “núi” và “biển” được nhắc lại hai lần (điệp từ) bổ sung thêm nét điệp trùng, nối tiếp của núi, của biển khiến cho chiều cao của núi càng thêm cao, chiều rộng của biển càng thêm rộng… Chỉ những hình ảnh to lớn, cao rộng không cùng và vĩnh hằng ấy mới diễn tả nổi công ơn sinh thành, nuôi dạy con cái của cha mẹ. “Núi ngất trời”, “biển rộng mênh mông” không thể nào đo được, cũng như công ơn cha mẹ đối với con cái không thể nào tính được. Qua nghệ thuật so sánh, dùng từ đặc tả, từ láy và điệp từ, kết hợp giọng thơ lục bát ngọt ngào của điệu hát ru, ba câu đầu của bài ca dao đã khẳng định và ngợi ca công ơn to lớn của cha mẹ đối với con cái. Đây không phải là lời giáo huấn khô khan về chữ hiếu mà là những tiếng nói tâm tình truyền cảm, lay động trái tim chúng ta. Do đó, đến câu cuối “Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”, tuy lời ru chỉ rõ công ơn cha mẹ bằng một thành ngữ “chín chữ cù lao” hơi khó hiểu, nhưng chúng vẫn thấm thìa những tình nghĩa cha mẹ đối với con cái. Có thể nói, công ơn cha mẹ đối với con cái không chỉ gói lại ở con số chín (sinh: đẻ, cúc: nâng đỡ, phủ: vuốt ve, súc: cho bú, trưởng: nuôi lớn, dục: dạy dỗ, cố: trông nom, phục: theo dõi, phúc: che chở) mà mở rộng đến vô cùng. Câu thơ tám tiếng chia đều hai nhịp: bốn tiếng đầu “cù lao chín chữ” nhấn mạnh công ơn cha mẹ, bốn tiếng sau “ghi lòng con ơi” nhắc nhở thái độ và hành động của con cái đền đáp công ơn ấy. Về mặt bố cục và mạch lạc văn bản, bài hát ru này khá chặt chẽ. Nhiều bài ca dao khác của dân tộc ta cũng thường bố cục tương tự: miêu tả sự vật, kể sự việc, rồi nhắc nhở, răn dạy ; nội dung hiện thực, hài hoà mang tính giáo huấn ; lay động người nghe bằng tình cảm, sau đó mới nhắc nhở bằng lí trí, ý thức. Ngoài bài ca dao mà sách giáo khoa giới thiệu, nhiều người Việt Nam còn nhớ một số bài khác có nội dung tương tự như: Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang. Hoặc: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra… Cùng với bài hát ru về công cha, nghĩa mẹ, cha ông ta cũng thường hát ru con cháu về tình cảm anh em thân thương ruột thịt. Bài ca dao thứ tư là lời răn dạy về tình cảm ấy và cũng có bố cục gần giống bài thứ nhất. Phần thứ nhất: Người ru, người hát vừa kể vừa tả quan hệ anh em trong một nhà: Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Quan hệ anh em khác biệt rõ ràng với quan hệ láng giềng, xã hội. Lời ca dùng phép đối chiếu, dùng hai tiếng “người xa” mở đầu mang âm điệu bình thản như vô cảm, rồi đối lại bằng một dòng tám tiếng liền mạch “Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân” nghe vừa như thân mật, tha thiết vừa thiêng liêng, trang trọng. Những hình ảnh “bác” (cha), “mẹ”, “một nhà” kết hợp các từ “cùng” đã nhấn mạnh quan hệ anh em, thân thương, ruột thịt. Lời ca nhẹ nhàng, tự nhiên, ý nghĩa, nội dung sâu sắc mà khơi gợi biết bao tình cảm mặn nồng, tha thiết. Phần tiếp sau là lời răn bảo cụ thể: Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy. Lời răn bảo dùng cách so sánh khéo léo. Tình anh em, yêu thương, hoà thuận, trên kính dưới nhường như tay gắn bó với chân, sự gắn bó bằng đường gân, mạch máu. Đây cũng là cách dùng một ý niệm trừu tượng “tình thương yêu” đối chiếu, so sánh với hình ảnh cụ thể “tay, chân”, mở ra trong suy nghĩ của người nghe nhiều liên tưởng, tưởng tượng rộng và sâu. Nói khác đi, ông bà, cha mẹ luôn mong muốn con cái trong một nhà thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó với nhau như tay với chân trong một cơ thể. Cái cơ thể ấy chính là gia đình. Người tiêu biểu cho gia đình chính là cha mẹ. Tình cảm anh em nằm trong tình thương yêu của cha mẹ. Vì thế, anh em hoà thuận sẽ đem lại niềm vui, hạnh phúc cho cha mẹ “Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy”. Lời ca kết lại, nhưng cảm xúc và ước vọng vẫn tiếp tục mở ra. Những từ ghép “yêu nhau”, “hoà thuận”, “vui vầy” thuộc nhóm từ biểu cảm cứ ngàn lên, lan toả mãi trong lòng người…
Hướng dẫn Tác phẩm mang tên là Cuộc chia tay của những con búp bê, nhưng mạch chính của truyện kể về hai bạn nhỏ – hai anh em ruột trong một gia đình khá giả – phải chia tay nhau vì hạnh phúc gia đình đổ vỡ, bố mẹ li hôn. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người xưng “tôi” trong truyện (Thành) là người chứng kiến các việc xảy ra, cũng là người cùng chịu nỗi đau như em gái (Thuỷ) của mình. Cách chọn ngôi kể này giúp tác giả thể hiện được sâu sắc tình cảm, tâm trạng của nhân vật, nhất là nỗi lòng người kể chuyện, Thêm nữa, kể chuyện theo cách này, tác phẩm mang tính chân thực cao và do vậy, sức thuyết phục cũng cao hơn. Đọc truyện ngắn này, người đọc – nhất là lớp trẻ chúng ta. – hiểu ra và suy ngẫm được nhiều điều về nỗi đắng cay trong cuộc đời và những tình người đằm thắm, nhân hậu, nhất là tình anh em ruột thịt. Bố cục của truyện gồm ba phần, mạch lạc và chặt chẽ: 1.Mẹ bắt hai anh em Thành – Thuỷ chia đồ chơi. Đây là cuộc chia tay thứ nhất, trong đó có câu chuyện về hai con búp bê, con Vệ Sĩ và con Em Nhỏ. 2.Thành đưa em đến lớp chào, rồi chia tay cô giáo và các bạn. Đây là cuộc chia tay thứ hai, cuộc chia li đẫm nước mắt. 3.Thành và Thuỷ thực sự phải chia tay nhau. Thành ở lại, Thuỷ theo mẹ về quê. Búp bê Vệ Sĩ ở lại. Búp bê Em Nhỏ về quê. Nhưng việc bất ngờ đã xảy ra. Thuỷ quay lại đưa cho Thành con búp bê Em Nhỏ để nó mãi mãi ở bên con Vệ Sĩ, “con Em Nhỏ quàng tay vào con Vệ Sĩ”… Như vậy là những con búp bê bé nhỏ, hồn nhiên kia không bao giờ phải chia li, cũng như tuổi thơ của Thành và Thuỷ không bao giờ muốn chia li. Nghệ thuật bố cục của nhà văn Khánh Hoài thật tài hoa, đáng học tập. Cách bố cục ấy hài hoà với những chi tiết, những hình ảnh và ngôn ngữ kể chuyện đã thể hiện biết bao nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Trước hết, chúng ta thấy tình anh em ruột thịt của Thành và Thuỷ thật đằm thắm, trong trẻo. Hai anh em họ rất mực gần gũi, thương yêu, chia sẻ cho nhau mọi buồn vui, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong mọi công việc. Thấy áo anh rách, Thuỷ mang kim chỉ ra tận sân vận động vá áo cho anh. Thương anh đêm hay ngủ mê gặp ma, Thuỷ đã “võ trang” cho con Vệ Sĩ đặt đầu giường, gác cho Thành ngủ ngon. Rồi Thuỷ nhường tất cả búp bê cho anh,.. Còn Thành thì, đáp lại tấm lòng hiền thảo, vị tha của em, cũng đã làm nhiều việc tốt, vì em. Thành giúp em học tập. Chiều nào Thành cũng đón em đi học về, dắt tay nhau vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Khi mẹ bắt phải chia đồ chơi, Thành đã nhường hết cho em. Sau đó Thành lại cùng em đến trường để em được chào và chia tay cô giáo, chia tay bạn bè,… Trong quan hệ anh, em giữa Thành và Thuỷ xảy ra một việc thật cảm động. Đó là việc chia đồ chơi, chia hai búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ. Thấy anh lấy hai con búp bê đặt sang hai phía, Thuỷ bỗng “tru tréo lên giận dữ”, nói: “Sao anh ác thế!”. Thành nói: “Anh cho em tất cả”, rồi đặt con Vệ Sĩ vào cạnh con Em Nhỏ giữa đống đồ chơi của Thuỷ. Cặp mắt Thuỷ dịu lại, như có vẻ bằng lòng. Nhưng chợt nghĩ ra điều gì, em lại kêu lên: “Nhưng… lấy ai gác đêm cho anh?”… Như vậy, lời nói và hành động của Thuỷ trước việc này dường như đầy những mâu thuẫn. Lúc đầu, em không muốn hai con búp bê chia tay nhau. Em “tru tréo lên”, nghĩa là em kêu to lên, gắt gỏng, tỏ ý tức giận, trách Thành “ác thế”. Nhưng sau, khi thấy anh trai để hai búp bê ở bên nhau theo ý muốn của mình thì… Thủy lại cũng “kêu lên”, nghĩa là cũng không đồng ý cách giải quyết của anh, vì như thế thì “lấy ai gác đêm cho anh”. Rõ ràng, ở đây có diều éo le, trái ngược, đối lập nhau giữa sự thật – búp bê phải chia tay, hai anh em phải chia tay, niềm vui tuổi trẻ bị chia cắt – và tình anh em gắn bó, tấm lòng vị tha của đứa em nhỏ với người anh thân yêu. Sự thật cuộc đời thật cay đắng mâu thuẫn với tình người ngọt ngào, êm dịu. Đưa ra tình huống này, tác giả thiên truyện muốn gợi lên trong lòng bạn dọc những suy nghĩ lắng sâu và đợi chờ câu trả lời của bạn đọc. Vậy, muốn giải quyết mâu thuẫn này thì làm thế nào? Có lẽ cách tốt nhất là gia đình Thành – Thuỷ phải đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay nhau, búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ cũng không phải chia tay nhau. Cuối truyện, nhà văn kể một chi tiết thật thoả đáng: Thuỷ quay trở lại đặt con Em Nhỏ bên cạnh con Vệ Sĩ để chúng không bao giờ xa nhau. Hành động này của Thuỷ gợi cho người đọc lòng mến trọng đối với Thuỷ, mến trọng một em bé gái giàu lòng vị tha, rất thương anh, thương những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, thà mình chịu thiệt thòi để anh luôn có con Vệ Sĩ gác cho giấc ngủ được ngon lành. Xây dựng chi tiết kết thúc truyện như thế, nhà văn muốn nhắn gửi tới mọi người rằng: cuộc chia tay của các em nhỏ là rất vô lí, là không nên có, không nên để nó xảy ra. Ý tưởng ấy nhắc nhở những người cha, người mẹ. Ý tưởng ấy cũng chia sẻ nỗi khao khát cháy bỏng của tuổi thơ chúng ta: tuổi thơ phải được hạnh phúc, tuổi thơ không muốn chia tay,… Tiếp sau những chi tiết, tình huống biểu hiện tấm lòng và hành động cao đẹp của tình anh em Thành – Thuỷ, nhà văn kể về tình thầy trò, tình bạn, cũng bằng những chi tiết, tình huống truyện thật cảm động. Khi biết Thuỷ đến chào để chia tay, cô giáo Tâm đã “ôm chặt lấy em”, như không muốn chia tay. Còn bạn bè của Thuỷ thì “cả lớp sững sờ… khóc thút thít”, rồi mấy đứa bạn thân bỏ chỗ ngồi, nắm chặt lấy tay Thuỷ như chẳng muôn rời,… Nhưng điều khiến mọi người sửng sốt nhất là lúc nghe Thuỷ nói: “Nhà bà ngoại em ở xa trường lắm. Mẹ em bảo sẽ sắm cho em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán”. Điều đó nghĩa là sau cuộc chia tay thầy và bạn này, cô bé đáng thương sẽ không được đi học nữa, sẽ bị ném ra cuộc đời kiếm sống, sẽ vĩnh viễn mất niềm vui của tuổi học trò… “Trời ơi!”, cô giáo đã kêu lên, tái mặt và nước mắt giàn giụa. Lũ bạn nhỏ của Thuỷ cũng khóc, mỗi lúc một to hon. Đọc đến chi tiết này, sống mũi ai mà không cay cay, nước mắt ai mà không rơm rớm… Chúng ta vừa cảm động trước tình cảm thầy trò, bè bạn của cô giáo và các em học sinh lớp của Thuỷ, vừa thêm xót thương cảnh ngộ éo le của anh em, gia đình Thành – Thuỷ. Kể lại cuộc chia tay đẫm nước mắt ấy, Thành đã tâm sự: “Ra khỏi trường, tôi kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật”. Tại sao lại như thế? Phải chăng, Thành thấy “kinh ngạc” vì: trong khi mọi việc đều diễn ra bình thường, cảnh vật vẫn êm đẹp, cuộc đời vẫn bình yên, thì… hai anh em và gia đình Thành phải chịu sự mất mát, đổ vỡ quá lớn? Nói cách khác, Thành ngạc nhiên vì: trong tâm hồn mình đang nổi dông bão vì sắp phải chia lìa đứa em thân thương, thế mà bên ngoài, mọi người và trời đất vẫn không có gì thay đổi. Đây là một tình huống trớ trêu, đối chọi giữa nội tâm và ngoại cảnh. Cũng là một diễn biến tâm lí được tác giả miêu tả rất hài hoà, tương tự như một đoạn ở phần đầu truyện: Trong khi hai anh em Thành ngồi dưới gốc cây hồng xiêm, lòng buồn rười rượi, thì “Đằng đông, trời hửng dần. Những bông hoa thược dược trong vườn đã thoáng hiện trong màn sương sớm và bắt đầu khoe bộ cánh rực rỡ của mình. Lũ chim sâu nhảy nhót trên cành và chiêm chiếp kêu…”. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, tạo vật đẹp đẽ, vô tư, bình thản trước cảnh ngộ bất hạnh của con người làm tăng thêm nỗi buồn sâu thẳm, trạng thái thất vọng, bơ vơ, lạc lõng của nhân vật trong truyện. Nghệ thuật ấy, chúng ta ít thấy trong văn thơ trung đại…
Hướng dẫn Tác phẩm mang tên là Cuộc chia tay của những con búp bê, nhưng mạch chính của truyện kể về hai bạn nhỏ – hai anh em ruột trong một gia đình khá giả – phải chia tay nhau vì hạnh phúc gia đình đổ vỡ, bố mẹ li hôn. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất. Người xưng “tôi” trong truyện (Thành) là người chứng kiến các việc xảy ra, cũng là người cùng chịu nỗi đau như em gái (Thuỷ) của mình. Cách chọn ngôi kể này giúp tác giả thể hiện được sâu sắc tình cảm, tâm trạng của nhân vật, nhất là nỗi lòng người kể chuyện, Thêm nữa, kể chuyện theo cách này, tác phẩm mang tính chân thực cao và do vậy, sức thuyết phục cũng cao hơn. Đọc truyện ngắn này, người đọc – nhất là lớp trẻ chúng ta. – hiểu ra và suy ngẫm được nhiều điều về nỗi đắng cay trong cuộc đời và những tình người đằm thắm, nhân hậu, nhất là tình anh em ruột thịt. Bố cục của truyện gồm ba phần, mạch lạc và chặt chẽ: 1.Mẹ bắt hai anh em Thành – Thuỷ chia đồ chơi. Đây là cuộc chia tay thứ nhất, trong đó có câu chuyện về hai con búp bê, con Vệ Sĩ và con Em Nhỏ. 2.Thành đưa em đến lớp chào, rồi chia tay cô giáo và các bạn. Đây là cuộc chia tay thứ hai, cuộc chia li đẫm nước mắt. 3.Thành và Thuỷ thực sự phải chia tay nhau. Thành ở lại, Thuỷ theo mẹ về quê. Búp bê Vệ Sĩ ở lại. Búp bê Em Nhỏ về quê. Nhưng việc bất ngờ đã xảy ra. Thuỷ quay lại đưa cho Thành con búp bê Em Nhỏ để nó mãi mãi ở bên con Vệ Sĩ, “con Em Nhỏ quàng tay vào con Vệ Sĩ”… Như vậy là những con búp bê bé nhỏ, hồn nhiên kia không bao giờ phải chia li, cũng như tuổi thơ của Thành và Thuỷ không bao giờ muốn chia li. Nghệ thuật bố cục của nhà văn Khánh Hoài thật tài hoa, đáng học tập. Cách bố cục ấy hài hoà với những chi tiết, những hình ảnh và ngôn ngữ kể chuyện đã thể hiện biết bao nội dung, ý nghĩa của tác phẩm. Trước hết, chúng ta thấy tình anh em ruột thịt của Thành và Thuỷ thật đằm thắm, trong trẻo. Hai anh em họ rất mực gần gũi, thương yêu, chia sẻ cho nhau mọi buồn vui, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong mọi công việc. Thấy áo anh rách, Thuỷ mang kim chỉ ra tận sân vận động vá áo cho anh. Thương anh đêm hay ngủ mê gặp ma, Thuỷ đã “võ trang” cho con Vệ Sĩ đặt đầu giường, gác cho Thành ngủ ngon. Rồi Thuỷ nhường tất cả búp bê cho anh,.. Còn Thành thì, đáp lại tấm lòng hiền thảo, vị tha của em, cũng đã làm nhiều việc tốt, vì em. Thành giúp em học tập. Chiều nào Thành cũng đón em đi học về, dắt tay nhau vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Khi mẹ bắt phải chia đồ chơi, Thành đã nhường hết cho em. Sau đó Thành lại cùng em đến trường để em được chào và chia tay cô giáo, chia tay bạn bè,… Trong quan hệ anh, em giữa Thành và Thuỷ xảy ra một việc thật cảm động. Đó là việc chia đồ chơi, chia hai búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ. Thấy anh lấy hai con búp bê đặt sang hai phía, Thuỷ bỗng “tru tréo lên giận dữ”, nói: “Sao anh ác thế!”. Thành nói: “Anh cho em tất cả”, rồi đặt con Vệ Sĩ vào cạnh con Em Nhỏ giữa đống đồ chơi của Thuỷ. Cặp mắt Thuỷ dịu lại, như có vẻ bằng lòng. Nhưng chợt nghĩ ra điều gì, em lại kêu lên: “Nhưng… lấy ai gác đêm cho anh?”… Như vậy, lời nói và hành động của Thuỷ trước việc này dường như đầy những mâu thuẫn. Lúc đầu, em không muốn hai con búp bê chia tay nhau. Em “tru tréo lên”, nghĩa là em kêu to lên, gắt gỏng, tỏ ý tức giận, trách Thành “ác thế”. Nhưng sau, khi thấy anh trai để hai búp bê ở bên nhau theo ý muốn của mình thì… Thủy lại cũng “kêu lên”, nghĩa là cũng không đồng ý cách giải quyết của anh, vì như thế thì “lấy ai gác đêm cho anh”. Rõ ràng, ở đây có diều éo le, trái ngược, đối lập nhau giữa sự thật – búp bê phải chia tay, hai anh em phải chia tay, niềm vui tuổi trẻ bị chia cắt – và tình anh em gắn bó, tấm lòng vị tha của đứa em nhỏ với người anh thân yêu. Sự thật cuộc đời thật cay đắng mâu thuẫn với tình người ngọt ngào, êm dịu. Đưa ra tình huống này, tác giả thiên truyện muốn gợi lên trong lòng bạn dọc những suy nghĩ lắng sâu và đợi chờ câu trả lời của bạn đọc. Vậy, muốn giải quyết mâu thuẫn này thì làm thế nào? Có lẽ cách tốt nhất là gia đình Thành – Thuỷ phải đoàn tụ, hai anh em không phải chia tay nhau, búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ cũng không phải chia tay nhau. Cuối truyện, nhà văn kể một chi tiết thật thoả đáng: Thuỷ quay trở lại đặt con Em Nhỏ bên cạnh con Vệ Sĩ để chúng không bao giờ xa nhau. Hành động này của Thuỷ gợi cho người đọc lòng mến trọng đối với Thuỷ, mến trọng một em bé gái giàu lòng vị tha, rất thương anh, thương những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ không để búp bê phải chia tay, thà mình chịu thiệt thòi để anh luôn có con Vệ Sĩ gác cho giấc ngủ được ngon lành. Xây dựng chi tiết kết thúc truyện như thế, nhà văn muốn nhắn gửi tới mọi người rằng: cuộc chia tay của các em nhỏ là rất vô lí, là không nên có, không nên để nó xảy ra. Ý tưởng ấy nhắc nhở những người cha, người mẹ. Ý tưởng ấy cũng chia sẻ nỗi khao khát cháy bỏng của tuổi thơ chúng ta: tuổi thơ phải được hạnh phúc, tuổi thơ không muốn chia tay,… Tiếp sau những chi tiết, tình huống biểu hiện tấm lòng và hành động cao đẹp của tình anh em Thành – Thuỷ, nhà văn kể về tình thầy trò, tình bạn, cũng bằng những chi tiết, tình huống truyện thật cảm động. Khi biết Thuỷ đến chào để chia tay, cô giáo Tâm đã “ôm chặt lấy em”, như không muốn chia tay. Còn bạn bè của Thuỷ thì “cả lớp sững sờ… khóc thút thít”, rồi mấy đứa bạn thân bỏ chỗ ngồi, nắm chặt lấy tay Thuỷ như chẳng muôn rời,… Nhưng điều khiến mọi người sửng sốt nhất là lúc nghe Thuỷ nói: “Nhà bà ngoại em ở xa trường lắm. Mẹ em bảo sẽ sắm cho em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán”. Điều đó nghĩa là sau cuộc chia tay thầy và bạn này, cô bé đáng thương sẽ không được đi học nữa, sẽ bị ném ra cuộc đời kiếm sống, sẽ vĩnh viễn mất niềm vui của tuổi học trò… “Trời ơi!”, cô giáo đã kêu lên, tái mặt và nước mắt giàn giụa. Lũ bạn nhỏ của Thuỷ cũng khóc, mỗi lúc một to hon. Đọc đến chi tiết này, sống mũi ai mà không cay cay, nước mắt ai mà không rơm rớm… Chúng ta vừa cảm động trước tình cảm thầy trò, bè bạn của cô giáo và các em học sinh lớp của Thuỷ, vừa thêm xót thương cảnh ngộ éo le của anh em, gia đình Thành – Thuỷ. Kể lại cuộc chia tay đẫm nước mắt ấy, Thành đã tâm sự: “Ra khỏi trường, tôi kinh ngạc thấy mọi người vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật”. Tại sao lại như thế? Phải chăng, Thành thấy “kinh ngạc” vì: trong khi mọi việc đều diễn ra bình thường, cảnh vật vẫn êm đẹp, cuộc đời vẫn bình yên, thì… hai anh em và gia đình Thành phải chịu sự mất mát, đổ vỡ quá lớn? Nói cách khác, Thành ngạc nhiên vì: trong tâm hồn mình đang nổi dông bão vì sắp phải chia lìa đứa em thân thương, thế mà bên ngoài, mọi người và trời đất vẫn không có gì thay đổi. Đây là một tình huống trớ trêu, đối chọi giữa nội tâm và ngoại cảnh. Cũng là một diễn biến tâm lí được tác giả miêu tả rất hài hoà, tương tự như một đoạn ở phần đầu truyện: Trong khi hai anh em Thành ngồi dưới gốc cây hồng xiêm, lòng buồn rười rượi, thì “Đằng đông, trời hửng dần. Những bông hoa thược dược trong vườn đã thoáng hiện trong màn sương sớm và bắt đầu khoe bộ cánh rực rỡ của mình. Lũ chim sâu nhảy nhót trên cành và chiêm chiếp kêu…”. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, tạo vật đẹp đẽ, vô tư, bình thản trước cảnh ngộ bất hạnh của con người làm tăng thêm nỗi buồn sâu thẳm, trạng thái thất vọng, bơ vơ, lạc lõng của nhân vật trong truyện. Nghệ thuật ấy, chúng ta ít thấy trong văn thơ trung đại…
Hướng dẫn Mẹ tôi là bài văn dưới dạng một bức thư của nhà văn Ét-môn-đô đơ A-mi-xi (I-ta-li-a). Thư của người bố gửi cho con trai là En-ri-cô. En-rĩ-cô đã ghi lại trong một trang nhật kí đề ngày “Thứ năm, ngày 10 tháng 11”. Chỉ một lá thư ngắn ngủi mà chứa đựng bao nhiêu, nỗi niềm, bao nhiêu tâm trạng, Đọc bài văn, lá thư của người bố gửi cho con, chúng ta hiểu và thấm thìa bao nhiêu bài học về tình cảm gia đình, nhất là về thái độ ứng xử của con cái đối với mọi cha. Bài văn kể lại câu chuyện khi cô giáo đến thăm, En-ri-cô nói với mẹ đã “nhỡ thốt ra một lời thiếu lễ độ”. Người cha đã “để ý” đến điều đó và ông vô cùng tức giận. Ngay ở phần đầu bức thư, ông đã răn đe: “Việc như thế không bao giờ con được tái phạm nữa”. Rồi ông bày tỏ tâm trạng: “Sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bố vậy”. Nỗi đau tinh thẩn – sự buồn bã và tức giận – được ví với một tình huống khốc liệt: “nhát dao đâm vào tim”, chứng tỏ nỗi lòng người cha “Vô cùng đau đớn, vừa buồn vừa giận con, vừa xót xa, thất vọng vì đứa con đã không xứng với tình yêu và niềm trông đợi của ông. Trái tim ông như rỉ máu. Ông đau đớn tưởng chừng không sống nổi. Nhưng người cha ấy vẫn cố giữ bình tĩnh, giảng giải cho con điểu hay, lẽ phải. Qua lời thư của ông, chúng ta hiểu mẹ của En-ri-cô rất mực yêu thương con: “cách đây mấy năm, mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con!… Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể đi ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con!”. Rõ ràng, mẹ của En-ri-cô cũng như bao người mẹ khác trên thế gian này đã yêu thương, chăm sóc nuôi dạy con cái bằng tất cả tấm lòng, sức lực, hi sinh tất cả hạnh phúc và cuộc sống của mình cho con cái. Tình mẫu tử của con người thật thiêng liêng, cao cả biết nhường nào. Vì thế, sau những dòng thư vừa kể chuyện vừa ngợi ca tình yêu của người mẹ với En-ri-cô, bố của chú bé đã phân tích sâu sắc mối quan hệ ruột thịt, gắn bó sâu nặng giữa hai mẹ con En-ri-cô: “Trong đời, con có thể trải qua những ngày buồn thảm, nhưng ngày buồn thảm nhất tất sẽ là ngày mà con mất mẹ. Khi đã khôn lớn…, có thể có lúc con sẽ mong ước thiết tha được nghe lại tiếng nói của mẹ, được mẹ dang tay ra đón vào lòng. Dù có lớn khôn, khoẻ mạnh thế nào đi chăng nữa, con sẽ vẫn tự thấy mình chỉ là một đứa trẻ tội nghiệp, yếu đuối và không được chở che…”. Người cha của En-ri-cô đã dự cảm, giả định bao tình huống để khẳng định một chân lí, một quy luật muôn đời rằng tình mẹ con, sự gắn bó giữa mẹ và con vô cùng khăng khít, bền vững mãi mãi trong thời gian và suốt cuộc đời con người. Thật đúng như lời một bài hát quen thuộc mà tuổi trẻ Việt Nam ta thường hát: “Cha mẹ là lá chắn, che chở suốt đời con,..”. Công lao nuôi nấng, dạy dỗ cũng như tình cảm yêu thương của cha mẹ, trước nhất là người mẹ đối với con cái thật không bút nào tả xiết được. Vì thế, bố của En-ri-cô đã nghiêm khắc cảnh tỉnh lỗi lầm của cậu con trai bằng những lời thật da diết: “Con sẽ cay đắng khi nhớ lại những lúc đã làm cho mẹ đau lòng… Lương tâm con sẽ không một phút nào yên tĩnh…”. Thậm chí ông nói cực đoan rằng: “Bố rất yêu con, En-ri-cô ạ,… nhưng thà rằng bố không có con, còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ…”. Lời thư nhẹ nhàng mà tha thiết, không quát tháo, không mắng mỏ, nhưng đọc lên nghe đau nhói cả cõi lòng. Đọc những lời này, chắc cậu bé học sinh người I-ta-li-a ấy hối hận vô cùng. Còn chúng ta, trong đời, ai chẳng đã một lần phạm lỗi khiến mẹ phiền lòng, cha tức giận, thì khi đọc những lời văn này, chắc cũng thấy nôn nao, ân hận. Chúng ta thử đoán xem, điều gì đã khiến cho En-ri-cô “xúc động vô cùng” khi đọc thư của bố? Có phải vì bố đã gợi lại những kỉ niệm đẹp giữa mẹ và chú bé? Hay vì thái độ kiên quyết và nghiêm khắc của bố? Hay cũng còn là vì những lời nói chân tình, xuất phát từ tình yêu, từ lòng mong muốn đứa con mau chóng trưởng thành,… của người bố gửi tới con? Hay còn vì những lí do nào khác nữa? Điều thú vị là những điều răn dạy quý báu ấy người bố của En-ri-cô không trực tiếp nói bằng lời mà lại nói qua một bức thư. Chúng ta có thể hiểu thế này được chăng: Tình cảm sâu sắc thường tế nhị và kín đáo, nhiều khi không thể nói trực tiếp được. Nói bằng văn bản, ý tứ được chi tiết hơn, sự sắp xếp được chặt chẽ hơn. Hơn nữa, viết thư tức là chỉ nói riêng cho người mắc lỗi biết, vừa giữ được sự kín đáo tế nhị vừa không làm người mắc lỗi mất đi lòng tự trọng. Đây cũng là bài học về cách ứng xử trong cuộc sống gia đình cũng như trong nhà trường và xã hội. Cuối lá thư, bố của En-ri-cô khuyên con trai làm những việc thiết thực để nhận lỗi, rồi xin lỗi mẹ. Chắc rằng đọc xong lá thư của bố, chú bé đã nhận ra lỗi lầm của mình và đã làm theo lời khuyên của bố. Còn chúng ta, sau khi đọc xong văn bản này, bên tai vẫn văng vẳng những tiếng nói tâm huyết cao đẹp của một người cha: “Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó”. Đây là lời của nhân vật người cha trong tác phẩm, cứng là thông điệp của nhà văn, tác giả Những tấm lòng cao cả muốn gửi tới bạn đọc. Với dân tộc Việt Nam, biết bao nhà văn, nhạc sĩ cũng đã sáng tác nhiều tác phẩm đặc sắc vừa ngợi ca vừa nhắc nhở chúng ta nhiều điều sâu sắc, thiết thực về tình mẹ con, tình cảm gia đình. Riêng tôi, tôi nhớ nhất bài ca dao này: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha,
Instruct My Mother is an essay in the form of a letter by writer Edmondo de Amixi (Italy). Letter from a father to his son, Enrique. En-rique recorded it in a diary page dated "Thursday, November 10". Just a short letter contains so much, so much emotion, so many emotions. Reading the essay, the letter from the father to his child, we understand and absorb so many lessons about family love, especially is about the children's behavior towards their fathers. The essay recounts the story of when the teacher came to visit, Enrique told his mother that he had "accidentally uttered an impolite word". The father “noticed” that and he was extremely angry. Right at the beginning of the letter, he warned: "You must never do something like that again." Then he expressed his feelings: "Your insolence is like a knife stabbing me in the heart." Mental pain - sadness and anger - is compared to a fierce situation: "a knife stabbing into the heart", proving that the father's heart is "extremely painful, both sad and angry with his child, and also heartbroken." , disappointed that his child was not worthy of his love and expectations. His heart seemed to bleed. He was in so much pain that he thought he wouldn't be able to live. But the father still tried to stay calm and explain to his son well and rightly. Through his letter, we understand that Enrique's mother loved her child very much: "A few years ago, I had to stay up all night, crouching over the cradle, watching for your panting and writhing. paralyzed by fear, sobbing at the thought of losing her child!... A mother is willing to give up a year of happiness to avoid an hour of pain for her child, a mother can beg to feed her child, she can Sacrifice your life to save your life!”. Clearly, Enrique's mother, like many other mothers in this world, loved, cared for and raised her children with all her heart and strength, sacrificing all her happiness and life. for children. How sacred and noble is human motherhood. Therefore, after the letters that both told the story and praised the mother's love for Enrique, the boy's father deeply analyzed the close relationship and deep bond between Enrique and his mother. Rico: “In life, you may experience sad days, but the saddest day will definitely be the day you lose your mother. When you grow up..., there may be times when you will earnestly wish to hear your mother's voice again, to have your mother open her arms to welcome you into your arms. No matter how grown up and healthy you are, you will still see yourself as just a poor, weak and unprotected child..." Enrique's father had a premonition and assumed many situations to affirm a truth, an eternal rule that the love between mother and child, the bond between mother and child, is extremely close and lasting forever. over time and throughout human life. It's true like the words of a familiar song that our Vietnamese youth often sing: "Parents are the shield, protecting me throughout my life...". The effort of raising and educating as well as the love and affection of parents, especially mothers, towards their children is truly indescribable. Therefore, Enrique's father sternly warned his son of his mistake with these painful words: "You will be bitter when you remember the times when you hurt me... Your conscience will not One minute of quiet...". He even said to the extreme: "I love you very much, Enrique... but I would rather not have you, than see you be ungrateful to me...". The letter was gentle but earnest, not shouting or scolding, but reading it was heart-wrenching. Reading these words, that Italian student must have felt extremely regretful. As for us, in our lives, we have not once made a mistake that made our mother upset or our father angry, then when we read these words, we probably feel uneasy and regretful. Let's try to guess what made Enrique "so moved" when reading his father's letter? Is it because dad brought back beautiful memories between mom and the boy? Or because of his father's resolute and strict attitude? Or is it also because of the sincere words, coming from love, from the desire for the child to grow up quickly,... sent to the child by the father? Or are there other reasons? The interesting thing is that Enrique's father did not say these precious commandments directly in words but rather through a letter. Can we understand it this way: Deep feelings are often delicate and secretive, and sometimes cannot be expressed directly. Speaking in writing, ideas are more detailed and the arrangement is more rigorous. Furthermore, writing a letter means only telling the person who made the mistake in private, maintaining confidentiality and not making the person make the mistake lose their self-esteem. This is also a lesson on how to behave in family life as well as in school and society. At the end of the letter, Enrique's father advised his son to do practical things to admit his mistakes and then apologize to his mother. Surely after reading his father's letter, the boy realized his mistake and followed his father's advice. As for us, after reading this text, the beautiful and passionate voice of a father still rings in our ears: "Remember, love and respect for your parents are the most sacred feelings. . It is shameful and humiliating for anyone who tramples on that love." These are the words of the father character in the work, and are the message that the writer and author of Noble Hearts wants to send to readers. For the Vietnamese people, countless writers and musicians have also composed many unique works that both praise and remind us of many profound and practical things about mother-child love and family affection. Personally, I remember this folk song the most: The father as a mountain, Motherhood is like water flowing from a source. One Heart Worship Mother Glass Father,
Hướng dẫn Cổng trường mở ra là một bài bút kí ghi lại tâm trạng của một người mẹ trong đêm chuẩn bị cho con trước ngày khai trường để vào lớp Một. Không có sự việc, không có cốt truyện, nhưng văn bản này vẫn hấp dẫn chúng ta, bởi vì từng câu văn, từng dòng chữ dạt dào biết bao nỗi niềm tâm sự của một người mẹ rất mực thương yêu con, không nguôi nghĩ tới trách nhiệm của mình đối với đứa con bé bỏng. Đứa con trong bài văn là một cậu bé chuẩn bị vào lớp Một. Còn chúng ta, những học sinh lớp 7, đã qua lớp Một từ lâu. Vậy mà khi đọc bài văn cổng trường mở rạ, lòng ta vẫn rạo rực những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến, cứ như đang được một chiếc máy thời gian dẫn về những ngày ấu thơ đẹp đẽ thuở xưa… Đêm trước ngày khai trường, tâm trạng của người mẹ và đứa con rất khác nhau. Hình ảnh cậu học sinh lớp Một được miêu tả ở phần đầu bài văn thật ngây thơ, đáng yêu quá. Gương mặt cậu thanh thoát tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé mở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo. Ngày mai khai trường, ngày mai được đi học, được vào lớp Một. Vậy mà đêm nay, cậu bé vẫn ngủ một cách thanh thản, bởi vì cậu đã được mẹ giúp chuẩn bị mọi việc, mọi thứ sẵn sàng. Cũng có niềm háo hức như trước những chuyến đi xa, nhưng giờ đây trong lòng cậu bé không có mối bận tâm nào khác ngoài chuyện ngày mai thức dậy cho kịp giờ. Như vậy, trong cái đêm trước ngày khai trường, tâm hồn đứa con, cậu học sinh lớp Một ấy thật là thanh thản, nhẹ nhàng, hồn nhiên, vô tư,… Biết đâu, trong đêm nay, cậu bé sẽ mơ một giấc mơ đẹp, giấc mơ về gia đình hạnh phúc, về cuộc đời tươi sáng. Đứa con, cậu học sinh lớp Một ấy và tất cả chúng ta, nhũng học sinh tiểu học, trung học cơ sở,… có được những giây phút thanh thản, vô tư để mơ giấc mơ đẹp là nhờ đâu? Phải chăng, trước hết là nhờ tình thương yêu, sự chăm sóc dạy dỗ của người mẹ. Nhà văn Lý Lan, chắc cũng là một người mẹ, đã ghi lại biết bao suy nghĩ, tình cảm, tâm trạng của một người mẹ như thế trong đêm chuẩn bị cho con vào lóp Một. Mọi việc chuẩn bị đã xong, mẹ tự bảo mình cũng nên đi ngủ sớm. Nhưng lên giường nằm, mẹ cứ “trằn trọc” mãi. Nhà văn đã dùng một động từ ghép đẳng lập đúng chỗ – trằn trọc. “Trằn trọc là trở mình luôn, cố ngủ mà không ngủ được vì có nhiều điều phải lo nghĩ”. Người mẹ ấy đã lo nghĩ những điều gì? Trước hết, người mẹ tin ở con, tin ở mình. “Mẹ tin là con sẽ không bỡ ngỡ… Mẹ tin đứa con của mẹ lớn rồi. Mẹ tin vào sự chuẩn bị rất chu đáo cho con…”. Điệp ngữ “mẹ tin” được nhắc lại ba lần vang vọng trong tâm hồn người mẹ, chứng tỏ người mẹ đã yên lòng, không phải lo lắng gì về con, về mình. Nhưng “vẫn không ngủ được”, vẫn “trằn trọc”. Bởi vì trong lòng người mẹ trào lên bao hồi tưởng đẹp đẽ, bao suy nghĩ lắng sâu. Do đó, sau những niềm tin, người mẹ nhớ lại kỉ niệm xa xưa, ngày còn thơ ấu, ngày đầu tiên cắp sách đến trường. Bên tai người mẹ bỗng vang lên tiếng đọc bài trầm bổng: “Hằng năm, cứ vào cuối thu… Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”. Trong đoạn văn này xuất hiện hai từ ghép đẳng lập thật đặc sắc” Từ “trầm bổng” tả âm thanh tiếng đọc bài khi thấp, khi cao, nhẹ nhàng, vang xa mãi không dứt. Từ “âu yếm” biểu hiện tình thương yêu, trìu mến, sự chăm sóc dịu dàng của người mẹ đối với đứa con. Thế là từ một tiếng đọc bài trầm bổng, trong cuốn sách giáo khoa xưa, ùa dậy những ấn tượng khắc sâu mãi trong lòng người mẹ về cái ngày “hôm nay tôi đi học”. “Mẹ còn nhớ sự nôn nao, hồi hộp khi cùng bà ngoại đi tới gần ngôi trường và nỗi chơi vơi hốt hoảng khi cổng trường đóng lại, bà ngoại đứng ngoài cánh cổng như đứng bên ngoài cái thế giới mà mẹ vừa bước vào”. Chỉ trong một thời khắc, ngắn ngủi mở đầu cuộc đời cắp sách mà cô học trò nhỏ bé – tuổi thơ của người mẹ ngày nay – trải qua bao nhiêu tâm trạng. Nào là nôn nao, hồi hộp, nào là chơi vơi, hốt hoảng… Bên cạnh nhũng từ ghép đẳng lập biểu hiện tâm trạng nhân vật, nhà văn đã dùng những từ ghép chính phụ để miêu tả sự vật và con người khá rõ nét như: bà ngoại, ngôi trường, cổng trường., cánh cổng. Ngôn ngữ văn chương và nội dung, ý nghĩa hài hoà với nhau khiến người đọc dễ hiểu và thích thú. Trở lại với tâm trạng của người mẹ trong bài văn, chúng ta hiểu rằng, người mẹ ấy nhớ nhũng kỉ niệm xưa, không chỉ để được sống lại tuổi thơ đẹp đẽ của mình mà còn muốn “nhẹ nhàng, cẩn thận và tự nhiên ghi vào lòng con. Để rồi bất cứ một ngày nào đó trong đời, khi nhớ lại, lòng con lại rạo rực những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Điều đó có nghĩa là người mẹ muốn truyền cho cậu học sinh lớp Một kia những cung bậc tâm trạng đẹp đẽ của cuộc đời, những người được cắp sách tới trường trong ngày đầu vào lớp Một… Sau những hồi tưởng và mong ước, người mẹ ấy mở rộng ý nghĩ, liên tưởng tới một nét văn hoá rất đẹp của nước Nhật. “Mẹ nghe nói ở Nhật, ngày khai trường là ngày lễ của toàn xã hội… không có ưu tiên nào lớn hơn ưu tiên giáo dục thế hệ trẻ cho tương lai… Ai cũng biết rằng mỗi sai lầm trong giáo dục sẽ ảnh hưởng đến cả một thế hệ mai sau, và sai lầm một li có thể đưa thế hệ ấy đi chệch cả hằng dặm sau này…”. Nghĩ về chuyện của thế giới, để hiểu rõ và ghi nhớ trách nhiệm vinh quang và nặng nề của chính bản thân mình đối với việc chăm lo, giáo dục con cái nói riêng và cả thế hệ trẻ của đất nước mình nói chung. Tấm lòng người mẹ ấy đẹp đẽ, cao cả biết bao. Ý tưởng này của nhà văn Lý Lan sâu sắc và nhân văn biết bao! Toàn bộ bài văn là tiếng nói nội tâm của nhân vật người mẹ. Người mẹ không trực tiếp nói với con hoặc với ai cả. Người mẹ nhìn con ngủ, như tâm sự với con, nhung thực ra là đang nói với chính mình, đang tự ôn lại kỉ niệm của chính mình. Cách viết này làm nổi bật được tâm trạng, ý nghĩ, tình cảm của nhân vật, cũng chính là của tác giả. Nói khác đi, đây là một kiểu văn chương trữ tình, có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ. Nhân vật người mẹ trong bài văn cứ thủ thỉ tâm tình tự nói với mình, theo kiểu “Một mình mình biết, một mình mình hay”. Nhà văn cũng vậy, không có ý răn bảo ai bằng những lời khô cứng mà hoá thân vào nhân vật để tâm sự với bạn đọc, rất nhẹ nhàng, rất tinh tế mà vô cùng thấm thìa, lay mạnh ý nghĩ và tình cảm người đọc.
Instruct The school gate opens is a notebook recording the mood of a mother on the night of preparing her child before the first day of school to enter first grade. There are no events, no plot, but this text still attracts us, because each sentence, each line is full of the feelings of a mother who loves her child very much, and cannot stop thinking about it. to your responsibility towards your baby. The child in the essay is a boy preparing to enter first grade. As for us, 7th graders, we have long passed first grade. Yet, when reading the essay about opening the school gate, our hearts are still filled with feelings of sadness and excitement, as if we are being guided by a time machine back to the beautiful childhood days of the past... The night before the first day of school, the moods of mother and child are very different. The image of the first grader described at the beginning of the article is so innocent and adorable. His face rested elegantly on the soft pillow, his lips parted and occasionally curled up as if sucking on candy. Tomorrow school starts, tomorrow I can go to school, I can enter first grade. Yet tonight, the boy still slept peacefully, because his mother helped him prepare everything, everything was ready. There was the same excitement as before on long trips, but now the boy had no other concern in his heart other than waking up on time tomorrow. So, on the night before the first day of school, the soul of the child, that first grade student, was so peaceful, gentle, innocent, carefree... Who knows, maybe tonight, the boy will dream a dream? Beautiful dreams, dreams of a happy family, of a bright life. Where does that child, that first grader, and all of us, elementary and middle school students, have those peaceful, carefree moments to dream beautiful dreams? Perhaps, first of all, it is thanks to the love, care and education of the mother. Writer Ly Lan, probably also a mother, recorded many thoughts, feelings, and moods of such a mother on the night of preparing her child for first grade. All preparations were done, mother told herself she should go to bed early. But when she went to bed, she kept tossing and turning. The writer used a compound verb in the right place - toss and turn. "Tossing and turning is tossing and turning, trying to sleep but not being able to sleep because there are many things to worry about." What was that mother worried about? First of all, the mother believes in her child and believes in herself. “I believe you won't be surprised... I believe my child is grown up. I believe in very thoughtful preparation for you...". The refrain "I believe" is repeated three times and echoes in the mother's soul, proving that the mother is at peace and does not have to worry about her child or herself. But "still can't sleep", still "restless". Because in the mother's heart, there are many beautiful memories and deep thoughts. Therefore, after her beliefs, the mother remembered her old memories, her childhood days, her first day at school. The mother's ear suddenly rang out the melodious voice reading: "Every year, at the end of autumn... My mother lovingly took my hand and led me down the long and narrow village road." In this passage, two unique compound words appear: The word "bass" describes the sound of the reading, sometimes low, sometimes high, gentle, echoing far and wide without stopping. The word "cuddle" expresses a mother's love, affection, and tender care for her child. So from an hour of melodious reading, in an old textbook, deep impressions arose in the mother's heart about the day "I go to school today". "I still remember the excitement and nervousness when walking with my grandmother near the school and the panic when the school gate closed and my grandmother stood outside the gate as if standing outside the world that I had just entered." . In just one short moment, the beginning of her school life, the little student - the childhood of today's mother - experienced many emotions. What are the hangovers, nervousness, restlessness, panic... Besides the isotopic compound words expressing the character's mood, the writer has used primary and secondary compound words to describe things and people quite clearly. such as: grandmother, school, school gate, gate. Literary language, content, and meaning are in harmony with each other, making it easy for readers to understand and enjoy. Returning to the mother's mood in the text, we understand that the mother misses old memories, not only to relive her beautiful childhood but also to "be gentle, careful and natural." write it in your heart. Then any day in my life, when I remember, my heart is filled with feelings of uncertainty and anxiety. That means the mother wants to convey to the first grader the beautiful moods of life, those who go to school on the first day of first grade... After reminiscing and wishing, the mother expanded her thoughts and thought of a very beautiful cultural feature of Japan. “I heard that in Japan, the first day of school is a holiday for the entire society... there is no greater priority than educating the young generation for the future... Everyone knows that every mistake in education will affect the future. an entire future generation, and a single mistake can take that generation many miles later...". Think about the world, to understand and remember your own glorious and heavy responsibility for taking care of and educating your children in particular and the young generation of your country in general. How beautiful and noble is that mother's heart. How profound and humane is this idea of ​​writer Ly Lan! The entire essay is the inner voice of the mother character. The mother did not directly speak to her child or anyone. The mother watched her child sleep, as if confiding in him, but actually she was talking to herself, reviewing her own memories. This way of writing highlights the mood, thoughts, and feelings of the character, which is also the author's. In other words, this is a type of lyrical literature with a strong inspirational effect. The mother character in the essay keeps whispering to herself, like "I'm the only one who knows, I'm the only one who knows." The writer, too, does not intend to warn anyone with dry words but incarnates into the character to confide in the reader, very gently, very delicately but extremely penetrating, strongly shaking people's thoughts and feelings. read.