vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Cảm nhận về bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc của Trần Đình Hượu Hướng dẫn Cảm nhận về bài Nhìn về vốn văn hóa dân tộc của Trần Đình Hượu Trần Đình Hượu là một chuyên gia về các vấn đề văn hóa tư tưởng ở Việt Nam. Ông đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về văn hóa tư tưởng có giá trị từ hiện đại đến truyền thống. Và nhìn về vốn văn hóa của dân tộc là một đoạn trích của tiểu luận “về vấn đề tìm đặc sắc của dân tộc” đã được Trần Đình Hượu viết vào năm 1986. Trong tác phẩm này thì tác giả đã thoát khỏi thái độ hoặc là ngợi ca, có thể là chê bai thường thấy khi tiếp cận vấn đề, tinh thần chung của bìa viết đó là tiến hành về một sự phân tích đáng giá khoa học đối với những vấn đề nổi bật của nền văn hóa Việt Nam. Trước tiên thì tác giả đã đặt vấn đề về khái niệm văn hóa của Việt Nam. Chúng ta thường hay nói tới văn hóa ẩm thực hay là văn hóa đọc. Vậy thì văn hóa đó là tổng thể nói chung về những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra ở trong quá trình lịch sử. Đứng trên khái niệm về vốn văn hóa thì Trần Đình Hượu đã nêu lên một nhận xét khái quát về nền văn hóa Việt đó là “chúng ta không thể tự hào nền văn hóa của chúng ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại hay có những đặc sắc nổi bật” Nước Việt là một nước có truyền thống văn hóa từ rất lâu đời nhưng luôn biết cách để tiếp thu và chọn lọc từ nước bạn để làm giàu cho vốn văn hóa của nước mình. Chính điều này đã tạo nên một dân tộc đậm đà bản sắc. Về khoa học kĩ thuật thì không một ngành nào có thể phát triển đến thành truyền thống tự hào và về hội họa âm nhạc thì đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Trong thơ ca thì Trần Đình Hượu đã chỉ rõ “trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất chính là thơ ca. Hầu như người nào cũng cao dịp cũng có thể làm dăm ba câu thơ ca”. Trong kho tàng văn học truyền thống thơ ca đã chiếm một phần không nhỏ bởi vì nó rất dễ thuộc và nó dễ đi sâu vào lòng người nhưng sốn nhà thơ để lại tác phẩm nhiều thì lại không có. Chính điều này đã tạo nên sự tranh cãi bởi vì dân tộc ta có rất nhiều nhà thơ lớn để lại nhiều tác phẩm đồ sộ, đó là niềm tự hào của dân tộc ta. Bên cạnh những mặt tích cực thì Trần Đình Hượu cũng đã chỉ ra những điểm còn hạn chế của văn hóa Việt, đó là chúng ta xuất phát từ nước nông nghiêp cho nên có nhiều bất trắc, hơn nữa đất nước ta còn nhỏ tài nguyên lại chưa thật phong phú dẫn đến tâm lí thích cái vừa phải và phần nào đất nước chúng ta cũng chịu nhiều tổn thất nặng nề từ các cuộc đấu tranh và thường xuyên bị các thế lực nước ngoài bao vây chống phá. Vì thế mong ước của nhân dân cũng rất đơn giản đó là có cuộc sống thái bình đời sống vật chất thoát nghèo nàn và không có mong ước phát triển mạnh mẽ”. Ở đây tác giả đã có một cái nhìn toàn diện về văn hóa và có sự triển khai nghiên cứu của mình sựa vào khảo sát trên thực tế. Trần Đình Hượu còn quan niệm về cái đẹp là vốn văn hóa đặc sắc của dân tộc,và con người ưa chuộng của người Việt đó là người sống tình nghĩa, coi sự giàu sang đó chỉ là tạm thời. Trong sinh hoạt thì ưa chừng mực và an lạc làm sao cho cuộc sống no đủ và yên bình. Theo tác giả thì đặc điểm nổi bật ở trong sự sáng tạo văn hóa Việt đó là những con người sống hiền lành có tình nghĩa, có văn hóa. Đó chính là chùa một cột hay là các lăng tẩm của vua chúa thời Nguyễn, đó chính là lời ăn tiếng nói của nhân dân ở trong các câu ca dao và tục ngữ. Tác phẩm chính là sự trình bày chặt chẽ và biện chứng logic thể hiện được các khía cạnh ở trong văn hóa dân tộc Việt. Bên cạnh đó chúng ta còn thấy được về thái độ khách quan và sự khiêm tốn để tránh được khuynh hướng cự đoan. Đoạn trích còn cho chúng ta thấy được vẻ đẹp về tâm hồn và tính cách của người dân Việt Nam có từ rất lâu đời. Từ đó cho chúng ta thấy được trách nhiệm của mỗi thanh niên trong việc giữ gìn và phát huy vốn văn hóa của dân tộc. Nguồn: Bài văn hay
Comments on the article Looking at national cultural capital by Tran Dinh Huu Instruct Comments on the article Looking at national cultural capital by Tran Dinh Huu Tran Dinh Huu is an expert on cultural and ideological issues in Vietnam. He has many valuable research works on cultural and ideological issues from modern to traditional. And looking at the nation's cultural capital is an excerpt from the essay "On the issue of finding national characteristics" written by Tran Dinh Huu in 1986. In this work, the author has escaped the attitude of either It's often praise or criticism when approaching the problem. The general spirit of the cover is to conduct a valuable scientific analysis of outstanding issues of Vietnamese culture. First of all, the author raised the issue of the concept of Vietnamese culture. We often talk about culinary culture or reading culture. Culture, then, is the general overview of material and spiritual values ​​created by humans in the historical process. Standing on the concept of cultural capital, Tran Dinh Huu made a general comment about Vietnamese culture that is "we cannot be proud that our culture is massive, has great contributions to Humanity often has outstanding characteristics.” Vietnam is a country with a long-standing cultural tradition but always knows how to absorb and select from other countries to enrich its cultural capital. This is what has created a nation with a rich identity. In terms of science and technology, no industry has been able to develop into a proud tradition, and in terms of music and painting, none of them have developed to the point of great skill. In poetry, Tran Dinh Huu pointed out that "in the arts, the most developed thing is poetry. Almost anyone can write a few verses of poetry at any given occasion." In the traditional literary treasury, poetry occupies a large part because it is easy to memorize and it easily goes deep into people's hearts, but there are not many poets who left behind their works. This has created controversy because our nation has many great poets who left behind many monumental works, which are the pride of our nation. Besides the positive aspects, Tran Dinh Huu also pointed out the limitations of Vietnamese culture, which is that we come from an agricultural country so there are many uncertainties, and our country still has small resources. However, it is not very rich, leading to the mentality of preferring moderate things and our country also suffers many heavy losses from struggles and is often besieged and sabotaged by foreign forces. Therefore, the people's wish is very simple, which is to have a peaceful life, a material life free from poverty and no desire for strong development." Here the author has a comprehensive view of culture and has implemented his research based on actual surveys. Tran Dinh Huu also believes that beauty is the unique cultural capital of the nation, and that the favorite person of Vietnamese people is someone who lives with gratitude, considering that wealth is only temporary. In daily life, love moderation and peace so that your life will be full and peaceful. According to the author, the outstanding feature of Vietnamese cultural creativity is that the people live a gentle, loving, and cultured life. Those are the one-pillar pagodas or the tombs of the kings of the Nguyen Dynasty, those are the words of the people in folk songs and proverbs. The work is a strict and logical dialectical presentation of aspects of Vietnamese national culture. Besides, we also see an objective attitude and humility to avoid extreme tendencies. The excerpt also shows us the beauty of the soul and character of the Vietnamese people from a long time ago. From there, we can see the responsibility of each young person in preserving and promoting the nation's cultural capital. Source: Good article
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương Bài làm Nếu như Bà Huyện Thanh Quan với những lời thơ trang nhã, nhẹ nhàng, mang chút cung đình buồn thương man mác. Thì thơ Hồ Xuân Hương có phong cách hoàn toàn khác. Giọng thơ rắn rỏi, mạnh mẽ, đề tài bình thường dân dã, ý thơ sâu sắc thâm thuý mà chua cay chứa nỗi niềm phẫn uất phản kháng xã hội đương thời. Bánh trôi nước là một bài thơ như vậy: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son Bánh trôi nước là bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác giả mượn chiếc bánh trôi để thế hiện vẻ đẹp hình thể và tâm hồn của người con gái có thân phận nhỏ nhoi, chìm nổi, phụ thuộc mà vẫn giữ trọn phẩm giá của mình. Toàn bộ bài thơ là hình ảnh nhân hoá tượng trưng. Với khả năng quan sát và liên tưởng kỳ lạ, chất liệu dân gian là chiếc bánh trôi nước – loại bánh dân gian xưa cho là tinh khiết thường dùng vào việc cúng tế, nhà thơ đã phát hiện ra những nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi bình thường với hình ảnh người phụ nữ. Cả hai đều có vẻ bề ngoài rất đẹp (trắng, tròn), có phẩm giá cao quý (tấm lòng son) tương đồng cuộc sống (chìm, nổi), số phận phụ thuộc (rắn nát tuỳ thuộc tay kẻ nặn). Với những từ ngữ đa nghĩa bài thơ tạo nên một trường liên tưởng cho người đọc. Do vậy nhà thơ tả thực mà lại mang ý nghĩa tượng trưng. Nói cái bánh trôi mà thành chuyện con người – người phụ nữ. Người con gái hình thể đẹp, da trắng nõn nà, thân hình căng tràn nhựa sống, tâm hồn nhân hậu hiền hoà. Thân em vừa trắng lại vừa tròn Với vẻ đẹp hình thể như vậy đáng lẽ phải có cuộc sống sung sướng hạnh phúc nhưng cuộc đời con người, đặc biệt là người phụ nữ thì phải chịu bao đắng cay, vất vả. Bẩy nổi ba chìm với nước non Được cha mẹ sinh ra để làm người, nhưng người phụ nữ không làm chủ được mình, cuộc đời họ do người khác định đoạt. Nàng Vũ Nương thuỳ mị nết na, đức hạnh thuỷ chung, chồng ra trận nàng ở nhà một thân một mình nuôi mẹ già, con thơ. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con, người vợ, người mẹ trong gia đình. Vậy mà do sự đa nghi ghen tuông quá mức, nàng bị chồng nghi cho là thất tiết. Nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Câu chuyện mang đến cho chúng ta một thông điệp: trong xã hội ấy người tốt như nàng không được sống hạnh phúc. Cùng như vậy cuộc đời của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn bị xã hội nhào nặn xô đẩy: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Dù cuộc đời có phũ phàng, bất hạnh họ vẫn giữ vẹn phẩm giá, tâm hồn cao đẹp của mình. Mà em vẫn giữ tấm lòng son Sự sáng tạo của nữ sĩ khá độc đáo. Bà lựa chọn chi tiết không nhiều nhưng lại nói được nhiều. Hai từ thân em được đặt trước chiếc bánh, chiếc bánh được nhân hoá, đó chính là lời tự sự của người phụ nữ. Nét nghệ thuật này gợi cho trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh và hình ảnh người phụ nữ hiện lên rõ nét hơn. Từ thoáng chút hài lòng giọng thơ chuyển hẳn sang than oán về số phận hẩm hiu. Hồ Xuân Hương đã đảo lại thành ngữ quen thuộc ba chìm bảy nổi thành bảy nổi ba chìm đối lập với vừa trắng lại vừa tròn tạo sự bất ngờ và tô đậm sự bất hạnh của người phụ nữ. Đến đây ta không còn thấy giọng thơ than vãn cam chịu: Rắn nát mặc dầu tay kè nặn. Cuộc đời họ, họ không làm chủ được bản thân mà phụ thuộc hoàn toàn vào tay kẻ khác. Thế nhưng: Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Không những sự đối lập giữa thái độ người phụ nữ trong câu ba và bốn là đối lập giữa thái độ cam chịu và thái độ bảo vệ phẩm chất trong sáng trong tâm hồn con người. Từ vẫn thể hiện sự khằng định, quả quyết vượt trên số phận để giữ tấm lòng son. Người phụ nữ đã ý thức rất rõ về cuộc sống và phẩm giá của mình. Dẫu cho cuộc đời cay đắng, nhào nặn, xô đẩy thì giá trị đáng kính của họ luôn luôn là điều sống còn đối với họ. Trong xã hội với ý thức hệ nho giáo hà khắc như vậy, quan niệm tam tòng tứ đức, nam tôn nữ ti đã ăn sâu vào ý thức con người. Nói được như Hồ Xuân Hương thật đáng khâm phục, trân trọng. Bài thơ chỉ có bốn câu, đề tài bình dị nhưng dưới ngòi bút thần diệu, Hồ Xuân Hương đã tạo cho viên bánh trôi nước mang vẻ đẹp sáng ngời của viên ngọc lấp lánh nhiều màu. Bài thơ chứa đựng một luồng ánh sáng, ý thức về xã hội bất công vùi dập người phụ nữ và giá trị nhân phẩm của mình. Quả thật bài thơ của Hồ Xuân Hương có giá trị hiện thực và xã hội sâu sắc. Đây là tiếng nói chung của người phụ nữ đối với sự bất công của xă hội xưa và khẳng định phẩm giá của bản thân. Nhà thơ đã đại diện cho những số phận bất hạnh cất lên tiếng nói của chính họ và của thời đại. Bài thơ thể hiện khẩu khí của bà chúa thơ nôm. Bài làm 2 Hồ xuân Hương là một trong rất ít phụ nữ Việt Nam thời phong kiến có tác phẩm văn học lưu truyền cho đến ngày nay. Bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Cuộc đời của bà vẫn còn là một vấn đề đang được nghiên cứu. Bà thường mượn cảnh, mượn vật để nói lên thân phận người phụ nữ thời bấy giờ, bài thơ “Bánh trôi nước” là một trong số đó. “Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son” Bánh trôi nước-một loại bánh dân dã, bình thường thấy quanh năm, được Hồ xuân Hương miêu tả một cách sinh động về màu sắc, hình dáng như là chiếc bánh đang tự nói về chính mình: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” Qua đó, người phụ nữ Việt Nam có thể hóa thân vào những chiếc bánh dân dã đáng yêu ấy. Bà không dùng “khuôn mặt hình trái xoan”, hay “đôi mày hình lá liễu” để mô tả vẻ đẹp quý phái của phụ nữ, trái lại bà dùng hình tượng “tròn”, “trắng” để cho ta có thể liên tưởng đến một vẻ đẹp mạnh mẽ, xinh xắn.Bên cạnh đó, điệp từ “vừa” càng làm tăng thêm sự tự hào về vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam mạnh khỏe, xinh xắn, đáng yêu là thế, còn cuộc đời của họ thì sao? Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ cũng lênh đênh chìm nổi như chiếc bánh trôi nước trong nồi. “Bảy nổi ba chìm với nước non” Cuộc đời long đong, gian truân đầy sóng gió dường như đã dành sẵn cho người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, nghe như một tiếng than thầm, cam chịu, nhưng cũng phảng phất vẻ cao ngạo của họ. Cũng nổi, cũng chìm, nhưng lại nổi chìm “với nước non”. “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” Lời thơ có vẻ trở nên cam chịu, người phụ nữ xưa vốn không có một vai trò gì trong xã hội. Họ không tự quyết định được số phận của mình, cuộc đời họ từ khi mới sinh ra cho đến lúc lìa đời là một cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc. Khi còn nhỏ thì phụ thuộc vào cha mẹ, khi lấy chồng thì phụ thuộc vào chồng, chồng mất thì phụ thuộc vào con cái. Họ không có cuộc sống của riêng họ, cuộc sống của họ chỉ để tô điểm thêm cho cuộc sống của người khác. Thế nhưng, thơ của Hồ xuân Hương lại phảng phất chút phớt lờ, bất cần. Thấp thoáng đâu đó trong thơ bà có chút phảng kháng, chống cự lại những quan điểm bất công thời ấy. Nếu như trong ca dao, người phụ nữ được ví: “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” chỉ để thể hiện thân phận lênh đênh, thì trong thơ của Hồ xuân Hương ngoài việc miêu tả số phận người phụ nữ còn khẳng định nhân cách, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ “Mà em vẫn giữ tấm lòng son” Cuộc đời có bạc bẽo, bất công,cuộc sống có gian khổ, long đong như thế nào chăng nữa, người phụ nữ vẫn giữ được sự son sắt, thủy chung cùng những phẩm chất tốt đẹp của mình. Đó là sự khẳng định của bà và đó cũng chính là phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Với hình tượng cái bánh trôi nước, Hồ xuân Hương đã nói lên được vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng, son sắt của người phụ nữ, đồng thời cũng đã đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn đối với người phụ nữ – sự bình đẳng giới. Đây cũng chính là vấn đề mà xã hội tốt đẹp của chúng ta đang xây dựng. Cám ơn bà đã để lại cho đời một bài thơ thật đẹp.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương Bài làm Nếu như Bà Huyện Thanh Quan với những lời thơ trang nhã, nhẹ nhàng, mang chút cung đình buồn thương man mác. Thì thơ Hồ Xuân Hương có phong cách hoàn toàn khác. Giọng thơ rắn rỏi, mạnh mẽ, đề tài bình thường dân dã, ý thơ sâu sắc thâm thuý mà chua cay chứa nỗi niềm phẫn uất phản kháng xã hội đương thời. Bánh trôi nước là một bài thơ như vậy: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son Bánh trôi nước là bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác giả mượn chiếc bánh trôi để thế hiện vẻ đẹp hình thể và tâm hồn của người con gái có thân phận nhỏ nhoi, chìm nổi, phụ thuộc mà vẫn giữ trọn phẩm giá của mình. Toàn bộ bài thơ là hình ảnh nhân hoá tượng trưng. Với khả năng quan sát và liên tưởng kỳ lạ, chất liệu dân gian là chiếc bánh trôi nước – loại bánh dân gian xưa cho là tinh khiết thường dùng vào việc cúng tế, nhà thơ đã phát hiện ra những nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi bình thường với hình ảnh người phụ nữ. Cả hai đều có vẻ bề ngoài rất đẹp (trắng, tròn), có phẩm giá cao quý (tấm lòng son) tương đồng cuộc sống (chìm, nổi), số phận phụ thuộc (rắn nát tuỳ thuộc tay kẻ nặn). Với những từ ngữ đa nghĩa bài thơ tạo nên một trường liên tưởng cho người đọc. Do vậy nhà thơ tả thực mà lại mang ý nghĩa tượng trưng. Nói cái bánh trôi mà thành chuyện con người – người phụ nữ. Người con gái hình thể đẹp, da trắng nõn nà, thân hình căng tràn nhựa sống, tâm hồn nhân hậu hiền hoà. Thân em vừa trắng lại vừa tròn Với vẻ đẹp hình thể như vậy đáng lẽ phải có cuộc sống sung sướng hạnh phúc nhưng cuộc đời con người, đặc biệt là người phụ nữ thì phải chịu bao đắng cay, vất vả. Bẩy nổi ba chìm với nước non Được cha mẹ sinh ra để làm người, nhưng người phụ nữ không làm chủ được mình, cuộc đời họ do người khác định đoạt. Nàng Vũ Nương thuỳ mị nết na, đức hạnh thuỷ chung, chồng ra trận nàng ở nhà một thân một mình nuôi mẹ già, con thơ. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con, người vợ, người mẹ trong gia đình. Vậy mà do sự đa nghi ghen tuông quá mức, nàng bị chồng nghi cho là thất tiết. Nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Câu chuyện mang đến cho chúng ta một thông điệp: trong xã hội ấy người tốt như nàng không được sống hạnh phúc. Cùng như vậy cuộc đời của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn bị xã hội nhào nặn xô đẩy: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Dù cuộc đời có phũ phàng, bất hạnh họ vẫn giữ vẹn phẩm giá, tâm hồn cao đẹp của mình. Mà em vẫn giữ tấm lòng son Sự sáng tạo của nữ sĩ khá độc đáo. Bà lựa chọn chi tiết không nhiều nhưng lại nói được nhiều. Hai từ thân em được đặt trước chiếc bánh, chiếc bánh được nhân hoá, đó chính là lời tự sự của người phụ nữ. Nét nghệ thuật này gợi cho trí tưởng tượng của người đọc được chắp cánh và hình ảnh người phụ nữ hiện lên rõ nét hơn. Từ thoáng chút hài lòng giọng thơ chuyển hẳn sang than oán về số phận hẩm hiu. Hồ Xuân Hương đã đảo lại thành ngữ quen thuộc ba chìm bảy nổi thành bảy nổi ba chìm đối lập với vừa trắng lại vừa tròn tạo sự bất ngờ và tô đậm sự bất hạnh của người phụ nữ. Đến đây ta không còn thấy giọng thơ than vãn cam chịu: Rắn nát mặc dầu tay kè nặn. Cuộc đời họ, họ không làm chủ được bản thân mà phụ thuộc hoàn toàn vào tay kẻ khác. Thế nhưng: Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Không những sự đối lập giữa thái độ người phụ nữ trong câu ba và bốn là đối lập giữa thái độ cam chịu và thái độ bảo vệ phẩm chất trong sáng trong tâm hồn con người. Từ vẫn thể hiện sự khằng định, quả quyết vượt trên số phận để giữ tấm lòng son. Người phụ nữ đã ý thức rất rõ về cuộc sống và phẩm giá của mình. Dẫu cho cuộc đời cay đắng, nhào nặn, xô đẩy thì giá trị đáng kính của họ luôn luôn là điều sống còn đối với họ. Trong xã hội với ý thức hệ nho giáo hà khắc như vậy, quan niệm tam tòng tứ đức, nam tôn nữ ti đã ăn sâu vào ý thức con người. Nói được như Hồ Xuân Hương thật đáng khâm phục, trân trọng. Bài thơ chỉ có bốn câu, đề tài bình dị nhưng dưới ngòi bút thần diệu, Hồ Xuân Hương đã tạo cho viên bánh trôi nước mang vẻ đẹp sáng ngời của viên ngọc lấp lánh nhiều màu. Bài thơ chứa đựng một luồng ánh sáng, ý thức về xã hội bất công vùi dập người phụ nữ và giá trị nhân phẩm của mình. Quả thật bài thơ của Hồ Xuân Hương có giá trị hiện thực và xã hội sâu sắc. Đây là tiếng nói chung của người phụ nữ đối với sự bất công của xă hội xưa và khẳng định phẩm giá của bản thân. Nhà thơ đã đại diện cho những số phận bất hạnh cất lên tiếng nói của chính họ và của thời đại. Bài thơ thể hiện khẩu khí của bà chúa thơ nôm. Bài làm 2 Hồ xuân Hương là một trong rất ít phụ nữ Việt Nam thời phong kiến có tác phẩm văn học lưu truyền cho đến ngày nay. Bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Cuộc đời của bà vẫn còn là một vấn đề đang được nghiên cứu. Bà thường mượn cảnh, mượn vật để nói lên thân phận người phụ nữ thời bấy giờ, bài thơ “Bánh trôi nước” là một trong số đó. “Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son” Bánh trôi nước-một loại bánh dân dã, bình thường thấy quanh năm, được Hồ xuân Hương miêu tả một cách sinh động về màu sắc, hình dáng như là chiếc bánh đang tự nói về chính mình: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” Qua đó, người phụ nữ Việt Nam có thể hóa thân vào những chiếc bánh dân dã đáng yêu ấy. Bà không dùng “khuôn mặt hình trái xoan”, hay “đôi mày hình lá liễu” để mô tả vẻ đẹp quý phái của phụ nữ, trái lại bà dùng hình tượng “tròn”, “trắng” để cho ta có thể liên tưởng đến một vẻ đẹp mạnh mẽ, xinh xắn.Bên cạnh đó, điệp từ “vừa” càng làm tăng thêm sự tự hào về vẻ đẹp ngoại hình của người phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam mạnh khỏe, xinh xắn, đáng yêu là thế, còn cuộc đời của họ thì sao? Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ cũng lênh đênh chìm nổi như chiếc bánh trôi nước trong nồi. “Bảy nổi ba chìm với nước non” Cuộc đời long đong, gian truân đầy sóng gió dường như đã dành sẵn cho người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến, nghe như một tiếng than thầm, cam chịu, nhưng cũng phảng phất vẻ cao ngạo của họ. Cũng nổi, cũng chìm, nhưng lại nổi chìm “với nước non”. “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” Lời thơ có vẻ trở nên cam chịu, người phụ nữ xưa vốn không có một vai trò gì trong xã hội. Họ không tự quyết định được số phận của mình, cuộc đời họ từ khi mới sinh ra cho đến lúc lìa đời là một cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc. Khi còn nhỏ thì phụ thuộc vào cha mẹ, khi lấy chồng thì phụ thuộc vào chồng, chồng mất thì phụ thuộc vào con cái. Họ không có cuộc sống của riêng họ, cuộc sống của họ chỉ để tô điểm thêm cho cuộc sống của người khác. Thế nhưng, thơ của Hồ xuân Hương lại phảng phất chút phớt lờ, bất cần. Thấp thoáng đâu đó trong thơ bà có chút phảng kháng, chống cự lại những quan điểm bất công thời ấy. Nếu như trong ca dao, người phụ nữ được ví: “Thân em như tấm lụa đào – Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” chỉ để thể hiện thân phận lênh đênh, thì trong thơ của Hồ xuân Hương ngoài việc miêu tả số phận người phụ nữ còn khẳng định nhân cách, vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ “Mà em vẫn giữ tấm lòng son” Cuộc đời có bạc bẽo, bất công,cuộc sống có gian khổ, long đong như thế nào chăng nữa, người phụ nữ vẫn giữ được sự son sắt, thủy chung cùng những phẩm chất tốt đẹp của mình. Đó là sự khẳng định của bà và đó cũng chính là phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Với hình tượng cái bánh trôi nước, Hồ xuân Hương đã nói lên được vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng, son sắt của người phụ nữ, đồng thời cũng đã đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn đối với người phụ nữ – sự bình đẳng giới. Đây cũng chính là vấn đề mà xã hội tốt đẹp của chúng ta đang xây dựng. Cám ơn bà đã để lại cho đời một bài thơ thật đẹp.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến Bài làm Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909, lúc còn nhỏ tên Thắng, quê ở thôn Vị Hạ, làng Và, xã Yên Đổ, nay thuộc Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam, thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đi thi đỗ đầu cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp xâm chiếm xong Bắc bộ, ông cáo quan về quê ở ẩn. Bài thơ này là bài thơ thành công, tiêu biểu nhất của ông, và cũng là bài thơ nổi bật, đại điện cho thơ Nôm Đường luật Việt Nam nói chung. Bài thơ này ông viết là một kỉ niệm của ông ở tuổi mà xưa nay hiếm. Nó bày bày tỏ về cảm xúc của ông và một người bạn quen nhau chốn quan trường, nay gặp lại nơi thôn quê thanh bình – nơi chôn rau cắt rốn của ông. Từng câu từ trong bài mượt mà mà thanh cao, tình cảm thắm thiết, gắn bó, mặn mà, đầy chất nhân văn. Nó thể hiện một con người chất phác, sống bằng tình cảm nơi ông. Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui, nó là khởi nguồn cho tất cả tình huống, cảm xúc trong bài. Gặp lai một người bạn cũ thật khôn xiết biết bao, đặc biệt là khi lại gặp nhau nơi chân quê. Tình nghĩa đó thật quý báu. Tuy sau bao vinh hoa chốn kinh thành nhưng vẫn nhớ về nhau, vẫn tìm thăm trò chuyện. Tuy mặn mà những tình cảm nồng hậu nhưng trong bài vẫn có những tình tiết vui vẻ. Hôm nay bác tới chơi nhà thật quý và hơn nữa là sau bao năm xa cách, nhưng ngặt nỗi hoàn cảnh điều kiện và đó là một tình huống khó xử đối với tác giả: trẻ thì đi vắng, chợ thị xa, ao sâu khó chài cá … một loạt tình huống được liệt kê. Thật trớ trêu và cũng đầy hài hước. Lời thơ tự nhiên, vui vẻ, trong sáng tạo nên thanh điệu hoạt bát, toát lên được sự hiếu khách của chủ nhà trước một vị khách quý. Tuy tất cả đều thiếu vắng, ngay đến cả cái tối thiểu để tiếp khách như miếng trầu cũng không có thì câu cuối cùng lại là sự bất ngờ, đầy lý thú và cũng chất chứa những cảm xúc dạt dào, khó tả. Tình bạn ấy vượt lên trên cả nhưng lễ nghi tầm thường. Ba từ: “ta với ta” là tâm điểm, trọng tâm của bài. Âm điệu bỗng dưng thay đổi, thân mật, ngọt ngào. Nó không giống với ba từ “ ta với ta” trong bài Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Trong bài Qua đèo ngang thì 3 từ đó là nỗi trống vắng, hiu quạnh nơi đất khách, quê người, còn ba từ này trong bài bạn đến chơi nhà là nồng thắm tình cảm bạn bè chân thành, thanh tao, trong sáng. Nói cho cùng thì nhà thơ đã rất khéo léo lột tả sự nhiệt tình, nóng hổi, mến khác trước hoàn cảnh bất ngờ, thiếu thốn, nghèo khổ của tác giả. Và đằng sau nhưng câu từ dân dã kia là hai tình cảm chân chất, nhỏ nhẹ mà hóm hỉnh đang hướng về nhau. Tình cảm chính là điều mà tác giả mong đợi, khao khát nhất, và chỉ mình nó cũng là đủ để sưởi ấm một buổi trò chuyện, gặp mặt. Nói chung bài thơ này được tạo nên trên một hình ảnh không có gì về vật chất, tất nhiên không phải là thiếu thốn mà là chưa đủ độ, để rồi đúc kết một câu rằng:”Bác đến chơi đây, ta với ta” thật đậm đà, sâu sắc. Bài thơ này không chỉ là một lời bày tỏ chân tình của tác giả mà còn là một triết lý, một bài học, một định hướng về sự chuẩn mực rằng: tình bạn cao hơn mọi của cải, vật chất. Bài làm 2 Viết về bạn là một đề tài thường gặp của các thi nhân xưa. Có lẽ sâu sắc hơn cả là tình bạn của Nguyễn Khuyến giành cho Dương Khuê khi ông qua đời. Và đặc biệt hơn trong bài Bạn đến chơi nhà tình cảm ấy lại được biểu lộ thật thân thiết và đáng kính trọng biết bao. Đồng thời Nguyễn Khuyến cùng bày tỏ một quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và tình cảm: Đã bấy lâu nay, bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa Đầu trò tiếp khách, trầu không có Bác đến chơi đày, ta với ta. Bạn hiền khi gặp lại nhau thì ai mà chẳng vui. Ở đây Nguyễn Khuyến cũng vui mừng xiết bao khi lâu ngày gặp lại bạn cũ. Lời chào tự nhiên thân mật bỗng biến thành câu thơ: Đã bấy lâu nay, bác tới nhà Cách xưng hô bác, tôi tự nhiên gần gũi trong niềm vui mừng khi được bạn hiền đến tận nhà thăm. Phải thân thiết lắm mới đến nhà, có lẽ chỉ bằng một câu thơ – lời chào thế hiện được hết niềm vui đón bạn của tác giả như thế nào? Sau lời chào đón bạn, câu thơ chuyển giọng lúng túng hơn khi tiếp bạn: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Cách nói hóm hỉnh cho thấy trong tình huống ấy tất yếu phải tiếp bạn theo kiểu “cây nhà lá vườn” của mình. Ta thấy rằng Nguyễn Khuyên đã cường điệu hoá hoàn cảnh khó khăn thiêu thôn của mình đến nỗi chẳng có cái gì để tiếp bạn: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa Ta hiểu vì sao sau lời chào hỏi bạn, tác giả nhắc đến chợ, chợ là thể hiện sự đầy đủ các món ngon để tiếp bạn. Tiếc thay chợ thì xa mà người nhà thì đi vắng cả. Trong không gian nghệ thuật này chúng ta thấy chỉ có tác giả và bạn mình (hai người) và tình huống. Đầu trò tiếp khách, trầu không có Đến cả miếng trầu cũng không có, thật là nghèo quá, miếng trầu là đầu câu chuyện cá, gà, bầu, mướp… những thứ tiếp bạn đều không có. Nhưng chính cái không có đó tác giả muốn nói lên một cái có thiêng liêng cao quý – tình bạn chân thành thắm thiết. Câu kết là một sự “bùng nổ” về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, cao lương mỹ vị, cơm gà cá mỡ, mà chỉ cần có một tấm lòng, một tình bạn chân thành thắm thiết. Bác đến chơi đây, ta với ta Lần thứ hai chữ bác lại xuất hiện trong bài thơ thể hiện sự trìu mến kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, đường xá xa xôi, đến thăm hỏi thì còn gì quý bằng. Tình bạn là trên hết, không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm tri kỷ. Mọi thứ vật chất đều “không có” nhưng lại “có” tình bằng hữu thâm giao. Chữ ta là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này là bác, là tôi, là hai chúng ta, không có gì ngăn cách nữa. Tuy hai người nhưng suy nghĩ, tình cảm, lý tưởng sống của họ hoàn toàn giống nhau. Họ coi thường vật chất, trọng tình cảm, họ thăm nhau đến với nhau là dựa trên tình cảm, niềm gắn bó keo sơn thắm thiết. Tình bạn của họ là thứ quý nhất không có gì sánh được. Ta còn nhớ rằng có lần khóc bạn Nguyễn Khuyến đã viết Rượu ngon không có bạn hiền Không mua không phải không tiền không mua Câu thơ nghĩ, đắn đo muốn viết Viết đưa ai, ai biết mà đưa? Giường kia, treo những hững hờ Đàn kia, gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn Có thể trong bài thơ: này chính là cuộc trò chuyện thăm hỏi của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê. Tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê gắn bó keo sơn. Trong đoạn thơ trên ta thấy rằng khi uống rượu khi làm thơ… Họ đều có nhau. Không chỉ có bài thơ Khóc Dương Khuê. Một số vần thơ khác của Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tình bạn chân thành, đậm đà: Từ trước bảng vàng nhà sẵn có Chẳng qua trong bác với ngoài tôi (Gửi bác Châu Cầu) Đến thăm bác, bác đang đau ốm , Vừa thấy tôi bác nhổm dậy ngay Bác bệnh tật, tôi yếu gầy Giao du rồi biết sau này ra sao (Gửi thăm quan Thượng Thư họ Dương) Bài thơ này viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, niêm, luật bằng trắc, đối chặt chế, hợp cách. Ngôn ngữ thuần nôm nghe thanh thoát nhẹ nhàng tự nhiên. Ta có cảm giác như Nguyễn Khuyến xuất khẩu thành thơ. Bài thơ nôm khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bằng hữu thâm giao. Tình bạn của Nguyễn Khuyến thanh bạch, đẹp đẽ đối lập hẳn với nhân tình thế thái “Còn bạc còn tiền còn đệ tử – Hết cơm hết rượu hết ông tôi” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án. Hai nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến sống cách nhau mấy trăm năm mà có chung một tâm hồn lớn: nhân hậu, thủy chung, thanh bạch. Tấm lòng ấy thật xứng đáng là tấm gương đời để mọi người soi chung.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến Bài làm Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, mất năm 1909, lúc còn nhỏ tên Thắng, quê ở thôn Vị Hạ, làng Và, xã Yên Đổ, nay thuộc Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam, thuở nhỏ nhà nghèo, thông minh, học giỏi, sau đi thi đỗ đầu cả ba kì thi: Hương, Hội, Đình, do đó có tên là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông làm quan khoảng mười năm, nhưng đến khi thực dân Pháp xâm chiếm xong Bắc bộ, ông cáo quan về quê ở ẩn. Bài thơ này là bài thơ thành công, tiêu biểu nhất của ông, và cũng là bài thơ nổi bật, đại điện cho thơ Nôm Đường luật Việt Nam nói chung. Bài thơ này ông viết là một kỉ niệm của ông ở tuổi mà xưa nay hiếm. Nó bày bày tỏ về cảm xúc của ông và một người bạn quen nhau chốn quan trường, nay gặp lại nơi thôn quê thanh bình – nơi chôn rau cắt rốn của ông. Từng câu từ trong bài mượt mà mà thanh cao, tình cảm thắm thiết, gắn bó, mặn mà, đầy chất nhân văn. Nó thể hiện một con người chất phác, sống bằng tình cảm nơi ông. Câu thơ mở đầu như một tiếng reo vui, nó là khởi nguồn cho tất cả tình huống, cảm xúc trong bài. Gặp lai một người bạn cũ thật khôn xiết biết bao, đặc biệt là khi lại gặp nhau nơi chân quê. Tình nghĩa đó thật quý báu. Tuy sau bao vinh hoa chốn kinh thành nhưng vẫn nhớ về nhau, vẫn tìm thăm trò chuyện. Tuy mặn mà những tình cảm nồng hậu nhưng trong bài vẫn có những tình tiết vui vẻ. Hôm nay bác tới chơi nhà thật quý và hơn nữa là sau bao năm xa cách, nhưng ngặt nỗi hoàn cảnh điều kiện và đó là một tình huống khó xử đối với tác giả: trẻ thì đi vắng, chợ thị xa, ao sâu khó chài cá … một loạt tình huống được liệt kê. Thật trớ trêu và cũng đầy hài hước. Lời thơ tự nhiên, vui vẻ, trong sáng tạo nên thanh điệu hoạt bát, toát lên được sự hiếu khách của chủ nhà trước một vị khách quý. Tuy tất cả đều thiếu vắng, ngay đến cả cái tối thiểu để tiếp khách như miếng trầu cũng không có thì câu cuối cùng lại là sự bất ngờ, đầy lý thú và cũng chất chứa những cảm xúc dạt dào, khó tả. Tình bạn ấy vượt lên trên cả nhưng lễ nghi tầm thường. Ba từ: “ta với ta” là tâm điểm, trọng tâm của bài. Âm điệu bỗng dưng thay đổi, thân mật, ngọt ngào. Nó không giống với ba từ “ ta với ta” trong bài Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan. Trong bài Qua đèo ngang thì 3 từ đó là nỗi trống vắng, hiu quạnh nơi đất khách, quê người, còn ba từ này trong bài bạn đến chơi nhà là nồng thắm tình cảm bạn bè chân thành, thanh tao, trong sáng. Nói cho cùng thì nhà thơ đã rất khéo léo lột tả sự nhiệt tình, nóng hổi, mến khác trước hoàn cảnh bất ngờ, thiếu thốn, nghèo khổ của tác giả. Và đằng sau nhưng câu từ dân dã kia là hai tình cảm chân chất, nhỏ nhẹ mà hóm hỉnh đang hướng về nhau. Tình cảm chính là điều mà tác giả mong đợi, khao khát nhất, và chỉ mình nó cũng là đủ để sưởi ấm một buổi trò chuyện, gặp mặt. Nói chung bài thơ này được tạo nên trên một hình ảnh không có gì về vật chất, tất nhiên không phải là thiếu thốn mà là chưa đủ độ, để rồi đúc kết một câu rằng:”Bác đến chơi đây, ta với ta” thật đậm đà, sâu sắc. Bài thơ này không chỉ là một lời bày tỏ chân tình của tác giả mà còn là một triết lý, một bài học, một định hướng về sự chuẩn mực rằng: tình bạn cao hơn mọi của cải, vật chất. Bài làm 2 Viết về bạn là một đề tài thường gặp của các thi nhân xưa. Có lẽ sâu sắc hơn cả là tình bạn của Nguyễn Khuyến giành cho Dương Khuê khi ông qua đời. Và đặc biệt hơn trong bài Bạn đến chơi nhà tình cảm ấy lại được biểu lộ thật thân thiết và đáng kính trọng biết bao. Đồng thời Nguyễn Khuyến cùng bày tỏ một quan điểm về mối quan hệ giữa vật chất và tình cảm: Đã bấy lâu nay, bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa Đầu trò tiếp khách, trầu không có Bác đến chơi đày, ta với ta. Bạn hiền khi gặp lại nhau thì ai mà chẳng vui. Ở đây Nguyễn Khuyến cũng vui mừng xiết bao khi lâu ngày gặp lại bạn cũ. Lời chào tự nhiên thân mật bỗng biến thành câu thơ: Đã bấy lâu nay, bác tới nhà Cách xưng hô bác, tôi tự nhiên gần gũi trong niềm vui mừng khi được bạn hiền đến tận nhà thăm. Phải thân thiết lắm mới đến nhà, có lẽ chỉ bằng một câu thơ – lời chào thế hiện được hết niềm vui đón bạn của tác giả như thế nào? Sau lời chào đón bạn, câu thơ chuyển giọng lúng túng hơn khi tiếp bạn: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Cách nói hóm hỉnh cho thấy trong tình huống ấy tất yếu phải tiếp bạn theo kiểu “cây nhà lá vườn” của mình. Ta thấy rằng Nguyễn Khuyên đã cường điệu hoá hoàn cảnh khó khăn thiêu thôn của mình đến nỗi chẳng có cái gì để tiếp bạn: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa Ta hiểu vì sao sau lời chào hỏi bạn, tác giả nhắc đến chợ, chợ là thể hiện sự đầy đủ các món ngon để tiếp bạn. Tiếc thay chợ thì xa mà người nhà thì đi vắng cả. Trong không gian nghệ thuật này chúng ta thấy chỉ có tác giả và bạn mình (hai người) và tình huống. Đầu trò tiếp khách, trầu không có Đến cả miếng trầu cũng không có, thật là nghèo quá, miếng trầu là đầu câu chuyện cá, gà, bầu, mướp… những thứ tiếp bạn đều không có. Nhưng chính cái không có đó tác giả muốn nói lên một cái có thiêng liêng cao quý – tình bạn chân thành thắm thiết. Câu kết là một sự “bùng nổ” về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, cao lương mỹ vị, cơm gà cá mỡ, mà chỉ cần có một tấm lòng, một tình bạn chân thành thắm thiết. Bác đến chơi đây, ta với ta Lần thứ hai chữ bác lại xuất hiện trong bài thơ thể hiện sự trìu mến kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, đường xá xa xôi, đến thăm hỏi thì còn gì quý bằng. Tình bạn là trên hết, không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm tri kỷ. Mọi thứ vật chất đều “không có” nhưng lại “có” tình bằng hữu thâm giao. Chữ ta là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này là bác, là tôi, là hai chúng ta, không có gì ngăn cách nữa. Tuy hai người nhưng suy nghĩ, tình cảm, lý tưởng sống của họ hoàn toàn giống nhau. Họ coi thường vật chất, trọng tình cảm, họ thăm nhau đến với nhau là dựa trên tình cảm, niềm gắn bó keo sơn thắm thiết. Tình bạn của họ là thứ quý nhất không có gì sánh được. Ta còn nhớ rằng có lần khóc bạn Nguyễn Khuyến đã viết Rượu ngon không có bạn hiền Không mua không phải không tiền không mua Câu thơ nghĩ, đắn đo muốn viết Viết đưa ai, ai biết mà đưa? Giường kia, treo những hững hờ Đàn kia, gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn Có thể trong bài thơ: này chính là cuộc trò chuyện thăm hỏi của Nguyễn Khuyến với Dương Khuê. Tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê gắn bó keo sơn. Trong đoạn thơ trên ta thấy rằng khi uống rượu khi làm thơ… Họ đều có nhau. Không chỉ có bài thơ Khóc Dương Khuê. Một số vần thơ khác của Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tình bạn chân thành, đậm đà: Từ trước bảng vàng nhà sẵn có Chẳng qua trong bác với ngoài tôi (Gửi bác Châu Cầu) Đến thăm bác, bác đang đau ốm , Vừa thấy tôi bác nhổm dậy ngay Bác bệnh tật, tôi yếu gầy Giao du rồi biết sau này ra sao (Gửi thăm quan Thượng Thư họ Dương) Bài thơ này viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, niêm, luật bằng trắc, đối chặt chế, hợp cách. Ngôn ngữ thuần nôm nghe thanh thoát nhẹ nhàng tự nhiên. Ta có cảm giác như Nguyễn Khuyến xuất khẩu thành thơ. Bài thơ nôm khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bằng hữu thâm giao. Tình bạn của Nguyễn Khuyến thanh bạch, đẹp đẽ đối lập hẳn với nhân tình thế thái “Còn bạc còn tiền còn đệ tử – Hết cơm hết rượu hết ông tôi” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án. Hai nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Khuyến sống cách nhau mấy trăm năm mà có chung một tâm hồn lớn: nhân hậu, thủy chung, thanh bạch. Tấm lòng ấy thật xứng đáng là tấm gương đời để mọi người soi chung.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi Bài làm “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một bầu không gian lưu trữ tình đặc sắc. Nó phong phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm “Bảo kính cảnh giới” chứa đựng những nét độc đáo, thấp thoáng niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên là “Cảnh mùa hè”. Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát đến thế: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Nguyễn Trãi kia! Ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi, ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc đều xong xuôi, đã qua rồi. “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải đành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa. Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên. “Hòe lục đùn đùn. tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ ồng liên trì đã tiễn mùi hương” Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…. Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”. “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no; chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tinh cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương". “Dân giàu đủ", cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” gảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói: dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no. Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sông thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.
Topic: Feelings about the poem Summer Day Scene by Nguyen Trai Assignment "Quoc am thi tap" by Nguyen Trai is a unique lyrical atmosphere. It is rich in scenes and emotions, but article number forty-three in the series "Precious Realms" contains unique features, revealing the author's confidence. Someone named this poem "Summer Scene". The first verse, when we read it at first glance, seems so peaceful, peaceful and serene: "Then enjoy the fresh air of school days." Nguyen Trai there! He was sitting leisurely under the shade of a tree, truly enjoying the cool air. The military and state affairs must have been completed, so he returned to a simple, simple, rustic but harmonious life, close to nature. Some books translate it as "Free time, enjoying the fresh air of school days". But "free" or "already" both attract the reader's attention. Free time, everything is done, it's over. “School Day” again increases attention. The entire poem is no longer simply an image of Nguyen Trai sitting in the cool air, but it also exudes the author's feelings and confidences: "In my free time, I enjoy the cool air all day long." A weakened society, the author's aspirations and will have been buried, there is nothing left, he had to leave, resign from the mandarin to go back to hiding, had to "cool off" all day long to relax. I have a confession, a heavy burden is on my shoulders. The whole poem is filled with a secret feeling, no longer gentle and serene. Returning to nature, he has the opportunity to be closer to nature. He was delighted and fascinated with the beauty of nature. “Hoe green extrusion extrusion. canopy Pomegranate jelly still sprays red "Continuous perseverance has banished the scent." The summer scene through his soul and emotions, nature bursts with vitality. The tree grows quickly, its canopy grows bigger and bigger, it can look like a wide canopy stretching out into the sky with fresh green branches and leaves. The pomegranate trees are still spraying red, the lotus pond is fragrant, the pink of the branches and flowers are brightly colored. Through the lens of Nguyen Trai: vitality is still vibrant and full, life is a flower garden, a colorful natural garden. The scene is like a fairy tale perhaps because it is seen through the eyes of a sentimental poet, rich in his desire to live life... Through the summer scene, Nguyen Trai's feelings are also expressed deeply: “The bustle of the fisherman's village fish market Be brave enough to hold the cicada and pass away." “Market” is an image of peace in the minds of Vietnamese people. With a crowded market, the country is peaceful and prosperous, and the people are rich and prosperous; The disintegration of the market easily evokes the image of a country in turmoil, with enemies, wars, soldiers... and the sound of cicadas at dusk evokes rural life. It was the colors of this countryside that made his feelings more profound and reminded him of the idea he was pursuing: “There will be Ngu playing the guitar for a while Rich people everywhere demand direction. "The people are rich enough", the people's lives are increasingly prosperous and happy, which is what Nguyen Trai has always cared for and wished for. Here, he mentioned Ngu cam because during the time of King Nghieu, King Thuan was famous as a Thai. King Thuan had a piece of the "Nam Phong" instrument that he played to praise the world for being rich and producing a lot of rice, corn, and potatoes. Therefore, the author wanted to include the sound of King Thun's instrument in his life people to praise the prosperous, joyful, and happy lives of the people. These dreams prove that Nguyen Trai is a great poet with a noble humanitarian heart People's lives, taking care of their lives. It can be said that even though the court could banish Nguyen Trai, he still lived optimistically and loved life, hoping that his ideals would be fulfilled. is done so that people can have a prosperous life. This poem clarifies Nguyen Trai's feelings during his time in Con Son, with his patriotism and love for the people still "flowing with the East tide" day and night. He loved nature and plants passionately. And perhaps it was nature that saved Nguyen Trai from the pessimistic moments of his life. Even though he lives with a natural life, Duc Trai still cherishes "an inch of his old love". Nguyen Trai still does not forget the ideal of the people, the ideal of humanity, the ideal of hoping that the village and the empty hamlet would not have a single sound of resentment or sadness.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến Bài làm Trong lịch sử văn học Việt Nam, bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài tình bạn. Bao trùm bài thơ này là nỗi lòng đau xót khôn nguôi của tác giả, trước việc bạn qua đời. Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng một tiếng than thảng thốt: "Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta! Tin bạn mất đột ngột quá, bất ngờ quá khiến nhà thơ sững sờ. Cách xưng hô ở câu thơ đầu khiến người đọc ít nhiều có thể đoán được đây là mối quan hệ bạn bè giữa những người cao tuổi. Đúng vậy, khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã ngót 70 tuổi. Nỗi đau của người già, hơn nữa lại là một nhà nho luôn quen sống chừng mực, thâm trầm tất phải lận vào trong lòng, phải xoáy vào trong tim, ít khi phô ra bên ngoài. Bằng cách sử dụng nhiều tình thái từ một cách tự nhiên gợi cảm, nhà thơ không nói trực tiếp đến việc bạn mất, nhưng người đọc ai cũng hiểu. Đây là một cách nói giảm, dường như nhà thơ sợ không nhắc trực tiếp đến một sự thực phũ phàng. Hơn nữa, cụm từ “thôi đã thôi rồi” còn thể hiện tình cảm nuối tiếc lẫn sự bất lực của nhà thơ trước sự thật đau đớn. Mất bạn, Nguyễn Khuyến thấy không gian rộng lớn dàn trải, “nước mây" đâu cũng thấm đượm một nỗi buồn thầm lặng khôn nguôi: "Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”. Sau phút giây hàng hoàng ban đầu, dường như nhà thơ có phần trấn tĩnh. Nguyễn Khuyến nhớ lại những kỉ niệm gắn bó giữa hai người: những ngày thời đi học, đi thi, đỗ đạt… Nhà thơ cảm thấy sự gắn bó giữa mình và Dương Khuê như đã có “duyên trời định sẵn". Nguyễn Khuyến và bạn đã từng đặt chân đến những vùng đất xa lạ, có tiếng suối “róc rách lưng đèo”, cùng thưởng thức thú đi hát ả đào “thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”, cùng nhau uống rượu và bàn luận văn chương. Đặc biệt, họ đã cùng nhau sống trong cảnh đau khổ của đất nước: “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn – Phận đẩu thăng chẳng dám than trời". Viết câu thơ trên, khẳng định sự đồng cảnh giữa hai người, chứng tỏ Nguyễn Khuyến cảm thông sâu sắc nỗi lòng của bạn: cho dù vẫn làm quan với tân triều, nhưng đâu phải Dương Khuê không có ít nhiều nỗi chán ngán trước thế cuộc? Bằng đoạn hồi tưởng này, người đọc có thể hình dung ra đôi bạn Nguyễn – Dương đều là những “tao nhân mặc khách" gắn bó keo sơn với nhau lâu bền từ lúc hàn vi tới khi vinh hiển. Những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian tạo nên ở người đọc ấn tượng về mối quan hệ liên tục bền vững trong toàn bộ cuộc đời của hai người. Trong tình bạn ấy có cả sự kính trọng, lẫn tình yêu mến “kính yêu”, thủy chung “từ trước đến sau”. Nhà thơ còn nhớ rất rõ lần cuối cùng gặp gỡ người bạn già cách đây đã ba năm. Tác giả chỉ mô tả lần gặp gỡ này bằng một vài chi tiết: “Cầm tay hỏi hết xa gần, Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can” Người đọc đủ hình dung ra hình ảnh thật xúc động của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê. Nhà thơ ân cần hỏi han bạn đủ điều và mừng rỡ khi thấy bạn tuổi đã cao, song vẫn minh mẫn, tỉnh táo. Đây chính là nét đáng quý trong con người Nguyễn Khuyến, dù đã có khi đạt tới đỉnh cao danh vọng, tâm hồn nhà thơ vẫn bình dị, gần gũi, thương mến vợ con, bè bạn, xóm giềng… Chẳng cứ đối với Dương Khuê, tình cảm nhà thơ đối với Bùi Văn Quế (tức ông nghè Châu Cầu) cũng đằm thắm không kém. Nhân nước lụt, nhà thơ hỏi thăm bạn thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ tựa hồ như một nhà nông chính cống thăm hỏi người ruột thịt cùng cảnh ngộ: “Ai lên nhắn hỏi bác Châu cầu, Lụt lội năm nay bác ở đâu? Mấy ổ lợn con rày lớn bé? Vài gian nếp cái ngập nông sâu? Thế rồi, Cụ Tam Nguyên tự xưng “Em” với ông bạn Châu Cầu và kể chuyện về mình một cách hóm hỉnh, dí dỏm: Em cũng chẳng no mà chẳng đói, Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu (Lụt, hỏi thăm bạn) Tình cảm chân thành, nồng hậu, chu đáo, lời lẽ mộc mạc… là những yếu tố quan trọng làm cho những bài thơ viết về tình bạn của Nguyễn Khuyến lay động trái tim người đọc. Ở bài Khóc Dương Khuê, tình cảm này tập trung ở phần cuối. Hình ảnh Dương Khuê trong lần gặp gỡ cuối cùng vẫn sâu đậm trong tâm trí Nguyễn Khuyến. Nhà thơ cảm thấy việc bạn mất là phi lí. Tác giả tự hỏi: “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, Tôi lại đau trước bác mấy ngày, Lùm sao bác vội về ngay”. Nhưng tiếc rằng điều phi lí, điều trái lẽ thường ấy đã là một sự thật. Chính vì phi lí nên sự đau xót, nuối tiếc càng được nhân lên gấp bội: "Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”. Câu thơ buông ra một cách tự nhiên, khó có thể thấy đâu là kĩ thuật đặt câu dùng từ, nhưng đã diễn đạt thành công nỗi đau to lớn ập đến bất ngờ. Cái chết của bạn làm cho nhà thơ thêm chán chường. Cuộc đời đầy những điều ngang trái, tuổi cao, lên tiên cũng là lẽ thường tình. Có điều, sao bạn nỡ vội vàng để người bạn già ở lại phải chịu sự trống vắng không gì bù đắp nổi? “Ai chẳng biết chán đời là phải – Vội vàng chi đã mải lên tiên”. Câu thơ có ý trách bạn, nhưng đằng sau đó còn là một tâm trạng khôn nguôi về thế sự. Tâm trạng này không những bàng bạc trong tiếng khóc Dương Khuê, mà có khi còn được bộc bạch một cách trực tiếp hơn qua những câu thơ như: "Đời loạn đi về như hạc độc – Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm túc), hay " Bạn già lớp trước nay còn mấy? – Chuyện cũ mười phần chín chẳng như” (Cảm hứng)… Tuổi già, mắt lòa, chân chậm, mối quan hệ vốn đã hạn hẹp; nay, mất bạn, nhà thơ càng đơn độc, chơ vơ: “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua”. “Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai ai biết mà đưa?". Ở đây nghệ thuật điệp từ đã mang lại hiệu quả đáng kể. Trong ba dòng thơ tổng cộng 21 chữ, "không" xuất hiện đến 6 lần, diễn tả tài tình tâm trạng trống vắng ghê gớm của con người. Đồng thời, cách kết cấu trùng điệp ở những câu thơ nói trên tạo được cảm giác nghe tiếng khóc nức nở không dứt. Mất bạn, nhà thơ mất tất cả những gì hứng thú và thay đổi cả nếp sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật: không uống rượu, không làm thơ, đàn không muốn gảy, giường phải treo lên. Như vậy, hỏi còn gì đáng sống? Những thay đổi ấy, chứng tỏ tác giả đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần quá sức chịu đựng bởi cái chết của bạn. Điều đó khẳng định tình bạn giữa hai người thật keo sơn gắn bó. Nghệ thuật trùng điệp còn tiếp tục phát huy được hiệu quả cao hơn ở một số câu tiếp theo: “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương”, tạo cho câu thơ có âm điệu tựa hồ như sóng biển từng đợt tràn lên rồi rút xuống, rồi lại tràn lên mạnh mẽ hơn diễn đạt thành công nỗi đau của nhà thơ càng về sau càng sâu xa, thống thiết. Mở đầu bài thơ là tiếng kêu ngạc nhiên, kết thúc bài thơ là tiếng khóc: “Tuổi già giọt lệ như sương, Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan” Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời đen bạc nay sắp trở thành người “cổ lai hi" (xưa nay hiếm), cụ Yên Đổ làm gì còn đủ nước mắt mà khóc bạn? Nỗi đau không tràn ra ngoài được, ắt phải lặn âm thầm vào bên trong trái tim nhà thơ. Nhà thơ nói là mình không khóc, nhưng dường như hai câu kết thấm ướt nước mắt nóng hổi xót thương! Bằng tài năng kiệt xuất, Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một bài thơ khóc bạn chan chứa nước mắt, qua những lời diễn đạt chân tình thống thiết.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến Bài làm Trong lịch sử văn học Việt Nam, bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài tình bạn. Bao trùm bài thơ này là nỗi lòng đau xót khôn nguôi của tác giả, trước việc bạn qua đời. Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng một tiếng than thảng thốt: "Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta! Tin bạn mất đột ngột quá, bất ngờ quá khiến nhà thơ sững sờ. Cách xưng hô ở câu thơ đầu khiến người đọc ít nhiều có thể đoán được đây là mối quan hệ bạn bè giữa những người cao tuổi. Đúng vậy, khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã ngót 70 tuổi. Nỗi đau của người già, hơn nữa lại là một nhà nho luôn quen sống chừng mực, thâm trầm tất phải lận vào trong lòng, phải xoáy vào trong tim, ít khi phô ra bên ngoài. Bằng cách sử dụng nhiều tình thái từ một cách tự nhiên gợi cảm, nhà thơ không nói trực tiếp đến việc bạn mất, nhưng người đọc ai cũng hiểu. Đây là một cách nói giảm, dường như nhà thơ sợ không nhắc trực tiếp đến một sự thực phũ phàng. Hơn nữa, cụm từ “thôi đã thôi rồi” còn thể hiện tình cảm nuối tiếc lẫn sự bất lực của nhà thơ trước sự thật đau đớn. Mất bạn, Nguyễn Khuyến thấy không gian rộng lớn dàn trải, “nước mây" đâu cũng thấm đượm một nỗi buồn thầm lặng khôn nguôi: "Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”. Sau phút giây hàng hoàng ban đầu, dường như nhà thơ có phần trấn tĩnh. Nguyễn Khuyến nhớ lại những kỉ niệm gắn bó giữa hai người: những ngày thời đi học, đi thi, đỗ đạt… Nhà thơ cảm thấy sự gắn bó giữa mình và Dương Khuê như đã có “duyên trời định sẵn". Nguyễn Khuyến và bạn đã từng đặt chân đến những vùng đất xa lạ, có tiếng suối “róc rách lưng đèo”, cùng thưởng thức thú đi hát ả đào “thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”, cùng nhau uống rượu và bàn luận văn chương. Đặc biệt, họ đã cùng nhau sống trong cảnh đau khổ của đất nước: “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn – Phận đẩu thăng chẳng dám than trời". Viết câu thơ trên, khẳng định sự đồng cảnh giữa hai người, chứng tỏ Nguyễn Khuyến cảm thông sâu sắc nỗi lòng của bạn: cho dù vẫn làm quan với tân triều, nhưng đâu phải Dương Khuê không có ít nhiều nỗi chán ngán trước thế cuộc? Bằng đoạn hồi tưởng này, người đọc có thể hình dung ra đôi bạn Nguyễn – Dương đều là những “tao nhân mặc khách" gắn bó keo sơn với nhau lâu bền từ lúc hàn vi tới khi vinh hiển. Những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian tạo nên ở người đọc ấn tượng về mối quan hệ liên tục bền vững trong toàn bộ cuộc đời của hai người. Trong tình bạn ấy có cả sự kính trọng, lẫn tình yêu mến “kính yêu”, thủy chung “từ trước đến sau”. Nhà thơ còn nhớ rất rõ lần cuối cùng gặp gỡ người bạn già cách đây đã ba năm. Tác giả chỉ mô tả lần gặp gỡ này bằng một vài chi tiết: “Cầm tay hỏi hết xa gần, Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can” Người đọc đủ hình dung ra hình ảnh thật xúc động của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê. Nhà thơ ân cần hỏi han bạn đủ điều và mừng rỡ khi thấy bạn tuổi đã cao, song vẫn minh mẫn, tỉnh táo. Đây chính là nét đáng quý trong con người Nguyễn Khuyến, dù đã có khi đạt tới đỉnh cao danh vọng, tâm hồn nhà thơ vẫn bình dị, gần gũi, thương mến vợ con, bè bạn, xóm giềng… Chẳng cứ đối với Dương Khuê, tình cảm nhà thơ đối với Bùi Văn Quế (tức ông nghè Châu Cầu) cũng đằm thắm không kém. Nhân nước lụt, nhà thơ hỏi thăm bạn thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ tựa hồ như một nhà nông chính cống thăm hỏi người ruột thịt cùng cảnh ngộ: “Ai lên nhắn hỏi bác Châu cầu, Lụt lội năm nay bác ở đâu? Mấy ổ lợn con rày lớn bé? Vài gian nếp cái ngập nông sâu? Thế rồi, Cụ Tam Nguyên tự xưng “Em” với ông bạn Châu Cầu và kể chuyện về mình một cách hóm hỉnh, dí dỏm: Em cũng chẳng no mà chẳng đói, Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu (Lụt, hỏi thăm bạn) Tình cảm chân thành, nồng hậu, chu đáo, lời lẽ mộc mạc… là những yếu tố quan trọng làm cho những bài thơ viết về tình bạn của Nguyễn Khuyến lay động trái tim người đọc. Ở bài Khóc Dương Khuê, tình cảm này tập trung ở phần cuối. Hình ảnh Dương Khuê trong lần gặp gỡ cuối cùng vẫn sâu đậm trong tâm trí Nguyễn Khuyến. Nhà thơ cảm thấy việc bạn mất là phi lí. Tác giả tự hỏi: “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, Tôi lại đau trước bác mấy ngày, Lùm sao bác vội về ngay”. Nhưng tiếc rằng điều phi lí, điều trái lẽ thường ấy đã là một sự thật. Chính vì phi lí nên sự đau xót, nuối tiếc càng được nhân lên gấp bội: "Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”. Câu thơ buông ra một cách tự nhiên, khó có thể thấy đâu là kĩ thuật đặt câu dùng từ, nhưng đã diễn đạt thành công nỗi đau to lớn ập đến bất ngờ. Cái chết của bạn làm cho nhà thơ thêm chán chường. Cuộc đời đầy những điều ngang trái, tuổi cao, lên tiên cũng là lẽ thường tình. Có điều, sao bạn nỡ vội vàng để người bạn già ở lại phải chịu sự trống vắng không gì bù đắp nổi? “Ai chẳng biết chán đời là phải – Vội vàng chi đã mải lên tiên”. Câu thơ có ý trách bạn, nhưng đằng sau đó còn là một tâm trạng khôn nguôi về thế sự. Tâm trạng này không những bàng bạc trong tiếng khóc Dương Khuê, mà có khi còn được bộc bạch một cách trực tiếp hơn qua những câu thơ như: "Đời loạn đi về như hạc độc – Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm túc), hay " Bạn già lớp trước nay còn mấy? – Chuyện cũ mười phần chín chẳng như” (Cảm hứng)… Tuổi già, mắt lòa, chân chậm, mối quan hệ vốn đã hạn hẹp; nay, mất bạn, nhà thơ càng đơn độc, chơ vơ: “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua”. “Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai ai biết mà đưa?". Ở đây nghệ thuật điệp từ đã mang lại hiệu quả đáng kể. Trong ba dòng thơ tổng cộng 21 chữ, "không" xuất hiện đến 6 lần, diễn tả tài tình tâm trạng trống vắng ghê gớm của con người. Đồng thời, cách kết cấu trùng điệp ở những câu thơ nói trên tạo được cảm giác nghe tiếng khóc nức nở không dứt. Mất bạn, nhà thơ mất tất cả những gì hứng thú và thay đổi cả nếp sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật: không uống rượu, không làm thơ, đàn không muốn gảy, giường phải treo lên. Như vậy, hỏi còn gì đáng sống? Những thay đổi ấy, chứng tỏ tác giả đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần quá sức chịu đựng bởi cái chết của bạn. Điều đó khẳng định tình bạn giữa hai người thật keo sơn gắn bó. Nghệ thuật trùng điệp còn tiếp tục phát huy được hiệu quả cao hơn ở một số câu tiếp theo: “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở – Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương”, tạo cho câu thơ có âm điệu tựa hồ như sóng biển từng đợt tràn lên rồi rút xuống, rồi lại tràn lên mạnh mẽ hơn diễn đạt thành công nỗi đau của nhà thơ càng về sau càng sâu xa, thống thiết. Mở đầu bài thơ là tiếng kêu ngạc nhiên, kết thúc bài thơ là tiếng khóc: “Tuổi già giọt lệ như sương, Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan” Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời đen bạc nay sắp trở thành người “cổ lai hi" (xưa nay hiếm), cụ Yên Đổ làm gì còn đủ nước mắt mà khóc bạn? Nỗi đau không tràn ra ngoài được, ắt phải lặn âm thầm vào bên trong trái tim nhà thơ. Nhà thơ nói là mình không khóc, nhưng dường như hai câu kết thấm ướt nước mắt nóng hổi xót thương! Bằng tài năng kiệt xuất, Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một bài thơ khóc bạn chan chứa nước mắt, qua những lời diễn đạt chân tình thống thiết.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ Bài làm Bài thơ này được sáng tác rất nhanh trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Cuối bài thơ ghi rõ ngày 25 tháng 3 năm 1971 – Trần Phương Trà kể lại một lần về đến nhà, chưa kịp đặt gùi gạo xuống, với chiếc khăn mặt lưu mồ hôi, Điềm ngồi vào bàn ghi ngay bài thơ ''Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ” rồi đưa cho tôi. Tôi thú vị đọc bài thơ và sung sướng nói với Điềm. Đây là một bài thơ hay viết về đồng bào dân tộc thiểu số. Xin chúc mừng Điềm". Bài thơ mang tên khác là Khúc hát ru. Điểm mới mẻ đầu tiên là có hai người ru em cu Tai, tác giả và người mẹ Tà – ôi. Hai người ru, hai lời ru – những lời ru ấy quấn quýt, vừa nói về hiện thực, vừa nói về ước mơ, vừa ru em, nhưng cũng ca ngợi mẹ em. Đây là một cách tân trong kết cấu lời ru làm cho “khúc hát" có một sự hòa thanh mới lạ. Theo những lời ru của tác giả, ta biết được mẹ em như một người lao động cần mẫn. Những công việc của mẹ vừa có nét truyền thống: giã gạo, phái rẩy, lại vừa có nét hiện đại: đạp rừng, chuyển lán. Nhưng đây không phải là công việc bình thường của người mẹ trong gia đình. Công việc ấy mang một ý nghĩa khác thường, đó là việc nhà, nhưng cũng là việc nước, việc kháng chiến, việc cách mạng. Giã gạo, phái rẫy, đạp rừng để nuôi bộ đội, nuôi dân làng và đánh giặc. Vì thế người mẹ không chỉ là mẹ riêng của em cu Tai, mà trở thành mẹ chiến sỹ, và cao hơn là mẹ Tổ quốc. Những lời ru của mẹ – “tim hát thành lời" đó là tình cảm của mẹ, là khát khao ước vọng của mẹ đối với con trai của mình. Điều mới ở đây là tình mẫu tử thiêng liêng không phải chỉ dành cho một người con duy nhất của mẹ. Tình thương đó dành cho bộ đội, cho dân làng, và cho đất nước. Hiện tại, tương lai gần, tương lai xa của con trai đều gắn liền với dân làng với cuộc kháng chiến của cả đất nước, dân tộc. Một khúc hát ru, nhưng là khúc hát ru hiện đại, nên không có những "sung chát đào chua”, không có những “cánh cò đi đón Cơn mưa" trong cơn giông tối tăm mù mịt. Cũng không có những hình ảnh tươi đẹp của cuộc sống thanh bình. Hiện ra trong khúc hát ru là nỗi gian khổ, vất vả, nhọc nhằn: mồ hôi mẹ rơi, vai mẹ gầy nhấp nhô. Hiện ra trong khúc hát ru còn là tấm lưng của mẹ. Lưng đưa nôi, và lưng chính là nôi. Tấm lưng trần của người mẹ Tà-ôi gắn chặt với con trai trong mọi công việc vất vả nặng nhọc, tấm lưng ấy nhỏ, không to như lưng núi, nhưng bền bỉ như lưng núi, và kiêu hãnh hơn lưng núi vì con trai – mặt trời của mẹ nằm ở trên lưng. Và sau hết “Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường". Đến đây ta bỗng hiểu vì sao Nguyễn Khoa Điềm đặt tên cho khúc hát ru là Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ Phải chăng mẹ đã dùng tấm lưng làm nôi nuôi dưỡng những dũng sĩ cho cuộc kháng chiến của dân tộc, và gánh chịu tất cả nỗi vất vả gian lao để giành chiến thắng. Người mẹ Tà-ôi, người mẹ Việt Nam mãi mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ ca ngợi. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là một giai điệu đẹp trong bản giao hưởng lớn về người mẹ ấy.
Topic: Feelings about the poem Khuc sings a lullaby to the big babies on their mother's back Assignment This poem was composed very quickly in a rather special situation. At the end of the poem, it clearly states the date March 25, 1971 - Tran Phuong Tra recounts a time when he came home, before he could put down the rice basket, with a sweat-stained towel, Diem sat at the table and immediately wrote the poem ''Khuc sing lull the big babies on their mother's back" and then gave it to me. I read the poem with pleasure and happily told Diem. This is a good poem about ethnic minorities. Congratulations Diem." The poem's other name is Khuc lullaby. The first new thing is that there are two people who lull baby Tai, the author and the mother Ta - oh. Two lullabies, two lullabies - those lullabies are entwined, talking about reality, talking about dreams, lulling me, but also praising my mother. This is an innovation in the lullaby structure that makes the "song" have a new harmony. According to the author's lullabies, we know that her mother is a diligent worker. Mother's work has both traditional features: pounding rice, preparing rice, and modern features: tramping through the forest, moving shacks. But this is not the normal job of a mother in a family. That work has an unusual meaning: it is housework, but it is also country work, resistance work, and revolutionary work. Pounding rice, cultivating fields, trampling forests to feed the soldiers, feed the villagers and fight the enemy. Therefore, the mother is not only Tai's own mother, but becomes a soldier's mother, and more importantly, the mother of the Fatherland. The mother's lullabies - "heart sings into words" are the mother's feelings, the mother's desires and wishes for her son. The new thing here is that sacred motherly love is not just for one person. Mother's only child. That love is for the soldiers, for the villagers, and for the country. Currently, the son's near and far future are tied to the villagers and the whole country's resistance , nation. A lullaby, but a modern lullaby, so there are no "sour peaches" and no "storks going to welcome the rain" in the dark and misty storm. There are also no beautiful images of peaceful life. Appearing in the lullaby are hardships, hardships, hardships: mother's sweat falls, mother's thin shoulders undulate. Appearing in the lullaby is also the mother's back. The back carries the cradle, and the back is the cradle. The bare back of the Ta-oi mother is closely attached to her son in all the hard work. That back is small, not as big as the back of the mountain, but as durable as the back of the mountain, and more proud than the back of the mountain for her son. – Mother's sun is on her back. And finally, "From my mother's back to the battlefield". Here we suddenly understand why Nguyen Khoa Diem named the lullaby "Lullaby for the babies growing up on their mother's back." Could it be that the mother used her back as a cradle? nurturing brave soldiers for the nation's resistance, and enduring all the hardships to win. Mother Ta-oi, the Vietnamese mother, is forever an endless source of inspiration for poets The lullaby of the big babies on their mother's back is a beautiful melody in the great symphony about the mother.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu Bài làm Nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài Lượm vào năm 1949, in trong tập thơ Việt Bắc. Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc hình ảnh Lượm, một em bé thiếu nhi hy sinh vì nhiệm vụ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lượm là bài thơ tự sự – trữ tình kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất anh dũng của chu bé liên lạc, hồn nhiên, nhí nhảnh, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương mình. Hình ảnh nhân vật Lượm xuyên suốt trong bài thơ. Trong năm khổ thơ đầu, bằng cái nhìn trìu mến thân thương, tác giả đã miêu tả một chú bé rất đáng yêu: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh. Ca nô đội lệch Mồm huýt sáo vang con chim chích Nhảy trên đường vàng… Nhắc đến Lượm, người đọc nhớ đến hai khổ thơ này, bởi đây là hai khổ thơ đầy ấn tượng về một chú bé liên lạc nhỏ nhắn, xinh xinh, nhanh nhẹn hồn nhiên, nhí nhảnh vui tươi. Những từ láy loát choắt, xinh xinh, thoăn thoát, nghênh nghềnh được dùng rất gợi hình gợi cảm, cùng với thể thơ bốn chữ và nhịp thơ nhanh, tạo âm hưởng vui tươi, nhí nhảnh rất phù hợp với một chú bé như Lượm. Một hình ảnh so sánh đẹp như con chim chích – nhảy trên đường vàng… gợi lên trước mắt chúng ta một chú bé hồn nhiên yêu đời. Thật thú vị! Nhà thơ Lê Đức Thọ cũng có bài thơ Em bé liên lạc, ông cũng hình dung em như một con chim non vui tươi ở những câu kết: Ngày mai trên quãng đường trắng Có em bé lại dẫn đường bên anh. Miệng cười chân bước nhanh nhanh, Như con chim nhỏ trên cành vui tươi. Có lẽ không còn hình ảnh nào có thể thay thế cho được hình ảnh con chim nhỏ và chỉ có hình ảnh này mới thể hiện được vẻ đẹp trẻ thơ của chú bé liên lạc. Bao trùm lên tất cả là cái tình của nhà thơ, cái nhìn trìu mến, thân thương của tác giả đối với chú bé. Phải yêu quí Lượm lắm thì mới miêu tả Lượm hay đến như vậy! Người đọc yêu biết bao cái cười híp mí, má đỏ bồ quân của chú, nhưng càng yêu hơn niềm vui được tham gia kháng chiến của chú bé: Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà! Nhà thơ miêu tả Lượm vui như con chim sổ lồng. Cái ý đi làm liên lạc thích hơn ở nhà, đúng là niềm vui của con chim sổ lồng. Đó là niềm vui chung của cả thế hệ trẻ sau Cách mạng tháng Tám, chứ không riêng gì của chú bé Lượm Đáng yêu hơn là tiếng chào: Thôi chào đồng chí vừa tinh nghịch dí dỏm, lại vừa đứng đắn nghiêm trang, bởi em đã tham gia kháng chiến như mọi người, như chú của em vậy. Trong tiếng chào ấy ta thấy vang lên một niềm tự hào kiêu hãnh rất trẻ con, và rất đáng yêu-của Lượm. Ấn tượng của cuộc gặp gỡ vẫn còn giữ nguyên vẹn nét đẹp đẽ, vui tươi, ấm áp trong lòng tác giả, thì bỗng nhiên có tin Lượm hy sinh. Câu thơ bốn tiếng được ngắt làm hai dòng, bị gãy đôi như một tiếng nấc: Ra thế Lượm ơi! Đó là nỗi sửng sốt, xúc động đến nghẹn ngào. Và nhà thơ hình dung ngay ra cảnh tượng chú bé hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ: Một hôm nào đó Như bao hôm nào Chú đồng chí nhỏ Bỏ thư vào bao Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư để “thượng khẩn” Sợ chi hiểm nghèo? Để rồi lại nghẹn ngào gọi em một lần nữa: Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi! Lượm đã hy sinh anh dũng như một chiến sĩ thực thụ ở trên, nhà thơ còn gọi em bằng cháu, và ở đây khi kể lại cảnh Lượm hy sinh. Tố Hữu đã gọi chú bàng những lời xưng hô trang trọng: Chú đồng chí nhỏ và có tới hai lần gọi như thế. Việc làm của em, sự hy sinh cao đẹp của em khiến em xứng đáng được nhà thơ gọi như thế. Phải chăng đó là lòng cảm phục của một cán bộ cách mạng đối với một em thiếu nhi anh hùng. Nhưng rồi cuối cùng, tình cảm công dân ấy lại quay về tình chú – cháu. Nhà thơ lại gọi Lượm bằng tiếng cháu thân thương khi miêu tả cái chết đẹp đẽ cua em giữa đồng lúa quê hương: Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng… Cánh đồng quê hương như vòng nôi, như vòng tay của mẹ, ấm êm dịu dàng đón em vào lòng. Em chết mà tay vẫn nắm chặt bông lúa, quê hương và hương lúa vẫn bao bọc quanh em như ru em vào giấc ngủ đẹp của tuổi thơ anh hùng. Em chết mà hồn bay giữa đồng, vừa thiêng liêng vừa gần gũi biết bao! Không yêu mến, xót thương, cảm phục Lượm thì không thể miêu tả một cái chết hồn nhiên và lãng mạn đến như thế! Đó là cái chết của những thiên thần nhỏ bé. Thiên thần nhỏ bé ấy đã bay đi để lại bao tiếc thương cho chúng ta, như Tố Hữu đã nghẹn ngào, đau xót gọi em lần thứ ba bằng một câu thơ day dứt: Lượm ơi còn không? Câu thơ đứng riêng thành một khổ thơ, như một câu hỏi xoáy sâu vào lòng người đọc. Nếu không có cái tình với Lượm thì nhà thơ làm sao lại day dứt thế được! Câu hỏi ngân vang ấy, tưởng chừng như không có câu trả lời, nhưng chính tác giả đã trả lời bằng hai khổ thơ cuối khép lại bài thơ: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng. Hai khổ thơ cuối láy lại khổ thơ thứ hai và khổ thơ thứ ba như một điệp khúc để khẳng định Lượm vẫn còn sống mãi với quê hương đất nước, sống mãi trong lòng tác giả. Bài thơ hết nhưng ý thơ lại mở ra vẫn còn tiếp nối mãi trong lòng người đọc hình ảnh một chú bé liên lạc hồn nhiên mà dũng cảm, đáng yêu và đáng cảm phục. Lượm vẫn còn công mãi trong lòng chúng ta như bài ca bất diệt về tuổi thơ trong sáng đã hiến dâng đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc. Với thể thơ bốn chữ, một thể thơ dân gian truyền thống phù hợp với lối kể chuyện có nhịp kể nhanh. Với cách ngắt đôi câu thơ đột ngột, và nghệ thuật tách câu thơ thành một khổ thơ riêng rất độc đáo, kết hợp với cách sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán… Lượm thật sự là một bài thơ hay, cảm động về một tấm gương bé bỏng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Topic: Feelings about the poem Luom by poet To Huu Assignment Poet To Huu composed the poem Luom in 1949, published in the Viet Bac poetry collection. The poem left a deep impression in the hearts of readers with the image of Luom, a young child who sacrificed his life for his duty in the resistance war against the French colonialists. Luom is a narrative-lyrical poem about the short but very heroic life of a young boy named Li Lien, innocent, cheerful, loving life, and brave who fell down to protect the peace of his hometown. my scent. The image of the character Luom runs throughout the poem. In the first five stanzas, with a loving and affectionate look, the author describes a very adorable little boy: Little boy Beautiful bag The legs are nimble The head welcomes. The canoe is tilted sideways Mouth whistled loudly warbler Dancing on the golden road… Referring to Luom, readers remember these two stanzas, because these are two impressive stanzas about a small, pretty, agile, innocent, and cheerful liaison boy. The words fluently, pretty, agile, and skillful are used to evoke a very sexy image, along with the four-word poetic form and fast rhythm, creating a cheerful, playful sound that is very suitable for a boy like Luom. . A comparison image as beautiful as a warbler - jumping on the golden road... evokes before our eyes an innocent little boy who loves life. Interesting! Poet Le Duc Tho also wrote the poem Baby in touch, he also imagined her as a cheerful young bird in the concluding lines: Tomorrow on the white road There's a baby leading the way with you. Smiling mouth, quick steps, Like a cheerful little bird on a branch. Perhaps no other image can replace the image of a little bird and only this image can express the childlike beauty of the little liaison. Covering everything is the poet's love, the author's affectionate and loving look towards the little boy. You must love Luom very much to describe Luom so well! Readers love the boy's narrow-lipped smile and red cheeks, but love the boy's joy of participating in the resistance even more: I'm going to contact you. It's so much fun. Staying at Mang Ca station is better than staying at home! The poet describes Luoi happily as a bird escaped from a cage. The idea that going to work is preferable to staying at home is truly the joy of an escaped bird. That is the common joy of the entire young generation after the August Revolution, not just that of little Luom More lovely than the greeting: Hello comrade, both mischievous and witty, yet dignified and serious, because I participated in the resistance like everyone else, like my uncle. In that greeting we hear a very childish, and very lovely pride - of Luom. The impression of the meeting was still intact, beautiful, joyful, and warm in the author's heart, when suddenly there was news of Luom's death. The four-word poem is broken into two lines, broken in half like a sob: Oh Hey Luom! It was a shocking, choking emotion. And the poet immediately imagines the scene of the boy dying while on duty: One day, like every other day, little comrade, put the letter in a bag, flashed across the front, bullets flew by, letter to "urgently" Why are you afraid of danger? Then he sobbingly called me again: Suddenly red flashed Okay, Luom! Little comrade A stream of fresh blood! Luom sacrificed heroically like a true soldier above. The poet even called him his nephew, and here when recounting the scene of Luom's sacrifice. To Huu called him with formal addresses: Little comrade and called him like that twice. Your deeds, your noble sacrifices make you worthy of being called that by the poet. Is that the admiration of a revolutionary cadre for a heroic child? But in the end, that civic love returned to the uncle-nephew relationship. The poet again called Luom in his beloved nephew's language when describing his beautiful death in the rice fields of his hometown: I lie on the rice Hands holding cotton tightly Rice smells like milk Soul flying in the fields... The hometown field is like a cradle, like a mother's arms, warm and gentle, welcoming you into her arms. I died while still clutching the rice flower, my homeland and the scent of rice still surrounded me as if lulling me into the beautiful sleep of heroic childhood. I died but my soul flew in the middle of the field, how sacred and close! Without love, pity, and admiration for Luom, it would be impossible to describe such an innocent and romantic death! That is the death of little angels. That little angel flew away, leaving us with so much sadness, as To Huu choked up, painfully calling her for the third time with a tormenting verse: Luom, are you still there? The poem stands alone as a stanza, like a question penetrating deep into the reader's heart. If it weren't for his love for Luom, how could the poet be so tormented! That resounding question seemed to have no answer, but the author himself answered in the last two stanzas that close the poem: Little boy Beautiful bag The legs are nimble The head welcomes The backpack is worn crookedly Mouth whistled loudly Like a warbler Jump on the yellow line. The last two stanzas repeat the second and third stanzas as a refrain to affirm that Luom is still alive in his homeland, forever in the author's heart. The poem ends but the poem's meaning opens up, still continuing in the reader's heart with the image of an innocent yet brave, lovable and admirable liaison boy. Luom still remains in our hearts as an eternal song about the innocent childhood who dedicated his life to the independence and freedom of the nation. With a four-word poetic form, a traditional folk poem suitable for a fast-paced storytelling style. With the sudden way of breaking the verse in half, and the unique art of separating the verse into a separate stanza, combined with the use of rhetorical questions and exclamations... Luom is truly a beautiful, touching poem. about a young example who sacrificed his life in the resistance war against the French colonialists.
Cảm nhận về bài thơ Mây và Sóng của Ta-go Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Mây và Sóng của Ta-go. Từ xưa, trong văn học có hiện tượng: một tác phẩm dường như do cảm hứng ngẫu nhiên mà thành, hoặc một chân lí lớn lao được nói lên một cách thật hồn nhiên, bình dị thế mà sức sống của những sáng tạo nghệ thuật ấy đã và sẽ trường cữu với thời gian. Mây và sóng của Ta-go là một trong những trường hợp đó. Cấu tứ của bài thơ bản thân nó là một phát hiện bất ngờ: từ một ước mơ nhỏ bé hướng tới cái lớn lao, rồi lại từ cái lớn lao hướng về cái nhỏ bé, nhưng cái nhỏ bé lần này đồng nhất với cái lớn lao, ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ. Sự nâng cấp ở bài thơ có một ý nghĩa lãng mạn, nhân văn. Bản chất độc thoại của thơ ca đã trở nên đối thoại với mọi con người, với cái thời đại cả hôm nay và mai sau, nghĩa là với cái không cùng nhưng lại được cất lên bằng một tiếng nói, một giọng nói trẻ thơ. 1.Bé thích được chơi, bé muốn được đi chơi cùng mây và sóng. Bằng trí tưởng tượng phong phú, em nghe được cái mà người lớn không nghe được, tiếng gọi của sóng, của mây: "Mẹ ơi, trên mây có người gọi con", "Trong sóng có người gọi con". Tiếng gọi hối hả, giục giã, bồn chồn, nó lặp đi lặp lại như gõ cửa vào tâm hồn vốn thích bay bổng, mộng mơ của bé. Những cuộc du ngoạn ấy mới kì thú biết chừng nào. Đây là lời của mây: Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà… bọn tớ chơi với vầng trăng bạc. Còn đây là lời của sóng: Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nào. Thật quyến rũ biết bao những cuộc vui hết mình như thế. Cứ như là những giấc mơ hoa. Cuộc chơi nào cũng lạ, cũng hay, tưởng chừng không cưỡng nổi bởi cái vô hạn thời gian và vô hạn không gian. Thời gian hào phóng (từ sáng đến tối) còn không gian là cả vũ trụ không cùng. Chơi với vầng trăng là được làm bạn với chị Hằng, một mơ ước của mọi người nơi trái đất. Còn đến với những nơi mà không cần biết nơi dó là đâu thì còn gì thú vị bằng. Được vui chơi, được ngao du, được ca hát trong một thế giới không còn gì phải ràng buộc, phải lo âu, dù chỉ một lần, điều đó chẳng phải là tuyệt vời hạnh phúc hay sao? Nhà thơ bằng tưởng tượng mà hình dung ra đó là tiếng gọi của mây và sóng, nhưng thực thì đó là tiếng gọi của bé với sóng với mây. Đây là khát vọng trẻ thơ của loài người từ mọi miền trái đất đã đồng vọng vào bao khúc đồng dao. Gắn bó với thiên nhiên, hoà nhập với thiên nhiên, kể cả chinh phục thiên nhiên là tình cảm, là mơ ước của con người. Bài thơ chắp cánh cho ta đi đến những chân trời ước mơ ấy. Sức hấp dẫn không cưỡng nổi tiếng gọi khách quan là của sóng và mây, đối với em bé là tâm trạng háo hức, bồn chồn. Em muốn đi luôn, em muốn đi ngay không một chút băn khoăn, do dự. Thì đã nghe mây và sóng trả lời. –Họ đáp: "Hãy đến nơi tận cùng trái đất, đưa tay lên trời, cậu sẽ được nhấc bổng lên tận tầng mây"… –Họ nói: "Hãy đến rìa biển cả, nhắm nghiền mắt lại, cậu sẽ được làn sóng nâng đi". Đến đây, thêm một sức hấp dẫn thứ hai: cách đến được với mây và sóng. Thật đơn giản, thật mơ mộng biết chừng nào? Chỉ một khoảnh khắc, hoặc đưa tay lên trời, hoặc nhắm mắt lại. Phép biến hiện ở đây như là trong cổ tích (cô thiếu nữ Na-ta-sa trong Chiến tranh và hoà bình của Lép Tôn-xtôi cũng tưởng tượng trong một đêm trăng nào đó: cứ ôm lấy hai đầu gối là người ta có thể bay bổng lên trời). Điều kì diệu ở đây là tất cả đều diễn ra trong một chớp mắt. 2.Làm sao bé có thể xa mẹ để đi với sóng và mây. Giấc mơ hai lần tưởng đã trở thành hiện thực. Nhưng bé chợt phân vân. Có một cái gì như níu kéo. –"Mẹ mình đang đợi ở nhà" – con bảo – Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?". –Con bảo: "Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?". Trước câu hỏi bất chợt mà đơn sơ ấy, bé không tự trả lời được, mây và sóng cũng chỉ im lặng mà quay đi. Nói cho đúng thì cả mây và sóng đều có "mỉm cười", một thái độ thông cảm mà chan chứa bao dung. Làm sao em bé có thể rời xa cái không gian tuy nhỏ bé nhưng quen thuộc và ấm áp gia đình có mẹ, có con mỗi chiểu, mỗi sớm. Cách nghĩ ngây thơ nhưng xúc động lòng người, bởi đó là tiếng nói của trái tim không cần ai mách bảo. Không trả lời được cũng là một cách trả lời, và như thế là câu hỏi đã được hồi âm. Hai lần mây và sóng rủ rê tương ứng với hai lần níu kéo, cánh diều dù bay bổng đến đâu cũng nương tựa vào sợi dây để giữ thế thăng bằng, con thuyền ngang dọc giữa đại dương có một thứ "la bàn" để con thuyền không lạc hướng. Thì ra mơ ước dù lãng mạn đến vô cùng vẫn là mơ ước của con người, không thể rời xa nơi mảnh đất mà con người gắn bó. Hình ảnh người mẹ là hình ảnh của quê hương, hình ảnh bình dị và thiêng liêng cho con người dù đi đến cùng trời cuối đất. 3.Bé làm mây, làm sóng cho riêng mình. Không đi được với mây và sóng, bé tìm cách tự làm sóng, làm mây. Trí tưởng tượng nên thơ cộng với sự thông minh cũng rất nên thơ tạo nên một thế giới, cao hơn nữa, một vũ trụ bất ngờ, mây ấy còn quấn quýt hơn, sóng ấy còn dào dạt hơn, bởi cái "trò chơi thú vị hơn", trong đó có cả con và mẹ. – Con là mây và mẹ sẽ là trăng. Hai bàn tay con ôm lấy mẹ, và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thẳm… –Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ, Con lăn lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào. Mái nhà là bầu trời trong sự biến hình thứ nhất nâng cái hữu hạn thành vô hạn, thêm vào đó đôi tay choàng lên người mẹ nếu so sánh với "Bọn tớ chơi với vầng trăng bạc", nó còn say đắm hơn nhiều. Câu thơ trong trẻo như đã được lọc sàng để trở nên tinh khiết. Còn cái mỉm cười thứ hai (tương ứng với cái mỉm cười của sóng) càng diệu kì hơn. Mẹ là thế giới để con khám phá, niềm hạnh phúc ấy không có bến bờ, và nếu có, nó cũng bí ẩn như bến bờ đại dương. Em bé giống như con song ngụp lặn trong tiếng cười, trong niềm vui bất tận. Nơi đây có hai điều "thú vị": bầu trời xanh có cánh buồm trắng ước mơ, và mặt biển mênh mông là biển cả hạnh phúc tràn đầy. Cả hai đang ru em đi vào giấc mơ ngây ngất. Bài thơ giống như một nỗi niềm riêng "một mảnh tình riêng" nhưng không thu nhỏ lại chỉ có "ta với ta". Mở rộng và chan hoà với mây với sóng xa xôi hư ảo, rất lãng mạn nhưng lại thấm thìa sâu sắc tinh người chân thực và đơn sơ như cơm ăn, nước uống hằng ngày. Cái thực ấy đã không còn là thực nữa, nó đã hoà vào cõi mộng, đã dồi dào chất thơ. Bài thơ hay là bài thơ không có điểm tận cùng, Mây và sóng đã tới được cái miền không giới hạn ấy.
Comments on the poem Clouds and Waves by Ta-go Instruct Topic: Comments on the poem Clouds and Waves by Ta-go. Since ancient times, there has been a phenomenon in literature: a work seems to have been created by random inspiration, or a great truth is expressed in such an innocent and simple way that the vitality of artistic creations It has and will endure the test of time. Ta-go's clouds and waves are one of those cases. The structure of the poem itself is an unexpected discovery: from a small dream towards the big, then from the big towards the small, but this time the small is identical to the big. work, on par with nature and the universe. The upgrade in the poem has a romantic and humane meaning. The monologue nature of poetry has become a dialogue with all people, with the times both today and tomorrow, that is, with the infinite but voiced in one voice, a child's voice. 1. Babies like to play, they want to hang out with clouds and waves. With a rich imagination, I hear what adults cannot hear, the call of the waves and clouds: "Mom, there is someone calling me in the clouds", "In the waves, there is someone calling me". The call is hurried, urging, restless, it repeats over and over like knocking on the door of the baby's soul that likes to fly and dream. How exciting those trips are. These are the words of the clouds: We played from the moment we woke up until sunset... we played with the silver moon. And here are the words of the waves: We sing from dawn until dusk. We traveled here and there without knowing where we had been. How charming is such all-out fun. It's like flower dreams. Every game is both strange and interesting, seemingly irresistible because of the infinite time and infinite space. Time is generous (from morning to night) and space is the entire universe without end. Playing with the moon means being friends with Ms. Hang, a dream of everyone on earth. What's more interesting than going to places without knowing where that place is? To have fun, to travel, to sing in a world with no more constraints or worries, even just once, isn't that wonderful happiness? The poet imagines in his imagination that it is the call of clouds and waves, but in reality it is the call of a child to waves and clouds. This is the childlike desire of humans from all over the earth echoed in many nursery rhymes. Being attached to nature, integrating with nature, even conquering nature is a human emotion and dream. The poem gives us wings to reach those dream horizons. The objectively famous irresistible attraction of waves and clouds, for babies, is a state of excitement and restlessness. I want to go right away, I want to go right away without any hesitation or hesitation. Then I heard the clouds and waves answer. –They replied: "Go to the ends of the earth, raise your hands to the sky, you will be lifted up to the clouds"… –They said: "Go to the edge of the sea, close your eyes, you will be carried by the waves." Coming here, there is a second attraction: how to reach the clouds and waves. How simple, how dreamy? Just for a moment, either raise your hands to the sky, or close your eyes. The transformation here is like in a fairy tale (the young girl Natasa in War and Peace by Lev Tonxtoi also imagined on a certain moonlit night: just hug your knees and you will see can fly into the sky). The magic here is that it all happens in the blink of an eye. 2.How can a baby leave his mother to go with the waves and clouds? The twice-thought-out dream has come true. But the baby suddenly wondered. There is something holding back. –"My mother is waiting at home" – I said – How can I leave my mother and come there? –I said: "Mom always wants me to stay home in the afternoon, how can I leave her and go?". Faced with that sudden but simple question, the child could not answer himself, the clouds and waves just remained silent and turned away. Strictly speaking, both clouds and waves have a "smile", a sympathetic yet tolerant attitude. How can a baby leave the small but familiar and warm space of a family with a mother and children every afternoon and every morning? The way of thinking is innocent but touching, because it is the voice of the heart without needing anyone to tell it. Not being able to answer is also a way to answer, and thus the question has been answered. Twice the swaying clouds and waves correspond to two times of holding on. No matter how high the kite flies, it still relies on the string to maintain its balance. The boat moving horizontally and vertically in the middle of the ocean has a kind of "compass" to help it move. The boat does not lose its direction. It turns out that dreams, no matter how romantic, are still human dreams and cannot leave the land to which people are attached. The image of a mother is the image of the homeland, a simple and sacred image for people even if they go to the ends of the earth. 3.Children make clouds and waves for themselves. Unable to walk with clouds and waves, the child tries to make his own waves and clouds. Poetic imagination combined with also very poetic intelligence creates a world, even higher, an unexpected universe, those clouds are even more tangerine, those waves are even more abundant, because of the "interesting game". more delicious", including both children and mothers. – You are the cloud and I will be the moon. Your two hands hug me, and my roof will be the deep blue sky... –You are the wave and I will be the strange shore, I rolled and rolled and rolled until I burst into mother's arms with laughter And no one in this world knows where we are. The roof is the sky in the first transformation, raising the finite into the infinite. In addition, the arms wrapped around the mother's body, compared to "We played with the silver moon", it is much more passionate. The clear verses seem to have been filtered to become pure. The second smile (corresponding to the wave's smile) is even more magical. Mother is the world for me to explore, that happiness has no shore, and if it does, it is as mysterious as the shore of the ocean. The baby is like a river diving in laughter, in endless joy. There are two "interesting" things here: the blue sky with white sails of dreams, and the vast sea surface, a sea full of happiness. Both are lulling me into an ecstatic dream. The poem is like a private feeling, "a separate piece of love" but does not reduce it to just "me and me". Expanding and blending with the clouds and waves, far away and illusory, very romantic but deeply imbued with human spirit that is as real and simple as daily food and water. That reality is no longer real, it has merged into the dream world, and is rich in poetry. A good poem is a poem that has no end. Clouds and waves have reached that unlimited domain.
Cảm nhận về bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ Bài làm Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ Thanh Hải, được viết vào tháng 11 năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, bài thơ của ông đã nêu bật lên một cảm hứng đón nhận thanh sắc, trời đất mùa xuân, cảm nhận được sự tự hào về bước đi lên thanh xuân của đất nước. Đồng thời, bài thơ là tiếng lòng tha thiết, yêu mến và gắn bó với đất nước, gắn bó với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng. Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên xứ Huế đặc sắc. Bức tranh xuân được mở ra với không gian thoáng đạt: Dòng sông, mặt đất, bầu trời. Dòng sông xanh, dòng sông thơ mộng hòa sắc một bông hoa tím biếc trên cao những cánh chim chiền chiện trao liệng hết vang trời làm sáo động cả bức tranh xuân. Dòng sông, tiếng chim là những hình ảnh thực nhưng lại được xen vào hình ảnh ảo… ” Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc” Cảm xúc của tác giả trước cảnh mùa xuân thiên nhiên được diễn tả tập chung ở chi tiết rất giản dị ” Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay ra hứng.” Lời thơ có hai cách hiểu… Dù hiểu theo cách nào thì lời thơ vẫn biểu hiện niềm say xưa ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp thiên nhiên đất trời vào xuân. ” Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao… Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước.” Mùa xuân trước hết là mùa xuân của người cầm súng, người ra đồng những con người tiêu biểu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những con người gieo mùa xuân hòa bình ấm lo cho đất nước, ý nghĩa ấy kết đọng ở chữ ” lộc ” được lặp lại hai lần. Chữ “lộc” nghĩa thực là mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc! Chuyển nghĩa: Lộc trong câu thơ là búp non trên cành lá ngụy trang của người chiến sĩ ra trận là lộc non của mạ gieo khắp cánh đồng, lộc ấy chính là sức sống thế vươn lên phát triển của thế giới. Hình ảnh sóng đôi, điệp từ, điệp ngữ, phép ẩn dụ, so sánh tạo lên nhịp điệu mùa xuân hối hả hào hùng và diễn tả trực tiếp không khí lên đường khẩn trương rộn dàng háo hức. Mặc dù đất nước bốn ngàn năm vất vả gian lao của những người bền bỉ vững vàng. Ngôi sao ấy luôn tỏa sáng soi đường cho thế hệ này nối tiếp thế hệ kia chung tay góp sức xây dựng đất nước. “Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc” Nghĩa là ngay cả lúc này sự sống đang vơi dần vẫn muốn cống hiến. Đó là lẽ sống cao đẹp, sống có ích biết dâng hiến cho cuộc đời tất cả những gì tinh túy nhất. Vậy là cái tôi chữ tình bộc lộ cảm xúc riêng tư trước mùa xuân thiên nhiên đất trời chuyển sang xưng ta diễn tả sự hòa hợp của cái tôi nhỏ bé với cái ta rộng lớn. Nguyện ước của nhà thơ không chỉ riêng một người mà còn là nguyện ước chung của tất cả mọi người. Những câu thơ năm chữ kết hợp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc cú pháp tạo ra nhịp thở liền mạch sôi nổi, trẻ trung diễn tả cảm xúc vừa chân thành vừa thiết tha trào dâng với khát vọng mãnh liệt. Trước lúc đi xa nhà thơ vẫn cháy lên khát vọng sống và tình yêu quê hương đất nước. Câu Nam ai, Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế.” Nhà thơ muốn hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ngợi ca đất Huế biểu hiện niềm tin yêu gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương đất nước. trở thành khúc ca xuân. Bằng sự rung cảm và mãnh liệt của mình, nhà thơ Thanh Hải đã để lại trong lòng người đọc những suy nghĩ, những bài học vô cùng sâu lắng. Càng đọc thì người ta càng cảm thấy cuộc sống có rất nhiều ý nghĩa, bởi vì khi ta sống, chúng ta được hết mình và cống hiến cho tổ quốc Việt Nam dấu yêu. Cảm ơn tác giả Thanh Hải đã cho chúng ta có một cái nhìn mới mẻ, có một cảm nhận tinh tế về cuộc sống tươi đẹp này.
Feelings about the poem Little Spring Instruct Feelings about the poem Little Spring Assignment The poem Little Spring is the last work of poet Thanh Hai, written in November 1980 when the poet was lying on his deathbed. His poem highlights an inspiration to welcome the colors and sky. spring land, feel the pride of the country's youthful progress. At the same time, the poem is a voice of earnestness, love and attachment to the country, attachment to life and a sincere expression of a wish to dedicate. The poem begins with a unique picture of Hue's nature. The spring painting opens with open space: River, ground, sky. The green river, the poetic river mixed with a purple flower high above, the larks' wings fluttering to the sky, making the flutes stir the whole spring picture. The river and the sound of birds are real images but are interspersed with virtual images... ” Growing in the middle of the green river A purple flower" The author's feelings towards the natural spring scene are described in very simple detail ” Every drop of glitter falls I put my hand out to catch it.” The poem has two ways of understanding... No matter which way it is understood, the poem still expresses the poet's ancient ecstasy before the beauty of nature, earth and sky in spring. ” Spring man with gun Lots of luck on my back In spring, people go to the fields Fortune spreads across the fields Everything seems to be in a hurry Everything seems to be in a stir... The country of four thousand years Hard work and hardship The country is like a star Just move forward.” Spring is first of all the spring of those who hold guns, those who go to the fields, people who represent the cause of building and protecting the fatherland. The people who sow the spring of peace and warmth care for the country, that meaning is condensed in the word "fortune" repeated twice. The word "luck" actually means spring when trees and plants sprout! Translation: The buds in the poem are the young buds on the camouflaged branches of the soldiers going into battle, the young buds of rice seedlings sown throughout the fields, that bud is the vitality of the world's rise and development. Double images, alliteration, alliteration, metaphors, and comparisons create a heroic, bustling spring rhythm and directly describe the urgent, bustling atmosphere of the journey. Despite the country's four thousand years of hardship and steadfastness. That star always shines, illuminating the way for generation after generation to join hands and contribute to building the country. “Even in my twenties Whether it's the gray hair" It means that even at this time when life is dwindling, we still want to contribute. That is a noble way of living, a useful life, knowing how to dedicate to life all the most quintessential things. So the word "I" expresses personal feelings before the spring of nature, earth and sky, and changes to "I" to describe the harmony of the small self with the large self. The poet's wish is not just for one person but is also the common wish of everyone. The five-word verses combine alliteration, alliteration, and syntactic structure to create a seamless, vibrant and youthful breathing rhythm, expressing feelings that are both sincere and passionate, surging with intense desire. Before going away, the poet still burned with the desire to live and love for his homeland. Go Nam ai, Nam Binh The country is thousands of miles away Thousands of miles of love The rhythm of Hue's pre-land. The poet wants to sing the verses Nam ai, Nam Binh to welcome spring, praising the land of Hue, expressing the author's deep love and attachment to his homeland. become a spring song. With his vibrancy and intensity, poet Thanh Hai has left readers with extremely profound thoughts and lessons. The more people read, the more they feel that life has a lot of meaning, because when we live, we can do our best and contribute to our beloved country, Vietnam. Thank you author Thanh Hai for giving us a new perspective and a delicate feeling about this beautiful life.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Mưa của Trần Đăng Khoa Bài làm Bài Mưa được Trần Đăng Khoa viết năm 1967, khi ấy tác giả mới lên chín tuổi. Thơ tuổi thơ của Trần Đăng Khoa thường viết về những cảnh vật và con người bình dị, gần gũi ở làng quê, nơi góc sân vườn nhà, nhưng lại từ chỗ đó mà nhìn ra được đất nước và mang khí thế của thời đại chống Mỹ cứu nước. Bài thơ Mưa cũng nằm trong mạch sáng tác ấy. Bức tranh mưa rào được Trần Đăng Khoa miêu tả theo trình tự thời gian. Từ lúc sắp mưa đến trong cơn mưa. Quang cảnh lúc trời sắp mưa được mở đầu bằng hai dòng thơ lặp lại: Sắp mưa Sắp mưa Như lời báo động rất khẩn trương cho mọi người biết là cơn mưa rào đã đến. Quang cảnh được diễn ra bằng hàng loạt hình ảnh diễn tả sự hoạt động của cảnh vật rất sống động: cả họ hàng nhà mối rời tổ bay ra, bay cao, bay thấp, nhào lộn trong không trung, mối già, mối trẻ sao mà nhiều mối thế! Đích xác là trời sắp mưa rồi! Dưới đất đàn gà con đang rối rít tìm nơi ẩn nấp. Vội vã quá! Kìa ông trời đã mặc áo giáp đen ra trận, mưa đã múa gươm, kiến đang hành quân, rồi bụi bay, gió cuốn… Tất cả, tất cả đều vội vã, khẩn trương hành động khi cơn mưa sắp tới. Còn có hình ảnh nào đẹp hơn: Cỏ gà rung tai Nghe Bụi tre Tần ngần Gỡ tóc Hàng bưởi Đu đưa Bế lũ con thơ Đầu tròn Trọc lốc Từ động tác của cây cỏ gà và động tác rung rinh của nó trong cơn gió mà tác giả đã hình dung ra như cái tai cỏ gà rung lên để nghe âm thanh của những cơn gió mạnh lúc trời sắp mưa; những cành tre và lá tre bị gió thổi mạnh được hình dung như mớ tóc của bụi tre đang gỡ rối. Nhưng càng gỡ càng rối bởi gió mỗi lúc càng mạnh hơn. Một hình ảnh so sánh rất táo bạo của nhà thơ: những quả bưởi được ví như lũ trẻ con, đầu không có tóc đang ẩn náu trong những cành lá bưởi đang đưa đi, đưa lại trước gió… Nhà thơ phải quan sát thật kĩ và vô cùng tinh tế, qua cảm nhận bằng mắt và tâm hồn của trẻ thơ, kết hợp với sự liên tưởng phong phú, mạnh mẽ mới có được những vần thơ hồn nhiên và độc đáo đến như vậy! Cơn mưa được miêu tả theo cấp độ tăng dần. Nếu như quang cảnh khi trời sắp mưa là sự hoạt động và trạng thái khẩn trương, vội vã của cây cối và loài vật thì trong cơn mưa, khung cảnh thiên nhiên được tác giả miêu tả dữ dội hơn, sự hoạt động của sự vật và có cả con người nữa có phần mạnh mẽ hơn. Chớp Rạch ngang trời Khô khốc. Từ rạch có sức gợi sự hoạt động của tia chớp quá nhanh và mạnh đến nỗi như người cầm dao rạch đứt đôi bầu trời để từ vết rạch đó toé ra những tia lửa điện báo hiệu trời mưa đã đến nơi rồi. Kèm theo chớp là sấm sét, một sự liên tưởng hợp với lô-gíc tự nhiên. Biện pháp nhân hoá được sử dụng liên tiếp trong đoạn thơ: Sấm cười, cây dừa sải tay bơi, ngọn mùng tơi nhảy múa. Những vật vô tri vô giác vào thơ của Trần Đăng Khoa đều có hồn. Bức tranh sống động, rộn ràng hơn khi tác giả miêu tả âm thanh: Mưa Mưa Ù ù như xay lúa Lộp bộp Lộp bộp. Cả không gian đất trời mù trắng nước. Nước sủi bọt bong bóng phập phồng dưới mái hiên. Cây lá được uống mưa, tắm mưa tươi tỉnh “hả hê” sung sướng. Hình ảnh con người được hiện lên trong bức tranh thiên nhiên rất đẹp. Trong cơn mưa dữ dội, con người đã bất chấp: Đội sấm Đội chớp Đội cả trời mưa… Ở đây có sự đối lập giữa thiên nhiên và con người. Một bên là mưa, sấm, chớp dữ dội, một bên là sự chủ động bình tĩnh của con người. Phải chăng tác giả đã sử dụng thiên nhiên như là một cái nền tôn cao tư thế của con người. Con người ở đây là Người cha đi cày về. Đi cày là một công việc bình thường và quen thuộc ở làng quê đã được hiện lên, nổi bật với dáng vẻ lớn lao, với tư thế vững vàng giữa khung cảnh thiên nhiên dữ dội của trận mưa như là bất chấp tất cả, vượt lên tất cả để tự tin, chiến thắng. Điệp từ đội được sử dụng liên tiếp trong ba dòng thơ cuối bài đã làm cho con người trở thành điểm sáng giữa bức tranh thiên nhiên. Với thể thơ tự do, với cách sử dụng câu ngắn, nhịp điệu nhanh và dồn dập, phép nhân hoá được sử dụng rộng rãi và chính xác, với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế, năng lực liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú, cách cảm nhận thiên nhiên rất sâu sắc và trẻ thơ, bài thơ đã miêu tả chính xác và sinh độrg cảnh tượng trước và trong cơn mưa rào ở làng quê qua những hoạt động và trạng thái của nhiều cảnh vật, loài vật và con người. Nổi bật lên trong bức tranh thiên nhiên đó là hình ảnh con người được nâng lên lớn lao, có sức mạnh to lớn để sánh với thiên nhiên và vũ trụ.
Topic: Feelings about the poem Rain by Tran Dang Khoa Assignment "Rain" was written by Tran Dang Khoa in 1967, when the author was only nine years old. Tran Dang Khoa's childhood poetry is often written about simple, close-knit scenes and people in the countryside, in the corner of his garden, but from there he can see the country and carries the spirit of the anti-war era. America saved the country. The poem Rain is also in that vein of writing. The painting of a shower is described by Tran Dang Khoa in chronological order. From the time it's about to rain to the time it rains. The scene when it is about to rain begins with two repeating lines of poetry: It's about to rain It's about to rain Like a very urgent warning to let everyone know that the shower has arrived. The scene is played out in a series of images depicting the activities of the scene very vividly: the whole termite family leaves the nest and flies out, flying high, flying low, acrobatics in the air, old termites, young termites star. but so many connections! It's definitely about to rain! On the ground, a flock of chicks are frantically looking for a place to hide. Too hasty! Behold, the heavens were wearing black armor and going into battle, the rain was dancing with swords, ants were marching, then dust was flying, winds were blowing... All, all were in a hurry, urgently taking action when the rain was about to come. Is there a better picture than this: The chicken's ears shook Listen to Bamboo Bush Hesitantly, take out your hair Grapefruit row Swinging Carrying the babies Round head Bald From the movement of the chicken grass plant and its shaking in the wind, the author has imagined that the chicken grass's ears vibrate to hear the sound of strong winds when it is about to rain; The bamboo branches and bamboo leaves blown by the strong wind are visualized as the hair of the bamboo bush being untangled. But the more I untangled it, the more the wind became stronger and stronger. A very bold comparison image of the poet: grapefruits are compared to children, their hairless heads are hiding in the grapefruit branches and leaves that are moving back and forth in the wind... The poet must observe carefully and extremely delicately, through the eyes and soul of children, combined with rich and strong associations to create such innocent and unique poems. ! The rain is described in increasing levels. If the scene when it is about to rain is the activity and urgency of the trees and animals, then during the rain, the author describes the natural scene more intensely, the activity of things. and there are also humans who are somewhat stronger. Lightning Slit across the sky Dry. The word slit has the power to evoke the activity of lightning so fast and strong that it is like someone holding a knife cutting the sky in two, causing electric sparks to erupt from that slit, signaling that the rain has arrived. Accompanying lightning is thunder, an association that fits natural logic. Personification is used continuously in the poem: Thunder laughs, coconut trees swim with their arms outstretched, and the tops of mosquito nets dance. Inanimate objects in Tran Dang Khoa's poems all have souls. The picture is more vivid and bustling when the author describes the sound: Rain Rain Buzzing like milling rice Popping Popping. The whole space of heaven and earth is foggy and white. The water bubbled under the eaves. Trees and leaves drink the rain, bathe in the rain and "gloat" happily. The image of humans shown in the natural painting is very beautiful. In the fierce rain, people disregarded: Thunder team Lightning team Despite the rain… Here there is a contrast between nature and humans. On one side is intense rain, thunder, and lightning, on the other side is the calm initiative of people. Perhaps the author used nature as a background to enhance human posture. The person here is the Father returning from plowing. Plowing, a normal and familiar job in the countryside, has been shown, standing out with its grand appearance and steady posture amidst the fierce natural scenery of the rain, as if despite everything, overcoming everything. give it all up to be confident and victorious. The alliteration used consecutively in the last three lines of the poem makes humans the bright spot in the picture of nature. With free verse, with the use of short sentences, fast and intense rhythm, personification is used widely and accurately, with the talent of subtle observation and description, the ability to associate, and the imagination. Rich in imagery, a very profound and childlike way of perceiving nature, the poem accurately and vividly describes the scene before and during a shower in the countryside through the activities and states of many landscapes and species. animals and people. Prominent in that picture of nature is the image of humans raised to a great height, with great power to compare with nature and the universe.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Mộ trích Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh Bài làm Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài viết Hồ Chủ tịch – hình ảnh của dân tộc có nói đại ý: Hồ Chủ tịch là Người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình cảm mà Người đi làm cách mạng. Trong thế giới tình cảm bao la của Người dành cho nhân dân cho các cháu nhỏ, cho bầu bạn gần xa, hẳn có một chỗ dành cho tình cảm gia đình. Bài Chiều tối có lẽ hé mở cho ta nhìn thấy một thoáng ước mơ thầm kín một mái nhà ấm, một chỗ dừng chân trên con đường dài muôn dặm. Cảm nhận về bài thơ Mộ trích Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh Chiều tối là bài thơ thứ ba mươi mốt trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại cảm xúc của nhà thơ trên đường bị giải đi qua hết nhà lao này đến nhà lao khác. Trên con đường khổ ải ấy, một chiều kia. Người chợt nhận thấy cánh chim chiều. Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Câu thơ không giản đơn chỉ tái hiện cảnh vật mà còn bộc lộ cảm nhận của nhà thơ. Làm sao biết rõ được là chim đang mỏi, và làm sao nói chắc được mục đích của chim là về rừng tìm chốn ngủ, như thế ở trong lòng chim mà ra? Câu thơ chỉ là tín hiệu cho thấy là trời đã chiều, mọi vật hoạt động ban ngày đã mệt, đã đến lúc tìm chốn nghỉ ngơi. Câu thơ tương phản với hình ảnh chòm mây cô đơn ở dưới: Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không Câu thơ dịch tuy đẹp nhưng ý thơ có phần nhẹ hơn so với nguyên tác Hán. Nó bỏ mất chữ cô trong cô vân, nghĩa là chòm mây cô đơn, trơ trọi rất có ý nghĩa. Hai từ trôi nhẹ cũng không lột tả được ý của mấy chữ mạn mạn độ. Bới vì độ là hoạt động nhằm đi từ bờ này sang bờ kia, ví như độ thuyền đi từ thuyền sang sông, độ nhật ở cho qua ngày, độ thiên không là chuyển dịch từ chân trời này sang chân trời kia, con đường của mây mới xa vời và vô hạn biết chừng nào! Còn mạn mạn là dáng vẻ trì hoãn, chậm chạp. Chòm mây cô đơn đi từ chân trời này sang chân trời kia, mà lại còn chậm chạp, trì hoãn nữa thì không biết bao giờ mới tới nơi? Và hiển nhiên khi trời tối nó vẫn còn lửng lơ bay giữa tầng không, là hình ảnh ẩn dụ về người tù đang bị giải đi trên đường xa vạn dặm, chưa biết đâu là điểm đừng! Trong hình ảnh ấy hẳn còn gửi gắm tình cảm thương mình cô đơn sốt ruột và khao khát có một mái nhà. Chỉ hai câu thơ mà vừa tả cảnh vật, vừa tả cảnh người, tả tình người. Đó là cái hàm súc, dư ba của thơ cổ điển. Nếu hai dòng đầu đã nói tới chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ và chòm mây cô đơn chưa biết dừng nơi nào, thì hai câu thơ của bài thơ sau hiện diện một chon ngủ của con người: Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng. Trong bản dịch, người dịch đã đưa vào chữ tối lộ liễu trong khi thi pháp thơ cổ chỉ muốn người đọc tự cảm thấy chiều tối phủ xuống mà không cần một sự thông báo trực tiếp nào. Điều đó làm lộ tứ thơ. Nhưng đó là cái khó của người dịch. Điều đáng chú ý là một cảnh lao động gia đình, rất đỗi bình thường, dân dã: Cô em xóm núi xay ngô hạt, ngô hạt xay xong, bếp đã hồng. Cô em, bếp lửa, tượng trưng cho cảnh gia đình. Ngô hạt xay xong, bếp đỏ hồng lại tượng trưng. Cho công việc và nghỉ ngơi. Một không khí ấm cúng đối với người lữ thứ. Điều chú ý thứ hai là trong nguyên tác chữ hồng là ấm, nóng chứ không phải là đỏ, càng chứng tỏ điều nhà thơ nghĩa đến là sức ấm nóng, chứ không phải sáng hồng. Bếp lạnh, tro tàn là tượng trưng cho sự cô quạnh, lẻ loi. Điều chú ý thứ ba là nhà thơ đứng ở núi như thế, y như thể đứng gần gũi bên cạnh. Lại nữa, nhà thơ phải đứng rất lâu mới thấy được cảnh thời gian trôi trong câu: Cô em xóm núi xay ngô hạt – Ngô hạt say xong bếp đã hồng? Đây chỉ là bài thơ trên đường. Vậy đó chỉ là cảnh tưởng tượng trong tâm tưởng, trước xóm núi bên đường xuất hiện như là biểu trưng của mái ấm gia đình, nơi đoàn tụ của những người thân thuộc. Cái kết này tuy không sáng bừng lên màu hồng lạc quan của cách mạng như ái đó hiểu, cũng vẫn ấm áp tình người làm cho nỗi lòng người vơi bớt nỗi cô đơn. tĩnh mịch. Cùng với hình ảnh ấy, một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình thấp thoáng đâu đó. Nếu ta chú ý tới bài thơ trước này là bài Đi đường Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng. Một con đường vô tận, và bài sau đó là bài Đêm ngủ ở Long Tuyền: Đôi ngựa ngày đi chẳng nghỉ chân. Món Gà năm vị: tối thường ăn, thừa cỏ rét, rệp xông vào đánh, oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần. Thì ta sẽ thấy sự xuất hiện khung cảnh gia đình kia là rất dễ hiểu. Nó chứng tỏ trái tim của nhà cách mạng vẫn đập theo những nhịp của con người bình thường gần gũi với mọi người. Nghệ thuật của bài thơ là một nghệ thuật gián tiếp cể điển, nói cảnh để nói tình. Hình ảnh trong thơ cũng là tâm cảnh. Nếu chỉ phẩn tích nó như một bức ranh hiện thực đơn giản, chắc chắn ta sẽ rời xa thế giới nội tâm phong phú của nhà thơ.
Topic: Feelings about the poem Mo from Ho Chi Minh's Prison Diary Assignment Prime Minister Pham Van Dong in the article President Ho - image of the nation said the general idea: President Ho was a very emotional person, and because he was emotional, he went to work in the revolution. In the world of His immense affection for the people, for the children, for companions near and far, there must be a place for family affection. The song Evening may reveal a glimpse of our secret dream of a warm home, a stopping place on a road of thousands of miles. Feelings about the poem Mo from Ho Chi Minh's Prison Diary Evening is the thirty-first poem in the Prison Diary collection, recording the poet's feelings on the way to be taken from one prison to another. On that miserable road, one way. People suddenly noticed the evening bird's wings. Tired birds return to the forest to find a place to sleep The poem does not simply recreate the scene but also reveals the poet's feelings. How can we know for sure that the bird is tired, and how can we be sure that the bird's purpose is to return to the forest to find a place to sleep, which is in the heart of the bird? The poem is just a signal that it is afternoon, everything that has worked during the day is tired, it is time to find a place to rest. The poem contrasts with the image of the lonely cloud constellation below: Clouds float gently in mid-air Although the translated verse is beautiful, the poetic meaning is somewhat lighter than the original Chinese work. It omits the word she in co van, meaning a lonely, lonely cloud, which is very meaningful. Two light words cannot express the meaning of the words arrogant. Because sailing is an activity aimed at going from one shore to the other, for example sailing from a boat to a river, sailing through the day, moving from one horizon to the other, the path of How distant and limitless the clouds are! Arrogance is the appearance of procrastination and slowness. The lonely cloud goes from one horizon to the other, but if it's slow and delayed, I don't know when it will arrive? And obviously when it gets dark it is still floating in the air, a metaphorical image of a prisoner being taken on a road thousands of miles away, not knowing where the stopping point is! In that image, there must also be feelings of compassion for myself, my loneliness, my impatience, and my desire to have a home. Just two verses that both describe the scenery, describe the people, and describe the love of people. That is the conciseness and residue of classical poetry. If the first two lines mentioned a tired bird returning to the forest to find a place to sleep and a lonely cloud not knowing where to stop, then the next two lines of the poem present a moment of human sleep: The girl from the mountain village grinds corn at night Grinding the whole coal furnace was glowing pink. In the translation, the translator clearly included the word darkness while the ancient poetic poetics just wanted the reader to feel the darkness descending without any direct announcement. That reveals four poems. But that is the translator's difficulty. What is worth noting is a scene of family labor, very normal and rustic: The girl from the mountain village grinds corn kernels. After grinding the corn kernels, the kitchen is pink. The younger sister, the stove, symbolizes the family scene. After the corn kernels are ground, the red stove symbolizes redness. For work and rest. A cozy atmosphere for travelers. The second thing to note is that in the original work, the word pink means warm, hot, not red, further proving that what the poet means is warmth, not bright pink. A cold, ash-filled kitchen symbolizes loneliness and isolation. The third thing to note is that the poet stands on the mountain like that, as if standing close next to it. Again, the poet had to stand for a long time to see the passage of time in the sentence: The girl from the mountain village grinded corn kernels - After the corn kernels were drunk, the kitchen turned pink? This is just a poem on the road. So that was just an imaginary scene in my mind, in front of the mountain village on the side of the road that appeared as a symbol of a warm family home, a place of reunion for relatives. Although this ending does not brighten up the rosy optimism of the revolution as I understand, it is still warm with human love, making people's hearts feel less lonely. quiet. Along with that image, a secret dream of a warm family looms somewhere. If we pay attention to this previous poem, it is the poem On the Road Only when you travel on the road do you know how difficult it is High mountains and then high, rolling mountains. An endless road, and the next song is Sleeping Night in Long Tuyen: The pair of horses went without stopping all day. Five-flavored Chicken dish: often eaten at night, with excess cold grass, aphids rush in to fight, boom early in the morning, happy to hear the neighbors singing. Then we will see that the appearance of that family scene is very easy to understand. It proves that the revolutionary's heart still beats with the rhythm of ordinary people close to everyone. The art of the poem is a classic indirect art, telling scenes to express love. Images in poetry are also moods. If we only analyze it as a simple picture of reality, we will certainly be far away from the poet's rich inner world.
Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng trong Nhật kí trong tù của Bác Hồ Hướng dẫn Nhà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mangphong vị Đường thi, được nhiều người ưa thích. Nguyên tác bằngchữ Hán, đây là bản dịch bài thơ: “Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Bài thơ rút trong “Nhật kí trong tù”; tập nhật kí bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh đọa đầy đau khổ, từ tháng 8 -1942 đến tháng 9 -1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết. Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cũng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động khi vầng trăng xuất hiệntrước cửa ngục đêm nay. Ánh trăng mang đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi. Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng? Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”. Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghĩa sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác: “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”… Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lí, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”. Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tầm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỉ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hòa giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ: Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và conngười xuất hiện một sự hóa thân kì diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đày, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng. Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng lên…”. Trăng tròn, trăng sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một sốbài thơ trăng đẹp. Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.
Feelings about the poem Watching the Moon in Uncle Ho's Prison Diary Instruct Writer Hoai Thanh said: "Uncle's poetry is full of moonlight". Indeed, Uncle Ho wrote many moon poems. Among them, the song "Watching the Moon" is a masterpiece poem, with the style of Tang poetry, and is loved by many people. Originally written in Chinese, this is the translation of the poem: “In prison there is no alcohol or flowers The beautiful scene tonight is hard to ignore. People look at the moon shining outside the window, Moon peeked poet watching the door". Poem taken from "Prison Diary"; The poetic diary was written in a miserable situation, from August 1942 to September 1943 when Uncle Ho was unjustly imprisoned by Chiang Kai-shek's group. The poem records a scene of watching the moon in a prison, thereby expressing a passionate love for the moon and nature. The first two verses contain a hint of a smile. Living in adversity, and it is also true that "In prison there is no wine or flowers" but Uncle still found himself confused and extremely moved when the moon appeared in front of the prison door tonight. Moonlight brings poets many emotions and feelings. Moon, flowers, and wine are three elegant pleasures of literary guests. Tonight in prison, Uncle Ho lacked wine and flowers, but his soul was still filled with the charming beauty of nature. The poem is simple but full of emotions. He wondered and confused himself in the face of adversity: The soul is poetic but the limbs are shackled, the moon is so beautiful but there is no wine or flowers to enjoy the moon? The beautiful scene tonight is hard to ignore." The self-awareness of the situation gave the prisoner's moon-watching posture a deeper meaning than the usual moon-watching and moon-watching activities. Through prison bars, Uncle Ho watched the beautiful moon. The prisoner looks at the moon with all his love for the moon, with a true "prison escape" mentality? Prison bars cannot restrain the spirit of a prisoner with extraordinary bravery like Uncle Ho: “People watching the moon shine outside the window”… From the dark cell, Uncle Ho looked towards the moon, looked at the light, and his soul became more relaxed. The iron bars of Guangxi province prison cannot separate the prisoner and the moon! Blood and violence cannot drown out the truth, because the prisoner is a poet, a great soldier, although his "body is inside the prison" but his "spirit is outside the prison". The fourth verse talks about the moon. The moon has facial expressions, eyes and thoughts. The moon is personified as a loyal friend, a confidant from a faraway land to a dark prison to visit Uncle Ho. The Moon looked at Uncle with shyness, moved beyond words. Moon and Uncle met "face to face" and sympathized with each other through their eyes. Sentences 3 and 4 have a symmetrical structure, creating a harmonious balance between man and moon, between words, images and poetic ideas: Moon peeked poet watching the door". We see: "Nhan, Nguyet" and then "Nguyet, Thi Gia" at both ends of the verse and the prison bars blocking the middle. The moon and the prisoner confided to each other through that scary prison bars. The moment of communion between nature and humans, a magical transformation appeared: "The prisoner" turned into a poet. Beautiful poem full of meaning. It represents a rare moon-viewing pose. That posture is a leisurely, free-spirited, optimistic, life-loving, freedom-loving style. “Watching the Moon” is a unique lyrical poem. The poem does not contain the word "steel" but still shines with "steel" quality. During the hardships of imprisonment, Uncle Ho's soul still had moments of leisure and freedom to admire the moon and enjoy the moon. Uncle didn't just look at the moon in prison. He also has many unique poems about the moon and the joy of watching the moon: watching the mid-autumn moon, watching the thousand moons in Viet Bac, going on a boat to see the moon... His poetry bag is full of moonlight: "The moon comes into the window asking for poetry..." , "... Late at night, the moon fills the boat...", "Why take the boat running, the boat waits for the moon to rise...". Full moon, bright moon... appear in Uncle Ho's poetry because he is a poet rich in love for nature, because he is a soldier rich in love for his homeland. He has adorned the national poetry with a number of beautiful moon poems. Drinking wine and admiring the moon are noble pastimes of ancient and modern people - "In the clear night, sip the moon and tilt the cup" (Nguyen Trai). Watching the moon and enjoying the moon for Uncle Ho is a beauty of the soul that loves life and longs for freedom. Freedom for people. Freedom to enjoy all the natural beauty of your homeland. That is the feeling of many people when reading the poem "Watching the Moon" by Ho Chi Minh.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài làm Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hoá thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện. Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự “không đổi thay” của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc vua chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ dó mà ra: chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ chênh và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất không nguôi chạy đọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể. Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hoà, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị “sa cơ”, lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là “ngang bầy”, là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cập báo yên phận, vói bọn “gấu dở hơi”. Ý thức về sự không thể “ngang bầy” nay đang phải chịu “ngang bầy” tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát: Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phái nói đến âm điệu, ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm, nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức công với bất lực buồng xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chối tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: những thanh bằng buông xuôi, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của niềm đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói đến loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua. Mà sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Cái lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là “trò lạ mắt, thứ đồ chơi”. Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự đổi thay vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự “học đòi bắt chước vẻ hoang vu”, nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hổn của nó thì không: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng ; Dải nước đen giả suối, chẳng thông dông Len dưới nách những mô gò thấp kém… Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn tả sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng. Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực dộc khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đểu hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứụ cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ”, “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”. Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng – nguồn cội của niềm tự hào khi “hầm thiêng” đang là bá chủ. Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chú nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao, cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát “một khối căm hờn” không tan của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc hoạ, làm nổi bật chủ thế trữ tình là nhân vật tự gọi là “ta” nhưng thực chất là “cái tôi” bừng thức, “cái tôi” trung tâm của một “thời oanh liệt”. Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với “bóng cả, cây già”, khi thì bóng tối âm thầm với “lá gai cỏ sắc”, cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu “Ta biết ta chúa tể cả muôn loài”. Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trône ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống done loậi, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là đế chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự: Là khiến cho mọi vật đều im hơi. Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho “tình thương nỗi nhớ” ấy dài ra: Nhớ cành sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội… Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thất nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những chữ “đâu” như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằne những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác: Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối… Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn… Đâu những bình minh… Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài làm Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hoá thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện. Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự “không đổi thay” của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc vua chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ dó mà ra: chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ chênh và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất không nguôi chạy đọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể. Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hoà, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị “sa cơ”, lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là “ngang bầy”, là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cập báo yên phận, vói bọn “gấu dở hơi”. Ý thức về sự không thể “ngang bầy” nay đang phải chịu “ngang bầy” tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát: Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phái nói đến âm điệu, ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm, nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức công với bất lực buồng xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chối tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: những thanh bằng buông xuôi, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của niềm đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói đến loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua. Mà sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Cái lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là “trò lạ mắt, thứ đồ chơi”. Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự đổi thay vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự “học đòi bắt chước vẻ hoang vu”, nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hổn của nó thì không: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng ; Dải nước đen giả suối, chẳng thông dông Len dưới nách những mô gò thấp kém… Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn tả sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng. Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực dộc khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đểu hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứụ cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ”, “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”. Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng – nguồn cội của niềm tự hào khi “hầm thiêng” đang là bá chủ. Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chú nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao, cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát “một khối căm hờn” không tan của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc hoạ, làm nổi bật chủ thế trữ tình là nhân vật tự gọi là “ta” nhưng thực chất là “cái tôi” bừng thức, “cái tôi” trung tâm của một “thời oanh liệt”. Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với “bóng cả, cây già”, khi thì bóng tối âm thầm với “lá gai cỏ sắc”, cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu “Ta biết ta chúa tể cả muôn loài”. Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trône ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống done loậi, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là đế chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự: Là khiến cho mọi vật đều im hơi. Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho “tình thương nỗi nhớ” ấy dài ra: Nhớ cành sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội… Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thất nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những chữ “đâu” như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằne những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác: Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối… Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn… Đâu những bình minh… Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.
Cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương. Bài làm Trong thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám có những đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em. Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn,… là lớp các nhà thơ đi trước. Y Phương là một trong các nhà thơ tiêu biểu sau này. Thơ Y Phương nói riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chung có những đặc điểm riêng rất dễ nhận ra. Đó là cách nói, cách nghĩ bằng hình ảnh, mộc mạc, cụ thể, giàu sức khái quát và cũng giàu chất thơ về gia đình, về quê hương, đất nước. Tuy vậy, ở mỗi nhà thơ hình thành một phong cách riêng, chẳng hạn như ở Y Phương là chất suy tư giàu trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm người, về sự gắn bó với quê hương, đất nước. Đó là chất giọng lắng sâu tuy là thủ thỉ tâm tình mà đầy nội lực. Sức thuyết phục, sự lan toả cứ hồn nhiên mà toả rạng không một chút kiểu cách, phô trương hay lí luận dài lời. Kết cấu bài thơ vừa theo chiều dọc: đứa trẻ sinh ra, lớn dần lên đến lúc trưởng thành đã có thể đi xa "nuôi chí lớn", vừa phát triển theo chiều ngang: đứa trẻ gắn bó trong tình thương mến của gia đình, của quê hương, còn đến lúc có thể đi xa, hình ảnh quê hương vẫn như bóng với hình trở thành một thứ hành trang tinh thần vô giá. Để tiện phân tích, chúng ta tạm thời cắt ngang bài thơ, chia làm hai đoạn. Đứa con sinh ra và suốt một thời thơ ấu của nó. Bước đi chập chững đầu tiên của một con người thật trang trọng và cảm động. Trang trọng bởi lần đầu, đứa trẻ đi bằng đôi chân của mình, còn cảm động vì nó có thể yên tâm, tin cậy trong vòng tay của mẹ, của cha. Đứa trẻ ấy sinh ra trong hạnh phúc ("Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới – Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời") và lớn lên bằng sự đùm bọc, dắt dìu: Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Câu thơ tưởng như chỉ là kể, tả rnà xiết bao trìu mến, thân thương. Tấm lòng của mẹ, của cha là cái đích để đứa con hướng tới. Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn nhiên như mặt trời không bao giờ mọc từ hướng tây. Tiếng nói, tiếng cười là cái phía hướng đông rạng rỡ. Hình ảnh cụ thể mà rất giàu chất thơ là ở cách đo đếm chiểu dài: Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Hai thao tác tư duy không cùng trong một hệ thống, vừa ngộ nghĩnh vừa sáng tạo biết bao! Không biết đó là sáng tạo của nhà thơ, hay người Tày ở Cao Bằng xưa nay nói thế, và nếu đó là khẩu ngữ, một cách nói quen miệng dân gian mộc mạc thì chính dân tộc Tày của tác giả vốn dĩ đã có một hồn thơ. Câu thơ có được cái ấm áp, ríu rít, ngọt ngào, một thứ âm vang mà những người làm mẹ, làm cha aị mà không bồi hồi xao xuyến. Tuy vậy, dù tấm lòng cha mẹ có độ bao dung rộng lớn đến đâu, đứa con rất cần nhưng vẫn là chưa đủ. Ở đây có một bầu sữa tinh thần thứ hai, đó là quê hương. Quê hương hiện lên bằng ba yếu tố: rừng, con đường và "người đồng mình". Rừng, con đường tuy chỉ là những hiện tượng gỗ, đá vô tri nhưng cũng biết đem cho những thứ mà đứa trẻ cần để lớn: Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng Cái đẹp của thiên nhiên, không chỉ là màu sắc, cái nhìn thấy mà còn cả "tấm lòng", một dạng thức vô hình, chỉ con người mới có thể cảm nhận được, câu thơ đã đi dần vào chiều sâu và sự khái quát. Rừng thì chở che, con đường thì mở lối, nhưng có lẽ đáng yêu hơn vẫn là con người xứ sở: Người đồng mình yêu lắm con ơi. Vậy cái đáng "yêu lắm" đó là cái gì nếu không phải là cốt cách tài hoa và tinh thần vui sống: Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát. Thì ra dưới cái dáng vẻ "thô sơ da thịt", một tâm hồn lãng mạn biết bao! Mạch thơ có sự đan xen: quê hương và gia đình cùng nuôi đứa trẻ lớn lên ở chặng dường đời dầu tiên của bé. Ý thức về nguồn cội sau này là từ cả hai chung đúc lại giúp cho đứa trẻ trưởng thành đặt chân lên con đường dài, rộng hơn kế tiếp. Phần thứ hai của bài thơ là những lời trao gửi, dặn dò khi đứa trẻ đã "cao" hơn, dặm bước cũng "xa" hơn, xa cái mái nhà yêu thương và núi rừng quê hương. Ta bắt gặp ở đây một lần nữa cái cách nói rất khác lạ mà cũng rất hay: Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn. Lấy sự từng trải (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Chỉ có điều so với đoạn trước, câu thơ có phần nhọc nhằn hơn và do đó rắn rỏi cũng nhiều lên. Đoạn thơ biết đặt ra những vấn đề hệ trọng hơn, vấn đề lẽ sống: Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc. Ở đây, con người trưởng thành phải nhận ra hoàn cảnh. Những đá những thung, những thác những ghềnh là cái nghèo, cái khó bao vây. Đó là những thử thách rất khó vượt qua nhưng lại nhất thiết bằng nghị lực phải vượt qua. Biểu hiện trước hết của nghị lực là không được bi quan, than thở, rồi sau đó, nói như người Kinh "chân cứng đá mềm". Cách nghĩ ấy, cách sống ấy có cái cốt cách Việt Nam được diễn đạt bằng một giọng điệu riêng nhưng không phải là không cứng cỏi. Ba từ "sống" đặt ở đầu câu nối tiếp nhau không chỉ như một lời răn dạy thông thường. Nó thành kính thiêng liêng như việc giữ lửa và truyền lửa cho nhau, đó là vấn đề sống chết. Nói đến nghị lực cũng là nói đến nhân cách làm người. Nhân cách ấy là không chịu "nhỏ bé", phải ngẩng cao đầu như "Người đổng mình tự đục dá kê cao quê hương"… Một lần nữa, quê hương hiện lên như một nguồn tiếp sức, nhưng không phải như thời bé thơ chỉ có an ủi, vỗ về, mà là tư thế thẳng bước mà đi, nhằm thẳng mục tiêu mà tiến. Về nghệ thuật bài thơ, cùng với cách nói, cách sáng tạo hình ảnh (như trên đã phân tích), cần bổ sung về nhịp điệu, giọng điệu, thể loại thơ và các biện pháp tu từ. về nhịp điệu thơ lúc nhanh, lúc chậm, chậm trong kể tả, nhanh đến dồn dập thiết tha trong khát vọng làm người, khi mạch thơ chỉ còn là một mũi tên chí hướng. Đặc biệt mật độ mau thưa không đều của câu nói về "người đồng mình" như một nốt nhấn, tạo nên một tiết tấu tự nhiên phụ thuộc vào cảm xúc và ý nghĩ của người cha trong cuộc đối thoại đơn phương (hình tượng đứa con không xuất hiện). Nếu ở phần đầu, sự dịu dàng, âu yếm là âm điệu chủ thì sau đó phần lí trí đã được nâng lên. Nhưng dù là ngọt ngào hay nghiêm túc thì ẩn chìm trong dó vẫn là một tiếng nói thiết tha vừa thương yêu vừa hi vọng. Riêng về thể thơ, Nói với con được viết bằng một thứ thơ không gò bó, độ dài ngắn của từng câu thơ không đều nhau. Thể thơ tự do này thích hợp với phong cách trò chuyện hằng ngày, phù hợp với một lối tư duy bình dị, hồn nhiên không cần dến sự cầu kì, đẽo gọt. Ngoài ra, cũng cần chú ý những biện pháp tu từ, ví dụ điệp từ (trong nhiều trường hợp), biện pháp đối lập nhằm làm nổi bật ý thơ như "Người đồng mình thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con", ở đây có sự dối lập giữa thể xác và tinh thần. Hoặc hình thức nối tiếp theo kiểu bắc cầu: "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương – Còn quê hương thì làm phong tục". Những yếu tố về nghệ thuật ấy tự nó bổ sung cho nhau như tấm vái nhiều màu, những chiếc túi thố cẩm xinh xinh, một thứ "túi thơ" của người miền núi.
Cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương. Bài làm Trong thành tựu của văn học hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám có những đóng góp không nhỏ của thơ ca các dân tộc anh em. Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn,… là lớp các nhà thơ đi trước. Y Phương là một trong các nhà thơ tiêu biểu sau này. Thơ Y Phương nói riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chung có những đặc điểm riêng rất dễ nhận ra. Đó là cách nói, cách nghĩ bằng hình ảnh, mộc mạc, cụ thể, giàu sức khái quát và cũng giàu chất thơ về gia đình, về quê hương, đất nước. Tuy vậy, ở mỗi nhà thơ hình thành một phong cách riêng, chẳng hạn như ở Y Phương là chất suy tư giàu trải nghiệm về lẽ sống, về đạo lí làm người, về sự gắn bó với quê hương, đất nước. Đó là chất giọng lắng sâu tuy là thủ thỉ tâm tình mà đầy nội lực. Sức thuyết phục, sự lan toả cứ hồn nhiên mà toả rạng không một chút kiểu cách, phô trương hay lí luận dài lời. Kết cấu bài thơ vừa theo chiều dọc: đứa trẻ sinh ra, lớn dần lên đến lúc trưởng thành đã có thể đi xa "nuôi chí lớn", vừa phát triển theo chiều ngang: đứa trẻ gắn bó trong tình thương mến của gia đình, của quê hương, còn đến lúc có thể đi xa, hình ảnh quê hương vẫn như bóng với hình trở thành một thứ hành trang tinh thần vô giá. Để tiện phân tích, chúng ta tạm thời cắt ngang bài thơ, chia làm hai đoạn. Đứa con sinh ra và suốt một thời thơ ấu của nó. Bước đi chập chững đầu tiên của một con người thật trang trọng và cảm động. Trang trọng bởi lần đầu, đứa trẻ đi bằng đôi chân của mình, còn cảm động vì nó có thể yên tâm, tin cậy trong vòng tay của mẹ, của cha. Đứa trẻ ấy sinh ra trong hạnh phúc ("Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới – Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời") và lớn lên bằng sự đùm bọc, dắt dìu: Chân phải bước tới cha Chân trái bước tới mẹ Câu thơ tưởng như chỉ là kể, tả rnà xiết bao trìu mến, thân thương. Tấm lòng của mẹ, của cha là cái đích để đứa con hướng tới. Sự lớn lên của đứa trẻ rất đỗi hồn nhiên như mặt trời không bao giờ mọc từ hướng tây. Tiếng nói, tiếng cười là cái phía hướng đông rạng rỡ. Hình ảnh cụ thể mà rất giàu chất thơ là ở cách đo đếm chiểu dài: Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Hai thao tác tư duy không cùng trong một hệ thống, vừa ngộ nghĩnh vừa sáng tạo biết bao! Không biết đó là sáng tạo của nhà thơ, hay người Tày ở Cao Bằng xưa nay nói thế, và nếu đó là khẩu ngữ, một cách nói quen miệng dân gian mộc mạc thì chính dân tộc Tày của tác giả vốn dĩ đã có một hồn thơ. Câu thơ có được cái ấm áp, ríu rít, ngọt ngào, một thứ âm vang mà những người làm mẹ, làm cha aị mà không bồi hồi xao xuyến. Tuy vậy, dù tấm lòng cha mẹ có độ bao dung rộng lớn đến đâu, đứa con rất cần nhưng vẫn là chưa đủ. Ở đây có một bầu sữa tinh thần thứ hai, đó là quê hương. Quê hương hiện lên bằng ba yếu tố: rừng, con đường và "người đồng mình". Rừng, con đường tuy chỉ là những hiện tượng gỗ, đá vô tri nhưng cũng biết đem cho những thứ mà đứa trẻ cần để lớn: Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng Cái đẹp của thiên nhiên, không chỉ là màu sắc, cái nhìn thấy mà còn cả "tấm lòng", một dạng thức vô hình, chỉ con người mới có thể cảm nhận được, câu thơ đã đi dần vào chiều sâu và sự khái quát. Rừng thì chở che, con đường thì mở lối, nhưng có lẽ đáng yêu hơn vẫn là con người xứ sở: Người đồng mình yêu lắm con ơi. Vậy cái đáng "yêu lắm" đó là cái gì nếu không phải là cốt cách tài hoa và tinh thần vui sống: Đan lờ cài nan hoa Vách nhà ken câu hát. Thì ra dưới cái dáng vẻ "thô sơ da thịt", một tâm hồn lãng mạn biết bao! Mạch thơ có sự đan xen: quê hương và gia đình cùng nuôi đứa trẻ lớn lên ở chặng dường đời dầu tiên của bé. Ý thức về nguồn cội sau này là từ cả hai chung đúc lại giúp cho đứa trẻ trưởng thành đặt chân lên con đường dài, rộng hơn kế tiếp. Phần thứ hai của bài thơ là những lời trao gửi, dặn dò khi đứa trẻ đã "cao" hơn, dặm bước cũng "xa" hơn, xa cái mái nhà yêu thương và núi rừng quê hương. Ta bắt gặp ở đây một lần nữa cái cách nói rất khác lạ mà cũng rất hay: Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn. Lấy sự từng trải (buồn) để đo chiều cao, lấy chí lớn để đánh giá độ xa. Chỉ có điều so với đoạn trước, câu thơ có phần nhọc nhằn hơn và do đó rắn rỏi cũng nhiều lên. Đoạn thơ biết đặt ra những vấn đề hệ trọng hơn, vấn đề lẽ sống: Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc. Ở đây, con người trưởng thành phải nhận ra hoàn cảnh. Những đá những thung, những thác những ghềnh là cái nghèo, cái khó bao vây. Đó là những thử thách rất khó vượt qua nhưng lại nhất thiết bằng nghị lực phải vượt qua. Biểu hiện trước hết của nghị lực là không được bi quan, than thở, rồi sau đó, nói như người Kinh "chân cứng đá mềm". Cách nghĩ ấy, cách sống ấy có cái cốt cách Việt Nam được diễn đạt bằng một giọng điệu riêng nhưng không phải là không cứng cỏi. Ba từ "sống" đặt ở đầu câu nối tiếp nhau không chỉ như một lời răn dạy thông thường. Nó thành kính thiêng liêng như việc giữ lửa và truyền lửa cho nhau, đó là vấn đề sống chết. Nói đến nghị lực cũng là nói đến nhân cách làm người. Nhân cách ấy là không chịu "nhỏ bé", phải ngẩng cao đầu như "Người đổng mình tự đục dá kê cao quê hương"… Một lần nữa, quê hương hiện lên như một nguồn tiếp sức, nhưng không phải như thời bé thơ chỉ có an ủi, vỗ về, mà là tư thế thẳng bước mà đi, nhằm thẳng mục tiêu mà tiến. Về nghệ thuật bài thơ, cùng với cách nói, cách sáng tạo hình ảnh (như trên đã phân tích), cần bổ sung về nhịp điệu, giọng điệu, thể loại thơ và các biện pháp tu từ. về nhịp điệu thơ lúc nhanh, lúc chậm, chậm trong kể tả, nhanh đến dồn dập thiết tha trong khát vọng làm người, khi mạch thơ chỉ còn là một mũi tên chí hướng. Đặc biệt mật độ mau thưa không đều của câu nói về "người đồng mình" như một nốt nhấn, tạo nên một tiết tấu tự nhiên phụ thuộc vào cảm xúc và ý nghĩ của người cha trong cuộc đối thoại đơn phương (hình tượng đứa con không xuất hiện). Nếu ở phần đầu, sự dịu dàng, âu yếm là âm điệu chủ thì sau đó phần lí trí đã được nâng lên. Nhưng dù là ngọt ngào hay nghiêm túc thì ẩn chìm trong dó vẫn là một tiếng nói thiết tha vừa thương yêu vừa hi vọng. Riêng về thể thơ, Nói với con được viết bằng một thứ thơ không gò bó, độ dài ngắn của từng câu thơ không đều nhau. Thể thơ tự do này thích hợp với phong cách trò chuyện hằng ngày, phù hợp với một lối tư duy bình dị, hồn nhiên không cần dến sự cầu kì, đẽo gọt. Ngoài ra, cũng cần chú ý những biện pháp tu từ, ví dụ điệp từ (trong nhiều trường hợp), biện pháp đối lập nhằm làm nổi bật ý thơ như "Người đồng mình thô sơ da thịt – Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con", ở đây có sự dối lập giữa thể xác và tinh thần. Hoặc hình thức nối tiếp theo kiểu bắc cầu: "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương – Còn quê hương thì làm phong tục". Những yếu tố về nghệ thuật ấy tự nó bổ sung cho nhau như tấm vái nhiều màu, những chiếc túi thố cẩm xinh xinh, một thứ "túi thơ" của người miền núi.
Cảm nhận về bài thơ Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan BÀI LÀM “Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang- một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi. Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề: Bước đến đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hoàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều ta lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ. Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật. Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương: Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia. Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan. Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta. Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc. “Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.
Feelings about the poem Crossing the Horizontal Pass by Ms. Thanh Quan District Instruct Feelings about the poem Crossing the Horizontal Pass by Ms. Thanh Quan District ASSIGNMENT "Through Ngang Pass" is the most famous work of Ba Huyen Thanh Quan. The poem was written when she was on her way to Phu Xuan, passing through Ngang Pass - a famous place in our country with charming scenery. With a poetic voice, delicate poetic soul and skillful poetic style, "Va Ngang Pass" is not only a colorful picture of the millennium but also reveals the author's lonely mood, with a bit of regret about the past. The glorious feudal era has gradually faded away. The poem "Over Ngang Pass" is written in the seven-word, eight-syllable Tang luat style. It opens with two sentences: Stepping to Ngang Pass, the shadow is fading Chen stone plants, leaves flowers chen. With just the first verse, the author has generalized the entire situation, space, and time when writing the poem. The opening is very natural, not forced at all, as if the author just "stepped in" with his feet and then made love in front of the scene of Ngang Pass in the "sunset" sunset afternoon. The image of "afternoon shadow" is inspired by the idiom "afternoon shadow" reminds us of something sad, immense, and a bit regretful about the day that is about to pass. In that beautiful but sad sunset scene, the author noticed a few unique images of Ngang Pass: "The grass and trees overlap the rocks, the leaves overlap the flowers". By multiplying the types of scenes through the verb "chen" along with the series of enumerations, we can see the vividness in this scene painting. Grass and trees along with mountain rocks, leaves and flowers are blooming with vitality. The images are small but their vitality is so strong. In the fading afternoon light, we still encounter these images that leave us with many thoughts. Crouching under the mountain to make a few trees Few sporadic riverside home market Images of people appeared but only seemed to make the picture more gloomy. The author uses inversions and descriptive words to express this. People here only have "a few notes" combined with the word "crouch" under the mountain. The scenery is "scattered" with "a few houses in the market". Everything is so small compared to the majestic natural scenery of Ngang Pass. It seems that the deserted and lonely atmosphere covers the whole scene. The two essays express sadness clearly portrayed through mournful sounds: Missing the country is painful for the country's children Trade the mouth so adhered fatigue. The passionate cry is the voice of the author's heart. "Remembering the country hurts the heart of the country's son" is a poem from an old dictionary about a king who lost his country and turned into a hoe that only knows how to cry "hoe hoe". The anxious sound of the hoe made the afternoon darkness even more quiet. The word "grandfather" is an earnest cry that evokes "love for one's family". Here the poet's emotions are clearly revealed. The unique art of playing on homophones, combining personification and converting feelings, shows us the patriotic heart of Ba Huyen Thanh Quan. Stop and stand: sky, mountains, water A piece of me with my own situation. The scenery of Ngang Pass is so majestic that the author stopped and did not want to leave. The vastness of heaven, earth, mountains, and rivers seems to hold the poet's feet. But standing in front of that vast and majestic space, the author suddenly realized that the loneliness in his heart gradually rose up, "a piece of love between me and myself". The larger the natural landscape, the greater the loneliness of other travelers. A piece of private love, a deep heartache, painful thoughts in my heart that I don't know how to share with anyone. The rhythmic sound of the verse is like a sigh of regret. "Passing Ngang Pass" is a message from the author's heart to the reader. The poem is not only a majestic picture of nature tinged with sadness but also regrets and a heart of patriotism and love for the people. Only Ba Huyen Thanh Quan must be so emotional, so in love with nature and people, to be able to leave behind such masterpieces of poetry.
Cảm nhận về bài thơ Qua đèo ngang Bài làm Trong thơ ca Việt Nam có hai nữ sĩ đã ghi lại tên tuổi vào dòng văn học trung đại, đó là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu nói thơ của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại mang sự trầm lắng, sâu kín, hoài cảm, gửi gắm nỗi niềm vào lời thơ. Phong cách đó của bà đã làm ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm bà dành cho quê hương qua bài thơ “Qua Đèo Ngang”. “Bước đến Đèo Ngang, bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta” Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát, giọng thơ nhẹ, trầm lặng mang nét buồn sâu lắng. Nữ sĩ tài danh lần đầu xa nhà, đặt chân đến Đèo Ngang vào một buổi xế chiều, không gian khiến ai nghe cũng cảm giác buồn, gợi nỗi niềm riêng “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà” Ngay từ đầu, cảnh vật ở Đèo Ngang đã hiện lên dưới ánh nắng chiều sắp tắt, thật hữu tình nhưng vẫn hoang vu, hiu vắng. Đó là khung hiện ra trong con mắt của người xa sứ mang theo vẻ buồn mênh mang. Khoảng khắc “xế tà” xuất hiện như để bộc lộ tâm trạng buồn của một lữ khách cô đơn trước không gian rộng mà heo hút, hoang sơ của Đèo Ngang Điệp từ “chen” của tác giả làm cho cây cỏ lá hoa có sức sống mạnh liệt nhưng nơi đây còn hoang sơ, ít dấu chân người. Câu thơ cho em cảm xúc bâng khuâng, niềm mong ước đặt chân đến miền đất xa sôi này. Nơi đã khơi gợi niềm cảm xúc nhớ nhà của nữ sĩ. Khung cảnh ấy bất giác gieo vào lòng người đọc một ấn tượng trống vắng, lạnh lẽo cả không gian lẫn thời gian. Một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng lại đượm buồn. Người phụ nữ sang trọng, đài cát, ăn mặc theo lối xưa đang hướng đôi mắt buồn nhìn cảnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà lặng êm. Và khi bước chân lên đỉnh đèo, khung cảnh đã được mở rộng thêm “Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” Giữa không gian mênh mông, trống trải của Đèo Ngang không phải là không tồn tại sự sống, vẫn có người, có chợ nhưng lại quá thưa thớt. Từ láy “lom khom, lác đác” cùng từ “vài, mấy” gợi vẻ ít ỏi, thưa thớt, cuộc sống ở đây hẳn còn khó khăn, vất vả. Sự tồn tại đó không làm cho không gian trở nên ấm cúng mà trái lại càng tăng thêm vẻ tàn tạ, hiu hắt của cảnh vật mà thôi! Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặc sắc nhất là phép đối làm đậm vẻ bâng khuâng, dào dạt trong lòng nhà thơ. Là người phụ nữ đoan trang ở chốn phố phường đông đúc mà giờ lại chứng kiến cảnh tượng trái ngược với khung cảnh hàng ngày được thấy nên cái buồn của cảnh đã bộc lộ cái buồn kết đọng trong lòng bà. Tất cả như hòa quyện cùng với tâm hồn của nhà thơ – một tâm hồn cô đơn, trống vắng vì nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Đến đây, em cảm nhận được một vẻ đẹp hoang sơ, heo hút buồn của Đèo Ngang qua con mắt của nhà thơ. Nữ sĩ đã thành công trong việc mượn cảnh tả tình, bày tỏ nỗi niềm hoài cổ, man mác buồn của mình. Cảnh buồn, người buồn, thậm chí cả những âm thanh vang vọng trong chiều tà cũng làm tăng thêm nỗi buồn da diết trong lòng kẻ xa quê Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia” Tác giả khéo léo dùng phép chơi chữ “quốc – nước” “gia – nhà”. Âm thanh khắc khoải, da diết của tiếng chim kêu não nuột, nghẹn ngào hay tiếng lòng của nữ sĩ? Cảnh thể hiện kín đáo, nhẹ nhàng mà tha thiết, sâu sắc tình yêu, nỗi nhớ quê hương, gia đình. Nỗi niềm vời vợi nhớ thương của nhà thơ bất chợt bùng lên trong giây lát, để rồi lại trở về với cái vẻ hoang vắng vốn có của đất trời và sự cô đơn đến tuyệt đỉnh của chính nhà thơ làm xúc động lòng người “Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta” Cụm từ “dừng chân đứng lại” là nỗi ngập ngừng lưu luyến khi bước qua “ranh giới hai miền”, là sự đối lập khi đứng giữa đất trời mênh mông, con người trở nên nhỏ bé. Nỗi buồn của con người như cô đặc lại, không người chia sẻ, nỗi buồn được chính nhà thơ chịu đựng một mình. Tác giả đã khiến em nhận ra sự lẻ loi, bé nhỏ, cô đơn của nữ sĩ. Cụm từ “ta với ta” nghe thật cô đơn biết bao, nó diễn tả bà với chính mình, đó là sự cô đơn đến tộc độ, là nỗi buồn sâu thẳm. Nó khác hoàn toàn với “ta với ta” đầm ấm, vui tươi trong “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Đọc bài thơ, em đồng cảm với nỗi buồn sâu sắc của tác giả và nhận thấy một điểm đáng trân trọng trong tâm hồn người nữ sĩ tài danh, đó là tình yêu sâu nặng bà dành cho quê hương, đất nước. Bằng cách sử dụng nhiều nghệ thuật, bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả cảnh đẹp hoang sơ của đèo Ngang thưở trước, đồng thời thể hiện nỗi cô đơn, nhớ nước thương nhà da diết của chính mình mà có lẽ chỉ có những người xa quê mới cảm nhận hết được. Đây là bài thơ đậm chất trữ tình, được đánh giá cao và thành công nhất của Bà Huyện Thanh Quan.
Feelings about the poem Through the Horizontal Pass Assignment In Vietnamese poetry, there are two female poets who have left their names in medieval literature: Ho Xuan Huong and Ba Huyen Thanh Quan. If it is said that Ho Xuan Huong's poetry is sharp and angular, then Ba Huyen Thanh Quan's poetry is quiet, profound, nostalgic, and puts her feelings into her words. Her style has made us deeply feel the love she has for her homeland through the poem "Qua Deo Ngang". “Step to Ngang Pass, the sunset Chen stone plants, leaves flowers chen Crouching under the mountain, he cried a few times Few sporadic riverside home market It hurts to miss my country, I am a child of my country Trade the mouth so adhered fatigue Stop and stop at the sky, mountains, and water A piece of me with my own situation" The poem is written in seven-eighth form, the tone is light and quiet, with deep sadness. The talented female artist was away from home for the first time, arriving at Ngang Pass one late afternoon. The space made everyone who heard it feel sad, evoking their own feelings. "Step to Ngang Pass, the sunset" Right from the beginning, the scenery at Ngang Pass appeared under the fading afternoon sunlight, charming but still desolate and desolate. That was the frame that appeared in the eyes of the messenger, carrying immense sadness. The moment of "departure" appears as if to express the sad mood of a lonely traveler in front of the vast, desolate, wild space of Ngang Pass. The author's "chen" makes the plants, flowers and trees have strong vitality, but this place is still wild, with few human footprints. The poem gives me a feeling of wistfulness, a desire to set foot in this far away land. The place that evoked the female artist's feelings of homesickness. That scene suddenly leaves the reader with an empty, cold impression of both space and time. A beautiful but sad picture of nature. A luxurious, elegant woman, dressed in the old-fashioned way, is looking at the scene of Ngang Pass with sad eyes in the quiet afternoon. And when you step foot on the top of the pass, the scenery is expanded further “Hoop down under the mountain and cry a few times Few sporadic riverside home market" In the vast, empty space of Deo Ngang, life is not non-existent, there are still people and markets, but they are too sparse. The words "hunched over, scattered" and the words "few, few" suggest few and sparse, life here must still be difficult and strenuous. That existence does not make the space cozy, but on the contrary, it only enhances the desolation and desolation of the landscape! The author used the art of anaphora, most notably the parallelism that deepens the wistfulness and abundance in the poet's heart. As a dignified woman in a crowded street, but now witnessing a scene that was contrary to the scene she saw every day, the sadness of the scene revealed the sadness that had accumulated in her heart. Everything seems to blend with the poet's soul - a lonely soul, empty because of homesickness and hometown. Coming here, I feel the wild, sad beauty of Ngang Pass through the poet's eyes. The female artist succeeded in using scenes to describe love and express her nostalgic and sad feelings. Sad scenes, sad people, even the sounds echoing in the late afternoon add to the profound sadness in the hearts of those far from home. Trade the mouth so adhered fatigue" The author cleverly uses the word play "country - country" "family - house". The agonizing, heartbreaking sound of a bird's sad, choking cry or the sound of a female artist's heart? The scene shows discreet, gentle yet earnest, profound love and nostalgia for homeland and family. The poet's longing and longing suddenly flared up for a moment, only to return to the inherent desolation of heaven and earth and the poet's own ultimate loneliness, touching people's hearts. “Stop and stop at the sky, the mountains, and the water A piece of me with my own situation" The phrase "stop and stop" is the lingering hesitation when crossing the "boundary of two regions", the contrast when standing between the vast sky and earth, people become small. Human sadness seems to be condensed, with no one to share it, the sadness is endured by the poet alone. The author made me realize the loneliness, smallness, and loneliness of the female author. The phrase "me and me" sounds so lonely, it describes her to herself, it's extreme loneliness, it's deep sadness. It is completely different from the warm, joyful "me and me" in Nguyen Khuyen's "Friends Come to Play". Reading the poem, I sympathized with the author's deep sadness and realized an honorable point in the soul of the talented female artist, which was her deep love for her homeland and country. Using a variety of arts, Ms. Huyen Thanh Quan described the wild beauty of Ngang Pass in the past, while also expressing her own loneliness and longing for her country that perhaps only exists for those who are far away. The countryside can feel it all. This is the most lyrical, highly appreciated and successful poem by Ba Huyen Thanh Quan.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Quê hương của Tế Hanh Bài làm Hai câu thơ mở bài như một lời giới thiệu của tác giả về làng quê miền biển của mình. Nó là một làng quê nằm ăn sát ra biển, bốn bề quanh năm sóng vỗ. Qua hai câu mở bài này, tác giả còn muốn giới thiệu với mọi người về nghề nghiệp chính ở quê mình, đó là nghề ngư nghiệp. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá Hai câu thơ tiếp theo như những dòng nhật kí tâm tình của Tế Hanh, nói về công việc thường nhật xảy ra ở ngôi làng ven biển này. Tiết trời ở đây thật trong lành: bầu trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng. Lúc đó, những người thanh niên, trai tráng trong làng cùng nhau căng buồm, tiến ra biển cả. Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh: “hăng, phăng, vượt” và sử dụng nghệ thuật so sánh “chiếc thuyền nhẹ” với “con tuấn mã”, làm gợi lên vẻ đẹp, sự dũng mãnh của con thuyền. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió Ở hai câu tiếp theo này, nghệ thuật so sánh lại được sử dụng. “Cánh buồm” được so sánh với “mảnh hồn làng”, thể hiện tình yêu quê hương luôn tiềm tàng trong con người Tế Hanh. Được sử dụng một lần nữa, động từ, tính từ mạnh: “giương, rướn, bao la” đã cho ta thấy một vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự hào của cánh buồm vi vu trong gió biển. Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ, Khắp dân làng tấp nập đón ghe về. “Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe” Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng, Khắp thân mình nồng thở vị xa xăm. Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm, Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Tám câu thơ tiếp theo này thể hiện hình ảnh làng chài khi những chiếc thuyền cá trở về sau những ngày chìm trong gió biển. Người dân làng chài vui sướng biết bao khi những người thân của họ đã mang về những thành quả tương xứng. Dân chài lưới mang một màu da thật riêng, có một mùi hương riêng biệt. Cái mùi này chỉ những người yêu quê hương tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh mới có thể cảm nhận được. Chiếc thuyền cũng mệt mỏi sau những ngày đi biển, tựa như con người vậy. Cái chất muối thấm trong thớ vỏ cũng được tác giả cảm nhận bằng cách “nghe”, thật độc đáo! Nay xa cách, lòng tôi luôn tưởng nhớ: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi, Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! Khi viết bài thơ này, tác giả đang ở xa quê hương. Vậy mà, ông vẫn luôn nhớ về mảnh đất quê hương yêu dấu của mình. Nhớ màu nước biển xanh, nhớ những con cá bạc, nhớ cánh buồm trắng, nhớ con thuyền đang băng băng rẽ sóng ra khơi. Ông còn nhớ cả cái mùi muối mặn của biển quê nhà. Kết lại, với những vần thơ bình dị mà gợi cảm, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển, trong đó nổi bật lên hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân làng chài và sinh hoạt lao động làng chài. Bài thơ còn cho thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.
Topic: Feelings about Te Hanh's poem Homeland Assignment The two opening lines of the poem serve as the author's introduction to his coastal village. It is a village located close to the sea, with waves crashing all year round. Through these two opening sentences, the author also wants to introduce to everyone the main occupation in his hometown, which is fishing. When the sky is clear, the wind is light, the morning is rosy Young people row boats to go fishing The next two verses are like Te Hanh's diary entries, talking about the daily work happening in this coastal village. The weather here is so fresh: clear blue sky, light sea breeze, brilliant pink sunrise. At that time, the young men and boys in the village raised their sails together and headed out to sea. The boat was as light and strong as a handsome horse Phang oars, strong beyond the stretch In these two verses, author Te Hanh used strong verbs and adjectives: "hung, phang, overtake" and used the art of comparing "a light boat" with "a handsome horse", evoking the beauty and bravery of the boat. The sail is as big as a piece of the village's soul Stretching its vast white body to gather the wind In these next two sentences, the art of comparison is used again. "The sail" is compared to "the village soul", expressing the love for the homeland that is always latent in Te Hanh. Used again, the strong verb and adjective: "stretch, stretch, immense" shows us the proud, proud beauty of the sail fluttering in the sea breeze. The next day, there was noise on the dock, All over the village, people were busy welcoming the boat back. "Thanks to God, the sea is calm, the boat is full of fish" The fish are fresh and delicious with silvery white bodies. The fishermen have tanned skin, My whole body smells of the distance. The boat fell silent and returned to rest, Listen to salts penetrating the skin. These next eight verses show the image of the fishing village when the fishing boats return after days of being immersed in the sea breeze. How happy the people of the fishing village are when their relatives have brought back adequate results. Fishermen have a unique skin color and a unique scent. This smell can only be felt by those who love their homeland as passionately as author Te Hanh. The boat is also tired after days at sea, just like people. The author also feels the salt seeping into the shell fibers by "listening", so unique! Now far away, my heart always remembers: Blue water, silver fish, lime sail, Suddenly the boat sailed out to sea, I miss the salty smell so much! When writing this poem, the author was far from home. Yet, he still remembers his beloved homeland. Remember the color of the blue sea water, remember the silver fish, remember the white sail, remember the boat sailing through the waves out to sea. He still remembers the salty smell of his hometown's sea. In conclusion, with simple yet sexy verses, Te Hanh's poem "Homeland" paints a bright, vivid picture of a coastal village, in which a strong, healthy image stands out. full of vitality of the fishing village people and fishing village labor activities. The poem also shows the poet's pure and earnest love for his homeland.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu) của Nguyễn Khuyến Bài làm Cuối thế ki XVIII đầu thể kỉ XIX, tưởng chừng như cùng với sự kết thúc của chế độ xã hội phong kiến suy tàn lạc hậu, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kì lạ là trong sự suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm ấy lại xuất hiện một tài năng thơ ca vào loại xuất chúng như Nguvễn Khuyến. Ông giống như một dâu chấm cảm thán khẳng định tính cổ điển có sức lay động lòng người của văn học trung đại vào giai đoạn cuối cùng của thời kì văn học dài hàng chục thế kỉ này. Ỏng để lại cho quê hương, cho đất nước một di sản văn chương phong phú, đồ sộ. Nhưng nói đến nhà thơ Nguyễn Khuyến, người đọc mệnh danh ông là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, vì ông đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc biệt là chùm thơ thu của ông, trong đó có bài thơ Thu điếu: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo Tầng máy lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, mà nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. Bài thơ được viết băng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến. Hai câu đầu: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Nhà thơ hầu như không hứng thú gì với chuyện câu cá mà đắm say với không khí cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với tính chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó đúng là ao thu chứ không phải là môi trường thích hợp cho việc câu cá, bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu, một cảnh trong và tĩnh gần như tuyệt đối, nước trong veo, trời xanh ngắt, khách vắng teo, giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhậy và phải hết sức chăm chú thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhặt tinh vi chỉ làm tôn thêm cho cái trong và tĩnh của một khung cảnh đầy màu sắc: Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ vèo trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu: Vèo trông lá rụng đầy sân Đến câu luận: Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những từng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Thu ẩm là Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, và Thu điếu là Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt. Xanh ngắt là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Xóm thôn vắng lặng, tĩnh mịch, con đường quanh co, heo hút, không một bóng người qua lại. Ngõ trúc quanh co khách váng teo Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước Ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền câu bé tí teo, từ sóng biếc đến lá vàng, từ tầng mây lơ lửng đến ngõ trúc… đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam. Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch ấy, tư thế ngồi của ông câu cá như cũng bất động trong thời gian: Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo Tựa gối ôm cần là tư thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc câu người, câu quạnh, câu lưỡi. Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nha thơ có phẩm chất thanh cao. Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh. Bài thơ Câu cá mùa thu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả băng những gam màu đậm nhạt, nét vẽ xa gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa vèo trong làn gió thu tiếng cá đớp động chân bèo – đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước. Thơ là sự cách điệu tâm hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
Topic: Feelings about the poem Thu ci (Autumn Fishing) by Nguyen Khuyen Assignment At the end of the 18th century and the beginning of the 19th century, it seemed that with the end of the decadent and backward feudal social regime, medieval Vietnamese literature would fall into a dead end with a method of reaction. The light is outdated. But it's strange that in that recession that seemed to have reached its peak, an outstanding poetic talent like Nguvuen Khuyen appeared. He is like an exclamation mark affirming the heart-touching classicism of medieval literature at the final stage of this decades-long literary period. He left his homeland and the country a rich and massive literary heritage. But when it comes to poet Nguyen Khuyen, readers call him the poet of the village scene of Vietnam, because he wrote many good poems about the village scene. Especially his collection of autumn poems, including the poem Thu eulogy: Cold pond water is clear collected A tiny fishing boat atrophy Blue waves follow the slightly rippled waves Yellow leaves will sway in the wind The engine floor floats in the blue sky The winding bamboo alley is empty of customers I lean on my pillow and hug it, but it won't last long The fish do not bite under the duck's feet. A collection of three poems: Thu Vinh, Thu Moist and Thu Tet. Every song is good and beautiful, showing a strong love for the countryside. As for Autumn, which poet Xuan Dieu affirmed is the most typical of the autumn of Vietnamese village scenes, it is a poem describing a unique love scene: The autumn scene of the homeland, the love of nature, the love of autumn. Beauty is associated with a passionate love for the homeland. The poem is written in Tang Luat seven-word, eight-syllable verse form, the language is delicate, the images are expressive. The autumn scenes and autumn skies of Vietnamese countryside seem to appear in wonderful shapes and colors under Nguyen Khuyen's magical pen. First two sentences: Cold pond water is clear collected A tiny fishing boat atrophy The poet has almost no interest in fishing but is passionate about the autumn atmosphere. In the first sentence, the poet calls his pond an autumn pond, and with the cold nature of the clear water, that is correct. is an autumn pond, not a suitable environment for fishing. Besides, the poet's inspiration is completely immersed in the autumn scenery, a scene of almost absolute clarity and stillness, clear water, blue sky. The poet's senses are extremely sharp and he must be very attentive to recognize the small, sophisticated expressions that only enhance the clarity and stillness of a colorful scene: Blue waves follow the slightly rippled waves Yellow leaves gently sway in the wind. The blue color of the waves blends with the yellow color of the leaves to create a simple yet splendid picture of the countryside. The art in real life is very skillful, the yellow leaves have blue waves, the speed of the flying leaves corresponds to the minuteness of the ripples. Poet Tan Da praised the word veo in Nguyen Khuyen's poetry. He said that in his poetic life, he was lucky to have a satisfactory verse in the poem "Autumn Festival, Autumn Farewell": Looks like leaves are falling all over the yard Go to the essay: Clouds hang in the blue sky The winding bamboo alley is empty of customers. The space is expanded, the autumn picture has the added height of a blue sky with floating clouds drifting in the light wind. In a series of autumn poems, Nguyen Khuyen identifies the color of the autumn sky as blue. In Thu Bay is the high blue autumn sky, Humid Autumn is the blue sky, and Thu Ci is the blue sky suspended in clouds. Blue is green with depth. The autumn sky is cloudless (gray) but blue and deep. The blue evokes the depth, the stillness of space, the distant gaze of the poet, of the old man fishing. Then he absentmindedly looked at the four directions of the village. The village is deserted and quiet, the road is winding and desolate, with not a single person passing by. The bamboo alley is winding and crowded with customers The scene is peaceful, with a hint of sadness and solitude. The fisherman seems to be immersed in an autumn dream. All the scenes, from the cold water surface of the autumn pond to the tiny fishing boat, from the blue waves to the yellow leaves, from the floating clouds to the bamboo alleys... all appear with fleeting lines, colors, and sounds. Wistful, sentimental, very close and intimate with all Vietnamese people. So much time passed in the space of that quiet morning, the sitting position of the fisherman seemed motionless in time: It doesn't take long to lean on a pillow to hug The fish do not bite under the duck's feet Leaning on your pillow and hugging your rod is the tired waiting position of a fisherman. In ancient times, there were people who took fishing as a job and waited for the right person to support them. Traditional poetry uses fishing to reject being a mandarin and considers fishing to be fishing for people, hooks, and tongues. This poem Autumn eulogy also expresses the desire for clear and empty sentences for the soul of a poet with noble qualities. The sound of a fish snapping evokes a distant vagueness, awakening. The poem Autumn Fishing is a poem describing a unique love scene by Nguyen Khuyen. The autumn scenery of the homeland is depicted in dark and light colors, with delicate and sexy drawings from near and far. The sound of falling leaves swaying in the autumn breeze, the sound of fish snapping and moving duck feet - that is the familiar, rustic autumn sound of the countryside that evokes in our hearts many beautiful memories of our homeland. Poetry is the stylization of the soul. Nguyen Khuyen loves autumn nature, loves the countryside scenery with all the warm country love. He is a poet of Vietnamese landscape villages. Reading Autumn eulogy, Autumn humidity, Autumn bay, we love our homeland more, love the countryside and the country more. For Nguyen Khuyen, describing autumn, loving beautiful autumn is also loving the homeland. Nguyen Khuyen is an outstanding poet who has occupied a glorious position in Vietnamese classical poetry.
Cảm nhận về bài thơ Thu Điếu Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Thu Điếu Mùa thu luôn là một đề tài muôn thủa của các thi sĩ. Trong nền văn học Việt Nam từ thơ Trung đại cho đến thơ Hiện đại, từ thể thơ cổ cho đến thơ tự do, đã có rất nhiều tác phẩm hay viết về mùa thu, nhưng nhắc đến đề tài mùa thu, ta vẫn không thể không nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, dường như mùa thu là nguồn cảm hứng đặc biệt, chẳng vậy mà ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong đó nổi bật nhất là bài “Thu Điếu”, hay còn gọi “Câu cá mùa thu”. Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm có ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và “Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. Tuy nhiên, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng khẳng định bài thơ “thu điếu” là “bài thơ điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả là lời nhận xét vừa chính xác, vừa tinh tế! “Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, giàu tính hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến qua bốn câu thơ đầu: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.” Với “Thu điếu” cảnh thu được đón nhận theo hướng mở rộng về không gian từ gần ra xa, từ thấp lên cao, rồi sau đó lại từ cao xa quay trở lại gần. Cụ thể là từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao rồi sau đó nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với chiếc thuyền câu. Từ một khung ao nhỏ bé, không gian mùa thu được mở rộng ra nhiều hướng thật sinh động, gần gũi đến chân thực, nhưng vẫn không mất đi nét đẹp tinh tế. Ở câu thơ đầu, không khí của mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật. Nhà thơ không bắt đầu bằng việc tả cảnh sắc mùa thu qua màu sắc như thông thường, mà ông vẽ những nét đầu cho bức tranh thu bằng những nét chấm phá mơ hồ từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm lên toàn bộ cảnh vật xung quanh. Nước ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng tô điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. Có cảm giác như chúng ta có thể nhìn thấy vài chú cá chậm rãi bơi lưng chừng trên những đám rêu xanh mướt dưới đáy ao vậy! Nước ao trong nhờ khí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến lặng của ao thu. Qủa là sự kết hợp tuyệt vời! “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” Chỉ có duy nhất một chiếc thuyền, không những bé mà lại còn là “bé tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền chính là hình ảnh trung tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là hình ảnh bình dị, dân dã nhất nơi thôn quê. Tác giả không hề đặc tả độ rộng của ao thu, thậm chí khi đọc câu thơ đầu, người đọc có thể liên tưởng rằng ao thu ở đây rất nhỏ, vì theo như nhà thơ từng nhắc tới, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê nhà có cơ man nào là ao, vì nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì theo đó mà thuyền câu cũng “bé tẻo teo”. Nhưng đọc câu thơ thứ hai, đột nhiên ta có cảm giác ao thu như rộng hơn lên, chính cái nhỏ bé đến “tẻo teo” của thuyền câu lại càng làm cho ao thu nhỏ bé trở nên mênh mông biết mấy. Hai câu thơ đầu với các từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” khắc họa đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, của nước mùa thu một cách tinh tế. Cách gieo vần “eo” trong miêu tả không chỉ làm tăng mức độ thanh lặng, quạnh vắng của cảnh vật, mà còn tạo nên nhịp thơ âm vang như thể tiếng thu, như thể hồn thu vọng về. Nếu như hai câu thơ đầu là những nét chấm phá phác họa bức tranh mùa thu thì đến hai câu thơ sau, nhà thơ tiếp tục dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh thủy mặc đẹp đến thanh bình: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo” Màu “biếc” của sóng nước hòa hợp với màu “vàng” của lá đã khắc lên bức tranh quê đơn sơ đấy mà không kém phần lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất điêu luyện, “lá vàng” đối với “sóng biếc”; tốc độ “vèo” của lá bay tướng ứng với mức độ “tí” của sóng gợn. Ở hai câu đề, chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng đến đây, ta nhận ra nước thu không những trong mà còn rất xanh, xanh trong đến độ “biếc” như thể ánh lên màu lấp lánh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng rất độc đáo, không phải nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh mà lại đủ mạnh để cuốn lá “đưa vèo”. Tưởng chừng như nghịch lý nhưng lại rất hợp lý với cảnh sắc đang được miêu tả ở phần trên. “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn có màu xanh, mà còn là một màu “xanh ngắt”: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh” hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”. Màu “xanh ngắt” là không chỉ có sắc xanh mà còn có cả chiều sâu, đối với trời thu, xanh ngắt là không chỉ xanh mà còn trong, tạo cảm giác bầu trời trở nên cao và rộng. Trời thu xanh ngắt, bao la một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của không gian,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá trên chiếc thuyền “ bé tẻo teo”. Thế rồi ông lão ấy lơ đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đột nhiên nhận ra không chỉ bầu trời trên cao hay mặt nước bên dưới, thậm chí ngay cả không gian xung quanh cũng trở nên vắng lặng, vắng lặng đến yên bình, thậm chí đến cô đơn. Cô đơn khi thấy xung quanh không một bóng người, xóm thôn vắng lặng, con đường nhỏ phía trước chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm. Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng tĩnh lặng của mùa thu, tất cả cảnh vật đều tạo nên cảm giác bâng khuâng, man mác nhưng không vì vậy mà trở nên xa lạ, ngược lại rất thanh bình, gần gũi đúng chất làng quê Việt Nam. Khung cảnh ấy càng trở nên thôn dã, giản dị khi xuất hiện rõ nét hình ảnh cả một người ngồi trên thuyền câu cá ở hai câu kết: “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo.” Tư thế “tựa gối ôm cần” xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là một hình ảnh đẹp, đẹp đến bình dị. Phải chăng đó là tâm thế nhàn của một thi sĩ đã thoát khỏi vòng danh lợi.? Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế bó gối càng tô điểm cho bức tranh thu thêm sinh động.Tuy nhiên, nhà thơ ngồi câu cá đấy mà lại chẳng chú tâm đến việc câu, chẳng vậy mà lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. Phải chăng nhà thơ còn mải thả hồn thi sĩ nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm làn nước hơi gợn tí, đưa mắt nhìn lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu vơ buồn trước ngõ trúc vặng lạnh quanh co nên mới bị giật mình trước thanh âm nhỏ bé ấy? Không gian hẳn phải yên tĩnh lắm, tâm hồn hẳn phải trong trẻo, lắng đọng lắm mới có thể nghe, có thể cảm thứ âm thanh như vậy! Tuy nhiên, dù có xuất hiện âm thanh nhưng không gian mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, vì quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh mỏng và nhẹ như vậy, nghe được cả tiếng lá rơi, tiếng cá động mà vẫn thấy tĩnh, đó mới chính là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến. Trước Nguyễn Khuyến có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay viết về mùa thu cũng không phải là không có, tuy nhiên, “Thu Điếu” vẫn luôn mang trong mình một sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn, không gian vắng lặng nhưng không tạo cảm giác cô độc, sầu não. Ngược lại, còn nhờ đó mà mở ra một bức tranh sống động tuyệt đẹp về làng quê cổ Việt Nam, rất gần gũi, rất thanh bình. Nguồn: Bài văn hay
Cảm nhận về bài thơ Thu Điếu Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Thu Điếu Mùa thu luôn là một đề tài muôn thủa của các thi sĩ. Trong nền văn học Việt Nam từ thơ Trung đại cho đến thơ Hiện đại, từ thể thơ cổ cho đến thơ tự do, đã có rất nhiều tác phẩm hay viết về mùa thu, nhưng nhắc đến đề tài mùa thu, ta vẫn không thể không nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, dường như mùa thu là nguồn cảm hứng đặc biệt, chẳng vậy mà ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong đó nổi bật nhất là bài “Thu Điếu”, hay còn gọi “Câu cá mùa thu”. Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm có ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và “Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. Tuy nhiên, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng khẳng định bài thơ “thu điếu” là “bài thơ điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả là lời nhận xét vừa chính xác, vừa tinh tế! “Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, giàu tính hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến qua bốn câu thơ đầu: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.” Với “Thu điếu” cảnh thu được đón nhận theo hướng mở rộng về không gian từ gần ra xa, từ thấp lên cao, rồi sau đó lại từ cao xa quay trở lại gần. Cụ thể là từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao rồi sau đó nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với chiếc thuyền câu. Từ một khung ao nhỏ bé, không gian mùa thu được mở rộng ra nhiều hướng thật sinh động, gần gũi đến chân thực, nhưng vẫn không mất đi nét đẹp tinh tế. Ở câu thơ đầu, không khí của mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật. Nhà thơ không bắt đầu bằng việc tả cảnh sắc mùa thu qua màu sắc như thông thường, mà ông vẽ những nét đầu cho bức tranh thu bằng những nét chấm phá mơ hồ từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm lên toàn bộ cảnh vật xung quanh. Nước ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng tô điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. Có cảm giác như chúng ta có thể nhìn thấy vài chú cá chậm rãi bơi lưng chừng trên những đám rêu xanh mướt dưới đáy ao vậy! Nước ao trong nhờ khí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến lặng của ao thu. Qủa là sự kết hợp tuyệt vời! “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” Chỉ có duy nhất một chiếc thuyền, không những bé mà lại còn là “bé tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền chính là hình ảnh trung tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là hình ảnh bình dị, dân dã nhất nơi thôn quê. Tác giả không hề đặc tả độ rộng của ao thu, thậm chí khi đọc câu thơ đầu, người đọc có thể liên tưởng rằng ao thu ở đây rất nhỏ, vì theo như nhà thơ từng nhắc tới, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê nhà có cơ man nào là ao, vì nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì theo đó mà thuyền câu cũng “bé tẻo teo”. Nhưng đọc câu thơ thứ hai, đột nhiên ta có cảm giác ao thu như rộng hơn lên, chính cái nhỏ bé đến “tẻo teo” của thuyền câu lại càng làm cho ao thu nhỏ bé trở nên mênh mông biết mấy. Hai câu thơ đầu với các từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” khắc họa đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, của nước mùa thu một cách tinh tế. Cách gieo vần “eo” trong miêu tả không chỉ làm tăng mức độ thanh lặng, quạnh vắng của cảnh vật, mà còn tạo nên nhịp thơ âm vang như thể tiếng thu, như thể hồn thu vọng về. Nếu như hai câu thơ đầu là những nét chấm phá phác họa bức tranh mùa thu thì đến hai câu thơ sau, nhà thơ tiếp tục dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh thủy mặc đẹp đến thanh bình: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo” Màu “biếc” của sóng nước hòa hợp với màu “vàng” của lá đã khắc lên bức tranh quê đơn sơ đấy mà không kém phần lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất điêu luyện, “lá vàng” đối với “sóng biếc”; tốc độ “vèo” của lá bay tướng ứng với mức độ “tí” của sóng gợn. Ở hai câu đề, chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng đến đây, ta nhận ra nước thu không những trong mà còn rất xanh, xanh trong đến độ “biếc” như thể ánh lên màu lấp lánh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng rất độc đáo, không phải nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh mà lại đủ mạnh để cuốn lá “đưa vèo”. Tưởng chừng như nghịch lý nhưng lại rất hợp lý với cảnh sắc đang được miêu tả ở phần trên. “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn có màu xanh, mà còn là một màu “xanh ngắt”: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh” hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”. Màu “xanh ngắt” là không chỉ có sắc xanh mà còn có cả chiều sâu, đối với trời thu, xanh ngắt là không chỉ xanh mà còn trong, tạo cảm giác bầu trời trở nên cao và rộng. Trời thu xanh ngắt, bao la một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của không gian,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá trên chiếc thuyền “ bé tẻo teo”. Thế rồi ông lão ấy lơ đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đột nhiên nhận ra không chỉ bầu trời trên cao hay mặt nước bên dưới, thậm chí ngay cả không gian xung quanh cũng trở nên vắng lặng, vắng lặng đến yên bình, thậm chí đến cô đơn. Cô đơn khi thấy xung quanh không một bóng người, xóm thôn vắng lặng, con đường nhỏ phía trước chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm. Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng tĩnh lặng của mùa thu, tất cả cảnh vật đều tạo nên cảm giác bâng khuâng, man mác nhưng không vì vậy mà trở nên xa lạ, ngược lại rất thanh bình, gần gũi đúng chất làng quê Việt Nam. Khung cảnh ấy càng trở nên thôn dã, giản dị khi xuất hiện rõ nét hình ảnh cả một người ngồi trên thuyền câu cá ở hai câu kết: “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo.” Tư thế “tựa gối ôm cần” xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là một hình ảnh đẹp, đẹp đến bình dị. Phải chăng đó là tâm thế nhàn của một thi sĩ đã thoát khỏi vòng danh lợi.? Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế bó gối càng tô điểm cho bức tranh thu thêm sinh động.Tuy nhiên, nhà thơ ngồi câu cá đấy mà lại chẳng chú tâm đến việc câu, chẳng vậy mà lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. Phải chăng nhà thơ còn mải thả hồn thi sĩ nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm làn nước hơi gợn tí, đưa mắt nhìn lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu vơ buồn trước ngõ trúc vặng lạnh quanh co nên mới bị giật mình trước thanh âm nhỏ bé ấy? Không gian hẳn phải yên tĩnh lắm, tâm hồn hẳn phải trong trẻo, lắng đọng lắm mới có thể nghe, có thể cảm thứ âm thanh như vậy! Tuy nhiên, dù có xuất hiện âm thanh nhưng không gian mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, vì quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh mỏng và nhẹ như vậy, nghe được cả tiếng lá rơi, tiếng cá động mà vẫn thấy tĩnh, đó mới chính là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến. Trước Nguyễn Khuyến có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay viết về mùa thu cũng không phải là không có, tuy nhiên, “Thu Điếu” vẫn luôn mang trong mình một sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn, không gian vắng lặng nhưng không tạo cảm giác cô độc, sầu não. Ngược lại, còn nhờ đó mà mở ra một bức tranh sống động tuyệt đẹp về làng quê cổ Việt Nam, rất gần gũi, rất thanh bình. Nguồn: Bài văn hay
Cảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương Tú Xương được các độc giả biết đến là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, đã vượt hẳn lên trên về phương diện bao quát hiện thực rộng lớn cũng như về tài nghệ đả kích sắc sảo bậc thầy. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn các tác phẩm viết về đề tài người vợ và đề tài này cũng rất được các độc giả quan tâm và đón nhận. “Thương vợ” là một trong những bài thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất thuộc đề tài này. Cuộc đời của ông ngắn ngủi, chỉ sống được 37 năm và con đường thi cử còn nhiều gian nan, phải thi rất nhiều lần mới đỗ Tú tài vì vậy hầu hết mọi việc trong gia đình đều do bà Tú lo. Thấu hiểu được sự vất vả của vợ, Tú Xương đã đưa vợ mình vào những trang thơ với tất cả niềm yêu thương và sự trân trọng. Cuộc đời của bà Tú tuy vất vả nhưng bà lại có được niềm hạnh phúc lớn lao mà không phải người vợ nào cũng có được. “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Ở hai câu đề, chỉ bằng vài nét đơn sơ với những từ ngữ hết sức bình dị, Tú Xương đã khiến người đọc hình dung ra hình ảnh bà Tú một mình mang gánh nặng gia đình, xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ vừa tự họa nên hình ảnh của một người chồng tầm thường và vô dụng: “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng” Người đọc đặc biệt ấn tượng bởi những từ ngữ mà Tú Xương dùng để khắc họa nên hình ảnh bà Tú: “quanh năm”, “mom sông”…Thời gian “quanh năm” có nghĩa là triền miên, suốt bốn mùa không được nghỉ ngơi. Còn “mom sông” là không gian nơi bà Tú buôn bán, chỉ là một thẻo đất cheo leo nhô ra mặt nước, chính cái không gian chênh vênh ấy càng làm cho hình ảnh bà Tú trở nên nhỏ bé và cô đơn hơn. Bà làm việc vất vả như vậy để nuôi “năm con với một chồng”, “chồng” được đặt ngang hàng với “năm con”, như vậy Tú Xương đã tự nhận mình là một đứa con đặc biệt vẫn cần được bà Tú chăm lo. Ta nhận thấy ông Tú như đang tự trách bản thân mình vô tích sự với vợ con, không giúp gì được cho bà Tú. Đến hai câu thực, hình ảnh bà Tú càng hiện lên cụ thể hơn: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông” Ở hai câu luận, Tú Xương miêu tả hình ảnh của bà Tú trong mối quan hệ với chồng và con, đồng thời bày tỏ lòng cảm phục đối với sự hi sinh hết mực của vợ: “Một duyên hai nợ âu đành phận Năm nắng mười mưa dám quản công” Đây như thể là một lời độc thoại nội tâm mà ông Tú muốn nói hộ bà Tú, nhưng có lẽ là ông Tú tự thấy mình vô dụng nên nói thế chứ chắc bà Tú không nghĩ vậy, bà Tú thương ông vì cái kiếp “học tài thi phận” còn ông Tú thì tự thấy số phận của mình bạc bẽo nên mới viết ra như thế. Có thể câu thơ trước còn gây nhiều tranh cãi, nhưng đến câu thơ thứ hai “Năm nắng mười mưa dám quản công” thì hẳn là ông Tú đã nói đúng tấm lòng của vợ, nhà thơ sử dụng thành ngữ vừa nói lên được sự vất vả gian lao vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó hết lòng vì chồng vì con của bà Tú. “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không” Hai câu như ẩn chứa một mối quan hệ sâu xa: Nếu không có thói đời bạc bẽo thì cũng đã không có sự hờ hững của người chồng đối với vợ, ngẫm lại ta mới thấy bà Tú mới thật là đáng trọng và đáng kính biết nhường nào. Vậy là chỉ với tám câu thơ nhưng hình ảnh bà Tú đã được hiện lên hoàn chỉnh: một người vợ đảm đang, chịu khó, tháo vát sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì chồng, vì con. Hình ảnh của bà Tú là hình ảnh tiêu biểu của người vợ truyền thống Việt Nam với những nét đẹp đáng trân trọng.
Feelings about the poem Loving Wife by Tu Xuong Instruct Feelings about the poem Loving Wife by Tu Xuong Tu Xuong is known to readers as an excellent satirical poet, who has gone above and beyond in terms of covering a vast reality as well as in his masterful talent for sharp criticism. In Tu Xuong's poetry, there is a large array of works written on the topic of wives and this topic is also very interested and well received by readers. “Loving Wife” is one of the most typical and excellent poems on this topic. His life was short, he only lived 37 years and the exam path was still arduous, he had to take the exam many times to pass the Baccalaureate, so most of the family's affairs were taken care of by Mrs. Tu. Understanding his wife's hardship, Tu Xuong included his wife in his poetry pages with all his love and respect. Although Mrs. Tu's life was difficult, she had great happiness that not every wife can have. “We do business all year round at Mom River Raising five children with one husband Diving around like a stork when the space is empty The tightness of the water surface during the winter ferry One fate, two fateful debts Year of sunshine, ten days of rain, dare to manage the work Parents have bad living habits In the first two sentences, with just a few simple strokes and very simple words, Tu Xuong made the reader imagine the image of Mrs. Tu alone carrying the family burden, rushing and diving at the head of the river. The market station has just painted the image of a mediocre and useless husband: “We do business all year round at Mom River Raising five children with one husband" Readers are especially impressed by the words that Tu Xuong uses to portray the image of Mrs. Tu: "all year round", "river mother"... The time "all year round" means constant, all four seasons cannot be used. rest. And "river mother" is the space where Mrs. Tu does business, just a craggy piece of land protruding from the water. That uneven space makes the image of Mrs. Tu even smaller and lonely. She worked so hard to raise "five children with one husband", "husband" was placed on the same level as "five children", so Tu Xuong recognized herself as a special child who still needed to be cared for by Mrs. Tu. worry. We see that Mr. Tu seems to be blaming himself for being useless to his wife and children, for not being able to help Mrs. Tu. Coming to these two sentences, the image of Mrs. Tu appears even more concretely: “Diving around like a stork when the space is empty The tightness of the water surface on a winter boat day" In two essays, Tu Xuong describes the image of Mrs. Tu in her relationship with her husband and children, and expresses his admiration for his wife's ultimate sacrifice: “One fate, two debts Dare to manage the work in five sunny or ten rainy years" This is like an inner monologue that Mr. Tu wants to say for Mrs. Tu, but perhaps Mr. Tu feels useless so he says that, but Mrs. Tu probably doesn't think so, Mrs. Tu loves him because of his life of "studying". talent and fate" and Mr. Tu felt that his fate was ungrateful so he wrote it like that. Perhaps the previous verse is still controversial, but in the second verse, "In years of sunshine and ten days of rain, I dare to manage the work", Mr. Tu must have correctly expressed his wife's heart. The poet uses idioms that express the truth. Through hard work and hardship, she demonstrated Mrs. Tu's virtue of being patient and devoted to her husband and children. “Parents have bad living habits Having an indifferent husband is as good as not having a husband." The two sentences seem to contain a deep relationship: If there were no ungrateful life habits, there would also be no indifference of the husband towards his wife. Looking back, we see that Mrs. Tu is truly honorable and respectable. how much. So with only eight verses, the image of Mrs. Tu has been completely displayed: a diligent, hard-working, resourceful wife willing to sacrifice herself for her husband and children. Mrs. Tu's image is a typical image of a traditional Vietnamese wife with admirable beauty.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận Bài làm Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả. Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” để tả nỗi buồn của lòng mình: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Chính không gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. Nếu viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hoàng Hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy. Cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì không rõ sắc thái, không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/ mang mang thiêng cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lòng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng hưởng với lòng ông mà thành thơ là điều không khó hiểu. Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng… Có người giảng là để khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không. Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dàn theo chiều ngang, bát ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sông, vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xuôi mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là không gắn bó gì với nhau. Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn chương. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hoà xuôi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sông nước đến đây đã nhập vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn – Trăng trong để mà khuyết – Bèo hợp để chia tan – Người gần để li biệt). Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng kết: Củi một cành khô lạc mấy dòng. Trên sông Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mạd cảm xúc Huy Cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi nênh của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi. Củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt quá, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở ưên. Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa vắng và yên tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều năm ngang thì “ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"… Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu. Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một công trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ. Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính lôgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.
Topic: Feelings about the poem Trang Giang by Huy Can Assignment Trang Giang is one of the typical poems of Huy Can's talent and clearly shows the quality of his soul. Huy Can also recounted the process of writing it many times. Poetic inspiration was evoked from the river landscape of the Chem Ve area on the outskirts of Hanoi. Now this place is a crowded inner city with many high-rise buildings and villas, but from the time Huy Can wrote Trang Giang until decades later, it was desolate, quiet, beautiful and sad just like in the poem. described. Huy Can recounted that he tried to write many poetic forms, but in the end he chose seven-word poetry, rich in Duong poetry style. He also said that Layers of high clouds extruding silver mountains was something he learned from the translation of Do Phu's poem "The ground and clouds extruding the far gate". The conclusion was that he relied on Thoi Hieu's poem, through Tan Da's translation of "On the River". The smoke and waves make someone sad" to describe the sadness in my heart: Without the smoke of the sunset, I also miss home. It is the space of Duong poetry in the seven-word poem that creates the same emotional resonance. If written in another poetic form , it is not necessarily that there is that resonance. Huy Can is sadder than Thoi Hieu. Huy Can knows that he is standing on people's shoulders, he is tall but he is not sure that he is taller than them. Reading Trang Giang can feel sad Hac Lau but in many other places, not in that comparative ending. Comments on the poem Trang Giang by Huy Can This poem has a classic, solemn beauty that opens up to heaven and earth, but the sadness penetrates deep into the heart. The sadness is vague but you can see it when you touch your head. Vague because I'm sad and don't know the specific reason. Silvery because the nuances are unclear, not burning but humming like a wistfulness, a mood of missing an object: the wide sky misses the long river. The title sentence covers the full theme of the poem. Wistfulness, sadness, and nostalgia filled the air. Every scene evokes sadness, the scene is infected with an emotional magnetic field. Huy Can said: This is a poem of the soul. His soul at that time was filled with a generation's sadness, a generation that had just learned to think and was immediately touched by the sadness of losing its country, of being a weakling, a small soul/carried with ancient sadness. The unusual soul quality is sensitive to the feeling of vast, distant spaces, quiet and desolate. Especially for Huy Can, who once "magically tilted his ear" half to listen to the universe and half to listen to his heart. Listening to the heavy sky, hearing me sad and sad, the sky and water space around the Red River in Chem Ve resonated with his heart and turned into poetry, which is not difficult to understand. The word chang in Trang Giang in the article and in the first sentence is less commonly used in communication language than Truong, but Huy Can chose to use it... Some people say it is to avoid confusion with the Truong Giang River in China. I don't understand if that's true. But based only on the sound (not just the meaning), the spread of two identical echoes standing next to each other evokes a wide space, horizontally spread out, more vast than the field. The field only shows length, multiple meanings, and the sound field tapers while the field opens up. The river's surface is long and wide, so the river's wave front, which is already low, seems to be getting lower and lower, just like a slight ripple on the flat river surface. It's spacious and quiet, so it evokes sadness and sadness. But if the waves are rushing or roaring, it will definitely lead to a different feeling. The message is the state of ripples on the river and also the ripples of sadness in people's hearts. This sentence is really sad. But the second verse: "The boat sails parallel to the water" some people also think is a sad, very sad verse, reasoning that: parallel means never meeting each other, is not attached to each other at all. That is fate. Applying the parallel line theorem in elementary geometry to literary images is difficult to convince. The boat in this poem is harmonious, even smooth sailing. Moreover, this poem is not sad , happy. The word "water" is just a parallel meaning. Being happy leads to sadness in the following sentence Inevitably, when the boat reaches the dock, the water continues to move, alone, wandering in two impermanent directions, so I am frightened by the sadness of the river coming here and entering my identity people. The boat returned to the country, sad in a hundred directions. The word re (adverb), sad again... shows that Huy Can's view of life at that time was quite similar to Xuan Dieu (flowers bloom until they fade - The moon is clear but then fades - Beo). Compatible to separate - People close to separate). The boat and the water flowed side by side for just a moment and then they were alone with so many river crossings, sorrowful in hundreds of directions. From the image of a hundred directions leads to the final sentence of the paragraph as a summary: Firewood dry branches located a few lines. On the Red River, especially during the flood season, you can see floating trees and wooden trunks struggling to float and sink in the turbid alluvial waves. The scene evokes mourning. But Huy Can's emotions are not reflected in this article. He said he had to choose an image to reflect his prominent human status. Choose firewood over wood, choose a branch over fresh trees. Firewood from one branch that strays several lines is too expensive, not to mention it also corresponds to the sadness of hundreds of directions in the world. The first part is to look at the river surface and describe. Details juggle, language changes and right at the heart of the theme. The second part looks out into the distance: small dunes, distant villages, deep sky, wide wharf... the space opens up wide and high to let the soul soak in the desert. Deserted and quiet. Just a distant sound, echoing from somewhere unclear, vague as if heard in nostalgia at a country market while visiting people. Vague sound is a way to describe silence. This poem opens up space. The vertical dimension seems to be gradually expanding with the sun and the sky: "When the sun goes down, the sky goes up, it's incredibly deep." Deep, not high, is creative and impressive. On the afternoon of the year, "The river is long, the sky is wide, the wharf is lonely"... No color, no sound, no activity. Everything is motionless, silent, soaked in loneliness. The realm is vast and unlimited, description is endless. Huy Can soberly turned his gaze back to the river surface, to the beginning of the poem "Wherever Beo drifts, rows follow rows". Push the level of silence to the point where no one can be seen. The two sections above also have boats and markets. Now, on the river there is only duckweed, only duckweed, row after row. There are no boats, no bridges, no structures with human traces, just quiet nature with nature. Sadness spreads with the scene. Sadness spreads far away "Quietly the green shore meets the golden beach". Then it rose up high again, "Layers of high clouds extruding silver mountains". Pouring out through the wings of a small bird and falling into a person's heart, in a place where people are invisible, the heart is filled with nostalgia for the countryside. The situation flows. The buoyancy of the outside world makes people feel sorry for their fate and crave the warmth of family togetherness. The poem ends with homesickness. The logic of the soul's movements is very important in this poem Maybe that's why Huy Can introduced himself: "Trang Giang is a love poem, and love meets scene, a poem about the soul.
Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang Nhắc tới Huy Cận chúng ta không thể bỏ qua được một nhà thơ với những sáng tác mang cảm hứng buồn trước khi bước vào phong trào thơ mới. Những sáng tác của ông mang đậm tâm hồn và tài năng của ông xuyên suốt thời gian sáng tác. Tràng giang là một trong số những sáng tác tiêu biểu, thể hiện nỗi buồn sâu thẳm sự xao xuyến bâng khuâng của cái tôi Huy Cận trước cuộc sống, nhưng cảnh vật hiện ra trước mắt của thi nhân vẫn mang một vẻ đẹp ẩn chứa những bất ngờ trong sáng tác. Cảm hứng để sáng tác bài thơ là khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mông bao la, và khi nhìn thấy sự kì vĩ của thiên nhiên, khiến tác giả lại ngẫm lại chính cuộc sống của mình hiện tại, cũng thật nhỏ bé, không biết sẽ như thế nào trước cuộc đời rộng lớn này. Tràng Giang mang một vẻ đẹp cổ điện, như được chấm phá bằng các nét vẽ linh hoạt của các nghệ sĩ trước bức tranh thủy mặc sơn nước hữu tình. Hai chữ tràng Giang vốn là hai từ hán việt ghép vào nhau mà tạo thành. Tràng có nghĩa là mênh mông, trải rộng còn giang chính là sông. Đây lại là một âm mở,cứ thế nếu cứ ngân dài hai chữ này thì mãi mãi không có kết thúc. Mọi thứ cứ trải dài, trải dài khơi gợi cho độc giả nhiều liên tưởng thú vị. Đầu đề chỉ là 2 chữ đó thôi mà toàn bài thơ lại lấy được cảm xúc của độc giả nhiều đến như vậy. Quả thật sự tài tình của ngòi bút Huy Cận trong miêu tả và thể hiện trong suốt những câu từ của bài thơ. Đứng trước cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ như thế, lòng ông lại dấy lên một nỗi buồn mơ hồ, không hiểu rõ là gì và bắt nguồn từ đâu. Nhưng có lẽ trước sự nhỏ bé của con người trước trời đất, cảnh khiến ta ngẫm nghĩ và chiêm nghiệm về những gì đã xảy ra và những gì đang tới.một nỗi buồn vô cớ, nhưng cái cớ đó lại cho chúng ta những phút giây trải nghiệm và tìm ra câu trả lời cho chính bản thân mình. Những hình ảnh của đoạn thơ tiếp theo cũng không có gì vui hơn, những chi tiết mà ngay khi chúng ta đọc lên đã có một cảm giác ảm đạm thiếu sức sống. Phải chăng nó là cảnh tượng của một buổi chiều tà. Hình ảnh “ cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng”..như tác giả đang vẽ khiến không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Mọi thứ trở nên “thưa vắng và yên tịnh”. sự tính lặng đó lại càng nổi bật làm nền cho âm thanh, chỉ có một âm thanh xa vang vọng về nhưng lại khiến cho bài thơ, càng chìm vào trong không khí cổ kính, nhuốm màu quá khứ và hoài niệm. Âm thanh đó mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang giãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Từ “ sâu “ được sử dụng miêu tả độ cao của trời khiến cho hình ảnh miêu tả này rất đắt. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, nó gây ấn tượng cho người đọc.tất cả như chòm vào bến cô liêu. Mỗi chữ mỗi hình ảnh của bài thơ đều ngấm cái buồn, cái trống vắng và cô độc, ngay cả bến chờ cũng là Bến cô liêu. Hình ảnh bèo dạt mây trôi khiến chúng ta liên tưởng về những bài thơ, bài ca dao về sự trôi nổi bấu víu. Không biết từ bao giờ bèo trôi về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một hình ảnh hay công trình nào mang dáng dấp con người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Nỗi buồn miên man theo cảnh.mọi thứ đều nhuốm một nỗi buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” và dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng càng dội lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt thiên nhiên khiến chính con người chúng ta càng thêm ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ.Tính logic trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Kết thúc của bài thơ là nỗi nhớ nhà, mọi thứ trong bài thơ được đẩy đến cao điểm và do đó nỗi buồn đó có lí do của nó Nguồn: Bài văn hay
Feelings about the poem Trang Giang Instruct Feelings about the poem Trang Giang When talking about Huy Can, we cannot ignore a poet with sad-inspired compositions before entering the new poetry movement. His compositions are imbued with his soul and talent throughout the period of his writing. Trang Giang is one of the typical compositions, expressing the deep sadness and anxiety of Huy Can's ego before life, but the scene appearing before the poet's eyes still has a hidden beauty. surprise in composition. The inspiration to compose the poem was when the author stood in front of the vast Red River, and when he saw the magnificence of nature, it made the author reflect on his own life at present, which is also very small. I don't know what it will be like in this vast life. Trang Giang has an ancient beauty, as if punctuated by the artists' flexible brushstrokes in front of a charming watercolor painting. The two words Trang Giang are originally two Sino-Vietnamese words put together to form. Trang means vast and wide, and Giang means river. This is an open sound, so if you keep repeating these two words, it will never end. Everything stretches and stretches, evoking many interesting associations for readers. The title is just those two words, but the entire poem captures so much of the reader's emotions. Truly the ingenuity of Huy Can's pen in describing and expressing throughout the sentences of the poem. Standing before such a majestic natural scene, a vague sadness arose in his heart, not understanding clearly what it was or where it originated from. But perhaps because of the smallness of humans before heaven and earth, the scene makes us reflect and contemplate what has happened and what is coming. An unreasonable sadness, but that excuse gives us moments. seconds to experience and find the answer for yourself. The images of the next verse are no happier, details that as soon as we read them have a gloomy, lifeless feeling. Is it the scene of a sunset? The image of "small island, far away village, deep sky, wide wharf"... as the author is drawing, makes the space open wide and high so that the soul can penetrate into the space. Everything becomes "sparse and quiet". That silence is even more prominent as the background of the sound. There is only one distant sound echoing back, but it makes the poem sink even more into the ancient atmosphere, tinged with the past and nostalgia. That sound is vaguely a way of describing silence. This poem opens up space. The vertical dimension seems to be gradually expanding according to the sun and the sky: "When the sun goes down, the sky rises, it's towering." The word “deep” is used to describe the height of the sky, making this description very expensive. Deep rather than high is a creation, it makes an impression on the reader. Everything seems to be clustered on a lonely dock. Every word and every image of the poem is imbued with sadness, emptiness and loneliness, even the waiting station is a lonely one. The image of duckweed floating in the clouds makes us think of poems and folk songs about floating and clinging. I don't know when the duckweed drifted to the river surface, to the place where the poem "Where the duckweed drifted to, row after row" begins. Now, on the river there is only duckweed, only duckweed, row after row. There are no boats, no bridges, no human-shaped images or structures, just quiet nature with nature. Sadness follows the scene. Everything is tinged with a sadness that stretches far away "Silently the green shore meets the golden beach" and rises high "Layers of high clouds extruding silver mountains". Through the wings of a small bird and falling into a person's heart, in a place where no one can be seen, the heart is filled with nostalgia for the countryside. The situation of being adrift in nature makes us humans feel even more sorry for our fate, craving the warm affection of a family gathering. The logic in the steps of the soul is very important in this poem. The end of the poem is homesickness, everything in the poem is pushed to its climax and therefore that sadness has its reason. Source: Good article
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Bài làm Viết về Tây Tiến – Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những cầm, nỗi lòng người lính Tây tiến qua đoạn thơ: … Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá giữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, Án bào thay chiếu anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, Quân xanh màu lá giữ oai hùm. Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chủ chút nghịch đầy chất lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc – đó là hậu quả của những cơn sốt rét rừng run người làm tiều tuỵ, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng thiêng, bệnh tật hành hạ… tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu là…. Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải đối phó với bệnh tật: ốm đau rụng tóc… Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai phong dữ dội: mắt trừng gửi mộng qua biên giới…" Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng Đoàn quân mỏi, xanh lựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng dữ dội là để gửi mộng vượt biên cương và để "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Những người chiến sĩ Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính, nên dù ra đi chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một tầm hồn đầy thơ mộng. Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ kiều diễm, quyễn rũ, thanh lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn vật. Có người cho rằng Quang Dũng viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Song thực chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang mang một ý nghĩa nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đấu. Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút pháp lãng mạn cho ta thấy hình ảnh của người không xanh xao tiều tuỵ mà oai phong dữ dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không mọc tóc, dữ oai hùm, mắt trừng khắc hoạ rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang tàng của những chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan của một miền thâm u, hiểm trở không làm cho những người lính Tây Tiến chùn bước, họ vấn giữ ý chí, quyết tâm. Bên cái bi của hoàn cảnh vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại hình và tinh thần. Bằng thủ pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh: Rải rác biên cương mồ viễn xứ, Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh… Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về iãVẳ Bằng hai chữ "áo bào”, nhà thơ đã nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý, một vẻ đẹp như những người tráng sĩ xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến trường. Rồi "anh về đất", cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương yêu, thân thuộc ngày xưa, "anh về đất" là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước và sông Mã thay lời núi núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành". Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng "gầm than trầm uất", nỗi đau như dồn nén, quặn thắt từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn chảy trong lòng, độc hành… chạy ngược vào tim. Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ đẹp của núi rừng. Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gắp những người lính chân chất giản dị, gần gũi trong thơ Chính Hữu: Áo anh rách vai, Quần tôi cỏ vài mảnh vú. Miệng còn cười buốt giá, Chân không giầy… Hay trong bài thơ Hồng Nguyên: Lũ chúng tôi, Bọn người tứ xứ, Gặp nhau hồi chưa biết chữ, Quen nhau từ buổi "một, hai"… Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải là những người lính xuất thân từ nhữngngười nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những chàng trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến. Quang Dũng đã đưa người đọc ngược lên một miền Tây thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang nét đẹp hoang dại, hiểm trở. Và nổi bật lên trên nền núi rừng miền Tây ấy là hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý chí anh hùng. Với tám câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà thơ… Tất cả đã giúp Quang Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính Tây Tiến. Với bút pháp tài hoa và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiên không chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng mà còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.
Topic: Feelings about the poem Tay Tien by Quang Dung Assignment Writing about Tay Tien - Quang Dung writes in memories. And in that stream of memories, the longing for teammates is always stirring, evoking memories and images that are dear, earnest, and profound. We encounter the nostalgia for comrades, for weapons, and the feelings of Western soldiers through the poem: … The army advancing in the West has no hair, The green and green army holds its dignity. Glaring eyes sent dreams across the border, At night, Hanoi dreams of a beautiful and fragrant figure. Scattered across the borders and graves in remote lands, Go to the battlefield without regretting the green life, The defense sentence replaces his decree to return to land, Ma River roars its solo song. From the wild and dangerous forest and mountain setting in the first paragraph of the poem, the image of the Tay Tien warrior group clearly appears: The Tay Tien army has no hair, The green and green army holds its dignity. At first, the poem seemed to have only a bit of arrogance, a bit of military mischief, but the more I read, the more I saw the harsh reality, the more I saw all the hardships and hardships of the Tay Tien army. No hair growth - that is the consequence of wild malaria that makes the soldiers emaciated and lose all their hair. Then poisonous water, sacred forests, tormenting diseases... all seemed to exhaust their strength, causing the green army to become... These two verses show us the very real image of Tay Tien soldiers when having to deal with illness: sickness and hair loss... But that doesn't mean they lost their fierce majesty: their eyes glared at each other. border…" Feelings about the poem Tay Tien by Quang Dung The army is tired, green, picking leaves but still carries the majesty of the deep forest. Eyes glaring fiercely are to send dreams across borders and to "night dream of Hanoi looking fragrant". Tay Tien soldiers are mostly urban boys wearing soldier uniforms, so even though they go out to fight and engage in hardship, they always carry and maintain a generous, elegant, affectionate soul, a poetic soul. Dreaming of a beautiful, fragrant figure means dreaming of the graceful, seductive, elegant appearance of girlfriends in the capital of thousands of years of literature. Some people believe that Quang Dung wrote this poem in a dream because it was not suitable for the resistance war situation. But in fact, this is a very sincere sentiment of a soldier, it carries a true humane meaning because it represents the beautiful dream of people about a peaceful, happy life that pushes the soldier away. fight. In the entire four-line poem, the top three lines are all about something unusual and majestic. The fourth verse, on the contrary, is full of softness, lyricism, and dreaminess. The poem depicts extremely harsh realities, but does not only use the realistic method, but is expressed with a romantic style, showing us the image of a person who is not pale and haggard but fiercely majestic. Quang Dung's writing and writing style are truly talented. The words do not grow hair, are fierce, and have glaring eyes, deeply portraying the proactive posture, arrogance, and arrogance of the Tay Tien warriors. The arduous circumstances, challenges and hardships of a dark and dangerous region did not make the Tay Tien soldiers falter, they maintained their will and determination. Besides the tragedy of the situation, the beauty of appearance and spirit still emerges. With seemingly opposing tactics, Quang Dung has both portrayed the heroic beauty and courage, while also portraying the generous and sentimental soul of the Tay Tien soldiers. The mountains and forests of the Western region are majestic and wild. Walking in that majesty and that wilderness, the Tay Tien soldiers seemed to be empowered, steadily overcoming hardships and sacrifices: Scattered across the borders and graves in remote lands, Go to the battlefield without regret for life... Tay Tien soldiers did not regret their lives to fight for their homeland, they did not hesitate to sacrifice their lives for the Fatherland. They leave but still remember, still carrying their own dreamy love. When they sacrifice, "the robe replaces the mat of his return" With the word "robe", the poet has enhanced the value and recreated the beauty of his life. Noble beauty, a beauty like the ancient warriors of the Western Progressive people, that beauty obscures the reality of poverty on the battlefield. Then "you return to the land", death is as light as nothing, like returning to the loved and familiar things of the past, "you return to the land" is to live forever in the heart of the homeland, the country and the Ma River, which replaces the mountains and rivers. uttered a heroic elegy: "The Ma River roars its lonely song". The pain was so intense, just a "depressed roar", the pain seemed to be pent up, writhing from inside. There were no tears from teammates, only the Ma River with pain flowing in my heart, alone... running back into my heart. The whole poem speaks of a truly tragic yet heroic quality. The poet portrayed the Tay Tien soldiers with passionate nostalgia, with a wild and fierce beauty like the beauty of the mountains and forests. Images of soldiers, feelings of comrades and comrades appear in resistance poetry. We often pick up honest, simple, close-minded soldiers in Chinh Huu's poems: His shirt is torn at the shoulder, My pants have a few pieces of breast. Mouth still smiling coldly, Shoeless feet… Or in Hong Nguyen's poem: Our group, People from all over the world, We met when we were illiterate, We've known each other since "one, two"... But Quang Dung's Tay Tien is different. The poem portrays not soldiers who came from deep-rooted farmers but rather boys, urban students wearing military uniforms. With Tay Tien. Quang Dung has taken readers back to the deep West, where the mountains and forests and nature have wild and dangerous beauty. And standing out against the backdrop of the Western mountains and forests is the image of the Tay Tien soldiers overcoming all suffering and hardship, shining with heroic will. With eight verses filled with deep love and nostalgia, Quang Dung brought readers back to a time in the West with many of the poet's beloved comrades... All helped Quang Dung recreate and portray a majestic image. hero of Tay Tien soldiers. With his talented and passionate writing style, the poet has built the image of the Tay Tien warriors not only with fierceness and intensity but also with a heroic and tragic beauty. And Tay Tien not only captures the soul of Quang Dung's poetry but also shines a rare aesthetic quality.
Cảm nhận về bài thơ Tương Tư Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Tương Tư Nguyễn Bính vốn đã sớm nổi tiếng với dòng văn thơ mang tính chất giản dị chân quê,những câu thơ được dệt nên bởi những chất liệu mộc mạc nhất. Ấy vậy mà trải qua bao nhiêu giai đoạn,những bài thơ của Nguyễn Bính vẫn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả. “ tương tư” là một trong số những bài thơ hay viết về tình yêu đôi lứa, thấm đượm những tình cảm vừa trong sáng lại vừa chân thực. Những vấn thơ của Nguyễn Bính không giống thơ hiện đại là mấy mà nó lại giống như những câu ca dao không biết từ khi nào đi vào lòng người một cách dễ dàng như vậy. Lấy cách ví von của người xưa,tương tư lại trở thành một hiện tượng, dám nói trực tiếp lên tình cảm của đôi lứa. Những câu thơ lục bát như những lời hát rồi lại đáp lại của những cặp đôi có tình ý với nhau. Đó là những cảnh của những cô gái chàng trai thầm thương trộm nhớ nhau, đứng ở bên đình tát nước rồi nói ví von cho nhau nghe: “Hôm qua tát nước bên đình Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen Em được thì cho anh xin Hay là em để làm tin trong nhà” Những câu thơ ấy, sao mà nhẹ nhàng đằm thắm đến thế, như tiếng ru dịu ngọt của tình yêu dẫn dắt những tình cảm từ thuở ban đầu đi sâu vào tâm hồn người đọc. Để khiến người đọc thấy chính bóng dáng của mình ở trong đấy vậy. Rồi những câu thơ khác cũng không kém phần ý tứ sâu xa Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” Tát nước dưới ánh trăng làm tan ánh trăng tròn trịa cũng đúng, nhưng chính điều đó mới là cái cớ để làm quen nhau. Chỉ những thứ nhỏ nhặt khó hiểu thế nhưng lại khiến các cặp đôi đi đến với nhau quả thật là lạ. Chính vậy mà cái bệnh mà người ta khó chữa nhất là bệnh ở tâm, là bệnh tương tư, bệnh này chỉ có thuốc tình yêu mới chữa nổi. Thế nên mới có bài Tương tư của Nguyễn Bính Trong bài thơ, những đặc điểm dân gian khiến tứ thơ của Nguyễn Bính, tìm được sự đồng cảm và tiếp đón nồng nhiệt của đông đảo độc giả. Tương tư với thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác. Cũng trong bài thơ, những hình ảnh như: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau… ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, chân quê từ nhà ra ngõ,bến nước hữu tình,con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn… Chữ “tôi” xuất hiện trong bài thơ của Nguyễn Bính thật đáng yêu. Thôn Đoài với thôn Đông là nơi nhà “Nàng” và nhà “Tôi” đang ở,cũng là cách nói cụ thể hóa, hai thôn chính là hai cầu nối cho nàng và tôi gần nhau hơn. Sử dụng hoán dụ – nhân hoá kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ – vị ngữ “chín, mười, nhớ mong = chín nhớ mười mong” góp phần làm cho tứ thơ trở nên bình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. “chín nhớ mười mong một người” giống như tâm trạng “ bổi hổi bồi hồi” hay tâm trạng của cô gái trong bài ca dao “ khăn thương nhớ ai,không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Vì yêu cho nên tương tư đã thành “bệnh”, thật đáng thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với bệnh tương tư “của tôi yêu nàng”, tác giả Nguyễn Bính đã diễn tả hồn nhiên, thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Gần thì thương, xa thì nhớ,đấy là những cảm xúc thường thấy của tình yêu Những câu nói tiếp theo, việc vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) thể hiện một nỗi ước mong, khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Để từ đây, tác giả bộc lộ những khát khao trọn vẹn và được đáp trả trong tình yêu đó. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng”, trở thành “cái chung” của nhiều chàng trai, cô gái khác. Tương tư không chỉ là cảm xúc của nhân vật trữ tình “ tôi” trong tương tư mà bài thơ còn nói hộ bao nhiêu người khác. Chính vì thế, cho tới nay, mỗi khi muốn bày tỏ tình ý với người khác,người ta hay nói bóng gió bâng quơ một câu như ý nhắn nhủ với người họ yêu rằng họ cũng đang tương tư vì một ai đó Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” Những vần thơ của bài thơ Tương Tư vừa có phần thơ mộng lại vô cùng lãng mạn,không có gì có thể thay đổi cảm xúc lâng lâng nhớ nhung đó,dù có trải qua bao nhiêu thời gian đi chăng nữa. Tương tư có những nỗi buồn,có hờn giận trách móc nhưng những cảm xúc đó lại trở thành một đặc sản của tình yêu tạo nên sự đáng yêu và khát khao trọn vẹn trong tình yêu của lứa đôi,đặc biệt là những mối tình đơn phương. Nguồn: Bài văn hay
Feelings about the poem Tuong Tu Instruct Feelings about the poem Tuong Tu Nguyen Binh was already famous for his simple, rustic poetry, verses woven from the most rustic materials. Yet, through many stages, Nguyen Binh's poems still receive warm welcome from readers. "Love" is one of the best poems written about love between couples, imbued with feelings that are both pure and true. Nguyen Binh's poems are not at all like modern poetry, but they are like folk songs that somehow enter people's hearts so easily. Using the analogy of the ancients, longing becomes a phenomenon, daring to speak directly about the couple's feelings. The six-eight verses are like the lyrics sung and then responded by couples who have feelings for each other. Those are scenes of girls and boys who secretly love each other, standing at the communal house splashing water and telling each other similes: “Yesterday, I splashed water at the communal house Forgot the shirt on the lotus branch If you can, please give it to me Or should I use it as information in the house? Those verses are so gentle and loving, like the sweet lullaby of love leading the early feelings deep into the reader's soul. To make readers see their own silhouette in it. Then the other verses are equally profound She scooped gold stars moonlight poured away" Splashing water under the moonlight to melt the full moonlight is also true, but that is the excuse to get to know each other. It's just the small, incomprehensible things that make couples come together, which is truly strange. That's why the disease that is most difficult for people to cure is the disease of the mind, the disease of love, this disease can only be cured by the medicine of love. That's why there is the article Similar Thoughts by Nguyen Binh In the poem, folk characteristics make Nguyen Binh's four poems find sympathy and warm welcome from a large number of readers. Similar to the ancient six-eight poetic form, which is sweet and rich in musicality, rich rhymes, word weaving (nine remembers ten wishes), materialized thinking (The green leaves have now become yellow leaves), and the words have The semantic blurry area leads poetry to spread wildly. Also in the poem, images such as: Doai village, Dong village, water wharf, communal house, betel truss, areca rows... in other poems by Nguyen Binh, are also filled with close, countryside images from home. Going out to the alley, charming water wharf, white and yellow butterflies draw circles on the yellow mustard flower gardens, lemon gardens, orange gardens, grapefruit gardens filled with sweet scent, along the dike are strawberry fields, fire grounds, dirt fields, tea gardens. , next to the duckweed pond, next to the well, green mosquito net hedge... The word "I" appearing in Nguyen Binh's poem is so lovely. Doai village and Dong village are where "Her" family and "My" family live, which is also a concretized way of saying, the two villages are two bridges that bring her and I closer together. Using metonymy - personification combined with idioms and the art of combining numbers of words - predicates "nine, ten, remember long = nine remember ten long" contributes to making the four poems become simple but innocent and loving. deep. "Nine, miss ten, long for one person" is like the mood of "emotional anxiety" or the mood of the girl in the folk song "missing someone", not only filled and filled with tenderness in the heart of the amorous boy but also overflowing. flooded the entire village, both Dong and Doai villages. Because of love, infatuation has become a "disease", so pitiful,... just like the sun and rain of the sky. Comparing the "zoster disease" with the love sickness "my love for her", author Nguyen Binh has innocently and interestingly described the sadness and love in love as a natural and inevitable thing. When you're close, you love, when you're far, you miss, these are common feelings of love The following sentences, the application of conventional metaphors in folk songs (the wharf, the boat) in traditional poetry (flowers, butterflies), express a wish and desire for happy love. The happiness of the couple is very passionate. From here, the author reveals his complete desires and is responded to in that love. The lyrical ego of the amorous boy, the sadness of love, the desire for happiness "I love her", becomes the "common thing" of many other boys and girls. Love is not only the feeling of the lyrical character "I" in love, but the poem also speaks for many other people. That's why, up to now, whenever people want to express their feelings for someone else, they often say a vague hint to convey to the person they love that they are also in love with someone. Lust is my disease, I love her" The verses of Tuong Tu's poem are both poetic and extremely romantic. Nothing can change that feeling of longing and euphoria, no matter how much time passes. Love has sadness, anger and blame, but those emotions become a specialty of love, creating love and complete desire in a couple's love, especially single love. direction. Source: Good article
Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh Ba mươi năm ấy chân không mỏi Mà đến bây giờ mới tới nơi. (Tố Hữu) Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu bốn bể hoạt động cứu nước, tháng 2 – 1941, Nguyễn Ái Quốc đã bí mật về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt nam. Người sống trong hang Pác Bó, điều kiện sinh hoạt vật chật rất gian khổ, nhưng tất cả thiếu thốn đó đối với Bác không phải là gian khổ mà đều trở thành sang trọng, mà còn thật là sang. Bởi niềm vui vô hạn của người chiến sĩ yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh là được sống cuộc đời cách mạng cứu dân, cứu nước. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Bài thơ bốn câu, theo thể thất ngôn tứ tuyệt thật tự nhiên, bình dị, giọng điệu thoải mái pha chút vui đùa hóm hỉnh. Tất cả cho ta thấy một cảm giác vui thích sảng khoái. Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ cũng toát lên từ đó. Đi tìm hiểu bài thơ chính là đi tìm hiểu niềm vui của nhân vật trữ tình. Mở đầu bài thơ là câu thơ có giọng điệu rất tự nhiên, rất ung dung và thoải mái, hòa điệu với cuộc sống của núi rừng: Sáng ra bờ suối tối vào hang Câu thơ là sự khái quát của một nhịp sống đã trở thành nếp rất chủ động. Cách ngắt nhịp 4/3 đã tạo thành thế đôi sóng đôi rất nhịp nhàng: sáng ra- tối vào. Nếp sống ở đây chủ động mà đàng hoàng. Đàng hoàng vì ban ngày Bác làm việc đời thường. Tối mới trở về hang để ngủ. Với Bác, còn gì thú vị hơn khi ngày ngày được làm việc bên bờ suối, làm bạn với thiên nhiên, tối trở về nhà (nhà vẫn là hang núi) để nghỉ ngơi và lắng nghe tiếng suối chảy. Thật thú vị, thỏa mái khi con người được sống giao hòa với thiên nhiên. Phải chăng quy luật vận động ấy là Bác đã vượt lên được hoàn cảnh. Đó chẳng phải là tinh thần lạc quan hay sao? Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng Nhịp 4/3 là nhịp thông thường ở thơ tứ tuyệt, nhưng ở câu này, nhịp 4 được chuyển thành nhịp 2/2 tạo thành một sự đều đặn cùng với hai thanh trắc liền nhau ở nhịp 3 (vẫn, sẵn) càng khẳng định thêm điều đó. Câu thơ toát nên một sự yên tâm về cuộc sống vật chật của Bác. Thơ xưa thường biểu lộ thú vui vì cảnh nghèo như Nguyễn Trãi đã từng viết: Nước là cơm rau hay tri tức. Điều khác biệt của Bác, với các nhà thơ xưa như Nguyễn Trãi là ở chỗ: Nguyễn Trãi sống ở chốn núi rừng vui với thiên nhiên (ở Côn Sơn) để quên đi nỗi đau không được giúp nước, giúp đời. Còn Bác Hồ sống ở chốn núi rừng, bằng lòng với cuộc sống đạm bạc nơi đầu nguồn để đem ánh sáng cứu dân cứu nước. Vì thế câu thơ thứ ba của bài thơ là một sự chuyển biến đột ngột: Bàn đá chông chềnh dịch sử Đảng Hai câu nói về chuyện ăn, chuyện ở thong dong bao nhiêu, thoải mái bao nhiêu thì câu nói về chuyện làm việc vất vả bấy nhiêu. Không có bàn, người chiến sĩ cách mạng phải dùng dạ làm bàn, lại là bàn đá chông chếnh. Rõ ràng là với từ chông chếnh, Bác đã lột tả được điều kiện làm việc rất khó khăn. Công việc lại càng khó khăn hơn, đòi hỏi người chiến sĩ cách mạng phải cố gắng hết sức, không ngừng không nghỉ. Ba tiếng cuối cùng sử dụng toàn thanh trắc để thể hiện sự vất vả, nhưng khỏe khoắn, kiên quyết. Như vậy đối với Bác lúc này, việc cách mạng là cần thiết nhất, phải vượt lên tất cả mọi khó khăn. Kết thúc bài thơ là một nhận xét, một kết thúc rất tự nhiên, bất ngờ và vô cùng thú vị: Ba câu đầu của bài thơ nói về việc ở, việc ăn và việc làm. Câu thứ tư là một lời đánh giá làm người đọc bất ngờ. Và bằng phép loại suy, ta có thể khẳng định việc ăn, việc ở khộng phải là sang, chỉ có việc làm dịch sử Đảng là sáng nhất vì nó đem ánh sáng của chu nghĩa Mác – Lê Nin để phát động đấu tranh giải phóng dân tộc, đem lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho toàn dân. Ở đây ta bắt gặp câu thơ có khẩu khí, nói cho vui, phần nào khoa trương (thường gặp trong hàng loạt những bài thơ xưa nói cho vui cảnh nghèo đã trở thành truyền thống) trong văn học phương Đông: Ao sâu nước cả khôn chài cá, Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà… (Bác đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến) Đúng là nói cho vui! Thật đấy mà lại đùa đấy! Nghèo nhưng mà lại chẳng nghèo! Giọng điệu thơ rất tự nhiên, dí dỏm thể hiện niềm vui của Nguyễn Khuyến khi có bạn đến nhà chơi. Ta thấy ở đây niềm vui thích của Bác Hồ là rất thật, không chút gượng gạo, lên gân vì thế nên giọng thơ sảng khoái, ngân vang: Thật là sang. Rõ ràng trong cái sang của Bác, của người cách mạng không phải là điều kiện ăn ở, sinh hoạt mà chính là tri thức cách mạng để giải phóng đất nước, đem lại sự giàu sang, hạnh phúc cho cả dân tộc. Ý nghĩa của bài thơ thật lớn lao.
Comments on the poem Pac Bo Scene by Ho Chi Minh Instruct Comments on the poem Pac Bo Scene by Ho Chi Minh During those thirty years my feet did not get tired But only now have we arrived. (To Huu) After 30 years of traveling all over the world to save the country, in February 1941, Nguyen Ai Quoc secretly returned to the country to directly lead the Vietnamese revolution. People living in Pac Bo cave had very difficult living conditions, but all those deprivations for Uncle Ho were not hardships but became luxury, and were truly luxurious. Because the infinite joy of the great patriot soldier Ho Chi Minh was to live a revolutionary life to save the people and the country. The poem Pac Bo Scene was born in that situation. The four-line poem, in the form of seven words, is very natural and simple, with a relaxed tone mixed with a bit of humorous humor. All give us a feeling of joy and pleasure. The ideological meaning of the poem also emerges from there. To understand the poem is to understand the joy of the lyrical character. The poem begins with a verse that has a very natural tone, very leisurely and comfortable, in harmony with the life of the mountains and forests: In the morning, go to the stream bank and in the evening, enter the cave The poem is a generalization of a rhythm of life that has become a very proactive lifestyle. The 4/3 rhythm has created a very rhythmic double wave position: light out - dark in. The lifestyle here is proactive and dignified. It's decent because during the day Uncle works in everyday life. At night, return to the cave to sleep. For Uncle Ho, there is nothing more interesting than working by the stream every day, making friends with nature, and returning home at night (home is still a mountain cave) to rest and listen to the sound of the flowing stream. It is interesting and comfortable when people can live in harmony with nature. Could it be that the law of motion means that Uncle Ho has overcome the situation? Isn't that a spirit of optimism? Cement sheath vegetable porridge is ready The rhythm of 4/3 is a common rhythm in quatrains, but in this sentence, the rhythm of 4 is changed to a rhythm of 2/2, creating a regularity with the two adjacent bars in rhythm 3 (still, ready). add that. The poem exudes peace of mind about Uncle Ho's difficult life. Ancient poetry often expressed joy because of poverty as Nguyen Trai once wrote: Water is rice and vegetables or knowledge. The difference between Uncle Ho and ancient poets like Nguyen Trai is that Nguyen Trai lived in the mountains and forests, enjoying nature (in Con Son) to forget the pain of not being able to help the country or the world. Uncle Ho lives in the mountains and forests, content with a meager life at the source to bring light to save the people and the country. Therefore, the third verse of the poem is an abrupt change: The uneven stone table translates the Party's history The two sentences talk about how leisurely and comfortable eating and living are, the other talks about working hard. Without a table, the revolutionary soldier had to use a felt as a table, which was a shaky stone table. Obviously, with the word unsteady, Uncle Ho described very difficult working conditions. The work is even more difficult, requiring revolutionary soldiers to try their best, constantly. The last three hours use all the vocal chords to express hardship, but strength and determination. So for Uncle Ho at this time, revolution was the most necessary thing, we had to overcome all difficulties. The end of the poem is a comment, a very natural, unexpected and extremely interesting ending: The first three lines of the poem talk about living, eating and working. The fourth sentence is an assessment that surprises the reader. And by analogy, we can confirm that eating and living are not luxury, only translating Party history is the brightest because it brings the light of Marxism-Leninism to launch the liberation struggle. nation, bringing full food, warm clothes and happiness to the entire people. Here we encounter a poetic verse, spoken for fun, somewhat melodramatic (common in a series of old poems about poverty that have become a tradition) in Eastern literature: The pond is deep and the water is full of fish, Large garden fence sparse, hard chase chickens… (Uncle comes to visit - Nguyen Khuyen) It's fun to say! It's true but it's a joke! Poor but not poor! The poetic tone is very natural and witty, expressing Nguyen Khuyen's joy when having friends come to his house. We see here that Uncle Ho's joy is very real, without any forcedness or tension, so the poetic voice is refreshing and resonant: It's so luxurious. It is clear that the luxury of Uncle Ho and revolutionaries is not living and living conditions, but revolutionary knowledge to liberate the country, bringing wealth and happiness to the entire nation. The meaning of the poem is great.
Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Tình cảm của nhân dân với Hồ Chí Minh đặc biệt như thế nào, điều này không mới. Riêng, trong thơ, ta đã cảm nhận được ở Tố Hữu, Minh Huệ,… và lần này thì ở Viễn Phương. Thơ Viễn Phương có một phong cách độc đáo: vừa giàu chất liệu tâm trạng vừa giàu chất suy tưởng, vừa hiện thực vừa trữ tình, vừa hồn nhiên vừa mơ mộng… nghĩa là những cung bậc khác nhau, pha trộn vào nhau. Sự đa dạng này phản ánh tính phong phú của đối tượng được tái hiện ở trong thơ. Hồ Chí Minh vừa lớn lao vừa bình dị biết nhường nào. Vì thế, nhà thơ dường như không thể nào làm khác. Mạch cảm hứng toàn bài dựa trên trục thời gian hình thành một thứ nhật kí, một cuộc viếng thăm cũng là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn. Khổ đầu của bài thơ – cảm nhận đầu tiên là cái bỡ ngỡ, vừa lạ vừa quen: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Câu thơ không nói gì nhiều, nhưng vì sao đọc lên nghe cứ rưng rưng. Miền Nam là mảnh đất cha ông xưa đi mở cõi, trong chiến tranh là mảnh đất "đi trước về sau" muôn vàn gian khổ. Trong hai cuộc chiến tranh giữ nước, miền Nam là một bức thành đồng. Nửa thế kỉ chiến đấu và hi sinh phải chăng không ngoài mục tiêu duy nhất: đất nước độc lập, Nam Bắc một nhà. Khát khao đầy tính chất ngưỡng vọng ấy là gì, nếu không phải là hướng về đất Bắc, trái tim của cả nước. Vì vậy, khi đã đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, cảm xúc của nhà thơ – đại diện cho những đứa con ở xa không khỏi ngỡ ngàng như bước vào một giấc mơ tướng chừng không có thực. Câu thơ thật vui mừng khôn xiết lại vừa thật xót xa. Một cái gì như kìm nén bỗng oà ra tức tưởi. Hai mảnh đất, hai địa đầu đất nước đã được nối liền bằng cuộc hành hương. Hình ảnh nhà thơ gặp gỡ đầu tiên khi ra thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là hàng tre quen thuộc đến nao lòng. Một chữ "đã" trong câu "Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát". "Đã" là cái cử chỉ thân yêu, một hành động "tay bắt mặt mừng" vỗi vã dù được thực hiện bằng mộtthứ tiếng nói vô ngôn. Chất suy tưởng trong thơ từ cảm xúc rất thực này mà cất cánh: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Một từ cảm thán đứng đầu câu đã mỡ ra bao tầng cảm nghĩ. Màu xanh của tre, trúc chi là một chuyện thường tình, nhưng một linh hồn Việt Nam, một cốt cách Việt Nam đã in trọn vẹn dấu ấn của mình vào đó. Đằng sau cái sương khói mơ hồ thực ảo (trong sương) thấp thoáng một dáng đứng Việt Nam, một dáng dứng của bốn nghìn năm dựng nước "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng". Bển bỉ, dẻo dai, vĩnh hằng bất biến là những phẩm chất riêng chỉ dân tộc này mới có? Không khí của bài thơ được tạo ra bởi một nét cảm động mà bâng khuâng, xao xuyến tận dáy lòng. Phải là những con người bất khuất, trung kiên vào sống ra chết như thế nào trong cuộc tử sinh dữ dội mới có thể xúc động trước một hàng tre mà những kẻ vô tâm ít người để ý. Hai khổ thơ tiếp theo – phần chính của bài là sự bàng hoàng chiêm ngưỡng: Hồ Chí Minh vĩ đại mà giản dị đến không ngờ. vé sự vĩ đại của Người, có thể so sánh với trăng sao, nghĩa là thuộc về vũ trụ. Nhưng cái sáng mà trăng sao toả ra không đủ sức ấm cho sự sống muôn loài mà phải là ánh sáng của mặt trời. Và tứ thơ bỗng nhiên, bất ngờ xuất hiện, xuất hiện rất kịp thời phù hợp với cảm nghĩ của nhà thơ: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Phép đối (ở đây là đối xứng) tưởng như đã cũ, nhưng ở trong văn cảnh này, không còn một cách nói nào thích hợp hơn. Vũ trụ có mặt trời, dân tộc ta cũng có một mặt trời riêng là Hồ Chí Minh. Sự tương xứng và song hành trong thực tế và trong tâm tưởng đã diễn ra cùng một lúc. Hồ Chí Minh vĩ đại biết bao nhiêu, làm cách nào có khả năng nói hết?. Tuy thế, cũng có sự khác nhau: cái vĩnh hằng của mặt trời thiên nhiên là im lặng, vô hồn, còn cái vĩnh cửu của "măt trời trong lăng" thuộc về con người, thuộc về sự sống. Giữa những con người này, sự sống này, một chân lí đang được chứng minh: sự trường tồn của một cá thể trong cái hữu hạn nhân sinh là "bảy mươi chín mùa xuân" ngắn ngủi. Khổ thơ nói vể "mặt trời trong lăng", câu thơ có ý nghĩa triết học sâu xa: Những hào kiệt, anh linh không thể chết nếu lấy tiêu chí vể sự bất tử của linh hồn. Bảy mươi chín tuổi của Hồ Chí Minh là "bảy mươi chín mùa xuân", và cuộc đời quanh Người, cũng là những tràng hoa, nghĩa là một mùa xuân ríu rít quây quần. Nghĩa hẹp và nghĩa rộng của hình tượng thơ cứ hồn nhiên lan toả bới hương vị đầm ấm ngọt ngào nhằm tôn vinh một con người mà giờ đây đã trờ thành lất cả. Bác là tất cả, nhưng Bác cũng là một con người binh thường như tất cả chúng ta: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trâng sáng dịu hiền. Gam màu của mạch thơ từ chói lọi, rực rỡ ớ khổ thơ trên đã chuyển hướng, trở nên dịu dàng mềm mại ở khổ sau, mở ra một tầng cảm nghĩ mới. Người gắn bó với thiên nhiên, nhất là với trăng thì giờ đây trăng vẫn chung thuỷ với Người. Ý thơ của Viễn Phương gợi nhớ đến bao nhiêu câu thơ rất đẹp về trăng của Hồ Chí Minh: "Tiếng suối trong như tiếng hát xa – Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"… Hồ Chí Minh giờ đã đi xa, trăng bầu bạn, chung thuỷ vỗ về. Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ cảm thương xuất hiện: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim! Ở đây tồn tại một nghịch lí: Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc ta, với nhân dân ta vốn là vĩ đại. Nhưng ngay khi trở thành vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là một con người bình thường, nghĩa là cũng có một số phận riêng. Cảm giác "nghe nhói ở trong tim" của Viễn Phương là cảm giác rất thực với tư cách giữa con người với con người, nghĩa là bình đẳng như nhau trước lượng trời hạn hẹp. Điều đó nói lên Hồ Chí Minh dù vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là con người. Và chính vì là con người, Hồ Chí Minh càng trở nên vĩ đại. Khổ cuối của bài thơ, về hình tượng có sự đối ứng với khổ thơ đầu: hai địa danh (miền Nam) và hai hình ảnh (cây tre) được lặp lại nhằm hoàn tất một cuộc hành hương, nhưng ý nghĩa tinh thần thì đã khác. Trở về nơi đã ra đi, từ nơi vừa đến là nước mắt tràn ngập hàng mi (thương trào nước mắt) và hàng tre gặp gỡ đã nâng cấp thành một biểu trưng về tính cách, về nhân phẩm con người, thành "cây tre trung hiếu". Nguyện vọng hoá thân của nhà thơ là trong cảm xúc dâng trào ấy: Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Giọng thơ trầm lắng xuống, nhưng nguyện vọng rất thiết tha lại nghèn nghẹn không nói nên lời đang cất lên cái tiếng nói vô thanh của nó. Mà cái nguyện vọng kia mới khiêm nhường, nhỏ bé biết chừng nào? Một giọng chim ca, một đoá hoa lặng lẽ toả hương nghĩa là giống như lúc Hồ Chí Minh sinh thời "Xem sách chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hoa núi ghé nghiên soi" (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn). Sự thành kính đến nghiêm trang đầy xúc động của nhà thơ một lần nữa nhằm tôn vinh một con người mà linh hồn như còn phảng phất nơi đây trong sương, trong nắng. Đồng thời nó cũng làm nhiệm vụ hoàn tất bài thơ với niềm tiếc thương và kính yêu vô hạn. Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.
Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Tình cảm của nhân dân với Hồ Chí Minh đặc biệt như thế nào, điều này không mới. Riêng, trong thơ, ta đã cảm nhận được ở Tố Hữu, Minh Huệ,… và lần này thì ở Viễn Phương. Thơ Viễn Phương có một phong cách độc đáo: vừa giàu chất liệu tâm trạng vừa giàu chất suy tưởng, vừa hiện thực vừa trữ tình, vừa hồn nhiên vừa mơ mộng… nghĩa là những cung bậc khác nhau, pha trộn vào nhau. Sự đa dạng này phản ánh tính phong phú của đối tượng được tái hiện ở trong thơ. Hồ Chí Minh vừa lớn lao vừa bình dị biết nhường nào. Vì thế, nhà thơ dường như không thể nào làm khác. Mạch cảm hứng toàn bài dựa trên trục thời gian hình thành một thứ nhật kí, một cuộc viếng thăm cũng là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn. Khổ đầu của bài thơ – cảm nhận đầu tiên là cái bỡ ngỡ, vừa lạ vừa quen: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Câu thơ không nói gì nhiều, nhưng vì sao đọc lên nghe cứ rưng rưng. Miền Nam là mảnh đất cha ông xưa đi mở cõi, trong chiến tranh là mảnh đất "đi trước về sau" muôn vàn gian khổ. Trong hai cuộc chiến tranh giữ nước, miền Nam là một bức thành đồng. Nửa thế kỉ chiến đấu và hi sinh phải chăng không ngoài mục tiêu duy nhất: đất nước độc lập, Nam Bắc một nhà. Khát khao đầy tính chất ngưỡng vọng ấy là gì, nếu không phải là hướng về đất Bắc, trái tim của cả nước. Vì vậy, khi đã đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng, cảm xúc của nhà thơ – đại diện cho những đứa con ở xa không khỏi ngỡ ngàng như bước vào một giấc mơ tướng chừng không có thực. Câu thơ thật vui mừng khôn xiết lại vừa thật xót xa. Một cái gì như kìm nén bỗng oà ra tức tưởi. Hai mảnh đất, hai địa đầu đất nước đã được nối liền bằng cuộc hành hương. Hình ảnh nhà thơ gặp gỡ đầu tiên khi ra thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là hàng tre quen thuộc đến nao lòng. Một chữ "đã" trong câu "Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát". "Đã" là cái cử chỉ thân yêu, một hành động "tay bắt mặt mừng" vỗi vã dù được thực hiện bằng mộtthứ tiếng nói vô ngôn. Chất suy tưởng trong thơ từ cảm xúc rất thực này mà cất cánh: Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng. Một từ cảm thán đứng đầu câu đã mỡ ra bao tầng cảm nghĩ. Màu xanh của tre, trúc chi là một chuyện thường tình, nhưng một linh hồn Việt Nam, một cốt cách Việt Nam đã in trọn vẹn dấu ấn của mình vào đó. Đằng sau cái sương khói mơ hồ thực ảo (trong sương) thấp thoáng một dáng đứng Việt Nam, một dáng dứng của bốn nghìn năm dựng nước "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng". Bển bỉ, dẻo dai, vĩnh hằng bất biến là những phẩm chất riêng chỉ dân tộc này mới có? Không khí của bài thơ được tạo ra bởi một nét cảm động mà bâng khuâng, xao xuyến tận dáy lòng. Phải là những con người bất khuất, trung kiên vào sống ra chết như thế nào trong cuộc tử sinh dữ dội mới có thể xúc động trước một hàng tre mà những kẻ vô tâm ít người để ý. Hai khổ thơ tiếp theo – phần chính của bài là sự bàng hoàng chiêm ngưỡng: Hồ Chí Minh vĩ đại mà giản dị đến không ngờ. vé sự vĩ đại của Người, có thể so sánh với trăng sao, nghĩa là thuộc về vũ trụ. Nhưng cái sáng mà trăng sao toả ra không đủ sức ấm cho sự sống muôn loài mà phải là ánh sáng của mặt trời. Và tứ thơ bỗng nhiên, bất ngờ xuất hiện, xuất hiện rất kịp thời phù hợp với cảm nghĩ của nhà thơ: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Phép đối (ở đây là đối xứng) tưởng như đã cũ, nhưng ở trong văn cảnh này, không còn một cách nói nào thích hợp hơn. Vũ trụ có mặt trời, dân tộc ta cũng có một mặt trời riêng là Hồ Chí Minh. Sự tương xứng và song hành trong thực tế và trong tâm tưởng đã diễn ra cùng một lúc. Hồ Chí Minh vĩ đại biết bao nhiêu, làm cách nào có khả năng nói hết?. Tuy thế, cũng có sự khác nhau: cái vĩnh hằng của mặt trời thiên nhiên là im lặng, vô hồn, còn cái vĩnh cửu của "măt trời trong lăng" thuộc về con người, thuộc về sự sống. Giữa những con người này, sự sống này, một chân lí đang được chứng minh: sự trường tồn của một cá thể trong cái hữu hạn nhân sinh là "bảy mươi chín mùa xuân" ngắn ngủi. Khổ thơ nói vể "mặt trời trong lăng", câu thơ có ý nghĩa triết học sâu xa: Những hào kiệt, anh linh không thể chết nếu lấy tiêu chí vể sự bất tử của linh hồn. Bảy mươi chín tuổi của Hồ Chí Minh là "bảy mươi chín mùa xuân", và cuộc đời quanh Người, cũng là những tràng hoa, nghĩa là một mùa xuân ríu rít quây quần. Nghĩa hẹp và nghĩa rộng của hình tượng thơ cứ hồn nhiên lan toả bới hương vị đầm ấm ngọt ngào nhằm tôn vinh một con người mà giờ đây đã trờ thành lất cả. Bác là tất cả, nhưng Bác cũng là một con người binh thường như tất cả chúng ta: Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trâng sáng dịu hiền. Gam màu của mạch thơ từ chói lọi, rực rỡ ớ khổ thơ trên đã chuyển hướng, trở nên dịu dàng mềm mại ở khổ sau, mở ra một tầng cảm nghĩ mới. Người gắn bó với thiên nhiên, nhất là với trăng thì giờ đây trăng vẫn chung thuỷ với Người. Ý thơ của Viễn Phương gợi nhớ đến bao nhiêu câu thơ rất đẹp về trăng của Hồ Chí Minh: "Tiếng suối trong như tiếng hát xa – Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"… Hồ Chí Minh giờ đã đi xa, trăng bầu bạn, chung thuỷ vỗ về. Nhưng ngay sau đó một ý nghĩ cảm thương xuất hiện: Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim! Ở đây tồn tại một nghịch lí: Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc ta, với nhân dân ta vốn là vĩ đại. Nhưng ngay khi trở thành vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là một con người bình thường, nghĩa là cũng có một số phận riêng. Cảm giác "nghe nhói ở trong tim" của Viễn Phương là cảm giác rất thực với tư cách giữa con người với con người, nghĩa là bình đẳng như nhau trước lượng trời hạn hẹp. Điều đó nói lên Hồ Chí Minh dù vĩ đại, Hồ Chí Minh vẫn là con người. Và chính vì là con người, Hồ Chí Minh càng trở nên vĩ đại. Khổ cuối của bài thơ, về hình tượng có sự đối ứng với khổ thơ đầu: hai địa danh (miền Nam) và hai hình ảnh (cây tre) được lặp lại nhằm hoàn tất một cuộc hành hương, nhưng ý nghĩa tinh thần thì đã khác. Trở về nơi đã ra đi, từ nơi vừa đến là nước mắt tràn ngập hàng mi (thương trào nước mắt) và hàng tre gặp gỡ đã nâng cấp thành một biểu trưng về tính cách, về nhân phẩm con người, thành "cây tre trung hiếu". Nguyện vọng hoá thân của nhà thơ là trong cảm xúc dâng trào ấy: Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Giọng thơ trầm lắng xuống, nhưng nguyện vọng rất thiết tha lại nghèn nghẹn không nói nên lời đang cất lên cái tiếng nói vô thanh của nó. Mà cái nguyện vọng kia mới khiêm nhường, nhỏ bé biết chừng nào? Một giọng chim ca, một đoá hoa lặng lẽ toả hương nghĩa là giống như lúc Hồ Chí Minh sinh thời "Xem sách chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hoa núi ghé nghiên soi" (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn). Sự thành kính đến nghiêm trang đầy xúc động của nhà thơ một lần nữa nhằm tôn vinh một con người mà linh hồn như còn phảng phất nơi đây trong sương, trong nắng. Đồng thời nó cũng làm nhiệm vụ hoàn tất bài thơ với niềm tiếc thương và kính yêu vô hạn. Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó còn làm thổn thức lòng người mãi mãi.
Cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác Bài làm Viếng Lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ vô cùng xúc động. Bài thơ ra đời trong khoảnh khắc xúc động, bài thơ là tấm lòng thành kính sót thương biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ, người cha già kính yêu dân tộc. Lần đầu tiên nhà thơ được ra miền Bắc viếng Bác khi vào lăng viếng Bác. ” Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” Câu thơ chất chứa biết bao tình cảm con người ra thăm lăng Bác. Lời thơ còn ẩn chứa nỗi niềm ra thăm Bác nào ngờ ngày hội thống nhất non sông Bác không còn nữa, nhà thơ không nói viếng mà nói thăm bởi không muốn nghĩ rằng Bác đã đi xa. Mọi người vè thăm Bác – thăm cha là lẽ tự nhiên. Ấn tượng đậm nét đầu tiên về cảnh qua nơi Bác nghỉ là hàng tre bát ngát trong sương sớm biết bao sức sống. “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi!Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” Xa xa nổi bật là hàng tre bát ngát một hình ảnh thân quen ở đâu tại Việt Nam cũng thấy. Tre kiên cường bất khuất, tre biểu tượng đẹp của con người Việt Nam dẻo dai bền bỉ kiên cường trước mọi phong ba bão táp lửa đạn kẻ thù. Tre kiên định anh hùng nay lại đứng bên Người bảo vệ cho người yên giấc, nỗi xúc động trào dâng khiến nhà thơ thốt lên ” Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam” Khổ hai có hai câu đối xứng chứa hai hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ. Hình ảnh thực là hình ảnh mặt trời thiên nhiên rực rỡ vĩnh hằng, và hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong lăng rất đỏ là Bác. Nếu mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng hơi ấm sự sống cho muôn loài thì Bác Hồ là mặt trời đem lại sự đổi thay dân tộc. Hai hình ảnh sánh đôi soi chiếu tỏa sáng cho nhau. Cũng như vậy nhà thơ lấy hình ảnh thật của đoàn người. Hằng ngày nối đuôi nhau thành hình ảnh ” Đi trong thương nhớ, kết tràng hoa” các so sánh vừa đẹp vừa lạ. Đoàn người kết thành dây hoa bất tận dâng người 79 mùa xuân. Cách dùng từ tinh tế và hình ảnh đẹp diễn tả tình cảm nhớ thương cũng như của nông dân Việt Nam miền Nam với Bác. Nhà thơ diễn tả cảm xúc sót thương khi vào tới bên trong lăng. Khung cảnh trang nghiêm yên tĩnh như liên kết cả không gian thời gian và người nằm đó thanh thân bình yên. ” Bác nằm trong giấc ngủ bình yên” Hình ảnh Bác ” giấc ngủ bình yên, giữa một vầng trăng sáng dịu hiền câu thơ thực và mộng gợi nhiều liên tưởng. Từ hình ảnh vầng trăng liên tưởng tới thơ Bác nhiều bài tràn ngập ánh trăng. Với hình ảnh trăng nhà thơ còn muốn tạo ra một hình ảnh kì vĩ Bác – Mặt trời – Vầng trăng – Trời xanh. Nếu mặt trời là biểu tượng của ánh sáng lí tưởng thì vầng trăng lại là tâm hồn trong sáng cao đẹp là tình yêu thương dịu hiền của Bác với mọi người. Vẫn biết Bác sống mãi với nhân dân đất nước như mặt trời, vầng trăng, bầu trời xanh nhưng sao vẫn nghe nhói đau trong tim. Nỗi đau trước một sự thật không khác được là Bác đã đi xa. ” Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏ hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” Thương trào nước mắt đó là một tình cảm rất thực không chỉ ở nhà thơ mà bất cứ ai đến viếng Bác. Nước mắt không phải rưng rưng mà trào ra đó là cảm xúc mãnh liệt chính từ cảm xúc nhớ thương vô hạn ấy mà lời thơ trở lên dứt khoát diễn tả bao ước muốn ” Muốn làm chim hót, hoa tảo hương, cây tre”. Mọi ước muốn của nhà thơ đều quy tụ một điểm là mong được gần Bác. Bước chân trở về miền Nam mà lòng biết bao lưu luyến nhớ thương, hình ảnh cây tre tái hiện khép kín, bài thơ như một sự hô ứng khiến kết cấu bài thơ chặt chẽ giàu cảm xúc giày ý nghĩa. Bài thơ ” Viếng Lăng Bác ” đã để lại cho bạn đọc rất nhiều cảm xúc sâu lắng và thiết tha. Với nhiều hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ Viếng Lăng Bác, Viễn Phương đã thay mặt nhân dân miền Nam nói riêng và toàn thể nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác những nỗi niềm cảm xúc chân thành, sự tôn kính thiêng liêng. Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc và gợi nhắc cho những thế hệ mai sau kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng một cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một người vĩ đại mà vô cùng giản dị – Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời tươi đẹp.
Feelings about the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum Instruct Feelings about the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum Assignment Vien Phuong's Visit to Uncle Ho's Mausoleum is one of the most moving poems. The poem was born in an emotional moment, the poem is the sincere and infinite gratitude of the poet as well as the people of the South to the leader, the beloved old father of the nation. The first time the poet went to the North to visit Uncle Ho was when he visited Uncle Ho's mausoleum. "I'm in the South to visit Uncle Ho's mausoleum" The poem contains so many emotions of people visiting Uncle Ho's mausoleum. The poem also contains the feeling of going to visit Uncle Ho, not knowing that the festival to unify Uncle Ho's mountains and rivers is no longer there. The poet does not say visit but says visit because he does not want to think that Uncle Ho has gone away. It's natural for everyone to visit Uncle Ho - visiting their father. The first bold impression of the scene at Uncle Ho's resting place is the vast bamboo row in the morning dew with so much vitality. “I saw vast bamboo rows in the mist Oh! Vietnamese green bamboo rows Storm rain fell upright rows" In the distance, standing out are vast rows of bamboo, a familiar image seen everywhere in Vietnam. Bamboo is resilient and indomitable, a beautiful symbol of the Vietnamese people's tenacity and resilience in the face of all storms, storms, fire and enemy bullets. Tre, the steadfast hero, now stands next to him to protect him from his sleep. His overflowing emotions make the poet exclaim, "Oh! Vietnamese green bamboo products" Stanza two has two symmetrical sentences containing two real images and metaphorical images. The real image is the image of the eternally brilliant natural sun, and the metaphorical image of the sun in the very red mausoleum is Uncle Ho. If nature's sun brings light and warmth of life to all living beings, then Uncle Ho is the sun that brings change to the nation. The two images mirror and shine on each other. Likewise, the poet takes the real image of the group of people. Every day, one after another forms the image of "Walking in longing, garlands of flowers" comparisons that are both beautiful and strange. The group of people formed an endless string of flowers to offer people 79 spring. The delicate use of words and beautiful images express the love and affection of Southern Vietnamese farmers towards Uncle Ho. The poet describes his feelings of sadness when entering the mausoleum. The solemn and quiet scene seems to link both space and time and the people lying there are peaceful and calm. "Uncle lies in peaceful sleep" The image of Uncle "sleeping peacefully, amidst a gentle moonlight, the verses of reality and dreams evoke many associations. From the image of the moon comes to mind Uncle Ho's many poems filled with moonlight. With the image of the moon, the poet also wants to create a majestic image of Uncle Ho - Sun - Moon - Blue sky. If the sun is the symbol of ideal light, the moon is the pure and beautiful soul of Uncle Ho's gentle love for everyone. I still know that Uncle Ho will live forever with the people of the country like the sun, the moon, and the blue sky, but it still aches in my heart. The pain of the inescapable truth is that Uncle Ho has gone away. ” Tomorrow when I return to the South, tears come to my eyes I want to be a bird that sings around Uncle Ho's mausoleum I want to be a flower that shows fragrance somewhere Want to make this place bamboo tastes" Tears of sadness are a very real feeling not only in the poet but in anyone who comes to visit Uncle Ho. Tears are not tears, but overflowing, they are strong emotions. It is from that feeling of infinite longing that the poem clearly describes many wishes: "Wanting to be birds singing, algae flowers, bamboo trees". All the poet's wishes converge to one point: the wish to be close to Uncle Ho. Stepping back to the South with so much nostalgia, the image of the bamboo tree reappears in a closed way, the poem is like a response, making the structure of the poem tight and rich in emotions and meaning. The poem "Visiting Uncle Ho's Mausoleum" has left readers with many deep and passionate emotions. With many extremely unique metaphors and unique rhetorical devices, poet Vien Phuong has expressed a very unique poetic soul. Through the poem Visiting Uncle Ho's Mausoleum, Vien Phuong, on behalf of the people of the South in particular and the entire people of the country in general, offered sincere feelings and sacred respect to Uncle Ho. The poem will continue to live in the hearts of readers and remind future generations to continue the brilliant results of the revolution in a way of life worthy of the sacrifice of a great but extremely simple person. – Ho Chi Minh, who lived a beautiful life.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu Bài làm "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nquyền Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Khi đọc những câu văn này ta sẽ không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới’’. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc. Cảm nhận về bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu Vội vàng? Cái tên đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình đế ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã: Mau với chứ, vội vàng lên chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi! Thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ. Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngông, rất lạ: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống. Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tĩnh. Cái vô lí đó chính là sự khao khát đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình. Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất của cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây là cửa cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si. Vày đây… Này đây…Này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như vồ vập. Ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp. Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây ra đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, tươi non. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, băn khoăn, lo sợ.. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Cơn gió xinh thì thào trong lác biếc Phải chăng sợ đổ tàn phai sắp sửa? Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả. Ta muốm ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn biết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Hỡi xuân hồngg, ta muốn cắn vào người. Lòng yêu đời tràn lên như một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập một. Và cuối cùng là tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đó chưa từng có. Lối sống ở đây biết hưởng thụ một cách chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ để sống đủ đầy nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà ông, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ. Đọc thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sông ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn cònnguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu. Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc nhân dân, đừng phí hoài thời gian, hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu Bài làm "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thư rộng lớn như Thế Lữ. mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nquyền Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên…. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Khi đọc những câu văn này ta sẽ không hiểu tại sao Xuân Diệu lại được ưu ái như vậy. Giờ thì đã rõ! Đơn giản chỉ vì ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới’’. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc. Cảm nhận về bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu Vội vàng? Cái tên đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình đế ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã: Mau với chứ, vội vàng lên chứ Em, em ơi, tình non sắp già rồi! Thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ. Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm. Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngông, rất lạ: Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi. Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống. Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tĩnh. Cái vô lí đó chính là sự khao khát đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình. Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất của cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập: Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây là cửa cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si. Vày đây… Này đây…Này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như vồ vập. Ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp. Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây ra đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, tươi non. Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, băn khoăn, lo sợ.. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Cơn gió xinh thì thào trong lác biếc Phải chăng sợ đổ tàn phai sắp sửa? Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả. Ta muốm ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn biết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Hỡi xuân hồngg, ta muốn cắn vào người. Lòng yêu đời tràn lên như một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập một. Và cuối cùng là tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đó chưa từng có. Lối sống ở đây biết hưởng thụ một cách chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ để sống đủ đầy nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà ông, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ. Đọc thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sông ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn cònnguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu. Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc nhân dân, đừng phí hoài thời gian, hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
Cảm nhận về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ. Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình Câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn dỗi của một cô gái như thủ thỉ ràng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình. Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình:” vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất:” Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo. Những câu thơ tiếp theo cho tôi thấy một nét khác của Huế, một sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình: “Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng trữu nặng của Hàn Măc Tử, hai câu thơ đầu gợi cảnh chia li sầu não buồn đến sâu thẳm. Điệp từ” gió” và “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng khiến cho khung cảnh chia li hiện rõ. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt bên nhau nhưng ở đây “gió theo lối gió, mây đường mây”. Hoa rơi nước cuốn là điều hiển nhiên nhưng lại ẩn chứa một tâm sự buông bã đến não lòng, sự chia li chia lìa ngày một hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi gió cuốn mà chúng ta lại nhìn ra cả tâm trạng của thi nhân. Lòng buồn thiu, không có một nỗi niềm nào chất chứa. Hình ảnh trăng hiện ra, không chỉ ở bài thơ này mà còn nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác.Ánh trăng là biểu tượng cho cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc và thanh bình. Đối với Hàn Mặc Tử hình ảnh trăng trong thơ gợi cho người đọc một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ có trong thơ mới có thể có sông trăng và thuyền chở trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây thật thơ mộng, mang đến cho ta niềm khao khát, đợi chờ. Nhưng lại mang một dự báo, hay một nỗi phân vân rằng “Có chở trăng về kịp tối nay”. Lời thơ cất lên như một câu hỏi không có đáp án. Hai câu thơ đặc tả tâm trạng khát khao gặp gỡ nhưng đồng thời cũng thể hiện nỗi lo lắng khôn nguôi. Khổ thơ cuối thể hiện một khung cảnh khi có lẽ nhà thơ đã tỉnh mộng, quay về với thực tại đang sống, đối mặt với chính mình để viết lên những vần thơ: “Mơ khách đường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra” “ Khách đường xa ở đây chính là ai?” cùng với điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng nhớ thương khắc khoải lại như vô vọng của mối tình đơn phương xa vời. Thực tại tác giả đang đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo, cắt đứt mọi giao tiếp với xung quanh nên ta có thể nhận thấy qua lời thơ ước mơ của tác giả vô cùng thiết tha mãnh liệt. Tác giả không mơ được trở về thôn Vĩ nữa mà mơ có một người khách nào đó đến thăm. Nhưng rồi giấc mơ ấy như nhòa đi như trong ảo mộng, sương khói làm nhòa hình ảnh ảo mộng: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Ở đây ta có thể thấy tác giả mơ về một người con gái, nhưng chỉ có thể thấy “áo” chứ “nhìn không ra”,hình ảnh tà áo trắng gợi ra hình ảnh dịu dàng mà cũng thanh khiết,có lẽ là dáng dấp của một người con gái xứ Huế. Chỉ biết đây là một hình ảnh rất đỗi gần gũi nhưng lại quá xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, còn xa xôi là vì khoảng cách thời gian, không gian. Trong tâm trạng buồn bã cô đơn của thực tại và nhớ mong khắc khoải trong thơ, nhà thơ chợt khao khát cuộc sống đến tột cùng. Cái mà Hàn Mặc Tử tha thiết mong đợi như đọng lại tới vô cùng. “Ai biết tình ai có đậm đà”. Cái hay của câu thơ nằm ở đại từ phiếm chỉ “ai”, nghe như lời nghi ngờ, cũng như một tiếng thở dài vô vọng. Vừa là nỗi mong ước đến khát khao,câu hỏi bâng quơ nhưng gợi ra nhiều tâm trạng. Đó chính là sự bâng khuâng khó tả và sự nhẹ nhàng như tự nhủ với bản thân. Nguồn: Bài văn hay
Feelings about the poem This Thon Vi Da Instruct Feelings about the poem This Thon Vi Da Han Mac Tu is a poet with a sensitive soul. His compositions are composed and reach people's hearts in a very natural and profound way, leaving many thoughts for readers. One of such poems is the poem "This is Vi Da village", the poem refers to the romantic countryside of Hue, with a beauty that is both simple and graceful like the girl the author is secretly in love with. miss. Not only that, the poem also speaks of the poet's longing, love for his hometown, and passionate attachment. Unlike other poems, the opening of the poem "This is Vi Da village" is not a description or an exclamation, but a rhetorical question: "Why don't you go visit Vi village?" The inspiration of the poem was inspired by a letter written by Hoang Thi Kim Cuc to Han Mac Tu. The words of the poem made the author's emotions rush back, evoking nostalgia for a charming poetic region. The first sentence of the poem, which begins with a strange question, begins with a question without anyone answering, making the emotional flow of the poem become indescribably wistful. Even though we weren't close by and didn't get to visit Vi Da once, the feeling of longing brought Han Mac Tu back to his homeland. The rhetorical question is like a scolding and sulky statement from a girl, as if whispering, why hasn't the author been back to visit her hometown for a long time? The question was not meant to be answered, but evoked a feeling of sadness and indescribability. It is like an invitation, both an introduction and also the author's own regret for not having visited Vi village for a long time. "Why don't you go back to visit Vi village" is like a suicide, blaming yourself. The scene of Vi Da gradually appears with many scenes, both sunny and brightly colored, as well as the image of swaying bamboo branches in front of someone's house. The author's unique talent is to evoke new imaginations for the reader The author seems to lead the reader deeper into the scenery of Vi village, and with a comparison, the gardens here have become things that, in the eyes of an artist, are transformed into charming places: "The garden is so lush and green like jade". It seems that the trees in Vi village are well watered all year round, the word "soft" used here is really not too much, green, lush and full of vitality. The flexible poetic rhythm combined with highly figurative words makes the scenery here seem even more mysterious and beautiful, with both the color of the rising sun and the lush green of the gardens, everything is fresh. new, full of life. The last sentence of stanza 1 evokes the most thoughts and associations: "Bamboo leaves cover the face of the field". Is it the image of bamboo leaves swooping down on the beautiful square gardens of Hue, or bamboo branches hanging down in front of the doors of Hue houses. Somewhere there is the shyness of a Hue girl with a kind face, evoking a graceful yet discreet beauty. The next verses show me another feature of Hue, a change in the mood of the lyrical character: “The wind follows the path of the wind and the clouds The water is sad, the cornflowers are swaying." “Whose boat is docked at the moon river? Keep carrying moon tonight" The verses show us Han Mac Tu's heavy mood, the first two verses evoke a scene of deep sadness and sadness. The alliteration of "wind" and "cloud" along with the rhythm of the verse makes the scene of separation even more clear. Wind and clouds are usually a pair, often entwined together, but here "the wind follows the wind, the clouds follow the clouds". The falling of flowers and falling water is obvious, but it hides a feeling of sadness that touches the heart, the separation is increasingly present. Looking at the scene of flowers drifting in the wind, we can see the poet's mood. The heart is sad, there is no sadness contained. The image of the moon appears, not only in this poem but also in many famous poems by other poets. Moonlight is a symbol of beauty, symbolizing happiness and peace. For Han Mac Tu, the image of the moon in poetry reminds readers of hope and faith. Only in poetry can there be a moon river and a boat carrying the moon. The author's metaphorical art here is very poetic, giving us longing and waiting. But it carries a prediction, or a doubt that "Will the moon be brought home in time tonight?" The poem is raised like a question without an answer. The two verses describe the mood of longing to meet but at the same time express endless anxiety. The last stanza represents a scene when perhaps the poet has woken up from his dream, returned to the reality he is living in, faced himself and written the verses: "Mo Guest distance, long distance guests Your shirt is so white you can't see it." “Who is this long-distance guest here?” Along with the phrase "distant guest" both expresses the feeling of longing and hopelessness of a distant, unrequited love. In reality, the author is facing a serious illness and has cut off all communication with his surroundings, so we can see through the poem that the author's dream is extremely passionate and intense. The author no longer dreams of returning to Vi village but dreams of having a guest come to visit. But then the dream seemed to fade away like in a fantasy, the smoke blurred the fantasy image: "Your shirt is so white I can't see it." Here we can see that the author dreams about a girl, but can only see "the shirt" but "can't see it". The image of the white shirt evokes a gentle yet pure image, perhaps a the appearance of a girl from Hue. Just know that this is an image that is very close but yet too far away. Close because it has become a permanent memory, distant because of the distance in time and space. In the sad, lonely mood of reality and the anxious longing in poetry, the poet suddenly yearned for life to the extreme. What Han Mac Tu was eagerly looking forward to seemed to linger to infinity. "Anyone who knows the bold". The beauty of the poem lies in the casual pronoun "who", which sounds like a word of doubt, as well as a hopeless sigh. Both a wish and a longing, the question is casual but evokes many moods. That is the indescribable wistfulness and gentleness as if talking to oneself. Source: Good article
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ Bài làm Minh Huệ với bài thơ Đêm nay Bác không ngủ là hiện tượng thi sĩ bất tử với một giai phẩm văn chương. Độc đáo bởi vì một nhà thơ xứ Nghệ, sử dụng làn điệu dân ca hát dặm Nghệ Tĩnh đã ca ngợi tình thương người mênh mông của một người con vĩ đại của xứ Nghệ – Bác Hồ kính yêu. Bài thơ gần như một truyện cổ tích vừa thực vừa mộng dẫn hồn ta vào một không khí lung linh huyền thoại: một ông tiên với chòm râu im phăng phắc, bỗng cao lung linh trước ngọn lửa hồng chập chờn giữa rừng khuya. Một đêm đông lạnh lẽo mưa lâm thâm thời chiến tranh, loạn lạc. Xung quanh đông lửa là những chiến binh trẻ (tiên đồng) đang nằm ngủ. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật ấy đá góp phần đặc sắc tạo nên sắc điệu ngữ trữ tình thẩm mĩ của bài thơ Đêm nay Bác không ngủ. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ kể, ngôn ngữ tả, ngôn ngữ nhân vật, và bình luận trữ tình hoà quyện trong những vần thơ năm chữ dung dị, lắng đọng, liền mạch, mến thương. Hình ảnh Bác Hồ được khắc hoạ rất đậm nét qua tâm hồn anh đội viên. Mối quan hệ giữa lãnh tụ với chiến sĩ trở thành tình bác – cháu, cha – con. Tố Hữu từng viết: Người là Cha, là Bác, là Anh – Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ (Sáng tháng Năm), ở đây Minh Huệ đã cảm nhận được: Người Cha mái tóc bạc Đốt lửa cho anh nằm Rồi Bác đi dém chăn Từng người từng người một Sợ cháu mình giật thột. Bác nhón chân nhẹ nhàng… Việc làm đốt lửa, hành động đi đém chăn, cử chỉ nhón chân nhẹ nhàng – đã thể hiện sự chăm chút yêu thương của Người Cha mái tóc bạc đối với từng người lính như tình cha – con, tình ông – cháu. Chú đội viên mơ màng trong khoảnh khắc hạnh phúc thần tiên. Chất thơ vừa thực vừa mơ đầy ân tượng: Anh đội viên mơ màng Như nằm trong giấc mộng. Ngoài trời thì mưa lâm thâm lạnh lẽo. Trong mái lều xơ xác, suốt đêm Lặng yèn bên bếp lửa – vẻ mặt Bác trầm ngâm. Bác vẫn ngồi… Bác vẫn không ngủ, Chí lo muôn mối như lòng mẹ… (Tố Hữu). Bác vĩ đại và ấm áp biết bao! Một so sánh rất đẹp, rất thơ đã ca ngợi tình nhàn ái Hồ Chí Minh: Bóng Bác cao lồng lộng Ấm hơn ngọn lửa hồng. Tình huống thơ được đẩy tới cao trào. Chế Lan Viên trong Người đi tìm hình của nước từng viết: Hiểu sao hết tấm lòng lãnh tụ.. Anh đội viên cũng vậy, anh chưa hiểu vi sao đêm nay Bác trầm ngâm thao thức. Nghe Bác nói, anh đội viên vui sướng mênh mông. Tình nhân ái của lãnh tụ đã soi sáng tâm hồn người lính trẻ: Bác thương đoàn dân công Đêm nay ngủ ngoài rừng Rải lá cây làm chiếu Manh áo phủ làm chăn Trời thì mưa lâm thăm Làm sao cho khỏi ướt! Càng thương càng nóng ruột Mong trời sáng mau mau…. Trong bài thơ Đêm nay Bác không ngủ, Minh Huệ đã sáng tạo nên một số chi tiết nghệ thuật rất cụ thể và điển hình về mái tóc, chòm râu, ngọn lửa, bóng Bác, vẻ mặt trầm ngâm, về hành động, cử chỉ (đốt lửa, dém chăn, nhón chân…) nhằm tô đậm và ca ngợi tình thương bao la của Bác Hồ kính yêu. Chòm râu là một nét vẽ thân tình bức chân dung lãnh tụ gợi lên sự gần gũi, thân thiết mà cao cả, thiêng liêng: Bác vẫn ngồi đinh ninh Chòm râu im phăng phắc. Bên cạnh hình ảnh Bác Hồ là hình ảnh anh đội viên, được nhà thơ thế hiện khá đẹp. Anh chợt thức giữa đêm khuya, và vô cùng nhạc nhiên suy nghĩ: Mà sao Bác vẫn ngồi – Đêm nay Bác không ngủ. Thương Bác, anh khẽ nói: Bác ơi! Bác chưa ngủ? – Bác có lạnh lắm không?. Anh bồn chồn lo lắng: Anh nằm lo Bác ốm…. Cảm xúc của anh đội viên phát triển theo chiều dài của thời gian đêm khuya: Anh đội viên thức dậy – Thấy trời khuya lắm rồi… Lần thứ ba thức dậy… Người lính trẻ nằng nặc, thiết tha: Mời Bác ngủ Bác ơi! Trời sắp sáng mất rồi Bác ơi! Mời Bác ngủ! Nghe Bác nói về tình thương và nỗi lo,… anh đội viên vô cùng hạnh phúc vì đã thấm hiểu tấm lòng và sự vĩ đại của lãnh tụ: Lòng vui sướng mênh mông Anh thức luôn cùng Bác. Qua hình ảnh anh đội viên, Minh Huệ đã thể hiện một cách chân thành cảm động lòng kính yêu của đồng bào và chiến sĩ đói với Hồ Chủ tịch vĩ đại. Đêm nay Bác không ngủ mãi mãi là một bài ca làm rung động trái tim muôn triệu con người. Hai nhân vật, hai tâm hồn chung đúc, chan hoà trong một tình yêu lớn: "yêu nước, thương người". Màu sắc dân ca kết hợp với không khí cổ tích thần kỳ làm nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảnh rừng đêm mưa lâm thâm, ngọn lửa hồng, mái tóc bạc, chòm râu im phăng phắc là bốn nét vẽ đầy ấn tượng về Bác Hồ và tấm lòng yêu nước, thương dân của Bác.
Topic: Feelings about the poem Uncle Won't Sleep Tonight by Minh Hue Assignment Minh Hue with the poem Uncle Won't Sleep Tonight is the phenomenon of an immortal poet with a literary masterpiece. Unique because a poet from Nghe An, using Nghe Tinh folk songs, praised the immense love of a great son of Nghe An - beloved Uncle Ho. The poem is almost like a fairy tale, both real and dreamy, leading our souls into a shimmering, legendary atmosphere: a fairy with a silent beard suddenly shimmers in front of a flickering red fire in the middle of the forest at night. A cold, rainy winter night in a time of war and chaos. Around the fire are young warriors (fairies) sleeping. That artistic space and artistic time uniquely contribute to creating the aesthetic lyrical tone of the poem Uncle Won't Sleep Tonight. The author has used narrative language, descriptive language, character language, and lyrical commentary blended in simple, concise, seamless, and loving five-word poems. The image of Uncle Ho is portrayed very clearly through the soul of the soldier. The relationship between leaders and soldiers became that of uncle - nephew, father - son. To Huu once wrote: People are Father, Uncle, Brother - A big heart filters hundreds of small blood streams (May Morning), here Minh Hue felt: Father with silver hair Light a fire for him to lie down on Then Uncle went to bed One by one I'm afraid my nephew will startle me. Uncle gently tiptoed... The act of lighting the fire, the act of picking up the blanket, the gentle tiptoe gesture - demonstrated the loving care of the silver-haired Father towards each soldier like the love between father and son, the love between grandfather and grandchild. The team member was dreamy in a moment of magical happiness. The poetry is both real and dreamy, full of impressions: The team member was dreamy as if in a dream. Outside, it was raining and cold. In the shabby roof of the tent, all night quietly beside the fire - Uncle Ho's face was pensive. Uncle still sits... Uncle still doesn't sleep, Chi worries about everything like a mother's heart... (To Huu). How great and warm you are! A very beautiful, very poetic comparison praising Ho Chi Minh's leisurely love: Uncle Ho's shadow is tall and majestic Warmer than a red fire. The poetic situation is pushed to a climax. Che Lan Vien in The Man Who Looks for the Image of the Country once wrote: I understand why the leader's heart is exhausted... The same goes for the team member, he doesn't understand why Uncle Ho is so sleepy tonight. Hearing Uncle Ho's words, the team member was extremely happy. The leader's kindness enlightened the young soldier's soul: Uncle loves the civil union Tonight sleep in the forest Scatter leaves to make mats, cover clothes to make blankets. It's raining heavily. How can you avoid getting wet? The more you hurt, the more impatient you become I hope the sky will brighten soon... In the poem Uncle Won't Sleep Tonight, Minh Hue created some very specific and typical artistic details about Uncle Ho's hair, beard, fire, shadow, pensive expression, actions and gestures. pointing (lighting a fire, lifting a blanket, tiptoeing...) to highlight and praise the immense love of beloved Uncle Ho. The beard is an intimate drawing of the leader's portrait, evoking closeness, intimacy, nobility and sacredness: Uncle still sat in disbelief The beard was silent. Next to the image of Uncle Ho is the image of a soldier, expressed quite beautifully by the poet. He suddenly woke up in the middle of the night, and suddenly thought: But why are you still sitting - Uncle won't sleep tonight. Loving Uncle, he softly said: Uncle! Are you not sleeping yet? – Are you very cold? He was restless and worried: I'm worried about Uncle getting sick... The team member's feelings developed over the course of the late night: The team member wake up - I see it's very late... Third time waking up... The young soldier insisted, earnestly: Please sleep, Uncle! It's almost dawn Uncle! Please sleep! Listening to Uncle Ho talk about love and worry,... the team member was extremely happy because he understood the heart and greatness of the leader: Immense joy I always stay up with Uncle. Through the image of a soldier, Minh Hue sincerely and touchingly expressed the love and respect of compatriots and soldiers for the great President Ho. Tonight Uncle Won't Sleep Forever is a song that touches the hearts of millions of people. Two characters, two souls in common, blended in one great love: "love of country, love of people". The colors of folk songs combined with the magical fairy tale atmosphere create the unique beauty of the poem. The scene of the dark, rainy night forest, the red fire, the silver hair, and the silent beard are four impressive drawings of Uncle Ho and his patriotism and love for the people.
Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh Bài làm Côn Đảo trước kia được coi là “địa ngục trần gian”, nơi thực dân Pháp cho xây dựng những nhà tù giam cầm các chiến sĩ yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được sáng tác khi nhà yêu nước Phan Chu Trinh bị bắt và giam cầm ở nơi đây. Bài thơ toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ kiên trung dù bị đày ải, khổ sai nhưng vẫn mang dáng vẻ chí khí, bất khuất trước kẻ thù. Ngay từ những câu thơ đầu bài thơ, Phan Chu Trinh đã làm hiện lên hình ảnh một người anh hùng hiên ngang giữa đảo xa: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn Lừng lẫy làm cho lở núi non Ông thể hiện niềm tự hào được “làm trai” – một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất, mạnh mẽ, dũng mãnh và được rạng danh tiếng tăm – “lừng lẫy” giữa đời. Mang sức mạnh của một thanh niên trai trẻ, những công việc khổ sai cũng trở nên quá đỗi tầm thường: Xách búa đánh tan năm bảy đống Ra tay đập bể mấy trăm hòn “Xách búa”, “đánh tan”, “đạp bể” – động từ mạnh, dứt khoát, thể hiện một sức mạnh ghê gớm, tạo cho người tù yêu nước một tư thế ngạo nghễ hiên ngang. Công việc đập đá tưởng chừng như nặng nề, vất vả mà lại quá đỗi nhạ nhàng với người tù yêu nước. Thời gian sống trong tù tôi luyện thân thể họ, những khó khăn, thử thách lại càng làm ý chí của họ thêm vững vàng: Mưa nắng càng bền dạ sắt son Ông bày tỏ quan điểm cá nhân: Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan chi kể việc con con Mượn câu chuyện thần thoại Nữ Oa đội đá vá trời, Phan Chu Trinh nói lên cái chí lớn của đời mình: tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đối với ông, đập đã cũng chỉ là một “việc con con”, còn theo đuổi hoài bão mới thực sự là hành trình gian nan và thử thách. Ông coi thường những vất vả, nhọc nhằn trước mắt để giữ ý chí vững bền và hiên ngang trước kẻ thù. “Đập đá ở Côn Lôn” – nhan đề bài thơ là về chuyện đập đá nhưng ý thơ không chỉ đơn giản là những cực nhọc trong cảnh tù đầy. Toàn bài thơ hiện lên hình ảnh người tù yêu nước cao lớn sừng sững, đứng hiên ngang giữa đất trờ, bất chấp mọi gian khổ để đi theo tiếng gọi của lý tưởng. Đó chính là tư thế hiên ngang của người anh hung Việt Nam trong những năm chiến đấu vì tự do, độc lập của nước nhà.
Comments on the poem Breaking Stones in Con Lon by Phan Chu Trinh Instruct Comments on the poem Breaking Stones in Con Lon by Phan Chu Trinh Assignment Con Dao was previously considered "hell on earth", where the French colonialists built prisons to imprison patriotic soldiers. The poem "Smashing Stone in Kunlun" was composed when patriot Phan Chu Trinh was arrested and imprisoned here. The poem exudes the beauty of a steadfast soldier who, despite being exiled and suffering hardship, still has a spirit of courage and indomitableness before the enemy. Right from the first verses of the poem, Phan Chu Trinh creates the image of a hero standing tall on a remote island: Being a boy standing in the middle of Kunlun land The brilliance causes mountains to collapse He expressed his pride in being "a boy" - a man with his head in the sky and his feet on the ground, strong, courageous and famous - "famous" in life. With the strength of a young man, the hard work becomes too trivial: Carry a hammer and smash five or seven piles He broke several hundred stones “Carry the hammer”, “smash it”, “break it” - strong, decisive verbs, expressing a formidable strength, giving the patriotic prisoner an arrogant and proud posture. The work of breaking rocks seemed heavy and arduous, but it was too gentle for the patriotic prisoner. The time spent in prison trained their bodies, and the difficulties and challenges made their will even stronger: Rain and shine make us more resilient He expressed his personal opinion: Those who patch up the sky when they miss a step Difficulties don't matter to children Borrowing the myth of Nu Oa wearing a stone and patching the sky, Phan Chu Trinh expressed his life's great ambition: to find a way to save the country and liberate the people. For him, damming is just a "little thing", but pursuing his ambition is truly a arduous and challenging journey. He despised the hardships and hardships before him to keep his will strong and stand tall before his enemies. “Stone Breaking in Kunlun” – the title of the poem is about stone breaking, but the meaning of the poem is not simply the hardships of imprisonment. The entire poem shows the image of a tall and towering patriotic prisoner, standing bravely in the sky, despite all hardships to follow the call of ideals. That is the proud posture of the Vietnamese hero during the years of fighting for the freedom and independence of his country.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh Bài làm Phan Châu Trinh là một nhà thơ, nhà chính trị cách mạng lỗi lạc của dân tộc ta. Tác phẩm “Đập đá ở Côn Lôn” tái hiện hình ảnh những người tù cách mạng bị tù khổ sai, phải làm những công việc vô cùng nặng nhọc như đập đá, vác đá, ở vùng đảo Côn Lôn. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy tinh thần cách mạng, ý chí của người chiến sĩ không bao giờ lung lay, lùi bước. Họ vẫn lạc quan yêu đời dù trong khó khăn thử thách. Hình ảnh những người chiến sĩ cách mạng anh hùng dù bị gông cùm, xiềng xích nhưng vẫn ngẩng cao đầu, thể hiện khí thế hiên ngang niềm tin vào tương lai của dân tộc. Những người tù bị tra tấn, đánh đập dã man nhưng họ vẫn cất lời hát ngợi ca quê hương đất nước Khi nói đến hòn đảo Côn Lôn, chúng ta đều liên tưởng ngay tới nhà tù Côn Đảo nơi đã giam giữ, tra tấn rất nhiều chiến sĩ cách mạng lừng lẫy của nhân dân ta. Nơi mà máu của những người chiến sĩ này rơi xuống để mở ra cánh cửa hòa bình độc lập dân tộc. Trong những câu thơ đầu tiên thể hiện ý chí làm trai sống phải ngẩng cao đầu, hiên ngang đầu đội trời, chân đạp đất: Lừng lẫy làm cho lở núi non Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật hiên ngang, trong tư thế vươn cao thẳng người, ưỡn ngực không khúm núm, không cong lưng uốn gối. Dù cuộc sống ở Côn Đảo vô cùng khổ sở, bị tra tấn một cách dã man nhưng các chiến sĩ của chúng ta không hề nao núng, Hành động những người tù khổ sai phải “đập đá” được tác giả Phan Châu Trinh thể hiện vô cùng sinh động, chân thực, nhưng không kém phần anh hùng, khí thế. Câu thơ có nhịp nhanh thể hiện khí thế oai hùng hào sảng của người chiến sĩ: “Xách búa đánh tan năm bảy đống Ra tay đập bể mấy trăm hòn” Những hành động mạnh mẽ xuất hiện liên tục trong hai câu thơ thể hiện sự anh hùng, dứt khoát, mạnh bạo của người tù cách mạng trong công việc khổ sai là đập đá hàng ngày của mình. Tác giả đã khôn khéo tinh tế khi sử dụng hình ảnh ước lệ tương phản giữa số ít “năm bẩy đống” với số nhiều “Mấy trăm hòn” để nêu lên công việc nặng nhọc, khối lượng vô cùng nhiều của người tù cách mạng phải làm “Tháng ngày bao quản thân sành sỏi Mưa nắng càng bền dạ sắt son Giữa nơi hoang sơ, xung quanh chỉ toàn là roi vọt, phải làm việc và đối xử như trâu như ngựa nhưng những người chiến sĩ vẫn hiên ngang không hề e ngại, vẫn tỏ rõ được khí chất của mình. Trong hoàn cảnh khó khăn họ càng thể hiện rõ tinh thần quyết tâm theo cách mạng của mình. “Những kẻ vá trời khi lỡ bước Gian nan chi kể việc con con” Hành động đội đá vá trời của nàng nữ oa xưa đã khiến cho những người chiến sĩ hôm nay thấy mình cũng đang giống như bà Nữ Oa xưa, cũng đang đập đã để vá trời. Hai từ ” lỡ bước” thể hiện sự sa cơ, khi chẳng may bị bắt bớ tù đầy nhưng cũng không làm lung lay ý chí kẻ anh hùng. Cho nên dù có khó khăn, nhưng cũng chẳng xá chi, với những người luôn có ý chí, vượt mọi khó khăn thử thách thì việc này chỉ là hành động cỏn con mà thôi. Một khí chất ngang tàng, một châm ngôn bất hủ khiến người đọc vô cùng nể phục, ngưỡng mộ ý chí sắt đá của những người chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được tác giả viết bằng ngòi bút khoáng đạt, lời thơ vô cùng khí thế, hào hùng thể hiện hình ảnh người chiến sĩ cách mạng hiên ngang, ý chí kiên định, không hề bị khó khăn, đòn roi làm cho lung lay tinh thần cách mạng, tinh thần yêu nước. Trong lòng họ ngọn lửa căm thù, chống giặc ngoại xâm thống nhất đất nước, làm cho đất nước bình yên, sạch bóng quân thù lớn lao hơn tất cả. Nên mọi gian nguy, khó khăn chỉ là những hạt cát vô cùng bé nhỏ.
Topic: Feelings about the poem "Smashing rocks in Kunlun" by Phan Chau Trinh Assignment Phan Chau Trinh is a prominent poet and revolutionary politician of our nation. The work "Stone Breaking in Kunlun" recreates the image of revolutionary prisoners being imprisoned with hard labor, having to do extremely heavy work such as breaking rocks and carrying rocks, on the island of Kunlun. However, in those difficult circumstances, the revolutionary spirit and the will of the soldiers never wavered or backed down. They are still optimistic and love life even in difficult times. The image of heroic revolutionary soldiers, despite being shackled and chained, still held their heads high, expressing their courageous belief in the future of the nation. The prisoners were tortured and brutally beaten, but they still sang and praised their homeland When talking about Con Lon island, we immediately think of Con Dao prison, where many famous revolutionary soldiers of our people were detained and tortured. The place where the blood of these soldiers fell opened the door to peace and national independence. In the first verses, the will to live as a man is expressed with one's head held high, one's head held high in the sky and one's feet on the ground: The brilliance causes mountains to collapse The image of the revolutionary soldier appears very proud, in a tall and straight posture, with his chest out, not obsequious, without bending his back or bending his knees. Although life in Con Dao was extremely miserable and brutally tortured, our soldiers did not waver. The actions of hard-working prisoners having to "break rocks" are shown by author Phan Chau Trinh extremely vividly and realistically, but no less heroic and powerful. The fast-paced poem shows the brave and heroic spirit of the soldier: “Carry a hammer and smash five or seven piles Break hundreds of stones." The strong actions that appear continuously in the two verses show the heroism, determination, and strength of the revolutionary prisoner in his daily hard work of breaking rocks. The author has cleverly used the conventional image to contrast the singular "five or seven piles" with the plural "several hundred stones" to highlight the heavy work and immense amount of work of revolutionary prisoners. must do “Every day, I am surrounded by sophisticated people Rain and shine make us more resilient In the middle of a wild place, surrounded only by whips and whips, having to work and be treated like buffaloes and horses, the soldiers still stand tall and are not afraid, still showing their temperament. In difficult circumstances, they further demonstrated their determination to follow the revolution. “Those who patch up the sky when they miss a step Difficulties are nothing to do with children" The ancient Nu Oa's action of wearing stones to patch the sky has made today's soldiers see that they are just like the ancient Nu Wa, also smashing stones to patch the sky. The two words "missing a step" represent failure, when unfortunately being arrested and imprisoned, but it does not shake the hero's will. So even though it's difficult, it's okay. For those who always have the will and overcome all difficulties and challenges, this is just a small action. An unruly temperament and an immortal motto make readers deeply respect and admire the iron will of the revolutionary soldiers in Con Dao. The poem "Smashing Stone in Kunlun" was written by the author with a generous pen, the lyrics are extremely spirited and heroic, expressing the image of a revolutionary soldier who is courageous, steadfast in his will, and not facing any difficulties. , the whip shook the revolutionary spirit and patriotic spirit. In their hearts, the fire of hatred, fighting against foreign invaders, unifying the country, making the country peaceful and clear of enemies is greater than anything. So all dangers and difficulties are just extremely small grains of sand.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du Bài làm Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư (Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi Trước song một mình nhớ tới người xưa qua một tờ giấy viết). Câu thơ mở đầu như một tiếng thở dài não ruột. Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tận” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đối hết không còn một dấu vết gì nữa. Chứng thực một không gian đẹp là khoảng đất bên Tây Hồ, để đối chứng quá khứ vàng son với hiện tại hủy diệt, Nguyễn Du đã nhìn thấy cuộc thương hải tang điền trong chớp mắt “Trải qua một cuộc bể dâu”, “Thế gian biến cải vũng nên đồi”,một con người được ghi ở một tờ giấy viết thật mong manh. Tờ giấy viết đây chính là bài “kí” có khoảng 2300 chữ ghi lại chuyện Tiểu Thanh của người đời sau. Nếu vườn hoa đã tận thành gò hoang là chứng tích của một thời thì mảnh giấy này là chứng tích còn sót lại của một đời người. Một oan hồn thông khổ trong hành lang hun hút của thời gian ba trăm năm trước. (Theo trong bài kí thì Tiểu Thanh chết 1492 và Nguyễn Du đi sứ nhớ tới nàng, khóc nàng năm 1813 nghĩa là hơn 300 năm). Cái nhìn trầm ngâm của Nguyễn Du về cuộc bể dâu của sự vật và cái lẻ nhân sinh của kiếp người sao mà cô đơn đến thế. Cái đẹp bị hủy hoại cùng triệt, dòng thời gian cứ chảy vô tình. Cái lẻ loi và đơn độc của Nguyền Du không chỉ hiện hình ở cái cảnh buổi chiều tàn bên song cửa sổ, ngồi dọc chuyện buồn mà còn thể hiện ở hai chữ “độc” và “nhất” đó. Hai câu thực: Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư. (Son phấn có thần sắc chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết). Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở Trong truyện Tiểu Thanh kí tác giả kể, trước khi chết, Tiểu Thanh thuê họa sĩ vẽ chân dung mình. Bức hình thứ nhất nàng chê có hình tự mà không có thần, bức thứ hai có thần nhưng phong thái khô cứng, gò bó. Sang bức thứ ba nàng khen vừa có hình, có thần, lại dịu dàng yểu điệu. Tiểu Thanh treo bức hình mình lên tế rồi khóc đến chết. Người chồng nghe tin chạy đến nhìn sắc mặt vợ và bức tranh thấy như người còn sống thương tiếc và khóc lóc. Lúc vợ cả cái nạp tranh và thơ, người chồng chỉ nạp thơ và bức tranh thứ nhất. Do đó, Nguyễn Du đã viết rất thực tế để tả cái oan trong đời Tiểu Thanh. Sắc là thế nhưng chết rồi mới được chồng đoái thương, văn chương là thế mà cũng bị đốt, may còn sót lại mấy bài. Ý nghĩa của hai câu thực còn chìm ấn bên trong tính chất luận. Bề ngoài thì Nguyễn Du dã nắm bắt hai chi tiết có thần nhất để làm nổi bật cốt truyện, nhưng bên trong thì nói lại một quan điểm. Dù có bị những lực lượng hắc ám phũ phàng tận diệt thì nhan sắc của giai nhân, tài hoa của con người không dễ gì bị tiêu diệt. Qui luật vô hình vẫn dành cho nó những cơ may để tồn tại. Nó không chết, nó vẫn cùng cây đời mãi mãi xanh tươi. Tuy nhiên, để tồn tại sắc tài vẫn phải vật vã và trầm luân đau khổ lắm! Nếu như bốn câu trên có phần “hướng ngoại”, quan tâm tới câu chuyện Tiểu Thanh thì bốn câu sau tác giả suy ngẫm về mình. Cảm hứng bốn câu trên nằm trong cảm hứng chung của Nguyễn Du về sự thương xót và ngưỡng mộ những tài tử giai nhân: “Sắc tài sao mà chịu kiếp truân chuyên”. Bốn câu sau “hướng nội”. “Trông người lại ngẫm đến ta”, cảm xúc chủ đạo ỡ đây là sự cô độc tuyệt đối của Nguyễn Tiên Điền! Hai câu luận: Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư. (Những việc tiếc hận ngày xưa không hỏi trời Ta tự ở vào cái oan kì lạ của phong vận) Ở đây ta nên hiểu “hận sự” đó là những việc không hài lòng một cách sâu sắc có thể để hối tiếc mãi. Nó không phải là “thù hận” mà là “tiếc hận”. Vì thế nghĩa hàm ẩn của nó là: “Những việc tiếc hận xưa nay không thể truy tìm được nguyên nhân”. Ta nên lưu ý các nhà Nho không oán người, không trách trời, nên không thể coi đây là lời chỉ trích oán hận trời. “Phong vận” là từ nói tắt của “lưu phong dư vận” nghĩa là gió thổi nước trôi, biểu hiện sự hài hòa rất mực, biểu hiện của tài tình, của bất diệt. Những kẻ “phong vận” thường có con đường hạnh phúc may mắn vạch ra phía trước, họ phong lưu tức họ bất diệt. Thế nhưng sao ở ta, ở số kiếp bao nhiêu người mà ta chứng kiến thì những người ấy thường gặp oan trái kì lạ khó hỏi trời. Các quy luật đã bị lộn ngược oái oăm đến mức không thể giải thích. Nghĩa hàm ẩn của câu này là: Những kẻ phong vận tài tình bị oan trái thì thông cảm được với nhau. Ta thấy mình cũng chịu nỗi oan kì lạ như người phong vận đấy (Người thơ phong vận như thơ ấy). Nguyễn Du đã xếp mình đồng hội đồng thuyền với những số kiếp tài hoa bạc mệnh. Ông không lí giải được tại sao đời mình lại gặp nhiều trầm kha oán trái thế: “Tráng niên ngã dực vi tài giả” (Thời trẻ ta cũng là kè có tài mà). Ý thức được mình như thế, để hôm nay ngậm ngùi ngơ ngác hỏi vào thinh không. Thế mà sao ta cứ như những người phong vận mắc nỗi oan lạ lùng? Các câu thơ thúc ép nhau để rồi “thiên nan vấn”. Câu hỏi ấy va đập vào cái vô hình tạo thành một nỗi đau thấm đến gan ruột. Hai câu kết: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa Người đời ai nhỏ nước mắt khóc cho Tố Như chăng?) Người xưa cho rằng những kẻ đồng thanh thì tương ứng, đồng khí thì sẽ gặp nhau. Vì thế chỉ cần Kiều tỏ lòng thành với Đạm Tiên: “Chớ nề u hiển mới là chị em”, thì: “Phút đâu ngọn gió cuốn cờ đến ngay”. Con người “đồng khí” thường tái sinh và gặp nhau ở tương lai. Nguyễn Du sống sau Tiểu Thanh hơn ba trăm năm, ông hiểu và đống nỗi oan kì lạ như Tiểu Thanh nên ông khóc nàng. Chẳng biết sau khi ta nhắm mắt ai là kẻ đồng oan khóc ta? (Hôm nay em khóc chị, ngày mai ai khóc em?). Nguyễn Du quả nhắm mắt không yên khi không biết tương lai có ai hiểu ông không? Niềm khắc khoải ấy lại là một sự tiên cảm của thiên tài; ông mong chờ một tấm lòng hô ứng nhưng chỉ mới hai trăm năm trôi qua Nguyễn Du đã được đánh giá là đại thi hào dân tộc: Tiếng tha ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày (Tố Hữu – Kính gửi cụ Nguyễn Du) Con cháu của Nguyễn đã khóc Nguyễn thực lòng. Đã “khấp” tức là nhỏ nước mắt chân thành chứ không phải “khốc” tức là khóc to lên, nhiều lúc không cần nước mắt.
Topic: Feelings about the poem Reading Tieu Thanh Ky by Nguyen Du Assignment Tay Ho's flowers fade into ruins Single cigarette, but most money, only letter (The flower garden by Tay Ho has become a wasteland Before, I was alone, remembering the past through a piece of paper). The poem begins like a deep sigh. Tay Ho space is still here, the campus of a flower garden with beautiful flowers is no longer there. The flower garden has become a deserted mound, the deserted mound has replaced the flower garden. The "existence" has become nothingness, the "beauty" has been replaced by "ruin" and destruction. The word “end” carries an absolute negative meaning; It's all changed and there's no trace left. Attesting to a beautiful space is the land next to Tay Ho, to contrast the golden past with the destructive present, Nguyen Du saw the trade and funeral fields in the blink of an eye, "Going through a storm", "The world". Time transforms the valley into the hills", a person wrote on a very fragile piece of paper. This piece of paper is a "memorandum" with about 2,300 words recording Tieu Thanh's story from later generations. If the flower garden that has turned into an abandoned mound is the evidence of a time, then this piece of paper is the remaining evidence of a person's life. An unjust soul suffering in the long corridor of time three hundred years ago. (According to the memoir, Tieu Thanh died in 1492 and Nguyen Du went on a mission to remember her. He cried for her in 1813, meaning more than 300 years). Nguyen Du's pensive look at the chaos of things and the oddness of human life is so lonely. Beauty is completely destroyed, time flows indifferently. The loneliness and loneliness of Nguyen Du is not only shown in the late afternoon scene by the window, sitting along the sad story, but also shown in those two words "unique" and "unique". Two real sentences: The godly lotus pollen is the post-mortem Literature has no residue. (If you have a beautiful face, you must be saddened by what happened after death). Literature has no destiny but is also burned unfinished In the story Tieu Thanh Ky, the author tells that before he died, Tieu Thanh hired an artist to paint his portrait. The first picture she criticized had a figure but no spirit, the second picture had a spirit but the style was dry and restrained. In the third picture, she praised it for its image, spirit, and gentleness. Tieu Thanh hung a picture of herself and cried to death. When the husband heard the news, he ran to look at his wife's face and saw the picture as if she were still alive, mourning and crying. When the first wife submitted paintings and poems, the husband only submitted poems and the first painting. Therefore, Nguyen Du wrote very realistically to describe the injustice in Tieu Thanh's life. She was beautiful, but only after she died did she receive her husband's sympathy. Literature was like that but was also burned, but luckily a few articles remained. The meaning of the two sentences is still hidden within the argument. On the outside, Nguyen Du captures the two most magical details to highlight the plot, but on the inside, he reiterates a point of view. Even if destroyed by cruel dark forces, the beauty of beautiful women and human talent cannot be easily destroyed. Invisible rules still give it opportunities to exist. It does not die, it remains green with the tree of life forever. However, to survive, you still have to struggle and suffer a lot! If the four sentences above are somewhat "extroverted" and concerned with Tieu Thanh's story, then in the following four sentences the author reflects on himself. The inspiration for the above four sentences lies in Nguyen Du's general inspiration of pity and admiration for beautiful actors and actresses: "How can beauty and talent lead to hardships?" The following four sentences “look inward”. "Seeing you think of me", the main emotion here is Nguyen Tien Dien's absolute loneliness! Two arguments: Ancient and modern people hate the problem Interview self settled down for an injustice. (The regrets of the past don't ask God I find myself in a strange injustice of fate.) Here we should understand "hate" as deeply unsatisfying things that can be regretted forever. It is not “hatred” but “regret”. Therefore, its implicit meaning is: "The causes of past regrets cannot be traced." We should note that Confucians do not resent people or blame heaven, so we cannot consider this as criticism of resentment against heaven. "Phong Phuc" is an abbreviation for "Luu Phong Du Van" meaning the wind blows the water, showing great harmony, ingenuity, and immortality. Those who are "lucky" often have a path of happiness and luck laid out before them. They are prosperous, meaning they are immortal. But why in us, in the lives of so many people we witness, those people often encounter strange injustices that are difficult to ask God. The rules have been turned upside down to the point of being inexplicable. The hidden meaning of this sentence is: Talented people who are unjustly wronged can sympathize with each other. I see that I also suffer the same strange injustice as that lucky person (Poets are as lucky as poetry). Nguyen Du has put himself in the same boat as other talented and unfortunate people. He couldn't explain why his life had so many sorrows and resentments: "When I was young, I was a talented person" (When I was young, I was also talented). Realizing that I am like that, today I feel sad and bewildered and ask into the void. But why are we like those with good fortune who suffer from a strange injustice? The verses push each other and then become "difficult". That question collided with the invisible, creating a pain that penetrated to the gut. Two concluding sentences: Not knowing the three hundred years after People in the world crave To Nhu? (I don't know three hundred years or so Who in the world shed tears for To Nhu?) The ancients believed that those who agreed were compatible, and those who were of the same spirit would meet each other. Therefore, Kieu only needs to show her sincerity to Dam Tien: "Don't let it be obvious that you are a sister", then: "The moment the wind carries the flag, it will come." People "of the same spirit" often reincarnate and meet each other in the future. Nguyen Du lived more than three hundred years after Tieu Thanh. He understood Tieu Thanh's strange injustice, so he cried for her. I don't know who will blame me after I close my eyes? (Today I cry for you, tomorrow who will cry for you?). Nguyen Du really closes his eyes in peace when he doesn't know if anyone will understand him in the future? That restlessness is a premonition of genius; He expected a response, but only two hundred years had passed and Nguyen Du was considered a great national poet: The sound of forgiveness shakes heaven and earth It sounds like mountains and rivers echoing eternal words Thousands of years from now, remember Nguyen Du The voice of love is like a mother's lullaby during the day (To Huu – Dear Mr. Nguyen Du) Nguyen's descendants truly cried for Nguyen. "Crying" means shedding sincere tears, not "crying" means crying loudly, sometimes there is no need for tears.
Cảm nhận về bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi. Hướng dẫn Cảm nhận về bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi( 1380-1442) là nhân vật lịch sử vĩ đại, là thiên tài trong quá khứ. Ông xứng đáng là người con ưu tú của dân tộc kể từ khi lập quốc. Về mặt văn học, Nguyễn Trãi là tác giả có vị trí lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam.Ông không chỉ là tác giả của những áng hùng văn “ có sức mạnh bằng mười vạn quân” ( Bình Ngô đại cáo, quân trung từ mệnh tập) mà còn là tác giả của những bài thơ Nôm chứa chan cảm xúc, tình yêu nhiên nhiên, cuộc sống, nặng lòng với đất nước, nhân dân. Tập thơ Nôm “ Quốc âm thi tập” của ông gồm 254 bài, là tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn, đánh dấu bước phát triển của văn học chữ Nôm trong văn học trung đại. Cảnh ngày hè thuộc “ bảo kính cảnh giới” đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và lý tưởng của Nguyễn Trãi,dành tình yêu cho thiên nhiên, cuộc sống, con người và vươn tới khát vọng hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân. Bài thơ mở ra bằng hình ảnh của một bức tranh nhiên nhiên, cuộc sống rực rỡ sắc màu: “ Rồi hóng mát thủa ngày trường Hoè lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương” Câu thơ đầu đã thể hiên khá đầy đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Tác giả gợi ra sự nhàn rỗi ngồi hóng mát và nét đặc trưng của ngày hè. Một ngày rảnh rỗi,khí trời mát mẻ, trong lành khiến cho tâm hồn con người trở nên thư thái, thanh thản. Đó là điều kiện lý tưởng để Nguyễn Trãi làm thơ và đắm mình vào cảnh sắc thiên nhiên. Nguyễn Trãi đã mở rộng hồn thơ, huy động nhiều giác quan và sự liên tưởng để cảm nhận, diễn tả vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và cảnh ngày hè chân thực, sinh động, tràn đầy sức sống, vừa dân dã, giản dị, vừa gợi cảm. Điều đó cho thấy sự tinh tế, nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của ông. “Hoè lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương” Một thiên nhiên căng tràn, dồi dào sức sống được thể hiện qua độ rực rỡ của lá hoa, sắc màu. Màu xanh của tán lá hoè cứ đùn đùn tuôn, hình như lan rộng mãi ra thành bóng mát che rợp một khoảng sân rộng. Hoa sen hồng trong ao đã lan toả ngát hương. Sắc xanh của lá, sắc hồng của hoa hoà với mùi hương, với âm thanh (lao xao, dắng dỏi) tiếng người trò chuyện xa xa, con người và cảnh vật như hoà vào nhau. Các từ ngữ giàu tính tạo hình: “ đùn đùn, phun, tiễn” khiến cảnh vật trở nên sống động, có hồn. Đồng thời,mật độ dày đặc của các trạng thái cộng hưởng với độ gay gắt của gam màu nóng làm dậy lên sức sống của thiên nhiên mạnh mẽ, căng tràn. Thi nhân đón nhận ra giao cảm với cảnh vật bằng mọi giác quan. Bức tranh chiều hè ở một làng đánh cá hiện lên thật chân thực và sinh động qua cảm nhận thanh thản của một ông già đang nhàn rỗi trong thời gian ở ẩn. Mùa hè hiện lên không chỉ với cảnh sắc mà với cả những âm thanh rất đỗi gần gũi, thân thuộc. Âm thanh “ lao xao chợ cá” gợi sự vui vẻ, yên bình, no đủ trong cuộc sống thường nhật nơi làng quê. Tiếng ve “ dắng dỏi” như bản nhạc gọi hè, xua tan không khí quạnh hiu của buổi chiều tà. Âm thanh vui vẻ, rộn rã ấy khiến lòng người trở nên thanh thản, yên bình. Bức tranh nhiên nhiên ngày hè rất sinh động và giàu sức sống. Tuy là buổi chiều cuối ngày nhưng cuộc sống vẫn chưa ngừng lại. Có một cái gì đó thôi thúc từ bên trong ứa căng, tràn đầy, không kìm lại được, phải giương ra, đùn ra, phun ra… hết lớp này đến lớp khác. Cuộc sống vẫn luôn cựa quậy, vận động không ngừng. Nếu trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Nguyễn Du viết “ đầu tường lửa lựu tập loè đơm bông” là thiên về màu sắc, thì ở câu thơ tả sen hồng, hoè xanh của Nguyễn Trãi lại thiên về sức sống của cảnh vật, nhiên nhiên. Cách ngắt nhịp ¾ khá mới mẻ đã gây ấn tượng là sự chú ý cho người đọc làm nổi bật cảnh chiều hè. Nét đặc sắc của bức tranh nhiên nhiên chiều hè còn thể hiện sự đồng cảm, giao cảm giữa con người và cảnh vật, qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi. Là một nhà chính trị, một nhà văn, sâu thẳm tâm hồn Nguyễn Trãi luôn mang nặng nỗi lo cho đất nước, nhân dân. Nguyễn Trãi yêu nhiên nhiên nhưng trên hết tấm lòng ông thiết tha với con người, với dân, với nước. Từ cảm giác thanh bình, no ấm của cảnh ngày hè đã dấy lên một khao khát có cây đàn của vua Ngu Thuấn để đàn khúc Nam Phong khiến cho mưa thuận gió hoà, nhân nhân no đủ. Dân giàu đủ khắp đòi phương” Nguyễn Trãi hiếm khi có giây phút thư nhàn, thanh thản. Nhưng ở trong bài thơ này, ông có cả một ngày trường thưởng thức thiên nhiên với tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở giày vò tâm can ông, mục đích lớn nhất đời ông đã được hiện thực: nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó là khát vọng cao cả, đẹp đẽ của một con người hết lòng vì dân, vì nước. Câu cuối khép lại với âm điệu, gieo nhịp 2/2/2 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của toàn bài. Bộc lộ khát khao về cuộc sống thái bình cho nhân dân. Nguyễn Trãi là một thiên tài tầm cỡ như một cây đại thụ văn hoá toả bóng mát xuống nhiều thế hệ sau của nước Đại Việt. Bài thơ cảnh ngày hè cho ta thấy một Nguyễn Trãi vừa có tài, vừa có tâm. Ông miêu tả một cách đặc sắc về cảnh sắc thiên nhiên mùa hè thanh cao, tràn đầy sức sống ở cả nội dung và nghệ thuật. Tâm hồn yêu nhiên nhiên, cuộc sống, con người vẫn luôn thường trực trong lòng thi nhân. Trong bất cứ hoàn cảnh nào Nguyễn Trãi cũng canh cánh bên lòng nỗi niềm ưu ái đối với dân, với nước.
Comments on the poem "Summer Day Scene" by Nguyen Trai. Instruct Comments on the poem "Summer Day Scene" by Nguyen Trai. Nguyen Trai (1380-1442) is a great historical figure and a genius in the past. He deserves to be an outstanding son of the nation since the founding of the country. In terms of literature, Nguyen Trai is an author with a great position in Vietnamese medieval literature. He is not only the author of heroic works "with the power of 100,000 soldiers" (Binh Ngo Dai Cao, Quan Trung Tu Menh Tap) but also the author of Nom poems filled with emotions, natural love, life, and a heavy heart for the country and people. His collection of Nom poetry "Quoc am thi tap" includes 254 poems, is the earliest extant collection of Nom poetry, marking the development of Nom literature in medieval literature. The summer scene of the "protected realm" shows the beauty of Nguyen Trai's soul and ideals, his love for nature, life, people and his desire for peace and happiness for the people. The poem opens with the image of a picture of nature and colorful life: “Then enjoy the fresh air during school days Green flowers spread out and spread out Pomegranate jelly still sprays red The red lotus tree has sent away the scent." The first verse shows quite fully the time, circumstances, and mood of the poet. The author evokes the idleness of sitting in the cool air and the characteristics of summer days. A free day, the cool and fresh air makes the human soul relaxed and at peace. Those are ideal conditions for Nguyen Trai to write poetry and immerse himself in natural scenery. Nguyen Trai has expanded his poetic soul, mobilizing many senses and associations to feel and express the beauty of the picture of nature, life and summer scenes that are realistic, vivid, full of vitality, and yet popular. Wild, simple, yet sexy. That shows his sophistication, sensitivity, love of nature, and love of life. “The green trees are filled with trees and flowers Pomegranate jelly still sprays red The red lotus tree has sent away the scent." A nature full of vitality is expressed through the brilliance of leaves, flowers and colors. The green color of the foliage kept spreading, seemingly spreading forever, forming a shade that covered a large yard. The pink lotus in the pond has spread its fragrance. The green of the leaves and the pink of the flowers blend with the scent, with the sounds (loud, loud) of people talking in the distance, people and the landscape seem to blend together. The words rich in shaping: "extrusion, spray, send" make the scene come alive and soulful. At the same time, the dense density of the states resonates with the harshness of the hot color scheme, arousing the vitality of strong, overflowing nature. The poet recognizes and communicates with the scene with all senses. The picture of a summer afternoon in a fishing village appears realistically and vividly through the peaceful feelings of an old man idle during his time in hiding. Summer appears not only with scenery but also with very close and familiar sounds. The sound of "crowding at the fish market" evokes joy, peace, and fullness in daily life in the countryside. The "loud" sound of cicadas is like summer music, dispelling the lonely atmosphere of the late afternoon. That happy, bustling sound makes people's hearts become serene and peaceful. The natural picture of a summer day is very vivid and rich in vitality. Although it is the last afternoon of the day, life has not stopped. There is an urge from inside to overflow, to overflow, to be unable to hold back, to stretch out, extrude, squirt out... layer after layer. Life is always stirring, constantly moving. If in Nguyen Du's story Kieu, Nguyen Du writes "the tip of the pomegranate wall of fire gathers to bloom" which is more about color, then in Nguyen Trai's poem describing pink and green lotus, it is more about the vitality of the scene, of course. course. The rather new ¾ rhythm beat impresses the reader's attention, highlighting the summer afternoon scene. The unique feature of the natural summer afternoon painting also shows sympathy and communion between people and the landscape, thereby expressing the beauty of Nguyen Trai's soul. As a politician and writer, deep in Nguyen Trai's soul he always carries heavy worries for the country and its people. Nguyen Trai loves nature, but above all, his heart is passionate about people, the people, and the country. From the feeling of peace and prosperity of the summer scene, a desire arose to have King Ngu Thuan's instrument to play the Nam Phong song to bring good weather and good weather, and enough people. Rich people everywhere demand direction." Nguyen Trai rarely has moments of leisure and serenity. But in this poem, he has a whole day of enjoying nature with a light, refreshing mood. Because of his dreams and worries tormenting his heart, his greatest goal in life was realized: the people are prosperous and happy. That is the noble and beautiful aspiration of a person wholeheartedly devoted to his people and country. The last sentence ends with a 2/2/2 rhythm that shows the emotional compression of the entire song. Revealing the people's desire for a peaceful life. Nguyen Trai is a genius of the caliber of a cultural giant, casting a shadow on many later generations of Dai Viet. The summer day scene poem shows us that Nguyen Trai is both talented and thoughtful. He uniquely describes the elegant summer natural scenery, full of vitality in both content and art. The soul that loves nature, life, and people is always present in the poet's heart. In any situation, Nguyen Trai always keeps close to his heart his affection for the people and the country.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ "Trong đầm gì đẹp bằng sen…Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" Bài làm Nét trong sáng, cao đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam từ bao đời đã được ca ngợi và trở thánh chủ đề của nhiều câu tục ngữ, ca dao. Chúng ta không thể quên bài ca dao quen thuộc: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị nhất, bài ca dao làm nổi bật hình ẩnh bông sen thơm ngát, đang nở trên đầm lầy. Bông sen đơn sơ, chân chất như người dân lao động mang nét đẹp bình dị, thôn dã, lúc nào cũng ngan ngát toa hương, một thứ hương thơm đặc biệt tinh khiết không pha lẫn mùi vị nào khác dù hoa sen trong đầm. Đầm lầy càng u tối, thối tha thi bóng hoa lại càng đẹp đẽ, sáng trói. Thông qua bài ca dao, hình ảnh của người dân lao động Việt Nam hiện lên một cách tự nhiên, hợp lý đến tài tình. Tâm hồn của mỗi con người được ví như một bông hoa thơm ngát, dù sống ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng giữ riêng cho mình nét trong trắng, thanh cao nguyên vẹn. Sống trong sạch là quy tắc, luật sống cua con người Việt Nam từ bao đời nay. Nó trở thành đạo đức, nhân cách được bồi dưỡng và bổ sung truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngay từ chế độ phong kiến nhiễu nhương, thối nát, nhưng nhà nho, trí thức đã quan niệm giấy rách phải giữ lấy lề để sống một cách thanh bạch, giản dị nhưng vô cùng chân thật. Cuộc sống đầy những cạm bẫy, càng lúc càng phô bày đầy đủ những thói xấu của loài người. Nếu như ai cũng sống gần mực thì đen thì có lẽ cả xã hội này không còn tồn tại người tốt. Nhưng với truyền thống đạo lí cao đẹp từ xa xưa, người dân Việt Nam luôn ngẩng cao đầu, sử dụng nhân cách quí giá của chính mình để sống và hành động một cách chân chính nhất. Xã hội càng xấu xa thối nát chừng nào thì con người Việt Nam càng sáng trong chừng ấy. Chúng ta không thể quên bi kịch về cái chết của Lão Hạc, một nông dân chất phác, quê mùa thà chết để giữ được thanh danh không vướng bùn nhơ xấu xa. Chúng ta không thể quên được hình ảnh chị Dậu trong đêm tối đen như mực và như tiền đồ của chị quyết giữ lấy tiết hạnh, lòng thuỷ chung với chồng con. Và ta càng không thế quên được lời khẩn cầu tha thiết, xót xa, nức nở của con cò ăn đêm, quyết giữ tâm hồn trong trắng đến phút cuối cuộc đời Có xáo thi xáo nước trong Đừng xáo nước đục đau lòng cò con Đây có phải là hiện thân của người dân lao động? Quả vậy, kế tục và phát huy truyền thống cao đẹp, họ luôn sống một cách ngay thẳng, chân thực trong bất cứ hoàn cảnh nào để trở thành những đoá sen thơm ngát giữa đầm. Không thể không có những bông hoa rũ cánh, cúi xuống đầm lầy để vướng phải bùn nhơ. Cũng như trong xã hội, không thiếu những kẻ đứng trước hoàn cảnh khó khăn đã không giữ được mình. Tư tưởng hám danh hám lợi, cầu thân đã đưa họ đến những hành động đi ngược lại với lương tâm, đạo lí con người. Từ những việc nhỏ nhặt họ đã không giữ bản thân mình cho được trong sạch thì đến những việc quan trọng, to lớn hơn làm sao họ không trở nên xấu xa, nguy hiểm. Loại người như vậy là một gánh nặng, một căn bệnh của xã hội, càng trở nên trầm trọng trong cuộc sống hôm nay. Đất nước đang cần, hơn bao giờ hết những người mang đạo đức cách mạng, hết lòng vì dân mà phục vụ. Nối tiếp truyền thống xưa, các cán bộ chân chính hôm nay cũng trở thành những đoá hoa sen. Sống giữa khó khăn của xã hội đầy cạm bẫy, lọc lừa, họ vẫn xác định cho mình một lí tưởng đúng đắn. Để làm một đoá hoa sen cho mai sau, ngay từ bây giờ, ta phải tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tinh thần, học hỏi thêm nhiều điều bồ sung lí trí nhằm có suy nghĩ chính xác khi đứng trước những ngã rẽ, biết đi trên những lối mòn quí giá của dân tộc, thêm vào những nhận thức mới mẻ của thời đại. Tất cả sẽ giúp ta trở thành người công dân tốt, không hổ thẹn với truyền thống xưa đồng thời ta cũng tự hào vì đã tiếp tục phát huy di sản tâm hồn quý báu của dân tộc. Nói tóm lại, là người dân Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào về tất cả những gì cao đẹp được ông bà xưa truyền lại, nhất là ở tâm hồn trong trắng, thanh cao, luôn rạng ngời dù ở bất kì hoàn cảnh môi trường nào. Cũng chính vì thế, ta buộc phải suy nghĩ, hành động một cách nghiêm túc đế không làm mai một đi truyền thống này. Muốn đạt được như thế, ngay từ khi còn là học sinh, ta phải tự nhắc nhở nhau sống như hoa sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Topic: Comments on the poem "What is more beautiful in the lagoon than the lotus... Being close to the mud but not smelling of mud" Assignment The purity and beauty of the soul of the Vietnamese people have been praised for many generations and have become the subject of many proverbs and folk songs. We cannot forget the familiar folk song: In what beautiful dress with lotus Green leaves, white flowers, and yellow pistils Yellow pistil, white flower, green leaves Nearly mud that does not stink of mud. Using the clearest, simplest language, the folk song highlights the fragrant lotus flower blooming on the swamp. The lotus flower is simple and sincere like the working people, with a simple, rural beauty, always fragrant with fragrance, a particularly pure fragrance not mixed with any other flavor even though the lotus is in the lagoon. The darker and more rotten the swamp, the more beautiful and bright the flower shadows become. Through folk songs, the image of Vietnamese working people appears naturally, reasonably and ingeniously. The soul of each person is likened to a fragrant flower, no matter where they live, under any circumstances, they always keep their pure, noble features intact. Living cleanly has been the rule and law of Vietnamese people for many generations. It becomes morality and personality that is nurtured and supplemented and taught from generation to generation. Right from the chaotic and corrupt feudal regime, Confucian scholars and intellectuals believed that torn paper must be kept to the margins to live in a pure, simple but extremely honest way. Life is full of traps, revealing more and more of humanity's bad habits. If everyone lived near black ink, perhaps there would no longer be any good people in this society. But with the noble moral tradition from ancient times, the Vietnamese people always hold their heads high, using their own precious personality to live and act in the most honest way. The more evil and corrupt society is, the brighter the Vietnamese people are. We cannot forget the tragedy of the death of Old Hac, a simple, rustic farmer who would rather die to keep his reputation free from evil and mud. We cannot forget the image of Ms. Dau in the pitch-black night and her determination to maintain her chastity and loyalty to her husband and children. And I cannot forget the fervent, sorrowful, sobbing plea of ​​the nocturnal stork, determined to keep his soul pure until the end of his life. There is a disturbance in the clear water Don't disturb the turbid water and hurt the little stork's heart Is this the embodiment of working people? Indeed, continuing and promoting the noble tradition, they always live uprightly and honestly in any situation to become fragrant lotus flowers in the middle of the lagoon. It is impossible not to have flowers drooping their petals and bending down into the swamp to get caught in the mud. Just like in society, there is no shortage of people who, faced with difficult circumstances, cannot keep themselves. The ideology of fame, avarice, and personal gain has led them to actions that go against human conscience and morality. From the small things they did not keep themselves pure, to the more important and bigger things, how did they not become evil and dangerous? This type of person is a burden, a disease of society, becoming more serious in today's life. The country needs, more than ever, people with revolutionary ethics and wholeheartedly serving the people. Continuing the ancient tradition, today's righteous officials have also become lotus flowers. Living amidst the difficulties of a society full of traps and deceptions, they still define for themselves a correct ideal. To be a lotus flower for tomorrow, right now, we must cultivate morality, train our spirit, learn more things to supplement our reason in order to have accurate thinking when facing crossroads, knowing walk on the precious paths of the nation, adding new perceptions of the times. All will help us become good citizens, not ashamed of ancient traditions and at the same time proud to have continued to promote the precious spiritual heritage of the nation. In short, as Vietnamese people, we have the right to be proud of all the beautiful things passed down from our ancestors, especially our pure, noble soul, always radiant no matter the circumstances. Which environment? That is why we are forced to think and act seriously so as not to erode this tradition. To achieve that, right from the time we are students, we must remind ourselves to live like a lotus. Nearly mud that does not stink of mud
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê- Hạ Tri Chương (Ngữ văn 7) Bài làm Tình yêu đối với quê hương đất nước vốn là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất của con người. Dù đi đâu thì mỗi người vẫn luôn nhớ về quê nhà, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn với những tình cảm thân thương nhất. Viết về đề tài tình yêu đối với quê hương, đặc biệt là những người xa quê, Hạ Tri Chương có bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê. Bài thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện khá rõ tình cảm tha thiết, nỗi lòng của một người con xa quê hương sau mấy chục năm nay mới trở lại. Có lẽ trong cuộc đời mỗi con người, điều khiến người ta buồn nhất, khắc khoải nhất là phải sống xa quê. Mà sẽ là buồn hơn nữa nếu lại phải xa quê mấy chục năm trời không được một lần trở lại. Đến cuối đời may mắn được trở về thăm quê hương thì có lẽ sẽ chẳng còn ai nhớ đến, đứng giữa quê mình mà chẳng ai còn nhận ra, người ta cứ ngỡ khách lạ về làng. Và Hạ Tri Chương đã rơi vào tình cảnh ấy. Mở đầu bài thơ tác giả viết: Thiếu tiểu li gia lão đại hồi (Trẻ đi, già trở lại nhà) Câu thơ nói về một hoàn cảnh đối lập, đó là ngày Hạ Tri Chương ra đi và ngày trở về của ông. Trong cuộc đời con người sự ra đi hay trở vế sẽ chỉ là những chuyến đi bình thường nếu người ta đi vài ngày vài năm, nhưng sẽ là vấn đề nếu thời giàn ra đi kéo dài hàng mấy chục năm trời. Ngày ra đi, Hạ Tri Chương vẫn còn rất trẻ và cho đến ngày trở về đã thành một ông lão. Cả một quãng thời gian quá dài đủ khiến một con người tình nghĩa như nhà thơ nhớ quê đến mức độ nào. Có lẽ chúng ta cũng có thổ hiểu được đó là một nỗi nhớ quê da diết, dẫu cho cuộc sống của ông những ngày xa quê đẩy đủ và sung túc. Tình cảm gắn bó, tha thiết với quê hương được thể hiện ở câu tiếp theo. (Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu) Xa quê đã mấy chục năm nhưng tình cảm với quê hương ông vẫn giữ. Điều đó được thể hiện ở giọng quê ông vẫn giữ được, giữ được giọng quê đối với người xa quê mấy chục năm trời là một điều vô cùng quý giá. Thực ra trong cuộc sống có rất nhiều người xa quê thì dường như họ sẽ thay đổi tất cả từ giọng nói cho đến phong cách cử chỉ nhưng với Hạ Tri Chương thì điều đó không hề xảy ra. Chứng tỏ ông không hề quên nơi đã sinh ra mình, cho mình một cuộc sống, nơi có biết bao kỉ niệm, có người mẹ đã nuôi ông lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào, ru ông bằng những câu hát ân tình, tha thiết…Như vậy thời gian chỉ có thể làm thay đổi được mái tóc, được vẻ bên ngoài của con người chứ không thể thay đổi được những nét bên trong, nét quê ẩn chứa trong ông. Một con người yêu quê hương tha thiết như ông sẽ càng buồn hơn khi xa quê, nhớ quê mà chẳng được về thăm quê, để đến mấy chục năm sau mới được trở về, với biết bao bồi hồi và xúc động. Tuy nhiên, về đến làng, ông phải đối diện với một nghịch lý: Trước nơi đã sinh ra mình, ông chỉ là một người lạ: Tiểu vấn: Khách tòng hà xứ lai (Gặp nhau mà chẳng biết nhau Trẻ cười, hỏi: “Khách từ đâu đến làng” Có điều gì đó hóm hỉnh trong câu thơ này khiến ta phải bật cười nhưng dường như đó là một cái cười chẳng trọn vẹn bởi một người con được sinh ra chính từ mảnh đất ấy nay lại được xem như một người khách lạ. Cảnh cũ còn đây nhưng bạn cũ người xưa ai còn ai mất tác giả chẳng biết và dường như chẳng còn ai nhận ra mình nữa, dường như chẳng còn ai nhận ra tác giả là chàng Hạ Tri Chương năm xưa đã sinh ra từ ngôi làng này. Họ ngỡ đâu khách lạ về thăm làng. Có cái gì đó thật xót xa, người của làng mà lại trở thành khách lạ. Trẻ con hồn nhiên chào hỏi: có phải là khách lạ tờ phương xa đến. Đọc những câu thơ này, ta có thể tưởng tượng một người đàn ông đứng lạc lõng giữa làng, khuôn mặt vừa vui mừng, sung sướng vì được đứng trên mảnh đất thân yêu nhưng lại vừa thoáng nét buồn vì những người qua lại chẳng ai để tâm đến, một cảm giác thất vọng, hẫng hụt của tác giả khi đứng giữa quê mình. Bao năm xa quê mong ngày trở lại thăm quê vậy mà khi đứng trên mảnh đất thân yêu của mình thì dường như tất cả không còn là của mình nữa. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng có câu thơ nói về tình cảm của người xa quê. Mai về, dù bạc tóc anh cũng về. Tình cảm quê hương là tình cảm thiêng liêng đối với mỗi con người và tác phẩm “Hồi hương cố tri” của Hạ Tri Chương là một bài thơ rất hay, tất cả tấm lòng nhà thơ được gói gọn trong bốn câu thơ đầy ý nghĩa. Tác giả đã rất thành công khi sử dụng thủ pháp nghệ thuật như tiểu đối hay tính hàm xúc nói ít gợi nhiều. Bài thơ đã giúp người đọc thấu hiểu hơn tâm trạng của người khách li hương. Bài thơ khép lại nhưng vẫn để lại dư âm khó quên trong lòng người đọc.
Topic: Feelings about the poem Randomly written on the occasion of returning home - Ha Tri Chuong (Literature 7) Assignment Love for one's homeland is the most noble and sacred sentiment of man. No matter where we go, each person always remembers their hometown, the place where they were born, with the dearest feelings. Writing on the topic of love for the homeland, especially those far from home, Ha Tri Chuong has an article Randomly written on the occasion of returning home. The poem is short but clearly shows the earnest feelings and feelings of a son who has returned from his homeland after several decades. Perhaps in every person's life, the thing that makes them the saddest and most anxious is having to live far from home. But it would be even sadder if I had to leave my hometown for decades and not be able to return once. At the end of your life, if you are lucky enough to return to visit your hometown, perhaps no one will remember you. Standing in the middle of your hometown, no one will recognize you, people will think that you are a stranger to the village. And Ha Tri Chuong fell into that situation. At the beginning of the poem, the author writes: The young master of the old family returned home (Going young, returning home when old) The poem talks about a contrasting situation, the day Ha Tri Chuong left and the day he returned. In human life, leaving or returning will just be normal trips if people go for a few days or a few years, but it will be a problem if the time of departure lasts for decades. On the day he left, Ha Tri Chuong was still very young and by the day he returned he had become an old man. A long period of time is enough to make a grateful person like the poet miss his hometown to such an extent. Perhaps we can also understand that it is a strong nostalgia for home, even though his life in the days away from home was full and prosperous. The affection and attachment to the homeland is expressed in the next sentence. (Country voice unchanged, misty hair) He has been away from home for decades, but his feelings for his homeland still remain. That is shown in the hometown accent he still retains. Maintaining a hometown accent for people who have been away from home for decades is an extremely valuable thing. In fact, in life, there are many people who are far from home and it seems they will change everything from their voice to their style of gestures, but with Ha Tri Chuong, that never happened. It proves that he has never forgotten the place where he was born, gave him a life, where there are so many memories, a mother who raised him with sweet milk, lulled him with loving, passionate songs. ...So time can only change a person's hair and outer appearance, but cannot change the inner features and country features hidden within him. A person who loves his homeland dearly like him will be even more sad when he leaves his hometown, misses his hometown but cannot return to visit it, only to be able to return decades later, with so much sadness and emotion. However, when he returned to the village, he had to face a paradox: Before the place where he was born, he was just a stranger: Tieu question: Guests from the same country (Met each other but don't know each other The child smiled and asked: "Where do guests come from to the village?" There is something humorous in this verse that makes us laugh, but it seems to be an incomplete laugh because a child born from that land is now considered a stranger. The old scene is still here, but old friends and acquaintances are still here. The author doesn't know and it seems like no one recognizes him anymore. It seems like no one recognizes the author as the guy Ha Tri Chuong who was born in the village in the past. This. They thought that strangers were coming to visit the village. There's something really sad about people from the village becoming strangers. Children innocently greet: are they strangers from far away? Reading these verses, we can imagine a man standing lost in the middle of the village, his face is both happy and happy because he is standing on his beloved land but also has a hint of sadness because there are no people passing by. Pay attention to the author's feeling of disappointment and loss when standing in the middle of his hometown. For many years away from home, I longed to return to visit my hometown, but when I stood on my beloved land, it seemed like everything was no longer mine. Poet To Huu also once wrote a poem about the feelings of people far from home. Come back tomorrow, even if you have gray hair, you'll still come back. The love for the homeland is a sacred feeling for every person and the work "Returning to the Old Friends" by Ha Tri Chuong is a very beautiful poem, all the poet's heart is encapsulated in four meaningful verses. . The author has been very successful when using artistic techniques such as diminutives or conciseness, saying less and evoking more. The poem helps readers better understand the feelings of the exiled guest. The poem ends but still leaves an unforgettable echo in the reader's heart.
Cảm nhận về bài Tuyên ngôn độc lập Hướng dẫn Cảm nhận về bài Tuyên ngôn độc lập Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khẳng định quyền làm chủ của dân tộc ta, nước ta hoàn toàn độc lập, hòa bình. Tuyên ngôn độc lập mang nhiều ý nghĩa cách mạng, vững bền ý chí của các bậc anh hùng. Nhìn lại những dấu ấn lịch sử của Việt Nam qua giai đoạn năm 1919-1930 ta sẽ thấy được sự thống khổ của nhân dân và ý chí sức mạnh không thể nào tiếp tục cam chịu sự nô lệ, sự áp bức của thức dân Pháp. Các tầng lớp nhân dân từ trí thức, tiểu tư sản, công nhân….đều đồng lòng đứng lên kêu gọi một phong trào yêu nước đã lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dan tham gia. Những người lãnh đạo đã tìm ra được một đường đi đúng đắn, tiếp thu được những lý luận giải phóng theo tư tưởng vô sản, tư tưởng của Mác-Lê Nin, để hệ quả của nó chính là thành lập ra được Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mở ra những cao trào cách mạng lớn và đỉnh cao là sự xuất hiện và tồn tại của các Xô viết ở Nghệ An, Hà Tĩnh và nhiều phong trào khác với quy mô ngày càng lớn, đông đảo quần chúng nhân dân tham gia đứng lên tạo một sức mạnh quật cường khiến bọn thực dân phải nhượng bộ và đáp ứng nhiều yêu sách của ta về dân sinh, dân chủ. Làm nền tảng cho sự ra đời của Mặt trận Việt Minh- Mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam Trước tình hình phát triển của cách mạng Việt Nam, bác Hồ trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Trước sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo yêu nước đã giành được chính quyền.Đáp lại tấm lòng và sự kêu gọi toàn dân đã tiến lên, làm nên cuộc thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập đã ra đời vào ngày 02/09/1945, một bước tiến mới cho đất nước Việt Nam, mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam đó là kết quả của cả một quá trình trăn trở, suy ngẫm trong hành trình tìm đường cứu nước của Bác, là kết quả của thực tiễn lãnh đạo tài tình đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi của Bác. Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện sự sáng suốt, nhạy bén và tầm nhìn chiến lược sâu rộng, khả năng dự báo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân như Bác đã từng nói “…nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”. Cách mạng tháng Tám, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã diễn ra cách đây 68 năm nhưng bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn vang vọng mãi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh.Từ đây dân ta sẽ không chịu bất kì một ách thống trị, áp bức nào, luôn được ấm no, hạnh phúc.
Comments on the Declaration of Independence Instruct Comments on the Declaration of Independence On September 2, 1945, at Ba Dinh Square, Hanoi, Uncle Ho read the declaration of independence affirming the sovereignty of our people, our country is completely independent and peaceful. The Declaration of Independence carries many revolutionary meanings, strengthening the will of heroes. Looking back at the historical marks of Vietnam through the period 1919-1930, we will see the suffering of the people and the will and strength that cannot continue to endure the slavery and oppression of the French people. . All classes of people from intellectuals, petty bourgeoisie, workers... all unanimously stood up to call for a patriotic movement that attracted a large number of people to participate. The leaders have found the right path, absorbing liberation theories according to proletarian ideology and Marxist-Leninist ideology, so that its consequence is the establishment of the Communist Party. Vietnam on February 3, 1930. Under the Party's leadership, great revolutionary movements were opened, culminating in the appearance and existence of the Soviets in Nghe An, Ha Tinh and many other movements with increasingly large scale and large numbers of people. The people participated and stood up to create a strong force that forced the colonialists to give in and meet many of our demands for people's livelihood and democracy. Laying the foundation for the birth of the Viet Minh Front - Vietnamese National Solidarity Front Faced with the developing situation of the Vietnamese revolution, Uncle Ho directly led the revolution. Under the skillful leadership of Ho Chi Minh and other patriotic leaders, the government was won. Responding to the hearts and calls of the entire people, they stepped forward, creating a great victory for the nation. The Declaration of Independence was born on September 2, 1945, a new step forward for the country of Vietnam, opening a new page of history for the Vietnamese people. It was the result of a whole process of concern and reflection in Uncle Ho's journey to find a way to save the country was the result of his ingenious leadership practice that brought the Vietnamese revolution to victory. The Declaration of Independence demonstrated President Ho Chi Minh's insight, acumen, profound strategic vision, and genius foresight. In President Ho Chi Minh, national independence is always associated with the freedom and happiness of the people as Uncle Ho once said "...if the country is independent but the people do not enjoy happiness and freedom, then independence will not exist." What does it mean?" The August Revolution and the Declaration of Independence on September 2, 1945 took place 68 years ago, but the Declaration of Independence still resonates forever in the history of the Vietnamese nation, aiming for the goal of rich people, a strong country, and a strong society. fair and civilized society. From now on, our people will not be subject to any domination or oppression, and will always be prosperous and happy.
Cảm nhận về bài tùy bút ‘Mùa xuân của tôi’ của Vũ Bằng Hướng dẫn … Ông viết tác phẩm này tại Sài Gòn trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, gửi gắm bao nỗi ‘sầu biệt li vơi sáng đẩy chiều’: nhớ vợ con gia đình, nhớ quê hương, nhớ miền Bắc, nhớ Hà Nội… Mỗi tháng ông có một nỗi nhớ, nhớ triền miên, nhớ dằng dặc suốt năm. Tháng giêng và mùa xuân Hà Nội, mùa xuân miền Bắc đối với Vũ Bằng sao nhớ thế. Nỗi nhớ ấy, nỗi buồn đẹp ấy là của khách ‘thiên lí tương tu’. ‘Ai cũng chuộng mùa xuân’và ‘mê luyến mùa xuân’ nên càng ‘trìu mến’ tháng giêng, tháng đầu của mùa xuân. Tinh cảm ấy rất chân tình ‘không có gì lạ 186hết’.Cách so sánh đối chiếu của Vũ Bằng rất phong tình gợi cảm: ‘Ai bảo non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thi mới hết được người mê luyến mùa xuân’.Một cách viết duyên dáng, cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ: ‘ai bảo được…’, ‘ai cấm được… ai cấm được… ai cấm được…’.Chữ ‘thương’ được nhắc lại bốn lần, liên kết với chữ ‘yêu’, chữ ‘nhớ’ đầy ấn tượng và rung động. Là một khách tài tử yêu cảnh sắc thiên nhiên ‘yêu sông xanh núi tím’, rất đa tình, yêu nhan sắc giai nhân ‘đôi mày như trăng mới in ngần’, yêu những ‘mộng ước của mình’. Nhưng Vũ Bằng đã tâm sự là mình ‘yêu nhất mùa xuân không phái vì thể. Câu văn như nhún nhảy: ‘tôi yêu… tôi yêu… và tôi cũng xây mộng… những yêu nhất..’. Thoáng gọi một câu thơ Kiều Nguyễn Du, một cách viết tài hoa. Càng yêu cảnh bao nhiêu, tác giả càng yêu sự sống bấy nhiêu! ‘Cái mùa xuân thần thánh’rất diệu kì. Vũ Bằng đã sử dụng hai so sánh để nói lên cái diệu kì ấy: ‘Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cói, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ tí ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh’. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: ‘Tháng giêng ngon như một cặp môi gần (…) Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!’ (‘Vội vàng’) San sẻ với bao thương nhớ của Vũ Bằng, ta càng thấy rõ ông yêu mùa xuân, yêu cảnh vật, yêu con người cùa quê hương xứ sở, lại càng yêu sống, yêu đời hơn bao giờ hết. Câu văn xuôi của Vũ Bằng rất giàu biểu cảm và chất thơ trữ tình. Chất thơ lắng dịu ngọt ngào. Ta hãy khẽ đọc và cùng nhau cảm thụ: ‘Đẹp quá đi, mùa xuân ơi- mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến’ Yêu mùa xuân quê hương, nhưng tác giả ‘yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng’. Lúc ấy có biết bao xuân tứ, xuân tình. Bao cảnh sắc vương vấn. Đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong, cỏ thì ‘nức một mùi hương man mác’. Con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa trên giàn thiên lí. Sau cơn mưa xuân, bầu trời xuân rất đẹp. Buổi sáng sớm thấy ‘những vệt xanh tươi hiện ở trên trời’. Độ tám chín giờ ‘trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột’. Cà om thịt thăn điểm lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng, là hương vị đậm đà bữa cơm giản dị gia đình. Đã mấy ai trong chúng ta được hưởng thụ như Vũ Bằng? Hương vị đậm đà ấy tưởng như được ướp hương xuân. Với Vũ Bằng, tình yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên miền Bắc, yêu mùa xuân Hà Nội rất nồng hậu đắm say; tình yêu ấy gắn bó với bao kỉ niệm, bao nỗi nhớ vơi đầy trong tâm hồn khách xa quê. Trong hoàn cảnh đất nước bị quân thù chia cắt, tác giả nhớ mùa xuân Hà Nội cũng là nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình vợ con đã bao ngày đêm năm tháng cách biệt. Tác giả đã kín đáo gửi qua ‘Thương nhớ mười hai’ một niềm tin sắt son chung thủy về cội nguồn, về ý chí thống nhất đất nước, về Bắc – Nam liền một dải, sum họp một nhà mà không thế lực nào, kẻ thù nào có thể chia cắt được.
Comments on the essay 'My Spring' by Vu Bang Instruct … He wrote this work in Saigon during the years when the country was divided, expressing many of his 'sorrows of farewell in the morning and evening': missing his wife, children and family, missing his homeland, missing the North, missing Hanoi. … Every month he has a nostalgia, a constant nostalgia, a lingering nostalgia throughout the year. January and spring in Hanoi, spring in the North are so memorable for Vu Bang. That nostalgia, that beautiful sadness is the guest's 'thien ly tuong tu'. 'Everyone loves spring' and 'loves spring' so they 'love' January, the first month of spring. That feeling is very sincere, 'nothing strange at all'. Vu Bang's way of comparing and contrasting is very sensual and sentimental: 'Who says the mountains should not love the water, the butterflies should not love the flowers, the moon should not love the wind; Who can stop a boy from loving a girl? Who can stop a mother from loving her child? Who can stop the girl who still misses her husband? Only then can he stop being in love with spring'. A graceful way of writing, emotions keep flowing out through alliteration: 'Who can say…', 'Who can stop… who can stop? Yes... who can forbid it...'. The word 'love' is repeated four times, linked with the word 'love' and the word 'remember', which is impressive and moving. He is an amateur who loves natural scenery, 'loves green rivers and purple mountains', is very affectionate, loves beautiful women's beauty, 'eyebrows like the new moon', loves 'his dreams'. But Vu Bang confided that he 'loves spring the most regardless of reason. The sentence seems to dance: 'I love... I love... and I also build dreams... the most loved...'. It's called a poem by Kieu Nguyen Du, a talented way of writing. The more the author loves the scene, the more the author loves life! The 'divine spring' is very magical. Vu Bang used two comparisons to express that miracle: 'The sap of life in the body swells like blood in the buds of deer, like the buds of a sedge plant, lying still cannot stand it forever, it must rise. turned into tiny leaves and raised their hands to wave to the lovebirds standing next to them. Poet Xuan Dieu once wrote: ‘January is as delicious as a pair of close lips (…) O spring, I want to bite you!’ ('Hurry') Sharing with Vu Bang's many memories, we see more clearly that he loved spring, loved the scenery, loved the people of his homeland, and loved life more than ever. Vu Bang's prose is rich in expression and lyrical poetry. The poetry is gentle and sweet. Let's read quietly and enjoy together: 'So beautiful, spring- spring of beloved Hanoi, of beloved North Vietnam' I love spring in my hometown, but the author 'loves spring especially after the full moon day of the first month'. At that time, there were so many springs of romance and love. Many beautiful scenes linger. The peaches are slightly faded but the pistils are still intact, and the grass 'smells a wonderful scent'. The bee diligently flies to search for stamens on the Thien Ly trellis. After the spring rain, the spring sky is very beautiful. Early in the morning, 'green streaks appeared in the sky'. At eight or nine o'clock, 'in the clear sky, there were pink rays of light vibrating like newly shed wings of a cicada'. Braised eggplant with tenderloin topped with chopped perilla leaves or a bowl of crab egg soup with a squeeze of lemon eaten cool like a fan, are the rich flavors of a simple family meal. How many of us have enjoyed it like Vu Bang? That rich flavor seems to be marinated with the scent of spring. For Vu Bang, the love of spring, the love of Northern nature, and the love of spring in Hanoi are very warm and passionate; That love is attached to many memories, filled with nostalgia in the hearts of guests far from home. In the context of the country being divided by enemies, the author remembers the spring of Hanoi as well as missing his homeland, missing his wife and children's family, many days and nights and years apart. The author has discreetly sent through 'Memories of Twelve' a faithful belief in the origin, in the will to unify the country, to go North and South in one line, to reunite as one family without any influence, No enemy can divide it.
Cảm nhận về bài tùy bút ‘Sài Gòn tôi yêu’ của Minh Hương Hướng dẫn …Trước năm 1945, tác giả đã đến sinh sống ở Sài Gòn, trở thành một cư dân 184 của ‘hòn ngọc Viễn Đông’ mà ông gọi là ‘cái đô thị ngọc ngà’. Nhan đề bài kí đã thể hiện tình yêu thiết tha sâu nặng đối với Sài Gòn – ‘Sài Gòn tôi yêu’. Mấy dòng đầu bài kí, tác giả nói một cách hóm hỉnh qua một số so sánh: ‘Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già’. Sài Gòn 300 tuổi so với cái tuổi 5.000 năm của đất nước ta thì Sài Gòn ‘còn xuân chán’, ‘như một cây tơ đương độ nõn nà…’. Minh Hương thổ lộ tình yêu Sài Gòn trong mọi thời tiết và mọi thời gian. Tác giả ‘yêu nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào’’,yêu ‘buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ’’,yêu thời tiết trái chứng: ‘trời đang iu iu buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh’.Tác giả yêu đêm khuya ‘thưa thớt tiếng ồn’’,yêu những giờ cao điểm, phố phường ‘náo động, dập dìu xe cộ’;yêu làn không khí ‘mát dịu, thanh sạch’vào buổi sáng tinh sương, trên một số con đường nhiều cây xanh. Tinh yêu Sài Gòn của Minh Hương được ông ví với tình cảm của ‘người đàn ông vẫn ôm ấp bóng dáng mối tình đầu chứa chan nhiều ngang trái’. Sài Gòn rất bao dung và hào phóng ‘bao giờ cũng’dang hai cánh tay mở rộng mà đón nhiều người từ trăm nẻo đất nước kéo đến’. Người Bắc, người Trung, người Nam, người Hoá, người Khơ-me… đã đến ở Sài Gòn, ‘rồi thừa nhận nơi đây là quê quán của mình’. Minh Hương đã đến ở Sài Gòn hơn nửa thế kỉ sao không yêu Sài Gòn, sao không coi Sài Gòn là quê hương thứ hai của mình được? Minh Hương đã nêu lên những nét đáng yêu của các cô gái ‘thị thiềng’ Sài Gòn ngày xưa. Tóc ‘buông thõng’ trên vai trên lưng. Đầu đội nón vải trắng rộng vành. Áo bà ba trắng… Quần đen rộng. Hoặc đi giầy bố trắng, hay xăng-đan da, hoặc đi guốc vông trơn trắng nõn, quai da… Rất dễ nhìn, dễ ưa: dáng đi ‘khỏe khoắn, mạnh dạn’; ‘cũng yểu điệu, thướt tha…’, ‘cũng e thẹn, ngượng nghịu..’. Nụ cười ‘thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây’. Cái đẹp của cô gái Sài Gòn ‘thật đơn sơ, đôn hậu’. Cách giao thiệp của thiếu nữ Sài Gòn rất duyên dáng. Chào người lớn, các cô ‘cúi đẩu, chắp hai bàn tay lại và xá’. Gập bạn bè thì ‘hơi cúi đầu và mỉm cười; cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mỉm mỉm, cười he hé,…’, tùy mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt cô gái Sài Gòn ‘sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh’. Cách giao tiếp của thiếu nữ Sài Gòn có vẻ hơi ‘cổ xưa’ nhưng lại rõ ràng ‘dân chủ’, ‘không khúm núm hay màu mè’, ‘không chút mặc cảm, tự ti’. Nghĩa là họ vẫn giữ được phong cách dân tộc, nhưng không còn mang tư tưởng phong kiến, trái lại rất tân tiến. Tính cách con người Sài Gòn rất đẹp và đáng yêu. Các cô gái, các chàng trai, các giới đồng bào giàu lòng yêu nước, bất khuất, dám xả thân vì chính nghĩa, vì cách mạng và kháng chiến, vì đất nước và nhân dân. Với Minh Hương, tình yêu Sài Gòn gắn liền với tình cảm trân trọng, quý mến, cảm phục những con người Sài Gòn. Phần cuối bài kí, tác giả viết qua một so sánh đáng yêu: ‘Miền Nam là đất lành thì Sài Gòn cũng là một đô thị hiền hòa’. ‘Đất lành chim đậu’ (tục ngữ). Trước kia, Sài Gòn có nhiều chim, nhưng ngày nay rất ít chim. Những kẻ vô trách nhiệm với môi trường sống, đã ‘đang tay bắn giết chim và dơi của thành phố’. Chim chóc thì ‘hiếm hoi dần’, dân số lại gia tăng ‘leo lên hơn năm triệu’. Thoáng một chút băn khoăn? Minh Hương đã tâm sự: ‘yêu Sài Gòn và yêu cả con người ở đây’. Mối tình ấy ‘dai dẳng, bền chặt’. Tác giả ước mong ‘mọi người nhất là các bạn trẻ, đều yêu Sài Gòn như tôi’. Đó là một tiếng nói ‘chơn thành, bộc trực’. Sài Gòn, thành phố 300 tuổi, là Thành Đồng Tổ quốc, là thành phô’ mang tên Bác – thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng – ai mà chẳng tự hào, ai mà chẳng mến yêu. ‘Sài Gòn tôi yêu’là một bài kí duyên dáng có ít nhiều khám phá, tỏa sáng tính nhân văn. Hay đấy. Cần đọc để thưởng thức, để yêu Sài Gòn hơn nữa.
Comments on the essay 'Saigon I love' by Minh Huong Instruct …Before 1945, the author came to live in Saigon, becoming a resident of the 'Pearl of the Far East' that he called 'the pearly city'. The title of the essay expressed his deep and passionate love for Saigon - 'Saigon I love'. In the first few lines of the memoir, the author said humorously through some comparisons: 'Saigon is still young. I'm old'. Saigon is 300 years old compared to our country's age of 5,000 years. Saigon is 'still young', 'like a tender silk tree...'. Minh Huong confessed her love for Saigon in all weathers and all times. The author 'loves the morning sun, a sweet kind of sunshine'', loves 'the windy afternoon of longing, under the unexpected tropical rain trees'', loves the contrary weather: 'the sky is so loving and sad, suddenly nature is as clear as glass'. The author loves late nights with 'sparse noise', loves rush hours, streets are 'chaotic, traffic jams'; loves the 'cool, clean air' 'in the foggy morning, on some roads full of trees. Minh Huong's love for Saigon is compared to the love of 'a man who still embraces the shadow of his first love filled with many contradictions'. Saigon is very tolerant and generous and 'always opens its arms to welcome many people from all over the country'. Northerners, Chinese, Southerners, Hoa, Khmer... came to Saigon, 'then acknowledged this place as their hometown'. Minh Huong has been in Saigon for more than half a century, so why don't you love Saigon, why don't you consider Saigon your second home? Minh Huong has highlighted the lovely features of Saigon's 'thieng' girls of the past. Hair 'hangs loose' on the shoulders and back. Wear a wide-brimmed white cloth hat on your head. White Ba Ba shirt... Loose black pants. Or wear white canvas shoes, or leather sandals, or wear plain white sandals with leather straps... Very easy on the eyes and likeable: 'strong, bold' gait; 'also graceful, graceful...', 'also shy, awkward...'. The smile is ‘genuine, bright and more or less innocent’. The beauty of a Saigon girl is 'so simple and kind'. The communication style of Saigon girls is very charming. Greeting the adults, the girls 'bowed their heads, clasped their hands and said goodbye'. When meeting friends, bow your head slightly and smile; smile with your mouth closed, smile with your mouth closed, smile with a smile, smile with a smile,...', depending on the level of familiarity. Especially the Saigon girl's eyes are 'bright, cheerful, sometimes sparkling with a bit of humor'. The communication style of Saigon girls seems a bit 'archaic' but is clearly 'democratic', 'not obsequious or showy', 'without any sense of guilt or inferiority'. That means they still retain the national style, but no longer have feudal ideas, on the contrary, they are very modern. The personality of Saigon people is very beautiful and lovely. Girls, boys, and compatriots are rich in patriotism, indomitable, daring to sacrifice themselves for justice, for revolution and resistance, for the country and the people. For Minh Huong, love for Saigon is associated with feelings of respect, affection, and admiration for the people of Saigon. At the end of the memoir, the author wrote a lovely comparison: 'If the South is a good land, then Saigon is also a gentle city'. 'Good land, birds perch on' (proverb). In the past, Saigon had many birds, but today there are very few birds. Those who are irresponsible towards the environment are 'shooting and killing the city's birds and bats'. Birds are 'becoming scarce', the population is increasing 'climbing over five million'. Feeling a little confused? Minh Huong confided: 'love Saigon and love the people here'. That love is 'persistent and lasting'. The author wishes that 'everyone, especially young people, will love Saigon like me'. It is a 'sincere, straightforward' voice. Saigon, a 300-year-old city, is the City of the Fatherland, the city named after Uncle Ho - the brilliant Ho Chi Minh City with its golden name - who wouldn't be proud, who wouldn't love it. 'The Saigon I Love' is a charming essay with some discoveries, shining with humanity. That's good. Need to read to enjoy, to love Saigon more.
Đề bài: Cảm nhận về bài Tự thuật của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút Bài làm "Tự thuật" là một trang văn thâm trầm, đậm đà và cởi mở trích trong "Vũ trung tuỳ bút", đúng là tiếng lòng của một bậc tài danh, trung hậu. Đại từ "ta" gợi lên sự gần gũi thân mật, thanh thản và ung dung làm cho người đọc tưởng như đang được trực tiếp nghe cụ Tế Đan Loan tâm tình, tâm sự. Đoạn thứ nhất tác giả kể về gia cảnh và chí hướng của mình. Tác giả cho biết, ông sinh năm Mậu Tý (1768) niên hiệu cảnh hưng thời Lê. Xuất thân trong một gia đình quý tộc quan lại, khi ông lên năm, sáu tuổi thì đấng tiên đại phu của ông đã thăng làm Tuần phủ Sơn Tây. Tuy là con quan, sống trong cảnh phú quý "dư thừa bổng lộc” nhưng ngay từ thuở ấu thơ, ông không thích ăn chơi đua đòi, không "ham mê" những cách chơi cây, đá, hoa, chim. Ông sống có chí hướng, coi việc ''lập thần hành đạo" (đạo trung, hiếu) là phận sự của kẻ làm trai; "được lấy văn thơ nổi tiếng ở đời để cho người ta biết con cháu nhà nọ, nhà kia" Biết rõ chí hướng của con, đăng tiên đại phu và bà cung nhân của ông rất hài lòng, "đều ban khen cả". Bố mẹ sớm qua đời, gia đình ngày một sa sút, phải sống lận đận giữa thời loạn lạc, ông càng thương nhớ mẹ cha, muốn noi gương chàng Tử Lộ ngày xưa mà không được, ông càng tủi cho thân phận cô đơn của mình. Câu văn của Phạm Đình Hổ như những tiếng than cất lên nhiều ai oán: "Thấm thoắt đã hơn 20 năm trời mà lời dạy của cha mẹ vẫn văng vẳng bên tai. Nay đến bước đường cùng lận đận, biết còn đội gạo vì ai! Chỉ than thử cùng trời xanh, chứ biết gửi lòng mình vào đâu!''. Nhắc lại điển tích Tử Lộ, một học trò nghèo mà học giỏi của Khổng Tử, thuở hàn vi từng đội gạo nuôi mẹ già, Đông Dã Tiều bộc lộ một cách cảm động lòng hiếu thảo của mình lúc nào cũng muốn được đền đáp công ơn của cha mẹ mà không thể nào được nữa. Đoạn văn thứ hai, tác giả "Vũ trung tuỳ bút" chân thật nói lên một vài cái "tật" của mình mà ông vô cùng hối hận. Thuở nhỏ, ông rất nghịch, thường hay lấy cái mũ trãi của bố ra đội và đùa bỡn, "dẫu cấm không cho chơi nghịch cũng không thể được". Một chút kỉ niệm ngây thơ hồn nhiên. Ông cho biết thời trai trẻ "bịt tai lại không muốn nghe" khi có người rủ rê chơi đùa những trò thanh sắc, nghề cờ bạc. Tuy học vỡ được ít kinh sử mà chữ Nôm thì ông không biết hết; câu ca, bản đàn chẳng ham vì "chẳng hiểu gì cả". Năm Giáp Thìn (1784) lên 16 tuổi, người anh trưởng dạy ông đánh cờ, nhưng cờ thấp nên "hễ đánh với ai là thua". Những trò chơi cờ bạc, phán thán, ông "vốn không thích", dù có thử tập chơi, nhưng chẳng hiểu cái thuật nó ra thế nào! Thanh sắc, cờ bạc vốn là trò đam mê của nhiều người nhưng Phạm Đình Hổ tự cảm thấy "tư chất mình, trời cho có phần mờ tối, không thể cưỡng mà học được các nghề chơi". Một cách nói hóm hỉnh, chân thành, cũng chẳng dám chê ai mà cũng chẳng hợm mình. Ông tự trách, tự phê phán mình về chuyện "mắc phải bệnh nghiện chè tàu" từ những ngày lưu lạc. Tuy khay chén thiếu thốn, tiền không đủ mua chè mà vẫn nghiện. Các thứ chè thơm tho đều mua nếm qua cả; muốn chừa mà không chừa được. Nhớ lời răn dạy của mẹ hiền ngày trước, ông vô cùng hối hận, mong tu chí "cố gắng sửa đổi". Đọc đoạn văn sau đây, ta cảm động biết bao trước tâm lòng thành thật của Phạm Đình Hổ: "Còn nhớ khi bà cung nhân ta hãy còn, người thương lấy những điều cờ bạc, chè rượu làm răn, mà ta nay đã ngoài ba mươi tuổi, bốn điều răn ấy đã phạm mất ba. Đêm thanh vắng suy xét, hối hận vô chừng. Ta vẫn mong cố gắng sửa đổi để khỏi phụ lời tiên huấn''. Chúng ta tưởng như tác giả đang cởi mở lòng mình để nhắn nhủ các bạn trẻ gần xa – những đứa con trong gia đình nên lấy làm răn về những chuyện rượu, chè, cờ bạc mà tu thân và lập chí, đừng ăn chơi đua đòi, sa ngã. Hiện nay, ở xứ ta có quá nhiều tự truyện, hồi kí, hồi ức,… Hầu như tác giả của những "tác phẩm" ấy đang tự vẽ lại bộ mặt mình, tự khoe mẽ mình một cách lố bịch. Đọc “Tự thuật" của Đông Dã Tiều, ta càng thấy rõ đức tính khiêm tốn, chân thật, chân tình,… mới có thể làm nên nhân cách văn hóa. Đoạn văn thứ ba trong bài "Tự thuật", tác giả nói lên sở thích và nếp sống văn hóa của mình từ thời trai trẻ. Lên 9 tuổi, ông đã học sách Hán thư được bốn năm; hồi cư tang bố "học hành bữa đực, bữa cái"; mãn tang mới học đến kinh. Vốn có năng khiếu văn chương và sớm có chí hướng "lấy thơ văn nổi tiếng ở đời" nên ông ham đọc sách cổ, thơ cổ, "không lúc nào rời tay". Trong nhiều năm ở lại quê nhà để hầu hạ mẹ già, ông sống với đèn sách, coi đèn sách là bầu bạn. Ngày nàơ cũng vậy, ăn cơm sáng xong, ông ra nhà khách đọc sách. Đêm nào cũng thức đến gà gáy (đọc sách) mới đi ngủ. Nếp tự học, tự nghiên cứu chuyên cần ấy mới tạo nên tầm vóc học vấn của tiên sinh sau này, để được tự hào nhận chiếu chỉ của vua Minh Mệnh ra làm Tế tửu Quốc tử giám. Sinh trưởng trong một gia đình quyền quý, nên thuở nhỏ Phạm Đình Hổ được sống trong một môi trường lí tưởng, rất ít người thời bấy giờ được hưởng thụ. Dinh thự bao la: nhà trung đường bảy gian, nhà khách năm gian, nhà nội tẩm. Trong nhà khách, "chồng chất mấy giá sách, tuỳ ý muốn đọc quyển nào thì đọc". Vườn hoa, cây cảnh đẹp như một công viên. Chiếc ao vuông ở phía tây nhà khách thả sen hồng và sen trắng; liễu xanh và cam quýt trồng bốn xung quanh bờ. Hoa nhài, hoa hồng, hoa ngâu, hoa mẫu đơn trồng năm ha cây, vài ba khóm nơi phía trong giáp sân nhà. Phía xa là cánh đồng làng, cách hàng rào tre, thấp thoáng một cái quán trơ trọi. Chiều nào cũng vậy, khi mặt trời xế, tiếng hát, tiếng kèn lá của mục đồng thổi " ti toe". Tiếng hát xa xa trên đồng nội chợt đánh thức giấc ngủ ngày. Vị công tử con quan Tuần phủ cảm thấy bâng khuâng, rung động bởi "hồn Đường", bởi "tiếng ca thuyền chài" ánh ỏi ở đầu bến Nhược Gia. Những đêm trăng đẹp quê nhà như đưa tác giả vào cõi mộng. Đi tản bộ quanh bờ ao ngắm cảnh lúc trăng mọc. Ngâm nga mấy câu thơ Đường. Tựa gốc dừa, bẻ bông tước lá thử chơi khi cành hoa phơ phất trước mặt. Rồi thơ thẩn trở về nhà khách khi "bóng nquyệt hương hoa vẫn còn phảng phất trên án thư, tràng kỉ”. Đoạn văn cuối bài "Tự thuật" đẹp như một bài thơ. Tâm hồn khách tài tử như được ướp hương hoa, nhưđược chiếu sáng bởi ánh trăng trên đồng nội, được ru bằng làn gió máu khúc đồng dao. Chính đó là suối nguồn cho bao cảm hứng đẹp để Phạm Đình Hổ trang trải và gửi gắm trên những trang văn thơ làm say lòng người ở " Vũ trung tuỳ bút",… Nhưng rồi cuộc sống thanh nhàn ấy đâu có được mãi giữa thời loạn lạc, khi gia cảnh ngày một sa sút khi người thân yêu lần lượt qua đời. Vị công tử con quan Tuần phủ Sơn Tây ngày nào, mỗi ngày một dấn bước vào giang hồ lưu lạc. Tất cả chỉ còn lại là kỉ niệm; kỉ niệm càng đẹp bao nhiêu thì càng buồn đau bấy nhiêu. Trang tuỳ bút của Đông Dã Tiều như rung lên bao thổn thức, như thấm đầy nước mắt: "Cuối mùa đông năm ấy, anh thứ hai ta từ phưowng xa trở về, lại cùng ta sớm tối được non một năm nữa. Nay anh hai đã mất rồi, cảnh gia đình tiêu diều, ta thì lưu lạc giang hồ, đoái nhìn non sông mờ mịt, khôn cầm giọt lệ". Bài tuỳ bút "Tự thuật" của Phạm Đình Hổ để lại trong lòng chúng ta nhiều ấn tượng và cảm xúc. Ấn tượng về một vị con quan được nuôi dưỡng và giáo dục trong một nền nếp Nho gia. Ấn tượng về một đứa con giàu lòng hiếu thảo, hễ mỗi khi nhắc đến cha mẹ là biểu lộ cả một tấm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn sâu sắc. Ấn tượng về một con người sớm có chí hướng tu thân, gắng sức và chuyên cần học tập, quyết làm nên sự nghiệp để cho cha mẹ và gia đình được vẻ vang. Trang tuỳ bút của Phạm Đình Hổ còn thể hiện một cốt cách sống đẹp: chan hoà với thiên nhiên, biết lấy cái đẹp của thiên nhiên để nuôi dưỡng tâm hồn mình, phát huy tài năng, trí tuệ của mình. Sống đẹp, hướng về tầm cao nhân văn, tầm cao trí tuệ là bài học, là tấm gương của Phạm Đình Hổ để lại cho đời mà chúng ta ngưỡng mộ.
Đề bài: Cảm nhận về bài Tự thuật của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút Bài làm "Tự thuật" là một trang văn thâm trầm, đậm đà và cởi mở trích trong "Vũ trung tuỳ bút", đúng là tiếng lòng của một bậc tài danh, trung hậu. Đại từ "ta" gợi lên sự gần gũi thân mật, thanh thản và ung dung làm cho người đọc tưởng như đang được trực tiếp nghe cụ Tế Đan Loan tâm tình, tâm sự. Đoạn thứ nhất tác giả kể về gia cảnh và chí hướng của mình. Tác giả cho biết, ông sinh năm Mậu Tý (1768) niên hiệu cảnh hưng thời Lê. Xuất thân trong một gia đình quý tộc quan lại, khi ông lên năm, sáu tuổi thì đấng tiên đại phu của ông đã thăng làm Tuần phủ Sơn Tây. Tuy là con quan, sống trong cảnh phú quý "dư thừa bổng lộc” nhưng ngay từ thuở ấu thơ, ông không thích ăn chơi đua đòi, không "ham mê" những cách chơi cây, đá, hoa, chim. Ông sống có chí hướng, coi việc ''lập thần hành đạo" (đạo trung, hiếu) là phận sự của kẻ làm trai; "được lấy văn thơ nổi tiếng ở đời để cho người ta biết con cháu nhà nọ, nhà kia" Biết rõ chí hướng của con, đăng tiên đại phu và bà cung nhân của ông rất hài lòng, "đều ban khen cả". Bố mẹ sớm qua đời, gia đình ngày một sa sút, phải sống lận đận giữa thời loạn lạc, ông càng thương nhớ mẹ cha, muốn noi gương chàng Tử Lộ ngày xưa mà không được, ông càng tủi cho thân phận cô đơn của mình. Câu văn của Phạm Đình Hổ như những tiếng than cất lên nhiều ai oán: "Thấm thoắt đã hơn 20 năm trời mà lời dạy của cha mẹ vẫn văng vẳng bên tai. Nay đến bước đường cùng lận đận, biết còn đội gạo vì ai! Chỉ than thử cùng trời xanh, chứ biết gửi lòng mình vào đâu!''. Nhắc lại điển tích Tử Lộ, một học trò nghèo mà học giỏi của Khổng Tử, thuở hàn vi từng đội gạo nuôi mẹ già, Đông Dã Tiều bộc lộ một cách cảm động lòng hiếu thảo của mình lúc nào cũng muốn được đền đáp công ơn của cha mẹ mà không thể nào được nữa. Đoạn văn thứ hai, tác giả "Vũ trung tuỳ bút" chân thật nói lên một vài cái "tật" của mình mà ông vô cùng hối hận. Thuở nhỏ, ông rất nghịch, thường hay lấy cái mũ trãi của bố ra đội và đùa bỡn, "dẫu cấm không cho chơi nghịch cũng không thể được". Một chút kỉ niệm ngây thơ hồn nhiên. Ông cho biết thời trai trẻ "bịt tai lại không muốn nghe" khi có người rủ rê chơi đùa những trò thanh sắc, nghề cờ bạc. Tuy học vỡ được ít kinh sử mà chữ Nôm thì ông không biết hết; câu ca, bản đàn chẳng ham vì "chẳng hiểu gì cả". Năm Giáp Thìn (1784) lên 16 tuổi, người anh trưởng dạy ông đánh cờ, nhưng cờ thấp nên "hễ đánh với ai là thua". Những trò chơi cờ bạc, phán thán, ông "vốn không thích", dù có thử tập chơi, nhưng chẳng hiểu cái thuật nó ra thế nào! Thanh sắc, cờ bạc vốn là trò đam mê của nhiều người nhưng Phạm Đình Hổ tự cảm thấy "tư chất mình, trời cho có phần mờ tối, không thể cưỡng mà học được các nghề chơi". Một cách nói hóm hỉnh, chân thành, cũng chẳng dám chê ai mà cũng chẳng hợm mình. Ông tự trách, tự phê phán mình về chuyện "mắc phải bệnh nghiện chè tàu" từ những ngày lưu lạc. Tuy khay chén thiếu thốn, tiền không đủ mua chè mà vẫn nghiện. Các thứ chè thơm tho đều mua nếm qua cả; muốn chừa mà không chừa được. Nhớ lời răn dạy của mẹ hiền ngày trước, ông vô cùng hối hận, mong tu chí "cố gắng sửa đổi". Đọc đoạn văn sau đây, ta cảm động biết bao trước tâm lòng thành thật của Phạm Đình Hổ: "Còn nhớ khi bà cung nhân ta hãy còn, người thương lấy những điều cờ bạc, chè rượu làm răn, mà ta nay đã ngoài ba mươi tuổi, bốn điều răn ấy đã phạm mất ba. Đêm thanh vắng suy xét, hối hận vô chừng. Ta vẫn mong cố gắng sửa đổi để khỏi phụ lời tiên huấn''. Chúng ta tưởng như tác giả đang cởi mở lòng mình để nhắn nhủ các bạn trẻ gần xa – những đứa con trong gia đình nên lấy làm răn về những chuyện rượu, chè, cờ bạc mà tu thân và lập chí, đừng ăn chơi đua đòi, sa ngã. Hiện nay, ở xứ ta có quá nhiều tự truyện, hồi kí, hồi ức,… Hầu như tác giả của những "tác phẩm" ấy đang tự vẽ lại bộ mặt mình, tự khoe mẽ mình một cách lố bịch. Đọc “Tự thuật" của Đông Dã Tiều, ta càng thấy rõ đức tính khiêm tốn, chân thật, chân tình,… mới có thể làm nên nhân cách văn hóa. Đoạn văn thứ ba trong bài "Tự thuật", tác giả nói lên sở thích và nếp sống văn hóa của mình từ thời trai trẻ. Lên 9 tuổi, ông đã học sách Hán thư được bốn năm; hồi cư tang bố "học hành bữa đực, bữa cái"; mãn tang mới học đến kinh. Vốn có năng khiếu văn chương và sớm có chí hướng "lấy thơ văn nổi tiếng ở đời" nên ông ham đọc sách cổ, thơ cổ, "không lúc nào rời tay". Trong nhiều năm ở lại quê nhà để hầu hạ mẹ già, ông sống với đèn sách, coi đèn sách là bầu bạn. Ngày nàơ cũng vậy, ăn cơm sáng xong, ông ra nhà khách đọc sách. Đêm nào cũng thức đến gà gáy (đọc sách) mới đi ngủ. Nếp tự học, tự nghiên cứu chuyên cần ấy mới tạo nên tầm vóc học vấn của tiên sinh sau này, để được tự hào nhận chiếu chỉ của vua Minh Mệnh ra làm Tế tửu Quốc tử giám. Sinh trưởng trong một gia đình quyền quý, nên thuở nhỏ Phạm Đình Hổ được sống trong một môi trường lí tưởng, rất ít người thời bấy giờ được hưởng thụ. Dinh thự bao la: nhà trung đường bảy gian, nhà khách năm gian, nhà nội tẩm. Trong nhà khách, "chồng chất mấy giá sách, tuỳ ý muốn đọc quyển nào thì đọc". Vườn hoa, cây cảnh đẹp như một công viên. Chiếc ao vuông ở phía tây nhà khách thả sen hồng và sen trắng; liễu xanh và cam quýt trồng bốn xung quanh bờ. Hoa nhài, hoa hồng, hoa ngâu, hoa mẫu đơn trồng năm ha cây, vài ba khóm nơi phía trong giáp sân nhà. Phía xa là cánh đồng làng, cách hàng rào tre, thấp thoáng một cái quán trơ trọi. Chiều nào cũng vậy, khi mặt trời xế, tiếng hát, tiếng kèn lá của mục đồng thổi " ti toe". Tiếng hát xa xa trên đồng nội chợt đánh thức giấc ngủ ngày. Vị công tử con quan Tuần phủ cảm thấy bâng khuâng, rung động bởi "hồn Đường", bởi "tiếng ca thuyền chài" ánh ỏi ở đầu bến Nhược Gia. Những đêm trăng đẹp quê nhà như đưa tác giả vào cõi mộng. Đi tản bộ quanh bờ ao ngắm cảnh lúc trăng mọc. Ngâm nga mấy câu thơ Đường. Tựa gốc dừa, bẻ bông tước lá thử chơi khi cành hoa phơ phất trước mặt. Rồi thơ thẩn trở về nhà khách khi "bóng nquyệt hương hoa vẫn còn phảng phất trên án thư, tràng kỉ”. Đoạn văn cuối bài "Tự thuật" đẹp như một bài thơ. Tâm hồn khách tài tử như được ướp hương hoa, nhưđược chiếu sáng bởi ánh trăng trên đồng nội, được ru bằng làn gió máu khúc đồng dao. Chính đó là suối nguồn cho bao cảm hứng đẹp để Phạm Đình Hổ trang trải và gửi gắm trên những trang văn thơ làm say lòng người ở " Vũ trung tuỳ bút",… Nhưng rồi cuộc sống thanh nhàn ấy đâu có được mãi giữa thời loạn lạc, khi gia cảnh ngày một sa sút khi người thân yêu lần lượt qua đời. Vị công tử con quan Tuần phủ Sơn Tây ngày nào, mỗi ngày một dấn bước vào giang hồ lưu lạc. Tất cả chỉ còn lại là kỉ niệm; kỉ niệm càng đẹp bao nhiêu thì càng buồn đau bấy nhiêu. Trang tuỳ bút của Đông Dã Tiều như rung lên bao thổn thức, như thấm đầy nước mắt: "Cuối mùa đông năm ấy, anh thứ hai ta từ phưowng xa trở về, lại cùng ta sớm tối được non một năm nữa. Nay anh hai đã mất rồi, cảnh gia đình tiêu diều, ta thì lưu lạc giang hồ, đoái nhìn non sông mờ mịt, khôn cầm giọt lệ". Bài tuỳ bút "Tự thuật" của Phạm Đình Hổ để lại trong lòng chúng ta nhiều ấn tượng và cảm xúc. Ấn tượng về một vị con quan được nuôi dưỡng và giáo dục trong một nền nếp Nho gia. Ấn tượng về một đứa con giàu lòng hiếu thảo, hễ mỗi khi nhắc đến cha mẹ là biểu lộ cả một tấm lòng thương nhớ, kính yêu và biết ơn sâu sắc. Ấn tượng về một con người sớm có chí hướng tu thân, gắng sức và chuyên cần học tập, quyết làm nên sự nghiệp để cho cha mẹ và gia đình được vẻ vang. Trang tuỳ bút của Phạm Đình Hổ còn thể hiện một cốt cách sống đẹp: chan hoà với thiên nhiên, biết lấy cái đẹp của thiên nhiên để nuôi dưỡng tâm hồn mình, phát huy tài năng, trí tuệ của mình. Sống đẹp, hướng về tầm cao nhân văn, tầm cao trí tuệ là bài học, là tấm gương của Phạm Đình Hổ để lại cho đời mà chúng ta ngưỡng mộ.
Cảm nhận về bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu Hướng dẫn Cảm nhận về bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu Bài làm Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Những tác phẩm của ông thường bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm như thế. Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Phú thường đạm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán, theo lời phú có thể, có vần và đăng đối theo cặp câu thơ tạo nên tính quy phạm rất rõ trong thể phú. Bài ca ngợi con sông lịch sử: sông Bạch Đằng. “Khách có kẻ: Giương buồm giong gió chơi vơi, Lướt bể chơi trăng mải miết. Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương, Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt. Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Nơi có người đi, Đâu mà chẳng biết.” “Khách có kẻ” trong “Bạch Đằng giang phú” là Trương Hán Siêu. Ông là một danh sĩ có tấm lòng ngay thẳng, cương trực và một tâm hồn phóng khóang. “Khách” mang cái thú vui hưởng ngoạn, ngao du trên con thuyền cùng trăng thăm thú những cảnh đẹp của đất trời. Biết bao nhiêu vùng miền “khách” đã đặt chân đến: Câu thơ thể hiện cái hoài bão được đi khắp bốn phương của “khách”, không ngại những vùng đất xa lạ, kì bí.Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh, vậy mà ‘Khách” cũng đã từng qua nhiều cảnh đẹp tương tự thế và mong mỏi được tiếp tục chuyến chu du: “Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”. Theo cánh buồm, Trương Hán Siêu đến với con sông Bạch Đằng: “Qua cửa Đại than, ngược bến Đông triều, Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo” “Bát ngát sóng kình muôn dặm” Con sông rộng và dài, mang một vẻ đẹp hùng vĩ. Cảnh núi non, bờ bãi tái hiện cảnh chiến trường một thời: “ Bờ lau san sát. Bến lách đìu hiu Sông chìm giáo gãy Gò đầy xương khô” Khung cảnh hoang vu với những “bờ lau”, “bến lách”. “Giáo gãy”, “xương khô” – con sổng Bạch Đằng để lại những dấu tích lịch sử rợn người. Nhưng đó là những dấu tích oai hùng của lujch sử chóng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Mang niềm tự hào, Trương Hán Siêu cũng bày tỏ nỗi niềm tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước: “ Buồn vì cảnh thảm Đứng lặng giờ lâu Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.” Những năm tháng của một thời oanh liệt cứ theo những con sóng Bạch Đằng lớp sau xô lớp trước mà trở về: Cũng là bãi đát xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao. Bạch Đằng một trận giao phong Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu Bạch Đằng một cõi chiến tràng, Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông”. Đó là những trang sử vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam: “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ Bầu trời đất chừ sắp đổi”. Và con sông Bạch Đằng tồn tại như một chứng nhân lịch sử: “Đến nay sông nước tuy chảy hoài Mà nhục quân thù khôn rửa nổi”. Rồi nhà thơ có nhũng chiêm nghiệm, bài học quý giá. Những chiến thắng lấy lừng vẻ vang đó một phần có được là do địa thế, máu chốt quan trọng là nhờ những con người tài năng đã cống hiến, hi sinh mình để bảo vệ độc lập dân tộc: “Quả là trời đất cho nơi hiểm trở Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an”. Trương Hán Siêu đồng thời ngợi ca Hưng Đạo Vương, người anh hùng vĩ đại thuở “bình Nguyên” oanh liệt: “Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”. Kết thúc bài phú, ông ca ngợi hai vị vua Trần đã có công giữ gìn và bảo vệ đất nước: “Anh minh hai vị thánh quân Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh” Hai vị “Thánh quân” được nhắc đến ở đây là Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Họ là những vị vua sáng suốt, anh minh, yêu nước thương dân đã khơi dậy sự đoàn kết, sức mạnh dân tộc để đem lại bài học giữ nước cho muôn đời sau.
Comments on the song "Phu Bach Dang River" by Truong Han Sieu Instruct Comments on the song "Phu Bach Dang River" by Truong Han Sieu Assignment Truong Han Sieu was a highly educated man who held many important positions in the royal court and made great contributions to the two resistance wars against the Yuan and Mongols. His works often express his love for his homeland and national pride. “Phu Bach Dang River” is such a work. Phu is an ancient literary form used to describe scenery, customs or personalities. Rich and lyrical. Bach Dang Giang Phu by Truong Han Sieu is written in Chinese characters, according to the words of the poem, rhymed and matched in pairs of verses, creating a very clear norm in the poem's form. A song praising the historic river: Bach Dang River. “Some guests: Raise your sails and let the wind play with you, Surfing the pool and playing with the moon engrossed. Soon knock on the boat for Nguyen Tuong, In the afternoon, I visited Vu acupuncture point. Cuu Giang, Five Lakes, Tam Ngo, Bach Viet. Where people go, I don't know where." "Some guest" in "Bach Dang Giang Phu" is Truong Han Sieu. He is a famous artist with an upright, upright heart and a liberal soul. "Guest" brings the joy of enjoying, traveling on a boat with the moon to visit the beautiful scenes of heaven and earth. How many regions have "guests" set foot in? The poem shows the "guest"'s ambition to travel to all four directions, not afraid of strange and mysterious lands. Van Mong Lagoon is a scenic spot, yet "Guest" has also experienced many similar beautiful scenes. So and look forward to continuing the trip: “Van Mong lagoon holds a few hundred in its stomach But the spirit of the four directions is still earnest." Following the sail, Truong Han Sieu came to Bach Dang river: “Through the Dai Than gate, back to the Eastern tide wharf, Go to Bach Dang river, float on the oar" "The vast waves are thousands of miles long" The river is wide and long, carrying a majestic beauty. Mountain and beach scenes recreate the battlefield scene of the past: “The reed banks are close. Ben spleen is sad The river sank and the spear broke Mounds full of dry bones" Deserted landscape with "reed banks" and "splash wharves". "Broken spear", "dry bones" - the Bach Dang escapee left behind horrifying historical traces. But those are the heroic traces of our nation's history of fighting foreign invaders. With pride, Truong Han Sieu also expressed his condolences to the heroes who sacrificed their lives for the country: “Sad because of the tragic situation Standing silently for a long time I feel sorry for the heroes who are absent Unfortunately, the traces of the beds still remain.” The years of a glorious time follow the waves of Bach Dang, the next class pushing against the previous class and returning: It is also the old beach where Lord Ngo destroyed Hoang Thao. Bach Dang a battle Hoang Thao was lost, Cong Kieu surrendered his head Bach Dang is a battlefield, Bones fly white to the ground, blood turns the river red." These are the brilliant golden pages of history of the Vietnamese people: “The light of the sun and moon must be dim The sky and earth are about to change." And the Bach Dang river exists as a historical witness: “Up to now, the river is still flowing But the enemy's humiliation cannot be washed away." Then the poet had valuable contemplations and lessons. Those glorious victories were partly due to the terrain, and importantly thanks to the talented people who devoted and sacrificed themselves to protect national independence: “What a heaven and earth for dangerous places Also thanks to: The talented person keeping the call safe." Truong Han Sieu at the same time praised Hung Dao Vuong, the great hero of the "Plain Plains" era: “Behold the great victory at Bach Dang battle Because the Great King considers the enemy to be at leisure." At the end of the poem, he praised the two Tran kings for their contributions to preserving and protecting the country: “You two holy soldiers This river washed away the armor several times." The two "Holy Monarchs" mentioned here are Tran Thanh Tong and King Tran Nhan Tong, who led the second and third resistance wars to defeat the Nguyen - Mongol invaders. They are wise, wise, patriotic kings who aroused national unity and strength to bring lessons to protect the country for generations to come.
Cảm nhận về bài “Thái sư Trần Thủ Độ” trích Đại Việt sử kí toàn thư Hướng dẫn Cảm nhận về bài “Thái sư Trần Thủ Độ” trích Đại Việt sử kí toàn thư Một nhà chính trị Đại Việt thời cuối nhà Lý đầu nhà Trần, ông là người đóng vai trò quan trọng trong việc lật đổ nhà Lý, lập nên nhà Trần. Ông là Trần Thủ Độ, có thể coi Trần Thủ Độ ông là người khai quốc công thần, là trụ cột của nhà Trần. Có rất nhiều bài viết, viết về con người ông, viết về gia đình và viết về công lao của ông trong triều đại nhà Trần cũng như công lao của ông đối với đất nước. Trong đó tiêu biểu là tác phẩm Đại Việt sử kí toàn sư của Ngô Sĩ Liên. Qua đoạn trích “ Thái sư Trần Thủ Độ”, Ngô Sĩ Liên đã thể hiện trọn vẹn con người của Trần Thủ Độ ở từ chốn quan trường cho tới các quan hệ xã hội, gia đình. Ngô Sĩ Liên mở đầu bài sử, ông dùng sự trang nghiêm, tôn kính để thông báo về cái chết của Thái sư Trần Thủ Độ, cái chết của ông là sự mất mát to lớn đối với dân tộc ta: “Giáp Tí, năm thứ bảy Mùa xuân, tháng giêng. Thái sư Trần Thủ Độ chết, truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương.” Qua các tình huống mà Ngô Sĩ Liên đã chọn để làm rõ con người thật của Thái sư cho dù là người không quen biết hay chưa từng gặp mặt ông cũng sẽ hiểu rõ Thái sư Trần Thủ Độ là con người như thế nào. Ở vào tình huống thứ nhất, với cách xử lí tài tình của Thái sư đã giúp cho mâu thuẫn của ông và vua Thái Tông được hòa giải nếu như ông không biết cách xử lí còn có thể dẫn đến những hậu quả hết sức khôn lường. Vì lúc này vua còn trẻ nên mọi việc triều chính hầu hết là do ông tiếp quản và xử lí nên người hặc đã sợ ông sẽ cướp nước hoặc cũng có thể một tay che trời để làm nhiều việc xấu bán nước hại dân. Vua lập tức dẫn người tới nhà Thái sư để hỏi rõ ngọn ngành xem xét sự việc ra sao. Thì trái với những gì nhà vua và người hặc đó nghĩ, rằng Thái sư sẽ chối tội, sẽ nổi giận trị tội người hặc kia. Nhưng Thái sư đã làm ngược lại điều đó làm cho tất cả mọi người ngạc nhiên. Khi nghe nhà vua hỏi xong Thái sư đầu tiên ông nhận lỗi “ đúng như lời người ấy nói”. Rồi ông tiếp tục đưa mọi người từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, ông lấy tiền thưởng cho người kia. Vào ở tình huống thứ nhất, mẫu thuẫn của ông với vua được giải quyết nhanh chóng và nhanh chóng dứt khoát. Sự khác thường của ông không phải là sự dị biệt, mà đó chính là “cây ngay không sợ chết đứng” cho thấy ông là người thẳng thắn, thật thà, chính trực thừa nhận lỗi lầm của mình, không ghen ghét, thù hận người khác đã vạch tội bản thân mà còn khích lệ tặng thưởng động viên cho người vạch tội. Người có quyền cao, chức trọng, có quyền cao hơn cả vua mà làm sai thì cũng không nên vì thế mà nịnh nọt vào hùa với nhau kết bè kéo phái. Nhưng với ông thì ông chỉ làm vậy với người có ý tốt, không lợi dụng, khiêu khích việc này làm tổn hại đến đất nước. Ở tình huống thứ ba- là tình huống phu nhân của ông muốn xin cho một người họ hàng làm chức quan nhỏ- chức câu đương, một chức dịch trong xã và lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân. Thái sư không cần suy nghĩ mà gật đầu ngay lập tức, lấy giấy bút ra để biên lấy họ tên quên quán của người đó. Hắn thật sự bất ngờ ngạc nhiên, trong đầu suy nghĩ chẳng lẽ Thái sư Trần Thủ Độ chỉ được vẻ bề ngoài công minh chính trực ngay thẳng chứ thực ra cũng giống như các vị quan quyền cao chức trọng thối nát như trước kia. Đúng là “ một người làm quan cả họ được nhờ”. Nhưng khi Thái sư nói “Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không ví như người câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt”. Đó là cái kết khiến mọi người thán phục khen ngợi Thái sư với cách xử lí để răn đe, làm gương cho những người có ý là nhờ vả người thân làm quan để được thơm lây. Với cách xử lí đó Thái sư vừa không làm mất lòng vợ mình mà lại vừa giữ được trọng trách của mình đối với đất nước. Mặt khác ở tình huống này còn cho chúng ta thấy được ông luôn luôn đặt lợi ích quốc gia lên đầu, công bằng, minh bạch, tài trí hơn người, không chấp nhận thói xu nịnh hót, biếu xén để được làm quan kể cả đó là người thân, họ hàng. Ngô Sĩ Liên ông đã cho chúng ta thấy con người thật của Thái sư còn thông qua tình huống thứ tư, tình huống cao trào và đặc sắc khi mà vua Thái Tông đề nghị phong tướng cho anh trai của Thái sư là An Quốc. Ông đã không chút suy nghĩ mà nói rằng: “An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho thần là người hiền hơn An Quốc thì không nên cứ An Quốc. Nếu anh em cùng làm tướng trong triều thì sẽ ra sao?”. Với tài trí, suy tính trước sau hơn người, ông đã suy xét rằng nếu để hai anh em cùng làm tướng trong triều sẽ không ít những hoài nghi, dị nghị và trong triều ắt hẳn nội bộ sẽ lục đục. Cho chúng ta thấy được sự tài trí thao lược, công tư phân minh, thẳng thắn, chính trực của Thái sư Trần Thủ Độ. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên là một nhà sử học tinh tế, ông đã chọn những chi tiết đắt giá để người đọc chỉ cần đọc đoạn trích “Thái sư Trần Thủ Độ” là đã hiểu tính cách và con người của Thái sư thẳng thắn, công tư phân minh, xử lí các mâu thuẫn bằng sự thông minh nhanh nhẹn của mình. Ông có công rất lớn trong việc thành lập nhà Trần và gìn giữ nhà Trần để đến ngày hôm nay các thế hệ sau muôn đời ghi nhớ công ơn.
Comments on the article "Grand Master Tran Thu Do" from Dai Viet's complete history book Instruct Comments on the article "Grand Master Tran Thu Do" from Dai Viet's complete history book A Dai Viet politician during the late Ly and early Tran dynasties, he played an important role in overthrowing the Ly dynasty and establishing the Tran dynasty. His name is Tran Thu Do, Tran Thu Do can be considered the founder of the country and the pillar of the Tran Dynasty. There are many articles, written about him, about his family and about his contributions during the Tran dynasty as well as his contributions to the country. Among them is the work Dai Viet Su Ky Toan Su by Ngo Si Lien. Through the excerpt "Grand Master Tran Thu Do", Ngo Si Lien fully expressed the personality of Tran Thu Do, from officialdom to social and family relationships. Ngo Si Lien opened the history, using solemnity and respect to announce the death of Grand Master Tran Thu Do. His death was a great loss to our nation: “Giap Ti, seventh year Spring, January. Grand Master Tran Thu Do died and was posthumously awarded to Patriarch Grand Master Trung Vu Dai Vuong. Through the situations that Ngo Si Lien has chosen to clarify the true personality of the Grand Master, even if someone does not know him or has never met him, he will clearly understand what kind of person Grand Master Tran Thu Do is. In the first situation, the Grand Master's skillful handling helped reconcile the conflict between him and King Thai Tong. If he did not know how to handle it, it could lead to extremely unpredictable consequences. . Because the king was still young at this time, most of the government affairs were taken over and handled by him, so the people were afraid that he would rob the country or could also single-handedly cover the sky and do many bad things to sell the country and harm the people. The king immediately led people to the Grand Master's house to ask clearly how the matter was considered. Contrary to what the king and that bad person thought, the Grand Master would deny the crime and would be angry and punish that bad person. But the Grand Master did the opposite, surprising everyone. When he heard the king's question, the first Grand Master admitted his mistake, "exactly as he said." Then he continued to bring people from one surprise to another, he took the bonus for the other person. In the first situation, his conflict with the king was resolved quickly and decisively. His unusualness is not a difference, but rather a "righteous tree that is not afraid to die" showing that he is a straightforward, honest, upright person who admits his mistakes, not jealous or hateful. Others have exposed their own sins, but they also encourage and reward those who expose them. If people with high authority, important positions, and authority higher than the king do wrong, they should not flatter each other and form factions because of that. But for him, he only does that to people with good intentions, does not take advantage or provoke this to harm the country. In the third situation - the situation where his wife wanted to ask for a relative to work as a minor official - a court officer, a service position in the commune and take care of arresting and escorting prisoners. The Grand Master did not need to think but nodded immediately, took out a pen and paper to write down the person's forgotten name. He was truly surprised and surprised, thinking in his mind that perhaps Grand Master Tran Thu Do only had a fair and upright appearance but was actually just like the corrupt high-ranking officials like before. It's true that "one person is an official and the whole family gets thanks". But when the Grand Master said, "Because you have a princess, you ask to be allowed to be a hooker. Unlike other hookers, you have to cut off a toe to distinguish yourself." That was the ending that made everyone admire and praise the Grand Master for his way of handling things to deter and set an example for those who intended to ask their relatives to become mandarins to gain favor. With that way of handling, the Grand Master not only did not offend his wife but also maintained his responsibility to the country. On the other hand, this situation also shows us that he always puts national interests first, is fair, transparent, more intelligent than others, does not accept flattery or bribery to be an official, even Those are relatives and relatives. Ngo Si Lien showed us the true personality of the Grand Master through the fourth situation, the climax and unique situation when King Thai Tong proposed to grant the title of general to the Grand Master's brother, An Quoc. He did not think twice and said: "An Quoc is my brother. If he was a gentle person, I would quit my job. But if I were considered a gentler person than An Quoc, I should not keep An Quoc. What would happen if you were both generals in the court? With his ingenuity and foresight beyond anyone else, he considered that if the two brothers were together as generals in the court, there would be many doubts and disagreements, and there would certainly be internal turmoil within the court. Shows us the strategic intelligence, public-private distinction, straightforwardness, and integrity of Grand Master Tran Thu Do. Historian Ngo Si Lien is a sophisticated historian. He has chosen valuable details so that readers only need to read the excerpt "Grand Master Tran Thu Do" to understand the personality and personality of the outspoken Grand Master. , distinguish between public and private, and handle conflicts with their intelligence and agility. He had great contributions in establishing the Tran Dynasty and preserving the Tran Dynasty so that today, future generations will forever remember his gratitude.
Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong Cảnh Ngày Xuân Hướng dẫn Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong Cảnh Ngày Xuân Bài làm Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật ” Truyện Kiều ” của Nguyễn Du là việc khắc họa tô điểm những bức tranh thiên nhiên tương xứng với hoàn cảnh và tâm trạng nhân vật chủ yếu là nhân vật Thúy Kiều. Đoạn trích ” Cảnh ngày xuân” là bức tranh phong cảnh mùa xuân và cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều. Một bức tranh tươi đẹp sống động nhưng vẫn hàm ẩn những nét buồn dự cảm một tương lai gần của Thúy Kiều. Bốn câu thơ đầu khái quát phong cảnh thiên nhiên với những nét đặc sắc của mùa xuân cùng bút pháp cổ điển cảnh thiên nhiên gợi lên theo trình tự thời gian, bút pháp chấm phá ước lệ: “Ngày xuân con én đưa thoi Thềm quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”. Hai câu thơ mở đầu vừa gợi không gian mùa xuân vừa diễn tả sự chẩy trôi của thời gian. Ngày xuân thấm thoát qua mau chín trục ngày xuân nay tiết trời đã sang tháng ba. Tháng cuối cùng của mùa xuân. Nhưng trên bầu trời thoáng đạt cao rộng ấy những cánh én vẫn rộn ràng trao liệng như thoi đưa. Dưới mặt đất mùa xuân đang kì sung sức. Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp trên nền cỏ xanh non bát ngát tận chân trời, nổi bật lên cận cảnh là điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Nguyễn Du tả cảnh mùa xuân là cỏ xanh bát ngát mênh mông tận chân trời. Màu xanh làm nổi bật màu trắng của bông hoa lê mới nở, chữ trắng được thêm vào đảo lên trước động từ và danh từ. Tạo lên sự bất ngờ mới mẻ khiến nét vẻ cảnh sắc trở lên có hồn tinh khôi, thanh thoát hơn. Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân quả là tuyệt bút, ngôn ngữ giàu chất tạo hình chất gợi và biểu cảm. Qua bức tranh thơ này người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi tắm, ấm áp của mùa xuân. Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Tám câu thơ tiếp theo tác giả tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và hoàn cảnh du xuân. Thanh minh trong tiết tháng ba áo quần như nêm. Lễ là tảo mộ đi thăm viếng sửa sang quét tước, rắc tiền giấy… Để tưởng nhớ người thân tổ tiên đã mất. Hội đạp thanh là vui chơi chốn đồng quê đạp lên những thảm cỏ xanh. Trong tiết thanh minh là sự giao hòa độc đáo giữa quá khứ và hiện tại. “Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm ”. Bốn câu thơ trên là ngôn ngữ tự sự tả bức tranh lễ hội. Một hệ thống danh từ, động từ, tính từ biểu hiện những hành động nhộn nhịp, náo nức, vui tươi của những người đi hội. Lễ viếng thăm xen kẽ ngày hội khiến cảnh ngày xuân càng thêm tưng bừng nhộn nhịp, vui tươi, ấm áp, người và cảnh quện hòa. Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao chùm tất cả nhân gian. Trong đó có hai chị em Thúy Kiều. Vậy thông qua chuyến du xuân của mọi người nhà thơ khắc họa một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa thật đẹp, thật sống động. Sáu câu cuối tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về Chị em thơ thẩn dan tay ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảch có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Khác với đoạn thơ mở đầu. Không còn không khí vui tươi hồ hởi, náo nức nữa. Âm điệu đoạn thơ trầm buồn bởi hội đã tan, cảnh sắc mùa xuân đã dần kết thúc. Sáng tiết trời còn trong trẻo tươi sáng, bầu trời nắng đã nhạt. Vậy bầu trời nắng đã nhạt khe nước nhỏ. Bước chân thơ thẩn đầy tâm trạng nhìn dòng nước uốn quanh khiến nao nao lòng. Cảnh vật lúc này đã nhuốm màu tâm trạng. Những từ láy tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày du xuân đang còn mà linh cảm về điều sắp tới đã xuất hiện, có gì đó vui buồn lẫn lộn. Dường như mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng. Trong bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến theo cảnh vật. Đầu hội – cuối hội và những linh cảm về tương lai đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình của nhà thơ Nguyễn Du.
Feelings about the natural painting in Spring Day Scene Instruct Feelings about the natural painting in Spring Day Scene Assignment One of the unique artistic features of "The Tale of Kieu" by Nguyen Du is the embellished depiction of natural paintings corresponding to the circumstances and moods of the main character Thuy Kieu. The excerpt "Spring Day Scene" is a painting of spring landscape and spring travel scene by Thuy Kieu sisters. A beautiful and vivid picture but still containing sad features that foreshadow Thuy Kieu's near future. The first four verses summarize the natural landscape with the unique features of spring with classic penmanship, evoking natural scenes in chronological order, and punctuated with convention: “On spring days, swallows shuttle The light shelf is ninety and over sixty Green grass reaches the horizon There are some blossoms on the white pear branch ". The opening two verses both evoke the spring atmosphere and describe the passage of time. The days of spring pass by quickly, and today the weather has turned to March. The last month of spring. But in that wide, open sky, the swallows' wings were still fluttering like a shuttle. Spring is in full swing underground. Beautiful spring painting on a background of green grass stretching to the horizon, highlighted in close-up by a few white pear flowers. Nguyen Du describes the spring scene as immense green grass stretching to the horizon. The blue color highlights the white color of the newly bloomed pear flower, white letters are added before verbs and nouns. Creating new surprises makes the landscape look more pure and elegant. The four lines of poetry describing the spring scene are truly masterpieces, the language is rich in evocative and expressive imagery. Through this poetic picture, the reader can feel the sensitive soul earnestly facing the clear, fresh, warm natural scenery of spring. Mass grave was the springboard algae bar". In the next eight verses, the author recreates the festival scene during the Qingming period and the spring travel situation. Qingming in March, clothes look like wedges. The ceremony is to sweep the grave, visit it, repair it, sweep it, sprinkle paper money... To commemorate deceased relatives and ancestors. Trampoline festival is about having fun in the countryside, pedaling on green grass. In Qingming, there is a unique harmony between the past and the present. "Near and far are excited to celebrate you The girls are shopping for spring Taming handsome actors and actresses Horse cars such as water wedge clothes ". The four verses above are narrative language describing the festival picture. A system of nouns, verbs, and adjectives expressing the bustling, exciting, and joyful actions of festival goers. The visit interspersed with festivals makes the spring scene even more bustling, joyful, warm, and people and scenery blend together. It seems like the light of spring and the joy of the festival are covering all humanity. Among them are two sisters, Thuy Kieu. So through everyone's spring trip, the poet portrays an ancient cultural festival tradition that is beautiful and vivid. The last six sentences describe the scene of Thuy Kieu's sisters returning from their spring trip The sisters leisurely crossed their arms and left Step by step along the top of Tieu Khe Once viewed, the style has a serene appearance The water flows around me Last occasion a small bridge crossing rapids". Different from the opening verse. There is no longer a joyful and exciting atmosphere. The tone of the poem is sad because the festival has ended and the spring scenery has gradually ended. In the morning, the weather was still clear and bright, the sunlight had faded. So the sunny sky has faded into a small stream. Wandering with moody steps, looking at the winding water, makes my heart flutter. The scene at this time was tinged with mood. The words evil, elegant, and uneasy not only express the nuances of the scene but also express the human mood. The feeling of wistfulness and excitement about a day of spring travel is still there but the premonition of what is to come has appeared, there is something mixed with joy and sadness. It seems that every natural painting in The Tale of Kieu is tinged with mood. In the natural painting of a spring day, people's moods also change with the scenery. The beginning of the festival - the end of the festival and those premonitions about the future are poet Nguyen Du's talent in describing love scenes.
Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên và tâm hồn nhà thơ ẩn trong các tác phẩm – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Chợt đám mây dừng lại trên trời cao, chợt bông hoa nghiêng mình trong nắng sớm, chợt tiếng chim sơn ca náo nức gọi xuân về, tất cả đã thành thơ, tất cả đã bước vào trang thơ đầy hương, đầy sắc màu. Thiên nhiên đẹp lắm, bức tranh thiên nhiên như sống dậy bởi hồn người, như được dệt bằng những vần thơ sống động. Từ một nhành hoa, một vệt nắng, đều ẩn chứa tâm hồn sâu kín của nhà thơ. Thiên nhiên do đó là khía cạnh nội dung vừa phong phú vừa đẹp đẽ trong thi ca mọi thời và thơ ca Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám cũng vậy. Các thi sĩ thường coi thiên nhiên là người bạn chia vui sẻ buồn. Hàn Mặc Tử đón nhận cảnh xuân sang bằng nắng ửng lên giàn hoa thiên lí, bằng làn gió tinh nghịch đùa giỡn bên tà áo ai đó: Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí: bóng xuân sang. (Mùa xuân chín) Mùa xuân bước nhẹ trên vần thơ, mùa xuân là nơi để người thi sĩ say sưa gửi tâm hồn mình vào đó. Cảnh xuân đẹp là thế, sống động là thế, mang đến sự sống trẻ trung trên nhành cây, trên vạn vật. Mùa xuân về, sao không có bướm, có hoa xoan nở mà chỉ thấy nắng xuân lấm tấm trên mái nhà tranh, chỉ thấy làn gió xuân tinh nghịch, chỉ thấy giàn thiên lí thay màu lá mới và ngào ngạt hương thơm. Tâm hồn nhà thơ bay theo gió, hòa trong nắng mới vàng hoe, dập dờn trên cánh hoa thiên lí. Sao anh không về chơi thôn Vĩ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. (Đây thôn Vĩ Dạ) Về nơi thôn Vĩ Dạ, cảnh phô ra bao sắc màu. Hàn Mặc Tử tưởng tượng thấy nắng mới lên trên hàng cau cao vút, thấy khu vườn xanh như ngọc bích thật đẹp, thật sáng trong, tinh khiết. Xứ Huế ơi! Nơi có thôn Vĩ Dạ, đẹp ban ngày, mộng về ban đêm. Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay. (Đây thôn Vĩ Dạ) Cảnh Huế về đêm thật đẹp nhưng chất chứa nỗi buồn cô đơn. Gió đi một đằng, mây đi một nẻo, tản mạn chia li. Nước cũng buồn thiu, bên bờ sông có hoa bắp lay uể oải. Nhà thơ buồn, buồn vì “nhân tình thế thái” buồn vì mảnh tình riêng tư. Nỗi buồn đó trào ra từ cảnh: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào. (Khi con tu hú) Tiếng tu hú vang lên náo nức gọi bầy, báo hiệu hè về trên đồng quê yên ả. Tiếng tu hú vang vào trong tù lay động cảnh quan của Tố Hữu, người chiến sĩ cách mạng đang bị giam cầm trong đó. Qua tiếng chim, Tố Hữu cảm nhận được mùa hè bằng lúa chiêm đương mẩy hạt, bằng trái cây mộng quả lắc lư trên cành cao, bằng tiếng ve ngân rộn ràng, bằng bắp cây mang màu vàng mẩy, bằng sắc nắng hồng tươi và con diều sáo đang nhào lộn trên bầu trời xanh cao rộng. Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không. (Khi con tu hú) Không phải ở trên lầu để ngắm cánh đồng, vườn cây, sân bắp và đôi con diều sáo nhởn nhơ trên trời cao, mà nhà thơ đang nằm trong tù hình dung, tưởng tượng ra. Nhà tù chỉ giam cầm được thể xác chứ không ngăn cản được tâm hồn nhà thơ. Cảnh tù thật ngột ngạt, tâm hồn thi sĩ vẫn vượt ra ngoài, trong cảnh mùa hè, bồng bềnh, lửng lơ. Thiên nhiên đẹp là thế, sống động là thế, cảnh có tình cảnh mới thực, mới gần gũi với con người. Bác Hồ – người chiến sĩ cách mạng tuy ở trong tù nhưng lòng mình vẫn hướng về quê hương đất nước, vẫn tha thiết với cảnh thiên nhiên đẹp đẽ bên ngoài: Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. (Ngắm trăng) Người xưa thường “uống rượu ngâm thơ chờ hoa quỳnh nở” đó là thú vui của những bậc hiền nhân quân tử, sống thanh bạch. Nhưng đối với Bác, rượu đâu có mà dùng, hoa quỳnh đâu có mà ngắm, chỉ có ánh trăng lửng lơ trên vòm trời cao, rải những tia nắng mờ ảo xuống chốn lao tù buồn tẻ âm u. Cảnh làm Bác quên đi những gì mệt nhọc, cảnh tìm đến Bác, xum vầy bên Bác. Ánh trăng và Bác hòa vào nhau gắn bó thiết tha, như người bạn tri kỉ, gần gũi. Và đây nữa, một bài thơ thiên nhiên thật hay của Bác. Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng Vui say ai cấm ta đừng Đường xa âu cũng bớt chừng quanh hiu. (Trên đường đi) Niềm lạc quan là nét nổi bật trong thơ Bác. Dù chân tay bị trói, bị xiềng, nhưng Người vẫn hòa mình vào thiên nhiên. Đâu đó có tiếng chim ca rộn núi, đâu đó có hương thơm ngào ngạt của hoa rừng. Tất cả đều vui với Bác, tất cả đều quyện trong tâm hồn Bác, xa mà gần, tuy hai mà một. Bác yêu thiên nhiên, mặc cho giam cầm về thể xác, mặc cho gian khổ của tù lao, có ai có thể tách thiên nhiên ra được, có ai có thể ngăn cản được tâm hồn Bác gắn bó với thiên nhiên? Rõ ràng thiên nhiên bao giờ cũng đẹp, bức tranh thiên nhiên bao giờ cũng gắn bó với tâm hồn người thi sĩ. Thiên nhiên như một tinh hoa để con người hưởng thụ, và gửi gắm tình cảm của mình vào nó. Tự ngàn xưa đến nay, thiên nhiên đã và vẫn bước vào thơ ca, và thơ ca vẫn ca ngợi thiên nhiên như người bạn muôn đời của mình. Cảnh có đẹp thì vần thơ mới sáng, cảnh có tình thì vần thơ mới thực, mới lung linh. Thiên nhiên thực sự đã chắp cánh cho cảnh và cho tình bay bổng trong những trang thơ hay của muôn đời. Tags:Văn 8
Feelings about the picture of nature and the poet's soul hidden in his works - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment Suddenly the clouds stopped high in the sky, suddenly the flowers leaned in the morning sunlight, suddenly the song of the nightingale excitedly called spring back, everything had become poetry, everything had entered the page of poetry full of fragrance and color. Nature is very beautiful, the picture of nature seems to come alive with human souls, as if woven with vivid poems. From a branch of flower, a streak of sunlight, the poet's deep soul is hidden. Nature is therefore an aspect of content that is both rich and beautiful in poetry of all times, and so is Vietnamese poetry before the August Revolution. Poets often consider nature a friend who shares joys and sorrows. Han Mac Tu welcomes the spring scene with sunlight shining on the Thien Ly flower trellis, with a playful breeze playing with someone's shirt: In the smoky sunlight, dreams vanish two thatched cottages with scattered yellow The rustling wind teased the hem of her blue shirt On the Thien Ly trellis: the spring shadow. (Spring ripe) Spring walks lightly on poetry, spring is a place for poets to passionately send their souls into. The spring scene is so beautiful, so lively, bringing youthful life to tree branches and all things. When spring comes, why aren't there any butterflies or neem flowers blooming, but only see the spring sunlight dappled on the thatched roof, only see the mischievous spring breeze, only see the thien ly trellis changing new leaf colors and fragrant. The poet's soul flies with the wind, blending in the new golden sunlight, fluttering on the petals of the thien ly flower. Why don't you go back and visit Vi village? New row sun sunny scowling look up The garden is so lush and green like jade Horizontal bamboo leaf cover complete typeface. (This is Vi Da village) Returning to Vi Da village, the scene shows many colors. Han Mac Tu imagined seeing the new sunlight rising above the tall areca trees, seeing the garden as green as jade, so beautiful, so bright and pure. Oh Hue! Where Vi Da village is located, beautiful during the day, dreamy at night. The wind follows the wind, the clouds follow the clouds The water is sad and the cornflowers are swaying Whose boat is docked at the moon river? Keep carrying moon tonight. (This is Vi Da village) The scenery of Hue at night is beautiful but filled with sadness and loneliness. The wind goes one way, the clouds go another, scattered and separated. The water is also sad, on the riverbank there are cornflowers swaying lazily. The poet is sad, sad because of the "worldly situation" and sad because of his private love. That sadness flows out from the scene: When you howl and call the herd The rice is ripening and the fruit gradually becomes sweeter The shady garden is filled with the sound of cicadas Yellow sifted corn fills the sunny peach yard. (When I howl) The howling sound rang out excitedly calling the herd, signaling the return of summer to the quiet countryside. The howling sound echoed into the prison, shaking the vision of To Huu, the revolutionary soldier imprisoned there. Through the sound of birds, To Huu feels the summer by the rice sprouting, by the fruit swaying on high branches, by the bustling sound of cicadas, by the yellow-colored corn, by the bright pink sunshine and The starling kite is somersaulting in the wide blue sky. The blue sky is wider and higher A pair of starling kites somersaulted through the air. (When I howl) Not upstairs to see the fields, gardens, cornyards and a pair of starling kites floating high in the sky, but the poet in prison visualized and imagined. Prison can only imprison the poet's body but not his soul. The prison scene is stifling, but the poet's soul still goes outside, in the summer scene, floating and suspended. Nature is so beautiful, so lively, scenes with real situations, so close to people. Even though Uncle Ho - a revolutionary soldier was in prison, his heart still gravitated towards his homeland and country, still passionate about the beautiful natural scenery outside: In prison there is neither alcohol nor flowers The beautiful scene tonight is hard to ignore People look at the moonlight outside the window Moon peeked poet watching the door. (Watching the moon) Ancient people often "drank wine and recited poems waiting for the flowers to bloom" which was the pleasure of the wise and noble men who lived a pure life. But for Uncle Ho, there was no wine to drink, no flowers to look at, only the moonlight hovering high in the sky, spreading dim rays of sunlight into the dull and dark prison. The scene made Uncle forget all the tiring things, the scene of coming to Uncle Ho and spending time with him. The moonlight and Uncle Ho merged together and were closely attached, like close, soulful friends. And here too, a beautiful nature poem by Uncle Ho. Birds sing loudly in the mountains, fragrance wafts through the forest Having fun, no one forbids me Far away roads are also less lonely. (On the road) Optimism is a prominent feature in Uncle Ho's poetry. Even though his hands and feet were tied and chained, he still immersed himself in nature. Somewhere there is the sound of birds singing in the mountains, somewhere there is the sweet scent of forest flowers. Everything is happy with Uncle Ho, everything is intertwined in Uncle Ho's soul, far yet near, two yet one. He loved nature, despite physical imprisonment, despite the hardships of prison, who could separate nature, who could prevent his soul from being attached to nature? Obviously nature is always beautiful, natural paintings are always attached to the poet's soul. Nature is like an quintessence for people to enjoy, and to put their emotions into it. From ancient times to the present, nature has and still enters poetry, and poetry still praises nature as its eternal friend. If the scene is beautiful, the poetry will be bright; if the scene has love, the poetry will be real and sparkling. Nature has truly given wings to scenes and love to soar in the beautiful pages of eternal poetry. Tags: Literature 8
Đề bài: Cảm nhận của em về bức tranh thu trong Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến Bài làm Mùa thu là một trong những đề tài lớn của thơ ca nhân loại. Nói tới đề tài này trong thơ ca Việt Nam chúng ta có thể kể tới rất nhiều tác giả với những sáng tác xếp vào hàng kiệt tác, trong số đó có Nguyễn Khuyến với chùm ba bài thư thu. Mỗi bài trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu đặc sắc, và Câu cá mùa thu được đánh giá là "điển hình hình cho thơ ca mùa thu của làng cảnh Việt Nam" (Xuân Diệu). Cảnh thu trong bài được đón nhận từ nhiều góc độ khác nhau: từ gần đến xa, từ thấp lên caọ, từ hẹp đến rộng… Dưới nhiều góc độ như vậy, cảnh sắc mùa thu được mở ra nhiều hướng thật sinh động và gợi cảm. Từ ao thu đến trời thu rồi đến đường thôn xóm… tất cả đều toát lên cái hồn thu, cảnh thu xiết bao thân thuộc của làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Cái hồn ấy được gợi lên từ những khung cảnh, những cảnh vật hết sức thanh sơ: ao nhỏ trong veo, thuyền câu bé tí, sóng biếc gợn, lá vàng khẽ đưa, tảng mây lơ lửng, ngõ trúc quanh co… sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh của nước tạo nên một không gian xanh trong, dịu nhẹ, một chút sắc vàng của lá rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sống động. Những đường nét, màu sắc… gợi lên trong tướng tượng của người đọc khung cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao rộng, khoáng đạt, những ao chuông trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian… Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đểu rất đỗi bình dị, dân dã. Khung cảnh ấy vận thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành đã bao lần đến trên quê hương của mỗi chúng ta. Cảnh trong Câu cá mùa thu là cảnh đẹp nhưng cũng tĩnh lặng và đượm buồn. Một không gian vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sự vận động cũng có nhưng chỉ là những vận động rất nhẹ, rất khẽ: sóng hớt gợn, lá khẽ đưa mây lơ lửng… âm thanh tiếng cá đớp mồi thì mơ hổ. Những vận động này không làm cho không khí của bức tranh thu trở nên sôi động mà chỉ càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng của nó. Mọi cảnh, mọi vật trong bức tranh thu này đều gợi cái tĩnh lặng và đượm buồn. Cái lạnh lẽo, trong veo của nước, cái biếc của sóng, cái xanh ngắt của trời… những trạng thái, màu sắc đó cho thây một sự tĩnh lặng đang bao trùm từ bầu trời cho đến mặt đất. Mọi cái dường như không chuyển động, dường như rơi vào trạng thái im vắng đến tuyệt đối. Cả con người ở đây cũng vậy. Người ngồi câu trong trạng thái tựa gối ôm cần, không câu được cá nhưng dường như vẫn không hề sốt ruột, cái không chi toát lên ở vẻ bề ngoài mà là ở chiều sâu của tâm tư – một tâm tư dường như cũng tĩnh lặng tuyệt đối. Con người và cảnh vật một cách tự nhiên đã hoà nhịp cùng nhau tạo nên linh hồn cho bức tranh thu. Cái tĩnh, cái buồn rõ ràng là trạng thái của cảnh vật ở đây tuy nhiên, đó không phải là cái tĩnh của sự chết lặng, thiếu vắng sức sống, cũng không phải là cái buồn của sự bi lụy, chán chường. Gắn với cái buồn, cái tĩnh này vẫn là sự trong sáng, thơ mộng và sức sống muôn đời bất diệt của thiên nhiên xứ sở. Phải gắn bó tha thiết với quê hương, phải có một tâm hồn nhạy cảm đến độ nào thì Nguyễn Khuyến mới có thể tái hiện một cách tài tình tất cả vẻ đẹp xiết bao bình dị mà nên thơ của mùà thu làng quê Bắc Bộ vào trong những vần thơ tự nhiên, giản dị đến thế. Thơ thu Việt Nam giàu có, đặc sắc hơn bởi những vần thơ như thế của Nguyễn Khuyến.
Topic: My feelings about the autumn painting in Autumn Fishing by Nguyen Khuyen Assignment Autumn is one of the great themes of human poetry. Talking about this topic in Vietnamese poetry, we can mention many authors whose compositions are considered masterpieces, among them is Nguyen Khuyen with a series of three collected letters. Each poem in Nguyen Khuyen's collection of autumn poems is a unique autumn picture, and Autumn Fishing is considered "a typical example of autumn poetry of Vietnamese landscape villages" (Xuan Dieu). The autumn scene in the article is received from many different angles: from near to far, from low to high, from narrow to wide... From so many angles, the autumn scenery opens up in many directions, truly vivid and evocative. have a cold. From the autumn pond to the autumn sky to the village roads... everything exudes the soul of autumn, the familiar autumn scene of the Northern Delta villages. That soul is evoked from the very pure scenes and scenes: small clear ponds, tiny fishing boats, blue waves, gently swaying yellow leaves, floating clouds, winding bamboo alleys... the green color. of the sky mixed with the blue of the water to create a clear, gentle green space. A bit of yellow from the fallen leaves on that green background makes the autumn scene and autumn soul even more vivid. The lines, colors... evoke in the reader's imagination the scene of a peaceful autumn morning in a northern village with a high, wide, open autumn sky, clear bell ponds reflecting the color of the sky, The colors of the leaves, the villages with small, winding, bamboo-colored green roads, the cool autumn wind gently stirs the water surface, occasionally a few fallen leaves cut across the space... In this autumn picture all the scenes are It appears very simple and rustic. That scene often appears every autumn in the countryside and enters the minds of many people, but for the first time, Nguyen Khuyen painted it with its natural charisma and makes us surprised. emotion. It is a clear, pure, cool autumn that has come many times in each of our homelands. The scene in Autumn Fishing is beautiful but also quiet and sad. A space with no people and no sound: The winding bamboo alley is empty of customers. There is movement, but it is only very light, very gentle movement: waves rippling, leaves gently move clouds... the sound of fish biting bait is vague. These movements do not make the atmosphere of the autumn painting exciting but only increase its stillness. Every scene and every object in this autumn painting evokes stillness and sadness. The coldness and clarity of the water, the blueness of the waves, the blueness of the sky... those states and colors show a calmness that covers from the sky to the ground. Everything seemed motionless, seemingly falling into a state of absolute silence. The same goes for the people here. The person sitting and fishing is resting on his knees holding the rod, not being able to catch a fish but still seems not to be impatient at all. What shows is not only in his appearance but in the depth of his mind - a mind that also seems to be calm. absolute. People and landscapes naturally harmonize together to create the soul of the autumn painting. The stillness and sadness are clearly the state of the scene here, however, it is not the stillness of numbness, lack of vitality, nor is it the sadness of sadness and boredom. Associated with this sadness and stillness is still the purity, poetry and eternal vitality of the country's nature. One must be deeply attached to his homeland and have a sensitive soul in order for Nguyen Khuyen to be able to skillfully recreate all the simple yet poetic beauty of the autumn of the Northern countryside. in such natural, simple poems. Vietnamese autumn poetry is richer and more unique thanks to poems like that of Nguyen Khuyen.
Đề bài: Cảm nhận về chuyện Con hổ có nghĩa Bài làm Con hổ có nghĩa nói về chuyện bà đỡ Trần và bác tiều thu gặp hổ, và đã được hổ đền ơn đáp nghĩa. Truyện đề cao đạo lí ân nghĩa thuỷ chung ở đời. Truyện gồm có hai phần, phần nào cũng tinh giản mà kì thú, gợi cảm. Ở đây ta nói về mẩu chuyện bà đỡ Trần gặp hổ. Tình huống li kì hồi hộp: đêm, nghe tiếng gõ cửa, bà đỡ ra mở cửa, rồi bị con hố lao tới cõng bà đi. Bị hổ bắt làm sao mà sống được? Bà đỡ, ban đầu sợ đến chết khiếp. Hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng tay rẽ lối chạy vào rừng sâu. Phải chăng hổ bắt được mồi, nên vội vã tha mồi về hang?. Nhưng cái cử chỉ một chân ôm lấy bà, một tay rẽ lối của hố thì có vẻ như nương nhẹ, cẩn trọng? Một tình tiết hồi hộp, hấp dẫn. Cảnh thứ hai cũng đầy kịch tính. Bà đỡ nhìn thấy hố’ cái đang lăn lộn cào đất, bà đỡ run sợ không dám nhúc nhích. Bà sợ lắm vì tưởng là hổ định ăn thịt mình. Hổ đực dùng cử chỉ để thay lời nói. Nó nhỏ nước mắt, thương hổ cái lắm. Nó "cầm tay bà nhìn hổ cái" như kêu van, như xin được cứu giúp. Người và hổ đã tương tri, đã biết cảnh ngộ nhau, biết tấm lòng của nhau. Bà đỡ rất cần mẫn, có tay nghề giỏi, bà chỉ nhìn bụng hổ cái như có cái gì động đậy, thế là bà biết ngay hổ cái sắp đẻ. Thật nhân đức, bà đỡ hoà thuốc với nước suối cho hổ cái uống, bà còn dán xoa bụng cho hổ. Cử chỉ của bà đầy tình thương. Đã mấy ai trong thiện hạ dám đưa tay xoa bóp bụng hổ. Với bà đỡ Trần thì hổ cái là một sản phụ, đang đau đẻ, cần giúp đỡ để cứu cả mẹ lẫn con. Cảnh thứ ba là cảnh hổ cái đẻ con và hổ đực đưa tiễn bà đỡ. Hổ đực rất tình cảm và có nghĩa. Nó vui mừng đùa giỡn với con. Nó quỳ xuống bên một gốc cây, lấy tay đào lên một cục bạc để tặng bà đỡ. Nó đứng dậy đi, quay nhìn bà để ra hiệu đưa tiến bà về. Nghe bà đỡ nói: Xin chúa rừng quay về, nó cúi đầu vẫy đuôi, rồi gầm lên một tiếng. Cảnh tiễn biệt đầy lưu luyến và sâu nặng tình nghĩa biết bao!. Câu chuyện thật hay, thật hồi hộp cảm động. Người đỡ đẻ, giúp hồ cái mẹ tròn con vuông. Hổ đền ơn người một cục bạc, nhờ món quà ấy mà bà đỡ sống qua được năm mất mùa đói kém. Chuyện cũng là chuyện người. Bài học đền ơn đáp nghĩa thật kỳ thú, gợi cảm.
Topic: Feelings about the story The Tiger has meaning Assignment The tiger is meant to talk about the story of midwife Tran and Uncle Thieu meeting the tiger, and being rewarded by the tiger. The story promotes the morality of gratitude and fidelity in life. The story consists of two parts, each part is simple but interesting and sexy. Here we talk about the story of midwife Tran meeting a tiger. Thrilling and suspenseful situation: at night, hearing a knock on the door, the midwife opened the door, and then a fox rushed to carry her away. How can you live if you are caught by a tiger? The midwife was initially scared to death. The tiger used one leg to hug her and run like flying. Whenever he encountered bushes or thorns, he used his hand to turn the path and run into the deep forest. Could it be that the tiger caught the prey, so he quickly took it back to the cave? But the gesture of hugging her with one leg and one hand turning the path of the hole seems gentle and careful? A suspenseful, engaging episode. The second scene is also dramatic. The midwife saw the female hole rolling around and scratching the ground. The midwife trembled and did not dare to move. She was very scared because she thought the tiger was planning to eat her. Male tigers use gestures to replace words. It shed tears, feeling very sorry for the tigress. It "held her hand and looked at the tigress" as if pleading, as if asking for help. Humans and tigers had mutual understanding, knew each other's plights, and knew each other's hearts. The midwife was very diligent and skilled. She just looked at the tigress's belly as if something was moving, so she knew immediately that the tigress was about to give birth. Truly benevolent, the midwife mixed medicine with spring water for the tigress to drink. She also rubbed the tiger's belly. Her gesture was full of love. How many people in this world have dared to reach out and massage the tiger's belly? To midwife Tran, the tigress is a pregnant woman, in labor, needing help to save both mother and child. The third scene is the scene of the female tiger giving birth and the male tiger seeing off the midwife. Male tigers are very affectionate and meaningful. It happily plays with its children. He knelt down next to a tree, used his hand to dig up a piece of silver to give to the midwife. He stood up and turned to look at her to signal to take her home. Hearing the midwife say: Please come back, Lord of the forest, he bowed his head and wagged his tail, then roared. The farewell scene is full of nostalgia and deep gratitude! The story is really good, very emotional and suspenseful. The midwife helps the mother to have round and square babies. The tiger returned her favor with a piece of silver. Thanks to that gift, the midwife survived the year of poor harvest and famine. Stories are also human stories. The lesson of giving back gratitude is interesting and sexy.
Cảm nhận về các em bé đáng thương trong các tác phẩm đã học – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài làm Trẻ em là những mảnh hồn trong trẻo, là sự khởi đầu của những cuộc đời. Trong những trang văn: “Gió lạnh đầu mùa” của Thạch Lam, “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng, “Bố của Xi-mông” của Mô-pa-xăng, trẻ em đều rất đáng yêu, đáng quý, đáng thương. Đến với truyện ngắn “Gió lạnh đầu mùa”, người đọc có cảm giác ấm áp khi được chứng kiến sự thơm thảo của những tấm lòng trẻ thơ nhân hậu. Mùa đông đến, đem theo những cơn gió lạnh là nỗi lo sợ của những đứa trẻ nhà nghèo. “Chúng ăn mặc không khác ngày thường, vẫn những bộ quần áo nâu bạc rách vá nhiều chỗ”. Và thế là mùa đông lạnh lẽo đã hành hạ chúng: “Hôm nay, môi chúng tím lại và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi, mỗi cơn gió đến, chúng lại run lên, hai hàm răng đập vào nhau” Cuộc đời đã không mỉm cười với những đứa trẻ nhà nghèo. Trong đám trẻ nhà nghèo, hình ảnh bé Hiên được mô tả tỉ mỉ nhất. Hiên đứng co ro bên cột quán: “chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay”. Manh áo rách kia không đủ che ấm cho em trong thời tiết mùa đông khắc nghiệt. May mà cuộc sống còn có tình thương. Tình thương của chị em Sơn đem đến cho Hiên. Khi thấy Hiên đứng co ro chịu rét, áo rách tả tơi, Sơn đã động lòng thương. Sơn bàn với chị Lan lấy chiếc áo bông cũ của đứa em đã mất cho Hiên. Khi chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy áo, “Sơn đứng lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui”. Thì ra cái bản chất tự nhiên của con người là nhân hậu, là hướng thiện. Cái hăm hở của bé Lan mới đáng quý làm sao. Đó không chỉ là biểu hiện ngây thơ của tuổi trẻ mà còn là hành động của một tấm lòng ấm áp tình yêu thương. Giữa bao nhiêu giá rét của mùa đông vẫn còn sự ấm áp của những tấm lòng nhân hậu. Bằng việc làm của mình, bằng sự gần gũi thân thiết, Sơn và Lan đã vượt qua bức tường ngăn cách của hai tầng lớp giàu nghèo đến với đám trẻ nhà nghèo, trong vòng tay bè bạn. Đọc “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng, ta gặp phải một bé Hồng sớm phải chịu những mất mát, thiếu thốn về tình cảm, tuổi thơ của Hồng không được sống trong mái ấm gia đình. Từ bé, bé đã mất cha, xa mẹ. Chắc chỉ có Chúa mới biết chú đã khóc bao nhiêu lần trong nỗi đau khổ, dằn vặt. Và trái tim non nớt của chú đã bao lần nức nở trước những lời bàn tán về mẹ không lấy gì làm tốt đẹp, đầy tâm địa xấu xa của bà cô: “Hai tiếng em bé mà cô tôi ngân dài ra thật ngọt, quả nhiên đã xoắn chặt lấy tâm can tôi như ý cô tôi muốn”. Tuy vậy, Hồng đã tự khẳng định tình yêu thương mẹ của mình: “Nhưng đời nào tình yêu thương và lòng kính trọng mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến… Mặc dầu nom một năm ròng mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thăm tôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy một đồng quà”. Hồng không ruồng rẫy mẹ. Em xót xa khi thấy mẹ chưa đoạn tang thầy mà đã phải xa quê để chửa đẻ với người khác. “Lòng tôi thắt lại, khóe mắt tôi cay cay”, rồi (nước mắt tôi đã ròng ròng rớt xuống hai bèn mép rồi chan hòa và đầm đìa ở cằm, ở cổ”. Nỗi đau đớn ấy đã khiến cho “cổ họng tôi đã nghẹn ứ không khóc ra tiếng”. Hồng đã khóc, khóc bởi thương mẹ bị đọa đày, bị đối xử một cách bất công, vô nhân đạo. Tuy nhiên từ tận đáy sâu tâm hồn Hồng vẫn còn le lói một ngọn lửa của niềm tin, niềm tin thiêng liêng của một người con luôn hướng về mẹ. Hồng đã cất lên tiếng khóc đầy hạnh phúc khi gặp lại người mẹ muôn vàn kính yêu của mình. Ta hiểu rằng để có được tiếng khóc ấy chú bé đã phải chờ đợi mỏi mòn suốt bao tháng ngày dài đằng đẵng. Đọc những trang tác phẩm của Nguyên Hồng, chúng ta cảm thông trân trọng bé Hồng và thấm thía sâu sắc tấm lòng nhân đạo sáng ngời của nhà văn. Đến với truyện ngắn “Bố của Xi-mông” của nhà văn Mô-pa-xăng, ta gặp chú bé Xi-mông không có bố. Em sống và lớn lên trong tình yêu thương và bàn tay chăm sóc của mẹ. Một lần, bị bạn bè chế giễu, quá đau đớn, em đã lang thang ra bờ sông và định tìm đến cái chết. Thế nhưng thiên nhiên đã thức tỉnh em: “Một chú nhái con màu xanh lục nhảy dưới chân em. Em định bắt nó, nó thoát được. Ém đuổi theo nó và lại vồ hụt ba lần liền”. Hình ảnh chú nhái gợi cho Xi-mông nhớ tới một thứ đồ chơi ở nhà, rồi gợi cho em nhớ đến nhà, đến mẹ và em đã khóc. “Người em run lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hết được bài kinh vì những cơn nức nở lại trở lại, dồn dập, xốn xang, choáng ngợp lấy em”. Xi-mông hiện lên thật đáng thương. Em phải sống trong hoàn cảnh thiếu bàn tay chăm sóc của cha và chịu sự trêu chọc của bạn bè. Nỗi đau ấy như một bàn tay vô hình bóp lấy trái tim thơ ngây của em. Em chỉ biết khóc. Không biết em đã khóc bao nhiêu lần? – Bố tớ đấy, bố tớ là Phi-lip Rê-mi (…) bố tớ hứa sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt tớ”. Những tiếng nói thật mạnh mẽ và tự hào. Đó cũng là tiếng nói của lòng tin, đem đến cho người đọc cảm giác ngọt ngào, sưởi ấm lòng người, hướng lòng người vươn tới cái thiện, cái đẹp. Thạch Lam, Nguyên Hồng, Mô-pa-xăng đã dẫn ta vào thế giới của trẻ em. Thế giới ấy có nắng nhẹ, trời trong, có cả những giọt nước mắt đau khổ nhưng trội lên là những tâm hồn trắng trong, nhân hậu. Các em thật đáng thương, đáng quý, đáng yêu. Qua hình ảnh các em, các nhà văn đã cất lên một tiếng nói phê phán xã hội xấu xa, vô nhân đạo đã chà đạp lên cả những tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên trong trắng, cướp đi cả cuộc sống và ước mơ bình dị của các em. Hôm nay, đọc lại những trang tác phẩm đó của nhà văn, chúng ta càng hiểu thêm những gì tốt đẹp mà xã hội mới đã đem lại cho tuổi thơ chúng ta, chúng ta thấy mình càng phải sống sao cho có ý nghĩa hơn, có ích cho đời hơn. Tags:Văn 8
Feelings about the poor children in the works studied - Topics and sample essays 8 Instruct Assignment Children are pure souls, the beginning of lives. In the pages of literature: "The first cold wind of the season" by Thach Lam, "In the womb" by Nguyen Hong, "Simong's father" by Mopasan, children are all very lovely, precious, and pitiful. . Coming to the short story "The First Cold Wind of the Season", readers have a warm feeling when witnessing the warmth of the kind hearts of children. Winter comes, bringing with it cold winds, the fear of poor children. "They dressed no differently than usual, the same silver-brown clothes that were torn and patched in many places." And so the cold winter tormented them: "Today, their lips are purple and their clothes are torn, their skin is dark, every wind comes, they tremble, their teeth chatter together." Life does not smile on poor children. Among poor children, the image of little Hien is described most meticulously. Hien stood huddled next to the shop's pillar: "only wearing a tattered shirt, her back and arms were exposed." That torn piece of clothing is not enough to keep me warm in the harsh winter weather. Luckily, life still has love. The love the Son sisters brought to Hien. When he saw Hien standing huddled in the cold, her shirt torn, Son felt sorry for her. Son discussed with Lan to get the old cotton shirt of her deceased brother for Hien. When Ms. Lan eagerly ran home to get her shirt, "Son stood quietly and waited, suddenly feeling warm and happy in her heart." It turns out that human nature is kind and good. Lan's eagerness is so precious. It is not only an innocent expression of youth but also an act of a warm heart of love. Amid all the coldness of winter, there is still the warmth of kind hearts. By their work, by their closeness, Son and Lan have overcome the wall separating the two rich and poor classes to reach the children of poor families, in the arms of friends. Reading "Childhood Days" by Nguyen Hong, we encounter a young Hong who early suffered loss and emotional deprivation. Hong's childhood was not lived in a warm family home. From a young age, he lost his father and was separated from his mother. Only God knows how many times he cried in pain and torment. And his young heart had sobbed many times at his aunt's gossip about his mother, which was not nice and full of bad intentions: "The two baby sounds that my aunt cried out were so sweet, so sweet." "Naturally, it has twisted my heart tightly as I wanted." However, Hong affirmed her love for her mother: "But there is no way my mother's love and respect would be violated by dirty thoughts... Even though my mother did not send me anything for a whole year." I took a letter, asked the person who visited me to say a word and sent me a gift." Hong did not abandon her mother. I felt sad when I saw that my mother had not finished mourning her teacher but had to leave her hometown to give birth to someone else. "My heart is tight, the corners of my eyes are stinging", then (my tears have flowed down my cheeks and then mixed and flowed down my chin and neck". That pain has made "my throat I was so choked up that I couldn't cry out." Hong cried, crying because she felt sorry for her mother who had been tortured and treated unfairly and inhumanely. However, from the depths of her soul, a flame of kindness still glimmered The sacred faith and trust of a child always towards his mother. Hong cried out happily when he met his beloved mother again. I understand that in order to have that cry, the boy had to cry waiting tirelessly for many long days and months. Reading the pages of Nguyen Hong's work, we sympathize and appreciate little Hong and deeply understand the writer's shining humanitarian heart. Coming to the short story "Simong's Dad" by writer Mopasan, we meet the little boy Ximon who has no father. I live and grow up in my mother's love and caring hands. One time, being ridiculed by her friends, she was so hurt that she wandered to the riverbank and intended to die. But nature awakened her: “A green frog jumped at my feet. I was going to catch it, but it escaped. I chased it and missed it three times in a row." The image of the frog reminded Simon of a toy at home, then reminded him of home, of his mother, and he cried. “My body trembled, I knelt down and recited a prayer like before going to bed. But I couldn't finish reading the prayer because the sobs came back, overwhelming, overwhelming, overwhelming me." Cement appears so pitiful. I had to live without my father's caring hands and be teased by my friends. That pain was like an invisible hand squeezing my innocent heart. I just cry. I wonder how many times I cried? – That's my dad, my dad is Philip Re-mi (...) my dad promised to pull the ears of everyone who bullies me." The voices were strong and proud. It is also the voice of faith, giving readers a sweet feeling, warming their hearts, guiding their hearts to reach goodness and beauty. Thach Lam, Nguyen Hong, Mopasan have led us into the world of children. That world has gentle sunshine, clear sky, and even tears of pain, but what prevails are pure, kind souls. You guys are so pitiful, precious, and adorable. Through the images of children, writers have raised a voice to criticize the evil and inhumane society that has trampled on even the innocent and pure young souls, robbing them of their simple lives and dreams. of the children. Today, re-reading those pages of the writer's work, the more we understand the good things that the new society has brought to our childhood, the more we feel we have to live more meaningfully. more useful for life. Tags: Literature 8
Cảm nhận về cái chết của cô bé bán diêm trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn An-đéc-xen Bài làm Tác phẩm “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen khiến chúng ta sẽ không thể nào quên đi hình ảnh cô bé bán diêm với những ánh lửa diêm bé nhỏ le lói. Đó là một đêm giao thừa giá rét gắn với những mộng tưởng ngọt ngào và hạnh phúc nhất của cô bé nghèo khổ bất hạnh. Truyện đã kết thúc nhưng sức ám ảnh về những mộng ước và giấc mơ của cô bé vẫn đầy ắp, đặc biệt là cái chết của cô bé vẫn là sự hoài niệm trong tâm trí người đọc. Câu chuyện kết thúc khi cảnh đời đang vui vẻ nhưng cô bé bán diêm lại có cái chết bi thảm. Trong đêm giao thừa hôm ấy, em chịu đói chịu rét cả một ngày mà không dám về nhà vì sợ cha đánh. Vì quá đói rét mà em đã chết với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Buổi sáng đầu năm mới, tuyết phủ kín mặt đất, khi mặt trời bắt đầu lên, bầu trời bắt đầu xanh, mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong sự háo hức và vui vẻ của mọi người thì em đã chết ở một xó tường nơi vỉa hè, nằm giữa những bao diêm và que diêm đã quẹt, hình ảnh đó xoáy sâu vào tâm can người đọc, đó cũng là kết thúc khác hoàn toàn so với những kết thúc của truyện cổ tích. Cô bé bán diêm chẳng có cái kết có hậu, cũng chẳng tìm được hạnh phúc ngay trong cuộc sống thực tại, ngược lại em đã phải chết một cách bi kịch, đầy xót thương. Tuy nhiên, cái tài của nhà văn chính là viết bi kịch nhưng không gợi ra bi thảm và nỗi buồn cuộc đời của nhân vật. Bởi cô bé bán diêm đã ra đi trong niềm hạnh phúc vô bờ, sự mãn nguyện khi em được đến bên bà, được bà yêu thương và hết mực che chở. Hình ảnh em đã chết nhưng đôi má vẫn hồng và đôi môi vẫn đang mỉm cười là minh chứng cho việc em không chết, em chỉ bước từ thế giới đầy đắng cay, đen tối sang một thế giới tươi đẹp hơn. Cũng chỉ có cái chết mới giải thoát được cuộc đời em khỏi những nỗi khổ, niềm vui sướng và hạnh phúc của em khi được ở bên bà, được bay lên về với Thượng đế chí nhân. Nhà văn An-đéc-xen đã thấu hiểu và trân trọng một các sâu sắc, bởi ông có tấm lòng thuộc về những con người khốn khổ, bất hạnh trong xã hội. Kết thúc của truyện tuy bi kịch nhưng lại tỏa sáng giá trị nhân văn. Đối lập với sự bất hạnh trong cái chết của cô bé bán diêm chính là sự thờ ơ của người đời. Khi nhìn thấy những que diêm cháy dở kia, con người ta trở nên lạnh lùng, vô cảm, thiếu tình thương, chỉ thốt ra được một câu lạnh lùng: “Chắc nó muốn sưởi ấm”. Cô bé bán diêm thật đáng thương, chính trong xã hội vô cảm, thiếu tình thương giữa con người với con người này, nhà văn An-đéc-xen đã viết nên truyện này. Một phần để bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn với cô bé bán diêm nói chung và số phận của những con người khốn khổ trong xã hội nói chung, an ủi và xoa dịu nỗi đau của họ. Một phần cũng là để lên án và tố cáo sự vô tâm của những con người thiếu tình cảm trong xã hội.
Feelings about the death of the little match girl in the short story of the same name by writer Andersen Assignment Andersen's work "The Little Match Girl" makes it impossible for us to forget the image of the little match girl with the small flickering match flames. It was a cold New Year's Eve associated with the sweetest and happiest dreams of a poor, unfortunate girl. The story has ended, but the obsession with the girl's wishes and dreams is still full, especially the girl's death is still a nostalgia in the reader's mind. The story ends when life is happy but the little match seller has a tragic death. On that New Year's Eve, I was hungry and cold all day but didn't dare go home because I was afraid my father would beat me. Because she was so hungry and cold, she died with rosy cheeks and smiling lips. On the first morning of the new year, snow covered the ground. When the sun started to rise, the sky started to turn blue, people happily went out of their houses. In the excitement and joy of everyone, she died in a corner of the wall on the sidewalk, lying among matchboxes and lit matches. That image pierces deep into the reader's heart. That is also a different ending. Completely different from fairy tale endings. The little match girl did not have a happy ending, nor could she find happiness in real life. On the contrary, she had to die tragically and pitifully. However, the writer's talent is to write tragedy without suggesting the tragedy and sadness of the character's life. Because the little match seller passed away with immense happiness and satisfaction when she was able to be with her grandmother, loved and protected by her. The image of you dead but your cheeks still rosy and your lips still smiling is proof that you're not dead, you're just stepping from a bitter, dark world to a more beautiful world. Only death can free my life from suffering, my joy and happiness when I can be with her, flying back to God. Writer Andersen deeply understood and appreciated, because he had a heart that belonged to the miserable and unfortunate people in society. The story's ending, although tragic, shines with humanistic values. The opposite of the misfortune in the death of the little match girl is the indifference of people. When people see those half-burned matches, they become cold, emotionless, lacking love, only uttering a cold sentence: "Maybe it wants to warm up". The little match seller is so pitiful. It is in this insensitive society, lacking love between people, that writer Andersen wrote this story. Partly to express my infinite condolences to the little match girl in general and the fate of miserable people in society in general, to comfort and ease their pain. Partly it is also to condemn and denounce the heartlessness of people lacking emotions in society.
Đề bài: Cảm nhận về câu chuyện “Cô bé bán diêm” của An-Đéc-Xen Bài làm Nhà văn An Đéc Xen là một cây bút khá nổi tiếng trên khắp thế giới. Ông được biết qua nhiều tác phẩm, những câu chuyện của ông đều xoay quanh những số phận của các em bé nghèo khổ, có cuộc đời bất hạnh. Qua những lời văn đầy tình cảm, thể hiện tính nhân văn sâu sắc của mình tác giả đã gửi tới người đọc những dòng tâm sự chứa đầy nước mắt. Câu chuyện “Cô bé bán diêm” là một tác phẩm vô cùng xúc động kể về một cô bé mồ côi làm nghề bán diêm dạo. Cô không có người thân nào bên cạnh vào đêm giáng sinh khi mọi nhà đều được hưởng hạnh phúc trong gia đình của mình cô bé vẫn lang thang khắp phố phường để bán từng bao diêm nhỏ. Nhưng là đêm giáng sinh nên chẳng có ai ra đường, số lượng bao diêm cô bé còn rất nhiều. Giữa cái rét cái đói vây quanh, cô bé đáng thương của chúng ta đã đốt từng que diêm lên để sửa ấm trong mình. Trong ánh sáng của que diêm lung linh huyền ảo đó em nhìn thấy người thân yêu nhất đời mình. Rồi sáng hôm sau, khi mọi người thức dậy đã thấy cô bé đã đông cứng vì lạnh từ bao giờ. Những dòng chữ của tác giả thấm đẫm nhiều nước mắt, số phận “cô bé bán diêm” thật bi thương, khiến cho người đọc phải rơi lệ. Nỗi ám ảnh về những em bé mồ côi, sự cô đơn của em trong xã hội khiến cho nhiều người trong chúng ta không khỏi đau xót. Người thân duy nhất của cô bé chính là bà ngoại của em, người thương yêu duy nhất, chỗ dựa tình cảm duy nhất của em cũng đã qua đời khiến em bơ vơ một mình. Đói khát nghèo khổ bủa vây xung quanh em. Em có một người cha nhưng ông ấy không yêu thương em suốt ngày đánh đập em, rồi bắt em phải kiếm tiền về đưa cho ông ta. Nếu không bán được diêm, không có tiền đưa thì về nhà em sẽ bị đánh chửi. Sự cô đơn trong tâm hồn lạnh lẽo của em. Trong một xã hội giàu, nhưng thật lạnh lẽo tình người chẳng ai quan tâm tới thân phận của cô bé đáng thương ấy. Kiếp sống của em thật nhỏ nhoi, cuộc sống của em như là địa ngục trần gian. Trong những câu văn của mình tác giả đã vô cùng tinh tế khi miêu tả khoảng cách, và hai thế giới hoàn toàn khác nhau giữa một bên là những gia đình ấm áp, hạnh phúc bên bữa tối ngon miệng ánh nến linh linh và một bên là cô bé bán diêm nghèo khổ, vừa đói vừa rét, đang mong chờ sự kỳ diệu xảy ra. Trong màn đêm u tối, trong sự lạnh lẽo của tâm hồn, thân thể rã rời vì đói rét, cô bé đáng thương của chúng ta lấy những bao diêm nhỏ ra quẹt thử từng chiếc một. Lần thứ nhất thì chỉ là vô thức, trong lúc chán nản em lấy một que diêm ra quẹt thử “Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng” cho bớt lạnh cóng. Cô bé thấy hiện lên hình ảnh chiếc lò sưởi ấm áp tỏa ra hơi nóng dịu dàng, sửa ấm cơ thể và tâm hồn em. Khi ánh sáng que diêm tắt đi bóng đêm lại bao phủ quanh em, trả em về thực tế. Em không muốn như thế này rồi em tiếp tục lấy que diêm thứ hai ra và quẹt nó lên. Trong lần này em nhìn thấy một bữa ăn thịnh soạn có thịt ngỗng quay rất thơm ngon. Điều này hoàn toàn bình thường bởi lúc này em đang rất lạnh và đói nên mơ ước của em là được sưởi ấm cơ thể và có một bữa ăn no bụng. Một điều ước quá giản dị với những em bé bình thường có cha mẹ, người thân bên cạnh. Nhưng với em sao nó lại viển vông, xa vời đến vậy. Rồi em lại quẹt que diêm tiếp theo lần này em nhìn thấy người mà em yêu thương nhất đó chính là bà ngoại của em. Em reo lên vui sướng, tiếng reo của em xóa tan đêm tối và những mảnh băng do tuyết phủ làm lay động lòng người đọc. Em đòi được đi theo bà. Cứ như thế khi que diêm vụt tắt em lại lấy một que diêm khác quẹt lên, nhóm lên trong lòng những mơ ước của riêng mình cho tới khi que diêm cuối cùng cháy hết thì cô bé bán diêm của chúng ta cũng đã ra đi mãi mãi. Em đã biến thành một thiên thần nhỏ bay theo bà mình bỏ lại thế gian những đắng cay buồn tủi, nhưng cô đơn lạnh lẽo của tâm hồn và lòng người. Em đi tới nơi hạnh phúc Câu chuyện “Cô bé bán diêm” đã khiến cho người đọc chúng ta vô cùng xúc động, cảm thương cho số phận của những em bé bất hạnh, phải sống lang thang thiếu tình thân. Nó cũng là hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người sống trong xã hội này bớt vô cảm với nỗi đau khổ của đồng loại.
Topic: Feelings about the story "The Little Match Girl" by An-Dec-Xen Assignment Writer An Dec Xen is a quite famous writer around the world. He is known through many works, his stories revolve around the fate of poor children with unhappy lives. Through emotional words, expressing his deep humanity, the author sent his confessions filled with tears to the readers. The story "The Little Match Girl" is an extremely moving work about an orphan girl who works as a match seller. She had no relatives by her side on Christmas Eve when everyone was enjoying happiness in their families. She still wandered around the streets selling small matchboxes. But it was Christmas Eve, so there was no one out, and the number of matchboxes she still had was very large. Amidst the cold and hunger surrounding her, our poor girl lit each match to warm herself. In the light of that magical, shimmering match, I saw the most beloved person in my life. Then the next morning, when everyone woke up, they saw that the girl had been frozen from the cold. The author's words are filled with many tears, the fate of the "match girl" is so tragic, it makes the reader shed tears. The obsession with orphans and their loneliness in society makes many of us feel sad. The girl's only relative, her grandmother, her only lover, her only emotional support, also passed away, leaving her alone. Hunger, thirst and poverty surround me. I have a father, but he doesn't love me and beats me all the time, then forces me to earn money and give it to him. If I can't sell matches and don't have money to give me money, I will be beaten and cursed when I go home. The loneliness in my cold soul. In a rich, yet cold society, no one cares about the fate of that poor girl. My life is so small, my life is like hell on earth. In his sentences, the author was extremely delicate when describing the distance, and the two completely different worlds between one side being warm, happy families with delicious candlelit dinners and the other. On the other side is a poor little match seller, both hungry and cold, waiting for a miracle to happen. In the dark night, in the coldness of her soul, her body exhausted from hunger and cold, our poor girl took out the small matchboxes and lit them one by one. The first time, it was just unconsciously. While depressed, I took out a match and tried to strike it, "I heated my hands on the match which glowed like embers" to ease the freezing cold. The girl saw an image of a warm fireplace radiating gentle heat, warming her body and soul. When the light of the match goes out, darkness covers me again, returning me to reality. I don't want to be like this, then I continue to take out the second match and strike it. This time I saw a hearty meal with delicious roasted goose meat. This is completely normal because right now I am very cold and hungry, so my dream is to warm my body and have a filling meal. A very simple wish for normal children with parents and relatives nearby. But to me, why does it seem so unrealistic and far-fetched? Then I lit the match again, this time I saw the person I loved the most, which was my grandmother. She shouted with joy, her screams erased the darkness and the snow-covered ice pieces, moving the reader's heart. I asked to go with her. Just like that, when the match went out, I took another match and lit it, rekindling my own dreams until the last match burned out and our little match seller was gone forever. forever. I turned into a little angel and flew after my grandmother, leaving behind the bitterness and sadness in the world, but the cold loneliness of the human soul and heart. I go to a happy place The story "The Little Match Girl" has made our readers extremely moved and sympathized with the fate of unfortunate children who have to live wandering lives without love. It is also a wake-up call for every person living in this society to be less insensitive to the suffering of fellow human beings.
Đề bài: Cảm nhận về cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong truyện Chữ người tử tù Bài làm Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây không đơn thuần là cảnh cho chữ, mà “đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Trước hết đó là sự chiến thắng của ánh sáng đôi với bóng tối. Chính Nguyễn Tuân đã viết trong truyện, cảnh cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Vì sao vậy? bình thường sẽ không có cảnh cho chữ đẹp đẽ và trang nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Nhưng ở đây lại có, vì ở đây có chiến thắng của “thiên lương” con người. Và nhà văn, với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp tương phản sắc xảo, đã dựng lên những cảnh tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó. Cảnh cho chữ đã xảy ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm, lại vào lúc đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn nền hồ” và “lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo". Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái sáng đỏ rực”, cái "lửa đóm cháy rừng rực" đã xua lan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái ánh áng của bó đuốc tẩm dầu ấy, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lý, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người: ánh sáng của lương tri, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tối của tàn bạo chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống thiện. Cảm nhận về cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục Không chỉ có chiến thắng của ánh sáng và bóng tối. Cảnh “xưa nay hiếm đó” còn là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Cái phàm tục, sự nhơ bẩn ở đây được biểu thị rất rõ trong cảnh “một buồng chậi hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng: mầu trắng tinh của phiên lụa óng và mùi thơm từ chậu mực bốc lên – đều dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết, còn mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời. Sự đối lập nói trên đã nêu bật, sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Tâm hồn Huấn Cao bát ngát đến chừng nào khi ông nói về mùi thơm của mực: “Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không”… Thế là không có nhà ngục nào tồn tại nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn mạng nhện, phân chuột phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự tinh khiết của lụa – nó là sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người. Và trên hết đó là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ, đặc biệt ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi. Người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản), còn bọn quản ngục lại khúm núm sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quản ngục "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”. Thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”). Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những người trong cảnh ấy. Không còn là cảnh cho chữ bình thường mà là một cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi bất tử. Và lời khuyên đầy tình người ấy có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bây lâu nay vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Tóm những chiến thắng trong cảnh cho chữ đã giúp ta hiểu hơn khát vọng mà nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm. Biết bao người đã tìm thấy sự đồng cảm ở đó. Cảnh cho chữ cũng làm nổi bật ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của những chiến thắng tuyệt vời đó.
Topic: Feelings about the scene where Huan Cao gives the word to the prison warden in the story The Word of a Death Row Prisoner Assignment It can be said that the theme of the short story Death Row Prisoner and the beauty of the character Huan Cao were revealed brightly in the scene where Huan Cao gave the word to the prison warden. This is not simply a scene for words, but "this is the victory of light over darkness, of beauty and nobility over vulgarity, the filth of the indomitable spirit over the attitude of resignation." slave. First of all, it is the victory of light over darkness. Nguyen Tuan himself wrote in the story, the scene for words is "a scene that has never existed before. Why? Normally there would be no scene for beautiful and dignified words in this dark and dirty prison. But here it is, because here there is the victory of "heavenly goodness" of humans. And the writer, with his skillful descriptive art and sharp contrasting techniques, created contrasting scenes to highlight the profound and profound meaning of that victory. The scene for the text happened late at night in a prison. The prison was already dark, and it was late at night, making the darkness even denser. But "in a smoky atmosphere like a house fire, the red light of an oil-soaked torch illuminated three human heads staring intently on an intact white silk sheet on the lake floor" and "the fire burned brightly." , the fire fell onto the damp ground of the cell, the embers of the fire went out and made a sizzling sound." It is not a coincidence that Nguyen Tuan twice described the bright red light, the "blazing fire" that spread and pushed repels the dense darkness in the cell. Emphasizing the light of that oil-soaked torch is clearly the writer's artistic intention. Here, it is not just the opposition of light and darkness In the sense of physical color, but deeper and more general, this is the opposition that carries the meaning of human life: the light of conscience and kindness and the darkness of cruelty and cruelty The light of heaven has dispelled and repelled the darkness of brutality right in this prison. That light has opened the mind and converted the wrong people back to a good life. Feelings about the scene where Huan Cao gives the word prison warden There is more than just the victory of light and darkness. This "once upon a time rare" scene is also the victory of beauty and nobility over the mundane and dirty. The mundane, the dirty here is clearly shown in the scene "a narrow, damp chamber, the walls are full of spider webs, bedbug nests, the ground is littered with mouse and cockroach feces". As for beauty and nobility, they are deeply expressed in two details with symbolic meaning: the pure white color of the shiny silk and the fragrance rising from the ink pot - both of which seem impossible to have in a prison. The white color of the silk symbolizes purity, while the fragrance of the ink shuttle is the fragrance of human love and life. The above contrast highlights the victory of beauty and nobility over the mundane and dirty. Huan Cao's soul was immense when he talked about the fragrance of squid: "The squid, where did you buy it? It's so good and fragrant. Do you see the fragrant smell rising from the ink pot?"... So no more prison existed, no more darkness, no more spider webs, no more mouse droppings, no more cockroaches. Only the fragrance of ink, the purity of silk remains - it is the fragrance and purity of human nature. And above all, it is the victory of the indomitable spirit over the resigned attitude of slavery. This is the coordination between people in the scene for words, especially here, we see a change of level and position. The prisoner is like the master (noble, proud, leisurely, peaceful), while the prison guards are obsequious, scared and moved by the prisoners' advice (the prison warden "obsequiously puts away the things" The zinc coin marked the crossword". The poet again "trembled while carrying the ink pot"). The victory of the indomitable spirit over the attitude of resignation to slavery was boldly portrayed in the scene for the words and the people in it. That scene is no longer a normal scene of giving words, but a scene of sacred teaching between the person giving the word and the person receiving the word. Huan Cao's thoughtful advice is no different from a testament about the way of life before he came immortality. And that compassionate advice has the power to transform a soul that has long been a slave, a misguided person, to return to an honest life The prison warden highlighted the victory of beauty, goodness, and human kindness: "This ignorant person bows to him." Summarizing the victories in scenes for words helps us better understand the aspirations that writer Nguyen Tuan conveys. So many people have found sympathy there. The scene for the text also highlights the humanistic meaning and humanitarian value of those great victories.
Cảm nhận về giọng điệu vui đùa, tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Tức cảnh Pác Bó Hướng dẫn —HS nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ để thấy người chiến sĩ sống và làm việc trong hang Pác Bó – trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, điều kiện sinh hoạt gian khổ, thiếu thốn. Trong hoàn cảnh đó, tinh thần và ý chí của người chiến sĩ như thế nào? —Bốn câu thơ của bài thơ tự nhiên, bình dị thể hiện một giọng điệu vui đùa, hóm hỉnh. Giọng điệu, từ ngữ, hình ảnh thơ và cách nói của Người toát lên một niềm vui thích, sảng khoái cao độ của nhân vật trữ tình. HS phân tích để thấy giọng điệu thoải mái, hòa điệu nhịp nhàng với cuộc sống núi rừng của người chiến sĩ (câu thơ đầu), giọng điệu vui đùa, hóm hỉnh khi nói về lương thực của núi rừng: luôn sẵn sàng — những thực phẩm có sẵn của núi rừng (câu thơ thứ hai), giọng điệu mạnh mẽ (ba thanh trắc đi liền: dịch sử Đảng) khi nói về điều kiện làm việc thô sơ ở núi rừng: hàn đá chông chênh (câu thơ thứ ba). —Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện ở niềm vui, sự thích thú trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừ.ig: ngủ trong hang tối, ăn cháo bẹ rau măng, bàn làm việc là tảng đá chông chênh. Người chiến sĩ ở đây cảm thấy: Cuộc đời cách mạng thật là sang. Sang ở đây là sang trọng, tức là người chiến sĩ không những cảm thấy dồi dào, giàu có về vật chất mà còn cảm thấy sự cao quý, đáng kính trọng. Đó là sự sang trọng, giàu có về mặt tinh thần của những cuộc đời làm cách mạng lấy lí tưởng cứu nước làm lẽ sống, không hề bị những khó khăn, gian khổ làm cho khuất phục. Đó cũng là cái giàu sang của một nhà thơ luôn tìm thấy sự hài hòa với tự nhiên, thư thái với thiên nhiên. Đó là tinh thần lạc quan, tin tưởng ở sự nghiệp cách mạng gian khổ nhưng sẽ giành thắng lợi. Tinh thần bài thơ được kết tinh và tỏa sáng ở từ sang cuối bài thơ.
Feelings about the playful tone, optimistic spirit, and leisurely demeanor of the revolutionary soldier in the poem Pac Bo Scene Instruct —Students state the circumstances of composing the poem to see the soldier living and working in Pac Bo cave - in an extremely difficult situation, with arduous and poor living conditions. In that situation, what is the spirit and will of the soldier like? —The four lines of the poem are natural and simple, expressing a playful and humorous tone. His tone, words, poetic images and way of speaking exude a high level of joy and pleasure of a lyrical character. Students analyze to see the relaxed tone, rhythmically in harmony with the mountain and forest life of the soldiers (first verse), the playful and humorous tone when talking about the food of the mountains and forests: always ready - the available food in the mountains and forests (second verse), strong tone (three consecutive tones: Party history translation) when talking about primitive working conditions in the mountains and forests: unsteady welding of rocks (second verse father). —The optimistic spirit and leisurely demeanor of the revolutionary soldiers are reflected in the joy and enjoyment in the arduous life in the mountain ru.ig: sleeping in dark caves, eating porridge with bamboo shoots, and eating rice. Work is an unsteady rock. The soldiers here feel: Revolutionary life is truly luxurious. Sang here means luxury, meaning that the soldier not only feels abundant and materially rich but also feels noble and respectable. That is the luxury and spiritual richness of revolutionary lives with the ideal of saving the country as their reason for living, without being overcome by difficulties and hardships. That is also the richness of a poet who always finds harmony with nature, relaxation with nature. That is the spirit of optimism, belief in the arduous but victorious revolutionary cause. The spirit of the poem is crystallized and shines from the beginning to the end of the poem.
Cảm nhận về hai đoạn cuối của bài thơ Đất nước Hướng dẫn Cảm nhận về hai đoạn cuối của bài thơ Đất nước Đình Thi là một người có nhiều tài năng như là vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn, làm thư… Và ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành tựu xuất sắc nhưng đáng kể đến nhất đó chính là thơ ca. Trong thơ ông chứa đựng nhiều suy tư và cảm xúc về chiến tranh, về con người tình yêu đất nước. Đặc biệt ông có bài thơ đằm thắm và thiết tha khi viết về quê hương đất nước trong đau thương đã vùng lên chiến đấu và giành thắng lợi. Và đất nước là một bài như thế. Đặc biệt ở hai đoạn cuối cùng của bài thơ đã nói lên được phần nào về hình ảnh đau thương của đất nước và những người áo vải đã đứng lên đấu tranh giành chiến thắng. Đất nước là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ Đất Nước, đó là cảm xúc về mùa thu Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và cao hơn nữa đó là những cảm xúc về ca dao cho đất nước từ trong thương đau. Đây là hình ảnh về đất nước ta từ trong đau thương tiến lên đấu tranh giành được chiến thắng. Đầu tiên đó là hình ảnh đất nước ở trong đau thương, tác giả bắt đầu bằng những câu thơ có sức gợi tả cao: Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” Bọn thực dân đã làm cho những cánh đồng quê của chúng ta chảy máu, đó là máu của hoàng hôn hay là tội ác của quân giặc làm nhuốm máu của đồng bào ta. Con đường hành quân của chúng ta đầy rẩy những bẫy của kẻ thù, những đồn bốt của địch. Những đồn ấy có những hàng thép gai đâm nát cả trời chiều, nó in đậm lên cả nền trời. Rồi những đêm dài trên đường hành quân làm cho những người chiến sĩ yêu nước nhớ tới mắt người yêu của mình. Đất nước hiện lên khi đau thương nhưng từ cái đau thương ấy đất nước ta lại vùng lên để chiến đấu anh dũng hơn: “Từ những năm đau thương chiến đấu Đã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn” Đất nước nhân dân ta phải chịu nhiều đắng cay tủi nhục “bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta” Đó là những tiếng khóc, tiếng than xé đau lòng, sự ngang tàng ấy đã làm cho dân ta thấy căm hờn, căm hờn đó nhân rộng ra cả một dân tộc, cả dân tộc đó đang rên xiết ở dưới mũi giày của chúng. Nhân dân ta quanh năm chỉ biết đến với lũy tre làng nhưng khi chúng đã xâm phạm tới thì những gốc lúa bờ tre ấy cũng quật lên để khởi nghĩa. “Ôm đất nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng” Dẫu biết rằng có thể hi sinh ngoài mặt trận nhưng mà nghĩ đến đất nước độc lập thì ý chí của những người chiến sĩ lại rực sáng lên soi sáng ngọn lửa đấu tranh. Đoạn thơ cuối chính là hình ảnh quật khởi chiến thắng của nhân dân ta. Một loạt việt Nam đau thương đứng lên khởi nghĩa có âm thanh của tiếng súng và tức nước thì vỡ bờ, người áo vải đã rũ bùn đứng dậy sáng lòa: “Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” Qua đây chúng ta có thể thấy được Nguyễn Đình Thi đã mang tới cho chúng ta một hình ảnh về đất nước vô cùng tươi đẹp, đó là một đất nước trải qua nhiều thương đau nhưng cuối cùng cũng thành công, mang đến niềm hi vọng vào tương lại tươi sáng hơn. Nguồn: Bài văn hay
Feelings about the last two paragraphs of the poem Country Instruct Feelings about the last two paragraphs of the poem Country Dinh Thi is a person with many talents such as painting, composing music, writing, making letters... And in every field he has achieved excellent achievements, but the most significant is poetry. In his poetry, he contains many thoughts and emotions about war, about people and love for the country. In particular, he had a passionate and passionate poem when he wrote about his homeland, which in pain and suffering rose up to fight and win. And the country is such an article. Especially the last two paragraphs of the poem partly convey the painful image of the country and the cloth-clad people who stood up to fight for victory. The country is a poetic inspiration of a general nature about the owner of the Country, it is the feelings about the fall of Hanoi, the Viet Bac war zone and even higher, it is the feelings of folk songs for the country from the pain. . This is the image of our country moving forward from pain to struggle and win victory. First is the image of the country in pain, the author begins with highly evocative verses: Barbed wire punctured the afternoon sky Long nights of marching and burning "Suddenly restless, I miss my lover's eyes" The colonialists made our countryside bleed, whether it was the blood of the sunset or the crimes of the enemy that stained the blood of our people. Our marching path is full of enemy traps and enemy posts. Those posts have rows of barbed wire that pierce the afternoon sky, it is boldly printed on the sky. Then the long nights on the march made patriotic soldiers remember the eyes of their lovers. The country emerged when it was painful, but from that pain, our country rose up to fight more heroically: “From years of painful fighting The face of the homeland has brightened From rice roots and gentle bamboo banks There were sounds of hatred." Our country and people have to endure a lot of bitterness and humiliation “a bowl of rice filled with tears You even took it out of my mouth." Those were the cries, the heart-wrenching cries, that arrogance made our people feel hatred, that hatred multiplied to an entire nation, that entire nation was groaning under their shoes. All year round, our people only know the village's bamboo fences, but when they encroach, those bamboo rice stalks also rise up to start an uprising. “Embrace the country of cloth-clad people Stand up as heroes" Even though they know that they can sacrifice their lives on the front, when they think of an independent country, the will of the soldiers shines brightly, illuminating the fire of struggle. The last stanza is the image of our people's resurgent victory. A series of painful Vietnamese people stood up to revolt, there was the sound of gunfire and the water suddenly burst its banks, people in cloth clothes had shaken off the mud and stood up shining: “The gunfire shook the sky in anger People rise up like water bursting its banks Vietnam from blood and fire Shake off the mud and stand up bright" Through this we can see that Nguyen Dinh Thi has brought us an image of an extremely beautiful country, a country that has gone through a lot of pain but in the end succeeded, bringing hope. into a brighter future. Source: Good article
Cảm nhận về hai đoạn đầu bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi Hướng dẫn Cảm nhận về hai đoạn đầu bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ tỏa sáng trên nền trời văn học Việt Nam Và ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành tựu xuất sắc nhưng đáng kể đến nhất đó chính là thơ ca. Trong thơ ông chứa đựng nhiều suy tư và cảm xúc về chiến tranh, về con người,tình yêu đất nước. Đặc biệt ông có bài thơ đằm thắm và thiết tha khi viết về quê hương đất nước trong đau thương đã vùng lên chiến đấu giành thắng lợi. Và đất nước là một bài như thế. Riêng hai đoạn thơ đầu tiên, mùa thu của Hà Nội và mùa thu hiện tại ở Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Đất nước là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ Đất Nước, đó là cảm xúc về mùa thu Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và cao hơn nữa đó là những cảm xúc về ca dao cho đất nước từ trong thương đau. Trước hết tới với những câu thơ đầu tiên nói về cảm xúc của mùa thu Hà Nội, đó là những câu thơ mang chan chứa tình cảm yêu thương và gắn bó của nhà thơ đối với quê hương mình: “Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi màu thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Sau lưng thèm nắng lá rơi đầy” Đây chính là Hà Nội trong con mắt hoài niệm. Vì những gì hoài niệm thường nhớ rõ nhất và sâu sắc nhất. Câu thơ mở ra với không gian buổi sáng sớm tinh khôi. Tác gỉa đang đứng ở chiến khu Việt Bắc và nhớ tới những tháng năm xưa ở Hà Nội. Mùa thu Hà Nội hiện lên có cả cảnh vật và cả con người. Cảnh vật lúc đó có cái chớm lạnh, chớm ở đây có nghĩa là chỉ mới se lạnh thoảng những cơn gió. Đây chính là khoảnh khắc giao mùa và phải chăng đây chính là cái lạnh tỏa ra từ lòng người? Từ “lạnh” này gợi cho chúng ta liên tưởng về một Hà Nội đẹp, có lá vàng rơi, có hơi lạnh của đầu mùa nhưng cũng chưa thực sự là lạnh. Cái lạnh đang đến dần với người dân Hà Nội nhưng vẫn còn e ấp giống như một sự báo hiệu bắt đầu của thiên nhiên. Cái lạnh đó không phải là cắt da cắt thịt mà giống như một sự ban tặng từ thiên nhiên, đặc biệt là cho người nghệ sĩ. Đến với câu thơ “ Những phố dài xao xác hơi may”, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp cộng với từ láy tượng thanh, từ “xao xác” thể hiện cái buồn nhẹ của buổi chiều heo may. Con người ở đây cũng hiện lên với một hình ảnh vô cùng đẹp, đó là tư thế “người ra đi đầu không ngoảnh lại” thể hiện được sự dứt khoát từ giã phố cũ trường xưa để đi chiến đấu. Bước đi đó dứt khoát nhưng vẫn có thể cảm nhận được sau lưng có tiếng lá rơi, không khỏi sự bịn rịn vấn vương. Sang ở đoạn thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện cảm xúc của mình về mùa thu hiện tại ở chiến khu việt Bắc: “Mùa thu nay đã khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc tiếng nói cười thiết tha” Câu thơ giống như lời chuyển đọan về cảm xúc của mùa thu. Cùng là một mùa thu nhưng ở chiến khu Việt Bắc tác giả cảm thấy lòng mình vui đến là, đó là tiếng vui reo của mùa thu đất trời tự do. Nó thể hiện được sự phấn chấn của thi nhân trước những đổi thay của đất nước. Ba câu thơ sau tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa,nhà thơ đã khoác lên mùa thu một chiếc áo mới được dệt bằng niềm hạnh phúc và sự tự do. Đặc biệt là ở câu cuối cùng có sự kết hợp giữa âm thanh và giai điệu để có thể mở ra một không gian rộng lớn hơn. Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về” Bằng các điệp ngữ cùng với các thủ pháp điệp,nhà thơ đã khẳng định được chủ quyền của đất nước. đó là đất,là trời, là dòng sống đỏ nặng phù sa…tất cả đều là truyền thống chiến đấu quý báu của dân tộc ta. Và ở đoạn thơ này đã khắc họa rõ nét nhất về khí thế mới tươi vui của dân tộc và náo nức phấn chấn tự hào về đất nước Như vậy, chỉ với hai đoạn thơ đầu tiên nhưng tác giả đã rất khéo léo trong việc miêu tả hoài niệm về mùa thu ở Hà Nội và mùa thu hiện tại ở Việt Bắc. Với lời thơ nhẹ nhàng tha thiết đã để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nguồn: Bài văn hay
Comments on the first two paragraphs of the article Country by Nguyen Dinh Thi Instruct Comments on the first two paragraphs of the article Country by Nguyen Dinh Thi Nguyen Dinh Thi is a poet who shines in the Vietnamese literary scene. In every field he has achieved excellent achievements, but the most notable is poetry. His poetry contains many thoughts and emotions about war, people, and love for the country. In particular, he had a passionate and passionate poem when he wrote about his homeland, which in pain and suffering rose up to fight for victory. And the country is such an article. As for the first two verses, the autumn of Hanoi and the current autumn in Viet Bac appear beautifully. The country is a poetic inspiration of a general nature about the owner of the Country, it is the feelings about the fall of Hanoi, the Viet Bac war zone and even higher, it is the feelings of folk songs for the country from the pain. . First of all, the first verses talk about the feelings of autumn in Hanoi, which are verses filled with the poet's love and attachment to his homeland: “The morning is cool and clear like the morning in the past The wind blows the autumn color and smells of new green rice I miss those far away autumn days Cold early morning in the heart of Hanoi The long streets are a bit shaky Behind me, I long for the sun and the leaves are falling." This is Hanoi in the eyes of nostalgia. Because nostalgic things are often remembered the clearest and most deeply. The poem opens with the pristine early morning space. The author is standing in the Viet Bac war zone and remembers the old days in Hanoi. Hanoi's autumn appears with both landscapes and people. The scene at that time had a cold beginning, early here means it was just chilly with a slight breeze. This is the moment of changing seasons and is this the cold emanating from people's hearts? This word "cold" reminds us of a beautiful Hanoi, with falling yellow leaves, the coldness of the beginning of the season but not really cold yet. The cold is gradually coming to the people of Hanoi but is still shy like a signal of the beginning of nature. That cold is not cutting the skin but like a gift from nature, especially for the artist. Coming to the poem "The long streets are a little sad", the author was very skillful in using the method of syntactic inversion plus onomatopoeia, the word "distressed" to express the slight sadness of the afternoon. lucky pig. The people here also appear with an extremely beautiful image, that is the posture of "the first to leave without looking back" showing the decisiveness of leaving the old town to go fight. That step was decisive, but I could still feel the sound of falling leaves behind me, and I couldn't help but feel uneasy. In the second verse, the poet expressed his feelings about the current autumn in the Viet Bac war zone: “This fall is different I stood happily listening among the mountains and hills The wind blows through the fluttering bamboo forest Autumn weather brings new clothes In the midst of the sound of passionate laughter" The poem is like a translation of autumn's feelings. It was the same autumn, but in the Viet Bac war zone, the author felt happy, it was the joyful sound of the autumn of free earth and sky. It shows the poet's excitement before the changes in the country. In the following three verses, the author uses personification. The poet puts on autumn a new shirt woven with happiness and freedom. Especially in the last sentence, there is a combination of sound and melody to open up a larger space. These mountains and forests are ours The fields are fragrant Vast roads Red rivers are heavy with silt Our country The country of those who have never died At night, the earth murmurs in the sound of the earth The expectations about the old days" With alliteration and alliteration techniques, the poet affirmed the country's sovereignty. It's the earth, it's the sky, it's the red stream of life heavy with alluvium...all of these are the precious fighting traditions of our people. And this poem most clearly depicts the new cheerful spirit of the nation and the excitement and pride of the country. Thus, with just the first two verses, the author has been very skillful in describing the nostalgia of autumn in Hanoi and the current autumn in Viet Bac. With gentle and earnest poetry, it leaves a deep impression in the hearts of readers. Source: Good article
Cảm nhận về hai đoạn đầu bài Đất nước Hướng dẫn Cảm nhận về hai đoạn đầu bài Đất nước Bài làm Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ tỏa sáng trên nền trời văn học Việt Nam Và ở lĩnh vực nào ông cũng đạt được những thành tựu xuất sắc nhưng đáng kể đến nhất đó chính là thơ ca. Trong thơ ông chứa đựng nhiều suy tư và cảm xúc về chiến tranh, về con người,tình yêu đất nước. Đặc biệt ông có bài thơ đằm thắm và thiết tha khi viết về quê hương đất nước trong đau thương đã vùng lên chiến đấu giành thắng lợi. Và đất nước là một bài như thế. Riêng hai đoạn thơ đầu tiên, mùa thu của Hà Nội và mùa thu hiện tại ở Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Đất nước là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ Đất Nước, đó là cảm xúc về mùa thu Hà Nội, chiến khu Việt Bắc và cao hơn nữa đó là những cảm xúc về ca dao cho đất nước từ trong thương đau. Trước hết tới với những câu thơ đầu tiên nói về cảm xúc của mùa thu Hà Nội, đó là những câu thơ mang chan chứa tình cảm yêu thương và gắn bó của nhà thơ đối với quê hương mình: “Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi màu thu hương cốm mới Tôi nhớ những ngày thu đã xa Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi may Sau lưng thèm nắng lá rơi đầy” Đây chính là Hà Nội trong con mắt hoài niệm. Vì những gì hoài niệm thường nhớ rõ nhất và sâu sắc nhất. Câu thơ mở ra với không gian buổi sáng sớm tinh khôi. Tác gỉa đang đứng ở chiến khu Việt Bắc và nhớ tới những tháng năm xưa ở Hà Nội. Mùa thu Hà Nội hiện lên có cả cảnh vật và cả con người. Cảnh vật lúc đó có cái chớm lạnh, chớm ở đây có nghĩa là chỉ mới se lạnh thoảng những cơn gió. Đây chính là khoảnh khắc giao mùa và phải chăng đây chính là cái lạnh tỏa ra từ lòng người? Từ “lạnh” này gợi cho chúng ta liên tưởng về một Hà Nội đẹp, có lá vàng rơi, có hơi lạnh của đầu mùa nhưng cũng chưa thực sự là lạnh. Cái lạnh đang đến dần với người dân Hà Nội nhưng vẫn còn e ấp giống như một sự báo hiệu bắt đầu của thiên nhiên. Cái lạnh đó không phải là cắt da cắt thịt mà giống như một sự ban tặng từ thiên nhiên, đặc biệt là cho người nghệ sĩ. Đến với câu thơ “ Những phố dài xao xác hơi may”, tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp đảo trật tự cú pháp cộng với từ láy tượng thanh, từ “xao xác” thể hiện cái buồn nhẹ của buổi chiều heo may. Con người ở đây cũng hiện lên với một hình ảnh vô cùng đẹp, đó là tư thế “người ra đi đầu không ngoảnh lại” thể hiện được sự dứt khoát từ giã phố cũ trường xưa để đi chiến đấu. Bước đi đó dứt khoát nhưng vẫn có thể cảm nhận được sau lưng có tiếng lá rơi, không khỏi sự bịn rịn vấn vương. Sang ở đoạn thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện cảm xúc của mình về mùa thu hiện tại ở chiến khu việt Bắc: “Mùa thu nay đã khác rồi Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi Gió thổi rừng tre phấp phới Trời thu thay áo mới Trong biếc tiếng nói cười thiết tha” Câu thơ giống như lời chuyển đoạn về cảm xúc của mùa thu. Cùng là một mùa thu nhưng ở chiến khu Việt Bắc tác giả cảm thấy lòng mình vui đến là, đó là tiếng vui reo của mùa thu đất trời tự do. Nó thể hiện được sự phấn chấn của thi nhân trước những đổi thay của đất nước. Ba câu thơ sau tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa,nhà thơ đã khoác lên mùa thu một chiếc áo mới được dệt bằng niềm hạnh phúc và sự tự do. Đặc biệt là ở câu cuối cùng có sự kết hợp giữa âm thanh và giai điệu để có thể mở ra một không gian rộng lớn hơn. Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa Nước chúng ta Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về” Bằng các điệp ngữ cùng với các thủ pháp điệp,nhà thơ đã khẳng định được chủ quyền của đất nước. đó là đất,là trời, là dòng sống đỏ nặng phù sa…tất cả đều là truyền thống chiến đấu quý báu của dân tộc ta. Và ở đoạn thơ này đã khắc họa rõ nét nhất về khí thế mới tươi vui của dân tộc và náo nức phấn chấn tự hào về đất nước Như vậy, chỉ với hai đoạn thơ đầu tiên nhưng tác giả đã rất khéo léo trong việc miêu tả hoài niệm về mùa thu ở Hà Nội và mùa thu hiện tại ở Việt Bắc. Với lời thơ nhẹ nhàng tha thiết đã để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Feelings about the first two paragraphs of the article Country Instruct Feelings about the first two paragraphs of the article Country Assignment Nguyen Dinh Thi is a poet who shines in the Vietnamese literary scene. In every field he has achieved excellent achievements, but the most notable is poetry. His poetry contains many thoughts and emotions about war, people, and love for the country. In particular, he had a passionate and passionate poem when he wrote about his homeland, which in pain and suffering rose up to fight for victory. And the country is such an article. As for the first two verses, the autumn of Hanoi and the current autumn in Viet Bac appear beautifully. The country is a poetic inspiration of a general nature about the owner of the Country, it is the feelings about the fall of Hanoi, the Viet Bac war zone and even higher, it is the feelings of folk songs for the country from the pain. . First of all, the first verses talk about the feelings of autumn in Hanoi, which are verses filled with the poet's love and attachment to his homeland: “The morning is cool and clear like the morning in the past The wind blows the autumn color and smells of new green rice I miss those far away autumn days Cold early morning in the heart of Hanoi The long streets are a bit shaky Behind me, I long for the sun and the leaves are falling." This is Hanoi in the eyes of nostalgia. Because nostalgic things are often remembered the clearest and most deeply. The poem opens with the pristine early morning space. The author is standing in the Viet Bac war zone and remembers the old days in Hanoi. Hanoi's autumn appears with both landscapes and people. The scene at that time had a cold beginning, early here means it was just chilly with a slight breeze. This is the moment of changing seasons and is this the cold emanating from people's hearts? This word "cold" reminds us of a beautiful Hanoi, with falling yellow leaves, the coldness of the beginning of the season but not really cold yet. The cold is gradually coming to the people of Hanoi but is still shy like a signal of the beginning of nature. That cold is not cutting the skin but like a gift from nature, especially for the artist. Coming to the poem "The long streets are a little sad", the author was very skillful in using the method of syntactic inversion plus onomatopoeia, the word "distressed" to express the slight sadness of the afternoon. lucky pig. The people here also appear with an extremely beautiful image, that is the posture of "the first to leave without looking back" showing the decisiveness of leaving the old town to go fight. That step was decisive, but I could still feel the sound of falling leaves behind me, and I couldn't help but feel uneasy. In the second verse, the poet expressed his feelings about the current autumn in the Viet Bac war zone: “This fall is different I stood happily listening among the mountains and hills The wind blows through the fluttering bamboo forest Autumn weather brings new clothes In the midst of the sound of passionate laughter" The poem is like a transition to the feelings of autumn. It was the same autumn, but in the Viet Bac war zone, the author felt happy, it was the joyful sound of the autumn of free earth and sky. It shows the poet's excitement before the changes in the country. In the following three verses, the author uses personification. The poet puts on autumn a new shirt woven with happiness and freedom. Especially in the last sentence, there is a combination of sound and melody to open up a larger space. These mountains and forests are ours The fields are fragrant Vast roads Red rivers are heavy with silt Our country The country of those who have never died At night, the earth murmurs in the sound of the earth The expectations about the old days" With alliteration and alliteration techniques, the poet affirmed the country's sovereignty. It's the earth, it's the sky, it's the red stream of life heavy with alluvium...all of these are the precious fighting traditions of our people. And this poem most clearly depicts the new cheerful spirit of the nation and the excitement and pride of the country. Thus, with just the first two verses, the author has been very skillful in describing the nostalgia of autumn in Hanoi and the current autumn in Viet Bac. With gentle and earnest poetry, it leaves a deep impression in the hearts of readers.
Đề bài: Cảm nhận về hình tượng Lor-ca trong bài thơ Tiếng đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo Bài làm Lor-ca là nhà thơ lỗi lạc, là chiến sĩ tiên phong chông phát xít của Tây Ban Nha trong thế kỉ XX. Ngày 19-8-1936, ông đã bị bọn phát xít Phrăng-cô sát hại dã man. Thanh Thảo đã nhắc lại câu thơ của Lor-ca “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn" vừa là đề từ cho bài thơ, vừa như nguyện cầu cho linh hồn Lor-ca, nhà nghệ sĩ tài ba. Lor-ca đã nhiều năm ngồi vắt vẻo trên yên ngựa, mặc áo choàng đỏ như các lực sĩ đấu bò tót, khoác chiếc đàn ghi ta sau lưng đi rong ruổi ngược xuôi khắp đất nước Tây Ban Nha để sưu tầm dân ca, đế học tập những điệu hát đồng quê.Tiếng đàn của chàng nghệ sĩ cứ sưu tầm dân ca, để học tập những điệu hát đồng quê dân dã. Tiếng đàn của chàng nghệ sĩ cứ “tan” ra như bọt nước. Các hình ảnh “áo choàng đỏ gắt”, "vầng trăng chểnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn ” và các từ láy lang thang, đơn độc, chếnh choáng mỏi mòn phối âmvới tiếng đàn “li-la li-la li-la” như tan ra trong không trung, đã gợi lên bao lien tưởng về nhà thơ thiên tài, về nhạc sĩ Lor-ca xa xôi thuở ấy: Những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi món Khổ thơ thứ hai, thứ ba tái hiện lại giây phút “kinh hoàng” khi Lor-ca người chiến sĩ đấu tranh cho tự do đã bị bọn phát xít Phrăng-cô dẫn ra pháp trường sát hại. Chàng nghệ sĩ “đi như người mộng du” giữa bầy ác quỷ, tiếng hát nghêu ngao và tiếng đàn cùa chàng “bỗng kinh hoàng", “đứt ngang giây”. chỉ còn lại, chỉ nhìn thấy “áo choàng bê bết đỏ’’. Lor-ca đã ngã xuống trước làn đạn của bè lũ phát xít dã man, đã để lại một “bầu trời” thương nhớ mênh mông cho “cô gái ấy”, cho người yêu (nàng An-na Ma-ri-a)! “Tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh” là biểu tượng cho một tâm hồn nghệ sĩ mang một tình yêu tha thiết và yêu đời, gắn bó với quê hương, với nhân dân. Sau loạt đạn của quân thù, một tài năng đã bị hủy diệt; tiếng đàn bị “vỡ tan" như bọt nước, bị “đứt ngang dây”, với bao máu đỏ chảy “ròng ròng’ Thanh Thảo qua các ẩn dụ, so sánh, tượng trưng và điệp ngữ đã tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và biểu cảm, bộc lộ nỗi tiếc thương Lor-ca, một thiên tài bị cái ác sát hại. Điệp ngữ “tiếng ghi ta” bốn lần vang lên như tiếng nói, tiếng nấc nghẹn nghào: Tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mẩy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy Phần cuối bài thơ (13) câu, Thanh Thảo dùng lối nói phủ định để khẳng định một chân lí, để ca ngợi sự bất tử của người nghệ sĩ. Không ai có thể chôn cất được tiếng đàn? Sắc đẹp cùa giai nhân, tài năng nghệ sĩ có thế lực nào có thế “chôn cất” được? Có gì nhiều bằng cỏ? Có gì xanh bằng cỏ? Có gì sống mãnh liệt bằng cỏ trên mặt đất bao la? Và vầng trăng thì vĩnh hằng cùng vũ trụ mênh mông. Lor-ca cũng vậy. Cuộc đời chỉ có 38 mùa xuân nhưng tài năng và tinh thần của nhà thơ, nhà nghệ sĩ mãi mãi bất diệt như tiếng đàn ghi ta. Như cỏ xanh trên thảo nguyên, như vầng trăng trên bầu trời lấp lánh soi đáy giếng. Thơ Thanh Thảo tuy hạn chế về vần điệu, nhưng anh đã tạo nên được một số hình ảnh, một số đường nét đầy ấn tượng để khẳng định Lor-ca “thác là thề phách, còn là tình anh”: Không ai chôn cất tiếng đàn Tiếng đàn như cỏ mọc hoang Giọt nước mắt vầng trăng Long lanh trong đáy giếng Tài sắc cùa nàng Kiều còn mãi trong tâm hồn những chàng Kim trong cõi đời. Tiếng đàn, tiếng hát “thậm hay” của anh Trương Chi vẫn còn thổn thức tâm hồn thiếu nữ gần xa. Tiếng đàn diệu huyền của cô cầm mà thi hào Nguyễn Du đã nhắc tới trong bài thơ chữ Hán “Long Thành cầm giả ca” vẫn còn vang vọng khắp 36 phố phường Hà Nội hôm nay và ngày mai! Hình như Thanh Thảo đã “nghĩ tới” những tài năng và thân phận đầy bi kịch ấy khi viết những dòng thơ trên đáy? Khi số phận đã hết, “đường chỉ tay đã đứt", Lor-ca bước sang thế giới bên kia, đã “bơi sang ngang” dòng sóng với chiếc ghi ta “màu bạc”. Chàng nghệ sĩ đã bỏ lại đời, “ném lại” tình yêu và số phận mình vào “xoáy nước” cuộc đời đầy máu và nước mắt. để ra đi. Và âm thanh “li-la li-la Li-la” diệu huyền của tiếng đàn ghi ta cứ vang vọng mãi, cứ “ròng ròng – máu chảy” mãi, đế lại bao đau đớn tiếc thương trong lòng người. Lor-ca như một lực sĩ đấu bò tót. Lor-ca áo choàng bê bết máu đỏ trên pháp trường. Lor-ca đã đi vào cõi bất tử và để lại tiếng đàn ghi ta. Đó là cấu tứ của bài thơ, cũng là hình tượng Lor-ca qua bài thơ của Thanh Thảo mà chúng ta đã cảm nhận được. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” là tiếng khóc thương, là tính đồng điệu thiên tài một nhà thơ xứ Quảng miền Trung Việt Nam gửi tới hương hồn nhà xứ sở Grê-na-đa bên trời Ảu. Có những câu thơ của Thanh Thảo cất lên khóc “ròng ròng máu chảy"…
Topic: Feelings about the image of Lor-ca in the poem Lor-ca's Guitar by Thanh Thao Assignment Lorca was a prominent poet and a pioneer anti-fascist soldier in Spain in the 20th century. On August 19, 1936, he was brutally murdered by the Franco fascists. Thanh Thao repeated Lorca's poem "When I die, bury me with the guitar" as both a title for the poem and a prayer for the soul of Lorca, the talented artist. Lorca spent many years sitting on a horse's saddle, wearing a red cape like a bullfighter, carrying a guitar on his back and traveling up and down Spain to collect folk songs. learning country songs. The artist keeps collecting folk songs, to learn rustic country songs. The artist's sound just "dissolves" like water bubbles. The images of "a harsh red cloak", "a dizzy moon", "a tired saddle" and the words wandering, alone, tired and dizzy, are accompanied by the sound of the guitar "li-la li-la li- "la" seemed to melt in the air, evoking many thoughts about the genius poet and the distant musician Lorca of that time: The harsh red-cloaked Spanish foam sounds li-la li-la li-la wander about the lonely land with the moonlight dizzying on the tired saddle The second and third stanzas recreate the "terrifying" moment when Lorca, the freedom fighter, was led to the execution ground by Franco's fascists. The artist "walked like a sleepwalker" among the demons, his loud singing and the sound of his guitar "suddenly frightened" and "cut short". All that was left was to see "a red cloak". '. Lorca fell under the bullets of the barbaric fascist gang, leaving behind a "sky" of immense nostalgia for "that girl", for her lover (Anna Maria). ! The "brown guitar sound" and "green leaf guitar sound" are symbols of an artist's soul with a passionate love and love for life, attached to the homeland and the people. After a series of enemy bullets, a talent was destroyed; The sound of the guitar was "shattered" like water bubbles, "broken across the string", with lots of red blood flowing "freely". Thanh Thao, through metaphors, comparisons, symbols and alliteration, has created poems rich in imagery. Symbols and expressions, expressing grief for Lorca, a genius murdered by evil. The alliteration "guitar sound" resounds four times like a voice, choking sobs: Brown guitar sound that girl's sky The guitar sound of green leaves is familiar The guitar sound is round and foamy loud guitar sound blood flow At the end of the poem (13) lines, Thanh Thao uses negative speech to affirm a truth, to praise the artist's immortality. No one can bury the sound of the guitar? What power can a beautiful woman's beauty and artist's talent be able to "bury"? What is more abundant than grass? What's greener than grass? What is more alive than grass on the vast earth? And the moon is eternal along with the vast universe. So is Lorca. Life has only 38 springs, but the talent and spirit of poets and artists are forever immortal like the sound of a guitar. Like green grass on the steppe, like the moon in the sky sparkling at the bottom of a well. Although Thanh Thao's poetry is limited in rhyme, he has created a number of images and impressive lines to affirm that Lor-ca "the waterfall is my oath, it is also my love": No one buried the sound of the guitar The sound of the guitar is like grass growing wild Tears of the moon Glitter in the bottom of the well Kieu's beauty and talent will forever remain in the hearts of Kim men in this world. Mr. Truong Chi's "beautiful" guitar and singing sound still touches the hearts of young girls near and far. The magical sound of the lute that poet Nguyen Du mentioned in the Chinese poem "Long Thanh Cam Gia Ca" still echoes throughout 36 streets of Hanoi today and tomorrow! It seems that Thanh Thao "thought about" those talents and tragic fate when writing the lines of poetry on the bottom? When his fate was over, "the lines on his hand were broken", Lor-ca passed into the other world, having "swim across" the waves with his "silver" guitar. The artist left his life behind, " throw back" love and fate into the "whirlpool" of life filled with blood and tears. And the magical "li-la li-la Li-la" sound of the guitar keeps echoing forever, "blood flowing" forever, leaving so much pain and grief in people's hearts. Lorca is like a bullfighter. Lorca's cloak was stained with red blood on the execution ground. Lorca passed into immortality and left behind the sound of his guitar. That is the structure of the poem, and also the image of Lorca through Thanh Thao's poem that we have felt. The poem "Lorca's Guitar" is a cry of mourning, a genius synchronization that a poet from Quang Nam, Central Vietnam sent to the soul of his home country of Grenada in the Australasian sky. There are verses of Thanh Thao's poem that cry out "a stream of blood flowing"...
Đề bài: Cảm nhận về hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ khi đọc Hồi thứ mười bốn rút trong cuốn Hoàng Lê nhất thống chí Bài làm Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kì mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt 3 vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm – Xoài Mút trong một trận thuỷ chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ – vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên gò Đống Đa lịch sử bất tử. Đọc Hồi thứ 14 Hoàng Lê nhất thống chí, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ. Những tác giả – người con ưu tú của dòng họ “Ngô Thì" ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với thái hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ “hắn" mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng chẳng hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng. “Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Ván Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét”. Nên biết lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự bại vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: “E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?”. Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự báo linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn. Nguyễn Huệ là một con người “biết nghe và quyết đoán”. Ngày 24 tháng chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết đưa vào, Nguyễn Huệ “giận lắm” định “cầm quân đi ngay" nhưng trước lời bàn “hay chính vị hiệu", ông đã nghe theo để “giữ lấy lòng người" rồi mới xuất quân đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế trời đất, thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung chứng tỏ cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi Tổ quốc đứng trước họa xâm lăng. Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa thế mà 29 đã hành quân tới Nghệ An: gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân “đồng tâm hiệp lực, để đựng nên công lớn”, nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ “ăn ở hai lòng… sẽ bị giết ngay tức khắc", (vạch trần thói tàn bạo tham tàn của người phương Bắc để kích thích lòng căm thù, kêu gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ… để quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi….). Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân tới Tam Điệp hội sư với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn Tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành 5 đạo binh lớn “gióng trống lên đường ra Bắc". Nguyễn Huệ thật “lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân”: Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc: bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối". Tại đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, “quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người". Trong khi đó, một trận “rồng lửa” đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào “Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên", làm cho Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp… nhắm hướng bắc mà chạy". Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào thành Thăng Long trước kế hoạch 2 ngày. Nhãn quan quân sự – chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm “người khéo lời lẽ" để “dẹp nổi việc binh đao”, đem lại “phúc cho dân”. Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ: Mà nay áo vải cờ đào, Giúp dân dựng nước xiết bao công trình. (Ai tư vãn – Ngọc Hân công chúa) Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc. Nó làm cho trang văn Hoàng Lê nhất thống chí thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.
Topic: Feelings about the image of hero Nguyen Hue when reading the fourteenth chapter of the book Hoang Le Nhat Thong Chi Assignment Nguyen Hue, a war general, used his flag to attack Phu Xuan citadel. Nguyen Hue, the general, destroyed 30,000 Siamese invaders at Rach Gam - Xoai Mut in a devastating naval battle. Nguyen Hue, the cloth-shirted hero, overthrew Lord Trinh's throne in Dang Ngoai and then married Princess Ngoc Han, shocking Bac Ha. Nguyen Hue - King Quang Trung destroyed 290,000 Qing invaders, building the immortal historical Dong Da mound. Reading Chapter 14 of Hoang Le Unification, the image of the hero Nguyen Hue has left many indelible impressions in our souls. The authors - outstanding children of the "Ngo Thi" family in Ta Thanh Oai borrowed the words of a former palace servant from Truong Yen palace to talk to the queen mother, very objectively, to introduce Nguyen Hue with admiration. and fear. Because he was on the other side, the opposing side, the pronoun "he" that this palace man used to refer to Nguyen Hue did not obscure the message of the warrior general who won hundreds of battles. “I didn't know that Nguyen Hue was an experienced hero, brave and talented in commanding troops. Watch him go from North to South, appearing like a ghost, no one can predict. He captured Huu Chinh like a child, killed Van Nham like a pig, no one dared to look him in the face. Seeing him point his hand and look at him, everyone was lost and lost, more afraid of him than afraid of thunder. You should know that at that time, Ton Si Nghi and 290,000 Qing troops occupied Thang Long, considering our country just their district, Le Chieu Thong was appointed by the royal court to be the King of An Nam, but with a sharp look. , the old palace man pointed out the inevitable defeat of the country robbers and traitors: "I'm afraid that soon, he will return again, and the governor of the Ton family will take that homesick army to fight. How can the enemy prevail? The Ngoc Hoi - Dong Da victory in 1789 showed that those words were an effective prediction, a very eloquent historical truth. Nguyen Hue is a "listening and decisive" person. On December 24, the year of Mau Than (1788), receiving an urgent report sent by Nguyen Van Tuyet, Nguyen Hue was "very angry" and intended to "take the army and leave immediately", but before the discussion "or the title", he listened. to "keep people's hearts" and then send out troops to defeat the North. Building an altar on Mount Ban, worshiping heaven and earth, river gods, mountain gods, ascending the throne and taking the title Quang Trung proves the strategic vision of the Emperor. a hero in cloth when the Fatherland faced the threat of invasion. Saving water is like saving fire. On the 25th, he was still in Thuan Hoa, but on the 29th, he marched to Nghe An: met tribute Nguyen Thiep, recruited another ten thousand soldiers, organized a large parade and preached fighting the enemy to save the country to stimulate the morale of the generals and fathers. The army "worked together to achieve great success", sternly warned that those who "act double-mindedly... will be killed immediately" (exposing the cruel and greedy habits of the Northerners to stimulate the hearts of the Northerners). hatred, calling on generals to follow the example of Trung Nu Vuong, Dinh Tien Hoang, Le Dai Hanh, Tran Hung Dao, Le Thai To... to wipe out the invaders from the land...). In just over a day and night, Nguyen Hue pulled his army to Tam Diep to join the army of Great Commander Ngo Van So. He ordered his generals to celebrate Tet first, scheduled a party to celebrate on the 7th when they arrived in Thang Long, then divided the army into 5 large armies to "sound drums and set off to the North". Nguyen Hue was truly "skilled, brave and talented in leadership": He used the element of surprise to defeat the enemy: captured alive all the enemy scouts at Thanh Quyet river and Ha Hoi station, surrounded and destroyed the station. Ngoc Hoi, tens of thousands of enemy soldiers were killed, "the corpses lay all over the fields, blood flowed into streams". At Muc lagoon in Quynh Do village, the Thanh enemy was surrounded, "Tay Son troops drove elephants to trample them, killing tens of thousands of people". Meanwhile, a fierce "fire dragon" battle took place in Khuong Thuong, with enemy corpses piled into 12 mountain-high mounds. Nguyen Hue attacked like a storm, just like "The general came down from the sky, the army went up from the ground", making Ton Si Nghi "frightened, the horse did not have time to saddle up, the person did not have time to put on armor... aiming in the direction North and run". At noon on the 5th, Nguyen Hue and his army marched into Thang Long citadel 2 days ahead of schedule. Nguyen Hue's military-political vision is extremely profound and wise. On the way to fight the Qing invaders, he entrusted Ngo Thi Nham, "a man with good words" to "put down the fighting" and bring "luck to the people". The Dong Da victory in the year of the Rooster (1789) is an extremely brilliant page in the anti-invasion history of our nation. It demonstrates the invincible strength of patriotism and the spirit of determination to defeat foreign invaders of our nation. It has built a magnificent and majestic monument of the cloth-clad hero - King Quang Trung for our nation to forever be proud of and admire: But now the peach flag fabric shirt, Helped people build the country with countless projects. (Who cares – Princess Ngoc Han) Building and portraying the image of hero Nguyen Hue is a unique success. It makes Hoang Le's unified literary pages imbued with patriotism and Dai Viet heroism.
Cảm nhận về hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh Hướng dẫn Cảm nhận về hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh Bài làm Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loai. Mỗi một nhà thơ tìm đến một cách biểu hiện khác nhau: một tình yêu mang yếu tố triết lý trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh tôi bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Là người phụ nữ nổi tiếng nhất trong nền thơ hiện đại Việt Nam, qua đời sớm nhưng Xuân Quỳnh đã kịp để lại cho những người yêu nghệ thuật những tác phầm thơ lớn và kịp hình thành cho mình một phong cách nghệ thuật riêng. Đến với thơ của chị, người ta thấy một Xuân Quỳnh hồn nhiên khi viết về đề tài thiếu nhi và đặc biệt một Xuân Quỳnh đằm thắm, nồng nàn trong xúc cảm tình yêu. Cảm xúc tình yêu trong thơ chị mang vẻ đẹp không thể hòa lẫn: đó là sự trân thành mãnh liệt nhưng không kém phần sâu sắc, đó là sự dung dị trong thế giới hình ảnh và giọng điệu. Và trên hết là hồn thơ nữ trăn trở, đầy âu lo trong những khát vọng hạnh phúc đời thường: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Biết khát khao những điều anh mơ ước Biết xúc động qua nhiều nhận thức Biết yêu anh và biết được anh yêu” “Sóng là một trong hàng trăm bài thơ tình nổi tiếng Việt Nam thế kỉ 20. Bài thơ được viết những năm 1967, trong khí thế của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vì vậy, sóng được ví là “một bông lạ mà Xuân Quỳnh hái dọc chiến hào”. Sóng là lời bộc bạch của tâm hồn người phụ nữ về những cung bậc, sắc màu tâm trạng khi đang yêu: khát khao, trăn trở, lo âu, thủy chung và mong mỏi hoàn thiện mình trong tình yêu. Tất cả đều được thể hiện sinh động qua hình tượng ẩn dụ xuyên suốt bài thơ: hình tượng Sóng Đến với bài thơ, bạn đọc cảm nhận được hình tượng sóng qua chính âm điệu của bài thơ. Xuân Quỳnh sử dụng thể thơ 5 chữ, những câu thơ liền mạch, không ngắt nhịp, các khổ thơ nối kết bằng cách hiệp vần từ câu cuối của khổ trước xuống câu đầu khổ tiếp theo khiến bài thơ có âm điệu dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng lúc thầm thì sâu lắng gợi âm hưởng những đợt sóng mien man vỗ vào bờ. Lắng nghe trong từng nhịp sống cũng là nhịp đập tâm hồn của con người với biết bao khát khao, rạo rực yêu đương đang muốn giãi bày, muốn được chia sẻ. Tôi thấy Xuân Quỳnh tạo nên một cấu tứ rất độc đáo. Cả bài thơ là sự đan xen, hòa quyện của hai hình tượng sóng và em. Hai hình tượng khi thì tách riêng đối diện soi chiếu vào nhau khi lại hòa quyện để diễn tả những cảm xúc, nỗi niềm của trái tim đang yêu. Đứng trước biển, lòng người phụ nữ cảm nhận những âm thanh xao động của tiếng sóng có sự đồng điệu với tiếng lòng người con gái. Vì vậy, hình tượng sóng chính là ẩn dụ cho thế giới nội tâm người phụ nữ trong cuộc hành trình lý giải, nhận thức tâm hồn mình khi yêu. “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Nhân vật trữ tình đã thổ lộ một cách chân thành những cảm nhận về tính khí của sóng. Sóng – hình tượng thiên nhiên với muôn vàn trạng thái đối cực: khi thì dữ dội, ồn ào xô vào bờ cát, lúc lại lặng lẽ, dịu êm. Hai trạng thái đối cực nhưng thống nhất trong một bản thể. Từ “và” kết nối hai vế thơ đã nói lên điều ấy. Một loạt hình ảnh tương phản đã vẽ nên trước mắt tôi vô vàn con sóng bao la của đại dương. Ở nơi này sóng có thể lăn tăn dịu dàng vỗ vào bờ cát, ở nơi kia sóng lại cồn lên với sức mạnh vô cùng. Đó cũng là trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Lắng nghe trong nhịp điệu từng con sóng là nhịp điệu tâm hồn người phụ nữ: phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn. Quy luật tình yêu ấy đã được không ít các nhà thơ trên thế giới nói đến: “Khi chưa yêu em / Anh mới sống cuộc đời một nửa / Chưa biết nỗi đắng cay ngọt ngào và sự lạnh lung bốc lửa” (Pneruda), Puskin cũng từng triết lý “Trái tim có những quy luật riêng mà lí trí không thể nào hiểu nổi”. Như vây, cảm xúc con người khi yêu luôn chứa đựng những trạng thái phong phú và phức tạp. Chính ở bàu thơ Thuyền và biển, Xuân Quỳnh cũng khẳng định “Những đêm trăng hiền từ / Biển như cô gái nhỏ / Thầm thì gửi tâm tư / Qua mạn thuyền sóng vỗ / Cũng có khi vô cớ / Biển ào ạt xô thuyền / Bởi tình yêu muôn thuở / Có bao giờ đứng yên”. Thơ Xuân Quỳnh là vậy, luôn là sự đối lập giữa bình yên và bão tố, ngọt ngào và đắng cay, đối lập nhưng thống nhất trong sóng và trong tâm hồn em. Tình yêu chứa đựng biết bao nhiêu cảm xúc. Những cảm xúc ấy luôn luôn biến đổi, chính vì thế đón nhận tình yêu, thấu hiểu tình yêu với tâm hồn người phụ nữ đang yêu đâu phải điều dễ dàng. Con sóng của Xuân Quỳnh sẵn sang vượt khỏi không gian chật hẹp của dòng sông, tìm ra biển lớn để mong nhận thức và lý giải tận cùng về tâm hồn mình khi yêu “Sông không hiểu nổi mình / Sóng tìm ra tận bể”. Cuộc hành trình của sóng từ sông ra bể là hành trình dằng dặc xa xôi, đầy gian khổ. Con sóng đi từ giới hạn chật hẹp vươn đến không gian vô cùng của tình yêu. Chỉ khi trở về với biển khơi bát ngát, sóng mới thực sự tìm thấy mình, mới nhận thức được sức mạnh và khát khao cháy bỏng trong tâm hồn mình. Cuộc hành trình của sóng hay chính là những khát vọng mạnh mẽ, mãnh liệt với những trăn trở, khát khao khám phá hết tâm hồn mình của người phụ nữ khi yêu. Đến với thế giới thơ Xuân Quỳnh, bạn đọc hơn một lần bắt gặp khát vọng tha thiết ấy “Núi cao bể rộng sông dài / Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu”. Có lẽ chính vì thế mà những con sóng của đại dương bao la đã trở thành khát vọng cho tình yêu vĩnh cửu “Ôi con sóng ngày xưa /Và ngày sau vẫn thế /Nỗi khát vọng tình yêu /Bồi hồi trong ngực trẻ”. Nhà thơ đã sử dụng một hệ thống từ ngữ để khẳng định sự tồn tại muôn đời của những con sóng ấy: ngày xưa, ngày sau, vẫn thế. Nỗi khát vọng tình yêu, khát vọng lý giải trái tim mình khi yêu đã trở thành khát vọng muôn đời như chị đã từng viết “Bởi tình yêu muôn thuở / Có bao giờ đứng yên”. Từ nhận thức sự phức tạp trong tình yêu của người phụ nữ, Xuân Quỳnh mượn hình tượng Sóng để lí giải những xúc cảm trong tâm hồn chính mình. Sóng là lời giãi bày những cung bậc cảm xúc phong phú đến kì lạ trong tâm hồn người phụ nữ trong men say tình yêu. Trước tình yêu, con người luôn khao khát tìm về cội nguồn lí giải tình cảm lớn lao kì diệu đang tràn ngập trong trái tim mình. Nhu cầu ấy càng trở nên tha thiết hơn khi đối diện với đại dương bao la: “Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau” Sóng và em, biển cả mênh mông và tình yêu vô tận đã đan cài, hòa quyện với nhau thật khó tách rời. Dường như hình ảnh này gọi dậy hình ảnh kia: Nhìn sóng mà nhớ đến tình yêu, cảm nhận về xúc cảm tình yêu mà lien tưởng đến muôn vàn con sóng. Trong đoạn thơ, những từ “Em nghĩ” lặp đi lặp lại khiến lời thơ trùng xuống như một sự suy tư. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh trăn trở câu hỏi về sự khởi đầu của sóng và sự khởi nguồn của tình yêu “Từ nơi nào sóng lên” và “Khi nào ta yêu nhau”. Khoa học có thể lý giải được ngọn nguồn của sóng: Sóng bắt đầu từ gió. Nhưng nếu đi đến tận cùng nguồn gốc của thiên nhiên thì cũng là điều khó lí giải “Gió bắt đầu từ đâu? /Em cũng không biết nữa”. Câu thơ “em cũng không biết nữa” được Xuân Quỳnh đặt khéo léo giữa hai câu hỏi về nguồn gốc của sóng và tình yêu “Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yêu nhau”. Phải chăng đó là lời thú nhận hồn hậu, chân thành của người phụ nữ về sự bất lực của mình khi cố gắng lí giải đến tận cùng nguồn gốc của thiên nhiên và cội nguồn của tình yêu. Thiên nhiên có những bí ẩn và tình yêu cũng vậy. Chính Xuân Diệu cũng đã từng trăn trở về những băn khoăn trong tình yêu “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Và xa hơn, thi sĩ Tago cũng viết “Nhưng em ơi trái tim anh lại là tình yêu / Những vui sướng khổ đau của nó là vô biên / Những thiếu thốn và khổ đau của nó là trường cửu’, vậy nên “Em là nữ hoàng của vương quốc đó / Nhưng em chẳng hiều gì về biên giới của nó đâu”. Hòa chung trong nguồn mạch ấy, Xuân Quỳnh đã khẳng định sự huyền diệu của tình yêu “Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yeu nhau”. Nguồn gốc của tình yêu rất lạ lung, khó ai có thể tìm thấy câu trả lời: Tình yêu bắt đầu từ đâu. Sự hấp dẫn, điều kì diệu của tình yêu chính là ở chỗ đó. Trong lời thơ Xuân Quỳnh, nghe vẳng một chất giọng trẻ trung, nũng nịu, dễ thương của người con gái
Cảm nhận về hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh Hướng dẫn Cảm nhận về hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh Bài làm Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loai. Mỗi một nhà thơ tìm đến một cách biểu hiện khác nhau: một tình yêu mang yếu tố triết lý trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh tôi bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Là người phụ nữ nổi tiếng nhất trong nền thơ hiện đại Việt Nam, qua đời sớm nhưng Xuân Quỳnh đã kịp để lại cho những người yêu nghệ thuật những tác phầm thơ lớn và kịp hình thành cho mình một phong cách nghệ thuật riêng. Đến với thơ của chị, người ta thấy một Xuân Quỳnh hồn nhiên khi viết về đề tài thiếu nhi và đặc biệt một Xuân Quỳnh đằm thắm, nồng nàn trong xúc cảm tình yêu. Cảm xúc tình yêu trong thơ chị mang vẻ đẹp không thể hòa lẫn: đó là sự trân thành mãnh liệt nhưng không kém phần sâu sắc, đó là sự dung dị trong thế giới hình ảnh và giọng điệu. Và trên hết là hồn thơ nữ trăn trở, đầy âu lo trong những khát vọng hạnh phúc đời thường: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Biết khát khao những điều anh mơ ước Biết xúc động qua nhiều nhận thức Biết yêu anh và biết được anh yêu” “Sóng là một trong hàng trăm bài thơ tình nổi tiếng Việt Nam thế kỉ 20. Bài thơ được viết những năm 1967, trong khí thế của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vì vậy, sóng được ví là “một bông lạ mà Xuân Quỳnh hái dọc chiến hào”. Sóng là lời bộc bạch của tâm hồn người phụ nữ về những cung bậc, sắc màu tâm trạng khi đang yêu: khát khao, trăn trở, lo âu, thủy chung và mong mỏi hoàn thiện mình trong tình yêu. Tất cả đều được thể hiện sinh động qua hình tượng ẩn dụ xuyên suốt bài thơ: hình tượng Sóng Đến với bài thơ, bạn đọc cảm nhận được hình tượng sóng qua chính âm điệu của bài thơ. Xuân Quỳnh sử dụng thể thơ 5 chữ, những câu thơ liền mạch, không ngắt nhịp, các khổ thơ nối kết bằng cách hiệp vần từ câu cuối của khổ trước xuống câu đầu khổ tiếp theo khiến bài thơ có âm điệu dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng lúc thầm thì sâu lắng gợi âm hưởng những đợt sóng mien man vỗ vào bờ. Lắng nghe trong từng nhịp sống cũng là nhịp đập tâm hồn của con người với biết bao khát khao, rạo rực yêu đương đang muốn giãi bày, muốn được chia sẻ. Tôi thấy Xuân Quỳnh tạo nên một cấu tứ rất độc đáo. Cả bài thơ là sự đan xen, hòa quyện của hai hình tượng sóng và em. Hai hình tượng khi thì tách riêng đối diện soi chiếu vào nhau khi lại hòa quyện để diễn tả những cảm xúc, nỗi niềm của trái tim đang yêu. Đứng trước biển, lòng người phụ nữ cảm nhận những âm thanh xao động của tiếng sóng có sự đồng điệu với tiếng lòng người con gái. Vì vậy, hình tượng sóng chính là ẩn dụ cho thế giới nội tâm người phụ nữ trong cuộc hành trình lý giải, nhận thức tâm hồn mình khi yêu. “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ” Nhân vật trữ tình đã thổ lộ một cách chân thành những cảm nhận về tính khí của sóng. Sóng – hình tượng thiên nhiên với muôn vàn trạng thái đối cực: khi thì dữ dội, ồn ào xô vào bờ cát, lúc lại lặng lẽ, dịu êm. Hai trạng thái đối cực nhưng thống nhất trong một bản thể. Từ “và” kết nối hai vế thơ đã nói lên điều ấy. Một loạt hình ảnh tương phản đã vẽ nên trước mắt tôi vô vàn con sóng bao la của đại dương. Ở nơi này sóng có thể lăn tăn dịu dàng vỗ vào bờ cát, ở nơi kia sóng lại cồn lên với sức mạnh vô cùng. Đó cũng là trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Lắng nghe trong nhịp điệu từng con sóng là nhịp điệu tâm hồn người phụ nữ: phong phú, phức tạp, đầy mâu thuẫn. Quy luật tình yêu ấy đã được không ít các nhà thơ trên thế giới nói đến: “Khi chưa yêu em / Anh mới sống cuộc đời một nửa / Chưa biết nỗi đắng cay ngọt ngào và sự lạnh lung bốc lửa” (Pneruda), Puskin cũng từng triết lý “Trái tim có những quy luật riêng mà lí trí không thể nào hiểu nổi”. Như vây, cảm xúc con người khi yêu luôn chứa đựng những trạng thái phong phú và phức tạp. Chính ở bàu thơ Thuyền và biển, Xuân Quỳnh cũng khẳng định “Những đêm trăng hiền từ / Biển như cô gái nhỏ / Thầm thì gửi tâm tư / Qua mạn thuyền sóng vỗ / Cũng có khi vô cớ / Biển ào ạt xô thuyền / Bởi tình yêu muôn thuở / Có bao giờ đứng yên”. Thơ Xuân Quỳnh là vậy, luôn là sự đối lập giữa bình yên và bão tố, ngọt ngào và đắng cay, đối lập nhưng thống nhất trong sóng và trong tâm hồn em. Tình yêu chứa đựng biết bao nhiêu cảm xúc. Những cảm xúc ấy luôn luôn biến đổi, chính vì thế đón nhận tình yêu, thấu hiểu tình yêu với tâm hồn người phụ nữ đang yêu đâu phải điều dễ dàng. Con sóng của Xuân Quỳnh sẵn sang vượt khỏi không gian chật hẹp của dòng sông, tìm ra biển lớn để mong nhận thức và lý giải tận cùng về tâm hồn mình khi yêu “Sông không hiểu nổi mình / Sóng tìm ra tận bể”. Cuộc hành trình của sóng từ sông ra bể là hành trình dằng dặc xa xôi, đầy gian khổ. Con sóng đi từ giới hạn chật hẹp vươn đến không gian vô cùng của tình yêu. Chỉ khi trở về với biển khơi bát ngát, sóng mới thực sự tìm thấy mình, mới nhận thức được sức mạnh và khát khao cháy bỏng trong tâm hồn mình. Cuộc hành trình của sóng hay chính là những khát vọng mạnh mẽ, mãnh liệt với những trăn trở, khát khao khám phá hết tâm hồn mình của người phụ nữ khi yêu. Đến với thế giới thơ Xuân Quỳnh, bạn đọc hơn một lần bắt gặp khát vọng tha thiết ấy “Núi cao bể rộng sông dài / Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu”. Có lẽ chính vì thế mà những con sóng của đại dương bao la đã trở thành khát vọng cho tình yêu vĩnh cửu “Ôi con sóng ngày xưa /Và ngày sau vẫn thế /Nỗi khát vọng tình yêu /Bồi hồi trong ngực trẻ”. Nhà thơ đã sử dụng một hệ thống từ ngữ để khẳng định sự tồn tại muôn đời của những con sóng ấy: ngày xưa, ngày sau, vẫn thế. Nỗi khát vọng tình yêu, khát vọng lý giải trái tim mình khi yêu đã trở thành khát vọng muôn đời như chị đã từng viết “Bởi tình yêu muôn thuở / Có bao giờ đứng yên”. Từ nhận thức sự phức tạp trong tình yêu của người phụ nữ, Xuân Quỳnh mượn hình tượng Sóng để lí giải những xúc cảm trong tâm hồn chính mình. Sóng là lời giãi bày những cung bậc cảm xúc phong phú đến kì lạ trong tâm hồn người phụ nữ trong men say tình yêu. Trước tình yêu, con người luôn khao khát tìm về cội nguồn lí giải tình cảm lớn lao kì diệu đang tràn ngập trong trái tim mình. Nhu cầu ấy càng trở nên tha thiết hơn khi đối diện với đại dương bao la: “Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu? Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau” Sóng và em, biển cả mênh mông và tình yêu vô tận đã đan cài, hòa quyện với nhau thật khó tách rời. Dường như hình ảnh này gọi dậy hình ảnh kia: Nhìn sóng mà nhớ đến tình yêu, cảm nhận về xúc cảm tình yêu mà lien tưởng đến muôn vàn con sóng. Trong đoạn thơ, những từ “Em nghĩ” lặp đi lặp lại khiến lời thơ trùng xuống như một sự suy tư. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh trăn trở câu hỏi về sự khởi đầu của sóng và sự khởi nguồn của tình yêu “Từ nơi nào sóng lên” và “Khi nào ta yêu nhau”. Khoa học có thể lý giải được ngọn nguồn của sóng: Sóng bắt đầu từ gió. Nhưng nếu đi đến tận cùng nguồn gốc của thiên nhiên thì cũng là điều khó lí giải “Gió bắt đầu từ đâu? /Em cũng không biết nữa”. Câu thơ “em cũng không biết nữa” được Xuân Quỳnh đặt khéo léo giữa hai câu hỏi về nguồn gốc của sóng và tình yêu “Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yêu nhau”. Phải chăng đó là lời thú nhận hồn hậu, chân thành của người phụ nữ về sự bất lực của mình khi cố gắng lí giải đến tận cùng nguồn gốc của thiên nhiên và cội nguồn của tình yêu. Thiên nhiên có những bí ẩn và tình yêu cũng vậy. Chính Xuân Diệu cũng đã từng trăn trở về những băn khoăn trong tình yêu “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Và xa hơn, thi sĩ Tago cũng viết “Nhưng em ơi trái tim anh lại là tình yêu / Những vui sướng khổ đau của nó là vô biên / Những thiếu thốn và khổ đau của nó là trường cửu’, vậy nên “Em là nữ hoàng của vương quốc đó / Nhưng em chẳng hiều gì về biên giới của nó đâu”. Hòa chung trong nguồn mạch ấy, Xuân Quỳnh đã khẳng định sự huyền diệu của tình yêu “Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yeu nhau”. Nguồn gốc của tình yêu rất lạ lung, khó ai có thể tìm thấy câu trả lời: Tình yêu bắt đầu từ đâu. Sự hấp dẫn, điều kì diệu của tình yêu chính là ở chỗ đó. Trong lời thơ Xuân Quỳnh, nghe vẳng một chất giọng trẻ trung, nũng nịu, dễ thương của người con gái
Cảm nhận về hình ảnh người mẹ trong tác phẩm của Nguyên Hồng Hướng dẫn Cảm nhận về hình ảnh người mẹ trong tác phẩm của Nguyên Hồng Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ âu yêm như ngọn gió chiều rì rào. Có trái tim người con nào không rung lên thổn thức trước mẹ. Nguyên Hồng có thể coi là nhà văn của tình mẫu tử thiêng liêng. Sáng tác của ông tuy không dành tất cả để khắc họa trọn vẹn chân dung người mẹ nhưng qua trang văn của ông, hình ảnh người mẹ vẫn gợi lên mối thương cảm lớn cho người đọc. Bằng chính những rung động cực điểm của một linh hồn bé dại về người mẹ yêu dấu của mình, Nguyên Hồng đã thành công khi viết về người mẹ qua một số trang văn được trích giảng trong nhà trường như: Trong lòng mẹ (trích Những ngày thơ ấu), truyện ngắn Mợ Du, Huệ Chi trước lễ cưới ( trích Sóng gầm): Có một điều người đọc dễ nhận thấy, hầu hết hình ảnh người mẹ trong các sáng tác của Nguyên Hồng đều là những phụ nữ bất hạnh, nạn nhân của đói nghèo, lễ giáo nghiệt ngã, tình đời đen bạc như: người mẹ phải đồng sàng nhưng dị mộng với người chồng tuổi nhiều gấp đôi, rồi chồng cờ bạc, nghiện ngập, chết, khiến người mẹ phải tha phương cầu thực kiếm sống (Những ngày thơ ấu) hoặc người mẹ vì lỗi lầm mà bị ruồng rẫy phải bỏ nhà, xa con, gặp con trong đau khổ, lén lút (Mợ Du), chỉ hiện về trong ký ức của người con bất hạnh (Huệ Chi trước lễ cưới). Phải chăng khi viết về những người mẹ này, Nguyên Hồng đã dứt khoát đứng về phía những con người bất hạnh để cảm thông, bênh vực, yêu thương bằng chủ nghĩa nhân đạo thống thiết. Có nhà nghiên cứu cho rằng: Không có người mẹ thánh mẫu, không có nhà văn Nguyên Hồng. Phải chăng vì thế mà mở đầu cho thiên hồi ký Những ngày thơ ấu có dòng đề từ ngắn gọn mà kính cẩn: Kính tặng mẹ tôi. Và những dòng viết xúc động nhất trong tác phẩm đặc sắc này cũng là những dòng tình cảm thiết tha hướng về người mẹ hiền từ, bất hạnh, kết tinh ở chương IV, đoạn trích Trong lòng mẹ. Muốn về quê mẹ mà không có đò Không biết không gian buổi chiều buồn thương dễ lay động tới tình mẹ, tình quê hương trong trái tim mỗi người con hay không mà cảnh mẹ gặp con qua trang viết của Nguyên Hồng thường được bao bọc trong không gian là: buổi chiều. Chiều hôm đó, tan học ở trường ra, tôi nhìn thấy người đàn bà ngồi trên xe kéo giống mẹ tội… (Trong lòng mẹ) còn trong đoạn trích Huệ Chi trước lễ cưới thì Trời chiều gió to thêm, những cành lá hoàng lan, khế, me, bưởi, sấu reo như nổi sóng…. Nhưng cũng có một không gian tràn ngập ánh trăng đêm: ánh trăng cuồn cuộn, tràn trề hương hoa cau và hoa lý… Như vậy, cảnh ngộ người mẹ gặp con qua trang viết của Nguyên Hồng, thường được tắm đẫm trong một không gian trữ tình, phù hợp với tình mẹ con. Thạch Lam cho rằng: Trên trang viết của Nguyên Hồng nổi lên hình ảnh người mẹ chịu khổ và âu yếm, một người mẹ hiền từ mà tác giả nói đến với tất cả tình yêu tha thiết của người con. Nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng nhớ về người mẹ thuở thiểu thời như thế này: … Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ Hãy còn mường tượng lúc vào ra Nét cười đen nhánh sau tay áo Trong ánh trưa hè trước giậu thưa… Người mẹ trong hồi ức, trong mơ của Huệ Chi (Huệ Chi trước lễ cưới) cũng mang vẻ đẹp dịu dàng, lung linh đầy ấn tượng như thế: Vấn khăn tóc đuôi gài, gương mặt ngăm ngăm nâu, mắt bồ câu nửa vui, nửa buồn, răng hạt huyền, mặc áo the màu gụ… Người mẹ qua ánh mắt yêu thương của bé Hồng, cũng phúc hậu, dịu hiền đẹp một vẻ đẹp khó quên. Người mẹ (Mợ Du) trong truyện ngắn cùng tên với gương mặt trắng mát, gò má hơi cao, mắt có quầng thâm…. Có thể nói, người mẹ trong sáng tác của Nguyên Hồng đều mang nét đẹp dịu dàng, thuần hậu rất Á Đông, nhưng cũng ẩn hiện nỗi buồn. Người đọc như thấy hình ảnh người mẹ qua trang viết của Nguyên Hồng có ẩn hiện dáng hình người mẹ, người chị ta xưa. Người mẹ trong sáng tác của Nguyên Hồng, dù trong tình cảnh nào, dù có bị vùi dập đến đâu nhưng họ vẫn như đóa sen thơm ngát giữa bùn lầy, thương con, yêu con đến da diết. Trong lòng mẹ- Đoạn trích miêu tả hình ảnh người mẹ sụt sùi khi gặp con: Con nín đi, mợ đã về với các con rồi mà. Bé Hồng khát khao được bé lại để cảm nhận trực tiếp người mẹ có một êm dịu vô cùng khi bàn tay mẹ vuốt ve, gãi rôm ở sống lưng… Đúng như suy nghĩ của bé, phải chăng sự sung sướng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà người mẹ vẫn tươi đẹp như thuở còn sung tức. Đúng là, người mẹ sống được là nhờ có con, niềm vui của mẹ trong cõi đời này đó chính là con. Người mẹ trong Huệ Chi trước lễ cưới lại hiện ra với biết bao âu yếm, yêu thương: Trưa nay, tối nay mẹ lại nấu chè ngô non, chè đỗ đãi, lại luộc ngồng cải, thổi xôi hoa cau, chưng mắm cáy… lại rang tép riu cho con ăn nhé…. Truyện ngắn Mợ Du lại khắc hoạ hình ảnh người mẹ trong cảnh ngộ gặp con thương cảm đến rơi lệ. Người mẹ ấy dù lầm lỡ, nhưng vẫn yêu thương con đến thắt lòng. Mỗi lần trở về gặp con, là mỗi lần ngòi bút của Nguyên Hồng cũng rung lên nức nở: ảnh trăng vằng vặc, gội xuống tràn trề hoi gương mặt đầm đìa nước mắt áp lên nhau… Tiếng khóc dồn đập vỡ lở ở một góc vườn, rì rì tiếng dế. Người mẹ ấy hôn hít vào mả, vào trán Dũng khóc nức nở: – Giời ơi! Giời ơi! Mợ chết mất! Dũng ơi! Dũng ơi! Thế rồi người mẹ ấy đã trút hơi tàn với một bộ xương hốc hác, gồ ghề, xám xịt không người thân nơi đất khách quê người. Phải chăng Mợ Du y mẹ của Dũng; mẹ của Huệ Chi hay người mẹ của bé Hồng đều là sự hóa thân từ một người mẹ. Đó là những mảnh đời khác nhau của một người mẹ đã sinh ra nhà văn Nguyên Hồng, để từ đó mỗi trang viết của ông, chính là tiếng lòng nức nở của đứa con yêu với người mẹ khổ đau của mình. Nguyên Hồng được mệnh danh là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng là vì vậy.
Feelings about the image of the mother in Nguyen Hong's work Instruct Feelings about the image of the mother in Nguyen Hong's work A mother's heart is as vast as the Pacific Ocean. A mother's love is as gentle as the whispering afternoon wind. Is there any child's heart that doesn't tremble and sob before his mother? Nguyen Hong can be considered a writer of sacred motherhood. Although his works are not devoted entirely to portraying the mother's portrait, through his writing, the image of the mother still evokes great sympathy for the reader. With the extreme vibrations of a young soul about his beloved mother, Nguyen Hong succeeded in writing about the mother through a number of excerpts taught in school such as: In the mother's womb (excerpted from The Mother's Heart). childhood days), short story Mo Du, Hue Chi before the wedding (excerpt from Roaring Wave): One thing readers can easily see is that most of the images of mothers in Nguyen Hong's works are unhappy women, victims of poverty, harsh rituals, and black love in life, such as: the mother must They agreed but had different dreams with a husband twice their age, then the husband gambled, became addicted, and died, causing the mother to have to find another way to make a living (Childhood days) or the mother was abandoned due to her mistake. ran away from home, left her child, met her child in pain, secretly (Mo Du), only appearing in the memory of her unfortunate child (Hue Chi before the wedding). Is it true that when writing about these mothers, Nguyen Hong definitely stood on the side of unfortunate people to sympathize, defend, and love with passionate humanity. Some researchers believe that: Without a holy mother, there is no writer Nguyen Hong. Is that why the opening of the memoir Childhood Days has a short but respectful inscription: Dear my mother. And the most touching lines in this unique work are also the passionate sentiments directed towards the gentle, unfortunate mother, crystallized in chapter IV, the excerpt In the mother's womb. I want to go back to my mother's hometown but there is no boat I don't know if the space of a sad afternoon can easily touch the love of mother and homeland in the heart of each child, but the scene of a mother meeting her child through Nguyen Hong's writing is often surrounded in the space of: afternoon. That afternoon, after school, I saw a woman sitting on a rickshaw that looked like my mother... (In my mother's heart) and in the excerpt from Hue Chi before the wedding, the wind got stronger in the afternoon, and the branches of the ylang ylang , starfruit, tamarind, grapefruit, and dracontomelon ring like waves... But there is also a space filled with moonlight at night: billowing moonlight, filled with the scent of areca flowers and lychee flowers... Thus, the plight of a mother meeting her child through Nguyen Hong's writing is often immersed in a lyrical space, suitable for mother-child love. Thach Lam believes that: On Nguyen Hong's writing, the image of a suffering and loving mother emerges, a gentle mother that the author talks about with all the earnest love of a child. Poet Luu Trong Lu once remembered his childhood mother like this: … My mother's appearance has not been erased Just imagine the time you get in and out The black smile behind his sleeve In the summer afternoon light in front of the sparse hedge... The mother in Hue Chi's memories and dreams (Hue Chi before the wedding) also had such a gentle, sparkling and impressive beauty: with a scarf, a ponytail, a dark brown face, and half-happy dove eyes. , half sad, black teeth, wearing a mahogany shirt... The mother, through baby Hong's loving eyes, is also kind, gentle, and has an unforgettable beauty. The mother (Aunt Du) in the short story of the same name has a cool white face, slightly high cheekbones, dark circles around her eyes... It can be said that the mothers in Nguyen Hong's works all have a gentle, domestic beauty that is very Asian, but also contain hidden sadness. Readers seem to see the image of a mother through Nguyen Hong's writing, with hidden images of her mother and older sister. The mothers in Nguyen Hong's works, no matter what situation they are in, no matter how battered they are, are still like fragrant lotus flowers in the mud, loving their children, loving them deeply. In the mother's womb - The excerpt describes the image of a mother sobbing when she saw her child: Shut up, I'm back with you. Baby Hong longs to be a baby again, to directly feel the immense comfort of her mother's hands caressing and scratching the rash on her back... Just as the baby thinks, is it the joy of being seen and hugged? Incubating her own blood form, the mother is still as beautiful as when she was in her prime. It is true that a mother can live thanks to her child, her joy in this world is her child. The mother in Hue Chi before the wedding reappears with so much tenderness and love: This afternoon, tonight she cooked young corn sweet soup, sweet bean sweet soup, boiled cabbage, steamed areca flower sticky rice, steamed fiddler fish sauce... Let's roast shrimps again for your baby to eat... The short story Ma Du portrays the image of a mother in a situation where she feels so sorry for her child that she sheds tears. Even though that mother was mistaken, she still loved her child to the core. Every time he returns to see his child, every time Nguyen Hong's pen shakes and sobs: the image of the moon is bright, washed down, faces filled with tears pressed against each other... The crying bursts and bursts in a corner. garden, humming with crickets. The mother kissed Dung's grave and forehead and sobbed: - Oh my God! Oh my God! My aunt is dead! Dung! Dung! Then that mother passed away with a haggard, rough, gray skeleton without relatives in a foreign land. Is it true that Aunt Du is Dung's mother; Hue Chi's mother or Hong's mother are both incarnations of a mother. These are the different lives of a mother who gave birth to writer Nguyen Hong, so that every page of his writing is the sobbing sound of a beloved child with his suffering mother. Nguyen Hong is known as a writer for women and children for that reason.
Cảm nhận về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Hướng dẫn Cảm nhận về hình ảnh quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm Quê hương trong xa cách là nguồn đề tài vô tận, là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh.Cái làng quê nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nguồn cảm xúc vô tận để ông viết nên những vần thơ tha thiết, lai láng như: “Nhớ con sông quê hương”, “Quê hương”, “Trở lại con sông quê hương”. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền Trung – Quãng Ngãi, một vùng đất cằn cỗi, quanh năm chỉ có gió và cát, một vùng quê nghèo. Do hoàn cảnh bắt buộc, ông rời xa quê hương từ thuở thiếu thời. Trong thời gian xa quê ông viết rất nhiều tác phẩm, chủ yếu là về quê hương, bằng tất cả những tình yêu, nỗi nhớ của mình. Một vùng đất đầy thơ mộng và rất đẹp trong thơ Tế Hanh. Trong đó có nói con sông quê mà ông gắn bó: Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Xa quê, xa cả con sông. Có thể nói đó là nỗi đau của ông. Qua những kỉ niệm, hồi tưởng về con sông trong “nỗi nhớ con sông quê hương”, Tế Hanh đã thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt, một hình ảnh quê hương thân thiết, ruột rà. – Làng tôi ở vốn nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông – Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Thế đấy, quê hương trong thơ Tế Hanh hiện lên đẹp và mát dịu như vậy. Còn người dân quê thì mạnh mẽ, tinh tế, sống động: Có thân hình nồng thở vị xa xăm Chỉ có ai là con người của sông nước, vạn chài mới có thể tạo được hình ảnh người dân chài giữa đất trời lồng lộng gió với đủ hình khối, màu sắc và hương vị. Chất muối mặn nồng ngấm vào thân hình người dân quê hương cũng như ngấm sâu vào làn da, thớ thịt vào tận tâm hồn thơ Tế Hanh. Bằng giọng thơ giãi bày, phơi trải, ông đã kể về kỉ niệm tuổi thơ tươi đẹp: Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy… Tôi đưa tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ Cao hơn, trong xa cách, nhưng với sức mạnh của tình quê, không chỉ có hình ảnh đặc trưng của quê hương “Màu nước xanh, cá bạc cánh buồm vôi / Thoảng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi” hiện ra mà nhà thơ còn cảm nhận được cả mùi vị quê: Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá Quê hương Tế Hanh là một làng chài nghèo, người dân sống cần cù, khó nhọc, thế nhưng khi nhớ về quê, ông lại chỉ thấy vẻ đẹp tươi sáng. Phải chăng đó là nhờ làng quê ấy có con sông êm đềm, tuơi tắn, lại gần biển tự do, phóng khoáng và nhất là nhờ trái tim tuổi trẻ khoẻ khoắn? Mặt khác, cùng tình cảm đằm thắm, kỉ niệm sâu lắng, đẹp đẽ, lời kể theo lối giãi bày, thủ thỉ chân thật và khả năng miêu tả những cảm giác bên trong chân thành, mộc mạc, nên ở thơ Tế Hanh, con sông trở thành một hình tượng thẩm mĩ, gợi cảm, đầy chất trữ tình. Đối với Tế Hanh, quê hương luôn là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa. Ca dao, dân ca dường như cũng đã ngấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh. Dù ở phương trời nào lòng ông vẫn nhớ quê hương, nó luôn dạt dào, cháy bỏng trong ông khiến nhà thơ thấy được hình ảnh quê hương liên tục hiện ra. Quê hương chính là sức sống của ông, ở một khía cạnh nào đó, ta lại thấy tình yêu quê hương của Tế Hanh rất đa chiều và phức tạp. Lúc da diết, ngập tràn với “Nhớ con sông quê hương”, nhưng lúc khác lại cho người đọc thấy một hồn thơ trẻ trung phơi phới của “Quê hương”. Nhưng dù ở góc độ, khía cạnh nào thì nó đều ẩn chứa một tình yêu, nỗi khát khao đoàn tụ, bày tỏ khát vọng gặp gỡ cụ thể. Không như thơ Huy Cận, Lưu Trọng Lư đầy chất mộng ảo, không như thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên hun hút sầu thương, thơ Tế Hanh trong sáng, khoẻ mạnh, đắm đuối rất thực. Bởi ông có một vùng quê bằng xương, bằng thịt, mà ông luôn dõi theo bằng đôi mắt rất thực, bằng trái tim có địa chỉ rõ ràng. Suốt nửa đời người, do thời thế, Tế Hanh phải xa quê, khi trở lại sau mùa hè đại thắng, thống nhất đất nước – 1975, con sông và làng quê đã đổi thay nhiều: Tôi nhìn sông bên lở bên bồi Tre thưa thớt ngập tràn lau cỏ Trong ánh sáng ngả nghiêng theo chiều gió Thuyền máy dọc ngang tỏ trắng lòng sông Nhà dân chài giăng những lưới ni lông Màu xanh đỏ ngời ngời ánh nước Kìa bãi sú nơi sáu năm về trước Giặc Mĩ bao vây sát hai mốt trung đội dàn quân Cây xanh trước đình thân chỉ còn một nửa Tác giả thật sự ngỡ ngàng: Tôi đi học bờ sông bỡ ngỡ Quên cả khúc quanh rẽ lối vào nhà Quê hương đẹp đẽ thơ mộng trong tâm trí tác giả nay trần trụi những vết thương chiến tranh, vết thương do chia cắt đất nước. Tác giả vừa vui vừa đau buồn một nỗi “hồi hương”. Trở về, gặp lại, tuổi cũng đã cao, quê hương thì đổi thay như thế, nên sau này, dẫu quê nhà vẫn mến yêu, thổn thức trong trái tim nhà thơ, nhưng thơ về quê hương của Tế Hanh thì đã khác. Không còn cái sức hấp dẫn của vẻ đẹp trai tráng. Cho nên, có thể nói, người ta chỉ còn nhớ đến những bài thơ về quê hương, con sông quê của ông mấy mươi năm về trước. Dù sao thế cũng là quá đủ với một đời thơ. Có thể nói những bài thơ về quê hương trước và hai mươi năm sau Cách mạng Tháng Tám của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về con sông hiền hòa đã “tắm cả đời tôi”, về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ ông. Mỗi chúng ta một lần nữa vui mừng khi được giao tiếp với một hồn thơ khoẻ mạnh, trong sáng song lại rất đỗi bình dị mà sâu sắc. Nó không hề làm nặng đầu ta với những bóng dáng siêu hình hay những vô thức u minh, nó chấp cánh mộng mơ, bồi đắp cho mỗi chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết, là điểm trở về bình yên của ta trong cuộc đời nhiều bươn trải, cũng là sự thôi thúc ta vươn lên.
Feelings about the image of the homeland in Te Hanh's poetry Instruct Feelings about the image of the homeland in Te Hanh's poetry Assignment Homeland in distance is an endless source of topics, a stream of overflowing emotions, sparkling throughout Te Hanh's poetry life. The poor village on an island on the Tra Bong river has nurtured Te Hanh's soul, has became an endless source of emotions for him to write passionate, poetic poems such as: "Remembering the homeland river", "Homeland", "Returning to the homeland river". Born and raised in the Central region - Quang Ngai, a barren land, with only wind and sand all year round, a poor countryside. Due to forced circumstances, he left his homeland when he was young. During his time away from home, he wrote many works, mainly about his homeland, with all his love and nostalgia. A poetic and very beautiful land in Te Hanh's poetry. In it, there is mention of the hometown river that he is attached to: My hometown has a blue river The clear mirror water reflects the hair of the bamboo rows Far from home, far from the river. It can be said that it was his pain. Through memories and reminiscences about the river in "nostalgia for the homeland river", Te Hanh expressed a passionate and intense love for his homeland, an intimate and intimate image of his homeland. – My village is a fishing village The water surrounds the river half a day from the sea – My hometown has a blue river The clear mirror water reflects the hair of the bamboo rows So, the homeland in Te Hanh's poetry appears so beautiful and cool. And the countryside people are strong, sophisticated, and lively: Has a warm body with a faraway taste Only those who are people of the river and fishermen can create the image of fishermen amidst windy heaven and earth with all shapes, colors and flavors. The salty salt seeps into the bodies of the people of the homeland as well as penetrates deep into the skin and muscles into the soul of Te Hanh's poetry. In a poetic, revealing voice, he talked about his beautiful childhood memories: When the water surface flickers, the fish jumps My friends gathered together... I held the water in my arms The river opens its water and holds me in its arms Higher, in the distance, but with the power of love for the countryside, not only does the typical image of the homeland "Blue water color, silver fish with lime sails / Occasionally the boat turns the waves and runs out to sea" appear that the poet You can also feel the taste of the countryside: Now far away, my heart always remembers you I miss the salty smell so much Te Hanh's hometown is a poor fishing village, the people live hard and hard lives, but when he remembers his hometown, he only sees bright beauty. Is it because that village has a peaceful, fresh river, is close to the free and liberal sea, and especially thanks to the healthy hearts of youth? On the other hand, with loving feelings, deep and beautiful memories, sincere, confiding narration and the ability to describe sincere and simple inner feelings, Te Hanh's poetry is The river becomes an aesthetic, sexy, and lyrical image. For Te Hanh, the homeland is always the most beautiful flower in the flower garden. Folk songs and folk songs also seem to have penetrated deeply into the soul of Te Hanh's poetry. No matter where he was, his heart still missed his homeland. It was always abundant and burning within him, making the poet see the image of his homeland constantly appearing. His homeland is his vitality. In some ways, we see that Te Hanh's love for his homeland is very multidimensional and complex. At times it is poignant and filled with "Remembering the homeland river", but at other times it shows the reader the youthful poetic soul of "Homeland". But no matter what angle or aspect, it all contains a love, a desire for reunion, expressing a desire for a specific meeting. Unlike Huy Can and Luu Trong Lu's poems, which are full of fantasy, unlike Han Mac Tu and Che Lan Vien's poems, which are full of sorrow and sadness, Te Hanh's poems are clear, healthy, and passionately very real. Because he has a countryside made of bones and flesh, which he always watches with very real eyes, with a heart that has a clear address. For half of his life, due to the circumstances, Te Hanh had to leave his hometown. When he returned after the summer of great victory and unification of the country - 1975, the river and the village had changed a lot: I look at the river, both muddy and muddy Sparse bamboo filled the grass In the light swaying with the wind Motorboats move horizontally along the river bed The fishermen's houses spread nylon nets The blue and red color shines brightly in the water Behold the tiger field where six years ago The American enemy closely surrounded twenty-one platoons of troops The green tree in front of the pavilion is only half left The author was truly surprised: I went to school by the river and was confused Forget the turn around the entrance to the house The beautiful and poetic homeland in the author's mind is now bare with the wounds of war and the wounds caused by the division of the country. The author is both happy and sad about the feeling of "returning home". Returning, meeting again, old age, the homeland has changed like that, so later, although the homeland is still loved and sobbing in the poet's heart, Te Hanh's poems about his homeland are different. There is no longer the attraction of handsomeness. Therefore, it can be said that people only remember his poems about his hometown and his hometown river decades ago. Anyway, that's more than enough for a poetic life. It can be said that Te Hanh's poems about his homeland before and twenty years after the August Revolution sang a clear, passionate, poetic song about the gentle river that "bathed my whole life", about The fishing village that once embraced and lulled him during his childhood. Each of us is once again happy to be able to communicate with a healthy, pure, yet very simple and profound poetic soul. It does not burden our heads with metaphysical shadows or dark unconsciousness, it gives wings to dreams, fosters for each of us a deep love for our homeland, and is our peaceful return point in life. Many hardships also motivate us to rise up.
Cảm nhận về hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu Hướng dẫn Cảm nhận về hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu Rừng xà nu là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Thành Trung và ông đã mang tới cho chúng ta tác phẩm này để thấy được nét đẹp về thiên nhiên mà nét đẹp ở đây chính là về thiên nhiên và con người nơi đây. Nổi bật nhất trong câu chuyện đó là hình ảnh về bàn tay của Tnú,nó mang tới những ấn tượng đặc biệt ở trong lòng người đọc. Và bàn tay Tnú là một ý đồ nghệ thuật mà tác giả muốn gửi gắm tới chúng ta, qua đó chúng ta có thể thấy được đôi bàn tay ấy cũng có cả một cuộc đời,cuộc đời ấy giống như cuộc đời của Tnú vậy. Và cũng có những lúc anh ấy cũng phải hứng chịu biết bao nhiêu là đau thương mất mát. Thế nhưng đến cuối cùng thì bàn tay ấy cũng đã giết chết được biết bao nhiêu là kẻ thù để có thể báo thù cho tất cả, trong đó có chủ nhân của nó phải hứng chịu. Bàn tay đó trước hết được miêu tả đó là một đôi bàn tay lành lặn và nhỏ bé. Chính đôi bàn tay nhỏ bé ấy đã cùng với Mai học chữ. Cũng bàn tay ấy đã nhanh nhẹn để cầm những bức thư liên lạc để có thể vượt được qua mọi thử thách, mọi gian nan với biết bao vòng vây độc áo của kẻ thù để có thể mang tới cho các cán bộ ở trong rừng. Qua đây thì chúng ta có thể thấy được đôi bàn tay nhỏ bé của Tnú hiện lên thật đẹp biết bao nhiêu. Tuy nó nhỏ bé là vậy nhưng làm việc nào cũng đều hoàn thành một cách xuất sắc, quả thực là đáng khen. Chính những hình ảnh ấy làm nên một hình ảnh người anh hùng tây nguyên. Và có suy nghĩ rằng nếu như không học được chữ thì sẽ không giúp được gì cho đất nước,chính vì thế Tnú mới dùng bàn tay của mình để trừng trị, cho thấy đó là sự gan dạ, dũng cảm. Dũng cảm kể cả khi bị bắt thì đôi bàn tay ấy cũng không hề ngần ngại mà chỉ thẳng vào bụng mà rằng: “cộng sản ở đây này”. Đôi bàn tay ấy còn mạnh dạn cầm tay của Mai hẹn hò khi lớn lên bên gốc cây vả. Đó chính là bàn tay ấm áp dịu dàng dắt mai qua những yêu thương. Bàn tay ấy cũng rứt cả hàng chục trái vải trong lòng uất nghẹn khi thấy mẹ con Mai bị chúng tra tấn cho tới khi chết đi. Và khi vợ con ngã xuống thì bàn tay ấy cũng đỡ lấy. Qua đó chúng ta thấy được đó là đôi bàn tay rất vững chải, tràn ngập tình thương yêu. Tuy bàn tay không còn được nguyên vẹn nữa nhưng vẫn có thể cầm chắc tay súng để giết chết biết bao nhiêu là quân thù. Đặc biệt là đã giết chết thằng Dục để có thể báo thù cho mẹ con của Mai. Như vậy qua đây chúng ta có thể thấy được hình ảnh về đôi bàn tay của Tnú là một hình ảnh đầy tính nghệ thuật ở trong tác phẩm này. Trải qua bao đắng cay của cuộc đời nhưng nó vẫn hoạt động bình thường để giết chết bọn giặc tàn ác. Nguồn: Bài văn hay
Feelings about the image of Tnú's hands in the short story The Snake Forest Instruct Feelings about the image of Tnú's hands in the short story The Snake Forest The Soap Forest is one of Nguyen Thanh Trung's excellent works and he brought us this work to see the beauty of nature, and the beauty here is about nature and the people here. The most prominent in the story is the image of Tnú's hand, which brings special impressions in the reader's heart. And Tnú's hands are an artistic intention that the author wants to convey to us, through which we can see that those hands also have a life, that life is like Tnú's life. And there were times when he also suffered a lot of pain and loss. But in the end, that hand killed so many enemies to avenge everyone, including its owner. That hand is first described as a pair of healthy and small hands. It was those small hands that helped Mai learn to read. That same hand was agile enough to hold letters of communication to be able to overcome all challenges and hardships with countless enemy sieges so that they could bring them to the officers in the forest. Through this, we can see how beautiful Tnú's small hands appear. Even though it is small, every job is completed excellently, which is truly commendable. It is these images that create the image of a Central Highlands hero. And there is the thought that if one cannot learn to read, one will not be able to help the country. That's why Tnú uses his hands to punish, showing that it is brave and courageous. Courageous, even when arrested, those hands did not hesitate and pointed straight at his stomach and said: "Communists are here". Those hands still boldly held Mai's hand on a date when growing up under the fig tree. That is the warm, gentle hand that guides tomorrow through love. That hand also tore off dozens of lychees, his heart choked with anger when he saw Mai and her mother being tortured until they died. And when his wife and children fell, that hand also caught them. Through this we can see that they are very steady hands, filled with love. Even though his hand is no longer intact, he can still hold the gun firmly to kill countless enemies. Especially killing Duc so he could avenge Mai's mother and child. So here we can see that the image of Tnú's hands is an artistic image in this work. Having gone through all the bitterness of life, it still works normally to kill cruel enemies. Source: Good article
Cảm nhận về khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ Bài làm Ở khổ cuối cùng, nhà thơ đọng lại một thời điểm: Năm nay đào lại nở… Đó là hiện tại, tất nhiên chỉ là một hiện tại giả thuyết cho nhà thơ (và bạn đọc). Sự xác định này giống như một cánh cửa khép lại đối với họ mà thôi. Còn với cuộc đời, guồng quay của nó bất tận (đào lại nở…). Ý niệm về sự tuần hoàn của nó vẫn được gợi lên qua hình ảnh của bông hoa, biểu tượng cho sự tái sinh vĩnh viễn. Ngoài ra, ý niệm ấy còn được biểu hiện qua việc gần như lặp lại toàn bộ câu đầu bài thơ, với một vài nét biến thái nhỏ (“Mỗi năm hoa đào nở… Năm nay đào lại nở…”). Nghệ thuật trùng điệp – ở bài thơ hay — không bao giờ hoàn toàn là sự lặp lại. Khổ thơ cuối cùng vẫn đặt song song hai hình ảnh từng được chú ý rọi sáng từ đầu bài: “hoa đào” bên cạnh “ông đồ”. Tuy nhiên, ở đây, chỉ có sự chuyển hóa của một hình ảnh ngày càng mở rộng, mơ hồ, khó nắm bắt: Năm nay đào lại nở, Không thấy ông đồ xưa. Cảm nhận về khổ thơ cuối bài thơ Ông đồ Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? Tới đây ta đã thấy được trong hai hình ảnh ấy (“hoa đào” và “ông đồ”) đâu là điểm hội tụ ánh sáng của bài thơ. Hoa đào vẫn vậy. Nhưng hình ảnh mà nhà thơ dõi theo, đó chính là con người được vẽ lên trong sự chuyển hóa: ông đồ già – ông đồ xưa – những người muôn năm cũ – hồn. Chỉ qua sự tiến triển, biến thái của một hình ảnh (ông đồ), ta đã thấy gợi lên âm hưởng khái quát của khổ thơ cuối cùng: đâu phải chỉ là số phận của ông đồ già. Dường như tiếng vọng, âm hưởng mở rộng, lan xa ấy còn được gợi lên bởi một hiện tượng được thấy ở một số nhà thơ mới (như Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương). Đó là hiện tượng mà có người đã gọi là “đa âm” hiểu theo nghĩa nôm na và đơn giản nhất: trong khổ thơ cuối này, ta nghe thấy cả Thôi Hộ, Phrăng -xoa Vi-lông và Nguyên Du cùng cất tiếng tiếc thương cho tài hoa, cho hồng nhan bạc mệnh, thăng trầm. Điều này, chính bản thân Vũ Đình Liên cũng đã xác nhận ảnh hưởng. Điều mà tôi muốn nói thêm đó chỉ là: ngay trong bài thơ này, Vũ Đình Liên trước sau vẫn là người si mê Bô-đơ-le. Điều đó không hiện lên bề nổi của câu chữ (như đặt một câu hỏi theo kiểu Phrăng-xoa Vi-lông: “Nhưng đâu rồi những áng tuyết xưa?” hoặc điệp lại gương mặt hoa đào của Thôi Hộ (Nguyễn Du). Nó nằm ở bè trầm, nhưng lan tỏa trong toàn bộ nhạc điệu bài Ông đồ: đó là âm hưởng về sự đơn côi của con người trong những đô thị hiện đại. Nói rộng ra, âm hưởng này ám ảnh những nhà thơ lớn của Pháp cuối thế kỉ XIX, kể cả Ranh-bô, Véc-lanh. Cảm hứng của Bô-đơ-le trong bài Chim thiên nga cũng được gợi lên từ một nhân vật cổ xưa, nàng Ảng-đrô-mác và sự điệp lại hình ảnh ấy qua một cánh thiên nga không tìm thấy nước, đang kết đôi cánh ngắc ngoải bên lề đường Pa-ri đầy bụi bẩn: Ngoại ô cũ, tất cả với ta trở thành hiểu tượng, Đá tảng đâu nặng tày kỉ niệm thân thương.
Feelings about the last stanza of the poem Ong Tu Assignment In the last stanza, the poet lingers on a moment: Peach bloom again this year… That is the present, of course just a hypothetical present for the poet (and reader). This determination is like a closed door for them. As for life, its cycle is endless (peaches bloom again...). The idea of ​​its circulation is still evoked through the image of the flower, symbolizing eternal rebirth. In addition, that concept is also expressed through almost repeating the entire first sentence of the poem, with a few small variations ("Every year peach blossoms bloom... This year peach blossoms bloom again..."). The art of repetition – in good poetry – is never purely repetition. The last stanza still places the two images that were noticed and illuminated at the beginning of the poem in parallel: "peach blossoms" next to "grandfather". However, here, there is only the transformation of an ever-expanding, vague, elusive image: Peach bloom again this year, Not seeing his old toys. Feelings about the last stanza of the poem Ong Do Those who have lived forever, where are their souls now? At this point, we can see in those two images ("peach blossoms" and "grandfather") where the light of the poem converges. Peach blossoms are still the same. But the image that the poet follows is the person painted in transformation: the old man - the old man - the people who are forever old - the soul. Just through the evolution and metamorphosis of an image (the old man), we can see the general resonance of the last stanza: it is not just the fate of the old man. It seems that the echo, the expanding, far-reaching resonance is also evoked by a phenomenon seen in some new poets (such as Xuan Dieu, Vu Hoang Chuong). It is a phenomenon that some people have called "polyphonic" in the simplest and simplest sense: in this last stanza, we hear Thoi Ho, França Vi-lon and Nguyen Du together saying sorry. pity for talent, beauty, fate, ups and downs. Vu Dinh Lien himself also confirmed this influence. What I want to add is just that: even in this poem, Vu Dinh Lien has always been infatuated with Bo-dole. That does not appear on the surface of the words (like asking a question in the style of França Vilon: "But where are the old snowflakes?" or echoing the peach blossom face of Thoi Ho (Nguyen Du). It is located in the low part, but pervades the entire melody of Ong Do: it is the sound of human loneliness in modern cities. Broadly speaking, this sound haunts great poets France at the end of the 19th century, including Ranbo and Verlin, Bodole's inspiration in the song The Swan was also evoked from an ancient character, Andromac and its repetition. That image is through a swan's wing that cannot find water, and is knitting its wings together on the dusty side of a Paris street: Old suburbs, everything becomes an illusion to me, Stones are not as heavy as loving memories.
Cảm nhận về loài cây em yêu. Hướng dẫn Tôi rất yêu hoa và loài hoa nào cũng đẹp cũng đáng yêu, nhưng điều đặc biệt làm tôi ấn tượng lại là những cánh hoa giấy mòng manh. Chính sự mỏng manh của hoa giấy lại làm lên sự quyến rũ của nó. Mặc dù thuộc loại họ leo nhưng thân cây không mảnh mai mềm mại như hoa ti gôn hay tầm xuân. Khắp thân cây mang đầy những chiếc gai nhọn hoắt, lỡ sơ ý chạm vào là có thể bị đâm chảy máu. Những cánh hoa nhỏ bé mỏng tanh hình bầu dục trông rất dễ thương. Cây hoa giấy được trồng ngay trước cổng nhà tôi, có lẽ đã từ rất lâu rồi, ba mẹ tôi cũng không nhớ được nó bắt đầu có mặt ở cổng nhà tôi tự khi nào. Bởi vậy thân cây có màu đồng gỉ và bắt đầu nổi lên những khối u sần sùi của sự già nua. Những cành lá chồng xếp lên nhau xòe ra như một cái dù che nắng cho một khoảng sân rộng trước nhà. Hoa giấy có thể nở quanh năm, nhưng vào độ Tết đến xuân về là rực rỡ nhất. Những bông hoa giấy tầng tầng lớp lớp chồng xếp lên nhau làm trĩu cả cành chúc xuống mặt đất. Hoa giấy mọc thành từng chùm, những chùm hoa chúm chím úp vào nhau như búp sen bé nở chứ không xòe ra từng cánh như hoa mai, hoa đào, mỗi hoa có ba chiếc nhụy vươn nhô lên như những chiếc râu nhỏ của chu dế mèn. Điều riêng biệt của hoa giấy là cánh hoa giống y như chiếc lá chỉ có khác biệt về màu sắc. Hoa giấy có rất nhiều màu: trắng, đỏ sẫm, tím và hồng cánh sen. Em thích nhất là màu hồng cánh sen, vừa lộng lẫy lại vừa dịu dàng. Dù thời tiết có nắng mưa gió rét thế nào cây hoa giấy vẫn cứ hiên ngang giữa trời và cho ra những chùm hoa đẹp, nó là loài hoa dễ tính nhất và có sức sống mãnh liệt nhất trong tất cả các loài hoa. Không cần phải chăm bón, thậm chí lãng quên mà hoa vẫn cứ sống được. Dù trồng ở đâu: trong chậu, bờ rào, đất khô, đất nước hay cằn cội sỏi đá, hoa vẫn cứ dẻo dai bền chặt và đơm bông khoe sắc. Em còn phát hiện thêm một điều thú vị: hoa giấy còn là một nữ vệ sĩ cừ khôi. Chính những cái gai của nó là một vũ khí cực kì lợi hại. Có một đêm, tên trộm lọt vào nhà em. Khi bị phát hiện, hắn đã cuống cuồng leo lên cổng để chuồn ra ngoài nhưng giàn hoa giấy đã làm cho tên trộm bị vướng và bị bắt ngay tại chỗ. Sau lần ấy chẳng còn có tên trộm nào dám bén mảng vào nhà em nữa. Giàn hoa giấy trước cổng nhà đã trở nên quen thuộc đối với mọi người trong gia đình em. Nhiều lần mọi người góp ý về việc phá bỏ giàn hoa giấy, nhưng vì yêu loài hoa này và bó đã gắn bó với gia đình em trong nhiều năm nên không ai muốn phá bỏ. Em thường xuyên chăm sóc giàn hoa để hoa sống được lâu hơn và cho ra những cánh hoa đẹp hàng ngày.
Feelings about the plants I love. Instruct I love flowers and all flowers are beautiful and lovely, but what especially impresses me are the delicate paper flower petals. It is the fragility of confetti that makes it attractive. Although it belongs to the climbing family, the stem is not as slender and soft as ti golf flowers or rosehips. The entire tree trunk is full of sharp thorns. If you accidentally touch it, you can get stabbed and bleed. The small, thin, oval-shaped petals look very cute. The bougainvillea tree was planted right in front of my gate, perhaps a long time ago, my parents don't even remember when it started appearing at my gate. Therefore, the tree trunk has a rusty copper color and begins to show rough growths of old age. The stacked branches and leaves spread out like a parasol to shade a large yard in front of the house. Bougainvillea flowers can bloom all year round, but during Tet and spring they are at their most brilliant. The confetti flowers are stacked layer upon layer on top of each other, making the entire branch bend down to the ground. Bougainvillea flowers grow in clusters, the bunches of flowers are facing each other like baby lotus buds, not spreading out each petal like apricot or peach blossoms. Each flower has three pistils sticking out like small antennae of a cricket. men. The unique thing about bougainvillea flowers is that the petals are exactly the same as the leaves, only the color is different. Bougainvillea flowers come in many colors: white, dark red, purple and lotus pink. My favorite color is lotus pink, both gorgeous and gentle. No matter how sunny, rainy, or cold the weather is, the bougainvillea tree still stands tall in the sky and produces beautiful flower clusters. It is the most easy-going flower and has the strongest vitality of all flowers. No need to fertilize or even forget, the flowers can still live. No matter where they are planted: in pots, fences, dry soil, country or rocky soil, the flowers are still resilient and blooming. I also discovered another interesting thing: confetti is also an excellent female bodyguard. Its thorns are an extremely powerful weapon. One night, a thief entered my house. When he was discovered, he frantically climbed up the gate to escape, but the bougainvillea trellis trapped the thief and was arrested on the spot. After that time, no thief dared to enter my house anymore. The bougainvillea trellis in front of the house has become familiar to everyone in my family. Many times people commented on tearing down the bougainvillea trellis, but because I love this flower and the bunch has been with my family for many years, no one wants to destroy it. I regularly take care of the flower trellis so that the flowers live longer and produce beautiful petals every day.
Cảm nhận về mùa xuân trong thơ Hồ Chí Minh Hướng dẫn Cảm nhận về mùa xuân trong thơ Hồ Chí Minh Mùa xuân là mùa của sự sống, mùa của màu sắc tươi non mỡ màng nảy nở. Mùa xuân còn là mùa của những ngày lễ hội, mùa đẹp nhất của thiên nhiên cũng như con người. Thế nên chủ đề mùa xuân trong thơ ca luôn dạt dào vô tân. Và có lẽ nhà thơ nào cũng từng nói về xuân trong thơ mình. Hồ Chí Minh sinh thời không bao giờ tự nhận mình là nhà thơ song sáng tác của Người cũng dạt dào nguồn cảm hứng xuân ấy. Bài thơ nói về cảnh mùa xuân quen thuôc mà ai cũng biết đến đó là Nguyên Tiêu: “Rằm xuân lồng lộng trăng soi Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.” Bác nói về trăng mùa xuân. Mùa đẹp ấy không chỉ đẹp vào ban ngày mà nó còn đẹp khi đêm về nữa. Ánh trăng xuân sáng soi lấp lánh chiếu xuống cả dòng nước in hình của mình lên đó. Như thế thì không những trăng xuân mà sông cũng xuân nữa. Một từ xuân mà được lặp lại hai lần trong một câu thơ nhằm nhấn mạnh vẻ đẹp tuyệt vời của mùa xuân ấy. Trong không gian ấy Người và các cán bộ Đảng vẫn bàn bạc việc quân. Trăng như thể hiện sự soi tỏ của mình cho các chiến sĩ và Bác nhìn rõ và thấu đáo công việc hơn. Trăng là biểu tượng cao đẹp, sáng láng của tự do. Con thuyền bát ngát trăng cũng bát ngát niềm vui cao đẹp tin tưởng vào bình minh sáng rỡ của dân tộc. Có thể nói bài thơ mang phong vị của thơ Đường cũng có trăng xuân, chiếc thuyền nhỏ, sông nước lững lờ trôi đấy nhưng mà khác ở một chỗ người thưởng thức trăng kia không có rượu hoa để uống, không làm thơ mà lại bàn việc quân. “Nếu không có cảnh đông tàn Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân Nghĩ mình trong bước gian truân Gian nan rèn luyện tinh thần thêm hăng.” Ngày xuân ở đây là ngày của bình minh nắng sáng. Ánh nắng kia nhẹ nhàng tinh khôi mang đến sự sống cho tất cả cây cối sự vật đã như chết lặng trong mùa đông giá lạnh tàn úa. Nói đến mùa xuân là người ta liên tưởng đến sự sống. Trong bài thơ này nhà thơ dùng ngày xuân để tượng trưng cho một ngày mai tự do tươi sáng của toàn dân tộc Việt Nam. Bác tự khuyên mình con người sinh sống khổ đau hay sướng vui cũng giống như sự tuần hoàn của bốn mùa. Có mùa đông thì mới có mùa xuân. Có đau khổ buồn bực thì mới có hạnh phúc vui vầy. Nhân dân ta có đau đớn trong nô lệ nhưng vẫn quyết chí đấu tranh thì cũng đến một ngày được tự do tươi sáng. Thế nên là một vị lãnh tụ càng phải tự khuyên chính bản thân mình để rèn luyện tinh thần ý chí của mình vượt qua khó khăn đến ngày tự do tươi sáng. Nếu như mùa xuân ở hai bài thơ trên mùa xuân gắn liền với công việc đất nước thì đến bài thơ tiết xuân mậu thân chỉ còn thi nhân với xuân và trăng. Việc quân đã xong, và tất cả sự vật đều chìm vào yên tĩnh: Tía tía hồng hồng đua sắc tươi. Chim trắng xuống hồ tìm bắt cá, Hoàng oanh vút tận trời. Trên trời mây đến rồi đi, Miền Nam thắng trận báo về tin vui”. Tháng tư là mùa xuân ở độ viên mãn đẹp đẽ nhất. Hoa nở một vườn đầy, nào màu tía, màu hồng màu nào cũng tươi. Mặc dù chiến tranh đang diễn ra ác liệt nhưng Bác vẫn ung dung tận hưởng được một cách trọn vẹn đầy đủ nhất. Điều đó chứng tỏ người là một vị lãnh tụ yêu thiên nhiên, muốn tận hưởng thiên nhiên, biết tính toán để vừa có thể hoàn thành việc quân lại vừa có thể thưởng thức bức tranh xuân tươi đẹp. Đồng thời thể hiện mùa xuân nước ta vô cùng đẹp. Không chỉ thế Bác còn làm những bài thơ mùa xuân để chúc mừng cho nhân dân ta chiến thắng: “Thuốc kiêng, rượu cữ đã ba năm, Không bệnh là tiên sướng tuyệt trần. Mừng thấy miền Nam luôn thắng lớn, Một năm là cả bốn mùa xuân” Và đặc biệt mùa xuân còn được thể hiện qua những bài thơ chúc tết của Bác. Những bài thơ ấy mang đến một mùa xuân của năm mới lại mang đến một mùa xuân thắng lợi của đất nước: “Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi, Nǎm cũ qua rồi, chúc nǎm mới: Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong! Chúc đồng bào ta đoàn kết mau! Chúc Việt-minh ta càng tấn tới, Chúc toàn quốc ta trong nǎm này Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới! Nǎm này là nǎm Tết vẻ vang, Cách mệnh thành công khắp thế giới.” Lời thơ vừa là lời chúc tết lại vừa là lời khích lệ động viên nhân dân ta tiếp tục đấu tranh chống bọn đế quốc sừng sỏ. Đất nước sẽ được thắng lợi trong niềm hạnh phúc hân hoan của tất cả những con người Việt Nam. Năm chiến thắng chính là năm đất nước ta vẻ vang vui vầy ngày Tết. Tóm lại thơ Bác không chỉ thấm đẫm chất tình, chất thép mà còn thấm đẫm chất thiên nhiên mùa xuân. Rõ ràng Hồ Chí Minh là một người yêu thiên nhiên quê hương đất nước. Chính vì thế mùa xuân – mùa đẹp nhất dạt dào trong thơ Bác là một lẽ rất đương nhiên.
Feelings about spring in Ho Chi Minh's poetry Instruct Feelings about spring in Ho Chi Minh's poetry Spring is the season of life, the season of fresh and blooming colors. Spring is also the season of festivals, the most beautiful season of nature as well as humans. Therefore, the theme of spring in poetry is always abundant. And perhaps every poet has talked about spring in his poems. Ho Chi Minh never considered himself a poet during his lifetime, but his writings were also full of that spring inspiration. The poem about the familiar spring scene that everyone knows is Nguyen Tieu: “On the full moon of spring, the moon shines brightly Spring river, water and sky color add spring In the midst of discussing military affairs, Late at dawn moon filled the boat." He talked about the spring moon. That beautiful season is not only beautiful during the day but it is also beautiful at night. The bright spring moonlight sparkled down on the water, imprinting its image on it. In this way, not only will the moon spring, but the river will also spring. A spring word that is repeated twice in one verse to emphasize the wonderful beauty of that spring. In that space, he and Party officials still discussed military matters. The moon seemed to show its light to the soldiers and Uncle Ho to see their work more clearly and thoroughly. The moon is a beautiful, bright symbol of freedom. The boat full of moonlight is also filled with beautiful joy and confidence in the bright dawn of the nation. It can be said that the poem has the flavor of Tang poetry and also has the spring moon, a small boat, and a river floating slowly, but the difference is that the person enjoying the moon does not have flower wine to drink, does not write poetry, but discusses it. military work. “If there is no winter scene There is no such thing as a glorious spring day Think of yourself in arduous steps Difficulty trains the spirit to be more enthusiastic.” Spring day here is a day of bright sunny dawn. That gentle, pure sunlight brought life to all the trees and things that seemed to have died in the cold, withering winter. When people talk about spring, they think of life. In this poem, the poet uses spring days to symbolize a bright, free tomorrow for the entire Vietnamese people. He advised himself that people's lives of suffering or joy are just like the cycle of the four seasons. When there is winter, there is spring. Only when there is suffering and sadness can there be happiness. Even though our people are suffering in slavery but still determined to fight, one day they will be brightly free. Therefore, as a leader, we must advise ourselves to train our spirit and will to overcome difficulties until the bright day of freedom. If spring in the two poems above is associated with national affairs, then in the poem Tet Mau Than spring, the poet is only associated with spring and the moon. The military work is finished, and all things are quiet: Bright purple and pink purple. White birds go down to the lake to look for fish, Hoang soared to the sky. In the sky clouds come and go, The South won the war and reported good news." April is spring at its most beautiful fullness. A garden full of flowers bloom, every color is purple, pink, every color is fresh. Even though the war was fierce, Uncle Ho still enjoyed it to the fullest. This proves that he is a leader who loves nature, wants to enjoy nature, and knows how to calculate so that he can both complete military tasks and enjoy the beautiful spring picture. At the same time, it shows that our country's spring is extremely beautiful. Not only that, Uncle Ho also wrote spring poems to congratulate our people on their victory: “Abstaining from medicine and alcohol for three years. Not being sick is heavenly happiness. Glad to see the South always winning big, A year is all four springs" And especially spring is also expressed through Uncle Ho's New Year poems. These poems bring about the spring of the new year and bring about a spring of victory for the country: “The days pass by so quickly, The old year has passed, wishing you a new year: May the invaders perish! Wish our fellow united! Wishing our Viet Minh more progress, Wishing our nation this year Red flag with stars flying! This year is a glorious Tet year, Revolution succeeds all over the world.” The poem is both a New Year's greeting and an encouragement to our people to continue fighting against the mighty imperialists. The country will win in the happiness and joy of all Vietnamese people. The year of victory is the year our country is glorious and joyful during Tet. In short, Uncle Ho's poetry is not only imbued with love and steel but also imbued with spring nature. Clearly, Ho Chi Minh was a lover of his homeland's nature. That's why spring - the most beautiful season in Uncle Ho's poetry - is very natural.
Cảm nhận về Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu Hướng dẫn Cảm nhận về Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của nền văn học Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Ông có nhiều tác phẩm giàu giá trị ý nghĩa. Trong số những tác phẩm đó phải kể đến truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng được ông viết khi đế quốc Mỹ nổ súng phá hoại miền Bắc nước ta. Truyện mang đến cảm hứng lãng mạn anh hùng. Nhà văn ca ngợi những con người kiên cường bất khuất trong chiến tranh ác liệt bảo vệ tổ quốc. Mỗi một người sinh ra đều có một cái tên, bố mẹ chúng ta phải chọn những cái tên có ý nghĩa nhất để nói đặt cho chúng ta. Một tác phẩm văn chương cũng cần có một cái tên ý nghĩa như vậy. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt tên cho tác phẩm của mình là mảnh trăng cuối rừng. Đặt như thế nhà văn nhằm mục đích gì?. Nghĩa thực của nó là hình ảnh ánh trăng ở cuối rừng chập chờn tươi non và tinh khiết, thoắt ẩn thoắt hiện cuối rừng xa trong đêm Trường Sơn. Nhà văn như ghi lại cái khoảnh khắc thiên nhiên tươi đẹp ấy. Ở đây nhà văn dùng với nghĩa biểu tượng mảnh trăng chính là cô gái tên Nguyệt. Nó tượng trưng cho vẻ đẹp của cô gái ấy. Đó là sự yên tĩnh ngời sáng trẻ trung mặc cho bom đạn Mỹ muốn tàn phá hủy diệt. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công tình huống truyện thất bất ngờ. Truyện kể về một cuộc gặp gỡ của một người lái xe quân sư và một người cô công nhân giao thông đi nhờ xe anh trong đoạn đường chiến đấu. Sự ngẫu nhiên được nhà văn xây dựng nên. Đó là cả hai người đều đến chỗ hẹn với người đính ước thế nhưng thật tình cờ vì chính Nguyệt lại là người con gái mà anh lái xe Lãm đang đi hẹn gặp. Hai người gặp nhau trong hoàn cảnh chiến tranh và Nguyệt tâm sự với anh mọi chuyện. Điều đó khiến anh đoán chắc rằng cô chính là người mà anh đang hẹn gặp. Đặc biệt con đường đi tới đó xảy ra biết bao nhiêu chuyện nguy hiểm và Nguyệt đã bộc lộ vẻ đẹp trong chính tâm hồn mình. Dù họ không đi được tới chỗ hẹn vì sư khó khăn của chiến tranh nhưng những điều Nguyệt chia sẻ với anh cũng khiến cả hai người cảm thấy hạnh phúc. Việc tạo nên một tình huống ngẫu nhiên như thế giúp cho nhân vật bộc lộ vẻ đẹp của mình một cách tự nhiên hơn không hề có chút nào là giả tạo. Nguyệt là một co gái có ngoại hình đẹp. Vẻ đẹp ấy xuất hiện đầu tiên qua hình ảnh rất độc đáo đó là: “đôi gót chân bóng hồng”. Đây là một hình ảnh hết sức ý vị. Điều đó nhằm nói lên người con gái đẹp thì đến cái gót chân cũng đẹp. Và chính cái gót chân đẹp đẽ ấy đã tương phản hoàn toàn so với chiến tranh. Nó gợi lên một vẻ đẹp thanh tao, quyến rũ của một người co gái. Người ta thường nói về vẻ đẹp của người con gái là nhất dáng nhì da thì ở đây người con gái này đã nhất vì có một dáng hình đẹp “Một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương núi tỏa ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ”. Cô không chỉ đẹp dáng người mà còn đẹp ở nét mặt lời nói nữa. Gương mặt thể hiện sự mát mẻ dễ gần. Nguyệt cứ thế hiện lên như một áng thơ thanh thoát hiện lên trong khung cảnh chiến tranh. Hay cô giống một bông sen hồng tươi đẹp. Nói tóm lại vẻ đẹp ngoại hình của Nguyệt khiến cho mỗi ai nhìn thấy phải xao xuyến lòng mình. còn ở trong truyện thì vẻ đẹp đó đã làm xao lòng người con trai lái xe tên Lãm. Không chỉ đẹp ngoại hình người con gái ấy còn đẹp cả tâm hồn nữa. Và vẻ đẹp này chính là vẻ đẹp cốt lỗi nhất. Thứ nhất, trong cuộc sống Nguyệt là một cô gái sống có lý tưởng. Cô xung phong nhận làm công nhân giao thông trên tuyến đường Trường Sơn gian khổ, ác liệt. Không những thế cô còn dày dạn kinh nghiệm trong việc đoán xét tọa độ ném bom của địch, để từ đó quân đội ta có thể tránh được. Cô dũng cảm tìm mọi cách cứu xe và cứu đồng đội. chiến tranh ác liệt và việc cô bị thương là chuyện đương nhiên. Tuy thế cô vẫn cứ lạc quan thản nhiên mà cười nói. Như vậy có thể thấy Nguyệt mang phẩm chất của một anh hùng. Thứ hai trong tình yêu cô là người có tình yêu đặc biệt. Cô chấp nhận đính ước với một người lính chưa biết mặt biết tên chỉ vì cảm phục lý tưởng của anh. Cô chung thủy với tình yêu ấy qua bao nhiêu gian nan vất vả của chiến tranh. Qua đó ta thấy Nguyệt có một tình yêu kì diệu mang một vẻ đẹp lãng mạn. Đồng thời nó bộc lộ cái nhìn lãng mạn của nhà văn về những thanh niên trên chiến trường đánh giặc. Nhân vật thứ hai là anh lái xe tên Lãm. Anh cũng giống như Nguyệt là một người sống có lý tưởng. Nếu Nguyệt chỉ đơn thuần là xung phong đi làm công nhân giao thông tại nơi nguy hiểm thì Lãm bỏ nhà để tình nguyện đi lính. Anh là một người lái xe dày dặn kinh nghiệm, trong mọi trường hợp anh luôn tỏ ra là một người bình tĩnh dũng cảm không sợ hi sinh. Anh sẵn sàng hi sinh để cứu lấy chiếc xe trong tọa độ bom của địch. Không những thế anh còn luôn đặt nhiệm vụ quân sự lên tình cảm riêng tư. Anh yêu cái đẹp và biết sống vì người khác. Tuy có lúc ạnh chủ quan với kinh nghiệm chiến đấu của mình, thoáng có chút thành kiến với phụ nữ nhưng từ khi gặp Nguyêt thì anh thay đổi. Tóm lại Lãm chính là đại diện cho thế hệ trẻ Việt nam trong kháng chiến chống Mỹ. Sống có lý tưởng và nhiệt tình hăng hái trong chiến đấu. Bằng những hình ảnh nghệ thuật đặc sắc như sợi chỉ xanh óng ánh, mảnh trăng cuối rừng…cùng với tình huống truyện ngẫu nhiên nhà văn Nguyễn Minh Châu đã mang đến cho chúng ta hình ảnh những con người thế hệ trẻ Việt Nam tươi trẻ, nhiệt huyết trong thời kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt là Nguyệt đại diện cho những cô công nhân giao thông xinh đẹp và hiên lành. Mảnh trăng cuối rừng vừa mang cảm hứng trữ tình lại vừa mang cảm hứng lãng mạn.
Feelings about The Moon at the End of the Forest by Nguyen Minh Chau Instruct Feelings about The Moon at the End of the Forest by Nguyen Minh Chau Nguyen Minh Chau is one of the outstanding short story writers of Vietnamese literature during the resistance war against America. He has many works rich in meaningful value. Among those works is the short story The Moon at the End of the Forest, which he wrote when the American imperialists opened fire to destroy the North of our country. The story brings heroic romantic inspiration. The writer praises the indomitable and resilient people who fought fiercely to protect their homeland. Every person is born with a name, our parents have to choose the most meaningful names to say for us. A literary work also needs such a meaningful name. Writer Nguyen Minh Chau named his work the moon at the end of the forest. What is the writer's purpose in putting it like that?. Its real meaning is the image of moonlight at the end of the forest, flickering fresh and pure, suddenly appearing at the far end of the forest in the Truong Son night. The writer seemed to record that beautiful moment of nature. Here, the writer uses the moon as a symbolic meaning, which is the girl named Nguyet. It symbolizes the beauty of that girl. It was a youthful, bright quiet despite the American bombs and bullets wanting to wreak havoc and destruction. Nguyen Minh Chau has successfully built an unexpected story situation. The story is about a meeting between a military driver and a traffic worker who hitchhiked in his car during the battle. The randomness is built by the writer. That is, both of them went to the meeting place with their betrothed, but it was a coincidence that Nguyet was the girl that driver Lam was going to meet. The two met in a war situation and Nguyet confided everything to him. That made him guess that she was the person he was meeting. Especially on the road there, many dangerous things happened and Nguyet revealed the beauty in her own soul. Even though they couldn't go to the meeting place because of the difficulties of the war, the things Nguyet shared with him also made both of them feel happy. Creating such a random situation helps the character reveal his beauty more naturally, without the slightest bit of artificiality. Nguyet is a girl with beautiful appearance. That beauty appears first through a very unique image: "pink heels". This is a very interesting image. That means that a beautiful girl even has beautiful heels. And it is that beautiful heel that contrasts completely with the war. It evokes the elegant, seductive beauty of a girl. People often say that a girl's beauty is first her body, second her skin, but here this girl is the best because she has a beautiful figure. "A simple and cool beauty like mountain dew radiates from her facial expressions and words." speech and slim body. She is not only beautiful in body but also beautiful in facial expression and speech. The face shows coolness and approachability. Nguyet just keeps appearing like a serene poem appearing in the war scene. Or she is like a beautiful pink lotus. In short, Nguyet's physical beauty makes everyone who sees her flutter. In the story, that beauty captivated the heart of the driver named Lam. Not only is she beautiful in appearance, she is also beautiful in her soul. And this beauty is the ultimate beauty. First, in life, Nguyet is an idealistic girl. She volunteered to work as a traffic worker on the arduous and fierce Truong Son route. Not only that, she is also experienced in judging the coordinates of enemy bombing, so that our army can avoid it. She bravely tried every way to save the car and save her teammates. The war was fierce and it was natural for her to be injured. However, she still remained optimistic and calmly smiled. Thus, it can be seen that Nguyet has the qualities of a hero. Second, in love, she is a person with special love. She accepted an engagement with an unknown soldier just because she admired his ideals. She remained faithful to that love through many hardships of war. Through this we see that Nguyet has a magical love with a romantic beauty. At the same time, it reveals the writer's romantic view of young men on the battlefield fighting the enemy. The second character is a driver named Lam. He, like Nguyet, is an idealistic person. If Nguyet simply volunteered to work as a traffic worker in a dangerous place, then Lam left home to volunteer to be a soldier. He is an experienced driver, in every situation he always appears to be a calm and courageous person who is not afraid of sacrifice. He was willing to sacrifice himself to save the car from the enemy's bomb coordinates. Not only that, he also always puts his military duties above his personal feelings. He loves beauty and knows how to live for others. Although there were times when he was subjective with his combat experience and had a slight bias against women, after meeting Nguyet, he changed. In short, Lam represents the young generation of Vietnam in the resistance war against America. Live with ideals and be enthusiastic in fighting. With unique artistic images such as an iridescent green thread, a sliver of moon at the end of the forest... along with random story situations, writer Nguyen Minh Chau has brought us the image of young Vietnamese people. , enthusiastic during the resistance war against America. Especially Nguyet represents beautiful and kind traffic workers. The piece of moon at the end of the forest brings both lyrical and romantic inspiration.
Cảm nhận về mẹ Hướng dẫn Nỗi vất vả của mẹ tôi Mở bài: Ngày ấy, mẹ tôi còn trẻ. Ở Ninh Thuận được năm năm, bố mẹ tôi quyết định chuyển về Đồng Tháp, quê nội tôi để sinh sống. Thân bài: Từ vùng cát trắng khô hanh, quen với cái gió nồm nam thổi suốt ngày đêm, lúc nào bên tai cũng nghe tiếng ù ù; quen với cái nắng hừng hực và ánh sáng gay gắt của miền cát trắng; đột ngột đối diện với những cơn mưa dầm dề, đối diện với cái không khí âm ẩm nóng đến khó chịu và những đàn muỗi lì lợm, cứ thấy người là liều lĩnh xông tới, mẹ tôi vất vả vô cùng. Vì yêu chồng, thương con lại muốn được chăm sóc bà nội những ngày cuối đời, mẹ tôi đã cắn răng chịu đựng vượt qua tất cả khó nhọc. (Cảm nhân về mẹ). Ba đi làm trên thành phố. Thỉnh thoảng ba mới ghế về thăm nhà. Một mình mẹ gánh vác lo toan tất cả. Sáng bán rau, chiều chợ nổi. Cả ngày mẹ đi ngược về suôi kiếm tiền nuôi lớn anh em tôi. Tôi nhớ có lần lúc hái rau muống ở ngoài đìa, một con đỉa to tướng đã bám vào chân mẹ mà không hay biết. Mẹ vốn rất sợ các loài thân mềm. Nên thấy con đỉa khuôn mặt mẹ tái nhợt vì sợ hãi. Loài đỉa vốn bám rất chặt nên khi bắt được nó ra, chân mẹ cũng chảy máu rất nhiều. Lúc ấy tôi còn bé lắm, chưa hiểu hết được những vất vả của mẹ. Khi lớn khôn rồi, mẹ tôi đã đỡ khổ nhọc hơn nhưng những lo âu vẫn còn hằn trên nét mặt. Càng nghĩ về những tháng ngày cơ nhọc, tôi càng thương mẹ nhiều. Mỗi lần đi xa về, mẹ không quên mua cho anh em chúng tôi cái gì đó. Tôi nhớ lần mẹ từ thị xã về và mang cho anh em chúng tôi thật nhiều bánh lá dừa. Ôi, những chiếc bánh lá dừa ngọt ngào biết bao! Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái vị ngọt béo đến tê tê đầu lưỡi. Nhớ cái mùi thơm nồng nàn còn phản phất đâu đây. Mẹ đã dành cả cuộc đời mẹ cho chồng, cho con. Mẹ tảo tần sớm hôm, đi sớm về khuya như thân cò lặn lội sương gió. Cả cuộc đời mẹ ít khi có niềm vui. Niềm vui lớn nhất của mẹ đó là được chăm sóc gia đình, nhìn những đứa con lớn lên. Rồi chúng tồi từng đứa đi xa. Đứa làm ăn nơi thành phố. Đứa lấy chồng về miền Cà Mau. Mẹ vui rồi thoáng chốc mẹ lại buồn. Kết bài: Mai này dù có ở chân trời góc bể, tôi cũng không sao quên được kí ức tuổi thơ có mẹ. Tình cảm ấy thiêng liêng như sông như bể, lung linh như những vì sao đêm đêm tỏa sáng trên bầu trời. Giờ đây mẹ tôi đã đi xa, xa lắm. Mẹ bỏ lại chúng tôi trơ trọi giữa cuộc đời. Đêm đêm, ngước nhìn những vì sao sáng tôi gọi thầm: “mẹ ơi”.
Feelings about mother Instruct My mother's hardships Opening: At that time, my mother was young. Having lived in Ninh Thuan for five years, my parents decided to move to Dong Thap, my paternal hometown, to live. Body of the article: From the dry white sand area, accustomed to the south wind blowing day and night, always hear the buzzing sound in my ears; accustomed to the hot sun and harsh light of the white sand region; Suddenly facing the pouring rain, facing the uncomfortably hot and humid air and stubborn mosquitoes, recklessly rushing in every time she saw someone, my mother had an extremely hard time. Because she loved her husband, loved her children, and wanted to take care of her grandmother in her final days, my mother gritted her teeth and endured all the hardships. (Thank you mother). Dad goes to work in the city. Occasionally my father comes home to visit. Mother alone takes care of everything. Selling vegetables in the morning, floating market in the afternoon. All day my mother went back and forth to the river to earn money to raise my brothers and me. I remember one time when I was picking water spinach outside, a huge leech clung to my mother's leg without realizing it. Mom was always afraid of mollusks. So when I saw the leech, my mother's face turned pale with fear. The leech clings very tightly, so when she got it out, the mother's leg bled a lot. At that time, I was very young and did not fully understand my mother's hardships. When she grew up, my mother's hardships became less difficult, but worries were still written on her face. The more I think about those difficult days, the more I love my mother. Every time I come home from a long trip, my mother doesn't forget to buy us all something. I remember the time my mother came home from town and brought us a lot of coconut leaf cakes. Oh, how sweet are the coconut leaf cakes! Until now I still remember the sweet, fatty taste that tingled my tongue. Remember the passionate scent that still lingers here and there. Mother devoted her whole life to her husband and children. Mother goes out early in the morning, leaves early and returns late at night like a stork wading through the wind and dew. All her life, she rarely had joy. A mother's greatest joy is taking care of her family and watching her children grow up. Then they went away one by one. The one who does business in the city. The one married to the Ca Mau region. Mom was happy and then suddenly she was sad again. End: Even if I'm at the end of the world tomorrow, I won't be able to forget my childhood memories of my mother. That love is as sacred as a river and a lake, sparkling like the stars shining in the sky at night. Now my mother has gone far, far away. Mother left us alone in life. At night, looking up at the bright stars, I whispered: "Mom".
Cảm nhận về người vợ trong tác phẩm Vợ nhặt Hướng dẫn Cảm nhận về người vợ trong tác phẩm Vợ nhặt Nhắc đến Kim Lân chúng ta có thể nghĩ ngay đến tác phẩm ” Vợ nhặt ”, một trong những tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nổi bật trong đó không thể không nhắc đến nhân vật Thị trong câu chuyện. Tác giả đã khắc họa một cách chân thực, cụ thể nhân vật qua tính cách,chân dung, hoàn cảnh, để rồi từ đó nói lên triết lý cuộc sống mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm. Ngay từ nhan đề cũng đã khiến người đọc cảm thấy đặc biệt. đi sâu vào câu chuyện, có thể cảm nhận nhân vật Thị là một nhân vật có số phận vô cùng thương cảm. Thị xuất hiện là một người nghèo, không ai thân thích, đến cái tên cũng không có, gọi bằng Thị rất suồng sã, dân dã, đói khát, rách tả tơi, chỉ nghe vài lời nói đùa mà chấp nhận theo không một người, mình chưa biết tính cách họ ra sao, gia cảnh như thế nào? Thị không đắn đo suy nghĩ mà quyết định nhanh chóng chỉ vì hoàn cảnh đói quá. Cái đói đã khiến cho Thị chao chát, chỏng lỏn, thô tục, cong cớn, nói lời ngọt ngào, tình tứ với người đàn ông mình gặp lần đầu tiên ( lời xưng hô thân mật: ” nhà tôi ơi, đằng ấy nhỉ “, thậm chí còn liếc mắt cười tít, chỉ vì cái đói, vì sự tồn tại mà Thị trở nên xưng xỉa: ” điêu, người thế mà điêu ” thậm chí đòi ăn:” có ăn gì thì ăn chả ăn giầu ” và cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì ” đúng là vì đói mà con người ta không còn ý thức về danh dự, không còn ý thức về hành động, về sự e thẹn, chỉ cốt làm sao khỏi đói, thoát chết. Họ trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, thậm chí bóp méo cả nhân cách. Hoàn cảnh của Thị giống như người chết đuối giữa dòng đang chới với giữa sự sống và cái chết, họ sẽ bấu víu vào bất cứ cái gì, hi vọng có thể sống sót nhưng với Thị là chết đuối mà vớ phải ” cọc mục “ Vì khao khát được sống, vì muốn thoát khỏi lưỡi hái tử thần mà thậm chí người ta sẵn sàng chấp nhận làm vợ theo, vợ nhặt. Cưới chồng là việc trọng đại của một đời người, với nghi lễ sang trọng, vợ là bổn phận thiêng liêng của người con gái khi lấy chồng, nhưng với Thị chẳng có người mai mối, chẳng đám hỏi, treo cưới gì cả, tự nhiên theo không về hà chồng chỉ qua lời nói đùa tầm phào mà người nói vẫn tưởng là nói đùa thôi nhưng Thị vẫn theo về thật. Câu chuyện tưởng như là bịa, hơn nữa cũng không có gì gọi là lãng mạn như những câu chuyện tình ta vẫn thường gặp. Đúng là cười ra nước mắt gợi ra cho người đọc sự xót xa, ngậm ngùi trước số phận bị rẻ rúng, bèo bọt của những người nông dân nghèo giữa nạn đói thê thảm, đúng là sự khôn cùng của hoàn cảnh. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Thị thay đổi hẳn từ vẻ ngoài cho đến cách cư xử, ăn nói, hành động: ” Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Qua đây, nhà văn muốn khẳng định con người thay đổi do hoàn cảnh, hoàn cảnh làm thay đổi tính cách con người như lời nhà văn Nam Cao đã từng nói trong truyện ngắn:” Sao lại thế này “: ” Giữa một người đàn bà tốt và một người đàn bà xấu khoảng cách chỉ bằng sợi tóc. Ở đây Thị vì đói, vì khao khát được sống mà trở nên đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn, khi có điểm tựa, có mái ấm gia đình, Thị trở về đúng với bản chất tốt đẹp vốn có của Thị. Sự thay đổi ở Thị, đồng thời thể hiện tấm lòng cảm thông của nhà văn đối với nhân vật. Đây là tư tưởng nhân đạo cao cả.
Feelings about the wife in the work The Wife Picked Up Instruct Feelings about the wife in the work The Wife Picked Up When mentioning Kim Lan, we can immediately think of the work "The Picked Wife", one of the excellent works, leaving a deep impression in the hearts of readers. Notable among them is the character Thi in the story. The author has realistically and specifically portrayed the character through personality, portrait, and circumstances, thereby expressing the philosophy of life that the author wants to convey through the work. Even the title makes readers feel special. Going deeper into the story, one can feel that the character Thi is a character with an extremely sympathetic fate. She appeared to be a poor person, had no relatives, didn't even have a name, was called Thi very casually, rustic, hungry, thirsty, tattered, only listened to a few jokes but accepted to follow no one. , I don't know what their personalities are like, what their family background is like? Thi didn't think twice and decided quickly just because she was so hungry. Hunger has caused Thi to be bitter, skinny, vulgar, crooked, saying sweet, affectionate words to the man she met for the first time (intimate address: "My house, over there?" , even glanced at her and laughed, just because of hunger, because of existence, Thi became insulting: "What a shame, people like that" even asked for food: "If you eat anything, you won't get rich" and blamed her. At first, I ate four bowls of Banh Duc in a row and didn't talk about anything." It's true that because of hunger, people no longer have a sense of honor, no sense of action, or shyness, just to avoid hunger. They become brazen, reckless, and even distort their personality. Thi's situation is like a drowning person caught between life and death, they will cling to anything. , hoping to survive, but for Thi, it was drowning and ending up in a "rotten pile". Because of the desire to live, because of wanting to escape the scythe of death, people are even willing to accept being a follower or an escort wife. Getting married is an important event in a person's life, with a luxurious ceremony, a wife is the sacred duty of a girl when she gets married, but for Thi, there is no matchmaker, no wedding ceremony, no wedding invitation at all, she naturally However, she didn't come back to her husband, just through a trivial joke that the speaker thought it was a joke, but Thi still followed him back. The story seems to be made up, and there is nothing romantic like the love stories we often encounter. It's true that laughing to tears evokes in the reader a sense of sadness and pity at the cheap and meager fate of poor farmers in the midst of tragic famine, truly the immensity of the situation. The next morning when she woke up, Thi had completely changed from her appearance to the way she behaved, spoke, and acted: "Trang looks very different today, clearly she is a gentle, proper woman, no longer looks like her." chao chao, sloppy like the times Trang met outside the province. Through this, the writer wants to affirm that people change due to circumstances, circumstances change a person's personality as writer Nam Cao once said in the short story: "Why is it like this": "In the middle of a man A good woman and a bad woman are separated by just a hair. Here, because of hunger, because of the desire to live, Thi became harsh, sour, and brazen. When she had support and a warm family, she returned to her inherently good nature. The change in Thi also shows the writer's sympathy for the character. This is a noble humanitarian thought.
Cảm nhận về người đàn bà trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa Hướng dẫn Cảm nhận về người đàn bà trong Chiếc Thuyền Ngoài Xa Bài Làm Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đội khi không phải là điều ngay trước mắt mà sự thật là cái ẩn giấu bên trọng. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người đàn bà làng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa. Mang vẻ bề ngoài xấu xí, nhưng phẩm chất bên trong lại vô cùng tốt đẹp. Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được viết vào năm 1983 và đến 1985 trong tập “ Bến Quê” tác phẩm là sản phẩm con người đời thương. Truyện kể về việc nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi tới vùng biên này mong tìm được một bức ảnh cho bộ lịch. Sau gần một tuần tìm kiếm, cuối cùng anh cũng tìm thấy một cảnh đắt trời cho “ Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”. Nhưng vừa như phát hiện một chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoản khắc trong ngần của tâm hồn thì bất ngờ anh phát hiện ra cảnh bao lực gia đình. Với sự xuất hiện người đàn bà làng chài gây ấn tượng lớn cho người độc và người nghe. Người đàn bà làng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ” Người đàn bà, bà…” Người đàn bà chạc 40 tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mĩ. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đang thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo khó. Thuyền thì bé, có những lần da đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng tinh thần đầy đủ cũng là hạnh phúc “ một túp lều tranh hai trai tim vàng”. Nhưng chị đâu được thế cuộc sống tinh thần của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuốc sống làm cho tính cách hắn hung bạ. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chông tàn bạo, nhưng chị vẫn “ Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố” Cả hai mẹ con chỉ biết khóc. Người đàn bà kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi khi chính là sự ngu dốt. Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý li hôn, chị nhất định không chịu, van nài xin không li hôn, nhận hết trách nhiệm, tội nỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am hiểu lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất cảm thông cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đam ra đánh vợ con, chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân minh. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hi sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi các con chị được ăn no, mặc ấm. Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi khi gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất “ Cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ” Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem đến cho đẩu và phùng những bài học quý giá. Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nhét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chìa, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế. Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đạp vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Bên cạnh đó vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc, cho mình cơ hội để đến với hạnh phúc đích thực.
Feelings about the woman in The Boat Far Away Instruct Feelings about the woman in The Boat Far Away Assignment In this complicated life, the truth is not what is right in front of your eyes, but the truth is what is hidden inside. Therefore, if we want to correctly perceive life and people, we must look inside, the true nature, and look at life in a multifaceted way. Like Nguyen Minh Chau's character of the fishing village woman in the short story The Boat in the Far Away. It looks ugly on the outside, but its inner qualities are extremely good. The boat in the distance by Nguyen Minh Chau was written in 1983 and in 1985 in the collection "Ben Que", the work is a product of people's love. The story is about a photographer named Phung who goes to this border area hoping to find a photo for the calendar. After nearly a week of searching, he finally found an expensive scene for "In front of my eyes is a Chinese ink painting by an ancient artist". But just as he discovered a truth of perfection, discovering a moment of soul purity, he suddenly discovered a scene of family violence. With her appearance, the fishing village woman makes a big impression on readers and listeners. The woman from the fishing village, not named. Only called by the pronouns "Woman, Mrs...." The woman is about 40 years old, has the familiar body of a tall coastal person with rough features and a pockmarked face. The woman has a very ugly and unaesthetic appearance. Previously, this woman lived in the city. I'm from a good family, but no one will marry me because I'm ugly. She became pregnant with the fisherman and had a married life with him. Other people looked at it and thought that this was hell because every three days she had a small attack, and five days she had a big attack. Yes, her life is truly painful and miserable. She suffered both physically and mentally. Like many other fishing village families, her family had many children. The house is poor. The boat was small, and there were times when my family had to eat boiled cacti dipped in salt. A life couldn't be more miserable. People often suffer materially, but spiritual well-being is also happiness: "a thatched hut with two hearts of gold". But she can't do that, her spiritual life is even more miserable. The ugly man - her husband, partly because his life made him violent. He used a way to relieve his frustration by beating her, impregnating her and her children, "You die for grandpa, you die for grandpa." He was brutally beaten with whips and strong whips. , but she still "With a face full of resignation and patience, she never made a sound, didn't try to fight back, didn't try to run away. The beating only stopped when the boy rushed to save his mother and beat him back." Both mother and son could only cry. The woman said that when her daughter was young, he beat her on the boat. After her child grew up, she asked him to take him to shore and beat him. We see that her life is difficult, she only knows resignation and sometimes ignorance. But actually there are many things inside that people don't know. When the first judge suggested divorce, she definitely refused, begged not to divorce, and took full responsibility and blame on herself. Why? Because she is a person who understands life, even though she is uneducated. She understood that this boat needed a man to row it across. Phong's father and raising her children also sympathized with her husband, who used to be a very loving person but never beat his wife. But because life was difficult, making the man want to beat his wife and children, she patiently resigned, accepting full responsibility for herself. I admit that because I gave birth to many children, my life is miserable. Besides being resigned and accepting sacrifices, her life also has joy, which is when her children are well fed and warmly clothed. Every mother is like that, seeing her children happy makes herself a hundred times happier. And sometimes her family is harmonious, warm, and happy, and she also has high self-esteem. She feels embarrassed when others know the story of her being beaten, especially the simpleton. The person she loved the most, "The boy, from his temperament to his face, looked like he was taken from the old man who tortured her." She cried when she mentioned the boy. She loves her children very much, she also brings valuable lessons to her and her husband. Through the image of the woman in the story, we see that Vietnamese women still retain the traditional beauty of Asian women. Even though the outside is not beautiful, the inside always has noble qualities. Always thinking about your family, your little happiness, ready to sacrifice everything to preserve and take care of your family, that happiness is your mother's children. Women have a noble altruism. The differences between village women are that today's women are more active, more in control of their lives, and in control of the economy. They no longer have to patiently endure their husband's beatings. They love their husbands and children, they need a man to take care of the family, who loves his family and his wife and children. But if they are abusive men who beat their wives and children, they are willing to report to the authorities to protect the rights and happiness of their family. Besides, there are still women who are meek, cowardly, and patient, willing to endure their husband's beatings. Trying to cling to happiness that only exists in illusion, living without a stance. They need to change their way of living and thinking to find the final solution to find happiness and give themselves the opportunity to reach true happiness.
Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa–Pa của Nguyễn Thành Long Hướng dẫn Nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa–Pa” là nhân vật lý tưởng của nhà văn Nguyễn Thành Long Mở bài: Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và ký. Ông thành công trong đề tài tìm kiếm, phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp con người trong lao động và chiến đấu. Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chất, hình tượng đẹp, ngôn ngữ giàu chất thơ, trong trẻo và nhẹ nhàng. Văn ông thường ánh lên vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống. “Lặng lẽ Sa–Pa” là truyện ngắn đặc sắc, được Nguyễn Thành Long viết trong chuyến đi thực tế của tác giả ở Sa Pa năm 1970. Đây là một truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nguyễn Thành Long đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh nhân vật anh thanh niên – một cán bộ làm công tác khí tượng thủy văn trên đỉnh Yên Sơn cao 2500m, hoàn toàn cách biệt với đời sống xã hội. Thân bài: Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được xây dựng xoay quanh một tình huống truyện khá đơn giản mà tự nhiên. Đó chính là cuộc gặp gỡ tình cở của mấy người khách trên chuyến xe lên Sa Pa với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Trên chuyến xe khách từ Hà Nội lên Lào Cai, ông họa sĩ già, bác lái xe, cô kĩ sư trẻ tình cờ quen nhau. Bác lái xe đã giới thiệu cho ông họa sĩ và cô kĩ sư làm quen với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Trong cuộc gặp gỡ 30 phút đã để lại trong lòng các vị khách nhiều ấn tượng tốt đẹp về anh kĩ sư. Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để tác giả khắc họa “bức chân dung” nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung, qua sự quan sát của các nhân vật khác và qua chính lời lẽ, hành động của anh. Đồng thời, qua “bức chân dung” (cả cuộc sống và những suy nghĩ) của người thanh niên, qua sự cảm nhận của các nhân vật khác (chủ yếu là ông họa sĩ) về anh và những người như anh, tác giả đã làm nổi bật được chủ đề của tác phẩm: Trong cái lặng lẽ, vắng vẻ trên núi cao Sa Pa, nơi mà nghe tên người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao nhiêu người đang ngày đêm làm việc miệt mài, say mê cho đất nước. Đây là nhân vật chính của truyện. Tuy nhiên tác giả không cho nhân vật xuất hiện ngay từ đầu mà chỉ gián tiếp qua lời giới thiệu rất ấn tượng của bác lái xe (rằng anh ta là “một trong những người cô độc nhất thế gian”, rằng anh ta rất “thèm người” và nếu họa sĩ đến gặp thì thế nào “cũng thích vẽ”; sau đó xuất hiện trực tiếp qua cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các nhân vật khác trong khoảng thời gian ngắn ngủi (ba mươi phút). Anh biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn minh và thơ mộng ngay giữa chốn rừng sâu núi thẳm. Vốn là người lính, anh thanh niên lúc nào cũng biết sắp xếp cho cuộc sống của mình thật gọn gàng, ngăn nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Không gian sống tuy nhỏ hẹp nhưng lúc nào cũng sạch sẽ, tươm tất hết mức. Tất cả chỉ “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con,một chiếc bàn học, một giá sách”. Đó là một tinh thần tự giác, biết làm cho cuộc sống của mình trở nên tiện nghi và văn hóa. Dù sống cách biệt con người nhưng anh hằng ngày vẫn tuân thủ những chuẩn mực vốn có của xã hội. Một mặt là để làm cho cuộc sống trở nên dễ dàng hơn; mặt khác đó cũng là hành động tự giác tự rèn luyện mình. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Xung quanh ngôi nhà nhỏ lúc nào cũng có hoa tươi, cây cỏ xanh tốt, một vườn rau nhỏ. Anh muốn kéo cả cuộc sống về với mình và không bao giờ để cho những hình ảnh quen thuộc tách rời mình. Đó cũng là cách mà con người thường làm khi sống tách biệt, thiếu vắng hơi hướng cuộc sống con người. Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn, để di dưỡng tinh thần, vượt qua cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Thế giới trong sách sẽ làm tinh thần anh trở nên năng động, thấy mình gần hơn với cuộc sống, được hòa vui trong khí thế của cả dân tộc. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. Bởi thế mà, khi được bác lái xe tặng sách anh đã vô cùng vui sướng, muốn nhảy cẫng lên reo hò. Không gian sống của anh thanh niên là bằng chứng mạnh mẽ minh chứng một điều con người có thể sống tách biệt với xã hôi nhưng không bao giờ từ bỏ chính mình. Xây dựng một lối sống văn minh, biết tự sản xuất để cung cấp cho cuộc sống và làm phong phú thêm tinh thần là điều đáng cảm phục đối với những con người dám hi sinh hạnh phúc riêng, cống hiến sức mình vì lợi ích chung của đất nước. Anh thanh niên là người rất yêu công việc, yêu đời, yêu cuộc sống; tận tụy, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc: Hiện ra trong trang văn của Nguyễn Thành long, ta thấy anh thanh niên 27 tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với mây mù và cây cỏ. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Đó là một công việc tuy không khó nhưng phải hết sức chăm chỉ và tỉ mỉ. Bao nhiêu năm làm việc ở đây, chưa một lần anh lơ là công việc, lúc nào cũng gắn mình với công việc trong một trách nhiệm cao cả. Có lúc “Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm việc”. Bốn lần ốp trong ngày: 4 giờ, 11 giờ, 19 giờ, lại 1 giờ, gian khổ nhất là lần báo lúc 1 giờ sáng, vậy mà anh chưa một lần trễ nãi. Anh tuân thủ nguyên tắc làm việc một cách nghiêm ngặt đã bốn năm nay. Công việc của anh không chỉ đòi hỏi tính chính xác mà còn tinh thần tránh nhiệm cao. Công việc tưởng chừng bình thường, đơn giản nhưng có ý chí, sức mạnh mới có thể thực hiện tốt được. Anh từng tâm sự: “Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”; “Công việc tuy gian khổ nhưng cất nó đi, cháu buồn đến chết mất!” Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi cao không một bóng người. Cô đơn đến mức “thèm người”, phải lăn cây chặn đường dừng xe khách qua núi để được gặp gỡ, trò chuyện. Đó cũng là nhu cầu cần thiết của con người để thể hiện và khẳng định tính xã hội của mình. Càng hình dung về hoàn cảnh sống của anh thanh niên chúng ta càng thêm cảm phục tinh thần dám hi sinh vì công việc của anh. Hằng ngày anh dường như câm lặng, chỉ có suy nghĩ và chân tay là vận động. Thế nhưng, anh vẫn luôn vui vẻ. Anh biết tạo ra niềm vui cho riêng mình để vượt qua sự đơn điệu của công việc và cuộc sống. Anh là biểu tượng của thế hệ thanh niên trong thời đại mới, sống có lý tưởng và yêu lý tưởng của mình! Sống có nghĩa là dâng hiến! Anh thanh niên là người chân thành, cởi mở, hiếu khách và quan tâm chu đáo tới mọi người xung quanh: Không phải bởi “thèm người” mà anh tỏ ra cởi mở, hiếu khách. Người thanh niên vốn luôn sẵn có một tình yêu mến dành cho mọi người từ lâu. Đó cũng là phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời đại xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mấy lần gặp bác lái xe anh đã rất thân tình, ân cần và chu đáo. Anh còn nhớ tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Anh đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu và lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí. Anh thanh niên là người hết sức khiêm tốn, chân thành Tuy đã xung phong làm việc nơi đỉnh cao vắng vẻ, một hành động dũng cảm nhưng anh tự nhận đó là trách nhiệm của mình, là bổn phận đối với nhân dân và đất nước, góp một phần nhỏ bé vào công cuộc chung của đất nước. Anh từ chối tất cả mọi lời đề nghị, mọi sự tôn vinh và thầm khâm phục những con người dũng cảm và tài giỏi hơn mình. Anh ngượng ngùng khi thấy bác họa sĩ vẽ mình và khéo léo từ chối và xin giới thiệu người khác xứng đáng hơn. Tấm lòng chân thành của anh càng khiến đoàn khách thêm mến yêu và cảm phục. Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Kết bài: Anh thanh niên, nhân vật trung tâm của tác phẩm, một trong những nhân vật “vô danh”, cao thượng, đáng quý của truyện ngắn này đang “âm thầm làm việc và lo nghĩ vì đất nước”. Tình cảm yêu thương, trân trọng, cảm phục… của độc giả nói chung và của cá nhân em nói riêng dành cho anh thanh niên. Hình ảnh của nhân vật này cùng với những nét tính cách tốt đẹp sống mãi trong lòng bạn đọc. Sa Pa hoang sơ, lặng lẽ. Nhưng thật bất ngờ khi từng giây từng phút sự sống vẫn tuôn trào trong cái lặng lẽ ấy.
Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa–Pa của Nguyễn Thành Long Hướng dẫn Nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa–Pa” là nhân vật lý tưởng của nhà văn Nguyễn Thành Long Mở bài: Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và ký. Ông thành công trong đề tài tìm kiếm, phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp con người trong lao động và chiến đấu. Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chất, hình tượng đẹp, ngôn ngữ giàu chất thơ, trong trẻo và nhẹ nhàng. Văn ông thường ánh lên vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống. “Lặng lẽ Sa–Pa” là truyện ngắn đặc sắc, được Nguyễn Thành Long viết trong chuyến đi thực tế của tác giả ở Sa Pa năm 1970. Đây là một truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nguyễn Thành Long đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh nhân vật anh thanh niên – một cán bộ làm công tác khí tượng thủy văn trên đỉnh Yên Sơn cao 2500m, hoàn toàn cách biệt với đời sống xã hội. Thân bài: Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được xây dựng xoay quanh một tình huống truyện khá đơn giản mà tự nhiên. Đó chính là cuộc gặp gỡ tình cở của mấy người khách trên chuyến xe lên Sa Pa với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Trên chuyến xe khách từ Hà Nội lên Lào Cai, ông họa sĩ già, bác lái xe, cô kĩ sư trẻ tình cờ quen nhau. Bác lái xe đã giới thiệu cho ông họa sĩ và cô kĩ sư làm quen với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Trong cuộc gặp gỡ 30 phút đã để lại trong lòng các vị khách nhiều ấn tượng tốt đẹp về anh kĩ sư. Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để tác giả khắc họa “bức chân dung” nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung, qua sự quan sát của các nhân vật khác và qua chính lời lẽ, hành động của anh. Đồng thời, qua “bức chân dung” (cả cuộc sống và những suy nghĩ) của người thanh niên, qua sự cảm nhận của các nhân vật khác (chủ yếu là ông họa sĩ) về anh và những người như anh, tác giả đã làm nổi bật được chủ đề của tác phẩm: Trong cái lặng lẽ, vắng vẻ trên núi cao Sa Pa, nơi mà nghe tên người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao nhiêu người đang ngày đêm làm việc miệt mài, say mê cho đất nước. Đây là nhân vật chính của truyện. Tuy nhiên tác giả không cho nhân vật xuất hiện ngay từ đầu mà chỉ gián tiếp qua lời giới thiệu rất ấn tượng của bác lái xe (rằng anh ta là “một trong những người cô độc nhất thế gian”, rằng anh ta rất “thèm người” và nếu họa sĩ đến gặp thì thế nào “cũng thích vẽ”; sau đó xuất hiện trực tiếp qua cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các nhân vật khác trong khoảng thời gian ngắn ngủi (ba mươi phút). Anh biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn minh và thơ mộng ngay giữa chốn rừng sâu núi thẳm. Vốn là người lính, anh thanh niên lúc nào cũng biết sắp xếp cho cuộc sống của mình thật gọn gàng, ngăn nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Không gian sống tuy nhỏ hẹp nhưng lúc nào cũng sạch sẽ, tươm tất hết mức. Tất cả chỉ “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con,một chiếc bàn học, một giá sách”. Đó là một tinh thần tự giác, biết làm cho cuộc sống của mình trở nên tiện nghi và văn hóa. Dù sống cách biệt con người nhưng anh hằng ngày vẫn tuân thủ những chuẩn mực vốn có của xã hội. Một mặt là để làm cho cuộc sống trở nên dễ dàng hơn; mặt khác đó cũng là hành động tự giác tự rèn luyện mình. Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần. Xung quanh ngôi nhà nhỏ lúc nào cũng có hoa tươi, cây cỏ xanh tốt, một vườn rau nhỏ. Anh muốn kéo cả cuộc sống về với mình và không bao giờ để cho những hình ảnh quen thuộc tách rời mình. Đó cũng là cách mà con người thường làm khi sống tách biệt, thiếu vắng hơi hướng cuộc sống con người. Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn, để di dưỡng tinh thần, vượt qua cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Thế giới trong sách sẽ làm tinh thần anh trở nên năng động, thấy mình gần hơn với cuộc sống, được hòa vui trong khí thế của cả dân tộc. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. Bởi thế mà, khi được bác lái xe tặng sách anh đã vô cùng vui sướng, muốn nhảy cẫng lên reo hò. Không gian sống của anh thanh niên là bằng chứng mạnh mẽ minh chứng một điều con người có thể sống tách biệt với xã hôi nhưng không bao giờ từ bỏ chính mình. Xây dựng một lối sống văn minh, biết tự sản xuất để cung cấp cho cuộc sống và làm phong phú thêm tinh thần là điều đáng cảm phục đối với những con người dám hi sinh hạnh phúc riêng, cống hiến sức mình vì lợi ích chung của đất nước. Anh thanh niên là người rất yêu công việc, yêu đời, yêu cuộc sống; tận tụy, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc: Hiện ra trong trang văn của Nguyễn Thành long, ta thấy anh thanh niên 27 tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với mây mù và cây cỏ. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Đó là một công việc tuy không khó nhưng phải hết sức chăm chỉ và tỉ mỉ. Bao nhiêu năm làm việc ở đây, chưa một lần anh lơ là công việc, lúc nào cũng gắn mình với công việc trong một trách nhiệm cao cả. Có lúc “Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm việc”. Bốn lần ốp trong ngày: 4 giờ, 11 giờ, 19 giờ, lại 1 giờ, gian khổ nhất là lần báo lúc 1 giờ sáng, vậy mà anh chưa một lần trễ nãi. Anh tuân thủ nguyên tắc làm việc một cách nghiêm ngặt đã bốn năm nay. Công việc của anh không chỉ đòi hỏi tính chính xác mà còn tinh thần tránh nhiệm cao. Công việc tưởng chừng bình thường, đơn giản nhưng có ý chí, sức mạnh mới có thể thực hiện tốt được. Anh từng tâm sự: “Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”; “Công việc tuy gian khổ nhưng cất nó đi, cháu buồn đến chết mất!” Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi cao không một bóng người. Cô đơn đến mức “thèm người”, phải lăn cây chặn đường dừng xe khách qua núi để được gặp gỡ, trò chuyện. Đó cũng là nhu cầu cần thiết của con người để thể hiện và khẳng định tính xã hội của mình. Càng hình dung về hoàn cảnh sống của anh thanh niên chúng ta càng thêm cảm phục tinh thần dám hi sinh vì công việc của anh. Hằng ngày anh dường như câm lặng, chỉ có suy nghĩ và chân tay là vận động. Thế nhưng, anh vẫn luôn vui vẻ. Anh biết tạo ra niềm vui cho riêng mình để vượt qua sự đơn điệu của công việc và cuộc sống. Anh là biểu tượng của thế hệ thanh niên trong thời đại mới, sống có lý tưởng và yêu lý tưởng của mình! Sống có nghĩa là dâng hiến! Anh thanh niên là người chân thành, cởi mở, hiếu khách và quan tâm chu đáo tới mọi người xung quanh: Không phải bởi “thèm người” mà anh tỏ ra cởi mở, hiếu khách. Người thanh niên vốn luôn sẵn có một tình yêu mến dành cho mọi người từ lâu. Đó cũng là phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời đại xây dựng xã hội chủ nghĩa. Mấy lần gặp bác lái xe anh đã rất thân tình, ân cần và chu đáo. Anh còn nhớ tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Anh đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu và lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí. Anh thanh niên là người hết sức khiêm tốn, chân thành Tuy đã xung phong làm việc nơi đỉnh cao vắng vẻ, một hành động dũng cảm nhưng anh tự nhận đó là trách nhiệm của mình, là bổn phận đối với nhân dân và đất nước, góp một phần nhỏ bé vào công cuộc chung của đất nước. Anh từ chối tất cả mọi lời đề nghị, mọi sự tôn vinh và thầm khâm phục những con người dũng cảm và tài giỏi hơn mình. Anh ngượng ngùng khi thấy bác họa sĩ vẽ mình và khéo léo từ chối và xin giới thiệu người khác xứng đáng hơn. Tấm lòng chân thành của anh càng khiến đoàn khách thêm mến yêu và cảm phục. Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Kết bài: Anh thanh niên, nhân vật trung tâm của tác phẩm, một trong những nhân vật “vô danh”, cao thượng, đáng quý của truyện ngắn này đang “âm thầm làm việc và lo nghĩ vì đất nước”. Tình cảm yêu thương, trân trọng, cảm phục… của độc giả nói chung và của cá nhân em nói riêng dành cho anh thanh niên. Hình ảnh của nhân vật này cùng với những nét tính cách tốt đẹp sống mãi trong lòng bạn đọc. Sa Pa hoang sơ, lặng lẽ. Nhưng thật bất ngờ khi từng giây từng phút sự sống vẫn tuôn trào trong cái lặng lẽ ấy.
Cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên Đây là một đề văn mở, tùy vào cảm nhận của mỗi người về nhân vật, song cần bám sát vào văn bản và phương pháp cảm nhận một nhân vật trong tác phẩm tự sự. Sau đây là một gợi ý: Mở bài: Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và nhân vật -Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo, giàu chất thơ và xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện được viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của nhà văn Nguyễn Thành Long, có thể coi dây là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện với những nhân vật không tên mà tiêu biểu là anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Nhà văn muốn giới thiệu với bạn đọc một điển hình trong công cuộc lao động xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này. Thân bài: Cần đạt được các nội dung sau: Nhân vật anh thanh niên Trước khi xuất hiện nhân vật chính, nhà văn đã giới thiệu cho người đọc một vùng đất đầy ấn tượng. Phong cảnh Sa Pa núi cao với thác đổ trắng xóa, đường núi quanh co, cây cối chen nhau hiện dần mỗi lúc một hấp dẫn. Nhân vật được khắc họa rõ nét dần dần, cảnh thơ mộng, con người mộng mơ, tất cả từ bác lái xe đến ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ… dường như trên chuyến xe ấy, mọi người đang đi tìm một điều giản dị nhưng thật quý giá, thiêng liêng. Vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp của con người Sa Pa – những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người, trong đó có anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và làm việc Anh là “người cô độc nhất thế gian”, một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng bốn bề mây phủ cây phong, lạnh rét. Anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người, bởi anh sinh ra có gia đình, cha mẹ, quê hương, làm sao không thèm, không nhớ? Nỗi nhớ khiến anh phải chặt cây chắn đường để được gặp người. Anh đã làm quen được với bác lái xe từ đó. Lần này qua bác lái xe, anh lại được làm quen với ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống hơn bao giờ hết. Công việc mỗi ngày của anh là: “Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. + Hàng ngày, anh phải báo ốp về nhà vào các giờ 01 giờ sáng, 04 giờ, 11 giờ t rưa. 19 giờ tối. Gian khổ nhất là lúc 01 giờ sáng rét, mưa, tuyết rơi, đang nằm trong chăn ấm phải chui ra khi nghe tiếng chuông đồng hồ báo Ốp, chỉ muốn thò tay ra tắt ngay đi nhưng công việc chính xác đến không thể, đòi hỏi ý chí, tinh thẩn cao. Anh vùng dậy, xách đèn đi, gió, bão tuyết ào ào xô tới tấn công như chặt từng khúc, như muốn quét đi, bứt phá lung tung tất cả… xong việc, trở về không làm sao ngủ lại được. + Công việc thật gian khổ, vất vả nhưng anh vẫn yêu nó, làm việc hết mình và chính xác. Có lần anh đã phát hiện ra một đám mây khô nên không quân ta đã tiêu diệt được nhiều phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Anh thấy mình thật hạnh phúc. Chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua nỗi cô đơn. buồn chán của bản thân. Anh tâm sự với ông họa sĩ về công việc của mình, có lẽ đây là những suy nghĩ chân thành và sâu sắc nhất của anh: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới, thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”… Đọc những lời tâm sự này, ta càng thấy đó là suy nghĩ và lối sống cao đẹp của anh, ta càng thấy mến yêu, quý trọng những con người như thế, biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc được mục đích làm việc. Anh quả là con người mới, tiêu biểu cho lớp thanh niên: “Đâu cần thanh niên có – Đâu khó có thanh niên”, “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên” (Hồ Chí Minh). Vẻ đẹp trong nếp sống, cách ứng xử Anh thanh niên là người sống có nề nếp, nhân cách. Một mình trên núi cao, anh có thể sống tự do, thoải mái. Nhưng không, thật bất ngờ khi mọi người đến thăm lại thấy ngôi nhà của anh thật ngăn nấp, gọn gàng. Anh tự biết làm cho cuộc sống của mình vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng, ý nghĩa và anh yêu sống nhường nào! + Anh trồng hoa: “Hoa dơn, hoa thược dược vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong,…”, vườn hoa khoe sắc rực rỡ hàng ngày như động viên, tiếp sức, làm cho tâm hồn anh tươi mát, mộng mơ, thêm yêu cuộc sống. + Anh đọc sách, trò chuyện, giao tiếp với sách, lấy sách làm bạn tri âm tri kỉ + Anh nuôi gà vừa có thêm thực phẩm hàng ngày vừa tạo không khí gia đình vui tươi, đầm ấm. + Thế giới riêng của anh: “Một ngôi nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”, một cuộc đời riêng “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”, và ở ngoài sân: đàn gà, vườn hoa,… đẹp, giản dị mà tao nhã biết bao! Có lẽ chính lối sống đẹp đẽ khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc nhàm chán, khắc nghiệi để thấy yêu nghề, yêu cuộc sống hơn. Anh là người khiêm tốn, thành thực. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung của anh, anh từ chối bởi thấy công việc và những đóng góp của mình còn nhỏ bé, chưa thấm vào đâu so với những người mà anh rất cảm phục như “ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, “người đồng chí nghiên cứu khoa học” cùng cơ quan đang nghiên cứu lập bản đồ sét, với tất cả niềm say mê, hào hứng… Anh nhiệt thành giới thiệu để ông họa sĩ vẽ chân dung của họ – những con người làm việc hết mình, thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng và khâm phục. Anh là người có tấm lòng rộng mở, chân thành, gần gũi, thân thiết với tất cả mọi ngưòi. + Với bác lái xe dường như đã trở thành người bạn thân tình, anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác mới ốm dậy, gửi củ tam thất về làm quà cho bác. + Với những người bạn mới như ông họa sĩ, cô gái trẻ, anh vui mừng đến luống cuống, hấp tấp khi biết họ sẽ lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Anh bộc lộ tình cảm thật hồn nhiên, chân thành đến cảm động: tặng bó hoa tươi, đẹp rực rỡ cho cô gái trẻ, đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quý hiếm vô cùng, anh giới thiệu qua công việc của mình năm phút, còn hai mươi phút mời mọi người uống trà, trò chuyện. Anh thèm và khao khát được nghe chuyện dưới xuôi, anh tiếc: “Trời ơi, chỉ còn có năm phút”. Với anh không chỉ thèm người mà còn đói cả thông tin. Thời gian trôi đi thật nhanh, giờ phút chia tay đã đến, anh không dám tiễn hai người, xúc động “quay mặt đi” và ấn vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn trên đường. => Chỉ bằng vài nét phác họa nhẹ nhàng, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh anh thanh niên – bức chân dung với những vẻ đẹp về tinh thần, tình cảm, lối sống, những suy nghĩ về lí tưởng, công việc của anh. Thật đáng tiếc! Chính tác giả cũng đã nhận xét truyện ngắn này là “một bức chân dung” – chân dung được hiện lên ở một số nét đẹp, nhưng chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính, Quá khứ – chiến tranh và những đói nghèo của đất nước đã lùi xa. Chúng ta – thế hệ trẻ của thế kỉ XXI đang tiến công vào khoa học và hội nhập quốc tế, tiếp tục phải đốì mặt với bao khó khăn mới, chúng ta không có quyền lãng quên quá khứ của đất nước, của dân tộc nhất là những thế hệ cha anh đã cống hiến, hi sinh để có ngày nay. Những bài học về phẩm chất, về lí tưởng sống như anh thanh niên và những con người lao động vô danh trong Lặng lẽ Sa Pa vẫn mãi là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo. Hãy cố gắng học tập, rèn luyện để sống có ích cho bản thân và xã hội, được mọi người yêu mến, quý trọng.
Cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên Đây là một đề văn mở, tùy vào cảm nhận của mỗi người về nhân vật, song cần bám sát vào văn bản và phương pháp cảm nhận một nhân vật trong tác phẩm tự sự. Sau đây là một gợi ý: Mở bài: Nêu cảm nhận chung về tác phẩm và nhân vật -Lặng lẽ Sa Pa là một truyện ngắn nhẹ nhàng, trong trẻo, giàu chất thơ và xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện được viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của nhà văn Nguyễn Thành Long, có thể coi dây là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện với những nhân vật không tên mà tiêu biểu là anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Nhà văn muốn giới thiệu với bạn đọc một điển hình trong công cuộc lao động xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này. Thân bài: Cần đạt được các nội dung sau: Nhân vật anh thanh niên Trước khi xuất hiện nhân vật chính, nhà văn đã giới thiệu cho người đọc một vùng đất đầy ấn tượng. Phong cảnh Sa Pa núi cao với thác đổ trắng xóa, đường núi quanh co, cây cối chen nhau hiện dần mỗi lúc một hấp dẫn. Nhân vật được khắc họa rõ nét dần dần, cảnh thơ mộng, con người mộng mơ, tất cả từ bác lái xe đến ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ… dường như trên chuyến xe ấy, mọi người đang đi tìm một điều giản dị nhưng thật quý giá, thiêng liêng. Vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp của con người Sa Pa – những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của con người, trong đó có anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và làm việc Anh là “người cô độc nhất thế gian”, một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, quanh năm suốt tháng bốn bề mây phủ cây phong, lạnh rét. Anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người, bởi anh sinh ra có gia đình, cha mẹ, quê hương, làm sao không thèm, không nhớ? Nỗi nhớ khiến anh phải chặt cây chắn đường để được gặp người. Anh đã làm quen được với bác lái xe từ đó. Lần này qua bác lái xe, anh lại được làm quen với ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống hơn bao giờ hết. Công việc mỗi ngày của anh là: “Đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. + Hàng ngày, anh phải báo ốp về nhà vào các giờ 01 giờ sáng, 04 giờ, 11 giờ t rưa. 19 giờ tối. Gian khổ nhất là lúc 01 giờ sáng rét, mưa, tuyết rơi, đang nằm trong chăn ấm phải chui ra khi nghe tiếng chuông đồng hồ báo Ốp, chỉ muốn thò tay ra tắt ngay đi nhưng công việc chính xác đến không thể, đòi hỏi ý chí, tinh thẩn cao. Anh vùng dậy, xách đèn đi, gió, bão tuyết ào ào xô tới tấn công như chặt từng khúc, như muốn quét đi, bứt phá lung tung tất cả… xong việc, trở về không làm sao ngủ lại được. + Công việc thật gian khổ, vất vả nhưng anh vẫn yêu nó, làm việc hết mình và chính xác. Có lần anh đã phát hiện ra một đám mây khô nên không quân ta đã tiêu diệt được nhiều phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Anh thấy mình thật hạnh phúc. Chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua nỗi cô đơn. buồn chán của bản thân. Anh tâm sự với ông họa sĩ về công việc của mình, có lẽ đây là những suy nghĩ chân thành và sâu sắc nhất của anh: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới, thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Và khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”… Đọc những lời tâm sự này, ta càng thấy đó là suy nghĩ và lối sống cao đẹp của anh, ta càng thấy mến yêu, quý trọng những con người như thế, biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc được mục đích làm việc. Anh quả là con người mới, tiêu biểu cho lớp thanh niên: “Đâu cần thanh niên có – Đâu khó có thanh niên”, “Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền / Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên” (Hồ Chí Minh). Vẻ đẹp trong nếp sống, cách ứng xử Anh thanh niên là người sống có nề nếp, nhân cách. Một mình trên núi cao, anh có thể sống tự do, thoải mái. Nhưng không, thật bất ngờ khi mọi người đến thăm lại thấy ngôi nhà của anh thật ngăn nấp, gọn gàng. Anh tự biết làm cho cuộc sống của mình vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng, ý nghĩa và anh yêu sống nhường nào! + Anh trồng hoa: “Hoa dơn, hoa thược dược vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong,…”, vườn hoa khoe sắc rực rỡ hàng ngày như động viên, tiếp sức, làm cho tâm hồn anh tươi mát, mộng mơ, thêm yêu cuộc sống. + Anh đọc sách, trò chuyện, giao tiếp với sách, lấy sách làm bạn tri âm tri kỉ + Anh nuôi gà vừa có thêm thực phẩm hàng ngày vừa tạo không khí gia đình vui tươi, đầm ấm. + Thế giới riêng của anh: “Một ngôi nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”, một cuộc đời riêng “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”, và ở ngoài sân: đàn gà, vườn hoa,… đẹp, giản dị mà tao nhã biết bao! Có lẽ chính lối sống đẹp đẽ khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc nhàm chán, khắc nghiệi để thấy yêu nghề, yêu cuộc sống hơn. Anh là người khiêm tốn, thành thực. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung của anh, anh từ chối bởi thấy công việc và những đóng góp của mình còn nhỏ bé, chưa thấm vào đâu so với những người mà anh rất cảm phục như “ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa”, “người đồng chí nghiên cứu khoa học” cùng cơ quan đang nghiên cứu lập bản đồ sét, với tất cả niềm say mê, hào hứng… Anh nhiệt thành giới thiệu để ông họa sĩ vẽ chân dung của họ – những con người làm việc hết mình, thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng và khâm phục. Anh là người có tấm lòng rộng mở, chân thành, gần gũi, thân thiết với tất cả mọi ngưòi. + Với bác lái xe dường như đã trở thành người bạn thân tình, anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác mới ốm dậy, gửi củ tam thất về làm quà cho bác. + Với những người bạn mới như ông họa sĩ, cô gái trẻ, anh vui mừng đến luống cuống, hấp tấp khi biết họ sẽ lên thăm nơi ở và làm việc của mình. Anh bộc lộ tình cảm thật hồn nhiên, chân thành đến cảm động: tặng bó hoa tươi, đẹp rực rỡ cho cô gái trẻ, đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quý hiếm vô cùng, anh giới thiệu qua công việc của mình năm phút, còn hai mươi phút mời mọi người uống trà, trò chuyện. Anh thèm và khao khát được nghe chuyện dưới xuôi, anh tiếc: “Trời ơi, chỉ còn có năm phút”. Với anh không chỉ thèm người mà còn đói cả thông tin. Thời gian trôi đi thật nhanh, giờ phút chia tay đã đến, anh không dám tiễn hai người, xúc động “quay mặt đi” và ấn vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn trên đường. => Chỉ bằng vài nét phác họa nhẹ nhàng, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh anh thanh niên – bức chân dung với những vẻ đẹp về tinh thần, tình cảm, lối sống, những suy nghĩ về lí tưởng, công việc của anh. Thật đáng tiếc! Chính tác giả cũng đã nhận xét truyện ngắn này là “một bức chân dung” – chân dung được hiện lên ở một số nét đẹp, nhưng chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnh và hầu như chưa có cá tính, Quá khứ – chiến tranh và những đói nghèo của đất nước đã lùi xa. Chúng ta – thế hệ trẻ của thế kỉ XXI đang tiến công vào khoa học và hội nhập quốc tế, tiếp tục phải đốì mặt với bao khó khăn mới, chúng ta không có quyền lãng quên quá khứ của đất nước, của dân tộc nhất là những thế hệ cha anh đã cống hiến, hi sinh để có ngày nay. Những bài học về phẩm chất, về lí tưởng sống như anh thanh niên và những con người lao động vô danh trong Lặng lẽ Sa Pa vẫn mãi là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau noi theo. Hãy cố gắng học tập, rèn luyện để sống có ích cho bản thân và xã hội, được mọi người yêu mến, quý trọng.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật chị Dậu trong Tắt đèn Bài làm Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí tương đối vẻ vang trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng. Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thân, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tố đã phản ánh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kỳ” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chát tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết. Với số trang hạn chế, Tắt đèn mô tả khá đủ mặt những lực lượng thống trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ chờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên bòn hút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng. Ngô Tất Tô bằng ngòi bút thâm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân – tác giả của những tấm thẻ sưu. Bằng một ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng. Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân ihực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố đã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn. Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn". Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa… Viết về số phận của người phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tố đã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này. Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp nết na… Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương trân trọng. Chị Dậu một phụ nữ có tinh thần vị tha yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách đổ cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tên tay sai… cũng làm cho người đọc yêu mến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ. Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải hán đứa con đầu, chị như đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đói với “sợi dày thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tỉu, thằng Dần, cái Tý. Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khi I hở ngỡ trước hao mufu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phài lii người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quê', nhìn bọn tai 11 mật lổn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều… Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt… Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua – phải nộp "một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại… tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình. Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phài ':chịu đứng vì số" tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giây vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng. Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm… nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị vống ở nơi tăm tối bị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Tóm lại, bằng thái độ trân trọng và sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi khổ sở đau xót, và đặc biệt với những phẩm cách trong sạch. Chính những yếu tố tích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muốn “tung ra, khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuân), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân. Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thống. Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thông, hệ thống nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đốì lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khác họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vật chính diện đẹp người, đẹp nết., tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn… tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biên đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh…). Nhân vật trong Tắt đèn, phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ. (Trước đây một số sách cho rằng: Qua Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã xây dựng được một nhân vật điển hình – chị Dậu, trong một hoàn cảnh điển hình – làng Đông Xá khi mùa sưu thuế đến. Đôn nay khái niệm “nhận vật điển hình” cần phải hiểu theo một cách chặt chẽ hơn). Một hạn chế của tác phẩm Tắt đèn là nhà văn chưa nhìn thấy tiền đồ của những người nông dân mà ông trân trọng yêu quý. Tác giả đặt tên cho tác phẩm là Tắt đèn và kết thúc tác phẩm bằng cảnh “trời tối om như mực” và cái tiền đồ của chị Dậu. Song, như đã phân tích ở trên, nhân vật chị Dậu có phần nào thoát khỏi cảm quan hiện thực đen lối của tác giả, gieo vào lòng người đọc ít nhiều niềm hy vọng ở sự đổi đời của người nông dân lao động.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật chị Dậu trong Tắt đèn Bài làm Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí tương đối vẻ vang trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng. Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thân, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tố đã phản ánh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kỳ” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chát tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết. Với số trang hạn chế, Tắt đèn mô tả khá đủ mặt những lực lượng thống trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ chờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên bòn hút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng. Ngô Tất Tô bằng ngòi bút thâm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân – tác giả của những tấm thẻ sưu. Bằng một ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng. Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân ihực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố đã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn. Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn". Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa… Viết về số phận của người phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tố đã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này. Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp nết na… Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương trân trọng. Chị Dậu một phụ nữ có tinh thần vị tha yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách đổ cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tên tay sai… cũng làm cho người đọc yêu mến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ. Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải hán đứa con đầu, chị như đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đói với “sợi dày thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tỉu, thằng Dần, cái Tý. Chị Dậu là một phụ nữ thông minh, sắc sảo. Chị không biết chữ, chẳng khi I hở ngỡ trước hao mufu ma chước quỷ của bọn thống trị, nhưng chị không phài lii người ngu đần. Chị không lạ gì bụng dạ của vợ chồng Nghị Quê', nhìn bọn tai 11 mật lổn ở đình làng chị hiểu ra nhiều điều… Quả thật, ta thấy chị bị ức hiếp nhiều hơn là chị bị lường gạt… Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua – phải nộp "một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại… tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình. Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phài ':chịu đứng vì số" tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giây vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng. Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm… nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị vống ở nơi tăm tối bị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Tóm lại, bằng thái độ trân trọng và sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi khổ sở đau xót, và đặc biệt với những phẩm cách trong sạch. Chính những yếu tố tích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muốn “tung ra, khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuân), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân. Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thống. Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thông, hệ thống nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đốì lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa. Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khác họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vật chính diện đẹp người, đẹp nết., tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn… tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biên đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh…). Nhân vật trong Tắt đèn, phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ. (Trước đây một số sách cho rằng: Qua Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã xây dựng được một nhân vật điển hình – chị Dậu, trong một hoàn cảnh điển hình – làng Đông Xá khi mùa sưu thuế đến. Đôn nay khái niệm “nhận vật điển hình” cần phải hiểu theo một cách chặt chẽ hơn). Một hạn chế của tác phẩm Tắt đèn là nhà văn chưa nhìn thấy tiền đồ của những người nông dân mà ông trân trọng yêu quý. Tác giả đặt tên cho tác phẩm là Tắt đèn và kết thúc tác phẩm bằng cảnh “trời tối om như mực” và cái tiền đồ của chị Dậu. Song, như đã phân tích ở trên, nhân vật chị Dậu có phần nào thoát khỏi cảm quan hiện thực đen lối của tác giả, gieo vào lòng người đọc ít nhiều niềm hy vọng ở sự đổi đời của người nông dân lao động.
Cảm nhận về nhân vật Chử Đồng Tử trong truyện Chử Đồng Tử Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Chử Đồng Tử trong truyện Chử Đồng Tử Trong kho tàng văn học nước ta bên cạnh những tác phẩm của các tác giả nổi tiếng thì cũng có những tác phẩm mà dân dân ta sáng tác ra có sức ảnh hưởng lớn đến dân tộc và mãi in sâu trong tâm trí con người Việt Nam ta. Tiêu biểu là truyện Cử Đồng Tử. Đây là một câu truyện cổ tích khá hay và được rất nhiều người biết đến và nó được lưu truyền ở nhiều đời bởi sự li kì và hấp dẫn giữa cuộc hôn nhân của một anh chàng nghèo và một cô công chúa xinh đẹp. Chử Đồng Tử là một chàng trai nghèo mồ côi. Vì gia đình rất nghèo nên Chử Đồng Tử với ba chỉ có một chiếc khố để mặc. Hai cha con thay nhau mặc chiếc khố đó ngày qua ngày. Cha của Chử Đồng Tử thì đã già mà còn có bệnh tật nên càng khốn khó thêm lại không có tiền mua thuốc cho cha. Trước khi người cha mất người cha còn dặn để lại chiếc khố cho Chử Đồng Tử. Như vậy ta thấy được tình yêu thương thiêng liêng mà người cha dành cho con trai của mình. Đây là một người cha hết mực thương con và luôn muốn giành những điều tốt đẹp đến cho con của mình. Chử Đồng Tử là một người con ngoan biết nghe lời nhưng chỉ riêng việc không nghe lời khi để lại chiếc khố nhưng người đọc vẫn thấu hiểu rõ nỗi lòng và hành động của một người con ngoan. Khi lo cho cha mình xong Chử Đồng Tử sống ở ven biển và trên người không có một tấm vải để che thân. Trong một lần công chúa Tiên Dung đi dạo chơi đã vô tình gặp được Chử Đồng Tử và từ đó hai người bén duyên và làm nên những điều hạnh phúc. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu vì hai người có xuất thân ở hai hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau. Một người xuất thân trong gia đình dòng tộc danh giá sống trong nhung gấm lụa là con một người thì xuất thân nghèo khổ không có gì cả, có duy nhất một tấm khổ để che thân nhưng vì thương cha nên đã để cho cha mặc xuống xuống vàng còn mình không có gì ngoài cái thân xác không. Đây là một hành động thấu tình đạt lý mang lại cho ta cái nhìn sâu sắc về tính cách con người. Chử Đồng Tử là người có phẩm chất tốt đẹp để lại cho người đọc có cái nhìn sâu sắc và những sự thấu đáo nhất định. Và bản thân mỗi người đọc cũng nhận ra những điều tốt đẹp ở Chử Đồng Tử cùng cách ứng xử rất đỗi phù hợp ở Chử Đồng Tử. Qua câu chuyện này ta thấy được rằng nhân vật Chử Đồng tử là một người con ngoan và vô cùng có hiếu. Lại là người chăm chỉ cần cù do đó nên được thần tiên giúp đỡ. Nhưng Chử Đồng Tử không huyênh ho.ang mà vẫn cư xử rất là thấu tình đạt lý trong tình huống với vô cha. Để từ đó người đọc nhận ra được sự thương yêu vợ và sự có hiếu với vua cha dù không được vua cha chấp nhận đồng thời khiến cho Tiên Dung cũng không khó xử với cha hơn
Feelings about the character Chu Dong Tu in the story Chu Dong Tu Instruct Feelings about the character Chu Dong Tu in the story Chu Dong Tu In our country's literary treasure, besides the works of famous authors, there are also works created by our people that have a great influence on the nation and are forever imprinted in the minds of Vietnamese people. ta. A typical example is the story Cu Dong Tu. This is a pretty good fairy tale and is known by many people and it has been passed down through many generations because of the thrilling and attractive story between the marriage of a poor guy and a beautiful princess. Chu Dong Tu is a poor orphan boy. Because their family was very poor, Chu Dong Tu and his father only had a loincloth to wear. Father and son took turns wearing that loincloth day after day. Chu Dong Tu's father was old and sick, so he was even more miserable and had no money to buy medicine for him. Before his father passed away, he also told him to leave a loincloth for Chu Dong Tu. Thus we see the spiritual love that a father has for his son. This is a father who loves his children very much and always wants to get good things for his children. Chu Dong Tu is a good and obedient son, but just by not being obedient when leaving his loincloth behind, the reader still clearly understands the feelings and actions of a good son. After taking care of his father, Chu Dong Tu lived by the sea and did not have a cloth to cover his body. One time Princess Tien Dung went out for a walk and accidentally met Chu Dong Tu and from then on, the two of them fell in love and made happy things. But life is ironic because two people come from two completely different circumstances. A person from a prestigious family living in silk and brocade, an only child, came from a poor background with nothing, had only one sheet to cover himself, but because he loved his father, he let him wear it. down to gold and I have nothing but my body. This is a thoughtful and reasonable action that gives us insight into human personality. Chu Dong Tu is a person with good qualities that leaves the reader with insight and certain insights. And each reader himself also recognizes the good things in Chu Dong Tu and the very appropriate behavior in Chu Dong Tu. Through this story we can see that the character Chu Dong Tu is a good son and extremely filial. He is a hard-working person, so he should receive help from the gods. But Chu Dong Tu did not boast but still behaved very sympathetically and reasonably in the situation with his father. From there, the reader can realize his love for his wife and filial piety towards his father even though he is not accepted by his father, and at the same time, it will make Tien Dung less difficult for his father.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật cô em gái Kiều Phương trong truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi của Tạ Duy Anh Bài làm Trong chương trình ngữ văn lớp 6 – tập II, em đã được học truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi và nhân vật Kiều Phương – cô em gái với lòng nhân hậu đã toả sáng trong tâm trí em. Học xong truyện, em vẫn biết rõ ràng truỵện không đơn giản khẳng định, ca ngợi những nét phẩm chất tốt đẹp của nhân vật cô em gái mà chủ yếu muốn hướng người đọc tới sự tự thức tỉnh ở nhân vật người anh qua việc trình bày những diễn biến tâm trạng của nhân vật này trong suốt truyện. Đây mới chính là chủ đề của tác phẩm. Nhân vật chính đóng vai trò chủ yếu trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của văn bản (Ngữ văn 6 – Tập I, tr 3. Vì thế, người anh phải là nhân vật trung tâm” trong việc thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Thế nhưng nhân vật Kiều Phương vẫn làm cho em vô cùng cảm phục và trân trọng biết bao! Vẻ đẹp của Kiều Phương không phải do lời kể của tác giả, cũng không phải do nhân vật tự bộc bạch mà vẻ đẹp đó được hiện ra dần dần qua con mắt nhìn và lời kể truyện của chính người anh. Một người anh luôn “coi thường” những việc làm của cô em gái, đố kị trước tài năng của em gái mình, vẻ đẹp đó càng ngày càng đẹp, cho đến cuối truyện thì vẻ đẹp ấy đọng lại một cách sâu sắc trong lòng người anh và gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc. Vẻ đẹp đó là gì? Phải chăng là sự hồn nhiên, hiếu động, tài năng hội hoạ, tình cảm trong sáng và lòng nhân hậu? Không hồn nhiên thì sao khi có biệt hiệu là “Mèo”, “nó vui vẻ chấp nhận” và còn dùng cái tên đó để xưng hô với bạn bè. Sự hồn nhiên đó còn được thể hiện lúc ở nhà mèo hay lục lọi các đồ vật với một sự thích thú. Hồn nhiên hơn là “nó vênh mặt”- “Mèo mà lại! Em không phá là được…”. Khi người anh tỏ vẻ khó chịu Này, em không để chúng nó yến được à?. Khi chế xong bột vẽ, nó vừa làm vừa hát, có vẻ vui lắm. Đúng là một cô bé hồn nhiên quá! Hồn nhiên đến đáng yêu! Điều đáng yêu hơn là cô còn có một tài năng hội hoạ, theo lời chú Tiến Lê, đấy còn là một thiên tài hội hoạ. Tài năng đó chính là sáu bức tranh do “Mèo” vẽ dấu người anh, không ngờ là những bứt tranh độc đáo “có thể đem đóng khung treo ở bất cứ phòng tranh nào”. Bố của “Mèo” đã phải thốt lên sung sướng: Ôi con đã cho bố một bất ngờ quá lớn. Mẹ em cũng không kìm được xúc động. Tài năng của Kiều Phương được khẳng định bằng bức tranh được trao giải nhất, qua một tuần tham gia trại thi vẽ quốc tế, khiến cho cả nhà “vui như tết”. Duy chỉ có người anh của Mèo thì lại rất buồn. Hiểu được điều này, Kiều Phương đã dành cho anh trai những tình cảm rất trong sáng. Nó lao vào ôm cổ tôi, nhưng tôi viện cớ đang dở việc đẩy nhẹ nó ra. Tuy thế, nó vẫn kịp thì thầm vào tai tôi: Em muốn cả anh cùng đi nhận giải. Một hành động, một lời nói thôi đã toát lên một tâm hồn ngây thơ trong sáng của một cô bé đáng yêu! Con có nhận ra con không?… Con đã nhận ra con chưa? Làm sao con trả lời được mẹ. Bởi đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy. Phải chăng soi vào bức tranh ấy, cũng chính là soi vào tâm hồn trong sáng và nhân hậu của em gái, nhân vật người anh đã tự nhìn rõ hơn về mình để vượt lên được những hạn chế của lòng tự ái và tự ti: Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo đến mức kia ư?. Đây chính là lúc nhân vật tự “thức tỉnh” để hoàn thiện nhân cách của mình. Bức tranh của em gái tôi không được vẽ bằng chất liệu hội hoạ. Nó được vẽ bằng quá trình diễn biến tâm trạng của người anh, thông qua lời kể vô cùng xúc động của nhân vật. Đó là “Mèo con” có tấm lòng nhân hậu. Đấy cũng là vẻ đẹp của một em bé gái trong cuộc sống đời thường mà ta có thể gặp bất cứ ở đâu trên đất nước mình.
Topic: Feelings about the character Kieu Phuong's younger sister in the short story My Sister's Painting by Ta Duy Anh Assignment In the 6th grade literature program - volume II, I learned the short story "The Picture of My Sister" and the character Kieu Phuong - the kind-hearted sister that shone in my mind. After studying the story, I still clearly know that the story does not simply affirm or praise the good qualities of the younger sister character, but mainly wants to direct readers to the self-awakening of the older character through the presentation of the story. Show the changes in this character's mood throughout the story. This is the main theme of the work. The main character plays a key role in expressing the thematic ideology of the text (Literature 6 – Volume I, page 3. Therefore, the older brother must be the central character" in expressing the theme and ideology of the work. However, the character Kieu Phuong still makes me deeply admire and respect her! Kieu Phuong's beauty is not due to the author's narration, nor is it due to the character's self-confession, but that beauty is gradually revealed through the eyes and narration of the story by his brother. An older brother always "looked down" on his sister's actions and was jealous of his sister's talent. That beauty became more and more beautiful, until the end of the story, that beauty remained deeply in my heart. brother and evokes many thoughts for the reader. What is that beauty? Is it innocence, hyperactivity, artistic talent, pure emotions and kindness? If it's not innocent, what if the nickname is "Cat", "it happily accepts" and also uses that name to address friends. That innocence is also shown when at home the cat or rummages through objects with interest. More innocent than "it's cocky" - "It's a cat! I can't break it..." When the older brother looks uncomfortable Hey, can't you just let them have fun? When he finished making the drawing powder, he did it and sang, it seemed very happy. What an innocent little girl! So innocent and adorable! What's even more adorable is that she also has a talent for painting. According to Uncle Tien Le, she is also an artistic genius. That talent is the six paintings that "Cat" drew with his brother's mark. Unexpectedly, they are unique paintings that "can be framed and hung in any gallery". The father of "Cat" had to exclaim happily: Oh, you gave me such a big surprise. My mother also couldn't hold back her emotions. Kieu Phuong's talent was confirmed by her painting being awarded first prize, after a week of participating in an international drawing competition camp, makes the whole family "happy as Tet". Only Cat's brother was very sad. Understanding this, Kieu Phuong gave her brother very pure feelings. It rushed to hug my neck, but I used the excuse of being in the middle of work to gently push it away. However, he still had time to whisper in my ear: I want you to go receive the award together. One action, one word alone exudes the pure and innocent soul of a lovely little girl! Do you recognize me?… Have you recognized me yet? How can I answer mom? Because that is your brother's soul and kindness. Is it true that looking at that picture is also looking at the pure and kind soul of his sister, the brother character sees himself more clearly to overcome the limitations of self-love and low self-esteem: In my sister's eyes, am I that perfect? This is when the character "awakens" himself to perfect his personality. My sister's painting was not drawn with painting materials. It is drawn through the evolution of the brother's mood, through the character's extremely emotional narration. That is a "Kitten" with a kind heart. That is also the beauty of a little girl in everyday life that we can meet anywhere in our country.
Cảm nhận về nhân vật cụ Mết và chú Năm Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật cụ Mết và chú Năm Bài làm Cuộc kháng chiến chống Mỹ qua đi để lại biết bao đau thương, mất mát, hi sinh, nhưng cũng trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà văn sáng tạo ra những tác phẩm ca ngợi lòng yêu nước, quả cảm của người dân Việt Nam. Trong vô vàn tác phẩm ấy, nổi bật hơn cả là “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi và “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Nếu nhiều bạn đọc ấn tượng trước tinh thần yêu nước, dũng cảm của hai chị em Chiến, Việt, hay khâm phục sức mạnh, lòng trung thành của Tnú, thì tôi lại thích nhân vật chú Năm và cụ Mết. Tuy không phải là nhân vật trung tâm nhựng sự xuất hiện của chú Năm và cụ Mết lại quan trọng hơn cả. Trước tiên là cụ Mết trong “Rừng xà nu”. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trung Thành, cụ Mết hiện ra như một “cây xà nu lớn”- uy nghi, rắn rỏi, dáng người “quắc thước”, “râu dài tới ngực”, “mắt sáng và xếch ngược”, “vết sẹo ở má phải vẫn láng bóng”. Cụ Mết đã ngoài 60 nhưng ngoại hình của cụ không khắc họa hình ảnh một ông cun già lưng còng râu bạc hiền từ như ta thường biết, cụ Mết lại mang ngoại hình của một vị trưởng làng mạnh mẽ, của một chiến binh già dũng cảm, của một “cây xà nu” lớn hiên ngang, vững chắc che chở cho cả ngôi làng Xô Man. Khi Tnú đi chiến đấu được về làng một đêm, chính vị trưởng làng già đáng kính ấy đã chào đón, chăm sóc Tnú, đã động viên anh lực lượng bằng lời khen khi ông vừa ý nhất: “Được”. Đó là tấm lòng bao la của cụ Mết, ông không chỉ tự hào vì ngôi làng nhỏ bé của mình đã gửi vào quân đội một chiến sĩ quả cảm, trung thành như Tnú mà còn thể hiện lòng tự hào, tình yêu thương của một người ông đối với đứa cháu, đứa con của mình. Cụ Mết chính là người đã chứng kiến cuộc đời của Tnú, đã kể về cuộc đời đầy chiến công nhưng cũng nhiều đau thương ấy cho các thế hệ hiện tại tương lai noi theo, học tập. Cụ Mết nói như ra lệnh: “Người Strá ai cũng có cái tai, ai cũng có cái bụng thương núi, thương nước hãy lắng nghe, nhớ. Sau nay tai chết rồi, chúng mày phải kể lị cho con cháu nghe”. Có thể nói, cụ Mết đóng vai trò vô cùng quan trọng trong “Rừng xà nu”. Cụ chính là điểm nhìn trần thuật của tác giả, giúp tác giả khắc họa lại cuộc đời của người anh hùng Tnú một cách khách quan chính xac và sinh động nhất. Không những vậy, tôi còn vô cùng ấn tượng trước cảnh cụ Mết chỉ huy toàn bộ dân làng đứng lên chống lại bọn phản Cách mạng, cứu sông Tnú khỏi tay giặc với khẩu lệnh rắn rỏi: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Có nhiều ý kiến cho rằng, Nguyễn Trung Thành đã sáng tạo nhân vật cụ Mết chỉ để kể về cuộc đời Tnú. Nhưng tôi không cho là vậy. Cụ Mết không chỉ là nguồn động lực, là quê hương, là điểm tựa vững chắc trong tâm hồn Tnú, mà còn là người gìn giữ câu chuyện cuộc đời Tnú, lưu truyền nó như bài học về lòng trung thành, dũng cảm. Những cây xà nu con như Tnú được cụ Mết chở che, cho khôn lớn, nuôi dạy, cho ý chí sắt thép,trở thành những cây xà nu trưởng thành, rồi cả rừng xà nu như thế sẽ bao phủ dải đất Tây Nguyên, bảo vệ lãnh thổ đất nước Việt Nam dấu yêu. Tóm lại, đọc “Rừng xà nu” mà chỉ nhớ về Tnú, quên đi cụ Mết thì vẫn chưa tính là thấu hiểu tác phẩm này. Nhân vật cũng gây ấn tượng không kém là chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Nguyễn Thi không miêu tả ngoại hình chú Năm, cũng không dành nhiều đất cho nhân vật xuất hiện. Bạn đọc biết về chú Năm chỉ gói gọn trong hai nội dung chính: là người lớn tuổi duy nhất còn lại trong một gia đình truyền thống Cách mạng, chú của hai chị em Chiến, Việt và là một cựu chiến binh. Nhưng từng ấy cũng đủ để tôi hình dung về chú Năm. Từ việc chú Năm sẵn sàng xin cho hai cháu đi tong quân đến việc dn dò hai cháu nếu bỏ về thì sẽ chặt đầu đều cho thấy chú Năm là một cựu chiến binh quả cảm, thẳng thắn và yêu nước, trung thành với Cách mạng. Không còn đủ khả năng tự mình cầm súng diệt giặc, chú Năm trở thành hậu phương, thành chỗ dựa vững chắc cho hai đứa cháu. Chú Năm trở thành hậu phương, thành chỗ dựa vững chắc cho hai đứa cháu. Chú Năm chăm sóc thằng Ú tem, chăm sóc ruộng mía, trông coi bàn thờ má cho chị em Chiến, Việt yên lòng lên đường hành quân diệt giặc. Nếu không có chỗ dựa là chú Năm, liệu chị em Chiến, Việt có đủ yên lòng lên đường hành quân diệt giặc, đủ yên lòng bỏ mặc nhà cửa, bàn thờ má hay đứa em còn nhỏ lị một mình? Chiến thắng vẻ vang mà ta dành được không chỉ dựa vào sức các chiến sĩ mà còn là cả hậu phương phía sau, dựa vào những người như chú Năm. Cứng rắn là vậy nhưng ngày hai cháu chính thức lên đường, chú Năm vẫn khóc, “đưa mấy ngón tay cứng còng chùi nước mắt”. Hơn ai hết, chú Năm hiểu, một khi đã vào chiến trường, trở về được hay không thật khó nói. Nhưng chú không muốn thể hiện sự lo lắng ấy, chú chỉ cười và động viên hai chị em bằng cách giao sổ gia đình cho hai cháu, hứa sẽ ghi chiến công từng ngày của hai chị em vào đó. Như sợ chưa đủ, chú Năm cất lời hò, “câu hò cất nổi lên giữa ban ngày nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”. Lời hò của quê hương ấy sẽ theo hai chị em Chiến, Việt vào chiến trường, sẽ vực dậy họ lúc gian khổ, tiếp thêm sức mạnh quyết tâm chiến đấu, sẽ nhắc cho hai chị em yên tâm rằng ở nhà, đã có chú Năm lo liệu mọi việc, nhắc rằng hai chị em là niềm tự hào tiếp theo của một gia đình truyền thống Cách mạng. Có thể nói, nhân vật chú Năm không nổi bật nhưng lại là mạch ngầm xuyên suốt tác phẩm, mang nhiều ý nghĩa không thể thiếu.
Feelings about the characters of Mr. Met and Uncle Nam Instruct Feelings about the characters of Mr. Met and Uncle Nam Assignment The end of the anti-American resistance war left behind so much pain, loss, and sacrifice, but also became a source of inspiration for poets and writers to create works praising the patriotism and courage of the people. Vietnamese people. Among these countless works, the most prominent are "Children in the Family" by Nguyen Thi and "Forest of Snakes" by Nguyen Trung Thanh. If many readers are impressed by the patriotism and courage of the two sisters Chien and Viet, or admire the strength and loyalty of Tnú, then I like the characters of Uncle Nam and Uncle Met. Although not the central characters, the appearances of Uncle Nam and Uncle Met are the most important. First is Mr. Met in "The Snake Forest". Under Nguyen Trung Thanh's talented pen, Mr. Met appears like a "big snake tree" - majestic, sturdy, with a "strong" figure, "long beard to the chest", "bright eyes and upside-down slant". , “the scar on the right cheek is still shiny.” Mr. Met is over 60, but his appearance does not portray the image of a gentle old man with a hunched back and gray beard as we often know, Mr. Met has the appearance of a strong village chief, of a brave old warrior. The feeling of a large "sun tree" standing tall and firmly protecting the entire Xo Man village. When Tnú returned from fighting and returned to the village one night, it was the respected old village chief who welcomed and took care of Tnú and encouraged his forces with the compliment when he was most satisfied: "Okay". That was Mr. Met's immense heart. He was not only proud that his small village had sent a brave and loyal soldier like Tnú to the army, but also showed the pride and love of a soldier. grandfather to his grandchildren and children. Mr. Met was the one who witnessed Tnú's life, and told about that life full of victories but also much pain for current and future generations to follow and learn. Mr. Met said as if giving orders: "Everyone in Stra has an ear, everyone has a heart to love the mountains and love the country, listen and remember. After I die, you have to tell your children and grandchildren about it." It can be said that Mr. Met plays an extremely important role in "The Snake Forest". The instrument is the author's narrative point of view, helping the author portray the life of the hero Tnú in the most objective, accurate and vivid way. Not only that, I was also extremely impressed by the scene of Mr. Met commanding all the villagers to stand up against the counter-Revolutionaries, saving the Tnú River from the enemy with a strong command: "They have guns, we must holding a spear". There are many opinions that Nguyen Trung Thanh created the character of Mr. Met just to tell about Tnú's life. But I don't think so. Uncle Met is not only a source of motivation, a homeland, a solid fulcrum in Tnú's soul, but also a keeper of Tnú's life story, passing it down as a lesson of loyalty and courage. Young snakehead trees like Tnú are protected, raised, and nurtured by old man Met, with an iron will, and become mature snakehead trees, and then the whole snakewood forest will cover the Central Highlands. protect the territory of our beloved country Vietnam. In short, reading "The Snake Forest" and only remembering Tnú and forgetting Mr. Met is still not counted as understanding this work. An equally impressive character is Uncle Nam in "Children in the Family". Nguyen Thi did not describe Uncle Nam's appearance, nor did he leave much space for the character to appear. Readers know about Uncle Nam only in two main contents: he is the only remaining elder in a traditional Revolutionary family, the uncle of the two sisters Chien and Viet, and a veteran. But that was enough for me to imagine Uncle Nam. From the fact that Uncle Nam was willing to ask for the two of them to join the army to the fact that if they left, they would be beheaded, it all showed that Uncle Nam was a brave, straightforward and patriotic veteran, loyal to the Revolution. . No longer capable of holding a gun to kill the enemy himself, Uncle Nam became the rearguard and solid support for his two nephews. Uncle Nam became the rear and solid support for his two grandchildren. Uncle Nam took care of Utem, took care of the sugarcane fields, and looked after the altar of his mother so that the Chien and Viet sisters could feel secure as they set out on their march to destroy the enemy. Without the support of Uncle Nam, would the Chien and Viet sisters have the peace of mind to go on a campaign to destroy the enemy, the peace of mind to leave the house, the altar of their mother or their younger brother alone? The glorious victory we won relied not only on the strength of our soldiers but also on the rear, relying on people like Uncle Nam. As tough as he was, the day the two of them officially left, Uncle Nam still cried, "wiping his stiff fingers to wipe his tears." More than anyone else, Uncle Nam understands that once on the battlefield, whether he can return or not is difficult to say. But he didn't want to show that worry, he just smiled and encouraged the two sisters by handing over the family book to them, promising to record their daily achievements in it. As if fear was not enough, Uncle Nam started singing, "the song arose in the middle of the day with a message, earnestly, and finally stopped like a fierce oath". The song of the homeland will follow the sisters Chien and Viet into the battlefield, will revive them in times of hardship, give them strength and determination to fight, and will remind the sisters to rest assured that at home, there is an uncle. Five takes care of everything, reminding that the two sisters are the next pride of a traditional Revolutionary family. It can be said that the character of Uncle Nam is not prominent but is an underground thread throughout the work, carrying many indispensable meanings.
Cảm nhận về nhân vật Lão Hạc văn lớp 8 Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Lão Hạc Bài văn mẫu cảm nhận về nhân vật Lão Hạc Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm tiêu biểu trong dòng văn học hiện thực, phản ánh rõ xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử năm 1945. Nếu như có tìm hiểu qua có lẽ ai cũng biết rằng Nam Cao không chỉ là một nhà văn mà còn là một người chiến sĩ của Việt Nam. Ông đã viết không ít những tác phẩm phản ánh hiện thực, đi sâu vào cuộc sống khổ cực của người dân trong xã hội lúc bấy giờ mà điển hình là truyện ngắn Lão Hạc. Nam Cao là một nhà văn rất thành công trong việc xây dựng nhân vật từ ngoại hình tính cách đến tâm trạng và cả ảnh hưởng xã hôi lúc bấy giờ đến nhân vật. Có lẽ nhân vật Lão Hạc được dựng trên tính cách, con người Việt Nam. Một nông dân hiền lành, chân chất sống trong áp bức bốc lột của xã hội phong kiến. Đầu tiên trong truyện ngắn ta có thể thấy được Lão Hạc sống chung với con trai của mình, vợ mất sớm. Có lẽ vì vậy mà Lão rất thương con mình, để ý từng chút tâm trạng, biểu cảm và ngay cả khi con trai đã cố cười dấu đi cảm xúc thật ông vẫn có thể nhận ra. Ai cũng biết rằng người cha nào mà chẳng thương con, chẳng mong con được hạnh phúc nhưng cái cảm giác không cho con được điều mà con mong muốn nó khó tả đến nhường nào. Con trai Lão yêu và muốn lấy vợ nhưng tiền thách cưới lại quá cao, Lão từng nghĩ đến việc bán vườn nhưng có bán cũng không đủ Lão đành cố gắng khuyên con trai nhưng có ai biết được con trai Lão đi đăng kí làm đồn điền cao su khi cô gái lấy người khác có điều kiện hơn. Con trai Lão đưa Lão 3 đồng bạc rồi ra đi. Tâm trạng của Lão người đọc đều có thể cảm nhận được là sự buồn bã, dằn vặt mà trong đó còn mang một sự bất lực khi con trai Lão đi mà Lão thì không có cách gì níu giữ. Từ đó Lão sống chung với cậu Vàng, là con chó mà con trai Lão mua để dành khi lấy vợ. Lão quý nó như người bầu bạn của mình,cuộc sống sẽ vẫn bình lặng qua ngày nếu như Lão không bị bệnh. Đúng vậy, Lão bị ốm suốt 2 tháng liền không làm được gì, còn tốn tiền thuốc, Lão sống khó khăn lại đi đến quyết định bán cậu Vàng. Chắc rằng lão đã suy nghĩ rất nhiều vì việc này được Lão nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần với ông Giáo một người hay tâm sự cùng Lão. Có lẽ lão sẽ không đắn đo suy nghĩ quá nhiều khi bán cậu Vàng nếu đó không phải là do con trai Lão mua, cứ nhìn thấy nó là lão lại nhớ con trai mình chắc hẳn Lão xem nó là vật kỉ niệm duy nhất con trai để lại trước khi đi. Như vậy Lão là một người sống rất tình cảm và có lẽ không chỉ vậy mà Lão còn là một người có tấm lòng nhân hậu. Lúc lão bán con chó, Lão đã chạy đến khóc trước mặt ông Giáo như một đứa trẻ. Lão buồn không chỉ vì mất đi con chó mà lão còn dằn vặt lương tâm mình vì đã lừa nó. Lão gọi nó về cho nó ăn và rồi nó bị bắt đi, với sự miêu tả trong truyện có vẻ như nó không kêu lên hay dẫy dụa mà chỉ đơn giản là một ánh mắt với tiếng ưng ửng phát ra cũng có thể vì thế mà Lão xót, không chỉ xót cho nó mà còn xót cho chính bản thân mình. Sau khi bán chó Lão gửi lại tiền và vườn cho ông Giáo nhờ ông Giáo trông vườn giùm và tiền thì để lo ma chay cho Lão nếu lỡ có chuyện gì xảy ra. Mấy ngày sau chỉ thấy lão suốt ngày ăn khoai, hết khoai rồi thì chế được gì Lão ăn cái đó. Tuy khó khăn là vậy nhưng lão lại không nhận sự giúp đỡ từ ông Giáo, có thể thấy Lão còn là một người giàu lòng tự trọng. Vài ngày sau đó Lão chết, lão đã tự tử nhưng lại dùng một cái chết dằn vặt và đau đớn suốt hai giờ liền. Phải chăng lão chọn cách đó để tự dằn vặt bản thân mình đã lừa cậu Vàng và cũng là để lên án xã hội phong kiến lúc bấy giờ. đã giới thiệu bài cảm nhận về nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Các em thấy thế nào, nếu hay hãy comment bên dưới nhé. Võ Hạnh
Feelings about the character Lao Hac Van Van grade 8 Instruct Topic: Feelings about the character Lao Hac Sample essay about the character Lao Hac The short story Lao Hac is a typical work in the genre of realistic literature, clearly reflecting Vietnamese society in the historical period of 1945. If you have researched, perhaps everyone knows that Nam Cao is not just a writer but also a soldier of Vietnam. He wrote many works that reflected reality and delved into the miserable lives of people in society at that time, typically the short story Lao Hac. Nam Cao is a very successful writer in building characters from appearance, personality to mood and social influence at that time on the character. Perhaps the character Lao Hac is based on the Vietnamese personality and people. A gentle, honest farmer living in the oppression and exploitation of feudal society. First, in the short story we can see Old Hac living with his son, whose wife died early. Maybe that's why he loved his son so much, paying attention to every bit of his mood and expression, and even when his son tried to smile to hide his true feelings, he could still recognize it. Everyone knows that every father doesn't love his child, doesn't want his child to be happy, but the feeling of not being able to give his child what he wants is indescribable. His son loved him and wanted to get married, but the wedding price was too high. He thought about selling the garden, but even selling it wouldn't be enough. He tried to advise his son, but no one knew that his son was going to register as a plantation. rubber when the girl marries someone with better conditions. Lao's son gave Lao 3 silver coins and left. Readers can feel the old man's mood as sadness and torment, but also a sense of helplessness when his son left and he had no way to hold on to him. From then on, Lao lived with Mr. Vang, the dog that Lao's son bought to save for when he got married. He loved it as his companion, life would still be peaceful day by day if he did not get sick. That's right, he was sick for 2 months and couldn't do anything. He also had to spend money on medicine. He had a difficult life and decided to sell Mr. Vang. He must have thought a lot because he repeated this matter many times to Mr. Giao, a person who often confided in him. Maybe he wouldn't have thought too much about selling Mr. Vang if it wasn't for his son's purchase. Every time he saw it, he missed his son. He probably saw it as his son's only keepsake. leave before leaving. So Lao is a very emotional person and perhaps not only that, but he is also a kind-hearted person. When he sold the dog, he ran to Mr. Giao and cried like a child. He was sad not only because he lost the dog, but he also tormented his conscience for having deceived it. The old man called it back to feed it and then it was taken away. From the description in the story, it seems like it didn't scream or struggle, but simply a look with a blushing sound, maybe that's why. He felt sorry, not only for him but also for himself. After selling the dog, Lao sent the money and the garden back to Mr. Giao, asking him to take care of the garden for him and the money to take care of Lao's funeral if anything happened. A few days later, I only saw him eating potatoes all day. Once the potatoes ran out, what could he do? He ate that. Even though it was difficult, he did not accept help from Mr. Giao. It can be seen that he was still a person with a lot of self-esteem. A few days later, he died. He committed suicide but died a torturous and painful death for two hours straight. Maybe he chose that way to torment himself for deceiving Mr. Vang and also to condemn the feudal society at that time. introduced a review about the character Lao Hac in the short story of the same name by writer Nam Cao. What do you think? If so, please comment below. Vo Hanh
Cảm nhận về nhân vật Mị Châu Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Mị Châu Trong chuỗi những truyền thuyết hào hùng về thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, truyền thuyết về An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là tác phẩm tâm đắc nhất. Đọc xong câu chuyện, người đọc không thể không suy tư về cuộc đời của Mị Châu, một cô gái dịu hiền xinh đẹp, trọng nghĩa trọng tình lại phải chịu một cái kết oan ức và xót xa hơn bao giờ hết. “Tôi kể ngày xưa truyện mị châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” Mị Châu là cô công chúa xinh đẹp tuyệt trần của An Dương Vương, ngây thơ và trong sáng. Nàng không thể giải quyết được lý và tình, giữa hiếu và nghĩa để rồi cuối cùng phải chịu cái chết oan ức. Qua truyền thuyết, người đọc cũng có thể cho rằng Mị Châu là một kẻ phản nghịch vì nàng đã trực tiếp tiếp tay cho giặc, bán nước hại cha nhưng sự thật là Mị Châu đã trở thành tội phạm vì nàng đã quá ngây thơ, tin tưởng người khác, tin vào tình yêu mà đã vô tình quên đi đất nước, quên đi cha mình. Chính sự tin yêu mù quáng đó cho nên Mị Châu đã trực tiếp tạo nên tấn bi kịch của lịch sử này. Nàng vừa đáng thương lại vừa đáng trách bởi nàng đã đem bí mật, vận mệnh đất nước đề làm đẹp thêm tình vợ chồng nhưng đáng thương ở chỗ nàng cả tin ngây thơ yêu chàng, và muốn chiều theo ý chồng, lại là người phụ nữ ở xã hội xưa thì càng nói lên rõ về điều đó. Lần thứ hai là trong ngày tiễn biệt, cũng chỉ vì chữ yêu, yêu tới mù quáng cho nên Mị Châu đã không hề mảy may nghi ngờ gì về câu hỏi đầy dụng ý, cũng không hề nhận ra âm mưu của chồng mình, nàng đã trả lời thành thật rằng: “Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy phương nào, thiếp sẽ rắc long ngỗng dọc đường, chàng cứ theo dấu long ngỗng mà tìm”. Nàng cũng không hề biết rằng chính hành động đó đã dẫn đường cho giặc. Và cũng suy cho cùng thì nàng cũng đáng thương bởi một cô gái ngây thơ, vô tư như nàng không hề nhận ra tâm địa đó mà chỉ luôn mong ngóng ngày chồng đi trở về bên mình, đó là ý nghĩ của nàng khi sợ chàng không tìm được cho nên đã nói như thế. Tình yêu đã làm u mê con người,u mê tới nỗi ngồi sau lưng nhưng mà nàng vẫn giữ lời hứa bứt lông ngỗng rải ở dọc đường đi, tới lúc này mà vẫn còn hành động mu muội như thế thì thực là một sai lầm nghiêm trọng không thể nào tha thứ được. Hình ảnh ngọc châu mà Mị Nương nhắc tới không còn là biểu tượng của một tình yêu trong trắng nữa mà chỉ minh giải cho nỗi oan của nàng. Bài học về Mị Châu là bài học chua xót vì đã quá cả tin thiếu suy nghĩ, là bài học cảnh tỉnh cho tất cả mọi người “trái tim để trên đầu” như nhà thơ Tố Hữu đã “tâm sự” một cách sâu sắc, thấm thía. Nguồn: Bài văn hay
Feelings about the character Mi Chau Instruct Feelings about the character Mi Chau In the series of heroic legends about the period of building and defending the country of our nation, the legend of An Duong Vuong and Mi Chau Trong Thuy is the most favorite work. After reading the story, the reader cannot help but reflect on the life of Mi Chau, a beautiful, gentle girl who respected love but suffered an unjust and more painful ending than ever. “I told the story of My Chau in the past The heart is in the wrong place on the head The magical crossbow accidentally passed into the hands of the enemy That's why the fate is sinking into the deep sea" Mi Chau is the stunningly beautiful princess of An Duong Vuong, innocent and pure. She could not resolve reason and love, between filial piety and righteousness and eventually suffered an unjust death. Through legend, readers can also think that Mi Chau is a traitor because she directly aided the enemy and betrayed her country to harm her father, but the truth is that Mi Chau became a criminal because she was too naive. trusting others, believing in love but accidentally forgetting about the country, forgetting about one's father. It was because of that blind trust and love that Mi Chau directly created the tragedy of this history. She is both pitiful and blameworthy because she used the secret and the fate of the country to beautify the relationship between husband and wife, but pitiful in that she was gullible and naive, loved him, and wanted to follow her husband's wishes, but was a woman. Women in ancient societies spoke even more clearly about that. The second time was on the day of farewell, just because of the word love, love is blind, so Mi Chau did not have the slightest doubt about the intentional question, nor did she realize her husband's plot. answered honestly: "I have a goose feather shirt. Wherever I run, I will sprinkle goose feathers along the road. You just follow the trail of goose feathers to find me." She also did not know that that action led the way to the enemy. And in the end, she is also pitiful because an innocent, carefree girl like her does not realize that mentality and only always looks forward to the day her husband returns to her side, that is what she thinks when she is afraid of him. I couldn't find it so I said so. Love has blinded people, to the point of sitting behind, but she still kept her promise to pluck goose feathers and scatter them along the way. To still act so foolishly at this point is a mistake. Serious and unforgivable. The image of pearls that Mi Nuong mentioned is no longer a symbol of pure love but only explains her injustice. The lesson about Mi Chau is a bitter lesson of being too gullible and thoughtless, a warning lesson for everyone who "puts their heart above their head" as poet To Huu "confided" deeply. , well understand. Source: Good article
Cảm nhận về nhân vật Nhuận Thổ trong truyện ngắn “cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Nhuận Thổ trong truyện ngắn “cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn Mở bài: Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Hoa. Ông thường quan niệm văn học là vũ khí lợi hại để biến đổi tinh thần dân chúng đang ở trong tình trạng “ngu muội và hèn nhất”. Chính vì vậy các tác phẩm của Lỗ Tấn thường có tác dụng thức tỉnh đồng bào của mình đứng dậy làm chủ cuộc đời, hướng về tương lai tươi sáng. Truyện ngắn “Cố hương” trích từ tập “Gào thét” là một ví dụ điển hình. Tác phẩm đã ghi lại những xúc cảm và suy tư của nhân vật Tấn trước những đổi thay của cảnh vật và con người ở quê hương. Qua đó, ta thấy hiện lên hình ảnh người nông dân Trung Hoa nghèo khổ trong quá khứ. Nhân vật Nhuận Thổ từ một cậu bé hồn nhiên và tháo vát đã trở thành một người đàn ông khốn quẩn, bất lực. Đọc lại chuyện ta nhận ra sự thay đổi nhanh chóng ấy. Thân bài: Quê hương không chỉ là cảnh vật mà trong sâu thẳm tâm hồn của mọi người, quê hương còn là những kỉ niệm về tình bạn thưở thiếu thời. Hình ảnh cậu bé Nhuận Thổ dần sống lại trong kí ức nhân vật Tấn. Có thể thấy sự thay đổi sa sút của quê hư­ơng ở sự biến dạng của Nhuận Thổ. Tác giả tạo ra sự t­ương phản trong thời gian quá khứ và hiện tại để lột tả những thay đổi đáng buồn của Nhuận Thổ, ng­ười đã từng là bạn với Tấn từ thủa thiếu thời. Trong kí ức của nhân vật Tấn sống dậy những hình ảnh tuyệt đẹp của quá khứ thần tiên hơn hai mươi năm tr­ước, trong đó nổi bật hình ảnh một Nhuận Thổ khoẻ khoắn, lanh lợi “cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba”, “n­ước da bánh mật” với biết bao chuyện lạ, bao điều kì thú. Trong quá khứ, Nhuận Thổ là một cậu bé khỏe mạnh, đẹp thông minh, tháo vát. Đó là hình ảnh một đứa trẻ con nhà cũng không đến nỗi chật vật. So với những đứa trẻ khác cùng tràn lứa, Nhuận Thổ là một cậu bé khỏe mạnh, dễ thương với “khuôn mặt trờn trĩnh, nước da bánh mật đầu đội mũ long chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Vóc dáng ấy, làn da ấy, phải chăng là kết quả của những lao động từng trải? Tưởng chừng như trong cái đầu nhỏ bé ấy là biết bao điều mới lạ, phong phú. Chính nhân vật Tấn đã từng nhận xét: “Trời! Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết, những chuyện ấy bạn bè tôi từ trước tới nay không biết gì cả” Mỗi lần nhắc đến tên Nhuận Thổ, trong đầu óc Tấn lại hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kỳ dị: “giữa ruộng dưa bát ngát một cậu bé lăm lăm cầm chiếc đinh bà đang đuổi theo con tra. Hình ảnh ấy phần nào bộc lộ tính cách dũng cảm, cương nghị của một tiểu anh hùng”. Nhuận Thổ là một cậu bé có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Tuy hoàn cảnh hai gia đình khác biệt: một bên là chủ một đằng là tớ, nhưng hai đưa trẻ ấy vẫn chẳng màn, chúng vẫn chơi đùa thân thiết với nhau, tình bạn giữa chúng không hề bị vẩn đục bởi một ý nghĩa đen tối nào. Khi nghe tin phải về quê, cậu bé Nhuận Thổ đã khóc mà không chịu về, những giọt nước mắt ấy đã làm xốn xao bao nhiêu tâm hồn độc giả nhỏ tuổi chúng ta. Dù sau này cách mặt mà họ chẳng xa lòng, hai đứa trẻ vẫn gửi quà cho nhau trong khả năng có được. Làm sao ta có thể quên được những món quà nhà nghèo của Nhuận Thổ món quà gói chọn tất cả niềm thương và nỗi nhớ “một bọc vỏ sò mà mấy cái lông chim thật đẹp” món quà ấy thật vô giá bởi lẽ nó được đánh đổi bằng bao giọt mồ hôi, cống sức của Nhuận Thổ. Để có được bằng ấy, Nhuận Thổ phải vận lộn trong những tháng ngày tuyết lạnh để bãy chim rồi chọn lựa những chiếc lông thật đẹp, trân trọng nâng niu cất giữ và cũng phải còng lưng vào những trưa hè trên baĩ biển để nhặt được những con sò đầy kì thú. Món quà đạm bạc ấy cùng với hình ảnh tiểu anh hùng đã đi theo Tấn trong suốt mười mấy nắm trời. “Cố hương” của nhân vật Tấn là thế đấy, là người bạn thân và những kỉ niệm thật đẹp, thật khó phai nhạt. Chính vì thế mỗi lần nhắc tới Nhuận Thổ “ký ức Tấn bỗng dưng thấy bừng sáng trong chốc lát và tựa hồ thấy quê hương mình đep ở chỗ nào rồi”. Trong hiện tại, hình ảnh Nhuận Thổ trước mắt nhà văn đã hoàn toàn đổi khác. Sau ba mươi năm xa quê, trở lại lần này, Tấn không chỉ nhận thấy cảnh vật đổi thay mà ngay cả con người cũng thay đổi. Từ một đứa trẻ đẹp trai khỏe mạnh, tháo vát ngày nào, Nhuận Thổ hiện tại già nua, thô kệch, nặng nề, da dẻ “vàng xạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hoắm”. Nhuận Thổ bây giờ sống trong một tình cảnh bi đát, khốn khổ, thê luơng: “Con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm c­ướp, quan lại, thân hào đày đoạ thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi!”. Nước da bánh mật nào giờ đây chở nên vàng sạm, chiếc mũ long chiên bé tí tẹo xinh xắn ngày nao nay đã rách tươm. Cái vòng bạc sáng loáng ngày ấy không còn nữa mà thay vào đó là chiếc áo bông mỏng dính. Ngay cả đôi bàn tay lanh lẹ, mập mạp ngày nào cũng biến dạng, trở nên nứt nẻ như vỏ cây thông. Lớp bụi thời gian tàn nhẫn không chỉ làm thay đổi hình tính mà làm cho nhân tính của con người cũng đổi thay nhiều. Tới nhà Tấn lần này, Nhuận Thổ đã có cử chỉ rụt rè, khép nép đến nỗi những nếp nhăn cũng không động đậy trên gương mặt im lìm như pho tượng đá. Con người ấy, giờ đây trở nên mụ mẫn, đần độn, anh chỉ còn biết phó thác số mệnh của mình vào thần linh. Người nông dân đó chỉ còn biết sung bái tượng gỗ và tin vào đó một cách mù quáng. Nhuận Thổ vẫn nhớ tới bạn nhưng không quên vị trí của mình trong xã hội qua cách xưng hô đầy cách biệt. Giữa Tấn và Nhuận Thổ giờ đây có một khoảng cách quá lớn. Chính hai tiếng “Bẩm ông” đã làm Tấn điếng người, phút chốc không nói được gì. Sự sa xút của người nông dân khiến cho Tấn không thể hình dung về người bạn năm nào. Duy chỉ có vẻ chân thật trong Nhuận Thổ là thoát đ­ược sự sa sút, biến dạng vẫn còn nồng ấm: “Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”. Anh đem món quà tặng bạn nhưng món quà của anh cùng thái độ cung kính chỉ làm cho Tấn nghẹn ngào xót tủi hơn. Nhưng giá như­ không có cái điệu bộ khúm núm, không có những sáo ngữ thưa gửi thì đã không đáng buồn đến thế. Nhuận Thổ là con người của quá khứ. Cái quá khứ đẹp đẽ ấy giờ đã phai mờ và khó có thể lấy lại được. Nhuận Thổ cũng là con người của hiện tại, một hiện tại điêu tàn, khốc liệt và tàn nhẫn. Nhân vật Tấn đau xót nhưng vẫn hi vọng ở tương lai. Cái hi vọng là cái chư­a có, không ai hi vọng cái đang có bao giờ! Cái hi vọng cũng không là cái đã từng có, ngư­ời ta phải hư­ớng tới những cái mới, tốt đẹp hơn. Cảnh tượng đẹp đẽ có phần giống những hình ảnh trong hồi ức tuổi thơ của Tấn với Nhuận Thổ hiện ra khi anh đang mơ màng là thực. Trong cuộc đời mới của thế hệ Hoàng – Thuỷ Sinh ngay cả vẻ đẹp ấy cũng sẽ khác. Cuộc đời mới ấy còn ở phía tr­ước, có thể là xa vời, nh­ưng con người cứ mong ước, mong ư­ớc mãi để có đư­ợc nó. Rồi cuộc sống mới ấy cũng sẽ đến, đúng nh­ư chân lí về sự hình thành của những con đư­ờng trên mặt đất vậy. Kết bài: Với lối kể chuyện đầy sáng tạo, tác giả đã khắc họa trong tâm trí chúng ta hình ảnh người nông dẫn chung hoa trong quá khứ mà Nhuận Thổ là nhân vật điển hình. Quảng đời tuổi thơ của Nhuận Thổ thật đẹp trong trắng nhưng sao ngắn ngủi quá. Hình ảnh cậu bé Nhuận Thổ đẹp, thông minh, am hiểu, tâm hồn luôn sáng trong sao chóng phai nhòa theo năm tháng. Sự vần xoai ấy đã để lại trong lòng em những nuối tiếc vô hạn và niềm chua sót cực kì của một kiếp người, kiếp đời,…
Cảm nhận về nhân vật Nhuận Thổ trong truyện ngắn “cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Nhuận Thổ trong truyện ngắn “cố hương” của nhà văn Lỗ Tấn Mở bài: Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Hoa. Ông thường quan niệm văn học là vũ khí lợi hại để biến đổi tinh thần dân chúng đang ở trong tình trạng “ngu muội và hèn nhất”. Chính vì vậy các tác phẩm của Lỗ Tấn thường có tác dụng thức tỉnh đồng bào của mình đứng dậy làm chủ cuộc đời, hướng về tương lai tươi sáng. Truyện ngắn “Cố hương” trích từ tập “Gào thét” là một ví dụ điển hình. Tác phẩm đã ghi lại những xúc cảm và suy tư của nhân vật Tấn trước những đổi thay của cảnh vật và con người ở quê hương. Qua đó, ta thấy hiện lên hình ảnh người nông dân Trung Hoa nghèo khổ trong quá khứ. Nhân vật Nhuận Thổ từ một cậu bé hồn nhiên và tháo vát đã trở thành một người đàn ông khốn quẩn, bất lực. Đọc lại chuyện ta nhận ra sự thay đổi nhanh chóng ấy. Thân bài: Quê hương không chỉ là cảnh vật mà trong sâu thẳm tâm hồn của mọi người, quê hương còn là những kỉ niệm về tình bạn thưở thiếu thời. Hình ảnh cậu bé Nhuận Thổ dần sống lại trong kí ức nhân vật Tấn. Có thể thấy sự thay đổi sa sút của quê hư­ơng ở sự biến dạng của Nhuận Thổ. Tác giả tạo ra sự t­ương phản trong thời gian quá khứ và hiện tại để lột tả những thay đổi đáng buồn của Nhuận Thổ, ng­ười đã từng là bạn với Tấn từ thủa thiếu thời. Trong kí ức của nhân vật Tấn sống dậy những hình ảnh tuyệt đẹp của quá khứ thần tiên hơn hai mươi năm tr­ước, trong đó nổi bật hình ảnh một Nhuận Thổ khoẻ khoắn, lanh lợi “cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba”, “n­ước da bánh mật” với biết bao chuyện lạ, bao điều kì thú. Trong quá khứ, Nhuận Thổ là một cậu bé khỏe mạnh, đẹp thông minh, tháo vát. Đó là hình ảnh một đứa trẻ con nhà cũng không đến nỗi chật vật. So với những đứa trẻ khác cùng tràn lứa, Nhuận Thổ là một cậu bé khỏe mạnh, dễ thương với “khuôn mặt trờn trĩnh, nước da bánh mật đầu đội mũ long chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Vóc dáng ấy, làn da ấy, phải chăng là kết quả của những lao động từng trải? Tưởng chừng như trong cái đầu nhỏ bé ấy là biết bao điều mới lạ, phong phú. Chính nhân vật Tấn đã từng nhận xét: “Trời! Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết, những chuyện ấy bạn bè tôi từ trước tới nay không biết gì cả” Mỗi lần nhắc đến tên Nhuận Thổ, trong đầu óc Tấn lại hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kỳ dị: “giữa ruộng dưa bát ngát một cậu bé lăm lăm cầm chiếc đinh bà đang đuổi theo con tra. Hình ảnh ấy phần nào bộc lộ tính cách dũng cảm, cương nghị của một tiểu anh hùng”. Nhuận Thổ là một cậu bé có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Tuy hoàn cảnh hai gia đình khác biệt: một bên là chủ một đằng là tớ, nhưng hai đưa trẻ ấy vẫn chẳng màn, chúng vẫn chơi đùa thân thiết với nhau, tình bạn giữa chúng không hề bị vẩn đục bởi một ý nghĩa đen tối nào. Khi nghe tin phải về quê, cậu bé Nhuận Thổ đã khóc mà không chịu về, những giọt nước mắt ấy đã làm xốn xao bao nhiêu tâm hồn độc giả nhỏ tuổi chúng ta. Dù sau này cách mặt mà họ chẳng xa lòng, hai đứa trẻ vẫn gửi quà cho nhau trong khả năng có được. Làm sao ta có thể quên được những món quà nhà nghèo của Nhuận Thổ món quà gói chọn tất cả niềm thương và nỗi nhớ “một bọc vỏ sò mà mấy cái lông chim thật đẹp” món quà ấy thật vô giá bởi lẽ nó được đánh đổi bằng bao giọt mồ hôi, cống sức của Nhuận Thổ. Để có được bằng ấy, Nhuận Thổ phải vận lộn trong những tháng ngày tuyết lạnh để bãy chim rồi chọn lựa những chiếc lông thật đẹp, trân trọng nâng niu cất giữ và cũng phải còng lưng vào những trưa hè trên baĩ biển để nhặt được những con sò đầy kì thú. Món quà đạm bạc ấy cùng với hình ảnh tiểu anh hùng đã đi theo Tấn trong suốt mười mấy nắm trời. “Cố hương” của nhân vật Tấn là thế đấy, là người bạn thân và những kỉ niệm thật đẹp, thật khó phai nhạt. Chính vì thế mỗi lần nhắc tới Nhuận Thổ “ký ức Tấn bỗng dưng thấy bừng sáng trong chốc lát và tựa hồ thấy quê hương mình đep ở chỗ nào rồi”. Trong hiện tại, hình ảnh Nhuận Thổ trước mắt nhà văn đã hoàn toàn đổi khác. Sau ba mươi năm xa quê, trở lại lần này, Tấn không chỉ nhận thấy cảnh vật đổi thay mà ngay cả con người cũng thay đổi. Từ một đứa trẻ đẹp trai khỏe mạnh, tháo vát ngày nào, Nhuận Thổ hiện tại già nua, thô kệch, nặng nề, da dẻ “vàng xạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hoắm”. Nhuận Thổ bây giờ sống trong một tình cảnh bi đát, khốn khổ, thê luơng: “Con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm c­ướp, quan lại, thân hào đày đoạ thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi!”. Nước da bánh mật nào giờ đây chở nên vàng sạm, chiếc mũ long chiên bé tí tẹo xinh xắn ngày nao nay đã rách tươm. Cái vòng bạc sáng loáng ngày ấy không còn nữa mà thay vào đó là chiếc áo bông mỏng dính. Ngay cả đôi bàn tay lanh lẹ, mập mạp ngày nào cũng biến dạng, trở nên nứt nẻ như vỏ cây thông. Lớp bụi thời gian tàn nhẫn không chỉ làm thay đổi hình tính mà làm cho nhân tính của con người cũng đổi thay nhiều. Tới nhà Tấn lần này, Nhuận Thổ đã có cử chỉ rụt rè, khép nép đến nỗi những nếp nhăn cũng không động đậy trên gương mặt im lìm như pho tượng đá. Con người ấy, giờ đây trở nên mụ mẫn, đần độn, anh chỉ còn biết phó thác số mệnh của mình vào thần linh. Người nông dân đó chỉ còn biết sung bái tượng gỗ và tin vào đó một cách mù quáng. Nhuận Thổ vẫn nhớ tới bạn nhưng không quên vị trí của mình trong xã hội qua cách xưng hô đầy cách biệt. Giữa Tấn và Nhuận Thổ giờ đây có một khoảng cách quá lớn. Chính hai tiếng “Bẩm ông” đã làm Tấn điếng người, phút chốc không nói được gì. Sự sa xút của người nông dân khiến cho Tấn không thể hình dung về người bạn năm nào. Duy chỉ có vẻ chân thật trong Nhuận Thổ là thoát đ­ược sự sa sút, biến dạng vẫn còn nồng ấm: “Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”. Anh đem món quà tặng bạn nhưng món quà của anh cùng thái độ cung kính chỉ làm cho Tấn nghẹn ngào xót tủi hơn. Nhưng giá như­ không có cái điệu bộ khúm núm, không có những sáo ngữ thưa gửi thì đã không đáng buồn đến thế. Nhuận Thổ là con người của quá khứ. Cái quá khứ đẹp đẽ ấy giờ đã phai mờ và khó có thể lấy lại được. Nhuận Thổ cũng là con người của hiện tại, một hiện tại điêu tàn, khốc liệt và tàn nhẫn. Nhân vật Tấn đau xót nhưng vẫn hi vọng ở tương lai. Cái hi vọng là cái chư­a có, không ai hi vọng cái đang có bao giờ! Cái hi vọng cũng không là cái đã từng có, ngư­ời ta phải hư­ớng tới những cái mới, tốt đẹp hơn. Cảnh tượng đẹp đẽ có phần giống những hình ảnh trong hồi ức tuổi thơ của Tấn với Nhuận Thổ hiện ra khi anh đang mơ màng là thực. Trong cuộc đời mới của thế hệ Hoàng – Thuỷ Sinh ngay cả vẻ đẹp ấy cũng sẽ khác. Cuộc đời mới ấy còn ở phía tr­ước, có thể là xa vời, nh­ưng con người cứ mong ước, mong ư­ớc mãi để có đư­ợc nó. Rồi cuộc sống mới ấy cũng sẽ đến, đúng nh­ư chân lí về sự hình thành của những con đư­ờng trên mặt đất vậy. Kết bài: Với lối kể chuyện đầy sáng tạo, tác giả đã khắc họa trong tâm trí chúng ta hình ảnh người nông dẫn chung hoa trong quá khứ mà Nhuận Thổ là nhân vật điển hình. Quảng đời tuổi thơ của Nhuận Thổ thật đẹp trong trắng nhưng sao ngắn ngủi quá. Hình ảnh cậu bé Nhuận Thổ đẹp, thông minh, am hiểu, tâm hồn luôn sáng trong sao chóng phai nhòa theo năm tháng. Sự vần xoai ấy đã để lại trong lòng em những nuối tiếc vô hạn và niềm chua sót cực kì của một kiếp người, kiếp đời,…
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật nàng Xi-ta trong đoạn trích Ra-ma buộc tội Bài làm Ra-ma-ya-na là bộ sử thi, niềm tự hào của người Ấn Độ. Người dân Ấn Độ tin rằng “chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì Ra-ma-ya-na còn mãi làm say lòng người và cứu họ ra khỏi vòng tội lỗi”. Một nhà nghiên cứu phương Tây từng miêu tả về Ra-ma-ya-na: “Đó là tác phẩm chan chứa những âm điệu du dương, toát ra mội bầu không khí yên lành và một tình yêu thương vô bờ bến trong hoàn cảnh xã hội đầy sự mâu thuẫn và xung đột" (Michelet). Một trong những hiện thân của vẻ đẹp làm say lòng người ấy là nhân vật Xi-ta. Nàng không chỉ là hình ảnh bổ sung cho sự kì vĩ của người anh hùng Ra-ma mà còn là minh chứng cho vẻ đẹp chân thực, toàn mĩ của người phụ nữ Ấn, từ hình dáng bên ngoài đến những phẩm chất tâm hồn bên trong. Vẻ đẹp của nàng luôn được miêu tả gắn liền với cụm từ “gương mặt bông sen ” – đó là chi tiết ngoại hình luôn được láy đi láy lại trong tác phẩm. Hoa sen hay bông sen là biểu tượng của vẻ đẹp chuẩn mực, vẻ đẹp của cả hình dáng bề ngoài và chiều sâu nội tâm trong quan niệm thẩm mĩ của người Ấn Độ. Khuôn mặt bông sen, đôi mắt hình hoa sen… là những hình ảnh miêu tả quen thuộc về người phụ nữ trong văn học Ấn Độ. Miêu tả nàng bằng chi tiết ấy, dường như ngay từ đầu, người kể đã khẳng định vẻ đẹp toàn mĩ ở nàng. Và vẻ đẹp toàn mĩ ấy cũng đã được thử thách trong suốt chiều dài các sự kiện của câu chuyện. Song lần thử thách cuối cùng nghiệt ngã nhất nhưng đồng thời cũng vinh quang nhất là sự kiện Ra-ma buộc tội nàng và nàng bước lên giàn lửa. Chương 78 kể lại những diễn biến đầy kịch tính của sự kiện này. Đọc chương truyện cùng với những cảm thương trước nỗi oan uổng của nàng, ta còn có thể sẻ chia cùng nàng cái cảm giác bị ruồng bỏ, dù rằng đằng sau sự ruồng bỏ ấy là tình yêu. Và có lẽ, đó chính là dấu ấn bi kịch trong bộ sử thi tràn ngập cảm xúc ngợi ca này. Ta có thể hiểu tâm trạng của Ra-ma trong những lời buộc tội Xi-ta: ban đầu vì sợ tai tiếng, về sau là cảm giác nghi ngờ, ghen tuông. Trong lời nói có đầy đủ sự giận dữ, sự ghẻ lạnh, sự xúc phạm và lăng nhục của chàng vẫn có tình yêu. Nhưng chính tình yêu lại càng làm cho những lời nói của chàng trở nên độc ác. Chàng đã không chỉ buộc tội nàng, chàng đã xúc phạm và hơn thế, lăng nhục nàng bằng những lời lẽ nặng nề nhất. Và Xi-ta đã nghe, đã cảm nhận được tất cả những trạng thái tình cảm ấy ở chồng mình. Còn gì đau đớn hơn khi người thân yêu nhất của mình lại xúc phạm mình nặng nề đến thế? Trước lời buộc tội của chồng, nàng Xi-ta trái tim tan nát, đau đớn đến nghẹn thở, xấu hổ cho số kiếp…, nghĩa là nàng phải trải qua một loạt những cảm xúc của nỗi đau, nỗi tủi nhục, nàng phải tự minh oan cho mình. Và nàng quả thật thông minh khi lần lượt chứng minh những ngờ vực cùa Ra-ma là không căn cứ. Nàng lấy danh dự, rồi nguồn gốc xuất thân, lòng trung thành, tình yêu của mình để làm minh chứng. Nhưng, tất cả dường như đều không đủ, đều vô nghĩa trước cơn giận dữ cùa Ra-ma. Chàng ngồi đó, “trông khủng thiếp như thần chết vậy”. Tình huống sử thi, tính cách nhân vật sử thi hay tâm lí con người bình thường đả chi phối diễn biến của chuyện, chi phối tâm trạng của Ra-ma? Chàng Ra-ma cao quý khi ấy có khác gì những con người bình thường, tầm thường nhất? Thái độ của Ra-ma đã tạo nên hoàn cảnh bi thảm của Xi-ta buộc nàng phải chứng minh bằng hành động thuyết phục cuốỉ cùng: bước lên giàn lửa. Thần lửa A-nhi sẽ là minh chứng cuối cùng, đủ sức thuyết phục nỗi nghi ngờ khổng lồ trong tâm hồn của chồng nàng. Lúc này, cho dù lâm vào hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, ở nàng vẫn ngời lên một tình yêu thủy chung, trong sáng. Có lẽ, chính tình yêu ấy làm nên lòng dũng cảm của nàng. Nàng bước vào ngọn lửa trong sự kêu khóc vang trời của muôn loài, trong nỗi thương xót cực độ của những người chứng kiến. Thần lửa A-nhi đã khẳng định sự trong trắng của nàng: “Hỡi Ra-ma, Gia- na-ki của người đây. Nàng trong trắng. Nàng không phạm bất cứ tội lỗi nào, bằng lời nói, việc làm, hay ý nghĩ” (Dẫn theo SGK Ngữ văn 10, tập 1) Sự trong trắng của nàng là sự trong trắng tuyệt đích. Cho dù bị xúc phạm, bị lăng nhục nhưng tình cảm của nàng, sự thủy chung của nàng vẫn không hề thay đổi. vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp của một tấm gương mà bất cứ một người phụ nữ nào trên trái đất này đều có thể soi và tự hoàn thiện mình. Nàng trở về trong vòng tay của Ra-ma sau sự chứng minh khóc liệt nhất. Đó là sự khẳng định cao nhất phẩm chất của nàng của sử thi. Sức hấp dẫn của sử thi Ấn Độ một phần là bởi trong vẻ đẹp cùa huyền thoại vẫn lấp lánh những tính cách rất con người. Nhưng với Xi-ta, vẻ đẹp huyền thoại và vẻ đẹp con người dường như hoàn toàn thống nhất. Đó phải chăng là lời ngợi ca đẹp nhất về nàng. Tuy thế, cảnh tượng bi tráng về nàng, nỗi đau của nàng vẫn còn để lại những dấu ấn không phai trong lòng người đọc. Nàng là biểu tượng của vẻ đẹp nhưng cũng là nỗi đau xót mà một người phụ nữ có thể gặp trong cuộc đời mình. Nhưng hơn hết, tình yêu vẫn luôn là phép màu kì diệu làm cho thế giới mãi mãi tốt đẹp hơn. Xi-ta là biểu tượng của sự hoàn thiện, hoàn mĩ về cả hình thức, tâm hồn và tình yêu cao cả. Nhưng bi kịch của nàng cũng tiêu biểu cho những gì mà người phụ nữ có thể gặp phải trong thế giới này. Không khí trong lành và tình yêu thương vô bờ bến toát ra từ những trang sử thi Ra-ma-ya-na chính bởi vẻ đẹp thẳm sâu của nữ nhân vật: nàng Xi-ta.
Topic: Feelings about the character Sita in the excerpt of Rama's accusation Assignment Ramayana is an epic, the pride of Indians. Indian people believe that "as long as the river has not dried up and the rocks have not worn away, Ramayana will forever captivate people and save them from the cycle of sin." A Western researcher once described Rama-ya-na: "It is a work filled with melodious melodies, exuding a peaceful atmosphere and boundless love in difficult circumstances." Society is full of contradictions and conflicts" (Michelet). One of the embodiments of beauty that captivates people is the character Sita. She is not only an image that complements the magnificence of the hero Rama, but also a testament to the true and perfect beauty of Indian women, from external appearance to inner spiritual qualities. in. Her beauty is always described with the phrase "lotus face" - that is an appearance detail that is always repeated in the work. The lotus or lotus flower is a symbol of standard beauty, the beauty of both external appearance and inner depth in the Indian aesthetic concept. Lotus face, lotus-shaped eyes... are familiar depictions of women in Indian literature. Describing her with that detail, it seems that from the beginning, the narrator affirmed her perfect beauty. And that perfect beauty was also challenged throughout the events of the story. But the cruelest but at the same time most glorious final test was the event when Rama accused her and she stepped onto the pyre. Chapter 78 recounts the dramatic developments of this event. Reading the chapter along with our sympathy for her injustice, we can also share with her the feeling of being abandoned, even though behind that abandonment is love. And perhaps, that is the tragic mark in this epic filled with praising emotions. We can understand Rama's state of mind in his accusations against Sita: initially out of fear of scandal, later out of a feeling of suspicion and jealousy. In his words full of anger, estrangement, insult and humiliation, there is still love. But it was love that made his words even more cruel. He had not only accused her, he had insulted and, more than that, humiliated her with the harshest words. And Sita heard and felt all those emotional states in her husband. What could be more painful than when the person you love most insults you so severely? Faced with her husband's accusations, Sita's heart was broken, she was choking in pain, ashamed of her fate..., meaning she had to experience a series of emotions of pain and humiliation, she had to vindicate yourself. And she was really smart when she proved that Rama's doubts were unfounded. She uses her honor, her origin, her loyalty, her love as proof. But, everything seemed inadequate and meaningless before Rama's anger. He sat there, "looking as terrible as the angel of death". Do epic situations, epic characters' personalities or ordinary human psychology govern the story's development and Rama's mood? Was the noble Rama at that time any different from the most ordinary, ordinary people? Rama's attitude created Sita's tragic situation, forcing her to prove it with her final convincing act: stepping on the fire. The fire god An-hi will be the final proof, enough to convince the huge doubt in her husband's soul. At this moment, even though she was in that harsh situation, she still had a pure, loyal love. Perhaps, it is that love that makes her brave. She entered the fire in the resounding cries of all creatures, in the extreme grief of those who witnessed it. The fire god Anhi affirmed her innocence: “O Rama, this is your Janaki. She is pure. She did not commit any sin, by word, deed, or thought" (According to Literature Textbook 10, volume 1) Her purity is absolute purity. Even though she was insulted and humiliated, her feelings and loyalty remained unchanged. Her beauty is the beauty of a mirror that any woman on this earth can look at and perfect herself. She returned to Ramah's arms after the most bitter testimony. That is the epic's highest affirmation of her qualities. The appeal of Indian epics is partly because in the beauty of the legend, very human characteristics still sparkle. But with Sita, legendary beauty and human beauty seem completely unified. Is that the most beautiful praise about her? However, the tragic scene of her and her pain still leave indelible marks in the hearts of readers. She is a symbol of beauty but also of the pain that a woman can encounter in her life. But most of all, love is always a miracle that makes the world forever better. Sita is a symbol of perfection, perfection in form, soul and noble love. But her tragedy also represents what women can encounter in this world. The fresh air and boundless love emanate from the pages of the Ramayana epic because of the profound beauty of the female character: Sita.
Cảm nhận về nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắt nhất trong việc thể hiện quá trình đổi mới về tư duy nghệ thuật chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang cảm hứng thế sự đời thường.. “Chiếc thuyền ngoài xa “ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng này. Ở tác phẩm này ông thực sự thành công với nghệ thuật miêu tả nhân vật, ông đã xây dựng được các nhân vật, để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người độc và phùng chính là một nhân vật như thế. Phùng là một người quý trọng, say mê với nghề nhiếp ảnh của mình, anh đã được trưởng phòng giao cho nhiệm vụ chụp một bức ảnh về thuyền và biển trong sương mù vào giữa tháng bảy để in trong bộ lịch năm sau. Phùng đã tìm đến với biển miền Trung nơi chiến trường xưa. Anh đã bỏ cả tuần để tìm kiếm để suy nghĩ, rồi phục kích mãi mới chụp được một bức ảnh ưng ý, có thể xem là một cảnh đắt trời cho. Anh còn là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp. Trước vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật, tâm hồn của người nghệ sĩ như rung lên nhiều cảm xúc rất khó tả: “tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào…tôi tưởng như chính mình vừa tham gia vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Trong giờ phút thăng hoa cùng cái đẹp anh cảm nhận cái đẹp chính là đạo đức”. Sau khi hiểu ra câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện đã giúp cho Phùng hiểu ra được nhiều điều. Lúc đầu anh phẫn nộ nhưng lại trở nên thông cảm, chua xót cho số phận của người đàn bà. Anh đã hiểu được đằng sau vẻ đẹp lãng mạn của chiếc thuyền đó là sự thật đầy tăm tối, gai góc của cả cuộc đời. Người đàn ông độc ác kia cũng chỉ là một trong những nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh, người đàn bà thô kệch, xấu xí đầy cam chịu đó lại là người hiểu sâu sắc lẽ đời. Từ đây anh đã hiểu ra được môi quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không thể tách rời cuộc sống mà phải chính là cuộc sống, gắn bó mật thiết với cuộc sống. Phùng còn là một người nghệ sĩ khát khao đi tìm kiếm cái đẹp nhưng anh không vì thế mà quay lại sự thật của cuộc đời. Điều đáng quý nhất ở phùng đó là tấm lòng giành cho con người trong cuộc sống. Đọc truyện ngắn, ta thấy nổi bật lên ở Phùng đó là những nét đẹp của một nghệ sĩ đam mê cái đẹp, yêu tha thiết về sự công bằng. Qua câu chuyện của người đàn bà ở toàn án huyện, anh đã nhận ra được nhiều điều về hiện thực cuộc sống và từ đó có những phát hiện mới mẻ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nguồn: Bài văn hay
Feelings about the character Phung in the short story "The boat in the distance" by Nguyen Minh Chau Instruct Feelings about the character Phung in the short story "The boat in the distance" by Nguyen Minh Chau Nguyen Minh Chau is one of the most outstanding writers in expressing the process of innovation in artistic thinking, moving from romantic epic inspiration to everyday life inspiration. "The boat in the distance" is a story. in works that represent this trend. In this work, he really succeeded with the art of character description, he built the characters, leaving a deep impression in the readers' hearts, and Phung is just such a character. Phung is a respectful person who is passionate about his photography profession. He was assigned by the department head to take a photo of a boat and the sea in the fog in mid-July to print in next year's calendar. Phung went to the Central Coast where the old battlefield was. He spent a whole week searching and thinking, then ambushed him forever before taking a satisfactory photo, which can be considered a godsend. He is also an artist with a sensitive soul and a passionate love for beauty. Faced with the perfect beauty of the scene, the artist's soul seemed to vibrate with many indescribable emotions: "I became confused, something in my heart seemed to squeeze me... I thought I had just Participation has just discovered the truth of perfection, discovered a moment of purity of the soul. In the moment of sublimation with beauty, he feels that beauty is morality." After understanding the story of the woman at the district court, Phung understood many things. At first he was indignant but became sympathetic and bitter about the woman's fate. He understood that behind the romantic beauty of that boat was the dark, thorny truth of life. That cruel man is just one of the pitiful victims of circumstances, that rough, ugly woman full of resignation is someone who deeply understands the meaning of life. From here he understood the relationship between art and life. Art cannot be separated from life but must be life itself, closely linked to life. Phung is also an artist who aspires to seek beauty, but that doesn't stop him from returning to the truth of life. The most precious thing about Phung is his heart for the people in life. Reading the short story, we see that what stands out in Phung are the beautiful features of an artist who is passionate about beauty and passionately loves fairness. Through the story of the woman at the district court, he realized many things about the reality of life and from there made new discoveries about the relationship between art and life. Source: Good article
Cảm nhận về nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang của Đi-phô Hướng dẫn Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang của Đi-phô. Con người, mi là ai? Câu hỏi ấy giúp cho nhân loại tự ngắm mình trong những trường hợp biến dạng đến dường như không phải là con người. Rô-bin-xơn rơi vào một trong những nghịch cảnh không bình thường như thế. Hơn mười năm ròng rã sống trên hoang đảo, bị cắt đứt mọi liên lạc với con người, anh có còn là chàng thanh niên hai mươi bảy tuổi quê ở miền Y-oóc-sai nữa hay không? Thử thách vượt qua sức tưởng tượng này là một phép thử có hồi âm, một thông điệp không bi quan mà ngược lại. 1.Bản năng sống không cho phép con người bất lực khoanh tay. Dù thế nào, bằng cách nào cũng phải sống. Quyết tâm ấy, ý chí ấy có khả năng diệu kì biến không thành có. Nếu nghị lực là phẩm chất số một ở con người thì tại nơi đảo hoang này, ở Rô-bin-xơn nó luôn luôn toả sáng. Để định cư nơi đầu sóng ngọn gió, nơi góc bể chân trời xa lạ, những điều đầu tiên không thể không nghĩ đến: căn lều che nắng che mưa, cái ăn cái mặc hằng ngày. Căn lều chắc được dựng lên từ cây cối trong rừng bằng chiếc cưa nhỏ và chiếc rìu con mà lúc nào Rô-bin-xơn cũng đeo lủng lẳng bên người. Còn cái ăn chắc nhờ vào săn bắn và hái lượm, hình thái tự cung tự cấp sơ khai của người nguyên thuỷ cách đây hằng mấy chục ngàn năm nhờ khẩu súng trên vai cùng hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém. Nhưng, những điều đó không phải "kì cục". Cái dị hình, dị tướng làm cho người ta "hoảng sợ", hoặc "phá lên cười sằng sặc" là ở hình ảnh của một thứ "người rừng" hay con gấu cô đơn Bắc Cực. Cách ăn mặc của Rô-bin-xơn quả thật là như thế. Thông thường quần áo được may bằng vải vóc hay len dạ tuỳ thuộc vào thời tiết ấm lạnh mỗi mùa, nhưng căn cứ vào cách ăn mặc của anh, ta cứ ngỡ thời gian ở đây không luân chuyển. Trái đất hình như đã ngừng quay để chỉ còn có một mùa đông lạnh giá quanh năm. Thôi thì mũ, giày, quần áo từ đầu đến chân chỉ có một thứ vật liệu đặc sản: da dê. Sự dung hoà giữa cái có ích và cái đẹp không còn. Cái mũ chỉ là một thứ để đội đầu với hình thù vượt khỏi khái niệm quy ước "to tướng cao lêu đêu chẳng ra hình thù gì", dính liền với nó rất lôi thôi là một mảnh da rủ xuống phía sau "vừa để che nắng, vừa để chắn không cho mưa hắt vào cổ". Cả hai chức năng cần đến hai loại trang phục, nhưng Rô-bin-xơn chỉ cần đến một chiếc mũ đa năng. Cố tình làm chiếc mũ như thế, anh có một dụng ý riêng "ở miền khí hậu này, chẳng gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da thịt". Áo và quần cũng thế, nghĩa là không cần kiểu mốt. Chúng lại không ăn khớp với nhau. Hình như cái áo thì quá dài (khoảng lưng chừng hai bắp đùi) còn quần lại quá ngắn, quần là dạng "quần loe" nhưng chỉ đến đầu gối mà thôi. Lại nữa, vì quần được may bằng da một con dê đực già trông nó khó mà phân biệt được quần dài hay quần ngắn vì "lông dê thõng xuống mỗi bên đến giữa bắp chân". Đôi giày dưới chân thì cũng như chiếc mũ trên đầu, không biết gọi là gì cho đúng vì giày đi không có tất, gọi nó là đôi ủng thì có lẽ đúng hơn vì dây của cái gọi là giày ấy không xỏ lỗ nơi mu bàn chân mà lên tới bắp chân. Sự luộm thuộm không chỉ thế. Nó còn là đặc điểm trong cách trang bị trên người, lỉnh kỉnh như một cái nhà kho di động. Không đeo kiếm và dao găm như những nhà quý tộc thời Đôn Ki-hô-tê, về góc độ này mà quan sát, người ta có thể nhầm anh với người thợ sơn tràng với "lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc rìu con". Nhưng có lẽ anh là thợ săn với đầy đủ súng khoác trên vai và hai túi đựng thuốc súng và đạn ghém lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Cũng có thể nghĩ anh là một thổ dân da đỏ vào rừng trèo cây, đào củ với chiếc gùi đeo ở sau lưng. Biết vượt lên mọi thử thách, khó khăn, Rô-bin-xơn đã tồn tại, dù hình thức của sự tồn tại hoang dã, thô sơ gần như một con người ở vào thời tiển sử. 2.Nhưng, tất cả chỉ là cái dáng dấp bên ngoài, đậng sau những nét "hết sức kì cục" trên đây vẫn là một con người đang sống. Danh hiệu con người cao quý, con người viết hoa được anh trân trọng giữ gìn. Vì sao Rồ-bin-xơn rất chú ý đến bộ ria, một bộ râu ria nếu để nó thả sức mọc dài phải đến "hơn một gang tay"? Ý thức về con người, mà ở đây là một người đàn ông cường tráng và đầy nam tính đã nhắc nhở Rô-bin-xơn, không cho phép anh tuỳ tiện, buông thả rất dễ bị coi thường cho dù anh không có nhu cầu giao tiếp với ai. Và trên thực tế là ngoài anh ra, ở đây trên chốn đảo hoang không một bóng người. Thậm chí cái cách "xén tỉa" thật cẩn thận, kĩ càng như một người khó tính, vì bộ ria mà anh muốn có là "một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê". Với gương mặt đầy hãnh diện ấy, Rô-bin-xơn có thể tự hào cũng như nước da sạm màu nắng gió của vùng đất "khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo" vẫn trông được, nghĩa là "nó không đến nỗi đen cháy như các bạn có thể nghĩ". Đó là niểm vui duy nhất lúc này mà Rô-bin-xơn tự cảm nhận được. Ý nghĩ ấy khoẻ khoắn, trong,trẻo biết bao. Đó mới là chân dung con người đích thực. 3.Về nghệ thuật, đây là một bức chân dung tự hoạ, nó đảm bảo tính chân thực, khách quan. Đọc một đoạn văn không dài, ta vẫn có thể hình dung được một con người cụ thể đến từng chi tiết. Bức vẽ chân dung ấy gắn với hoàn cảnh sống đầy rẫy gian truân khi một mình sống trên hoang đảo. Nhưng, một mặt khác, do sự đồng cảm và tài năng của người kể chuyên, bức tranh chân dung ấy rất sinh động, như có linh hồn. Ấn tượng mà chúng ta có thể cảm nhận được là nhờ ở giọng văn, một giọng văn không đơn điệu, một chiều mà vô cùng đa dạng. Chẳng hạn như miếu tả cách ăn mặc và trang bị của Rô-bin-xơn có ý vị hài hước, cường điệu, bông phèng, nhưng đoạn văn miêu tả diện mạo, gương mặt lại rất nghiêm trang, trân trọng. Chính sự đa dạng về giọng điệu của trích đoạn trên góp phần tạo nên một tính cách nhân vật không hời hợt mà có chiều sâu, vừa sôi nổi vừa trầm tư, vừa có những nét trần tục vừa có những nét thiêng liêng như một vị thánh. Những hàm nghĩa đa tầng ấy, trong nhiều trường hợp được thể hiện bằng cách so sánh. Khi thì nhà văn so sánh bộ ria theo kiểu Hồi giáo của mình trước cái nhìn của người Ma-rốc và người Anh (người Ma-rốc không để ria theo kiểu người Thổ, còn bộ ria ấy sẽ làm cho mọi người khiếp sợ nếu ở nước Anh). Cũng là cái cười, nhưng có nhiều cung bậc. Người nhìn tranh (bức chân dung tự hoạ) rất có thể vì ngạc nhiên hay hoảng sợ mà "phá lên cười sằng sặc", còn người được vẽ trong tranh Rô-bin-xơn, thì chỉ "mỉm cười" khi đứng lặng mà ngắm nghía bản thân. Một đoạn văn ngắn nhưng thật là đặc sắc.
Feelings about the character Robinson in the excerpt "Robinson on a deserted island" by Dipho Instruct Topic: Express your feelings about the character Robinson on Dipho's deserted island. Human, who are you? That question helps humanity contemplate itself in cases of deformity that seem unhuman. Robinson fell into one of those unusual adversities. Having lived on a deserted island for more than ten years, cut off from all contact with humans, are you still a twenty-seven-year-old young man from Yorkshire? This challenge beyond imagination is a test with a response, a message that is not pessimistic but on the contrary. 1. Life instinct does not allow people to sit helplessly. No matter what, you have to live somehow. That determination, that will has the magical ability to turn nothing into something. If willpower is the number one quality in humans, then on this deserted island, in Robinson it always shines. To settle down at the edge of the wind and waves, in a strange corner of the horizon, the first things that cannot help but be thought of are: a tent to protect from the sun and rain, food and clothing to wear every day. The tent was probably built from trees in the forest using a small saw and a small ax that Robinson always carried around. As for the solid food thanks to hunting and gathering, the primitive form of self-sufficiency of primitive people tens of thousands of years ago thanks to the gun on the shoulder and two bags containing gunpowder and bullets. But, those things are not "weird". The deformity and strange appearance that makes people "frighten" or "laugh out loud" is in the image of a "forest man" or a lonely polar bear. Robinson's way of dressing is indeed like that. Usually clothes are made of fabric or wool depending on the warm and cold weather of each season, but based on the way he dresses, we think time here does not rotate. The earth seems to have stopped rotating so that there is only a cold winter all year round. Well, hats, shoes, and clothes from head to toe only have one specialty material: goat leather. The harmony between the useful and the beautiful no longer exists. The hat is just a thing to wear on the head with a shape that goes beyond the conventional concept of "big and lanky with no shape", attached to it very awkwardly is a piece of leather hanging down at the back "just to cover the head". sunlight, just to block the rain from hitting my neck." Both functions require two types of outfits, but Robinson only needs one multi-purpose hat. Deliberately making a hat like that, he had his own intention: "In this climate, there is nothing more harmful than rainwater seeping into your shirt and seeping into your skin." The shirt and pants are the same, meaning there is no need for fashion. They don't match each other. It seems like the shirt is too long (about halfway between the thighs) and the pants are too short. The pants are "flared pants" but only reach the knees. Furthermore, because the pants were sewn from the skin of an old male goat, it was difficult to distinguish between long pants and short pants because "the goat's hair hangs down on each side to the middle of the calf". The shoes on the feet are like the hat on the head. I don't know what to call them properly because the shoes don't have socks. It's probably more correct to call them boots because the laces of those so-called shoes don't have holes in the instep. legs that go up to the calves. Sloppiness is not just that. It is also a characteristic of the way people are equipped, as loose as a mobile warehouse. Not wearing swords and daggers like the noblemen of Don Quixote's time, from this angle, people could mistake him for a gardener with "dangling on one side a small saw, on the other" There's a small axe." But perhaps he is a hunter with a full gun on his shoulder and two bags containing gunpowder and bullets, always ready to shoot. One can also think of him as an Indian who goes into the forest to climb trees and dig tubers with a basket strapped to his back. Knowing how to overcome all challenges and difficulties, Robinson survived, despite the form of a wild, rudimentary existence almost like a human being in prehistoric times. 2.But, it's all just the outside appearance, behind the "extremely strange" features above is still a living person. The title of noble person, capitalized person, is respectfully preserved by him. Why does Robinson pay so much attention to his mustache, which if allowed to grow, can grow to "more than a span" long? The awareness of humanity, in this case a strong and masculine man, reminded Robinson not to allow him to be arbitrary or indulgent, easily being looked down upon even if he had no need. communicate with anyone. And in fact, besides him, there is no one here on this deserted island. Even the way he "trimmed" was very careful and thorough like a fastidious person, because the mustache he wanted was "a pair of huge Muslim-style mustaches like the mustaches of some Turkish guys I met in Xa- pear". With that proud face, Robinson can be proud that the sun-drenched skin of the land "about nine or ten degrees latitude of the equator" can still be seen, meaning "it doesn't come". as black as you might think". That was the only joy that Robinson felt right now. How strong, clear, and fresh that thought is. That is a true human portrait. 3. Regarding art, this is a self-portrait, it ensures authenticity and objectivity. Reading a short passage, we can still imagine a specific person down to every detail. That portrait painting is associated with the life situation full of hardships when living alone on a deserted island. But, on the other hand, due to the sympathy and talent of the expert narrator, that portrait is very vivid, as if it has a soul. The impression we can feel is thanks to the literary voice, a literary voice that is not monotonous, one-sided but extremely diverse. For example, the description of Robinson's way of dressing and equipment is humorous, exaggerated, and frivolous, but the passage describing his appearance and face is very serious and respectful. It is the diversity of tones in the above excerpt that contributes to creating a character that is not superficial but has depth, both vibrant and contemplative, with both worldly and sacred features like a god. St. These multi-layered meanings, in many cases, are expressed by comparison. At one point, the writer compared his Muslim-style mustache in the eyes of Moroccans and British people (Moroccans do not wear Turkish-style mustaches, and that mustache would make people afraid if in England). It's also a smile, but it has many levels. The person looking at the painting (self-portrait) most likely "bursts out laughing" out of surprise or panic, while the person painted in the Robinson painting only "smiles" while standing still. look at yourself. A short but truly remarkable passage.
Cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Bài làm Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách. Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa: Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi. Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương. Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ. Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều. Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn: Buồn trông của bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Feelings about the character Thuy Kieu in the excerpt "Kieu at Ngung Bich Floor" Instruct Feelings about the character Thuy Kieu in the excerpt "Kieu at Ngung Bich Floor" Assignment Thuy Kieu is Nguyen Du's ideal character with complete talent and beauty, but Kieu's life is long and troubled. Through the character Thuy Kieu, the author wants to convey the strongest aspirations for life and love. During the years of self-torture, the scene of a foreigner living in the Ngung Bich building makes the reader teary-eyed. Nguyen Du successfully described Thuy Kieu's appearance and psychology when living in the green house through the paragraph "Kieu in Ngung Bich floor". Thuy Kieu's life after falling into the hands of Ma Giam Sinh was filled with days of longing and tears. Thuy Kieu was trampled and crushed without mercy. The people who bought meat and sold people did everything they could to get Kieu, and then to torture Kieu. Thuy Kieu intended to seek death to free herself, but Tu Ba found out and took Kieu to live at Ngung Bich floor - a cold, human place. In essence, this action of hers was to put Kieu under house arrest, gradually forcing Kieu to receive guests. The scene of Ngung Bich pavilion makes readers feel sad: Yellow sand dunes, pink bushes, miles there. The phrase "Bat Ngat Vinh" evokes the infinity of space and nature. Where is the shore, where is the stopping point, it seems that there is no place. A scene of loneliness and desolation that is chilling. Thuy Kieu looked far away and only saw mountains and sand dunes flying into the sky. She only knows how to make friends with inanimate, inanimate, gloomy and desolate landscapes. With just a few details, Nguyen Du has successfully portrayed the lonely scene of Ngung Bich pavilion. In this scene, Thuy Kieu still misses the old place and the old people. That nostalgia is painful and painful: Imagine the person under the bronze cup Hopeful news, but waiting for tomorrow In a lonely corner of the sky The son wash never fade Even in such a difficult situation, Thuy Kieu's heart still misses someone when she thinks back to the good memories she had. Kieu felt sad when she thought of Kim Trong still waiting for news from her. Then I looked at myself and felt dirty and tarnished. Thuy Kieu was unable to keep her promise to Kim. She insisted that "the lipstick will never fade away", what she endured, what the bad guys did to her, how can Mr. Kim ever understand, when will it be possible to wash away? A voice full of pain and sadness. Thinking about her sad lover, Thuy Kieu feels even more sad when thinking about her parents: Pity people lean on tomorrow's door The fan is warm and cold while someone waits San Lai is a few miles away from sun and rain Sometimes sitting on the four legs is enough for a person to hug Thuy Kieu feels sad when she thinks about her parents getting old and weak, withering away day by day. She was worried about whether there was anyone to take care of her parents. She regretted and felt bitter when she could not take care of her elderly mother. A filial daughter, but she had to quietly remember and quietly wait for the day of reunion. Thuy Kieu - a girl who lives in filth, but filial piety and love are still deeply in Kieu's heart. People are already sad and sad, looking at the scene seems even more sad: Sad look of the tank this afternoon Whose boat glimpses a sad scene in the distance Sad to see the water just falling Where is the flowers drifted The verses are bitter, cutting into the hearts of readers and the pain that Kieu had to go through. "Afternoon" is the time when sadness keeps rushing back, showing how much I miss you but I have to stay silent. The phrase "Sadly Looks" seems anxious, like waiting, and like holding back in my heart. Thuy Kieu compares herself to a "floating flower" with no destination, no destination, no idea where to go. Foot blue clouds green earth Sad to see the wind rolling over the rapids The sound of waves roaring around the seats A picture with only "sad" colors, tragically sad and painfully sad. It seems that sad people are never happy. The color of grass, clouds, and water are all "green", but not fresh green, but a creepy, hazy, and dark green. Each verse, each image portrays a chaotic mood amidst a gloomy, numbing scene that makes the reader unable to hold back their emotions. Nguyen Du with his skillful strokes has painted a beautiful picture, a mournful beauty of Thuy Kieu's life at Ngung Bich floor.
Cảm nhận về nhân vật Tnú trong Rừng Xà Nu Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Tnú trong Rừng Xà Nu Bài làm Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người đọc có ấn tượng mạnh mẽ song trùng là vẻ đẹp của cánh rừng và những người anh hùng trên vùng đất Tây Nguyên huyền thoại. Rừng xà nu được khắc họa từ đầu đến cuối tác phẩm vừa mang nét tự nhiên, vừa tượng cho biết bao tính cách của con người. Trong đó, nổi bật là nhân vật Tnu. Tnu cũng xuất hiện ngay từ đầu rồi đi suốt văn bản, song hành, đầy biến động, để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc như rừng xà nu vậy. Một rừng cây – một đời người. Xà nu – loại cây thông chỉ có ở núi rừng nơi đây không chỉ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng” mà còn góp phần sinh ra, nuôi lớn, bảo vệ và hóa thân vào tinh thần, ý chí, vào sức mạnh anh hùng của mỗi người dân, và đặc biệt là Tnu. Tnu là người con của dân làng cũng là người con của rừng xà nu. Tnu mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Nhận xét về Tnu, cụ Mết nói “Nó là người Stra mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch trong như nước suối làng ta”. Như vậy, khi còn nhỏ, số phận Tnu đã bất hạnh. Số phận bất hạnh nhưng tâm hồn anh trong sáng, dịu dàng vì tiếp nhận mạch nguồn của dòng suối quê hương. Từ đó, Tnu lớn lên trong tình thương yêu của dân làng, trong sự chở che của rừng núi. Cũng từ đó, Tnu tích hợp được trong trái tim, trong cõi lòng mình biết bao tình cảm yêu thương. Với cánh rừng xà nu, từ đơn vị trở về làng, Tnu đứng hồi lâu ngắm nhìn, thấy hàng vạn cây xà nu “không cây nào không bị bom đạn kẻ thù bắn phá”. Rồi anh phát hiện ra vẻ đẹp của rừng cây, so sánh cây xà nu ở đất quê mình với loài cây khác, nghiệm ra rằng “rừng xa nu sinh sôi nảy nở khỏe hơn, ham ánh sáng mặt trời hơn”. Tnu như nhập hồn vào rừng cây, cảm nhận rừng xà nu như một sinh thể kì diệu, bất khuất, bất diệt. Thăm làng chỉ được một đêm, sáng hôm sau trước khi lên đường, Tnu lại đứng lặng hồi lâu ngắm rừng xà nu, lòng bang khuâng, bịn rịn như đối với người thân. Với Tnu, rừng cây, mảnh đất quê hương gắn bó bởi biết bao kỉ niệm lúc êm đềm, khi dữ dội, rừng xà nu là một phần máu thịt của anh. Với người dân làng Xô Man, Tnu coi như những người ruột thịt. Gặp cụ Mết sau ba năm xa cách, Tnu bồi hồi sung sướng “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa…ngực căng như một cây xà nu lớn”. Tình yêu quê hương chan hòa trog tình thương mến những con người của quê hương, tình làng nghĩa xóm trong tâm hồn Tnu mặn mà, sâu nặng như tình cảm cha me, con cái trong một gia đình. Với vợ con, Tnu đặc biệt gắn bó, yêu thương. Anh xé tấm đồ của mình làm áo choàng ủ ấm cho con. Khi vợ con bị bọn ác ôn đánh đập, Tnu không sợ chết mà lao vào giữa bọn dã thú che chở và cứu vợ con “Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Khi đối diện với những kẻ cướp nước và bán nước, Tnu là hiện thân của một cây xà nu cường tráng, của rừng xà nu hiên ngang, bất khuất. Lần thứ nhất bị giặc bắt, giam cầm, tra khảo suốt ba năm, Tnu vẫn không khai, vẫn giữ trọn phẩm chất cách mạng. Rồi anh vượt ngục trở về làng. Vừa về làng, Tnu đã tham gia lập đội xung kích, tự nguyện đi bộ ba ngày lên núi Ngọc Linh gùi đá mài về mài gươm giáo, chiến đấu bảo vệ xóm làng. Trong tâm hồn anh, luôn cháy bỏng ngọn lửa cách mạng, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Lần thứ hai, khi xông ra cứu vợ con, Tnu lại bị bắt. Lần này anh phải đối mặt với bọn ác ôn dã thú, đối mặt với cái chết dữ dằn. Mười ngón tay anh bị đốt bốc lửa rừng rực. Kẻ thù biến nhựa và cây xà nu thân thương thành ngọn lửa bạo tàn thiêu đốt anh. Nỗi đau thể xác biến thành lòng căm thù. Ngọn lửa mà bọn giặc ác ôn thiêu đốt anh trở thành ngọn lửa căm thù nung đỏ trái tim anh, thành lửa cách mạng cháy sáng trong tâm hồn anh. Không thấy ngọn lửa ở ngón tay, Tnu nghe tiếng lửa trong lồng ngực. Nhờ đó, Tnu vượt qua giây phút yếu mềm. Anh không kêu van mà nhớ tới anh Quyết, nhớ tới cách mạng để tự động viên mình chiến thắng chính mình. Trong giây phút ấy, Tnu thực sự là hóa thân của cây xà nu cường tráng, đúng như cụ Mết nói “Không gì mạnh như cây xà nu đất ta”. Với sức mạnh của người chiến sĩ cách mạng và sức sống bất diệt của cây xà nu, Tnu đã nghiến răng chịu đựng mọi đau đớn, bình tĩnh trước dã tâm tăm tối của kẻ thù. Anh bỗng nghe tiếng chân ai rầm rập bên nhà ưng. Tự hỏi “Ai thế?”, vào giây phút xuất thần, Tnu hiểu rằng, mình cần phải làm gì. Anh thét lên một tiếng. Đó là tiếng kêu trả thù, tiếng gọi chiến đấu. Tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét mạnh mẽ hơn. Tiếng “Giết!”, tiếng chân người, tiếng hò reo chiến đấu của dân làng. Vậy là từ thế bị động, bị dồn vào bi kịch, người con kiên cường của Xô Man đã chuyển thành chủ động, khích lệ, động viên cả làng vùng lên tiêu diệt kẻ thù, chuyển hóa bi kịch riêng – tay không trước bày sói có vũ khí đầy đủ – để tạo thành sức mạnh tổng hợp – gươm giáo, lòng căm thù, dũng khí của con người và tiềm tang của mảnh đất,…Nghe tiếng thét của Tnu, cụ Mết và đội du kích từ trong rừng xà nu ào xuống làng. Nhựa xà nu tẩm vào những ngọn đuốc, gỗ xà nu biến thành cây gậy, cây rựa, mũi giáo tấn công kẻ địch. Mười tên giặc ác ôn bị giết, Tnu được cứu sống, Tnu đã chiến thắng, chiến thắng bằng lòng trung thành, bằng ý chí kiên cường, tư thế hiên ngang, bất khuất, sự bình tĩnh, tỉnh táo của bản thân anh, bằng sức sống của rừng xà nu, bằng tinh thần chiến đấu quả cảm, có tổ chức của cụ Mết, của dân làng Xô Man,…
Feelings about the character Tnú in Xa Nu Forest Instruct Feelings about the character Tnú in Xa Nu Forest Assignment Reading the short story The Snake Forest, the reader has a strong impression of the beauty of the forest and the heroes of the legendary Central Highlands. The sandalwood forest depicted from beginning to end of the work is both natural and symbolic of many human personalities. Among them, the character Tnu stands out. Tnu also appears from the beginning and goes throughout the text, parallel, full of fluctuations, leaving a deep impression in the reader's heart like a forest of snakes. A forest of trees – a human life. Xa nu - a type of pine tree found only in the mountains and forests here, not only "stretches out its large chest to protect the villagers" but also contributes to giving birth, raising, protecting and incarnating the spirit and will. , on the heroic strength of each people, and especially Tnu. Tnu is a son of the villagers and a son of the snake forest. Tnu lost his parents at a young age. Commenting on Tnu, Mr. Met said, "He is from Stra. His parents died early, so this Xo barbarian village raised him. His life is miserable, but his belly is as clean and clear as the spring water in our village." Thus, as a child, Tnu's fate was unfortunate. Although his fate was unfortunate, his soul was pure and gentle because it accepted the source of his homeland's stream. From then on, Tnu grew up in the love of the villagers and in the protection of the mountains and forests. Since then, Tnu has integrated so much love and affection into his heart and soul. With the snakehead forest, returning from the unit to the village, Tnu stood for a long time looking and saw tens of thousands of snakehead trees, "not a single tree was not bombarded by the enemy." Then he discovered the beauty of the forest, compared the snakehead tree in his hometown with other tree species, and realized that "the greenwood forest grows stronger and craves sunlight more." Tnu seemed to enter his soul into the forest, feeling the snake forest as a magical, indomitable, immortal being. Visiting the village for only one night, the next morning before leaving, Tnu stood silently for a long time looking at the snakewood forest, his heart was filled with sadness, as if he were a relative. For Tnu, the forest, the homeland are attached by so many memories, sometimes peaceful, sometimes fierce, the snake forest is a part of his flesh and blood. To the villagers of Xo Man and Tnu, they are considered blood relatives. Meeting Mr. Met after three years of separation, Tnu happily said, "The old man is still as handsome as before...his chest is as tight as a big oak tree." The love for the homeland is mingled in the love for the people of the homeland, the love for the neighbors in Tnu's soul is as warm and deep as the love for parents and children in a family. With his wife and children, Tnu is especially attached and loving. He tore up his clothes to make a warm cloak for his child. When his wife and children were beaten by villains, Tnu was not afraid of death but rushed into the midst of the wild beasts to protect and save his wife and children. "His arms were as wide as two strong iron wings, holding Mai and her mother tightly." When facing country robbers and traitors, Tnu is the embodiment of a strong and strong snake tree, of a proud and indomitable snake forest. The first time he was captured, imprisoned, and interrogated for three years by the enemy, Tnu still did not confess, still maintaining his revolutionary qualities. Then he escaped from prison and returned to the village. As soon as he returned to the village, Tnu joined the formation of a shock team, voluntarily walking for three days up Ngoc Linh mountain to carry grinding stones to sharpen his sword and spear, fighting to protect the village. In his soul, there was always a burning revolutionary fire, determined to destroy the enemy. The second time, when he rushed out to save his wife and children, Tnu was arrested again. This time he had to face evil beasts and face a violent death. Ten of his fingers were burned with blazing fire. The enemy turned the resin and the beloved snake plant into a brutal fire that burned him. Physical pain turns into hatred. The fire that the villains burned him became a fire of hatred that burned his heart red, a revolutionary fire burning brightly in his soul. Not seeing the fire in his fingers, Tnu heard the sound of fire in his chest. Thanks to that, Tnu overcame the moment of weakness. He did not cry out, but remembered Quyet, remembered the revolution to encourage himself to win over himself. In that moment, Tnu was truly the reincarnation of a strong snakehead tree, just as Mr. Met said, "Nothing is as strong as the snakehead tree of our land." With the strength of a revolutionary soldier and the immortal vitality of the snake plant, Tnu gritted his teeth and endured all the pain, remaining calm in the face of the enemy's dark intentions. He suddenly heard someone's footsteps pounding next to the house. Wondering "Who is that?", at the moment of ecstasy, Tnu understood what he needed to do. He let out a scream. It was a cry for revenge, a call to fight. His scream suddenly echoed into more powerful screams. The sound of "Kill!", the sound of human footsteps, the fighting cries of the villagers. So from a passive position, being forced into tragedy, the resilient son of Xo Man turned into proactive, encouraging and encouraging the whole village to rise up to destroy the enemy, transforming his own tragedy - empty-handed before showing off. The wolf has all the weapons - to form a synergy - sword, hatred, human courage and the potential of the land,... Hear the screams of Tnu, Mr. Met and the guerilla team from the forest Snakes rushed down to the village. The sap soaked into the torches, the wood turned into sticks, machetes, and spears to attack the enemy. Ten evil enemies were killed, Tnu was saved, Tnu won, won with his loyalty, with his strong will, his brave and indomitable posture, his calmness and alertness. with the vitality of the snake forest, with the brave and organized fighting spirit of Mr. Met, of the villagers of Xo Man,...
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu Bài làm Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè 1965 khi đến quối Mỹ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Câu chuyện trở về những năm 60 nói về sự kiện đồng khởi của nhân dân Tây Nguyên với chân lý “chúng nó cầm súng, ta phải cầm giáo mác”. Việc nhắc lại sự kiện xảy ra trước 1965 có ý nghĩa cảnh tỉnh và vạch ra con đường duy nhất: phải cầm vũ khí để chống lại đội quân viễn chinh của Mỹ. Rừng xà nu là bản anh hùng ca mang đậm lính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là Tnú. Cảm nhận về nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo giàu chất sử thi. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra Tnú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc. Đời Tnú sống chết với cộng đồng, gắn bó với những sự kiện có ý nghĩa nhất của cộng đồng. Anh là một cây xà nu trong muôn vàn những cây xà nu khác nằm dưới tầm đại bác của giặc. Không cây nào không bị thương vì thế mà số phận của cây xà nu – Tnú cũng phải chịu những thương tích do giặc gây ra. Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù. Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù: “ Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị bắn chết, cô bé Dít đã trở thành bia cho bọn giặc nhắm bắn vui cười… Tnú cũng có số phận như cộng đồng nhưng nghiệt ngã và cay đắng hơn, tiêu biểu hơn: Anh chứng kiến cảnh giặc dùng roi sắt quật cho vợ con mình chết, và chính mình khi lao vào cứu vợ con cũng bị giặc tẩm lửa xà nu vào mười đầu ngón tay… rồi Tnú cũng lên đường tham gia lực lượng cũng như cộng đồng người Xô Man của anh nhất tề cầm vũ khí và xây dựng làng chiến đấu. Nhân vật Tnú có những nét tính cách tiêu biểu sau: Trước hết anh là một thanh niên gan góc, dũng cảm kiên cường có lính kỷ luật cao. Lúc nhỏ anh đã vào rừng nuôi cán bộ dù biết rằng bà Nhan, anh Xút đã bị bắt sát hại để cảnh cáo. Tnú đi liên lạc “thường xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt”, học chữ chậm thua Mai, Tnú đã lấy “đá đập vào đầu máu chảy ròng ròng”. Bị giặc bắt tra khảo anh đã quyết không khai, anh đã chỉ vào bụng mình – nói “Cộng sản ở đây”. Ghê gớm nhất đó là khi giặc đốt mười đầu ngón tay, mình vẫn cắn răng không kêu van. Hành động xông ra cứu vợ con với hai bàn tay trắng phần nào cũng biểu hiện được sự gan góc bất chấp cái chết của Tnú. Câu chuyện về Tnú được cụ Mết kể trong một đêm nhân sự kiện anh nhớ làng xin đơn vị về nghỉ phép trong một ngày, sáng mai Tnú đã lên đường, điều này chứng tỏ anh chấp hành rất đúng kỷ luật của đơn vị, tôn trọng kỷ luật của làng, ý chí kiên cường đã chiến thắng được tình cảm yếu mềm của anh. Tính cách thứ hai của Tnú đó là con người giàu ý chí biết vượt lên bi kịch cá nhân để sống đẹp. Từ nhỏ Tnú đã đi nuôi cán bộ, vượt ngục về anh lại cùng cộng đồng mình mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu dữ dội ác liệt hơn trong nay mai. Không gì đau đớn hơn có người vợ hiền thục có đứa con bụ bẫm, thế mà Tnú lại chứng kiến những đòn roi man rợ cùng với cái chết của vợ con. Không những thế, Tnú còn là nạn nhân của bọn giặc man rợ. Mười ngón tay tàn tật nhưng anh đã tình nguyện đi bộ đội chủ lực để giết được nhiều giặc hơn. Nét tính cách thứ ba của Tnú là con người giàu tình nặng nghĩa. Anh gắn bó với cách mạng, hết lòng với anh Quyết, nghe theo lời anh Quyết năng học hành để làm cán bộ. Đứa con vừa mới sinh, Tnú đã xé tấm chăn của mình làm địu. Dù không cứu được vợ con n nhưng anh xông ra trong tuyệt vọng để giặc bắt là một biểu yêu thương vợ con hết mức. Tnú mồ côi cha mẹ lại mất vợ con cho nên buôn làng, cộng đồng đối với giờ đây là tất cả. Được về phép anh bồi hồi xao xuyến khi nghe một tiếng chày giã gạo khi nhận ra từng mặt người, từng sự thay đổi của quê hương. Nói đến Tnú người ta thường nghĩ về chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa tay Tnú. Đó là bàn tay đã từng cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay dắt Mai làm nương rẫy, bàn tay chỉ vào bụng mình nói đó là cộng sản, bàn tay sau vượt ngục đã run run nắm lấy tay Mai ở đầu con nước lớn của làng, bàn tay mài rìu, rựa, giáo mác… và rồi cũng bàn tay ấy đã ngắt những trái vả. Hai cánh rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh đã ôm chặt lấy mẹ con Mai lần cuối, rồi mười đầu ngón tay của Tnú bốc lửa. Bàn tay thương tật ấy đã tham gia trận đánh đã giết những thằng chỉ huy đồn giặc, bàn tay ấy lại cầm đèn pin soi rõ mặt xác quân thù (bởi Tnú luôn coi mỗi cái xác thù mà anh giết là một thằng Dục). Rừng xà nu dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt Nam mộ: thời điểm lịch sử trọng đại: Chúng muốn đốt tu thành tro bụi Ta hỏa vàng nhân phẩm lương tâm Chúng muốn ta bán mình ô nhục Ta làm sen thơm ngát giữa đầm. (Tố Hữu)
Topic: Feelings about the character Tnú in the short story The Snake Forest Assignment The Snake Forest was written by Nguyen Trung Thanh in the summer of 1965 when the United States began pouring troops into the South of our country. The story back in the 60s talks about the co-emergence of the people of the Central Highlands with the truth "they hold guns, we must hold spears". Recalling the events that occurred before 1965 is meant to be a wake-up call and point out the only path: to take up arms to fight the American expeditionary force. The Serpent Forest is an epic poem imbued with epic soldiers and romantic inspiration about the fight of the people of the Central Highlands and the Vietnamese people in the holy war against American imperialism. The most typical character in the work is Tnú. Feelings about the character Tnú in the short story The Snake Forest This is a heroic character, a glorious son of Xo Man village, portrayed by Nguyen Trung Thanh with unique lines rich in epic qualities. The epic nature is most clearly shown in the fact that life seems to have its own destiny, but in fact Tnú represents the destiny and the upward path of the nation. Tnú lives and dies with the community, attached to the most meaningful events of the community. He is a snake among countless other snakes under the enemy's cannon range. No tree is uninjured, so the fate of the snakehead tree - Tnú is also to suffer injuries caused by the enemy. How many people in Xo Man village have become victims of enemy crimes? How many people in Xo Man village have become victims of enemy crimes: "Mrs. Nhan was beheaded, Mr. Xut was shot to death, little girl Dit became a target for the enemy to shoot and laugh at... Tnú also had numbers." His fate was similar to that of the community, but it was harsher and more bitter, more typical: He witnessed the enemy using iron whips to beat his wife and children to death, and when he rushed in to save his wife and children, he was also doused in snake fire on ten heads by the enemy. finger... then Tnú also set out to join the force as well as his Soviet Man community united in taking up arms and building a fighting village. The character Tnú has the following typical personality traits: First of all, he is a brave, courageous and resilient young man with a highly disciplined soldier. When he was young, he went to the forest to raise cadres even though he knew that Mrs. Nhan and Mr. Xut had been captured and murdered as a warning. Tnú "often tore through the forest to go, chose strong waterfalls to cross", learning literacy was slower than Mai, Tnú "hit his head with a rock and blood flowed". When the enemy arrested and interrogated him, he decided not to confess. He pointed to his stomach and said, "Communists are here." The most terrible thing was when the enemy burned the tips of my ten fingers, I still gritted my teeth and didn't cry out. The act of rushing out to save his wife and children with empty hands also partly shows Tnú's courage despite death. The story about Tnú was told by Mr. Met one night when he missed his village and asked his unit to go home for a day off. The next morning Tnú was on his way, this proves that he strictly obeyed the unit's discipline and respect. Respecting the village's discipline, his strong will overcame his weak feelings. Tnú's second personality is a strong-willed person who knows how to overcome personal tragedy to live beautifully. From a young age, Tnú went to work raising cadres. When he escaped from prison, he joined his community in sharpening his spears to prepare for more fierce battles in the near future. There is nothing more painful than having a virtuous wife with a plump child, yet Tnú witnessed the barbaric beatings along with the death of his wife and children. Not only that, Tnú was also a victim of barbarian invaders. Ten fingers were disabled, but he volunteered to join the main force to kill more enemies. Tnú's third personality trait is that he is a person rich in love and gratitude. He was attached to the revolution, wholeheartedly devoted to Mr. Quyet, followed Mr. Quyet's words and diligently studied to become a cadre. Tnú had just given birth to her baby's blanket and used it as a sling. Even though he couldn't save his wife and children, he rushed out in desperation to be captured by the enemy as a sign of his utmost love for his wife and children. Tnú lost his parents and lost his wife and children, so the village and community are everything now. When he returned home, he felt excited when he heard the sound of a pestle pounding rice and recognized every human face and every change in his homeland. When talking about Tnú, people often think about meaningful artistic details of Tnú's hand. That was the hand that used to hold a rock and hit me on the head, the hand that led Mai to work in the fields, the hand that pointed at my stomach and said it was a communist, the hand that after escaping from prison trembled and held Mai's hand at the head of the big river. of the village, the hand that sharpens axes, machetes, spears... and then that same hand that plucks figs. His two wings, as wide as two strong ironwood wings, hugged Mai and her child tightly for the last time, then Tnú's ten fingertips caught fire. That injured hand participated in the battle and killed the enemy station commanders, and that hand held a flashlight to clearly illuminate the faces of enemy corpses (because Tnú always considered each enemy corpse he killed to be a Duc). The Serpentine forest is rich in epic sounds, it has created a heroic historical figure. Tnú's tragic life is the life of the Vietnamese people: an important historical moment: They want to burn it to ashes I burn gold with dignity and conscience They want us to sell ourselves in disgrace I make fragrant lotus in the middle of the lagoon. (To Huu)
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ BÀI LÀM Chuyện người con gái Nam Xương đã làm cảm động bao lòng người bởi số phận cay đắng và oan nghiệt của người thiếu phụ trẻ mang tên Vũ Nương. Nàng trong trắng, thùy mị nết na nhưng vì tính đa nghi, và vì chế độ trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến cũ mà nàng đã phải tự kết liễu cuộc đời để chứng minh cho tấm lòng trong sạch của mình. Qua đó, nhà văn Nguyễn Dữ muốn bày tỏ sự thương cảm, xót xa với Vũ Nương, với những người phụ nữ có số phận hẩm hiu giống nàng. Ông đã dùng cách dẫn dắt câu chuyện rất tài tình kết hợp với những yếu tố ly kỳ hấp dẫn khiến người đọc bị cuốn hút và đồng cảm với cuộc đời đầy bi kịch của người con gái Nam Xương trong chuyện. Nguyễn Dữ đã xây dựng nên hình ảnh một người con gái, một người phụ nữ, một người vợ có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp: Công – dung – ngôn hạnh. Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, vốn tính thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Chính vì vậy nàng được Trương Sinh mến và xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Như vậy, dù đẹp cả người lẫn nết, nàng vẫn không có quyền được tự mình quyết định hạnh phúc riêng. Và dù Trương Sinh – chồng nàng là kẻ rất đa nghi, đối với vợ cũng phòng ngừa quá mức, Vũ Nương vẫn luôn giữ gìn đức hạnh, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Từ một người con gái ngoan ngoãn, nay Vũ Nương đã trở thành một người vợ hiền chu đáo và toàn diện. Thật hiếm có người nào được như nàng. Bởi thế, theo quan niệm của nhiều người, vợ chồng có thuận hòa hay không là do ở người vợ. Dù Trương Sinh có tính đa nghi nhưng với tấm lòng khiết tịnh và đức tính dịu dàng, ngoan hiền, Vũ Nương đã luôn gìn giữ được mái ấm gia đình. Khoảng thời gian ở nhà cùng mẹ chồng, Vũ Nương cũng đã sống hết lòng với mẹ, không khác gì ruột thịt của mình. Lúc bà ốm, “nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Một mình Vũ Nương vừa chăm con nhỏ vừa đỡ đần mẹ già yếu bệnh tật. Nhưng chưa bao giờ nàng kêu thản nửa lời. Một mình Vũ Nương cùng lúc đảm nhiệm cả bốn trọng trách cao cả: một người mẹ sớm nắng chiều hôm chăm sóc cho đứa con thơ, một người cha vỗ về lúc con quấy khóc, một người con dâu hiếu thảo hết lòng với mẹ chồng, đồng thời nàng cũng thay chồng làm một người con trai đỡ đần mẹ già yếu những lúc buồn lòng tủi phận. Dù vất vả, Vũ Nương đã làm rất tốt. Đến cả mẹ chồng cũng động lòng trước con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. “Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Có được một người phụ nữ như Vũ Nương trong nhà quả là phúc đức lớn. Nhưng sau tất cả, nào hiếu thảo, nào đức hạnh… những tưởng nàng sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi Trương Sinh trở về bình yên. Tai họa đã ập xuống người thiếu phụ hiền lành phúc đức và đáng thương. Trương Sinh khi nghe lời con trai ngây ngô nói trước đây đêm nào cũng có một người đàn ông đến với mẹ. Vốn tính đa nghi lại hay ghen tuông, dĩ nhiên Trương Sinh sẽ làm ầm lên với vợ, một mực không cho nàng được giải thích. Mọi niềm tin về một người vợ hiền thảo, thủy chung giờ đã tan biến trong giây phút. Khổ một nỗi là Trương Sinh nhất quyết không chịu nói ra là ai là người đã nói với chàng rằng Vũ Nương ở nhà hư hỏng. Về phía Vũ Nương, nàng giải thích nhưng không được nghe, không được thấu hiểu. Đến bước đường cùng, nàng phải tìm đến cái chết để mong chứng minh được sự trong sạch của mình. “Đoạn rồi, nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trê xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết”. Như vậy, người thiếu phụ trẻ măng đã phải tìm đến cái chết một cách oan ức và đau thương. Cái chết của nàng do chính người chồng mà nàng đã hết lòng thương nhớ gây nên. Hơn hết, là do sự bất công của chế độ phong kiến cũ đã đẩy thân phận người phụ nữ xuống dưới cùng của xã hội. Họ dù có tốt đẹp đến mấy cũng không được công nhận, không được ai bênh vực, chở che. Thế nên, Vũ Nương chỉ còn một cách duy nhất để chứng mình được tấm lòng trong sạch của mình là cái chết. Qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã vừa lên án chế độ xã hội phong kiến xưa đã đẩy người phụ nữ vào hoàn cảnh bất hạnh, đau thương, không cho họ có quyền được sống, được tự do. Ngược lại, người đàn ông luôn cậy quyền mà đàn áp phụ nữ. Mặt khác ông cũng ca ngợi những phẩm chất đạo đức cao quý của người phụ nữ truyền thống Việt Nam. Đó chính là tấm gương cho những người phụ nữ thế hệ sau noi theo. Sống hiền lành, tử tế, hết lòng thương yêu mọi người. Kết thúc có hậu của câu chuyện đã một lần nữa khẳng định quy luật bất di bất dịch của tự nhiên: ở hiền gặp lành. Vì vậy, em mong sao tất cả mọi người cùng nhau sống lành mạnh, giàu tình thương để cuộc sống này luôn được ấm êm, hạnh phúc.
Feelings about the character Vu Nuong in The Story of a Nam Xuong Girl by Nguyen Du Instruct Feelings about the character Vu Nuong in The Story of a Nam Xuong Girl by Nguyen Du ASSIGNMENT The story of the girl Nam Xuong has touched many people's hearts because of the bitter and cruel fate of the young woman named Vu Nuong. She was pure and modest, but because of her suspicions and the old feudal society's system of favoring men over women, she had to end her life to prove her purity of heart. Through that, writer Nguyen Du wants to express his sympathy and sorrow for Vu Nuong, and for women with a sad fate like hers. He used a very skillful way of narrating the story combined with exciting thrilling elements that made the reader fascinated and sympathize with the tragic life of the girl Nam Xuong in the story. Nguyen Du has built the image of a girl, a woman, a wife with all the good qualities: merit - tolerance - virtue. Vu Nuong's real name is Vu Thi Thiet, she has a modest and modest personality, and has a good personality. That's why she was loved by Truong Sinh and asked her mother to bring her a hundred ounces of wedding gold. Thus, even though she is beautiful in both body and character, she still does not have the right to decide her own happiness. And even though Truong Sinh - her husband - is very suspicious and overly cautious with his wife, Vu Nuong always maintains his virtue and never lets the couple fall into discord. From an obedient daughter, Vu Nuong has now become a gentle, thoughtful and comprehensive wife. It's rare to find someone like her. Therefore, according to many people's opinion, whether a husband and wife get along or not depends on the wife. Although Truong Sinh is skeptical, with a chaste heart and gentle, docile qualities, Vu Nuong has always maintained the family home. During her time at home with her mother-in-law, Vu Nuong also lived wholeheartedly with her mother, no different from her own flesh and blood. When she was sick, "she tried her best to take medicine, worship the gods and Buddha, and use sweet and wise words to advise her." Vu Nuong alone takes care of her young children and helps her sick and elderly mother. But she never cried out a single word. Vu Nuong alone takes on all four noble responsibilities at the same time: a mother who takes care of her baby every morning and evening, a father who comforts her when her child cries, and a filial daughter-in-law who is devoted to her mother-in-law. At the same time, she also replaced her husband as a son to help his old and weak mother when she was sad and miserable. Despite the hardship, Vu Nuong did very well. Even the mother-in-law was moved by her daughter-in-law: "In the future, heaven will judge your good heart and bestow blessings and virtues, good lineage, many descendants, that mother will definitely not betray you, just like you did not betray your mother." . “After the old lady finished speaking, she passed away. She is full of compassion, takes care of all the funerals and offerings as if she were her own parents." Having a woman like Vu Nuong in the house is truly a great blessing. But after all, no matter how filial, no virtue... I thought she would enjoy complete happiness when Truong Sinh returned safely. Disaster has befallen this gentle, virtuous and pitiful young woman. When Truong Sinh heard what his son naively said, every night a man came to his mother. Being inherently suspicious and jealous, of course Truong Sinh would make a fuss with his wife, refusing to let her explain. All beliefs about a dutiful and faithful wife have now disappeared in a moment. Unfortunately, Truong Sinh refused to say who told him that Vu Nuong was naughty at home. As for Vu Nuong, she explained but was not heard or understood. At the last step, she had to seek death in hopes of proving her innocence. “After that, she took a bath, washed up, went to Hoang Giang wharf, raised her face to the sky and lamented: This unfortunate person has a miserable fate, her husband and children have deserted her, everything is forced to fly, her reputation is tainted, the river god has a spirit. , please testify. If you are dignified and keep your chastity, be chaste and keep your heart, if you enter the country, please be the pearl Mi Nuong, if you enter the earth, please be the grass Ngu My. Nhuoc agreed to be a bird and a fish, lied to her husband and lied to her children, begged to be bait for fish and shrimp, begged catfish to be food for kites and crows, and begged to be spit on by everyone. Having finished speaking, she threw herself into the river and died." Thus, the young woman had to seek an unjust and painful death. Her death was caused by her husband whom she missed with all her heart. Above all, due to the injustice of the old feudal regime, women were pushed to the bottom of society. No matter how good they are, they are not recognized, no one defends or protects them. Therefore, Vu Nuong has only one way to prove her pure heart, which is death. Through the character Vu Nuong, Nguyen Du has just condemned the ancient feudal social regime that pushed women into unhappy and painful situations, denying them the right to live and be free. On the contrary, men always rely on their power to oppress women. On the other hand, he also praised the noble moral qualities of traditional Vietnamese women. That is an example for the next generation of women to follow. Live gently, kindly, love everyone wholeheartedly. The happy ending of the story once again confirms the immutable law of nature: where good comes good. Therefore, I hope everyone lives together healthily and richly in love so that this life will always be warm and happy.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương Bài làm Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Dữ với độ phổ biến với công chúng rất lớn, đồng thời mang một tinh thần nhân đạo mà cả xã hội quan tâm- quyền của phụ nữ, địa vị của người phụ nữ trong xã hội. Câu chuyện được kể và tả thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Nhân vật Vũ Nương là điển hình cho phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Nàng là người có phẩm chất ” thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, là hiện thân về cái đẹp lý tưởng của người phụ nữ Việt Nam, có đủ tính tình, phẩm chất đến nhan sắc. Khi lấy chồng, luôn “giữ khuôn phép, ko từng để vợ chồng phải đến thất hòa”.Là người cẩn thận, biết kính trên nhường dưới, nên gia đình lúc nào cũng hòa thuận. Nàng cũng là một người con dâu hiếu thảo. Khi mẹ ốm thì lo ” thuốc thang, lễ bái thần phật” rồi ” lấy lời ngon ngọt để khuyên lơn”, nàng đã chăm sóc mẹ chồng tận tình như mẹ đẻ. Khi mẹ mất thì lo ” ma chay, tế lễ”. Tấm lòng của nàng cũng được mẹ chồng thấu hiểu, bà cũng thương yêu cô như con gái ruột của mình vậy. Một người mẹ hiền, yêu thương con: ” trỏ bóng mình bảo đấy là cha Đản”, hành động đó chỉ là hành động muốn bù đắp sự thiếu vắng của người cha, nàng luôn nói với con rằng con trai còn có một người cha, nàng luôn muốn con gần gũi cha, nhớ đến cha để mai kia Trương Sinh trở về, dù là khoảng cách địa lý hay thời gian, con trai vẫn nhận được bố, đồng thời hành động đó cũng bày tỏ nỗi nhớ chồng. Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương Nhưng, không ngờ được, tai họa bất chợt ập đến, Trương Sinh trở về, nghi cho Vũ Nương một cái oan thảm khốc- phản bội- dùng những lời lẽ tàn nhẫn mà nhiếc móc nàng. Nhưng ngay cả khi ấy, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn khao khát hạnh phúc trần gian nhưng Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này. Vũ Nương hiện lên là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa với nhiều phẩm chất cao đẹp song lại là điển hình cho số phận đầy bi kịch, thương tâm. Tác phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả, nội dung đó được thể hiện qua tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu, mà trong tác phẩm thì đó chính là nàng Vũ Nương. Minh Anh
Topic: Feelings about the character Vu Nuong in The Story of a Nam Xuong Girl Assignment The Story of a Nam Xuong Girl is one of Nguyen Du's most unique works with great popularity with the public, and at the same time carries a humanitarian spirit that the whole society cares about - women's rights, status of women. of women in society. The story is told and described through the image of the character Vu Nuong. The character Vu Nuong is a typical example of the beautiful qualities of women in ancient feudal society. She is a person with the qualities of "modesty, modesty, and good thoughts", the embodiment of the ideal beauty of Vietnamese women, with all temperament, qualities and beauty. When getting married, always "maintain propriety, never let the couple fall into discord". Being a careful person, knowing how to respect superiors and subordinates, the family is always in harmony. She is also a filial daughter-in-law. When her mother was sick, she worried about "medication, worshiping Buddha" and "using sweet words to advise", she took care of her mother-in-law as devotedly as her own mother. When my mother passed away, I took care of "funerals and offerings". Her mother-in-law also understood her heart, she also loved her like her own daughter. A gentle mother who loves her child: "pointing at her shadow and saying it was Dan's father", that action was just an action to make up for the absence of a father, she always told her son that he still had a father. , she always wanted her son to be close to his father, to remember him so that one day Truong Sinh would return. Regardless of geographical distance or time, her son would still receive his father, and at the same time, that action also expressed her longing for her husband. Feelings about the character Vu Nuong But, unexpectedly, disaster suddenly struck. Truong Sinh returned, accusing Vu Nuong of a tragic injustice - betrayal - using cruel words to scold her. But even then, Vu Nuong still spoke properly, earnestly expressing her feelings and wishes for a happy family life. Misunderstood by her husband and furiously accused, even though she still yearned for worldly happiness, Vu Nuong chose death to prove her purity. This action shows the self-esteem, awareness of preserving honor and chastity in this honorable woman. Vu Nuong appears as a typical Vietnamese woman in ancient society with many noble qualities but is also a typical example of a tragic and pitiful fate. The work demonstrates a noble humanitarian spirit, the content of which is expressed through the author's appreciation for the simple and noble beauty of women as well as sympathy for the misfortunes that life brings. they have to suffer, and in the work it is Vu Nuong. Minh Anh
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân. Hướng dẫn Tình yêu làng sâu đậm hòa quyện với tình yêu nước thiết tha trong nhân vật ông Hai Mở bài Trong nền văn học hiện đaị Việt Nam, Kim Lân được biết đến qua những truyện ngắn về hình ảnh người nông dân và bức tranh sinh hoạt ở làng quê. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân trong buổi đầu đến với Cách Mạng. Họ không phải là những người suốt ngày sống quẩn quanh với mảnh vườn, cam chịu một cuộc sống bế tắc và bi thảm mà là những người nông dân đi tản cư kháng chiến có tình yêu làng gắn chặt với tình yêu Cách mạng, đất nước. Nhân vật ông Hai trong tác phẩm là một bằng chứng. Thân bài: Truyện “Làng” khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người Việt Nam thời kỳ kháng chiến: tình yêu quê hương, đất nước. Đây là tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người. Cụ thể là nhân vật ông Hai. Tình yêu làng của ông ít nhiều thay đổi theo thời gian nhưng trước sau như một, ông vẫn gắn bó, chung thủy với làng chợ Dầu thân thiết của mình. Trước cách mạng, mỗi lần đi đâu xa, nói về làng của mình, ông chỉ đề cập đến “cái sinh phần” của viên tổng đốc làng ông. Lão có vẻ hãnh diện về cái sinh phần ấy lắm, bởi vì nó có bề dày lịch sử và một phần có sự đóng góp của ông: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi. Có lảm lắm là của, vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy”. Những từ sau ngày khởi nghĩa, vẫn có tính hay khoe về làng nhưng ông chẳng hề đả động đến cái lăng ấy nữa bởi vì xây cái lăng ấy bản thân ông và những người trong làng này đều phải chịu khổ sở. Bây giờ nói đến làng, lão lại đề cập đến “những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng mà ông gia nhập trong phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự, cả giới phu lão, có cu râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một, hai”. Ông nhớ rành rọt trong tâm trí của mình “những hố, những u, những giao thông hào của làng”. Ông kể về làng của mình như một thứ tật nghiện chứ không cần chú ý đến người nghe có thích lắng nghe hay không. Vì lẽ đó, tới những ngày phải đi tản cư, lòng ông cứ băn khoăn chẳng muốn rời xa cái làng thân yêu ấy một tý nào bởi vì theo lão “quê cha đất tổ một lúc rứt ruột bỏ đi làm gì mà không đau xót”. Xa làng rồi, ông Hai mới cảm thấy nhớ làng Dầu biết chừng nào. Lắm lúc đang nghĩ ngợi vẩn vơ, ông lại chợt nhớ đến những ngày cùng làm việc với anh em, và lại khao khát được quay trở về làng để cùng mọi người đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Nỗi mong ngóng ấy cứ dằn vặt và trào dâng trong lòng ông. Thật đúng là: Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) Dõi theo tác phẩm, ta thấy ở nhân vật ông Hai tình yêu làng của ông thống nhất, hòa quyện với tình cảm yêu mến, thủy chung đối với cuộc Cách mạng của dân tộc, đối với đất nước. Bản thân ông luôn tự hào làng của mình là làng kháng chiến, những người dân trong làng từ già đến trẻ đều là những con người có tinh thần quả cảm và bất khuất. Chính lòng yêu nước đã làm cho ông cảm thấy vui mừng, tự hào về tinh thần dũng cảm cũng như thành tích chiến đấu của đồng bào dân tộc mà ông theo dõi được trên báo chí hằng ngày: “Ruột gan ông cứ múa cả lên…” Quá đỗi hãnh diện về truyền thống anh hùng của làng và lòng yêu nước sâu sắc vốn có của mình, ông Hai đã quá bàng hoàng, sửng sốt, đau đớn trước cái tin chợ Dầu: “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”. Thế là bao nhiêu niềm kiêu hãnh về truyền thống bất khuất của mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”, bao nhiêu mơ ước được quay về làng bỗng hoàn toàn sụp đổ… Ông đau khổ như vừa lạc vào một vùng bóng tối dày đặc. Là người dân của làng chợ Dầu, ông Hai cảm thấy mình có tội nhục nhã xiết bao: “nước mắt ông giàn ra”. Đó là những giọt nước mắt câm hờn, khổ đau, tủi nhục của con người sắt son, chung thủy với cuộc cách mạng. Trước kia, ông yêu làng là thế, bây giờ mới chớm nghĩ trở về, ông đã lập tức phản đối ngay “Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi!Về tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cao quý biết bao những lời lẽ đó của ông Hai! Đã thế, ông còn nguyền rủa đối với những ai có tư tưởng bán nước hạ mình: “Chúng bay ăn cơm hay ăn cái giống gì vào mồm mà lại làm việc bán nước để nhúc nhã thế này?” Đến lúc bị mụ chủ nhà đuổi khóe về làng, ông Hai lại càng khổ sở và đau đớn hơn nữa, lòng căm thù cái làng Việt gian ấy bỗng trổi dậy ở đáy lòng ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi, thì phải thù”. Bao nhiêu khao khát trở về làng, ông đành nén lại mà tìm về nẻo chánh: “Ủng hộc cụ Hồ Chi Minh muôn năm!”. Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, ta thấy rõ ở ông tấm lòng chung thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Càng buồn tuổi bao nhiêu, ông Hai lại càng trở nên tươi vui, rạng rỡ hẳn lên khi nghe tin cải cính về làng Dầu của mình. Ông vui mừng lịm người và đi thông báo cho cả xóm biết. Đồng thời lấy ngay việc Tây đốt nhà mình là một bằng chứng có giá trị hùng hồn và đầy sức thuyết phục nhất: “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn… Láo, láo hết, toàn là sai sự mục đích cả”. Thanh minh cho tin đồn bậy đó, chắc hẳn lòng ông thanh thản biết bao. Người nông dân đáng cảm phục ấy chấp nhận hy sinh tất cả chứ không chịu khuất thân với giặc. Họ sẵn sàng hy sinh của cải và tính mạng mình vì Tổ quốc. Điều ấy đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ bao đời nay của dân tộc ta. Nhắc đến Kim Lân người ta thường nghĩ đến hai tác phẩm đặc sắc: “Vợ nhặt” và “Làng”. Ở hai tác phẩm ấy, ông đều tỏ ra sắc sảo khi xây dựng hình tượng người nông dân trong nạn đói khủng khiếp của Cách Mạng Tháng Tám và hình ảnh người nông dân bước đầu đến với cách mạng. Hình ảnh ông Hai có thể được xem là gạch nối giữa người nông dân trong quá khứ và người nông dân đang làm chủ cuộc đời mới. Họ vẫn giữ trong tâm hồn mình những tình cảm tốt đẹp đối với làng quê, ruộng vườn, con trâu, cái cày… nhưng tâm hồn họ khỏe khoắn, lành mạnh chứ không sống cam chịu, bất lực như anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, Chị Dậu trong “Tắt đèn” của cụ Ngô Tất Tố hoặc hình ảnh của một Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao phải chọn lấy cái chết để giải quyết số phận bi thảm và bế tắc của mình. Từ tình cảm gắn bó với mảnh đất “chôn nhau cắt rốn” họ đã dần dần gắn bó thủy chung với cách mạng, với cụ Hồ, với dân tộc. Có thể nói trong số những người nông dân xuất hiện trong nền văn học sau những ngày Cách Mạng Tháng Tám, người ta không thể nào quên được hình ảnh ông Hai của nhà văn Kim Lân. Lần giở lại những trang văn trong những năm kháng chiến của dân tộc, ta đã không ít lần bắt gặp hình ảnh người nông dâ n yêu nước như ông Hai. Đó còn là hình ảnh ông Tư vườn chim trong truyện ngắn “Giấc mơ ông lão vườn chim” của nhà văn Anh Đức với những “cơn đau rừng” quặn thắt ruột gan khi rừng tràm, vườn chim bị bọn xâm lược bắn giết tàn phá. Nguồn vui của ông đơn sơ bình dị: “Cái chi tao dứt bỏ được chớ cái vườn chim này với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được đâu”. Chính họ, những người nông dân yêu nước ấy đã góp phần không nhỏ vào những kỳ tích oan hùng, những thắng lợi rực rỡ trong cuộc trường chinh giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Góp phần vào thành công của truyện ngắn “Làng” ta còn phải kể đến nét đặc sắc của ngôn ngữ nghệ thuật tiêu biểu là ngôn ngữ nhân vật. Kim Lân vốn đã rất am hiểu và gần gũi với những nhân vật quần chúng của mình, nhà văn đã để họ được nói năng, suy nghĩ, hành động một cách hết sức tự nhiên mà bộ lộ được tâm lý, cá tính rất sinh động. Ngôn ngữ của ông Hai – cả trong những đối thoại và lời độc thoại – đều tỏ ra lời ăn tiếng nói, cách nghĩ của một ông lão nông dân vốn gắn bó tha thiết với làng quê và rất thành tâm với cách mạng, với kháng chiến. Đây là tấm lòng chung thủy với kháng chiến được bộc bạch qua những lời tâm sự của ông với đứa con và cũng là tự nhủ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai”… Kết bài Qua việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ; bút pháp miêu tả tâm lý, nhân vật đặc sắc; cách sử dụng ngôn ngữ nhân vật điển hình…, tác phẩm đã khắc họa cụ thể sinh động hình ảnh nhân vật ông Hai có tình yêu làng quê thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước để từ đó tác giả nhằm ca ngợi tình cảm và tình thần kháng chiến của những người nông dân phải rời làng tản cư trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đọc truyện, ai trong chúng ta lại chẳng cảm thấy yêu mến, tự hào về lớp lớp cha ông đi trước… Với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã góp thêm một bằng chứng về tinh thần yêu nước và tình yêu quê hương xứ sở của người dân Việt Nam.
Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân. Hướng dẫn Tình yêu làng sâu đậm hòa quyện với tình yêu nước thiết tha trong nhân vật ông Hai Mở bài Trong nền văn học hiện đaị Việt Nam, Kim Lân được biết đến qua những truyện ngắn về hình ảnh người nông dân và bức tranh sinh hoạt ở làng quê. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã khắc họa chân thực hình ảnh người nông dân trong buổi đầu đến với Cách Mạng. Họ không phải là những người suốt ngày sống quẩn quanh với mảnh vườn, cam chịu một cuộc sống bế tắc và bi thảm mà là những người nông dân đi tản cư kháng chiến có tình yêu làng gắn chặt với tình yêu Cách mạng, đất nước. Nhân vật ông Hai trong tác phẩm là một bằng chứng. Thân bài: Truyện “Làng” khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người Việt Nam thời kỳ kháng chiến: tình yêu quê hương, đất nước. Đây là tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người. Cụ thể là nhân vật ông Hai. Tình yêu làng của ông ít nhiều thay đổi theo thời gian nhưng trước sau như một, ông vẫn gắn bó, chung thủy với làng chợ Dầu thân thiết của mình. Trước cách mạng, mỗi lần đi đâu xa, nói về làng của mình, ông chỉ đề cập đến “cái sinh phần” của viên tổng đốc làng ông. Lão có vẻ hãnh diện về cái sinh phần ấy lắm, bởi vì nó có bề dày lịch sử và một phần có sự đóng góp của ông: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi. Có lảm lắm là của, vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy”. Những từ sau ngày khởi nghĩa, vẫn có tính hay khoe về làng nhưng ông chẳng hề đả động đến cái lăng ấy nữa bởi vì xây cái lăng ấy bản thân ông và những người trong làng này đều phải chịu khổ sở. Bây giờ nói đến làng, lão lại đề cập đến “những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng mà ông gia nhập trong phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự, cả giới phu lão, có cu râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một, hai”. Ông nhớ rành rọt trong tâm trí của mình “những hố, những u, những giao thông hào của làng”. Ông kể về làng của mình như một thứ tật nghiện chứ không cần chú ý đến người nghe có thích lắng nghe hay không. Vì lẽ đó, tới những ngày phải đi tản cư, lòng ông cứ băn khoăn chẳng muốn rời xa cái làng thân yêu ấy một tý nào bởi vì theo lão “quê cha đất tổ một lúc rứt ruột bỏ đi làm gì mà không đau xót”. Xa làng rồi, ông Hai mới cảm thấy nhớ làng Dầu biết chừng nào. Lắm lúc đang nghĩ ngợi vẩn vơ, ông lại chợt nhớ đến những ngày cùng làm việc với anh em, và lại khao khát được quay trở về làng để cùng mọi người đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Nỗi mong ngóng ấy cứ dằn vặt và trào dâng trong lòng ông. Thật đúng là: Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên) Dõi theo tác phẩm, ta thấy ở nhân vật ông Hai tình yêu làng của ông thống nhất, hòa quyện với tình cảm yêu mến, thủy chung đối với cuộc Cách mạng của dân tộc, đối với đất nước. Bản thân ông luôn tự hào làng của mình là làng kháng chiến, những người dân trong làng từ già đến trẻ đều là những con người có tinh thần quả cảm và bất khuất. Chính lòng yêu nước đã làm cho ông cảm thấy vui mừng, tự hào về tinh thần dũng cảm cũng như thành tích chiến đấu của đồng bào dân tộc mà ông theo dõi được trên báo chí hằng ngày: “Ruột gan ông cứ múa cả lên…” Quá đỗi hãnh diện về truyền thống anh hùng của làng và lòng yêu nước sâu sắc vốn có của mình, ông Hai đã quá bàng hoàng, sửng sốt, đau đớn trước cái tin chợ Dầu: “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”. Thế là bao nhiêu niềm kiêu hãnh về truyền thống bất khuất của mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”, bao nhiêu mơ ước được quay về làng bỗng hoàn toàn sụp đổ… Ông đau khổ như vừa lạc vào một vùng bóng tối dày đặc. Là người dân của làng chợ Dầu, ông Hai cảm thấy mình có tội nhục nhã xiết bao: “nước mắt ông giàn ra”. Đó là những giọt nước mắt câm hờn, khổ đau, tủi nhục của con người sắt son, chung thủy với cuộc cách mạng. Trước kia, ông yêu làng là thế, bây giờ mới chớm nghĩ trở về, ông đã lập tức phản đối ngay “Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi!Về tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cao quý biết bao những lời lẽ đó của ông Hai! Đã thế, ông còn nguyền rủa đối với những ai có tư tưởng bán nước hạ mình: “Chúng bay ăn cơm hay ăn cái giống gì vào mồm mà lại làm việc bán nước để nhúc nhã thế này?” Đến lúc bị mụ chủ nhà đuổi khóe về làng, ông Hai lại càng khổ sở và đau đớn hơn nữa, lòng căm thù cái làng Việt gian ấy bỗng trổi dậy ở đáy lòng ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi, thì phải thù”. Bao nhiêu khao khát trở về làng, ông đành nén lại mà tìm về nẻo chánh: “Ủng hộc cụ Hồ Chi Minh muôn năm!”. Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, ta thấy rõ ở ông tấm lòng chung thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là cụ Hồ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Càng buồn tuổi bao nhiêu, ông Hai lại càng trở nên tươi vui, rạng rỡ hẳn lên khi nghe tin cải cính về làng Dầu của mình. Ông vui mừng lịm người và đi thông báo cho cả xóm biết. Đồng thời lấy ngay việc Tây đốt nhà mình là một bằng chứng có giá trị hùng hồn và đầy sức thuyết phục nhất: “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn… Láo, láo hết, toàn là sai sự mục đích cả”. Thanh minh cho tin đồn bậy đó, chắc hẳn lòng ông thanh thản biết bao. Người nông dân đáng cảm phục ấy chấp nhận hy sinh tất cả chứ không chịu khuất thân với giặc. Họ sẵn sàng hy sinh của cải và tính mạng mình vì Tổ quốc. Điều ấy đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ bao đời nay của dân tộc ta. Nhắc đến Kim Lân người ta thường nghĩ đến hai tác phẩm đặc sắc: “Vợ nhặt” và “Làng”. Ở hai tác phẩm ấy, ông đều tỏ ra sắc sảo khi xây dựng hình tượng người nông dân trong nạn đói khủng khiếp của Cách Mạng Tháng Tám và hình ảnh người nông dân bước đầu đến với cách mạng. Hình ảnh ông Hai có thể được xem là gạch nối giữa người nông dân trong quá khứ và người nông dân đang làm chủ cuộc đời mới. Họ vẫn giữ trong tâm hồn mình những tình cảm tốt đẹp đối với làng quê, ruộng vườn, con trâu, cái cày… nhưng tâm hồn họ khỏe khoắn, lành mạnh chứ không sống cam chịu, bất lực như anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, Chị Dậu trong “Tắt đèn” của cụ Ngô Tất Tố hoặc hình ảnh của một Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao phải chọn lấy cái chết để giải quyết số phận bi thảm và bế tắc của mình. Từ tình cảm gắn bó với mảnh đất “chôn nhau cắt rốn” họ đã dần dần gắn bó thủy chung với cách mạng, với cụ Hồ, với dân tộc. Có thể nói trong số những người nông dân xuất hiện trong nền văn học sau những ngày Cách Mạng Tháng Tám, người ta không thể nào quên được hình ảnh ông Hai của nhà văn Kim Lân. Lần giở lại những trang văn trong những năm kháng chiến của dân tộc, ta đã không ít lần bắt gặp hình ảnh người nông dâ n yêu nước như ông Hai. Đó còn là hình ảnh ông Tư vườn chim trong truyện ngắn “Giấc mơ ông lão vườn chim” của nhà văn Anh Đức với những “cơn đau rừng” quặn thắt ruột gan khi rừng tràm, vườn chim bị bọn xâm lược bắn giết tàn phá. Nguồn vui của ông đơn sơ bình dị: “Cái chi tao dứt bỏ được chớ cái vườn chim này với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt ra được đâu”. Chính họ, những người nông dân yêu nước ấy đã góp phần không nhỏ vào những kỳ tích oan hùng, những thắng lợi rực rỡ trong cuộc trường chinh giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Góp phần vào thành công của truyện ngắn “Làng” ta còn phải kể đến nét đặc sắc của ngôn ngữ nghệ thuật tiêu biểu là ngôn ngữ nhân vật. Kim Lân vốn đã rất am hiểu và gần gũi với những nhân vật quần chúng của mình, nhà văn đã để họ được nói năng, suy nghĩ, hành động một cách hết sức tự nhiên mà bộ lộ được tâm lý, cá tính rất sinh động. Ngôn ngữ của ông Hai – cả trong những đối thoại và lời độc thoại – đều tỏ ra lời ăn tiếng nói, cách nghĩ của một ông lão nông dân vốn gắn bó tha thiết với làng quê và rất thành tâm với cách mạng, với kháng chiến. Đây là tấm lòng chung thủy với kháng chiến được bộc bạch qua những lời tâm sự của ông với đứa con và cũng là tự nhủ: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai”… Kết bài Qua việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ; bút pháp miêu tả tâm lý, nhân vật đặc sắc; cách sử dụng ngôn ngữ nhân vật điển hình…, tác phẩm đã khắc họa cụ thể sinh động hình ảnh nhân vật ông Hai có tình yêu làng quê thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước để từ đó tác giả nhằm ca ngợi tình cảm và tình thần kháng chiến của những người nông dân phải rời làng tản cư trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đọc truyện, ai trong chúng ta lại chẳng cảm thấy yêu mến, tự hào về lớp lớp cha ông đi trước… Với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã góp thêm một bằng chứng về tinh thần yêu nước và tình yêu quê hương xứ sở của người dân Việt Nam.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng Bài làm Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết. Tác phẩm Làng được coi tác phẩm đánh dâu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai. Với nhân vật ông Hai, ngôi làng của ông thuộc về phần thiêng liêng và thân thương nhất. Làng không chỉ là quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của ông mà còn là cuộc sống, cuộc đời của ông Ông Hai có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.”Trong ông thời gian và tâm trí để nghĩ về cái làng của mình chiếm phần lớn, cứ mối lần nhăc đến. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em… Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính. Cảm nhận về nhân vật ông Hai Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ” Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết.
Topic: Feelings about the character Mr. Hai in the short story Village Assignment Born and raised in the Vietnamese countryside, among simple farmers, writer Kim Lan soon became attached to and had a deep understanding of rural life, composing many works on this topic. During the early period of the resistance war against the French, when the people of the North were ordered to evacuate, he once again portrayed the image of a farmer in the short story "The Village", that is the character Mr. Hai in the short story. "Village" with a deep and passionate love for the countryside and patriotism. The work The Village is considered a work marking a positive change in the image of farmers and their consciousness, especially through the character of Mr. Hai. With the character Mr. Hai, his village belongs to the most sacred and dear part. The village is not only his hometown, his birthplace, but also his life, his life Mr. Hai has a tendency to show off his village with all his pride. “He talked about that village in an unusually passionate and excited way. His eyes lit up, his face changed with activity. "In him, the time and mind to think about his village took up most of it, every time he thought about it. "He thought about his village again, thought about the days working with his brothers... He wanted to return to the village again, and wanted to join his brothers in digging roads, building mounds, cutting trenches, and carrying rocks." Memories of the old village and old neighborhood became comfort and encouragement for Mr. Hai whenever he was depressed. Just being able to stay in the village and fight with his brothers was like a new stream of vitality flowing through him, and no matter how much hardship, hardship, or danger he was in, he could endure it. That image is completely opposite to Mr. Hai, who is always bored, frustrated, and doesn't know what to do in the displaced kitchen. An indelible nostalgia welled up inside him: "Mr. Hai misses the village, misses the village so much." To him, his village is inherently something extremely sacred and beautiful. Now in the cramped displaced kitchen, that village is even more beautiful, becoming a strong wish and desire. That is absolutely not an exaggeration. Mr. Hai's confession is that of a person who is deeply attached to the village and loves the village with genuine pride. Feelings about the character Mr. Hai Besides his love for the village, the character Mr. Hai also makes an impression in the readers' eyes with his patriotism and resistance spirit. He always closely followed news of the resistance war and was proud of the victories that our people had accomplished. “The old man's heart was jumping up and down, so happy!” But when it comes to choosing between village and country, that love is clearly revealed. Even though rumors that his village had followed the West, he was still determined not to return to the village. At this point, we can understand clearly about that seemingly simple, straightforward person or story. Love for the village has now become conscious love, integration and patriotism. “Why go back to that village? Returning to the village means leaving the resistance, leaving Uncle Ho." Only when the news that Cho Dau village had followed the enemy was rectified, Mr. Hai's love for the village and his country was completely painted. Mr. Hai seemed to come back to life. “The face that was sad every day suddenly became cheerful and radiant.” Once again, his love for the village and his country were expressed in a realistic and touching way. The source of vitality returned to him one day. Mr. Hai is the old Mr. Hai again. He talked about his village again, about "In the West, they burned my house, burned it to the ground!" His joy was expressed innocently, honestly and intensely. Perhaps no one in the world would brag or celebrate the burning of their house like that. The short story "The Village" successfully built the character of Mr. Hai, especially through the situation of Cho Dau village being rumored to be a follower of the West. It showed us the depth of Mr. Hai's character, his personality traits, the changes in his perception and emotions, and most of all, his passionate love for the village and country.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Đan Thiềm qua hồi 5 vở kịch Vũ Như Tô Bài làm Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là nhà văn Hà Nội viết thành công tiểu thuyết, kịch sân khấu, kịch bản phim, truyện thiếu nhi. “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”, truyện “Sống mãi với Thủ Đô", kịch "Vũ Như Tô”, kịch “Bắc Sơn”, kịch “Những người ở lại”… của ông là những tác phẩm đầy tâm huyết, đem lại niềm vinh dự to lớn cho cây bút rất đỗi tài hoa này. “Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử 5 hồi được Nguyễn Huy Tưởng sáng tác vào năm 1941. Vũ Như Tô, Lê Tương Dực, Nguyễn Vũ, Trịnh Duy Sản, An Hòa Hầu, Nguyễn Hoằng Dụ… là những nhân vật lịch sử, những nguyên mẫu mà tác giả đã dựa vào “Đại Việt sử kí toàn thư” để sáng tạo nên. Nhân vật Đan Thiềm mang màu sắc lãng mạn, lí tướng nhằm làm nổi bật chất nghệ sĩ của Vũ Như Tô, đẩy xung đột kịch tới cao trào, đỉnh điểm. Trong lời đề tựa vở kịch “Vũ Như Tô”, Nguyễn Huy Tưởng có viết: “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết, cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Vở kịch “Vũ Như Tô” đã nêu lên một vấn đề lịch sử – xã hội để mọi người cùng suy nghĩ. Đó là chức năng, vai trò của người nghệ sĩ, và mục đích của nghệ thuật. Người nghệ sĩ đem tài năng phục vụ ai? Mọi công trình nghệ thuật đều vì ai? Đọc vở kịch “Vũ Như Tô”, ta càng cảm hiểu và thấm thìa về những nội dung và ý nghĩa ấy. Ở đây, chuyện lịch sử, chuyện sân khấu cũng là chuyện đời chuyện hôm qua và cả chuyện hôm nay. Xung đột kịch ở Hồi V chủ yếu xoay quanh giữa Đan Thiềm với Vũ Như Tô giữa Trịnh Duy Sản với Lê Tương Dực, Nguyễn Vũ, giữa Kim Phượng và cả cung nữ với Đan Thiềm, giữa Nguyễn Hoằng Dụ, quân khởi loạn, những người thợ xây Cửu Trùng Đài với Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Bối cảnh lịch sử được phản ánh trong vở kịch “Vũ Như Tô” là từ năm 1510 đến năm 1516 dưới triều vua Lê Tương Dực, “vua lợn ” hoang dâm và xa hoa cực độ. Giặc giã nổi lên như ong. Thăng Long trở thành chiến địa. Lê Tương Dực giết vua Lê Uy Mục (vua quỷ) để giành ngôi báu. Trịnh Duy Sản giết Lê Tương Dực rồi đốt xác. Nguyễn Hoàng Dụ đốt phá kinh thành Thăng Long, bắt Vũ Như Tô là người xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, đem chém ở ngoại thành. Trần Cao khởi loạn, cướp phá lung tung. Triều đình chia thành năm bè bảy mối, ai cũng chỉ chăm chắm một điều “được làm vua, thua làm giặc”, dân bị “rán mỡ” vô cùng đau khổ điêu linh. Một câu ca được lưu truyền khắp làng quê, kẻ chợ thuở ấy: “Trời làm một trận lăng nhăng, Vua hóa ra thằng, thằng hóa ra vua”. Giữa thời buổi hỗn quân, hỗn quan ấy, có bao chuyện buồn nôn. “Vua quỷ” vừa bị giết thì “Vua lợn" đã ủn ỉn bò lên ngai vàng. Em giết anh, thái tử thông dâm với thứ phi của cha, nghịch thần nhan nhản trong triều, gian phu dâm phụ nhung nhúc trong hậu cung. Có kẻ đem lòng thương muốn cứu người mà gây mầm tai họa. Có bao kẻ ngu trung làm đau khổ dân lành. Đan Thiềm và Vũ Như Tô là những con người đáng thương hại, luẩn quẩn mãi trong vòng chữ tình và chữ danh cuối cùng bị bao thế lực căm phẫn, bị khinh bỉ rồi bị giết chết, thật đáng thương! Đan Thiềm là một cung nữ có chút ít nhan sắc và lòng nhân hậu, biết quý trọng nhân tài. Nàng đã dành cho Vũ Như Tô bao tình cảm đặc biệt. Vũ Như Tô lúc đầu không muốn đem tài năng phục vụ tên hôn quan “tướng lợn” vì hắn xa xỉ và hoang dâm. Người nghệ sĩ này có thể bị giết, bị tru di. Trước tình cảnh đó, Đan Thiềm đã mách đường cho Vũ Như Tô chạy trốn, đã khuyên “không nên trái lệnh vua”. Nhưng khi quân khởi loạn đốt phá kinh thành, lùng sục kẻ xây dựng Cửu Trùng Đài, cho đó là “thủ phạm” thì Đan Thiềm chạy hớt ha hớt hải, mặt cắt không còn hột máu đi tìm Vũ Như Tô. Đan Thiềm thiết tha van xin vị công trình sư tài ba: “Ông phải trốn đi. Ông phải trốn đi… trốn đi để chờ cơ hội khác. Đại sự hỏng rồi”. Khi tiếng quân ầm ầm, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và, tiếng ngựa hí nổi lên, khi quân khởi loạn truy tìm “thủ phạm” để giết, để phá Cửu Trùng Đài, thi Đan Thiềm không hề lo đến tính mạng cùa mình mà chỉ lo Vũ Như Tô bị sát hại. Nàng đã hết lời van xin: “Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai tô điểm nữa”. Lòng nhân ái và sự quý trọng nhân tài của Đan Thiềm thật đáng trọng. Nhưng cách suy nghĩ của người cung nữ này thì nông nổi, phiến diện, đáng thương. Có đúng là, nếu Vũ Như tô bị giết chết thì “nước ta không còn ai tô điểm nữa” không? Có đúng là “khi dân nổi lên, họ nông nổi vô cùng. Họ không phân biệt phải trái?”. Đan Thiềm có biết hay không biết, vua Lê Tương Dực đã ra sức vét thuế, đã “rán mỡ dân” xây dựng Cửu Trùng Đài để sống xa hoa, hưởng lạc giữa hàng trăm, hàng nghìn cung nữ. Đan Thiềm có biết hay không biết, vì xây dựng Cửu Trùng Đài mà hàng vạn dân phu, thợ thuyền bị lao dịch vất vả, bị đói rét, bị chết vì ốm đau, bị tai nạn, nhiều người bỏ trốn đã bị Vũ Như Tô bắt giết? Đan Thiềm quá thương Vũ Như Tô, quá trọng cái tài của ông Cả, mà nàng như mê, càng ngày càng trở nên “lẩn quẩn”. Khi quân khởi loạn đã đốt phá kinh thành, đập phá tan tành Cửu Trùng Đài, nhưng bà ta còn quỳ lạy, van xin Ngô Hạch (một võ sĩ, một đứa tiểu nhân): “Tướng quân tha cho ông Cả. Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm”. Lửa đã cháy đến chân, đầu sắp lìa khói cổ, nhưng bà ta vẫn “lẩn thẩn", u mê, van lạy: “Tướng quân hãy nghe tôi, đừng phạm tội ác. Đừng giết ống Cả. Tôi xin chịu chết”. Đan Thiềm quá thương Vũ Như Tô, quá quý trọng cái tài của Vũ Như Tô mới có ngôn từ và cách hành xử ấy. Nhưng tình cảnh đất nước loạn lạc, vua thì xa xỉ, hoang dâm, nhân dân lầm than đau khổ, một trong những "thủ phạm” làm cho dân chúng oán hận là Vũ Như Tô, kẻ đã xây Cửu Trùng Đài, bà ta có biết hay không? Trước dư luận, trước những lời khen chê của đồng loại (dù đó là lời thị phi) thì cũng phải biết lắng tai nghe mà suy ngẫm. Nhưng Đan Thiềm vẫn bỏ ngoài tai tất cả, Thậm chí cho đến lúc đầu sắp lìa cổ vẫn lẩn thẩn, u mê! Xây Cửu Trùng Đài, phá Cửu Trùng Đài là chuyện đại sự quốc gia. Thế mà một cung nữ (cũng như hàng trăm hàng nghìn cung nữ khác chỉ biết đem nhan sắc thỏa mãn dục vọng bọn quân vương), trí lực có là bao, thế mà vẫn “nói nhảm”, vẫn “dây vào” những chuyện tày đình! Cái chết của Đan Thiềm là một bi kịch: bi kịch về tình thương và lẽ phải, bi kịch về nhận thức mơ hồ, bi kịch giữa nghệ thuật và tội ác! Cái chết của Đan Thiềm là một bi kịch. Đúng như câu ca của dân gian đã lưu truyền: “Giúp người mà chẳng lo xa, Gây mầm tai họa, máu sa ngập đường”. Đan Thiềm đã “giúp”, đã “thương" Vũ Như Tô, bà ta đã quý trọng tài năng người thợ giỏi, bà ta muốn bảo vệ Cửu Trùng Đài, nhưng bà ta có biết hay không vì Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài mà công khố hao hụt, dân gian lầm than! Xét cho cùng, Đan Thiềm cũng là một “đồng thủ phạm” với Vũ Như Tô, là kẻ đã “gây mầm tai họa”. Nghệ thuật không phải là sự lừa dối. Nghệ thuật cũng không chỉ để thỏa mãn cuộc sống xa hoa, ăn chơi trụy lạc của những vua quỷ, vua lợn, của bọn cường quyền, của một thiểu số người trong xã hội. Nghệ thuật không phải là cái bánh vẽ. Nghệ thuật càng không thể gây đau khổ cho dân chúng. Và những chuyện đại sự quốc gia không phải ai cũng có thể can dự vào. Đó là bài học, không chỉ cho những Đan Thiềm xưa nay mà còn là những điều cần suy nghĩ nghiêm túc cho bất cứ ai trong xã hội. Bởi vậy, Đan Thiềm là một nhân vật đáng thương hại. Trong bài thơ “Dại khờ” (Tập “Gửi hương cho gió”), thi sĩ Xuân Diệu có viết: “Người ta khổ vi thương không phải cách, Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người. Có kho vàng nhưng chẳng tặng tùy nơi, Người ta khổ vì xin không phải chỗ” Qua cuộc đời đầy bi kịch và cái chết của nhân vật Đan Thiềm trong lịch sử. trong vở kịch "Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng, ta càng thấm thìa những vần thơ trên đây của Xuân Diệu.
Đề bài: Cảm nhận về nhân vật Đan Thiềm qua hồi 5 vở kịch Vũ Như Tô Bài làm Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là nhà văn Hà Nội viết thành công tiểu thuyết, kịch sân khấu, kịch bản phim, truyện thiếu nhi. “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”, truyện “Sống mãi với Thủ Đô", kịch "Vũ Như Tô”, kịch “Bắc Sơn”, kịch “Những người ở lại”… của ông là những tác phẩm đầy tâm huyết, đem lại niềm vinh dự to lớn cho cây bút rất đỗi tài hoa này. “Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử 5 hồi được Nguyễn Huy Tưởng sáng tác vào năm 1941. Vũ Như Tô, Lê Tương Dực, Nguyễn Vũ, Trịnh Duy Sản, An Hòa Hầu, Nguyễn Hoằng Dụ… là những nhân vật lịch sử, những nguyên mẫu mà tác giả đã dựa vào “Đại Việt sử kí toàn thư” để sáng tạo nên. Nhân vật Đan Thiềm mang màu sắc lãng mạn, lí tướng nhằm làm nổi bật chất nghệ sĩ của Vũ Như Tô, đẩy xung đột kịch tới cao trào, đỉnh điểm. Trong lời đề tựa vở kịch “Vũ Như Tô”, Nguyễn Huy Tưởng có viết: “Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết, cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Vở kịch “Vũ Như Tô” đã nêu lên một vấn đề lịch sử – xã hội để mọi người cùng suy nghĩ. Đó là chức năng, vai trò của người nghệ sĩ, và mục đích của nghệ thuật. Người nghệ sĩ đem tài năng phục vụ ai? Mọi công trình nghệ thuật đều vì ai? Đọc vở kịch “Vũ Như Tô”, ta càng cảm hiểu và thấm thìa về những nội dung và ý nghĩa ấy. Ở đây, chuyện lịch sử, chuyện sân khấu cũng là chuyện đời chuyện hôm qua và cả chuyện hôm nay. Xung đột kịch ở Hồi V chủ yếu xoay quanh giữa Đan Thiềm với Vũ Như Tô giữa Trịnh Duy Sản với Lê Tương Dực, Nguyễn Vũ, giữa Kim Phượng và cả cung nữ với Đan Thiềm, giữa Nguyễn Hoằng Dụ, quân khởi loạn, những người thợ xây Cửu Trùng Đài với Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Bối cảnh lịch sử được phản ánh trong vở kịch “Vũ Như Tô” là từ năm 1510 đến năm 1516 dưới triều vua Lê Tương Dực, “vua lợn ” hoang dâm và xa hoa cực độ. Giặc giã nổi lên như ong. Thăng Long trở thành chiến địa. Lê Tương Dực giết vua Lê Uy Mục (vua quỷ) để giành ngôi báu. Trịnh Duy Sản giết Lê Tương Dực rồi đốt xác. Nguyễn Hoàng Dụ đốt phá kinh thành Thăng Long, bắt Vũ Như Tô là người xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, đem chém ở ngoại thành. Trần Cao khởi loạn, cướp phá lung tung. Triều đình chia thành năm bè bảy mối, ai cũng chỉ chăm chắm một điều “được làm vua, thua làm giặc”, dân bị “rán mỡ” vô cùng đau khổ điêu linh. Một câu ca được lưu truyền khắp làng quê, kẻ chợ thuở ấy: “Trời làm một trận lăng nhăng, Vua hóa ra thằng, thằng hóa ra vua”. Giữa thời buổi hỗn quân, hỗn quan ấy, có bao chuyện buồn nôn. “Vua quỷ” vừa bị giết thì “Vua lợn" đã ủn ỉn bò lên ngai vàng. Em giết anh, thái tử thông dâm với thứ phi của cha, nghịch thần nhan nhản trong triều, gian phu dâm phụ nhung nhúc trong hậu cung. Có kẻ đem lòng thương muốn cứu người mà gây mầm tai họa. Có bao kẻ ngu trung làm đau khổ dân lành. Đan Thiềm và Vũ Như Tô là những con người đáng thương hại, luẩn quẩn mãi trong vòng chữ tình và chữ danh cuối cùng bị bao thế lực căm phẫn, bị khinh bỉ rồi bị giết chết, thật đáng thương! Đan Thiềm là một cung nữ có chút ít nhan sắc và lòng nhân hậu, biết quý trọng nhân tài. Nàng đã dành cho Vũ Như Tô bao tình cảm đặc biệt. Vũ Như Tô lúc đầu không muốn đem tài năng phục vụ tên hôn quan “tướng lợn” vì hắn xa xỉ và hoang dâm. Người nghệ sĩ này có thể bị giết, bị tru di. Trước tình cảnh đó, Đan Thiềm đã mách đường cho Vũ Như Tô chạy trốn, đã khuyên “không nên trái lệnh vua”. Nhưng khi quân khởi loạn đốt phá kinh thành, lùng sục kẻ xây dựng Cửu Trùng Đài, cho đó là “thủ phạm” thì Đan Thiềm chạy hớt ha hớt hải, mặt cắt không còn hột máu đi tìm Vũ Như Tô. Đan Thiềm thiết tha van xin vị công trình sư tài ba: “Ông phải trốn đi. Ông phải trốn đi… trốn đi để chờ cơ hội khác. Đại sự hỏng rồi”. Khi tiếng quân ầm ầm, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và, tiếng ngựa hí nổi lên, khi quân khởi loạn truy tìm “thủ phạm” để giết, để phá Cửu Trùng Đài, thi Đan Thiềm không hề lo đến tính mạng cùa mình mà chỉ lo Vũ Như Tô bị sát hại. Nàng đã hết lời van xin: “Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai tô điểm nữa”. Lòng nhân ái và sự quý trọng nhân tài của Đan Thiềm thật đáng trọng. Nhưng cách suy nghĩ của người cung nữ này thì nông nổi, phiến diện, đáng thương. Có đúng là, nếu Vũ Như tô bị giết chết thì “nước ta không còn ai tô điểm nữa” không? Có đúng là “khi dân nổi lên, họ nông nổi vô cùng. Họ không phân biệt phải trái?”. Đan Thiềm có biết hay không biết, vua Lê Tương Dực đã ra sức vét thuế, đã “rán mỡ dân” xây dựng Cửu Trùng Đài để sống xa hoa, hưởng lạc giữa hàng trăm, hàng nghìn cung nữ. Đan Thiềm có biết hay không biết, vì xây dựng Cửu Trùng Đài mà hàng vạn dân phu, thợ thuyền bị lao dịch vất vả, bị đói rét, bị chết vì ốm đau, bị tai nạn, nhiều người bỏ trốn đã bị Vũ Như Tô bắt giết? Đan Thiềm quá thương Vũ Như Tô, quá trọng cái tài của ông Cả, mà nàng như mê, càng ngày càng trở nên “lẩn quẩn”. Khi quân khởi loạn đã đốt phá kinh thành, đập phá tan tành Cửu Trùng Đài, nhưng bà ta còn quỳ lạy, van xin Ngô Hạch (một võ sĩ, một đứa tiểu nhân): “Tướng quân tha cho ông Cả. Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm”. Lửa đã cháy đến chân, đầu sắp lìa khói cổ, nhưng bà ta vẫn “lẩn thẩn", u mê, van lạy: “Tướng quân hãy nghe tôi, đừng phạm tội ác. Đừng giết ống Cả. Tôi xin chịu chết”. Đan Thiềm quá thương Vũ Như Tô, quá quý trọng cái tài của Vũ Như Tô mới có ngôn từ và cách hành xử ấy. Nhưng tình cảnh đất nước loạn lạc, vua thì xa xỉ, hoang dâm, nhân dân lầm than đau khổ, một trong những "thủ phạm” làm cho dân chúng oán hận là Vũ Như Tô, kẻ đã xây Cửu Trùng Đài, bà ta có biết hay không? Trước dư luận, trước những lời khen chê của đồng loại (dù đó là lời thị phi) thì cũng phải biết lắng tai nghe mà suy ngẫm. Nhưng Đan Thiềm vẫn bỏ ngoài tai tất cả, Thậm chí cho đến lúc đầu sắp lìa cổ vẫn lẩn thẩn, u mê! Xây Cửu Trùng Đài, phá Cửu Trùng Đài là chuyện đại sự quốc gia. Thế mà một cung nữ (cũng như hàng trăm hàng nghìn cung nữ khác chỉ biết đem nhan sắc thỏa mãn dục vọng bọn quân vương), trí lực có là bao, thế mà vẫn “nói nhảm”, vẫn “dây vào” những chuyện tày đình! Cái chết của Đan Thiềm là một bi kịch: bi kịch về tình thương và lẽ phải, bi kịch về nhận thức mơ hồ, bi kịch giữa nghệ thuật và tội ác! Cái chết của Đan Thiềm là một bi kịch. Đúng như câu ca của dân gian đã lưu truyền: “Giúp người mà chẳng lo xa, Gây mầm tai họa, máu sa ngập đường”. Đan Thiềm đã “giúp”, đã “thương" Vũ Như Tô, bà ta đã quý trọng tài năng người thợ giỏi, bà ta muốn bảo vệ Cửu Trùng Đài, nhưng bà ta có biết hay không vì Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài mà công khố hao hụt, dân gian lầm than! Xét cho cùng, Đan Thiềm cũng là một “đồng thủ phạm” với Vũ Như Tô, là kẻ đã “gây mầm tai họa”. Nghệ thuật không phải là sự lừa dối. Nghệ thuật cũng không chỉ để thỏa mãn cuộc sống xa hoa, ăn chơi trụy lạc của những vua quỷ, vua lợn, của bọn cường quyền, của một thiểu số người trong xã hội. Nghệ thuật không phải là cái bánh vẽ. Nghệ thuật càng không thể gây đau khổ cho dân chúng. Và những chuyện đại sự quốc gia không phải ai cũng có thể can dự vào. Đó là bài học, không chỉ cho những Đan Thiềm xưa nay mà còn là những điều cần suy nghĩ nghiêm túc cho bất cứ ai trong xã hội. Bởi vậy, Đan Thiềm là một nhân vật đáng thương hại. Trong bài thơ “Dại khờ” (Tập “Gửi hương cho gió”), thi sĩ Xuân Diệu có viết: “Người ta khổ vi thương không phải cách, Yêu sai duyên, và mến chẳng nhằm người. Có kho vàng nhưng chẳng tặng tùy nơi, Người ta khổ vì xin không phải chỗ” Qua cuộc đời đầy bi kịch và cái chết của nhân vật Đan Thiềm trong lịch sử. trong vở kịch "Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng, ta càng thấm thìa những vần thơ trên đây của Xuân Diệu.
Cảm nhận về nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích chiến thắng Mtao Mxây Hướng dẫn Cảm nhận về nhân vật Đăm Săn trong đoạn trích chiến thắng Mtao Mxây Cùng với những sử thi nổi tiếng trên thế giới là I-li-at, Ô-đi-xê, thì ở Việt Nam sử thi Đăm Săn cũng được coi là một trong những báu vật thiêng liêng, là hòn ngọc quý giá trong bảo tàng di sản văn học. Đặc biệt bằn tình cảm yêu mến và khát khao của thế hệ mình vào tương lai, dân gian đã xây dựng hình tượng Đăm Săn, nhân vật chính của bộ sử thi bằng vẻ đẹp sử thi lãng mạn, hào hùng. Trước hết với mong muốn vẻ đẹp mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt, hình tượng Đăm Săn hiện lên với vẻ đẹp phi thường, hiên ngang lãm liệt, rất xứng đáng với phong thái của một tù trưởng. Vẻ đẹp Đăm Săn hiện rõ ngay từ khi chàng bước chân vào lãnh địa của Mtao Mxây. Tù trưởng sắt hung bạo dù kiêu căng ngạo mạn cũng luôn phải dè chừng sự hiện diện của chàng, thậm chí hắn còn lộ rõ vẻ bạt nhược đớn hèn của một tên tù trưởng vô dụng, yếu ớt. Hình ảnh Đăm Săn hiện lên dưới mắt kẻ thù thật dũng mãnh với khố màu sặc sỡ, đầu đội khăn đẹp cùng khí thế hừng hực: “Gươm sáng như mặt trời. Thân mình ở trần như quả dưa, ở thế chờ sẵn như con sóc. Mắt sáng gấp đôi gấp ba mắt thường”. Hình ảnh so sánh thật đặc trưng đã làm đậm nét phi thường của người anh hùng. Và vẻ đẹp của Đăm Săn còn được bộc lộ rõ hơn qua cuộc đối đầu của Đăm Săn với Mtao Mxây, đấy là cuộc chiến đấu giữa, hai tù trưởng dũng mãnh, là cơ hội để Đăm Săn khẳng định được tài năng và sức mạnh của bản thân. Bằng thủ pháp tương phản, đối lập hình ảnh người anh hùng Đăm Săn hiện ra như một vị dũng tướng thiện chiến.Trong tình cảm tôn vinh người anh hùng, mọi cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của Đăm Săn đều nổi bật, vượt trội hơn kẻ thù. Chúng ta cùng được chứng kiến màn thi tài múa khiên thú vị: Mtao Mxây thể hiện rõ sự khoác lác khi lời nói của hắn được minh chứng bằng tiếng khiên kêu lộc cộc, lộp cộp như tiếng những quả mướp đập vào nhau, còn Đăm Săn đã dập tắt nhuệ khí của hắn bằng sức mạnh phi thường trong màn múa khiên độc đáo. Ngôn ngữ sử thi khoa trương sức mạnh ấy ngang sức mạnh tự nhiên: Một bước nhảy, chàng vượt qua mây đồi tranh. Một bước lùi, vượt qua mấy đồi mía. Tiếng gió khiên rít vù vù như dông bão, cây cối nhà cửa ở xung quanh cũng nghiêng ngả. Lần múa khiên thứ hai của chàng còn ghê gớm hơn bởi dồn chứa sức mạnh trừng phạt Mtao Mxây. Sức mạnh Đăm Săn có được còn nhờ sự trợ lực của người vợ Hơ Nhị khi nàng ném trầu và thuốc cho chàng để sức lực tăng lên gấp bội. Chi tiết Đăm Săn nhận miếng trầu của người vợ còn thể hiện sự đề cao vai trò của người phụ nữ xưa trong chế độ mẫu hệ cũng như ngợi ca và khẳng định vai trò, sức mạnh cộng đồng. sau khi chiến thắng Mtao Mxây, chàng mở tiệc ăn mừng. tất cả, từ già trẻ, giá trai tôi tớ trong buôn làng đều đến góp vui, rượu thịt ăn không ngớt, tiếng chiêng, tiếng kèn, tiếng sao vang lừng làm rộn ràng cả buôn làng. Khắp nơi ai ai cũng đều nghe tin đồn của vị dũng tướng hùng dũng, hiên ngang dù biết rõ chết mười mươi vẫn không sợ chết. khung cảnh đông vui, giàu có ấy cũng chính là mơ ước ngàn đời của nhân dân ta, mong muốn sự đoàn kết, yên vui hạnh phúc sẽ đến với con người. Đăm săn chính là hình tượng tiêu biểu cho niềm khát khao ấy của người dân.
Feelings about the character Dam San in the Mtao Mxay victory excerpt Instruct Feelings about the character Dam San in the Mtao Mxay victory excerpt Along with famous epics in the world such as I-liat and Odyssey, in Vietnam the Dam San epic is also considered one of the sacred treasures, a precious pearl in the national treasure trove. literary heritage museum. Especially with the love and desire of their generation for the future, people have built the image of Dam San, the main character of the epic, with epic, romantic and heroic beauty. First of all, with the desire for strong, majestic beauty, the image of Dam San appears with extraordinary beauty, brave and majestic, very worthy of the demeanor of a chief. The beauty of Dam San was evident from the moment he stepped into Mtao Mxay's territory. The ferocious iron chief, despite his arrogance and arrogance, always had to be wary of his presence. He even showed the cowardice and cowardice of a useless and weak chief. The image of Dam San appearing in the eyes of the enemy is a brave one with a colorful loincloth, a beautiful turban and a fiery spirit: "The sword is as bright as the sun. My body is naked like a melon, waiting like a squirrel. The eyes are twice as bright as normal eyes." The unique comparison image highlights the hero's extraordinary features. And the beauty of Dam San is even more clearly revealed through the confrontation between Dam San and Mtao Mxay, which is a fight between two brave chiefs, an opportunity for Dam San to assert his talent and strength. own. By using contrasting methods, the image of the hero Dam San appears as a brave and battle-hardened general. In the sentiment of honoring the hero, every gesture, language, and action of Dam San stands out. outperform the enemy. We witnessed an interesting shield dance performance: Mtao Mxay clearly showed his braggadocio when his words were proven by the sound of his shield rattling and rattling like the sound of melons hitting each other, while Dam Hunt extinguished his morale with extraordinary strength in a unique shield dance. Epic language exaggerates that strength as equal to natural strength: With one leap, he crossed the clouds and hills. One step back, past some sugarcane hills. The wind whistled like a storm, and the surrounding trees and houses also tilted. His second shield dance was even more formidable because it contained the power to punish Mtao Mxay. Dam San's strength was also thanks to the support of Ho Nhi's wife when she threw betel and medicine to him to increase his strength. The detail of Dam San receiving a piece of betel from his wife also shows the appreciation of the role of ancient women in the matriarchy as well as praising and affirming the role and strength of the community. After defeating Mtao Mxay, he held a party to celebrate. Everyone, from old to young, to men and servants in the village, came to join in the fun. There was endless food and wine, and the sound of gongs, trumpets, and stars echoed loudly, making the whole village bustle. Everywhere everyone heard rumors of the brave and brave general, even though he knew he was going to die, he was still not afraid of death. That crowded and rich scene is also the eternal dream of our people, wishing solidarity, peace and happiness to come to people. Hunting is the symbol that represents that desire of the people.
Cảm nhận về những tâm sự của Nguyễn Du gửi gắm qua bài thơ Độc Tiểu Thanh kí Hướng dẫn Độc Tiểu Thanh kí được tác giả Nguyễn Du sáng tác dựa trên nỗi đồng cảm, xót xa về thân phận của nàng Tiểu Thanh tài hoa đoản mệnh. Bài thơ cũng là lời tâm sự của Nguyễn Du về người nghệ sĩ và nghệ thuật. Anh chị hãy trình bày cảm nhận của mình về những tâm sự của Nguyễn Du gửi gắm qua bài thơ Độc Tiểu Thanh kí. I. Dàn ý chi tiết 1. Mở bài -Giới thiệu đôi nét về Nguyễn Du -Giới thiệu đôi nét về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm 2. Thân bài -Hai câu đề: Tâm sự về bi kịch người con gái + Tây Hồ: cảnh đẹp đã hóa gò hoang, chôn vùi thanh xuân, thể xác, tài năng người con gái + Tác giả: Đồng cảm, nhớ đến cô, bên khung của sổ, những tác phẩm của cô còn lại sau khi bị đốt -Hai câu thực: Suy tư về số phận qua những thứ còn vương vấn + Son phấn: Vật dụng với người con gái đẹp, xinh đẹp nhưng bạc mệnh + Văn chương: Vô tri vô giác, không có số mệnh, vẫn bị đốt + Vật dụng còn vương vấn tới tận bây giờ -Hai câu Luận: Day dứt, băn khoăn của Nguyễn Du về sự bất công của xã hội + Tự trách: Trách trời, xã hội bất công với người tài, sắc + Gửi tâm tư của mình của câu thơ -Hai câu kết: Câu hỏi đặt ra cho bản thân về số phận mai sau + Câu hỏi ngậm ngùi xót thương, đồng cảm + Nàng tiểu Thanh: Bạc mệnh, tủi nhục, áp bức, đâu khổ nhưng được nhớ đến, được xót thương thay + Tác giả: Tự hỏi không biết sau này nhân gian có ai nhớ tới. 3. Kết bài Cảm nhận về bài thơ: Xót thương người phụ nữ, lên án xã hội sâu sắc. II. Bài tham khảo Nhắc đến đại thi hào dân tộc không ai không nhắc tới cái tên Nguyễn Du, một nhà thơ mang phong cách hiện thực và nhân đạo sâu sắc, xuyên suốt những tác phẩm của ông là những cảm xúc, sự đồng cảm, bày tỏ sự bất bình, thể hiện nỗi niềm qua những nguồn cảm hứng gần gũi nhất chính là con người Việt Nam, đặc biệt là người con gái, từ đó mà tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí ra đời, tác phẩm ông dùng ngòi bút của mình bày tỏ tâm tư, sự thương xót đối với người con gái trong xã hội xưa. Tiểu Thanh người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải chịu số phận đắng cay dưới xã hội phong kiến, xã hội không coi trọng thân phận người phụ nữ, trà đạp những con người nghèo khó, từ đây mà nhà thơ thể hiện tâm sự của mình về số phận bi kịch đó Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang Tây Hồ cảnh đẹp nhẹ nhàng, sâu lắng nay đã hóa gò hoang, nơi chôn giấu tuổi thanh xuân của người con gái, nơi chôn giấu cả thể xác, tài năng và sắc đẹp của cô. Chỉ có tác giả là thương xót nàng, thương xót những gì còn sót lại chỉ là những bài thơ còn lại sau khi bị đốt, nhưng những thứ còn xót lại nhỏ nhoi đó lại chứa đựng nỗi lòng u uất mãnh liệt, bên khung của sổ tác giả dành trọn một tấm lòng với sự đồng cảm dành cho cô, trong tâm trí ông luôn suy tư, trăn trở về cái định mệnh nghiệt ngã mà cô không tránh khỏi, có phải vì cô đẹp, cô tài năng nên sự bất công đến với cô, nhưng không phải chính xã hội mà cô đang sống đã đưa cô trở thành như thế, và những con người có tài, có sắc như cô đều phải chịu chung một số phận đau thương do chính xã hội mang lại. Hai câu thơ tiếp theo Nguyễn Du tiếp tục suy nghĩ về số phận của cô, những thứ còn vương lại cho tới ngày nay. Son phấn có thần chôn vẫn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương Son phấn vật dụng luôn bên cạnh những người con gái biết trang điểm, xinh đẹp nhưng đối với cô người con gái đẹp đó dù đã ra đi nhưng vẫn khiến người đời thương xót, văn chương cô viết bày tỏ tầm lòng mình trong quãng thời gian cô đơn, chỉ là một vật vô chi vô giác, một vật dụng không có tội tình gì, không mệnh số như con người nhưng vẫn bị đốt bỏ, và dù có đốt đến như nào thì vẫn còn vương vấn sót lại, vẫn vương vấn trong tâm hồn nhà thơ. Khi đã suy nghĩ về số phận của cô, tác giả lại thể hiện sự băn khoăn day dứt trong lòng. Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi Một nỗi hận từ xa xưa tới nay vẫn đang ai oán, từ Tiểu Thanh cho đến tác giả, tại sao những con người tài năng, những con người có ích cho xã hội lại phải chịu những bất công như vậy, ông vừa trách trời đất, vừa trách xã hội tại sao lại để Tiểu Thanh rơi vào tình cảnh như vậy, một người con gái đáng lẽ phải được hạnh phúc chứ không phải là sự tủi nhục, chà đạp, rồi ông oán trách tại sao chính ông cũng rơi vào tỉnh cảnh tương tự như thế. Một con người gửi gắm tâm sự của mình vào chính những câu từ xuất phát từ câu chuyện của người khác, điều đó đẩy cao hơn những gì mà ông muốn nói, muốn truyền đạt tới người đọc. Cuối cùng ông đặt mình vào trường hợp của người con gái mà tự hỏi bản thân mình đã làm được gì và sẽ ra sao trong tương lai. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa Người đời ai khóc Tố như chăng? Một câu hỏi không phải nghĩ là có thể đưa ra đáp án, người con gái ấy bất hạnh là vậy, đau khổ là vậy, chịu nhiều áp bức, chịu nhiều tủi nhục nhưng sau hơn 300 vẫn có người nhớ đến, vẫn còn người khóc thương cùng chia sẻ, nhưng tác giả đặt mình vào đó và tự hỏi rằng sau này có ai nhớ đến ông không, có ai nhớ đến hai từ Nguyễn Trãi không, hay sau khi ông mất ông sẽ chỉ trở về với cát bụi tự nhiên. Câu hỏi mang đầy sự trăn trở về số phận của chính mình, và cho đến ngày nay chẳng ai là không biết đến đại thi hào của dân tộc ta. Qua bài thơ cho ta thấy được sự đồng cảm trong số phận, sự xót thương đối với người phụ nữ, lên án xã hội cũ bất công trà đạp lên những con người có đức có tài. Bài thơ cũng bày tỏ khao khát hạnh phúc, quyền được làm người, được hạnh phúc của bất cứ ai trên thế giới này. Theo
Feelings about Nguyen Du's feelings conveyed through the poem Doc Tieu Thanh Ky Instruct Doc Tieu Thanh Ky was written by author Nguyen Du based on the sympathy and sadness about the fate of the talented and short-lived Tieu Thanh. The poem is also Nguyen Du's confession about the artist and art. Please express your feelings about Nguyen Du's feelings conveyed through the poem Doc Tieu Thanh Ky. I. Detailed outline 1. Open the lesson -Introduce briefly about Nguyen Du -Introduce a few details about the birth situation of the work 2. Body of the article -Two sentences: Confessing about a girl's tragedy + Tay Ho: the beautiful landscape has turned into a deserted mound, burying the girl's youth, body, and talent + Author: Sympathize, remember her, next to the window frame, her works remaining after being burned -Two true sentences: Reflecting on fate through lingering things + Makeup: Item for a beautiful, beautiful but unlucky girl + Literature: Inanimate, without fate, still burned + The items still linger until now -Two Essays: Nguyen Du's day-to-day concern about social injustice + Self-blame: Blame heaven and society for being unfair to talented and beautiful people + Send your thoughts of the poem -Two concluding sentences: Questions to ask yourself about your future fate + The question is filled with pity and sympathy + Tieu Thanh: Misfortune, humiliation, oppression, not suffering, but remembered and pitied + Author: Wondering if anyone in the world will remember it in the future. 3. Conclusion Feelings about the poem: Pity for women, profound condemnation of society. II. Reference article When talking about the great national poet, no one fails to mention the name Nguyen Du, a poet with a deeply realistic and humanitarian style, throughout his works are emotions, sympathy, and expressions of love. discontent, expressing his feelings through the closest sources of inspiration, which are Vietnamese people, especially girls, from which the work Doc Tieu Thanh Ky was born, a work he used his pen to express. Express your thoughts and compassion for girls in ancient society. Tieu Thanh, a talented and beautiful girl, suffered a bitter fate in a feudal society, a society that did not value women's status and trampled on poor people. From here, the poet expressed her heart. my story about that tragic fate Tay Ho's beautiful landscape turns into a wild mound Tay Ho, the gentle and profound beauty, has now turned into a deserted mound, a place where a girl's youth is buried, where her body, talent and beauty are buried. Only the author had pity on her, pity on what was left, which were only poems left after being burned, but those small remains contained intense melancholy, beside the frame of the book. The author devoted all his heart and sympathy to her. In his mind, he was always thinking and wondering about the cruel fate that she could not avoid. Is it because she was beautiful and talented that her unfortunate fate was inevitable? Success came to her, but it was not the society she lived in that made her become like that, and talented and beautiful people like her all had to suffer the same painful fate brought by society itself. In the next two verses, Nguyen Du continues to think about her fate, which still lingers to this day. Lipstick has a hidden spirit and still hates it Literature that is not destined to be burned still lingers Makeup and cosmetics are always next to girls who know how to apply makeup and are beautiful, but for her, that beautiful girl, even though she has passed away, still makes people feel sorry for her. The literature she wrote expressed her feelings during that time. lonely time, just an inanimate object, an object that has no sin, no fate like humans but is still burned, and no matter how much it is burned, it still lingers, still remains. lingers in the poet's soul. When thinking about her fate, the author expressed the torment in his heart. Ancient and ancient anger asked wisely A hatred from ancient times until now is still lamenting, from Tieu Thanh to the author, why talented people, people who are useful to society have to suffer such injustices, he blames God. land, while blaming society for letting Tieu Thanh fall into such a situation, a girl should have been happy, not humiliated and trampled, then he blamed why he himself also fell. into a similar situation. A person puts his feelings into the words that come from other people's stories, which enhances what he wants to say and convey to the reader. Finally, he put himself in the girl's situation and asked himself what he had done and what he would do in the future. I don't know in three hundred odd years Who in this world cries To such as? A question that I don't think can be answered, that girl was so unhappy, so miserable, suffered so much oppression, suffered so much humiliation, but after more than 300 years, there are still people who remember, there are still people Weeping and sharing, but the author puts himself there and wonders if anyone will remember him in the future, will anyone remember the two words Nguyen Trai, or will he just return to dust after his death? course. The question is filled with concern about one's own fate, and to this day there is no one who does not know the great poet of our nation. Through the poem, we can see the sympathy in fate, the pity for women, and the condemnation of the old society's injustice trampling on virtuous and talented people. The poem also expresses the desire for happiness, the right to be human, to be happy of anyone in this world. According to
Cảm nhận về những vẻ đẹp khất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ Nhặt – Kim Lân) và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) Hướng dẫn Những vẻ đẹp khất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ Nhặt – Kim Lân) và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) Mở bài: Giới thiệu hai nhân vật người: “vợ nhặt” trong truyện “ Vợ nhặt” của Kim Lân và nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện “ Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Thân bài Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm. Kim Lân là nhà văn chuyên viết nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc, viết về tình huống “nhặt vợ” độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp củ những con người bình dị trong nạn đói thê thảm. Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi mới “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nổi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ. Nhưng nhìn sâu vào bên trong tâm hồn của họ, chúng ta sẽ nhìn thấy được những nét cao đẹp đáng quý. Cảm nhận về hai nhân vật: Người vợ nhặt: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau. Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu: Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt. Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ. Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết loa toan. Người đàn bà hàng chài: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sắc nét, theo lối tương phản giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Bên trong ngoại hình thì xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thương chồng, thương con hết mực và thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. Tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. So sánh: Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh, … Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Họ là những người phụ nữ nhân hậu, hiền thục của những người phụ nữ Việt Nam. Những hình ảnh đó mang lại cho người đọc những cảm nhận sâu săc và bài học quý giá để noi gương. Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua csc chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ gánh nặng mưu sinh, hiện qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình….. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm hưng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà chài lưới lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự – đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại). Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp của hai nhân vật. Nêu suy nghĩ riêng.
Feel the hidden beauty of the characters of the pick-up wife (The Pick-up Wife – Kim Lan) and the fisherman (The boat in the distance – Nguyen Minh Chau) Instruct The hidden beauties of the characters of the picker's wife (The Picker's Wife - Kim Lan) and the fishing woman (The boat in the distance - Nguyen Minh Chau) Opening: Introducing two human characters: the "picked wife" in the story "The Picked Wife" by Kim Lan and the character of the fisherman in the story "The Boat in the Far Away" by Nguyen Minh Chau. Body of the article General introduction about the author and work. Kim Lan is a writer specializing in writing about rural areas and people's lives, with a knack for short stories. The Picked Wife is an excellent short story, written about the unique situation of "picking up the wife", thereby expressing a strong belief in the good qualities of ordinary people during a tragic famine. Nguyen Minh Chau is a typical writer of the anti-American period, also a pioneer writer in the reform period. "The boat in the distance" is an excellent short story from the later period, written about an artist's encounter with a life full of The paradox of a fishing family, thereby expressing compassion, concern for people and concerns about the responsibilities of artists. But looking deep inside their souls, we will see noble and precious features. Feelings about the two characters: The wife picked up: Although not described much, the wife is still one of the three important characters in the work. This character is portrayed vividly, in a contrasting way between exterior and interior, initial and later. Some typical hidden beauties: Behind the situation of drifting and hardship, there is a strong desire to live. Behind the unkempt and dirty appearance, there is a reasonable and considerate person. Inside the harsh, haggard appearance, there is a gentle, correct, and well-mannered woman. Fishing woman: As the main character, he plays an important role in expressing the ideology of the work. This character is portrayed sharply, in a contrasting way between appearance and interior, between status and qualities. Inside the ugly and rough appearance is a kind, altruistic, generous heart, rich in the virtue of sacrifice. Behind the resignation and patience is still a person with a desire for happiness, courage, and toughness. Behind her rustic, uneducated appearance is a woman who loves her husband, loves her children deeply and deeply understands life. Typical of the traditional beauty of Vietnamese women. Compare: Similarities: Both characters are small, victims of circumstances,... Their precious beauty is obscured by their miserable lives. They are the kind and gentle women of Vietnamese women. Those images give readers deep feelings and valuable lessons to imitate. Difference: The beauty shown in the character of the wife is mainly the qualities of a new bride, shown through details full of humorous aftertaste, during the tragic famine. The beauty engraved in the fisherman are the qualities of a mother burdened with making a living, shown through dramatic details, in a situation of domestic violence... The hidden beauty of the wife is placed in the process of development, changing from low to high (romantic euphoria), while the fisherman is static, unchanging like a painful reality that is changing. existence (inspiration from worldly affairs - personal life in the tendency to re-perceive). End: Reaffirming the beauty of the two characters. State your own thoughts.
Cảm nhận về sức sống tiềm tàng trong tâm hồn của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ Bài làm “Vợ chồng A Phủ” là một trong ba tác phẩm đặc sắc viết về đề tài miền núi rút ra từ tập truyện “Tây Bắc” (1953) của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc và đầy xúc động về số phận của nhân vât Mị- cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra với những vẻ đẹp về ngoại hình, tinh thần cũng như sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung với khao khát chính đáng về cuộc sống tự do, khao khát tình yêu. Trong tác phẩm, tác giả Tô Hoài đã làm nổi bật hình tượng một cô gái miền núi không những xinh đẹp mà còn rất tài hoa, chăm chỉ. Vẻ đẹp của Mị khiến cho mỗi khi mùa xuân đến trai làng đứng nhẵn cả đầu vách buồng Mị. Như vậy, cô hoàn toàn có những phẩm chất đáng tôn trọng và rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Kể từ khi về làm con dâu thống lí Pá Tra, nhân vật Mị hiện lên với số phận bất hạnh và được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu tác phẩm với hình ảnh “ai ở xa về bao giờ cũng thấy một người con gái ngồi quay sợi bên cạnh một tảng đá trước cửa chuồng ngựa”. Vì cha mẹ không trả nổi món nợ vay thống lí để làm đám cưới lúc trẻ nên Mị đã bị A Sử bắt về và chấp nhận kiếp “làm dâu gạt nợ” cho nhà thống lí. Kể từ đó, cô trở thành một nô lệ bị đọa đày, bị hành hạ, bị tước đoạt hết mọi quyền sống và rồi, cô cam chịu cuộc sống đó như một cái xác vô hồn. Mị mất dần những ý niệm về thời gian và chỉ nhận thức thế giới qua các ô cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay nắng”, cô sống một cuộc sống không còn ý nghĩa. Những tưởng hoàn cảnh nghiệt ngã đã tiêu diệt khát vọng về cuộc sống trong Mị. Nhưng không! Tình yêu, khát vọng cuộc sống chỉ bị lụi tắt chứ không hề lụi tàn. Mỗi khi vào buồng, Mị lại ngồi xuống trông ra cửa sổ. Chi tiết này cho thấy tâm hồn Mị vẫn luôn hướng ra bên ngoài và luôn tồn tại những khát khao dù là mỏng manh mơ hồ, chỉ cần có chất xúc tác là sẽ sẵn sàng trỗi dậy. Vì thế nên trong một đêm xuân tại Hồng Ngài, tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn Mị nhớ lại thời xa xưa. Quá khứ tươi đẹp của tuổi thanh xuân hiệ hữu chân thực, rõ nét qua tiếng sáo gọi bạn văng vẳng bên tai. Đó là tiếng sáo của tình yêu, của tuổi thanh xuân căng tràn sức sống và dường như lúc này, Mị không còn là cô con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra nữa: “Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Nhưng thực tế, Mị vẫn còn ở nhà thống lí Pá Tra và chịu kiếp đạy đòa, vì thế Mị ước có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay. Và hành động phản kháng lần thứ nhất đã diễn ra khi quyết định đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn thêm một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc và với tay lấy cái váy hoa. Nhưng rồi tất cả đã bị dập tắt khi A Sử nhìn thấy, đoán được ý định của Mị, hắn trói Mị đứng vào cột. Nhưng hành động phi nhân tính của A Sử chỉ có thể giam cầm được thể xác của Mị chứ không thể trói buộc tâm hồn đang bay theo tiếng sáo của Mị. Sức sống mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật Mị đã được khẳng định một lần nữa thông qua hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ. Cuộc sống đọa đày trong nhà thống lí Pá Tra sẽ vẫn tiếp diễn nếu như không có chuyện A Phủ- người từng đánh lại A Sử bị phạt vì làm mất một con bò. Trong những ngày đầu, Mị hoàn toàn thờ ơ và vô cảm trước việc A Phủ bị trói. Nhưng rồi sau đó, khi nhìn thấy giọt nước mắt lăn trên má A Phủ, Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử trói mình và Mị đã nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Mị xót xa cho A Phủ và trong cô diễn ra sự đấu tranh lo sợ mình sẽ bị trói thay. Nhưng rồi khát vọng sống tự do đã khiến Mị theo cởi trói và chạy theo A Phủ, cũng là giải thoát cho bản thân mình. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt phải chống lại cả cường quyền và thần quyền. Như vậy, bằng ngòi bút sắc sảo cùng tài năng miêu tả tâm lí nhân vật, tác giả Tô Hoài đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị với những nét đẹp về ngoại hình lẫn tâm hồn, đặc biệt là sức sống tiềm tàng nhưng hết sức mãnh liệt. Qua nhân vật này, tác giả đã đặt ra những vấn đề về giá trị hiện thực thông qua bức tranh xã hội đè nén, trói buộc giam hãm con người. Từ đó tác giả bộc lộ thái độ đồng cảm, sẻ chia đối với những thân phận bị áp bức và đặt niềm tin vào sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người.
Feel the potential vitality in the soul of the character Mi in A Phu and his wife Assignment "A Phu and his wife" is one of three unique works written on mountainous topics drawn from the story collection "Tay Bac" (1953) by writer To Hoai. The work leaves a deep and emotional impression on the fate of the character Mi - the daughter-in-law who swindled the debt of governor Pa Tra with her beauty in appearance, spirit as well as strong potential vitality. Before becoming the daughter-in-law of the Pa Tra governor, Mi was a beautiful, young Meo girl with a legitimate desire for a free life and a desire for love. In the work, author To Hoai highlights the image of a mountain girl who is not only beautiful but also very talented and hardworking. My beauty makes every spring come the village boys stand at the top of the wall of My room. Thus, she absolutely has respectable qualities and is very deserving of happiness. Since becoming the daughter-in-law of governor Pa Tra, the character Mi appears with an unfortunate fate and is clearly shown right from the opening of the work with the image "whoever comes from far away always sees a girl." sat spinning next to a rock in front of the stable door. Because her parents could not repay the debt they borrowed from the governor to get married when she was young, Mi was captured by A Su and accepted the life of "being a debt-getting bride" for the governor. From then on, she became a slave, was tortured, deprived of all rights to life and then, she resigned herself to that life like a soulless corpse. She gradually lost all sense of time and only perceived the world through the windows with her "hazy white hands, not knowing whether it was mist or sunshine", she lived a life that no longer had meaning. It seemed that harsh circumstances had destroyed Mi's desire for life. But not! Love and desire for life are only extinguished, not extinguished. Every time I enter the room, Mi sits down and looks out the window. This detail shows that My soul is always looking outward and always has desires, no matter how vague, that as long as there is a catalyst, they will be ready to arise. Therefore, on a spring night in Hong Ngai, the sound of the flute awakened My soul to remember the old times. The beautiful past of youth exists clearly and truly through the sound of the flute calling you ringing in your ears. That is the flute sound of love, of youth full of vitality and it seems that at this moment, Mi is no longer the daughter-in-law who swindled the debt of governor Pa Tra: "I drink wine by the kitchen and play the flute. I curled the leaf on my lips, blowing the leaf as well as playing the flute. There are so many people who are fascinated, day and night playing the flute and following Me. But in reality, I was still at the house of governor Pa Tra and was forced to be a slave, so I wished I had a handful of palm leaves in my hand, I would eat them until I died. And the first act of resistance took place when I decided to go to the corner of the house, take the grease tube, roll up an extra piece and put it in the light dish to make it brighter, re-wrap my hair and reach for the floral dress. But then everything was extinguished when A Su saw and guessed Mi's intentions, he tied her to a pole. But A Su's inhumane actions can only imprison Mi's body, but cannot bind her soul that is flying to the sound of her flute. The strong vitality in the soul of the character Mi was affirmed once again through the act of cutting the rope and untying A Phu. The miserable life in the house of governor Pa Tra would have continued if it were not for A Phu - the person who fought against A Su - and was punished for losing a cow. In the early days, Mi was completely indifferent and emotionless about A Phu being tied up. But then, when I saw a tear rolling down A Phu's cheek, I suddenly remembered the night last year when A Su tied me up and I cried many times, tears flowing down my mouth and down my neck, unable to wipe them away. Mi felt sorry for A Phu and inside her there was a struggle, fearing that she would be tied up instead. But then the desire to live freely made Mi untie herself and run after A Phu, also liberating herself. That bold and unexpected action was the inevitable result of the potential vitality of a weak girl having to fight against both power and theocracy. Thus, with a sharp pen and talent for describing character psychology, author To Hoai has built the image of the character Mi with beautiful features in appearance and soul, especially the potential but exhausted vitality. intense strength. Through this character, the author raised questions about realistic values ​​through a picture of society that oppresses, binds, and imprisons people. From there, the author revealed an attitude of sympathy and sharing towards oppressed people and put his faith in the strong vitality hidden within humans.
Cảm nhận về thiên nhiên trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh Hướng dẫn Cảm nhận về thiên nhiên trong Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một thi sĩ một yhi sĩ với nhiều đóng góp không chỉ văn học mà còn ở thơ ca. Những chủ đề mà Người viết nhiều chủ yếu được lấy cảm hứng từ thiên nhiên, cho dù dừng chân nơi đâu, nghĩ về điều gì thì chính thiên nhiên là nền tảng của sáng tạo và góp phần làm giàu lên tâm hồn của người thi sĩ Nói tới hình ảnh thiên nhiên và tập thơ Nhật Kí trong tù người ta không thể nào quên những mảnh ghép thiên nhiên vừa sống động lại vừa có hồn “Núi ấp ôm mây mây ấp núi Lòng sông gương sáng bụi không mờ. ” HÌnh ảnh núi non trùng điệp sông nước hữu tình chính là điều mà người ta nói tới nhiều nhất. KHông chỉ là hình ảnh của sông núi mà còn là hình ảnh của mấy trời sương bao phủ. Cho dù trong mọi hoàn cảnh thì hình ảnh thiên nhiên và tình yêu thiên nhiên vẫn khắc khoải trong tâm hồn của một người nghệ sĩ. Đó là hình ảnh của một người tù cách mạng trên đường đi giải sang lao tù mới Người vẫn thấy được một hình anhe đầy sống động của cảnh vật của sự chuyển động của không gian và thời gian Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn” Hơn thế hình anh thiên nhiên thật đẹp khi nó chuyển dần từ bóng tối sang ánh sáng. Ánh sáng của sự sống của những niềm tin lí tưởng và của những sức sống luôn luôn muốn trỗi dậy để bừng sáng “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng, Bóng tối đến tàn, quét sạch không” HÌnh ảnh mặt trời dần ló ra ửng hồng cả một phía báo hiệu cho một ngày sắp bắt đầu, Nó như bao phủ lấy cả tâm hồn và mắt nhìn của người nghệ sĩ Khong chỉ là hình ảnh của bình minh mà còn là hình ảnh của buổi chiều tà “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng” Hay là ánh trăng mơ ảo thủy chung lúc nòa cũng soi sáng một tâm hồn yêu thiên nhiên nhưng cuãng vô cùng yêu nước thương dan của Người. Ánh trăng đó mặc dù lấp ló ở ngoài khung cửa sổ nhưng thứ ánh sáng của nó lại soi sáng tới từng ngóc ngách tâm hồn của một người thi sĩ một người chiến sĩ. Hình ảnh quả thực thi vị và lãng mạn biết chừng nào “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. ” Hay “Chẳng được tự do mà hưởng nguyệt Hình ảnh thiên nhiên trong thơ bác thật là thi vị và hết sức phong phú đa dạng. Nó không dừng lại ở bất cứ một điêm nào hết và sức sáng tạo của nó cũng chưa bao giờ khiến con người ta nhàm chán. Con người vĩ đại ấy dù bận tram công nghìn việc nhưng tình yêu dành cho thiên nhiên lại không bao giờ dứt. HÌnh ảnh thiên nhiên và sự chuyển động cảu nó hết sức tinh tế, đặc biệt ánh sáng lửa hồng hay bình minh phía đông là những bước chuyển mình và một ngụ ý sâu xa bác dành cho lí tưởng cách mạng và tinh thần chiến đấu Nguồn: Bài văn hay
Feelings about nature in Ho Chi Minh's Prison Diary Instruct Feelings about nature in Ho Chi Minh's Prison Diary Ho Chi Minh was not only a great revolutionary but also a poet and physician with many contributions not only to literature but also to poetry. The topics that he writes about are mainly inspired by nature. No matter where he stops or what he thinks about, nature is the foundation of creativity and contributes to enriching the poet's soul. When talking about images of nature and the poetry collection Prison Diary, one cannot forget the pieces of nature that are both lively and soulful. “The mountains embrace the clouds, the clouds embrace the mountains The river bed is bright and dusty without fading. ” The charming image of mountains and rivers is what people talk about the most. Not only the image of mountains and rivers but also the image of mist-covered skies. Even in all circumstances, the image of nature and the love of nature are still etched in the soul of an artist. That is the image of a revolutionary prisoner on his way to be transferred to a new prison. He still sees a vivid image of the landscape and the movement of space and time. The constellation lifts the moon above a thousand" Moreover, the image of nature is beautiful as it gradually transitions from darkness to light. The light of life, of ideal beliefs and of vitality that always wants to rise and shine “The white of the East turns to pink, The darkness comes to an end, sweeping away the void.” The image of the sun gradually emerging, turning pink on one side, signaling the beginning of a day. It seemed to cover the artist's soul and eyes. Not only an image of dawn but also an image of sunset “Tired birds return to the forest to find a place to sleep Clouds float gently in mid-air The girl from the mountain village grinds corn at night Grinding the whole coal furnace was glowing red" Or is it that the everlasting, dreamy moonlight also illuminates a soul that loves nature but also deeply loves his beloved country. Even though that moonlight shines outside the window, its light illuminates every corner of the soul of a poet and a soldier. The image is truly poetic and romantic “People look at the moon shining outside the window Moon peeked poet watching the door. ” Good “We are not free to enjoy the moon The images of nature in your poetry are truly poetic and extremely rich and diverse. It doesn't stop at any point and its creativity never makes people bored. Even though that great man was busy with thousands of jobs, his love for nature never stopped. The images of nature and its movements are very delicate, especially the light of the fire or the eastern dawn are transformations and a profound implication for revolutionary ideals and fighting spirit. Source: Good article
Đề bài: Cảm nhận về thiên nhiên và con người lao động qua văn bản vượt thác của nhà văn Võ Quảng Bài làm Văn bản Vượt thác được trích từ chương XI truyện Quê nội (1974) của Võ Quảng – nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Đoạn trích đưa ta về cảnh thiên nhiên sông nước trên sông Thu Bồn trong một cuộc vượt thác gian nan, vất vả cửa con người. Vượt thác đã đưa bạn đọc cùng với hành trình của con thuyền do dượng Hương Thư chỉ huy, từ vùrg đồng bằng trù phú, vượt qua những thác ghềnh ở vùng núi để tới thượng nguồn lấy gỗ về dựng trường học cho làng Hoà Phước sau Cách mạng 1945 thành công. Vượt thác là bức tranh thiên nhiên trên dòng sông Thu Bồn. Bức tranh đó được miêu tả có sự thay đổi theo từng chặng đường của con thuyền, theo điểm nhìn của tác giả. Nhà văn đã chọn vị trí quan sát là ở trên thuyền nên có thể nhìn thấy cảnh quan hai bên bờ cũng như dòng nước trên sông: con thuyền đi đến đâu thì cảnh hiện ra đến đấy. Có thể nói đó là một vị trí quan sát thích hợp nhất để tả cảnh. Tác giả đã tìm ra được những nét tiêu biểu, đặc sắc của từng vùng con thuyền đã đi qua: vùng đồng bằng êm đềm thơ mộng, trù phú bao la với những bãi dâu trải ra bạt ngàn đến tận những làng xa tít; đoạn sông có nhiều thác dữ thì từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn. Khi con thuyền vượt qua thác dữ thì nhiều lớp núi, đồng ruộng lại mở ra. Ở đây, cảnh vật được nhân hoá, so sánh khiến cho bức tranh thiên nhiên sông nước có hồn, sinh động và gợi cảm. Con thuyền như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp… Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn… Rồi thuyền vượt qua khỏi thác cổ Cò. Dòng sông cứ chảy quanh co dọc những núi cao sừng sững. Nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa là hình ảnh những cây cổ thụ trên bờ sông mà tác giả đã miêu tả đến hai lần ở đoạn đầu và cuối bài văn. Khi con thuyền đã qua đoạn sông êm ả, sắp đến chỗ có nhiều thác dữ thì dọc bờ sông hiện ra những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước như là cảnh báo con người: phía trước là khúc sông có nhiều thác dữ, cần phải chuẩn bị tinh thần để vượt qua. Đến khi con thuyền vượt qua nhiều thác dữ thì dọc sườn núi lại hiện ra Những cây to mọc giữa những bụi lúp xúp nom xa như những cụ già vung tay hô con cháu tiến về phía trước. Một hình ảnh so sánh đầy sức sáng tạo nhưng vẫn không mất đi độ chính xác và gợi cảm. Trong cách nhìn của người vượt thác, những cây to so với những cây thấp nhỏ lại giống như những cụ già đang hướng về phía con cháu họ mà động viên, thúc giục họ tiến về phía trước. Ân sau cách nhìn ấy là tâm trạng phấn chấn của những con người vừa vượt qua nhiều khó khăn, nguy hiểm. Điều đặc sắc hơn là những cây cổ thụ đều được ví với người để biểu hiện thêm những tầng nghĩa mới. Song điều đặc biệt ở đây là mỗi hình ảnh so sánh đều có nét riêng độc đáo không gây sự nhàm chán. Cho nên, nếu hình ảnh ở đoạn cuối văn bản là một hình ảnh so sánh rõ ràng (có từ so sánh “như”) thì hình ảnh ở đoạn trước (đầu văn bản) là một sự so sánh kín đáo, được thể hiện bằng một cách nhân hoá (qua cái dáng đứng trầm ngâm lặng nhìn – đặc điểm chỉ có ở con người để miêu tả cho những chòm cổ thu). Tạo được những hình, ảnh giàu sức biểu hiện như vậy là một thành công của Võ Quảng. Khung cảnh thiên nhiên dù có đẹp đến đâu cũng chỉ là một cái nền để tôn vẻ đẹp của con người bởi con người bao giờ cũng là trung tâm của cảnh. Đó là chú Hai, vi tiêu biểu nhất, đẹp nhất là dượng Hương Thư ở cảnh vượt thác dữ. Nhà văn đã đặc tả nhân vật này với những chi tiết đầy ấn tượng thể hiện một quyết tâm lớn để chiến thắng hoàn cảnh. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cẩn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào, giống như một hiệp sĩ của Trường sơn oai linh hùng vĩ. Biện pháp so sánh được sử dụng nối nhau liên tiếp trong đoạn đã khắc hoạ vẻ đẹp rắn chắc, dũng mãnh của nhân vật, biểu thị sức mạnh, sự cố gắng hết sức tập trung tất cả tinh thần và nghị lực để chiến đấu với dòng thác. Người đọc ngỡ như hình ảnh huyền thoại anh hùng xưa với tầm vóc phi thường của những Đam San, Xinh Nhã bằng xương, bằng thịt đang hiển hiện ra trước mắt. Phải chăng thông qua nghệ thuật so sánh tài tình nhà văn làm nổi bật cái “thần” nhằm tôn vinh hình ảnh con người trước thiên nhiên rộng lớn. Lại một so sánh tưởng chừng như lạc lõng: Dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vảng dạ dạ, thực chất đã mang lại hiệu quả bất ngờ. Nó không những chỉ đối lập và thống nhất hai tư thế, hai hình ảnh khác nhau của cùng một con người mà còn hé mở cho người đọc biết thêm những phẩm chất đáng quí của người lao động: khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc sống đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trong công việc, trong khó khăn thử thách. Đoạn văn là sự thống nhất cao độ và thành công tột bậc giữa tả thiên nhiên và tả người, tả chân dung con người trong hoạt động, giữa kể và tả với hai biện pháp nghệ thuật phó biến: nhân hoá và so sánh. Võ Quảng đã thành công trong việc thể hiện chủ đề của bài văn qua cảnh vượt thác của dượng Hương Thư, chú Hai và thằng Cù Lao. Nhà văn ca ngợi cảnh thiên nhiên miền trung đẹp, hùng vĩ, ca ngợi con người lao động Việt nam hào hùng mà khiêm nhường, giản dị.
Topic: Feelings about nature and working people through the text of canyoning by writer Vo Quang Assignment The text Crossing the Waterfall is excerpted from chapter XI of the story Que Noi (1974) by Vo Quang - a writer specializing in writing for children. The excerpt takes us back to the natural landscape of the Thu Bon River during an arduous and strenuous waterfall crossing for humans. Crossing the Waterfall took readers along the journey of the boat commanded by Uncle Huong Thu, from the rich plain, over the rapids in the mountains to reach the upstream to collect wood to build a school for Hoa Phuoc village later. The 1945 Revolution was successful. Crossing the waterfall is a natural picture on the Thu Bon river. That picture is described as changing with each journey of the boat, according to the author's point of view. The writer chose the observation position to be on the boat so he could see the landscape on both banks as well as the water flow on the river: wherever the boat went, the scene appeared. It can be said that it is the most suitable observation position to describe the scene. The author has found the typical and unique features of each region the boat has passed through: the peaceful, poetic, vast and prosperous plain with mulberry fields stretching out to far away villages; The section of the river with many fierce waterfalls can be launched from above between two steep cliffs and the snake's tail will flow. When the boat passes the fierce waterfall, many layers of mountains and fields open up. Here, the landscape is personified and compared, making the natural picture of the river and river more soulful, lively and sexy. The boat seemed to remember the mountains and forests and had to glide quickly to get back in time... The water from above rushed between two steep cliffs and flowed off the snake's tail... Then the boat passed the Co Co waterfall. The river continues to flow windingly along the towering mountains. But containing a lot of meaning is the image of ancient trees on the riverbank that the author described twice at the beginning and end of the essay. When the boat passed through the calm section of the river, and was about to reach a place with many fierce waterfalls, along the riverbank appeared clusters of powerful ancient trees standing thoughtfully and silently looking into the water as if warning people: ahead was a section of the river with There are many dangerous waterfalls, you need to be mentally prepared to overcome them. When the boat passed many fierce waterfalls, along the mountainside appeared big trees growing among the bushes, looking into the distance like old people waving their hands to shout to their children and grandchildren to move forward. A comparison image full of creativity but still not losing accuracy and sexiness. In the view of the canyoneer, the big trees compared to the short and small trees are like old people looking to their children and grandchildren to encourage and urge them to move forward. Behind that perspective is the elated mood of people who have just overcome many difficulties and dangers. What's more special is that ancient trees are compared to people to express new layers of meaning. But the special thing here is that each comparison image has its own unique features that do not cause boredom. Therefore, if the image at the end of the text is a clear comparison image (with the comparative word "like"), then the image in the previous paragraph (beginning of the text) is a discreet comparison, expressed. in an anthropomorphic way (through the posture of standing and looking silently - a characteristic only found in humans to describe ancient autumn constellations). Creating such expressive images and images is a success for Vo Quang. The natural scenery, no matter how beautiful, is just a background to enhance the beauty of humans because humans are always the center of the scene. That is Uncle Hai, the most typical and beautiful one is Uncle Huong Thu in the scene of overcoming the waterfall. The writer has described this character with impressive details showing a great determination to overcome circumstances. Uncle Huong Thu is like a cast bronze statue, his muscles are strong, his teeth are clenched, his jaw is strong, his eyes are fiery on the pole, like a knight of the majestic Truong Son mountain range. The comparison method used consecutively in the paragraph portrays the character's strong and courageous beauty, expressing his strength and his utmost effort to concentrate all his spirit and energy to fight the enemy. the falls. The reader feels as if the images of ancient heroic legends with the extraordinary stature of Dam San and Xinh Nha in flesh and bone are appearing before their eyes. Perhaps through the skillful art of comparison, the writer highlights the "god" to honor the image of humans in front of vast nature. Another comparison that seems out of place: Uncle Huong Thu, who is going over the waterfall, is completely different from Uncle Huong Thu at home. He speaks softly, has a gentle personality, and obeys everyone who calls. In fact, it has brought unexpected results. doubt. It not only contrasts and unifies two different postures, two different images of the same person, but also reveals to readers more valuable qualities of workers: humility, meekness, and shyness. in everyday life, but is brave, agile, and fierce in work and in difficulties and challenges. The passage is a highly unified and extremely successful one between the description of nature and the description of people, the portrait of people in action, between telling and describing with two alternative artistic measures: personification and comparison. Vo Quang succeeded in expressing the theme of the essay through the waterfall crossing scene of Uncle Huong Thu, Uncle Hai and Cu Lao. The writer praises the beautiful and majestic natural scenery of the central region, praising the heroic yet humble and simple Vietnamese working people.
Cảm nhận về thân phận người phụ nữ Việt Nam thủa xưa Hướng dẫn Cảm nhận về thân phận người phụ nữ Việt Nam thủa xưa Bài làm Thân phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến là một đề tài được rất nhiều nhà thơ, nhà văn lựa chọn làm đề tài sáng tác của mình. Qua các tác phẩm ấy, trước mắt chúng ta hiện lên hình ảnh những con người với vẻ ngoài xinh đẹp, cũng như nhân cách cao đẹp, thế nhưng số phận lại bị phụ thuộc vào rất nhiều người khác. Sự bó buộc của xã hội phong kiến, sự tàn ác của những thế lực đen tối đã khiến cho cuộc đời của họ đầy những chông gai, sóng gió. Nhưng dù khó khăn đến đâu, ở họ vẫn luôn ánh lên một vẻ đẹp của nhân cách, của tình yêu thương, của niềm lạc quan, niềm tin vào cuộc sống. Người phụ nữ thuở xưa, thường không được tự làm chủ cuộc sống của mình. Quan niệm “tam tòng, tứ đức” khiến cho họ từ khi sinh ra cho đến khi từ rã cuộc sống, luôn phải sống, phải lo lắng, hi sinh cho rất nhiều người khác. Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ tiêu biểu, và dĩ nhiên, những lời thơ của bà cũng là những lời bộc bạch, những lời lên tiếng bảo vệ cho người phụ nữ Việt Nam thuở xưa: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son…” Họ là những người đẹp về cả ngoại hình và tâm hồn. Đầu tiên, đó là những người con gái trong trắng, xinh đẹp. Thế nhưng, họ cũng giống như hình ảnh của viên bánh trôi nước. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào quá nhiều điều, quá nhiều người. Họ không có quyền tự quyết định cuộc sống của mình. Chỉ có một thứ họ có thể tự quyết định, đó là, dù cho khó khăn đến đâu, vất vả đến đâu, họ vẫn quyết tâm giữ tấm lòng son sắt, thủy chung của mình. Chính Hồ Xuân Hương cũng phải tức giận mà thốt lên rằng: “Giá đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Họ là phái yếu, nhưng họ cũng có khả năng làm được những điều mà nam giới làm. Thế nhưng xã hội không cho phép. Có mấy ai dám ngông ngênh nói như Hồ Xuân Hương. Không nói đến văn hay, nhiều người còn quan niệm con gái không cần đi học, không cần biết chữ. Vậy thì họ làm sao có thể làm chủ được số mệnh của mình? Tuy vậy, sống trong hoàn cảnh nghèo khó, nhưng họ vẫn là những người phụ nữ thương chồng, thương con, biết chăm lo, vun vén cho cuộc sống gia đình. Họ vất vả, tảo tần những không một lời oán thán. Tú Xương – một nhà thơ rất bất mãn với tình cảnh đất nước lúc bấy giờ, cũng như với những gò bó của xã hội phong kiến, đã lên tiếng “bênh vợ”, cũng như bênh cho cả một xã hội phụ nữ không được lên tiếng, không được bảo vệ: Nuôi đủ năm con với một chồng” Xã hội phong kiến bất công, xã hội mà con người trở thành nô lệ của đồng tiền, khiến cho người phụ nữ phải vất vả, tần tảo đi chợ sớm hôm nuôi chồng, nuôi con. Thế nhưng họ coi đó là niềm vui, niềm hạnh phúc chứ không phải là gánh nặng. Ta bỗng nhớ đến hình ảnh mẹ cò trong câu ca dao của ông cha ta thuở trước: “Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao” Họ là những người giàu đức hi sinh. Dù có gian khổ đến mấy nhưng họ không một lời oán trách. Thế nhưng, có mấy người thương vợ được như Tú Xương. Thuở xưa, chế độ đa thê vô cùng phổ biến. Một người phụ nữ có thể phải chịu làm lẽ cho một gia đình giàu có nào đó. Họ phải chịu sự ghen ghét của người vợ cả và những người vợ lẽ khác. Cuộc sống chung chồng ấy, thật vô cùng cực khổ. Hồ Xuân Hương đã phải thốt lên rằng: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!”. Nhưng bà cũng không tránh khỏi guồng quay của số phận, cũng phải đi làm vợ lẽ người ta, chỉ có thể hưởng một hạnh phúc không trọn vẹn. Sự ngang tàng, bướng bỉnh, vùng lên của bà, cũng chỉ là một hạt cát giữa sa mạc. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng viết: Dù rằng bạc mệnh vẫn là lời chung” Đó là những đau khổ mà người phụ nữ trong thời đại phong kiến. Họ đẹp, đẹp cả về ngoại hình và nhân cách. Thế nhưng cuộc sống của họ không do họ làm chủ, phải sống kiếp sống lênh đênh, trôi dạt, không định trước được tương lai của mình. Tuy nhiên, họ vẫn vượt lên nhưng đau đớn, tủi nhục ấy, để kiếm tìm hạnh phúc cho mình.
Feelings about the fate of Vietnamese women in ancient times Instruct Feelings about the fate of Vietnamese women in ancient times Assignment The status of Vietnamese women in feudal society is a topic chosen by many poets and writers as the subject of their writing. Through these works, images of people with beautiful appearances and noble personalities appear before our eyes, but their fate depends on many others. The constraints of feudal society and the cruelty of dark forces have made their lives full of thorns and turbulence. But no matter how difficult it is, in them there is always a beauty of personality, of love, of optimism, of faith in life. Women in the past were often not allowed to control their own lives. The concept of "three obediences, four virtues" makes them, from birth until death, always have to live, worry, and sacrifice for many others. Ho Xuan Huong is a typical female poet, and of course, her poems are also confessions and words to defend Vietnamese women in the past: “My body is both white and round The snake is crushed even if it is molded by your own hands But I still keep my heart…” They are beautiful people in both appearance and soul. First, they are pure, beautiful girls. However, they are like the image of a cake floating in water. Their lives depend on too many things, too many people. They do not have the right to decide their own lives. There is only one thing they can decide for themselves, that is, no matter how difficult or difficult it is, they are still determined to keep their loyal and faithful heart. Ho Xuan Huong himself was angry and exclaimed: “If only I could change my destiny to be a boy So how much heroism is there? They are the weaker sex, but they are also capable of doing things that men do. But society does not allow it. There are few people who dare to speak as arrogantly as Ho Xuan Huong. Not to mention good literature, many people still think that girls do not need to go to school or know how to read. So how can they control their destiny? However, living in poor circumstances, they are still women who love their husbands, children, and know how to take care of and nurture family life. They work hard and work hard, but without a word of complaint. Tu Xuong - a poet who was very dissatisfied with the country's situation at that time, as well as with the constraints of feudal society, spoke up to "defend his wife", as well as defend an entire society where women were not allowed to speak up, not be protected: Raising five children with one husband" An unjust feudal society, a society in which people become slaves to money, makes women have to work hard, going to the market early in the day to feed their husbands and children. But they consider it a joy and happiness, not a burden. I suddenly remember the image of mother stork in the folk song of our ancestors in the past: “The stork comes out to eat at night I landed on a soft branch and flipped my neck into the pond." They are people rich in sacrifice. No matter how difficult it was, they did not complain. However, few people love their wives as much as Tu Xuong. In ancient times, polygamy was extremely popular. A woman may have to be a concubine for a wealthy family. They had to endure the jealousy of the first wife and other concubines. Life with her husband was extremely miserable. Ho Xuan Huong had to exclaim: "Damn the fate of marrying together!". But she could not avoid the twist of fate, she also had to become someone else's concubine, and could only enjoy an incomplete happiness. Her stubbornness, stubbornness, and rebellion are just a grain of sand in the desert. The great poet Nguyen Du once wrote: Even though bad fate is still the common word" Those were the sufferings of women in the feudal era. They are beautiful, both in appearance and personality. But their lives are not controlled by them, they have to live adrift, drifting, not knowing their future. However, they still overcome that pain and humiliation to find happiness for themselves.
Đề bài: Cảm nhận về thầy cô mà em yêu quý Bài làm Ai trong cuộc đời của chúng ta cũng đều có một người thầy hay một người cô giáo mà mình kính trọng nhất. Tôi cũng vậy trong những năm tháng ngồi trên ghế nhà trường Trung học cơ sở, tôi cũng mang trong lòng sự tôn trọng và kính yêu đến với một người thầy, một người với phẩm chất tốt đẹp đã giúp cho tôi trưởng thành hơn rất nhiều. Thầy giáo của tôi tên là Hoàng, chính thầy là người đã mang lại cho tôi nhiều kỉ niệm trong những ngày tháng học tập tại trường Trung học cơ sở Ngày đâu tiên gặp thầy, khi thầy bước vào lớp tôi đã rất ấn tượng với vẻ ngòa rất thư sinh của thầy, dáng thầy gầy gầy cộng thêm cặp kính nghiêm nghị, nhưng đằng sau đó là một ánh mắt vô cùng hiền từ, thầy luôn nhìn chúng tôi với ánh mắt trìu mến thân thương. Thầy có vóc dáng cao ráo, hơi gầy với trang phục giản dị quần tây, áo sơ mi. Gương mặt thầy có nét gì đó ẩn chứa sự trầm mặc của cuộc sống. Giọng thầy giảng rất đàm ấm thân thương, trìu mến. Mỗi bài học thầy đều mang đến cho học trò những điều mới mẻ, cả một bầu trời kiến thức nhiệt huyết ở trong đó. Tôi vốn dĩ không thích môn văn tôi cảm thấy nó thật nhàm chán và buồn ngủ thế nhưng ngay từ tiết học đầu học đầu tiên tôi đã có cảm nhận khác về môn Văn. Và đến tận sau này, tôi lại trở thành một cô học sinh rất nhiệt tình học môn văn, cứ đến tiết văn của thầy là tôi lại thấy phấn khởi vô cùng. Mỗi một buổi học đều là sự đầu tư tâm huyết của thầy, thầy chuẩn bị bài giảng rất kĩ, qua mỗi bài học,thầy đã dạy cho chúng tôi biết được thế nào là tình yêu, về tình cảm trong xã hội. Trong giờ đây thầy sẽ giúp chúng tôi có định hướng hơn trong học tập và có phương pháp như thế nào để học tốt hơn. Thầy không chỉ là một người thầy giỏi chuyên môn, tận tâm với công việc mà còn như là một người cha đối với tất cả chúng tôi. Mỗi bài giảng của thầy là một bài học quý giá đối với chúng tôi. Những kiến thức của thầy không chỉ là kiến thức trong sách vở mà còn cả cách sống, cách đối nhân xử thế với cuộc đời. Những thế hệ học trò đi qua thầy càng ngày càng già đi, mái tóc in hằn sương gió nhưng đối với thầy tâm huyết với học trò như vậy. Cảm nhận về thầy cô Thầy không chỉ là một người thầy, mà thầy còn như một người bạn của chúng em vậy. Các bạn con trai trong lớp còn nói rằng thầy như anh trai của họ vậy. Cả lớp em ai cũng yêu mến thầy. Thầy làm chủ nhiệm lớp em 2 năm, hai năm với biết bao kỉ niệm vui buồn khó quên. Thầy là chủ nhiệm lớp nhưng thầy không đặt nặng vấn đề thành tích. Thầy khuyên nhủ cả lớp rất nhẹ nhàng là học sinh nên chú trọng vào việc học tập, học để có kiến thức, có kiến thức sẽ giúp ích cho cuộc sống. Nhưng cũng cần biết cân bằng giữa việc học và chơi. Thầy luôn lắng nghe lời của các bạn rồi đưa ra những lời động viên cho các học trò của mình. Thầy từng nói, nghề giáo này không chỉ là ước mơ từ thuở nhỏ của thầy mà bây giờ, đó là điều quý giá nhất trong cuộc đời thầy, chỉ cần thấy học sinh của mình chăm ngoan là thầy đã cảm thấy mãn nguyện lắm rồi Có một lần những bạn con trai lớp em chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt mà thành ra xích mích lớn, các bạn lao vào đánh nhau, tình hình rất gay cấn cả lớp nhốn nháo hẳn lên. Thầy vào lớp nhưng không mắng mỏ gì nhẹ nhàng gọi các bạn ra ngoài để nói chuyện riêng, nhẹ nhàng khuyên bảo không nên làm vậy nữa. Các bạn sau khi nghe thầy phân tích, giảng giải đã ngộ nhận ra, thấy rất hối hận, các bạn xin lỗi thầy, xin lỗi nhau, bắt tay giảng hòa. Lớp tôi từ khi có thầy làm chủ nhiệm tất cả đều ngoan hơn, có ý thức trách nhiệm hơn và đặc biệt là đoàn kết hơn. Đối với tôi thầy giáo luôn là một người thầy đáng kính nhất, người đã giúp chúng tôi trưởng thành và có được ngày hôm nay.
Topic: Feelings about the teachers I love Assignment Everyone in our lives has a teacher or teacher that they respect the most. Me too, during my years in middle school, I also had respect and love for a teacher, a person with good qualities who helped me grow a lot. . My teacher's name is Hoang, he is the one who brought me many memories during my days studying at Junior High School. The first day I met him, when he entered the classroom, I was very impressed with his student-like appearance. He was skinny and had serious glasses, but behind that was an extremely gentle look. always looking at us with affectionate and loving eyes. He has a tall, slightly skinny figure and wears simple clothes, pants and a shirt. The teacher's face has something hidden in the quietness of life. The teacher's voice is very warm, loving, and affectionate. Every lesson, the teacher brings new things to his students, a whole sky of enthusiastic knowledge in it. I originally didn't like Literature, I found it boring and sleepy, but right from the first class, I had a different feeling about Literature. And until later, I became a very enthusiastic student studying literature. Every time I went to the teacher's literature class, I felt extremely excited. Each lesson is a passionate investment of the teacher. He prepares his lessons very carefully. Through each lesson, he teaches us what love is and about emotions in society. In this hour, the teacher will help us be more oriented in our studies and have methods to learn better. He is not only a good teacher, dedicated to his work, but also like a father to all of us. Each of his lectures is a valuable lesson for us. The teacher's knowledge is not only knowledge in books but also how to live and how to treat people in life. The generations of students passing by him are getting older and older, their hair is imprinted with wind and weather, but the teacher is so devoted to his students. Feelings about teachers You are not only a teacher, but you are also like a friend to us. The boys in the class even said that the teacher was like their older brother. Everyone in my class loves him. He was the homeroom teacher of my class for 2 years, two years with many unforgettable happy and sad memories. The teacher is the class leader, but he does not put much emphasis on achievement. The teacher gently advised the class that students should focus on studying, learning to gain knowledge, having knowledge will help in life. But you also need to know the balance between studying and playing. He always listens to your words and then gives words of encouragement to his students. He once said that this teaching profession was not only his childhood dream, but now it is the most precious thing in his life. Just seeing his students being obedient makes him feel very satisfied. There was a time when the boys in my class got into a big fight over a small matter, they got into a fight, and the situation was so intense that the whole class was in chaos. The teacher entered the classroom but did not scold him, gently called the students out to talk privately, and gently advised them not to do that again. After listening to the teacher's analysis and explanation, you realized and felt very regretful. You apologized to the teacher, apologized to each other, and shook hands to reconcile. Since my class had the teacher as homeroom teacher, everyone has become more obedient, more responsible, and especially more united. For me, the teacher is always the most respected teacher, the one who helped us grow up and become what we are today.
Cảm nhận về triết lí bài thơ Đi đường – Đề và văn mẫu 8 Hướng dẫn Bài tham khảo Trong thơ của Bác Hồ có nhiều bài viết về đề tài Đi đường. Đặc biệt trong Nhật kí trong tù có tới gần chục bài (Giải đi sớm, Trên đường đi, Đáp thuyền tới huyện Ung Ninh, Mới đến nhà lao Thiên Bảo…). Con đường Bác đi trong Nhật kí trong tù là con đường chuyển lao. Bác bị giải đi từ nhà tù này đến nhà tù khác ở tỉnh Quảng Tây. Trên con đường đó Bác đã xúc động, đã suy ngẫm thành thơ – trong đó có bài Đi đường: Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Nguyên tác: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan Trùng san chi ngoại hựu trùng san Trùng san đăng đáo cao phong hậu Vạn lí dư đồ cố miện gian. Mở đầu bài thơ là một phán đoán: Đi đường mới biết gian lao. Một phán đoán luận lí có nội dung và hình thức rất gần với phán đoán hiện thực (chỉ thêm một chữ “mới”). Đó là một nhận thức, một nhận thức có tính khái quát rút ra từ thực tiễn, rất phù hợp với quy luật của nhận thức: “Thực tiễn – nhận thức – thực tiễn”. Câu thơ tiếp là hình ảnh miêu tả cụ thể khách quan về đường đi gian khó, cũng là luận cứ của câu thứ nhất: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng. Con đường ấy là con đường chuyển lao nhưng cũng là con đường cách mạng, con đường sự nghiệp, con đường đời. Nếu hai câu đầu là nhận thức về gian lao của đường đi thì hai câu sau lại là kết quả của quá trình trải qua gian lao đó: Núi cao lên đến tận cùng / Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Đỉnh cao của đường đi cũng là đỉnh cao của gian lao chuyển hóa thành đỉnh cao của cảm xúc và nhận thức. Một hình ảnh thực (núi cao tận cùng), kết quả thực của tri giác, chuyển hóa thành một thu hoạch của tâm hồn, trí tuệ (thu vào tầm mắt…). Câu thơ là một kết luận triết học nhưng trước nhất vẫn là một cảm giác sảng khoái, cảm giác thực của con người khi lên tới đỉnh núi sau một chặng đường dài khó nhọc, được đứng lại nhìn cảnh vật thiên nhiên tươi đẹp trải rộng dưới chân đến hút tầm mắt. Nhưng cảm giác đó mặc dù rất nhân bản vẫn không hẳn là đích của bài thơ. Đích của bài thơ là một bài học, một quy luật: Muốn có tầm cao về tâm hồn, trí tuệ phải chịu khó vượt qua nhiều gian lao thử thách. Gian lao càng nhiều, thử thách càng cao thì tâm hồn, trí tuệ càng được nâng cao, mở rộng. Đỉnh cao của gian khó chuyển thành đỉnh cao của tâm hồn, trí tuệ, cũng là đỉnh cao của hạnh phúc, hạnh phúc của “đại giác”. Gian khó được coi là cái giá của tầm cao tư tưởng và tâm hồn. Cao Bá Quát xưa cũng viết: An tri vạn lí tâm (Nếu không thấy ba đào hùng tráng, Thì biết sao được tấm lòng muôn dặm). Những tư tưởng lớn gặp nhau, nhưng Hồ Chí Minh nói giản dị hơn. Vương Chi Hoán, nhà thơ đời Đường xưa trong bài Đăng quán tước lâu, cũng có câu: “Dục cùng thiên lí mục – Cánh thượng nhất tằng lâu”. (Muốn tầm mắt nhìn thấu ngàn dặm. Hãy lên cao thêm một tầng lầu). Nhưng kết quả thu nhận ở đây giành được có vẻ dễ dàng hơn vì đó là thu nhận, dẫu có tính triết học, cũng là của người ngoạn cảnh, còn trong bài Đi đường của Hồ Chí Minh, sự thu hoạch thuộc về người tự xác định mình là “chinh nhân” ở trên “chinh đồ” (Giải đi sớm). Người đó là chiến sĩ nhưng cũng là thi sĩ nên đã trải trái tim mình trên suốt chặng đường đi. Người ấy cũng là triết nhân nhưng không hề tư biện, không minh họa tư tưởng có sẵn bằng hình ảnh sáo mòn mà suy ngẫm trong sự sống đầy cảm xúc của chính mình. Điều đó làm cho bài thơ triết lí vẫn rung động lòng người và tư tưởng của nó đã đi sâu vào tâm trí người đọc và ở lại đó như một điều tâm đắc, một điều chiêm nghiệm và từ đó trở thành phương châm sống, thành ý chí và hành động của con người. Và đó cũng là một bí quyết thành công, một đặc điểm thi pháp thơ triết lí, thơ suy tưởng của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Feelings about the philosophy of the poem "On the Road" - Topics and sample essays 8 Instruct Reference article In Uncle Ho's poetry, there are many articles on the topic of Traveling. In particular, in the Prison Diary there are nearly a dozen articles (Early solution, On the way, Take the boat to Ung Ninh district, Just arrived at Thien Bao prison...). The path Uncle Ho took in his Prison Diary was the path of transition from prison. Uncle was taken from one prison to another in Guangxi province. On that road, Uncle Ho was moved and reflected on poetry - including the song "On the Road": Only when you travel on the road do you know how difficult it is High mountains and then high, rolling mountains The mountains rise to the very end Collect countless mountains and rivers as far as you can see. Original work: If you reveal your talent, you will expose your troubles The foreign branch is identical to the foreign branch Coincidentally, it is a high-class post Thousands of people are trying to cheat. The beginning of the poem is a judgment: Only on the road do we know the hardships. A logical judgment has a content and form very close to a realistic judgment (only adding the word "new"). It is a perception, a generalized perception drawn from practice, very consistent with the law of perception: "Practice - perception - practice". The next verse is a specific, objective description of the difficult path, which is also the argument of the first verse: High mountains and then rolling high mountains. That path is a path of transformation but also a path of revolution, a path of career, a path of life. If the first two sentences are an awareness of the hardships of the road, then the next two sentences are the results of the process of going through that hardship: The mountain reaches to the very end / Counts countless waters as far as the eye can see. The peak of the path is also the peak of hardship transformed into the peak of emotions and awareness. A real image (the highest mountain at the end), a real result of perception, transformed into a harvest of the soul and wisdom (capturing the view...). The poem is a philosophical conclusion, but first of all it is still a feeling of refreshment, the real feeling of people reaching the top of the mountain after a long and difficult journey, standing back and looking at the beautiful natural landscape spreading out. underfoot as far as the eye can see. But that feeling, although very human, is still not really the goal of the poem. The purpose of the poem is a lesson, a rule: To have great spiritual and intellectual heights, one must work hard to overcome many hardships and challenges. The more hardships and challenges, the more the soul and intellect are enhanced and expanded. The pinnacle of hardship turns into the pinnacle of the soul and intellect, which is also the pinnacle of happiness, the happiness of "great enlightenment". Difficulties are considered the price of high thought and soul. Ancient Cao Ba Quat also wrote: An understanding of ten thousand minds (If you don't see the majestic three peaches, Then you know how to win a heart that lasts thousands of miles.) Great ideas meet, but Ho Chi Minh speaks more simply. Vuong Chi Hoan, the poet of the ancient Tang Dynasty, in his article "Dang Quan Quan Giac Lau", also had the sentence: "Desire and heavenly reason - The upper wing is the first floor". (If you want your eyes to see a thousand miles away, go up one more floor). But the results obtained here seem to be easier to achieve because it is the acquisition, even if it is philosophical, also belongs to the person who enjoys the scenery, while in Ho Chi Minh's poem "On the Road", the harvest belongs to the person who enjoys the scenery. Identify yourself as a "conqueror" on the "conquest map" (Leave early). That person is a soldier but also a poet, so he spread his heart along the way. That person is also a philosopher but does not speculate, does not illustrate existing thoughts with trite images but ponders in his own emotional life. That makes the philosophical poem still move people's hearts and its thoughts go deep into the reader's mind and stay there as a favorite thing, a contemplation and from then on it becomes a motto for life and success. human will and actions. And that is also a secret of success, a poetic feature of philosophical poetry and thoughtful poetry of poet Ho Chi Minh.
Đề bài: Cảm nhận về truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy Bài làm Mị Châu – Trọng Thủy là một truyền thuyết bi tráng nhất. Ý nghĩa lịch sử của nó luôn luôn mới mẻ đối với dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam chúng ta trong bất cứ thời đại lịch sử nào. Bài học về cảnh giác với kẻ thù trong sự nghiệp giữ nước cũng suy ngẫm, cũng thấy đau xót và thấm thía. Xây thành ốc, chế nỏ thần là kì công của An Dương Vương. Tướng Cao Lỗ với kì công làm nỏ, lấy vuốt rùa thần làm lẫy không bao giờ phai mờ trong tâm hồn nhân dân và lịch sử của dân tộc. Thần Kim Quy là nhân vật huyền thoại xuất hiện đầu – cuối truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy đã tô đậm yếu tố thần kì, huyền diệu trong kì tích yểm trừ yêu quái để xây dựng Loa Thành, để chế nỏ thần Kim Quy, và việc vạch mặt chỉ tên: Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó. Nỏ thần Kim Quy thật vô cùng lợi hại. Khi Triệu Đà từ phương Bắc đem quân sang cướp phá nước Âu Lạc, An Dương Vương đã lấy nỏ thần ra bắn chết hàng vạn tên giặc, quân Triệu Đà thua to, chạy về Trâu Sơn, không dám đối chiến, xin giảng hòa. Có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần linh nghiệm, nhà vua còn lo gì nữa? Việc An Dương Vương nhận lời cầu hôn của họ Triệu Phương Bắc – kẻ thù mới năm nào từng mang quân sang xâm lược nước mình, tàn sát nhân dân mình, việc An Dương Vương còn cho Trọng Thủy – con trai Triệu Đà ở rể, hành động ấy cho thấy nhà vua Âu Lạc đã mất cảnh giác cao độ, đúng là nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà. Nỏ thần là bí mật quốc gia, nhưng làm sao mà An Dương Vương và Triều đình nước Âu Lạc lại để cho Mị Châu biết đến, để người con gái lá ngọc cành vàng đem cho Trọng Thủy xem trộm. Thậm chí đến lức kẻ gian tế ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt Rùa Vàng mà nhà vua cũng chẳng hay biết gì. Và khi Trọng Thủy ăn cắp được lẫy nỏ thần đem về nước, Triệu Đà lại đem quân sang xâm lược Âu Lạc,cảnh đất nước lâm nguy, nhưng An Dương Vương vẫn điềm nhiên đánh cờ, tự đắc cười lên giọng: Đà không sợ nỏ thần sao?. Còn gì đáng trách hơn là khi cha con Triệu Đà mang quân sang, tiến sát kinh thần Cổ Loa thì vua Âu Lạc mới cầm lấy nỏ thần bắn, và khi thấy nỏ thần không linh nghiệm nữa bèn bỏ chạy. Bị giặc là chàng rể truy kích đến đường cùng. An Dương Vương mới kêu to: Trời hại ta, thần Kim Quy ở đâu, mau lại cứu. Đâu phải Trời hại. Cảnh thành vỡ nước tan, núi xương sông máu dưới vó ngựa xâm lăng của cha con Triệu Đà, thảm kịch ấy là do An Dương Vương mất cảnh giác và chủ quan khinh địch. Sau khi nghe Rùa Vàng hiện lên thét lớn: Kẻ ngồi sau lưng là giặc đó thì nhà vua mới tỉnh ngộ, hiểu ra cơ sự và chỉ còn biết tuốt kiểm chém Mị Châu. Cái chết của nhà vua đâm đầu xuống biển, ôm theo mối thù hận, đau buồn thiên thu đã được người kể chuyện bao phủ một lớp sương mờ huyền thoại: Vua cầm sừng tê bảy tấc. Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển. Nhà vua phải là người chịu trách nhiệm nặng nề trước lịch sử. Nhưng qua truyền thuyết, nhân dân ta đã dành cho An Dương Vương một tình thương, vừa đánh giá công lao dựng nước xây Loa Thanh, chế nỏ thần, vừa cảm thông cho tẩm lòng thành thực của người đứng đầu nước Âu Lạc trong việc bang giao với phương Bắc, không muôn chiến tranh. Ý định chân thành ấy đã bị quân thù tham lam, nham hiểm lợi dụng gây nên thảm họa cho đất nước, bi kịch cho gia đình. Cái chết của An Dương Vương là một hình phạt. Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển là tình thương. Với Rùa Vàng thì Mị Châu là giặc, một thứ giặc đang ngồi sau lưng nhà vua. Với An Dương Vương thì Mị Châu là kẻ trọng tội, gây nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu nên phải chém. Vì ngây thơ và quá tin yêu chồng, mà nàng đã cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, và để hắn ăn cắp lẫy nỏ thần. Vì ngây thơ và quá tin yêu Trọng Thủy mà Mị Châu đã rắc lông ngỗng trên đường chạy giặc, để cha con Triệu Đà thúc quân truy kích An Dương Vương đến tận bờ biển phương nam đất Dạ Sơn, tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu. Lời khấn cùa Mị Châu trước khi bị vua cha chém chết cho thấy nàng đã bị lừa dối. Đó cũng là mối hận nghìn đời: Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. Mị Châu chết đi đã hóa thành ngọc. Máu nàng được các loài trai dưới biển hút, nên mới có ngọc trai. Sự thân hóa kiếp ấy là một minh chứng nàng là cô gái một lòng trung hiếu mà bị lừa dối. Dù ngây thơ, dù vô tình, Mị Châu là kẻ có tội đối với đất nước Âu Lạc và đối với vương phụ. Dù có tội, nhưng nàng thật đáng thương. Mị Châu biến thành ngọc trai ngàn năm sáng mãi là cách nhìn nhận đầy nhân tình, nhân hậu đôi với nàng. Sự phán xét của lịch sử và của nhân dân thật nghiêm khắc và công bằng. Hơn hai nghìn năm đã trôi qua, người đọc truyền thuyết vẫn cảm thây sợ hãi và ghê tởm đối với Trọng Thủy. Vị phò mã của An Dương Vương, người chồng yêu quý của Mị Châu là một tên gián điệp, một tên lừa đảo, một tên ăn cắp. Hắn còn là một kẻ đầy tham vọng, muốn biến Âu Lạc thành quận huyện của phương Bắc. Việc Trọng Thủy lao đầu xuống giếng là một hành động ân hận, sám hối, hay đó là sự trừng phạt nghiêm khắc, một sự báo oán nhãn tiền. Tình tiết ngọc trai đem rữa nước giếng Trọng Thủy nơi cổ Loa sẽ sáng thêm đã làm sáng tỏ tâm lòng trung hiếu của người con gái Âu Lạc đã bị lừa dối. Nhiều nhà thơ đã viết về truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy. Thi sĩ Tản Đà đã để lại vần thơ ngậm ngùi: Hạt châu giếng nước ngàn năm khói nhang Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy nhắc nhở chúng ta đừng có mơ hồ.
Topic: Feelings about the legend of My Chau - Trong Thuy Assignment Mi Chau – Trong Thuy is the most tragic legend. Its historical significance is always new to the Vietnamese people, our country Vietnam in any historical era. The lesson of being wary of enemies in the cause of defending the country is also contemplated, also painful and profound. Building snails and making magic crossbows are the feats of An Duong Vuong. General Cao Lo's feats of making crossbows and using magical turtle claws as traps will never fade in the hearts of the people and the nation's history. The Kim Quy God is a legendary character who appears at the beginning and end of the legend of My Chau - Trong Thuy has highlighted the miraculous and magical elements in the miracle of exorcising demons to build Loa Thanh, to make the Kim Quy magic crossbow, and naming names: Whoever sits behind the horse is the enemy. Kim Quy magic crossbow is extremely powerful. When Trieu Da from the North brought troops to pillage Au Lac country, An Duong Vuong took out his magic crossbow and shot dead tens of thousands of enemies. Trieu Da's army lost greatly and fled to Trau Son, not daring to fight, asking for peace. With high citadels, deep moats, and powerful magical crossbows, what else does the king have to worry about? The fact that An Duong Vuong accepted the marriage proposal of the Trieu Phuong Bac family - a new enemy who brought troops to invade his country every year and massacred his people, the fact that An Duong Vuong also gave Trong Thuy - Trieu Da's son as his son-in-law, That action showed that King Au Lac had lost his high vigilance. He was indeed raising bees in his sleeves and raising foxes in his house. The magic crossbow is a national secret, but how could An Duong Vuong and the Court of Au Lac let Mi Chau know, so that the girl with jade leaves and golden branches would steal it for Trong Thuy to see. Even to the point where the traitor secretly made another crossbow bolt to replace the Golden Turtle's claw, the king did not know anything about it. And when Trong Thuy stole the magic crossbow bolt and brought it back to the country, Trieu Da sent troops to invade Au Lac, the country was in danger, but An Duong Vuong still calmly played chess, smiling proudly: Da is not afraid. magic crossbow?. What could be more blameworthy is that when Trieu Da and his son brought troops and approached Co Loa, King Au Lac took the magic crossbow and shot it, and when he saw that the magic crossbow was no longer effective, he ran away. Being chased by the enemy, the son-in-law pursued him to the end. An Duong Vuong shouted loudly: God is harming me, where is the Kim Quy god, come quickly and save me. It's not God's harm. The broken city and water, the mountains and rivers of blood and bones under the invading hooves of Trieu Da and his son, that tragedy was due to An Duong Vuong being caught off guard and subjectively disregarding the enemy. After hearing the Golden Turtle appear and scream loudly: The person behind him is the enemy, the king woke up, understood the situation and only knew how to control and behead My Chau. The death of the king, who plunged his head into the sea, embracing eternal hatred and sadness, was covered by a layer of legendary mist by the storyteller: The king held a seven-inch rhino horn. The Golden Turtle parted the water and led the king into the sea. The king must bear heavy responsibility before history. But through legend, our people have given An Duong Vuong a love, not only appreciating his contributions to building the country, building Loa Thanh, making magic crossbows, but also sympathizing with the sincerity of the head of Au Lac country in his actions. Relations with the North do not want war. That sincere intention was taken advantage of by greedy and sinister enemies, causing disaster for the country and tragedy for the family. An Duong Vuong's death was a punishment. The Golden Turtle parting the water and leading the king into the sea is love. To the Golden Turtle, Mi Chau is an enemy, an enemy sitting behind the king. To An Duong Vuong, Mi Chau was a serious criminal who caused a fateful death at sea and had to be beheaded. Because she was naive and too trusting of her husband, she let Trong Thuy see the magic crossbow, and let him steal the magic crossbow bolt. Because of her innocence and too much trust in Trong Thuy, Mi Chau sprinkled goose feathers on the enemy's escape route, allowing Trieu Da and her father to urge their army to pursue An Duong Vuong to the southern coast of Da Son land, Cao Xa district, Dien Chau district. . My Chau's vow before being beheaded by her father showed that she had been deceived. That is also a thousand-year-old hatred: I am a daughter, if I have a rebellious heart and plot to harm my father, when I die, I will turn into dust. If you are deceived by someone who is loyal to you, when you die, you will turn into pearls to wash away your hatred. When Mi Chau died, she turned into a jade. Her blood is absorbed by the clams in the sea, so there are pearls. That reincarnation is a proof that she is a girl with a loyal heart but was deceived. Even though she was innocent and heartless, Mi Chau was a sinner to the country of Au Lac and to her father. Even though she is guilty, she is pitiful. My Chau turning into a pearl that shines for thousands of years is a way of seeing her full of love and kindness. The judgment of history and the people is strict and fair. More than two thousand years have passed, readers of the legend still feel fear and disgust towards Trong Thuy. The son-in-law of An Duong Vuong, Mi Chau's beloved husband, is a spy, a fraud, and a thief. He is also an ambitious person, wanting to turn Au Lac into a district of the North. Trong Thuy's plunge into the well was an act of regret, repentance, or it was a severe punishment, a visible revenge. The episode of the pearl being washed in the water of the Trong Thuy well in Co Loa to make it brighter sheds light on the filial piety of the deceived Au Lac girl. Many poets have written about the legend of My Chau - Trong Thuy. Poet Tan Da left behind a poignant poem: Beads from wells of thousands of years of incense smoke The legend of Mi Chau - Trong Thuy reminds us not to be vague.
Cảm nhận về truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy Hướng dẫn Cảm nhận về truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy Thành Cổ Loa Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa Trải bao gió táp với mưa sa Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc Giếng ngọc vơi đầy hạt lệ pha Cây cỏ vẫn cười ai bạc mệnh Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa Hưng vong biết chửa, người kim cổ Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà. Bài thơ vang lên một truyền thuyết rất đỗi quen thuộc xuất hiện “An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy”. Dân ta không ai là không biết đến truyền thuyết này. Cô công chúa Mị Nương ngốc nghếch trao nhầm niềm tin cho người chồng nội gián (Trọng Thủy). vua An Dương Vương chủ quan do có nỏ thần mà không phòng bị binh lính, chiếc nỏ thần bị trộm mất mà không hay biết, khi quân Triệu Đà đánh tới trở tay không kịp, kết cục nước mất nhà tan. Chàng rể Trọng Thủy chính là nội gián, kẻ trộm mất chiếc nỏ thần sau khi Mị Nương chết thì quyên sinh cùng. Trong truyền thuyết này kết cục của các nhân vật chính thật đáng thương. Truyện xưa kể rằng, vua An Dương được thần Kim Quy giúp đỡ sau khi xây thành Cổ Loa xong đã tặng thêm cho một chiếc móng để làm lẫy nỏ thần, chiếc nỏ đó sẽ bắn trăm phát trúng cả trăm và có thể giết hàng ngàn tên địch. Triệu Đà nhăm nhe sang xâm lược nước Âu Lạc, nhưng lần nào đánh là bại lần đấy. Dân Âu lạc kể từ khi có nỏ thần không lo chiến tranh, sống trong thái bình, no ấm. Nhưng Triệu Đà liệu có dừng lại âm mưu cướp nước Âu Lạc hay không? Là một vị vua ông muốn nhân dân của mình sống trong cảnh no ấm, không có chiến tranh, không đổ máu, muốn hai nước sống trong hòa thuận. Chính điều đó cho ta thấy ông là một vị vua nhân hậu, cũng chỉ vì nước vì dân. Mà đâu hay biết âm mưu của Triệu Đà thật thâm sâu. Biết dùng binh không được, Triệu Đà đã dùng kế điệu hổ ly sơn, sang Âu Lạc cầu xin giảng hòa và xin hỏi cưới Mị Châu con gái của An Dương Vương cho Trọng Thủy là con trai của mình. Vua An Dương Vương cứ nghĩ rằng Triệu Đà là có thành ý và không hề nghi ngờ gì. Liền gả con gái của mình cho Trọng Thủy, từ quyết định của vua An Dương Vương đã dẫn đến câu chuyện bi thảm nước mất nhà tan. Trọng Thủy là một tên nội gián, Triệu Đà vì muốn cướp nước ta nên đã cho Trọng Thủy ở lại làm rể bên đất nước Âu Lạc để dò bí mật của An Dương Vương một ngày nào đó sẽ quay trở lại xâm chiếm Âu Lạc. Trọng Thủy vì nghe lời cha đã trở thành một tên nội gián, tên phản bội. An Dương Vương vì không đề cao cảnh giác đã nuôi ong tay áo, Trọng Thủy chính là tên vong ơn bội nghĩa dù yêu Mị Châu nhưng mục đích hàng đầu của Trọng vẫn là giúp cha dò la bí mật của vua An Dương Vương để xâm chiếm nước Âu Lạc. “Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” -Tố Hữu- Nàng đã vô ý trao nước mình cho giặc, mà cũng không ngờ rằng người đầu ấp tay gối với mình mà lại có thể phản bội mình. Trọng Thủy khi biết về nỏ thần đã mau chóng, chế tạo ra một chiếc nỏ giống vậy và đánh tráo chiếc nỏ thần thật sự của vua An Dương Vương mà không hề bị nghi ngờ. Khi thực hiện thành công âm mưu của mình Trọng đã lấy lí do về thăm cha xin được về nước. Trước khi về, chàng đã nói với Mị Châu: “Tình nghĩa vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?” Tình yêu làm con người trở nên mù quáng, nếu là một người thông minh đáng lẽ Mị Châu phải nghi ngờ và đặt ra dấu chấm hỏi, tại sao lại nói như vậy trong khi hai nước vẫn đang hòa thuận, tại sao lại thất hòa? Nàng lúc nào cũng chỉ nghĩ về chuyện lứa đôi hạnh phúc, mong chờ đến ngày đoàn tụ mà đáp rằng: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể tìm được nhau”. Với chi tiết này ta thấy Mị Nương là một người nhu nhược chỉ biết răm rắp nghe theo lời chồng nói, về sau cũng vì chiếc áo lông ngỗng này mà chính Mị Châu đã đưa cha mình tới bước đường cùng, để dấu cho quân xâm lược biết đuổi theo cha. Trọng Thủy mang nỏ thần về cho cha, Triệu Đà sau khi lấy được nỏ thần đã đem quân sang xâm lược Âu Lạc, khi quân địch đánh đến nơi vua An Dương Vương vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Vì sự chủ quan đó Trọng Thủy mang nỏ thần về cho cha, Triệu Đà sau khi lấy được nỏ thần đã đem quân sang xâm lược Âu Lạc, khi quân địch đánh đến nơi vua An Dương Vương vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Vẫn không hề hay biết nỏ thần đã bị Trọng tráo mất, khi mang ra bắn lỏ không có tác dụng. Vua An Dương Vương dẫn theo Mị Châu cưỡi ngựa bỏ trốn. Mị Châu khoác theo chiếc áo rồi đi cùng vua cha, nàng không quên lời Trọng đi đến đâu rắc lông ngỗng đến đó. Đến bên bờ sông vua An Dương Vương phát hiện quân thù đuổi theo cầu cứu thần Kim Quy. Khi rùa vàng hiện lên đã chỉ rõ sự thật: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó”, vua An Dương Vương rút gươm chém đầu Mị Châu. Trước khi chết nàng đã nói rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha sẽ biến thành hạt cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người ta lừa dối khi chết đi sẽ biến thành ngọc châu để rửa sạch mối nhục thù”. Sau khi chết xác nàng biến thành ngọc thạch, máu biến thành ngọc châu. Điều đó chính là sự cảm thông của nhân dân ta đối với nàng công chúa xinh đẹp, khờ dại tin kẻ dã tâm, vô tình đưa nước ta vào ngàn năm nô lệ. Vua An Dương Vương sau khi chém đầu con gái, rùa vàng rẽ nước đưa ông xuống biển sâu. Trọng Thủy sau khi thấy xác vợ đã ôm nàng và khóc rồi không lâu sau cũng chết bên giếng ngọc.
Feelings about the stories An Duong Vuong and Mi Chau Trong Thuy Instruct Feelings about the stories An Duong Vuong and Mi Chau Trong Thuy Co Loa Citadel The citadel is also known as Co Loa Experiencing many winds and falling rain The sacred crossbow is indifferently tied with unjust strings The emerald well is filled with mixed tears The trees still laugh at those who are ill-fated The royal palace is not yet clean of dust and prosperity Hung Vuong knows pregnancy, people of ancient times The sound of hoeing is in the shadow of the moon. The poem echoes a very familiar legend appearing "An Duong Vuong and Mi Chau Trong Thuy". There is no one among our people who does not know this legend. Princess Mi Nuong foolishly gave her trust to her insider husband (Trhong Thuy). King An Duong Vuong was subjective because he had a magic crossbow but did not defend his soldiers. The magic crossbow was stolen without knowing it. When Trieu Da's army attacked, he was unable to react in time, and in the end, the country lost its home and was destroyed. The son-in-law Trong Thuy was an insider, the thief who stole the magic crossbow after Mi Nuong died and died with him. In this legend, the end of the main characters is pitiful. The old story tells that, after the construction of Co Loa citadel, King An Duong received help from the god Kim Quy and gave him an extra nail to make a magic crossbow trigger, that crossbow would shoot a hundred times, hit a hundred times, and could kill thousands. enemy name. Trieu Da intended to invade Au Lac, but every time he fought, he was defeated. Since the arrival of the magic crossbow, the people of Au Lac do not worry about war and live in peace and prosperity. But will Trieu Da stop plotting to rob Au Lac country? As a king, he wanted his people to live in prosperity, without war, without bloodshed, and wanted the two countries to live in harmony. That is what shows us that he is a benevolent king who only serves the country and the people. But we didn't know that Trieu Da's plot was so deep. Knowing that using soldiers would not work, Trieu Da used the plan of tiger leaving the mountain, went to Au Lac to beg for peace and asked to marry An Duong Vuong's daughter My Chau to Trong Thuy as his son. King An Duong Vuong thought that Trieu Da had sincere intentions and had no doubts. Immediately marrying his daughter to Trong Thuy, King An Duong Vuong's decision led to the tragic story of the loss of his country and his family. Trong Thuy was an insider. Because Trieu Da wanted to rob our country, he let Trong Thuy stay as a son-in-law in Au Lac country to find out the secret of An Duong Vuong who would one day return to invade Au Lac. Because Trong Thuy listened to his father, he became an insider and a traitor. An Duong Vuong, because he was not vigilant, raised his sleeves. Trong Thuy was an ungrateful man. Even though he loved Mi Chau, Trong's primary purpose was still to help his father probe King An Duong Vuong's secret to invade. occupied Au Lac country. “I told the story of My Chau in the past The heart is in the wrong place on the head The magical crossbow accidentally passed into the hands of the enemy That's why the fate is sinking into the deep sea" -To Huu- She unintentionally gave her country to the enemy, but she also did not expect that the person who was her best friend could betray her. When Trong Thuy learned about the magic crossbow, he quickly created a similar crossbow and swapped King An Duong Vuong's real magic crossbow without suspicion. When he successfully carried out his plot, Trong used the excuse of visiting his father to return home. Before leaving, he told Mi Chau: "The love between husband and wife cannot be forgotten, the love between parents cannot be abandoned. I am now returning to visit my father. If the time comes when the two countries are at peace, North and South are separated, I will look for her again, what will be the sign?" Love makes people blind, if she was a smart person, Mi Chau should have doubted and asked questions, why did she say that when the two countries were still in harmony, why did they fall out? ? She always only thought about the happy couple, looking forward to the day of reunion and replied: "My daughter, if you encounter separation, it will be extremely painful. I have a brocade coat with goose feathers that I often wear on my body. Wherever I go, I will tear the feathers and sprinkle them at the crossroads as a sign, so we can find each other." With this detail, we see that Mi Nuong is a weak person who only knows how to listen to her husband's words. Later, because of this goose feather coat, Mi Chau herself brought her father to the end, to hide it from the invaders. The comb knows how to chase after his father. Trong Thuy brought the magic crossbow back to his father. Trieu Da, after getting the magic crossbow, led his army to invade Au Lac. When the enemy army reached the place, King An Duong Vuong still sat leisurely playing chess. Because of that subjectivity, Trong Thuy brought the magic crossbow back to his father. Trieu Da, after getting the magic crossbow, led his army to invade Au Lac. When the enemy army reached the place, King An Duong Vuong still sat leisurely playing chess. Still unaware that the magic crossbow had been swapped by Trong, when he brought it out, it was ineffective. King An Duong Vuong took Mi Chau and fled on horseback. Mi Chau put on her shirt and went with her father. She did not forget Trong's words to sprinkle goose feathers wherever he went. Arriving at the river bank, King An Duong Vuong discovered that the enemy was chasing him and asked for help from the god Kim Quy. When the golden turtle appeared, clearly pointing out the truth: "The one sitting behind is the enemy", King An Duong Vuong pulled out his sword and beheaded My Chau. Before she died, she said: "I am a girl. If I have a rebellious heart and plot to harm my father, I will turn into a grain of dust. If one's loyalty is deceived by others, when one dies, it will turn into pearls to wash away the hatred. After death, her body turned into jade, and her blood turned into pearls. That is our people's sympathy for the beautiful princess who foolishly believed a malicious person and accidentally brought our country into a thousand years of slavery. After King An Duong Vuong beheaded his daughter, the golden turtle parted the water and took him into the deep sea. Trong Thuy, after seeing his wife's body, hugged her and cried. Not long after, he also died at the jade well.
Cảm nhận về truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu. Đặt tên cho truyện ngắn này là Bến quê, điều ấy vừa bình thường, vừa có gì khác thường. Nó bình thường ở chỗ: người ta ai chẳng có một quê hương, để một đời gắn bó, nhất là với người đã từng đi đây đi đó nhiều năm, đã lưu lạc, giang hồ. Còn khác thường là ở chỗ: cái bến quê ấy, cái bãi bồi bên kia sông mà nhân vật Nhĩ hướng về chưa hẳn là nơi chồn rau cắt rốn của anh? Có lẽ đó là quê hương của những người mà anh nhìn thấy: cả một đám khách đợi đò, quê hương của những người đi bộ hay dắt xe đạp, rõ hơn nữa, trong số ấy có "một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy" đằng kia. Với nhân vật Nhĩ, đây chỉ là một miền tưởng nhớ, một mơ ước xa xôi. Tính biểu tượng của tác phẩm, một đặc điểm nghệ thuật bao trùm của Bến quê không chỉ thấm đẫm trong mọi chi tiết, trong cách dựng truyện, mà trước hết trong việc lựa chọn đề tài. Chính nó tạo nên một cách hiểu đa dạng, những ý nghĩa nhiều tầng của thiên truyện. 1. Hoàn cảnh sống hiện thời của Nhĩ thật đáng thương. Gia đình anh là một gia đình nghèo khó. Mang tiếng là dân thành phố, nhưng nơi anh ở không phải là nhà cao cửa rộng mà chỉ là căn hộ tập thể chật hẹp một phòng, lại ở tận tầng hai. Cái nhìn và cái nhớ dù có vượt thời gian„ không gian đến mấy, nó vẫn tù túng trong cái khuôn viên nhỏ bé ấy thôi. Nhìn vợ bước xuống cầu thang, anh đã xót xa "suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm". Nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì hơn. Cái nghèo không che giấu được của cả gia đình là chiếc áo vá Liên mặc, điều ấy không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên, buồn bã. Đứa con trai, niềm hi vọng của vợ chồng anh đi học xa, tận một thành phố phía Nam được gọi trở về phải chăng cũng là dấu hiệu không vui? Cái nghèo khó, cái ốm đau từ "tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào" làm cho cái không gian chật chội kia càng thêm ngột ngạt. Sự thắt ngặt của hoàn cảnh khách quan được thể hiện bằng những dồn nén chủ quan, ngòi bút miêu tả tâm lí của người viết thật là tinh tế. Nó lắng đọng ở chiều sâu. Riêng sức khoẻ của mình, Nhĩ tự biết. Tuy ngày nào cũng uống thuốc, bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay "cũng thấy như hôm qua". Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình "vừa bay được một nửa vòng trái đất". Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không nghe: ấy là cái bờ đất lở phía bên này "cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ". Có lúc Nhĩ thảng thốt giật mình như bấm đốt ngón tay "Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?". Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc về chân lí. 2. Sang được bờ sông bên kia, với Nhĩ vừa là ước mơ vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Tính biểu tượng từ "cái bên kia sông" mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước mơ: con người ta hãy đi đến cái "bên kia sông" của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới ước mơ kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Thế giới của ước mơ chẳng qua chỉ là một vùng nhận thức (tâm thức) trong tượng tưởng của con người. Nó tuyệt đích và hoàn mĩ, nhưng nó chẳng là những gì cụ thể cả. Tuy vậy, nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chắc gì đã đến được. Vả lại không đạt đến độ chín đó của sự thăng trầm, hoặc quá ngây thơ, người ta không sao hiểu nổi. Chẳng hạn như Tùấn, con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ? Nó sẵn sàng "sà vào đám người chơi phá cờ thế trên hè" là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là "một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên". Hình ảnh đứa con, hình ảnh của ước vọng từ "cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo" cứ chập chờn, khi là đứa con, khi chính là mình, vì thế. Hình ảnh tuyệt vời, trẻ trung này là mơ ước của anh. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm vể cuồc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời (chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh), cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, "cả trong những nét tiêu sơ". Một khi đã là cái thực, nó đôi lập với sự cầu kì. Nó cần đến sự giản dị, hồn nhiên. Nhưng để hiểu được cuộc đời, người ta phải có một "con mắt xanh" nhìn nó, phải "in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia". Ý nghĩ: bến quê, bến đời, nơi người ta không tới được đậm màu sắc triết lí là ý nghĩ về con đường nhận thức tưởng như đã đến mà thực tế còn rất xa xôi. Cái nghịch lí này không triết luận dài dòng, nó nằm ngay trong tâm trạng, một tâm trạng giày vò mà "lời lẽ không bao giờ giải thích hết giữa "say mê" và "ân hận, đau đớn". Tuy nhiên, đến được với cái đích ấy, con người hạnh phúc lại theo một cách riêng không phải như "một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười" thích thú vì được chăm sóc mà là một nhà thám hiểm "đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa" trên một miền xa lạ. Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó, đối với Nhĩ là một sự hồi hộp vô biên. Hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên, "long lanh" một cách khác thường. Những ngón tay bám vào cửa sổ như bám vào hạnh phúc cũng run lên. Còn cánh tay gầy guộc giơ ra phía ngoài khuôn cửa như "đang khẩn thiết ra hiệu cho người nào đó". Người nào đó là ai? Căn cứ vào văn cảnh thì người đó chắc chắn là Tuấn, con anh. Nhưng có lẽ không chỉ có thế, hiệu lệnh tiến lên còn dành cho Nhĩ, cho mọi người, cho bạn đọc đông đảo chúng ta. Cụm từ mơ hồ "một người nào đó" được hiểu như "con người", hiểu là tất cả. Và chặng đường đến với cuộc đời như cuộc chạy tiếp sức hết thế hệ nọ đến thế hệ kia… 3.Về nghệ thuật, trong quan niệm truyền thống, khi nói đến truyện ngắn, người ta nghĩ ngay đến cốt truyện, nghĩa là một hệ thống chi tiết hành động, tất cả được kể lại một cách rành mạch, thứ tự, tạo kích thích và hứng thú cho người nghe. Bến quê đã không đi theo hướng ấy. Nhân vật trong truyện, loại truyện thế sự đời tư có lô gích bên trong, không hoàn toàn trùng khớp với thế giới bên ngoài. Thế giới bên trong này tạo nên một thứ mạch ngầm văn bản ở chiểu sâu, tạo được những dư âm thú vị. Con người ở đây là con người tự nhận thức, tự đối thoại. Vì sao loài hoa bằng lăng vốn nhợt nhạt, sắp hết mùa sao lại đậm sắc hơn? "ừcũng chả phải,… thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi". Mặt sông thì rộng ra, vòm trời cao hơn. Còn màu sắc của không gian, thời gian cứ lẫn vào giữa mơ với thực, hôm nay với hôm qua như một sự rượt đuổi, kiếm tìm "Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất" mà lại không nghĩ ra và không đật chân đến "cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình". Ý nghĩ ấy trở đi trở lại như một tiếc nuối, xót xa. Chính là đi vào đời sống nội tâm của nhân vật, Nhĩ không khỏi cảm thấy cô đơn, cái cô đơn vốn có của con người. Mặc dù chịu ơn vợ, hi vọng vào con, yêu quý mọi người nhưng hình như mơ ước của anh, khao khát của anh ít người hiểu được. Họ lo cho anh, nhưng không ai có thể tri kỉ cùng anh. Nhĩ như một kẻ độc hành cô đơn trên con đường vạn dặm. Tuy vậy, được hi vọng, ước mơ, được vui sống đến phút cuối cùng, anh không phải là một con người bất hạnh. Một phương diện khác của nghệ thuật là vấn đề kết cấu. Ở một truyện ngắn lấy cảm nghĩ làm phưong tiện để nhân vật hiện lên để có nguy cơ tản mạn. Bến quê không rơi vào tình trạng trên đây nhờ có sự kết hợp giữa chiều dọc và chiểu ngang của nó. Nếu cảm nghĩ là chiều ngang thì thời gian vẫn là trục dọc để những cảm nghĩ ấy bám vào. Mạch dọc của truyện lại khá dễ hình dung: Nhĩ từ tư thế nằm, nhích dần ra khỏi tấm nệm đến lúc ngồi được lên nhờ có sự giúp đỡ vô tư của bọn trẻ. Con thuyền từ bờ bên kia, sang quá nửa sông, rồi chạm mũi vào đất phía bên này… Sự sắp xếp không có gì khiên cưỡng làm cho sự tiếp nhận thoát ra sự gò bó, nó đạt đến sự hồn nhiên.
Cảm nhận về truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu Hướng dẫn Đề bài: Cảm nhận về truyện Bến quê của Nguyễn Minh Châu. Đặt tên cho truyện ngắn này là Bến quê, điều ấy vừa bình thường, vừa có gì khác thường. Nó bình thường ở chỗ: người ta ai chẳng có một quê hương, để một đời gắn bó, nhất là với người đã từng đi đây đi đó nhiều năm, đã lưu lạc, giang hồ. Còn khác thường là ở chỗ: cái bến quê ấy, cái bãi bồi bên kia sông mà nhân vật Nhĩ hướng về chưa hẳn là nơi chồn rau cắt rốn của anh? Có lẽ đó là quê hương của những người mà anh nhìn thấy: cả một đám khách đợi đò, quê hương của những người đi bộ hay dắt xe đạp, rõ hơn nữa, trong số ấy có "một vài tốp đàn bà đi chợ về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy" đằng kia. Với nhân vật Nhĩ, đây chỉ là một miền tưởng nhớ, một mơ ước xa xôi. Tính biểu tượng của tác phẩm, một đặc điểm nghệ thuật bao trùm của Bến quê không chỉ thấm đẫm trong mọi chi tiết, trong cách dựng truyện, mà trước hết trong việc lựa chọn đề tài. Chính nó tạo nên một cách hiểu đa dạng, những ý nghĩa nhiều tầng của thiên truyện. 1. Hoàn cảnh sống hiện thời của Nhĩ thật đáng thương. Gia đình anh là một gia đình nghèo khó. Mang tiếng là dân thành phố, nhưng nơi anh ở không phải là nhà cao cửa rộng mà chỉ là căn hộ tập thể chật hẹp một phòng, lại ở tận tầng hai. Cái nhìn và cái nhớ dù có vượt thời gian„ không gian đến mấy, nó vẫn tù túng trong cái khuôn viên nhỏ bé ấy thôi. Nhìn vợ bước xuống cầu thang, anh đã xót xa "suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm". Nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì hơn. Cái nghèo không che giấu được của cả gia đình là chiếc áo vá Liên mặc, điều ấy không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên, buồn bã. Đứa con trai, niềm hi vọng của vợ chồng anh đi học xa, tận một thành phố phía Nam được gọi trở về phải chăng cũng là dấu hiệu không vui? Cái nghèo khó, cái ốm đau từ "tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào" làm cho cái không gian chật chội kia càng thêm ngột ngạt. Sự thắt ngặt của hoàn cảnh khách quan được thể hiện bằng những dồn nén chủ quan, ngòi bút miêu tả tâm lí của người viết thật là tinh tế. Nó lắng đọng ở chiều sâu. Riêng sức khoẻ của mình, Nhĩ tự biết. Tuy ngày nào cũng uống thuốc, bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay "cũng thấy như hôm qua". Nhấc mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình "vừa bay được một nửa vòng trái đất". Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh giả vờ không nghe: ấy là cái bờ đất lở phía bên này "cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ". Có lúc Nhĩ thảng thốt giật mình như bấm đốt ngón tay "Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ?". Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc khao khát, chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc về chân lí. 2. Sang được bờ sông bên kia, với Nhĩ vừa là ước mơ vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Tính biểu tượng từ "cái bên kia sông" mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước mơ: con người ta hãy đi đến cái "bên kia sông" của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới ước mơ kia đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Thế giới của ước mơ chẳng qua chỉ là một vùng nhận thức (tâm thức) trong tượng tưởng của con người. Nó tuyệt đích và hoàn mĩ, nhưng nó chẳng là những gì cụ thể cả. Tuy vậy, nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chắc gì đã đến được. Vả lại không đạt đến độ chín đó của sự thăng trầm, hoặc quá ngây thơ, người ta không sao hiểu nổi. Chẳng hạn như Tùấn, con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ? Nó sẵn sàng "sà vào đám người chơi phá cờ thế trên hè" là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là "một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên". Hình ảnh đứa con, hình ảnh của ước vọng từ "cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo" cứ chập chờn, khi là đứa con, khi chính là mình, vì thế. Hình ảnh tuyệt vời, trẻ trung này là mơ ước của anh. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi trong Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm vể cuồc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời (chứ không phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh), cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, "cả trong những nét tiêu sơ". Một khi đã là cái thực, nó đôi lập với sự cầu kì. Nó cần đến sự giản dị, hồn nhiên. Nhưng để hiểu được cuộc đời, người ta phải có một "con mắt xanh" nhìn nó, phải "in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia". Ý nghĩ: bến quê, bến đời, nơi người ta không tới được đậm màu sắc triết lí là ý nghĩ về con đường nhận thức tưởng như đã đến mà thực tế còn rất xa xôi. Cái nghịch lí này không triết luận dài dòng, nó nằm ngay trong tâm trạng, một tâm trạng giày vò mà "lời lẽ không bao giờ giải thích hết giữa "say mê" và "ân hận, đau đớn". Tuy nhiên, đến được với cái đích ấy, con người hạnh phúc lại theo một cách riêng không phải như "một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười" thích thú vì được chăm sóc mà là một nhà thám hiểm "đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt đất dấp dính phù sa" trên một miền xa lạ. Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó, đối với Nhĩ là một sự hồi hộp vô biên. Hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên, "long lanh" một cách khác thường. Những ngón tay bám vào cửa sổ như bám vào hạnh phúc cũng run lên. Còn cánh tay gầy guộc giơ ra phía ngoài khuôn cửa như "đang khẩn thiết ra hiệu cho người nào đó". Người nào đó là ai? Căn cứ vào văn cảnh thì người đó chắc chắn là Tuấn, con anh. Nhưng có lẽ không chỉ có thế, hiệu lệnh tiến lên còn dành cho Nhĩ, cho mọi người, cho bạn đọc đông đảo chúng ta. Cụm từ mơ hồ "một người nào đó" được hiểu như "con người", hiểu là tất cả. Và chặng đường đến với cuộc đời như cuộc chạy tiếp sức hết thế hệ nọ đến thế hệ kia… 3.Về nghệ thuật, trong quan niệm truyền thống, khi nói đến truyện ngắn, người ta nghĩ ngay đến cốt truyện, nghĩa là một hệ thống chi tiết hành động, tất cả được kể lại một cách rành mạch, thứ tự, tạo kích thích và hứng thú cho người nghe. Bến quê đã không đi theo hướng ấy. Nhân vật trong truyện, loại truyện thế sự đời tư có lô gích bên trong, không hoàn toàn trùng khớp với thế giới bên ngoài. Thế giới bên trong này tạo nên một thứ mạch ngầm văn bản ở chiểu sâu, tạo được những dư âm thú vị. Con người ở đây là con người tự nhận thức, tự đối thoại. Vì sao loài hoa bằng lăng vốn nhợt nhạt, sắp hết mùa sao lại đậm sắc hơn? "ừcũng chả phải,… thời tiết đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi". Mặt sông thì rộng ra, vòm trời cao hơn. Còn màu sắc của không gian, thời gian cứ lẫn vào giữa mơ với thực, hôm nay với hôm qua như một sự rượt đuổi, kiếm tìm "Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất" mà lại không nghĩ ra và không đật chân đến "cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình". Ý nghĩ ấy trở đi trở lại như một tiếc nuối, xót xa. Chính là đi vào đời sống nội tâm của nhân vật, Nhĩ không khỏi cảm thấy cô đơn, cái cô đơn vốn có của con người. Mặc dù chịu ơn vợ, hi vọng vào con, yêu quý mọi người nhưng hình như mơ ước của anh, khao khát của anh ít người hiểu được. Họ lo cho anh, nhưng không ai có thể tri kỉ cùng anh. Nhĩ như một kẻ độc hành cô đơn trên con đường vạn dặm. Tuy vậy, được hi vọng, ước mơ, được vui sống đến phút cuối cùng, anh không phải là một con người bất hạnh. Một phương diện khác của nghệ thuật là vấn đề kết cấu. Ở một truyện ngắn lấy cảm nghĩ làm phưong tiện để nhân vật hiện lên để có nguy cơ tản mạn. Bến quê không rơi vào tình trạng trên đây nhờ có sự kết hợp giữa chiều dọc và chiểu ngang của nó. Nếu cảm nghĩ là chiều ngang thì thời gian vẫn là trục dọc để những cảm nghĩ ấy bám vào. Mạch dọc của truyện lại khá dễ hình dung: Nhĩ từ tư thế nằm, nhích dần ra khỏi tấm nệm đến lúc ngồi được lên nhờ có sự giúp đỡ vô tư của bọn trẻ. Con thuyền từ bờ bên kia, sang quá nửa sông, rồi chạm mũi vào đất phía bên này… Sự sắp xếp không có gì khiên cưỡng làm cho sự tiếp nhận thoát ra sự gò bó, nó đạt đến sự hồn nhiên.
Cảm nhận về truyện cô bé bán diêm của An Đéc Xen Hướng dẫn An-đéc-xen là một nhà văn nổi tiếng trên toàn thế giới. Ông được biết dến qua những câu chuyện kể dành cho trẻ em. Đến với “Cô bé bán diêm”- một câu chuyện cổ tích đượm buồn, ta thấy sáng lên tấm lòng yêu thương con người của nhà văn xứ Bắc Âu. Tác phẩm đã truyền cho ta lòng thương cảm sâu sắc với những kiếp đời đau khổ bất hạnh. Đêm giao thừa, đó là cái đêm mà ai cũng háo hức, chờ mong, là đêm mà Chúa trời ban phúc lành tới muôn nơi: “Trong phố sực nức mùi ngỗng quay”, nhà nhà rực sáng ánh đèn, khung cảnh đẹp xiết bao! Nhưng có ai hay chăng ngoài trời mưa tuyết trắng xóa kia, một em bé đang lầm lũi bước đi, đầu trần chân đất, bụng đói cật rét. Từng câu chữ chan chứa những giọt lệ của nhà văn. Lòng ta không khỏi se lại, xót xa, ngậm ngùi. Lời mời chào tha thiết đến như cầu khẩn, van xin mua diêm của em chẳng khiến cho bao người qua đường động lòng trắc ẩn. Sự vô tình của người đời còn tàn nhẫn hơn cả giá rét. Cái đói cái lạnh đang hành hạ em bé tội nghiệp nhưng đó mới chỉ là nỗi đau về thể xác, còn nỗi đau về tinh thần mà em phải chịu đựng còn nghiệt ngã hơn nhiều. Ở cái tuổi hồn nhiên nhất, em đã phải nói lời tạm biệt với người mẹ yêu quý. Ngay cả bà ngoại- chỗ dựa tinh thần duy nhất của em cũng không còn trên cõi đời này. Đói khát, nghèo khổ cứ bám riết lấy em, người cha suốt ngày chửi mắng, đánh đập em. Chính vì thế mà em phải bươn trải, vật lộn với sóng gió cuộc đời. Chao ôi! Cái xã hội cao sang giàu có đã đày đọa những kiếp người, những kiếp đời nhỏ bé vào hố sâu khốn cùng. Một xã hội mà ai cũng chỉ có biết đến mình thì khác chi đâu “địa ngục trần gian”. Một đoạn văn không dài nhưng đã vẽ lên hai bức tranh đối lập khiến cho những con chữ tựa như những lời tố cáo. Lần quẹt diêm thứ hai đưa em tới một bàn ăn thịnh soạn, “trên bàn toàn bát đĩa bắng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay”. Kì diệu hơn, “ ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét cắm trên lưng” tiến về phía em. Điều này thật ngộ nghĩn nhưng cũng dễ hiểu thoi vì em đang đói mà. Que diêm thứ hai tắt, mang đi mong ước nhỏ nhoi của em, chỉ còn cảnh” phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trứng xáo, gió bấc vi vu” và vài người đến nơi hẹn hò. Họ đều cuốn theo cuộc sống của riêng mình, hạnh phúc của riêng mình. Em quẹt tiếp một que diêm nữa, cây thông xanh tươi, lộng lẫy bỗng hiện ra. Cây thông Nô-en là biểu tượng của sự sum họp, hạnh phúc và cũng chính là điều mà em đang ao ước, nó giúp em bớt đi cảm giác cô dơn. Nhưng rồi cây thông cũng tan biến theo vết khói diêm mỏng manh, tất cả các ngọn nến trang trí “bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời”. “ Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hòn bayleen trời với Thượng Đế”, đọc đến đây ta cảm nhận dược tâm hồn trong sáng của em, em đâng nghĩ tới nhứng gì lung linh, cao đẹp nhất. Có thể nói những que diêm là hình ảnh tượng trưng cho các mong ước nhỏ nhoi, bình dị của trẻ thơ: được ăn ngon, được vui chơi, được sống trong tình thương gia đình. Còn nhớ trong bài thơ truyện cổ tích về loài người”, Xuân Quỳnh đã viết: “Trời sinh ra trước nhất Chỉ toàn là trẻ con” Rồi sau đó, vì những nhu cầu phát triển của trẻ mà cha, mẹ, thầy giá, ông mặt trời… mới ra đời. Cách viết độc đáo ấy nhấn mạnh trẻ em là đối tượng cần được quan tâm, yêu thương nhiều nhất. Vậy nhưng trong câu chuyện này lại ngược lại. Em bé chỉ có được sự quan tâm yêu thương từ những mộng tưởng. Và cũng qua sự đối lập giữa mộng tưởng và hiên tại, nhà văn An-đéc-xen đã gián tiếp lên á, vạch trần xã hội Đan mạch đen tối lúc bấy giờ. Đồng thời ông ca ngợi những con người nghèo khổ nhưng có tâm hồn trong sáng như cô bé bán diêm. Chi tiết em bé chết cóng mà” đôi má ửng hồng và đôi môi đang mỉm cười” gợi cho ta bao ý nghĩa. Em bé ra đi thật thanh thản bởi thế gian này chẳng còn gì níu kéo em ở lại. Kết thúc câu chuyện tuy bi kịch nhưng vẫn rất có hậu. Háy để linh hồn em được ra đi còn hơn là phải sống trong sự thờ ơ của xã hội. Cũng qua đây, phải chăng nhà văn đã gióng lên hồi chương cảnh tỉnh con người? Lời nhắn nhủ phải chăng là đừng lạnh lùng trước nỗi đau của đồng loại?
Feelings about the story of the little match seller by An Dec Xen Instruct Andersen is a famous writer around the world. He is known for his stories for children. Coming to "The Little Match Girl" - a sad fairy tale, we see the light of the Northern European writer's love for people. The work has instilled in us deep sympathy for lives of suffering and misfortune. New Year's Eve, that is the night that everyone is excited and looking forward to, the night that God blesses everywhere: "The street smells like roast goose", the houses are bright with lights, the scenery is so beautiful. bag! But does anyone know that out there in the white rain and snow, a baby is walking slowly, bareheaded, hungry and cold. Each sentence is filled with the writer's tears. My heart can't help but feel aching, sad, and sad. Her earnest invitation, almost like a plea, begging to buy matches, did not make many passersby feel compassion. People's indifference is more cruel than the cold. The hunger and cold are torturing the poor baby, but that is just physical pain, the mental pain he has to endure is much more severe. At the most innocent age, I had to say goodbye to my beloved mother. Even my grandmother - my only spiritual support - is no longer in this world. Hunger, thirst, and poverty kept haunting me, my father scolded and beat me all day long. That's why I have to struggle and struggle with life's ups and downs. Alas! The rich and noble society has condemned human lives and small lives into a pit of misery. A society where everyone only knows themselves is no different from "hell on earth". The paragraph is not long, but it paints two opposing pictures, making the words seem like accusations. The second match took her to a sumptuous dinner table, "the table was full of precious porcelain dishes and even a roast goose." More miraculously, "the goose jumped out of the plate and brought a knife and a clay hammer stuck on its back" towards me. This is funny but understandable because I'm hungry. The second match went out, taking away my little wish, leaving only the scene of "deserted streets, freezing cold, covered with snow, rustling in the north wind" and a few people going to the date. They all follow their own lives, their own happiness. I struck another match, and the lush, gorgeous pine tree suddenly appeared. The Christmas tree is a symbol of reunion, happiness and is also what I am wishing for, it helps me reduce the feeling of loneliness. But then the pine tree also disappeared with a thin trace of match smoke, all the decorative candles "soared, flew forever and turned into stars in the sky". "When a star changes its position, there is a soul flying in the sky with God", reading this I can feel her pure soul, she never thought of the most sparkling and beautiful things. It can be said that matchsticks are images that symbolize the small, simple wishes of children: to eat well, to have fun, to live in family love. Remember in the fairy tale poem about humanity", Xuan Quynh wrote: “Heaven is born first It's just children." Then, because of the child's developmental needs, father, mother, teacher, sun... were born. That unique way of writing emphasizes children as the subjects who need the most care and love. But in this story it's the opposite. The baby only gets loving attention from fantasies. And also through the contrast between fantasy and reality, writer Andersen indirectly exposed the dark Danish society at that time. At the same time, he praised people who were poor but had pure souls like the little match girl. The detail of the baby freezing to death, "her rosy cheeks and smiling lips" reminds us of many meanings. The baby passed away peacefully because there was nothing in this world to hold him back. The end of the story is tragic but still very happy. It's better to let your soul go than to live in the indifference of society. Also through here, has the writer sounded a warning to people? Is the message not to be cold towards the pain of fellow human beings?