vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Bài làm Chúng ta từng biết và cảm thông với tấm lòng của những người phải sống xa quê hương, trĩu nặng tình quê trong thơ Đường của Lí Bạch, Đỗ Phủ, Hạ Tri Chương,… Ở Việt Nam, cách đây không lâu cũng có một nghệ sĩ do hoàn cảnh riêng và yêu cầu công tác cách mạng phải xa rời quê hương miền Bắc vào sống ở miền Nam mấy chục năm trời, nhà văn Vũ Bằng – một nhà văn từng nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tấm lòng của Vũ Bằng đối với quê hương đã được gửi gắm trong tác phẩm tuỳ bút – bút kí đặc sắc Thương nhớ mười hai mà đoạn trích Mùa xuân của tôi là tiêu biểu. Đoạn trích Mùa xuân cùa tôi là một phần trong thiên tuỳ bút dài có tên Tháng giêng mơ về trăng non, rét ngọt, mở đẩu cho nỗi “thương nhớ mười hai” của nhà văn Vũ Bằng. Đoạn trích đã tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê. Vì là đoạn trích từ một thiên tuỳ bút nên không có bố cục hoàn chỉnh của một tác phẩm. Tuy vậy, đọc bài văn Mùa xuân của tôi, chúng ta vẫn hiểu và suy ngẫm về ý nghĩ và tình cảm của tác giả theo ba đoạn nhỏ: Đoạn mờ đầu: từ đầu đến “… mê luyến mùa xuân”: Con người say mê lưu luyến mùa xuân là một điều tất yếu, tự nhiên. Đoạn thứ hai: từ “Tôi yêu sông xanh…” đến “… mớ hội liên hoan”: Cảnh sắc và không khí mùa xuân ở Hà Nội, miền Bắc. Đoạn ba: từ “Đẹp quá đi…” đến hết bài: Cảnh sắc, đất trời mùa xuân miền Bắc từ sau rằm tháng giêng. Phát biểu cảm nghĩ về bài Mùa xuân của tôi của Vũ Bằng
Assignment We have known and sympathized with the hearts of people who had to live far from their homeland, heavy with love for their homeland, in the Tang poems of Ly Bach, Do Phu, Ha Tri Chuong, etc. In Vietnam, not long ago there was also an artist. Due to personal circumstances and the requirements of revolutionary work, he had to leave his homeland in the North and live in the South for decades, writer Vu Bang - a famous writer before the August Revolution in 1945. Plate Vu Bang's love for his homeland was conveyed in his essay - a unique memoir "Love Me Twelve" of which the excerpt "My Spring" is typical. The excerpt My Spring is part of a long essay titled January dreams of a new moon, sweet cold, opening the beginning of writer Vu Bang's "longing for twelve". The excerpt recreates the natural scenery and spring atmosphere in Hanoi and the North through the deep nostalgia of a person far from home. Because it is an excerpt from an essay, there is no complete layout of the work. However, reading the essay My Spring, we still understand and reflect on the author's thoughts and feelings in three small paragraphs: The first blurry paragraph: from the beginning to "... falling in love with spring": People's love for spring is an inevitable and natural thing. Second paragraph: from "I love the green river..." to "... festivals": Scenery and spring atmosphere in Hanoi, the North. Paragraph three: from "So beautiful..." to the end of the song: Scenery, earth and sky in spring in the North from after the full moon of January. Expressing thoughts about the song My Spring by Vu Bang
Bài làm Năm nay, em đã là học sinh lớp 7. Bảy lần khai trường với bao kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi học trò. Tuy thế, ngày khai trường vào lớp Một vẫn để lại trong kí ức em ấn tượng sâu đậm nhất. Mỗi khi nhắc tới, những hình ảnh đẹp đẽ dường như lại hiện lên nguyên vẹn trước mắt em. Em còn nhớ là suốt mấy ngày liền, em sống trong tâm trạng nôn nao và háo hức. Bài hát quen thuộc mọi khi em vẫn hát sao hôm nay nghe xúc động lạ thường: Tạm biệt búp bê thân yêu, Tạm biệt gấu Misa nhé, Tạm biệt thỏ trắng xinh xinh, Mai ta vào lớp Một rồi. Nhớ lắm, thương nhiều, trường Mầm Non thân yêu! Có một điều gì đó lạ lắm, quan trọng lắm đang xảy ra trong căn “nhà nhỏ bé của gia đình em. Ông bà, cha mẹ đã chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết cho em như chiếc cặp xinh Xắn có hai quai để đeo lên vai; bộ sách giáo khoa, những cuốn tập bìa in hình chú chuột Mikey hay cô vịt Donan ngộ nghĩnh. Rồi hộp màu vẽ, chiếc bảng nhỏ phấn viết, đồ lau, bút mực, bút chì… đủ cả. Em thích thú giở từng thứ, nhìn ngắm không chán mắt. Đêm trước khai trường, cả nhà thức rất khuya để chuyện trò, bàn bạc. Nhân vật chính của mọi câu chuyện là em. Mẹ mặc thử cho em bộ đồng phục của học sinh tiểu học. Chiếc áo trắng cổ lá sen, tay bồng, rất hợp với chiếc váy xanh màu tím than và đôi xăng đan nâu. Ô kìa! Lạ nhỉ! Có cô bé nào giống mình quá đang cười rất tươi, khoe hàm răng thưa và trắng như những hạt ngô non! Nhận ra bóng mình trong gương, em bật cười khanh khách. Bà nội xoa đầu em khen: Cháu gái bà trông chững chạc ghê! Ngày mai, cháu đã thành học sinh lớp Một rồi! Cố gắng chăm ngoan và học thật giỏi cháu nhé! Sáng hôm sau, mẹ dắt em tới trường. Ngôi trường tiểu học Lê Văn Tám cách nhà em chỉ khoảng nửa cây số. Trên đường, bao bạn nhỏ tung tăng, hớn hở bên cạnh cha mẹ. Giăng ngang cổng trường là tấm băng rôn đỏ nổi bật dòng chữ vàng tươi: Chào mừng năm học mới. Hai hàng cờ đuôi nheo đủ màu phất phới trong gió sớm trông giống như những bàn tay đang vẫy vẫy. Niềm vui tràn ngập nơi nơi, từ bầu trời trong xanh, quang đãng; từ màu nắng tinh khôi; từ tiếng chim líu lo chào đón bình minh trong những vòm lá lóng lánh sương thu; từ những gương mặt ngời ngời hạnh phúc và tin tưởng. Trong sân trường, người đông dần. Các bạn nam tỏ ra mạnh dạn hơn. Các bạn nữ cứ ngại ngùng quẩn bên chân mẹ, chẳng nỡ rời. Em cũng vậy. Nhìn ngôi trường đồ sộ, em cảm thấy mình mới nhỏ bé làm sao! Mẹ khuyên em hãy bình tĩnh, vui vẻ và tập làm quen với chỗ đông người. Bất chợt, một hồi trông vang lên giục giã. Giờ khai mạc sắp bắt đầu. Các bậc phụ huynh trao con mình cho các thầy cô giáo. Đây đó nổi lên tiếng khóc thút thít, tiếng gọi mẹ ơi nho nhỏ. Em không khóc nhưng nước mắt cũng rơm rớm quanh mi. Một nỗi xúc động khó tả đang dâng lên trong lòng. Em bịn rịn chia tay mẹ, cùng các bạn xếp hàng theo lớp ở sân trường. Buổi khai giảng lần đầu tiên trong đời mới long trọng và trang nghiêm làm sao! Tiếng trống trường giòn giã, thôi thúc, náo nức lòng người. Lá cờ Tổ quốc bay phần phật trên đỉnh cột. Học sinh từng khối, từng lớp đội ngũ ngay ngắn, nghiêm chỉnh hướng về lá Quốc kì. Tiếng quốc ca trầm hùng vang vang trên sân trường rực nắng. Các anh chị lớp Bốn, lớp Năm, khăn quàng đỏ thắm trên vai.
Assignment This year, I am a 7th grade student. I have opened school seven times with many beautiful memories of my school years. However, the opening day of first grade still left the deepest impression in my memory. Every time I mention it, beautiful images seem to appear intact before my eyes. I still remember that for several days in a row, I lived in a state of excitement and excitement. I still sing the familiar song that I always sing, but it sounds strangely emotional today: Goodbye dear doll, Goodbye Misa bear, Goodbye pretty white rabbit, Tomorrow I'll be entering first grade. I miss you so much, I love you so much, dear Kindergarten! There is something very strange, very important happening in my family's "little house." My grandparents and parents have prepared all the necessary things for me, such as a cute briefcase with two straps to hang on my shoulder; textbooks, notebooks with covers printed with pictures of Mikey the mouse or funny Donan the duck. Then the paint box, the small chalk board, the wipes, the pens, the pencils... everything. I enjoy opening each thing and not getting tired of looking at it. The night before school started, the whole family stayed up very late to talk and discuss. The main character of every story is you. My mother tried on me the elementary school uniform. The white shirt with lotus leaf collar and puffed sleeves goes well with the charcoal blue skirt and brown sandals. Oh look! It's strange! Is there a little girl who looks so much like me, smiling so brightly, showing off her teeth that are spaced and white like young corn kernels! Recognizing my reflection in the mirror, I burst into laughter. Grandma patted my head and complimented me: Your granddaughter looks so mature! Tomorrow, I will become a first grader! Try to be good and study well, kid! The next morning, my mother took me to school. Le Van Tam primary school is only about half a kilometer from my house. On the road, many children were running around happily next to their parents. Hanging across the school gate is a red banner with bright yellow letters: Welcome to the new school year. Two rows of colorful buntings fluttering in the morning breeze look like waving hands. Joy filled everywhere, from the clear, blue sky; from the pure sunlight; from the chirping of birds welcoming the dawn in the canopy of leaves glistening with autumn dew; from happy and confident faces. In the school yard, people gradually crowded. The men appeared more bold. The girls kept shyly hanging around their mother's feet, unable to leave. Me too. Looking at the massive school, I feel how small I am! My mother advised me to stay calm, have fun, and get used to crowded places. Suddenly, an urgent sound rang out. Opening hours are about to begin. Parents give their children to teachers. Here and there came a sobbing sound, a small call for mother. I'm not crying, but tears are welling up around my eyes. An indescribable emotion is rising in my heart. I reluctantly said goodbye to my mother and lined up with my friends by class in the school yard. How solemn and solemn was the opening ceremony for the first time in my life! The sound of the school drum is crisp, motivating, and exciting. The national flag flutters at the top of the pole. Students in each grade and class line up neatly and seriously towards the National Flag. The majestic sound of the national anthem echoed across the sunny schoolyard. Fourth and fifth graders, scarlet scarves on their shoulders.
Bài làm Thị xã Sơn Tây quê em nhỏ xinh và êm đềm nằm bên bờ phải sông Hồng, chỉ cách một con đê. Gọi là sông Hồng vì màu nước của nó quanh năm đỏ sắc phù sa chứ không trong xanh hay đục nhờ nhờ như các dòng sông khác. Nhà em ở dãy phố trông sang bến cảng nên dòng sông ngày ngày hiện lên trước mắt và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sông của em. Tình yêu dòng sông thấm vào máu thịt em từ lúc nào chẳng rõ. Sông Hồng đẹp nhất là khoảng cuối xuân đầu hạ. Buổi sớm, sương mù giăng giăng trên mặt nước. Bờ dâu, bãi mía bên kia sông thấp thoáng, mờ ảo một vệt xanh như khói kéo dài tít tắp. Dãy thuyền chài cặp sát chân kè đá đã lấp lóe ánh lửa nấu cơm sáng. Chuyến đò ngang đầu tiên chở khách từ phía Vĩnh Phúc sang đang từ từ cập bến. Mấy bà, mấy chị người gánh chuối, kẻ gánh ngô hay mấy bu gà vịt, mấy mẻ tôm tươi, cá tươi roi rói, hối hả nối đuôi nhau dọc phố Hậu Bình, Lê Lợi để vào chợ Nghệ. Tiếng gọi nhau í ới, tiếng nước vỗ mạn thuyền róc rách, tiếng mái chèo gõ nhịp đuổi cá trên sông lan xa trong gió sớm; tạo thành thứ âm thanh quen thuộc của cuộc sống yên bình. Nắng đã lên cao, sương tan nhanh, mặt nước lấp lánh, xôn xao. Sông Hồng mải miết tải phù sa từ thượng nguồn về bồi đắp cho vùng đồng bằng châu thổ thêm màu mỡ. Dọc hai bên triền sông là những xóm làng trù phú, tốt tươi. Nhịp điệu sống trên bến cảng càng lúc càng nhộn nhịp. Một dãy sà lan chở đầy than và xi măng được giở lớp bạt phủ ngoài cho hàng trăm người xuống chuyển lên bến. Các bác, các chú làm nghề bốc xếp da nâu bóng, bắp chân bắp tay. săn chắc, vác trên vai bao hàng nửa tạ mà vẫn bước thoăn thoắt như người làm
Assignment My hometown Son Tay town is small, beautiful and peaceful, located on the right bank of the Red River, just away from a dyke. It is called the Red River because its water color is red all year round, not clear blue or turbid like other rivers. My house is in a street overlooking the harbor, so the river appears before my eyes every day and becomes an indispensable part of my life. The love of the river has seeped into my blood and flesh since I don't know when. The Red River is most beautiful in late spring and early summer. In the early morning, fog spread over the water. The mulberry banks and sugar cane fields on the other side of the river loomed, a hazy, smoky green streak stretching as far as the eye could see. The row of fishing boats close to the foot of the stone embankment already sparkled with the fire of cooking breakfast. The first ferry carrying passengers from Vinh Phuc is slowly docking. A few women carrying bananas, corn, chickens and ducks, batches of fresh shrimp and fresh fish, hurriedly followed each other along Hau Binh and Le Loi streets to enter Nghe market. The sounds of calling each other, the sound of water lapping the boat's sides, the sound of oars chasing fish on the river spread far and wide in the morning breeze; creating the familiar sound of peaceful life. The sun was high, the mist dissipated quickly, the water surface sparkled and stirred. The Red River is busy carrying alluvium from upstream to make the delta more fertile. Along both sides of the river are rich and lush villages. The rhythm of life on the harbor is becoming more and more bustling. A row of barges filled with coal and cement were covered with tarpaulins for hundreds of people to disembark and transfer to the wharf. The uncles and uncles who work as stevedores have shiny brown skin and strong calves and arms. Toned, carrying a half-pound bag on his shoulder but still walking briskly like a worker
Bài làm Đã là người dân Việt, hẳn ai cũng đã từng nghe đến tên núi Tản Viên – ngọn núi thiêng gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ nước ta. Núi Tản Viên hay còn gọi là núi Ba Vì thuộc tỉnh Hà Tây, giáp ranh với Hòa Bình. Từ thị xã Sơn Tây vào tới chân núi chưa tới hai mươi cây số theo đường chim bay. Vào những ngày mùa hạ, nắng đẹp trời trong, dãy Ba Vì hiện lên với tất cả vẻ hùng vĩ, oai nghiêm và thơ mộng vốn có tự ngàn đời của nó. Đứng trên đê sông Hồng lộng gió, phóng tầm mắt ra xa, ta sẽ thấy dãy núi xanh thẫm sừng sững in hình trên nền trời biếc. Đỉnh núi chia làm ba ngọn. Cao nhất là ngọn Ngọc Hoa ở giữa, hai bên là ngọn Ông, ngọn Bà. Sáng sớm, mây trắng vờn quanh, Ba Vì thấp thoáng sau làn sương mỏng, trông càng thêm huyền ảo. Buổi trưa, nắng trung du xứ Đoài vàng như hổ phách. Không khí trong veo. Nắng phủ vàng rực triền núi, lấp lánh trên những tán cổ thụ của đại ngàn. Càng về chiều, màu núi càng tím sẫm lại, nổi bật trên nền ráng đỏ hoàng hôn. Núi Ba Vì lúc ấy trông kì bí lạ lùng! Trải dài ven chân núi là những dãy đồi chập chùng, nhấp nhô như sóng lượn. Màu vàng nâu của những trảng cỏ tranh xen lẫn màu xanh.
Assignment As Vietnamese people, everyone has probably heard of Tan Vien mountain - the sacred mountain associated with the famous Son Tinh - Thuy Tinh legend in our country's treasure trove of ancient stories. Tan Vien Mountain, also known as Ba Vi Mountain, belongs to Ha Tay province, bordering Hoa Binh. From Son Tay town to the foot of the mountain is less than twenty kilometers as the crow flies. On summer days, with beautiful sunshine and clear skies, the Ba Vi range appears with all its majesty, majesty and poetic beauty that has existed for thousands of years. Standing on the windy Red River dyke, looking out into the distance, we will see a towering dark blue mountain range silhouetted against the blue sky. The mountain top is divided into three peaks. The highest is Ngoc Hoa mountain in the middle, on both sides are Ong mountain and Ba mountain. Early in the morning, white clouds swirled around, Ba Vi loomed behind the thin mist, looking even more magical. At noon, the sunlight in the midland of Doai is as golden as amber. The air is clear. The sunlight covered the mountain slopes with golden light, sparkling on the ancient trees of the great forest. As the afternoon progresses, the mountain's purple color becomes darker and darker, standing out against the red sunset background. Ba Vi Mountain at that time looked strangely mysterious! Stretching along the foot of the mountain are rolling hills, undulating like waves. The yellow-brown color of the grasslands is mixed with green.
Bài làm Mùa thu năm 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Cao – Bắc – Lạng (còn gọi là chiến dịch Biên giới) nhằm phá vỡ phòng tuyến bao vây căn cứ Việt Bắc của thực dân Pháp, mở đường liên lạc giữa nước ta với các nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô… Quân ta chuẩn bị lực lượng tương đối kĩ, có sự phối hợp chặt chẽ trên các chiến trường để giành thắng lợi. Trước khi chiến dịch mở màn, Bác đến thăm một đơn vị bộ đội và nghỉ lại nơi trú quân. Đêm mưa, trời lạnh, chiến sĩ ngủ quây quần bên Bác. Riêng Bác không ngủ. Người ngồi bên đống lửa, hai tay bó gối, đôi mắt trầm ngâm, những vết nhăn như sâu hơn trên vầng trán rộng. Đêm đã khuya. Cảnh vật chìm trong bóng tối. Thỉnh thoảng văng vẳng đâu đó tiếng vỗ cánh của loài chim ăn đêm. Tiếng mưa rơi tí tách trên mái lán. Đồng đội của tôi đang ngủ say sau một ngày hành quân vất vả. Tôi trở mình, quay mặt về phía đông lửa và lặng lẽ nhìn Bác – người Cha già kính yêu của quân đội và nhân dân Việt Nam. Bác khơi cho bếp lửa cháy bùng lên, hơi ấm toả khắp căn lều dã chiến. Rồi Bác đi dém chăn cho từng chiến sĩ. Bác coi trọng giấc ngủ của bộ đội nên nhón chân rất nhẹ nhàng, cố gắng không gây ra tiếng động. Bác ân cần săn sóc các chiến sĩ, không khác gì bà mẹ hiền thương yêu lo lắng cho đàn con. Tôi dõi theo từng cử chỉ của Bác mà trong lòng trào lên tình cảm yêu thương và biết ơn vô hạn. Ánh lửa bập bùng in bóng Bác lồng lộng trên vách nứa đơn sơ. Tình thương của Bác đã sưởi ấm trái tim chiến sĩ trước giờ ra trận. Tôi cảm thấy mình như được che chở trong tình thương bao la, nồng đượm ấy. Lòng tôi bồi hồi, rưng rưng một niềm xúc động. Tôi thì thầm hỏi nhỏ: – Thưa Bác, sao Bác chưa ngủ ạ? Bác có lạnh lắm không? Bác không trả lời câu hỏi của tôi mà ân cần khuyên nhủ: – Chú cứ việc ngủ ngon, để lấy sức ngày mai đánh giặc! Vâng lời Bác, tôi nhắm mắt mà lòng vẫn thấp thỏm không yên. Những chiến sĩ trẻ chúng tôi sức dài vai rộng, còn Bác vừa yếu lại vừa cao tuổi. Thời gian vẫn âm thầm trôi qua. Trời đang chuyển dần về sáng. Lần thứ ba thức dậy, tôi giật mình thấy Bác vẫn ngồi im như pho tượng, đôi mắt trĩu nặng suy tư đăm đăm nhìn ngọn lửa hồng. Không thể đành lòng, tôi bèn lên tiếng: – Thưa Bác! Xin Bác chợp mắt một chút cho khỏe ạ! Bác cất giọng trầm ấm bảo tôi:
Assignment In the fall of 1950, our Party and Government decided to open the Cao - Bac - Lang campaign (also known as the Border campaign) to break the line surrounding the French colonialists' Viet Bac base, opening a line of communication between the two countries. our country with brother countries such as China, the Soviet Union... Our army prepares its forces quite carefully, with close coordination on the battlefields to win. Before the campaign opened, Uncle Ho visited a military unit and stayed at the military base. On a cold, rainy night, the soldiers slept around Uncle Ho. Only Uncle did not sleep. The person sat by the fire, his hands clasped on his knees, his eyes pensive, the wrinkles seemed deeper on his broad forehead. It was late at night. The scene is in darkness. Occasionally there is the sound of flapping wings of nocturnal birds. The sound of rain falling on the roof of the shack. My comrades are sleeping soundly after a hard day's march. I turned over, faced the east of the fire and quietly looked at Uncle Ho - the beloved old Father of the Vietnamese army and people. He started the stove and ignited the fire, radiating warmth throughout the field tent. Then Uncle went to give blankets to each soldier. He valued the soldiers' sleep, so he tiptoed very gently, trying not to make any noise. He thoughtfully took care of the soldiers, no different from a loving mother taking care of her children. I followed Uncle Ho's every move and felt infinite love and gratitude in my heart. The flickering firelight reflected Uncle Ho's silhouette on the simple bamboo wall. Uncle Ho's love warmed the soldiers' hearts before going into battle. I felt like I was protected by that immense, passionate love. My heart was filled with emotion and tears. I whispered softly: – Dear Uncle, why aren't you sleeping yet? Are you very cold? He did not answer my question but kindly advised: – Just sleep well, so you can have strength to fight the enemy tomorrow! Obeying Uncle Ho's words, I closed my eyes but my heart was still restless. We young soldiers are strong and broad-shouldered, while Uncle Ho is both weak and elderly. Time still passes silently. The sky is gradually turning to morning. The third time I woke up, I was startled to see Uncle still sitting still like a statue, his eyes heavy with thought, staring at the red fire. Unable to bear it, I spoke up: - Dear! Please take a nap for your health! He spoke in a warm voice and told me:
Bài làm: Năm 1946, thực dân Pháp trở mặt xâm lược nước ta một lần nữa. Hồ Chủ tịch thay mặt Chính phủ, đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, động viên nhân dân quyết hi sinh để bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do mà ta đã phải đổ bao xương máu mới giành lại được. Từ Hà Nội, tôi trở về quê hương, đúng lúc giặc Pháp tấn công vào Huế. Không khí những ngày dó thật sôi sục. Người dân xứ Huế không phân biệt già trẻ, gái trai, đồng lòng đánh giặc, bảo vệ quê hương. Đang rảo bước trên đường Hàng Bè, tôi chợt nghe tiếng gọi vô cùng quen thuộc: Ôi chú Lành! Chú về hồi nào vậy? Tôi ngẩng lên nhìn. Một chú bé loắt choắt, da sạm nắng, trên đầu là chiếc mũ ca lô – Ồ! Lượm! Đứa cháu bé bỏng thân yêu của tôi! Xa cháu chưa lâu mà tôi thấy cháu khác trước nhiều quá! Cháu chững chạc hẳn lên, trông như một anh bộ đội thực thụ. Tôi ôm chặt Lượm vào lòng, vội vã hỏi thăm về những người thân. Cháu vui vẻ khoe: – Cháu làm liên lạc ở với các chú bộ đội trong đồn Mang Cá, cháu được các chú ấy dạy chữ, dạy hát, dạy bắn súng, dạy cách làm liên lạc… Vui lắm chú à! Lượm hào hứng kể rồi cười thích thú, mắt sáng ngời, đôi má ửng đỏ như trái bồ quân chín. Tôi cũng vui lây trước niềm vui trẻ thơ, hồn nhiên của Lượm.
Assignment: In 1946, the French colonialists invaded our country again. President Ho Chi Minh, on behalf of the Government, read the National Call for Resistance, encouraging the people to make sacrifices to protect the sovereignty, independence and freedom that we had to shed so much blood to regain. From Hanoi, I returned to my hometown, just at the time the French invaded Hue. The atmosphere those days was so exciting. The people of Hue did not distinguish between old and young, male and female, united in fighting the enemy and defending their homeland. While walking on Hang Be Street, I suddenly heard a very familiar call: Oh Uncle Lanh! When did you come back? I looked up. A small boy with tanned skin and a hat on his head - OH! Gather! My dear little grandchild! I haven't been away from you for long but I see that you are so different from before! He has become more mature, looking like a real soldier. I hugged Luom tightly in my arms and hurriedly asked about my relatives. I happily show off: – I worked as a liaison with the soldiers in Mang Ca station. They taught me how to read, sing, shoot, and how to be a liaison... It was so much fun! Luoi excitedly told the story and then laughed with delight, his eyes shining, his cheeks red like a ripe pecan fruit. I'm also happy to see Luom's childlike, innocent joy.
Bài làm Sáng thứ sáu tuần qua, ở lớp 7A trường Trung học cơ sở Hoàng Hoa Thám, quận Tân Bình xảy ra một câu chuyện thật là cảm động. Chúng em vừa vào học tiết Văn của cô chủ nhiệm được khoảng hơn mười phút thì thầy giám thị báo là bạn Thúy ra ngay cổng trường có người cần gặp. Một lát sau, Thúy trở vào với gương mặt tái nhợt và đôi mắt đỏ hoe. Cô Thanh gặng hỏi, Thúy run run cắn chặt môi để kìm tiếng khóc rồi cho biết,rằng vừa nhận được tin cha bị tai nạn giao thông. Gả lớp lặng đi vì xúc động, vì thương Thúy. Nhà Thúy nghèo lắm! Ba mẹ rời quê hương ở Quảng Ngãi vào đây lập nghiệp mới được vài năm. Sáng sáng, mẹ gánh gánh xôi đi bán dạo. Ba Thúy mướn chiếc xích lô chở khách kiếm, tiền nuôi các con ăn học. Thúy là chị lớn trong nhà, vừa lo học, vừa lo phụ giúp gia đình. Chúng em đi học bằng xe đạp, còn Thúy đi bộ. Em để ý thấy Thúy chỉ có hai bộ quần áo cũ để thay đổi hằng ngày. Tuy vậy, tinh thần vượt khó và kết quả học tập của Thúy thật đáng nể!
Assignment Last Friday morning, in class 7A of Hoang Hoa Tham Secondary School, Tan Binh district, a truly touching story happened. We had just been in the homeroom teacher's Literature class for about ten minutes when the supervisor announced that Thuy had someone to meet at the school gate. A moment later, Thuy returned with a pale face and red eyes. Ms. Thanh asked, Thuy trembled, bit her lip to hold back her tears and said that she had just received news that her father had been in a traffic accident. The bride-to-be was silent because of emotion and because of pity for Thuy. Thuy's family is very poor! My parents left their hometown in Quang Ngai to start a business here a few years ago. Every morning, my mother carries a load of sticky rice to sell. Thuy's father rented a cyclo to carry passengers to earn money to support his children's education. Thuy is the eldest sister in the family, both studying and helping the family. We go to school by bicycle, while Thuy walks. I noticed that Thuy only has two sets of old clothes to change every day. However, Thuy's spirit of overcoming difficulties and her academic results are truly remarkable!
Bài làm Ngày khai trường vào lớp 6 có một kỉ niệm để lại dấu ấn không thể phái mờ trong tâm trí em. Chuyện là thế này: Em và Mai nhà ở cùng một phố, cùng học mẫu giáo và tiểu học với nhau. Hai đứa gắn bó như hình với bóng, có cái bánh cũng bẻ làm đôi. Bố mẹ em đều là công chức, thu nhập tuy không cao nhưng ổn định. Còn gia đình Mai hoàn cảnh rất khó khăn. Bố Mai bị tai nạn lao động, nằm bệnh viện đã mấy tháng nay. Một mình mẹ bạn ấy vừa đi làm, vừa chăm sóc chồng con, vất vả vô cùng. Chỉ còn hơn một tuần nữa là đến ngày khai giảng mà Mai vẫn chưa có quần áo mới. Nhìn vẻ buồn rầu phảng phất trong đôi mắt đen tròn của Mai, em hiểu tâm trạng bạn ấy nên rất thương. Trong khi đó, mẹ đã mua cho em hai bộ đồng phục áo trắng, váy xanh rất đẹp. Em cứ băn khoăn mãi về chuyện có nên tặng Mai một bộ hay không. Cuối cùng, em hỏi ý kiến mẹ, mẹ cười bảo: – Ôi, con gái mẹ lớn rồi đấy! Biết nghĩ đến bạn như thế là tốt. Mẹ đồng ý! Tháng sau, mẹ sẽ mua lại cho con bộ khác. Em sung sướng ôm chặt mẹ thay cho lời cảm ơn rồi mang bộ đồng phục sang nhà bạn. Tới gần cửa, em đã nghe thấy tiếng Mai: – Mẹ đừng mượn tiền mua quần áo mới cho con làm gì. Con mặc bộ đồ cũ này cũng được. Hơi ngắn một chút thôi, không sao đâu mẹ ạ! Mẹ đế tiền mua thuốc cho bố”. Tự dưng, nước mắt em ứa ra cay xót quanh mi. Em ước gì mình có được phép lạ như Tiên ông trong cổ tích để giúp gia đình Mai ra khỏi hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu. Cố nén xúc động, em giấu chiếc túi sau lưng rồi cất tiếng chào và bước vào nhà. Bác Xuân hỏi em: – Hương sang chơi đấy ư? Cháu chuẩn bị cho khai giảng đến đâu rồi? – Dạ, thưa bác, bố mẹ cháu mua cho cháu đủ cả rồi ạ! Giọng bác Xuân chợt chùng xuống: – Tội nghiệp cái Mai nhà bác! Giờ này mà chưa có gì! Thôi, để từ từ bác mua. Dứt lời, bác quay quả đi ra, đôi mắt đỏ hoe. Còn Mai, nãy giờ bạn ấy vẫn ngồi im lặng trên chiếc giường cũ với vẻ mặt không vui. Em đến gần Mai, thì thầm: – Mai ơi! Cậu nhắm mắt lại đi! Tớ có cái này tặng cậu! – Gì thế? Ô mai hả? Hay là kẹo cốm? – Không phải! Hơn thế nhiều! Cho cậu đoán lại đấy! – Thế thì tớ chịu! – Thôi được rồi! Nhưng cậu phải hứa là sau khi tớ về cậu mới được giở ra xem nhé! -ừ!.. Mai nhắm hờ đôi mắt, hàng mi rung rung. Trên môi thoáng một nụ cười. Dúi vội chiếc túi vào tay Mai, em chạy nhanh ra cửa. Trên đường về, em tự hỏi là không biết thái độ của Mai sẽ ra sao khi thấy bộ đồng phục mới. Ngạc nhiên hay xúc động?! Có thể là cả hai. Em không muốn Mai đem trả lại. Tối hôm ấy, nhà em có khách. Đó là hai mẹ con Mai. Bác Xuân cầm chiếc túi trên tay, lúng túng nói với mẹ em: – Sáng nay, cháu Hương có mang sang cho cháu Mai nhà tôi bộ quần áo này nhưng tôi sợ là cháu chưa xin phép bác, nên.. Mẹ em vội đỡ lời: – Bác và cháu Mai cứ yên tâm! Cháu Hương đã hỏi ý kiến tôi rồi ạ!
Assignment On the first day of school in 6th grade, there was a memory that left an indelible mark in my mind. This is what happened: Me and Mai live in the same street and go to kindergarten and elementary school together. The two of them were as close as a shadow, even breaking a cake in half. My parents are both civil servants, their income is not high but stable. As for Mai's family, the situation is very difficult. Mai's father had an accident at work and has been in the hospital for several months. Her mother worked alone and took care of her husband and children, which was extremely difficult. There's just over a week left until the first day of school and Mai still doesn't have new clothes. Looking at the sadness in Mai's round black eyes, I understood her mood so I felt very sorry for her. Meanwhile, my mother bought me two beautiful white shirt and blue skirt uniforms. I keep wondering whether I should give Mai a set or not. Finally, I asked my mother for her opinion. She smiled and said: – Oh, my daughter is all grown up! It's good to think of you like that. Mom agrees! Next month, I will buy you another set. I happily hugged my mother tightly as a thank you and brought the uniform to my friend's house. Approaching the door, I heard Mai's voice: – Mom, don't borrow money to buy new clothes for your child. You can wear this old outfit. It's a little short, it's okay mom! Mom saved money to buy medicine for dad." Suddenly, tears welled up around my eyes. I wish I had a miracle like the Fairy in the fairy tale to help Mai's family get out of difficult and needy situations. Trying to suppress her emotions, she hid the bag behind her back, said hello and entered the house. Uncle Xuan asked me: – Is Huong coming to visit? How are you preparing for the opening ceremony? – Yes, sir, my parents bought everything for me! Uncle Xuan's voice suddenly dropped: – Poor Mai! Right now, nothing! Okay, let's talk from the buyer. Having finished speaking, he turned around and walked out, his eyes red. As for Mai, she was still sitting quietly on the old bed with an unhappy expression. She approached Mai and whispered: – Mai! Close your eyes! I have something for you! - What? Oh tomorrow? Or nuggets candy? - Not! Much more! Let me guess again! – Then I accept! - That is enough! But you have to promise that you'll be able to open it after I get home! -Yes!.. Mai half-closed her eyes, her eyelashes fluttering. A smile appeared on his lips. Shoving the bag into Mai's hand, she quickly ran out the door. On the way home, I wondered what Mai's attitude would be when she saw the new uniform. Surprised or touched?! Could be both. I don't want Mai to return it. That evening, my house had guests. Those are Mai and her mother. Uncle Xuan held the bag in his hand and awkwardly said to my mother: – This morning, Huong brought this outfit to my niece Mai, but I'm afraid she hasn't asked your permission yet, so... My mother quickly helped: – Uncle and niece Mai, rest assured! Huong has already asked my opinion!
Bài làm Tôi là cây lúa. Họ hàng nhà lúa chúng tôi có mặt ở nhiều nơi trên thế giới đã mấy ngàn năm nay. Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng tôi đã gắn bó thân thiết với con người. Bằng hạt gạo – hạt ngọc của trời ban cho; Lang Liêu đã làm nên bánh chưng, bánh giầy, tượng trưng cho Trời và Đất – để kính dâng mừng thọ vua Hùng. Cuộc đời cây lúa chúng tôi gắn liền với niềm vui, nỗi buồn của con người. Chúng tôi lớn lên từ những hạt thóc giống chín mẩy, vàng ươm. Sau mấy tháng nằm nghỉ ngơi trong bồ lúa, anh em chúng tôi được đem ra ngâm vào nước ba sôi hai lạnh. Nước ấm làm chúng tôi tỉnh hẳn người. Sự sống trong chúng tôi bừng dậy. Chúng tôi uống no nước và rồi vài ngày sau, những chiếc rễ trắng tinh đã nhú ra. Một sớm mai hồng, chúng tôi được đem gieo trên những mảnh ruộng phẳng như chiếu trải. Mùi bùn ngai ngái khiến chúng tôi ngây ngất. Ánh nắng ấm áp ban ngày, làn sương mát dịu ban đêm giúp chúng tôi nảy mầm đâm lá thành những cấy mạ xinh xinh. Cô bác nông dân chăm sóc chúng tôi kĩ lắm. Đủ nước, đủ phân nên chị em chúng tôi lớn nhanh như thổi, chẳng mấy chốc đã ra dáng những cây mạ trưởng thành. Thế rồi vào một ngày đẹp trời, chúng tôi được nhổ lên, bó thành từng bó. Từ đó, chị em chúng tôi bước qua một giai đoạn mới của cuộc đời: từ cây mạ biến thành cây lúa. Cứ vài ba dảnh mạ được cấy thành một gốc. Gốc này cách gốc kia mỗi chiều chừng ba tấc. Đang quen sống quây quần ấm áp bên nhau, giờ bị tách riêng ra, chúng tôi cảm thấy trống trải và lạnh lẽo vô cùng! Phải mất chừng hơn tuần, chúng tôi mới bén rễ trên đất mới. Màu xanh của lá thẫm dần và thân thể chúng tôi cứng cáp hẳn lên. Bộ rễ cần cù hút màu mỡ nuôi cây. Dần dà, chúng tôi đã trở thành những bụi lúa đầy đặn và tươi tốt. Bụi nọ mọc sát bên bụi kia tạo thành một tấm thảm xanh mênh mông, mỗi lần gió thổi qua lại dập dờn như sóng biển. Ngày tháng trôi qua, chúng tôi đã thành lúa thì con gái và được chăm sóc kĩ lưỡng hơn. Các cô bác nông dân thường xuyên nhổ cỏ, bón phân, xịt thuốc trừ sâu rầy phá hoại lúa nên sức khỏe của chúng tôi rất tốt. Một hôm, trong gió sớm thoang thoảng mùi thơm ngọt thật dễ chịu. Đầu bờ, có tiếng reo vui: A, lúa đã làm đòng rồi đây này, bà con ơi! Rồi những bàn tay vuốt ve trìu mến trên thân lúa. Chúng tôi thầm cảm ơn những bàn tay chai sần, rám nắng của người nông dân một nắng hai sương vất vả trên đồng ruộng. Bao mồ hôi của họ đã đổ xuống đất này. Họ hàng nhà lúa chúng tôi không phụ ơn người. Tháng năm, mùa lúa chín, cả cánh đồng phủ một màu vàng rực như kén tằm. Màu vàng của nắng, màu vàng của lúa làm sáng cả một vùng quê thanh bình, gợi cảm giác ấm no, sung túc. Đoàn người tay liềm tay hái để ra đồng gặt lúa. Tiếng cắt lúa soàn soạt, tiếng máy tuốt lúa rào rào xen lẫn tiếng nói cười rộn rã. Âm thanh náo nức vang khắp cánh đồng. Theo chân người, chúng tôi về với từng sân phơi. Tới đâu tôi cũng thấy những đông lúa như những đông vàng cao ngất – sản phẩm của một vụ mùa bội thu. Quang cảnh xóm làng thật nhộn nhịp và trong lòng chúng tôi cũng trào dâng một niềm vui khó tả. Sau mấy ngày phơi mình dưới ánh nắng vàng chói chang, chúng tôi được quạt sạch rồi đổ vào bồ, vào vựa. Có chúng tôi, người nông dân sẽ có được nhiều thứ hàng hoá cần thiết phục vụ cho đời sống. Chính chúng tôi đã tạo nên những ngôi nhà ngói mới, thay thế những mái tranh nghèo. Bộ mặt nông thôn ngày càng tươi đẹp lên là nhờ sự đóng góp không nhỏ của họ hàng nhà lúa chúng tôi.
Assignment I am a rice plant. Our rice relatives have been present in many parts of the world for thousands of years. Since ancient times, our ancestors have been closely associated with humans. With a grain of rice - a pearl given by heaven; Lang Lieu made banh chung and banh giay, symbolizing Heaven and Earth - to honor King Hung's birthday. The life of our rice plant is associated with the joys and sorrows of people. We grew up from ripe, golden rice seeds. After several months of resting in the rice paddies, we were taken out and soaked in water that was three times boiling, two times cold. The warm water woke us up completely. Life within us awakened. We drank enough water and then a few days later, pure white roots sprouted. One rosy morning, we were sown on fields as flat as mats. The smell of mud made us ecstatic. The warm sunlight during the day and the cool mist at night help us sprout leaves into beautiful seedlings. The farmer took good care of us. Enough water and enough fertilizer, so our sisters grew quickly, soon taking on the appearance of mature seedlings. Then one fine day, we were picked up and tied into bundles. From then on, our sisters entered a new stage of life: from seedlings to rice. Every few seedlings are transplanted into one root. This root is about three inches away from the other root in each direction. We are used to living warmly together, but now being separated, we feel extremely empty and cold! It took more than a week for us to take root in the new land. The green color of the leaves gradually darkened and our bodies became stronger. The industrious roots absorb the nutrients that nourish the tree. Gradually, we became plump and lush rice bushes. One bush grows next to another, forming a vast green carpet, each time the wind blows, it ripples like ocean waves. As the days passed, we became girls and were taken care of more carefully. The farmers regularly weed, fertilize, and spray insecticides to destroy rice hoppers, so our health is very good. One day, in the early morning breeze, a sweet, pleasant scent wafted. At the bank, there was a joyful shout: Ah, the rice has already been planted, folks! Then the hands caressed the rice stalks affectionately. We silently thank the calloused, tanned hands of the farmers who work hard in the fields. Much of their sweat has been poured onto this ground. Our rice family is not grateful to you. In May, the season of ripe rice, the whole field is covered with a bright yellow color like silkworm cocoons. The yellow color of sunlight and the yellow color of rice brighten a peaceful countryside, evoking a feeling of warmth and prosperity. A group of people with sickles and picking hands go to the fields to harvest rice. The sound of rice cutting rustling, the sound of threshing machines mixed with bustling voices and laughter. The exciting sound echoed throughout the field. Following in his footsteps, we returned to each drying yard. Wherever I go, I see towering golden crops of rice - the product of a bumper harvest. The village scene was bustling and our hearts were filled with an indescribable joy. After a few days of exposure to the bright yellow sunlight, we were fanned clean and then poured into baskets and barns. With us, farmers will have many necessary goods for life. We ourselves created new tiled houses, replacing poor thatched roofs. The face of the countryside is becoming more and more beautiful thanks to the significant contribution of our rice family.
Bài làm Ở những làng quê miền Bắc, đâu đâu cũng có cây xoan, một thứ cây quen thuộc, gắn bó với cuộc sống của người nông dân tự bao đời. Từ vùng trung du đất cằn sỏi đá đến vùng châu thổ sông Hồng, xoan được trồng trên triền đồi hay ven con đường làng uốn lượn quanh co… Xoan còn được trồng trước ngõ, trong vườn hoặc những rẻo đất quanh ao, quanh nhà. Xoan rất dễ sống. Người ta chỉ cần đào một cái hố nho nhỏ, ươm vào đó cây xoan con con và đặt vào nó một niềm hi vọng. Thời gian trôi qua rất nhanh. Khoảng bốn đến năm năm, cây xoan đã trưởng thành. Thân cây cao và thẳng tắp, màu nâu sẫm. Cành xoan khẳng khiu, đầu cành lưa thưa một vài túm lá. Lá xoan mỏng và màu xanh đậm, phất phơ trước gió. Cây xoan đẹp nhất là vào cuối tháng ba, mùa hoa xoan nở. Những bông hoa nhỏ bé, cánh tím phớt, điểm mấy chấm đen li ti, nở thành từng chùm. Mỗi khi có làn gió nhẹ thổi qua, những chùm hoa lại đong đưa, đong đưa khe khẽ. Không khí trong làng thơm ngát hương hoa xoan, một mùi thơm mộc mạc, dịu dàng hơn cả hoa cau, hoa bưởi.
Assignment In northern villages, there are Ao dai trees everywhere, a familiar tree that has been associated with the lives of farmers for many generations. From the rocky midland to the Red River Delta, Xoan is grown on hillsides or along winding village roads... Xoan is also planted in front of alleys, in gardens or in the dirt around ponds and houses. Xoan is very easy to live with. People just need to dig a small hole, plant a small neem tree in it and put a hope in it. Time passes quickly. About four to five years, the neem tree has matured. The trunk is tall and straight, dark brown. The branches are spindly, with a few sparse leaves at the ends. The oval leaves are thin and dark green, fluttering in the wind. The most beautiful neem tree is at the end of March, when the neem flowers bloom. The flowers are small, with pale purple petals, dotted with tiny black dots, blooming in clusters. Every time a gentle breeze blows, the flower clusters sway and sway gently. The air in the village is fragrant with the scent of neem flowers, a rustic scent, gentler than areca flowers and grapefruit flowers.
Bài làm Quê em là một làng nhỏ nằm bên bờ sông Đáy hiền hòa, mềm mại uốn lượn giữa bạt ngàn ruộng mía, bờ dâu tươi tốt. Đám trẻ xóm Thượng chúng em thường hẹn nhau dắt trâu ra bãi cỏ xanh mượt cuối làng để chăn. Đây là thế giới kì thú của tuổi thơ với bao trò chơi hấp dẫn như đánh đáo, đánh khăng, đúc dế, đánh trận giả, thả diều… Nhưng dù chơi vui tới đâu thì đến lúc mặt trời lặn sau dãy núi Ba Vì tím biếc phía Tây, chúng em cũng bảo nhau dong trâu về nhà. Dẫn đầu là con trâu đực của Thắng. Nhìn nó ai cũng thích. Cặp sừng to và cong vút nghênh nghênh kiêu hãnh. Đôi mắt ốc nhồi đen ướt, hai cái tai lá mít ve vẩy, bốn chân vững chãi đỡ tấm thân đồ sộ với nước da đen bóng. Trên tấm lưng rộng của nó, Thắng ngồi vắt vẻo, tay nhịp chiếc roi tre, thỉnh thoảng lại phất nhẹ vào mông thúc trâu rảo bước. Nối theo sau là chú trâu tơ của Đức, vóc dáng mập mạp, cái bụng no cỏ tròn căng. Vừa đi nó vừa ve vẩy đuôi, đôi mắt lim dim ra chiều thích thú. Đức ngồi vắt chân qua một bên, mải mê thổi sáo. Đức được bố dạy cho từ bé nên cậu ta thuộc nhiều bài và thổi khá hay. Tiếng sáo réo rắt, du dương ngân lên trong không gian êm đềm, tĩnh lặng. Hai bên đường, đồng lúa dập dờn như sóng biển trước cơn gió nồm nam mát rượi. Đàn trâu vẫn thong thả bước. Tiếng móng trâu gõ lộp cộp đều đều như những nốt nhạc trầm làm nền cho tiếng sáo vút cao; Xa xa, chân trời mênh mông tím sẫm, điểm những cánh cò trắng đang vội vã bay vệ tổ sau một ngày lặn lội kiếm ăn. Em thả hồn theo tiếng sáo véo von của Đức. Tiếng sáo như lời tâm tình thủ thỉ của người dân quê em. Em lẩm nhẩm hát theo: Có ai hỏi vì sao, quê hương chúng ta nhiều ngói mới. Rằng có đắng cay nên chừ mới có ngọt bùi… Hết bài này, Đức thổi sang bài khác. Nào là Việt Nam quê hương tôi, rồi lại Trường em, Em là búp măng non… Mấy bạn dong trâu sau lưng em cũng vui vẻ hát lên theo điệu sáo.
Assignment My hometown is a small village located on the banks of the gentle, soft Day River winding between vast sugarcane fields and lush mulberry banks. We children from Thuong village often meet to take buffaloes to the green grass at the end of the village to herd. This is the wonderful world of childhood with many attractive games such as playing cards, playing cards, cricket casting, mock battles, flying kites... But no matter how fun you play, when the sun sets behind the purple Ba Vi mountain range In the West, we also told each other to go home. Leading the way is Thang's male buffalo. Everyone likes to see it. The pair of large and curved horns greeted proudly. Wet black stuffed snail eyes, two flapping jackfruit leaf ears, four sturdy legs supporting a massive body with shiny black skin. On its wide back, Thang sat cross-legged, his hand tapping the bamboo whip, occasionally gently flicking his butt to spur the buffalo to walk. Following behind is a young German buffalo, with a chubby physique and a belly full of grass. As it walked, it wagged its tail, its eyes dimmed in amusement. Duc sat with his legs crossed to one side, engrossed in playing the flute. Duc was taught by his father since he was young, so he knows many songs and plays quite well. The melodious, melodious sound of the flute resounds in the peaceful, quiet space. On both sides of the road, rice fields rippled like ocean waves in the cool south wind. The buffalo herd still walked leisurely. The sound of buffalo hooves tapping evenly is like low musical notes, creating a background for the high-pitched sound of a flute; In the distance, the horizon is vast and dark purple, dotted with white storks rushing to protect their nests after a day of searching for food. I let my soul drift to the sound of the German flute. The sound of the flute is like the whispered feelings of the people of my hometown. I mumbled and sang along: Someone asked why, our hometown has many new tiles. That there is bitterness, so wait until there is sweetness... At the end of this song, Duc started another song. It's Vietnam, my homeland, then my school, I'm a young bamboo shoot... The buffalo friends behind me also happily sang to the tune of the flute.
Bài làm Đêm hè êm ả, gió nam lồng lộng thổi. Tiếng côn trùng rả rích ngoài vườn. Theo nhịp võng đều đều kẽo kẹt, em lơ mơ ngủ. Bỗng em nghe thấy tiếng thút thít khe khẽ, văng vẳng đâu đây. Em đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm và phát hiện ra cuốn Tiếng Việt 6 trên bàn đang thổn thức. Em liền rời khỏi võng, tới bên bàn và nâng cuốn sách lên, dịu dàng hỏi: – Làm sao em khóc? Có chuyện gì buồn nói cho chị nghe đi! Chị có thể giúp gì em chăng? Nước mắt rưng rưng, cuốn sách ngập ngừng kể: – Em buồn lắm chị ơi! Chị xem này, bìa của em rách hết cả, gáy thì bị gián nhấm lem nhem. Lũ chuột vấy bẩn lên người em.., thật là hôi hám và khó chịu. Em bị rơi xuống gầm tủ đã bao lâu nay mà chị chẳng biết. May mà bà quét dọn và cứu em sáng nay. Nếu không thì… em đâu có được gặp lại chị… Em chợt nhớ ra cách đầy không lâu, sau khi thi xong, em vứt mấy cuốn sách lên nóc tủ, trong đó có cuốn Tiếng Việt 6 này. Chắc là do em quá tay nên nó bị rơi xuống đất. Từ hôm ấy, em không quan tâm đến chuyện đó nữa mà thanh thản hưởng những ngày hè vui vẻ. Cuốn sách tiếp tục than thở: – Chị hẩy nhìn lại em một chút mà xem! Bên ngoài thì xơ xác, bẩn thỉu, bên trong cũng thảm hại không kém. Trang nào cũng quăn góc và bị gạch xoá lung tung. Thật chẳng ra làm sao cả. Nhớ ngày nào, em cùng các bạn sách giáo khoa về trường chị với bao sung sướng và hi vọng. Chúng em mong sao sẽ giúp ích cho các anh chị trên con đường học tập. Về với chị Hiền, em vui lắm vì được chị giữ gìn, nâng niu. Chị ấy mặc cho em chiếc áo làm bằng tờ hoa báo thật đẹp. Em cùng các bạn được dán nhãn cẩn thận và xếp ngay ngắn trên giá sách. Mỗi khi cần đến, chị Hiền nhẹ nhàng lật giở từng trang. Dùng xong, chị lại cất chúng em vào chỗ cũ. Nhờ thế mà sau một năm học, chúng em vẫn sạch đẹp như mới. Cuối năm, chị Hiền đạt danh hiệu Học sinh xuất sắc. Chúng em rất tự hào về người chủ nhỏ của mình và cùng chia vui với chị ấy. Chị Hiền được nghỉ hè và chúng em cũng được nghỉ ngơi sau một năm học vất vả. Rồi năm học mới bắt đầu. Em cùng các bạn về với chị – cô chủ mới. Em đã sát cánh bên chị suốt năm học vừa qua. Chị cũng học giỏi như chị Hiền và chúng em cũng được thơm lây. Có điều tính chị không ngăn nắp lắm. Chị hay bỏ chúng em vung vãi khắp nơi. Lúc cần lại cuống lên tìm kiếm. Có lúc chị vứt em xuống bàn mạnh đến nỗi em đau nhức cả mình mẩy..Sau khi thi được vài ngày, chị quăng chúng em lên nóc tủ và em đã rơi xuống gầm tủ tối om om. Chẳng ai để ý đến xó xỉnh ấy nên em đành cam chịu đau khổ. Một mình em chống chọi với lũ gián, lũ chuột bẩn thỉu và không khí ẩm mốc. Em những tưởng đã thành mồi ngon cho lũ mối nhưng may sao, bà đã nhặt em lên, phủi bụi sạch sẽ rồi đặt lên bàn. Thế mà chị chẳng hay biết tí gì!
Assignment The summer night was calm, the south wind blew brightly. The sound of insects chirping in the garden. Following the steady and creaking rhythm of the hammock, I dozed off to sleep. Suddenly I heard a soft whimper, echoing somewhere. I looked around and found the book Vietnamese 6 on the table, sobbing. She immediately got out of the hammock, went to the table, picked up the book, and gently asked: – Why do you cry? If you have something sad, tell me! Can you help me? Tears welled up, the book hesitantly told: – I'm so sad, sister! Look, my cover is all torn, and the spine is covered in cockroaches. The rats stained my body... it was really smelly and uncomfortable. I've been falling under the cabinet for so long that you don't know. Luckily, she cleaned up and saved me this morning. Otherwise... I won't be able to see you again... I suddenly remembered that not long ago, after finishing the exam, I threw a few books on the top of the cabinet, including this book Vietnamese 6. Probably because I was too handsy, it fell to the ground. From that day on, I didn't care about that anymore and peacefully enjoyed the happy summer days. The book continues to lament: – Please look back at me for a moment! The outside is shabby and dirty, the inside is equally pathetic. Every page has curled corners and haphazardly crossed out lines. It really doesn't work at all. I remember the day when I and my textbook friends returned to your school with so much happiness and hope. We hope to help you on your learning path. Coming back to Ms. Hien, I am very happy because she takes care of me and cherishes me. She dressed me in a beautiful shirt made of newspaper flowers. You and your friends are carefully labeled and neatly arranged on the bookshelf. Whenever needed, Ms. Hien gently turns the pages. After using them, she put them back in their original place. Thanks to that, after a year of school, we are still as clean and beautiful as new. At the end of the year, Ms. Hien won the title of Outstanding Student. We are very proud of our little owner and share our happiness with her. Ms. Hien gets a summer break and we also get to rest after a hard school year. Then the new school year begins. I and my friends returned to my sister - the new owner. I have stood by your side throughout the past school year. She is also good at studying like Hien and we are also blessed. However, she is not very organized. She often leaves us scattered everywhere. When in need, I frantically search. There was a time when she threw me down on the table so hard that my entire body hurt. A few days after the exam, she threw us on top of the cabinet and I fell under the dark cabinet. No one paid attention to that corner, so I had to endure the pain. I'm alone fighting cockroaches, dirty rats and musty air. I thought I had become good prey for the termites, but fortunately, she picked me up, dusted me clean and placed it on the table. But you don't know anything!
Bài làm Gia đình em theo bố chuyển ra thị xã đã gần hai năm. Hôm nay, em mới có dịp về thăm quê. Vừa lên xe, em đã nhận ra cô Nga, cô giáo chủ nhiệm lớp 5A mà em rất quý mến. Em khoanh tay lễ phép chào cô. Cô mỉm cười kéo em ngồi xuống ghế bên cạnh và ân cần hỏi thăm tình hình học tập và sinh hoạt của em. Gặp cô, em mừng lắm. Bao nhiêu kỉ niệm tốt đẹp về cô lại trỗi dậy trong kí ức em… Hồi ấy, quê em còn nghèo. Đường làng lồi lõm, quanh co, sau mỗi cơn mưa, đất nhão thành bùn dính bết vào chân, đi lại rất khó khăn. Dân làng làm việc quần quật suốt ngày ngoài đồng, quanh năm vất vả. Trẻ em mới lên chín, lên mười đã phải phụ giúp cha mẹ những việc nhỏ như chăn trâu, cắt cỏ… Sáng sáng, em đi học cùng bạn Lâm. Nhà bạn ấy cách nhà em một xóm. Hôm đó, chờ mãi không thấy Lâm đến rủ, em đành tới trường một mình. Suốt mấy ngày mưa phùn lây rây, không khí ẩm ướt và lạnh thấu xương. Bầu trời xám xịt, mặt trời bị che khuất sau những đám mây dày sũng nước. Đến lớp, em thấy bạn nào cũng co ro vì lạnh, chân tay, quần áo lem nhem bùn đất. Cô Nga nhìn chúng em với ánh mắt ái ngại và thương cảm. Cô khen chúng em chịu khó, chăm học, rồi cô bắt đầu giảng bài như thường lệ. Chúng em say mê nghe, quên cả trời đang mưa lạnh. Giờ chơi, các bạn ùa ra hành lang, túm năm tụm ba chuyện trò vui vẻ. Em chợt nhớ tới Lâm và định bụng tan học sẽ ghé thăm xem bạn ấy vì sao mà nghỉ học. Buổi trưa, ăn cơm xong, nghĩ tới đoạn đường đến nhà Lâm, em ngại quá! Em chui tọt vào chăn rồi ngủ quên mất. Mãi đến tối, em lấy hết can đảm dấn bước trên con đường trơn trượt để đến nhà Lâm. Em ngạc nhiên khi thấy bên ngọn đèn dầu, cô Nga đang giảng bài và hướng dẫn Lâm làm Toán. Lâm quàng chiếc khăn kín cổ, mặt đỏ bừng như người đang sốt. Nhìn cảnh ấy, lòng em xao xuyến lạ thường. Em thương Lâm và kính phục cô bao nhiêu thì lại tự trách mình bấy nhiêu. Lẽ ra tan học, em phải đến với Lâm ngay để giúp bạn ấy chép bài, làm bài mới đúng. Em thật có lỗi với bạn Lâm và cô giáo. Dường như nhận ra vẻ bối rối của em, cô Nga tươi cười bảo: – Đạt tới thăm Lâm đấy ư? Tốt lắm! Cô và hai em cùng giải mấy bài Toán khó này nhé. Thế rồi cô tiếp tục hướng dẫn cặn kẽ cho tới lúc bạn Lâm tự làm được bài.
Assignment My family followed my father and moved to town nearly two years ago. Today, I had the opportunity to visit my hometown. As soon as I got in the car, I recognized Ms. Nga, the homeroom teacher of class 5A, whom I love very much. I folded my arms politely to greet her. She smiled and pulled me to the chair next to me and kindly asked about my study and living situation. Meeting you, I'm very happy. So many good memories of her resurfaced in my memory... At that time, my hometown was still poor. The village road is uneven and winding. After every rain, the soil turns into mud that sticks to your feet, making walking very difficult. The villagers work hard all day in the fields, all year round. Children as young as nine or ten have to help their parents with small tasks such as herding buffalo, mowing grass... Every morning, I go to school with my friend Lam. Her house is one neighborhood away from mine. That day, I waited forever and didn't see Lam come to invite me, so I had to go to school alone. For several days it had been drizzling, the air was damp and bone-chillingly cold. The sky was gray, the sun hidden behind thick, soggy clouds. When I got to class, I saw everyone cowering from the cold, their limbs and clothes covered in mud. Ms. Nga looked at us with eyes of concern and sympathy. She praised us for being diligent and studying hard, then she started lecturing as usual. We were so engrossed in listening that we forgot it was cold and raining. During playtime, the kids rushed out into the hallway, huddled together and chatted happily. I suddenly remembered Lam and decided to visit after school to see why he was absent from school. At noon, after eating, thinking about the road to Lam's house, I was so shy! I crawled into the blanket and fell asleep. Until evening, I mustered up the courage to walk on the slippery road to Lam's house. I was surprised to see by the oil lamp, Ms. Nga was lecturing and guiding Lam in doing Math. Lam wrapped a scarf around her neck, her face was red like someone with a fever. Looking at that scene, my heart was strangely stirred. As much as I love Lam and admire her, I blame myself even more. After school, I should have gone to Lam right away to help him copy his homework and do it correctly. I'm really sorry to Lam and the teacher. Seeming to notice her confused look, Ms. Nga smiled and said: - Dat came to visit Lam? Very good! Let's solve these difficult math problems together. Then she continued to give detailed instructions until Lam could do the lesson himself.
Bài làm Năm học vừa qua, do đạt danh hiệu Học sinh xuất sắc nên em được Công đoàn của cơ quan mẹ cho đi nghỉ mát ở Nha Trang bốn ngày. Từ sáng sớm cho đến chiều tối, em cùng các bạn tắm biển, leo núi, ngồi trên ca nô lướt sóng tới thăm các đảo. Cuộc du ngoạn đầy hứng khởi và thú vị. Tôi đến, lúc mọi người say sưa ngủ thì em lại thao thức nhớ mẹ – người mẹ hiền từ và yêu quý của em. Mỗi lần nhớ mẹ, em lại nhớ tới kỉ niệm về một cơn mưa… Dạo ấy, ba em đi công tác xa nhà nên ngày ngày mẹ phải đến trường đón em sau giờ tan học. Một buổi trưa, trời bỗng đổ mưa to và kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Từ cơ quan, mẹ hối hả đạp xe tới trường. Thấy em đang đứng nép dưới cổng, mẹ vội cởi áo mưa trùm cho em và bảo: – Con khoác áo vào đi cho khỏi ướt. Nhận ra vẻ băn khoăn của em, mẹ an ủi: – Đừng lo con ạ! Mưa chắc cũng sắp tạnh rồi! Mẹ khỏe hơn con, có ướt một chút cũng chẳng sao. Mưa vẫn nặng hạt. Nước chảy tràn trên mặt đường, tuôn ồ ồ xuống các miệng cống. Trên đường vắng xe cộ và người qua lại. Trong các hiên nhà, người trú mưa chen chúc. Mẹ em vẫn gò lưng đạp xe trong mưa. Em thương mẹ quá chừng mà chẳng biết làm sao. Về đến nhà, mẹ vội thay quần áo rồi lo nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa. Em cũng giúp mẹ một tay. Đến bữa, mẹ có vẻ mệt mỏi, ăn không ngon miệng. Em động viên: – Mẹ cố ăn bát cơm cho khỏe! Mẹ gượng cười: – Chắc không sao đâu con! Mẹ chỉ thấy khó chịu một chút thôi. Rồi mẹ uống một viên thuốc cảm và đi nghỉ. Đến chiều, mẹ vẫn đi làm như thường lệ. Đêm ấy, mẹ lên cơn sốt. Em bối rối chẳng biết làm thế nào đành sang nhờ bác An hàng xóm đưa mẹ đi bệnh viện. Bác sĩ khám bệnh rồi nói rằng mẹ bị viêm phổi cấp tính do bị cảm lạnh. Em đặt tay lên trán mẹ, trán mẹ nóng như lửa. Đôi môi mẹ khô se, hơi thở mệt nhọc, khó khăn. Em thương mẹ quá, nước mắt cứ rưng rưng. Bác An lấy chiếc khăn lạnh đặt lên trán mẹ. Hai bác cháu cùng cô y tá trực thức bên mẹ suốt đêm. Sau khi mẹ được tiêm mấy mũi thuốc, đến gần sáng, cơn sốt hạ dần. Mẹ vẫy em lại gần rồi ra hiệu bảo mở cửa sổ. Những tia nắng sớm rọi vào làm sáng cả căn phòng. Nét mặt mẹ tươi trở lại.
Assignment Last school year, because I won the title of Excellent Student, I was allowed to go on vacation to Nha Trang for four days by the Union of my parent agency. From early morning until late afternoon, my friends and I swim, climb mountains, sit on canoes and surf to visit the islands. The trip was full of excitement and fun. When I arrived, when everyone was fast asleep, she was awake, missing her mother - her gentle and beloved mother. Every time I miss my mother, I remember the memory of a rain... At that time, my father was away from home on business, so every day my mother had to come to school to pick me up after school. One afternoon, it suddenly rained heavily and lasted for hours. From work, my mother hurriedly cycled to school. Seeing her standing under the gate, her mother quickly took off her raincoat to cover her and said: - Put on your coat so you don't get wet. Noticing her worried look, her mother comforted her: - Don't worry, child! The rain is probably about to stop! Mom is stronger than her child, it's okay if she's a little wet. The rain is still heavy. Water flowed on the road, rushing down the manholes. The road was empty of traffic and passersby. In the porches, people crowded to take shelter from the rain. My mother is still cycling in the rain. I love my mother so much but don't know what to do. When she got home, her mother quickly changed clothes and took care of cooking and cleaning the house. I also gave my mother a helping hand. At mealtime, mother seemed tired and had no appetite. She encouraged: - Mom, try to eat a bowl of rice to stay healthy! Mom forced a smile: - It's probably okay! Mom just feels a little uncomfortable. Then mom took a cold pill and went to rest. In the afternoon, mother still went to work as usual. That night, mother had a fever. I was confused and didn't know what to do so I asked neighbor An to take my mother to the hospital. The doctor examined the patient and said that the mother had acute pneumonia due to a cold. I put my hand on my mother's forehead, her forehead was hot like fire. Mother's lips are dry and her breathing is labored and difficult. I love my mother so much, tears keep flowing. Uncle An took a cold towel and placed it on her mother's forehead. My uncle and I and the nurse stayed up with my mother all night. After my mother received a few injections, by morning, the fever gradually subsided. Mom waved me closer and signaled to open the window. The morning rays of sunlight shined in, brightening the whole room. Mother's face brightened again.
Bài làm Đêm mùa hè, gió nồm nam lồng lộng thổi trong những lũy tre ven làng, đem theo hương lúa chín nồng nàn vào đến tận ngóc ngách xóm thôn. Trên bầu trời đêm thăm thẳm, muôn vạn vì sao nhấp nháy tinh nghịch như mắt trẻ thơ. Trăng non đầu tháng cong cong như lưỡi liềm bạc, tỏa ánh sáng mờ mờ xuống mặt đất ẩm sương. Trong vườn, tiếng côn trùng rỉ rả hòa cùng tiếng ếch nhái uôm oam văng vẳng ngoài đồng. Làng quê đang chìm dần vào giấc ngủ an lành sau một ngày làm lụng vất vả. Trên chiếc võng đay mắc giữa hai gốc xoan trước sân nhà, em nằm sát bên bà, lắng nghe bà kể chuyện. Bà em là một kho tàng cổ tích, ca dao. Bà thuộc làu nhiều chuyện và kể rất hay! Đã thành thói quen, trước khi đi ngủ, bao giờ em cũng vòi bằng được bà kể cho nghe vài chuyện. Bà em năm nay tuổi đã ngoài bảy mươi nhưng sức khỏe vẫn dẻo dai và trí óc còn minh mẫn lắm! Mái tóc bạc trắng búi gọn sau đầu. Gương mặt đầy đặn, phúc hậu. Đôi mắt nheo nheo với ánh nhìn ấm áp hiền từ cùng nụ cười độ lượng tạo cho bà vẻ cởi mở, thân thiện, rất dễ gần.
Assignment On a summer night, the strong south wind blows in the bamboo fences along the village, bringing the rich scent of ripe rice to every corner of the village. In the deep night sky, thousands of stars twinkled mischievously like a child's eyes. The new moon at the beginning of the month curves like a silver crescent, radiating dim light onto the dewy ground. In the garden, the chirping sounds of insects mixed with the croaking sounds of frogs echoed in the fields. The village is gradually falling into a peaceful sleep after a hard day's work. On a jute hammock hung between two neem trees in the front yard, I lay close to my grandmother, listening to her tell stories. My grandmother is a treasure trove of fairy tales and folk songs. She memorized many stories and told them very well! It has become a habit, before going to bed, I always ask her to tell me a few stories. My grandmother is over seventy years old this year, but her health is still strong and her mind is still very clear! White hair tied in a bun behind the head. The face is full and kind. Narrow eyes with a warm, gentle look and a generous smile make her look open, friendly, and very approachable.
Bài làm Đầu xuân năm nay, ở hội thi nuôi trâu bò béo khỏe của làng, con trâu tơ nhà em đã giành được giải nhất. Em vui mừng và hãnh diện vì bao công lao vất vả chăm sóc nó nay đã được đáp đền xứng đáng. Cách đây hai năm, bố em lặn lội sang tận Phú Thọ để tìm mua một con nghé tốt. Em còn nhớ hôm bố dẫn nghé về, cả xóm kéo đến xem, nhiều người trầm trồ khen con nghé đẹp. Bô tươi cười bảo em: – Bô giao nó cho con đấy! Con có thích không? Em nhảy cẫng lên mừng rỡ. Thế là từ nay, em đã có thêm một người bạn mới. Nghé con dễ thương vô cùng! Trên đầu, cặp sừng non mới nhú. Đôi mắt to tròn ngơ ngác nhìn cảnh vật lạ lẫm xung quanh. Thân hình nó mập mạp, cân đối, bốn chân vững chãi, cái đuôi ngắn phe phẩy đuổi ruồi. Giữa đám đông ồn ào, ý chừng cu cậu sợ nên cứ hốt hoảng kêu: – Nghé ọ! Nghé ọ… ọ… ọ! Em đỡ lấy sợi thừng từ tay bố, dắt nghé vào chiếc chuồng mới ở góc vườn. Trên nền đất nện, em đã rải một lượt rơm. Bó cỏ tươi non và máng nước sạch đặt ngay cạnh cửa. Đêm ấy lạ nhà, nghé con không ngủ được. Nó bồn chồn giậm chân gõ móng rồi lại cất tiếng gọi mẹ. Em vuốt ve cổ nghé rồi thì thầm vào tai nó: – Anh biết là em đang nhớ mẹ! Ngoan nào! Ăn no ngủ kĩ rồi sáng mai anh cho ra đồng chơi nhé! Chẳng biết là nghé có hiểu gì không nhưng sau đó nó cúi xuống ngoạm một nắm cỏ tươi, lặng lẽ nhai. Nhìn nó, tự dưng trong lòng em dâng lên một tình thương mến lạ lùng! Sáng sớm hôm sau, em dắt nghé ra đồng. Dưới làn mưa xuân bay lất phất, cỏ hai bên vệ đường xanh mướt, lún phún như mạ non. Không gian trong lành, thoang thoảng mùi hương man mác của đồng quê. Nghé con tung tăng gặm cỏ, chốc chốc lại chạy quẩng lên vài bước.
Assignment Earlier this spring, at the village's competition for raising fat and healthy cattle, my young buffalo won first prize. I am happy and proud because all my hard work taking care of it has now been rewarded. Two years ago, my father traveled all the way to Phu Tho to find and buy a good calf. I still remember the day my dad brought the calf home, the whole neighborhood came to see it, many people admired the calf's beauty. Bo smiled and told me: – Dad gave it to me! Do you like it? I jumped up and down with joy. So from now on, I have a new friend. Baby calves are so cute! On the head, a pair of young horns have just sprouted. Big round eyes looked bewildered at the strange surroundings. Its body is chubby, balanced, its four legs are sturdy, and its short tail flutters to chase away flies. In the middle of a noisy crowd, he seemed scared so he kept calling out in panic: – Hey hey! Oh oh… oh… oh! I took the rope from my father's hand and led the calf into the new cage in the corner of the garden. On the clay floor, I spread straw. Bunches of fresh grass and clean water troughs are placed right next to the door. That night, the house was strange and the baby couldn't sleep. He nervously stomped his feet and tapped his hooves, then called out for his mother again. I caressed the calf's neck and whispered in its ear: - I know you miss your mother! Good boy! Eat well and sleep well, then tomorrow morning I'll let you out to play in the fields! I don't know if the calf understood anything, but then it bent down and grabbed a handful of fresh grass, chewing quietly. Looking at it, suddenly a strange love arose in my heart! Early the next morning, I took the calf to the field. Under the light spring rain, the grass on both sides of the road was green and squishy like young rice seedlings. The space is fresh, with a faint scent of the countryside. The baby calves freely grazed on the grass, occasionally running up and down a few steps.
Bài làm Theo nhịp tuần hoàn của quy luật thiên nhiên, mùa hè trôi qua, mùa thu lại tới. Trên đầm, sen đã gần tàn, mùi hương chỉ còn phảng phất. Trong vườn, cúc vàng nở rộ, rung rinh trước ngọn gió mát lành, báo hiệu Tết Trung thu đã gần kề. Cũng như bao bạn thiếu nhi khác, lòng em xôn xao, rạo rực mỗi khi nghĩ đến cảnh tưng bừng rước đèn, phá cỗ dưới trăng. Ôi! Đáng yêu biết bao cái Tết dành riêng cho tuổi thơ! Dẫu đã có tự ngàn năm nhưng ý nghĩa của nó vẫn nguyên vẹn như buổi ban đầu. Mặt trời lặn đã lâu. Màn đêm dịu dàng buông xuống. Bầu trời thăm thẳm, lấp lánh muôn vạn vì sao. Xa xa, phía cuối làng, vầng trăng đang từ từ nhô lên khỏi lũy tre tím mờ trong lấn sương mỏng. Tiếng trông ếch khuấy động không khí vốn tĩnh lặng chôn thôn quê. Hôm nay là rằm tháng Tám, cả làng em náo nức chuẩn bị đón Tết Trung thu. Mẹ bày cho em mâm cỗ đón trăng. Quả bưởi vàng rám nắng, cuống lá tươi xanh đặt ở giữa, xung quanh là những quả hồng đỏ tươi, chín mọng. Nải chuôi tiêu lốm đốm trứng cuốc thật xứng với cốm Vòng nõn nà màu ngọc đựng trong lá sen tươi. Chiếc bánh nướng hình mẹ con đàn lợn nằm quây quần bên nhau trông mới ngộ nghĩnh làm sao! Một mùi hương dịu ngọt lan tỏa trong không gian đang rộn ràng tiếng cười tiếng nói trẻ thơ hòa cùng tiếng trống ếch rộn ràng. Trăng đang lên cao, tròn vành vạnh như một chiếc đĩa bạc, nổi bật trên nền trời đêm. Ánh trăng ngời ngời tỏa sáng, soi rõ từng cảnh vật trên mặt đất. Dòng sông uốn khúc quanh làng như dải lụa bạc lấp lánh trăng. Đồng lúa càng trở nên mênh mông dưới ánh trăng rằm. Trên đường làng, từng đoàn trẻ tung tăng nối đuôi nhau rước đèn. Hàng trăm ngọn nến lung linh. Đèn hình ông sao, hình con thỏ, con gà, con bướm, con chim, hình máy bay, trông thật vui mắt. Em thích nhất cái đèn ông sao của bạn Mai học cùng lớp được làm bằng giấy bóng kính đỏ, trong suốt, xung quanh ngôi sao là vòng tròn viền tua giấy ngũ sắc. Khi thắp nến lên, đèn tỏa ánh sáng lung linh. Biết em thích, thỉnh thoảng bạn Mai lại đổi đèn cho em cầm một lúc. Tiếng hát xen lẫn tiếng trống ếch, trống cơm náo nức: Thùng thình, thùng thình trống rộn ràng ngoài đình, Có con sư tử đang múa quanh vòng quanh. Trung thu liên hoan trăng sáng ngập đường làng, Dưới ánh trăng vàng đàn em hát vang vang…
Assignment According to the cyclical rhythm of natural law, summer passes and autumn comes. On the lagoon, the lotus flowers have almost withered, the scent is only faint. In the garden, yellow chrysanthemums bloomed, fluttering in the cool breeze, signaling that the Mid-Autumn Festival was near. Like many other children, my heart is excited and excited every time I think about the jubilant scene of carrying lanterns and feasting under the moon. Oh! How lovely is Tet dedicated to childhood! Even though it has been around for thousands of years, its meaning is still the same as in the beginning. The sun has set for a long time. The night gently falls. The sky is deep, sparkling with thousands of stars. In the distance, at the end of the village, the moon slowly rose from the purple bamboo fence in the thin mist. The sound of frogs stirred the otherwise quiet atmosphere of the countryside. Today is the full moon of August, my whole village is excitedly preparing to celebrate the Mid-Autumn Festival. Mom gave me a tray to welcome the moon. Tanned yellow grapefruit, fresh green leaf stalks placed in the middle, surrounded by bright red, ripe persimmons. The bunch of black pepper speckled with roe is a perfect match for the pearly white nuggets served in fresh lotus leaves. The cake shaped like a mother and a group of pigs lying together looks so funny! A sweet scent spreads in the space filled with laughter and children's voices mixed with the bustling sound of frog drums. The moon is rising, round and round like a silver disc, standing out against the night sky. The moonlight shines brightly, illuminating every scene on the ground. The river meanders around the village like a silver ribbon sparkling with the moon. The rice fields become even more immense under the full moonlight. On the village streets, groups of children followed each other to carry lanterns. Hundreds of flickering candles. Lights shaped like stars, rabbits, chickens, butterflies, birds, airplanes, look so fun. I like the star lamp of my classmate Mai the most, which is made of red, transparent cellophane, surrounded by a circle of five-colored paper tassels. When the candle is lit, the lamp radiates shimmering light. Knowing that I like it, sometimes Mai will change the lamp for me to hold for a while. Singing mixed with the exciting sounds of frog drums and rice drums: Pounding, drumming, bustling outside the temple, There is a lion dancing around and around. Mid-Autumn Festival, the moonlight floods the village streets, Under the golden moonlight, the juniors sing loudly...
Bài làm Trong ca dao – dân ca, đề tài về cảnh đẹp đất nước chiếm một mảng khá lớn. Mỗi bài là một bức tranh phong cảnh tuyệt vời, ẩn chứa lòng tự hào, tình cảm gắn bó thiết tha, sâu nặng với quê hương, xứ sở. Bài ca dao nói về cảnh đẹp Hồ Tây ở thủ đô Hà Nội được lưu truyền rộng rãi và đã trở thành lời ru quen thuộc: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ. Hồ Tây xưa kia có tên là hồ Lãng Bạc (tức cái bến có sóng lớn), hay còn gọi là Dâm Đàm (hồ sương mù) vì thường vào lúc sáng sớm và chiều tối, sương phủ dày trên mặt nước. Vì ở vị trí phía tây kinh thành nên sau này nó được gọi là Hồ Tây. Xung quanh hồ là những địa danh nổi tiếng của đất Thăng Long như chùa Trấn Vũ, huyện lị Thọ Xương, làng Yên Thái (vùng Bưởi) chuyên nghề làm giấy (vỏ cây dó được ngâm mềm, giã nhuyễn rọi cán mỏng thành giấy), phường Nghi Tàm, quê hương của Bà Huyện Thanh Quan, thi sĩ nổi tiếng của nước ta. Bài ca dao là bức tranh toàn cảnh Hồ Tây vào một buổi sáng tinh mơ. Mở đầu là nét chấm phá đơn sơ nhưng sinh động: Gió đưa cành trúc la đà. Làn gió nhẹ sớm mai làm đung đưa cành trúc trĩu nặng sương đêm, tạo nên cái dáng mềm mại, nên thơ. Bức tranh duy nhất chỉ có nét thanh mảnh của cành trúc la đà trên cái nền mông lung mờ ảo của bầu trời và mặt hồ. Trong câu tiếp theo, các âm thanh hòa quyện vào nhau: Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Tiếng chuông ngân nga, tiếng gà gáy rộn rã báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Tiếng chuông chùa vang vọng giữa thinh không gợi cảm giác bình yên. Tiếng gà gáy gợi lên cuộc sống quen thuộc nơi thôn dã. Âm thanh của cõi đạo, cõi đời… làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của đất trời lúc đêm tàn, ngày rạng. Những ai đã đến Hồ Tây khi màn sương dày đặc còn bao phủ mặt hồ thì mới thấy được cái hay, cái đẹp của câu: Mịt mù khói toả ngàn sương và mới thực sự sống trong tâm trạng lâng lâng thoát tục trước vẻ đẹp thần tiên ấy. Nếu ở ba câu thơ trên mới thấp thoáng hơi hướng cuộc sống thì đến câu thứ tư, hình ảnh cuộc sống lao động đã hiện ra khá rõ nét qua nhịp chày giã dó dồn dập của dân làng Yên Thái. Nhịp chày cũng là nhịp điệu hối hả của cuộc sống cần lao. Hình ảnh mặt gương Tây Hồ làm bừng sáng cả bài ca dao. Mặt trời lên xua tan sương mù, tỏa ánh nắng xuống mặt nước, Hồ Tây trở thành một mặt gương khổng lồ sáng long lanh, vô cùng đẹp đẽ!
Assignment In folk songs, the topic of beautiful country scenery occupies a large area. Each song is a wonderful landscape painting, containing pride and a deep, passionate attachment to the homeland. The folk song about the beautiful scenery of West Lake in the capital Hanoi is widely circulated and has become a familiar lullaby: The wind carries the bamboo branches to the wind, Tran Vu bell ringing, Tho Xuong chicken soup. The fog and smoke radiate thousands of mists, The rhythm of the Yen Thai pestle, the mirror face of Tay Ho. West Lake was formerly called Lang Bac Lake (meaning the wharf with big waves), also known as Dam Dam (foggy lake) because often in the early morning and evening, thick fog covers the water surface. Because it is located west of the capital, it was later called West Lake. Around the lake are famous landmarks of Thang Long such as Tran Vu pagoda, Tho Xuong district town, Yen Thai village (Buoi region) specializing in paper making (the bark of the tree is soaked, pounded and rolled into paper). , Nghi Tam ward, hometown of Ba Huyen Thanh Quan, famous poet of our country. The folk song is a panorama of West Lake on an early morning. The opening is a simple but vivid touch: The wind moves the bamboo branches to the wind. The morning breeze sways the bamboo branches heavy with night dew, creating a soft, poetic appearance. The only painting has only the slender lines of bamboo branches on the hazy background of the sky and lake surface. In the next sentence, the sounds blend together: Tran Vu bell sound, Tho Xuong chicken soup. The sound of bells ringing and roosters crowing loudly signal the beginning of a new day. The sound of temple bells echoing in the empty air evokes a feeling of peace. The sound of a rooster crowing evokes familiar life in the countryside. The sounds of the religious world, the world... enhance the silence of heaven and earth at night and at dawn. Those who have been to West Lake when the thick fog still covers the surface of the lake can see the beauty of the sentence: Mist of smoke radiates a thousand mists and can truly live in a state of ecstasy and ecstasy before the divine beauty. that fairy. If in the three verses above, there is a glimpse of life, then in the fourth verse, the image of working life appears quite clearly through the rapid rhythm of pounding pestles and pestles of Yen Thai villagers. The rhythm of the baseball is also the hustle and bustle of hard-working life. The image of the mirror of Tay Ho brightens up the whole folk song. The rising sun dispels the fog, radiating sunlight onto the water surface, West Lake becomes a giant, sparkling, extremely beautiful mirror!
Bài làm Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng nhất trong đời sống con người. Vì thế trong kho tàng văn học dân gian đã có biết bao tiếng hát, lời ru, câu chuyện… khuyên nhủ mọi người hãy xây dựng tình cảm gia đình đầm ấm, thuận hòa. Một trong những lời khuyên được lưu truyền rộng rãi là: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần. Câu ca dao đã dùng hình ảnh so sánh cụ thể, gần gũi để lời khuyên dễ đi vào lòng người. Ai chẳng biết tay, chân là những bộ phận trên cùng một cơ thể con người. Tuy mỗi bộ phận có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ khăng khít, bổ sung, hỗ trợ cha nhau. Anh em trong gia đình cũng vậy. Tuy mỗi người là một cá nhân riêng biệt nhưng đều cùng cha mẹ sinh ra, cùng chơi, cùng học, cùng lớn lên dưới một mái nhà. Vì thế, quan hệ anh em là quan hệ gắn bó máu thịt với nhau. Vậy anh em phải cư xử với nhau thế nào cho đúng? Người xưa khuyên nhủ: Rách lành đùm bọc, khó khăn đỡ đần. Anh em ruột thịt phải thương yêu, giúp đỡ nhau trên mỗi bước đường đời. Rách, lành là hình ảnh tượng trưng cho hai hoàn cảnh sống khác nhau. Rách là cảnh sống khó khăn, khổ sở; còn lành là cảnh sống thuận lợi, sung túc. Hợp nghĩa lại, rách lành chỉ chung mọi cảnh ấm no hay nghèo đói. Khi đói khi no, lúc đủ lúc thiếu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì anh em ruột thịt cũng phải thương yêu, hỗ trợ lẫn nhau, không so đo tính toán thiệt hơn. Hoàn cảnh sống có thể thay đổi nhưng tình nghĩa anh em lúc nào cũng phải thắm thiết, bền chặt. Nếu như tình cảm anh em là thứ tình cảm tự nhiên thì sự đùm bọc lẫn nhau cũng là việc làm tự nhiên, tất yếu.
Assignment Family love is the most sacred love in human life. Therefore, in the treasury of folk literature, there are countless songs, lullabies, stories... advising people to build warm, harmonious family relationships. One of the widely circulated pieces of advice is: Brothers like hands and feet, Tears heal and are protected, difficulties are relieved. The folk song uses specific, close comparisons so that the advice can easily reach people's hearts. Everyone knows that arms and legs are parts of the same human body. Although each department has its own functions and tasks, there is always a close relationship between them, complementing and supporting each other. The same goes for brothers in the family. Although each person is a separate individual, they are all born with the same parents, play together, study together, and grow up together under the same roof. Therefore, the brotherly relationship is a relationship of flesh and blood. So how should you treat each other properly? The ancients advised: If a wound heals, you will be protected, and when you are in trouble, you will be protected. Siblings must love and help each other at every step of their life. Torn and healed are images that symbolize two different life situations. Torn is a difficult and miserable life; Being healthy means a favorable and prosperous life. Combined, torn and healed refers to all situations of prosperity or poverty. When you're hungry, when you're full, when you have enough, when you're lacking, no matter what the circumstances, siblings must love and support each other, without comparing or calculating the difference. Life circumstances may change, but brotherhood must always be passionate and strong. If brotherly love is a natural feeling, then supporting each other is also a natural and inevitable thing.
Bài làm Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con Người Việt Nam ta rất coi trọng đời sống tình cảm, nhất là tình cảm gia đình. Có lẽ không ai không biết đến bài ca dao đã trở thành lời ru quen thuộc tự bao đời: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Nói về công lao của cha mẹ đối với con cái, câu ca dao trên đã đưa ra những hình ảnh giàu sức biểu cảm để so sánh và chỉ có những hình ảnh vĩ đại như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn mới diễn tả hết công lao to lớn ây. Thái Sơn là một ngọn núi cao nổi tiếng ở Trung Quốc, tượng trưng cho những gì lớn lao, vĩ đại. Khi so sánh Công cha như núi Thái Sơn, nhân dân ta muốn nhấn mạnh công lao của người cha trong việc nuôi dạy con cái trưởng thành. Còn hình ảnh nước trong nguồn thể hiện tình yêu thương vô hạn của người mẹ đối với các con. Người xưa đã ví công cha với ngọn núi cao nhất, còn nghĩa mẹ lại so sánh với nước trong nguồn bất tận. Đọc kĩ bài ca dao, ta sẽ ngạc nhiên trước sự tinh tế này. Người xưa đã phản ánh rất đúng đặc điểm tâm lí và cách, biểu hiện tình cảm của cha mẹ đối với con cái để từ đó chọn chữ và dùng hình ảnh so sánh cho hợp lí Vì thế chữ công để nói về cha, chữ nghĩa để nói về mẹ. Hai hình ảnh núi Thái Sơn và nước trong nguồn tuy khác xa nhau nhưng đều phù hợp với vai trò và vị trí của mỗi người. Công sinh thành của cha mẹ rất lớn. Không có cha mẹ thì không có các con. Bất cứ một anh hùng hay vĩ nhân nào cũng đều được sinh ra từ cha mẹ của mình. Cha mẹ đã rứt ruột sinh ra các con, đã chia sẻ một phần xương thịt để các con có mặt trên đời. Chính vì vậy, công ơn sinh thành của cha mẹ sánh ngang với núi cao, biển rộng. Cha mẹ cũng là người nuôi dưỡng các con từ khi mới chào đời cho đến lúc trưởng thành. Mẹ nuôi con bằng dòng sữa ngọt lành. Cha mẹ thay nhau chăm sóc đàn con mỗi khi trái gió trở trời. Cha mẹ ra sức làm lụng để nuôi các con khôn lớn. Từ một hình hài nhỏ xíu cho đến khi biết đi, rồi biết đọc, biết viết, biết nấu cơm, quét nhà, biết làm lụng để tự nuôi thân đâu phải là chuyện ngày một, ngày hai. Các con lớn dần lên cũng là lúc cha mẹ già yếu đi. Cha mẹ đã dành cho đàn con tất cả tâm huyết và sức lực của mình. Không chỉ nuôi con lớn, cha mẹ còn dạy dỗ cho các con nên người. Cha mẹ dạy con bằng chính những việc làm, những hiểu biết về đời sống, về đạo làm người của mình. Sau này, dù được thầy cô dạy dỗ, được người đời khuyên răn, nhưng cha mẹ vẫn là người thầy đầu tiên, người thầy gần gũi nhất của các con. Hạnh phúc thay cho những đứa con được ấp ủ, yêu thương trong vòng tay cha mẹ! Vậy làm con phải đối xử với cha mẹ như thế nào để đáp đền chữ hiếu? Câu cuối của bài ca dao nhắc nhở chúng ta bổn phận làm con: Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Đạo con là đạo đức, trách nhiệm làm con. Bổn phận của con cái là phải bày tỏ lòng biết ơn và thái độ kính mến, chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Tình cảm đối với cha mẹ phải chân thành và được thể hiện qua những thái độ, hành động xứng với đạo làm con.
Assignment The father as a mountain, Motherhood is like water flowing from a source. One Heart Worship Mother Glass Father, Fulfilling filial piety is the way of children Vietnamese people attach great importance to love life, especially family love. Perhaps there is no one who does not know the folk song that has become a familiar lullaby for many generations: The father as a mountain, Motherhood is like water flowing from a source. One Heart Worship Mother Glass Father, Fulfilling filial piety is the way of children. Talking about the merits of parents towards their children, the folk song above provides rich and expressive images for comparison, and only great images like Thai Son mountain or water in the source can fully describe them. This is a great merit. Thai Son is a famous high mountain in China, symbolizing great things. When comparing father's work to Thai Son mountain, our people want to emphasize the father's contribution in raising his children to adulthood. The image of water in the source represents a mother's infinite love for her children. The ancients compared a father's merit to the highest mountain, while a mother's merit was compared to water in an endless source. Reading the folk song carefully, we will be surprised at this sophistication. The ancients very accurately reflected the psychological characteristics and ways of expressing parents' feelings towards their children so that they could choose words and use images to compare appropriately. Therefore, the word merit is used to talk about fathers, the word meaning is to talk about mother. The two images of Thai Son mountain and water in the source, although different, are both suitable for each person's role and position. The contribution of parents to birth is very great. Without parents, there are no children. Any hero or great person is born from his or her parents. Parents have worked hard to give birth to their children, and have shared a part of their flesh and blood so that their children can exist in this world. That's why parents' gratitude for birth is comparable to high mountains and wide oceans. Parents are also the ones who nurture their children from birth until adulthood. Mother nourishes her child with sweet milk. Parents take turns taking care of their cubs whenever the weather changes. Parents work hard to raise their children. From a tiny body to knowing how to walk, then knowing how to read, write, know how to cook, sweep the house, know how to work to support yourself is not a matter of one or two days. When children grow up, their parents become old and weak. Parents have devoted all their heart and energy to their children. Not only do they raise their children, they also teach them to be good people. Parents teach their children through their own actions and understanding of life and human morality. Later, even though they are taught by teachers and advised by people, parents are still their children's first and closest teachers. How happy are the children who are cherished and loved in their parents' arms! So how should children treat their parents to repay filial piety? The last verse of the folk song reminds us of our filial duties: One Heart Worship Mother Glass Father, Fulfilling filial piety is the way of children. Childhood is morality and responsibility as children. It is the duty of children to express gratitude, respect and care for their parents in their old age. Love towards parents must be sincere and expressed through attitudes and actions worthy of filial piety.
Bài làm Ca dao – dân ca phản ánh sinh động đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau. Ví dụ một loạt câu mở đầu bằng cụm từ Thân em mà nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý và số phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa. – Thân em như củ ấu gai, Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen. Ai ơi nếm thử mà xem! Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi. – Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai, Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng? – Thân em như hạt mưa rào, Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa. Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. – Thân em như giếng giữa đàng, Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. – Thân em như đóa hoa rơi, Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?! – Thân em như con hạc đầu đình, Muốn bay không cất nổi mình mà bay! Ngậm ngùi, buồn thương, xót xa, cay đắng là cảm xúc chung bao trùm lên những câu ca ấy, khiến nó giống như tiếng thở dài than thân trách phận; tiếng khóc thầm tủi hờn, uất ức của người phụ nữ trước tình cảnh ngang trái, bất công. Trong xã hội phong kiến, họ bị tước đoạt quyền tự do, quyền được sống hạnh phức và buộc phải phó mặc cuộc đời mình cho sự may rủi ngẫu nhiên của số phận. Cho dù bên trong cái hình thức xấu xí, đen đủi như củ ấu gai là phẩm chất tốt đẹp vừa ngọt vừa bùi nhưng chắc gì người đời đã nhận ra?! Cho dẫu đẹp đẽ như tấm lụa đào đi chăng nữa thì vẻ đẹp ấy chưa chắc là cơ sở bảo đảm cho hạnh phúc. Giống như những hạt mưa từ trời cao rơi xuống, số phận của mỗi người con gái một khác. May rủi cuộc đời có thể đưa họ đến những cảnh ngộ trái ngược trong cuộc sống. Có người được trân trọng, có người bị ngược đãi, cũng như nước cùng một giếng mà người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Giống như con hạc đầu đình, người phụ nữ bị trói chặt vào số phận hẩm hiu, dẫu có muốn đổi thay thì cũng chỉ là ao ước mà thôi.
Assignment Folk songs and folk songs vividly reflect the rich spiritual life of working people. They have expressed their sincere and heartfelt feelings, with all levels of joy and sadness. Many folk songs have similarities in form and content, but each verse has its own beauty, suitable for different situations and moods. For example, a series of sentences begins with the phrase My dear, whose content refers to the good and noble qualities and the sad and unfortunate fate of women in ancient feudal society. - My body is like a thorny tubercle, The inside is white, the outside is black. Hey, try it and see! When I taste it, I realize that you are sweet. – Your body is like peach silk, Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to? I sit on a bamboo branch, I lean on an apricot branch, East peach, west willow, who do you know? – My body is like raindrops, Seeds fall into the well, seeds into the flower garden. My body is like falling raindrops, Seeds go into the cisterns, seeds go to the plowed fields. - I like the well itself between Paradise, Wise people wash their faces, mortals wash their feet. - My body is like a falling flower, Is he really a flower lover?! – Your body is like a crane with its head on top, If you want to fly, you can't lift yourself up and fly! Pity, sadness, pity, and bitterness are the common emotions that cover those songs, making them sound like a sigh of self-pity; A woman's silent cry of sadness and frustration in the face of an unfair and unjust situation. In feudal society, they were deprived of their freedom and right to live happily and were forced to leave their lives to the random chance of fate. Even though inside the ugly, unlucky appearance like a thorny water chestnut is a good quality that is both sweet and fleshy, surely people would have recognized it?! No matter how beautiful it is like peach silk, that beauty is not necessarily the basis for ensuring happiness. Like raindrops falling from the sky, each girl's fate is different. Life's luck can bring them to opposite situations in life. Some people are respected, some people are mistreated, just like the water from the same well where wise people wash their faces and mortal people wash their feet. Like the crane at the top of the court, women are tied to a miserable fate. Even if they want to change, it is only a wish.
Bài làm: Ở nước ta, khí hậu hai miền khác nhau rõ rệt. Miền Nam chỉ có hai mùa mưa, nắng. Miền Bắc có đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng có mưa: mưa rào, mưa giông mùa hạ, mưa phùn mùa thu, mưa dầm mùa đông. Gần Tết Nguyên Đán, không khí ấm dần lên. Những cơn mưa dầm gió bấc lạnh thấu xương ngớt hẳn, nhường chỗ cho mưa bụi, đó chính là mưa xuân đấy! So với các loại mưa khác, có lẽ mưa xuân êm đềm và gợi cảm hơn cả. Mưa xuân rắc nhẹ trên mái tóc, vai áo, trên gương mặt tươi vui của khách du xuân, để lại cảm giác mát mẻ, trong lành. Dưới ánh nắng ban mai tinh khiết, mưa xuân đọng dọc theo nhánh lá trông giống như chuỗi ngọc lấp lánh bảy sắc cầu vồng. Mưa xuân đậu trên mạng nhện chăng trên vệ cỏ ven đường khiến chúng giống như những miếng ren mỏng nhẹ sáng long lanh. Nào, chúng ta hãy làm mệt cuộc du xuân quanh hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây hay ngược lên những làng hoa vùng Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân.,. Mưa xuân lất phất bay, quang cảnh trời nước mang mang một màu cổ tích. Những hàng cây hoa sữa, cây cơm nguội, những mái phố nhấp nhô. Những con đường thấp thoáng bóng người xe qua lại… đều nhạt nhòa, lãng đãng trong mưa. Trong vườn hoa, nụ đào, nụ cúc chúm chím sung sướng đón nhận mưa xuân, đợi lúc khoe hương, khoe sắc… Vạn vật lúc hiển hiện, lúc mơ hồ, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Dưới mưa xuân, muôn loài hoa bừng nở. Sau mùa đông dằng dặc, cỏ cây hoa lá cần một chút lành lạnh của gió xuân, một chút ẩm ướt của mưa xuân, một chút âm ấm của nắng xuân… để tươi lên mơn mởn và tỏa ngát hương thơm quyến rũ bướm ong. Mưa xuân đem đến cho mỗi nụ hoa, cành lá, ngọn cỏ… dòng nhựa căng đầy sức sống. Mưa xuân khiến cho cảnh vật thiên nhiên trở nên đẹp đẽ làm mê đắm lòng người và dường như tâm trạng mỗi người đều rạo rực, xao xuyên lúc xuân sang.
Assignment: In our country, the climate in the two regions is clearly different. The South has only two seasons, rainy and sunny. The North has four seasons: spring, summer, autumn, winter. Every season has rain: showers, thunderstorms in summer, drizzle in autumn, heavy rain in winter. Near the Lunar New Year, the air is gradually warming. The bone-chilling wind-soaked rain stopped completely, giving way to dusty rain, that is spring rain! Compared to other types of rain, perhaps spring rain is the most peaceful and sexy. Spring rain lightly sprinkles on the hair, shoulders, and cheerful faces of spring visitors, leaving a cool, fresh feeling. Under the pure morning sunlight, the spring rain falling along the branches of the leaves looks like a string of pearls sparkling with seven rainbow colors. Spring rain lands on spider webs on the grass along the roadside, making them look like thin, light, sparkling pieces of lace. Come on, let's tire out our spring trip around Hoan Kiem Lake, West Lake or go up to the flower villages of Nghi Tam, Quang Ba, Nhat Tan.,. The spring rain drizzles, the landscape of sky and water takes on a fairy tale color. Rows of milk flower trees, cold rice trees, undulating street roofs. The roads were filled with glimpses of people and cars passing by... all faded and scattered in the rain. In the flower garden, peach buds and chrysanthemum buds happily welcome the spring rain, waiting for the time to show off their fragrance and bloom... Everything is sometimes visible, sometimes vague, beautiful like a watercolor painting. Under the spring rain, all kinds of flowers bloom. After a long winter, plants and flowers need a little bit of the coolness of the spring breeze, a little bit of moisture from the spring rain, a little bit of the warmth of the spring sunshine... to brighten up and radiate a fragrant scent that attracts butterflies and bees. Spring rain brings to every flower bud, leaf branch, blade of grass... a stream of sap full of life. Spring rain makes the natural scenery become beautiful and captivating, and it seems that everyone's mood is excited and excited when spring comes.
Bài làm Quê em là một làng cổ ven sông Đuống, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Mùa xuân đến, khung cảnh quê em đẹp như một bức tranh được vẽ bởi bàn tay của một họa sĩ tài hoa. Sau rằm tháng Giêng, tuy Tết đã hết nhưng không khí Tết cùng sức sống của mùa xuân vẫn rạo rực, xôn xao trong lòng người và vạn vật. Dưới mưa xuân lất phất bay, cây cối đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Những búp lá non màu ngọc bích rung rinh nhè nhẹ trước gió xuân hây hẩy. Trời rét ngọt. Xóm thôn thơm nức mùi hoa bưởi, hoa cau. Mùi hương dân dã, mộc mạc và vô cùng quen thuộc của làng quê như lắng đọng trong làn mưa bụi li ti rắc trên mái tóc, trên vai áo người qua kẻ lại và thấm đẫm trong từng câu quan họ, từng làn điệu chèo réo rắt ngân nga nơi bến nước, sân đình, khắp làng trên xóm dưới. Ngoài đồng, lúa chiêm đang lên xanh mơn mởn. Một màu xanh trải rộng tới chân trời tím biếc, nhạt nhòa trong mưa xuân giăng giăng. Đôi ba cánh cò trắng phau phau chao liệng trên mặt ruộng thấp thoáng bóng người đang lúi húi làm cỏ, bón phân cho lúa. Xa xa, dòng sông Đuống nước trong veo, êm đềm chảy qua những ruộng mía, nương dâu trải dài suốt bờ bãi ven sông. Mấy chiếc thuyền câu dập dềnh trên sóng. Từ trong mui, khói lam tỏa ra, la đà vấn vít trong sương chiều bảng lảng. Cảnh đẹp như trong một giấc mơ!
Assignment My hometown is an ancient village along the Duong River, in Thuan Thanh district, Bac Ninh province. Spring comes, the scenery of my hometown is as beautiful as a picture painted by the hands of a talented artist. After the full moon of January, although Tet has ended, the Tet atmosphere and the vitality of spring are still vibrant and stirring in the hearts of people and things. Under the gentle spring rain, the trees sprouted green buds. The jade-colored young leaf buds flutter gently in the brisk spring breeze. The weather is cold and sweet. The village is filled with the scent of grapefruit and areca flowers. The rustic, rustic and extremely familiar scent of the countryside seems to be deposited in the tiny rain of dust sprinkled on the hair and shoulders of passersby and is permeated in every mandarin sentence, every melodious melody. It hums at water wharfs, communal yards, and throughout villages up and down below. In the fields, the rice is growing green and lush. A blue color spreads to the purple horizon, fading in the spring rain. A pair of white stork wings fluttered above the field, and there was a glimpse of people working to weed and fertilize the rice. In the distance, Duong River's clear, peaceful water flows through sugarcane fields and mulberry fields stretching along the banks of the river. Several fishing boats bobbed on the waves. From the hood, blue smoke emanated, la Da Da was swirling in the afternoon mist. Beautiful scene like in a dream!
Bài làm Trong đời sống tinh thần đa dạng và phong phú của con người thì tình cha con là tình cảm máu thịt thiêng liêng, sâu đậm nhất. Công lao to lớn của người cha được nhắc đến rất nhiều trong ca dao, dân ca: Công cha như núi Thái Sơn,.., Con có cha như nhà có nóc, Phụ tử tình thâm… Người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa đáng tin cậy cho vợ con. Mọi việc lớn như làm nhà, tậu ruộng, tậu trâu, dựng vợ gả chồng cho con cái… thường là do người cha quyết định. Trách nhiệm của người cha rất nặng nề. Con cái ngoan hay hư, chủ yếu là tùy thuộc vào sự bảo ban dạy dỗ của người cha. Bên cạnh người mẹ dịu dàng là người cha nghiêm khắc. Dẫu cách thức biểu hiện tình thương yêu có khác nhau nhưng bậc cha mẹ nào cũng mong muốn nuôi dạy con cái trưởng thành về mọi mặt, đúng như dân gian đã nói: Con hơn cha là nhà có phúc. Trong lúc mẹ hằng ngày chẳng quản vất vả nhọc nhằn, lo lắng cho các con từ bát cơm, tấm áo thì người cha, ngoài những thứ đó ra còn phải nghĩ đến việc dạy dỗ, truyền kinh nghiệm sống mà mình đã đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt, để các con học được những bài học thiết thực khi bước vào đời. Thật hạnh phúc cho những đứa con được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ! Có biết bao người cha chấp nhận thiệt thòi về mình, dành tất cả thuận lợi cho con cái. Em đọc trên báo và xem truyền hình thấy những người cha lam lũ, quần quật làm những việc như: quét rác, đội than, đội trấu, đạp xích lô… không từ nan bất cứ chuyện gì, miễn là lương thiện đế kiếm tiền nuôi đàn con ăn học đến nơi đến chốn. Gần nhà em có một bác người Quảng Ngãi, tuổi hơn năm chục, làm nghề mài dao kéo. Ngày ngày, bác rong ruổi khắp nơi trên chiếc xe đạp cà tàng với vài hòn đá mài và thùng nước nhỏ. Bác vào thành phố đã hơn ba năm, kể từ khi anh con trai lớn thi đậu đại học Bách khoa. Mỗi lúc kể về những đứa con ngoan, bác cười rất mãn nguyện, đôi mắt ánh lên vẻ tự hào: – Nhà bác nghèo lắm! Được mấy đứa con, đứa nào cũng ham học và học giỏi. Năm nay, cô con gái thứ hai cũng đậu Đại học Sư phạm. Bác ráng làm kiếm ngày vài chục ngàn, cha con đùm túm nuôi nhau. Mình chẳng có chi cho các con thì cho chúng cái chữ, cái nghề! Em thấy ở bác có những nét rất giống cha em, một người thợ cơ khí bình thường, quanh năm làm việc với máy móc, dầu mỡ. Đôi bàn tay cha chai sần, thô ráp, mạnh mẽ nhưng ấm áp lạ thường. Có thể nói rằng trong gia đình em, cha làm nhiều nhất và hưởng thụ ít nhất; Cha giống mẹ ở chỗ nhường nhịn hết cho đàn con những miếng ngon miếng lành, còn mình chỉ cơm dưa cơm mắm qua ngày.
Assignment In the diverse and rich spiritual life of people, father-child love is the most sacred and profound bond of blood and flesh. The father's great merits are mentioned many times in folk songs and folk songs: A father's merit is like Thai Son mountain, etc., A child's father is like a house with a roof, Father and son's love is deep... The father plays the role of breadwinner in the family and is a reliable support for his wife and children. All big things like building a house, buying fields, buying buffaloes, getting married to children... are usually decided by the father. The responsibility of a father is very heavy. Whether children are good or bad depends mainly on their father's teachings and instructions. Next to the gentle mother is a strict father. Although the ways of expressing love are different, every parent wants to raise their children to maturity in all aspects, just as the folk saying goes: If a child is better than his father, the family is blessed. While the mother works tirelessly every day, worrying about her children's food and clothes, the father, in addition to those things, also has to think about teaching and passing on life experiences that he has traded for. sweat and tears, so that children can learn practical lessons when entering life. How happy it is for children to live in the loving arms of their parents! There are so many fathers who accept disadvantages for themselves and give all advantages to their children. I read in the newspaper and watched TV and saw my fathers working hard and working hard doing things like: sweeping trash, carrying coal, carrying rice husks, riding cyclos... not afraid of anything, as long as they were honest to make money. Raise your children to have a good education. Near my house, there is an uncle from Quang Ngai, over fifty years old, who works as a knife sharpener. Every day, he travels everywhere on a bicycle with a few grinding stones and a small water tank. He has been in the city for more than three years, since his eldest son passed the Polytechnic University entrance exam. Every time he talked about his good children, he smiled very contentedly, his eyes shining with pride: - My family is very poor! Having several children, all of them are eager to learn and study well. This year, the second daughter also passed the Pedagogical University. He tried to earn a few tens of thousands a day, and father and son supported each other. If we don't have anything to give our children, then give them words and a profession! I see that you have very similar features to my father, an ordinary mechanic who works with machinery and grease all year round. Father's hands were calloused, rough, strong but unusually warm. It can be said that in my family, father works the most and enjoys the least; My father is like my mother in that he gives up all the good things for his children, while I just eat, eat, eat, and eat fish sauce to get through the day.
Bài làm Vì nhà có hai cậu con trai nên ba mẹ mua cho đồ chơi toàn là ôtô, xe tăng, máy bay, cần cẩu… Em rất thích và coi chúng như những người bạn thân thiết của mình. Em còn nhớ cảm giác sung sướng vô bờ khi đón từ tay mẹ hộp đồ chơi khá lớn. Thôi thì đủ các loại ôtô: xe du lịch, xe khách, xe tải, xe bến và cả xe cứu hỏa… trông giống y như thật. Xe du lịch nhỏ nhất màu trắng sữa, xe buýt dài và khá lớn màu xanh dương, xe tải, xe ben màu nâu, cần cẩu màu cam, xe tăng màu lá cây, xe cứu hỏa màu đỏ… Tất cẳ được bày ra nền nhà, trông mới vui mắt làm sao! Em và cu Bi thay nhau đóng vai tài xế. Hai anh em tưởng tượng ra đủ mọi hoàn cảnh khác nhau. Cu Bi lái xe du lịch đến sát bên em, cất giọng mời mọc: – Anh Hai ơi! Mời anh lên xe! Xe đời mới vừa êm vừa mát. Em sẽ chở anh ra Vũng Tàu tắm biển nghen! Rồi nó nhấn còi “miệng” tin tin vang nhà. Chiếc xe chạy băng băng. Cu Bi thích thú cười khanh khách. Đến lượt em lái cần cẩu. Các “kiện” hàng là những khối hình bằng nhựa, bằng cao su để cu Bi tập lắp ghép. Hàng được cột cẩn thận rồi móc vào chiếc móc thép ở đầu cần cẩu. Em nhấn nút công tắc, cần cẩu từ từ nhấc kiện hàng lên cao, đặt vào thùng xe tải… Cứ thế, hai anh em mải mê chơi không biết chán. Hấp dẫn nhất là trò lái tàu hỏa. Đoàn tàu gồm một đầu máy và chín toa nối với nhau. Trên đầu máy cắm một lá cờ đỏ sao vàng, hai bên gắn huy hiệu của ngành đường sắt Việt Nam. Chiếc ống khói khá lớn nhô cao trên nóc tàu. Trước tay lái, trưởng tàu trong bộ đồng phục đang chăm chú nhìn về phía trước.
Assignment Because we have two boys, our parents buy us toys like cars, tanks, planes, cranes... I like them very much and consider them my close friends. I still remember the feeling of immense joy when I received a rather large box of toys from my mother. Well, all kinds of cars: passenger cars, passenger cars, trucks, station buses and even fire trucks... look exactly like the real thing. The smallest passenger car is milky white, a long and quite large blue bus, a truck, a brown dump truck, an orange crane, a green tank, a red fire truck... All are displayed in the background. home, how fun it looks! Bi and I took turns playing the driver. The two brothers imagined all kinds of different situations. Cu Bi drove his tourist car close to me and raised his voice invitingly: - Hey Hai! Please get in the car! The new car is both quiet and cool. I will take you to Vung Tau to swim! Then he pressed the buzzer and "mouth" the news echoed through the house. The car sped away. Cu Bi laughed happily. It's my turn to drive the crane. The "packages" are plastic and rubber blocks for Bi to practice assembling. The goods are carefully tied and then hooked to the steel hook at the top of the crane. I pressed the switch button, the crane slowly lifted the package up and placed it in the truck's trunk... Just like that, the two brothers were engrossed in playing without getting bored. The most attractive is the train driving game. The train consists of one locomotive and nine cars connected together. On the locomotive there is a red flag with a yellow star, with the badge of the Vietnamese railway industry on both sides. The rather large chimney protrudes high above the roof of the ship. In front of the steering wheel, the train captain in uniform is looking intently ahead.
Bài làm I. DÀN Ý 1, Mở bài: – Những câu hát về chủ đề tình cảm gia đình khá phổ biến trong ca dao – dân ca. – Một sô câu tiêu biểu thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người lao động. 2. Thân bài: Câu 1: Công cha như núi Thái Sơn … ghi lòng con ơi! – Khẳng định công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ nhắc nhở con cái phải có bổn phận đáp đền chữ hiếu, bởi hiếu nghĩa là gốc của đạo làm người. – Nghệ thuật so sánh có tính chất ước lệ: Công cha với núi cao,nghĩa mẹ với biển rộng nhấn mạnh ý đó. – Âm hưởng nhịp nhàng, du dương, thích hợp làm bài hát ru con, chứa đựng lời khuyên nhủ chí tình về đạo làm người. Câu 2: Chiều chiều … ruột đau chín chiều. – Là tâm trạng thương nhớ gia đình, quê hương của người con gái lấy chồng xa xứ. – Thời gian: chiều chiều không gian: ngõ sau, phù hợp với tâm trạng nhân vật đang day dứt, khắc khoải, tủi thân, tủi phận một mình nơi đất khách, không biết chia sẻ cùng ai. – Cách mở đầu thường thấy trong ca dao (Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, Nhớ người áo đỏ khăn điều vắt vai; Chiều chiều ra đứng bờ ao, Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ…), được dùng để thể hiện nỗi buồn không nguôi đè nặng lên số phận người phụ nữ dưới thời phong kiến. Câu 3: Ngó lên nuộc lạt mái nhà … bấy nhiêu! – Thể hiện lòng biết ơn chân thành, tha thiết của con cháu đối với ông bà, cha mẹ đã khuất. – Nghệ thuật so sánh: bao nhiêu … bấy nhiêu. Hình ảnh so sánh: nuộc lạt mái nhà vừa cụ thể, quen thuộc, vừa có ý nghĩa ẩn dụ, nhấn mạnh tình thương yêu, kính trọng và biết ơn vô cùng sâu sắc. Câu 4: Anh em nào phải người xa … hai thân vui vầy. – Là lời khuyên nhủ anh em ruột thịt phải thương yêu, đoàn kết, chia sẻ vui buồn, sống chết với nhau. – Anh em thuận hòa là nhà có phúc. Đây cũng chính là cách báo hiếu thiết thực nhất đối với cha mẹ. – Hình ảnh so sánh: như thể tay chân thể hiện sự gắn bó khăng khít không rời. 3. Kết bài – Ca dao trữ tình nảy sinh và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tình cảm phong phú của người lao động. – Những câu ca dao chứa đựng nghĩa tình sẽ sống mãi trong lòng người đọc. II. BÀI LÀM Những câu hát về chủ đề tình cảm gia đình chiếm khối lượng khá lớn trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam, thể hiện đời sống tinh thần đẹp đẽ, phong phú của người lao động. Dưới đây là một số câu tiêu biểu nhất: 1. Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! 2. Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. 3. Ngó lên nuộc lạt mái nhà, Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu. 4. Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. Nội dung những câu hát này thường là lời khuyên bảo của ông bà, cha mẹ với con cháu hoặc là sự bày tỏ lòng hiếu kính của các thế hệ sau đối với ông bà, cha mẹ. Nghệ thuật chung là dùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ quen thuộc trong ca dao. Câu thứ nhất khẳng định công lao sinh thành, dưỡng dục to lớn của cha mẹ đối với con cái và nhắc nhở bổn phận, trách nhiệm của con cái là báo đền chữ hiếu: Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Đây là lời hát ru của bà, của mẹ trên cánh võng đong đưa giữa trưa hè nóng bức hay trong những đêm đông giá rét. Âm điệu của lời ca giống như lời tâm tình thủ thỉ, thiết tha, sâu lắng. Lời ru thường gắn liền với những quan hệ tình cảm gia đình và xã hội. Trên đời này, không có bài hát ru nào mà mối quan hệ giữa người nghe và người hát lại gần gũi, ấm áp, thiêng liêng như ở bài này. Để khẳng định công cha, nghĩa mẹ, ca dao thường lấy những hình ảnh lớn lao, vĩnh hằng của thiên nhiên để so sánh. Trong văn chương phương Đông, vai trò của người cha thường được ví với trời, với núi; vai trò người mẹ ví với đất hoặc với biển trong các cặp biểu tượng truyền thống (cha – trời, mẹ – đất, cha – núi, mẹ – biển). Những hình ảnh ước lệ đẹp đẽ ấy lại được miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ (núi ngất trời – núi cao, biển rộng mênh mông). Bởi vì chỉ có những hình ảnh lớn lao, kì vĩ ấy mới diễn tả nổi công ơn của cha mẹ. Núi ngất trời, biển rộng mênh mông không thể nào đo được, cũng như công cha, nghĩa, mẹ đối với các con kể sao cho xiết! Công cha sánh đôi với nghĩa mẹ cũng là cách nói đối xứng truyền thống trong ca dao – dân ca. Nhờ nghệ thuật so sánh tài tình mà lối giáo huấn khô khan về chữ hiểu đã biến thành lời ru ngọt ngào, êm ái. Vì thế mà khái niệm trừu tượng về công cha, nghĩa mẹ cũng trở nên cụ thể, sinh động và thấm thía hơn. Công cha, nghĩa mẹ được đúc kết lại ở Cù lao chín chữ. (Cách nói đảo ngược của Chín chữ cù lao – thành ngữ thường được dùng để nhắc đến công ơn cha mẹ). Lời nhắn nhủ chan chứa ân tình về công cha, nghĩa mẹ, về đạo làm con dần dần thấm qua dòng sữa ngọt ngào, qua lời ru êm ái, cứ từng ngày, từng ngày nuôi dưỡng tâm hồn và nhân cách của mỗi chúng ta. Câu hát thứ hai là tâm sự của người con gái lấy chồng xa quê. Trong ca dao, dân ca, không gian ngõ sau và bến sông thường gắn liền với tâm trạng của những phụ nữ có cảnh ngộ như vậy: Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều. Đó là tâm trạng buồn nhớ da diết, xót xa, thường xuất hiện vào lúc chiều buông. Cảnh chiều hay gợi buồn, gợi nhớ, bởi nó là thời điểm của sự đoàn tụ (chim bay về tổ, con người trở về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc). Vậy mà người con gái lấy chồng xa xứ phải thui thủi một mình nơi đất khách quê người. Ngõ sau là nơi vắng lặng, vào thời điểm ngày tàn đêm đến lại càng vắng lặng. Không gian ấy gợi người đọc nghĩ đến cảnh ngộ cô đơn và thân phận đau khổ của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến gia trưởng. Bao nhiêu tủi hờn dồn nén, chất chứa trong lòng mà họ không biết chia sẻ cùng ai. Người con gái xa nhà nhớ mẹ, nhớ quê… và xót xa, day dứt vì chẳng thể trọn đạo làm con là đỡ đần cha già mẹ yếu lúc ốm đau, cơ nhỡ. Bên cạnh đó có cả nỗi nhớ về một thời con gái đã qua cùng nỗi ngậm ngùi thân gái dặm trường, phải chia tay cha mẹ, anh em, khăn gói thẹo chồng. Câu hát thứ ba thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, ông bà của các con, các cháu. Sự yêu kính và lòng biết ơn được thể hiện bằng nghệ thuật so sánh khá phổ biến trong ca dao, dân ca: Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu! Qua cầu ngả nón trông cầu, Cầu bao nhiễu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu… Những sự vật bình thường, quen thuộc đều có thể gợi thi hứng và trở thành thi liệu cho người sáng tác. Cái hay trong câu hát này là ở cách diễn tả tình cảm. Động từ Ngó lên bộc lộ thái độ trân trọng, tôn kính. Hình ảnh nuộc lạt mái nhà gợi nên mức độ không thể đo đếm cụ thể của lòng biết ơn cùng sự gắn kết bền chặt của tình cảm huyết thống. Bên cạnh đó, nó còn khẳng định công lao to lớn của tổ tiên, ông bà trong việc gây dựng nên gia đình, họ tộc. Cặp quan hệ từ chỉ mức độ tăng tiến (bao nhiêu… bấy nhiêu) nhấn mạnh thêm ý đó. Câu hát thứ tư có thể là lời của cha mẹ khuyên nhủ các con hoặc là lời của anh em ruột thịt tâm sự với nhau: Anh em nào phải người xa, Cung chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.. Quan hệ anh em khác hẳn với quan hệ của người xa (người dưng) bởi vì nó có nhiều cái chung, cái cùng rất thiêng liêng: Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Anh em là bát máu sẻ đôi, vui buồn, sướng khổ có nhau dưới một mái nhà. Quan hệ anh em được ví như thể tay chân biểu hiện sự gắn bó máu thịt, khăng khít không rời.
Bài làm I. DÀN Ý 1, Mở bài: – Những câu hát về chủ đề tình cảm gia đình khá phổ biến trong ca dao – dân ca. – Một sô câu tiêu biểu thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người lao động. 2. Thân bài: Câu 1: Công cha như núi Thái Sơn … ghi lòng con ơi! – Khẳng định công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ nhắc nhở con cái phải có bổn phận đáp đền chữ hiếu, bởi hiếu nghĩa là gốc của đạo làm người. – Nghệ thuật so sánh có tính chất ước lệ: Công cha với núi cao,nghĩa mẹ với biển rộng nhấn mạnh ý đó. – Âm hưởng nhịp nhàng, du dương, thích hợp làm bài hát ru con, chứa đựng lời khuyên nhủ chí tình về đạo làm người. Câu 2: Chiều chiều … ruột đau chín chiều. – Là tâm trạng thương nhớ gia đình, quê hương của người con gái lấy chồng xa xứ. – Thời gian: chiều chiều không gian: ngõ sau, phù hợp với tâm trạng nhân vật đang day dứt, khắc khoải, tủi thân, tủi phận một mình nơi đất khách, không biết chia sẻ cùng ai. – Cách mở đầu thường thấy trong ca dao (Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, Nhớ người áo đỏ khăn điều vắt vai; Chiều chiều ra đứng bờ ao, Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ…), được dùng để thể hiện nỗi buồn không nguôi đè nặng lên số phận người phụ nữ dưới thời phong kiến. Câu 3: Ngó lên nuộc lạt mái nhà … bấy nhiêu! – Thể hiện lòng biết ơn chân thành, tha thiết của con cháu đối với ông bà, cha mẹ đã khuất. – Nghệ thuật so sánh: bao nhiêu … bấy nhiêu. Hình ảnh so sánh: nuộc lạt mái nhà vừa cụ thể, quen thuộc, vừa có ý nghĩa ẩn dụ, nhấn mạnh tình thương yêu, kính trọng và biết ơn vô cùng sâu sắc. Câu 4: Anh em nào phải người xa … hai thân vui vầy. – Là lời khuyên nhủ anh em ruột thịt phải thương yêu, đoàn kết, chia sẻ vui buồn, sống chết với nhau. – Anh em thuận hòa là nhà có phúc. Đây cũng chính là cách báo hiếu thiết thực nhất đối với cha mẹ. – Hình ảnh so sánh: như thể tay chân thể hiện sự gắn bó khăng khít không rời. 3. Kết bài – Ca dao trữ tình nảy sinh và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tình cảm phong phú của người lao động. – Những câu ca dao chứa đựng nghĩa tình sẽ sống mãi trong lòng người đọc. II. BÀI LÀM Những câu hát về chủ đề tình cảm gia đình chiếm khối lượng khá lớn trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam, thể hiện đời sống tinh thần đẹp đẽ, phong phú của người lao động. Dưới đây là một số câu tiêu biểu nhất: 1. Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! 2. Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. 3. Ngó lên nuộc lạt mái nhà, Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu. 4. Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. Nội dung những câu hát này thường là lời khuyên bảo của ông bà, cha mẹ với con cháu hoặc là sự bày tỏ lòng hiếu kính của các thế hệ sau đối với ông bà, cha mẹ. Nghệ thuật chung là dùng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ quen thuộc trong ca dao. Câu thứ nhất khẳng định công lao sinh thành, dưỡng dục to lớn của cha mẹ đối với con cái và nhắc nhở bổn phận, trách nhiệm của con cái là báo đền chữ hiếu: Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông. Núi cao biển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi! Đây là lời hát ru của bà, của mẹ trên cánh võng đong đưa giữa trưa hè nóng bức hay trong những đêm đông giá rét. Âm điệu của lời ca giống như lời tâm tình thủ thỉ, thiết tha, sâu lắng. Lời ru thường gắn liền với những quan hệ tình cảm gia đình và xã hội. Trên đời này, không có bài hát ru nào mà mối quan hệ giữa người nghe và người hát lại gần gũi, ấm áp, thiêng liêng như ở bài này. Để khẳng định công cha, nghĩa mẹ, ca dao thường lấy những hình ảnh lớn lao, vĩnh hằng của thiên nhiên để so sánh. Trong văn chương phương Đông, vai trò của người cha thường được ví với trời, với núi; vai trò người mẹ ví với đất hoặc với biển trong các cặp biểu tượng truyền thống (cha – trời, mẹ – đất, cha – núi, mẹ – biển). Những hình ảnh ước lệ đẹp đẽ ấy lại được miêu tả bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ (núi ngất trời – núi cao, biển rộng mênh mông). Bởi vì chỉ có những hình ảnh lớn lao, kì vĩ ấy mới diễn tả nổi công ơn của cha mẹ. Núi ngất trời, biển rộng mênh mông không thể nào đo được, cũng như công cha, nghĩa, mẹ đối với các con kể sao cho xiết! Công cha sánh đôi với nghĩa mẹ cũng là cách nói đối xứng truyền thống trong ca dao – dân ca. Nhờ nghệ thuật so sánh tài tình mà lối giáo huấn khô khan về chữ hiểu đã biến thành lời ru ngọt ngào, êm ái. Vì thế mà khái niệm trừu tượng về công cha, nghĩa mẹ cũng trở nên cụ thể, sinh động và thấm thía hơn. Công cha, nghĩa mẹ được đúc kết lại ở Cù lao chín chữ. (Cách nói đảo ngược của Chín chữ cù lao – thành ngữ thường được dùng để nhắc đến công ơn cha mẹ). Lời nhắn nhủ chan chứa ân tình về công cha, nghĩa mẹ, về đạo làm con dần dần thấm qua dòng sữa ngọt ngào, qua lời ru êm ái, cứ từng ngày, từng ngày nuôi dưỡng tâm hồn và nhân cách của mỗi chúng ta. Câu hát thứ hai là tâm sự của người con gái lấy chồng xa quê. Trong ca dao, dân ca, không gian ngõ sau và bến sông thường gắn liền với tâm trạng của những phụ nữ có cảnh ngộ như vậy: Chiều chiều ra đứng ngõ sau, Trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều. Đó là tâm trạng buồn nhớ da diết, xót xa, thường xuất hiện vào lúc chiều buông. Cảnh chiều hay gợi buồn, gợi nhớ, bởi nó là thời điểm của sự đoàn tụ (chim bay về tổ, con người trở về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc). Vậy mà người con gái lấy chồng xa xứ phải thui thủi một mình nơi đất khách quê người. Ngõ sau là nơi vắng lặng, vào thời điểm ngày tàn đêm đến lại càng vắng lặng. Không gian ấy gợi người đọc nghĩ đến cảnh ngộ cô đơn và thân phận đau khổ của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến gia trưởng. Bao nhiêu tủi hờn dồn nén, chất chứa trong lòng mà họ không biết chia sẻ cùng ai. Người con gái xa nhà nhớ mẹ, nhớ quê… và xót xa, day dứt vì chẳng thể trọn đạo làm con là đỡ đần cha già mẹ yếu lúc ốm đau, cơ nhỡ. Bên cạnh đó có cả nỗi nhớ về một thời con gái đã qua cùng nỗi ngậm ngùi thân gái dặm trường, phải chia tay cha mẹ, anh em, khăn gói thẹo chồng. Câu hát thứ ba thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, ông bà của các con, các cháu. Sự yêu kính và lòng biết ơn được thể hiện bằng nghệ thuật so sánh khá phổ biến trong ca dao, dân ca: Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu! Qua cầu ngả nón trông cầu, Cầu bao nhiễu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu… Những sự vật bình thường, quen thuộc đều có thể gợi thi hứng và trở thành thi liệu cho người sáng tác. Cái hay trong câu hát này là ở cách diễn tả tình cảm. Động từ Ngó lên bộc lộ thái độ trân trọng, tôn kính. Hình ảnh nuộc lạt mái nhà gợi nên mức độ không thể đo đếm cụ thể của lòng biết ơn cùng sự gắn kết bền chặt của tình cảm huyết thống. Bên cạnh đó, nó còn khẳng định công lao to lớn của tổ tiên, ông bà trong việc gây dựng nên gia đình, họ tộc. Cặp quan hệ từ chỉ mức độ tăng tiến (bao nhiêu… bấy nhiêu) nhấn mạnh thêm ý đó. Câu hát thứ tư có thể là lời của cha mẹ khuyên nhủ các con hoặc là lời của anh em ruột thịt tâm sự với nhau: Anh em nào phải người xa, Cung chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.. Quan hệ anh em khác hẳn với quan hệ của người xa (người dưng) bởi vì nó có nhiều cái chung, cái cùng rất thiêng liêng: Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Anh em là bát máu sẻ đôi, vui buồn, sướng khổ có nhau dưới một mái nhà. Quan hệ anh em được ví như thể tay chân biểu hiện sự gắn bó máu thịt, khăng khít không rời.
Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Hãy phân tích bài ca dao trên để làm sáng tỏ ý kiến của em. I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Đây là bài ca dao hay và đẹp, thể hiện triết lí, quan điểm sống trong sạch, thanh cao của nhân dân lao động. 2. Thân bài: * Nội dung và nghệ thuật của bài ca dao: + Câu 1: Trong đầm gì đẹp bằng sen là câu hỏi tu từ, khẳng định họa sen đẹp nhất trong các loài hoa mọc trên đầm lầy. + Câu 2: Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng là hình ảnh đẹp đẽ của cây sen được miêu tả tỉ mỉ, chi tiết… + Câu 3: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh có vai trò đặc biệt làm nhiệm vụ chuyển từ nghĩa hiển ngôn sang nghĩa hàm ẩn. Đảo thứ tự miêu tả của câu 2 để nhấn mạnh Sự hài hòa tuyệt đối về màu sắc và vẻ đẹp toàn bích của hoa sen. – Người xưa ca ngợi vẻ dẹp của hoa sen, mượn hoa sen để phản ánh lẽ sống cao quý và niềm tự hào, tự tin vào bản chất, phẩm giá trong sạch của mình, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. – Bút pháp tả thực kết hợp hài hòa với bút pháp ước lệ, tượng trưng làm nổi bật vẻ đẹp khác thường của hoa sen. – Nhịp thơ chậm rãi 2/2/2… khiến câu thơ như một sự chiêm nghiệm, suy ngẫm để đi đến khẳng định chắc chắn, không gì thay đổi được. – Nghệ thuật miêu tả tưởng chừng tự nhiên, giản dị nhưng thực chất đã đạt tới độ tinh tế, điêu luyện. 3. Kết bài: – Bài ca dao tôn vinh vẻ đẹp toàn bích của hoa sen, xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính. – Sức sống của bài ca dao lâu bền cùng sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. II. BÀI LÀM Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Không hiểu bài ca dao này xuất hiện từ đâu, từ bao giờ nhưng có nhiều ý kiến cho rằng đây là bài ca dao mà nghệ thuật tuyệt vời và ý nghĩa triết lí nhân sinh gắn liền với nhau tạo nên giá trị muôn đời. Hình ảnh cây sen được miêu tả vừa cụ thể, chân thực vừa mang tính tượng trưng và khái quát rất cao. Ca ngợi vẻ đẹp của hoa sen, các nhà thơ bình dân xưa đã phản ánh lẽ sống cao quý của con người Việt Nam từ ngàn đời nay: tự hào, tự tin về bản thân mình luôn giữ được tâm hồn trong sáng, phẩm chất thanh cao, dù hoàn cảnh sống có nghiệt ngã, xấu xa đến mức nào. Câu 1 khẳng định vẻ đẹp không gì sánh nổi của hoa sen. Câu 2 và câu 3 tả thực cây sen. Câu 4 nói đến hương thơm của hoa sen. Bốn câu trong bài đều rất hay, nhưng mỗi câu hay một cách. Câu mở đầu: Trong đầm gì đẹp bằng sen. Tác giả đã khẳng định hoa sen đẹp nhất so với tất cả các loài hoa nở trong đầm bằng một câu hỏi tu từ khéo léo lôi cuốn người nghe, đặt họ vào vị trí và tâm thế thưởng thức cùng với mình, để rồi sau khi so sánh, cân nhắc, họ sẽ rút ra kết luận không thể khác. Câu thứ 2: Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng. Để chứng minh cho lời khẳng định ở trên là đúng, tác giả tuần tự miêu tả vẻ đẹp của cây sen, từ lá xanh qua bông trắng đến nhị vàng. Trên nền xanh của lá, nổi bật là màu trắng thanh khiết của hoa; giữa màu trắng của hoa lại chen chút sắc vàng của nhị. Từ lại được dùng rất tài tình, có tác dụng nhấn mạnh sự đa dạng về màu sắc của hoa sen. Từ chen nói lên sự kết hợp hài hòa giữa hoa và nhị. Tất cả như cùng đua đẹp, đua tươi. Cảnh đầm sen giống như một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ với những nét chấm phá diệu kì. Câu thứ 3: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Câu này có vị trí đặc biệt trong toàn bài. Đó là câu chuyển (chuyển vần, chuyển nhịp, chuyển ý) để chuẩn bị cho câu kết. Từ câu thứ hai sang câu thứ ba có sự khác thường trong cách gieo vần (ang, anh) nhưng nhiều người không để ý. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển vần và thay đổi trật tự các từ ngữ, hình ảnh đã được thực hiện một cách khéo léo, tự nhiên, hợp lí về cả nội dung và hình thức. Hai chữ nhị vàng ở cuối câu thứ hai được lặp lại ở đầu câu thứ ba tạo nên tính liên tục trong tư duy, cảm xúc và sự liến kết chặt chẽ giữa nội dung với hình thức trong toàn bài. Câu đầu và câu cuối là lời nhận định, đánh giá về vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của cây sen. Hai câu giữa tả thực đến từng chi tiết: lá xanh, bông trắng, nhị vàng (tả đi); rồi tả lại: Nhị vàng, bông trắng, lá xanh. Tả từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, thật đầy đủ, tỉ mỉ. Dường như người tả đang cố chứng minh bằng được vẻ đẹp của sen: đẹp từ sắc lá đến màu hoa, màu nhị. Sau đó lại nhấn mạnh thêm bằng cách đảo ngược: đẹp từ màu nhị đến màu hoa, sắc lá. Nghệ thuật miêu tả ở đây mới đọc qua tưởng chừng đơn giản, song thực sự đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh vi. Nghệ thuật ấy đã tôn vinh hoa sen lên hàng hoa quý {cúc, mai, liên…) xứng đáng tượng trưng cho vẻ đẹp của con người chân chính. Đọc những câu ca dao trên, chúng ta liên tưởng tới hình dáng thanh tao, kiêu hãnh của hoa sen và trong tâm tưởng cũng nở bừng một đoá hoa sen thật đẹp! Câu thứ 4: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Dù mang tính chất ẩn dụ tượng trưng nhưng trước hết vẫn là sự tả thực về cây sen trong môi trường sống của nó. Sen thường sống ở trong ao hoặc trong đầm; ấy vậy mà hoa sen lại tỏa ra một mùi thơm thanh khiết lạ lùng. Có thể coi đây là đỉnh điểm của nội dung bài ca dao. Thiếu câu này, hình tượng hoa sen vẫn tồn tại nhưng không có linh hồn và ý nghĩa nhân sinh. Nếu ta cho câu ca dao mở đầu là luận đề mang ý nghĩa khái quát về hình tượng hoa sen thì đến câu kết thúc của bài thơ, bông sen trong tự nhiên đã hóa thành bông sen trong cuộc đời một cách uyển chuyển, nhẹ nhàng, không có một sự gượng ép nào, do đó mà ý nghĩa tượng trưng của hoa sen cũng mở rộng không giới hạn. Đọc đến câu này, hầu như không ai dừng lâu để suy nghĩ tới nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của nó mà chuyển sang hiểu theo nghĩa bóng (hàm ngôn) với triết lí sâu xa ẩn chứa trong đó. Chính vì vậy mà tính chất ẩn dụ tượng trưng của hình tượng thơ nổi lên lấn át hình ảnh thực. Nó tựa hồ như một cánh cửa đặc biệt kì diệu, khép lại nghĩa đen và mở ra nghĩa bóng một cách thần tình.
In what beautiful dress with lotus, Green leaves, white flowers surrounded by yellow stamens. Yellow stamens, white flowers, green leaves, Nearly mud that does not stink of mud. Let's analyze the folk song above to clarify your opinion. I. OUTLINE 1. Introduction: – This is a beautiful and beautiful folk song, expressing the philosophy and viewpoint of pure and noble living of the working people. 2. Body of the article: * Content and art of folk songs: + Question 1: What is more beautiful in the swamp than the lotus is a rhetorical question, affirming that the lotus is the most beautiful among the flowers that grow in the swamp. + Question 2: Green leaves, white flowers and yellow stamens are a beautiful image of a lotus plant described meticulously and in detail... + Question 3: Yellow stamens, white flowers, and green leaves have a special role in transferring from explicit meaning to implicit meaning. Reverse the description order of sentence 2 to emphasize the absolute harmony of color and perfect beauty of the lotus. - The ancients praised the beauty of the lotus, borrowing the lotus to reflect a noble way of life and pride and confidence in one's pure nature and dignity, no matter what the circumstances. – Realistic writing style combines harmoniously with conventional and symbolic writing style to highlight the unusual beauty of the lotus flower. – The slow rhythm of the poem is 2/2/2... making the poem seem like a contemplation and contemplation to come to a certain assertion, nothing can change it. – The art of depiction seems natural and simple, but in fact has reached a level of sophistication and skill. 3. Conclusion: – The folk song honors the perfect beauty of the lotus flower, worthy of symbolizing the beauty of a true human being. – The vitality of folk songs is as long lasting as the longevity of the Vietnamese people. II. ASSIGNMENT In what beautiful dress with lotus, Green leaves, white flowers surrounded by yellow stamens. Yellow stamens, white flowers, green leaves, Nearly mud that does not stink of mud. I don't understand where and when this folk song came from, but there are many opinions that this is a folk song with great art and the philosophical meaning of life linked together to create eternal value. The image of the lotus tree depicted is both specific and realistic, but also highly symbolic and general. Praising the beauty of the lotus flower, ancient popular poets have reflected the noble way of life of Vietnamese people for thousands of years: to be proud and confident about themselves, always maintaining a pure soul and good qualities. noble, no matter how cruel and evil life circumstances are. Sentence 1 affirms the incomparable beauty of the lotus. Sentences 2 and 3 describe the lotus tree. Verse 4 refers to the fragrance of lotus flowers. The four sentences in the article are all very good, but each sentence is good in its own way. Opening sentence: What is more beautiful in the lagoon than the lotus? The author affirmed that the lotus is the most beautiful of all the flowers blooming in the lagoon with a rhetorical question that skillfully attracts the listener, puts them in a position and mood to enjoy with him, and then after Comparing and weighing, they will come to the inevitable conclusion. Question 2: Green leaves, white flowers, and yellow stamens. To prove that the above statement is correct, the author sequentially describes the beauty of the lotus plant, from green leaves to white flowers to yellow stamens. On the green background of the leaves, the pure white color of the flowers stands out; In the middle of the white color of the flower, there is a little yellow color of the stamens. The word is used very cleverly, emphasizing the variety of colors of the lotus flower. The word chen represents the harmonious combination between flower and stamen. Everyone seems to be racing beautifully and racing fresh. The lotus pond scene is like a beautiful natural painting with magical touches. Question 3: Yellow stamens, white flowers, green leaves. This sentence has a special position in the whole article. It is a transitional sentence (rhyme change, rhythm change, idea change) to prepare for the ending sentence. From the second verse to the third verse there is an unusual rhyme scheme (ang, anh) but many people don't notice. This is because the rhyme and change of order of words and images have been done skillfully, naturally, and reasonably in both content and form. The two golden words at the end of the second sentence are repeated at the beginning of the third sentence, creating continuity in thinking, emotions and a close connection between content and form throughout the article. The first and last sentences are comments and assessments about the beauty and noble qualities of the lotus plant. The two sentences in the middle describe every detail: green leaves, white flowers, yellow stamens (describe); Then describe: Yellow stamens, white flowers, green leaves. Describe from bottom to top, from top to bottom, completely and meticulously. It seems that the narrator is trying to prove the beauty of the lotus: from the color of the leaves to the color of the flowers and stamens. Then further emphasize by reversing: beautiful from stamen color to flower color to leaf color. The art described here seems simple at first glance, but has actually reached a level of skill and sophistication. That art has honored the lotus as a precious flower (chrysanthemum, apricot, marigold...) worthy of symbolizing the beauty of true people. Reading the above folk songs, we think of the elegant and proud shape of the lotus and in our minds a beautiful lotus blooms! Question 4: Near mud but does not smell of mud. Although it is a symbolic metaphor, it is first and foremost a realistic description of the lotus plant in its living environment. Lotuses usually live in ponds or lagoons; Yet the lotus flower emits a strangely pure fragrance. This can be considered the peak of the folk song's content. Without this sentence, the lotus image still exists but has no soul or human meaning. If we consider the opening verse of the folk song as a thesis with a general meaning about the lotus image, then by the ending sentence of the poem, the lotus in nature has transformed into a lotus in life in a flexible and gentle way. , without any constraints, therefore the symbolic meaning of the lotus also expands without limit. Reading this sentence, almost no one stops long to think about its literal or direct meaning, but instead switches to understanding it figuratively (implicitly) with the profound philosophy contained within it. That is why the symbolic and metaphorical nature of poetic images emerges and overwhelms the real images. It seems like a special, magical door, closing literally and opening figuratively in a magical way.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, sáng tác vào đầu thế kỉ XX, sau được dân gian hóa mà thành ca dao. – Nội dung vừa là nỗi nhớ quê hương tha thiết, vừa là lời bày tỏ tình yêu đôi lứa. 2. Thân bài: * Nội dung bài ca dao: + Cách hiểu thứ nhất: Nỗi nhớ quê hương của người đi xa: – Nhân vật trữ tình (Anh) là người đang sống xa quê, da diết nhớ quê. – Nỗi nhớ biểu hiện cụ thể qua: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương, là những món ăn dân dã, quen thuộc hàng ngày của dân quê, gợi hình ảnh những bữa cơm gia đình sum vầy, đầm ấm và ước mong được trở lại quê hương. – Nhớ người thân yêu: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Đại từ phiếm chỉ ai, cấu trúc câu lặp bằng điệp từ đứng đầu: Nhớ ai… Nhớ ai mang đậm nét nghệ thuật dân gian của ca dao, đặc tả nỗi nhớ thương mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, gắn liền với cuộc sống lao động vất vả, lam lũ. – Trong câu 4, ai có thể là người con gái mà chàng trai xa quê (Anh) đem lòng yêu mến. Hình ảnh tát nước bên đường gợi liên tưởng đến ý đó vì hay được nhắc đến trong ca dao (Hỡi cô tát nước bên đàng, Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?…) – Tất cả các kỉ niệm thấm đượm ân tình của quê hương kết thành nỗi nhớ mênh mông trong lòng người xa xứ. + Cách hiểu thứ hai: Lời bày tỏ tình yêu: – Nỗi nhớ nhà, nhớ quê được mượn làm cái cớ để dẫn dắt đến việc bày tỏ tình yêu với cô thôn nữ mà chàng trai thầm yêu trộm nhớ bấy lâu nhưng chưa có dịp ngỏ lời. – Đại từ phiếm chỉ ai trong câu 3 và 4 hàm ý chỉ cô gái ấy. – Câu 3 và 4 đặt nhân vật (ai) vào hoàn cảnh cụ thể là cuộc sống lao động vất vả (dãi nắng dầm sương) của nông dân ở quê nhà và cảnh tát nước bên đường hôm nao khắc sâu trong tâm tưởng người trai xa quê bời đó là cái mốc khởi đầu cho tình yêu đôi lứa. – Nỗi nhớ quê hương, nhớ người yếu hòa làm một nên càng da diết, khắc khoải. 3. Kết bài: – Bài ca dao chỉ có 4 câu với những hình ảnh mộc mạc, dân dã nhưng đã thể hiện sinh động tình cảm gắn bó tha thiết đối với quê hương nên tác động sâu xa tới tâm hồn người đọc. – Phải thật sự yêu mến quê hương, đất nước thì tác giả mới sáng tác được bài ca dao bình dị và thấm thía như vậy. II. BÀI LÀM Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải, một nhà thơ đầu thế kỉ XX ; sau này được dân gian hóa mà thành ca dao. Cả bài chỉ vẻn vẹn bốn câu, lời lẽ giản dị tưởng chừng dễ hiểu. Thế nhưng trong thực tế, đã có ít nhất hai cách hiểu khác nhau rõ rệt và cả hai cách hiểu đó đều có cơ sở và lí do tồn tại. Cách hiểu thứ nhất nhấn mạnh vào nỗi nhớ què nhà của người đã xa quê và coi chủ đề chính của bài ca dao là tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương. Cách hiểu thứ hai nhấn mạnh vào nỗi nhớ ai của người sắp ra đi và chủ đề chính của bài ca dao là lời bày tỏ tình yêu đôi lứa. Về cách hiểu thứ nhất, người đi xa bộc lộ tình cảm của mình là dẫu sống nơi đất khách quê người nhưng lòng luôn hướng về quê nhà. Nhớ quê nhà là nhớ những gì quen thuộc trong cuộc sống nghèo khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Theo quy luật tâm lí thì quê hương càng trở nên đáng yêu, đáng nhở hơn khi người ta sống xa quê. Ta có cảm tưởng như bài ca dao là tiếng hát tâm tình tha thiết đối với quê hương của người lao động: Anh đi anh nhà quê nhà, Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nào. Bài ca dao mở đầu bằng đại từ anh, lấy anh làm chủ thể với mục đích tập trung tất cả ý tình vào đó: Anh đang sống xa nhà và anh nhớ quê nhà. Quê nhà không chỉ là đơn giản là quê và nhà mà nó còn mang ý nghĩa rộng hơn. Trong trái tim của mỗi chúng ta đều mang nặng tình quê ấy. Bởi vậy khi đi xa, nỗi nhớ càng thiết tha, sâu nặng: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Đây là biểu hiện cụ thể của nỗi nhớ quê nhà. Cà dầm tương ăn với canh rau muống nấu cua đồng là món ăn quen thuộc của nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Xa quê, nhớ tới mùi vị của những món ăn dân dã ấy, lòng người xao xuyến biết bao và ước mong được trở về sum họp với gia đình lại càng thêm da diết. Quê nhà với muôn ngàn cái tưởng như tầm thường: cây đa, bến nước, con đò, giậu mùng tơi xanh, luống cải hoa vàng rung rinh trong gió xuân dìu dịu; tiếng sáo diều vi vu ngân nga lúc chiều về; hương lúa chín nồng nàn khi mùa tới… nhưng vẫn khiến người ta thương nhớ đến quặn lòng. Hai câu thơ trên gợi ra một nỗi nhớ quê nhà thật mộc mạc mà đằm thắm, khó phai. Hai câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ con người gắn bó với khung cảnh quê hương: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao, Người nông dân ngàn đời nay vẫn gắn liền với cuộc sống dãi nắng dầm sương, vất vả cực nhọc trăm bề. Nắng, sương thật sự thấm đượm những cuộc đời nghèo khó. Ông bà, cha mẹ ta tắm sương gội nắng để kiếm cho ta miếng cơm manh áo, để tạo cho ta thể xác, tâm hồn. Quê hương ấy, con người ấy hỏi làm sao khi xa cách, ta không thương, không nhớ?! Đại từ phiếm chỉ ai trong câu thứ 3 có thể là kẻ này người nọ nhưng tất nhiên phải có quan hệ thân thiết với người đi xa. Còn ai trong câu thứ 4 thì chỉ có thể là người yêu. Chàng trai xa quê nhớ người yêu trong khung cảnh lao động quen thuộc: tát nước bên đường vào một sớm, một chiều hay một đêm trăng thanh nào đó… Tất cả các kĩ niệm về quê nhà sống dậy, kết thành một nỗi nhớ mênh mông. Bài Anh đi anh nhớ là bài ca về tình quê hương, xứ sở. Yêu quê hương là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người: Quê hương nếu ai không nhớ, Sẽ không lớn nổi thành người (Đỗ Trung Quân). Mỗi người chúng ta đều có một quê hương, nhưng trong thời đại mới, ý nghĩa của hai tiếng quê hương đã được mở rộng hơn nhiều: trên khắp mọi miền đất nước, ở đâu có cuộc sống nghĩa tình, ở đó là quê hương. Dù vậy, bài ca dao trên muôn đời vẫn là cung đàn dịu ngọt cho mọi tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, xứ sở. Về cách hiểu thứ hai nếu ta coi đại từ phiếm chỉ ai trong hai câu cuối của bài ca dao là người bạn tình của chàng trai thì nỗi nhớ quê nhà gắn liền với nỗi nhớ người yêu. Cả hai nỗi nhớ, đều chân thực, thiết tha. Đó là nội dung mà bài ca dao muốn bày tỏ và nếu coi bài thơ là lời tâm sự trước lúc đi xa của chàng trai với cô gái thì có một điểm đặc biệt đáng chú ý là chàng trai chưa xa mà đã nhớ. Dường như cô gái cũng thiết tha muốn biết khi xa quê chàng trai sẽ nhớ những gì và nhớ những ai. Bốn câu ca dao với năm từ nhớ liên tiếp cho thấy chàng trai vừa giãi bày được lòng mình vừa đáp ứng nhu cầu của lòng bạn: Anh đi anh nhớ quê nhà, Ở câu thứ nhất, tuy nỗi nhớ còn chung chung, chưa cụ thể, nhưng cô gái cũng đã yên tâm và chứa chan hi vọng vì chàng trai xưng anh với cô rất ngọt ngào, thân thiết. Vả lại, khi đi xa, chắc chắn chàng trai sẽ rất nhớ quê nhà, vì ở đó có cô gái mà anh thầm yêu mến. Đến câu thứ hai: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương thì chàng trai đã cụ thể hóa nỗi nhớ quê nhà ở câu thứ nhất một cách rất tự nhiên. Canh rau muống, cà dầm tương là những món ăn quen thuộc của người nghèo, mấy ai xa quê mà không thèm, không nhớ? Nhưng nhớ quê nhà không lẽ chỉ nhớ có thê thôi ư? Cô gái dõi theo lời chàng trai rồi hồi hộp lắng nghe và chờ đợi. Sang câu thứ ba: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, cô gái không thể không liên tưởng đến mình, nhưng chưa thế khẳng định chắc chắn, vì ở quê nhà có bao người dãi nắng dầm sương, chứ đâu phải riêng cô? Cách nói của chàng trai như vậy là cách nói lấp lửng, vừa nói vừa thăm dò phản ứng của đối tượng, vừa kìm nén cảm xúc chất chứa trong lòng mình. Chỉ đến khi cảm thấy cô gái đã thuận tình, thuận ý, chàng trai mới dám thổ lộ một cách ý nhị và tình tứ: Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Qua đó, chàng trai bày tỏ tình yêu với người bạn gái. Đội trai gái đã để ý đến nhau từ lâu nhưng chưa một lần thổ lộ. Tình yêu của họ mới ở giai đoạn đầu ngượng ngùng khó nói. Giờ đây, khi sắp xa quê, chàng trai mới mạnh dạn gặp cô gái để giãi bày tâm sự. Cách diễn đạt nỗi nhớ từ xa tới gần: Anh đi anh nhớ quê nhà; từ chung đến riêng: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương; từ phiếm chỉ đến xác định: Nhớ ai dãi nắng dầm sương! Nhớ ai tát nước bèn đường hôm nao. Đến đây thì cả ý lẫn tình đều rõ. Ai kia chính là cô gái siêng năng, thuần hậu, dãi nắng dầm sương, góp phần cùng bao người làm nên ý nghĩa cuộc sông của chốn quê nhà. Nếu anh xa quê, thì người mà anh nhớ nhất sẽ là em – bởi em đã hóa thân thành quê hương yêu dấu.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, sáng tác vào đầu thế kỉ XX, sau được dân gian hóa mà thành ca dao. – Nội dung vừa là nỗi nhớ quê hương tha thiết, vừa là lời bày tỏ tình yêu đôi lứa. 2. Thân bài: * Nội dung bài ca dao: + Cách hiểu thứ nhất: Nỗi nhớ quê hương của người đi xa: – Nhân vật trữ tình (Anh) là người đang sống xa quê, da diết nhớ quê. – Nỗi nhớ biểu hiện cụ thể qua: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương, là những món ăn dân dã, quen thuộc hàng ngày của dân quê, gợi hình ảnh những bữa cơm gia đình sum vầy, đầm ấm và ước mong được trở lại quê hương. – Nhớ người thân yêu: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Đại từ phiếm chỉ ai, cấu trúc câu lặp bằng điệp từ đứng đầu: Nhớ ai… Nhớ ai mang đậm nét nghệ thuật dân gian của ca dao, đặc tả nỗi nhớ thương mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, gắn liền với cuộc sống lao động vất vả, lam lũ. – Trong câu 4, ai có thể là người con gái mà chàng trai xa quê (Anh) đem lòng yêu mến. Hình ảnh tát nước bên đường gợi liên tưởng đến ý đó vì hay được nhắc đến trong ca dao (Hỡi cô tát nước bên đàng, Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?…) – Tất cả các kỉ niệm thấm đượm ân tình của quê hương kết thành nỗi nhớ mênh mông trong lòng người xa xứ. + Cách hiểu thứ hai: Lời bày tỏ tình yêu: – Nỗi nhớ nhà, nhớ quê được mượn làm cái cớ để dẫn dắt đến việc bày tỏ tình yêu với cô thôn nữ mà chàng trai thầm yêu trộm nhớ bấy lâu nhưng chưa có dịp ngỏ lời. – Đại từ phiếm chỉ ai trong câu 3 và 4 hàm ý chỉ cô gái ấy. – Câu 3 và 4 đặt nhân vật (ai) vào hoàn cảnh cụ thể là cuộc sống lao động vất vả (dãi nắng dầm sương) của nông dân ở quê nhà và cảnh tát nước bên đường hôm nao khắc sâu trong tâm tưởng người trai xa quê bời đó là cái mốc khởi đầu cho tình yêu đôi lứa. – Nỗi nhớ quê hương, nhớ người yếu hòa làm một nên càng da diết, khắc khoải. 3. Kết bài: – Bài ca dao chỉ có 4 câu với những hình ảnh mộc mạc, dân dã nhưng đã thể hiện sinh động tình cảm gắn bó tha thiết đối với quê hương nên tác động sâu xa tới tâm hồn người đọc. – Phải thật sự yêu mến quê hương, đất nước thì tác giả mới sáng tác được bài ca dao bình dị và thấm thía như vậy. II. BÀI LÀM Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải, một nhà thơ đầu thế kỉ XX ; sau này được dân gian hóa mà thành ca dao. Cả bài chỉ vẻn vẹn bốn câu, lời lẽ giản dị tưởng chừng dễ hiểu. Thế nhưng trong thực tế, đã có ít nhất hai cách hiểu khác nhau rõ rệt và cả hai cách hiểu đó đều có cơ sở và lí do tồn tại. Cách hiểu thứ nhất nhấn mạnh vào nỗi nhớ què nhà của người đã xa quê và coi chủ đề chính của bài ca dao là tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương. Cách hiểu thứ hai nhấn mạnh vào nỗi nhớ ai của người sắp ra đi và chủ đề chính của bài ca dao là lời bày tỏ tình yêu đôi lứa. Về cách hiểu thứ nhất, người đi xa bộc lộ tình cảm của mình là dẫu sống nơi đất khách quê người nhưng lòng luôn hướng về quê nhà. Nhớ quê nhà là nhớ những gì quen thuộc trong cuộc sống nghèo khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Theo quy luật tâm lí thì quê hương càng trở nên đáng yêu, đáng nhở hơn khi người ta sống xa quê. Ta có cảm tưởng như bài ca dao là tiếng hát tâm tình tha thiết đối với quê hương của người lao động: Anh đi anh nhà quê nhà, Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nào. Bài ca dao mở đầu bằng đại từ anh, lấy anh làm chủ thể với mục đích tập trung tất cả ý tình vào đó: Anh đang sống xa nhà và anh nhớ quê nhà. Quê nhà không chỉ là đơn giản là quê và nhà mà nó còn mang ý nghĩa rộng hơn. Trong trái tim của mỗi chúng ta đều mang nặng tình quê ấy. Bởi vậy khi đi xa, nỗi nhớ càng thiết tha, sâu nặng: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Đây là biểu hiện cụ thể của nỗi nhớ quê nhà. Cà dầm tương ăn với canh rau muống nấu cua đồng là món ăn quen thuộc của nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Xa quê, nhớ tới mùi vị của những món ăn dân dã ấy, lòng người xao xuyến biết bao và ước mong được trở về sum họp với gia đình lại càng thêm da diết. Quê nhà với muôn ngàn cái tưởng như tầm thường: cây đa, bến nước, con đò, giậu mùng tơi xanh, luống cải hoa vàng rung rinh trong gió xuân dìu dịu; tiếng sáo diều vi vu ngân nga lúc chiều về; hương lúa chín nồng nàn khi mùa tới… nhưng vẫn khiến người ta thương nhớ đến quặn lòng. Hai câu thơ trên gợi ra một nỗi nhớ quê nhà thật mộc mạc mà đằm thắm, khó phai. Hai câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ con người gắn bó với khung cảnh quê hương: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao, Người nông dân ngàn đời nay vẫn gắn liền với cuộc sống dãi nắng dầm sương, vất vả cực nhọc trăm bề. Nắng, sương thật sự thấm đượm những cuộc đời nghèo khó. Ông bà, cha mẹ ta tắm sương gội nắng để kiếm cho ta miếng cơm manh áo, để tạo cho ta thể xác, tâm hồn. Quê hương ấy, con người ấy hỏi làm sao khi xa cách, ta không thương, không nhớ?! Đại từ phiếm chỉ ai trong câu thứ 3 có thể là kẻ này người nọ nhưng tất nhiên phải có quan hệ thân thiết với người đi xa. Còn ai trong câu thứ 4 thì chỉ có thể là người yêu. Chàng trai xa quê nhớ người yêu trong khung cảnh lao động quen thuộc: tát nước bên đường vào một sớm, một chiều hay một đêm trăng thanh nào đó… Tất cả các kĩ niệm về quê nhà sống dậy, kết thành một nỗi nhớ mênh mông. Bài Anh đi anh nhớ là bài ca về tình quê hương, xứ sở. Yêu quê hương là tình cảm thiêng liêng của mỗi con người: Quê hương nếu ai không nhớ, Sẽ không lớn nổi thành người (Đỗ Trung Quân). Mỗi người chúng ta đều có một quê hương, nhưng trong thời đại mới, ý nghĩa của hai tiếng quê hương đã được mở rộng hơn nhiều: trên khắp mọi miền đất nước, ở đâu có cuộc sống nghĩa tình, ở đó là quê hương. Dù vậy, bài ca dao trên muôn đời vẫn là cung đàn dịu ngọt cho mọi tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, xứ sở. Về cách hiểu thứ hai nếu ta coi đại từ phiếm chỉ ai trong hai câu cuối của bài ca dao là người bạn tình của chàng trai thì nỗi nhớ quê nhà gắn liền với nỗi nhớ người yêu. Cả hai nỗi nhớ, đều chân thực, thiết tha. Đó là nội dung mà bài ca dao muốn bày tỏ và nếu coi bài thơ là lời tâm sự trước lúc đi xa của chàng trai với cô gái thì có một điểm đặc biệt đáng chú ý là chàng trai chưa xa mà đã nhớ. Dường như cô gái cũng thiết tha muốn biết khi xa quê chàng trai sẽ nhớ những gì và nhớ những ai. Bốn câu ca dao với năm từ nhớ liên tiếp cho thấy chàng trai vừa giãi bày được lòng mình vừa đáp ứng nhu cầu của lòng bạn: Anh đi anh nhớ quê nhà, Ở câu thứ nhất, tuy nỗi nhớ còn chung chung, chưa cụ thể, nhưng cô gái cũng đã yên tâm và chứa chan hi vọng vì chàng trai xưng anh với cô rất ngọt ngào, thân thiết. Vả lại, khi đi xa, chắc chắn chàng trai sẽ rất nhớ quê nhà, vì ở đó có cô gái mà anh thầm yêu mến. Đến câu thứ hai: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương thì chàng trai đã cụ thể hóa nỗi nhớ quê nhà ở câu thứ nhất một cách rất tự nhiên. Canh rau muống, cà dầm tương là những món ăn quen thuộc của người nghèo, mấy ai xa quê mà không thèm, không nhớ? Nhưng nhớ quê nhà không lẽ chỉ nhớ có thê thôi ư? Cô gái dõi theo lời chàng trai rồi hồi hộp lắng nghe và chờ đợi. Sang câu thứ ba: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, cô gái không thể không liên tưởng đến mình, nhưng chưa thế khẳng định chắc chắn, vì ở quê nhà có bao người dãi nắng dầm sương, chứ đâu phải riêng cô? Cách nói của chàng trai như vậy là cách nói lấp lửng, vừa nói vừa thăm dò phản ứng của đối tượng, vừa kìm nén cảm xúc chất chứa trong lòng mình. Chỉ đến khi cảm thấy cô gái đã thuận tình, thuận ý, chàng trai mới dám thổ lộ một cách ý nhị và tình tứ: Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Qua đó, chàng trai bày tỏ tình yêu với người bạn gái. Đội trai gái đã để ý đến nhau từ lâu nhưng chưa một lần thổ lộ. Tình yêu của họ mới ở giai đoạn đầu ngượng ngùng khó nói. Giờ đây, khi sắp xa quê, chàng trai mới mạnh dạn gặp cô gái để giãi bày tâm sự. Cách diễn đạt nỗi nhớ từ xa tới gần: Anh đi anh nhớ quê nhà; từ chung đến riêng: Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương; từ phiếm chỉ đến xác định: Nhớ ai dãi nắng dầm sương! Nhớ ai tát nước bèn đường hôm nao. Đến đây thì cả ý lẫn tình đều rõ. Ai kia chính là cô gái siêng năng, thuần hậu, dãi nắng dầm sương, góp phần cùng bao người làm nên ý nghĩa cuộc sông của chốn quê nhà. Nếu anh xa quê, thì người mà anh nhớ nhất sẽ là em – bởi em đã hóa thân thành quê hương yêu dấu.
I. Dàn ý 1. Mở bài: – Đây là bài ca dao giới thiệu về cảnh đẹp Hồ Gươm của Hà Nội. – Người Hà Nội rất tự hào khi nói đến những danh lam thắng cánh trên đất Thăng Long ngàn năm văn hiếu. 2. Thân bài: * Nội dung và nghệ thuật của bài ca dao: Kiểu mở đầu thường thấy trong ca đao: Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, gợi không khí, hình ảnh khách thập phương nô nức đến thăm. – Điệp từ xem lặp lại ba lần: xem cảnh Kiếm Hồ, xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn nhấn mạnh ý hồ Hoàn Kiếm có rất nhiều cảnh đẹp tạo nên thắng cảnh này. – Hình ảnh Đài Nghiên, Tháp Bút xây trước lối vào chùa vừa như nét nhấn của toàn cảnh bức tranh hồ Hoàn Kiếm, vừa thể hiện ý chùa Ngọc Sơn là nơi thờ Văn Xương đế quân, vị thần trông coi về văn chương và thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc. * Lòng tự hào, kiêu hãnh của người Hà Nội; – Ẩn chứa trong từng câu, từng chữ, từng hình ảnh của bài ca dao là niềm tự hào về đất Thăng Long thiêng liêng, tự hào về hồ Hoàn Kiếm gắn liền với truyền thuyết đòi gươm thần mà Long Quân cho Lê Lợi mượn để đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước nhà, lập nên sự nghiệp hiển hách muôn đời: Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn, Hỏi ai gây dựng nên non nước này? – Tự hào về con người Hà Nội tài hoa, khí phách, đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của đất kinh thành. 3. Kết bài – Thắng cảnh Hồ Gươm đẹp và giàu ý nghĩa lịch sử, văn hóa nên rất hấp dẫn đối với du khách. – Vẻ đẹp Hà Nội tiêu biểu cho vẻ đẹp văn hiến của đất nước và dân tộc Việt Nam. II. Bài làm Đây là bài ca dao nói về cảnh đẹp của Hà Nội. Tục truyền, vua nhà Lý đi tìm đất đóng đô, ngang qua đây thấy có rồng bay vút lên trời, cho là điềm lành, bèn quyết định dừng lại, cho xây dựng kinh thành và đặt tên là Thăng Long. Lịch sử của Thăng Long Đông Đô – Hà Nội đã ngót ngàn năm. Hàng trăm thế hệ nối tiếp nhau đổ mồ hôi, xương máu để xây dựng mảnh đất này thành gương mặt tiêu biểu cho nước Việt ngàn năm văn hiến. Hà Nội được coi là một vùng đất thiêng, là nơi kết tụ tinh hoa của quốc gia, dân tộc. Thủ đô đã đứng vững qua bao phen khói lửa, bao cuộc chiến tranh đau thương và oanh liệt chống giặc ngoại xâm. Bởi vậy cho nên người Hà Nội rất đỗi tự hào khi giới thiệu về Hà Nội: Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn. Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn, Hỏi ai gây dựng nên non nước này? Cái tên hồ Hoàn Kiếm gắn liền với một truyền thuyết lịch sử đẹp đẽ. Truyện kể rằng vào thế kỉ XV, dưới ách đô hộ của giặc Minh, nhân dân ta phải chịu bao điều cơ cực. Mọi người căm giận quân xâm lược đến tận xương tủy. Nghĩa binh Lam Sơn buổi đầu nổi dậy, lực lượng còn non yếu nên Long Quân đã kín đáo cho Lê Lợi mượn thanh bảo kiếm để đánh giặc giữ nước. Sau khi quét sạch mấy chục vạn quận xâm lược Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi vua, dựng lại nền độc lập, thống nhất Tổ quốc. Nhân buổi nhàn du, vua Lê đã cùng quần thần đi thuyền dạo chơi trên hồ Tả Vọng. Bỗng có một con Rùa Vàng rất lớn nổi lên mặt nước. Thuyền đi chậm lại. Tự nhiên nhà vua thấy thanh gươm đeo bên mình động đậy. Rùa Vàng bơi đến trước thuyền và nói: Xin bệ hạ hoàn gươm cho Long Quân! Vua Lê rút gươm quăng về phía Rùa Vàng. Rùa Vàng đớp lấy thanh gươm và lặn nhanh xuống nước. Một lúc lâu sau, vệt sáng vẫn còn le lói dưới đáy hồ sâu. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Hồ Gươm nằm giữa lòng thành phố là một thắng cảnh xinh tươi của Thủ đô. Giữa hồ có đền Ngọc Sơn nép mình dưới bóng râm cổ thụ, có Tháp Rùa xinh xắn xây trên gò cỏ quanh năm xanh mướt.
I. Outline 1. Introduction: – This is a folk song introducing the beautiful scenery of Hoan Kiem Lake in Hanoi. – Hanoi people are very proud when talking about famous landscapes in Thang Long with thousands of years of filial piety. 2. Body of the article: * Content and art of folk songs: The opening style is often seen in folk songs: Inviting each other to watch the scene of Sword Lake, evoking the atmosphere and images of visitors from all over eagerly coming to visit. - The words are repeated three times: see Kiem Lake scene, see The Huc bridge, see Ngoc Son pagoda, emphasizing the meaning of Hoan Kiem Lake, which has many beautiful scenes that create this landscape. – The image of Dai Nghien and Pen Tower built in front of the pagoda entrance is both a highlight of the panorama of Hoan Kiem Lake and also shows the idea that Ngoc Son pagoda is a place to worship Van Xuong De Quan, the god who oversees literature and worship. Saint Tran Hung Dao, national hero. * Pride and arrogance of Hanoi people; – Hidden in every sentence, every word, every image of the folk song is pride in the sacred land of Thang Long, pride in Hoan Kiem Lake associated with the legend of demanding the magic sword that Long Quan lent to Le Loi to Expelling the Ming invaders from the country's borders, establishing a glorious career that will last forever: Dai Nghien and Pen Tower have not yet worn out. Who built this country? – Proud of the talented and spirited Hanoi people who have created the unique beauty of the capital city. 3. Conclusion – The Hoan Kiem Lake landscape is beautiful and rich in historical and cultural significance, so it is very attractive to tourists. – The beauty of Hanoi represents the cultural beauty of the country and people of Vietnam. II. Assignment This is a folk song about the beautiful scenery of Hanoi. Legend has it that the King of the Ly Dynasty was looking for land to build a capital. Passing by here, he saw a dragon soaring into the sky. He thought it was a good omen, so he decided to stop, build the capital and name it Thang Long. The history of Thang Long Dong Do - Hanoi is nearly a thousand years old. Hundreds of successive generations have poured their sweat and blood to build this land into the representative face of Vietnam with thousands of years of civilization. Hanoi is considered a sacred land, a place where the quintessence of the nation and people gathers. The capital has stood firm through many times of fire and smoke, many painful and glorious wars against foreign invaders. That's why Hanoians are very proud when introducing Hanoi: Get together to watch the Sword Lake scene, See The Huc bridge, see Ngoc Son pagoda. Dai Nghien and Pen Tower have not yet worn out, Ask who built this country? The name Hoan Kiem Lake is associated with a beautiful historical legend. The story tells that in the 15th century, under the domination of the Ming invaders, our people had to endure many hardships. Everyone was angry with the invaders to the core. At the beginning of the Lam Son insurgents' uprising, their force was still weak, so Long Quan discreetly lent Le Loi his precious sword to fight the enemy and defend the country. After wiping out hundreds of thousands of Ming-invading districts, Le Loi ascended the throne, rebuilding independence and unifying the Fatherland. On a leisurely day, King Le and his courtiers went on a boat trip on Ta Vong Lake. Suddenly a very large Golden Turtle floated to the surface of the water. The boat slows down. Suddenly the king saw the sword hanging on his side move. The Golden Turtle swam to the front of the boat and said: Please return the sword to Long Quan! King Le pulled out his sword and threw it at the Golden Turtle. The Golden Turtle grabbed the sword and quickly dived into the water. A long time later, a streak of light still glimmered at the bottom of the deep lake. From then on, Ta Vong Lake was renamed Sword Lake or Hoan Kiem Lake. Sword Lake located in the heart of the city is a beautiful landscape of the Capital. In the middle of the lake, there is Ngoc Son Temple nestled in the shade of an ancient tree, and a lovely Turtle Tower built on a mound of green grass all year round.
I. Dàn ý 1. Mở bài: – Truyền thông đạo lí cơ bản của dân tộc Việt Nam là Uống nước nhớ nguồn. – Tục thờ cúng tổ tiền, ông bà, cha mẹ… là biểu hiện của lòng hiếu nghĩa. – Câu ca dao: Ngó lên… bấy nhiêu phản ánh rõ điều đó. 2. Thân bài: * Nội dung và nghệ thuật của câu ca dao: + Tâm trạng của nhân vật: Nỗi nhớ những người đã khuất (ông bà) được so sánh với số nuộc lạt buộc trên mái nhà, nhiều không thể đếm hết được. – Đây là ẩn dụ so sánh thường thấy trong ca dao, với công thức chung là bao nhiêu… bấy nhiêu. – Hình ảnh so sánh quen thuộc, giản dị, phù hợp với lối diễn tả mộc mạc, chân chất của người nông dân xưa. – Nhớ thương là khái niệm trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần được cụ thể hoá thành sự vật nuộc lạt mái nhà), khiến cho khả năng biểu cảm của câu ca dao tăng lên rất nhiều. – Nhịp thơ chậm, âm điệu ngậm ngùi, thể hiện lòng thành kính, biết ơn của con cháu với ông bà, tổ tiên. Bên cạnh đó là nỗi tủi thân tủi phận nghèo khó… 3. Kết bài: – Hai câu ca dao ngắn ngọn gói ghém biết bao ý tình sâu sắc, thấm thía. – Lòng biết ơn là nền tảng của đạo làm người. II. Bài làm Người Việt Nam ta từ ngàn xưa đã có tục thờ cúng trời đất, tổ tiên. Dù giàu hay nghèo, trong mỗi nhà đều có một bàn thờ để con cháu quanh năm nhang khói cho ông bà, cha mẹ. Đây là một phong tục đẹp, phản ánh đạo lí: uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây… rất đáng trân trọng và gìn giữ. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Phần lớn nông dân sống cuộc đời nghèo khó, quanh năm bát mồ hôi đổi Lấy bát cơm. Hình ảnh những mái nhà bạc phếch, dầu dãi nắng mưa là hình ảnh phổ biến của nông thôn thuở trước. Bao số phận cùng khổ bởi sưu cao thuế nặng, bởi áp bức bất công, bởi nỗi lo cơm áo hằng ngày. Biết lấy gì để báo đáp công lao trời biển của ông bà, cha mẹ? Cái thương, cái nhớ chất chứa trong lòng. Băn khoăn, day dứt lắm mà không làm sao được, chỉ biết buông tiếng thở dài chua xót: Ngó lên nuộc lạt mái nhà, Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu! Câu ca dao mộc mạc, giản dị như cách suy nghĩ và biểu hiện tình cảm của người nông dân chất phác, thật thà. Nhớ và thương là những khái niệm trừu tượng đã được cụ thể hóa bằng hình ảnh rất quen thuộc: nuộc lạt (nuộc: nút, môi) trên mái nhà. Khi lợp nhà bằng lá cọ, cỏ tranh hay rơm rạ, người ta thường dùng lạt giang hay lạt tre chẻ mỏng, ngâm nước cho mềm để buộc chặt từng lá cọ, từng tấm tranh, tấm rạ vào rui, mè cho chắc chắn, gió không thể thổi bay. Một mái nhà như thế có bao nhiêu nuộc lạt? Chắc là phải tới con số vài ngàn. Vào một buổi trưa hè nào đó hoặc lúc nông nhàn, chủ nhà nằm ngửa trên chiếc phản gỗ hoặc chiếc chõng tre kê giữa nhà, vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ sự đời rồi than thân trách phận sao cứ bị cái nghèo đeo đuổi mãi không tha. Đập vào mắt là cái mái nhà chi chít những nuộc lạt, cách bàn thờ tổ tiên, ông bà chỉ một tầm tay. Nhìn bàn thờ trống trơn, nhang tàn khói lạnh mà chạnh lòng thương nhớ, mà áy náy ân hận vì phận làm cháu, làm con chưa trọn. Dòng cảm xúc dâng đầy và nước mắt đã ứa quanh mi, đành chỉ biết tặc lưỡi thở dài, tủi cho người đã khuất và tủi cho người đang sống. Để bày tỏ lòng thành, còn gì hơn sự so sánh: Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu! Cách so sánh trên thường thấy trong ca dao: Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu; hoặc: Qua cầu ngả nón trông cầu, Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy nhiêu… Đây là cách biểu hiện tình cảm tự nhiên và chân thành của người lao động. Chỉ hai câu ca dao mà gói ghém biết bao ý nghĩa, nhưng nổi bật nhất và thấm thía nhất vẫn là lòng biết ơn sâu sắc của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Lòng biết ơn ấy là nền tảng của đạo lí, là cơ sở cho mọi điều tốt đẹp trên đời. Đọc câu ca dao, chúng ta càng thêm quý tâm hồn thuần hậu, trong sáng và hiếu nghĩa của người xưa.
I. Outline 1. Introduction: – Communicate the basic morality of the Vietnamese people: When you drink water, remember its source. – The custom of worshiping ancestors, grandparents, parents... is an expression of filial piety. – The folk song: Look up... that much clearly reflects that. 2. Body of the article: * Content and art of folk songs: + Character's mood: The nostalgia for the deceased (grandparents) is compared to the number of strings tied to the roof, too many to count. – This is a comparative metaphor often found in folk songs, with the general formula being how much... is how much. – The comparison image is familiar and simple, suitable for the rustic and honest expression of ancient farmers. - Remembering love is an abstract concept in the spiritual realm that is concretized into things that touch the roof, making the expressive ability of the folk song greatly increase. – The poem's pace is slow and the tone is sad, expressing the respect and gratitude of children and grandchildren to their grandparents and ancestors. Besides that, there is self-pity and poverty... 3. Conclusion: – These two short folk songs contain so many deep and profound emotions. – Gratitude is the foundation of human morality. II. Assignment Since ancient times, Vietnamese people have had the custom of worshiping heaven, earth, and ancestors. Whether rich or poor, every house has an altar where children and grandchildren burn incense all year round for their grandparents and parents. This is a beautiful custom, reflecting the morality: when drinking water, remember the source, when eating fruit, remember the person who planted the tree... very worthy of respect and preservation. Our country is inherently a backward agricultural country. Most farmers live a poor life, all year round exchanging a bowl of sweat for a bowl of rice. The image of faded roofs exposed to sun and rain is a common image of the countryside in the past. Many miserable fates due to high taxes, unfair oppression, and daily worries about food and clothing. How can I repay the great efforts of my grandparents and parents? Love and memory are stored in my heart. I was so worried and tormented that I couldn't do anything. I could only let out a bitter sigh: Looking up at the roof, How much I miss my grandparents! The folk song is rustic and simple, like the way of thinking and expressing feelings of a simple and honest farmer. Remembering and loving are abstract concepts that have been concretized by a very familiar image: nuoc lat (nuoc: button, lip) on the roof. When roofing a house with palm leaves, thatch or straw, people often use thinly split bamboo leaves or bamboo strips, soaked in water until soft, to tie each palm leaf, each thatch, and thatch to the rafters and sesame firmly. The wind cannot blow it away. How many tiles does a roof like that have? Probably several thousand. On a certain summer afternoon or during leisure time, the homeowner lies on his back on a wooden bed or bamboo bed placed in the middle of the house, puts his hands on his forehead, contemplates life, and laments his fate for always being pursued by poverty. unforgiveness. The first thing that catches your eye is the roof covered with bamboo, just an arm's reach away from the altar of ancestors and grandparents. Looking at the empty altar, the incense sticks and cold smoke, I felt a sense of longing and nostalgia, and felt guilty and regretful because my role as a grandchild and son was not yet fulfilled. The flood of emotions overflowed and tears welled up around my eyes. I could only click my tongue and sigh, feeling sorry for the deceased and feeling sorry for the living. To express sincerity, there is nothing better than comparison: How much I miss my grandparents! The above comparison is often seen in folk songs: When I go to the communal house, I take off my hat and look at the communal house. The communal house loves me as much as it loves me; or: Cross the bridge, take off your hat and look at the bridge, No matter how many times you pray, your heart will feel sad... This is a natural and sincere way of expressing the feelings of workers. Just two folk songs contain so much meaning, but the most prominent and profound is still the deep gratitude of children and grandchildren to their ancestors, grandparents, and parents. That gratitude is the foundation of morality, the basis for all good things in the world. Reading folk songs, we appreciate the gentle, pure and filial souls of the ancients even more.
Bài làm Đây là câu ca dao phản ánh tâm trạng nhớ nhung, buồn khổ của người con gái lấy chồng xa xứ. Ngày ngày, cứ đến lúc chiều buông là cô lại thổn thức gạt thầm nước mắt: Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều! Câu ca dao chọn không gian và thời gian của buổi chiều để làm nền cho nỗi nhớ bởi nó thường khơi gợi lòng người nghĩ tới sự trở về và đoàn tụ. Không gian yên ắng, bàng bạc khói sương, mọi vật từ từ chìm vào bóng tối… dễ làm chạnh lòng kẻ xa quê. Ta thử hình dung ra cảnh đời và số phận của người con gái trẻ lần đầu xa mẹ, xa nhà, đi làm vợ, làm dâu nơi đồng đất xứ người. Ngày xưa, nông thôn Việt Nam sống khép kín theo kiểu làng xã. Mỗi làng, mỗi xã là một thế giới riêng biệt. Có người suốt đời không bước chân ra khỏi lũy tre làng. Bởi vậy cho nên con gái lấy chồng làng khác có nghĩa là chấp nhận nỗi biệt li dằng dặc, khó biết ngày trở lại. Thêm vào đó là sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến như quan niệm Nữ nhân ngoại tộc hay Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử… Tất cả những điều bất công ấy biến cuộc đời phụ nữ thành một chuỗi dài buồn khổ, sầu thương.
Assignment This is a folk song that reflects the longing and sadness of a girl who marries away from home. Every day, as afternoon fell, she sobbed and wiped away her tears: Lane stood next afternoon Looking back to my mother's hometown is painful! The folk song chooses the space and time of the afternoon as the basis for nostalgia because it often evokes people's thoughts of return and reunion. The space is quiet, filled with smoke and mist, everything slowly sinks into darkness... easily making people far from home feel sad. Let's try to imagine the life and fate of a young girl who is away from her mother and home for the first time, to become a wife and daughter-in-law in a foreign land. In the past, rural Vietnam lived in a closed village style. Each village and each commune is a separate world. There are people who never step foot outside the village's bamboo ramparts all their lives. Therefore, marrying a girl from another village means accepting a long separation, with an uncertain return date. Added to that are the strict constraints of feudal rites such as the concept of foreign or domestic women following fathers, husbands following husbands, sons following children... All of these injustices turn women's lives into a long series of sadness and grief.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Thơ Nguyễn Khuyến phản ánh tâm trạng đau buồn của ông trước thời cuộc rối ren, suy tàn. – Một số bài ông viết về tình làng xóm, tình bạn bè tri âm tri kỉ. Đó là những bài thơ rất cảm động. Bạn đến chơi nhà là một ví dụ tiêu biểu. – Bài thơ ra đời trong thời gian Nguyễn Khuyến đã cáo quan về sống ẩn dật tại quê nhà, nội dung thể hiện tình bạn già khăng khít, keo sơn giữa hai vị quan thanh liêm đều đã rời xa vòng danh lợi. Tình cảm chân thành ấy đã vượt qua mọi nghi lễ tầm thường của cuộc sống. 2. Thân bài * Tình bạn già tri âm, tri kỉ: + Câu để (câu 1): Đã bấy lâu nay bác đến nhà – Sự phá cách của tác giả ở chỗ: trong thể thơ bát cú Đường luật thì phần đề thường có 2 câu (phá đề, thừa đề) nhưng ở bài thơ này chỉ có một câu. – Câu thơ như một lời chào hỏi mừng rỡ, thân tình của chủ nhân trước việc đến thăm của một người bạn già xa cách đã lâu ngày, – Cách gọi bác vừa dân dã, vừa kính trọng, thể hiện sự gắn bó lâu dài, mật thiết giữa hai người. + 3 câu thực (2, 3, 4): Lời phân trần, thanh minh của chủ nhân về sự tiếp đón thiếu chu đáo của mình: – Tác giả dùng tới 3 câu, trong khi thơ Đường luật phần này chỉ có 2 câu. – Ngôn ngữ thơ như lời nói tự nhiên, mộc mạc của một ông lão nhà quê: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa (lí do thứ nhất), Ao sâu nước cả khôn chài cá (lí do thứ hai), Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà (lí do thứ ba.) + 2 câu luận: Tiếp tục phân trần thêm hai lí do: Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Tính chất hài hước nằm ở ý: nhà có đủ cả, chẳng thiếu thứ gì (cá, gà, cải, cà, bầu, mướp…), chỉ tiếc là đều đang độ dở dang, chưa dùng được, nên đành tạ lỗi với khách. Nói có nhưng thực chất là không, vì cuộc sống của nhà thơ ở chốn quê nghèo rất thiếu thốn. + 2 câu kết: Sự thiếu thốn được đẩy lên cực điểm: Đầu trò tiếp khách, trầu không có (bắt nguồn từ câu: Miếng trầu là đầu câu chuyện trong dân gian nói về cách tiếp khách thông thường nhất, tối thiểu nhất cũng phải có trầu và nước.) – Tóm lại vật chất chẳng có gì, thôi thì: Bác đến chơi đây, ta với ta. Câu thơ này là linh hồn của bài thơ. Tất cả sự mừng rỡ, quý. trọng, chân tình đều hội tụ ở ba từ ta với ta. Chủ và khách, bác và tôi đã hòa làm một. Quả là tình bạn già sâu sắc, cảm động không có gì so sánh được. 3. Kết bài: – Bài thơ là tấm lòng chân thành của Nguyễn Khuyến dành cho người bạn già đáng kính đến chơi nhà. – Giọng thơ tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hình ảnh quen thuộc gợi khung cảnh thiên nhiên tươi mát ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. – Cảnh và tình đan xen hài h, nhuần nhuyễn, ấm áp tình tri âm, tri kỉ. II. BÀI LÀM Thơ Nguyễn Khuyến chẳng có mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước tình cảnh đất nước đau thương, trước thói đời éo le, bạc bẽo. Nhất là từ khi cáo quan về sống ẩn dật ở quê nhà thì nỗi buồn ấy trong thơ ông càng sâu, càng đậm. Tuy vậy nhưng bài Bạn đến chơi nhà lại là nốt vui bất chợt làm bừng sáng cái thông minh, dí dỏm vốn có trong tính cách cụ Tam Nguyên. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn già kháng khít, keo sơn, vượt qua mọi ràng buộc của những nghi thức tầm thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp, chân thành. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng không theo cấu trúc 4 phần (đề, thực, luận, kết), mỗi phần hai câu như thường thấy. Ở bài này, Nguyễn Khuyên chỉ sử dụng có một câu làm câu đề, câu thứ hai đã chuyển sang phần thực. Giữa phần thực và phần luận lại không có ranh giới rõ rệt. Hai câu 7 và 8 thì câu 7 gắn với phần luận, chỉ có câu 8 là phần kết. Sự phá cách này tạo nên nét độc đáo trong cấu trúc bài thơ, đồng thời chứng tỏ khả năng sáng tạo của nhà thơ. Đã bấy lâu nay bác tới nhà Câu mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp lại nhau. Tuổi già là tuổi người ta thường cảm thấy cô đơn nên khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Chính vì thế nên khi được bạn đến thăm, nhà thơ thực sự vui mừng. Ông gọi bạn bằng bác. Cách gọi dân dã, thân tình song cũng rất nể trọng, thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hằng ngày ấy sẽ là tiền đề cho sự giãi bày tiếp sau đó: Đã lâu rồi, nay mới có dịp bác quá bộ tới chơi nhà, thật là quý hóa. Vậy mà… thôi thì cứ tình thực mà nói, mong bác hiểu mà vui lòng đại xá cho! Sau khi Nguyễn Khuyến rũ áo từ quan, về ở chốn quê nghèo chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa mà vẫn có bạn tìm tới thăm thì hẳn người ấy phải là tri kỉ; bởi thói đời giàu thời tìm đến, khó thời lui. Xúc động thật sự, nhà thơ nhân đó lấy cái giàu có, quý giá của tình bạn để khỏa lấp cái nghèo nàn vật chất trong cuộc sống của mình. Theo phép xã giao, khi khách đến chơi, trước hết chủ nhà phải có nước có trầu tiếp khách. Bạn thân ở nơi xa tới, lâu ngày mới gặp thì nhất thiết phải mời cơm,mời rượu. Ở chốn phố phường còn có quán xá chứ ở vùng quê Nguyễn Khuyến thì kiếm đâu ra? Cái hay của bài thơ bắt đầu từ ý này: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Nhà thơ phân trần với khách về sự tiếp đãi không thể chu đáo của mình. Vừa mới tay bắt mặt mừng mà lại giãi bày với ý: “Nhà vắng người sai bảo, chợ ở xa, tôi thì già yếu không đi được”, liệu có làm mất lòng nhau? Nhưng bạn già chắc sẽ thông cảm vì lí do chủ nhà đưa ra nghe chừng đúng cả. Mọi thứ ở nhà tuy sẵn nhưng ngặt nỗi: Ao sâu nước cả khôn chài cá, Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Hiểu theo bề nổi của chữ nghĩa, nhà thơ muốn thanh minh với bạn: Cá thì nhiều đấy, nhưng ao sâu nước cả. Gà không thiếu nhưng vườn rộng rào thưa. Cải, cà, bầu, mướp thì đang ở độ chửa ra cây, còn mới nụ, vừa rụng rốn, đương hoa. Nghĩa là toàn ở độ dở dang, sắp sửa, chưa dùng được. Vậy là bữa cơm đãi khách với đầy đủ cá thịt hay đạm bạc rau dưa đều không thể có. Thôi thì ta nói chuyện với nhau bằng điếu thuốc, chén nước, miếng trầu vậy. Nhưng giở đến trầu thì đã hết tự bao giờ: Đầu trò tiếp khách trầu không có, mà xưa nay miếng trầu là đầu câu chuyện. Người đọc như hình dung ra rõ ràng cái sự loay hoay, lúng túng thật dễ thương của vị đại quan xưa, nay đã thành ông già dân dã chốn quê mùa. Nhưng xét kĩ thì chủ nhà không nghèo, ngược lại, ông là người giàu có. Câu thơ toàn nói đến cái không nhưng lại hàm chứa cái có. Cái nghèo vật chất trong hiện tại được thi vị hóa như là sự giàu có trong tương lai. Có thể những thứ cá, gà, cải, cà, bầu, mướp đều chẳng thiếu và nhà thơ đã tiếp đãi bạn rất chu tất còn nội dung bài thơ chỉ là cách giới thiệu độc đáo của cụ Tam Nguyên với bạn về cuộc sống thanh đạm của mình sau khi từ quan chăng?! Cách nói của nhà thơ là cố làm ra vẻ giàu có, dư dả nhưng thực ra ông rất nghèo và cái nghèo ấy dễ gì che giấu được! Bạn biết ta nghèo, lại ở một nơi xa xôi hẻo lánh mà vẫn tìm đến thăm ta, điều đó còn gì quý giá bằng! Tuy vậy, ẩn trong lời nói khiêm nhường của Nguyễn Khuyến là sự tự hào về cảnh sống thanh bần của mình. Ta tuy nghèo thật nhưng dễ gì giàu sang đổi được cái nghèo ấy! Trong đoạn thơ trên thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, thâm Thúy của bậc đại nho. Bác đến chơi đây ta với ta là một câu kết hay, là linh hồn của bài thơ. Ta với ta nghĩa là một tấm lòng đến với một tấm lòng; kẻ tri âm đến với người tri kỉ. Vậy thì tất cả những lễ nghi kia đều là tầm thường, vô nghĩa. Chủ và khách có chung một tình cảm thắm thiết thanh cao, đó là cái quý giá không vật chất nào sánh được. Ba tiếng ta với ta gợi cảm xúc mừng vui, thân mật. Bạn bè xa cách đã lâu, nay vượt đường xa dặm thẳm, vượt cái yếu đuối của tuổi già để đến thăm nhau thì thật là quý hóa! Đáng quý hơn nữa là bác với tôi, ta cùng lánh đục tìm trong, lui về vui thú điền viên để giữ trọn hai chữ thiên lương. Sự gần gũi, tương đắc về mặt tâm hồn đã gắn bó chủ và khách làm một. Những điều câu nệ, khách khí đã bị xoá nhòa. Chỉ còn lại niềm vui và sự chân thành bao trùm tất cả. Tình bạn ấy đã vượt lên trên những nghi thức tiếp đãi bình thường. Bạn đến chơi nhà không phải vì mâm cao cỗ đầy mà để được gặp nhau; được hàn huyên tâm sự cho thỏa nỗi khao khát nhớ mong.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Thơ Nguyễn Khuyến phản ánh tâm trạng đau buồn của ông trước thời cuộc rối ren, suy tàn. – Một số bài ông viết về tình làng xóm, tình bạn bè tri âm tri kỉ. Đó là những bài thơ rất cảm động. Bạn đến chơi nhà là một ví dụ tiêu biểu. – Bài thơ ra đời trong thời gian Nguyễn Khuyến đã cáo quan về sống ẩn dật tại quê nhà, nội dung thể hiện tình bạn già khăng khít, keo sơn giữa hai vị quan thanh liêm đều đã rời xa vòng danh lợi. Tình cảm chân thành ấy đã vượt qua mọi nghi lễ tầm thường của cuộc sống. 2. Thân bài * Tình bạn già tri âm, tri kỉ: + Câu để (câu 1): Đã bấy lâu nay bác đến nhà – Sự phá cách của tác giả ở chỗ: trong thể thơ bát cú Đường luật thì phần đề thường có 2 câu (phá đề, thừa đề) nhưng ở bài thơ này chỉ có một câu. – Câu thơ như một lời chào hỏi mừng rỡ, thân tình của chủ nhân trước việc đến thăm của một người bạn già xa cách đã lâu ngày, – Cách gọi bác vừa dân dã, vừa kính trọng, thể hiện sự gắn bó lâu dài, mật thiết giữa hai người. + 3 câu thực (2, 3, 4): Lời phân trần, thanh minh của chủ nhân về sự tiếp đón thiếu chu đáo của mình: – Tác giả dùng tới 3 câu, trong khi thơ Đường luật phần này chỉ có 2 câu. – Ngôn ngữ thơ như lời nói tự nhiên, mộc mạc của một ông lão nhà quê: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa (lí do thứ nhất), Ao sâu nước cả khôn chài cá (lí do thứ hai), Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà (lí do thứ ba.) + 2 câu luận: Tiếp tục phân trần thêm hai lí do: Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Tính chất hài hước nằm ở ý: nhà có đủ cả, chẳng thiếu thứ gì (cá, gà, cải, cà, bầu, mướp…), chỉ tiếc là đều đang độ dở dang, chưa dùng được, nên đành tạ lỗi với khách. Nói có nhưng thực chất là không, vì cuộc sống của nhà thơ ở chốn quê nghèo rất thiếu thốn. + 2 câu kết: Sự thiếu thốn được đẩy lên cực điểm: Đầu trò tiếp khách, trầu không có (bắt nguồn từ câu: Miếng trầu là đầu câu chuyện trong dân gian nói về cách tiếp khách thông thường nhất, tối thiểu nhất cũng phải có trầu và nước.) – Tóm lại vật chất chẳng có gì, thôi thì: Bác đến chơi đây, ta với ta. Câu thơ này là linh hồn của bài thơ. Tất cả sự mừng rỡ, quý. trọng, chân tình đều hội tụ ở ba từ ta với ta. Chủ và khách, bác và tôi đã hòa làm một. Quả là tình bạn già sâu sắc, cảm động không có gì so sánh được. 3. Kết bài: – Bài thơ là tấm lòng chân thành của Nguyễn Khuyến dành cho người bạn già đáng kính đến chơi nhà. – Giọng thơ tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, hình ảnh quen thuộc gợi khung cảnh thiên nhiên tươi mát ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. – Cảnh và tình đan xen hài h, nhuần nhuyễn, ấm áp tình tri âm, tri kỉ. II. BÀI LÀM Thơ Nguyễn Khuyến chẳng có mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước tình cảnh đất nước đau thương, trước thói đời éo le, bạc bẽo. Nhất là từ khi cáo quan về sống ẩn dật ở quê nhà thì nỗi buồn ấy trong thơ ông càng sâu, càng đậm. Tuy vậy nhưng bài Bạn đến chơi nhà lại là nốt vui bất chợt làm bừng sáng cái thông minh, dí dỏm vốn có trong tính cách cụ Tam Nguyên. Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn già kháng khít, keo sơn, vượt qua mọi ràng buộc của những nghi thức tầm thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp, chân thành. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng không theo cấu trúc 4 phần (đề, thực, luận, kết), mỗi phần hai câu như thường thấy. Ở bài này, Nguyễn Khuyên chỉ sử dụng có một câu làm câu đề, câu thứ hai đã chuyển sang phần thực. Giữa phần thực và phần luận lại không có ranh giới rõ rệt. Hai câu 7 và 8 thì câu 7 gắn với phần luận, chỉ có câu 8 là phần kết. Sự phá cách này tạo nên nét độc đáo trong cấu trúc bài thơ, đồng thời chứng tỏ khả năng sáng tạo của nhà thơ. Đã bấy lâu nay bác tới nhà Câu mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp lại nhau. Tuổi già là tuổi người ta thường cảm thấy cô đơn nên khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Chính vì thế nên khi được bạn đến thăm, nhà thơ thực sự vui mừng. Ông gọi bạn bằng bác. Cách gọi dân dã, thân tình song cũng rất nể trọng, thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hằng ngày ấy sẽ là tiền đề cho sự giãi bày tiếp sau đó: Đã lâu rồi, nay mới có dịp bác quá bộ tới chơi nhà, thật là quý hóa. Vậy mà… thôi thì cứ tình thực mà nói, mong bác hiểu mà vui lòng đại xá cho! Sau khi Nguyễn Khuyến rũ áo từ quan, về ở chốn quê nghèo chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa mà vẫn có bạn tìm tới thăm thì hẳn người ấy phải là tri kỉ; bởi thói đời giàu thời tìm đến, khó thời lui. Xúc động thật sự, nhà thơ nhân đó lấy cái giàu có, quý giá của tình bạn để khỏa lấp cái nghèo nàn vật chất trong cuộc sống của mình. Theo phép xã giao, khi khách đến chơi, trước hết chủ nhà phải có nước có trầu tiếp khách. Bạn thân ở nơi xa tới, lâu ngày mới gặp thì nhất thiết phải mời cơm,mời rượu. Ở chốn phố phường còn có quán xá chứ ở vùng quê Nguyễn Khuyến thì kiếm đâu ra? Cái hay của bài thơ bắt đầu từ ý này: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Nhà thơ phân trần với khách về sự tiếp đãi không thể chu đáo của mình. Vừa mới tay bắt mặt mừng mà lại giãi bày với ý: “Nhà vắng người sai bảo, chợ ở xa, tôi thì già yếu không đi được”, liệu có làm mất lòng nhau? Nhưng bạn già chắc sẽ thông cảm vì lí do chủ nhà đưa ra nghe chừng đúng cả. Mọi thứ ở nhà tuy sẵn nhưng ngặt nỗi: Ao sâu nước cả khôn chài cá, Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ, Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Hiểu theo bề nổi của chữ nghĩa, nhà thơ muốn thanh minh với bạn: Cá thì nhiều đấy, nhưng ao sâu nước cả. Gà không thiếu nhưng vườn rộng rào thưa. Cải, cà, bầu, mướp thì đang ở độ chửa ra cây, còn mới nụ, vừa rụng rốn, đương hoa. Nghĩa là toàn ở độ dở dang, sắp sửa, chưa dùng được. Vậy là bữa cơm đãi khách với đầy đủ cá thịt hay đạm bạc rau dưa đều không thể có. Thôi thì ta nói chuyện với nhau bằng điếu thuốc, chén nước, miếng trầu vậy. Nhưng giở đến trầu thì đã hết tự bao giờ: Đầu trò tiếp khách trầu không có, mà xưa nay miếng trầu là đầu câu chuyện. Người đọc như hình dung ra rõ ràng cái sự loay hoay, lúng túng thật dễ thương của vị đại quan xưa, nay đã thành ông già dân dã chốn quê mùa. Nhưng xét kĩ thì chủ nhà không nghèo, ngược lại, ông là người giàu có. Câu thơ toàn nói đến cái không nhưng lại hàm chứa cái có. Cái nghèo vật chất trong hiện tại được thi vị hóa như là sự giàu có trong tương lai. Có thể những thứ cá, gà, cải, cà, bầu, mướp đều chẳng thiếu và nhà thơ đã tiếp đãi bạn rất chu tất còn nội dung bài thơ chỉ là cách giới thiệu độc đáo của cụ Tam Nguyên với bạn về cuộc sống thanh đạm của mình sau khi từ quan chăng?! Cách nói của nhà thơ là cố làm ra vẻ giàu có, dư dả nhưng thực ra ông rất nghèo và cái nghèo ấy dễ gì che giấu được! Bạn biết ta nghèo, lại ở một nơi xa xôi hẻo lánh mà vẫn tìm đến thăm ta, điều đó còn gì quý giá bằng! Tuy vậy, ẩn trong lời nói khiêm nhường của Nguyễn Khuyến là sự tự hào về cảnh sống thanh bần của mình. Ta tuy nghèo thật nhưng dễ gì giàu sang đổi được cái nghèo ấy! Trong đoạn thơ trên thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, thâm Thúy của bậc đại nho. Bác đến chơi đây ta với ta là một câu kết hay, là linh hồn của bài thơ. Ta với ta nghĩa là một tấm lòng đến với một tấm lòng; kẻ tri âm đến với người tri kỉ. Vậy thì tất cả những lễ nghi kia đều là tầm thường, vô nghĩa. Chủ và khách có chung một tình cảm thắm thiết thanh cao, đó là cái quý giá không vật chất nào sánh được. Ba tiếng ta với ta gợi cảm xúc mừng vui, thân mật. Bạn bè xa cách đã lâu, nay vượt đường xa dặm thẳm, vượt cái yếu đuối của tuổi già để đến thăm nhau thì thật là quý hóa! Đáng quý hơn nữa là bác với tôi, ta cùng lánh đục tìm trong, lui về vui thú điền viên để giữ trọn hai chữ thiên lương. Sự gần gũi, tương đắc về mặt tâm hồn đã gắn bó chủ và khách làm một. Những điều câu nệ, khách khí đã bị xoá nhòa. Chỉ còn lại niềm vui và sự chân thành bao trùm tất cả. Tình bạn ấy đã vượt lên trên những nghi thức tiếp đãi bình thường. Bạn đến chơi nhà không phải vì mâm cao cỗ đầy mà để được gặp nhau; được hàn huyên tâm sự cho thỏa nỗi khao khát nhớ mong.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Đèo Ngang là ranh giới tự nhiên ngăn cách giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đây cũng là một thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng. – Rất nhiều thi sĩ đã làm thơ tả cảnh đèo Ngang, trong đó nổi tiếng nhất là bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan. – Tác giả sáng tác bài thơ này trong dịp từ Thăng Long vào Huế để nhậm chức Cung trung giáo tập (nữ quan dạy dỗ nghi lễ cho các cung nữ). – Đằng sau bức tranh phong cảnh là tâm trạng cô đơn và hoài niệm về một thời đại phong kiến huy hoàng đã qua, không bao giờ trở lại. 2. Thân bài: * Hai câu đề: + Câu thứ nhất: Bước tới đèo Ngang bóng xế tà. – Thời điểm nữ sĩ đặt chân tới đèo Ngang là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống. – Cảnh vật rất dễ gợi buồn trong lòng người lữ thứ. + Câu thứ hai: cỏ cây chen đá, lá chen hoa. – Miêu tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, tràn đầy sức sống của đèo Ngang qua điệp từ chen và hai vế đối: cỏ cây chen đá lá chen hoa. – Cảnh đẹp nhưng vẫn nhuốm màu buồn tẻ, quạnh hiu của một miền sơn cước. * Hai câu thực: + Câu thứ ba: Lom khom dưới núi tiều vài chú. – Đảo ngữ trong câu đặc tả dáng vẻ mấy tiều phu kiếm củi sườn núi, nhấn mạnh sự nhỏ bé, ít ỏi của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. + Câu thứ tư: Lác đác ven sông chợ mấy nhà. – Hình ảnh ngôi chợ là bộ mặt của cuộc sống một vùng nhưng ở đây, chợ chỉ là vài túp lều tranh xiêu vẹo ven sông. – Không khí vắng vẻ, quạnh hiu bao trùm lên cảnh vật. * Hai câu luận: + Câu thứ 5: Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc. – Tiếng cuốc kêu khắc khoải lúc chiều buông càng làm cho không gian thêm tĩnh lặng. – Có thể là tiếng cuốc kêu mà cũng có thể là tiếng vọng từ trong tâm tưởng hoài cổ của nữ sĩ đang nuối tiếc thời đại huy hoàng đã qua, thể hiện nỗi buồn trĩu nặng, khó nguôi ngoai. – Nghệ thuật đối câu (câu 5 >< câu 6) rất chỉnh, kết hợp với lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa tài tình (cuốc cuốc = quốc quốc); gia gia = quốc gia (nước nhà), tô đậm ý nghĩa tượng trưng của hai câu luận. – Điều băn khoăn lớn nhất của nữ sĩ không ngoài chuyện của quốc gia, của thời đại. * Hai câu kết: + Câu thứ 7: Dừng chân đứng lại, trời, non, nước. – Cảnh đẹp của đèo Ngang thật hùng vĩ, khiến nữ sĩ phải đừng chân để chiêm ngưỡng, để thu nhận vẻ đẹp kì diệu ấy vào tâm hồn. – Giữa cảnh vật và lòng người có nét tương phản: thiên nhiên cao rộng >< con người nhỏ bé. + Cậu thứ 8: Một mảnh tình riêng ta với ta. – Nét tương phận càng tô đậm sự cô đơn, buồn bã trong lòng người. – Nỗi buồn không thể san sẻ nên kết tụ lại trong lòng thành mảnh tình riêng, chỉ có ta với ta mà thôi. – Âm hưởng, nhịp điệu câu thơ giống như một tiếng thở dài ngậm ngùi, nuối tiếc. 3. Kết bài:
I. OUTLINE 1. Introduction: – Ngang Pass is the natural boundary separating Ha Tinh and Quang Binh provinces. This is also a famous natural landscape. – Many poets have written poems describing the scenery of Ngang Pass, the most famous of which is the poem Crossing Ngang Pass by Ba Huyen Thanh Quan. – The author composed this poem on the occasion of going from Thang Long to Hue to take up the position of Cung Trung Giao Tap (a female mandarin who teaches rituals to palace maids). – Behind the landscape painting is a feeling of loneliness and nostalgia for a glorious feudal era that has passed, never to return. 2. Body of the article: * Two questions: + The first sentence: Go to Ngang pass, the shadow is fading. – The moment the female artist arrived at Ngang Pass, dusk began to fall. – Scenery can easily evoke sadness in the traveler's heart. + Second sentence: grass and trees overlap rocks, leaves overlap flowers. – Describe the wild, vibrant natural scenery of Ngang Pass through the adjective chen and two opposite clauses: grass, trees, stones, leaves, flowers. – The scene is beautiful but still tinged with the dull, lonely color of a mountainous region. * Two real sentences: + Third sentence: Crouch under the mountain to pray a few notes. – The anagram in the sentence describes the appearance of the woodcutters gathering firewood on the mountainside, emphasizing the smallness and meagerness of humans in front of the majestic nature. + Fourth sentence: There are a few houses scattered along the riverside. – The image of the market is the face of life in a region, but here, the market is just a few ramshackle thatched huts along the river. – A deserted, lonely atmosphere covers the landscape. * Two essays: + Sentence 5: Remembering the water hurts the hoe. - The sound of the hoe making an anxious sound in the late afternoon makes the space even more quiet. – It could be the sound of a hoe, or it could also be an echo from the nostalgic mind of a female artist who is regretting the past glorious era, expressing a heavy sadness that is difficult to appease. – The art of parallel sentences (sentence 5 >< sentence 6) is very precise, combined with a clever play on words with different homophones and different meanings (hoe hoe = national country); gia gia = country (home country), highlighting the symbolic meaning of the two sentences. – The female artist's biggest concern is not only about the country and the era. * Two concluding sentences: + Verse 7: Stop and stand, sky, mountains, water. – The beauty of Ngang Pass is so majestic that the female artist has to stand still to admire it, to absorb that magical beauty into her soul. – There is a contrast between the landscape and the human heart: tall and wide nature >< small people. + The 8th boy: A piece of love between you and me. – Fate deepens the loneliness and sadness in people's hearts. – Sadness cannot be shared, so it coalesces in the heart into a separate piece of love, only you and me. – The sound and rhythm of the verse are like a sigh of sadness and regret. 3. Conclusion:
Bài làm Nhà thơ Xuân Diệu rất mê Hồ Xuân Hương. Ông đã dành nhiều thời gian để thưởng thức, nghiên cứu thơ Xuân Hương và rất tâm đắc với cái biệt danh mà ông đặt cho nhà thơ này: Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nổi tiếng của nước ta vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, cùng thời với đại thi hào Nguyễn Du. Chế độ phong kiến ở giai đoạn suy tàn đã bộc lộ mặt trái đầy xấu xa, tiêu cực. Là người giàu tâm huyết với con người và cuộc đời, Hồ Xuân Hương đã gửi gắm vào thơ những điều suy tư trăn trở trước hiện thực phức tạp của xã hội, trước số phận bất hạnh của con người, nhất là phụ nữ. Bài thơ Bánh trôi nước phản ánh thân phận đau khổ, phụ thuộc của người phụ nữ và ngợi ca phẩm chất cao quý của họ. Bánh trôi là thứ bánh quen thuộc, dân dã của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gạo nếp xay thành bột nhuyễn, lọc cho mịn, để thật ráo rồi bẻ thành từng miếng nhỏ, nặn cho tròn, nhân làm bằng đường thẻ có màu nâu đỏ. Cho bánh vào nồi nước sôi, luộc chín, vớt ra nhúng sơ vào nước lạnh rồi xếp vào đĩa. Lúc nguội, bánh ăn dẻo và thơm ngọt. Người xưa cho rằng đây là thứ bánh tinh khiết, có thể dùng để cúng. (Mùng 3 tháng 3 Âm lịch có tục cúng trời đất, tổ tiên bằng bánh trôi, bánh chay và hoa quả). Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật (giống như Quả mít, Cái quạt, Con ốc nhồi…) Hồ Xuân Hương chịu ảnh hưởng sâu sắc của cách diễn đạt trong thơ ca dân gian: Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Chiếc bánh trôi vừa trắng, vừa tròn, thật đẹp đẽ, đáng yêu nhưng đằng sau những chi tiết rất thực ấy lại là điều Hồ Xuân Hương muốn nói người phụ nữ và thân phận họ. Xưa nay, phụ nữ được gọi là phái đẹp, là tinh hoa của tạo hóa. Bởi vậy, nhìn chiếc bánh trôi nước xinh xắn, ta dễ liên tưởng đến vẻ đẹp trong trắng của người con gái đang xuân. Cũng giống như chiếc bánh trôi bao lần chìm nổi, người phụ nữ xưa phải chịu số phận bảy nổi ba chìm trong xã hội trọng nam khinh nữ đầy bất công. Lễ giáo phong kiến đã tước đoạt quyền tự do, buộc họ phải sống lệ thuộc vào người khác. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Đã vậy, những thế lực đen tối luôn đẩy họ vào nghịch cảnh đau thương. Người phụ nữ trong thơ Xuân Hương cũng cùng chịu chung số phận với người phụ nữ trong thơ Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung! Không được làm chủ số phận của mình, người phụ nữ nào có khác chi chiếc bánh trôi ngon hay dở là do tay kẻ làm ra nó: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn. Nhưng điều đáng nói lại là chuyện khác, chuyện tấm lòng son. Nhân bánh trôi làm bằng đường thẻ màu nâu sẫm. Khi bánh chín lớp vỏ bằng bột nếp có màu trắng trong, nhìn thấy rõ màu của nhân. Ví nhân bánh như tấm lòng son thì cái ẩn ý mà tác giả muôn gửi gắm đã bộc lộ ra. Hồ Xuân Hương muốn khẳng định rằng dù có bị chà đạp, vùi dập, dù cuộc đời có ba chìm bảy nổi đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ nguyên vẹn phẩm giá cao quý của mình. Cách nói khiêm nhường mà chứa đựng một ý chí kiên định biết chừng nào. Đồng thời nó như một lời thách thức ngấm ngầm mà quyết liệt với cả xã hội phong kiến bạo tàn: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Assignment Poet Xuan Dieu loved Ho Xuan Huong very much. He spent a lot of time enjoying and studying Xuan Huong's poetry and was very fond of the nickname he gave this poet: The Queen of Nom poetry. Ho Xuan Huong was a famous poet of our country in the late 18th and early 19th centuries, at the same time as the great poet Nguyen Du. Feudalism in its decline stage has revealed its ugly and negative side. As a person rich in enthusiasm for people and life, Ho Xuan Huong has put into his poetry his thoughts and concerns about the complex reality of society and the unfortunate fate of people, especially women. The poem Banh Troi Nuoc reflects the suffering and dependent status of women and praises their noble qualities. Banh troi is a familiar, rustic cake of the Northern Delta. Grind glutinous rice into a puree, filter until smooth, drain thoroughly, then break into small pieces, shape them into round shape, the filling is made of red brown brown sugar. Put the cake in a pot of boiling water, boil until cooked, take it out, dip it in cold water and put it on a plate. When cooled, the cake is chewy and fragrant. Ancient people believed that this was a pure cake that could be used for worship. (On the 3rd day of the 3rd lunar month, there is a custom of worshiping heaven, earth, and ancestors with floating cakes, vegetarian cakes, and fruits). The poem Banh Troi Nuoc belongs to the poetic genre (like Jackfruit, Fan, Stuffed Snail...). Ho Xuan Huong is deeply influenced by expressions in folk poetry: Your body is both white and round, Seven floating sunken with water. The floating cake is both white and round, so beautiful and lovely, but behind those very real details is what Ho Xuan Huong wants to say about women and their fate. Since ancient times, women have been called beauty, the quintessence of creation. Therefore, looking at the lovely floating cake, we can easily think of the pure beauty of a girl in spring. Just like a floating cake that has many ups and downs, women in the past had to endure the fate of ups and downs in a society that favors men and is full of injustice. Feudal rituals deprived them of their freedom, forcing them to live dependently on others. At home, obey the father, when married, follow the husband, and the husband obeys the son. In addition, dark forces always push them into painful adversity. The woman in Xuan Huong's poem also suffers the same fate as the woman in Nguyen Du's poem: How painful is the fate of women, The words that fate is bad are also common words! Not being able to control her own destiny, a woman is no different from a cake that is good or bad depending on the hand of the person who made it: The snake is crushed even if the person molds it. But what is worth mentioning is another story, the story of a good heart. The filling for the cake is made of dark brown sugar. When the cake is cooked, the crust made of glutinous rice flour is clear white, the color of the filling is clearly visible. Comparing the cake filling to a red heart, the hidden meaning that the author wants to convey is revealed. Ho Xuan Huong wants to affirm that no matter how much she is trampled on, crushed, no matter how ups and downs life brings, a woman still retains her noble dignity. What a humble way of speaking that contains such a steadfast will. At the same time, it is like a secret yet fierce challenge to the entire brutal feudal society: The snake is crushed even if it is molded by one's hands,
Bài làm Chinh phụ ngâm khúc hay còn gọi là Chinh phụ ngâm có nghĩa là khúc ngâm về nỗi lòng sầu thương, nhớ nhung của người vợ trẻ có chồng ra trận, được Đặng Trần Côn người làng Nhân Mục (còn gọi là làng Mọc) nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội, sáng tác vào khoảng thời gian từ 1741 – 1742. Thời kì này, chế độ phong kiến đang lâm vào tình trạng rối ren, suy thoái. Các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra khắp nơi. Triều đình ra sức đàn áp, gây nên cảnh nổi da xáo thịt, nhân dân đau khổ, đất nước rối loạn, kinh thành náo động. Trước hoàn cảnh đó, trái tim đa cảm của nhà thơ quặn thắt bởi nỗi đau sinh li tử biệt. Ông đã dùng ngòi bút để bày tỏ sự thông cảm và xót thương chân thành, làm rung động lòng người. Chinh phụ ngâm khúc nguyên bản được viết bằng chữ Hán, sau đó được nhiều người dịch Nôm. Bản diễn Nôm trong sách Ngữ văn 7 từng được xem là của Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748), một phụ nữ tài sắc, người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, sống cùng thời với Đặng Trần Côn. Nhưng lại có ý kiến cho là của nhà nho Phan Huy Ích. Cả nguyên tác và bản diễn Nôm đều được đánh giá là kiệt tác trong lịch sử văn học Việt Nam. Nội dung khúc ngâm là tiếng nói ai oán đối với chiến tranh của người chinh phụ, nhưng chung quy chỉ có sầu với nhớ và hết nhớ lại sầu. Nghệ thuật độc đáo của khúc ngâm là miêu tả rất tinh tế diễn biến phức tạp của tâm trạng nhân vật mà không hề lặp lại một cách đơn điệu, nhàm chán. Đoạn trích sau đây phản ánh diễn biến tâm trạng của người vợ trẻ trong phút chia li. Đây là đoạn hay nhất, thể hiện tập trung nhất tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của nhà thơ: Chàng thì đi cõi xa mưa gió, Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn: Đoái trông theo đã cách ngăn, Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại, Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thay xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?… Đoạn trích gồm ba khổ, có thể chia làm ba phần. Phần một tả tâm trạng của người vợ trẻ sau phút chia li. Phần hai tả nỗi nhớ thương sầu muộn ở mức độ cao hơn. Phần ba tả nỗi nhớ thương lên đến cực điểm, không thể nào nguôi. Bốn câu thơ đầu thể hiện tâm trạng chơi vơi, buồn bã của người vợ trẻ qua nghệ thuật đối rất chỉnh: Chàng thì đi cõi xa mưa gió, Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn. Đoái trông theo đã cách ngăn, Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Chàng thì đi thiếp thì về, hai người hai ngả ngược chiều nhau, mỗi lúc mỗi xa. Thực trạng cuộc chia li đã diễn ra. Chàng thì đi vào cõi xa mưa gió, thiếp thì về với cảnh phòng không chiếc bóng, vò võ năm canh. Bao nhiêu gian truân, vất vả, thậm chí hiểm nguy đối với người ra đi chứa đựng trong mấy từ cõi xa mưa gió rất giàu khả năng gợi tả. Có cái gì đó thật chông chênh, khó lường. Mưa gió trên con đường thiên lí mịt mù phải chăng cũng là mưa gió trong lòng cả kẻ ở lẫn người đi?! Không thể đoán định được những gì đang chờ đợi khách chinh phu ở phía trước, nhưng điều dễ nhận biết là công danh thì hão huyền còn chết chóc lại là hiện thực, một hiện thực nghiệt ngã phũ phàng, khó bề tránh khỏi. Người đi đã khổ, kẻ ở cũng chẳng sung sướng gì. Rồi đây, khi thiếp trở về buồng cữ chiếu chăn vẫn vương vân hơi ấm nồng nàn của tình chồng vợ thì tình cảnh ấy như trêu ngươi, như xoáy vào nỗi đau li biệt đang rớm máu trong lòng chinh phụ. Kể từ đây, nàng sẽ vò võ cô đơn suốt những tháng năm xa cách đầy lo lắng, đợi chờ và hi vọng. Nỗi sầu sinh li tràn ngập cõi lòng người ở lại và dường như thấm cả sang đất trời, cây cỏ. Bóng dáng người đi đã nhạt nhòa, khuất lấp. Cố dõi mắt đoái trông thì cũng chỉ thấy mây biếc, núi xanh trải dài vô tận như nỗi buồn không thể nguôi ngoai. Cách ngăn đã là sự thật khắc nghiệt và nỗi sầu chia li tưởng như đã phủ lên màu biếc của mây, màu xanh của núi. Hình ảnh mây biếc, núi xanh trập trùng có tính ước lệ thường thấy trong thơ cổ đã được cảm xúc chân thành của người trong cuộc làm cho sống động, tự nhiên. Bốn câu thơ tiếp theo tiếp tục miêu tả nỗi nhớ nhung, sầu muộn ở mức độ cao hơn. Đó là nỗi nhớ dằng dặc nối hai đầu xa cách: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại, Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Tác giả vẫn khai thác triệt đế thế mạnh của nghệ thuật đối trong những câu thơ bảy chữ: Chốn Hàm Dương >< Bến Tiêu Tương, chàng còn ngoảnh lại >< thiếp hãy trông sang. Kết hợp với cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ và đảo ngữ rất uyển chuyển ở cặp câu lục bát: Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Tạo thành một cấu trúc khép kín, gợi tình cảm tha thiết, quyến luyến không rời. Trong mấy câu thơ trên tuy có cả con người cùng cảnh vật và tướng như rất thật, nhưng thực ra đây chỉ là bức tranh tâm cảnh. Nhà thơ mượn cảnh để nói đến sự xa xôi, trở ngại về mặt địa lí và thể hiện tâm trạng nhớ nhung, khắc khoải đang chất chứa trong lòng nhân vật. Đồng thời cũng gửi gắm vào đó thái độ bất bình trước cảnh đau lòng: những đôi lứa trẻ trung đang đầm ấm sum vầy bên nhau, chỉ vì chiến tranh mà phải chia li và biết đâu lại là chia li mãi mãi. Hạnh phúc gia đình của họ liệu có vẹn toàn sau bao ngày binh lửa?! Nỗi bất bình trên chính là tiếng nói gián tiếp lên án chiến tranh phi nghĩa của riêng tác giả và của chung nhân dân ta thời bấy giờ. Nếu ở khổ thơ trên, tác giả mới nói đến sự cách ngăn thì đến khổ này, sự cách ngăn đó đã là mấy trùng thăm thẳm. Có điều, sự chia li đã diễn ra trong khi tình cảm, tâm hồn vẫn gắn bó khăng khít. Nhà thơ không chỉ nói đến nỗi sầu chia li mà còn nói đến sự đời oái oăm, nghịch chướng: đôi vợ chồng trẻ muốn gắn bó mà không dược gắn bó, không muốn chia li mà lại phải chia li. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Khổ thơ cuối tiếp tục dùng phép đối, điệp ngữ, điệp ý (cùng trông, cùng chẳng thấy, ngàn dâu, ngàn dâu, xanh ngắt…) để gợi tả nỗi sầu thương tột độ trong lòng chinh phụ. Lối ngắt nhịp linh hoạt trong từng câu thơ: Cùng trồng lại / mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh / những mấy ngàn dâu, Ngàn dâu / xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? đã góp phần bộc lộ rõ hơn nỗi khắc khoải, xót xa đang vò xé tâm can người đi, kẻ ở. Vẫn là những động thái ban đầu: người ở lại dõi theo, người ra đi ngoảnh lại để kéo dài thêm cảm giác còn được gần nhau, để in sâu thêm hình ảnh của nhau trong tâm khảm… Nhưng giờ đây, sự xa cách chẳng thể lấy Cây Hàm Dương, Bến Tiêu Tương… để mà ước tính được nữa, cho nên mọi cố gắng đều vô vọng.
Assignment Chinh Phu Ngam Khuc, also known as Chinh Phu Ngam, means a song about the sadness and longing of a young wife whose husband went to war, now memorized by Dang Tran Con from Nhan Muc village (also known as Moc village). Thanh Xuan district, Hanoi, composed between 1741 and 1742. During this period, the feudal regime was in a state of confusion and decline. Peasant uprisings continuously broke out everywhere. The court tried its best to suppress it, causing chaos, people suffering, the country in turmoil, and the capital in turmoil. Faced with that situation, the poet's sentimental heart ached with the pain of life and death. He used his pen to express sincere sympathy and compassion, touching people's hearts. Chinh Phu Ngam Khuc was originally written in Chinese, then translated into Nom by many people. The Nom version in the book Literature 7 was once considered to be by Doan Thi Diem (1705 - 1748), a talented woman, from Giai Pham village, Van Giang district, Hung Yen province, who lived at the same time as Dang Tran Con. But there is an opinion that is attributed to the scholar Phan Huy Ich. Both the original work and the Nom version are considered masterpieces in the history of Vietnamese literature. The content of the song is the voice of the conqueror's wife lamenting the war, but in the end there is only sadness and remembering and no longer remembering sadness. The unique art of the poem is to delicately describe the complex developments of the character's mood without repeating it in a monotonous or boring way. The following excerpt reflects the evolution of the young wife's mood during the moment of separation. This is the best passage, the most concentrated expression of the poet's talent for describing the characters' inner thoughts: He went to a far away land of rain and wind, I went back to my old room and laid a blanket: Waiting and watching for a way to stop, Flowing with blue clouds, thousands of green mountains. In Ham Duong he still looked back, Ben Tieu Tuong, please look forward. Smoke Tieu Tuong is far from Ham Duong, Ham Duong tree is a few miles away from Tieu Tuong. Looking back but not seeing, Instead of green, there are thousands of strawberries. Thousands of green strawberries are all the same color, Whose heart is sadder than the other?... The excerpt consists of three stanzas, which can be divided into three parts. Part one describes the young wife's mood after the moment of separation. Part two describes nostalgia and sadness at a higher level. Part three describes a feeling of longing that reaches its peak and cannot be quenched. The first four lines of the poem express the young wife's despondent and sad mood through the art of very precise parallelism: He went to a far away land of rain and wind, I went back to my old room to get blankets. Waiting and watching for a way to stop, Flowing with blue clouds, thousands of green mountains. The guy goes out, the concubine comes back, the two of them go in opposite directions, each time they are farther and farther away. The reality of the separation has taken place. He went into a far away realm of rain and wind, and I returned to the scene of air defense with a shadow, practicing martial arts for five years. How many hardships, hardships, and even dangers for the departing person are contained in these words from a faraway world, rain and wind, which are rich in evocative ability. There is something very unsteady and unpredictable. Is it true that the rain and wind on the dim natural road are also the rain and wind in the hearts of both those staying and those traveling?! It is impossible to predict what lies ahead for the conquerors, but what is easy to recognize is that fame is illusory and death is a reality, a harsh, harsh reality that is difficult to avoid. Those who leave suffer, those who stay are not happy. Then, when I returned to my room to hide the blanket and blanket still lingering in the passionate warmth of husband and wife's love, that scene seemed to tantalize me, as if it focused on the bleeding pain of separation in my wife's heart. From now on, she will be lonely throughout the years of separation filled with worry, waiting and hope. The sadness of life filled the hearts of those left behind and seemed to seep into the earth, sky, and trees. The silhouette of the person walking has faded and disappeared. If you try to look closely, you can only see blue clouds and green mountains stretching endlessly like an inconsolable sadness. The barrier was the harsh truth and the sadness of separation seemed to cover the blue of the clouds and the green of the mountains. The conventional images of blue clouds and rolling green mountains often found in ancient poetry have been made vivid and natural by the sincere emotions of the people involved. The next four verses continue to describe longing and sadness at a higher level. It's a longing that connects two distant ends: In Ham Duong he still looked back, Ben Tieu Tuong, please look forward. Smoke Tieu Tuong is far from Ham Duong, Ham Duong tree is a few miles away from Tieu Tuong. The author still fully exploits the strength of parallel art in the seven-word verses: At Ham Duong >< Ben Tieu Tuong, you still look back >< I look over. Combined with the flexible use of alliteration, alliteration and anaphora in the pair of six-eight sentences: Ben Tieu Tuong is several miles away from Ham Duong, Cay Ham Duong is several kilometers away from Tieu Tuong. Forming a closed structure, evoking passionate feelings and inseparable attachment. In the above verses, although there are people, scenes and appearances that seem very real, in fact this is just a picture of the mind. The poet borrows the scene to talk about remoteness, geographical obstacles and express the feelings of longing and restlessness that are contained in the character's heart. At the same time, it also conveys in it an attitude of discontent at the heartbreaking scene: young couples who are warmly spending time together, only because of the war, they have to separate, and who knows, maybe they will be separated forever. Will their family happiness be complete after so many days of war?! The above dissatisfaction is the author's indirect voice condemning the unjust war and that of our people at that time. If in the above poem, the author only mentioned separation, then in this stanza, that separation is already several deep. However, the separation took place while emotions and souls were still closely linked. The poet not only talks about the sadness of separation but also about the sad and difficult life: the young couple wants to be together but cannot be attached, does not want to separate but has to separate. Looking back but not seeing, Seeing thousands of strawberries green and green. Thousands of green strawberries of different colors, Whose heart is sadder than the other? The last stanza continues to use parallelism, alliteration, and meaning (seeing the same, not seeing at the same time, thousands of strawberries, thousands of strawberries, green...) to describe the extreme sadness in the heart of the conqueror. Flexible rhythm in each verse: We replanted / but we didn't see it, Seeing the green / thousands of strawberries, Thousands of strawberries / the same green color, Whose heart is more sad than the other? has contributed to revealing more clearly the anxiety and sadness that is tearing the hearts of those who leave and those who stay. It's still the initial moves: those who stay and watch, those who leave look back to prolong the feeling of being close to each other, to further imprint each other's image in their hearts... But now, the separation is nothing. Can't use Ham Duong Tree, Ben Tieu Tuong... to estimate anymore, so all efforts are in vain.
Bài làm Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Gia đình đến lập nghiệp ở làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây và Nguyễn Trãi được sinh ra tại đây. Năm 1400, ông đậu thái học sinh và ra làm quan trong triều nhà Hồ. Sau đó tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, với vai trò quân sư bên cạnh chủ tướng Lê Lợi. Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, nhà quân sự thiên tài, nhà ngoại giao xuất chúng, nhà văn hóa, nhà thơ lỗi lạc. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quận trung từ mệnh tập… Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian hòa bình, ông cáo quan về sống ở Côn Sơn. Côn Sơn không chỉ là quê hương mà còn là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn Nguyễn Trãi. Côn Sơn ca vừa là bài ca thiên nhiên vừa là bài ca tâm trạng. Hai ý này hòa quyện thông nhất trong cảm xúc của thi nhân. Đoạn trích miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên nhưng vẫn thấm nhuần ý vị trữ tình của tâm trạng. Trong nguyên văn chữ Hán, Bài ca Côn Sơn được viết theo thể thơ khác nhưng bản dịch đã chuyển thành thể lục bát: Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm. Trong rừng thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn… Sự giao hòa tuyệt đối giữa con người với cảnh vật được thể hiện khá rõ trong đoạn thơ, qua đó phản ánh nhân cách thanh cao và tâm hồn phóng khoáng của Nguyễn Trãi. Trước hết, ta hãy thưởng thức giọng thơ sảng khoái, hứng khởi, bộc lộ qua các câu thơ tự do trong nguyên văn chữ Hán: Côn Sơn hữu tuyền, Kì thanh linh linh nhiên, Ngô dĩ vi cầm huyền, Côn Sơn hữu thạch, Vũ tẩy đài phô bích, Ngô dĩ vi đạm tịch. Nham trung hữu tùng, Vạn lí Thúy đồng đồng. Ngô ư thị hồ, Yến tức kỳ trung. Lâm trung hữu trúc, Thiên mẫu ấn hàn lục Ngô ư ngâm tiếu kì khắc. Nhịp thơ rộn rã như nhịp đàn, nhịp phách. Chính chất hào sảng trong tâm hồn thi sĩ đã tạo nên chất hào sảng của lời thơ. Gần trọn cuộc đời lo cho dân, cho nước, nhưng những năm cuối đời, Nguyễn Trãi lại phải sống trong sự đố kị, ghen ghét của đám nịnh thần. Vì vậy, khi trở về Côn Sơn, Nguyễn Trãi như con chim bằng sổ lồng tung cánh, cảm thấy mình thật sự tự do giữa trời cao đất rộng. Lúc này, ông mới được sống thật với chính mình, mới được là mình. Thi sĩ lúc dạo chơi, khi nằm nghỉ, khi chuyện trò tâm sự với những người nông dân áo vải, lúc cao hứng ngâm nga, vui say giữa rừng núi quê nhà. Phong thái nhà thơ thật giản dị, ung dung mà cũng thật cởi mở, chan hòa. Trong Bài ca Côn Sơn, cảnh vật thiên nhiên hiện lên với dòng suối trong chảy róc rách, rì rầm như tiếng đàn lúc khoan, lúc nhặt. Phiến đá phẳng phủ rêu xanh mướt, mịn như chiếu êm. Thông, tùng mọc như nêm, rừng trúc bạt ngàn màu xanh tươi mát. Qua nét vẽ tài hoa của ngòi bút Nguyễn Trãi, khung cảnh Côn Sơn hiện lên với những đặc điểm riêng biệt, không lẫn với bất cứ bức tranh sơn Thủy nào. Trong bài thơ, đại từ ta xuất hiện năm lần. Ta ở đây chính là Nguyễn Trãi. Ta nghe tiếng suối mà như nghe tiếng đàn. Ta ngồi trên đá lại tưởng ngồi chiếu êm. Ta nằm hóng mát, ta ngâm thơ nhàn… Giữa khung cảnh mơ mộng, hình ảnh của thi sĩ giống như một nhà hiền triết hoặc một Tiên ông đang đắm mình vào thiên nhiên tuyệt mĩ. Nguyễn Trãi vừa là thi sĩ rung cảm trước cái đẹp, vừa là họa sĩ vẽ vời phong cảnh hữu tình của Côn Sơn. Ông đã vẽ bức tranh Côn Sơn với cây, với suối, với nhân vật trữ tình là chính mình. Đồng thời, ông còn là một nhạc sĩ tài hoa, bằng những nốt nhạc bổng trầm, dệt nên Bài ca Côn Sơn du dương cuốn hút lòng người. Thiên nhiên Côn Sơn khoáng đạt và thanh tĩnh. Bao trùm lên tất cả là sắc lá xanh ngời. Ở đây có suối chảy rì rầm, có bàn đá rêu phơi, có rừng tùng, rừng trúc che ánh nắng mặt trời, tạo ra khung cảnh tao nhã cho thi nhân ngồi ngâm thơ nhàn một cách thú vị… Hình ảnh cây trúc, cây tùng trong văn chương, tượng trưng cho khí phách cứng cỏi của người quân tử: Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ đầy quyến rũ. Từ tiếng suối chảy róc rách, những tấm thảm rêu biếc, những tán thông kiêu hãnh, rừng trúc xanh tươi đều toát lên vẻ yên ả, đem lại sự thanh thản, bình yên cho tâm hồn. Bao lo lắng, phiền muộn của cuộc đời dường như được trút sạch, con người và thiên nhiên hòa làm một. Bức tranh Côn Sơn được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn được cảm nhận bằng cả trái tim. Người đọc nhận ra cái “tâm” trong sáng và cái tài độc đáo của thi nhân qua bài thơ này. Bóng dáng nhà thơ hiện lên mờ ảo, thấp thoáng. Dường như ông hòa lẫn vào suối, vào rêu, vào đá, vào thông, vào trúc. Cái bóng dáng ẩn hiện và tiếng ngâm thơ trầm bổng, ngân nga trong không gian ấy gần như đã thể hiện đúng hoàn cảnh và tâm trạng của Nguyễn Trãi lúc bấy giờ. Nếu như ở bốn câu đầu, cảnh thiên nhiên Côn Sơn được miêu tả khách quan thì ở các câu thơ sau, tác giả lại kín đáo lồng vào trong đó lời khuyên xuất thế. Khi Nguyễn Trãi cáo quan về quê, mọi người đều tưởng ông bất mãn, chán đời, lui vào ẩn dật để quên mình, quên đời… nhưng không phải vậy. Lê Thánh Tông hiểu lòng ông, mời ông ra làm việc, ông lại hăng hái về triều, gánh vác việc dân, việc nước. Trong biểu tạ ơn vua, Nguyền Trãi đã tự ví: Thần như con ngựa già còn ham rong ruổi… Nếu so sánh câu thơ: Côn Sơn có suối rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai của Nguyễn Trãi với câu thơ: Tiếng suối trong như tiếng hát xa của Hồ Chí Minh trong bài Cảnh khuya, chúng ta sẽ thấy cả hai đều là sản phẩm của tâm hồn thi sĩ tinh tế, cùng tưởng tượng tiếng suối giống như tiếng nhạc, tiếng hát tuyệt vời. Hai người cùng chung đề tài chung biện pháp nghệ thuật so sánh nhưng khác nhau ở vị thế lúc làm thơ.
Assignment Nguyen Trai (1380 - 1442), nicknamed Uc Trai, son of Nguyen Phi Khanh, originally from Chi Ngai commune, Chi Linh district, Hai Duong province. The family settled in Nhi Khe village, Thuong Tin district, Ha Tay province and Nguyen Trai was born here. In 1400, he passed the exam and became a mandarin in the Ho Dynasty. Then participated in the Lam Son uprising, as a military advisor next to General Le Loi. Nguyen Trai is a thinker, a military genius, an outstanding diplomat, a cultural writer, and a brilliant poet. He left behind a huge and rich literary career, including Binh Ngo Dai Cao, Duoc Trai Thi Tap, Quoc Am Thi Tap, Trung Tu Menh Tap Tap... The song Con Son (Con Son ca) was most likely composed during a time of peace when he retired to Con Son. Con Son is not only his homeland but also the land that nurtures Nguyen Trai's soul. Con Son Ca is both a nature song and a mood song. These two ideas blend together in the poet's feelings. The excerpt describes natural beauty but is still imbued with the lyrical meaning of the mood. In the original Chinese text, Song of Con Son is written in a different poetic form, but the translation has been converted into hexagram form: Con Son stream murmurs, I hear the sound of a harp in my ears. Con Son has moss-dried rocks, I sit on the rock like sitting on a soft mat. In the pine forest grows like a wedge, Find a shady place to go up and lie down. In the forest there is shade of bamboo, Under the cool green we recite leisurely poetry... The absolute harmony between people and the landscape is shown quite clearly in the poem, thereby reflecting Nguyen Trai's noble personality and liberal soul. First of all, let's enjoy the refreshing, exciting poetic voice, revealed through free verses in the original Chinese text: Con Son Huu Tuyen, Strangely pure and natural, Ngo Di Vi Cam Huyen, Con Son Huu Thach, Dance at the stage of pho bich, Ngo is very quiet. Lava in the middle and right parts, Van Ly Thuy agreed. Ngo U Thi Ho, Yen means middle period. Lam Trung Huu Truc, Heavenly mother presses cold green Ngo smiled strangely. The rhythm of the poem is as bustling as the rhythm of a guitar or a beat. It is the generosity in the poet's soul that creates the generosity of the poetry. Most of his life he cared for the people and the country, but in the last years of his life, Nguyen Trai had to live in the envy and jealousy of courtiers. Therefore, when returning to Con Son, Nguyen Trai was like a caged bird spreading its wings, feeling truly free in the wide sky and earth. At this time, he could live true to himself, be himself. The poet sometimes walks, sometimes lies down, confides with the cotton-clothed farmers, sometimes hums in high spirits, happily drunk in the mountains and forests of his hometown. The poet's style is simple and leisurely, but also very open and harmonious. In Con Son Song, the natural scenery appears with a clear stream flowing and murmuring like the sound of a guitar, sometimes drilling and picking. The flat stone slab is covered with green moss, as smooth as a soft mat. Pine and pine trees grow like wedges, and the bamboo forest is vast and fresh green. Through the talented drawing of Nguyen Trai's pen, the landscape of Con Son appears with unique characteristics, not to be confused with any other Thuy painting. In the poem, the pronoun ta appears five times. I am Nguyen Trai here. We hear the sound of a stream but it's like hearing the sound of a guitar. I sat on the rock and thought I was sitting on a soft mat. We lie in the cool air, we recite leisurely poetry... In the midst of a dreamy scene, the image of the poet is like a sage or a fairy immersing himself in the beauty of nature. Nguyen Trai is both a poet moved by beauty and a painter who paints the charming landscape of Con Son. He painted a picture of Con Son with trees, streams, and the lyrical character himself. At the same time, he is also a talented musician, with high and low notes, weaving the melodious Con Son Song that captivates people's hearts. Con Son's nature is spacious and peaceful. Covering everything is the bright green leaves. Here there are murmuring streams, stone tables with drying moss, pine forests and bamboo forests that shade the sunlight, creating an elegant setting for poets to sit and recite poetry in an enjoyable way... Images of bamboo trees, trees in literature, symbolizes the tough spirit of a gentleman: the humble cannot be moved, the powerful cannot be subdued. The poet immerses himself in the wild and charming nature. From the sound of the gurgling stream, the mossy carpets, the proud pine trees, and the green bamboo forest, all exude tranquility, bringing serenity and peace to the soul. All the worries and troubles of life seem to be washed away, people and nature become one. The Con Son painting was felt by Nguyen Trai not only with sight and hearing but also with the whole heart. Readers recognize the poet's pure "mind" and unique talent through this poem. The poet's silhouette appears dimly and faintly. He seemed to blend into the stream, into the moss, into the rocks, into the pine trees, into the bamboo. The hidden figure and the deep, humming sound of poetry reciting in that space almost accurately expressed Nguyen Trai's situation and mood at that time. If in the first four verses, the natural scene of Con Son is described objectively, in the following verses, the author discreetly inserts advice from the world. When Nguyen Trai returned to his hometown, everyone thought he was dissatisfied, bored with life, and retreated into seclusion to forget himself and life... but that was not the case. Le Thanh Tong understood his heart and invited him to work. He enthusiastically returned to the court and took charge of people's and country's affairs. In his expression of gratitude to the king, Nguyen Trai compared himself: I am like an old horse that still wants to roam... If we compare the verse: Con Son has a murmuring stream, I hear it like the sound of a harp in my ears by Nguyen Trai with the verse: The sound of the stream is as clear as Ho Chi Minh's distant singing in the song Late Night Scene, we will see both are all products of the delicate poet's soul, imagining the sound of streams as wonderful music and singing. The two of them share the same topic and the same artistic methods of comparison but are different in their positions when writing poetry.
Bài làm Trần Nhân Tông (1258 – 1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng khoan hòa, nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông thắng lợi vẻ vang (1285, 1288). Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đạo Phật, cuối đời, vào năm 1298, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần. Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ta được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục lại (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII). Phiên âm chữ Hán: Thiên Trường vãn vọng Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên, Bán vô bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lí ngưu quy tận, Bạch lộ song song phi hạ điền. Dịch nghĩa: Buổi chiều ở phủ Thiên Trường trông ra Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ, Cảnh vật bóng chiều chập chờn nửa như có nửa như không. Mục đồng lùa trâu về nhà tiếng sáo véo von Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng. Dịch thơ: Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có dường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. (Ngô Tất Tố dịch) Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là khung cảnh một vùng quê tĩnh lặng như muôn vàn cảnh quê khác lúc chiều buông. Chỉ đếm được vài đường nét: mấy mái nhà tranh thấp thoáng trong làn sương mờ mờ như khói; dăm trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo, dẫn trâu về chuồng; vài đôi cò trắng chao nghiêng cánh chấp chới liệng xuống đồng… Hai câu thơ đầu: Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên, Bán vô bán hữu tịch dương biên. (Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng, Bóng chiều man mác có dường không). Đây là cảnh hoàng hôn, sự vật trước xóm, sau thôn chìm dần vào màn sương đang từ từ buông xuống, hòa lẫn với những làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng chiều man mác, mọi vật thấp thoáng ẩn hiện, dường như có, dường như không. Bức tranh quê với những sắc màu quen thuộc của ánh tà dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh… chỗ đậm, chỗ nhạt cùng tiếng sáo véo von gợi cảm giác về một cuộc sống thanh bình đã trở lại sau bao năm binh lửa. Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt, rất giản dị, bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Tại sao như vậy? Bởi dân ta đã phải đổ xương máu, phải chịu bao đau thương, tang tóc mới giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc dữ xâm lược. Hai câu thơ cuối: Mục đồng địch lí ngưu quy tận, Bạch lộ song song phi hạ điền. (Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng). Nhà thơ đã lựa chọn được hai hình ảnh tiêu biểu cho cảnh đồng quê lúc chiều về: trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trầu về chuồng và cò trắng từng đôi sà xuống cánh đồng đã vắng bóng người.
Assignment Tran Nhan Tong (1258 - 1308) real name was Tran Kham, first son of King Tran Thanh Tong. After ascending the throne, he proved to be a famous king of tolerance, kindness and patriotism. He and his father led two resistance wars against the Yuan-Mongol invaders to glorious victories (1285, 1288). Originally a Buddhist and the founder of the Truc Lam Zen sect in the direction of Vietnamizing Buddhism, at the end of his life, in 1298, he became a monk and abbot at Yen Tu Pagoda (in present-day Quang Ninh province). King Tran Nhan Tong was also a cultural writer and a typical poet of the Tran dynasty. The poem Standing at Thien Truong palace looking at me in the afternoon was composed by him on a visit to his hometown. The kings of the Tran Dynasty built a palace called Thien Truong palace in their hometown to occasionally return to rest. Every time they returned there, the kings often left poems behind. Now, we still keep a few poems, including this one. The date of composition is not specifically recorded, but the poem was certainly born not long after the third victory over the Yuan-Mongol army, during the period when the peaceful life of the people was being restored (that is, around the 1980s). 90s of the 13th century). Chinese transliteration: Thien Truong Van Vows The back village, the front village, are quiet and peaceful, Selling non-living, selling pure and positive border. Enemies of shepherds retreat to the oxen, White road parallels Phi Ha Dien. Translation: In the afternoon, looking out from Thien Truong Palace The villages behind and before the villages are as dim as smoke, The flickering afternoon scene is half present and half nonexistent. The shepherd drove the buffalo home to the sound of a flute Each pair of white storks landed in the fields. Poetry translation: The front and back of the village are like smoke from a cage The darkness of the afternoon seems so strange The shepherds and buffaloes all returned home White storks flew into the fields in pairs. (Translated by Ngo Tat To) The poem describes the afternoon scene in Thien Truong palace. This is a scene of a quiet countryside like many other countryside scenes at dusk. Only a few outlines can be counted: a few thatched roofs flickering in the mist as dim as smoke; Several young shepherds perched on the backs of buffaloes, playing flutes and leading the buffaloes to the stable; A few pairs of white storks fluttered their wings and fluttered down to the fields... First two verses: The back village, the front village, are quiet and peaceful, Selling non-living, selling pure and positive border. (In front of the village, behind the village are like smoke from a cage, Does the afternoon shadow seem so long? This is a sunset scene, things in front of the village and behind the village gradually sink into the mist that is slowly falling, mingling with the smoke emanating from the kitchen roof. In the dark afternoon, everything appeared and appeared, seemingly present, seemingly not. The countryside painting with the familiar colors of the golden sunset still falling on the bamboo tops, purple mist, white storks, green rice... dark places, light places, and the sound of a flute evokes the feeling of a peaceful life. has returned after many years of war. The images in the poem are nothing special, very simple, ordinary but strangely touching. Why? Because our people had to shed blood, endure much pain and mourning to regain a peaceful life from the invaders. Last two verses: Enemies of shepherds retreat to the oxen, White road parallels Phi Ha Dien. (The shepherds and buffaloes have all returned White storks throw each pair into the fields). The poet has chosen two images that represent the countryside scene in the afternoon: a child herding a buffalo playing a flute to lead betel to the barn and a pair of white storks swooping down on the empty fields.
Bài làm Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Tương truyền, Lí Thường Kiệt sáng tác bài thơ này trong một trận quân ta chiến đấu chông quân Tống xâm lược. Tác giả không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một nhà thơ nổi tiếng. Cuối năm 1076, mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm đầu sang cướp nước ta. Quân ta dưới quyền chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm, chặn chân chúng lại ở phòng tuyến bên sông Như Nguyệt. Truyền thuyết kể rằng một đêm nọ, quân sĩ nghe văng vẳng trong đền thờ Trương Hông và Trương Hát (hai tướng quân của Triệu Quang Phục đã hi sinh vì nước) có tiếng ngâm bài thơ này. Điều đó ý nói thần linh và tổ tiên phù hộ cho quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ binh sĩ quyết tâm đánh tan quân giặc, buộc chúng phải rút lui nhục nhã vào tháng 3 năm 1077. Từ trước đến nay, người ta thường cho rằng vị tướng Lí Thường Kiệt làm bài thơ này với mục đích động viên khí thế binh sĩ của mình. Tất nhiên là thế, nhưng câu thứ tư (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm) lại rõ ràng là lời cảnh cáo quân giặc. Thì ra đối tượng nghe thơ không chỉ là quân ta mà còn là quân địch. Chính vì thế mà bài thơ được coi là một văn bản địch vận nhằm lung lay ý chí chiến đấu của đối phương. Tác giả khẳng định: Chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không gì có thể bác bỏ được. Dân tộc Việt bao đời nay đã kiên cường chiến đấu để giữ vững bờ cõi, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.Bài thơ Sông núi nước Nam thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh chính nghĩa của dân tộc ta có thể tiêu diệt bất kì kẻ thù hung bạo nào dám xâm phạm đến đất nước này. Vì thế mà nó có sức mạnh kì diệu cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta, làm khiếp vía kinh hồn quân xâm lược và góp phần tạo nên chiến thắng vinh quang. Tinh thần và sức mạnh của bài thơ toát ra từ sự khẳng định dứt khoát, mãnh liệt như dao chém cột. Bài thơ lưu lại từ xưa không có tựa đề. Các sách thường lấy mấy từ Nam quốc sơn hà trong câu đầu làm tựa đề cho bài thơ. (Dịch là Sông núi nước Nam): Sông núi Nam Việt vua Nam ở, Vằng vặc sách trời chìa xứ sở. Giặc dữ cớ sao phạm đến đây! Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Câu thứ nhất nêu lên chân lí: Sông núi Nam Việt vua Nam ở. Lẽ ra phải nói là dân Nam ở thì đúng hơn nhưng thời bấy giờ, vua đại diện cho quốc gia, dân tộc. Chân lí ấy thật đơn sơ, hiển nhiên nhưng nhân dân tã phải gian khổ đấu tranh bao đời chống ngoại xâm mới giành lại được. Từ khi nước nhà có chủ quyền cho đến năm 1076, dân tộc Việt đã nhiều lần khẳng định chân lí ấy bằng sức mạnh quân sự của mình. Lũ giặc phương Bắc quen thói hống hách, trịch thượng, luôn nuôi tham vọng cướp nước nên chúng khăng khăng không chấp nhận. Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đó. Tác giả xứng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận huyện tồn tại trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình (Nam quốc) ngang hàng với (Bắc quốc). Xưng vua Nam (Nam đế) cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay tự xứng là thiên tử (con trời), coi thường vua các nước chư hầu và gọi họ là vương. Các từ nước Nam, vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh, thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm chủ đất nước của dân tộc Việt. Đó không phải là lời nói suông. Chiến dịch tấn công ào ạt của quân ta vào căn cứ của quân cướp nước mấy tháng trước đó là một bằng chứng hùng hồn. Do đó, chân lí nói trên càng có cơ sở thực tế vững chắc. Ngày ấy, triều đình nhà Tống lấy cớ ta dám quấy nhiễu vùng biên ải nên phải dấy binh hỏi tội. Đầu năm 1076, quân ta đã tiêu diệt các căn cứ lương thảo, vũ khí, quân đội… chuẩn bị cho cuộc xâm lược của chúng ngay bên đất chúng. Cho nên chủ tướng họ Lí nhắc lại chân lí này để quân dân nước Nam đang chiến đấu nắm chắc thêm lưỡi gươm giết giặc, mặt khác để vạch trần bộ mặt phi nghĩa của quân thù và đánh mạnh vào tinh thần chúng. Câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Vằng vặc sách trời chia xứ sở) khẳng định chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trên sách trời. Sách trời đã chia cho vua Nam có riêng bờ cõi. Người xưa quan niệm rằng các vùng đất đai dưới mặt đất ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua nước đó. Điều đó là do trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh khiến cho chân lí nêu ở câu trên càng tăng thêm giá trị. Câu thơ thứ ba: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? (Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?) là câu hỏi đối với binh tướng giặc. Chủ quyền độc lập của nước Nam không chỉ là chuyện của con người mà còn là chuyện vằng vặc (rõ ràng, minh bạch) trên sách trời, không thể chối cãi, ai cũng phải biết, phải tôn trọng. Vậy cớ sao quân giặc kia lại dám xâm phạm tới? Câu hỏi thể hiện thái độ vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ của tác giả. Ngạc nhiên tại sao tướng sĩ của một nước tự xưng là thiên triều mà lại dám phạm tới lệnh trời? Khinh bỉ vì coi chúng là nghịch lỗ, tức lũ giặc cướp ngỗ ngược, ngang tàng. Gọi chúng là nghịch lỗ tức là tác giả đã đặt dân tộc Việt vào tư thế chủ nhà và tin rằng mình có đủ sức mạnh để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền độc lập. Tác giả tăng cường sức khẳng định cho chân lí hiển nhiên đã nêu ở trên bằng nghệ thuật đối lập giữa cái phi nghĩa của lũ giặc dữ với cái chính nghĩa của nước Nam và sự phân chia minh bạch ở sách trời. Câu thứ tư: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng mày nhất định phải tan vỡ), ý thơ vẫn tiếp tục thể hiện thái độ khinh bỉ quân giặc và niềm tin sắt đá vào chiến thắng tất yếu của quân ta. Ở trên, tác giả gọi quân xâm lược là giặc, là nghịch lỗ thì đến câu này, ông gọi đích danh như có chúng trước mặt: chúng mày. Cách xưng hô không khác gì người trên với kẻ dưới nhưng không hàm ý thân mật, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo chúng: nhất định phải tan vỡ. Y như là sự việc đã sắp đặt trước, chỉ chờ kết quả. Kết quả sẽ ra sao? Đó là chúng mày không chỉ thua, mà thua to và thất bại thảm hại. Mười vạn quân giặc do hai tướng giỏi chỉ huy, quân ta dâu phải dễ đánh bại nhưng, vì hành động của chúng phi nghĩa nên tất yếu chúng sẽ bại vong. Ngoài ý cảnh cáo giặc, câu thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh quân dân ta trên dưới đồng lòng và một niềm tự hào cao vút. Câu thơ nguyên văn bằng chữ Hán: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư có nghĩa là: Rồi xem, chúng bay sẽ tự chuốc lấy phần thất bại thảm hại. Thất bại ghê gớm của giặc là điều không thể tránh khỏi bởi chúng là kẻ dám xâm phạm tới điều thiêng liêng nhất của đạo trời và lòng người. Một lần nữa, chân lí về chủ quyền độc lập rất thuận lòng người, hợp ý trời của nước Nam đã được tác giả khẳng định bằng tạt cả sức mạnh của lòng yêu nước, căm thù giặc. Bài Thơ thần ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm vào một mục đích cụ thể. Cuộc đối đầu giữa quân ta và quân địch trước phòng tuyến sông Như Nguyệt đang ở thế gạy go ác liệt. Để tăng thêm sức mạnh cho quân ta và đánh một đòn chí mạng vào tinh thần quân địch, bài thơ ấy đã vang lên đúng lúc và được lan truyền nhanh chóng. Có thể tưởng tượng rằng lúc ấy quân dân ta như được hun đúc trong ánh lửa thiêng, máu sôi lên và khí thế giết giặc ngùn ngụt ngất trời.
Bài làm Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Tương truyền, Lí Thường Kiệt sáng tác bài thơ này trong một trận quân ta chiến đấu chông quân Tống xâm lược. Tác giả không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một nhà thơ nổi tiếng. Cuối năm 1076, mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm đầu sang cướp nước ta. Quân ta dưới quyền chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm, chặn chân chúng lại ở phòng tuyến bên sông Như Nguyệt. Truyền thuyết kể rằng một đêm nọ, quân sĩ nghe văng vẳng trong đền thờ Trương Hông và Trương Hát (hai tướng quân của Triệu Quang Phục đã hi sinh vì nước) có tiếng ngâm bài thơ này. Điều đó ý nói thần linh và tổ tiên phù hộ cho quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ binh sĩ quyết tâm đánh tan quân giặc, buộc chúng phải rút lui nhục nhã vào tháng 3 năm 1077. Từ trước đến nay, người ta thường cho rằng vị tướng Lí Thường Kiệt làm bài thơ này với mục đích động viên khí thế binh sĩ của mình. Tất nhiên là thế, nhưng câu thứ tư (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm) lại rõ ràng là lời cảnh cáo quân giặc. Thì ra đối tượng nghe thơ không chỉ là quân ta mà còn là quân địch. Chính vì thế mà bài thơ được coi là một văn bản địch vận nhằm lung lay ý chí chiến đấu của đối phương. Tác giả khẳng định: Chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không gì có thể bác bỏ được. Dân tộc Việt bao đời nay đã kiên cường chiến đấu để giữ vững bờ cõi, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.Bài thơ Sông núi nước Nam thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh chính nghĩa của dân tộc ta có thể tiêu diệt bất kì kẻ thù hung bạo nào dám xâm phạm đến đất nước này. Vì thế mà nó có sức mạnh kì diệu cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta, làm khiếp vía kinh hồn quân xâm lược và góp phần tạo nên chiến thắng vinh quang. Tinh thần và sức mạnh của bài thơ toát ra từ sự khẳng định dứt khoát, mãnh liệt như dao chém cột. Bài thơ lưu lại từ xưa không có tựa đề. Các sách thường lấy mấy từ Nam quốc sơn hà trong câu đầu làm tựa đề cho bài thơ. (Dịch là Sông núi nước Nam): Sông núi Nam Việt vua Nam ở, Vằng vặc sách trời chìa xứ sở. Giặc dữ cớ sao phạm đến đây! Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Câu thứ nhất nêu lên chân lí: Sông núi Nam Việt vua Nam ở. Lẽ ra phải nói là dân Nam ở thì đúng hơn nhưng thời bấy giờ, vua đại diện cho quốc gia, dân tộc. Chân lí ấy thật đơn sơ, hiển nhiên nhưng nhân dân tã phải gian khổ đấu tranh bao đời chống ngoại xâm mới giành lại được. Từ khi nước nhà có chủ quyền cho đến năm 1076, dân tộc Việt đã nhiều lần khẳng định chân lí ấy bằng sức mạnh quân sự của mình. Lũ giặc phương Bắc quen thói hống hách, trịch thượng, luôn nuôi tham vọng cướp nước nên chúng khăng khăng không chấp nhận. Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đó. Tác giả xứng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận huyện tồn tại trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình (Nam quốc) ngang hàng với (Bắc quốc). Xưng vua Nam (Nam đế) cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay tự xứng là thiên tử (con trời), coi thường vua các nước chư hầu và gọi họ là vương. Các từ nước Nam, vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh, thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm chủ đất nước của dân tộc Việt. Đó không phải là lời nói suông. Chiến dịch tấn công ào ạt của quân ta vào căn cứ của quân cướp nước mấy tháng trước đó là một bằng chứng hùng hồn. Do đó, chân lí nói trên càng có cơ sở thực tế vững chắc. Ngày ấy, triều đình nhà Tống lấy cớ ta dám quấy nhiễu vùng biên ải nên phải dấy binh hỏi tội. Đầu năm 1076, quân ta đã tiêu diệt các căn cứ lương thảo, vũ khí, quân đội… chuẩn bị cho cuộc xâm lược của chúng ngay bên đất chúng. Cho nên chủ tướng họ Lí nhắc lại chân lí này để quân dân nước Nam đang chiến đấu nắm chắc thêm lưỡi gươm giết giặc, mặt khác để vạch trần bộ mặt phi nghĩa của quân thù và đánh mạnh vào tinh thần chúng. Câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Vằng vặc sách trời chia xứ sở) khẳng định chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trên sách trời. Sách trời đã chia cho vua Nam có riêng bờ cõi. Người xưa quan niệm rằng các vùng đất đai dưới mặt đất ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua nước đó. Điều đó là do trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh khiến cho chân lí nêu ở câu trên càng tăng thêm giá trị. Câu thơ thứ ba: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? (Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?) là câu hỏi đối với binh tướng giặc. Chủ quyền độc lập của nước Nam không chỉ là chuyện của con người mà còn là chuyện vằng vặc (rõ ràng, minh bạch) trên sách trời, không thể chối cãi, ai cũng phải biết, phải tôn trọng. Vậy cớ sao quân giặc kia lại dám xâm phạm tới? Câu hỏi thể hiện thái độ vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ của tác giả. Ngạc nhiên tại sao tướng sĩ của một nước tự xưng là thiên triều mà lại dám phạm tới lệnh trời? Khinh bỉ vì coi chúng là nghịch lỗ, tức lũ giặc cướp ngỗ ngược, ngang tàng. Gọi chúng là nghịch lỗ tức là tác giả đã đặt dân tộc Việt vào tư thế chủ nhà và tin rằng mình có đủ sức mạnh để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền độc lập. Tác giả tăng cường sức khẳng định cho chân lí hiển nhiên đã nêu ở trên bằng nghệ thuật đối lập giữa cái phi nghĩa của lũ giặc dữ với cái chính nghĩa của nước Nam và sự phân chia minh bạch ở sách trời. Câu thứ tư: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng mày nhất định phải tan vỡ), ý thơ vẫn tiếp tục thể hiện thái độ khinh bỉ quân giặc và niềm tin sắt đá vào chiến thắng tất yếu của quân ta. Ở trên, tác giả gọi quân xâm lược là giặc, là nghịch lỗ thì đến câu này, ông gọi đích danh như có chúng trước mặt: chúng mày. Cách xưng hô không khác gì người trên với kẻ dưới nhưng không hàm ý thân mật, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo chúng: nhất định phải tan vỡ. Y như là sự việc đã sắp đặt trước, chỉ chờ kết quả. Kết quả sẽ ra sao? Đó là chúng mày không chỉ thua, mà thua to và thất bại thảm hại. Mười vạn quân giặc do hai tướng giỏi chỉ huy, quân ta dâu phải dễ đánh bại nhưng, vì hành động của chúng phi nghĩa nên tất yếu chúng sẽ bại vong. Ngoài ý cảnh cáo giặc, câu thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh quân dân ta trên dưới đồng lòng và một niềm tự hào cao vút. Câu thơ nguyên văn bằng chữ Hán: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư có nghĩa là: Rồi xem, chúng bay sẽ tự chuốc lấy phần thất bại thảm hại. Thất bại ghê gớm của giặc là điều không thể tránh khỏi bởi chúng là kẻ dám xâm phạm tới điều thiêng liêng nhất của đạo trời và lòng người. Một lần nữa, chân lí về chủ quyền độc lập rất thuận lòng người, hợp ý trời của nước Nam đã được tác giả khẳng định bằng tạt cả sức mạnh của lòng yêu nước, căm thù giặc. Bài Thơ thần ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm vào một mục đích cụ thể. Cuộc đối đầu giữa quân ta và quân địch trước phòng tuyến sông Như Nguyệt đang ở thế gạy go ác liệt. Để tăng thêm sức mạnh cho quân ta và đánh một đòn chí mạng vào tinh thần quân địch, bài thơ ấy đã vang lên đúng lúc và được lan truyền nhanh chóng. Có thể tưởng tượng rằng lúc ấy quân dân ta như được hun đúc trong ánh lửa thiêng, máu sôi lên và khí thế giết giặc ngùn ngụt ngất trời.
Bài làm Trong ca dao – dân ca, ngoài những câu hát yêu thương, tình nghĩa, những câu hát than thân… còn nhiều câu hát mang nội dung hài hước, châm biếm nhằm phơi bày các hiện tượng ngược đời, phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười trong xã hội. Dưới đây là những bài được phổ biến rộng rãi trong dân gian: 1. Cái cò lặn lội bờ ao, Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng? Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Ngày thì ước những ngày mưa, Đèm thì ước những đêm thừa trống canh. 2. Số cô chẳng giàu thì nghèo Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà Số cô có mẹ có mẹ có cha Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. 3- Con cò chết rũ trên cây, Cò con mở lịch xem ngày làm ma. Cà cuống uống rượu la đà, Chim ri ríu rít bò ra lấy phần, Chào mào thì đánh trống quân, Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao. 4. Cậu cai nón dấu lông gà, Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Ba năm được một chuyến sai, Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê Những câu hát châm biếm trên phê phán các thói hư tật xấu qua một số hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và qua lối nói trào lộng gây cười. Bài thứ nhất là lời giới thiệu, quảng cáo về nhân vật chú tôi. Chân dung của người chú là bức biếm họa được vẽ toàn bằng những nét giễu cợt, mỉa mai. Hai câu mở đầu: Cái cò lặn lội bờ ao, Hỡi cô yểm đào lấy chú tôi chăng làm nhiệm vụ bắt vần và chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật.
Assignment In folk songs - folk songs, in addition to songs of love, gratitude, songs of self-pity... there are also many songs with humorous and satirical content to expose paradoxical phenomena and criticize bad habits. bad, laughable types of people and phenomena in society. Below are articles that are widely popular among the people: 1. The stork wades around the pond, Hey girl, will you marry my uncle? My uncle likes to drink alcohol and drink toothpicks, Or strong tea, or lying down for a nap. Every day I wish for rainy days, If you are hungry, you wish for the nights of empty soup. 2. If you're not rich, you're poor On the thirtieth day of the Lunar New Year, meat is hung in the house She has a mother, a mother, and a father Her mother is a woman, her father is a man. The number of women who have wives and husbands, When giving birth to your first child, it's either a girl or a boy. 3- The stork drooped on a tree, The little stork opened the calendar to see the day of the ghost. Ca Cuong drinks La Da wine, Birds chirping and crawling out to get their share, To greet the crest, beat the military drum, The warbler stripped naked and carried a bill to advertise. 4. He removed his hat and marked it with chicken feathers, The finger wearing the ring is called the finger. One trip every three years, Borrowed short shirts, rented long pants The above satirical songs criticize bad habits through a number of metaphorical and symbolic images and through humorous and satirical speech. The first article is an introduction and advertisement for my uncle's character. The uncle's portrait is a caricature drawn entirely with mockery and irony. The two opening sentences: The stork waded around the pond, Oh the peach girl, take my uncle to do the rhyming task and prepare for character introduction.
Bài làm Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay. Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu: 1. Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? 2. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. 3. Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu? Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ. Câu 1: Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy. Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình: Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời. Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu; Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn cho gầy cò con? Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?! Cao hơn ý nghĩa một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị. Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến: Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kều ra máu có người nào nghe. Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khó. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí nào soi tỏ. Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm. Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi thương tâm gây xúc động thấm thía. Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để cho con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy Ị người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng có. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát. Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt? Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý. Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, thương phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng. Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam. Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.
Bài làm Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước… mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay. Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa, phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu: 1. Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? 2. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. 3. Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu? Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần…). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay… Thân em như… và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ. Câu 1: Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy. Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh cò lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò giang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn… Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình: Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao nỗi éo le ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời. Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu; Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn cho gầy cò con? Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào cảnh bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thống trị trong xã hội cũ luôn muốn dồn người bị trị vào bước đường cùng?! Cao hơn ý nghĩa một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị. Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận của người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến: Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kều ra máu có người nào nghe. Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khó. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương tháy con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm nỗi khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí nào soi tỏ. Bốn câu ca dao – bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và nỗi xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những nỗi thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng cao thêm. Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,…) bởi cho rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiến cho những nỗi thương tâm gây xúc động thấm thía. Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để cho con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc… những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn lá dâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm Bé nhỏ kia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy Ị người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng có. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát. Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt? Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói lên nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thinh không mà nào có ai để ý. Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay… Thương thay…) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, thương phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng. Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sông nước miền Nam. Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mụ u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.
Bài làm Đoàn kết là cội nguồn của sức mạnh và chiến thắng. Bởi vậy, từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã chú trọng đến việc giáo dục tinh thần đoàn kết qua những huyền thoại đẹp như Sự tích trăm trứng, Quả bầu mẹ… Thiêng liêng thay là ý nghĩa của hai tiếng đồng bào. Nó khẳng định tất cả các dân tộc sinh sống trên non sông đất nước này đều do cùng một mẹ sinh ra. Bài học về đoàn kết còn được gửi gắm trong những câu ca dao làm rung động lòng người: Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng. Câu ca dao trên là một chân lí lớn lao về truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc. Sự gắn bó của tình giai cấp, nghĩa đồng bào được đem so sánh với miếng nhiễu điều (một loại lụa quý màu đỏ, dệt từ tơ tằm) phủ trên chiếc giá gương (chiếc khung để gắn gương soi). Miếng nhiễu ấy che phủ cho tấm gương khỏi bụi, mãi mãi sáng trong. Tấm gương kia cũng làm tôn thêm vẻ đẹp, vẻ quý của miếng nhiễu điều. Hai vật ấy luôn luôn khăng khít bên nhau, bổ sung giá trị cho nhau. Ý nghĩa câu ca dao không dừng ở đó. Sâu xa hơn, nó chứa đựng một lời khuyên nghĩa tình thắm thiết: Người trong một nước phải thương nhau cùng. Sống trên đất nước này, dù người trên rừng, kẻ dưới biển, dù người Kinh hay người Thượng, chúng ta phải luôn nhớ rằng mình là con của một mẹ sinh ra, đều là con cháu dòng giống Lạc Hồng. Đó chính là sợi đây vô hình mà hết sức thiêng liêng nối kết các thành viên trong cộng đồng để tạo nên xã hội. Trong cuộc đời, không ai có thể tồn tại được nếu sống cách biệt với mọi người. Tách mình ra khỏi quan hệ ràng buộc với gia đình, giai cấp và dân tộc thì chẳng khác nào tự tiêu diệt vì cá nhân không thể làm nên sức mạnh. Chỉ có một cộng đồng thống nhất về ý chí, gắn bó chặt chẽ về quyền lợi mới tạo nên được sức mạnh dựng nước và giữ nước, mới sáng tạo ra những của cải vật chất, tinh thần làm giàu cho xã hội. Bài học đoàn kết đã được chứng minh qua thực tế mấy ngàn năm lịch sử của nước ta. Trải qua bao cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, sức mạnh của truyền thống đoàn kết đã tạo nên những chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh,… Dân tộc Việt Nam nhờ đoàn kết mà tồn tại và không ngừng phát triển. Đoàn kết trong thời chiến để giữ nước, đoàn kết trong thời bình để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Nhận thức ấy phải được thấm sâu vào mỗi con người. Chúng ta là con một cha, nhà một nóc, Thịt với xương, tim óc dính liền (thơ Tố Hữu). Thương yêu, cưu mang giúp đỡ nhau trong lúc yên vui cũng như trong cơn hoạn nạn, ấy là đạo lí làm người – là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Assignment Unity is the source of strength and victory. Therefore, since ancient times, our ancestors have focused on educating the spirit of solidarity through beautiful legends such as The Accumulation of a Hundred Eggs, The Mother Gourd... Sacred is the meaning of the two words compatriot. It affirms that all ethnic groups living in this country are born from the same mother. The lesson of solidarity is also conveyed in folk songs that touch people's hearts: Government interference that takes the mirror People in a country to trade together. The above folk song is a great truth about the precious solidarity tradition of the nation. The attachment of class and compatriotism is compared to the piece of diam dieu (a precious red silk, woven from silk) covering the mirror stand (the frame to mount the mirror). That piece of noise covers the mirror from dust, forever shining. The mirror also enhances the beauty and preciousness of the cashew nut. These two things are always close together, complementing each other's values. The meaning of the folk song does not stop there. More deeply, it contains a heartfelt advice: People in a country must love each other. Living in this country, whether we are in the forest, in the sea, whether we are Kinh or Montagnard, we must always remember that we are children of the same mother, we are all descendants of the Lac Hong lineage. That is the invisible but extremely sacred thread that connects members of the community to create society. In life, no one can survive if they live separately from everyone else. Separating oneself from ties with family, class and nation is tantamount to self-destruction because the individual cannot create strength. Only a community united in will and closely linked in interests can create the strength to build and defend the country, and create material and spiritual wealth to enrich society. The lesson of solidarity has been proven through thousands of years of our country's history. Through many battles against foreign invaders, the strength of the tradition of solidarity has created glorious victories such as Bach Dang, Chi Lang, Dong Da, Dien Bien Phu, Ho Chi Minh campaign,... Vietnamese people Thanks to solidarity, we exist and continuously develop. Unite in wartime to protect the country, unite in peacetime to build an increasingly rich and strong country. That awareness must be deeply penetrated into every person. We are children of one father, one house, one roof, Flesh and bone, heart and brain connected (poem To Huu). Loving, supporting and helping each other in times of happiness as well as in times of trouble is the morality of being human - a good tradition of the Vietnamese people.
Bài làm: Từ ngàn xưa, con người đã nhận thức được rằng để có thể tồn tại và phát triển cần phải đoàn kết. Có đoàn kết mới vượt qua được những trở lực ghê gớm của thiên nhiên, xã hội… Chính vì thế, ông cha ta đã khuyên con cháu phải đoàn kết bằng câu ca dao giàu hình ảnh: Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Đoàn kết tạo ra sức mạnh, giúp ta làm nên những công việc lớn lao. Thực tế cuộc sống chiến đấu và lao động của dân tộc ta từ xưa đến nay đã chứng minh hùng hồn điều đó. Đất nước Việt Nam có được như ngày hôm nay là do đâu? Non sông Việt Nam ta đẹp đẽ như ngày hôm nay là nhờ đâu? Phải chăng chính là nhờ tinh thần đoàn kết tương trợ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau của nhân dân ta từ Nam chí Bắc, mấy chục triệu người chung một lòng, chung một chí hướng đánh giặc. Trải qua mấy chục thế kỉ, đất nước ta nhiều lần bị các triều đại phong kiến phương Bắc như Tống, Nguyên, Minh, Thanh… xâm lược. Chúng muốn cướp đất nước ta, bắt nhân dân ta làm nô lệ. Chúng ỷ quân đông, thế mạnh, mưu đồ thống trị lâu dài nhưng dân tộc ta đã đoàn kết vùng dậy đấu tranh, làm nên chiến thắng. Đế quốc Nguyên – Mông nức tiếng hùng mạnh, đi đến đâu cỏ không mọc được đến đấy, đã từng thu phục bao nhiêu chư hầu, nhưng ba lần xâm lược nước ta là ba lần đại bại. Quân dân nhà Trần đoàn kết nhất trí, đồng tâm giết giặc. Từ các vị bô lão trong hội nghị Diên Hồng đến thiếu niên Trần Quốc Toản, từ lão tướng Trần Hưng Đạo đến chàng trai đan sọt làng Phù ủng… Tất cả đều đồng lòng Sát Thát và đã làm nên chiến thắng oanh liệt muôn đời. Đến thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam tuy đất không rộng, người không đông nhưng đã đánh bại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Nếu chỉ tính sức mạnh quốc gia bằng sự giàu có, bằng trình độ kĩ thuật hiện đại, bằng vũ khí tối tân, bằng số lượng binh lính… thì Việt Nam ta đã tiến hành một cuộc chiến tranh không cân sức. Nhưng nhân dân ta đã đoàn kết thành một khối bền vững, cùng nhau chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, dân tộc ta đã đoàn kết với các dân tộc yêu lẽ phải trên khắp năm châu, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp và Mỹ… Vì thế, chúng ta đủ sức mạnh để làm nên chiến thắng vĩ đại. Trong cuộc sống lao động, đoàn kết cũng giúp ta có sức mạnh phi thường. Nhìn con đê bên bờ sông Hồng làm nhiệm vụ ngăn lũ lụt cho cả vùng châu thổ Bắc Bộ, bảo vệ vựa lúa nuôi sống bao người, ta càng thấy rõ sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Công trình thủy điện sông Đà đưa ánh sáng đến cho mọi nhà không thể náo hoàn thành được nếu thiếu bàn tay, khối óc của hàng vạn kĩ sư, công nhân Việt Nam và chuyên gia các nước bạn. Những giàn khoan trên biển Đông đưa dầu khí lên làm giàu cho đất nước cũng là công trình của sức mạnh đoàn kết. Chúng ta có thể kể thêm rất nhiều ví dụ khác nữa để chứng minh.
Assignment: Since ancient times, people have been aware that in order to survive and develop, they need to unite. Only with unity can we overcome the formidable obstacles of nature and society... That is why our ancestors advised their children to unite with a folk song rich in images: A tree should not make premature Three trees gathered together form a high mountain. Unity creates strength, helping us do great things. The reality of our nation's fighting and working life from past to present has eloquently proven that. Why is the country of Vietnam what it is today? Why are our Vietnamese rivers as beautiful as they are today? Is it possible that it is thanks to the spirit of solidarity, mutual support, love and mutual support of our people from South to North, tens of millions of people with the same heart and the same direction to fight the enemy. Over the past several decades, our country was repeatedly invaded by Northern feudal dynasties such as the Song, Yuan, Ming, Qing... They want to rob our country and enslave our people. They relied on their large army, their strength, and their plans for long-term domination, but our people united to rise up and fight, achieving victory. The Yuan-Mongol empire was famous for its power, no matter where it went, grass did not grow there. It had conquered many vassals, but it invaded our country three times and was defeated three times. The soldiers and people of the Tran Dynasty were united and unanimous in killing the enemy. From the elders at the Dien Hong conference to the young man Tran Quoc Toan, from the old general Tran Hung Dao to the boy weaving baskets in Phu Can village... All agreed with Sat That and achieved a glorious victory that will last forever. By the 20th century, the Vietnamese people, although their land was not large and their people were not large, had defeated two great empires, France and America. If we only measure national strength by wealth, by modern technology, by advanced weapons, by number of soldiers... then Vietnam has waged an unequal war. But our people have united into a sustainable bloc, fighting together to protect the Fatherland. Furthermore, our people have united with right-loving peoples across five continents, including the progressive people of France and America... Therefore, we have enough strength to achieve a great victory. In working life, solidarity also helps us have extraordinary strength. Looking at the dyke on the banks of the Red River, which is responsible for preventing floods in the entire Northern Delta and protecting the rice granary that feeds many people, we see more clearly the power of solidarity. The Da River hydroelectric project, bringing light to every home, could not have been completed without the hands and minds of tens of thousands of Vietnamese engineers, workers and experts from other countries. Drilling rigs in the East Sea bringing oil and gas to enrich the country are also works of united strength. We can cite many other examples to prove it.
Bài làm: Trong kho tàng ca dao, dân ca có nhiều câu phản ánh đạo lí sống của nhân dân Việt Nam. Ví dụ như: Con người có tổ có tông Như cây có cội như sông có nguồn. Hay: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Hoặc: Cây có cội mới nảy cành, xanh láy, Nước có nguồn mới bể rộng, sông sâu… Điều đó cho thấy nhân dân ta từ xưa đến nay sống theo đạo lí Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, Uống nước nhớ nguồn. Ý nghĩa của hai câu tục ngữ trên nhắc nhở chúng ta phải trân trọng, biết ơn những người đi trước đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu xương để đem lại thành quả tốt đẹp mà chúng ta đang được hưởng thụ hôm nay. Lòng biết ơn là biểu hiện của truyền thống coi trọng nghĩa nhân. Lòng biết ơn được nhắc tới trong mọi hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Nâng bát cơm trên tay, người ta khuyên nhau đừng quên sự vất vả, lam lũ của người nông dân: Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần. Uống ngụm nước mát lành giữa trưa hè oi bức, lại nhắc nhau phải nhớ nguồn. Nâng niu một trái chín mọng vừa hái trên cành, chớ quên công lao của kẻ trồng cây. Tại sao lòng biết ơn lại được nhân dân ta trân trọng đặt lên hàng đầu như vậy? Bởi vì đó chính là tình cảm thiêng liêng của con người, là cơ sở của mọi hành động tốt đẹp ở đời. Ông bà xưa nay đã dạy: ơn ai một chút chẳng quên… và lòng biết ơn phải được thể hiện qua lời nói, hành động, sự việc cụ thể hằng ngày. Trong mỗi gia đình, dù giàu sang hay nghèo khó đều có bàn thờ gia tiên. Dẫu chỉ nén nhang, chén nước nhưng con cháu gửi gắm vào đó tấm lòng thành kính tưởng nhớ tới công đức của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Có một mối quan hệ vô hình nhưng vô cùng khăng khít giữa các thế hệ với nhau. Người đã khuất dường như luôn có mặt bên cạnh người đang sống, tiếp thêm sức mạnh cho họ trên bước đường mưu sinh vất vả. Lớp hậu sinh bày tỏ lòng biết ơn các bậc tiền nhân bằng cách gìn giữ, phát huy truyền thống để làm vẻ vang cho gia đình, dòng họ. Trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải đương đầu với hàng chục đạo quân xâm lược hung hãn, tàn bạo như Hán,Tống, Minh, Thanh rồi thực dân Pháp, phát xít Nhật và cuối cùng là đế quốc Mỹ. Bao nhiêu xương máu đã đổ xuống để bảo vệ chủ quyền tự do, độc lập cho Tổ quốc. Trên khắp đất nước, đâu đâu cũng có những đền miếu, chùa chiền và đài tưởng niệm để ghi nhớ công ơn của những anh hùng liệt sĩ đã cống hiến và hi sinh cho Tổ quốc. Đền thờ các vua Hùng trên đất tổ Phong Châu, đền thờ Hai Bà Trưng ở Hà Tây, đền thờ Đinh Tiên Hoàng ở Ninh Bình, đền thờ các vị vua đời Trần có công ba lần đánh tan quân Nguyên Mông ở Nam Định, Quảng Ninh, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội, đền Bến Dược ở Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, nghĩa trang Trường Sơn ở Quảng Bình… và hàng ngàn nghĩa trang liệt sĩ quanh năm được nhân dân ta chăm sóc khói nhang với tấm lòng biết ơn vô hạn.
Assignment: In the treasury of folk songs, there are many verses that reflect the living ethics of the Vietnamese people. For example: Humans have ancestors, like a tree has roots, like a river has a source. Or: A father's work is like the Thai Son mountain, a mother's kindness is like water flowing from a source, A heart to worship the mother and respect the father, Fulfilling filial piety is the filial piety. Or: Only when a tree has a root does it grow green branches, Water has a source so the water is wide and the river is deep... This shows that our people have always lived according to the principle: When eating fruit, remember the person who planted the tree, When drinking water, remember the source. The meaning of the above two proverbs reminds us to respect and be grateful to those who went before us, who put in their sweat, tears and blood to bring about the good results we are enjoying today. Gratitude is an expression of the tradition of valuing benevolence. Gratitude is mentioned in all different situations of life. Holding a bowl of rice in their hands, people advise each other not to forget the hardships and hardships of farmers: Hey, hold a full bowl of rice, One grain of fragrant plasticity, bitter and bitter. Taking a sip of cool water in the middle of a hot summer afternoon, reminding each other to remember the source. Cherish a ripe fruit just picked from a branch, don't forget the work of the person who planted the tree. Why is gratitude placed on top priority by our people? Because that is the sacred human emotion, the basis of all good actions in life. My grandparents have long taught me: never forget a little gratitude... and gratitude must be expressed through words, actions, and specific everyday events. In every family, whether rich or poor, there is an ancestral altar. Even though they only burn incense and have a cup of water, their descendants put into it their sincere hearts to remember the merits of their ancestors, grandparents, and parents. There is an invisible but extremely close relationship between generations. The deceased seem to always be present next to the living, giving them strength on the difficult path of making a living. The younger generations express their gratitude to their ancestors by preserving and promoting traditions to bring glory to their families and clans. Through more than four thousand years of history of building and defending the country, our people have had to confront dozens of aggressive and brutal invading armies such as the Han, Song, Ming, Qing, French colonialists, Japanese fascists and Finally, the American empire. How much blood has been shed to protect the sovereignty, freedom and independence of the Fatherland. Across the country, there are temples, pagodas and memorials everywhere to remember the merits of heroic martyrs who devoted and sacrificed for the Fatherland. Temple of the Hung Kings in Phong Chau ancestral land, Hai Ba Trung temple in Ha Tay, Dinh Tien Hoang temple in Ninh Binh, Temple of the Tran dynasty kings who were credited with defeating the Mongol Yuan army three times in Nam Dinh, Quang Ninh, President Ho Chi Minh's mausoleum in Hanoi, Ben Duoc temple in Cu Chi, Ho Chi Minh City, Truong Son cemetery in Quang Binh... and thousands of martyrs' cemeteries all year round are cared for by our people with incense smoke. with infinite gratitude.
Bài làm Rằm tháng Giêng năm 1948, trên chiếc thuyền neo đậu giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở một cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Cuộc họp tan thì đêm đã khuya. Trăng rằm tỏa sáng khắp mặt đất bao la. Cảnh sông núi trong đêm trăng càng trở nên đẹp đẽ và thơ mộng. Cảm hứng dâng cao, Bác đã ứng khẩu làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa đề là Nguyên tiêu: Thu dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang xuân Thủy tiếp xuân thiên. Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy dịch bài thơ ra tiếng Việt dưới thể lục bát, với tên là Rằm tháng Giêng. Bản dịch giữ được gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ. Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác tả cảnh trăng đẹp chốn rừng sâu thì ở bài này, Bác tả cảnh trăng trên sông nước: Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng bát ngát khắp bầu trời, mặt đất trong đêm Nguyên tiêu. Khung cảnh mênh mông, tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời: Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Vạn vật ăm ắp sức xuân: sông xuân, nước xuân và trời xuân nối tiếp, giao hòa, tạo nên một vũ trụ căng đầy sức sống, làm náo nức lòng người. Điệp từ xuân được lặp lại nhiều lần với ý tạo vật cùng lòng người đều phơi phới khí thế tươi vui. Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Assignment On the full moon day of January 1948, on a boat anchored in the middle of a river in the Viet Bac war zone, President Ho Chi Minh, the Party Central Committee and the Government opened a meeting to summarize the military situation of the early period of the resistance war against the French. (1947 – 1948). The meeting ended and it was late at night. The full moon shines across the vast earth. The scenery of rivers and mountains on a moonlit night becomes even more beautiful and poetic. Inspiration rising, Uncle Ho wrote an impromptu poem written in Chinese characters, titled Nguyen Tieu: Thu Da Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien, Spring springs, spring Water follows spring heaven. Yen ba deep land of military talks, Da semi-returning to the lunar boat. Afterwards, poet Xuan Thuy translated the poem into Vietnamese in six-eight form, with the name Full Moon in January. The translation retains most of the poetic meaning in the original with content expressing Uncle Ho's love of nature and passionate patriotism. If in the article Late Night Scene, Uncle Ho described the beautiful moon scene in the deep forest, then in this article, Uncle Ho describes the moon scene on the river: The spring full moon shines brightly, Spring river, water and sky color add spring. The full moon shines brightly across the sky and ground in the Nguyen Tieu night. The scenery is vast, it seems like the river is connected to the sky: Spring river, water and sky color add spring. All things are full of spring energy: spring river, spring water and spring sky continue and harmonize, creating a universe full of vitality, exciting people's hearts. The message from spring is repeated many times with the idea that creation and human hearts are both filled with a cheerful atmosphere. In the midst of discussing military affairs,
Bài làm Bài Cảnh khuya được Bác Hồ sáng tác vào năm 1947, thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kì, gian khổ mà oanh liệt của dân tộc ta. Giữa hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề và những thử thách ác liệt tưởng chừng khó có thể vượt qua, Bác Hồ vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại. Người vẫn dành cho mình những phút giây thanh thản để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên nơi chiến khu Việt Bắc. Thiên nhiên đã trở thành nguồn động viên to lớn đối với người nghệ sĩ – chiến sĩ là Bác. Như một họa sĩ tài ba, chỉ vài nét bút đơn sơ, Bác đã vẽ ra trước mắt chúng ta vẻ đẹp lạ kì của một đêm trăng rừng: Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa. Trong đêm khuya thanh vắng, dường như tất cả các âm thanh khác đều lắng chìm đi để nổi bật lên tiếng suối róc rách, văng vẳng như một tiếng hát trong trẻo, du dương. Tiếng suối làm cho không gian vốn tĩnh lặng lại càng thêm tĩnh lặng. Nhịp thơ 3/4 ngắt ở từ trong, sau đó là nốt lặng giống như thời gian suy ngẫm, liên tưởng để rồi đi đến hình ảnh so sánh thật đẹp: Tiếng suối trong như tiếng hát xa. Ánh trăng bao phủ lên mặt đất, trùm lên tán cây cổ thụ. Ánh trăng chiếu vào cành lá, lấp lánh ánh sáng huyền ảo. Bóng trăng và bóng cây quấn quýt, lồng vào từng khóm hoa rồi in lên mặt đất đẫm sương: Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa. Khung cảnh thiên nhiên có xa, có gần. Xa là tiếng suối, gần là bóng trăng, bóng cây, bóng hoa hòa quyện, lung linh, sắc màu của bức tranh chỉ có trắng và đen. Màu trắng bạc của ánh trăng, màu đen sẫm của tàn cây, bóng cây, bóng lá. Nhưng dưới gam màu tưởng chừng lạnh lẽo ấy lại ẩn chứa một sức sống âm thầm, rạo rực của thiên nhiên. Hòa với âm thanh của tiếng suối có ánh trăng rời rợi, có bóng cổ thụ, bóng hoa… Tất cả giao hòa nhịp nhàng, tạo nên tình điệu êm đềm, dẫn dắt hồn người vào cõi mộng. Nếu ở hai câu đầu là cảnh đẹp đêm trăng nơi rừng sâu thì hai câu sau là tâm trạng của Bác trước thời cuộc: Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Trước vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên, Bác đã sung sướng thốt lên lời ca ngợi: cảnh khuya như vẽ. Cái hồn của tạo vật đã tác động mạnh đến trái tim nghệ sĩ nhạy cảm của Bác và là nguyên nhân khiến cho người chưa ngủ. Ngủ làm sao được trước đêm lành trăng đẹp như đêm nay?! Thao thức là hệ quả tất yếu của nỗi trăn trở, xao xuyến không nguôi trong tâm hồn Bác trước cái đẹp. Còn một lí do nữa không thể không nói đến. Bác viết thật giản dị: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà. Vậy là đã rõ. Ở câu thơ trên, Bác chưa ngủ vì tâm hồn nghệ sĩ xao xuyến trước cảnh đẹp. Còn ở câu dưới, Bác chưa ngủ vì nghĩ đến trách nhiệm nặng nề của một lãnh tụ cách mạng đang Hai vai gánh vác việc sơn hà.
Assignment The song Late Night Scene was composed by Uncle Ho in 1947, at the beginning of our nation's long, arduous and glorious resistance war against the French colonialists. Amid circumstances of immense deprivation and fierce challenges that seemed difficult to overcome, Uncle Ho still maintained a leisurely and independent demeanor. People still give themselves peaceful moments to enjoy the beauty of nature in the Viet Bac war zone. Nature has become a great source of encouragement for the artist and soldier Uncle Ho. Like a talented artist, with just a few simple brush strokes, Uncle Ho painted before our eyes the strange beauty of a forest moonlight night: The sound of the stream is as clear as singing in the distance Moon cage, ancient tree, shadow of flower cage. In the quiet night, all other sounds seem to have subsided, leaving behind the sound of a gurgling stream, echoing like a clear, melodious song. The sound of the stream makes the already quiet space even quieter. The 3/4 rhythm of the poem is interrupted by the inner word, followed by a quiet note, like a time of contemplation and association, leading to a beautiful comparison image: The sound of the stream is as clear as singing in the distance. Moonlight covered the ground, covering the canopy of ancient trees. Moonlight shines on the branches and leaves, sparkling with magical light. The shadow of the moon and the shadow of a tangerine tree entangle each flower cluster and then print on the dew-soaked ground: The moon cages ancient trees, the shadows of flower cages. Natural scenery is both far and near. In the distance is the sound of a stream, near is the shadow of the moon, the shadow of trees, and the shadow of flowers blending and shimmering, the colors of the picture are only black and white. The silvery white of moonlight, the dark black of tree branches, tree shadows, and leaf shadows. But under that seemingly cold color scheme, there is hidden the silent, vibrant vitality of nature. Mixed with the sound of the stream, there is the moonlight, the shadows of ancient trees, the shadows of flowers... All harmonize rhythmically, creating a peaceful melody, leading the soul into the dreamland. If the first two sentences are the beautiful moonlit night scene in the deep forest, the next two sentences are Uncle Ho's mood before the times: The late night scene is like drawing a person who hasn't slept yet. Not sleep, worrying that country. Before the magical beauty of nature, Uncle Ho happily exclaimed in praise: the late night scene was like a painting. The soul of creation had a strong impact on Uncle Ho's sensitive artist's heart and was the reason why he could not sleep. How can I sleep before a beautiful moonlit night like tonight?! Restlessness is an inevitable consequence of the constant concern and anxiety in Uncle Ho's soul before beauty. There is another reason that cannot be ignored. He wrote simply: Haven't slept because I'm worried about my country. So it's clear. In the above verse, Uncle Ho did not sleep because the artist's soul was moved by the beautiful scene. In the sentence below, Uncle Ho did not sleep because he thought about the heavy responsibility of a revolutionary leader shouldering the responsibility of the mountains and rivers.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: 2. Thân bài: – Tâm trạng của nhà thơ: + Hai câu đầu: Khung cảnh đêm trăng sáng: Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. (Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương.) + Hai câu sau: Tình cảm tha thiết đối với quê hương: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. (Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.) 3. Kết bài: Bài làm Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. Nhắc tới ông, người đọc thường nhớ đến những vần thơ trữ tình bay bổng có vẻ đẹp lạ kì. Có thể nói, thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Thuở nhỏ Lí Bạch thường lên núi Nga Mi để ngắm trăng cho rõ. Vì thế hình ảnh Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi đã in sâu vào tâm khảm nhà thơ, trở thành một trong những biểu tượng của quê hương Tứ Xuyên mà nhà thơ thương nhớ suốt cuộc đời. Từ tuổi 25, Lí Bạch đã xa quê và xa mãi, nhưng hình bóng quê hương luôn in đậm trong tâm khảm của ông. Vì thế mà trên bước đường lữ thứ tha phương, mỗi lần ngắm trăng sáng là ông lại chạnh lòng nhớ quê và chỉ biết gửi gắm tâm sự vào những vần thơ. Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được Lí Bạch sáng tác trong một hoàn cảnh như vậy. Nguyên văn chữ Hán: Tĩnh dạ tứ Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương. Dịch thơ: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. Chủ đề của bài thơ là trông trăng nhớ quê (vọng nguyệt hoài hương). Đây là chủ đề quen thuộc trong thơ cổ, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở Việt Nam, song cách thể hiện của Lí Bạch thật độc đáo. Với những từ ngữ đơn giản mà chắt lọc, bài thơ đã thể hiện tình cảm tha thiết với quê hương của nhà thơ. Bức tranh được phác họa trong bài thơ là cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Nỗi cô đơn trên đất khách quê người khiến cho Lí Bạch trằn trọc, thao thức, không sao ngủ được. Ông muốn chia sẻ tâm sự với vầng trăng – người bạn không lời nhưng gắn bó thân thiết với ông và được ông coi là tri âm, tri kỉ. Kể từ độ cất bước ra đi, suốt mấy chục năm trường, Lí Bạch làm sao nhớ nổi bao nhiêu lần mình ngắm trăng?! Trăng lung linh rải ánh vàng, ánh bạc trên sông hồ. Trăng buồn tê tái nơi quan ải. Trăng nhạt nhòa, huyền ảo trên mặt đất mênh mông… Đã có lần, thi sĩ uống rượu dưới trăng: Cất chén mời trăng sáng, Ta với bóng lạ ba. Đêm nay, trên đất khách, ánh trăng rọi sáng vào tận đầu giường như tìm đến với bạn tri âm, như muôn chia sẻ cho vơi bớt nỗi cô đơn đang vây phủ tâm hồn thi sĩ: Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. (Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương). Đây là bài thơ tứ tuyệt tương đối dễ hiểu. Song đơn giản, dễ hiểu không có nghĩa là hời hợt, nông cạn. Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng chọn lọc và tinh luyện. Trong hai câu thơ đầu, ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng nhân vật trữ tình. Ánh trăng dù đẹp đẽ và tràn ngập nơi nơi nhưng vẫn chỉ là đối tượng để thi sĩ cảm nhận. Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu). Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rớm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ. Trong thơ cổ có một biểu tượng truyền thống là trăng, vầng trăng tròn tượng trưng cho sự viên mãn đoàn tụ. Cho nên trăng càng sáng, càng tròn thì kẻ xa quê lại càng nhớ quê. Hình ảnh vầng trăng cô đơn trên bầu trời thăm thẳm trong đêm khuya thanh tĩnh thường gợi nên nỗi sầu xa xứ. Ánh trăng thu bàng bạc trong đêm lạnh lại càng khêu gợi tâm trạng buồn thương. Đêm khuya, thi sĩ trằn trọc không sao ngủ được. Mở mắt thấy ánh trăng rọi sáng đầu giường, mừng như gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách. Nhưng mới nhìn thấy ánh trăng bàng bạc như sương phủ trên mặt đất chứ chưa thấy trăng, nhà thơ cố tìm bằng được vầng trăng quen thuộc: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. (Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương). Chỉ có ba chữ tả tình trực tiếp: tư cố hương, còn lại đều là tả cảnh, tả người: cử đầu, vọng minh nguyệt, đê đầu. Ngay trong tả cảnh, tình người vẫn được thể hiện rõ. Nỗi nhớ quê hương đã được thể hiện qua hành động. Khi thấy vầng trăng cũng đơn côi, lạnh lẽo như mình, một nỗi ngậm ngùi, chua xót bất chợt dâng lên trong lòng. Thi sĩ cúi đầu tưởng nhớ quê hương. Cái dáng ngồi bất động, chìm đắm trong suy tư ấy cho thấy tình cảm quê hương của nhà thơ sâu nặng biết chừng nào! Với bài thơ Tĩnh dạ tứ, nếu chỉ nói tác giả “xúc cảnh sinh tình” thì không đủ. “Tình” ở đây vừa là nhân, vừa là quả: Lí Bạch nhớ quê, thao thức nhìn trăng sáng; Nhìn trăng sáng lại càng nhớ quê! Vọng minh nguyệt, tư cố hương thật ra chỉ là sự diễn đạt cụ thể hơn thành ngữ vọng nguyệt hoài hương dùng đã sáo mòn trong văn thơ cổ. Sáng tạo của Lí Bạch là đã đưa thêm vào hai cụm từ đôi nhau: cử đầu và đê đầu, để thể hiện cách vọng minh nguyệt và tư cố hương của mình. Những hành động ấy đều chất chứa tâm tư. Hai cầu thơ sau đối ý, đối thanh thật chỉnh. Nhà thơ đã sáng tạo trên cơ sở một câu dân ca quen thuộc: Ngưỡng đầu khán minh nguyệt (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng), chỉ thay từ ngưỡng bằng từ cử, từ khán bằng từ vọng. Câu thơ của Lí Bạch là: Cử đầu vọng minh nguyệt. Cũng vẫn giống nhau ở tư thế ngẩng đầu nhìn trăng sáng nhưng cái nhìn trong câu dân ca mang tính khách quan, còn cái nhìn trong thơ Lí Bạch lại đậm tính chủ quan. (Khán: nhìn, ý nghĩa trung hòa. Vọng: nhìn xa, ý nghĩa biểu cảm). Vọng minh nguyệt là cố nhìn ra xa để thấy cho rõ vầng trăng sáng. Tình cảm thiết tha của nhà thơ gửi gắm cả trong từ vọng ấy và chỉ trong khoảnh khắc, cái tư thế Ngẩng đầu nhìn trăng sáng đã chuyển thành Cúi đầu nhớ cố hương. Hai tư thế đối lập nhau nhưng cùng thể hiện một tâm trạng. Niềm vui trước đêm trăng sáng có thể là dạt dào vô tận nhưng nỗi nhớ cố hương cũng day đứt khôn nguôi! Ánh trăng sáng đêm nay là tác nhân gợi nhớ đến vầng trăng xưa trên quê cũ thuở nào. Quả là nỗi nhớ quê hương thiết tha, khắc khoải… luôn ám ảnh trong lòng Lí Bạch. Câu thơ cuối mở ra một thế giới mênh mang và phức tạp của tâm trạng. Có bao điều mà nhà thơ muốn gửi gắm vào hai chữ cố hương. Cố hương là quê cũ, là dĩ vãng đầy ắp kỉ niệm của tuổi hoa niên. Cố hương là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, là nơi có những người thân yêu nhất của ta đang sống hoặc đã gửi nắm xương tàn. Đối với kẻ tha phương, cố hương là một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng mà mỗi khi nhắc tới lại cảm thấy trĩu nặng trong lòng, trĩu nặng cả mái đầu đã pha sương sau nửa đời lênh đênh, lưu lạc. Bố cục bài thơ hết sức chặt chẽ, thể hiện tài năng của nhà thơ. Hai câu đầu diễn đạt ý: Ngỡ ánh trăng đầu giường là sương phủ trên mặt đất. Nghi là động từ liên kết ý của hai dòng thơ. Ngoài ra các động từ khác (cử, vọng, đê, tư) đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc liên kết các câu trong bài. Giữa các động từ có quan hệ chặt chẽ: Nghi (thị địa thượng sương) – Cử (đầu) – vọng (minh nguyệt) – Đê (đầu) – tư (cố hương). Trong bốn câu thơ, tuy các chủ ngữ đều bị lược bỏ nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra chủ thể trữ tình là tác giả. Điều đó tạo nên tính thông nhất, liền mạch trong cảm xúc thơ. Về mặt ngữ pháp, có thể xem đây là một hình thức câu rút gọn. Trong thơ, việc lược bỏ chủ ngữ – đặc biệt là đại từ xưng hô ngôi thứ nhất làm cho sức cộng hưởng của thơ tăng lên rất nhiều. Ở Tĩnh dạ tứ, ta có hiểu chủ thể trữ tình là Lí Bạch, nhưng cũng có thể là bất cứ ai khác. Trong điều kiện xã hội tương tự, ở những tình huống tương tự, với quan niệm sông và vốn văn hóa tương tự thì đều có thể xuất hiện cảm nghĩ tương tự. Đó chính là tính chất điển hình của cảm xúc trong thơ trữ tình.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: 2. Thân bài: – Tâm trạng của nhà thơ: + Hai câu đầu: Khung cảnh đêm trăng sáng: Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. (Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương.) + Hai câu sau: Tình cảm tha thiết đối với quê hương: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. (Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.) 3. Kết bài: Bài làm Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. Nhắc tới ông, người đọc thường nhớ đến những vần thơ trữ tình bay bổng có vẻ đẹp lạ kì. Có thể nói, thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Thuở nhỏ Lí Bạch thường lên núi Nga Mi để ngắm trăng cho rõ. Vì thế hình ảnh Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi đã in sâu vào tâm khảm nhà thơ, trở thành một trong những biểu tượng của quê hương Tứ Xuyên mà nhà thơ thương nhớ suốt cuộc đời. Từ tuổi 25, Lí Bạch đã xa quê và xa mãi, nhưng hình bóng quê hương luôn in đậm trong tâm khảm của ông. Vì thế mà trên bước đường lữ thứ tha phương, mỗi lần ngắm trăng sáng là ông lại chạnh lòng nhớ quê và chỉ biết gửi gắm tâm sự vào những vần thơ. Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được Lí Bạch sáng tác trong một hoàn cảnh như vậy. Nguyên văn chữ Hán: Tĩnh dạ tứ Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương. Dịch thơ: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. Chủ đề của bài thơ là trông trăng nhớ quê (vọng nguyệt hoài hương). Đây là chủ đề quen thuộc trong thơ cổ, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở Việt Nam, song cách thể hiện của Lí Bạch thật độc đáo. Với những từ ngữ đơn giản mà chắt lọc, bài thơ đã thể hiện tình cảm tha thiết với quê hương của nhà thơ. Bức tranh được phác họa trong bài thơ là cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Nỗi cô đơn trên đất khách quê người khiến cho Lí Bạch trằn trọc, thao thức, không sao ngủ được. Ông muốn chia sẻ tâm sự với vầng trăng – người bạn không lời nhưng gắn bó thân thiết với ông và được ông coi là tri âm, tri kỉ. Kể từ độ cất bước ra đi, suốt mấy chục năm trường, Lí Bạch làm sao nhớ nổi bao nhiêu lần mình ngắm trăng?! Trăng lung linh rải ánh vàng, ánh bạc trên sông hồ. Trăng buồn tê tái nơi quan ải. Trăng nhạt nhòa, huyền ảo trên mặt đất mênh mông… Đã có lần, thi sĩ uống rượu dưới trăng: Cất chén mời trăng sáng, Ta với bóng lạ ba. Đêm nay, trên đất khách, ánh trăng rọi sáng vào tận đầu giường như tìm đến với bạn tri âm, như muôn chia sẻ cho vơi bớt nỗi cô đơn đang vây phủ tâm hồn thi sĩ: Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. (Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương). Đây là bài thơ tứ tuyệt tương đối dễ hiểu. Song đơn giản, dễ hiểu không có nghĩa là hời hợt, nông cạn. Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng chọn lọc và tinh luyện. Trong hai câu thơ đầu, ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng nhân vật trữ tình. Ánh trăng dù đẹp đẽ và tràn ngập nơi nơi nhưng vẫn chỉ là đối tượng để thi sĩ cảm nhận. Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu). Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rớm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ. Trong thơ cổ có một biểu tượng truyền thống là trăng, vầng trăng tròn tượng trưng cho sự viên mãn đoàn tụ. Cho nên trăng càng sáng, càng tròn thì kẻ xa quê lại càng nhớ quê. Hình ảnh vầng trăng cô đơn trên bầu trời thăm thẳm trong đêm khuya thanh tĩnh thường gợi nên nỗi sầu xa xứ. Ánh trăng thu bàng bạc trong đêm lạnh lại càng khêu gợi tâm trạng buồn thương. Đêm khuya, thi sĩ trằn trọc không sao ngủ được. Mở mắt thấy ánh trăng rọi sáng đầu giường, mừng như gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách. Nhưng mới nhìn thấy ánh trăng bàng bạc như sương phủ trên mặt đất chứ chưa thấy trăng, nhà thơ cố tìm bằng được vầng trăng quen thuộc: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. (Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương). Chỉ có ba chữ tả tình trực tiếp: tư cố hương, còn lại đều là tả cảnh, tả người: cử đầu, vọng minh nguyệt, đê đầu. Ngay trong tả cảnh, tình người vẫn được thể hiện rõ. Nỗi nhớ quê hương đã được thể hiện qua hành động. Khi thấy vầng trăng cũng đơn côi, lạnh lẽo như mình, một nỗi ngậm ngùi, chua xót bất chợt dâng lên trong lòng. Thi sĩ cúi đầu tưởng nhớ quê hương. Cái dáng ngồi bất động, chìm đắm trong suy tư ấy cho thấy tình cảm quê hương của nhà thơ sâu nặng biết chừng nào! Với bài thơ Tĩnh dạ tứ, nếu chỉ nói tác giả “xúc cảnh sinh tình” thì không đủ. “Tình” ở đây vừa là nhân, vừa là quả: Lí Bạch nhớ quê, thao thức nhìn trăng sáng; Nhìn trăng sáng lại càng nhớ quê! Vọng minh nguyệt, tư cố hương thật ra chỉ là sự diễn đạt cụ thể hơn thành ngữ vọng nguyệt hoài hương dùng đã sáo mòn trong văn thơ cổ. Sáng tạo của Lí Bạch là đã đưa thêm vào hai cụm từ đôi nhau: cử đầu và đê đầu, để thể hiện cách vọng minh nguyệt và tư cố hương của mình. Những hành động ấy đều chất chứa tâm tư. Hai cầu thơ sau đối ý, đối thanh thật chỉnh. Nhà thơ đã sáng tạo trên cơ sở một câu dân ca quen thuộc: Ngưỡng đầu khán minh nguyệt (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng), chỉ thay từ ngưỡng bằng từ cử, từ khán bằng từ vọng. Câu thơ của Lí Bạch là: Cử đầu vọng minh nguyệt. Cũng vẫn giống nhau ở tư thế ngẩng đầu nhìn trăng sáng nhưng cái nhìn trong câu dân ca mang tính khách quan, còn cái nhìn trong thơ Lí Bạch lại đậm tính chủ quan. (Khán: nhìn, ý nghĩa trung hòa. Vọng: nhìn xa, ý nghĩa biểu cảm). Vọng minh nguyệt là cố nhìn ra xa để thấy cho rõ vầng trăng sáng. Tình cảm thiết tha của nhà thơ gửi gắm cả trong từ vọng ấy và chỉ trong khoảnh khắc, cái tư thế Ngẩng đầu nhìn trăng sáng đã chuyển thành Cúi đầu nhớ cố hương. Hai tư thế đối lập nhau nhưng cùng thể hiện một tâm trạng. Niềm vui trước đêm trăng sáng có thể là dạt dào vô tận nhưng nỗi nhớ cố hương cũng day đứt khôn nguôi! Ánh trăng sáng đêm nay là tác nhân gợi nhớ đến vầng trăng xưa trên quê cũ thuở nào. Quả là nỗi nhớ quê hương thiết tha, khắc khoải… luôn ám ảnh trong lòng Lí Bạch. Câu thơ cuối mở ra một thế giới mênh mang và phức tạp của tâm trạng. Có bao điều mà nhà thơ muốn gửi gắm vào hai chữ cố hương. Cố hương là quê cũ, là dĩ vãng đầy ắp kỉ niệm của tuổi hoa niên. Cố hương là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, là nơi có những người thân yêu nhất của ta đang sống hoặc đã gửi nắm xương tàn. Đối với kẻ tha phương, cố hương là một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng mà mỗi khi nhắc tới lại cảm thấy trĩu nặng trong lòng, trĩu nặng cả mái đầu đã pha sương sau nửa đời lênh đênh, lưu lạc. Bố cục bài thơ hết sức chặt chẽ, thể hiện tài năng của nhà thơ. Hai câu đầu diễn đạt ý: Ngỡ ánh trăng đầu giường là sương phủ trên mặt đất. Nghi là động từ liên kết ý của hai dòng thơ. Ngoài ra các động từ khác (cử, vọng, đê, tư) đều đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc liên kết các câu trong bài. Giữa các động từ có quan hệ chặt chẽ: Nghi (thị địa thượng sương) – Cử (đầu) – vọng (minh nguyệt) – Đê (đầu) – tư (cố hương). Trong bốn câu thơ, tuy các chủ ngữ đều bị lược bỏ nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra chủ thể trữ tình là tác giả. Điều đó tạo nên tính thông nhất, liền mạch trong cảm xúc thơ. Về mặt ngữ pháp, có thể xem đây là một hình thức câu rút gọn. Trong thơ, việc lược bỏ chủ ngữ – đặc biệt là đại từ xưng hô ngôi thứ nhất làm cho sức cộng hưởng của thơ tăng lên rất nhiều. Ở Tĩnh dạ tứ, ta có hiểu chủ thể trữ tình là Lí Bạch, nhưng cũng có thể là bất cứ ai khác. Trong điều kiện xã hội tương tự, ở những tình huống tương tự, với quan niệm sông và vốn văn hóa tương tự thì đều có thể xuất hiện cảm nghĩ tương tự. Đó chính là tính chất điển hình của cảm xúc trong thơ trữ tình.
Bài làm Trong lịch sử phát triển của thế giới suốt mấy ngàn năm qua, ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, dù lớn hay nhỏ đều có những tài năng xuất chúng, những học giả uyên bác đã cống hiến cho đời nhiều điều, đem lại lợi ích không nhỏ, làm thay đổi cơ bản cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Cả nhân loại ngưỡng mộ tài năng của Niu-tơn, Men-đê-lê-ép, Anh-xtanh, Đác-uyn, Lô-mô-nô-xốp, Sô-panh, Mô-da, Tôn-xtôi, Vic-to Hu-gô, Ban-zăc… Nhưng liệu mấy ai hiểu rằng để có được những thành tựu khoa học, nghệ thuật lớn lạo như vậy, họ đã phải học tập và làm việc miệt mài, vất vả đến mức nào. Thực tế cho thấy muốn thành công thì phải học tập để tích luỹ và nâng cao tri thức. Con đường học tập là con đường gian nan, khổ ải nhưng cuối con đường là ánh sáng, là tương lai. Bàn về vấn đề này, ngạn ngữ Hi Lạp có câu: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt ngào. Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là học vấn và học vấn có vai trò quan trọng ra sao trong đời sống con người. Học vấn thường được hiểu là trình độ hiểu biết của người có học. Trình độ hiểu biết này được nâng cao dần dần qua từng cấp học (phổ thông, đại học, sau đại học…) và quá trình tự học kéo dài suốt cả cuộc đời. Học vấn của một con người không chỉ hạn chế trong một lĩnh vực nào đó mà có thể mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác nhau. Học vấn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người: Bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người (ngạn ngữ cổ). Ông cha ta xưa cũng đã từng giáo huấn con cháu: Bất học bất tri lí (Không học không biết đâu là lẽ phải). Hay: Cô học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ. Có học vấn, con người mới có điều kiện làm chủ thiên nhiên, xã hội, nhất là làm chủ vận mệnh của mình. Trên cơ sở ấy, đời sống vật chất và tinh thần mới được nâng cao. Học vấn cần thiết đối với mỗi con người như vậy nhưng con đường đến với học vấn quả là gian nan, vất vả. Việc tích lũy và nâng cao tri thức không phải là chuyện ngày một ngày hai mà là chuyện cả đời người: Bể học không bờ (Khổng Tử), Học, học nữa, học mãi, Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân (Lênin). Muốn có học vấn, chúng ta phải có ý chí và nghị lực phấn đấu rất cao. Hãy nhìn con kiến tha mồi, con ong làm mật. Việc tích luỹ kiến thức của con người giống như Kiến tha lâu cũng đầy tổ (tục ngữ). Nếu cố gắng học hành thì đến một ngày nào đó, chúng ta có được một trình độ học vấn vững vàng, phong phú. Thực tế lịch sử cho thấy những người nổi tiếng uyên bác đều trải qua quá trình học tập, nghiên cứu lâu dài, lao tâm khổ trí; phải nếm trải không ít vị đắng cay của thất bại; thậm chí cả sự nguy hiểm đôi với mạng sống của mình. Nhưng với lòng ham mê hiểu biết và khát vọng chinh phục, họ đã vượt qua tất cả để đi đến thành công. Trong quá trình tích lũy nâng cao học vấn, chúng ta thấy rất ít người có đầy đủ điều kiện học tập mà phần lớn là gặp khó khăn. Khó khăn khách quan như thiếu tài liệu, như bài giảng khó hiểu, bài tập khó giải hay những vấn đề phức tạp trong quá trình học tạp, nghiên cứu… Bên cạnh đó là những khố khăn chủ quan như gia đình nghèo túng, bản thân phải vừa học vừa làm thêm để kiếm sống… Tất cả những cái đó ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình học tập của mỗi người, đòi hỏi chúng ta phải biết vượt lên để đi tới đích. Xưa nay, ở nước ta có biết bao gương hiếu học đáng khâm phục. Mạc Đĩnh Chi nhà nghèo đến mức phải hằng ngày kiếm củi đổi gạo nuôi thân. Đêm xuống, không tiền mua dầu thắp sáng, phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng thay đèn để học bài. Lương Thế Vinh từ một trẻ chăn trâu mà tu chí học hành để rồi trở thành nhà toán học. Lê Quý Đôn với sức học, sức nhớ xuất chúng đã trở thành huyền thoại… Gần hơn có Bác Hồ kính yêu – một tấm gương vượt khó trong học tập. Thời trai trẻ, anh thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xác định cho mình một quan niệm sống đúng đắn: phải đi nhiều nơi, phải học nhiều điều hay, điều mới để giúp ích cho đất nước và dân tộc. Từ một anh Ba phụ bếp trên chiếc tàu buôn, người thợ ảnh ở ngõ nhỏ Pônggoáng đến người thợ quét tuyết trong công viên ở Luân Đôn… Bác đã trải qua những gian nan, thử thách để rèn luyện ý chí, không ngừng nâng cao hiểu biết về văn hóa và lịch sử nhân loại. Từ đó rút ra những kinh nghiệm bổ ích, thiết thực phục vụ cho phong trào cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc. Những nhà bác học như Lương Đình Của, Võ Tòng Xuân… suốt đời cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học về các giống lúa có khả năng chống sâu rầy và mang lại năng suất cao nhất để góp phần cải thiện đời sống nhân dân, đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới.
Assignment In the history of the world's development over the past several thousand years, in every country and nation, no matter how big or small, there have been outstanding talents and erudite scholars who have contributed many things to life. brings significant benefits, fundamentally changing people's material and spiritual lives. All mankind admires the talents of Newton, Mendeleev, Einstein, Darwin, Lomonosov, Chopin, Moda, Tony, Vic. to Hugo, Banzac... But how many people understand how hard they had to study and work to achieve such great scientific and artistic achievements? Reality shows that if you want to be successful, you must study to accumulate and improve knowledge. The path of learning is a difficult and painful path, but at the end of the path is light, the future. Discussing this issue, there is a Greek proverb: Education has bitter roots but its fruits are sweet. First of all, we must understand what education is and what important role education plays in human life. Education is often understood as the level of knowledge of an educated person. This level of knowledge is gradually improved through each level of education (high school, university, postgraduate...) and the self-study process lasts throughout life. A person's education is not limited to a certain field but can expand to many different fields. Education brings joy and happiness to people: Plumage beautifies the peacock, education beautifies the person (ancient proverb). Our ancestors in the past also taught their children: No learning, no reason (If you don't learn, you won't know what is right). Or: If you study, you are like rice and sticky rice. If you don't study, you are like straw and grass. Only with education can people have the conditions to control nature and society, especially their own destiny. On that basis, material and spiritual life will be improved. Education is necessary for every person, but the path to education is arduous and difficult. Accumulating and improving knowledge is not a matter of a day or two but a matter of a lifetime: The pool of learning has no shore (Confucius), Study, study more, study forever, Study at school, study in books, study each other and learn from the people (Lenin). To have an education, we must have a very high will and determination to strive. Look at the ant that retrieves prey, the bee that makes honey. The accumulation of human knowledge is like a nest full of ants (proverb). If we try to study, one day we will have a solid and rich level of education. Historical reality shows that famous and erudite people have gone through a long process of study, research, and hard work; have to experience the bitter taste of failure; even the danger to his own life. But with their passion for knowledge and desire to conquer, they overcame everything to achieve success. In the process of accumulating and improving education, we see that very few people have adequate learning conditions and most of them face difficulties. Objective difficulties such as lack of materials, difficult-to-understand lectures, difficult-to-solve exercises, or complicated problems in the learning and research process... In addition, there are subjective difficulties such as poor families, family history, etc. I have to study and work part-time to make a living... All of these things greatly affect each person's learning process, requiring us to know how to overcome them to reach our destination. In the past, in our country there have been many admirable examples of studiousness. Mac Dinh Chi's family is so poor that he has to collect firewood every day to exchange for rice to feed himself. At night, there was no money to buy oil for lighting, so I had to catch fireflies and put them in egg shells to replace lamps to study. Luong The Vinh grew up from a child herding buffaloes and studied hard to become a mathematician. Le Quy Don with his outstanding learning ability and memory has become a legend... Closer to home, there is our beloved Uncle Ho - an example of overcoming difficulties in learning. In his youth, patriotic young man Nguyen Tat Thanh determined for himself a correct concept of life: to go to many places, to learn many good and new things to help the country and people. From being a kitchen helper on a merchant ship, a photographer in a small alley in Pongoang to a snow sweeper in a park in London... Uncle went through hardships and challenges to train his will and constantly improve. understanding of human culture and history. From there, we draw useful and practical experiences to serve the revolutionary movement to fight for national liberation. Scholars like Luong Dinh Cua, Vo Tong Xuan... devoted their lives to scientific research on rice varieties that are resistant to pests and bring the highest yield to contribute to improving people's lives. , bringing Vietnam from a backward agricultural country to the third largest rice exporter in the world.
Bài làm: Từ thực tế cuộc sống vất vả, gian lao và đầy thử thách, nhân dân ta đã rút ra cách đánh giá, nhìn nhận sự vật và con người. Người xưa thường Ăn lấy chắc, mặc lấy bền và coi trọng nội dung bên trong hơn là hình thức bên ngoài: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Quan điểm ấy đúng hay không đúng? Trong hoàn cảnh ngày nay nó có còn giữ nguyên giá trị hay không? Chúng ta hãy thử cùng nhau bình luận. Tất cả các sự vật đều có hai mặt: nội dung và hình thức. Mặt nội dung còn gọi là chất lượng của sản phẩm thường được đánh giá cao. Thực tế cho thấy các đồ vật làm bằng gỗ tốt, gỗ quý (giường, tủ, bàn ghế,.. ) có thời gian sử dụng rất lâu dài và càng về sau càng đẹp. Người ta chỉ cần bào nhẵn, đánh bóng chúng bằng một lớp véc-ni là đủ. Trong khi đó, những đồ dùng bằng gỗ xấu, gỗ tạp lại hay được sơn phết hào nhoáng bên ngoài. Dù có đẹp đến đâu chăng nữa thì chúng cũng rất mau hỏng. Vì thế cho nên mọi người chuộng tốt, chuộng bền mà coi nhẹ hình thức của đồ vật. Nghĩa đen của câu tục ngữ trên là vậy. Nhưng cũng như bao câu tục ngữ khác, câu Tốt gỗ hơn tốt nước sơn còn hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc hơn. Đó là lời khuyên thiết thực, đúng đắn về cách nhìn nhận, đánh giá con người. Ta thấy rõ tính nhất quán trong việc khẳng định sự hơn hẳn của nội dung bên trong so với hình thức bên ngoài. Lời khuyên này rất đúng vì nó được đức kết từ kinh nghiệm sống của nhiều thế hệ. Đánh giả một con người cần phải trải qua thời gian khá dài, không thể chủ quan, hồ đồ, rất dễ dẫn đến sai lầm, thậm chí gây nên những hậu quả tai hại khó lường. Tại sao người xưa cho rằng nội dung bên trong (phẩm chất tốt) hơn hẳn hình thức bên ngoài? Điều mà ai cũng phải thừa nhận là người có đạo đức tốt, trình độ hiểu biết sâu rộng, năng lực làm việc cao sẽ làm được nhiều việc hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngược lại, không có được những phẩm chất tốt đẹp ấy thì khó có thể thành công trên đường đời, cho dù con người ấy hình thức bên ngoài có hào nhoáng, đẹp đẽ đến đâu chăng nữa. Người xưa đã dùng cách gọi hàm ý châm biếm những kẻ chỉ có hình thức bên ngoài, hay dùng hình thức bên ngoài để lừa bịp người khác, để che giấu những xấu xa, khiếm khuyết bên trong… là loại Tốt mã giẻ cùi, nói thẳng ra là vô dụng, chẳng có giá trị gì. Trên cơ sở quan điểm của người xưa, ngày nay chúng ta nên đánh giá còn người như thế nào cho đúng? Chúng ta cần biết, giữa nội dung và hình thức có mối tương quàn với nhau. Nội dung quyết định hình thức, hình thức làm tâng thêm giá trị của nội dung. Vì vậy, khi nhận xét đánh giá về một người nào đó, chúng ta hãy bình tĩnh, sáng suốt tìm hiểu, phân tích để có được những kết luận đúng đắn và chính xác nhất. Thống nhất với người xưa, chúng ta vẫn lấy phẩm chất (đạo đức, tài năng,…) làm tiêu chuẩn cơ bản, làm thước đo giá trị con người. Hãy căn cứ vào chất lượng và mục đích của công việc mà đánh giá người tốt, kẻ xấu và hãy đặt người ấy vào mối quan hệ với gia đình, nhà trường, xã hội. Người tốt là người có lương tâm và trách nhiệm với bản thân, với mọi người.
Assignment: From the reality of a hard, arduous and challenging life, our people have drawn a way to evaluate and view things and people. Ancient people often ate for strength, wore clothes for durability, and valued internal content more than external form: Good wood is better than good paint. Is that view correct or incorrect? In today's situation, does it still retain its value? Let's try to comment together. All things have two sides: content and form. The content aspect, also known as the quality of the product, is often highly appreciated. Reality shows that objects made of good, precious wood (beds, cabinets, tables and chairs, etc.) have a very long shelf life and become more beautiful as time passes. People just need to smooth them and polish them with a layer of varnish. Meanwhile, utensils made of ugly or mixed wood are often painted flashy on the outside. No matter how beautiful they are, they spoil very quickly. That's why people love goodness and durability but disregard the form of things. That is the literal meaning of the above proverb. But like many other proverbs, the phrase "Good wood is better than good paint" also contains a deeper meaning. That is practical, correct advice on how to view and evaluate people. We clearly see the consistency in affirming the superiority of internal content over external form. This advice is very true because it comes from the life experiences of many generations. Impersonating a person requires quite a long period of time. You cannot be subjective or confused. It can easily lead to mistakes and even cause unpredictable and disastrous consequences. Why did the ancients believe that internal content (good qualities) is superior to external form? What everyone must admit is that people with good ethics, extensive knowledge, and high working capacity will be able to do many useful things for themselves, their families, and society. On the contrary, without those good qualities, it is difficult to succeed in life, no matter how flashy and beautiful that person appears on the outside. The ancients used a term with sarcastic implications for people who only have an external appearance, or use an external appearance to deceive others, to hide the evils and flaws inside... the good and jay type. To put it bluntly, it's useless and worthless. Based on the views of the ancients, how should we properly evaluate people today? We need to know that there is a correlation between content and form. Content determines form, form enhances the value of content. Therefore, when evaluating someone, let's calmly and wisely research and analyze to get the most correct and accurate conclusions. Consistent with the ancients, we still take qualities (morality, talent, etc.) as the basic standard and measure of human value. Based on the quality and purpose of the work, evaluate good people and bad people and put that person in relationship with family, school, and society. Good people are conscientious and responsible to themselves and to everyone.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Nhận xét khái quát về vai trò quan trọng của sách trong đời sống của con người. – Trích dẫn câu nói. 2. Thân bài: a. Giải thích ý nghĩa câu nói: * Sách là gì? + Là kho tàng tri thức: – Về thế giới tự nhiên. – Về đời sống con người. – Về kinh nghiệm sản xuất. + Là sản phẩm tinh thần: – Sản, phẩm của nền văn minh nhân loại. – Kết quả của quá trình lao động trí tuệ lâu dài. – Hàng hóa có giá trị đặc biệt. + Là người bạn tâm tình gần gũi: – Giúp ta hiểu điều hay lẽ phải trong đời. + Làm cho cuộc sống tinh thần thêm phong phú. + Tại sao Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người: + Sách giúp ta hiểu biết về mọi lĩnh vực: – Khoa học tự nhiên. – Khoa học xã hội. + Sách giúp ta vượt khoảng cách của không gian, thời gian: – Hiểu quá khứ, hiện tại, tương lai. – Hiểu tình hình trong nước, ngoài nước. b. Bình luận về tác dụng của sách: + Sách tốt:. – Mở mang trí óc, nâng cao tầm hiểu biết. – Giúp con người khám phá giá trị của bản thân. – Chắp cánh cho ước mơ và khát vọng sáng tạo. + Sách xấu: – Tuyên truyền lối sống ích kỉ, thực dụng. – Gieo rắc những tư tưởng, tình cảm tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến việc hình thành nhân cách. c. Thái độ đối với việc đọc sách: – Tạo thói quen và duy trì hứng thú đọc sách lâu dài. – Cần chọn sách tốt để đọc. – Phê phán và lên án những cuốn sách có nội dung xấu.
I. OUTLINE 1. Introduction: – General comments on the important role of books in human life. – Quote sayings. 2. Body of the article: a. Explain the meaning of the saying: * What are books? + Is a treasure of knowledge: – About the natural world. – About human life. – About production experience. + Is a spiritual product: – Products of human civilization. – The result of a long process of intellectual labor. – Goods of special value. + Being a close confidant: – Helps us understand what is good and right in life. + Makes spiritual life richer. + Why books are eternal lights of human intelligence: + Books help us understand all fields: - Natural Sciences. - Social science. + Books help us overcome the distance of space and time: – Understand the past, present, future. – Understand the situation at home and abroad. b. Comments on the effects of the book: + Good books:. – Expand your mind and improve your understanding. – Helps people discover their own value. – Giving wings to creative dreams and aspirations. + Bad books: – Propagate a selfish, pragmatic lifestyle. – Sowing negative thoughts and emotions, negatively affecting personality formation. c. Attitude towards reading: – Create a habit and maintain long-term interest in reading. – Need to choose good books to read. – Criticize and condemn books with bad content.
Bài làm: Để thành đạt trong cuộc đời, người ta cần đến rất nhiều yếu tố: lý tưởng, hoài bão, mục đích, ý chí, nghị lực, niềm tin, sự khẳng định, lòng tự hào và tài năng… Nhưng có một điều quan trọng không thể thiếu là tính khiêm tốn bởi nó có ảnh hưởng rất lớn tới thành công hay thất bại của sự nghiệp cá nhân. Bàn về vấn đề này, Lâm Ngữ Đường, một học giả Trung Hoa đã viết: Lòng khiêm tôn có thể coi là một bản tính căn bản cho con người trong nghệ thuật xử thế và đối đãi với sự vật. (Trích trong tập Tinh hoa xử thế). Đây là một nhận xét chí lí, một lời khuyên thiết thực cho mọi người, nhất là tuổi trẻ. Tâm lí của tuổi mới lớn là hăng hái, bồng bột, tự tin và hiếu thắng. Cái gì mình cũng hay, cái gì mình cũng làm được, cái gì mình cũng hơn người khác. Tự tin vào bản thân là điều nên có, nhưng niềm tin ấy phải được xây dựng trên cơ sở là đức và tài thì nó mới có thể biến thành hiện thực. Còn tự cao tự đại một cách ảo tưởng, mù quáng thì lại là một tật xấu đáng ghét, thường gây ra những hậu quả tiêu cực. Muốn đánh giá đúng đắn, chính xác về bản thân, mỗi người cần phải sáng suốt, khách quan và khiêm tốn. Khiêm tốn không làm lu mờ tài năng, tên tuổi mà ngược lại nó nâng cao giá trị cá nhân con người trong xã hội. Đức tính khiêm tốn là biểu hiện phẩm giá tốt đẹp của con người đứng đắn, có trình độ hiểu biết và tầm nhìn xa rộng. Phần lớn những người thành công trong cuộc đời đều có tính khiêm tốn. Trong giao tiếp hằng ngày, việc gây được thiện cảm với những người xung quanh sẽ tạo cho ta nhiều thuận lợi trong công việc. Khiêm tốn lắng nghe, khiêm tốn học hỏi để rút ra được những kinh nghiệm bổ ích cho bản thân, điều đó quan trọng vô cùng. Những thói xấu như chủ quan, tự phụ, kiêu căng, ngạo mạn… chỉ dẫn đến thất bại mà thôi. Đức khiêm tốn có vai trò quan trọng như vậy nhưng khiêm tốn là gì? Nó có đồng nghĩa với mặc cảm tự ti, với sự nhu nhược hay không? Hoàn toàn không phải như vậy! Khiêm tôn là thái độ hòa nhã, nhún nhường của con người có văn hoá trong khi ứng xử. Người khiêm tốn là người có bản lĩnh làm chủ được mình, làm chủ được tình huống giao tiếp, luôn tỏ ra tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác. Trong công việc, họ không bao giờ thoả mãn với những gì mình đã đạt được mà luôn cố gắng phấn đấu vươn lên để đạt được những kết quả cao hơn, mĩ mãn hơn. Chính vì thế mà họ thường gặt hái được thành công. Khiêm tốn được coi là bản tính căn bản, tức là cái gốc của đạo đức, phẩm giá con người, cho nên chúng ta phải rèn luyện cho mình đức khiêm tốn. Cuộc đời này là một cuộc đấu tranh bất tận mà tài năng của mỗi con người chỉ nhỏ bé như một giọt nước giữa đại dương. Sự hiểu biết cùa mỗi cá nhân là không đáng kể, không thể đem so sánh với mọi người. Cho dù có tài giỏi đến đâu thì chúng ta vẫn phải học hỏi và học hỏi suốt đời để không ngừng mở mang hiểu biết, nâng cao khả năng làm việc, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Có thể lấy dẫn chứng thật sinh động và gần gũi là cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chủ tịch. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về Bác như sau: Như đỉnh non cao tự giấu hình, Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh.
Assignment: To succeed in life, people need many factors: ideals, ambitions, goals, will, energy, faith, affirmation, pride and talent... But there is one important thing. Humility is indispensable because it has a great influence on the success or failure of an individual's career. Discussing this issue, Lam Ngu Duong, a Chinese scholar, wrote: Humility can be considered a basic nature for humans in the art of dealing with things. (Excerpt from the book Essence of conduct). This is a reasonable comment and practical advice for everyone, especially the youth. The psychology of adolescence is enthusiasm, impulsivity, confidence and aggressiveness. I am good at everything, I can do everything, I am better than others. Confidence in yourself is something you should have, but that belief must be built on a foundation of virtue and talent for it to become a reality. Blind, delusional egotism is an obnoxious habit, often causing negative consequences. To make a correct and accurate assessment of oneself, each person needs to be wise, objective and humble. Humility does not overshadow talent or reputation, but on the contrary, it enhances the individual's value in society. The virtue of humility is an expression of the good dignity of a decent person, with a level of knowledge and broad vision. Most people who are successful in life are humble. In daily communication, creating sympathy with those around us will bring us many advantages at work. Humbly listening, humbly learning to gain useful experiences for yourself, that is extremely important. Bad habits such as subjectivity, conceit, arrogance, arrogance... only lead to failure. Humility plays such an important role, but what is humility? Is it synonymous with inferiority complex, with weakness? Completely not right! Humility is the gentle and humble attitude of a cultured person when behaving. A humble person is someone who has the ability to control themselves, control communication situations, and always show respect for themselves and others. At work, they are never satisfied with what they have achieved but always strive to achieve higher and more satisfying results. That's why they often achieve success. Humility is considered a basic nature, that is, the root of morality and human dignity, so we must train ourselves to be humble. This life is an endless struggle where each person's talent is as small as a drop of water in the ocean. Each individual's understanding is insignificant and cannot be compared with everyone else. No matter how talented we are, we still have to learn and study throughout our lives to constantly expand our knowledge and improve our ability to work, so that we can meet the increasing demands of society. A very vivid and close example can be cited as the life and career of President Ho. Poet To Huu wrote about Uncle Ho as follows: Like a high mountain peak that hides itself, In the green forest, hate vain glory.
Bài làm Cuộc đời là một môi trường tranh đua quyết liệt. Để có thể sống một cách mạnh mẽ, người ta rất cần đến lòng can đảm. Lòng can đảm có ảnh hưởng rất lớn tới sự thành công hay thất bại. Tục ngữ Đức có câu: Mất tiền là mất nhỏ, mất danh dự là mất lớn, mất can đảm là mất hết. Câu tục ngữ trên có ba vế, liên quan chặt chẽ với nhau về mặt ý nghĩa và có sự tăng cấp theo mức độ giá trị con người. Tiền tượng trưng cho sự giàu có. Danh dự tượng trưng cho uy tín, tên tuổi. Can đảm tượng trưng cho ý chí, nghị lực, khí phách của con người. Thông thường, ai cũng thích làm ra được nhiều tiền để sống đầy đủ, sung sướng nhưng thực ra, số người giàu có trong xã hội chỉ là số ít. Phần đông chỉ đủ ăn và dành dụm được một chút để phòng khi cơ nhỡ, ốm đau… Do đó mà người ta rất quý đồng tiền. Dân gian có câu: Đồng tiền liền khúc ruột. Đồng tiền được đổi bằng mồ hôi nước mắt lại càng đáng quý, song mất tiền là mất nhỏ vì ta vẫn có thể tiếp tục kiếm tiền bằng cách cần cù, chăm chỉ làm việc. Mất tiền tất nhiên là buồn, nhưng nỗi buồn ấy cũng không ghê gớm đến mức là huỷ hoại cuộc đời của một con người. Thực tế cho thấy để đạt được mục đích làm giàu, nhiều doanh nhân phải chấp nhận những thất bại tạm thời, nhưng với sự kiên nhẫn thua keo này, bày keo khác và lòng can đảm, cuối cùng họ cũng thành công. So với tiền bạc, danh dự con người đáng quý gấp ngàn lần. Ông cha ta đã dạy: Cọp chết để da, người ta chết đề tiếng, hay: Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng; Chết vinh hơn sống nhục… nhấn mạnh đến tầm quan trọng của danh dự. Ngạn ngữ Nga cũng có câu: Hãy giữ gìn chiếc áo từ lúc còn mới. Hãy giữ gìn danh dự từ lúc còn trẻ trung. Tiền bạc khó kiếm nhưng còn kiếm được chứ danh dự thì chỉ có thế tự thân tạo dựng nên và nhiều khi phải tạo dựng cả đời người mới có được. Danh dự ở đây có thể hiểu là uy tín, thể diện, tiếng tăm của một cá nhân trước gia đình và xã hội. Danh dự là một giá trị tinh thần không thể bán mua, đổi chác, không thể đem ra mà cân đo, đong đếm. Danh dự được coi là thước đo phẩm giá con người nên mất danh dự là mất lớn, khó có thể lấy lại được. Mất danh dự đồng nghĩa với sự tủi nhục, đau đớn, là thiệt hại nặng nể về mặt tinh thần. Những bậc chính nhân quân tử, những người có học xưa kia thường quý trọng danh dự hơn cả mạng sống của mình. Suy xét kĩ, chúng ta sẽ thấy tiền bạc, danh dự được tạo nên bởi nhiều yếu tố, mà yếu tố quan trọng là lòng can đảm, tức ý chí và nghị lực của mỗi con người. Sống là chiến đấu, chiến đấu không ngừng suốt cả cuộc đời; là vật lộn với vô vàn thử thách, gian nan trên bước đường mưu sinh, tạo dựng sự nghiệp. Chiến đấu với những thói hư tật xấu trong chính bản thân mình mới thực sự là cuộc chiến đấu gay go, ác liệt nhất. Lòng can đảm giúp ta giữ vững lí tưởng, lập trường, mục đích sống. Lòng can đảm tạo ra sức mạnh thúc đẩy chúng ta phấn đấu để tiến tới thành công. Mất can đảm là mất tất cả. Đúng như vậy! Không có lòng can đảm, người lính không thể tiều diệt quân thù. Không có lòng can đảm, một con người bình thường không đủ nghị lực để làm bất cứ việc gì, dù là nhỏ. Không có lòng can đảm, một nhà bác học không thể vượt qua hết thất bại này đến thất bại khác để đi tới thành công. Mất can đảm tức là nhu nhược, yếu hèn, cam chịu mọi nghịch cảnh của số phận. Một con người như thế thì còn sống mà như đã chết, cuộc đời trở nên hoàn toàn vô nghĩa. Vô nghĩa với bản thân, gia đình và xã hội, không đáng được so sánh với những loài vật bé nhỏ mà hữu ích như con ong, cái kiến. Đường đời vạn nẻo lắm chông gai và nhiều sóng gió vấp ngã, thất bại là lẽ đương nhiên. Mỗi lần ngã là một lần bớt dại (Tố Hữu). Thất bại là mẹ thành công… Đó là những bài học nhân sinh thiết thực, là hành trang tư tưởng không thể thiếu của mỗi chúng ta khi bước vào đời. Lòng can đảm sẽ giúp ta đứng vững, có đủ trí tuệ, nghị lực và sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi thử thách gian nan, khẳng định được vị trí của mình trong cuộc sống.
Assignment Life is a fiercely competitive environment. To be able to live strongly, people need courage. Courage has a great influence on success or failure. There is a German proverb: Losing money is a small loss, losing honor is a big loss, losing courage is losing everything. The above proverb has three parts, closely related to each other in meaning and increases in level according to the level of human value. Money symbolizes wealth. Honor symbolizes prestige and name. Courage symbolizes human will, energy, and mettle. Normally, everyone wants to make a lot of money to live a full and happy life, but in reality, the number of rich people in society is only a few. Most people only have enough to eat and save a little in case of misfortune or illness... That's why people value money very much. There is a folk saying: Money is a piece of cake. Money exchanged with sweat and tears is even more valuable, but losing money is a small loss because we can still continue to make money by being diligent and working hard. Losing money is of course sad, but that sadness is not so terrible that it destroys a person's life. Reality shows that to achieve the goal of getting rich, many entrepreneurs have to accept temporary failures, but with the patience to lose this one, try another and courage, they eventually succeed. Compared to money, human honor is a thousand times more valuable. Our ancestors taught: When a tiger dies, he leaves his skin, but when a person dies, he leaves his reputation, or: Buying fame is thirty thousand, selling fame is three dong; Dying with honor is better than living with shame... emphasizing the importance of honor. There is also a Russian proverb: Take care of your shirt from when it was new. Preserve your honor from a young age. Money is hard to find, but it can be earned, but honor can only be created by oneself and sometimes it takes a lifetime to earn it. Honor here can be understood as an individual's prestige, face, and reputation before family and society. Honor is a spiritual value that cannot be bought, sold, exchanged, or weighed or measured. Honor is considered a measure of human dignity, so losing honor is a big loss and difficult to regain. Loss of honor means humiliation, pain, and serious mental damage. The righteous men and educated people of the past often valued honor more than their lives. If we look carefully, we will see that money and honor are created by many factors, the important factor of which is courage, that is, the will and energy of each person. Living is fighting, fighting constantly throughout your life; is struggling with countless challenges and hardships on the path to making a living and building a career. Fighting bad habits within yourself is truly the most difficult and fierce battle. Courage helps us maintain our ideals, stance, and life purpose. Courage creates the strength that motivates us to strive towards success. Losing courage is losing everything. Exactly! Without courage, a soldier cannot destroy the enemy. Without courage, a normal person does not have enough strength to do anything, no matter how small. Without courage, a scientist cannot overcome failure after failure to reach success. Losing courage means being weak, weak, and resigned to all the adversities of fate. A person like that is alive but as if dead, life becomes completely meaningless. Meaningless to oneself, family and society, not worthy of being compared to small but useful animals like bees and ants. The path of life is full of thorns and many ups and downs, and failure is natural. Every time you fall, you become less foolish (To Huu). Failure is the mother of success... These are practical life lessons, indispensable ideological baggage for each of us when entering life. Courage will help us stand firm, have enough intelligence, energy and strength to fight and win all difficult challenges, affirming our position in life.
I. DÀN Ý 1. Mở bài: – Trong cuộc sống, bên cạnh nhiều người lấy cống hiến cho dân, cho nước làm niềm vui thì còn có một số kẻ sống thực dụng, ích kỉ chỉ biết thu lợi cho riêng mình. – Phê phán lối sống đó, dân gian có câu: Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau. 2. Thân bài: a. Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ: * Nghĩa hiển ngôn: – Vế 1: Ăn cỗ đi trước: sẽ được xếp ngồi chỗ tốt, ăn nhiều món ngon. – Vế 2: Lội nước đi sau: để tránh được chỗ nguy hiểm mà người đi trước đã gặp phải. * Nghĩa hàm ngôn: – Khi hưởng thụ thì có mặt trước để giành quyền lợi về mình càng nhiều càng tốt. – Khi cảm thấy có sự bất trắc, không thuận lợi cho bản thân thì né tránh, đùn đẩy phần vất vả, hiểm nguy cho người khác b. Bình luận: * Có thể bình luận câu tục ngữ trên theo hướng như sau: – Là quan điểm sống thực dụng của những kẻ cơ hội, ích kỉ. – Chỉ muốn giành thuận lợi về mình, đẩy khó khăn vất vả, thậm chí hiểm nguy cho người khác, đó là cách sống đi ngược lại đạo lí dân tộc. – Đây không phải là cách sống khôn ngoan của con người chân chính mà chĩ là sự láu cá, ranh vặt. Nó dễ đẩy con người đến những hành vi tội lỗi: (vô trách nhiệm, dối trá, lừa gạt…). Kẻ cơ hội, ích kỉ không thể làm nên việc lớn vì thiếu hẳn nền tảng đạo đức là tấm lòng nhân ái, dám hi sinh vì người khác. Trước sau rồi kẻ đó cũng bộc lộ rõ bản chất xấu xa và sẽ bị dư luận lên án. * Quan điểm sống đúng đắn nhất: – Là quan điểm Bác Hồ đã dạy: Mình vì mọi người, mọi người vì mình. – Coi làm việc, công hiến cho gia đình, xã hội là niềm vui, là hạnh phúc của bản thân. – Biết gắn quyền lợi cá nhân với quyền lợi của cả cộng đồng. – Nếu ai cũng có quan điểm sống đúng đắn như trên thì những thái độ sông ích kỉ, tiêu cực sẽ bị đẩy lùi; xã hội sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. 3. Kết bài:
I. OUTLINE 1. Introduction: – In life, besides many people who take joy in contributing to the people and the country, there are also some people who are pragmatic and selfish who only know how to profit for themselves. - Criticizing that lifestyle, there is a popular saying: Eat first, wade later. 2. Body of the article: a. Explain the meaning of the proverb: * Explicit meaning: – Option 1: Eat the feast first: you will be given a good seat and eat many delicious dishes. – Part 2: Wading behind: to avoid the dangerous place that the person ahead has encountered. * Implicit meaning: – When enjoying, be present first to gain as many benefits as possible for yourself. – When you feel there is uncertainty or unfavorable things for yourself, avoid and push the hard and dangerous parts to others. b. Comment: * The above proverb can be commented in the following direction: – Is the pragmatic life perspective of opportunistic and selfish people. – Just wanting to gain advantages for yourself, pushing difficulties, hardships, and even dangers to others, that is a way of life that goes against national morality. – This is not a wise way of living for a true person, but is just cunning and cunning. It easily pushes people to sinful acts: (irresponsibility, lying, cheating...). Opportunistic and selfish people cannot do great things because they lack the moral foundation of compassion and daring to sacrifice for others. Sooner or later, that person will clearly reveal his evil nature and will be condemned by public opinion. * The most correct view of life: – This is the viewpoint that Uncle Ho taught: I am for everyone, everyone is for me. – Consider working and contributing to family and society as joy and personal happiness. – Know how to combine personal interests with the interests of the whole community. – If everyone has the correct life perspective as above, selfish and negative attitudes will be repelled; Society will get better and better. 3. Conclusion:
Bài làm Từ ngày xưa, có thể nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giữa người với người. Trong ngôn ngữ thì tiếng nói có vai trò hết sức to lớn để mọi người giao tiếp với nhau. Có nhiều câu ca dao, tục ngữ khẳng định tầm quan trọng của lời nói như: Lời nói gói vàng; Nói ngọt lọt đến xương; Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau; Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe … Bằng kinh nghiệm đúc kết được trong quá trình ứng xử, giao tiếp, để nhấn mạnh sự cần thiết của việc học nói ông cha ta đã khuyên nhủ con cháu: Học ăn, học nói, học gói, học mở. Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều điều con người phải học. Ăn là việc tưởng chừng dễ nhất, nhưng thực ra không dễ chút nào. Cách ăn uống phần nào thể hiện tính cách con người, cho nên muốn tỏ ra là người có văn hóa, chúng ta phải học ăn. Những bậc cha mẹ lúc kén con dâu thường xem xét rất kĩ về công, dung, ngôn, hạnh, mà cụ thể là đường ăn nết ở, lời nói, dáng đi sao cho đoan trang, khéo léo, dịu dàng, vừa mắt, vừa ý mọi người. Muốn trở thành người tốt, chúng ta phải học nhiều điều. Học nói có ý nghĩa rất lớn để con người tự hoàn thiện mình. Trong thực tế, vốn ngôn ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ của từng người có khác nhau. Nó thể hiện trình độ tư duy và năng lực làm việc của mỗi người. Sự thực cho thấy, con đường nhanh nhất gây được, thiện cảm với người mà mình giao tiếp thì không gì tốt hơn là lời nói. Mà muốn đạt hiệu quả cao trong giao tiếp thì trước hết người nói phải hiểu điều mình muốn nói và nói sao cho người nghe hiểu được điều đó. Thiếu vốn từ, người nói sẽ gặp khó khăn khi diễn đạt. Muốn nói năng được trôi chảy và chính xác, chúng ta phải học cách nói. Trước hết là phải nắm chắc vốn từ mình đã có bằng cách phải nhớ được nghĩa của từ và cách sử dụng từ đó. Khi nói, ta phải chọn từ cho thích hợp. Khi giao tiếp, ta không chỉ dùng từ, dùng câu mà còn dùng đến đoạn, có khi dùng cả văn bản để trao đổi ý tưởng tới mọi người. Để giúp mọi người học nói được tốt, câu tục ngữ đã dùng hình ảnh học gói, học mở vừa cụ thể, vừa dễ hiểu. Muốn gói một món đồ, ta cần biết gói gì trước, gói gì sau, cũng như khi mở một món đồ, ta lại phải biết mở cái gì trước, mở cái gì sau. Vậy khi nói, ta cũng phải nghĩ xem nên nói điều gì trước, nói điều gì sau, luôn cân nhắc thận trọng không nên bộp chộp, vội vàng. Như trên đã nói, ca dao từ xưa đã khéo léo dạy mọi người cách nói: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà mà nói cho vừa lòng nhau. Lựa lời là lựa chọn từ ngữ thích hợp với đối tượng giao tiếp. Việc lựa lời thể hiện khả năng sử dụng ngôn ngữ của mỗi cá nhân. Tiếng Việt giàu đẹp và phong phú về mặt ngữ nghĩa. Hiện tượng đồng âm khác nghĩa khá phổ biến hoặc cùng một sự vật hay một hiện tượng lại có nhiều cách gọi khác nhau. Vì thế khi giao tiếp với đối tượng nào, ta phải có cách nói phù hợp với đối tượng ấy. Khi nói với người bề trên phải rất cẩn trọng trong việc lựa lời để thể hiện thái độ lễ phép và kính trọng. Với người dưới, ta phải nói sao cho đứng đắn, dễ nghe, dễ hiểu. Với bạn bè, ta có thể dùng những từ thân mật. Lời nói làm vừa lòng nhau là lời nói tạo ra được sự cảm thông và hiểu biết, một điều kiện không thể thiếu trong giao tiếp. Một lời nói hợp cảnh, hợp tình sẽ làm cho mối quan hệ thêm tốt đẹp và việc làm thêm hiệu quả. Một lời nói hớ hênh, vô ý sẽ làm hỏng hết mọi dự định, dân gian thường gọi là vạ miệng. Chọn được những lời nói thích hợp chính là ta đã làm tất việc lựa lời. Mỗi người có một vốn ngôn ngữ và cách diễn đạt khác nhau cho nên mới có người khéo nói, người vụng nói, người nói ngọt, người nói xẵng. Tuy nhiên, muốn có khả năng lựa lời thì chứng ta phải học nói. Trước hết là học ở những người thân trong gia đình, rồi học ở thầy cô giáo, bạn bè ở trường, ở lớp, học ở ngoài xã hội. Học cái hay cái đẹp trong cách dùng từ ngữ chính xác; trong cách đặt câu đúng ngữ pháp. Học lối diễn đạt giản dị, tự nhiên mà vẫn thể hiện được đầy đủ thông tin cần truyền đạt tới người nghe. Từ nói đúng, chúng ta cố gắng rèn luyện để có thể nói hay, tức là cách nói diễn cảm có sức thuyết phục đối với người nghe. Để diễn tả hiệu quả của cách nói này, tục ngữ có câu: Nói ngọt lọt đến xương. Ý nghĩa của từ ngọt ở đây chỉ sự nhẹ nhàng, khéo léo trong diễn đạt chứ không phải là sự cố tình làm ra vẻ ngọt ngào với mục đích xấu để huyễn hoặc lừa dối người nghe. Một lời nói êm tai nhưng giả dối không thể coi là một hành vi giao tiếp đúng đắn.
Assignment Since ancient times, it can be said that language is a particularly important means of communication between people. In language, voice plays a huge role in helping people communicate with each other. There are many folk songs and proverbs that affirm the importance of words such as: Words are wrapped in gold; Sweet talk reaches the bones; Words do not cost money to buy. Choose your words to please each other; Wise birds chirp freely, Wise people speak softly and easily heard... Using experience gained in the process of behavior and communication, to emphasize the necessity of learning to speak, our ancestors advised their children: Learning to eat, learn to speak, learning packages, school open. In everyday life, there are many things people have to learn. Eating is seemingly the easiest thing, but in fact it is not easy at all. The way we eat partly reflects a person's personality, so if we want to appear cultured, we must learn to eat. When choosing a daughter-in-law, parents often carefully consider their merits, content, language, and behavior, specifically their behavior, speech, and gait so that they are presentable, skillful, gentle, pleasing to the eye, pleases everyone. To become a good person, we must learn many things. Learning to speak has great significance for people to improve themselves. In reality, each person's language skills and language usage are different. It shows the level of thinking and working capacity of each person. The truth shows that the fastest way to create sympathy for the person you communicate with is nothing better than words. To achieve high effectiveness in communication, the speaker must first understand what he wants to say and say it in a way that the listener can understand. Without vocabulary, the speaker will have difficulty expressing. To speak fluently and accurately, we must learn how to speak. First of all, you must firmly grasp the vocabulary you already have by remembering the meaning of the word and how to use it. When speaking, we must choose appropriate words. When communicating, we not only use words and sentences but also paragraphs and sometimes even text to exchange ideas with people. To help people learn to speak well, the proverb uses the images of packaged learning and open learning that are both specific and easy to understand. To wrap an item, we need to know what to pack first and what to pack next, just like when we open an item, we have to know what to open first and what to open next. So when speaking, we also have to think about what to say first and what to say later, always consider carefully and not rush or rush. As mentioned above, ancient folk songs have skillfully taught people how to say: Words cost nothing to buy, Choose your words to please each other. Choosing words is choosing words that are appropriate for the subject of communication. The choice of words demonstrates each individual's ability to use language. Vietnamese is rich in beauty and semantics. The phenomenon of homonyms with different meanings is quite common or the same thing or phenomenon has many different names. Therefore, when communicating with any object, we must have a way of speaking appropriate to that object. When speaking to superiors, you must be very careful in choosing your words to show politeness and respect. With subordinates, we must speak in a way that is correct, easy to listen to, and easy to understand. With friends, we can use intimate words. Words that please each other are words that create sympathy and understanding, an indispensable condition in communication. A suitable and appropriate word will make the relationship better and work more effective. A careless or careless word will ruin all plans, and people often call it blasphemy. Choosing the right words means we have done all the choosing of the words. Each person has a different language and expression, so there are people who are good at speaking, people who are clumsy, people who speak sweetly, and people who speak harshly. However, if we want to be able to choose our words, we must learn to speak. First of all, learn from family members, then learn from teachers, friends at school, in class, and learn in society. Learn the beauty in using words correctly; in grammatically correct sentences. Learn simple, natural expressions that still fully express the information that needs to be conveyed to the listener. From speaking correctly, we try to practice to be able to speak well, that is, to speak expressively and convincingly to the listener. To describe the effectiveness of this way of speaking, there is a proverb: Sweet speech reaches the bone. The meaning of the word sweet here refers to gentleness and skill in expression, not the deliberate act of appearing sweet with bad intentions to deceive or deceive the listener. A pleasant but false word cannot be considered a correct communication act.
Bài làm Dân tộc Việt Nam có truyền thống tôn trọng đạo lí từ ngàn xưa. Trong các quan hệ tình cảm thì quan hệ giữa cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Trách nhiệm lớn lao của cha mẹ là nuôi dạy các con nên người. Ngược lại, bổn phận của con cái là phải lễ phép và vâng lời cha mẹ. Vâng lời là biểu hiện của lòng hiếu thảo, của đạo làm con. Nếu trái lời cha mẹ, phụ lòng cha mẹ, con cái khó trở nên người tốt. Để khẳng định vai trò răn dạy, chỉ bảo của cha mẹ đối với con cái, người xưa đã có câu: Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư Bài học lớn về đạo làm người được rút ra từ một thực tế hết sức giản đơn: Mua cá ở chợ về, muốn giữ được tươi lâu, ta phải ướp muối. Cá thấm muối, thịt săn chắc, khi chế biến thành món ăn, hương vị sẽ đậm đà. Ngược lại nếu để lâu không ướp muối, cá sẽ ươn, ăn mất ngon. Con cái không nghe lời dạy bảo của cha mẹ khác nào như cá không ăn muối, sẽ hư hỏng, không thể trở thành người tốt được. Vấn đề mà câu tục ngữ đặt ra rất đúng. Sự hiểu biết, từng trải trong xã hội khiến cha mẹ có nhiều kinh nghiệm sống. Những kinh nghiệm ấy phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, có khi cả bằng máu nên lại càng quý báu. Với tình thương yêu vô bờ, với trách nhiệm lớn lao, các bậc làm cha, làm mẹ không những tận tình mà còn không tiếc cả tâm sức của mình để chăm lo nuôi dạy con cái ngày một lớn khôn cả về thể xác lẫn tâm hồn. Con vắng mình sốt mẩy, cha mẹ lo đêm, lo ngày. Con học hành được điểm tốt, cha mẹ vui mừng. Con có biểu hiện không ngoan, cha mẹ đau lòng xót ruột, tìm cách dạy dỗ, giáo dục. Người xưa có câu: Nước mắt chảy xuôi; lại có câu: Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. Mong muốn duy nhất của cha mẹ là con cái nên người, tức là trở thành người tốt, có ích cho xã hội, làm rạng rỡ gia đình, Tổ quốc. Cho nên, những bậc cha mẹ chân chính đều thiết tha dạy con những điều đúng đắn, tâm huyết, có khi như là cắt ruột truyền cho con. Đó là nhiệm vụ, là lo toan, mong ước sâu xa, tha thiết nhất của cha mẹ. Phận làm con nên biết rằng: trong đường đời, người thầy đầu tiên của con cái chính là cha mẹ. Cha mẹ dìu dắt con những bước chập chững đầu tiên. Cha mẹ dạy con những bài học đầu tiên. Cha mẹ chuẩn bị hành trang cho mỗi đứa con khi bước vào đời. Vì vậy, nghe lời, vâng lời cha mẹ trước tiên là biết vâng theo, tập theo cái đúng. Sau đó là tự mình nhận thấy đúng mà tự giác tiếp thu. Bấy giờ mới rõ những điều cha mẹ khuyên răn, dạy dỗ là điều hay, lẽ phải. Biết nghe, biết vâng lời cha mẹ là tỏ ra biết kính, biết thương, hiếu thảo với cha mẹ. Trước đây, ông cha chúng ta quan niệm rằng con cái phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ; chỉ một lòng thờ mẹ kính cha, nhất thiết không được trái lời. Ngày nay, quan niệm truyền thống ấy có phần thay đổi. Con cái vâng lời cha mẹ, đồng thời cũng được phép bàn bạc, góp ý với cha mẹ để công việc đạt kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, khi góp ý, con cái phải giữ thái độ lễ phép và đúng mực. Cha mẹ gánh vác trách nhiệm chính trong gia đình nên có quyền quyết định mọi việc, song cha mẹ cũng nên biết lắng nghe tâm tư tình cảm của các con, hiểu rõ tính nết của con, để từ đó đưa ra những biện pháp giáo dục thích hợp, có hiệu quả hơn.
Assignment The Vietnamese people have a tradition of respecting morality since ancient times. Among emotional relationships, the relationship between parents and children is the most sacred. The great responsibility of parents is to raise their children to be good people. On the contrary, it is the duty of children to be polite and obedient to their parents. Obedience is an expression of filial piety and filial piety. If children disobey their parents' orders or disobey them, it will be difficult for children to become good people. To affirm the role of parents in teaching and advising their children, the ancients had a saying: Fish do not eat salt spoilage, I force my parents in a hundred ways and I'm a bad child The great lesson about human morality is drawn from a very simple fact: Buying fish from the market, if you want to keep it fresh for a long time, you must salt it. The fish absorbs salt, the meat is firm, and when processed into a dish, the flavor will be rich. On the contrary, if left unsalted for a long time, the fish will spoil and lose its taste. Children who do not listen to their parents' teachings are like fish that do not eat salt. They will be spoiled and unable to become good people. The problem that the proverb raises is very correct. Understanding and experience in society give parents a lot of life experience. Those experiences have to be paid for with sweat, tears, and sometimes even blood, so they are even more precious. With boundless love and great responsibility, fathers and mothers are not only dedicated but also spare no effort in raising their children to grow both physically and mentally. soul. The child is absent and feels feverish, the parents worry night and day. The child gets good grades in school and the parents are happy. If the child behaves badly, the parents are heartbroken and seek ways to teach and educate. There is an ancient saying: Tears flow freely; There is a saying: Only by raising children do you know the hearts of your parents. The only wish of parents is for their children to become good people, that is, to become good people, useful to society, and to brighten the family and the Fatherland. Therefore, true parents are eager to teach their children the right things, with enthusiasm, sometimes even cutting their intestines to pass it on to their children. That is the duty, concern, and deepest and most earnest wish of parents. Children should know that: in life, the first teachers of children are their parents. Parents guide their children through their first steps. Parents teach their children the first lessons. Parents prepare for each child when entering life. Therefore, listening and obeying your parents first means knowing how to obey and practice what is right. After that, you will realize that it is correct and voluntarily accept it. Only then will it be clear that what parents advise and teach is good and right. Knowing how to listen and obey your parents means showing respect, love, and filial piety to your parents. Previously, our ancestors believed that children must absolutely obey their parents; only one heart to worship one's mother and respect one's father, one must not disobey. Today, that traditional concept has changed somewhat. Children obey their parents, and are also allowed to discuss and give suggestions to their parents to achieve better work results. However, when giving feedback, children must maintain a polite and proper attitude. Parents shoulder the main responsibility in the family, so they have the right to decide everything, but they should also know how to listen to their children's feelings and emotions, understand their children's personalities, and then come up with educational measures. appropriate and more effective education.
Bài làm Trong cuộc sống hằng ngày, sự tác động của hoàn cảnh khách, quan, của dư luận đối với mỗi con người là chuyện tất yếu. Song, điều cơ bản là thái độ của con người trước những tác động đó như thế nào? Nên chủ động, tự tin vào mình hay lệ thuộc vào hoàn cảnh? Từ xưa, nhân dân ta đả có nhận thức rất đúng đắn về vai trò của ý chí, lập trường trong hành động, coi đó là điều kiện quan trọng quyết định thành công hay thất bại. Đồng thời coi ý chí và nghị lực là phẩm chất hàng đầu của người lao động. Quan điểm trên được phản ánh trong câu ca dao mộc mạc giống như một lời khuyên nhủ chân tình: Ai ơi giữ chí cho bền, Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai. Không phải ngẫu nhiên người xưa mượn chuyện làm nhà để nói lên ý chí con người. Có ba việc lớn trong đời mà người ta phải làm. Đó là: Làm nhà, lấy vợ, tậu trâu. Ba việc ấy thể hiện bản lĩnh và khả năng của con người. Trong chuyện làm nhà thì việc chọn hướng, đổ nền là cốt yếu. Phải chọn hướng nhà sáng sủa thoáng mát để cuộc sống trở nên dễ chịu, bảo đảm sức khoẻ. Phải để nền cho cao, cho chắc để tránh ẩm thấp, tối tăm… Những việc ấy, người làm nhà phải tự chọn, tự quyết, một khi thấy như thế là đúng đắn thì không thể vì lời bàn ra tán vào của những người xung quanh mà hoang mang, dao động, thay đổi chủ kiến ban đầu. Nghĩa chính của câu ca dao trên là vậy, và trên cơ sở đó, người xưa muốn bày tỏ quan điểm của mình về tính mục đích, ý chí, nghị lực trong hành động. Thông thường, trước khi bắt tay vào làm một việc gì đó, người ta đều đặt ra mục đích và luôn luôn mong ước đạt được mục đích. Nhưng có mục đích không thôi thì chưa đủ mà phải có ý chí, nghị lực, cùng quyết tâm vượt mọi khó khăn trở ngại mới mong gặt hái được kết quả tốt đẹp. Trong quá trình làm việc, không phải tất cả đều dễ dàng, suôn sẻ. Người tiến hành công việc sẽ gặp những khó khăn trong dự tính và cả ngoài dự tính, tránh sao khỏi lời bàn tán xung quanh. Thực tế cho thấy không ít người do quá phụ thuộc vào dư luận mà hỏng việc, bởi chín người mười ý, chẳng ai giống ai. Giống y anh chàng đẽo cày giữa đường trong truyện cổ dân gian, vừa đáng cười vừa đáng thương. Trước những dư luận phức tạp, cần phải có lập trường, ý chí vững vàng và quyết tâm cao. Vì ý chí sẽ đem lại sức mạnh và óc sáng tạo cho con người, giúp con người đi đến đích cuối cùng. Vai trò của ý chí lớn như vậy nên nó được coi là phẩm chất cao quý hàng đầu của người lao động.
Assignment In everyday life, the impact of objective circumstances and public opinion on each person is inevitable. However, the basic thing is what is people's attitude towards those impacts? Should I be proactive, confident in myself or dependent on circumstances? Since ancient times, our people have had a very correct awareness of the role of will and stance in action, considering it an important condition that determines success or failure. At the same time, considering will and energy as the top qualities of workers. The above viewpoint is reflected in a simple folk song that resembles a sincere advice: Hey, keep your will strong, No matter who turns the direction and changes the background. It is no coincidence that the ancients used the story of building a house to express human will. There are three big things in life that people must do. That is: Build a house, get married, buy a buffalo. Those three things demonstrate human bravery and ability. When building a house, choosing the direction and pouring the foundation is crucial. You must choose a bright and airy house direction to make life comfortable and ensure health. The foundation must be high and solid to avoid dampness and darkness... Those things, the home builder must choose and decide on their own. Once they see that it is right, they cannot rely on the gossip of others. confused, wavered, and changed their original opinions. That is the main meaning of the folk song above, and on that basis, the ancients wanted to express their views on purpose, will, and energy in action. Usually, before starting to do something, people set a goal and always wish to achieve it. But having a goal alone is not enough, you must have will, energy, and determination to overcome all difficulties and obstacles to achieve good results. During work, not everything is easy or smooth. The person carrying out the work will encounter both expected and unexpected difficulties, avoiding gossip around them. Reality shows that many people fail because they depend too much on public opinion, because nine people have ten opinions, no one is the same. Just like the guy plowing the middle of the road in the folk tale, both laughable and pitiful. In the face of complicated public opinion, it is necessary to have a strong stance, will and determination. Because the will will bring strength and creativity to people, helping people reach their final destination. The role of will is so great that it is considered the top noble quality of workers.
Bài làm Sài Gòn tôi yêu là tùy bút đậm chất thơ được tác giả Minh Hương viết vào cuối tháng 12 – 1990 và in trong tập Nhớ… Sài Gòn (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1994). Nội dung bài văn thể hiện tình cảm yêu mến chân thành, nồng nhiệt và sự gắn bó sâu đậm của tác giả đối với vùng đất trù phú này cùng với những chủ nhân của nó. Mặc dù là tùy bút nhưng câu trúc bài văn có thể chia làm ba đoạn. Đoạn 1 nêu những ấn tượng chung và tình yêu của tác giả đối với Sài Gòn. Đoạn 2 là những nhận xét về đặc điểm thiên nhiên và phong cách riêng của người Sài Gòn. Đoạn 3 khẳng định tình yêu tha thiết của tác giả đối với thành phố mang tên Bác. Những người đã từng sống ở Sài Gòn dù ít hay nhiều đều có chung tâm trạng đi thì nhớ ở thì thương và những ai chưa từng đến thì luôn khao khát được ngắm nhìn tận mắt thành phố được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”, trung tâm công nghiệp, kinh tế lớn nhất của Việt Nam trong thời ki đổi mới. Với độ tuổi ba trăm năm, Sài Gòn là một thành phố trẻ. Nơi đây hội đủ ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Người Sài Gòn rất yêu mảnh đất của mình, nhưng tình yêu của tác giả mới nồng nàn say đắm làm sao. Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây to đương độ nõn nà trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu chăm bón trân trọng giữ cái đô thị ngọc ngà này. Cách so sánh trong hai câu mở đầu hơi lạ: Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. So sánh độ tuổi của một vùng đất với độ tuổi của một con người mới nghe qua tưởng chừng khập khiễng nhưng nó lại gợi cho người đọc sự liên tưởng cụ thể và sinh động. Vùng đất Sài Gòn là kết quả công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi của ông cha. Tuổi của Sài Gòn là ba trăm năm so với bốn ngàn năm tuổi của đất nước thì quả là thành phố này rất trẻ. Sức sống tràn đầy của một đô thị trẻ, đẹp được nhà vàn so sánh với hình ảnh của một cây tơ đương độ nõn nà phơi phới sức xuân. Với đôi mắt trìu mến, nhà văn nhìn đâu cũng thấy yêu thương: Tôi yêu trong nắng sớm một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chửng với trời đang ui ui buồn bã bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh… Điệp từ Tôi yêu đặt ở đầu mỗi câu thể hiện tình cảm chân thành, da diết của nhà văn trước sự đa dạng của thiên nhiên, khí hậu Sài Gòn. Sài Gòn có hai mùa nắng mưa rõ rệt. Bầu trời mùa nào cũng xanh ngăn ngắt, đầy nắng, đầy gió. Tác giả yêu thích những nét rất riêng của mưa nắng Sài Gòn. Sài Gòn không có mưa phùn, mưa ngâu hay mưa dầm kéo dài hết ngày này sang ngày khác như ở miền Bắc. Mưa Sài Gòn thường vào buổi chiều. Có khi đang đi trên đường Đồng Khởi quận Một, cơn mưa ập tới bất ngờ không tránh kịp nhưng về đến đường Bàn Cờ quận Ba thì trời lại trong veo. Vào mùa này, hễ ra khỏi nhà là người Sài Gòn nhắc nhau phải mang áo mưa phòng thân. Sự thay đổi nhanh chóng, đột ngột của thời tiết được tác giả miêu tả bằng hình ảnh thật chính xác và gợi cảm: trời đang ui ui buồn bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Vẫn bằng tình cảm yêu thương, tác giả miêu tả không khí và nhịp sống sôi nổi của Sài Gòn trong những thời khắc khác nhau: Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở… Trong phần đầu bài tùy bút, tác giả đã bộc lộ tình yêu nồng nhiệt, thiết tha của mình đối với Sài Gòn. Vẻ đẹp của Sài Gòn được nhân lên gấp bội trước con mắt chan chứa yêu thương. Tác giả không chỉ yêu màu nắng ngọt ngào mà còn yêu cả những điều tưởng chừng không mấy dễ chịu như sự trái chứng của thời tiết thoắt nắng, thoắt mưa. Cả sự náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm cũng trở thành những cái đáng yêu, đáng nhớ. Tự biết lòng mình yêu Sài Gòn đến mức thiên vị nên tác giả đã biện minh bằng câu ca dao nói về quy luật tâm lí thông thường của con người: Yêu nhau yêu cả đường đi… Một chi tiết nhỏ đáng lưu ý là bài kí này được viết từ năm 1990 mà thời điểm hiện tại chúng ta đang sống đã là năm 2014, tất nhiên bộ mặt Sài Gòn đã có nhiều thay đổi. Đô thị được mở rộng ra nhiều hướng với những con đường trải nhựa phẳng lì thẳng tắp, hai bên san sát nhà cao tầng, cửa kính cửa chớp sáng choang. Những chiếc cầu bê tông sừng sững nối đôi bờ sông, giúp cho tàu xe thuận tiện ngược xuôi trăm nẻo. Sài Gòn đã mang dáng dấp của một thành phố công nghiệp hiện đại thời mở cửa, có mối quan hệ giao lưu rộng rãi với khu vực châu Á và toàn thế giới. Sài Gòn không chỉ đẹp ở cảnh sắc mà còn đẹp ở con người. Con người đã làm cho cảnh sắc Sài Gòn rực rỡ hơn, lung linh hơn. Ở phần đầu bài viết, tác giả miêu tả thiên nhiên Sài Gòn, đến phần sau, tác giả giới thiệu tính cách của người Sài Gòn. Tác giả nhận xét rất đúng về đặc điểm của cư dân Sài Gòn: Ở trên đất địa này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me… mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Mọi người sống hòa hợp với nhau, không phân biệt nguồn gốc, giàu nghèo. Người trên khắp mọi miền đất nước đổ về Sài Gòn lập nghiệp, sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn là mảnh đất giàu tiềm năng, có rất nhiều việc kiếm ra tiền nên: Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác. Sài Gòn là vùng đất trù phú, mỡ màu; là thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế lớn, nhiều trung tâm thương mại sầm uất cung cấp hàng hóa cho cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài qua bến cảng Nhà Rồng rộng lớn và sân bay Tân Sơn Nhất hiện đại. Thành phố Sài Gòn rộng mở và hào phóng là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu. (Đây là con số của những năm 90, còn đến nay, số dân của thành phố đã lên tới gần tám triệu người). Phong cách nổi bật của người Sài Gòn cũng được tác giả nhận xét chân thực và đầy thiện cảm: Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà, dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chân thành, bộc trực… Con gái Sài Gòn có vẻ đẹp rất tự nhiên, dễ thương. Đây là hình ảnh các cô gái Sài Gòn hồi thế kỉ XX: … tóc buông thõng trên vai, trên lưng, có khi tết bím… Đội nón vải trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo. Áo bà ba trắng, đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi. Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng theo cung cách Bến Nghé. Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây. Trong khi giao tiếp, các cô thể hiện nét đẹp kín đáo của người Á Đông: Bây giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá. Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh. Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lạ có vẻ hơi “cổ xưa” nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm, tự ti. Vẻ đẹp của các cô gái được nói tới trên đây vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa mang bản sắc riêng của người Sài Gòn. Ngày nay, những cô gái Sài Gòn đẹp như một vườn hoa muôn màu sắc và ngát hương thơm. Nét đẹp của người Sài Gòn còn thể hiện ở tinh thần kiên cường, anh dũng, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc: Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhất của đất nước thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giói đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975…
Bài làm Sài Gòn tôi yêu là tùy bút đậm chất thơ được tác giả Minh Hương viết vào cuối tháng 12 – 1990 và in trong tập Nhớ… Sài Gòn (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh – 1994). Nội dung bài văn thể hiện tình cảm yêu mến chân thành, nồng nhiệt và sự gắn bó sâu đậm của tác giả đối với vùng đất trù phú này cùng với những chủ nhân của nó. Mặc dù là tùy bút nhưng câu trúc bài văn có thể chia làm ba đoạn. Đoạn 1 nêu những ấn tượng chung và tình yêu của tác giả đối với Sài Gòn. Đoạn 2 là những nhận xét về đặc điểm thiên nhiên và phong cách riêng của người Sài Gòn. Đoạn 3 khẳng định tình yêu tha thiết của tác giả đối với thành phố mang tên Bác. Những người đã từng sống ở Sài Gòn dù ít hay nhiều đều có chung tâm trạng đi thì nhớ ở thì thương và những ai chưa từng đến thì luôn khao khát được ngắm nhìn tận mắt thành phố được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”, trung tâm công nghiệp, kinh tế lớn nhất của Việt Nam trong thời ki đổi mới. Với độ tuổi ba trăm năm, Sài Gòn là một thành phố trẻ. Nơi đây hội đủ ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Người Sài Gòn rất yêu mảnh đất của mình, nhưng tình yêu của tác giả mới nồng nàn say đắm làm sao. Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. Ba trăm năm so với năm ngàn năm tuổi của Đất nước thì cái đô thị này còn xuân chán. Sài Gòn cứ trẻ hoài như một cây to đương độ nõn nà trên đà thay da, đổi thịt, miễn là cư dân ngày nay và cả ngày mai biết cách tưới tiêu chăm bón trân trọng giữ cái đô thị ngọc ngà này. Cách so sánh trong hai câu mở đầu hơi lạ: Sài Gòn vẫn trẻ. Tôi thì đương già. So sánh độ tuổi của một vùng đất với độ tuổi của một con người mới nghe qua tưởng chừng khập khiễng nhưng nó lại gợi cho người đọc sự liên tưởng cụ thể và sinh động. Vùng đất Sài Gòn là kết quả công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi của ông cha. Tuổi của Sài Gòn là ba trăm năm so với bốn ngàn năm tuổi của đất nước thì quả là thành phố này rất trẻ. Sức sống tràn đầy của một đô thị trẻ, đẹp được nhà vàn so sánh với hình ảnh của một cây tơ đương độ nõn nà phơi phới sức xuân. Với đôi mắt trìu mến, nhà văn nhìn đâu cũng thấy yêu thương: Tôi yêu trong nắng sớm một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chửng với trời đang ui ui buồn bã bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh… Điệp từ Tôi yêu đặt ở đầu mỗi câu thể hiện tình cảm chân thành, da diết của nhà văn trước sự đa dạng của thiên nhiên, khí hậu Sài Gòn. Sài Gòn có hai mùa nắng mưa rõ rệt. Bầu trời mùa nào cũng xanh ngăn ngắt, đầy nắng, đầy gió. Tác giả yêu thích những nét rất riêng của mưa nắng Sài Gòn. Sài Gòn không có mưa phùn, mưa ngâu hay mưa dầm kéo dài hết ngày này sang ngày khác như ở miền Bắc. Mưa Sài Gòn thường vào buổi chiều. Có khi đang đi trên đường Đồng Khởi quận Một, cơn mưa ập tới bất ngờ không tránh kịp nhưng về đến đường Bàn Cờ quận Ba thì trời lại trong veo. Vào mùa này, hễ ra khỏi nhà là người Sài Gòn nhắc nhau phải mang áo mưa phòng thân. Sự thay đổi nhanh chóng, đột ngột của thời tiết được tác giả miêu tả bằng hình ảnh thật chính xác và gợi cảm: trời đang ui ui buồn bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Vẫn bằng tình cảm yêu thương, tác giả miêu tả không khí và nhịp sống sôi nổi của Sài Gòn trong những thời khắc khác nhau: Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở… Trong phần đầu bài tùy bút, tác giả đã bộc lộ tình yêu nồng nhiệt, thiết tha của mình đối với Sài Gòn. Vẻ đẹp của Sài Gòn được nhân lên gấp bội trước con mắt chan chứa yêu thương. Tác giả không chỉ yêu màu nắng ngọt ngào mà còn yêu cả những điều tưởng chừng không mấy dễ chịu như sự trái chứng của thời tiết thoắt nắng, thoắt mưa. Cả sự náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm cũng trở thành những cái đáng yêu, đáng nhớ. Tự biết lòng mình yêu Sài Gòn đến mức thiên vị nên tác giả đã biện minh bằng câu ca dao nói về quy luật tâm lí thông thường của con người: Yêu nhau yêu cả đường đi… Một chi tiết nhỏ đáng lưu ý là bài kí này được viết từ năm 1990 mà thời điểm hiện tại chúng ta đang sống đã là năm 2014, tất nhiên bộ mặt Sài Gòn đã có nhiều thay đổi. Đô thị được mở rộng ra nhiều hướng với những con đường trải nhựa phẳng lì thẳng tắp, hai bên san sát nhà cao tầng, cửa kính cửa chớp sáng choang. Những chiếc cầu bê tông sừng sững nối đôi bờ sông, giúp cho tàu xe thuận tiện ngược xuôi trăm nẻo. Sài Gòn đã mang dáng dấp của một thành phố công nghiệp hiện đại thời mở cửa, có mối quan hệ giao lưu rộng rãi với khu vực châu Á và toàn thế giới. Sài Gòn không chỉ đẹp ở cảnh sắc mà còn đẹp ở con người. Con người đã làm cho cảnh sắc Sài Gòn rực rỡ hơn, lung linh hơn. Ở phần đầu bài viết, tác giả miêu tả thiên nhiên Sài Gòn, đến phần sau, tác giả giới thiệu tính cách của người Sài Gòn. Tác giả nhận xét rất đúng về đặc điểm của cư dân Sài Gòn: Ở trên đất địa này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me… mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả. Mọi người sống hòa hợp với nhau, không phân biệt nguồn gốc, giàu nghèo. Người trên khắp mọi miền đất nước đổ về Sài Gòn lập nghiệp, sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ là mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung đã thừa nhận nơi đây là quê quán của mình. Sài Gòn là mảnh đất giàu tiềm năng, có rất nhiều việc kiếm ra tiền nên: Nếu siêng năng, chịu khó thì bạn sẽ được đãi ngộ thân tình như hàng triệu người khác. Sài Gòn là vùng đất trù phú, mỡ màu; là thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế lớn, nhiều trung tâm thương mại sầm uất cung cấp hàng hóa cho cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài qua bến cảng Nhà Rồng rộng lớn và sân bay Tân Sơn Nhất hiện đại. Thành phố Sài Gòn rộng mở và hào phóng là nơi rất thuận lợi cho người tứ xứ đến đây sinh sống. Ngày nay đã leo lên hơn năm triệu. (Đây là con số của những năm 90, còn đến nay, số dân của thành phố đã lên tới gần tám triệu người). Phong cách nổi bật của người Sài Gòn cũng được tác giả nhận xét chân thực và đầy thiện cảm: Cách ngày nay gần năm mươi năm, vào đây được gần gũi với người Sài Gòn, tôi đã thấy phong cách bản địa mang nhiều nét đặc trưng. Họ ăn nói tự nhiên, nhiều lúc hề hà, dễ dãi. Phần đông ít dàn dựng, tính toán. Người Sài Gòn cũng như phần lớn người Lục tỉnh rất chân thành, bộc trực… Con gái Sài Gòn có vẻ đẹp rất tự nhiên, dễ thương. Đây là hình ảnh các cô gái Sài Gòn hồi thế kỉ XX: … tóc buông thõng trên vai, trên lưng, có khi tết bím… Đội nón vải trắng, vành rộng, như nón Hướng đạo. Áo bà ba trắng, đính một túi nhỏ xíu duy nhất bên thân mặt áo. Quần đen rộng. Mang giày bố trắng (giày vải, giày ba-ta) hay xăng đan da. Có người đi guốc vông trơn trắng nõn, quai da, dạng chiếc xuồng hay hình hộp cá mòi. Dáng đi khỏe khoắn, mạnh dạn. Cái đẹp thật đơn sơ, đôn hậu. Cũng yểu điệu, thướt tha, nhưng theo cung cách Bến Nghé. Cũng e thẹn, ngượng nghịu như vừng trăng mới ló, còn ngập ngừng giấu nửa vành sau áng mây. Nụ cười thiệt tình, tươi tắn và ít nhiều thơ ngây. Trong khi giao tiếp, các cô thể hiện nét đẹp kín đáo của người Á Đông: Bây giờ, khi chào người lớn, các cô ấy (trước 1945) cúi đầu, chắp hai bàn tay lại và xá. Gặp trang lứa bạn bè thì hơi cúi đầu và cười. Cười ngậm miệng, cười chúm chím, cười mủm mỉm, cười he hé, chỉ để lộ vài cái răng hay lộ cả hàm tùy theo mức độ thân quen. Đặc biệt là cặp mắt sáng rỡ, nhí nhảnh, đôi lúc lại ánh lên vài tia hóm hỉnh. Tuy phong cách tiếp cận người quen hay khách lạ có vẻ hơi “cổ xưa” nhưng lại rõ ràng dân chủ. Không có tư thế khúm núm hay màu mè. Không một chút mặc cảm, tự ti. Vẻ đẹp của các cô gái được nói tới trên đây vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa mang bản sắc riêng của người Sài Gòn. Ngày nay, những cô gái Sài Gòn đẹp như một vườn hoa muôn màu sắc và ngát hương thơm. Nét đẹp của người Sài Gòn còn thể hiện ở tinh thần kiên cường, anh dũng, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc: Tuy nhiên, đến những hồi nghiêm trọng và sôi sục nhất của đất nước thì các cô gái ấy cũng như các chàng trai và các giói đồng bào của Sài Gòn bất khuất, không chút do dự, dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm và có khi hi sinh cả tánh mạng, xuyên suốt ba chục năm từ 1945 đến 1975…
Bài làm Từ hồi còn bé, tôi luôn nghĩ những ngày khai trường cũng như kỷ niệm tuổi thơ khác luôn được cất giữ trong một chiếc hộp sắt và theo thời gian nó sẽ bị mối mọt dần. Nhưng đến bây giờ thì tôi thấy ngược lại – những ngày khai trường sẽ lần lượt qua đi nhưng nó luôn còn mãi trong ký ức mỗi người, nhất là ngày khai trường đầu tiên. Để có thể trưởng thành, ai ai cũng phải có một lần đến trường. Và có lẽ đối với ai đã từng là học trò thì cái ngày khai trường đầu tiên bao giờ cũng là kỷ niệm sâu đậm nhất. Vào cái ngày ấy – cái ngày mà được coi là một bước ngoặt lớn của mỗi đứa trẻ, tôi cũng đi đến trường học. Đôi bàn tay của mẹ, lời chúc của cha luôn nắm chắc tay tôi, đưa tôi vững bước trên con đường học tập. Bây giờ, cứ mỗi khi nhớ lại ngày khai trường đầu tiên, tôi luôn tự cười một mình. Tôi cười vì cái sợ hãi trên khuôn mặt của mình khi không dám bước vào lớp. Mẹ đã không dắt tôi mà để tự tôi bước vào. Mẹ chỉ đứng đó và động viên tôi. Những lời động viên ấy như làm tôi nhớ lại bài học mà mẹ đã dậy tôi tối hôm trước. Mẹ dạy tôi cách chào hỏi, cách lễ phép với thầy cô, cách làm để xua tan nỗi sợ hãi mà bước vào lớp với biết bao bạn bè. Bằng sự dũng cảm của mình, tôi rụt rè bước vào lớp và ngồi vào cái bàn đầu tiên theo sự hướng dẫn của cô giáo.
Assignment Since I was a child, I always thought that the first days of school as well as other childhood memories were always kept in an iron box and over time they would gradually get rotten. But now I see the opposite - the first days of school will pass one by one but they will always remain in everyone's memory, especially the first day of school. To be an adult, everyone must go to school once. And perhaps for anyone who has ever been a student, the first day of school is always the deepest memory. On that day - the day that is considered a big turning point for every child, I also went to school. My mother's hands and my father's wishes always firmly held my hand, guiding me firmly on the path of study. Now, every time I remember the first day of school, I always laugh to myself. I laughed at the fear on my face when I didn't dare enter the classroom. Mom didn't lead me but let me walk in by myself. Mom just stood there and encouraged me. Those words of encouragement seemed to remind me of the lesson my mother taught me the night before. My mother taught me how to greet, how to be polite to teachers, how to dispel my fear and walk into class with so many friends. With my courage, I timidly entered the classroom and sat at the first table following the teacher's instructions.
Bài làm Khu vườn – nơi những loài hoa nở rộ và thi nhau đua sắc nhưng đối với tôi, khu vườn không chỉ có thế, nó ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc gắn liền với tuổi thơ tôi. Ngày bé, thứ mà trẻ con thích nhất là những món đồ chơi đủ màu sắc, kích cỡ những thứ mà tôi thích thú nhất lại là khu vườn, một khu vườn nhỏ bé nhưng chứa bao nhiêu kỷ niệm về người mà tôi yêu quý nhất, bà nội tôi. Ai chả muốn có một khu vườn trong nhà, có những bông hoa rực rỡ, tôi cũng vậy từ ngày bé tôi luôn ước mong có một khu vườn nhỏ. Tôi yêu những loài hoa, tôi yêu cái cảm giác xung quanh mình là cây cỏ, là hương thơm. Khi bà nội tôi ở quê lên bà đã đem cho tôi nhiều cây hoa và đặt ở trước khoảng sân trước nhà. Từ khi ấy, tôi có một khu vườn như ước mơ. Thật hạnh phúc khi nhà mình có một khu vườn. Sáng sáng, mỗi khi thức dậy, tôi đều đứng ra cửa hít thở không khí trong lành và mùi thơm thoang thoảng từ những đóa hoa. Khung cảnh như một bức tranh thật đẹp, có màu sắc, có hương thơm và có cả âm thanh từ những tiếng chim hót ríu rít. Từ ngày bà nội lên, tôi rất vui vì bà đã đem lại cho tôi điều mà tôi mong từ lâu. Tôi yêu quý khu vườn không chỉ vì nó là ước mong của tôi mà đó cũng là món quà, là tấm lòng của bà cho tôi. Tôi chăm sóc từng cành cây, từng bông hoa thật chu đáo, hàng ngày tôi và bà đều tưới nước, bắt sâu, bà còn tỉa nhiều cây thành hình con đại bàng, con nai.. Vì thế mà khu vườn càng thêm rực rỡ. Dưới ánh nắng vàng, khu vườn làm cả nhà tôi như sáng lên cùng cây cỏ.
Assignment The garden - where flowers bloom and compete with each other, but for me, the garden is more than just that, it contains a deep meaning associated with my childhood. When I was a child, the things children liked most were toys of all colors and sizes. The things I enjoyed most were the garden, a small garden but containing so many memories of the person I loved the most. , my grandmother. Who doesn't want to have a garden in their house with colorful flowers? I, too, have always wanted a small garden since I was a child. I love flowers, I love the feeling of being surrounded by plants and scents. When my grandmother came from the countryside, she brought me many flower plants and placed them in the front yard of the house. Since then, I have had a dream garden. I'm so happy that my house has a garden. Every morning, when I wake up, I stand out the door to breathe in the fresh air and the faint scent of the flowers. The scene is like a beautiful picture, with colors, scents and sounds from chirping birds. Since the day my grandmother came up, I've been very happy because she's given me what I've been hoping for for a long time. I love the garden not only because it is my wish but also because it is a gift and her heart for me. I take care of each tree branch and each flower very carefully. Every day, she and I water and catch worms. She also trims many trees into the shape of eagles and deer. Because of that, the garden is even more brilliant. . Under the golden sunlight, the garden makes my whole house seem to light up with plants.
Bài làm Vũ Bằng tên thật là Vũ Đăng Bằng (1913 – 1984) sinh tại Hà Nội, là nhà văn và nhà báo bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông có sở trường về truyện ngắn, tùy bút, bút kí. Sau năm 1954, ông vào Sài Gòn vừa viết văn, làm báo, vừa hoạt động cách mạng. Bài văn này trích từ thiên tùy bút Tháng Giêng mơ về trăng non rét ngọt in trong tập Thương nhớ mười hai. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tác giả phải sống trong vùng kiểm soát của Mỹ – ngụy, xa cách quê hương đất Bắc, Nhà văn đã gửi vào trang sách nỗi niềm thương nhớ quê hương, gia đình tha thiết và lòng mong mỏi đất nước hòa bình, thống nhất. Điều đó thể hiện qua hoài niệm về cảnh sắc thiên nhiên và phong vị cuộc sống hằng ngày của Thủ đô Hà Nội với vẻ đẹp mang đậm bản sắc văn hóa tinh tế của một vùng và cũng là của chung đất nước. Nói đến tình yêu nồng nàn của mình đối với mùa xuân, tác giả mượn quy luật để khẳng định: Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì Lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân. Nhà văn nhớ về mùa xuân đất Bắc là nhớ về cảnh đẹp thiên nhiên và những cảnh sinh hoạt đời thường mang nét đặc trưng nhất. Những hình ảnh đẹp đẽ, khó quên tái hiện rõ ràng trong tâm tưởng nhà văn: Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cồ gái đẹp như thơ mộng… Giọng văn du dương, trầm bổng, giàu chất thơ của Vũ Bằng đã đưa chúng ta vào thế giới hồi ức miên man, dạt dào cảm xúc. Thế giới ấy là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của kẻ tha hương. Nhà văn nhắc đi nhắc lại như lời tỏ tình thiết tha, say đắm: Mùa xuân của tôi… mùa xuân thần thánh của tôi… Điều đó chứng tỏ tình yêu mùa xuân đã thấm sâu vào tâm hồn, vào máu thịt của người con đất Bắc. Để nhấn mạnh sức sống và sự cuốn hút kì lạ của mùa xuân, tác giả đã dùng cách nói cường điệu ; cường điệu mà vẫn rất tự nhiên: Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người cứ căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh. Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn… Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa… Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Không khí ấm áp mùa xuân còn hiện lên trong khung cảnh gia đình ngày Tết với bàn thờ, đèn nến, hương trầm… và tình cảm cha con, vợ chồng, anh em quấn quýt, sum vầy. Viết về những cảnh này, giọng điệu của tác giả vừa sôi nổi nhiệt thành, vừa da diết lắng sâu. Điều đó đã tạo nên âm hưởng trữ tình và sức truyền cảm mạnh mẽ của đoạn văn. Cuối bài văn, tác giả tập trung miêu tả những nét riêng của trời đất, thiên nhiên vào thời điểm từ sau ngày rằm tháng giêng Âm lịch. Khả năng quan sát sắc sảo và cảm nhận tinh tế của tác giả được thể hiện qua những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu và những từ ngữ trau chuốt, chọn lọc:
Assignment Vu Bang's real name is Vu Dang Bang (1913 - 1984) born in Hanoi, is a writer and journalist who started his writing career before the August Revolution of 1945. He has a knack for short stories, essays, and essays. sign. After 1954, he went to Saigon to write, do journalism, and engage in revolutionary activities. This essay is excerpted from the essay January Dreams of the Cold, Sweet New Moon published in the volume Thumbs Up Twelve. The work was written in a situation where the country was divided, the author had to live in the US-puppet control zone, far away from his homeland in the North. The writer put into the pages of the book his longing for his homeland and his spare family. need and longing for a peaceful and unified country. That is expressed through nostalgia for the natural scenery and taste of daily life of Hanoi Capital with a beauty imbued with the delicate cultural identity of a region and also of the country. Talking about his passionate love for spring, the author borrowed the rule to assert: It's natural like that: everyone loves spring. And January is the first month of spring, people are more affectionate, nothing strange at all. Who told the mountains not to love the water, the butterflies not to love the flowers, the moon not to love the wind; Who can stop a boy from loving a girl? Who can stop a mother from loving her child? Who can stop the girl from still missing her husband? Only then can he stop being in love with spring. The writer remembers spring in the North as he remembers the natural beauty and the most typical scenes of everyday life. Beautiful, unforgettable images appear clearly in the writer's mind: My spring - the spring of North Vietnam, the spring of Hanoi - is the spring with pouring rain, cold wind, and the sound of swallows calling. In the blue night, there is the sound of rowing drums echoing from far away villages, there is the love song of a beautiful, poetic girl... Vu Bang's melodious, melodious, and poetic voice has brought us into a world of endless memories and emotions. That world is an indispensable part of the spiritual life of the exile. The writer repeats over and over again as a passionate, passionate confession: My spring... my divine spring... This proves that the love of spring has penetrated deeply into the soul, into the flesh and blood of the earthlings. North. To emphasize the vitality and strange attraction of spring, the author used hyperbole; exaggerated but still very natural: That's it, my divine spring makes people want to go crazy like that. I can't stand sitting still. The life sap in the body keeps swelling like the blood in the deer's buds, like the buds of trees, unable to stay still forever, and must emerge into tiny leaves and raise their hands to wave at the standing lovebirds. edge. With the return of spring, people's hearts seem to get younger, and beat harder... Going outdoors, seeing everyone wanting to love, coming home and feeling loved again... So beautiful, spring – spring of beloved Hanoi, of beloved North Vietnam. The warm spring atmosphere also appears in the family scene on Tet holiday with altars, candles, incense... and the affection between father and son, husband and wife, brothers and sisters. Writing about these scenes, the author's tone is both enthusiastic and passionate, but also deeply sad. That created the lyrical sound and strong inspiration of the passage. At the end of the essay, the author focuses on describing the unique features of heaven, earth, and nature after the full moon day of the first lunar month. The author's sharp observation and delicate perception are expressed through details, typical images and elaborate, selected words:
Bài làm Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là nhà thơ nữ được nhiều người yêu thích. Thơ chị trẻ trung, sôi nổi, giàu chất trữ tình, vốn xuất thân từ nông thôn nên Xuân Quỳnh hay viết về những đề tài bình dị, gần gũi của cuộc sống đời thường như tình mẹ con, bà cháu, tình yêu, tình quê hương, đất nước. Ngay từ tập thơ đầu tay Tơ tầm – Chồi biếc (in chung – 1963), Xuân Quỳnh gây được sự chú ý bởi phong cách thơ mới mẻ. Hơn hai mươi năm cầm bút, chị đã sáng tác nhiều tập thơ có giá trị, tạo ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Bài thơ Tiếng gà trưa được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ trên phạm vi cả nước. Bị thua đau ở chiến trường miền Nam, giặc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại bằng máy bay, bom đạn… ra miền Bắc, hòng tàn phá hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng ấy, hàng triệu thanh niên đã lên đường với khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ, Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Nhân vật. trữ tình trong bài thơ là người chiến sĩ trẻ đang cùng đồng đội trên đường hành quân vào Nam chiến đấu. Tiếng gà trưa đã gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu đất nước. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết. Nhớ nhà, đó là tâm trạng tất yếu của những người lính trẻ vừa bước qua hoặc chưa bước qua hết tuổi học trò đã phải buông cây bút, cầm cây súng ra đi đánh giặc cứu nước. Nỗi nhớ ở đây thật giản dị và cụ thể. Chỉ một tiếng gà trưa bất chợt nghe thấy khi Dừng chân bèn xóm nhỏ là đã gợi dậy cả một trời thương nhớ. Tiếng gà nhảy ổ làm xao động nắng trưa và cũng làm xao xuyến hồn người. Nghe tiếng gà mà như nghe thấy tiếng quê hương an ủi, vỗ về và tiếp thêm sức mạnh. Điệp từ nghe được nhắc lại ba lần, mở đầu ba câu thơ liên tiếp thể hiện sự rung cảm cao độ trong tâm hồn chiến sĩ: Trên đường hành quân xa Dừng chân bên xóm nhỏ Tiếng gà cũ nhảy ổ Cục… cục tác cục ta Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đờ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ Quê nhà hiện lên rõ nét trong tâm tưởng và những kỉ niệm tuổi thơ lần lượt sống dậy qua những hình ảnh thân thương. Tiếng gà trưa nhắc nhớ đến ổ rơm hồng những trứng của mấy chị mái mơ, mái vàng xinh xắn, mắn đẻ. Tiếng gà trưa khiến người cháu xa nhà nhớ đến người bà kính yêu một đời tần tảo. Thương biết mấy là cảnh đứa cháu tò mò xem gà đẻ, bị bà mắng: Gà đẻ mà mày nhìn, Rồi sau này lang mặt. Chẳng hiểu hư thực ra sao nhưng cháu tin là thật: Cháu về lấy gương soi, Lòng dại thơ lo lắng. Giờ đây, đứa cháu đã trưởng thành ao ước trở về thời bé bỏng để lại được nghe tiếng mắng yêu của bà, được thấy bóng dáng quen thuộc của bà khum tay soi trứng, chắt chiu từng mầm hi vọng sẽ có được một đàn gà con đông đúc. Suốt một đời lam lũ, lo toan, bà chẳng bao giờ nghĩ đến bản thân mà chỉ lo cho cháu, bởi đứa cháu đối với bà là tất cả. Bà thầm mong đàn gà thoát khỏi nạn dịch mỗi khi mùa đông tới: Để cuối năm bán gà, Cháu được quần áo mới. Ao ước của đứa cháu có được cái quần chéo go, Cái áo cánh chúc bầu còn nguyên vẹn lần hồ sột soạt và thơm mùi vải mới được nhân lên gấp bội trong lòng bà yêu cháu. Hạnh phúc gia đình giản dị, đầm ấm mà rất đỗi thiêng liêng cùng bao khát vọng tuổi thơ dường như gói gọn cả trong tiếng gà trưa: Tiếng gà trưa Mang bao nhiều hạnh phúc, Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng. Thông qua nỗi nhớ được khơi dậy từ tiếng gà trưa, nhà thơ Xuân Quỳnh đã miêu tả tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và tình cảm yêu mến, kính trọng bà của một em bé nông thôn. Tình bà cháu thắm thiết đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người chiến sĩ hôm nay đang trên đường hành quân chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước: Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác
Assignment Xuan Quynh (1942 - 1988) is a female poet loved by many people. Her poetry is youthful, vibrant, and rich in lyricism. Coming from the countryside, Xuan Quynh often writes about simple, close topics of everyday life such as mother-child love, grandmother-grandchild love, love, and friendship. homeland. Right from her first poetry collection To Tam - Choi Biec (published in 1963), Xuan Quynh attracted attention with her new poetic style. For more than twenty years as a writer, she has composed many valuable poetry collections, creating unforgettable impressions in the hearts of readers. The poem Chicken Noon was written in the early years of the resistance war against American imperialism nationwide. Having suffered a painful defeat in the Southern battlefield, the American enemy frantically expanded their destructive war with planes, bombs, etc. to the North, aiming to destroy the large rear of the large front line. In that situation of boiling water and fire, millions of young people set out with the spirit of cutting across Truong Son to fight against America, with their hearts excited about the future. Figure. Lyrically in the poem is the young soldier who is marching with his comrades to the South to fight. The sound of the chicken at noon reminded us of beautiful memories of childhood and the love between grandparents and grandchildren. The love for family and homeland has deepened the love for the country. Covering the poem is a searing, painful nostalgia. Homesickness is the inevitable state of mind of young soldiers who have just passed or have not yet passed their school years and have to put down their pens and take up their guns to fight the enemy to save the country. The nostalgia here is simple and specific. Just the sound of a chicken at noon suddenly heard when stopping in the small hamlet evoked a whole world of nostalgia. The sound of chickens jumping into their nests disturbs the midday sun and also stirs people's souls. Listening to the sound of chickens is like hearing the sound of the homeland comforting, comforting and giving strength. The refrain is repeated three times, opening three consecutive verses, expressing the high vibration in the soldier's soul: On a long march Stop by the small hamlet The sound of an old chicken jumping into the nest Cluck… cluck cluck cluck me Listen to the stirrings of the noon sun My feet feel tired Calling back to childhood Hometown appears clearly in my mind and childhood memories come to life through loving images. The sound of the chickens at noon reminds me of the pink straw nest of eggs of the lovely, fertile yellow and apricot hens. The sound of the chicken at noon reminds the grandchild far from home of his beloved grandmother who lived a hard life. How much I love the scene of my grandchild curiously watching the laying hens, and being scolded by her grandmother: You look at the laying hens, and then you lose your face. I don't understand how real it is, but I believe it's true: I went home to look in the mirror, My naive heart was worried. Now, the grown-up grandchild wishes to return to his childhood, to hear his grandmother's loving scolding, to see her familiar figure, cupping her hands to look at the eggs, scavenging each seed in the hope of having a flock of chickens. crowded children. Throughout her entire life of working hard and worrying, she never thought about herself but only worried about her grandchildren, because her grandchildren were everything to her. She secretly hopes that the chickens will escape the epidemic every winter: So that by selling the chickens at the end of the year, I will have new clothes. The grandchild's wish to have a pair of tight pants, a maternity blouse that is still intact, rustling and smells of new fabric is multiplied in the heart of the grandmother who loves her grandchild. Family happiness is simple, warm, yet very sacred, and many childhood aspirations seem to be encapsulated in the sound of the noon cock: Noon chicken sound Bring so much happiness, That night I dreamed Pink egg sleep. Through the nostalgia aroused by the sound of chickens at noon, poet Xuan Quynh described the pure, innocent soul and love and respect for her grandmother of a rural child. The passionate love between grandparents and grandchildren has become an important part in the spiritual life of today's soldiers who are marching and fighting to protect their homeland and country: I fight today For love of Fatherland Because the village is familiar Grandma, it's also because of you Because of the clucking sound of chickens
Bài làm Chỉ còn đúng một tuần nữa thôi là đến Tết Nguyên Đán Đinh Hợi. Những ngày cuối cùng của năm cũ, thời gian trôi nhanh vùn vụt. Nhịp điệu cuộc sống ở thành phố Hồ Chí Minh thường ngày vốn đã hối hả lại càng thêm hối hả. Khác với mùa xuân phương Bắc, mùa xuân phương Nam không có mưa bay, gió lạnh mà lại rực vàng một màu nắng ngọt ngào. Bầu trời cao vời vợi trong vắt như thủy tinh. Gió thổi lao xao trên những hàng cây dầu, cây sao trồng dọc những con đường lớn, đem lại cảm giác mát mẻ, lâng lâng trong lòng người đang náo nức đón xuân. Sau ngày hăm ba tháng Chạp cúng đưa ông Táo về trời, không khí Tết rộn ràng hẳn lên. Từ khắp các cửa ngõ thành phố, dưa hấu được chở bằng ghe, thuyền, bằng xe tải đổ về các chợ lớn nhỏ và chất đầy cả các sạp ven đường. Thôi thì đủ các loại: dưa để cúng trên bàn thờ Tết, trái lớn hàng chục kí, màu da xanh bóng. Dưa hấu Long Trì ngọt ngon nổi tiếng bày bên cạnh dưa ruột đỏ, ruột vàng của Gò Công, Mỹ Tho…
Assignment There is only one week left until the Lunar New Year of the Pig. In the last days of the old year, time passes quickly. The already hustle and bustle of life in Ho Chi Minh City has become even more hustle and bustle. Unlike spring in the North, spring in the South has no rain or cold wind but is bright with a sweet sunny color. The sky is so high and clear as glass. The wind blew gently on the rows of olive trees and star trees planted along the main roads, bringing a cool and light feeling to the hearts of people excited to welcome spring. After the twenty-third day of the December month, worshiping Mr. Tao to return to heaven, the Tet atmosphere became more bustling. From all gateways of the city, watermelons are transported by boat, boat, and truck to large and small markets and filled with roadside stalls. Well, there are all kinds of melons: melons to worship on the Tet altar, fruits dozens of kilograms large, shiny green skin. The famous sweet and delicious Long Tri watermelon is displayed next to the red and yellow flesh melons of Go Cong, My Tho...
Bài làm Từ thuở khai thiên lập địa, con người đã gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên. Ngày nay, dù sống trong những tòa nhà bê tông cao tầng, có máy điều hòa nhiệt độ, có đầy đủ tiện nghi hiện đại… nhưng chúng ta vẫn không thể thiếu cây xanh, thảm cỏ, nước, không khí… Có thể nói thiên nhiên là bạn tốt của con người. Thiên nhiên tạo điều kiện cho con người tồn tại và phát triển. Thiên nhiên, đó là rừng vàng cung cấp đủ loại lâm sản. Rừng ngăn nước lũ, chắn gió, chắn cát để bảo vệ mùa màng… Thiên nhiên, đó là biển bạc cung cấp cho con người bao loại hải sản quý giá. Biển còn là đường giao thông thuận tiện nối liền các đại lục từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam. Thiên nhiên, đó là đất cho con người trồng trọt, canh tác. Từ lúa, ngô, khoai, rau, đậu cho đến cam, nho, táo, mận… Có đất trồng trọt, con người mới có lương thực, thực phẩm để duy trì sự sống. Thiên nhiên, đó là nước, là không khí, là mỏ vàng, mỏ sắt, mỏ dầu, mỏ kim cương… Thiên nhiên cung cấp cho con người mọi điều kiện vật chất để không ngừng nâng cao cuộc sống. Không những thế, thiên nhiên còn đem đến cho con người những món ăn tinh thần vô giá. Còn gì thích thú bằng được đón bình minh trên biển hay từ đỉnh núi cao thưởng thức vẻ đẹp của bầu trời và mặt đất?! Lúc này, thiên nhiên là một bức tranh với những đường nét, màu sắc kì ảo tuyệt vời là đề tài hấp dẫn cho các họa sĩ. Còn gì khoan khoái bằng được ngắm ánh trăng rằm chiếu sáng khắp xóm làng yên ả, hay khi thấy cảnh: Vì mây cho núi lên trời, Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng.
Assignment Since the beginning of time, humans have been closely associated with nature. Nowadays, even though we live in high-rise concrete buildings, have air conditioning, and have full modern amenities... we still cannot lack trees, grass, water, air... It can be said that Nature is man's good friend. Nature creates conditions for humans to survive and develop. Nature, which is the golden forest, provides all kinds of forest products. Forests prevent floodwaters, block wind, block sand to protect crops... Nature, it is the silver sea that provides people with many types of precious seafood. The sea is also a convenient transportation route connecting the continents from East to West, from North to South. Nature is land for people to grow and cultivate. From rice, corn, potatoes, vegetables, beans to oranges, grapes, apples, plums... Only with arable land can people have food to maintain life. Nature is water, air, gold mine, iron mine, oil mine, diamond mine... Nature provides people with all material conditions to constantly improve their lives. Not only that, nature also gives people priceless spiritual food. What could be more enjoyable than catching the sunrise on the sea or enjoying the beauty of the sky and earth from the top of a mountain?! At this time, nature is a picture with wonderful, magical lines and colors that are an attractive subject for artists. There's nothing more refreshing than watching the full moon shine throughout a quiet village, or seeing the scene: Because clouds make mountains rise to the sky, Because the wind blows the flowers and smiles at the moon.
Bài làm Ca Huế trên sông Hương là bài bút kí của Hà Ánh Minh, nội dung ghi chép lại một trong những nét đẹp của văn hoá truyền thống ở cố đô Huế là ca Huế. Bài văn vừa giới thiệu về nguồn gốc những làn điệu dân ca Huế, vừa tả cảnh nghe ca Huế trong một đêm trăng. Thông qua sự phong phú, đa dạng của các làn điệu dân ca, tác giả ca ngợi vẻ đẹp tinh thần đằm thắm thiết tha của con người xứ Huế. Mở đầu bài viết, tác giả khẳng định Huế nổi tiếng với các điệu hò. Sau đó giới thiệu những nét đặc sắc của ca Huế được thể hiện qua dàn nhạc cụ, qua ngón đàn tuyệt kĩ của các ca công và giọng hát ngọt ngào của ca nhi. Xứ Huế nổi tiếng với những cung điện nguy nga cổ kính, những lăng tẩm đồ sộ của các triều vua… Xứ Huế còn nổi tiếng với nhiều sản phẩm văn hóa độc đáo mà ca Huế là một thể loại tiêu biểu. Qua bài viết, tác giả đã thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về ca Huế và bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng dành cho ca Huế: Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò lúc cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm. Mỗi câu hò Huế dù ngắn hay dài đều sược gửi gắm ra một ý tình trọn vẹn. Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến, nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức, ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba phong phú. Cách giới thiệu kết hợp thật tự nhiên giữa nghệ thuật miêu tả và biểu cảm. Những hình ảnh chân thực, những nét chấm phá giàu khả năng gợi tả đã góp phần làm nổi bật bức tranh sinh hoạt văn hóa đặc sắc của con người xứ Huế. Ca Huế là sự giao hòa giữa dòng nhạc cung đình sang trọng, thanh nhã và dòng nhạc dân gian hồn nhiên, duyên dáng. Sự giao hòa đó thể hiện ở nội dung và hình thức, trong cách biểu diễn của ca nhi, nhạc công và trang phục.. Tác giả miêu tả khung cảnh tuyệt vời của một đêm ca Huế trên sông Hương. Phông màn là thiên nhiên với bầu trời lồng lộng, với sông nước huyền ảo và thơ mộng. Ánh sáng là ánh trăng dát vàng trên mặt sông. Cảnh vật lung linh, hư ảo: Đêm Thành phố lên đèn như sao sa. Màn sương dày dần lên, cảnh vật mờ đi trong một màu trắng đục. Tôi như một lữ khách thích giang hồ với hồn thơ lai láng, tình người nồng hậu bước xuống một con thuyền rồng, có lẽ thuyền này xưa kia chỉ dành cho vua chúa. Trước mũi thuyền là một không gian rộng thoáng để vua hóng mát ngắm trăng, giữa là một sàn gỗ bào nhẵn có mui vòm được trang trí lộng lẫy, xung quanh thuyền có hình rồng và trước mũi là một đầu rồng như muốn bay lên. Đọc những dòng này, chúng ta có cảm giác như người trong cuộc, đang cùng tác giả lênh đênh trên con thuyền lững lờ trôi giữa dòng Hương Giang êm đềm, thả hồn theo những lời ca mênh mang hòa trong tiếng đàn réo rắt, du dương và tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng. Phải chăng khả năng gợi cảm, gợi trí tưởng tuợng chính là thành công của bút kí này?! Dàn nhạc cụ, cách thức và trang phục khi biểu diễn dân ca Huế được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ: Trong khoang thuyền, dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn nguyệt, tì bà, nhị, đàn tam. Ngoài ra còn có đàn bầu, sáo và cặp sanh để gõ nhịp. Các ca công còn rất trẻ, nam mặc áo dài the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ mặc áo dài, khăn đóng duyên dáng. Ta có thể thấy nét đặc trưng của ca Huế là trang nhã, tinh tế và đậm đà tính dân tộc. Cách thưởng thức ca Huế cũng mang những tính chất tương tự. Nơi tổ chức nghe ca Huế là trên chiếc thuyền rồng, khoan thai lướt nhẹ giữa dòng sông Hương trong đêm trăng thanh gió mát. Người hát thì hát rất hay, người thưởng thức thì say mê. Khung cảnh biểu diễn ca Huế vừa sang trọng, vừa dân dã, giữa một thiên nhiên thuần khiết và lòng người trong sạch: Trăng lên. Gió mơn man dìu dịu. Dòng sông trăng gợn sóng. Con thuyền bồng bềnh: Đêm nằm trên dòng sông Hương thơ mộng để nghe ca Huế, với tâm trạng chờ đợi rộn lòng. Không gian yên tĩnh bỗng bừng lên những âm thanh của dàn hòa tấu, bởi bốn nhạc khúc lưu thủy, kim tiền, xuân phong, long hổ du dương, trầm bổng, réo rắt mở đầu đêm ca Huế. Nhạc công dùng các ngón đàn trau chuốt như ngón nhấn, mổ, vỗ, vảy ngón bấm, day, chớp, búng, ngón phi, ngón rãi. Tiêng đàn lúc khoan lúc nhặt làm nên tiết tấu xao động tận đáy hồn người. Xen vào giữa những câu văn miêu tả là những câu văn thể hiện cảm xúc của tác giả khi nghe các làn điệu dân ca Huế. Những ngón đàn điêu luyện, những giọng ca ngọt ngào, da diết mang đậm chất Huế quả đã làm rung động lồng người. Dân ca Huế hay và đẹp như vậy bởi vì: Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng, thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc. Đặc điểm nổi bật của ca nhạc dân gian là các làn điệu dân ca, những điệu hò, điệu lí thường phản ánh sinh động các cung bậc tình cảm vui buồn của con người. Còn nhạc cung đình là nhạc dùng trong những buổi lễ tôn nghiêm của vua chúa hoặc nơi tông miếu thiêng liêng nên thường có sắc thái trang trọng, uy nghi. Cuối bài văn, tác giả muốn bạn đọc cảm nhận được sự huyền diệu của ca Huế trên sông Hương. Ca Huế khiến người nghe quên cả không gian, thời gian, đắm mình vào trạng thái lâng lâng, xao xuyến khó tả. Ca Huế hướng tâm hồn ta đến những vẻ đẹp của đời sống tinh thần con người xứ Huế. Ca Huế mãi mãi hấp dẫn chúng ta bởi vẻ đẹp bí ẩn, huyền hoặc của nó. Đêm đã về khuya. Xa xa bờ bên kia Thiên Mụ hiện ra mờ ảo, ngọn tháp Phước Duyên dát ánh trăng vàng Sóng vỗ ru mạn thuyền rồi gợn vô hồi xa mãi cùng những tiếng đàn réo rắt du dương. Đấy là lúc ca nhi cất lên những điệu Nam nghe buồn man mác, thương cảm, bi ai, vương vấn như nam ai, nam bình, quả phụ, nam xuân, tương tư khúc, hành vân, Cũng có bản mang âm hưởng điệu Bắc pha phách điệu Nam không vui, không buồn như tứ đại cảnh. Thể điệu ca Huế có sôi nổi, tươi vui, có buồn cảm, bâng khuâng, có tiếc thương ai oán… Lời ca thong thảy trang trọng, trong sáng gợi lên tình người, tình đất nước, trai hiền, gái lịch.
Assignment Ca Hue on the Perfume River is a memoir by Ha Anh Minh, recording one of the beauties of traditional culture in the ancient capital of Hue: Ca Hue. The essay both introduces the origin of Hue folk songs and describes the scene of listening to Hue folk songs on a moonlit night. Through the richness and diversity of folk songs, the author praises the passionate spiritual beauty of the people of Hue. At the beginning of the article, the author affirms that Hue is famous for its dances. Then introduce the unique features of Hue singing expressed through the musical instruments, the superb playing skills of the singers and the sweet voices of the children's singers. Hue is famous for its magnificent ancient palaces, massive mausoleums of kings... Hue is also famous for many unique cultural products of which Hue songs are a typical genre. Through the article, the author demonstrated his deep understanding of Ca Hue and expressed his love and respect for Ca Hue: Hue is famous for its chants, chants when fishing on rivers and seas, chants when plowing, harvesting, planting trees, and raising silkworms. Every Hue song, whether short or long, conveys a complete sentiment. Local words are used fluently and commonly, especially in intellectual chants and responses, and the language is shown to be very talented. The introduction naturally combines descriptive and expressive art. The realistic images and richly descriptive touches have contributed to highlighting the picture of unique cultural activities of the people of Hue. Ca Hue is a harmony between luxurious and elegant royal music and innocent, graceful folk music. That harmony is reflected in the content and form, in the performance of children's singers, musicians and costumes. The author describes the wonderful scene of a night of Hue singing on the Perfume River. The backdrop is nature with a majestic sky and magical and poetic rivers. The light is the golden moonlight on the river surface. The scenery is shimmering and unreal: At night, the City lights up like a falling star. The mist gradually thickened, the scene blurred into a milky white color. I am like a wanderer with a poetic soul and warm humanity stepping off a dragon boat, perhaps this boat was once only reserved for kings. In front of the boat is a large, open space for the king to enjoy the cool air and watch the moon. In the middle is a smooth wooden floor with a splendidly decorated dome, around the boat there are dragon images and in front of the bow is a dragon head as if it wants to fly. Reading these lines, we feel like insiders, floating with the author on a boat floating slowly in the peaceful Huong Giang river, letting our souls follow the vast lyrics mixed with the melodious, melodious sound of the guitar. ocean and the gentle sound of waves. Is the ability to be sexy and evoke the imagination the success of this memoir?! The musical instruments, methods and costumes when performing Hue folk songs are described quite meticulously by the author: In the boat compartment, the orchestra includes the zither, the moon, the pipa, the zither, and the tam. There are also monochords, flutes and pairs of flutes to play the rhythm. The singers are very young, men wear long dresses, loose pants, and turbans, while women wear graceful ao dai and turbans. We can see that the characteristics of Hue songs are elegant, sophisticated and rich in national character. The way to enjoy Ca Hue also has similar characteristics. The place to listen to Hue songs is on a dragon boat, leisurely gliding along the Perfume River on a cool, moonlit night. Those who sing sing very well, those who enjoy it are passionate. The scene of Hue folk music performance is both luxurious and rustic, amidst pure nature and pure human hearts: The moon rises. The wind caresses gently. The moonlit river ripples. The floating boat: Lying on the romantic Perfume River at night to listen to Hue songs, with a heart-warming mood of anticipation. The quiet space suddenly burst into life with the sounds of the orchestra, as the four melodious, melodious, melodious songs Luu Thuy, Kim Tien, Xuan Phong, and Long Tiger opened the night of Hue singing. Musicians use elaborate fingerings such as pressing, pecking, clapping, fingering, flicking, flashing, flicking, darting, and spreading fingers. The sound of the instrument, sometimes drilling and picking, creates a rhythm that stirs the soul. Interspersed among the descriptive sentences are sentences expressing the author's feelings when listening to Hue folk songs. The skillful playing of the instruments and the sweet, melancholy voices of Hue truly made people's hearts tremble. Hue folk songs are so good and beautiful because: Hue songs are formed from folk music and royal music, court music is solemn and majestic so it has the charisma of chamber music, expressed in two major lines. Northern and Southern tunes, with over sixty vocal and instrumental works. Outstanding features of folk music are folk songs, chants, and melodies that often vividly reflect the emotional levels of joy and sadness of people. Court music is music used in solemn ceremonies of kings or sacred temples, so it often has a solemn and majestic tone. At the end of the essay, the author wants readers to feel the magic of Hue singing on the Perfume River. Ca Hue makes listeners forget space and time, immersing themselves in an indescribable state of lightness and excitement. Ca Hue directs our souls to the beauty of the spiritual life of the people of Hue. Ca Hue forever attracts us because of its mysterious and mysterious beauty. It was late at night. Far away on the other side, Thien Mu appeared dimly, the Phuoc Duyen tower covered in golden moonlight. The waves lashed the side of the boat and then rippled endlessly into the distance with the melodious sounds of the guitar. That's when singers sing Southern melodies that sound sad, pitiful, tragic, and lingering like Nam Ai, Nam Binh, Widow, Nam Xuan, Tuong Tu Khuc, Hanh Van. There are also versions with melodious sounds. The North mixed with the South's rhythm is not happy, not sad like the four great scenes. Hue songs have vibrant, cheerful, sad, wistful, and mournful lyrics... The lyrics are slow, solemn, and clear, evoking love for people, love for country, gentle men, and elegant women.
Bài làm Môi trường sống là nơi con người sinh sống và làm việc nên nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, mỗi chúng ta không ai có thể sống mà không cần môi trường sống, chính vì vậy nó là một thành phần dễ bị tổn thương và dễ bị ảnh hưởng nhất đối với nhân tạo. Giống như trong cuộc sống con người có câu: đời sống của chúng ta sẽ bị tổn hại rất lớn nếu con người không có ý thức bảo vệ nó. Câu trên đã mang một ý nghĩa giáo dục sâu sắc về trách nhiệm và ý nghĩa của con người đối với cuộc sống của chúng ta. Môi trường là nơi chúng ta tồn tại và nó bao gồm tất cả các yêu tố tự nhiên như không khí, đất đai, nước, và thiên nhiên tất cả các yêu tố này đều tác động mạnh mẽ đến đời sống của chúng ta, đời sống đó là tất cả các yêu tố gắn liền với cuộc sống của mỗi người. Như chúng ta đều biết con người không thể sống nếu không có nước, nước cung cấp sự sống cho mỗi người, và cả oxi ngoài không khí nữa, chính những điều đó đã tác động rất lớn đến cuộc sống của chúng ta, môi trường tạo ra sự sống và là nguồn cung cấp chủ yếu cho con người về sự tồn tại. Từ xưa đến nay môi trường sống là một nhân tố mà con người rất quan tâm và bảo vệ, nó chịu ảnh hưởng phần lớn từ con người mà nên, những yếu tố đó không chỉ làm cho nó chịu sự tác động mạnh mẽ, mà ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống và con người của Việt Nam. Môi trường sẽ tạo điều kiện cho con người tồn tại, nhưng muốn nó luôn trong lành thì mỗi người đều cần phải có ý thức về cuộc sống, về môi trường, những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống cũng như kinh nghiệm giữ gìn những thứ cần thiết và quan trọng của mỗi con người, mỗi chúng ta những con người trực tiếp chịu sự tác động của môi trường, cũng là những thành phần có đống góp rất lớn cho việc làm nên một môi trường xanh sạch đẹp. Mỗi người có một ý thức thì làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, nó không chỉ đem lại sự sống, sự trong lành, một môi trường sống lành mạnh, mà nó luôn bảo vệ được sức khỏe của họ.Mỗi người đều có ý thức thì làm cho cuộc sống của chúng ta có phần được cải thiện và nó tươi đẹp hơn. Mỗi người chúng ta nếu không biết bảo vệ nó, thì môi trường sống sẽ bị hủy hoại và ngày càng bị tàn phá rất nghiêm trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ to lớn đến toàn bộ con người, mỗi chúng ta đều biết và nắm được vai trò của môi trường đối với con người. Và vai trò của nó vô cùng to lớn thì chúng ta cần phải có những hiểu biết một cách sắc bén và nhạy bén về vấn đề này, môi trường là một thành phần dễ bị tổn thương và bị nguy hại nhiều nhất. Bởi trong toàn cầu nó chịu sự tác động mạnh mẽ của con người. Dân tộc Việt Nam có số lượng dân số vô cùng lớn chính vì vậy con người nếu như không có ý thức với nó, thì nó trở nên bị nguy hại cho sức khỏe của con người, mỗi chúng ta đều biết được điều đó qua ngày nay, khi trái đất ngày càng nóng lên, thời tiết xung quanh chúng ta vô cùng khắc nghiệt. Thời tiết khắc nghiệt dẫn đến sức khỏe con người bị ảnh hưởng, thiên tai dịch bệnh, và kéo theo rất nhiều những ảnh hưởng xấu đến con người, ô nhiễm môi trường ngày nay đang ngày càng được ra tăng bởi rác thải do con người thải ra ngày càng nhiều chính những lý do đó làm cho môi trường sống của chúng ta không còn trong sạch và muốn cải thiện lại điều đó, chúng ta cần phải làm những điều có ý nghĩa và giá trị hơn, đó là có ý thức bảo vệ môi trường. Nên ra tăng trồng nhiều cây xanh, và có ý thức bỏ rác hợp lý không thải những chất thải ra ngoài môi trường bởi nó sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến cuộc sống của chúng ta.
Assignment The living environment is where people live and work, so it has great significance. None of us can live without the living environment, so it is a vulnerable component. and most susceptible to artificial influences. Just like in human life there is a saying: our life will be greatly damaged if people do not have the sense to protect it. The above sentence has a profound educational meaning about human responsibility and meaning in our lives. The environment is where we exist and it includes all natural elements such as air, land, water, and nature, all of which have a strong impact on our lives. Life is all the factors associated with each person's life. As we all know humans cannot live without water, water provides life for each person, and also oxygen in the air, these things have a great impact on our lives and the environment. creates life and is the main source of human existence. Since ancient times, the living environment is a factor that people are very concerned about and protect. It is largely influenced by humans, so those factors not only make it subject to strong impacts, but affects the entire life and people of Vietnam. The environment will create conditions for people to survive, but if you want it to always be healthy, each person needs to be conscious of life and the environment. These things greatly affect life as well as the experience of preserving life. Preserving the necessary and important things of each person, each of us who are directly affected by the environment, are also the components that contribute greatly to creating a clean and beautiful green environment. Each person has a consciousness that makes our lives more meaningful, it not only brings life, freshness, a healthy living environment, but it always protects their health. If everyone is conscious, our lives will be improved and more beautiful. If each of us does not know how to protect it, the living environment will be destroyed and increasingly devastated, very seriously and have a great impact on all humans, each of us knows and understands. The role of the environment for humans. And its role is so great that we need to have a sharp and sensitive understanding of this issue. The environment is the most vulnerable and damaged component. Because globally it is strongly influenced by humans. The Vietnamese people have an extremely large population, so if people are not aware of it, it becomes harmful to human health, each of us knows that day by day. Nowadays, as the earth becomes increasingly hotter, the weather around us is extremely harsh. Harsh weather leads to affected human health, natural disasters and epidemics, and leads to many negative effects on humans. Environmental pollution today is increasingly caused by human waste. Emitting more and more waste is the reason why our living environment is no longer clean and if we want to improve it, we need to do more meaningful and valuable things, that is, be conscious. environmental protection. We should plant more trees, and be conscious of properly disposing of trash and not releasing waste into the environment because it will seriously affect our lives.
Bài làm Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề. Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thánh nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người dep. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân. Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề. Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi. Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền: “Ghé mát trong ngang thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo” Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần tuý là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái, thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền. Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa: “Ví đây đổi phận làm trai được
Assignment Ho Xuan Huong is an open-minded woman who likes to explore, travel, and often swings her pen to write poetry. This is a rare case for a woman in a feudal society. Wherever a poem is addressed, it must be true to the feelings and stories of that place, considered the feeling of the place it is addressed to. Poetry writing is an ancient Chinese custom that became very popular during the Tang Dynasty. Tourists enjoy the mountains and water, visit temples and shrines, are inspired to write poetry, brandish poetry pens to record notes and express their emotions and spirit. We know that it is said that Thoi Lieu's poem Hoang Hac Lau, kept in the Hoang Hac building, confused the poet Ly Bach. Or Thoi Ho's holy male page De Do is on the wing of a page with no beautiful people. In our country, this custom is also popular; on many beautiful caves, poets' autographs are preserved. Ho Xuan Huong is an open-minded woman who likes to explore, travel, and often swings her pen to write poems. This is a rare case for a woman in a feudal society. Wherever a poem is addressed, it must be true to the feelings and stories of that place, considered the feeling of the place it is addressed to. Sam Nghi Dong was the governor of Dien Chau, China, a lieutenant general of Ton Si Nghi during the invasion of Vietnam in 1789. He was assigned to guard Khuong Thuong post, Dong Da. When he was beaten by the Tay Son army, he could not resist so he hanged himself. To maintain diplomatic relations between the two countries, Quang Trung let the Chinese set up a temple to worship Sam Nghi Dong behind Hang Buom street today. According to the book Anthology of Vietnamese Poetry in the late 18th and early 19th centuries, the notes are slightly different: Dong was assigned to defend Ngoc Hoi, Ngoc Hoi fortress fell, and Dong committed suicide. Later, there was a temple at Ngoc Hoi hill. On a passing occasion, Ho Xuan Huong wrote this poem. At the beginning of the poem, Ho Xuan Huong expressed a disrespectful view of the temple: “Visit the cool place and see the hanging sign Behold, the temple of the governor stands on a cliff." Those who have temples built, even if they are enemy soldiers, are considered gods, and everyone comes to burn incense, worship, and pray. But Ho Xuan Huong only looked sideways. Eye contact, according to the Vietnamese Dictionary, is tilting the head and looking at the person, which is purely a gesture, not implying respect. Looking sideways, not up, showed a disrespectful attitude towards the failed invading god. The Thai temple, standing on a cliff, is probably a temple built on a hill, and it is not easy for people to see across. It's clear that Ho Xuan Huong deliberately chose to look down on the Thai beast in this place of exile. The word "craggy" is a unique word, it refers to a high stance but no place to hold on to, easily falling down. This word also implies disrespect, because it is accompanied by pointing movements, but at sacred temples, visitors are not allowed to speak loudly or raise their hands to point like they would with objects. With those two verses, Ho Xuan Huong stripped away all the sacredness and reverence of a temple. Ho Xuan Huong not only looked sideways and pointed in front of a temple, she also compared herself and compared herself to the person being worshiped: “For example, I can change my destiny to be a boy
Bài làm Nguyễn Công Hoan Là nhà văn am hiểu sâu sắc xã hội phong kiến, ông đã khắc hoạ nổi bật tính cách bọn quan lại chuyên ăn hối lộ, chuyên đục khoét, chuyên ăn bẩn… Một trong những viên quan mà ông miêu tả là Huyện Hinh trong truyện ngắn Đồng hào có ma. Khi nhắc đến bọn quan lại dưới thời phong kiến, nhân dân ta thường nhìn chúng với thái độ căm ghét, ghê tởm và gọi chúng là “quan tham, sâu mọt”. Là nhà văn am hiểu sâu sắc xã hội phong kiến, Nguyễn Công Hoan đã khắc hoạ nổi bật tính cách bọn quan lại chuyên ăn hối lộ, chuyên đục khoét, chuyên ăn bẩn… Một trong những viên quan mà ông miêu tả là Huyện Hinh trong truyện ngắn Đồng hào có ma. Mở đầu truyện nhà văn cực lực lên án sách vệ sinh, ông cho rằng sách vệ sinh sai khi dạy người ta phải ăn ở hợp vệ sinh thì mới có sức khỏe tốt. Với Huyện Hinh điều đó không đúng một chút nào, hắn chuyên “ăn bẩn” mà vẫn béo, rất béo là đằng khác. Phải chăng “ăn bẩn” mà nhà văn nói ở đây là “ăn bẩn” theo một nghĩa khác? Giọng văn châm biếm hài hước, thật kinh ngạc: Chà! Chà! Béo ơi là béo vì to béo quá, thân hình quan đồ sộ làm cho quan tưởng là “nói xỏ” khi có thằng dân nào nói nhờ bóng quan lớn to béo đến mức ra mặt hắn căng lên, râu không sao chồi ra ngoài được. Bởi vậy ngoài tứ tuần mà mặt hắn cứ nhẵn thín, cố gắng lắm trên mép hắn mới có được cái dấu chua chủa. Bằng thủ pháp cường điệu phóng đại nhà văn miêu tả diện mạo bên ngoài của hắn nhằm chứng minh: “những anh béo là những anh thích ăn bẩn cả”. Ăn bẩn không phải là ăn ở thiếu vệ sinh mà chính là kiếm ăn bằng những phương cách bẩn thỉu hèn hạ. Danh tính của Huyện Hinh sang đến nỗi làm quan luôn bị dân kiện, bao năm vẫn “lẹt đẹt” tri huyện mãi. Hắn bảo làm bố chánh có văng sỉ ra mà ăn. Đó là sự lọc lõi, cáo già của kẻ chuyên ăn bẩn. Với y danh dự, nhân phẩm, trách nhiệm cũng không bằng cách đục khoét dốc đầy vào bao tượng mặc dù có “bẩn” đi chăng nữa. Ta hãy xem hắn – Huyện Hinh ăn bẩn như thế nào? Trong truyện này chỉ là một phương cách trong muôn nghìn phương cách mà Huyện Hinh ăn bẩn. Con mẹ Nuôi vào cửa quan. Nó đi trình việc mất trộm hôm trước lên quan. Trước khi lên quan nó phải đi chạy vạy vay mượn một đồng hai hào, vì nó biết được “thông lệ gặp quan”. Trước mặt quan, ngài oai vệ quá, mắt trừng trừng nhìn nó. Thế là lúng túng, run quá, hoảng quá, nó đi trình việc mất trộm mà y như nó là kẻ ăn trộm vậy. Thế là rơi tiền, đồng rơi ở xó này, đồng rơi ở xó kia, quái! Còn một đồng nữa? Nó không biết rằng đồng hào mà nó tưởng là có ma ấy đang nằm dưới chân “con ma” trước mặt nó. Không đủ tiền “vi thiềng” quan con mẹ Nuôi lủi thủi ra về. Huyện Hinh chờ cho con mẹ khốn nạn đi khuất đưa mắt xuống chân dịch chiếc giày ra một tí mà vẫn thản nhiên như không, thò tay nhặt đồng hào, thổi những hạt cát còn bám và bỏ tọt vào túi. Tội nghiệp cho con mẹ Nuôi đã mất trộm lại mất cả tiền đi trình việc mất trộm. Nó phải đi vay tiền cả thảy có một đồng hai, khốn nạn có phải lót cho tên lính lệ hai hào từ cổng. Còn một đồng cứ tưởng… do lúng túng, hoảng sợ trước cửa quan, cả năm đồng hào đôi rơi tuốt xuống sân nhà, và thế là trong số tiền rơi ấy có một đồng “có ma”. Nó khăng khăng là “đồng hào của nó có ma”, nó không dám nghi ngờ cho quan bởi vì cửa quan là nơi tôn nghiêm, uy nghi sao có chuyện như vậy được. Nó lủi thủi ra về, mất đến bốn hào bạc mà không giải quyết được việc gì. Con mẹ Nuôi sẽ không khỏi hoài nghi về tiền mà nó mang đi lót tay cho quan để trình việc mất trộm. Có phải có ma thật trong đồng hào đôi của nó? mà nếu có ma thì tại sao nó lại không biến mất khỏi bao tượng bên người nó. Vậy thì ma ở đâu? Có ma thật không? sự nghi ngờ này được Nguyễn Công Hoan giải mã bằng đoạn băng ghi hình sau …Dịch chiếc giày ra một tí… bỏ tọt vào túi. Trong buồng quan chỉ có con mẹ Nuôi và quan vậy ai là ma? Con ma ấy là Huyện Hinh. Con ma đang trừng trừng nhìn nó vẻ soi mói, và có lẽ y quan sát xem đối tượng trước mặt mình là ai, y sẽ khoét bằng cách nào. Con ma giữa công đường, con ma thực thi pháp luật, phụ mẫu hi dân phải chăng quan lại phong kiến đều là bọ ma quái, tham lam nhũng nhiễu như vậy sao? Chúng dùng bao phương cách “mưu na trước quỷ” để bóc lột đến tận xương tuỷ của nhân dân. Vậy thì dân có thể trông tin quan như trời hạn trông mưa thế nào được. Hắn ti tiện bẩn thỉu vô cùng khi ăn món tiền chỉ đáng bằng món tiền con mẹ Nuôi lót tay cậu lính lệ. Hắn oai vệ quá, hắn béo quá và hắn còn càng ngày càng béo vì “ăn bẩn”. Cũng là quan huyện, nhưng viên quan phụ mẫu lại được Phạm Duy Tốn miêu tả sinh động ở góc độ khác. Vô trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, ăn chơi hưởng thụ phó mặc cuộc sống của dân lành, khi thấy có khả năng mình bị liên lụy y đổ tội cho kẻ khác. Như vậy bộ mặt quan lại xưa là như thế, chúng bẩn thỉu ti tiện, vô lương tâm. Chẳng thế mà có bao câu ca dao tục ngữ chế giễu, đả kích bọn quan lại, coi chúng là sâu bọ, ung nhọt, kẻ cướp trong xã hội. “Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan” Hay
Assignment Nguyen Cong Hoan is a writer with a deep understanding of feudal society. He has clearly portrayed the personalities of officials who specialize in bribery, extortion, and dirt... One of the officials he describes is Huyen Cong Hoan. Image from the short story There are ghosts in the trenches. When talking about mandarins during feudal times, our people often look at them with hatred and disgust and call them "greedy officials and vermin". As a writer with a deep understanding of feudal society, Nguyen Cong Hoan has prominently portrayed the personalities of officials who specialize in bribery, extortion, and dirt... One of the officials he described was Huyen Hinh. In the short story There are ghosts in the trenches. At the beginning of the story, the writer strongly condemns hygiene books. He believes that hygiene books are wrong in teaching people to eat hygienically to have good health. For Huyen Hinh, that's not true at all, he specializes in "eating dirty" but is still fat, very fat. Is "eating dirt" that the writer talks about here "eating dirt" in a different sense? The tone of the tone is humorous and surprising: Wow! Rub! Fat, oh fat because he's so fat, his massive body makes him think he's "lying" when a citizen says that thanks to his shadow, he's so fat that his face looks tight and his beard can't come out. . That's why in his mid-forties his face was still smooth. He tried very hard to get the sour mark on his lips. Using exaggeration and exaggeration, the writer describes his appearance to prove: "fat guys are the ones who like to eat dirt." Eating dirt is not about living in unhygienic conditions, but rather about earning a living using dirty and despicable methods. Hinh District's reputation is so high that as an official, he is always sued by the people, and for many years he has remained "flat" in the district. He said that as a father, he would have to spit it out and eat it. That is the pitiful, old fox of a dirty eater. For him, honor, dignity, and responsibility are not as good as chiseling into statues, no matter how "dirty" they are. Let's see how he - Huyen Hinh eats dirty? In this story, this is just one way among thousands of ways that Huyen Hinh eats dirt. The adopted mother's child entered the mandarin's gate. He went to report the theft the day before to the mandarin. Before becoming a mandarin, he had to go out of his way to borrow a dime or two dimes, because he knew the "customs of meeting mandarins". In front of the mandarin, he was so majestic, his eyes glared at him. So confused, so shaken, so scared, he went to report the theft as if he were a thief. So the money falls, the coin falls in this corner, the coin falls in that corner, heck! One more coin? It did not know that the ditch that it thought was haunted was lying at the feet of the "ghost" in front of it. Not having enough money to "go to meditation", the mother and child were reluctant to leave. Hinh District waited for the wretched mother to disappear, looked down at her feet, moved the shoe a little but still calmly as if nothing, reached out to pick up the dime, blew away the remaining sand grains and put them in her pocket. I feel sorry for the adoptive mother's child who had it stolen and lost money to report the theft. He had to borrow money, all for a dime, but he had to pay the soldier two dimes from the gate. As for the one coin I thought... due to confusion and panic in front of the mandarin's gate, all five double coins fell into the yard, and so out of that amount of money there was a "ghost" coin. He insisted that "his country has ghosts", he did not dare to suspect the mandarin because the mandarin's gate was a solemn and majestic place, how could such a thing happen. He slunk out and left, losing four cents of silver without being able to solve anything. The foster mother will not help but be suspicious about the money she brought as a bribe to the mandarin to report the theft. Is there really a ghost in its double dime? But if there is a ghost, why doesn't it disappear from the statues around it? So where are the ghosts? Are there real ghosts? This suspicion was decoded by Nguyen Cong Hoan in the following video recording... Move the shoe a bit... put it in your pocket. In the mandarin's chamber, there are only the foster mother and the mandarin, so who is the ghost? That ghost is Hinh District. The ghost was glaring at it with scrutiny, and perhaps he was observing who the object in front of him was and how he would gouge it. Are the ghosts in the public square, the ghosts who enforce the law, and the common people's parents, are the feudal officials all ghosts and monsters, so greedy and corrupt? They use many methods to "scheme before the devil" to exploit the people to the core. So people can look to the government for news like a drought, looking for rain. He was extremely despicable and filthy when he took money that was only worth the amount of money his foster mother paid the soldier's hand. He's so majestic, he's so fat and he's getting fatter and fatter because he's "eating dirt". Also a district official, but the father-in-law is vividly described by Pham Duy Ton from a different angle. Irresponsible for his duties, enjoying himself and abandoning the lives of good people, when he sees the possibility of being implicated, he blames others. So the face of ancient mandarins was like that, they were dirty, despicable, and unscrupulous. That's why there are so many folk songs and proverbs that mock and attack mandarins, considering them insects, ulcers, and robbers in society. "My son remember this sentence Robbers at night are robbers and robbers during the day are officials." Good
Bài làm Bố yêu kính của con! Bố ạ! Khi con nhận ra những lỗi lầm của mình cũng là lúc con biết những lời nói kia đã làm nhói đau tim mẹ biết nhường nào. Con đã giam mình và ngẫm nghĩ suốt mấy ngày qua. Con nhớ về những ngày con mới sinh ra nhớ lại những ngày con ốm, những ngày con lười nhát không chịu đến trường… càng nhớ về những ngày tháng đã qua con càng thấy nhục nhã và xấu hổ. con của bố! en-ri-cô của bố! cái tên lúc nào cũng được mẹ kính yêu nâng niu và chăm sóc. Vậy mà con đã hư đốn và ngu ngốc, đã chà đạp lên tình yêu thương của mẹ kính yêu. Con đã ngẫm nghĩ về những điều bố đã nhắc nhỡ con. Không ngờ chỉ 1 phút không nghĩ suy con đã làm phiền lòng và mất cả niềm tin nơi bố. giờ đây con đã hiểu, con đã lớn khôn, có trở thành người dũng cảm hay con có thất bại, có sống trong cay đắng nhuốc nhơ thì bố mẹ cũng vẫn là người thương yêu con nhất. con sẽ vẫn là 1 đứa trẻ không hơn và sẽ vẫn nhận được trọn vẹn đầy đủ sự quan tâm của mẹ. giờ đây con đã biết và đã hiểu tại sao những người không ngoan trên khắp thế gian này đều coi tình mẹ là thiêng liêng hơn tất cả. Bố ạ! Con không dám nghĩ tới. nhưng giả sử một ngày nào đó không có mẹ ở trên đời, không biết con sẽ sống ra sao? Lúc ấy, nhất là những lúc con gục ngã, con sẽ đứng dậy thế nào! Quả thực, khi những ý nghĩ kia chỉ cần chợt thoáng lướt qua trong óc, con đã thấy hụt hẫng và choáng váng lắm rồi!.
Assignment Dad loves my glasses! Dad! When I realized my mistakes, I knew how much those words hurt my mother's heart. I've been locking myself up and thinking for the past few days. I remember the days when I was born, the days when I was sick, the days when I was lazy and refused to go to school... the more I remember the past days, the more humiliated and ashamed I feel. my child! Dad's Enrico! The name is always cherished and cared for by her beloved mother. Yet I was naughty and stupid, trampling on my beloved mother's love. I've been thinking about what you reminded me of. Unexpectedly, in just 1 minute of not thinking, you upset me and lost all trust in me. Now I understand, I have grown up, become a brave person or fail, live in bitterness and disgrace, my parents are still the people who love me the most. I will still be a child no more and will still receive my mother's full attention. Now I know and understand why wise people all over the world consider mother's love to be more sacred than anything. Dad! I don't dare think about it. But suppose one day there is no mother in this world, I wonder how I will live? At that time, especially when you fall, how will you get up! Indeed, when those thoughts just flash through my mind, I feel disappointed and stunned!
Bài làm Trong đời sống tinh thần đa dạng và phong phú của con người thì tình cha con là tình cảm máu thịt thiêng liêng, sâu đậm nhất. Công lao to lớn của người cha được nhắc đến rất nhiều trong ca dao, dân ca: Công cha như núi Thái Sơn,.., Con có cha như nhà có nóc, Phụ tử tình thâm… Người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa đáng tin cậy cho vợ con. Mọi việc lớn như làm nhà, tậu ruộng, tậu trâu, dựng vợ gả chồng cho con cái… thường là do người cha quyết định. Trách nhiệm của người cha rất nặng nề. Con cái ngoan hay hư, chủ yếu là tùy thuộc vào sự bảo ban dạy dỗ của người cha. Bên cạnh người mẹ dịu dàng là người cha nghiêm khắc. Dẫu cách thức biểu hiện tình thương yêu có khác nhau nhưng bậc cha mẹ nào cũng mong muốn nuôi dạy con cái trưởng thành về mọi mặt, đúng như dân gian đã nói: Con hơn cha là nhà có phúc. Trong lúc mẹ hằng ngày chẳng quản vất vả nhọc nhằn, lo lắng cho các con từ bát cơm, tấm áo thì người cha, ngoài những thứ đó ra còn phải nghĩ đến việc dạy dỗ, truyền kinh nghiệm sống mà mình đã đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt, để các con học được những bài học thiết thực khi bước vào đời. Thật hạnh phúc cho những đứa con được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ! Có biết bao người cha chấp nhận thiệt thòi về mình, dành tất cả thuận lợi cho con cái. Em đọc trên báo và xem truyền hình thấy những người cha lam lũ, quần quật làm những việc như: quét rác, đội than, đội trấu, đạp xích lô… không từ nan bất cứ chuyện gì, miễn là lương thiện đế kiếm tiền nuôi đàn con ăn học đến nơi đến chốn. Gần nhà em có một bác người Quảng Ngãi, tuổi hơn năm chục, làm nghề mài dao kéo. Ngày ngày, bác rong ruổi khắp nơi trên chiếc xe đạp cà tàng với vài hòn đá mài và thùng nước nhỏ. Bác vào thành phố đã hơn ba năm, kể từ khi anh con trai lớn thi đậu đại học Bách khoa. Mỗi lúc kể về những đứa con ngoan, bác cười rất mãn nguyện, đôi mắt ánh lên vẻ tự hào: – Nhà bác nghèo lắm! Được mấy đứa con, đứa nào cũng ham học và học giỏi. Năm nay, cô con gái thứ hai cũng đậu Đại học Sư phạm. Bác ráng làm kiếm ngày vài chục ngàn, cha con đùm túm nuôi nhau. Mình chẳng có chi cho các con thì cho chúng cái chữ, cái nghề! Em thấy ở bác có những nét rất giống cha em, một người thợ cơ khí bình thường, quanh năm làm việc với máy móc, dầu mỡ. Đôi bàn tay cha chai sần, thô ráp, mạnh mẽ nhưng ấm áp lạ thường. Có thể nói rằng trong gia đình em, cha làm nhiều nhất và hưởng thụ ít nhất; Cha giống mẹ ở chỗ nhường nhịn hết cho đàn con những miếng ngon miếng lành, còn mình chỉ cơm dưa cơm mắm qua ngày.
Assignment In the diverse and rich spiritual life of people, father-child love is the most sacred and profound bond of blood and flesh. The father's great merits are mentioned many times in folk songs and folk songs: A father's merit is like Thai Son mountain, etc., A child's father is like a house with a roof, Father and son's love is deep... The father plays the role of breadwinner in the family and is a reliable support for his wife and children. All big things like building a house, buying fields, buying buffaloes, getting married to children... are usually decided by the father. The responsibility of a father is very heavy. Whether children are good or bad depends mainly on their father's teachings and instructions. Next to the gentle mother is a strict father. Although the ways of expressing love are different, every parent wants to raise their children to maturity in all aspects, just as the folk saying goes: If a child is better than his father, the family is blessed. While the mother works tirelessly every day, worrying about her children's food and clothes, the father, in addition to those things, also has to think about teaching and passing on life experiences that he has traded for. sweat and tears, so that children can learn practical lessons when entering life. How happy it is for children to live in the loving arms of their parents! There are so many fathers who accept disadvantages for themselves and give all advantages to their children. I read in the newspaper and watched TV and saw my fathers working hard and working hard doing things like: sweeping trash, carrying coal, carrying rice husks, riding cyclos... not afraid of anything, as long as they were honest to make money. Raise your children to have a good education. Near my house, there is an uncle from Quang Ngai, over fifty years old, who works as a knife sharpener. Every day, he travels everywhere on a bicycle with a few grinding stones and a small water tank. He has been in the city for more than three years, since his eldest son passed the Polytechnic University entrance exam. Every time he talked about his good children, he smiled very contentedly, his eyes shining with pride: - My family is very poor! Having several children, all of them are eager to learn and study well. This year, the second daughter also passed the Pedagogical University. He tried to earn a few tens of thousands a day, and father and son supported each other. If we don't have anything to give our children, then give them words and a profession! I see that you have very similar features to my father, an ordinary mechanic who works with machinery and grease all year round. Father's hands were calloused, rough, strong but unusually warm. It can be said that in my family, father works the most and enjoys the least; My father is like my mother in that he gives up all the good things for his children, while I just eat, eat, eat, and eat fish sauce to get through the day.
Bài làm Trong đời sống tinh thần của con người có rất nhiều tình cảm thiêng liêng như tình cha con, mẹ con, tình anh em, tình thầy trò, bè bạn… Nhu cầu về tình bạn là nhu cầu cần thiết và quan trọng, vì vậy mà trong ca dao, dân ca có nhiều câu rất cảm động về vấn đề này: Bạn bè là nghĩa tương tri, Sao cho sau trước một bề mới yên. Hoặc: Ai về ta gởi bức thơ, Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao?! Hoặc: Chim lạc bầy thương cây nhớ cội, Xa bạn xa bè, lặn lội tìm nhau. Có những tình bạn lưu danh muôn thuở trong văn chương như Lưu Bình với Dương Lễ, Bá Nha với Chung Tử Kì, như Nguyễn Khuyến với Dương Khuê… Trong cuộc sống xung quanh ta cũng có rất nhiều tình bạn đẹp đẽ. Vậy thế nào là một tình bạn đẹp? Theo em, trước hết đó phải là một tình cảm chân thành, trong sáng, vô tư và đầy tin tưởng mà những người bạn thân thiết dành cho nhau. Tình bạn bước đầu thường được xây dựng trên cơ sở cảm tính nhiều hơn lí tính. Trong số đông bạn bè chung trường, chung lớp, ta chỉ có thể chọn và kết thân với một vài người. Đó là những người mà ta có thiện cảm thực sự, hiểu ta và có chung sở thích với ta, mặc dù là cùng hoặc không cùng cảnh ngộ. Tình bạn trong sáng không chấp nhận những toan tính nhỏ nhen, vụ lợi và sự đố kị hơn thua. Hiểu biết, thông cảm và sẵn sàng chia sẻ vui buồn, sướng khổ với nhau, đó mới thực sự là bạn tốt. Còn những kẻ: Khi vui thì vỗ tay vào, Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai không xứng đáng được coi là bạn. Đã là bạn thân thì thường dễ dàng xuê xoa, bỏ qua những thói hư tật xấu của nhau. Đó là một sai lầm nên tránh. Nể nang, bao che… chỉ làm cho bạn dấn sâu hơn vào con đường tiêu cực mà thôi. Trong tình huống như thế, bạn rất cần những lời khuyên đúng đắn, sáng suốt và đầy tình thân ái. Giúp bạn sửa chữa sai lầm cũng chính là giúp mình, giữ cho mình đi trên đường ngay lối thẳng để tu dưỡng thành người hữu ích. Một yếu tố cơ bản để giữ cho tình bạn được bền lâu chính là niềm tin tưởng. Tin bạn cũng như tin mình, luôn nghĩ về bạn bè với những điều tốt đẹp. Có như vậy bạn bè mới trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của ta trong cuộc đời. Tục ngữ có câu: Học thầy không tày học bạn với nội dung đề cao vai trò của bạn bè không chỉ trong phạm vi học hành mà còn ở nhiều mặt khác. Bạn tốt là gương sáng cho ta noi theo, nhiều lúc bạn đóng vai trò người thầy dẫn dắt, chỉ vẽ cho ta những điều hay lẽ phải. Đường đời vạn nẻo không ít gian nan, thử thách. Trên con đường dằng dặc ấy, nếu có được vài người bạn tâm giao cùng chí hướng, cùng quyết tâm, kề vai sát cánh thì lòng ta ấm áp thêm nhiều và nghị lực cũng tăng lên gấp bội.
Assignment In human spiritual life, there are many sacred feelings such as father-child love, mother-child love, brotherly love, teacher-student love, friendship love... The need for friendship is a necessary and important need, so In folk songs and folk songs, there are many very touching sentences about this issue: Friends mean mutual understanding, So that the front and back are peaceful. Or: Whoever comes back, I'll send a letter, Ask your old friend where he is now?! Or: Lost birds love the trees and miss their roots, Far from friends, far from friends, traveling to find each other. There are eternal friendships in literature like Luu Binh with Duong Le, Ba Nha with Chung Tu Ky, like Nguyen Khuyen with Duong Khue... In life around us, there are also many beautiful friendships. So what is a beautiful friendship? In my opinion, first of all, it must be a sincere, pure, carefree and trusting feeling that close friends have for each other. Initial friendships are often built more on emotions than reason. Among the large number of friends in the same school and class, we can only choose and become friends with a few people. These are people who we have real sympathy for, who understand us and share similar interests with us, whether or not they are in the same situation. Pure friendship does not accept petty calculations, self-interest and jealousy. Understanding, sympathizing and being willing to share joys, sorrows, joys and sufferings with each other, that is truly good friends. As for those who: When they're happy, they clap their hands. When they're in trouble, they don't see anyone who doesn't deserve to be considered a friend. Once you're close friends, it's often easy to forgive each other and ignore each other's bad habits. That is a mistake that should be avoided. Being respectful, covering up... only makes you go deeper into the negative path. In such a situation, you really need sound, wise and loving advice. Helping you correct your mistakes is also helping yourself, keeping yourself on the straight path to become a useful person. A basic factor to keep a long-lasting friendship is trust. Believe in you as well as believe in yourself, always think of your friends with good things. Only then will friends become our reliable support in life. There is a proverb that says: Learning from a teacher is not good at learning from friends, with the content promoting the role of friends not only in the scope of education but also in many other aspects. Good friends are a good example for us to follow. Many times they play the role of a guiding teacher, showing us the right things. The path of life is full of hardships and challenges. On that long road, if we have a few soul mates with the same intention, same determination, standing side by side, our hearts will be much warmer and our energy will also increase tenfold.
Bài làm Trong thơ ca Việt Nam có hai nữ sĩ đã ghi lại tên tuổi vào dòng văn học trung đại, đó là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu nói thơ của Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại mang sự trầm lắng, sâu kín, hoài cảm, gửi gắm nỗi niềm vào lời thơ. Phong cách đó của bà đã làm ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm bà dành cho quê hương qua bài thơ “Qua Đèo Ngang”. “Bước đến Đèo Ngang, bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia Dừng chân đứng lại trời, non, nước Một mảnh tình riêng, ta với ta” Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát, giọng thơ nhẹ, trầm lặng mang nét buồn sâu lắng. Nữ sĩ tài danh lần đầu xa nhà, đặt chân đến Đèo Ngang vào một buổi xế chiều, không gian khiến ai nghe cũng cảm giác buồn, gợi nỗi niềm riêng “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà” Ngay từ đầu, cảnh vật ở Đèo Ngang đã hiện lên dưới ánh nắng chiều sắp tắt, thật hữu tình nhưng vẫn hoang vu, hiu vắng. Đó là khung hiện ra trong con mắt của người xa sứ mang theo vẻ buồn mênh mang. Khoảng khắc “xế tà” xuất hiện như để bộc lộ tâm trạng buồn của một lữ khách cô đơn trước không gian rộng mà heo hút, hoang sơ của Đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” Điệp từ “chen” của tác giả làm cho cây cỏ lá hoa có sức sống mạnh liệt nhưng nơi đây còn hoang sơ, ít dấu chân người. Câu thơ cho em cảm xúc bâng khuâng, niềm mong ước đặt chân đến miền đất xa sôi này. Nơi đã khơi gợi niềm cảm xúc nhớ nhà của nữ sĩ. Khung cảnh ấy bất giác gieo vào lòng người đọc một ấn tượng trống vắng, lạnh lẽo cả không gian lẫn thời gian. Một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng lại đượm buồn. Người phụ nữ sang trọng, đài cát, ăn mặc theo lối xưa đang hướng đôi mắt buồn nhìn cảnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà lặng êm. Và khi bước chân lên đỉnh đèo, khung cảnh đã được mở rộng thêm “Lom khom dưới núi, tiều vài chú Lác đác bên sông, chợ mấy nhà” Giữa không gian mênh mông, trống trải của Đèo Ngang không phải là không tồn tại sự sống, vẫn có người, có chợ nhưng lại quá thưa thớt. Từ láy “lom khom, lác đác” cùng từ “vài, mấy” gợi vẻ ít ỏi, thưa thớt, cuộc sống ở đây hẳn còn khó khăn, vất vả. Sự tồn tại đó không làm cho không gian trở nên ấm cúng mà trái lại càng tăng thêm vẻ tàn tạ, hiu hắt của cảnh vật mà thôi! Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặc sắc nhất là phép đối làm đậm vẻ bâng khuâng, dào dạt trong lòng nhà thơ. Là người phụ nữ đoan trang ở chốn phố phường đông đúc mà giờ lại chứng kiến cảnh tượng trái ngược với khung cảnh hàng ngày được thấy nên cái buồn của cảnh đã bộc lộ cái buồn kết đọng trong lòng bà. Tất cả như hòa quyện cùng với tâm hồn của nhà thơ – một tâm hồn cô đơn, trống vắng vì nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Đến đây, em cảm nhận được một vẻ đẹp hoang sơ, heo hút buồn của Đèo Ngang qua con mắt của nhà thơ. Nữ sĩ đã thành công trong việc mượn cảnh tả tình, bày tỏ nỗi niềm hoài cổ, man mác buồn của mình. Cảnh buồn, người buồn, thậm chí cả những âm thanh vang vọng trong chiều tà cũng làm tăng thêm nỗi buồn da diết trong lòng kẻ xa quê “Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia” Tác giả khéo léo dùng phép chơi chữ “quốc – nước” “gia – nhà”. Âm thanh khắc khoải, da diết của tiếng chim kêu não nuột, nghẹn ngào hay tiếng lòng của nữ sĩ? Cảnh thể hiện kín đáo, nhẹ nhàng mà tha thiết, sâu sắc tình yêu, nỗi nhớ quê hương, gia đình. Nỗi niềm vời vợi nhớ thương của nhà thơ bất chợt bùng lên trong giây lát, để rồi lại trở về với cái vẻ hoang vắng vốn có của đất trời và sự cô đơn đến tuyệt đỉnh của chính nhà thơ làm xúc động lòng người “Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Assignment In Vietnamese poetry, there are two female poets who have left their names in medieval literature: Ho Xuan Huong and Ba Huyen Thanh Quan. If it is said that Ho Xuan Huong's poetry is sharp and angular, then Ba Huyen Thanh Quan's poetry is quiet, profound, nostalgic, and puts her feelings into her words. Her style has made us deeply feel the love she has for her homeland through the poem "Qua Deo Ngang". “Step to Ngang Pass, the sunset Chen stone plants, leaves flowers chen Crouching under the mountain, he cried a few times Few sporadic riverside home market It hurts to miss my country, I am a child of my country Trade the mouth so adhered fatigue Stop and stop at the sky, mountains, and water A piece of me with my own situation" The poem is written in seven-eighth form, the tone is light and quiet, with deep sadness. The talented female artist was away from home for the first time, arriving at Ngang Pass one late afternoon. The space made everyone who heard it feel sad, evoking their own feelings. "Step to Ngang Pass, the sunset" Right from the beginning, the scenery at Ngang Pass appeared under the fading afternoon sunlight, charming but still desolate and desolate. That was the frame that appeared in the eyes of the messenger, carrying immense sadness. The moment of "departure" appears as if to express the sad mood of a lonely traveler in front of the vast, desolate, wild space of Ngang Pass. "Chen stone plants, leaves flowers chen" The author's "chen" makes the plants, flowers and trees have strong vitality, but this place is still wild, with few human footprints. The poem gives me a feeling of wistfulness, a desire to set foot in this far away land. The place that evoked the female artist's feelings of homesickness. That scene suddenly leaves the reader with an empty, cold impression of both space and time. A beautiful but sad picture of nature. A luxurious, elegant woman, dressed in the old-fashioned way, is looking at the scene of Ngang Pass with sad eyes in the quiet afternoon. And when you step foot on the top of the pass, the scenery is expanded further “Hoop down under the mountain and cry a few times Few sporadic riverside home market" In the vast, empty space of Deo Ngang, life is not non-existent, there are still people and markets, but they are too sparse. The words "hunched over, scattered" and the words "few, few" suggest few and sparse, life here must still be difficult and strenuous. That existence does not make the space cozy, but on the contrary, it only enhances the desolation and desolation of the landscape! The author used the art of anaphora, most notably the parallelism that deepens the wistfulness and abundance in the poet's heart. As a dignified woman in a crowded street, but now witnessing a scene that was contrary to the scene she saw every day, the sadness of the scene revealed the sadness that had accumulated in her heart. Everything seems to blend with the poet's soul - a lonely soul, empty because of homesickness and hometown. Coming here, I feel the wild, sad beauty of Ngang Pass through the poet's eyes. The female artist succeeded in using scenes to describe love and express her nostalgic and sad feelings. Sad scenes, sad people, even the sounds echoing in the late afternoon add to the profound sadness in the hearts of those far from home. “It hurts to miss my country, I am a child of my country Trade the mouth so adhered fatigue" The author cleverly uses the word play "country - country" "family - house". The agonizing, heartbreaking sound of a bird's sad, choking cry or the sound of a female artist's heart? The scene shows discreet, gentle yet earnest, profound love and nostalgia for homeland and family. The poet's longing and longing suddenly flared up for a moment, only to return to the inherent desolation of heaven and earth and the poet's own ultimate loneliness, touching people's hearts. “Stop and stop at the sky, the mountains, and the water
Bài làm “Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên tiêu”, “Báo Tiệp”, “Thu dạ”,…Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông năm 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương. Trong không khi sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ “Nguyên tiêu” của Bác Hồ xuất hiện trên báo “ Cứu quốc” như một đoá hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thuỷ đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên; Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”. Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tu đêm nguyên tiêu lịch sử. Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu trời. “Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”. (Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân) “Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến. Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hoá núi ghé nghiên soi”; yêu ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển. Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng: “Yêu ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”. Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hy vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”, … mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm hco bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại. Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng: “Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”. (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền). “Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến nhưng vần thơ hoa lệ: “Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá? Trăng nước như xưa chín với mười”. (Triệu Hỗ – Đường thi) “Thuyền mấy là đông, tây lặng ngắt, Một vầng trăng trong vắt lòng sông…” (Bạch Cư Dị) “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi, Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu” (Nguyễn Trãi) .v.v…. Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.
Assignment "Nguyen Tieu" is in a series of Chinese poems written by Ho Chi Minh during the 9 years of resistance war against the French, in the Viet Bac war zone: "Nguyen Tieu", "Czech Newspaper", "Thu Da",... After the victory of Viet Bac In the fall and winter of 1947, in the spring and summer of 1948, our army again won a big victory on route number four. The joy of winning the battle filled the front and rear lines. In that vibrant and exciting atmosphere, Uncle Ho's poem "Nguyen Tieu" appeared in the newspaper "National Salvation" like a fragrant and fragrant spring flower. Xuan Thuy translated this poem quite well. The original work is in Chinese characters, written in a seven-line four-literary poetic form: “Kim night Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien, Spring flows, spring water follows spring heaven; Yen ba deep land of military talks, "Ye half returns to the moon boat". The full moon night shines brightly in a vast space. The poem speaks of the abundant emotions and joy in the souls of monks on the historic Nguyen Tieu night. The first two sentences paint a wonderful scene of Nguyen Tieu night. In the sky, the moon is just full (full moon). The full moon in January has an unusually beautiful beauty because spring makes the moon more beautiful. And the moon also makes the landscape look charming. My homeland is vast and green. The sparkling blue color of "Xuan Giang". The jade green color of "spring water" continues with the blue color of "spring sky". The three words "spring" in the second verse are unique drawings that highlight the "spirit" of the landscape of rivers, water and sky. "Spring river, spring water follows spring sky". (Spring river, water and sky color add spring) "Spring" in Uncle Ho's Chinese poem is spring, youth, and beautiful beauty. It also describes spring, rivers, earth and sky in spring. It shows the beauty and strong vitality of our country: amidst the fire and bullets, a youthful and potential vitality still abounds. In addition to the value of describing the beautiful scenery of Nguyen Tieu night, the poem also delicately expresses the feelings of pride and immense joy of a poetic soul vibrating in the midst of a beautiful spring night, a historical spring night, the country is heroic resistance. For Uncle Ho, loving the beauty of the Nguyen Tieu night and loving nature is also loving life passionately. He loved nature, so the rivers, mountains, trees, flowers, and creatures in his poems were very charming. There is "The moon cage of ancient trees, the shadow of flower cages". There is "The moon comes into the window asking for poetry" in the joy of victory. Uncle loves mountain flowers and wild birds in Viet Bac: "Looking at books, wild birds come in and perch - Criticizing mountain culture, stop by to study"; love the mountains, wild birds announce the sudden arrival of autumn... Nature in Ho Chi Minh's poetry is one of the elements that create the lyrical tones and classic colors. The last two verses talk about the river, the waves and the moon boat: “Love the three deep lands of military talks, "Yes, semi-returning to the moon full boat". The moonlight of the previous day (1942-1943) shone on the cold prison in a foreign land, but on this Nguyen Tieu night (1948), the moon shone down on the boat in which Uncle Ho was "talking about the military" (discussing military affairs). . The full moon is the moon of promise, heralding the moon seasons of the year, and is welcomed by the people with so much hope and warm affection. Again, the case of rewarding the moon is not a normal case that takes place in the yard, in the alley, or "looking at the moon", ... but the reward of the moon on the smoke of the waves, in the "peaceful three depths" - the deep realm. hidden, secret on the river, in the middle of mountains and forests, a vast war zone! The person who is enjoying the full moon is not only a man of the past, but also a man of action, a soldier fighting the enemy, a leader "discussing military matters" to lead the people to resist. fight and protect the country's rivers and mountains. Indeed, this is a very special case of rewarding the moon: "Yen ba deep land of military talks". "Yen ba" is wave smoke, an ancient poetic material that Uncle Ho used very creatively to compose the poem "Nguyen Tieu" with the style of Tang poetry. The three words "military talk" distinguish Uncle Ho's poetry from the poetry of the ancients, giving the poems a modern color and historical atmosphere of the era. After long hours of tense military discussions in the deep smoke and waves, it was late at night. At midnight (half night), Uncle Ho returned to the wharf, his soul extremely refreshed. The boat of the marshal, the boat of resistance, becomes the moon boat of a light poet swimming on the vast river, filled with golden moonlight: "Ye semi-return, moon full boat". (Late at dawn moon filled the boat). “Moon full boat” is a very beautiful and lyrical image, it reminds us of the magnificent poems: “Where did you play last year? The moon and water are like nine and ten." (Trieu Ho – Exam Road) “The boats are east and west, quiet, A clear moon in the riverbed..." (Bach Cu Di) “The water is blue and green, boats rest on the beach, The night is clear and silvery, guests go upstairs." (Nguyen Trai) .v.v…. Returning to Ho Chi Minh's poem, we see the boat floating gently on the river, hidden in the smoke and waves, carrying a lot of moonlight, showing a military leader rich in poetic soul leading our army and people to resist. regain independence and freedom, to forever preserve the moonlit nights of our peaceful homeland. The image of the moon boat in this poem shows that Uncle Ho's soul is rich in love for nature, and despite the hardships of resistance, he is still optimistic and loves life. Through the poem "Nguyen Tieu", we can say that the water moon in Uncle Ho's poetry is very beautiful. It is that moon that shows the leisurely demeanor and noble soul of the genius leader of the nation with the personality of an artist and Eastern sage.
Bài làm Ta nên hiểu câu này như thế nào và đánh giá nó ra sao? Phải chăng đây chính là kinh nghiệm quý báu mà ông cha của chúng ta từ nghìn xưa đã để lại cho con cháu suy ngẫm và học hỏi. Câu tục ngữ dùng hai sự vật “gỗ” và “nước sơn” để làm một phép so sánh. “Gỗ” là chất liệu để làm đồ dùng như tủ,giường,bàn,ghế…Còn “nước sơn” là chất liệu để quét lên lớp bên ngoài cho các đồ dùng ấy thêm đẹp thêm bền.Nhiều người chỉ chú ý đến lớp nước sơn bóng nhoáng bề ngoài mà đã mua phải một đồ dùng bằng gỗ xấu hoặc gỗ mọt.Ông cha ta với kinh nghiệm sống của mình đã kết luận là: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đó là hiểu theo nghĩa đen.Còn nghĩa bóng của câu tục ngữ thì rộng hơn rất nhiều.Nó bao hàm một lời khuyên về cách nhìn nhận,đánh giá một sự vật,một con người đừng nên để cái vỏ hình thức hào nhoáng bên ngoài mê hoặc mà phải coi trọng cái thực chất bên trong.Ngoài ra,câu này còn bao hàm một lời khuyên về cách sống;hãy sống chân thật bằng thực chất của mình,chân thành trong cách đối nhân xử thế,đừng ba hoa,khoác lác lòe đời bằng cái vỏ hình thức giả tạo,”chớ khéo đem cái mã bề ngoài để che đậy cái sơ sài bên trong”. Như mọi câu tục ngữ khác,câu tục ngữ này cũng là đúc rút kinh nghiệm của cha ông chúng ta,trải qua biết bao thế hệ,với bao thành bại,nên hư,vấp váp mới đúc rút thành chân lí: ”Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.Khi nhìn nhận đánh giá một sự vật,ta phải thấy rằng giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong,không phải lúc nào cũng thống nhất mà thông thường thì những sự vật có thực chất kém cỏi lạ thường một hình thức lôi cuốn hấp dẫn.Một vật dụng như chiếc tủ,chiếc giường,chiếc bàn bằng gỗ tạp lại được sơn phết,tô điểm với nước sơn bóng nhoáng,màu mè.Mỗi kẻ vô tài thường làm ra vẻ lịch duyệt,hiểu biết.Những kẻ “miệng nam mô bụng một bồ dao găm” vẫn tồn tại phổ biến trong xã hội.Do đó,trong tiếp xúc thường ngày với mọi sự vật,mọi con người phải chú trọng vào chất lượng bên trong của sự vật,vào vẻ đẹp tâm hồn của con người chớ đừng vì bóng sắc hấp dẫn bên ngoài mà quên đi cái mục ruỗng,thối nát,xấu xa và vô vị bên trong.Bởi vì nghĩ cho kĩ,suy cho cùng,nếu chân giá trị của vật dụng là chất gốc thì chân giá trị của con người chính là đạo đức tài năng và trí tuệ.
Assignment How should we understand this sentence and evaluate it? Is this the valuable experience that our ancestors have left for their children and grandchildren to ponder and learn from thousands of years ago? The proverb uses two things "wood" and "paint" to make a comparison. "Wood" is the material used to make items such as cabinets, beds, tables, chairs... And "paint" is the material used to apply the outer layer to make those items more beautiful and durable. Many people only pay attention to the layer. The glossy paint on the outside means you have bought a utensil made of bad wood or wood. Our ancestors, with their life experience, concluded: "Better wood than good paint". That is to be understood literally. The figurative meaning of the proverb is much broader. It includes advice on how to perceive and evaluate a thing, a person should not let the flashy shell of form lie behind them. In addition to being enchanted, we must value the inner essence. In addition, this sentence also contains advice on how to live: live honestly with your essence, be sincere in how you treat people, don't brag. , boasting about life with a fake appearance, "don't cleverly use the appearance on the outside to cover up the meagerness inside". Like all other proverbs, this proverb is also a summary of the experience of our ancestors, through many generations, with many successes and failures, failures and stumbles, it has been distilled into the truth: "Good wood "When looking at and evaluating an object, we must see that the external form and the internal content are not always consistent, but often things have strangely poor substance." often an attractive form. An item such as a cabinet, bed, or table made of mixed wood is painted and decorated with flashy, colorful paint. Every talentless person often pretends to be elegant. , understanding. People with a "man's mouth and a belly full of daggers" still exist widely in society. Therefore, in daily contact with all things, every person must focus on the inner quality of things. things, on the beauty of the human soul, don't forget the rotten, rotten, ugly and tasteless inside because of the attractive appearance on the outside. Because think carefully, after all, if the truth is The value of objects is the original substance, the true value of people is morality, talent and intelligence.
Bài làm Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các nẻo đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả được xem như là biểu tượng của người Việt đất Việt,…Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài “Cây tre VN: Nước việt nam xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa trúc mai vầu mấy chục loại khác nhau,nhưng cùng một mần xanh mọc thẳng…” “Tre xanh, xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…” Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,… và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m, ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”. Cùng với cây đa, bến nước, sân đình_một hinh ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẳn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống. Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “…Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phài ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng_ hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc Àn xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Mặt khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai hóa thân thành người khổng lồ rất có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất nhanh của cây tre ( theo các nhà Thực vật học, thì cây tre phát triển điều kiện lý tưởng, có thể cao thêm từ 15 -20cm mỗi ngày). Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn côngtrong các cuộc chiến. Chính những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập Tự do cho Tổ Quốc. “ Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,…” Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích ( Nàng Ưt ống tre, cây tre trăm đốt,…) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre: “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,… Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như: đàn tơ tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.
Assignment For many generations, bamboo has been present in almost every corner of the country and has been faithfully attached to the Vietnamese ethnic community. Especially in the minds of Vietnamese people, bamboo holds a deeper and more lasting position as a symbol of the Vietnamese people of Vietnam,... Since I was little, I still remember the song "Vietnamese bamboo: Green Vietnam". There are countless trees with different leaves, every tree is beautiful, every tree is precious, but the most familiar is still apricot bamboo of dozens of different types, but the same green growth..." “Green bamboo, ever green Once upon a time, there was a green bamboo bank..." Bamboo, bamboo, bamboo,... and many other types of bamboo are plants of the Rice family. Bamboo has long-lived, soaked roots that grow shoots called bamboo shoots. The woody straw trunk can be up to 10 - 18m tall, with few branches. Each tree has about 30 nodes,... The bamboo tree only flowers once in its entire life and its life cycle will close when the bamboo "flowers". Along with the banyan tree, water wharf, and communal house yard - a familiar and beloved image of traditional Vietnamese villages, the bamboo bushes of the village have for thousands of years had a symbiotic relationship with the Vietnamese people. Bamboo offers shade for life and is ready to sacrifice everything. From the sweet bamboo shoots to the bamboo sheaths used to make hats, from the bamboo stems and leaves to the roots, all contribute to building life. Bamboo has been associated with many ups and downs of the country's history. “…The country grows when its people know how to grow bamboo and fight the enemy…”. It is no coincidence that the story of the yellow-stemmed bamboo species is associated with the legend of Saint Giong by the Vietnamese people - the image of Saint Giong pulling up thick bamboo bushes to repel the invading An invaders has become a symbol of the miraculous and mutant power of victory. of our nation against powerful invaders. On the other hand, the image of the boy Thanh Giong stretching to transform into a giant is most likely related to the ability of bamboo to grow very quickly (according to botanists, bamboo grows in ideal conditions). , can grow 15 -20cm per day). Over many historical periods, green bamboo ramparts have become solid "green fortresses" against invaders, natural disasters, and assimilation. Bamboo truly becomes a stronghold and an endless source of materials to make offensive weapons in wars. It was the bamboo poles on the Bach Dang and Ngo Quyen rivers that defeated the Southern Han army. It was the bamboo tree that contributed greatly to expelling the invaders to gain Independence and Freedom for the Fatherland. “Bamboo protects the village, protects the water, maintains thatched roofs, maintains ripe rice fields,…” Being close and dear to the nation, bamboo has been an endless source of inspiration in literature and art. From fairy tales (Bamboo Ut, hundred-knot bamboo tree,...) to folk songs and proverbs, bamboo is all present. There have been many famous works written about bamboo: "Vietnamese bamboo" by Thep Moi and the poem of the same name by poet Nguyen Duy, etc. Bamboo also appears in popular folk songs and bamboo dances. all the country. And it is one of the important materials in creating national musical instruments such as: silk lute, flute, trumpet, etc. Bamboo enters every person's life, deep into the Vietnamese soul. Whenever far from home, it is difficult for travelers to forget the image of their beloved village bamboo clumps, peaceful bamboo bridges... The image of bamboo always reminds of a rustic Vietnamese village, noble Vietnamese people, Simple but spirited.
Bài làm Từ khi bước chân vào môi trường học đường, tôi đã được làm quen và tiếp xúc với rất nhiều bạn bè. Mỗi người bạn có một vẻ khác nhau và đối với mỗi người tôi lại dành cho họ những tình cảm quý mến khác nhau. Nhưng trong rất nhiều những người bạn mà tôi quý mến ấy, người bạn mà tôi yêu quý nhất, người luôn đồng hành với tôi trong mọi niềm vui, nỗi buồn, không thể có từ nào thích hợp hơn hai tiếng “bạn thân’ để nói về bạn, đó là Minh Anh. Minh Anh học cùng với tôi ngay từ những ngày đầu cắp sách đến trường. Tôi và bạn chơi với nhau cũng từ những ngày đó, nhưng để trở thành bạn thân thì tôi không nhớ rõ từ khi nào nữa. Tôi chỉ biết rằng hằng ngày chúng tôi đèo nhau đi học trên một chiếc xe đạp và có tâm sự trong lòng thì người đầu tiên tôi tìm đến là Minh Anh. Minh Anh trong mắt tôi là một cô bạn hết sức dễ thương và đáng mến. Bạn có đôi mắt to, khuôn mặt thanh tú với điểm nhấn là cái mũi dọc dừa xinh xinh. Nhưng có lẽ trong muôn vàn những thứ đáng chú ý ấy thìgây ấn tượng với tôi hơn cả là vầng trán cao biểu lộ sự thông minh, lanh lợi của bạn. Minh Anh học rất giỏi, bạn lại là cây văn nghệ xuất sắc của lớp. Mỗi lần lớp có chương trình văn nghệ thì bạn là người tư tin xung phong đầu tiên. Tôi và các bạn trong lớp đều rất thích nghe Minh Anh hát. Mỗi khi tới lượt bạn biểu diễn thì trong lớp dường như không có lấy một âm thanh nào khác ngoài tiếng hát trong trẻo như chim sơn ca của bạn. Tiếng hát ấy như xua tan hết mọi mệt nhọc sau mỗi giờ Văn, giờ Toán căng thẳng. Tôi quý Minh Anh lắm,may mắn nhất của tôi có lẽ là được làm bạn thân của bạn. Tôi còn tự hào vì có người bạn thân luôn nhiệt tình giúp đỡ người khác như Minh Anh. Trong lớp, dù chỉ chơi thân với tôi nhưng không có nghĩa là bạn không hòa đồng với mọi người. Nhắc đến Minh Anh, không ai có thể quênđược hình ảnh cô lớp phó học tập gương mẫu. Nhìn khuôn mặt bạn lấm tấm mồ hôi mà vẫn say sưa giảng lại mấy bài tập khó cho các bạn trong lớp, tôi càng thêm khâm phục và yêu quý bạn hơn. Nhiều lúc chúng tôi cứ ngỡ Minh Anh chính là cô giáo nhỏ của mình.
Assignment Since entering the school environment, I have met and met many friends. Each friend has a different look and for each person I have different feelings of affection. But among the many friends that I cherish, the friend that I love the most, the one who always accompanies me in all joys and sorrows, there cannot be a more appropriate word than the two words "best friend" to describe. Talking about you, it's Minh Anh. Minh Anh studied with me from the first days of school. My friend and I have been together since those days, but I don't remember when we became close friends. I only know that every day we ride each other to school on a bicycle and if we have something to say, the first person I go to is Minh Anh. Minh Anh in my eyes is a very cute and lovable girl. You have big eyes, a delicate face with the highlight being a beautiful, vertical nose. But perhaps among those countless notable things, the one that impresses me the most is your high forehead, which shows your intelligence and agility. Minh Anh studies very well and is an excellent artist in the class. Every time the class has a cultural program, you are the first volunteer. My classmates and I all really enjoyed listening to Minh Anh sing. Every time it's your turn to perform, there seems to be no sound in the classroom other than your clear singing like a nightingale. That singing seemed to dispel all the fatigue after every stressful Literature and Math class. I love Minh Anh very much, my luckiest thing is probably to be your best friend. I'm also proud to have a close friend who is always enthusiastic about helping others like Minh Anh. In class, even though you're just friends with me, it doesn't mean you don't get along with everyone. When talking about Minh Anh, no one can forget the image of her exemplary class vice president. Looking at your face covered in sweat while still passionately re-teaching difficult exercises to your classmates, I admire and love you even more. Many times we thought Minh Anh was our little teacher.
Bài làm Cha kính yêu của con! Đọc xong những dòng tâm trạng của cha, con biết cha giận con nhiều lắm. Con viết bức thư này không phải là cầu mong được sự tha thứ của cha bởi con biết con đã phạm phải một lỗi lầm không hề nhỏ. Nhưng sự hối hận đã thôi thúc con phải đặt bút viết và cầu xin sự tha thứ từ cha và để con có dũng khí đứng trước mặt mẹ xin một nụ hôn xóa đi mọi tội lỗi con gây ra. Con biết mình là người có lỗi khi vô lễ với mẹ trước mặt cô giáo khi cô đến thăm nhà vào sáng nay. Ôi, tại sao con lại bướng bỉnh và thiếu lễ độ như vậy với người mẹ sinh ra con và chăm sóc con hàng ngày cơ chứ? Mẹ là người chăm sóc con hàng ngày từ bữa ăn đến giấc ngủ, lo cho con từng li từng tí một, con còn nhớ mỗi lần con ốm bị ốm, mẹ luôn thức trắng đêm bên giường con và chỉ nở nụ cười mãn nguyện khi cơ thể con có dấu hiệu khỏe lại. Mẹ rất yêu con, con biết điều đó lắm và con cũng yêu mẹ vô cùng, vậy mà hôm nay con lại làm mẹ buồn. Con chỉ nghĩ đến cảm xúc của bản thân mà không để ý đến sự tổn thương của mẹ. Con đã là cho những giọt nước mắt lăn trên gò má mà đáng ra phải ửng hồng vì hạnh phúc, con đã hành xử như một đứa trẻ vô văn hóa và một đứa con bất hiếu. Con không chỉ làm mẹ phải buồn lòng mà con biết cha cũng khổ tâm nhiều lắm. Cha nói đúng, con nhất định sẽ phải hối hận vì những hành động của mình, nhưng không cần chờ đến khi con trưởng thành để hối hận, con đã hối hận ngay sau khi gây ra lỗi ấy của mình. Hình ảnh của mẹ hiện lên dịu dàng đến đâu con càng thấy mình tệ hại đến mức nào. Nếu có thể quay ngược lại lúc ấy, con sẽ không bao giờ dám vô lễ với mẹ như vậy, nhưng đó là điều không thể xảy ra. Ôi, làm sao để con nói lời xin lỗi với mẹ đây, khi mà con không dám đứng trước mặt mẹ vì niềm xấu hổ và ân hận tột cùng đang dày vò? Và con phải làm sao để mẹ tha thứ cho đứa con nhỏ dại ngu ngốc này? Có lẽ một lời xin lỗi là chưa đủ cho lỗi lầm của con, cho dù mẹ có tha thứ vì mẹ yêu con, con cũng sẽ không tha thứ cho bản thân mình.
Assignment My beloved father! After reading your feelings, I know you are very angry with me. I am not writing this letter to ask for your forgiveness because I know I have committed a big mistake. But regret prompted me to put pen to paper and ask for forgiveness from you and for me to have the courage to stand in front of you and ask for a kiss to erase all the sins I committed. I know I'm the one at fault for being disrespectful to my mother in front of the teacher when she visited my house this morning. Oh, why are you so stubborn and disrespectful to the mother who gave birth to you and takes care of you every day? Mom is the one who takes care of me every day from meals to sleep, takes care of me every little bit, I still remember every time I get sick, mom always stays up all night next to my bed and only smiles with satisfaction when I wake up. The child's body shows signs of recovery. Mom loves you very much, I know that very much and I also love you very much, but today you make me sad. I only think about my own feelings and don't pay attention to my mother's hurt. I let tears roll down my cheeks that should have been red with happiness, I acted like an uncultured child and an ungrateful child. Not only do I make my mother sad, but I know my father also suffers a lot. Dad is right, you will definitely regret your actions, but there is no need to wait until you are an adult to regret, you regretted it right after making that mistake. The gentler my mother's image appears, the more I see how terrible I am. If I could go back to that time, I would never dare to be so disrespectful to my mother, but that is impossible. Oh, how can I say sorry to my mother, when I don't dare stand in front of her because of the extreme shame and regret that is tormenting me? And what should I do to make my mother forgive this stupid little child? Maybe an apology is not enough for my mistake, even if you forgive me because I love you, I will not forgive myself.
Nguyễn Khuyến (1835-1909) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc. Ông để lại nhiều bài thơ nói về tình bạn: bạn cùng quê, bạn đồng học, bạn đồng khoa… “Ai lên thăm hỏi bác Châu Cầu Lụt lội năm nay bác ở đâu…” (Lụt hỏi thăm bạn) “Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…” (Khóc Dương Khuê) Châu cầu, Dương Khuê là hai bạn đồng khoa của Nguyễn Khuyến. Bài “Bạn đến chơi nhà” là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông, nói lên một tình bạn đẹp. Câu nhập đề rất tự nhiên, như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn. Lời chao vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng không xiết: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà”. Chữ “bác” gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng, một cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ – lời chào hỏi – có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoé mắt đôi bạn già. “Đã bấy lâu nay” là bao năm tháng? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu, tuổi già… nên xiết bao đợi chờ, mong nhớ. Bộ phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xac cáhc nhớ mong, làm nổi bật ý thơ: niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Trong bài thơ “Khóc Dương Khuê”, có một chi tiết giúp ta cảm nhận được một phần nào cái hay, cái tình ẩn chứa trong câu nhập đề: “Muốn đi lại tuổi già thêm nhác, Trước ba năm gặp bác một lần, Cầm tay hỏi hết xa gần Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”. Chữ “bác” được nói đến trong bài thơ “Bạn đến chơi nhà” là bạn chí thân, ở xa, lâu ngày mới gặp nên Nguyễn Khuyến rất mừng và cảm động. Sáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm: Đã lâu ngày bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây? Một tình thế khá éo le: “Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”. Chữ “thời” (thì) là một hư từ, rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo. Nhưng dưới ngòi bút Tam nguyên Yên Đổ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cùng, chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, điêu luyện. Nguyễn Khuyến sau khi cáo quan, lui về sống bình dị ở chốn vườn Bùi quê cũ, với “năm gian nhà cỏ thấp le te”, với một cơ ngơi: “Chín sào tư thổ là nơi ở, Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà”. (Ngày xuân dạy các con – 1) Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách nói, một lối biểu cảm: Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân! Có ao và cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu… Bức tranh vườn Bùi thân thuộc hiện lên sống động, vui tươi. Một nếp sống thong dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch, ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến đang dắt tay bạn ra thăm vườn cây ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê ở ẩn. Phép đối hợp cách, chặt chẽ; cảnh với cảnh, thượng hạ, trắc – bằng phân minh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi lời thơ cân xứng, hoà hợp như cảnh vườn tược xinh xắn, hữu tình: “Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà”. Dân gian có câu: “Khách đến chơi nhà khong gà cũng vịt”. Qua các câu thơ trên, ta thấy Nguyễn Khuyến đang giãi bày với bạn: trong nhà ngoài vườn có bao nhiêu thứ, nhưng thực ra chẳng có gì để thiết bạn, đãi bạn vì tất cả mọi thứ, mọi thức chưa đến lúc, đến thời! Câu thơ thứ bảy tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng định luôn cái “không có”: “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Phải chăng cái nghèo của cụ Tam nguyên Yên Đổ đã đến mức ấy ư? “Vẻ chi một mớ trầu cay” (ca dao). Nhà thơ đã thậm xưng hoá cái nghèo, thi vị hoá cái nghèo. Một ông quan to triều Nguyễn về quê ở ẩn, với một cơ ngơi “chín sào tư thổ là nơi ở” thì không thể “miếng trầu là đầu câu chuyện” để tiếp bạn cũng “không có”. Đây là một lời thơ hóm hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà nho khước từ lương bổng của thực đan Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương. Câu kết là một sự “bùng nổ” về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, cao lương mĩ vị, cơm gà cá gỏi, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết: “Bác đến chơi đây, ta với ta”. Lần thứ hai, chữ “bác” đã xuất hiện trong bài thơ, thể hiện mọt sự trìu mến, kính trọng. Bác đã không quản tuổi già sức yếu, không quản đường sá xa xôi đến thăm tôi, còn gì quý hoá bằng! Tình bạn là trên hết. Không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri âm, tri kỉ. Mọi cái đều “không có” nhưng lại “có”; tình bằng hữu thân thiết. Chữ “ta” là đại từ nhẵnng, trong bài thơ này là “tôi”, là “bác”, là “hai chúng ta”, không có gì cách bức nữa. Cụm từ “ta với ta” biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, toả rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ “ta với ta” trong câu thơ “Một mảnh tình riêng ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách ly hương khi đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, còn ở đây, trong câu thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình đời và sau nặng tình bạn. Qua đó, ta cảm nhận được phần nào tính cá thể hoá cua ngôn ngữ và sắc điệu trữ tình tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ cổ. Có đọc qua một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về tình bạn, ta mới thấy cái hay, cái ý vị của bài thơ “Bạn đến chơi nhà”: “Từ trước bảng vàng nhà sẵn có, Chẳng qua trong bác với ngoài tôi” (“Gửi bác Châu Cầu”) “Đến thăm bác, bác đang đau ốm, vừa thấy tôi, bác nhổm dậy ngay. Bác bệnh tật, tôi yếu gầy. Giao du rồi biết sau này ra sao?”
Nguyen Khuyen (1835-1909) is the nation's outstanding Nom poet. He left behind many poems about friendship: friends from the same hometown, classmates, classmates... “Who came to visit Uncle Chau Cau? Where are you when it's flooded this year..." (Flood asks for you) “Uncle Duong, that's enough The gentle cloudy water touches my heart..." (Crying Duong Khue) Chau Cau and Duong Khue are two classmates of Nguyen Khuyen. The song "You come to visit" is one of his unique Nom poems, expressing a beautiful friendship. The introduction is very natural, like a simple statement from a poet after many days of seeing you again. The words were enthusiastic, expressing unspeakable joy: "It's been a long time since you came home." The word "uncle" evokes a warm, friendly and respectful attitude, a friendly way of addressing. Behind the poem - the greeting - there may be tears welling up in the corners of the old couple's eyes. How many years does "it's been a long time" mean? The time has not been specifically determined, but it has certainly been quite a long time, because of weakness, old age... so much waiting and longing. The adverbial part of time is placed at the beginning of the poem to describe the longing for separation, highlighting the poetic idea: the emotion and infinite joy of seeing you again. In the poem "Crying Duong Khue", there is a detail that helps us feel some of the beauty and love hidden in the introductory sentence: “If I want to travel again, I will grow old and lazy, I met you once three years ago, Hold hands and ask questions near and far I'm glad that you're still in good spirits." The word "uncle" mentioned in the poem "Friend comes to visit" is a close friend who lives far away and has not seen each other for a long time, so Nguyen Khuyen was very happy and touched. The next six verses exude a humorous smile. One overarching poetic idea: It's been a long time since you last came to visit, what should I get for you? A rather unfortunate situation: "The children are away, the market is far away." The word "tense" is a fictional word that rarely appears in poetry because it easily falls into bland banality. But under the pen of Tam Nguyen Yen Do, it becomes extremely natural and elegant, proving that he has a mature and skilled artistic spirit. After resigning, Nguyen Khuyen retired to live a simple life in Bui's old hometown, with "five low grass houses" and a property: “Nine acres of land is the place to live, A bundle of broken letters is a family karma." (Spring day teaches children – 1) Parts of fact and argument, the systematic nature of poetic language is very strict, consistent in one way of speaking, one way of expression: Having everything but still not having anything to treat to close friends! There are ponds and fish, gardens and chickens, eggplants and mustard greens, luffa and gourds... The familiar picture of Bui's garden appears lively and cheerful. A simple, diligent, and lovely lifestyle. A life of purity, warmth, and human love is something to be proud of. We feel like Nguyen Khuyen is taking his friend's hand to visit the garden and fish pond, enjoying the rustic pleasures of a mandarin returning to his hometown to live in seclusion. The parallelism is proper and strict; scene with scene, upper and lower, horizontal - with distinction, creating a gentle, joyful poetic voice, symmetrical and harmonious lyrics like a lovely, charming garden scene: “The pond is deep and the water is deep, so you can fish wisely Large garden fence sparse, hard chase chickens". There is a folk saying: "Guests who come to visit the house are neither chickens nor ducks". Through the above verses, we see that Nguyen Khuyen is confiding to his friend: there are many things in the house and garden, but in fact there is nothing to treat you to or treat you to because everything, everything has not yet arrived. time! The seventh verse continues and expands the above poetic idea, affirming the "nothing": "There is no betel in the beginning of the game to receive guests." Has Mr. Tam Nguyen Yen Do's poverty reached that level? "What does a bunch of spicy betel look like" (folk song). The poet has exalted poverty, poeticized poverty. A high-ranking mandarin of the Nguyen Dynasty returned to his hometown to live in hiding, with a property of "nine acres of private land as his residence", he could not "have a piece of betel as the beginning of the story" to receive friends and also "didn't have any". This is a humorous poem, mixed with a bit of self-deprecation and joy, to express a pure life, a noble soul of a Confucian who refused the salary of the French food, and retired to live a simple life in the village. hometown. The ending is an "explosion" of ideas and emotions. Receiving you does not need a high tray, a full meal, delicious delicacies, chicken rice and fish salad, but only a heart, a sincere and passionate friendship: "Uncle, I'm here to play, you and I." For the second time, the word "uncle" appeared in the poem, expressing affection and respect. He didn't care about his old age and weak health, didn't care about the long distance to visit me, what could be more precious than that! Friendship comes first. No material thing can replace true friendship and soulmate. Everything is "not there" but "is"; close friendship. The word "we" is a simple pronoun, in this poem it is "I", "you", "the two of us", there is nothing more pressing. The phrase "me and me" expresses a complete, overflowing joy that settles in the soul, spreading throughout space and time. With the phrase "me and me" in the poem "A piece of love between you and me" by Ba Huyen Thanh Quan, there is the lonely sadness of the exile when standing on the top of Ngang pass at sunset, but here, in the verse Nguyen Khuyen's poetry is warm with love and then heavy with friendship. Through that, we can partly feel the individualization of language and lyrical tones that create literary value in ancient poems. Having read some of Nguyen Khuyen's poems about friendship, we can see the beauty and meaning of the poem "Friends come to visit": “Since before, the house's gold table was available, It's just inside you and outside me." (“To Uncle Chau Cau”) “I came to visit my uncle, he is sick. As soon as he saw me, he stood up immediately. Uncle is sick, I am weak and thin. Let's meet and know what will happen in the future?
Bài làm Có câu hát nào đẹp như ca dao dân ca? Ca dao dân ca đã hoà nhập một cách hồn nhiên, kỳ diệu vào tâm hồn tuổi thơ của mỗi người. Ca dao dân ca Việt Nam giàu bản sắc, vô cùng đẹp đẽ và phong phú. Nó là tiếng hát tâm tình nơi bờ xôi ruộng mặt, nơi bến cũ đò xưa… lưu luyến trong dân gian, phản ánh cuộc sống và ước mơ của nhân dân ta từ bao đời nay. Có những khúc hát ru ngọt ngào chứa chan tình nghĩa. Có những bài hát giao duyên say đắm lòng người. Có những bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa, với hình ảnh duyên say đắm lòng người. Có những bài ca nói về đất nước quê hương, với nương dâu, ruộng lúa, với hình ảnh người dân quê một nắng hai sương, cần mẫn, hiền lành, đáng yêu. Cánh cò “bay lả bay la” đầm sen “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”. Cô thôn nữ tát nước đêm trăng “múc ánh trăng vàng đổ đi”,… tất cả đều đem đến cho lòng ta biết bao niềm thương nỗi nhớ. Ấy là ca dao. Ấy là tuổi thơ của mỗi chúng ta. Cánh đồng làng quê và hình ảnh cô thôn nữ được nói đến trong bài ca dao sau đây là hình ảnh thân thuộc đáng yêu đối với mỗi người Việt Nam từ ngàn xưa” “Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông. Thân em như chẹn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”. Ca dao thường được viết bằng thể thơ lục bát. Nhưng ở bài ca dao này, nhà thơ dân gian đã viết bằng thơ lục bát biến thể, mở rộng câu thơ thành 12, 13 từ. Cô thôn nữ không làm chuyện văn chương thơ phú như ai, mà cô chỉ nói lên những rung động, những cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên của lòng mình khi ngắm nhìn cánh đồng lúa thân yêu của làng mình. Trước mắt là cánh đồng lúa “ bát ngát mênh mông… mênh mông bát ngát”, thắng cảnh cò bay, càng trông càng “ngó”, càng thích thú tự hào. Câu ca dài mãi ra cùng với chân trời, với sóng lúa: “Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng, cũng bát ngát mênh mông. “Ngó” gần nghĩa với với nhìn, trông, ngắm nghía… Từ “ngó” rất dân dã trong văn cảnh này gợi tả một tư thế say sưa ngắm nhìn không chán mắt, một cách quan sát kỹ càng. Cô thôn nữ “đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng” rồi lại “đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng”, dù ở vị trí nào, góc độ nào, cô cũng cảm thấy sung sướng tự hào trước sự “mênh mông bát ngát… bát ngat mênh mông” của cánh đồng thân thuộc. Hai tiếng “bên ni” và “bên tê” vốn là tiếng nói của bà con Thanh, Nghệ dùng để chỉ vị trí “bên này”, “bên kia”, được đưa vào bài ca thể hiện đức tính mộc mạc, chất phác của cô thôn nữ, của một miền quê. Nghệ thuật đảo từ ngữ: “mênh mông bát ngát // bát ngát mênh mông” góp phần đặc tả cánh đồng lúa rộng bao la, tưởng như không nhìn thấy bến bờ “lúa hai mùa cuộn sóng, đến chân trời”…Có yêu quê hương tha thiết mới có cái nhìn đẹp, cách nói hay như thế! Tục ngữ có câu: “Ngắm núi, nhìn sông, trông đồng, trông chợ”. Nghĩa là ngắm nhìn sông núi để biết xứ lạ ít hay nhiều nhân tài; trông đồng, trông chợ mà biết miền quê giàu hay nghèo. Cánh đồng lúa là cảnh sắc của làng quê ta. Cánh đồng “mênh mông bát ngát… bát ngát mênh mông” nói lên sự giàu có của quê “em”. Bằng tấm lòng yêu mến, tự hào nơi chôn nhau cắt rốn của mình, mảnh đất đã thấm biết bao máu và mồ hôi của ông bà tổ tiên, của đồng bào từ bao đời nay thì nhà thơ dân gian mới có thể viết nên những lời ca mộc mạc mà đằm thắm nghĩa tình đọc lên làm xao xuyến lòng người như vậy. Câu ca không hề nói đén mà xanh và hương thơm của lúa, sắc trắng của cánh cò “chớp trắng” trên nền trời xanh bao la, mà ta vẫn cảm thấy cái ngào ngạt của “hương lúa nếp thơm nồng”, “mùa thu hương cốm mới”, nơi bờ ruộng mật quyện lấy tâm hồn ta. Nhờ thế, ta yêu thêm đất mẹ quê cha, với hoài niệm tuổi thơ: “Đất hiền như tuổi thơ, Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ” (Lê Anh Xuân) Hai câu tiếp theo nói về cô thôn nữ ra thăm đồng. Niềm vui sướng trào dâng trong long. Nhìn lúa tốt tươi rồi cô nghĩ về mình. Cô không mặc cảm thân phận mình là “hạt mưa sa”, “là tấm lụa đào”, là “củ ấu gai”…như ai đó, thân phận vui ít buồn nhiều. Trái lại, cô đã so sánh mình với chẹn lúa đòng đòng trên cánh đồng quê hương. “Chẹn lúa” còn gọi là dảnh lúa, một bộ phận của khóm lúa. “Chẹn lúa đòng đòng” nói lên sự trưởng thành, sinh sôi nẩy nở, hứa hẹn một mùa sây hạt, trĩu bông. Hình ảnh so sánh “Thân em như chẹn lúa đòng đòng” gợi tả một vẻ đẹp duyên dáng, xinh tươi, một sức lực căng tràn hứa hẹn. Đây là một hình ảnh trẻ trung, khoẻ khoắn, hồn nhiên nói về cô gái Việt Nam trong ca dao, dân ca: “Thân em như chẹn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”.
Assignment Is there any song as beautiful as a folk song? Folk songs have innocently and magically integrated into each person's childhood soul. Vietnamese folk songs are rich in identity, extremely beautiful and rich. It is a sentimental song on the shores of fields, at old wharves of old boats... lingering in the folk, reflecting the lives and dreams of our people for many generations. There are sweet lullabies filled with love. There are love songs that captivate people's hearts. There are songs about the homeland, with mulberry fields, rice fields, with images of captivating charm. There are songs about the homeland, with its mulberry fields, rice fields, with the image of the countryside people who are both sunny and dewy, diligent, gentle, and lovely. The stork's wings "flirt" in the lotus pond "with green leaves and white flowers interspersed with yellow stamens". The village girl splashed water on a moonlit night, "scooping up the golden moonlight and pouring it away",... all of which bring so much love and nostalgia to our hearts. That's a folk song. That is the childhood of each of us. The village fields and the image of the village girl mentioned in the following folk song are lovely and familiar images to every Vietnamese person since ancient times." “Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and vast, Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense. My body is like a block of rice, Floating under the pink morning sun. Folk songs are often written in six-eight verse form. But in this folk song, the folk poet wrote in six-eight variations, expanding the verse into 12 or 13 words. The village girl did not do poetic literature like anyone else, but she only expressed the vibrations and natural, innocent emotions of her heart while looking at the beloved rice fields of her village. In front of us is the "immense... immense" rice field, the landscape of storks flying, the more we look, the more we "look", the more excited and proud we become. The long song stretches out along the horizon and the rice waves: “Standing on the side of the field, looking at the side of the field, vast and vast, Standing on the side of the field and looking at the other side of the field, it is also immense. "Look" is close in meaning to look, look, admire... The very simple word "look" in this context describes a posture of passionately watching without getting tired of the eyes, a way of observing carefully. The village girl "stands next to the field and looks at the field" and then "stands next to the field and looks at the field". No matter what position or angle, she feels happy and proud at the "immenseness of the field". "vast... vast expanse" of familiar fields. The two words "beside ni" and "been numb" are the language of the Thanh and Nghe people, used to refer to the location "this side" and "that side", and are included in the song to express the rustic and simple virtues. of a village girl, of a countryside. The art of reversing words: "immense and immense // immense and vast" contributes to describing the vast rice fields, seemingly unable to see the shore "two seasons of rice rolling, reaching the horizon"... There is love Only the earnest homeland has such a beautiful look and such a beautiful way of speaking! There is a proverb that says: "Look at the mountains, look at the river, look at the fields, look at the market". It means looking at the mountains and rivers to know whether a foreign country has more or less talented people; Look at the fields and markets to know whether the countryside is rich or poor. Rice fields are the scenery of our village. The "immense... immense" fields speak of the wealth of "my" hometown. Only with love and pride for the place of one's birth, the land that has absorbed so much blood and sweat from ancestors and compatriots for many generations, can folk poets write poems. The lyrics are simple but full of love when read, making people's hearts flutter. The song does not mention the greenness and fragrance of rice, the whiteness of the stork's wings "flashing white" against the vast blue sky, but we still feel the sweetness of the "fragrant scent of sticky rice", "autumn". The scent of new green rice flakes" on the edge of the honey field mingles with our souls. Thanks to that, we love our motherland more, with childhood nostalgia: “The land is as gentle as childhood, Stork wings fly in the sky of leaves" (Le Anh Xuan) The next two sentences talk about a village girl visiting the fields. Joy welled up in my heart. Looking at the lush rice, she thought about herself. She does not feel guilty about her identity as "a raindrop", "a peach silk", "a thorny tuber"... like someone else, her fate is more or less happy, more or less sad. On the contrary, she compared herself to a rice field in her hometown. “Rice block” is also called rice block, a part of the rice clump. “Suppressing rice fields” speaks of maturity and proliferation, promising a season of sowing seeds and abundant flowers. The comparative image "Your body is like a block of rice" evokes a graceful, beautiful beauty, a promising strength. This is a youthful, healthy, and innocent image of a Vietnamese girl in folk songs and folk songs: “My body is like a block of rice, Floating under the pink morning sun.
Bài làm Hình ảnh quê hương đất nước được nói đến nhiều trong ca dao dân ca. Có con “đường vô xứ Nghệ quanh quanh – Non xanh nước biếc như trnah họa đồ”. Nơi ải BẮc xa xôi là “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa – Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, Huế đẹp mộng mơ có “Núi Truồi ai đắp mà cao – Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?…”. Và có cảnh sáng sớm mùa thu trên Hồ Tây, nơi kinh thành Thăng Long “ngàn năm văn vật”: “Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”. Bài ca dao mang màu sắc một bài thơ cổ điển, đẹp như một bức tranh thuỷ mặc. Cảnh vật Hồ Tây được miêu tả thật nên thơ: hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh hài hòa, sống động. Những khóm trúc ven hồ, cành lá um tùm rậm rạp, đeo nặng sương mai “la đà” sát mặt nước, sát mặt đất, rung rinh, đu đưa trước làn gió nhẹ. Từ láy tượng hình “la đà” – một nét vẽ thoáng và gợi cảm, đầy ấn tượng: “Gió đưa cành trúc la đà Cây tre, cây trúc rất gần gũi, thân thuộc với con người Việt Nam. Tre, trúc là cánh sắc làng quê. Tre, trúc là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn người thiếu nữ quê ta: “Trúc sinh trúc mọc bờ ao, Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh”. Sau khi tả cành trúc, tác giả nói về âm thanh gần, xa: “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương”. Câu ca dao ngắt thành hai nhịp chẵn 4-4, hai vế tiểu đối cân xứng, hòa hợp như âm thanh tiếng chuông đền Trấn Vũ và tiếng gà gáy sang canh từ làng Thọ Xương vọng tới. Đền Trấn Vũ còn gọi là đền Quan Thánh nằmn cạnh Hồ Tây là nơi thờ đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Tiếng chuông Trấn Vũ ngân lên trong sương sớm như ru hồn người vào huyền thoại, lắng hồn núi sông ngàn năm, để ta yêu hơn non nước quê nhà: “Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam Rùa” (“Tụng Tây Hồ phú” – Nguyễn Huy Lượng). Tiếng gà gáy sang canh… lại làm ta tỉnh mộng, songs lại nhịp sống đời thường dân đã “Lao xao gà gáy rạng ngày, Vai vác cái cày, tay giắt con trâu…”. Cùng với tiếng gà gáy báo sáng là nhịp chày giã đó làm giấy ở phường Yên Thái vàng lên rộn rã, nhịp nhàng. Lụa làng Trúc, giấy Yên Thái là sản phẩm nức tiếng kinh kỳ Thăng Long từ thời nhà Lý xa xưa, là niềm tự hào của những người thợ thủ công tài hoa: “Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng May áo chàng cùng sóng áo em,…” (Ca dao) “Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co Liễu bờ kia bay to biếc phất phơ, thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm…” (“Tụng Tây Hồ phú”) Tiếng gà gáy, tiếng chày giã đó đã diễn tả nhịp sống lao động cần mẫn của nhân dân ta nơi ba mươi sáu phố phường. Qua âm thanh ấy, ta cảm nhận được cuộc sống sôi nổi của nhân dân ta một thời thanh bình, no ấm và yên vui. Nhà thơ dân gian như đang đứng trầm ngâm, lặng ngắm cảnh Hồ Tây lúc sáng sớm. Mùa thu, sáng sớm cảnh vật phủ mờ sương khói. Phố phường, làng mạc, cảnh vật, cỏ cây “mịt mờ” trong “ngàn sương” và “khói tỏa”. Sương phủ trắng bao la; mênh mông và mịt mù. Huyền ảo và thơ mộng qúa. Câu thưo cổ kính, chứa chan thi vị:
Assignment The image of the homeland is mentioned a lot in folk songs. There is a road "surrounding the Nghe An land - Green mountains and blue water like on a map". In the far North, there is "Dong Dang has Ky Lua street - There is To Thi, there is Tam Thanh pagoda", the dreamy Hue has "Mountain Truoi, who builds it high - Huong River who digs it, who digs it deep?..." . And there is an early morning scene in autumn on West Lake, where the capital city of Thang Long has "thousands of years of literature": “The wind carries bamboo branches to la da, The sound of Vu town bell, Tho Xuong chicken soup. The fog and smoke radiate thousands of mists, The rhythm of the Yen Thai pestle, the mirror face of Tay Ho". The folk song has the color of a classic poem, as beautiful as a watercolor painting. The scenery of West Lake is described poetically: images, colors, lines, sounds are harmonious and lively. The bamboo clusters along the lake, their branches and leaves are thick and dense, heavy with morning dew "la da" close to the water surface, close to the ground, trembling and swaying in the light breeze. The pictograph "la da" - an airy and sexy drawing, full of impression: “The wind moves the bamboo branches to the la da Bamboo trees are very close and familiar to Vietnamese people. Bamboo is the color of the countryside. Bamboo is a symbol of the beauty of the soul of young women in our country: “Bamboo grows on the banks of ponds, You're beautiful, you're beautiful wherever you stand." After describing the bamboo branches, the author talks about near and far sounds: "Tran Vu bell, Tho Xuong chicken soup". The folk song is broken into two even beats of 4-4, the two minor parts are symmetrical and harmonious like the sound of the bell of Tran Vu temple and the sound of a rooster crowing from Tho Xuong village. Tran Vu Temple, also known as Quan Thanh Temple, is located next to West Lake and is a place to worship Huyen Thien Tran Vu. The sound of the Tran Vu bell ringing in the morning mist lulls the soul into a legend, calming the soul of the mountains and rivers for thousands of years, making us love our homeland more than the mountains and water: "Tran Vu Quan does not change in sunshine or rain, the sacred sword still holds the turtle in captivity." ” (“Chanting Tay Ho Phu” – Nguyen Huy Luong). The sound of the rooster crowing at dawn... woke me up from my dream, singing back to the rhythm of ordinary people's life: "The sound of the rooster crowing at dawn, The plow on my shoulder, the buffalo in my hand...". Along with the sound of the rooster crowing to announce the morning, the rhythm of the pounding pestle makes the paper in Yen Thai ward become bustling and rhythmic. Truc village silk and Yen Thai paper are famous products of the Thang Long period since the ancient Ly Dynasty, and are the pride of talented craftsmen: “The silk of Truc village is both delicate and shiny Sewing your shirt with the waves of my shirt..." (Song) “The Yen Thai pestle pounded in the mist Nghi Tam net prevents winding water The willows on the other bank fluttered loudly, making noises to tease the two brocade weavers..." (“Chanting the West Lake Phu”) The sound of roosters crowing and pounding pestles describe the hard-working life of our people in thirty-six streets. Through that sound, we feel the vibrant life of our people in a time of peace, prosperity and joy. The folk poet seems to be standing in contemplation, silently admiring the scenery of West Lake in the early morning. In autumn, early in the morning the landscape is covered with fog. Streets, villages, landscapes, trees and grass are "hazy" in "thousands of mist" and "smoke". Immense white mist; vast and obscure. So magical and poetic. Ancient verse, filled with poetry:
Bài làm Ca dao, dân ca là cây đàn muôn điệu của người dân quê Việt Nam. Tiếng đàn ngọt ngào vời vợi từng lan xa theo hương lúa và cánh cò trầm bổng ngân nga trên sóng nước theo nhịp chèo của con thuyền xuôi ngược thiết tha âu yếm qua lời ru của mẹ hiền nhịp nhàng theo tiếng võng kẽo kẹt trưa hè… Khúc hát tâm tình của quê hương đã thấm sâu vào tâm hồn tuổi thơ của mỗi chúng ta mà năm tháng không thể phai mờ. Ta nhớ mãi lời ru của bà, của mẹ… “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Bài ca ca dao chứa chan nghĩa tình. Nó ca ngợi công cha nghĩa mẹ vô cùng to lớn, sâu nặng và nhắc nhở đạo làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu. Giọng điệu của bài ca dao sao thân thương thế! Hai câu đầu nói về công cha nghĩa mẹ. Nhà thơ dân gian đã sử dụng biện pháp ví von để tạo ra hai hình ảnh cụ thể, sóng đôi nhau: công cha đi liền với nghĩa mẹ, câu trên nói về núi Thái Sơn thì câu dưới mượn nước trong nguồn…, tạo ra một sự đăng đối hài hòa, lời thơ sâu bền thấm sâu vào hồn dân tộc. “Núi Thái Sơn” theo quan niệm của dân gian là ngọn núi cao nhất, hùng vĩ nhất trong những ngọn núi. “Nước trong nguồn…” không bao giờ vơi cạn, vừa trong mát ngọt lành như dòng sữa mẹ, thầm lặng mà cao cả! Lấy núi Thái Sơn và nước trong nguồn chảy ra để làm ví với công cha, nghĩa mẹ, ca ngợi công ơn cha mẹ to lớn, sâu nặng, đó là một cách nói sâu sắc thấm thía vô cùng. Có con người Việt Nam nào không thuộc câu ca dao này? Nhớ, thuộc từ lâu, nhưng mỗi lần ngâm lên, ta vẫn thấy mới mẻ, xúc động: “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Cha mẹ đã sinh ra, nuôi dưỡng, dạy bảo con nên người. Cha thức khuya dậy sớm, làm lụng vất vả, lo cho con có cơm ăn, áo mặc, đựoc học hành. Dòng sữa ngọt ngào, lời ru của mẹ, ngời con nào có thể quên? Lúc con ốm đau tật bệnh,… cha mẹ lo lắng. Lúc con ngoan ngoãn, lớn khôn… cha mẹ vui sướng, tự hào. Thật vậy, công on của cha mẹ không thể nào kể xiết. Vì thế nhân dân ta có biết bao câu ca, bài hát ca ngợi công ơn cha mẹ: “Mẹ già như chuối ba lương, Như xôi nếp mật, như đường mía lau”. Hai câu 3, 4 nói về đạo làm con. Nhân dân ta muốn nhắc nhở mọi người một bài học về chữ hiếu. Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ; phải htể hiện bằng hành động cụ thể, tình cảm cụ thể là phải “thờ mẹ, kính cha” nghĩa là săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, cả về tinh thần lẫn vật chất. Đó là sự đền ơn đáp nghĩa. Hai chữ “một lòng” nói lên sự đinh ninh, sắt son, không thay đổi. Chữ “tròn” diễn tả sự trọn vẹn, con cái ăn ở thuỷ chung, tình nghĩa, hiếu thảo với cha mẹ. Mỗi câu, mỗi chữ chứa đựng bao tình cảm: “Một lòng thờ mẹ kính cha,
Assignment Folk songs and folk songs are the musical instruments of the Vietnamese countryside. The sweet sound of the guitar once spread far and wide with the scent of rice and the stork's wings hummed on the water waves to the rhythm of the rowing of the boat going back and forth, passionately caressing the lullabies of a gentle mother, rhythmically following the creaking of the hammock at noon in the summer... The sentimental song of the homeland has penetrated so deeply into each of our childhood souls that the years cannot fade away. I always remember my grandmother's and mother's lullabies... "The father as a mountain, Motherhood is like water flowing from a source. One Heart Worship Mother Glass Father, Fulfilling filial piety is the way of life." The folk song is filled with love. It praises the great and profound deeds of parents and reminds them that filial piety must come first. The tone of the folk song is so lovely! The first two verses talk about the merits of parents. The folk poet used similes to create two specific, parallel images: the father's work goes hand in hand with the mother's meaning, the above sentence talks about Thai Son mountain, the lower sentence borrows water from the source..., creating a harmonious symmetry, profound poetry that penetrates deeply into the soul of the nation. "Thai Son Mountain" according to folk beliefs is the highest and most majestic mountain among the mountains. "The water in the source..." never runs out, is cool and sweet like mother's milk, silent yet noble! Taking Thai Son mountain and the water flowing from the source as a comparison to the merits of father and mother, praising the great and profound gratitude of parents, that is an extremely profound and profound way of speaking. Is there any Vietnamese person who does not know this folk song? I remember and have memorized it for a long time, but every time I recite it, I still feel new and moved: "The father as a mountain Motherhood is like water flowing from a source." Parents gave birth, raised, and taught their children to be good people. Dad stays up late and wakes up early, works hard, makes sure his children have food to eat, clothes to wear, and an education. Sweet milk, mother's lullaby, which child can forget? When children are sick, parents worry. When children are obedient and grow up... parents are happy and proud. Indeed, the merits of parents are indescribable. That's why our people have so many verses and songs praising the merits of their parents: "My mother is as old as a three-salon banana, Like sticky rice with molasses, like sugar cane. Verses 3 and 4 talk about sonship. Our people want to remind everyone a lesson about filial piety. Children must be filial to their parents; must be expressed through specific actions and specific feelings: to "worship mother and respect father" means to care for and support parents in old age, both mentally and materially. That is a return of gratitude. The two words "one heart" represent stability, steadfastness, and unchangeability. The word "round" describes completeness, children are faithful, affectionate, and filial to their parents. Each sentence, each word contains so much emotion: "One Heart Worship Mother Glass Father,
Bài làm Tình yêu đối với quê hương đất nước vốn là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất của con người. Dù đi đâu thì mỗi người vẫn luôn nhớ về quê nhà, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn với những tình cảm thân thương nhất. Viết về đề tài tình yêu đối với quê hương, đặc biệt là những người xa quê, Hạ Tri Chương có bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê. Bài thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện khá rõ tình cảm tha thiết, nỗi lòng của một người con xa quê hương sau mấy chục năm nay mới trở lại. Có lẽ trong cuộc đời mỗi con người, điều khiến người ta buồn nhất, khắc khoải nhất là phải sống xa quê. Mà sẽ là buồn hơn nữa nếu lại phải xa quê mấy chục năm trời không được một lần trở lại. Đến cuối đời may mắn được trở về thăm quê hương thì có lẽ sẽ chẳng còn ai nhớ đến, đứng giữa quê mình mà chẳng ai còn nhận ra, người ta cứ ngỡ khách lạ về làng. Và Hạ Tri Chương đã rơi vào tình cảnh ấy. Mở đầu bài thơ tác giả viết: Thiếu tiểu li gia lão đại hồi (Trẻ đi, già trở lại nhà) Câu thơ nói về một hoàn cảnh đối lập, đó là ngày Hạ Tri Chương ra đi và ngày trở về của ông. Trong cuộc đời con người sự ra đi hay trở vế sẽ chỉ là những chuyến đi bình thường nếu người ta đi vài ngày vài năm, nhưng sẽ là vấn đề nếu thời giàn ra đi kéo dài hàng mấy chục năm trời. Ngày ra đi, Hạ Tri Chương vẫn còn rất trẻ và cho đến ngày trở về đã thành một ông lão. Cả một quãng thời gian quá dài đủ khiến một con người tình nghĩa như nhà thơ nhớ quê đến mức độ nào. Có lẽ chúng ta cũng có thổ hiểu được đó là một nỗi nhớ quê da diết, dẫu cho cuộc sống của ông những ngày xa quê đẩy đủ và sung túc. Tình cảm gắn bó, tha thiết với quê hương được thể hiện ở câu tiếp theo. Hương âm vô cải mấn mao tồi (Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu) Xa quê đã mấy chục năm nhưng tình cảm với quê hương ông vẫn giữ. Điều đó được thể hiện ở giọng quê ông vẫn giữ được, giữ được giọng quê đối với người xa quê mấy chục năm trời là một điều vô cùng quý giá. Thực ra trong cuộc sống có rất nhiều người xa quê thì dường như họ sẽ thay đổi tất cả từ giọng nói cho đến phong cách cử chỉ nhưng với Hạ Tri Chương thì điều đó không hề xảy ra. Chứng tỏ ông không hề quên nơi đã sinh ra mình, cho mình một cuộc sống, nơi có biết bao kỉ niệm, có người mẹ đã nuôi ông lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào, ru ông bằng những câu hát ân tình, tha thiết…Như vậy thời gian chỉ có thể làm thay đổi được mái tóc, được vẻ bên ngoài của con người chứ không thể thay đổi được những nét bên trong, nét quê ẩn chứa trong ông. Một con người yêu quê hương tha thiết như ông sẽ càng buồn hơn khi xa quê, nhớ quê mà chẳng được về thăm quê, để đến mấy chục năm sau mới được trở về, với biết bao bồi hồi và xúc động. Tuy nhiên, về đến làng, ông phải đối diện với một nghịch lý: Trước nơi đã sinh ra mình, ông chỉ là một người lạ: Nhi đồng tương kiến bất tương thức Tiểu vấn: Khách tòng hà xứ lai (Gặp nhau mà chẳng biết nhau Trẻ cười, hỏi: “Khách từ đâu đến làng” Có điều gì đó hóm hỉnh trong câu thơ này khiến ta phải bật cười nhưng dường như đó là một cái cười chẳng trọn vẹn bởi một người con được sinh ra chính từ mảnh đất ấy nay lại được xem như một người khách lạ. Cảnh cũ còn đây nhưng bạn cũ người xưa ai còn ai mất tác giả chẳng biết và dường như chẳng còn ai nhận ra mình nữa, dường như chẳng còn ai nhận ra tác giả là chàng Hạ Tri Chương năm xưa đã sinh ra từ ngôi làng này. Họ ngỡ đâu khách lạ về thăm làng. Có cái gì đó thật xót xa, người của làng mà lại trở thành khách lạ. Trẻ con hồn nhiên chào hỏi: có phải là khách lạ tờ phương xa đến. Đọc những câu thơ này, ta có thể tưởng tượng một người đàn ông đứng lạc lõng giữa làng, khuôn mặt vừa vui mừng, sung sướng vì được đứng trên mảnh đất thân yêu nhưng lại vừa thoáng nét buồn vì những người qua lại chẳng ai để tâm đến, một cảm giác thất vọng, hẫng hụt của tác giả khi đứng giữa quê mình. Bao năm xa quê mong ngày trở lại thăm quê vậy mà khi đứng trên mảnh đất thân yêu của mình thì dường như tất cả không còn là của mình nữa. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng có câu thơ nói về tình cảm của người xa quê.
Assignment Love for one's homeland is the most noble and sacred sentiment of man. No matter where we go, each person always remembers their hometown, the place where they were born, with the dearest feelings. Writing on the topic of love for the homeland, especially those far from home, Ha Tri Chuong has an article Randomly written on the occasion of returning home. The poem is short but clearly shows the earnest feelings and feelings of a son who has returned from his homeland after several decades. Perhaps in every person's life, the thing that makes them the saddest and most anxious is having to live far from home. But it would be even sadder if I had to leave my hometown for decades and not be able to return once. At the end of your life, if you are lucky enough to return to visit your hometown, perhaps no one will remember you. Standing in the middle of your hometown, no one will recognize you, people will think that you are a stranger to the village. And Ha Tri Chuong fell into that situation. At the beginning of the poem, the author writes: The young master of the old family returned home (Going young, returning home when old) The poem talks about a contrasting situation, the day Ha Tri Chuong left and the day he returned. In human life, leaving or returning will just be normal trips if people go for a few days or a few years, but it will be a problem if the time of departure lasts for decades. On the day he left, Ha Tri Chuong was still very young and by the day he returned he had become an old man. A long period of time is enough to make a grateful person like the poet miss his hometown to such an extent. Perhaps we can also understand that it is a strong nostalgia for home, even though his life in the days away from home was full and prosperous. The affection and attachment to the homeland is expressed in the next sentence. The smell of the smell is indescribable (Country voice unchanged, misty hair) He has been away from home for decades, but his feelings for his homeland still remain. That is shown in the hometown accent he still retains. Maintaining a hometown accent for people who have been away from home for decades is an extremely valuable thing. In fact, in life, there are many people who are far from home and it seems they will change everything from their voice to their style of gestures, but with Ha Tri Chuong, that never happened. It proves that he has never forgotten the place where he was born, gave him a life, where there are so many memories, a mother who raised him with sweet milk, lulled him with loving, passionate songs. ...So time can only change a person's hair and outer appearance, but cannot change the inner features and country features hidden within him. A person who loves his homeland dearly like him will be even more sad when he leaves his hometown, misses his hometown but cannot return to visit it, only to be able to return decades later, with so much sadness and emotion. However, when he returned to the village, he had to face a paradox: Before the place where he was born, he was just a stranger: Children have similar views and are not aware of each other Tieu question: Guests from the same country (Met each other but don't know each other The child smiled and asked: "Where do guests come from to the village?" There is something humorous in this verse that makes us laugh, but it seems to be an incomplete laugh because a child born from that land is now considered a stranger. The old scene is still here, but old friends and acquaintances are still here. The author doesn't know and it seems like no one recognizes him anymore. It seems like no one recognizes the author as the guy Ha Tri Chuong who was born in the village in the past. This. They thought that strangers were coming to visit the village. There's something really sad about people from the village becoming strangers. Children innocently greet: are they strangers from far away? Reading these verses, we can imagine a man standing lost in the middle of the village, his face is both happy and happy because he is standing on his beloved land but also has a hint of sadness because there are no people passing by. Pay attention to the author's feeling of disappointment and loss when standing in the middle of his hometown. For many years away from home, I longed to return to visit my hometown, but when I stood on my beloved land, it seemed like everything was no longer mine. Poet To Huu also once wrote a poem about the feelings of people far from home.
Bài làm Cùng với tinh thần nhân đạo thì yêu nước là chủ đề lớn của nền văn học Việt Nam. Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí – Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập. Bài thơ để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc. Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tắc như sau: Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Dịch thành: Sông núi nước Nam Sông núi nước Nam vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây Chúng bay nhất định phải tan vỡ. (Theo Lê Thước – Nam Trân dịch) Nam Quốc Sơn Hà – Lý Thường Kiệt Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt. Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà – Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được? Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt. Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Assignment Along with the humanitarian spirit, patriotism is a major theme of Vietnamese literature. Nam Quoc Son Ha is one of the literary masterpieces of the literature of the Ly - Tran dynasties. It is a work that crystallizes the enthusiasm of the times and the emotions of all hearts. Therefore, it represents the independent spirit, heroic spirit and great aspirations of the nation in the early days of building a nation. independent feudalism. The poem leaves a deep impression on the reader. Rivers and Mountains of the South is a Chinese poem, following the seven-word, four-literate Tang rule form. The principles are as follows: Southern country of mountains and rivers Southern country, mountains and rivers, Southern empire However the natural pasteurized at a department Like the breach of the hole invasion Anhydrous acts as being unbeaten damaged craft. Translates to: Southern rivers and mountains Southern rivers and mountains where the Southern king lives The heavenly book divides the land Why did the evil enemy commit this crime? They fly and must fall apart. (According to Le Thuoc - Translated by Nam Tran) Nam Quoc Son Ha – Ly Thuong Kiet Legend has it that, during the resistance war against Song under the Ly Dynasty, one dark night on the Nhu Nguyet line, from the temple of the two gods Truong Hong and Truong Hat (two good generals of Trieu Quang Phuc, revered as Nhu River gods). Nguyet), the poem resonated (That's why people call this poem divine poetry). But whether read by gods or humans, the poem is still the aspiration and spirit of Dai Viet. The idea of ​​protecting independence and resolutely fighting against foreign invaders is expressed directly through a quite strict and dialectical line of argument. The poem begins with a strong declaration of national sovereignty: Southern country, mountains and rivers, Southern empire The 7-hour poem creates two rhythmically symmetrical clauses: Nam Quoc Son Ha - Nam De Residence. In particular, the author's use of words expresses the poetic ideas and emotions very well. The two words Nam Quoc and Nam De can be considered the eyes of the verse and the whole poem. In the thinking of the ancient Chinese feudal rulers - there is only the Northern Emperor, not the Southern Emperor. The Chinese emperor is the only emperor of the world, ruling the world on behalf of heaven. Return to the ideological content contained in the language of the verse. Nam Quoc not only means the South, but Nam Quoc is also the position of our Southern country. Although small, that country exists independently, standing shoulder to shoulder with a great power in the North like China. Furthermore, that country has sovereignty and has an emperor (Nam Emperor). The emperor of the Southern country has no less authority than the Chinese emperors, he is also an emperor, given the title by the supreme being, given the right to govern a separate land to establish his country and society. : However the natural pasteurized at a department The rivers and mountains of the South belong to the Southern people. That is the obvious. No one has the right to deny? Because the delimitation of mountains, rivers, and borders is not the subjective will of one person or a few people, but is determined by "Heaven". The territorial boundary map of countries has been imprinted in the book of heaven: Who can change it? The author of the poem gave very valid arguments. Through reasoning, a concept and a sacred and noble truth emerged: the truth of the independent and sovereign existence of the Dai Viet people. Still with those strong arguments, the author continues to affirm: Like the breach of the hole invasion
Bài làm Lịch sử dân tộc Việt Nam luôn gắn liền với cuộc chiến đấu chống quân thù xâm lược giữ vững bỡ cõi và nền độc lập dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống Lý Thường Kiệt đã viết bài thơ thần Nam quốc sơn hà. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Bài thơ khẳng định chủ quyền của đất nước đồng thời quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Tương truyền, Lí Thường Kiệt sáng tác bài thơ này trong một trận quân ta chiến đấu chông quân Tống xâm lược. Tác giả không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một nhà thơ nổi tiếng. Cuối năm 1076, mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm đầu sang cướp nước ta. Quân ta dưới quyền chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm, chặn chân chúng lại ở phòng tuyến bên sông Như Nguyệt. Truyền thuyết kể rằng một đêm nọ, quân sĩ nghe văng vẳng trong đền thờ Trương Hông và Trương Hát (hai tướng quân của Triệu Quang Phục đã hi sinh vì nước) có tiếng ngâm bài thơ này. Điều đó ý nói thần linh và tổ tiên phù hộ cho quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ binh sĩ quyết tâm đánh tan quân giặc, buộc chúng phải rút lui nhục nhã vào tháng 3 năm 1077. Từ trước đến nay, người ta thường cho rằng vị tướng Lí Thường Kiệt làm bài thơ này với mục đích động viên khí thế binh sĩ của mình. Tất nhiên là thế, nhưng câu thứ tư (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm) lại rõ ràng là lời cảnh cáo quân giặc. Thì ra đối tượng nghe thơ không chỉ là quân ta mà còn là quân địch. Chính vì thế mà bài thơ được coi là một văn bản địch vận nhằm lung lay ý chí chiến đấu của đối phương. Tác giả khẳng định: Chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không gì có thể bác bỏ được. Dân tộc Việt bao đời nay đã kiên cường chiến đấu để giữ vững bờ cõi, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.Bài thơ Sông núi nước Nam thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh chính nghĩa của dân tộc ta có thể tiêu diệt bất kì kẻ thù hung bạo nào dám xâm phạm đến đất nước này. Vì thế mà nó có sức mạnh kì diệu cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta, làm khiếp vía kinh hồn quân xâm lược và góp phần tạo nên chiến thắng vinh quang. Tinh thần và sức mạnh của bài thơ toát ra từ sự khẳng định dứt khoát, mãnh liệt như dao chém cột. Bài thơ lưu lại từ xưa không có tựa đề. Các sách thường lấy mấy từ Nam quốc sơn hà trong câu đầu làm tựa đề cho bài thơ. (Dịch là Sông núi nước Nam): Sông núi Nam Việt vua Nam ở, Vằng vặc sách trời chìa xứ sở. Giặc dữ cớ sao phạm đến đây! Chúng mày nhất định phải tan vỡ. Câu thứ nhất nêu lên chân lí: Sông núi Nam Việt vua Nam ở. Lẽ ra phải nói là dân Nam ở thì đúng hơn nhưng thời bấy giờ, vua đại diện cho quốc gia, dân tộc. Chân lí ấy thật đơn sơ, hiển nhiên nhưng nhân dân tã phải gian khổ đấu tranh bao đời chống ngoại xâm mới giành lại được. Từ khi nước nhà có chủ quyền cho đến năm 1076, dân tộc Việt đã nhiều lần khẳng định chân lí ấy bằng sức mạnh quân sự của mình. Lũ giặc phương Bắc quen thói hống hách, trịch thượng, luôn nuôi tham vọng cướp nước nên chúng khăng khăng không chấp nhận. Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đó. Tác giả xứng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận huyện tồn tại trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình (Nam quốc) ngang hàng với (Bắc quốc). Xưng vua Nam (Nam đế) cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay tự xứng là thiên tử (con trời), coi thường vua các nước chư hầu và gọi họ là vương. Các từ nước Nam, vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh, thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm chủ đất nước của dân tộc Việt. Câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Vằng vặc sách trời chia xứ sở) khẳng định chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trên sách trời. Sách trời đã chia cho vua Nam có riêng bờ cõi. Người xưa quan niệm rằng các vùng đất đai dưới mặt đất ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua nước đó. Điều đó là do trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh khiến cho chân lí nêu ở câu trên càng tăng thêm giá trị.
Assignment The history of the Vietnamese nation is always associated with the fight against invaders to maintain the land and national independence. During the resistance war against the Song army, Ly Thuong Kiet wrote the poem Nam Quoc Mountain and River. This is considered our country's first declaration of independence. The poem affirms the country's sovereignty and determination to fight and defeat the invading enemy. Legend has it that Ly Thuong Kiet composed this poem during a battle when our army fought against the invading Song army. The author is not only a talented general but also a famous poet. At the end of 1076, hundreds of thousands of Song troops led by Quach Quy and Trieu Tiet invaded our country. Our troops under the command of Ly Thuong Kiet fought bravely, stopping them at the defense line beside the Nhu Nguyet River. Legend has it that one night, soldiers heard in the temple of Truong Hong and Truong Hat (two generals of Trieu Quang Phuc who sacrificed their lives for the country) reciting this poem. That means the gods and ancestors bless our troops. The poem contributed to encouraging the soldiers to be determined to defeat the enemy, forcing them to retreat humiliatingly in March 1077. Up to now, people have often assumed that general Ly Thuong Kiet wrote this poem with the goal of The purpose is to encourage the morale of his soldiers. Of course that is true, but the fourth sentence (Like Ha Naughty, Lai Trespasses) is clearly a warning to the enemy. It turns out that the audience listening to the poem is not only our troops but also the enemy troops. That is why the poem is considered an adversarial text aimed at shaking the opponent's will to fight. The author affirms: The independent sovereignty of the South is a truth that nothing can refute. The Vietnamese people have for generations fought steadfastly to maintain their borders and protect their sacred sovereignty. The poem Southern Mountains and Rivers shows confidence and pride in the righteous strength of our nation. Destroy any violent enemy who dares to invade this country. Therefore, it has the magical power to encourage the fighting spirit of our people, terrify the invaders and contribute to a glorious victory. The spirit and power of the poem exudes from the decisive and intense assertion like a knife cutting a column. The poem left over from the past has no title. Books often use the words Nam Quoc Son Ha in the first sentence as the title of the poem. (Translated as Southern Mountains and Rivers): The rivers and mountains of Nam Viet where the King of Nam lived, Struggling with books from heaven and earth. Why did the enemy commit such a crime here? You must be broken. The first sentence states the truth: Nam Viet's rivers and mountains where the Nam king lives. It would be more correct to say that the people of the South lived there, but at that time, the king represented the nation and the people. That truth is simple and obvious, but the people had to struggle for generations against foreign invaders to regain it. From the time the country became sovereign until 1076, the Vietnamese people have repeatedly affirmed that truth with their military power. The Northern invaders were accustomed to being overbearing, condescending, and always harboring ambitions to rob the country, so they insisted on not accepting it. The meaning of the verse does not stop there. The author deserves the title of the South with the intention of eliminating the contemptuous attitude of considering our country as a district that has existed in the minds of country robbers for a long time. Putting our country (Southern Kingdom) on the same level as (Northern Kingdom). Calling King Nam (Southern Emperor) is also rejecting the arrogant attitude of the Northern kings or claiming to be the son of heaven (son of heaven), looking down on the kings of vassal countries and calling them kings. The words "Nam" and "King of Nam" rang out with pride, expressing the Vietnamese people's proud attitude, self-respect and the proud posture of mastering the country. The second sentence: Absolute destiny in the book of heaven (The book of heaven dividing the country) affirms that the sovereignty of the South has been clearly written in the book of heaven. Heavenly books have divided the Nam king into having his own territory. The ancients believed that the land areas under the earth corresponded to the star areas in the sky. Every country has its king. That is determined by heaven, so it is sacred and inviolable. The verse is tinged with divine color, making the truth stated in the above sentence even more valuable.
Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” Bài làm “Uống nước nhớ nguồn” là truyền thống đạo lý cơ bản của dân tộc Việt Nam. Là biểu hiện của lòng hiếu nghĩa, người dân vẫn còn phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ… Hay trong giân dan cũng lưu truyền rất nhiều câu ca dao thể hiện tình cảm với ông bà tổ tiên, trong đó đặc biệt phải kể đến bài ca dao: “Ngó lên nuột lạt mái nhà Bao nhiêu nuột lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” Trong câu ca dao ta có thể cảm nhận ra rõ ràng sự tinh tế của người xưa khi đem so sánh tình cảm của mình đối với gia đình mà đặc biệt ở đây là “ông bà” với những chiếc lạt để làm lên mái nhà. Ngày xưa, người ta thường lấy lạt chẻ bằng tre để buộc những mái gianh và để hoàn thành được những mái nhà như vậy cần rất nhiều nuột lạt, số nuột lạt ấy nhiều đến không thể đếm được. Chính vì thế mà tác giả không sử dụng một con số cụ thể nào mà sử dụng từ phiếm chỉ “bao nhiêu”, “bấy nhiêu” để thể hiện tình cảm lớn lao không từ ngữ nào diễn tả được hay mang ra “cân đo đong đếm” được.
How much I miss my grandparents.” Assignment "When drinking water, remember its source" is a basic moral tradition of the Vietnamese people. As an expression of filial piety, people still have the custom of worshiping ancestors, grandparents, parents... Or in folklore, there are also many folk songs expressing affection for ancestors, especially Especially the folk song: “Look up at the roof How much I miss my grandparents." In the folk song, we can clearly feel the sophistication of the ancients when comparing their feelings for their family, especially here, "grandparents" with the laths used to make the roof. In the past, people often used split bamboo strips to tie thatched roofs and to complete such roofs, a lot of strips were needed, the number of strips was too many to count. That's why the author does not use any specific number but uses the words "how much" and "that much" to express a great feeling that no other words can describe or "weigh". "countable".
Bài làm Có lẽ trong tuổi thơ cắp sách đến trường, ai cũng háo hức mong chờ trước ngày khai giảng. Kỉ niệm về ngày đầu tiên đi học sẽ là ấn tượng khó phai nhất trong quãng đường học sinh. Bạn vui mừng? Hồi hộp? Mong đợi? Nhưng có khi nào bạn từng nghĩ đến cảm nhận của mẹ khi nhìn thấy bạn tung tăng trong ngày tự trường sẽ như thế nào? Lý Lan đã rất thành công khi diễn tả cảm xúc đặc biệt ấy của một người mẹ trong tác phẩm “Cổng trường mở ra”. Là một bài văn nhẹ nhàng, trữ tình, không có tình huống gay cấn hay cốt truyện nhưng lại đưa độc giả xuyên suốt theo dòng cảm xúc bồi hồi, xao xuyến của người mẹ trước ngày trọng đại của đứa con yêu. Cùng là đêm ấy, người mẹ đã lo lắng đến không cả ngủ được, tưởng tượng một số tình huống xảy ra và chuẩn bị trước nhiều tâm trạng. Trong khi đó, đứa con đã say giấc nồng, “giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một ly sữa, ăn một cái kẹo”. Quả thực, thời điểm hiện tại đối với cậu còn rất ngây thơ, hồn nhiên, cậu không thể biết được điều gì mình cần lo lắng. Trước buổi tự trường, cậu cũng lo lắng háo hức nhưng chỉ một câu nói của mẹ giống như những lần đi chơi xa: “Ngủ đi, thôi không sáng mai dậy trễ không kịp xe” là cậu đã nhắm mắt, buông mình tựa nghiêng trên gối mềm. Mặc dù người mẹ đã cố nhủ mình bao nhiêu lần nhưng cũng không thể nhắm mắt lại và buông dòng suy nghĩ. Bởi mẹ nhận ra rằng con trai của mẹ đã lớn. “Mọi ngày, dỗ con ngủ rồi mẹ dọn dẹp nhà cửa”… “Mẹ lượm những chiếc xe thiết giáo dưới gầm ghế, cạnh chân bàn, những chú rô bô bằng nhựa đứng ngồi khắp nơi và giữa nhà là đoàn quân thú dàn trận trong một cuộc chiến tranh Sư Tử-Khủng Long mà ngày nào con cũng bày ra và không ngày nào kết thúc bằng thắng lợi của phe nào”. Nhưng, hôm nay, cậu con trai lại hăng hái làm thay mẹ và giúp mẹ dọn sạch từ hồi chiều.
Assignment Perhaps when going to school as a child, everyone eagerly looked forward to the first day of school. Memories of the first day of school will be the most unforgettable impression in a student's life. Are you excited? Nervous? Expectation? But have you ever thought about how your mother would feel when she saw you running around on your first day of school? Ly Lan was very successful in expressing that special feeling of a mother in the work "The school gate opens". It is a gentle, lyrical essay, without dramatic situations or plot, but takes readers along the emotional flow of a mother before her beloved child's big day. That same night, the mother was so worried that she couldn't sleep, imagining a number of situations that would happen and preparing many moods in advance. Meanwhile, the child was sleeping soundly, "sleep came to me as easily as drinking a glass of milk or eating a piece of candy." Indeed, at the present time he is still very naive and innocent, he cannot know what he needs to worry about. Before the self-school session, he was also nervous and excited, but just one sentence from his mother, like when going on a long trip: "Go to sleep, otherwise you'll wake up late and not be able to catch the bus in time" and he closed his eyes and leaned forward. on soft pillows. No matter how many times the mother tried to remind herself, she could not close her eyes and let go of her thoughts. Because she realized that her son had grown up. "Every day, I put the baby to sleep and then I clean the house"... "Mom collects armored vehicles under chairs, next to table legs, plastic robots stand and sit everywhere, and in the middle of the house is an army of animals arrayed in battle. in a Lion-Dinosaur war that you wager every day and that never ends with victory for either side." But, today, the son enthusiastically took over for his mother and helped her clean up since the afternoon.
Bài làm Ét môn-đô dơ A-mi-xi là nhà văn, nhà báo và nhà thơ người Ý. Tấm lòng (Những tấm lòng cao cả) là tác phẩm nổi tiếng của ông đã đưa ông ra phạm vi toàn thế giới, tác phẩm là sự phản ánh giai đoạn thiếu nhi của 2 người con trai ông, tác phẩm đã để lại cho tôi một cảm xúc khó diễn tả, thực sự ấn tượng với cách viết của ông. Trong đó đoạn trích “Mẹ tôi” là đoạn để lại cho tôi nhiều cảm xúc nhất, đọng lại sâu sắc nhất trong tâm trí. “Mẹ tôi” nói về tình mẫu tử thiêng liêng. Vì đứa con trai không hiểu chuyện, không hiểu về tình yêu mẹ dành cho nó mà khiến mẹ phải đau lòng nên người cha đã phải kìm nén sự tức giận và viết cho người con trai một tâm thư, mong người con có thể giác ngộ và cầu xin sự tha thứ từ người mẹ. Người con trai tên là En-ri-cô, trong một lần cô giáo đến thăm, En-ri-cô nhỡ thốt ra một lời thiéu lễ độ với mẹ. Và người cha đã nhìn thấy toàn bộ điều đáng xấu hổ ấy, cố gắng kìm nén lại sự giận dữ. “Việc như thế con không bao giờ được tái phạm nữa”, lời đầu tiên của ông là lời răn đe nghiêm khắc đối với En-ri-cô. Ông đã thực sự tức giận con trai khi có hành động thiếu suy nghĩ như thế. Đến lời sau dường như ông đã cố nén lại gọi con trai một cách nhẹ nhàng, thân thương “ En-ri-cô của bố ạ”,”Sự hỗn láo của con như một nhát dao đâm vào tim bố vậy”, đến đây không còn là sự tức giận nữa mà là sự đau đớn, sự bất lực của một người cha khi thấy đứa con của mình trở nên hư đốn và không thể dạy dỗ, trái tim của ông thực sự đang rỉ máu. Nhưng ông cố gắng giữ bình tĩnh để giảng giải cho En-ri-cô đi đúng hướng, học được điều hay lẽ phải. Những lời thư tiếp theo, ông tâm sự và kể cho En-ri-cô nghe về tình yêu vô bờ bến mà mẹ đã dành cho cậu. “Mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình bên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằng quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con!..” “Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể ăn xin để nuôi con, có thể hi sinh tính mạng để cứu sống con”. Rõ ràng, tình yêu mà mẹ đã dành cho En-ri-cô là không thể đem đong đo hay so sánh với bất cứ thứ gì, En-ri-cô nhận được sự chăm sóc,cả tấm lòng, sức lực, hi sinh kể cả hạnh phúc mẹ cũng đem đi đánh đổi, đến cả tính mạng cũng không màng. Vậy mà, “con mà lại dám xúc phạm đến mẹ con ư?” Lời nói của người bố thốt lên đau đớn đến nhường nào. “Hãy nghĩ kỹ điều này, En-ri-cô ạ: Trong đời con có thể trải qua những ngày buồn thảm, nhưng ngày buồn thảm nhất sẽ là ngày con mất mẹ”. Sau đó, người cha đã phải phân tích cho con hiểu được rằng không ai có thể thay thế được người mẹ đã sinh thành và nuôi dưỡng mình nên người. Ông nghiêm khắc cảnh tỉnh con trai: “Có thể có lúc con sẽ mong ước tha thiết được nghe lại tiếng nói của mẹ, được mẹ dang tay ra đón vào lòng. Dù có lớn khôn, khoẻ mạnh thế nào đi chăng nữa, con vẫn sẽ tự thấy mình chỉ là một đứa trẻ tội nghiệp, yếu đuối và không được chở che. Con sẽ cay đắng khi nhớ lại những lúc làm mẹ đau lòng… Con sẽ không thể sống thanh than, nếu đã làm cho mẹ buồn phiền. Dù có hối hận, có cầu xin linh hồn mẹ tha thứ… tất cả sẽ chỉ vô ích mà thôi. Lương tâm con sẽ không phút nào yên tĩnh. Hình ảnh dịu dàng và hiền hậu của mẹ sẽ làm tâm hồn con như bị khổ hình”. Hơn cả vậy, ông còn khẳng định thậm chí là nói cực đoan với cậu con trai: “Bố rất yêu con, En-ri-cô ạ, con là niềm hi vọng tha thiết nhất đời của bố, nhưng thà rằng bố không có con, còn hơn là thấy con bội bạc với mẹ”. Câu nói cảnh tỉnh con trai xuất phát từ tình yêu, lòng mong muốn đứa con mau chóng trưởng thành của người cha. Lời nói nhẹ nhàng, không hề quát tháo, măng mỏ nhưng nghe như đau xuyên thấu cả tâm can: “Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó…”
Assignment Edmondo Amixi is an Italian writer, journalist and poet. Heart (Great Hearts) is his famous work that brought him to the whole world, the work is a reflection of the childhood stage of his two sons, the work left to me. an emotion that's hard to describe, really impressed with his writing style. The excerpt "My Mother" is the one that left me with the most emotions and lingered most deeply in my mind. “My Mother” talks about sacred motherhood. Because the son did not understand the situation, did not understand the love his mother had for him, which made her heartbroken, the father had to suppress his anger and write the son a letter, hoping the son could be enlightened. and asked for forgiveness from the mother. The son's name was En-rico. During a teacher's visit, En-rico accidentally uttered an impolite word to his mother. And the father saw the whole shameful thing, trying to suppress his anger. “You must never do something like that again,” his first words were a stern warning to Enrico. He was really angry with his son for acting so thoughtlessly. At the next words, it seemed like he was trying to hold back and call his son gently and lovingly, "Dad's Enrique," "Your impudence is like a knife stabbing into my heart," here he comes. It was no longer anger but pain, the helplessness of a father when he saw his child becoming naughty and unteachable, his heart was truly bleeding. But he tried to stay calm to explain to Enrique on the right track, to learn the right things. In the following letters, he confided and told Enrique about the boundless love his mother had for him. “I had to stay up all night, crouching next to the cradle to watch my child's gasping breaths, writhing with fear, sobbing at the thought that I might lose my child!..” “The mother was willing to give up everything. One year of happiness to avoid giving her child an hour of pain, a mother can beg to feed her child, she can sacrifice her life to save her child's life. Obviously, the love that his mother had for Enrico cannot be measured or compared to anything. Enrico received care, all his heart, all his strength, all his sacrifices. Even my mother's happiness is traded away, and she doesn't even care about her life. Yet, "you dare insult your mother?" How painful the father's words were. “Think carefully about this, Enrique: You may experience sad days in your life, but the saddest day will be the day you lose your mother.” After that, the father had to analyze for his child to understand that no one can replace the mother who gave birth and raised him. He sternly warned his son: "There may be times when you will earnestly wish to hear your mother's voice again, to have your mother open her arms to welcome you into her arms. No matter how grown up and healthy you are, you will still see yourself as just a poor, weak and unprotected child. I will be bitter when I remember the times when I made you sad... I will not be able to live in peace if I have made you sad. Even if you regret it, even if you ask your mother's soul for forgiveness... it will all be in vain. My conscience will not be quiet for a moment. The image of mother's gentleness and kindness will make my soul feel like it is being tortured." More than that, he also affirmed and even said it to the extreme with his son: "I love you very much, Enrico, you are my dearest hope in life, but I would rather not have you." child, it's better than seeing you be ungrateful to your mother." The words to warn the son come from the father's love and desire for his son to grow up quickly. The words were gentle, without any shouting or scolding, but it sounded like pain penetrating the soul: "Remember, love and respect for your parents is the most sacred feeling. It's shameful and humiliating for anyone who tramples on that love..."
Bài làm “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha” Có lẽ ai trong số chúng ta cũng dành một tình cảm đặc biệt dành cho mẹ. Người sinh thành và nuôi dưỡng trong suốt cuộc đời. Mẹ đã tần tảo sớm hôm, hi sinh và làm thật vất vả chỉ ước mong cho con có thể được một cuộc sống bình an. Tình mẹ không thể dùng hết ngôn ngữ để diễn tả được. Tình mẹ – một thứ tình thật thiêng liêng và cao đẹp. Tình mẹ là thứ tình cảm thật gần gũi và giản dị giữa mẹ và con. Đó là tình mẫu tử thật đẹp, bởi lẽ mẹ có thể hi sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta có một cuộc đời bình an. Ngày chúng ta chào đời, chắc hẳn mẹ sẽ rất hạnh phúc. Mẹ mang nặng con hơn chín tháng, mẹ lo lắng, chăm sóc chúng ta bằng nguồn thức ăn tốt nhất, chỉ mong trong bụng con sẽ không sao. Những ngày đó chắc hẳn mẹ rất mệt và vất vả trong chuyện đi lại. Nhưng mẹ sẽ không bao giờ kể, mà chỉ khi nào lớn lên khi lập gia đình rồi ta mới cảm nhận hết được.Những ngày chào đời, mẹ có thể thức cả đêm để chăm cho ta giấc ngủ bình yên. Những lúc khóc dạ đề, chắc mẹ đã vất vả lắm khi mà chăm sóc cho ta. Rồi cả lúc ốm đau, mẹ khóc và lo lắng không biết chúng ta có vượt qua những cơn đau ốm đó không. Thời gian trôi nhanh, ta bước vào lớp 1 mẹ là người mua sách vở và đưa ta đến trường. Tôi sao có thể quên được hình ảnh người mẹ trong “Tôi đi học” của Thanh Tịnh. Bởi đó là lúc ta rời ra vòng tay mẹ để bước vào một hành trình mới – Hành trình học tập. Mỗi mùa thi đến, cho tới những mùa chia tay các cấp, mẹ vẫn ở đó chăm sóc và đồng hành cùng ta. Mỗi đêm ta thức khuya học bài mẹ lại lo lắng, hay lúc ta không nghe theo lời mẹ, mẹ buồn phiền và suy nghĩ.
Assignment "Go into all the world no one as good as her No one suffers the burden of life more than my father." Perhaps all of us have a special affection for our mothers. People are born and nurtured throughout life. Mom worked hard every day, sacrificed and worked hard just hoping for her child to have a peaceful life. Mother's love cannot be expressed in words. Mother's love - a truly sacred and beautiful love. Mother's love is a very close and simple feeling between mother and child. That is a beautiful motherly love, because a mother can sacrifice everything, including her life, so that we can have a peaceful life. The day we were born, mom would certainly be very happy. Mom carried the baby for more than nine months, she worried, took care of us with the best food, and only hoped that the baby in her belly would be okay. During those days, my mother must have been very tired and had difficulty walking. But my mother will never tell me, but only when I grow up and get married will I fully feel it. The days I was born, my mother could stay up all night to take care of my peaceful sleep. During those crying moments, my mother must have had a hard time taking care of me. And when we get sick, our mothers cry and worry about whether we will get through those illnesses. Time passes quickly, I enter first grade, my mother is the one who buys books and takes me to school. How can I forget the image of the mother in "I go to school" by Thanh Tinh. Because that's when we leave our mother's arms to enter a new journey - the journey of learning. Every exam season comes, until the seasons of farewell at all levels, my mother is still there to take care of me and accompany me. Every night we stay up late studying, my mother worries, or when we don't listen to her, she gets sad and thinks.
Bài làm Trăng là một hình ảnh mang đến cảm hứng bất tận trong thi ca, nó trở thành người bạn tâm tình của tác giả, là nơi để tác giả gửi gắm những nỗi niềm. Và hình ảnh trăng trong bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) của Hồ Chí Minh cũng có ý nghĩa như vậy. “Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên, Xuân sang xuân thủy tiếp xuân thiên Yên ba thâm xứ đàm quân sự, Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.” (Rằm xuân lồng lộng trăng soi, Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.) Bài thơ được Hồ Chí Minh sáng tác năm 1947 ở chiến khu Việt Bắc. Hai câu thơ đầu là khung cảnh không gian sông nước mênh mông, bát ngát, tràn đầy ánh sáng và sức sống của mùa xuân. Ánh trăng “lồng lộng” như thêm phần sáng hơn khi được miêu tả vào một đêm trăng rằm. Tuy rằng câu thứ hai của bản dịch thơ không diễn tả được hết sức sống của mùa xuân như trong bản phiên âm nhưng cũng đã phần nào cho người đọc cảm nhận được cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Sông, nước và ánh trăng kết hợp với từ “xuân” tạo nên một không gian tràn đầy sắc xuân và lòng người thì tươi mới đón nhận khung cảnh đó, không khí ấy như lan tỏa ra cả khu rừng. Chúng tiếp nối nhau mở ra một không gian bao la, bát ngát từ mặt đất lên đến bầu trời cao rộng. Cũng giống như bài thơ “Cảnh khuya”, hai câu cuối của bài thơ này cho thấy tâm thế, nỗi lòng của Hồ chủ tịch. Bác ngắm trăng trong hoàn cảnh đang trên sông bàn bạc công việc với chính phủ và trung ương Đảng ta. Đây không phải là cuộc du ngoạn, nhìn ngắm cảnh thiên nhiên của Bác mà đây là những giây phút nghỉ ngơi hiếm có của Người. Trong hoàn cảnh thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta thì những cuộc họp của Đảng, của những người đứng đầu trong bộ máy chính trị nước nhà, những người làm cách mạng diễn ra trong hoàn cảnh hết sức bí mật. Tuy rằng Bác bận trăm công nghìn việc, lo cho dân cho nước nhưng chúng ta không thể phủ nhận được tâm hồn thơ mộng, yêu thiên nhiên của vị lãnh tụ ấy. Việc quân đã bàn xong, bây giờ Bác có thể toàn tâm toàn ý thả hồn mình vào không gian tràn ngập ánh trăng. “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” Khi bàn xong việc quân cũng là lúc nửa đêm khi ánh trăng lên cao nhất và tỏa sáng nhất. Ánh trăng đã tràn ngập trong thuyền, con thyền ấy chở đầy ánh trăng. Đây cũng là ẩn dụ cho sự thắng lợi cách mạng của dân tộc ta và cũng là sự biểu hiện hướng vận động chung từ bóng tối ra ánh sáng trong thơ ca Hồ Chí Minh.
Assignment The moon is an image that brings endless inspiration in poetry, it becomes the author's confidant, a place for the author to express his feelings. And the image of the moon in Ho Chi Minh's poem "Nguyen Tieu" (Full Moon of the First Month) also has the same meaning. “Kim night Nguyen Tieu Nguyet Chinh Vien, Spring comes, spring water follows spring heaven Yen ba deep land of military talks, Come back to the lunar boat." (Spring full moon shines brightly, Spring river, water and sky color add spring. In the midst of discussing military affairs, Late at dawn moon filled the boat.) The poem was composed by Ho Chi Minh in 1947 in the Viet Bac war zone. The first two verses are a scene of a vast, vast river space, full of light and vitality of spring. The "splendid" moonlight seems brighter when described on a full moon night. Although the second sentence of the poetic translation does not fully express the vitality of spring as in the transcription, it still partly gives the reader a sense of the beautiful natural scenery. River, water and moonlight combined with the word "spring" create a space full of spring colors and people's hearts are fresh to welcome that scene, that atmosphere seems to spread to the whole forest. They continue to open up a vast space from the ground up to the sky. Just like the poem "Night Scene", the last two lines of this poem show the mood and feelings of President Ho. He looked at the moon while on the river discussing work with the government and our Party Central Committee. This is not Uncle Ho's trip to admire natural scenery, but these are his rare moments of rest. In the context of the French colonialists returning to invade our country, the meetings of the Party, the leaders of the country's political apparatus, and the revolutionaries took place in extremely secret circumstances. Although Uncle Ho was busy with thousands of jobs, taking care of the people and the country, we cannot deny that leader's poetic, nature-loving soul. The military affairs have been discussed, now Uncle can wholeheartedly relax his soul into the space filled with moonlight. "Late at dawn moon filled the boat" When the military affairs were finished, it was midnight when the moonlight was highest and brightest. Moonlight flooded the boat, the boat was filled with moonlight. This is also a metaphor for the revolutionary victory of our nation and also an expression of the general movement from darkness to light in Ho Chi Minh's poetry.
Bài làm Trong công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa, xã hội ngày càng phát triển,con người chỉ biết chạy theo thời gian.Tuy vậy, không phải ai cũng biết quý thời gian.Đã có bao giờ bạn tự hỏi trong cuộc sống này cái gì là quý nhất. Có người sẽ nói là tiền bạc, tình yêu, cơ hội…nhưng tất cả sẽ thua thời gian. Người xưa đã có câu “Thời gian là vàng bạc” để chỉ sự quý giá của thứ tài sản vô hình mà hữu hạn này. Để hiểu rõ hơn câu tục ngữ này,chúng ta hãy cùng giải thích từng phần của chúng.Chắc ai cũng biết vàng bạc là một tài nguyên vô cùng quý giá,còn thời gian là thì giờ của mỗi người.Đúng là thời gian ai cũng có còn vàng bạc thì không.Vậy thì tại sao vàng bạc quý giá như thế lại được ví với thời gian?Thời gian thật quý giá khi nó qua đi rồi cũng không trở lại được.Thời gian có thể tạo ra của cải, còn của cải không thể tạo ra được thời gian nữa,Từ đó đưa ra bài học trong mỗi chúng ta cần quý trọng thời gian hơn bao giờ hết. Thời gian vô cùng quý giá thế nhưng không phải ai cũng biết quý trọng thời gian.Cũng như không phải ai cũng biết cách sắp xếp thời gian hợp lí.Mỗi chúng ta chắc hẳn sẽ đều biết câu chuyện Thỏ và rùa.Bản chất của Thỏ là nhanh nhẹn và hoạt bát hơn rùa, nhưng vì Thỏ không biết quý trọng thời gian, ung dung tự đại nên cuối cùng Rùa đã về nhất.Qua câu chuyện này ta thấy được thời gian không chờ đợi ai, vì thế nên chúng ta cần tận dụng từng giây, từng phút để là được nhiều việc có ý nghĩa.Trong các nhà máy, công nhân luôn quý trọng thời gian để làm việc nhanh nhất mong có nhiều sản phẩm đóng góp vào quỹ của công ti và nâng cao tay nghề của họ.Là học sinh trên ghế nhà trường, mỗi chúng ta cần cố gắng học thật nhiều ở nhà và ở trường, ngoài ra cần trau dồi thêm kiến thức bên ngoài cuộc sống. Bên cạnh đó là những người không biết quý trọng thời gian.Họ để thời gian trôi qua một cách lãng phí và làm những việc vô bổ.Học sinh thì không chịu học tập, đợi đến lúc thi cử thì học tủ.Những người lao động thì không biết tận dụng thời gian để làm được nhiều sản phẩm.Sinh viên ngày nay họ dành nhiều thời gian cho việc ngủ hơn là học và không chịu ra ngoài cuộc sống để hòa nhập và năng động hơn.Thời gian là dòng sông cuộc sống lặng lẽ trôi theo dòng thời gian hãy biết nghĩ cho những gì mà bạn có hãy nhớ thương những thứ bạn đã cho đi. Thời gian sẽ không chờ đợi ai giống như một người tắm ở một dòng sông nhưng người ấy không thể tắm lại một dòng sông như thế nữa.Bạn có thấy là con người ta khi đã đánh mất đi những phút giây đáng quý như: ở bên người thân, người yêu, làm công việc gì đó rất quan trọng hay làm những điều mà mình chưa được làm vào cuối đời… Thì họ vô cùng hối tiếc vì đã bỏ lỡ những thời khắc đáng quý và mong có cơ hội lần nữa.
Assignment In the process of industrialization and modernization, society is increasingly developing, people only know how to run after time. However, not everyone knows how to value time. Have you ever wondered in this life? what is most precious? Some people will say money, love, opportunity... but all will be lost to time. The ancients had a saying "Time is gold" to refer to the preciousness of this intangible but finite asset. To better understand this proverb, let's explain each part of it. Surely everyone knows that gold and silver are an extremely valuable resource, and time is everyone's time. What is everyone's time? gold and silver are not. So why is such precious gold and silver compared to time? Time is so precious that once it passes, it cannot come back. Time can create wealth, Wealth cannot create time anymore, thereby giving a lesson that each of us needs to value time more than ever. Time is extremely precious, but not everyone knows how to value time. Just like not everyone knows how to arrange time properly. Each of us will surely know the story of the Hare and the Tortoise. The nature of time The Hare is faster and more agile than the Tortoise, but because the Hare does not know how to value time and is arrogant and arrogant, in the end the Tortoise came first. Through this story we see that time waits for no one, that's why we We need to take advantage of every second and every minute to do many meaningful things. In factories, workers always value time to work as quickly as possible, hoping to have many products that contribute to the company's fund and improve their quality. their skills. As students at school, each of us needs to try to learn a lot at home and at school, in addition to cultivating more knowledge outside of life. Besides that, there are people who do not know how to value time. They let time pass by wastefully and do useless things. Students do not study and wait until exam time to study. Those who work If you're active, you don't know how to take advantage of your time to make many products. Students today spend more time sleeping than studying and refuse to go out in life to integrate and be more active. Time is a river. Life flows quietly with the flow of time, think about what you have, remember to love what you have given. Time will not wait for anyone like a person bathing in a river but that person cannot bathe in the same river again. Do you see that people have lost precious moments such as: Be with relatives, lovers, do something very important or do things that you have not been able to do at the end of your life... They deeply regret missing precious moments and hope to have the opportunity again. .
Bài làm Hà Nội, ngày tháng năm Sakura yêu quý! Tớ xin giới thiệu tớ là Ngọc Minh đến từ đất nước Việt Nam – dải đất hình chữ S. Tớ được biết đến đất nước Nhật Bản của bạn với những bộ kimono duyên dáng, với những cánh hoa anh đào thơ mộng và một đất nước phát triển về kinh tế và khoa học kĩ thuật. Đất nước Việt Nam xinh đẹp của tớ có hình chữ S với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa và trong một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa mang những đặc trưng riêng và có những loài hoa, thức quả rất đặc sắc. Mùa xuân đến với đất nước tớ mang theo một không khí se se lạnh với những đợt mưa xuân và cây cối đâm chồi nảy lộc, ở Việt Nam có hoa đào, hoa mai đặc trưng cho Tết cổ truyền đấy. Hơn nữa mùa xuân rất nhiều lễ hội đặc sắc của 54 dân tộc anh em. Đến mùa hè thì thời tiết ấm và nóng hơn, cây cối phát triển, đặc biệt mùa hè mà đi du lịch biển thì thích phải biết. Sang đến mùa thu thời tiết êm dịu hơn, mùa thu với lá vàng, hương ổi chín thơm lừng. Mùa đông ở đất nước tớ không quá lạnh, cuộc sống của con người vẫn rất đảm bảo khi mùa đông về. Tớ sẽ kể thêm cho bạn nghe về những điều tươi đẹp ở đất nước tớ nhé, đất nước tớ có rất nhiều danh lam thắng cảnh được thế giới công nhận là kì quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long, động Phong Nha – Kẻ Bàng, Phố cổ Hội An,… và còn rất nhiều địa danh hấp dẫn và thú vị khác nữa. Nếu có dịp sang Việt Nam, tớ hứa sẽ là người bạn đồng hành và hướng dẫn bạn trong những chuyến tham quan, tớ sẽ đưa bạn đi đến với làng Sen quê Bác – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, tớ sẽ đưa bạn đi khắp ba miền Bắc, Trung, Nam của tổ quốc. Tớ sẽ cho cậu nhiều bất ngờ khi sang Việt Nam bởi rất nhiều món ăn ngon, bổ mà lại không hề đắt như phở, bánh mì, bánh tráng, chè… nghe thật hấp dẫn phải không nào? Việt Nam còn rất nhiều điều thú vị mà bạn hãy khám phá dần dần nhé, con người ở đây rất thân thiện và hiếu khách nên khi sang đây bạn hoàn toàn yên tâm nhé.
Assignment Hanoi Day Month Year Dear Sakura! I would like to introduce myself as Ngoc Minh from the country of Vietnam - an S-shaped strip of land. I know your country of Japan with its graceful kimonos, romantic cherry blossom petals and a beautiful country. economic and scientific and technical development. My beautiful country Vietnam is S-shaped with a humid tropical monsoon climate and in a year there are four seasons: spring, summer, autumn, and winter. Each season has its own characteristics and has unique flowers and fruits. Spring comes to my country, bringing with it a chilly atmosphere with spring rains and budding trees. In Vietnam, there are peach blossoms and apricot blossoms that represent the traditional Tet. Moreover, spring has many special festivals of 54 ethnic groups. In the summer, the weather gets warmer and hotter, trees grow, especially in the summer when traveling to the beach is fun. In the fall, the weather is milder, with yellow leaves and the fragrant scent of ripe guava. Winter in my country is not too cold, people's lives are still very secure when winter comes. I will tell you more about the beautiful things in my country. My country has many landscapes recognized by the world as natural wonders such as Ha Long Bay, Phong Nha - Ke Bang cave, Hoi An Ancient Town,... and many other attractive and interesting places. If you have the opportunity to go to Vietnam, I promise to be your companion and guide on your tours. I will take you to Sen village, the hometown of Uncle Ho - the great leader of the Vietnamese people. takes you all over the three regions of the country, North, Central, and South. I will give you many surprises when you come to Vietnam because there are many delicious and nutritious dishes that are not expensive such as pho, bread, rice paper, sweet soup... sounds really attractive, right? Vietnam still has many interesting things that you should discover gradually. The people here are very friendly and hospitable, so when you come here, you can feel completely secure.
Bài làm “Riêng mặt trời chỉ có một mà thôi Và mẹ em chỉ có một trên đời” Trong mỗi chúng ta đều có một người mẹ, người đã theo chúng ta từ khi chúng ta chào đời, khi chúng ta chập chững bước đi và cho đến khi chúng ta trưởng thành mẹ vẫn luôn dõi theo chúng ta. Có lẽ sau bao vất vả nhọc nhằn, nụ cười của mẹ vẫn luôn là đẹp nhất. Nhưng nụ cười ấy chất chứa bao điều vui buồn đều có cả. Nụ cười hạnh phúc của mẹ là khi những đứa con của mình trưởng thành, biết khôn lớn hơn từng ngày. Đôi khi chỉ là thấy những đứa con mình ngoan và học giỏi cũng đủ để mẹ vui lòng và nở nụ cười hạnh phúc. Mỗi chúng ta, ai cũng đều trải qua những ngày tháng chập chững bước vào đời với đầy lo lắng, nhưng mẹ luôn bên ta. Và em cũng vậy, trên mỗi bước em đi luôn có sự đồng hành của mẹ và tất nhiên có cả nụ cười ấm áp hiền từ của mẹ. Em còn nhớ, khi em còn nhỏ ngày đầu tiên đi học em cũng hồi hộp lắm chỉ muốn ở nhà với mẹ thôi. Mẹ đưa em đến trường em cứ nắm chặt lấy tay mẹ, nũng nịu xin về cùng mẹ không muốn xa mẹ đâu. Mẹ lại nở nụ cười hiền dịu nói: “không sao đâu con à, mẹ tin con sẽ ở lại học ngoan ở lớp có cô giáo và các bạn nữa mà, rồi con sẽ thấy thích đi học ngay thôi. Ngoan nha, chiều mẹ sẽ đón con về, và hãy kể cho mẹ nghe hôm nay con đã học được gì nha!” Ôi! Chính câu nói ấy, nụ cười ấy của mẹ đã tiếp cho em bao nhiêu động lực mạnh dạn hơn vào lớp học. Kết thúc buổi học, mẹ đứng chờ em ở cổng và nở nụ cười thật tươi khi thấy em mẹ nói: “mẹ biết con sẽ làm được mà, ngoan lắm”. Bước đi đầu đời của em có mẹ bên cạnh, nụ cười ấm áp và những lời động viên khích lệ ấy của mẹ khiến em nhận thấy mình sẽ phải cố gắng thật nhiều để không là mẹ buồn để nụ cười ấy sẽ luôn trên môi của mẹ.
Assignment “There is only one sun And my mother is only one in this world." In each of us there is a mother, who has followed us since we were born, when we took steps and until we become adults, she always watches over us. Perhaps after all the hardships, mother's smile is always the most beautiful. But that smile contains many joys and sorrows. A mother's happy smile is when her children grow up and become wiser day by day. Sometimes just seeing your children being good and studying well is enough to make mothers happy and smile happily. Each of us goes through the days when we first enter life filled with anxiety, but our mother is always with us. And so do I. Every step I take, I always have my mother's companionship and of course my mother's warm, gentle smile. I still remember, when I was little, on the first day of school, I was so nervous that I just wanted to stay home with my mother. My mother took me to school and I kept holding her hand tightly, begging to come home with her, not wanting to leave her. Mom smiled gently and said: "It's okay, honey. I believe you will stay and study well in a class with a teacher and friends, and you will soon enjoy going to school. Be good, I'll pick you up this afternoon, and tell me what you learned today!” Oh! It was those words and that smile from my mother that gave me so much motivation to enter the classroom more boldly. At the end of the lesson, my mother stood waiting for me at the gate and smiled brightly when I saw my brother and said: "I know you can do it, you're very good." My first step in life was with my mother by my side. Her warm smile and encouraging words made me realize that I would have to try very hard not to be a sad mother so that that smile would always be on my mother's lips. Mom.
Bài làm Quê em là một vùng quê có khí hậu khá mát mẻ và phù hợp với nhiều loại cây trồng. Hơn nữa, đất đai quê em lại được trời ban tặng vô cùng màu mỡ, vì vậy bà con quê em đã tận dụng những điều kiện thuận lợi này để phát triển nghề trồng trọt. Một trong số các loại cây được bà con quê em trồng nhiều nhất chính là cây vải thiều. Và nhà em cũng trồng một vườn vải thiều. Sau đây em sẽ tả về giống cây vải thiều quê em cho mọi người nghe nhé. Vườn vải nhà em tương đối rộng, khoảng hơn năm mươi cây. Những cây vải nhà em được trồng cũng lâu rồi và cho ra quả nhiều năm nay. Những cây vải nhà em cao trung bình khoảng 4 mét, cành lá xum xuê, nhìn từ trên cao xuống những cây vải xòe lá rộng ra như những tấm thảm màu xanh rất bắt mắt. Thân cây vải không to lắm, nhưng rất nhiều cành, có những cành lá tán lá xum xuê xòe rộng ra vài mét. Khi đông đến, những chiếc lá vải vàng úa dần rụng xuống. Mùa xuân sang, vạn vật sinh sôi, cây cối đâm trồi nảy lộc, cây vải khoác trên mình bộ áo mới, những chiếc lá xanh non mơn mởn. Cây vải ra quả theo mùa trong năm. Từ tháng giêng, tháng hai rét ngọt, những cây vải trỗ hoa và bắt đầu kết trái. Chắt chiu những tinh hoa của trời đất, để đến tháng năm thì vườn vải bắt đầu chín rộ. Từ trên các tán lá cây xanh mướt, từng chùm vải sai lúc lỉu và chín đỏ trên cành. Nhìn từ xa, cây vải khi đang mùa quả chín, ta không thấy màu xanh mướt của lá nữa mà chỉ một màu đỏ rực của những chum vải sai nặng trĩu, thật thỏa mãn thị giác người nhìn. Quả vải khi chưa chín có màu xanh, khi chín rồi có màu đỏ ối.Da vải có gai, quả vải càng to, càng mọng thì da vải càng căng và gai vải càng lỳ xuống. Một trái vải gồm có nhiều lớp: lớp vỏ bên ngoài rồi đến lớp màng mỏng bên trong bao bọc bên trong ấy là cùi vải, hay nhiều nơi còn gọi là thịt của quả vải. Cùi vải thơm, dày và ngọt lim. Hạt vải bên trong nhỏ xíu và đen bóng. Mỗi vụ vải như vậy, nhà em có thể thu hoạch từ 3 đến 5 tạ vải, có năm bội thu đặt tới 6 đến 7 tạ vải.
Assignment My hometown is a countryside with a cool climate and suitable for many types of crops. Furthermore, the land in my hometown is extremely fertile, so the people in my hometown have taken advantage of these favorable conditions to develop farming. One of the trees grown the most by people in my hometown is the lychee tree. And my family also planted a lychee garden. Next, I will describe the lychee tree variety in my hometown for everyone to hear. My lychee garden is relatively large, about more than fifty trees. My lychee trees were planted a long time ago and have produced fruit for many years. My lychee trees are on average about 4 meters tall, with lush branches and leaves. Looking from above, the lychee trees spread out their leaves like green carpets, very eye-catching. The trunk of the lychee tree is not very big, but has many branches, some with luxuriant foliage that spreads several meters wide. When winter comes, the yellow lychee leaves gradually fall. Spring comes, all things proliferate, trees sprout, lychee trees put on new clothes, young green leaves bloom. Lychee trees produce fruit seasonally throughout the year. From January and February, when it is cold and sweet, the lychee trees bloom and begin to bear fruit. Gathering the essence of heaven and earth, so that in May the lychee garden begins to ripen. From above the green foliage, bunches of lychee grow red and ripe on the branches. Looking from a distance, when the lychee tree is in ripe fruit season, we no longer see the green color of the leaves, but only the bright red color of the heavy jars of lychees, truly satisfying to the viewer's eyes. When unripe, the lychee fruit is green, and when ripe, it is red. The lychee skin has spines. The larger and juicier the lychee fruit, the tighter the skin and the lower the spines. A lychee fruit consists of many layers: the outer skin and then the thin inner membrane covering the lychee pulp, or in many places it is also called the flesh of the lychee fruit. The lychee pulp is fragrant, thick and sweet. The fabric seeds inside are tiny and shiny black. In each lychee crop like that, my family can harvest 3 to 5 quintals of lychees, and in a bumper year, we can order up to 6 to 7 quintals of lychees.
Bài làm Mỗi người chúng ta đều trải qua một tuổi thơ không giống nhau. Với em, tuổi thơ của em thật êm ả nơi làng quê yên bình, tuổi thơ gắn liền với việc chăn trâu cắt cỏ. Người ta có câu: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ”. Đúng vậy, vừa chăn trâu chúng ta có thể vừa chơi, có thể thấy hết được vẻ đẹp của thiên nhiên và hòa mình được vào thiên nhiên, và đặc biệt là khung cảnh thiên nhiên khi chiều xuống. Mỗi khi mặt trời lặn là lũ mục đồng chúng em bắt đầu dong trâu về và chính khi ấy chúng em đã được thấy bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nơi làng quê. Sau cả buổi chăn trâu ở ngoài đồng, lũ mục đồng chúng em bắt đầu lững thững dong trâu về. Từng đàn, từng đàn trâu nối theo nhau đi về. Mục đồng chúng em cũng nghịch lắm, trèo cả lên lung trâu, cưỡi trâu mà đi về. Những con trâu cổ đeo mõ, đeo lắc cứ kêu leng keng, leng keng, nghe rất vui tai. Chiều nào cũng vậy, cứ mỗi lần dong trâu về, chúng em đều để thằng Cu Phệ cưỡi trâu đi trước. Vì sao ư? Chỉ đơn giản vì nó biết thổi sáo, chúng em cho nó đi trước để thổi sáo cho cả lũ mục đồng chúng em nghe. Cứ cưỡi trên lưng trâu, lững thững đi sau và nghe tiếng sao của nó thì còn gì thích bằng.
Assignment Each of us experiences a different childhood. For me, my childhood was very peaceful in a peaceful village, a childhood associated with herding buffaloes and cutting grass. There is a saying: "Who said herding buffalo is miserable, but herding buffalo is very happy." That's right, while herding buffalo we can play, we can see all the beauty of nature and immerse ourselves in nature, and especially the natural scenery at dusk. Every time the sun sets, our herdsmen begin to bring their buffaloes home and that's when we see the beautiful natural picture of the village. After a whole day of herding buffalo in the field, we herdsmen began to leisurely walk the buffalo back. Herds and herds of buffaloes followed each other back and forth. We shepherds are also very mischievous, even climbing on the buffalo's back, riding the buffalo to go home. The ancient buffaloes wearing bells and bracelets keep jingling, jingling, which sounds very fun. Every afternoon, every time we return from the buffalo, we let Cu Phi ride the buffalo first. Why? Simply because he knew how to play the flute, we let him go ahead to play the flute for all of us shepherds to hear. There's nothing better than riding on a buffalo's back, leisurely walking behind and hearing its stars.
Bài làm Trong cuộc đời của mỗi thế hệ học sinh, chắc hẳn ai cũng từng được tham gia những buổi khai trường thật nhiều ý nghĩ. Tuy vậy, đối với em ngày khai trường vào lớp Một vẫn để lại trong kí ức em ấn tượng sâu đậm nhất. Mỗi khi nhắc tới, những hình ảnh đẹp đẽ dường như lại hiện lên trong tâm thức em. Bước chân vào lớp một là bước vào một cánh cửa mới, ngập trần tri thức diệu kì. Em còn nhớ là suốt mấy ngày hôm ấy, em luôn có tâm trạng nôn nao và háo hức. Dường như, trong ngôi nhà xinh đẹp của em cũng háo hức như vậy. Ông bà, cha mẹ đã chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết cho em để em bước vào ngôi trường mới. Nào là chiếc cặp xinh xắn có hai quai để đeo lên vai; bộ sách giáo khoa, những trang vở Hồng Hà thơm phức mùi giấy mới. Rồi hộp màu vẽ, chiếc bảng nhỏ, phấn viết, đồ lau, bút mực, bút chì…. Em thích thú giở từng thứ, nhìn ngắm không biết chán. Sáng hôm sau, mẹ dắt em tới trường.Ngoài cổng trường,em thấy có khá nhiều những người bạn nhỏ trạc tuổi em, họ ngập ngừng không dám bước tiếp: đó cũng là những bạn học sinh lớp 1. Có lẽ các bạn ấy cũng có cảm xúc giống như tôi lúc này: sợ hãi, rụt rè mà bỡ ngờ, một cảm giác lạ lẫm ngơ ngác khi đứng trước cánh cổng trường. Cổng trường mở rộng dang hai cánh tay lực lưỡng, hướng về chúng tôi gọi chào. Sự thân thiện ấy như muốn xua tan đi những nỗi lo âu của những đứa trẻ lần đầu tiên đến lớp. Tôi lưỡng lự, tạm biệt mẹ rồi nhanh chân xếp hàng đi diễu hành với các bạn. Buổi khai giảng lần đầu tiên trong đời mới long trọng và trang nghiêm làm sao! Tiếng trống trường giòn giã, thôi thúc, náo nức lòng người.Lễ khai giảng của trường tôi năm ấy cũng được chuẩn bị vô cùng chu đáo từ các băng – rôn, khẩu hiệu đến các tiết mục văn nghệ,… Sân trường được trang hoàng bằng những lá cờ đỏ thắm, các khẩu hiệu in lớn trông vô cùng rực rỡ. Sự háo hức, bồi hồi hiện rõ lên khuôn mặt của từng học sinh và các thầy cô giáo. Trang phục của chúng em được thống nhất là áo trắng, quần xanh. Mặc bộ đồng phụ trên người, em thấy mình như lớn hẳn.Các cô giáo thướt tha trong tà áo dài trắng giản dị mà vô cùng thanh lịch. Những thầy giáo thì trông thật lịch sự với bộ com – lê màu đen rất đẹp.Đúng bảy giờ, thầy tổng phụ trách tuyên bố buổi lễ khai trường long trọng bắt đầu.
Assignment In the lives of each generation of students, surely everyone has participated in school opening ceremonies filled with many thoughts. However, for me, the first day of first grade still leaves the deepest impression in my memory. Every time I mention it, beautiful images seem to appear in my mind. Entering first grade is entering a new door, filled with magical knowledge. I still remember that during those few days, I was always in a nervous and excited mood. It seems that in my beautiful house, I am just as excited. My grandparents and parents have prepared all the necessary things for me to enter my new school. This is a lovely briefcase with two straps to hang on the shoulder; Hong Ha's textbooks and notebooks have the fragrant smell of new paper. Then the paint box, small whiteboard, chalk, cleaning supplies, pens, pencils... I enjoy opening each thing and never getting tired of looking at it. The next morning, my mother took me to school. Outside the school gate, I saw quite a few young friends about my age, they hesitated and did not dare to continue: those were also first grade students. Maybe they were first graders. I also have the same feelings as I do right now: fear, timidity and surprise, a strange feeling of bewilderment when standing in front of the school gate. The school gate was wide open with two strong arms outstretched towards us, calling out to us. That friendliness seemed to dispel the worries of children coming to class for the first time. I hesitated, said goodbye to my mother, then quickly lined up to march with my friends. How solemn and solemn was the opening ceremony for the first time in my life! The sound of the school drum was crisp, motivating, and excited people's hearts. My school's opening ceremony that year was also extremely carefully prepared from banners, slogans to musical performances, etc. The school yard was decorated decorated with crimson flags and large printed slogans that look extremely brilliant. Eagerness and excitement were clearly visible on the faces of each student and teacher. Our uniform is white shirt and blue pants. Wearing the school uniform, I felt like I had grown up. The teachers were graceful in their simple yet extremely elegant white ao dai. The teachers looked so polite with their beautiful black suits. At exactly seven o'clock, the general in charge announced that the solemn opening ceremony had begun.
Lê Huy Lá Thư Từ Quân Y Viện Q uân Y Viện… , ngày… tháng… năm 197… Thanh Hương thương nhớ, Lần em ra thăm anh gần đây nhứt, tính đến nay đã hơn một tháng dài rồi. Ngày tháng nằm ở bệnh viện sao mà dài đằng đẵng quá em ơi. Vậy là trong bộ đồng phục xanh xám của quân y viện, anh nằm ở đây đã bốn tháng rồi đó, khiếp thiệt! Thế mà so với những ngày anh về phép với em thì nó lại qua cái vèo. Nhớ lần đầu em đến thăm anh tại giường bệnh, em đã khóc ngất lên khi ôm đôi chân quấn đầy băng trắng của anh. Không biết nói sao, anh nằm yên mà nghe em khóc, và anh cũng khóc thầm theo. Tiếng khóc em như nói với anh là em yêu anh lắm, nhứt là vào lúc này. Qua tiếng khóc rấm rức, giọng em thiết tha “Mình sẽ là mãi mãi của nhau… của nhau… nghen anh !” – Anh nghẹn lời “Cám ơn em… Cám… cám ơn… em nhiều… nhiều lắm ! Anh yêu em lắm… Yêu em mãnh liệt lắm… Thanh Hương ơi… !”. Thế rồi chúng mình im lặng bên nhau rất lâu, cái im lặng không nặng nề mà sâu lắng vô cùng, im lặng mà nói với nhau rất nhiều. Anh chợt nghĩ chúng mình đang có cùng một tâm một ý với nhau, phải vậy không em !? Khi chia tay, anh thắt tặng em hai con hạc giấy bằng trang bìa nhiều màu xé ra từ cuốn báo Chiến Sĩ Cộng Hòa -- con lớn là anh con nhỏ là em. Đôi hạc ấy có còn tươi tắn không em ? Ở cuối giường anh nằm, trên giá treo mùng, cũng có hai con hạc giấy giống như thế đang đong đưa trong làn gió thoảng từ cái quạt trần. Ngắm chúng đong đưa bay lượn anh thấy lòng mình vui vui thơ thới… Rồi anh lại nhớ tới em. À… Những lần hành quân qua làng anh vẫn thường hay thắt hạc giấy cho mấy em bé trong làng đó em. Anh đã kể em nghe rồi đó. Đêm đó, anh bị vướng trái mìn claymore do địch gài trên lối vào sào huyệt của chúng. Thoạt đầu, tai anh nghe “Tưng… !” một tiếng thiệt khô và gọn do tiếng nổ quá gần nên màng nhĩ căng ra, anh thấy hằng ngàn hằng vạn ngôi sao bay chấp chới trước mặt. Anh cảm thấy hai chân mình âm ấm rồi nóng dần, anh khụy xuống, thiếp đi. Khi tỉnh dậy mới hay mình đang nằm ở Trạm Xá Trung Đoàn. Cặp chân đau nhức, gần như tê hẵn đi. Vết thương tương đối nặng nên quân y chuyển anh lên Bệnh Viện Sư Đoàn. Mặt trận ngày càng đánh lớn, thương binh chuyển về đây ngày càng nhiều nên họ lại chuyển tiếp anh về Quân Y Viện này. Kết quả chụp X - quang cho biết hai chân anh không bị gãy nát xương, chỉ toét phần thịt, bị nhiễm trùng nặng, sưng tấy lên và bọc nhiều mủ thôi. Nghĩ lại, cũng may, nhờ đứng hơi gần trái mìn, góc tạt của nó thấp nên mấy chục viên bi sát thương đó chỉ găm từ bắp vế anh trở xuống thôi, nếu đứng xa hơn trong tầm góc tạt cao tới ngực tới đầu thì anh đã… ngủ yên với giun dế rồi. Còn Trung Úy Hòa -- bạn học cũ của anh hồi ở Đại Học Khoa Học, lớp Toán Đại Cương -- thì trước đó, ngay chiều hôm đó nó đạp trúng quả mìn con cóc nên bị cụt mất chân phải từ bắp đùi – “Thôi… Đừng kể nữa anh… Em sợ lắm ! ” – “Ừ… Thì thôi… Anh không kể nữa ! Mà em cũng đừng khóc nữa… Khóc nữa anh đau lòng lắm. Can đảm lên em !”. Em biết không, cả tháng nay anh tập co duỗi đôi chân để khỏi bị cứng đơ rồi sẽ thành tật, không đi đứng được. Bác sĩ nói mỗi lần tập phải rán đau thêm một chút thì mới mau bình phục. Có lúc anh phải rướm nước mắt vì rán sức và đau quá đó em. Bây giờ thì anh đang tập đi bằng đôi nạng gỗ. Anh đã đi được một nửa chiều dài của căn phòng này rồi, mồ hôi trán vã ra, tim nhồi dồn dập vì mệt, nhưng anh mừng lắm, em à ! Thằng Hòa cụt chân nằm cạnh đó, thấy anh đi được nó mừng quá, khóc òa lên. Có lẽ nó cũng vừa chợt nhớ đến cái chân phải của nó bị bỏ lại ngoài chiến trường. Nó mếu máo cười to lên như điên, nói “Ha ha… ! Hùng ơi ! Tao bây giờ là bại tướng cụt chân rồi. Ha ha… ! Tao là bại tướng cụt chân rồi ! Hùng ơi !”. Rồi nó vịn thành giường lảo đảo gượng đứng dậy, hát … Anh trở về nhìn nhau xa lạ, anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen, cố quên đi một lời trăn trối… Em ơi… ! (Kỷ Vật Cho Em - Linh Phương - Phạm Duy) Em có cảm nhận được điều này không, khi một bại tướng cụt chân thứ thiệt cất tiếng hát bài này bằng chính con tim của mình thì sẽ xuất thần hơn và hay hơn bất cứ một danh ca nào khác trên trái đất này. Trung Úy Hòa bây giờ là thế đấy, em à ! Anh chợt rùng mình, quăng cặp nạng, nhào tới ôm chầm lấy nó, nói trong cơn xúc động “Hòa… Hòa… ! Tao đây… Hùng đây… ! Tao sẽ không tập… sẽ không tập… đi nữa!”. Nó tát vào mặt anh, mắng “Đồ ngu… Mày là thằng ngu… ! Thế còn Thanh Hương của mày, mày bỏ cho… chó nó gặm à… !” -- xin lỗi em, vì quá xúc động nên nó nói bậy như thế -- “Hùng… Mày còn nước còn tát. Còn tao… Tao hết nước rồi… Tao hết nước rồi ! Đây nè… Mày thấy rõ chưa… !”. Bên giường đối diện với anh, Thiếu Úy Bình Địa Phương Quân nằm đó với cánh tay phải cụt tới cùi chỏ. Có lẽ anh ta vô đây trước anh, quen rồi nên trông tỉnh lắm. Bình thường hay hát bài này mà anh nghe dường như nó đang nói với ai Xếp áo thư sinh vui bước đăng trình mười sáu tròn trăng … … … Nhưng em ơi… Khi non nước đang còn mịt mờ bên phương nớ chuyện đó đừng mơ… (Mười Sáu Trăng Tròn - Trần Thiện Thanh) Tuần qua, ông Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn cùng thuộc cấp và mấy em học sinh trong thị xã đến Quân Y Viện thăm và ủy lạo thương bệnh binh. Cũng như các thương binh khác, anh được Tướng Tư Lệnh thay mặt Chính Phủ và Quân Đội gắn lên ngực mình tấm Chiến Thương Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng. Tay nâng niu tấm huy chương, anh nghe mặt mình nóng rang lên. Các em học sinh đến tận từng giường bọn anh mà thăm hỏi an ủi cám ơn tặng quà và hát cho bọn anh nghe. Phái đoàn ủy lạo đã khóc khi Trung Úy Hòa cất tiếng hát bài Kỷ Vật Cho Em, một bài hát đã nói lên hết tâm sự của nó. Đến bên giường anh là một nữ sinh có nét hao hao giống em -- cũng có mái tóc dài dợn sóng như em, cũng thắt bando màu xanh lá cây như em -- là màu xanh của hy vọng và của thanh bình như em thường nói với anh đó. Anh yêu cầu cô ấy hát bài này mà có lần anh đã hát cho em nghe Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi ! … … … Anh xúc động hát theo Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn Bạn anh đó đang say ngủ yên Xin cám ơn ! Xin cám ơn ! Người nằm xuống … … … (Một Mai Giã Từ Vũ Khí - Ngân Khánh) Ở cạnh giường bên kia, giữa hai học sinh một nam một nữ, Thiếu Úy Bình đứng nghiêm, áp sát cùi chỏ của cánh tay cụt vào màng tang mình trong tư thế chào Quốc Kỳ, rồi hát, giọng hát nó nghe thiệt hùng tráng Này công dân ơi… Quốc Gia đến ngày giải phóng Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống … … … Công dân ơi… Mau hiến thân dưới cờ Công dân ơi… Rồi nó nghẹn lời, giọng lạc đi, từ hai hốc mắt trủng sâu của nó hai hàng nước mắt chảy dài xuống trên đôi má hóp của mình. Mọi người lại rơi nước mắt theo. Em nè… Anh sẽ tập đi nhiều cho thiệt vững mà không thấy mệt. Khi ấy anh sẽ nhắn em ra, rồi mình sẽ đi dạo biển với nhau bên đôi nạng gỗ của anh. Biển ở đây đẹp lắm em ơi… Có nắng vàng cát trắng… Có sóng xanh gió mát thổi vi vu qua rặng dương liễu xanh rì… Và còn có nhiều thứ lắm cho mình vui vầy hạnh phúc bên nhau đó em. Thôi nha, lâu ngày cầm lại cây viết anh mỏi tay lắm rồi. Vẫn là lời chúc em luôn vui vẻ bình an. Anh của em, Xích Hùng Lê Huy (Los Angeles, Aug. ’10) Mục lục Lá Thư Từ Quân Y Viện Lá Thư Từ Quân Y Viện Lê HuyChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: NgụyXưa đưa lên vào ngày: 15 tháng 9 năm 2010
Lê Huy Lá Thư Từ Quân Y Viện Q uân Y Viện… , ngày… tháng… năm 197… Thanh Hương thương nhớ, Lần em ra thăm anh gần đây nhứt, tính đến nay đã hơn một tháng dài rồi. Ngày tháng nằm ở bệnh viện sao mà dài đằng đẵng quá em ơi. Vậy là trong bộ đồng phục xanh xám của quân y viện, anh nằm ở đây đã bốn tháng rồi đó, khiếp thiệt! Thế mà so với những ngày anh về phép với em thì nó lại qua cái vèo. Nhớ lần đầu em đến thăm anh tại giường bệnh, em đã khóc ngất lên khi ôm đôi chân quấn đầy băng trắng của anh. Không biết nói sao, anh nằm yên mà nghe em khóc, và anh cũng khóc thầm theo. Tiếng khóc em như nói với anh là em yêu anh lắm, nhứt là vào lúc này. Qua tiếng khóc rấm rức, giọng em thiết tha “Mình sẽ là mãi mãi của nhau… của nhau… nghen anh !” – Anh nghẹn lời “Cám ơn em… Cám… cám ơn… em nhiều… nhiều lắm ! Anh yêu em lắm… Yêu em mãnh liệt lắm… Thanh Hương ơi… !”. Thế rồi chúng mình im lặng bên nhau rất lâu, cái im lặng không nặng nề mà sâu lắng vô cùng, im lặng mà nói với nhau rất nhiều. Anh chợt nghĩ chúng mình đang có cùng một tâm một ý với nhau, phải vậy không em !? Khi chia tay, anh thắt tặng em hai con hạc giấy bằng trang bìa nhiều màu xé ra từ cuốn báo Chiến Sĩ Cộng Hòa -- con lớn là anh con nhỏ là em. Đôi hạc ấy có còn tươi tắn không em ? Ở cuối giường anh nằm, trên giá treo mùng, cũng có hai con hạc giấy giống như thế đang đong đưa trong làn gió thoảng từ cái quạt trần. Ngắm chúng đong đưa bay lượn anh thấy lòng mình vui vui thơ thới… Rồi anh lại nhớ tới em. À… Những lần hành quân qua làng anh vẫn thường hay thắt hạc giấy cho mấy em bé trong làng đó em. Anh đã kể em nghe rồi đó. Đêm đó, anh bị vướng trái mìn claymore do địch gài trên lối vào sào huyệt của chúng. Thoạt đầu, tai anh nghe “Tưng… !” một tiếng thiệt khô và gọn do tiếng nổ quá gần nên màng nhĩ căng ra, anh thấy hằng ngàn hằng vạn ngôi sao bay chấp chới trước mặt. Anh cảm thấy hai chân mình âm ấm rồi nóng dần, anh khụy xuống, thiếp đi. Khi tỉnh dậy mới hay mình đang nằm ở Trạm Xá Trung Đoàn. Cặp chân đau nhức, gần như tê hẵn đi. Vết thương tương đối nặng nên quân y chuyển anh lên Bệnh Viện Sư Đoàn. Mặt trận ngày càng đánh lớn, thương binh chuyển về đây ngày càng nhiều nên họ lại chuyển tiếp anh về Quân Y Viện này. Kết quả chụp X - quang cho biết hai chân anh không bị gãy nát xương, chỉ toét phần thịt, bị nhiễm trùng nặng, sưng tấy lên và bọc nhiều mủ thôi. Nghĩ lại, cũng may, nhờ đứng hơi gần trái mìn, góc tạt của nó thấp nên mấy chục viên bi sát thương đó chỉ găm từ bắp vế anh trở xuống thôi, nếu đứng xa hơn trong tầm góc tạt cao tới ngực tới đầu thì anh đã… ngủ yên với giun dế rồi. Còn Trung Úy Hòa -- bạn học cũ của anh hồi ở Đại Học Khoa Học, lớp Toán Đại Cương -- thì trước đó, ngay chiều hôm đó nó đạp trúng quả mìn con cóc nên bị cụt mất chân phải từ bắp đùi – “Thôi… Đừng kể nữa anh… Em sợ lắm ! ” – “Ừ… Thì thôi… Anh không kể nữa ! Mà em cũng đừng khóc nữa… Khóc nữa anh đau lòng lắm. Can đảm lên em !”. Em biết không, cả tháng nay anh tập co duỗi đôi chân để khỏi bị cứng đơ rồi sẽ thành tật, không đi đứng được. Bác sĩ nói mỗi lần tập phải rán đau thêm một chút thì mới mau bình phục. Có lúc anh phải rướm nước mắt vì rán sức và đau quá đó em. Bây giờ thì anh đang tập đi bằng đôi nạng gỗ. Anh đã đi được một nửa chiều dài của căn phòng này rồi, mồ hôi trán vã ra, tim nhồi dồn dập vì mệt, nhưng anh mừng lắm, em à ! Thằng Hòa cụt chân nằm cạnh đó, thấy anh đi được nó mừng quá, khóc òa lên. Có lẽ nó cũng vừa chợt nhớ đến cái chân phải của nó bị bỏ lại ngoài chiến trường. Nó mếu máo cười to lên như điên, nói “Ha ha… ! Hùng ơi ! Tao bây giờ là bại tướng cụt chân rồi. Ha ha… ! Tao là bại tướng cụt chân rồi ! Hùng ơi !”. Rồi nó vịn thành giường lảo đảo gượng đứng dậy, hát … Anh trở về nhìn nhau xa lạ, anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen, cố quên đi một lời trăn trối… Em ơi… ! (Kỷ Vật Cho Em - Linh Phương - Phạm Duy) Em có cảm nhận được điều này không, khi một bại tướng cụt chân thứ thiệt cất tiếng hát bài này bằng chính con tim của mình thì sẽ xuất thần hơn và hay hơn bất cứ một danh ca nào khác trên trái đất này. Trung Úy Hòa bây giờ là thế đấy, em à ! Anh chợt rùng mình, quăng cặp nạng, nhào tới ôm chầm lấy nó, nói trong cơn xúc động “Hòa… Hòa… ! Tao đây… Hùng đây… ! Tao sẽ không tập… sẽ không tập… đi nữa!”. Nó tát vào mặt anh, mắng “Đồ ngu… Mày là thằng ngu… ! Thế còn Thanh Hương của mày, mày bỏ cho… chó nó gặm à… !” -- xin lỗi em, vì quá xúc động nên nó nói bậy như thế -- “Hùng… Mày còn nước còn tát. Còn tao… Tao hết nước rồi… Tao hết nước rồi ! Đây nè… Mày thấy rõ chưa… !”. Bên giường đối diện với anh, Thiếu Úy Bình Địa Phương Quân nằm đó với cánh tay phải cụt tới cùi chỏ. Có lẽ anh ta vô đây trước anh, quen rồi nên trông tỉnh lắm. Bình thường hay hát bài này mà anh nghe dường như nó đang nói với ai Xếp áo thư sinh vui bước đăng trình mười sáu tròn trăng … … … Nhưng em ơi… Khi non nước đang còn mịt mờ bên phương nớ chuyện đó đừng mơ… (Mười Sáu Trăng Tròn - Trần Thiện Thanh) Tuần qua, ông Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn cùng thuộc cấp và mấy em học sinh trong thị xã đến Quân Y Viện thăm và ủy lạo thương bệnh binh. Cũng như các thương binh khác, anh được Tướng Tư Lệnh thay mặt Chính Phủ và Quân Đội gắn lên ngực mình tấm Chiến Thương Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng. Tay nâng niu tấm huy chương, anh nghe mặt mình nóng rang lên. Các em học sinh đến tận từng giường bọn anh mà thăm hỏi an ủi cám ơn tặng quà và hát cho bọn anh nghe. Phái đoàn ủy lạo đã khóc khi Trung Úy Hòa cất tiếng hát bài Kỷ Vật Cho Em, một bài hát đã nói lên hết tâm sự của nó. Đến bên giường anh là một nữ sinh có nét hao hao giống em -- cũng có mái tóc dài dợn sóng như em, cũng thắt bando màu xanh lá cây như em -- là màu xanh của hy vọng và của thanh bình như em thường nói với anh đó. Anh yêu cầu cô ấy hát bài này mà có lần anh đã hát cho em nghe Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn Anh chẳng còn chi, chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi ! … … … Anh xúc động hát theo Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn Bạn anh đó đang say ngủ yên Xin cám ơn ! Xin cám ơn ! Người nằm xuống … … … (Một Mai Giã Từ Vũ Khí - Ngân Khánh) Ở cạnh giường bên kia, giữa hai học sinh một nam một nữ, Thiếu Úy Bình đứng nghiêm, áp sát cùi chỏ của cánh tay cụt vào màng tang mình trong tư thế chào Quốc Kỳ, rồi hát, giọng hát nó nghe thiệt hùng tráng Này công dân ơi… Quốc Gia đến ngày giải phóng Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống … … … Công dân ơi… Mau hiến thân dưới cờ Công dân ơi… Rồi nó nghẹn lời, giọng lạc đi, từ hai hốc mắt trủng sâu của nó hai hàng nước mắt chảy dài xuống trên đôi má hóp của mình. Mọi người lại rơi nước mắt theo. Em nè… Anh sẽ tập đi nhiều cho thiệt vững mà không thấy mệt. Khi ấy anh sẽ nhắn em ra, rồi mình sẽ đi dạo biển với nhau bên đôi nạng gỗ của anh. Biển ở đây đẹp lắm em ơi… Có nắng vàng cát trắng… Có sóng xanh gió mát thổi vi vu qua rặng dương liễu xanh rì… Và còn có nhiều thứ lắm cho mình vui vầy hạnh phúc bên nhau đó em. Thôi nha, lâu ngày cầm lại cây viết anh mỏi tay lắm rồi. Vẫn là lời chúc em luôn vui vẻ bình an. Anh của em, Xích Hùng Lê Huy (Los Angeles, Aug. ’10) Mục lục Lá Thư Từ Quân Y Viện Lá Thư Từ Quân Y Viện Lê HuyChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: NgụyXưa đưa lên vào ngày: 15 tháng 9 năm 2010
Nguyễn Ngọc Tuyết Lá trung quân Hơn ba mươi năm chị mới có dịp trở lại căn cứ cũ. Nãy giờ đi cùng các bạn văn nghệ để thâm nhập thực tế sáng tác mà lòng chị cứ bồi hồi. Chị cố căng mắt để tìm lại những hình ảnh cũ, những dấu tích xưa của chiến khu, của Cục “R”, cơ quan đầu não cách mạng miền Nam trong chống Mỹ, cũng là nơi chị sống qua một thời tuổi trẻ khốc liệt mà đẹp đẽ của mình. Nhưng, dường như tất cả đều thay đổi. Từ con đường bon bon chạy vào rừng, từ những trảng rừng trống trải xe lướt ngang qua... đến mọi cảnh sắc chung quanh, chị vẫn chưa nhận ra vóc dáng, tiếng nói của rừng. Có ai đó trong xe chợt la lên: - Đường mòn! Đường mòn đi vào rừng kìa! Vừa lúc chị cũng phát hiện ra những con đường nhỏ ấy hai bên con lộ xe. Đây rồi! Rừng của mình đây mà! Hình như rừng cũng đã nhận ra đứa con yêu của mình, rừng đang mở ra từng con đường mòn sau những tàn lá rậm rạp để đón chị trở về... *** Mười ba tuổi, chị đã thoát ly gia đình theo cách mạng. Cái cơ duyên ấy chỉ từ một giọng hát. - Con có chất giọng được lắm, có muốn theo bác không? Và cái con bé nghèo khổ, thất học, da mốc cời của vùng đất Mỹ Tho ấy hí hửng cuốn đồ trốn nhà qua sông theo ông bác mà lúc đó nó cũng chưa biết tên, chỉ tin vào lời ông nói: - Mình phải lên đường gấp. Rồi bác sẽ nói chuyện với ba con. Cũng người cách mạng cả mà! Rồi cô bé vừa đi bộ theo bác, vừa được bác cõng trên lưng khi cô đã buồn ngủ nhíu cả mắt lại. Chừng thức dậy đã thấy mình nằm giữa một đám con nít trạc tuổi, chị chủ nhà đang lúi húi nấu cháo trắng ở góc nhà. Thế là bắt đầu cuộc sống tự lập. Sau này, chị vẫn thấy mình may mắn. Nếu không có chất giọng “trời cho” làm sao chị được vào khu, được học hành, ca hát để thành nghệ sĩ như bây giờ. Và để mười sáu, mười bảy tuổi, chị đã được về đây, đã là thành viên Đoàn văn công Quân giải phóng. Bước vào nhà truyền thống của Cục, đập vào mắt mọi người là tấm hình treo trên cao, ngay gian giữa. Chị bước lại gần, rưng rưng xúc động: Trời! Mình đó sao? Trong khuôn hình chính là chị, đứng hàng sau cùng các bạn trong đoàn văn công với đủ bộ kèn trống. Tấm hình như chứng tích của một thời. Ừ, khi chụp hình này mình bao nhiêu tuổi vậy kìa? Mười bảy hay mười tám? Các bạn đồng hành xúm lại trầm trồ: - Hình bấy nhiêu năm mà còn rõ quá! Nước thuốc tốt thiệt! Còn chị, chị chăm chắm nhìn vào khuôn hình, tìm kiếm và đã thấy rồi. Anh vẫn ngồi đó, cây sáo đưa lên miệng, trẻ trung, mãi mãi tuổi hai mươi. Anh đó, mối tình đầu của chị, tuổi thanh xuân nồng nàn e ấp của chị, màu xanh bạt ngàn của rừng trong lòng chị... Tất cả, tất cả như ùa về, như chưa hề bị lãng quên... *** Hai người ngồi đối diện bên chiếc bàn vuông bằng cây tạp, ngọn đèn dầu nhỏ để ở giữa, xa một chút trong góc nhà có lúc là một cô bạn cùng đơn vị, lúc là một chị lớn tuổi hơn làm cấp dưỡng trong cứ. Thỉnh thoảng hai đứa mới được gặp riêng như thế này sau khi báo cáo đơn vị về tình cảm của mình. Luật trong cứ rất nghiêm, dù vẫn tập dượt, học hành, hát hò chung nhưng chuyện trai gái gặp gỡ riêng thì tuyệt đối không. Có vậy mới giữ được sự trong sáng, an toàn cho đồng đội và giữ tiếng cho cách mạng. Vậy mà mỗi lần gặp là mỗi lần ngượng nghịu, bối rối làm sao. Anh nhìn chị, ấp úng: - Nói gì thì nói đi! Còn chị, cúi đầu, se se miết vạt áo bà ba: - Biết gì mà nói. Anh nói trước đi! Chỉ tội cho người ngồi canh, ngáp vắn, ngáp dài, trong bụng chắc cũng rủa thầm bọn trẻ bày đặt yêu đương. Có khi đang ngập ngừng ngắc ngứ vậy thì bom dội xuống đùng đùng, mạnh ai nấy nhảy xuống hầm, chừng hết bom lại nối tiếp câu chuyện không đầu không đũa mà vui sướng lâng lâng. Chị lén lau một giọt nước mắt vừa ứa ra để nó khỏi chảy dài xuống má. Ngày anh hy sinh tại cứ này chị khóc đã nhiều vậy mà nhớ lại vẫn không cầm lòng được. Mười chín tuổi, mối tình son trẻ ấy làm sao quên, dù sau cuộc chiến chị đã có gia đình, con cháu đề huề, chồng chị cũng là một trong những đồng đội năm xưa. Theo chân cậu hướng dẫn viên trẻ măng luồn sâu vào cứ, những giao thông hào quanh co hiện ra như người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Mọi thứ tuy có sửa sang, có phục chế nhưng vẫn giữ nét xưa từ mỗi căn nhà của từng vị bí thư Trung ương Cục cho đến chiếc bàn, chiếc ghế, chiếc giường ngủ trong nhà. Những căn nhà vẫn lợp một thứ lá trung quân trên mái như ngày nào. Ừ, lá trung quân! Chẳng biết ai đặt tên cho nó mà khi về đây chị đã quen tên. Trong hồi ức chị lại hiện ra hình ảnh mình và đám bạn, những thiếu nữ mười sáu, mười bảy tuổi hồn nhiên, tinh nghịch, tay hái lia lịa từng nắm lá rồi túm lại từng túm, giắt đầy vào sợi dây lác quấn ngang lưng để đem về chằm lại lợp nhà. Những chiếc lá suông dài, chi chít trên cây, nhiều không đếm xuể trong rừng già đã che mưa che nắng cho bao người trong chiến khu này. Loại lá lợp nhà này có chỗ rất hay là nếu bị bom lửa, lá chỉ ngún từ từ chứ không cháy bùng lên như lá dừa nước hay các loại lá khác ở đồng bằng quê chị. Trong lòng chị, trong lòng tất cả những ai từng sống ở chiến khu này thì mãi mãi đó vẫn là lá trung quân! Cái tên đẹp đẽ như tấm lòng trung với nước, với dân, với bạn bè đồng đội trong quân ngũ của “một thời khó quên”. Chị cứ đi, cứ đi theo cậu hướng dẫn viên đang nhiệt tình thuyết minh về từng nơi bước qua. Qua cây vú sữa trước nhà đồng chí Phạm Hùng, qua cái hố bom nuôi cá của đồng chí Nguyễn Văn Linh, qua căn nhà có cái ban công nhô ra hơi đặc biệt của đồng chí Võ Văn Kiệt... và cặp theo con đường xi măng trơn láng hôm nay vẫn còn đó những giao thông hào với những ngách hầm, những ụ đất khoét sâu cho chiến sĩ ta vừa là hầm tránh bom vừa là ụ chiến đấu. Dù vậy, chị vẫn không thể nhận ra ở khúc đường nào sâu trong lòng đất này cô bạn thân nhất của mình đã hy sinh. Loạt bom nổ khi Hạnh chưa kịp nhảy xuống đã hất nó xuống giao thông hào, ngực đầy máu. Trong vòng tay chị nhỏ bạn chỉ kịp thì thào: “Mày ở lại, chiến đấu tốt nhé! Nhớ an ủi anh Văn giùm tao”. Bây giờ đứng trên đường nhìn xuống từng đoạn giao thông hào, chị như sống lại nỗi đau xé lòng ngày đó, như thấy những giọt máu của bạn mình đang nhỏ xuống đỏ cả một vệt đất. Năm ấy Hạnh cũng mới mười chín tuổi! Có lẽ vì lời nhắn gởi thiêng liêng đó mà chị đã đến với Văn, người yêu của Hạnh. Từng đau nỗi đau mất mát người yêu, hai người rất dễ cảm thông cho nhau bởi họ có bạn chung, kỷ niệm chung và cả một thời tuổi trẻ đầy lý tưởng sáng trong, nhiệt thành. Sau này sống cùng Văn những ngày hòa bình, rồi có con, có cháu, chị biết tình yêu mình vẫn dành cho người nằm xuống đất rừng này. Giữa họ, sợi dây cột chặt của tình đồng chí đồng đội còn chắc hơn, bền vững hơn tình nghĩa vợ chồng. Cuối cùng rồi anh cũng đã rời bỏ chị và con. Cái mảnh đạn trong đầu đã thôi hành hạ anh những lúc trái gió trở trời. Chị đón nhận sự mất mát lần này có bình thản hơn, êm ả hơn chứ không bất ngờ thảng thốt như thời thiếu nữ. Có điều sự trống vắng, hụt hẫng không vì vậy mà nhẹ bớt. Tự nãy giờ, hình như chị không chỉ trở lại cứ cũ một mình. Hình như có chồng chị, có cô bạn, có người yêu năm xưa cùng ngắm nhìn mọi thứ cùng chị. Cảm giác vừa bâng khuâng, ngậm ngùi lại vừa ấm áp cả lòng. Ra khỏi bìa rừng, đột nhiên nghe râm ran tiếng ve. Có lẽ nắng ấm đã hong khô những cặp cánh mỏng ướt sương của chúng. Lâu lắm rồi chị mới nghe inh ỏi tiếng ve như vậy. Âm thanh cứ rền khắp, vang vang như muốn níu chân người ở lại với rừng già, với cứ cũ, với những cây cổ thụ hàng chục người ôm không hết... Đến trạm kiểm soát bên ngoài, cậu hướng dẫn viên theo tiễn đoàn chợt chỉ lên mái nhà, tươi cười: - Các cô chú có thấy mái lợp ở đây không? Lá trung quân nhân tạo đó. Giống như thật vậy phải không? Nghe nói sắp tới sẽ nhân ra ở các mái lá trung quân phía trong cứ để tiện việc bảo quản. Chị cảm nhận một sự lặng lẽ trùm lên cả đoàn. Rất lâu, rất lâu, một chú cựu chiến binh luống tuổi, mặt đầy vết nhăn thốt ra một câu: - Sao vậy hả cháu? Cái gì cũng có thể giả nhưng lá trung quân thì không cần giả cháu à! Ngồi trên xe, ngang qua tấm bia lớn dựng đầu ngõ vào “Di tích Lịch sử Văn hóa, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam”, câu nói của người cựu chiến binh già cứ vang mãi trong đầu chị. Ừ, trung quân làm sao mà giả được! Rồi chị lại bồi hồi. Trong số bạn bè mình năm ấy, ai còn, ai mất? Còn ai về thăm cứ cũ và giữ mãi trong lòng mình hình ảnh lá trung quân? Mục lục Lá trung quân Lá trung quân Nguyễn Ngọc TuyếtChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: mssthuan Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 7 năm 2007
Nguyễn Ngọc Tuyết Lá trung quân Hơn ba mươi năm chị mới có dịp trở lại căn cứ cũ. Nãy giờ đi cùng các bạn văn nghệ để thâm nhập thực tế sáng tác mà lòng chị cứ bồi hồi. Chị cố căng mắt để tìm lại những hình ảnh cũ, những dấu tích xưa của chiến khu, của Cục “R”, cơ quan đầu não cách mạng miền Nam trong chống Mỹ, cũng là nơi chị sống qua một thời tuổi trẻ khốc liệt mà đẹp đẽ của mình. Nhưng, dường như tất cả đều thay đổi. Từ con đường bon bon chạy vào rừng, từ những trảng rừng trống trải xe lướt ngang qua... đến mọi cảnh sắc chung quanh, chị vẫn chưa nhận ra vóc dáng, tiếng nói của rừng. Có ai đó trong xe chợt la lên: - Đường mòn! Đường mòn đi vào rừng kìa! Vừa lúc chị cũng phát hiện ra những con đường nhỏ ấy hai bên con lộ xe. Đây rồi! Rừng của mình đây mà! Hình như rừng cũng đã nhận ra đứa con yêu của mình, rừng đang mở ra từng con đường mòn sau những tàn lá rậm rạp để đón chị trở về... *** Mười ba tuổi, chị đã thoát ly gia đình theo cách mạng. Cái cơ duyên ấy chỉ từ một giọng hát. - Con có chất giọng được lắm, có muốn theo bác không? Và cái con bé nghèo khổ, thất học, da mốc cời của vùng đất Mỹ Tho ấy hí hửng cuốn đồ trốn nhà qua sông theo ông bác mà lúc đó nó cũng chưa biết tên, chỉ tin vào lời ông nói: - Mình phải lên đường gấp. Rồi bác sẽ nói chuyện với ba con. Cũng người cách mạng cả mà! Rồi cô bé vừa đi bộ theo bác, vừa được bác cõng trên lưng khi cô đã buồn ngủ nhíu cả mắt lại. Chừng thức dậy đã thấy mình nằm giữa một đám con nít trạc tuổi, chị chủ nhà đang lúi húi nấu cháo trắng ở góc nhà. Thế là bắt đầu cuộc sống tự lập. Sau này, chị vẫn thấy mình may mắn. Nếu không có chất giọng “trời cho” làm sao chị được vào khu, được học hành, ca hát để thành nghệ sĩ như bây giờ. Và để mười sáu, mười bảy tuổi, chị đã được về đây, đã là thành viên Đoàn văn công Quân giải phóng. Bước vào nhà truyền thống của Cục, đập vào mắt mọi người là tấm hình treo trên cao, ngay gian giữa. Chị bước lại gần, rưng rưng xúc động: Trời! Mình đó sao? Trong khuôn hình chính là chị, đứng hàng sau cùng các bạn trong đoàn văn công với đủ bộ kèn trống. Tấm hình như chứng tích của một thời. Ừ, khi chụp hình này mình bao nhiêu tuổi vậy kìa? Mười bảy hay mười tám? Các bạn đồng hành xúm lại trầm trồ: - Hình bấy nhiêu năm mà còn rõ quá! Nước thuốc tốt thiệt! Còn chị, chị chăm chắm nhìn vào khuôn hình, tìm kiếm và đã thấy rồi. Anh vẫn ngồi đó, cây sáo đưa lên miệng, trẻ trung, mãi mãi tuổi hai mươi. Anh đó, mối tình đầu của chị, tuổi thanh xuân nồng nàn e ấp của chị, màu xanh bạt ngàn của rừng trong lòng chị... Tất cả, tất cả như ùa về, như chưa hề bị lãng quên... *** Hai người ngồi đối diện bên chiếc bàn vuông bằng cây tạp, ngọn đèn dầu nhỏ để ở giữa, xa một chút trong góc nhà có lúc là một cô bạn cùng đơn vị, lúc là một chị lớn tuổi hơn làm cấp dưỡng trong cứ. Thỉnh thoảng hai đứa mới được gặp riêng như thế này sau khi báo cáo đơn vị về tình cảm của mình. Luật trong cứ rất nghiêm, dù vẫn tập dượt, học hành, hát hò chung nhưng chuyện trai gái gặp gỡ riêng thì tuyệt đối không. Có vậy mới giữ được sự trong sáng, an toàn cho đồng đội và giữ tiếng cho cách mạng. Vậy mà mỗi lần gặp là mỗi lần ngượng nghịu, bối rối làm sao. Anh nhìn chị, ấp úng: - Nói gì thì nói đi! Còn chị, cúi đầu, se se miết vạt áo bà ba: - Biết gì mà nói. Anh nói trước đi! Chỉ tội cho người ngồi canh, ngáp vắn, ngáp dài, trong bụng chắc cũng rủa thầm bọn trẻ bày đặt yêu đương. Có khi đang ngập ngừng ngắc ngứ vậy thì bom dội xuống đùng đùng, mạnh ai nấy nhảy xuống hầm, chừng hết bom lại nối tiếp câu chuyện không đầu không đũa mà vui sướng lâng lâng. Chị lén lau một giọt nước mắt vừa ứa ra để nó khỏi chảy dài xuống má. Ngày anh hy sinh tại cứ này chị khóc đã nhiều vậy mà nhớ lại vẫn không cầm lòng được. Mười chín tuổi, mối tình son trẻ ấy làm sao quên, dù sau cuộc chiến chị đã có gia đình, con cháu đề huề, chồng chị cũng là một trong những đồng đội năm xưa. Theo chân cậu hướng dẫn viên trẻ măng luồn sâu vào cứ, những giao thông hào quanh co hiện ra như người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Mọi thứ tuy có sửa sang, có phục chế nhưng vẫn giữ nét xưa từ mỗi căn nhà của từng vị bí thư Trung ương Cục cho đến chiếc bàn, chiếc ghế, chiếc giường ngủ trong nhà. Những căn nhà vẫn lợp một thứ lá trung quân trên mái như ngày nào. Ừ, lá trung quân! Chẳng biết ai đặt tên cho nó mà khi về đây chị đã quen tên. Trong hồi ức chị lại hiện ra hình ảnh mình và đám bạn, những thiếu nữ mười sáu, mười bảy tuổi hồn nhiên, tinh nghịch, tay hái lia lịa từng nắm lá rồi túm lại từng túm, giắt đầy vào sợi dây lác quấn ngang lưng để đem về chằm lại lợp nhà. Những chiếc lá suông dài, chi chít trên cây, nhiều không đếm xuể trong rừng già đã che mưa che nắng cho bao người trong chiến khu này. Loại lá lợp nhà này có chỗ rất hay là nếu bị bom lửa, lá chỉ ngún từ từ chứ không cháy bùng lên như lá dừa nước hay các loại lá khác ở đồng bằng quê chị. Trong lòng chị, trong lòng tất cả những ai từng sống ở chiến khu này thì mãi mãi đó vẫn là lá trung quân! Cái tên đẹp đẽ như tấm lòng trung với nước, với dân, với bạn bè đồng đội trong quân ngũ của “một thời khó quên”. Chị cứ đi, cứ đi theo cậu hướng dẫn viên đang nhiệt tình thuyết minh về từng nơi bước qua. Qua cây vú sữa trước nhà đồng chí Phạm Hùng, qua cái hố bom nuôi cá của đồng chí Nguyễn Văn Linh, qua căn nhà có cái ban công nhô ra hơi đặc biệt của đồng chí Võ Văn Kiệt... và cặp theo con đường xi măng trơn láng hôm nay vẫn còn đó những giao thông hào với những ngách hầm, những ụ đất khoét sâu cho chiến sĩ ta vừa là hầm tránh bom vừa là ụ chiến đấu. Dù vậy, chị vẫn không thể nhận ra ở khúc đường nào sâu trong lòng đất này cô bạn thân nhất của mình đã hy sinh. Loạt bom nổ khi Hạnh chưa kịp nhảy xuống đã hất nó xuống giao thông hào, ngực đầy máu. Trong vòng tay chị nhỏ bạn chỉ kịp thì thào: “Mày ở lại, chiến đấu tốt nhé! Nhớ an ủi anh Văn giùm tao”. Bây giờ đứng trên đường nhìn xuống từng đoạn giao thông hào, chị như sống lại nỗi đau xé lòng ngày đó, như thấy những giọt máu của bạn mình đang nhỏ xuống đỏ cả một vệt đất. Năm ấy Hạnh cũng mới mười chín tuổi! Có lẽ vì lời nhắn gởi thiêng liêng đó mà chị đã đến với Văn, người yêu của Hạnh. Từng đau nỗi đau mất mát người yêu, hai người rất dễ cảm thông cho nhau bởi họ có bạn chung, kỷ niệm chung và cả một thời tuổi trẻ đầy lý tưởng sáng trong, nhiệt thành. Sau này sống cùng Văn những ngày hòa bình, rồi có con, có cháu, chị biết tình yêu mình vẫn dành cho người nằm xuống đất rừng này. Giữa họ, sợi dây cột chặt của tình đồng chí đồng đội còn chắc hơn, bền vững hơn tình nghĩa vợ chồng. Cuối cùng rồi anh cũng đã rời bỏ chị và con. Cái mảnh đạn trong đầu đã thôi hành hạ anh những lúc trái gió trở trời. Chị đón nhận sự mất mát lần này có bình thản hơn, êm ả hơn chứ không bất ngờ thảng thốt như thời thiếu nữ. Có điều sự trống vắng, hụt hẫng không vì vậy mà nhẹ bớt. Tự nãy giờ, hình như chị không chỉ trở lại cứ cũ một mình. Hình như có chồng chị, có cô bạn, có người yêu năm xưa cùng ngắm nhìn mọi thứ cùng chị. Cảm giác vừa bâng khuâng, ngậm ngùi lại vừa ấm áp cả lòng. Ra khỏi bìa rừng, đột nhiên nghe râm ran tiếng ve. Có lẽ nắng ấm đã hong khô những cặp cánh mỏng ướt sương của chúng. Lâu lắm rồi chị mới nghe inh ỏi tiếng ve như vậy. Âm thanh cứ rền khắp, vang vang như muốn níu chân người ở lại với rừng già, với cứ cũ, với những cây cổ thụ hàng chục người ôm không hết... Đến trạm kiểm soát bên ngoài, cậu hướng dẫn viên theo tiễn đoàn chợt chỉ lên mái nhà, tươi cười: - Các cô chú có thấy mái lợp ở đây không? Lá trung quân nhân tạo đó. Giống như thật vậy phải không? Nghe nói sắp tới sẽ nhân ra ở các mái lá trung quân phía trong cứ để tiện việc bảo quản. Chị cảm nhận một sự lặng lẽ trùm lên cả đoàn. Rất lâu, rất lâu, một chú cựu chiến binh luống tuổi, mặt đầy vết nhăn thốt ra một câu: - Sao vậy hả cháu? Cái gì cũng có thể giả nhưng lá trung quân thì không cần giả cháu à! Ngồi trên xe, ngang qua tấm bia lớn dựng đầu ngõ vào “Di tích Lịch sử Văn hóa, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam”, câu nói của người cựu chiến binh già cứ vang mãi trong đầu chị. Ừ, trung quân làm sao mà giả được! Rồi chị lại bồi hồi. Trong số bạn bè mình năm ấy, ai còn, ai mất? Còn ai về thăm cứ cũ và giữ mãi trong lòng mình hình ảnh lá trung quân? Mục lục Lá trung quân Lá trung quân Nguyễn Ngọc TuyếtChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: mssthuan Nguồn: bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 10 tháng 7 năm 2007
phạm thanh hà Lá trúc đào Nếu một ngày nào đó, tôi gặp lại cô gái ấy, dù cô là ai và như thế nào, tôi cũng sẽ vô cùng biết ơn cô vì nhờ gặp lại cô, tôi đã cất được một gánh nặng suốt bao năm qua. Nhưng bởi vì tôi đã hoài công tìm kiếm suốt bao năm qua mà vẫn không gặp cô, nên gánh nặng của tôi vẫn còn đấy. Cái gánh nặng ấy, nó không sinh ra từ một niềm ân hận, hay một mặc cảm tội lỗi nào. Tôi chẳng phải một kẻ chưa từng phạm tội hay chưa từng ăn năn bao giờ, nên tôi biết rằng cả hai cái ấy đều có thể bớt dần theo thời gian như bát nước nóng có thể nguội dần. Còn gánh nặng của tôi mãi cứ đè nặng lên tâm trí tôi - cô gái mà tôi chỉ thoáng thấy một lần, một lần duy nhất trong đời là người làm cho tôi bị ám ảnh lâu hơn hết so với những người con gái khác. Tôi biết sẽ không ai kết án tôi vì chuyện này. Không ai hết, ngoài tôi. Một buổi sáng rất đẹp của một ngày đầu mùa hè. Khi ấy tôi đang là phóng viên tập sự của một đài phát thanh và có việc phải sang mấy huyện ngoại thành vì một công tác gì đó. Tôi ra đi từ sáng sớm. Đường phố chưa có mấy người đi lại, không khí thanh sạch và dịu dàng đến tuyệt vời. Tôi chọn con đường dọc theo một bức thành cổ có nhiều cây ở hai bên. Có những thời khắc thật ngắn ngủi trong một ngày để tận hưởng niềm hạnh phúc được sống trong yên tĩnh. Đúng vào lúc ý nghĩ ấy đi qua đầu tôi, tôi trông thấy cô gái ấy. Cô đang rướn mình lên để níu lấy một cành lá xanh ở một cây ven đường. Cô còn rất trẻ và mảnh mai, tóc dài xòa ngang lưng, bộ quần áo trắng muốt, những ngón tay nhỏ nhắn hái những chiếc lá non, đã có một nắm lá trong tay cô. Trong buổi mai yên tĩnh, vòm cây khẽ lay động như để xua đi những giấc mơ còn đang quanh quẩn và chuẩn bị sáng lên trong những tia nắng mới non nớt. Những chùm hoa rực rỡ đầu cành rung động theo tay cô gái. Toàn bộ hình ảnh ấy đẹp đến nỗi tôi sững sờ và đi chậm lại. Tôi tiếc mình không phải nhiếp ảnh gia hay họa sĩ, bởi sự tương phản của mầu sắc, từ bộ quần áo trắng muốt đến cành lá mầu xanh biếc, những chùm hoa hồng rực, bức tường cổ rêu phong và nhất là hình dáng mảnh mai yêu kiều của cô gái, tất cả tạo nên một bức tranh đẹp và hoàn chỉnh. Về sau này mỗi khi hình dung lại bức tranh ấy, những chi tiết của tôi có lẫn lộn đôi chút. Bộ quần áo của cô đôi khi không phải màu trắng mà là màu vàng hoặc xanh nhạt, mái tóc cô không phải xõa ngang lưng mà chỉ chấm đến vai. Nhưng mầu lục sẫm của những lá cây trong tay cô, sắc hồng rực rỡ của những chùm hoa ngang đầu cô thì không bao giờ thay đổi, chỉ có mỗi ngày một tươi hơn - cũng như nét mặt cô, mà đi một đoạn ngắn rồi tôi mới quay lại nhìn, trong ánh sáng đã rõ hơn đôi chút, nét mặt nhợt nhạt, không ạt chút sinh khí, tôi vẫn cứ giật mình mỗi lần nhớ lại. Cái mầu hoa cứ chói ngời lên ấy, đi thêm một đoạn nữa, tôi mới nhớ ra rằng nó là mầu hoa của cây trúc đào, những chiếc lá trong bàn tay nhỏ của cô là lá trúc đào. Và phải thêm một đoạn đường tiếp theo nữa, tôi mới nhớ rằng lá trúc đào là một thứ lá độc, ăn vào có thể chết người. Tôi choáng váng. Nét mặt không sinh khí của cô gái và nắm lá trúc đào, hai cái ấy cộng lại với nhau thành một điều thật kinh khủng. Tất cả những suy diễn của tôi hiện ra chỉ trong một vài phút. Đoạn đường tôi mới đi không đáng là bao và tôi có thể quay lại, để đến bên cô gái, hỏi han cô đôi điều để phán đoán của mình đúng hay sai. Nếu cần, tôi có thể giật lấy bó lá vứt đi, nếu cần nữa tôi sẵn sàng trở thành bạn, thành anh của cô, và nếu cần hơn nữa, tôi có thể đưa cô về nhà. Nếu tôi đã làm như thế, bao nhiêu năm nay tôi đã không phải cứ nghĩ mãi về cô. Đằng này, tôi lại ngần ngại và đạp xe đi như một cái máy. Ngã ba đầu tiên, tôi tự hỏi mình có nên quay lại không? Ngã tư tiếp theo, rồi đến chân cầu Long Biên, tôi vẫn tự hỏi mình có nên quay lại không? Qua cầu Long Biên là con dốc dài quanh co, hết cái dốc ấy, tôi không nghĩ là mình sẽ quay lại nữa. Tôi cố gắng nghĩ đến công việc, đến cái tin phải viết cho đài phát thanh. Nhưng buổi sáng của tôi đã bị độc bởi những ngọn lá trúc đào chẳng làm nổi một việc gì nữa cả, uống một ngụm nước cũng không xong. Quá trưa tôi trở về bằng con đường cũ. Cô gái không ở đấy nữa. Đường phố tấp nập. Cây trúc đào vẫn ở nguyên chỗ cũ, cây trúc đào có bao nhiêu lá, chẳng ai biết đã có một ít lá của nó bị hái đi lúc sáng nay. Tôi mong sao cho những gì đã trông thấy chỉ là ảo ảnh, nhưng mà lá trúc đào xanh quá, tôi không sao tự lừa dối được mình. Chiều hôm ấy, tôi lao đến nhà một người bạn là bác sĩ Bệnh viện Bạch Mai. Nó tưởng tôi ngớ ngẩn khi hỏi: - ở chỗ cậu hôm nay có ai phải cấp cứu vì ăn lá trúc đào không? - Không, chỉ có hai ca tự tử, một bằng thuốc trừ sâu, một bằng dây thừng... Không đợi nó nói hết câu, tôi lại lao về. Nhưng mà thành phố không phải chỉ có một Bệnh viện Bạch Mai, còn bao nhiêu bệnh viện khác. Tôi không thể thở phào ngay được mà cũng không thể đi khắp các bệnh viện được. Cái gánh nặng của tôi nặng hơn khi đêm tới. Đầu tiên, tôi tự mắng mình một cách thật khách quan, rằng mình chỉ lẩn thẩn và hay làm to chuyện. Biết đâu cô gái hái lá trúc đào vì một mục đích nào khác. Lạy trời, chắc hẳn lá trúc đào còn phải có nhiều công dụng khác tốt đẹp hơn cái khả năng gớm ghiếc kia của nó. Và biết đâu, cô gái lại chẳng đã nghĩ lại rồi. Tôi thử tưởng tượng ra cảnh cô chợt phá lên cười và thả từng chiếc lá trúc đào rơi lả tả xuống chân. Nhưng hễ tôi bắt đầu sử dụng đến trí tưởng tượng của mình thì khuôn mặt nhợt nhạt, không chút sinh khí của cô gái lại hiện lên, làm thắt cả tim tôi. Mỗi lúc cảm giác của tôi một đậm hơn lên, rằng đấy là khuôn mặt của một người đã chết, đã chết đau đớn, vật vã. Mà lẽ ra, tôi có thể ngăn chặn được cái chết ấy. Chỉ một cố gắng cỏn con của tôi thôi, không cần dùng đến lòng can đảm, chỉ cần đỡ ngần ngại, đỡ lười biếng đi trong một vài phút. Tôi biết chứ, một cô gái trẻ định tự tử, đấy là vì cô ta cô đơn, khốn khổ và tuyệt vọng đến cùng cực rồi, một bàn tay đưa ra lúc ấy cần thiết bao nhiêu, thế mà tôi đã quay đi. Quay đi sau khi khen cô ta đẹp và để cô ta chết... Đêm ấy, tôi thức trắng. Cô gái chỉ thoáng trông một lần trở nên có một gương mặt vô cùng ám ảnh và ngày càng quen thuộc với tôi. Tôi nghĩ đến cô nhiều hơn nghĩ đến mình. Suốt bao năm nay tôi vẫn tìm cô. Đôi khi, tôi lại thấy rất rõ ràng trước mặt những đường nét của thân hình mảnh mai đang vươn lên níu lấy một cành trúc đào trên cao. Rất nhiều đêm, trong tiếng gõ nhịp đều đặn và khô khốc của chiếc đồng hồ treo tường, tôi nghe thấy những tiếng thở dài não ruột của cô và rất nhiều lần tôi thấy tất cả các loại lá xanh trên đời, không chỉ là lá trúc đào, ánh lên một mầu xanh độc địa khiến tôi không làm sao chịu nổi. Mục lục Lá trúc đào Lá trúc đào phạm thanh hàChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
phạm thanh hà Lá trúc đào Nếu một ngày nào đó, tôi gặp lại cô gái ấy, dù cô là ai và như thế nào, tôi cũng sẽ vô cùng biết ơn cô vì nhờ gặp lại cô, tôi đã cất được một gánh nặng suốt bao năm qua. Nhưng bởi vì tôi đã hoài công tìm kiếm suốt bao năm qua mà vẫn không gặp cô, nên gánh nặng của tôi vẫn còn đấy. Cái gánh nặng ấy, nó không sinh ra từ một niềm ân hận, hay một mặc cảm tội lỗi nào. Tôi chẳng phải một kẻ chưa từng phạm tội hay chưa từng ăn năn bao giờ, nên tôi biết rằng cả hai cái ấy đều có thể bớt dần theo thời gian như bát nước nóng có thể nguội dần. Còn gánh nặng của tôi mãi cứ đè nặng lên tâm trí tôi - cô gái mà tôi chỉ thoáng thấy một lần, một lần duy nhất trong đời là người làm cho tôi bị ám ảnh lâu hơn hết so với những người con gái khác. Tôi biết sẽ không ai kết án tôi vì chuyện này. Không ai hết, ngoài tôi. Một buổi sáng rất đẹp của một ngày đầu mùa hè. Khi ấy tôi đang là phóng viên tập sự của một đài phát thanh và có việc phải sang mấy huyện ngoại thành vì một công tác gì đó. Tôi ra đi từ sáng sớm. Đường phố chưa có mấy người đi lại, không khí thanh sạch và dịu dàng đến tuyệt vời. Tôi chọn con đường dọc theo một bức thành cổ có nhiều cây ở hai bên. Có những thời khắc thật ngắn ngủi trong một ngày để tận hưởng niềm hạnh phúc được sống trong yên tĩnh. Đúng vào lúc ý nghĩ ấy đi qua đầu tôi, tôi trông thấy cô gái ấy. Cô đang rướn mình lên để níu lấy một cành lá xanh ở một cây ven đường. Cô còn rất trẻ và mảnh mai, tóc dài xòa ngang lưng, bộ quần áo trắng muốt, những ngón tay nhỏ nhắn hái những chiếc lá non, đã có một nắm lá trong tay cô. Trong buổi mai yên tĩnh, vòm cây khẽ lay động như để xua đi những giấc mơ còn đang quanh quẩn và chuẩn bị sáng lên trong những tia nắng mới non nớt. Những chùm hoa rực rỡ đầu cành rung động theo tay cô gái. Toàn bộ hình ảnh ấy đẹp đến nỗi tôi sững sờ và đi chậm lại. Tôi tiếc mình không phải nhiếp ảnh gia hay họa sĩ, bởi sự tương phản của mầu sắc, từ bộ quần áo trắng muốt đến cành lá mầu xanh biếc, những chùm hoa hồng rực, bức tường cổ rêu phong và nhất là hình dáng mảnh mai yêu kiều của cô gái, tất cả tạo nên một bức tranh đẹp và hoàn chỉnh. Về sau này mỗi khi hình dung lại bức tranh ấy, những chi tiết của tôi có lẫn lộn đôi chút. Bộ quần áo của cô đôi khi không phải màu trắng mà là màu vàng hoặc xanh nhạt, mái tóc cô không phải xõa ngang lưng mà chỉ chấm đến vai. Nhưng mầu lục sẫm của những lá cây trong tay cô, sắc hồng rực rỡ của những chùm hoa ngang đầu cô thì không bao giờ thay đổi, chỉ có mỗi ngày một tươi hơn - cũng như nét mặt cô, mà đi một đoạn ngắn rồi tôi mới quay lại nhìn, trong ánh sáng đã rõ hơn đôi chút, nét mặt nhợt nhạt, không ạt chút sinh khí, tôi vẫn cứ giật mình mỗi lần nhớ lại. Cái mầu hoa cứ chói ngời lên ấy, đi thêm một đoạn nữa, tôi mới nhớ ra rằng nó là mầu hoa của cây trúc đào, những chiếc lá trong bàn tay nhỏ của cô là lá trúc đào. Và phải thêm một đoạn đường tiếp theo nữa, tôi mới nhớ rằng lá trúc đào là một thứ lá độc, ăn vào có thể chết người. Tôi choáng váng. Nét mặt không sinh khí của cô gái và nắm lá trúc đào, hai cái ấy cộng lại với nhau thành một điều thật kinh khủng. Tất cả những suy diễn của tôi hiện ra chỉ trong một vài phút. Đoạn đường tôi mới đi không đáng là bao và tôi có thể quay lại, để đến bên cô gái, hỏi han cô đôi điều để phán đoán của mình đúng hay sai. Nếu cần, tôi có thể giật lấy bó lá vứt đi, nếu cần nữa tôi sẵn sàng trở thành bạn, thành anh của cô, và nếu cần hơn nữa, tôi có thể đưa cô về nhà. Nếu tôi đã làm như thế, bao nhiêu năm nay tôi đã không phải cứ nghĩ mãi về cô. Đằng này, tôi lại ngần ngại và đạp xe đi như một cái máy. Ngã ba đầu tiên, tôi tự hỏi mình có nên quay lại không? Ngã tư tiếp theo, rồi đến chân cầu Long Biên, tôi vẫn tự hỏi mình có nên quay lại không? Qua cầu Long Biên là con dốc dài quanh co, hết cái dốc ấy, tôi không nghĩ là mình sẽ quay lại nữa. Tôi cố gắng nghĩ đến công việc, đến cái tin phải viết cho đài phát thanh. Nhưng buổi sáng của tôi đã bị độc bởi những ngọn lá trúc đào chẳng làm nổi một việc gì nữa cả, uống một ngụm nước cũng không xong. Quá trưa tôi trở về bằng con đường cũ. Cô gái không ở đấy nữa. Đường phố tấp nập. Cây trúc đào vẫn ở nguyên chỗ cũ, cây trúc đào có bao nhiêu lá, chẳng ai biết đã có một ít lá của nó bị hái đi lúc sáng nay. Tôi mong sao cho những gì đã trông thấy chỉ là ảo ảnh, nhưng mà lá trúc đào xanh quá, tôi không sao tự lừa dối được mình. Chiều hôm ấy, tôi lao đến nhà một người bạn là bác sĩ Bệnh viện Bạch Mai. Nó tưởng tôi ngớ ngẩn khi hỏi: - ở chỗ cậu hôm nay có ai phải cấp cứu vì ăn lá trúc đào không? - Không, chỉ có hai ca tự tử, một bằng thuốc trừ sâu, một bằng dây thừng... Không đợi nó nói hết câu, tôi lại lao về. Nhưng mà thành phố không phải chỉ có một Bệnh viện Bạch Mai, còn bao nhiêu bệnh viện khác. Tôi không thể thở phào ngay được mà cũng không thể đi khắp các bệnh viện được. Cái gánh nặng của tôi nặng hơn khi đêm tới. Đầu tiên, tôi tự mắng mình một cách thật khách quan, rằng mình chỉ lẩn thẩn và hay làm to chuyện. Biết đâu cô gái hái lá trúc đào vì một mục đích nào khác. Lạy trời, chắc hẳn lá trúc đào còn phải có nhiều công dụng khác tốt đẹp hơn cái khả năng gớm ghiếc kia của nó. Và biết đâu, cô gái lại chẳng đã nghĩ lại rồi. Tôi thử tưởng tượng ra cảnh cô chợt phá lên cười và thả từng chiếc lá trúc đào rơi lả tả xuống chân. Nhưng hễ tôi bắt đầu sử dụng đến trí tưởng tượng của mình thì khuôn mặt nhợt nhạt, không chút sinh khí của cô gái lại hiện lên, làm thắt cả tim tôi. Mỗi lúc cảm giác của tôi một đậm hơn lên, rằng đấy là khuôn mặt của một người đã chết, đã chết đau đớn, vật vã. Mà lẽ ra, tôi có thể ngăn chặn được cái chết ấy. Chỉ một cố gắng cỏn con của tôi thôi, không cần dùng đến lòng can đảm, chỉ cần đỡ ngần ngại, đỡ lười biếng đi trong một vài phút. Tôi biết chứ, một cô gái trẻ định tự tử, đấy là vì cô ta cô đơn, khốn khổ và tuyệt vọng đến cùng cực rồi, một bàn tay đưa ra lúc ấy cần thiết bao nhiêu, thế mà tôi đã quay đi. Quay đi sau khi khen cô ta đẹp và để cô ta chết... Đêm ấy, tôi thức trắng. Cô gái chỉ thoáng trông một lần trở nên có một gương mặt vô cùng ám ảnh và ngày càng quen thuộc với tôi. Tôi nghĩ đến cô nhiều hơn nghĩ đến mình. Suốt bao năm nay tôi vẫn tìm cô. Đôi khi, tôi lại thấy rất rõ ràng trước mặt những đường nét của thân hình mảnh mai đang vươn lên níu lấy một cành trúc đào trên cao. Rất nhiều đêm, trong tiếng gõ nhịp đều đặn và khô khốc của chiếc đồng hồ treo tường, tôi nghe thấy những tiếng thở dài não ruột của cô và rất nhiều lần tôi thấy tất cả các loại lá xanh trên đời, không chỉ là lá trúc đào, ánh lên một mầu xanh độc địa khiến tôi không làm sao chịu nổi. Mục lục Lá trúc đào Lá trúc đào phạm thanh hàChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
Khuyết Danh Lâm Sanh Xuân Nương Ngày xưa, quan tổng đốc Lâm Phụng huyện Châu Thai nổi tiếng hìên đức bao nhiêu thì phu nhân Lý Phi Nương mang tiếng độc ác bấy nhiêu. Khi quan tổng đốc qua đời, phu nhân cưới nàng Xuân Nương cho con trai là Lâm Sanh. Nhưng phu nhân không cho Lâm Sanh và Xuân Nương chung chăn gối bởi lẽ bà xem Xuân Nương như kẻ tôi đòi. Thương vợ, Lâm Sanh lén mẹ đi gặp Xuân Nương ở nhà sau để an ủi, thở than. Xuân Nương về làm dâu ở nhà họ Lâm đã ba năm mà chẳng có tin về, làm cho vợ chồng Tiều lão thêm lo lắng. Hai ông bà lặn lội xuống Châu Thai thăm con. Thấy vợ chồng Tiều lão nghèo, phu nhân ra chiều khinh rẻ, tiếp đón lạnh nhạt. Lúc lâu phu nhân mới cho Lâm Sanh dẫn Xuân Nương ra chào cha mẹ. Ông bà Tiều lão sững sờ, chết lặng khi thấy Xuân Nương tìêu tuỵ, quần áo tả tơi. Tiều lão đòi bắt con về, nhưng phu nhân nào có chịu… Không thể nào bắt Xuân Nương về được, vợ chồng Tiều lão lủi thủi ra về mà lòng già tan nát. Phu nhân tức giận quát hỏi: - Xuân Nương, mày đã nói hành nói tỏi gì với cha mẹ mày mà ổng bả làm dữ đòi dẫn mày về? - Xin mẹ tha thứ cho con, con đâu có dám. - Con kia, chớ có qua mặt bà, gia nhân đánh nó cho ta. Gia nhân nào dám cãi, đánh cho đến khi phu nhân hả giận thì Xuân Nương thịt nát xương tan. Trở về nhà, vợ chồng Tiều lão buồn bã, thương thân con trẻ gặp bà mẹ chồng độc ác. Bỗng một đêm đang ngủ, vợ chồng Tiều lão thấy Xuân Nương hiện về báo mộng: &quot;Cha mẹ ơi! Mẹ chồng con cho gia nhân đánh con tới chết rồi vùi xác con ngoài bờ ruộng. Con chỉ về thăm cha mẹ trong đêm dài giá lạnh mà thôi!&quot;. Ông bà Tiều lão chỉ kịp kêu lên: &quot;Xuân Nương con!...&quot; rồi ngồi bật dậy, ông bà nhìn nhau khóc ròng. Thương con bao nhiêu, càng giận phu nhân bấy nhiêu, con người sao quá hiểm sâu, độc ác. Vợ chồng Tiều lão làm cáo trạng lên huyện đường. Quan huyện đã nhận hối lộ của phu nhân nên xử ép vợ chồng Tiều lão: - Con gái ông bà lâm bệnh bất kỳ tử mà chết, chứ phu nhân họ Lâm thương con dâu không hết, giết chóc làm chi, ông bà nên bỏ qua đi. Không kêu oan đựơc ở cửa huyện đường, ông bà Tiều lão cương quyết đòi cáo trạng lên tiếp cửa trên… Lòng thương con thúc đẩy ông bà Tiều lão vựơt qua vạn dặm đầy nguy hỉêm, thẳng tới Trường An dâng cáo trạng lên vua. Xem xong, đức vua truyền cho toà tam pháp công đồng xét xử. Đức vua truyền gọi Lâm Sanh, buộc chàng khai sự thật. Phu nhân tội ác rõ ràng, đức vua quyền đem ra xử trảm để răn kẻ ác tâm. Động lòng hiếu tử, Lâm Sanh liều chết xông vào pháp trường cõng mẹ chạy thoát thân. Kiệt sức, Lâm Sanh té quỵ. Đốc tướng đem binh đuổi theo bắt đựơc, giải về trìêu. Đức vua nổi trận lôi đình, truyền đem phu nhân chém ngay, còn Lâm Sanh giam vào ngục tối chờ ngày xét xử. Vào một đêm trăng sáng, công chúa nhàn rỗi ra dạo vừơn hoa, bỗng thấy hào quang sáng rực từ ngục tối. Công chúa bàng hoàng kinh ngạc, cùng thế nữ đến tận nơi dò xét, thấy một trang thư sinh khôi ngô tuấn tú… Vào triều, công chúa tâu lại với phụ vương những điều kỳ lạ mới thấy. Nhà vua truyền quân hầu vào ngục đem Lâm Sanh tới hầu. Muốn thử tài thơ văn của Lâm Sanh, đức vua liền ra đề. Lâm Sanh nhận lấy tờ hoa tiên, đặt bút thảo thành chương đem dâng lên. Xem xong đức vua khen ngợi vô cùng. Đức vua ra lệnh ân xá và cho Lâm Sanh đựơc ứng thí. Lâm Sanh đỗ trạng nguyên đựơc gả công chúa. Được hiển đạt, Lâm Sanh về Châu Thai thăm nhà. Chàng thăm cố hương chưa đựơc bao lâu thì có Khâm sai đến triệu về kinh. Lúc qua trứơc mộ Xuân Nương, Lâm Sanh liền cúng hoa quả và khấn vái. Khâm sai lại giục giã lên đường, chàng đành gạt lệ ra đi. Lòng chung thuỷ của Lâm Sanh động đến trời cao. Xuân Nương nhập về với xác ở miễu đường chờ đợi sẽ được đoàn tụ với mẹ cha. Một hôm vợ chồng Tiều lão định xuống Trường An thăm Lâm Sanh. Đi một đoạn bỗng gặp một cô gái: - Lạ quá, tôi thấy con nhỏ này sao giống tạc con Xuân Nương đó ông? Ông cũng không tin, cho người giống con chớ con chết rồi làm sao sống lại đựơc. Nhưng Xuân Nương nhận ra cha mẹ, ôm lấy hai người mừng mừng tủi tủi. Vợ chồng Tiều lão xuống tới Trường An, liền đưa Xuân Nương vào dinh. Tiều lão thử Lâm Sanh: - Liễu Hoa em ruột Xuân Nương, nay chị đã qua đời xin thế cô em. Lâm Sanh nói: - Thưa nhạc phụ, một lời đã hẹn với Xuân Nương thì không khi nào con dám lỗi hẹn, để tủi lòng người đã khuất. Đây chính là vợ con. Tiều lão khen thầm Lâm Sanh quả là kẻ trượng phu son sắt một lòng. Xuân Nương cảm động kể hết sự tình. Hôm sau, Lâm Sanh đưa Xuân Nương vào bệ kiến đức vua tâu hết sự tình. Vua khuyên Lâm Sanh xử sao cho vẹn mối tình với Xuân Nương và công chúa. Nghĩ mình già yếu, đức vua chọn lấy ngày lành, truyền ngôi cho quốc trạng Lâm Sanh. Lâm Sanh phong cho Xuân Nương và công chúa là hoàng hậu ngang nhau. Mục lục Lâm Sanh Xuân Nương Lâm Sanh Xuân Nương Khuyết DanhChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ.Sưu tầm: Tuyết Liên Nguồn: Được bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 3 tháng 11 năm 2007
Noname Lam Sanh Xuan Nuong In the past, the governor Lam Phung of Chau Thai district was famous for his virtue, but his wife Ly Phi Nuong was also famous for her cruelty. When the governor passed away, his wife married Xuan Nuong to her son Lam Sanh. But the lady did not allow Lam Sanh and Xuan Nuong to sleep together because she saw Xuan Nuong as a servant. Feeling sorry for his wife, Lam Sanh secretly went to see Xuan Nuong at the backyard to comfort and lament her mother. Xuan Nuong has been a daughter-in-law in the Lam family for three years without any news, making Tieu and his wife even more worried. The couple went all the way to Chau Thai to visit their children. Seeing that Tieu and his wife were poor, the lady showed contempt and gave them a cold reception. After a while, the lady allowed Lam Sanh to take Xuan Nuong out to greet her parents. Old Mr. and Mrs. Tieu were stunned and dumbfounded when they saw Xuan Nuong in disrepair and her clothes in tatters. Elder Tieu wanted to take his child back, but his wife refused... Unable to bring Xuan Nuong back, Tieu and his wife walked away with broken hearts. The lady angrily shouted and asked: - Xuan Nuong, what did you say to your parents that he made you want to take you home? - Please forgive me, mother, I didn't dare. - That girl, don't cross her, the servants will beat her for me. If any servant dares to argue or beat her until the lady vents her anger, Xuan Nuong's flesh will be crushed to pieces. Returning home, Tieu and his wife were sad and felt sorry for their children when they met their cruel mother-in-law. Suddenly one night while sleeping, Mr. Tieu and his wife saw Xuan Nuong appear in a dream: "Dear parents! My mother-in-law had her servants beat me to death and then buried my body in the field. I only came back to visit my parents during the long night." It's just cold!". Mr. and Mrs. Tieu only had time to cry out: "Xuan Nuong!..." then sat up, they looked at each other and cried. The more I love my son, the more angry I am with my wife. She is so cruel and cruel. Elder Tieu and his wife filed a complaint with the district. The district official accepted the wife's bribe, so he forced Tieu and his wife to punish him: - Your daughter is suddenly sick and will die, but Mrs. Lam can't help but love her daughter-in-law, so why kill her, you should leave her alone. gone. Unable to complain at the district gate, Mr. and Mrs. Tieu were determined to bring the indictment to the next level... Compassion for their son motivated Mr. and Mrs. Tieu to travel thousands of dangerous miles, straight to Truong An to present the indictment to the king. After watching, the king ordered the court of the Three Laws to judge. The king called Lam Sanh and forced him to tell the truth. The lady's crime is clear, the king has the right to behead her as a deterrent to evil-minded people. Moved by filial piety, Lam Sanh risked his life and rushed into the execution ground to carry his mother and escape. Exhausted, Lam Sanh collapsed. The governor led his soldiers to chase after him, captured him, and brought him back to the village. The king became angry and ordered his wife to be beheaded immediately, while Lam Sanh was imprisoned in a dungeon awaiting trial. On a moonlit night, the princess was idly out gardening, when she suddenly saw a bright halo coming from the dungeon. The princess was shocked and surprised. She and her concubine went to investigate and saw a handsome and handsome scholar... At court, the princess told her father about the strange things she had just seen. The king ordered his soldiers to go to prison and bring Lam Sanh to serve him. Wanting to test Lam Sanh's poetic talent, the king immediately proposed a question. Lam Sanh received the paper of fairy flowers, put the pen into a chapter and presented it to him. After watching it, the king praised it immensely. The king ordered amnesty and allowed Lam Sanh to receive alms. Lam Sanh passed the poinsettia and was married to a princess. Having been enlightened, Lam Sanh returned to Chau Thai to visit home. Not long after he had visited his homeland, an envoy came to summon him back to the capital. When passing in front of Xuan Nuong's grave, Lam Sanh immediately offered fruits and flowers and prayed. The envoy again urged him to leave, so he had to wipe away his tears and leave. Lam Sanh's loyalty reaches to the heavens. Xuan Nuong returned with her body to the temple, waiting to be reunited with her parents. One day, Tieu and his wife planned to go to Truong An to visit Lam Sanh. Walking a little way, I suddenly met a girl: - That's strange, I see how this girl looks like Xuan Nuong's sculpture? He also did not believe that for someone like me, how could I come back to life if I died? But Xuan Nuong recognized her parents and hugged them both happily and sadly. Elder Tieu and his wife arrived at Truong An and immediately took Xuan Nuong to the palace. Elder Tieu tried Lam Sanh: - Lieu Hoa, Xuan Nuong's younger sister, now that I have passed away, I would like to take your place. Lam Sanh said: - Father-in-law, once I made an appointment with Xuan Nuong, I will never dare to break the promise and feel sorry for the deceased. This is my wife and children. Old man Tieu secretly praised Lam Sanh for being a single-minded man. Xuan Nuong was moved and told the whole story. The next day, Lam Sanh brought Xuan Nuong to the king's throne to tell him all about the situation. The king advised Lam Sanh to keep his relationship with Xuan Nuong and the princess intact. Thinking he was old and weak, the king chose an auspicious day and passed the throne to Lam Sanh. Lam Sanh crowned Xuan Nuong and the princess as equal queens. Table of contents Lam Sanh Xuan Nuong Lam Sanh Xuan Nuong AnonymousWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for following the entire story. Source: author: Nguyen Kim Vy. Collected by: Tuyet Lien Source: Uploaded by friend: Ct.Ly on: November 3, 2007
Người Kể Chuyện Ma phỏng dịch Lâu đài trên cát Tôi đang xây một tòa lâu đài trên cát và đây là tòa lâu đài lớn nhất trên bãi. Tôi ngồi ngắm nghía và dự tính khi nào uống hết ly trà này tôi sẽ tiếp tục, và chắc chắn tòa lâu đài trên cát của tôi sẽ lớn nhất thế giới.Trong khi tôi đang ngắm nghía công trình vĩ đại của mình thì hai người đàn bà đi tới. Tôi không nói gì với họ vì mẹ tôi vẫn bảo rằng tôi không biết ăn nói với thiên hạ, tuy nhiên tôi cảm thấy họ đang nhìn tôi. Tới khi quay lại, tôi mới biết là họ đang nhìn tòa lâu đài. Người đàn bà trẻ hơn đột nhiên run lên dù trời không lạnh, mặt mày bà có vẻ hoảng hốt. Bà run rẩy nói với người kia:- Tòa lâu đài này kỳ cục quá, trông giống như..Người đàn bà lớn tuổi hơn bất lịch sự lắm vì bà ta ngắt ngang, không để người kia nói hết:- Đừng, cô đừng làm thằng nhỏ sợ. Cô chỉ tưởng tượng bậy bạ không à!Tôi nhìn quanh nhưng không thấy một đứa nhỏ nào trên bãi vì còn quá sớm. Rồi tôi nhớ tới &quot;thằng nhỏ&quot;. Có lẽ bà này cũng nói về nó. Thật là điều đáng ngạc nhiên vì tôi biết chắc là hai người này chưa gặp Ba tôi, và Ba tôi cũng nói về &quot;thằng nhỏ&quot; khi gây lộn với cậu Tám.Tôi nghe Ba tôi và cậu Tám cãi lộn vào tối hôm qua. Cậu Tám nói:- Tại sao anh không để &quot;thằng nhỏ&quot; được yên?Ba tôi trả lời:- &quot;Thằng nhỏ&quot; này là thằng khùng. Khi cái vụ nghỉ hè này kết thúc, tôi sẽ gởi nó đi chỗ khác. Tôi có nhiều việc cần xài hơn là chi phí cho một thằng khùng.Giọng nói của cậu Tám đột nhiên thay đổi, làm như cậu giận dữ lắm:- Hừ, anh nhất định làm bất cứ việc gì để hành hạ chị Sáu phải không?Chị Sáu là mẹ tôi. Cậu Tám gọi mẹ tôi là chị Sáu. Đôi khi cậu gọi mẹ tôi là chị và gọi một người nào đó là &quot;thằng đó&quot; mỗi khi mẹ tôi khóc. Tôi không biết &quot;thằng đó&quot; là ai mà chỉ biết là mẹ tôi khóc rất nhiều.Giọng Ba tôi cũng thay đổi:- Cậu hãy lo cho cái thân cậu đi là vừa. Tôi biết tại sao cậu cố tình lôi kéo tụi tôi vào cái trò nghỉ hè này. Cậu coi chừng là vừa đó, đừng tìm cách xía vào chuyện gia đình tôi.Tôi lẳng lặng bỏ đi chỗ khác. Tôi không thích nghe những gì những người lớn nói vì tôi không hiểu gì hết.Tôi không biết &quot;thằng nhỏ&quot; là ai. Rồi Ba tôi nói tại sao Ba tôi biết chúng tôi đi nghỉ hè. Việc này thì tôi cũng biết, để tắm biển và ăn cà rem chứ còn làm gì nữa. Khi tôi không còn nghĩ tới những gì xẩy ra vào tối hôm qua nữa, hai người đàn bà vẫn đứng nhìn tôi. Cái bà trẻ tuổi hơn lên tiếng:- Cậu bé, cậu có nghe tôi nói gì không? Lâu đài của cậu có lính gác và có cầu kéo hay không?Tôi đoán là bà ta nói với tôi vì bà đang nhìn tôi. Trên bãi không có &quot;cậu bé&quot; nào. Tôi nghĩ chắc tôi là &quot;cậu bé&quot;. Nhưng tôi không biết những chữ bà ta nói có nghĩa gì. Tôi không biết &quot;lính gác&quot; và &quot;cầu kéo&quot; là cái gì. Có nhiều thứ tôi không biết.Tôi nhìn bà ta mỉm cười, đưa nắm tay lên giả bộ như đang cầm ly trà:- Tôi đang nghỉ uống trà buổi sáng. Chừng nào nghỉ xong và uống hết ly trà này (tôi đưa nắm tay lên miệng, ngửa cổ uống ừng ực mấy hơi), tôi sẽ xây tường xung quanh lâu đài, xây một cái tháp và một cái cổng có gai nhọn nếu tôi kiếm được mấy cái cây.Hai người đàn bà cười ngặt nghẽo và nhắc lại &quot;nghỉ uống trà&quot; và &quot;cái cổng có gai nhọn&quot;. Rồi cái bà trẻ hơn cho tôi một đồng và nói là để cho tôi mua cà rem vì trà không tốt cho con nít.Khi họ đi rồi, tôi thắc mắc không hiểu họ muốn nói tới đứa con nít nào. Nếu tôi là &quot;cậu bé&quot; thì đứa &quot;con nít&quot; mà bà ta nói tới có lẽ là &quot;thằng nhỏ&quot;. Nhưng không sao, tôi phải đi mua cà rem cái đã.Tôi chạy vội lên quán mua một cây cà rem và ăn thật lẹ để lỡ đứa &quot;con nít&quot; có tới nơi, nó cũng không dành được của tôi nữa.Bờ thành của tôi rất chắc chắn vì được làm bằng cát ẩm. Lúc này nước xuống thấp, nhưng khi nước lên, tòa lâu đài của tôi chắc sẽ được nước đem xuống thủy cung. Nhưng tôi sẽ xây một tòa lâu đài thật lớn, lớn nhất thế giới, trước khi nước lên.Tôi không bao giờ nghĩ rằng Ba tôi lại để tôi làm như thế này.Hôm qua, chúng tôi đi dạo trên mấy kè đá. Ba tôi, mẹ tôi, cậu Tám và tôi.Bên ngoài một tiệm bán đồ mà cậu Tám nói là đồ kỷ niệm - tôi không biết kỷ niệm là gì - có rất nhiều những tấm hình nho nhỏ mà cậu Tám gọi là bưu thiếp - tôi cũng không biết cậu nói cái gì. Trên một tấm bưu thiếp, có hình một bà già và một thằng nhỏ đang đắp một đống cát thật lớn.Mẹ tôi đọc hàng chữ trên tấm hình cho tôi nghe: &quot;Nam, con làm gì ba con thế hả?&quot;.Cậu Tám cắt nghĩa cho tôi và tôi cười đã đời. Thằng nhỏ lấy cát phủ lên mình cha nó. Mẹ tôi cũng cười, vừa cười vừa liếc nhìn Ba tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy thích trò chơi này vì thấy mẹ tôi có vẻ thích.Tôi hỏi Ba tôi:- Con chơi phủ cát lên mình ba được không?Ba tôi trừng mắt:- Hừ! Trên xác chết của tao thì được!Cậu Tám nói:- Con len lén làm khi nào Ba con ngủ say là chắc ăn.Rồi mẹ tôi và cậu Tám cười. Tôi cười theo. Rồi Ba tôi cũng cười tuy có vẻ gượng gạo mà cả tôi cũng nhận thấy.Sáng nay tôi thức dậy sớm lắm. Tôi ngủ trong phòng cậu Tám trên một cái giường nhỏ ở góc phòng. Cậu Tám và Ba tôi đánh thức tôi dậy vì hình như hai người đang la hét, cãi nhau.Ba tôi nói:- Mày có giỏi thì ra ngoài kia. Tao không muốn thằng nhỏ nó thức rồi la hét rầm rĩ lên.Tôi không biết Ba tôi muốn nói tới thằng nhỏ nào. Tôi là người duy nhất ở đây.Cậu Tám đáp:- Đi đâu thì đi, thằng này sức mấy mà sợ thằng nào. Khi hai người kéo nhau ra ngoài, tôi len lén đi theo mà cả hai không biết. Hai người dẫn nhau ra bãi biển - nhà trọ của chúng tôi ở ngay bờ biển - vừa đi vừa la hét om xòm. Ngoài bãi không một bóng người, chỉ có chúng tôi. Rồi Ba tôi và cậu Tám giả vờ đánh lộn trong khi tôi núp sau một bụi cây nhỏ theo dõi.Tôi rất thích chơi trò đánh lộn và biết cậu Tám đánh lộn giả vờ rất giỏi.Cậu thường nói &quot;Ta giết nhà ngươi&quot; trước khi ném tôi lên giường rồi lấy mền đè lên khiến tôi gần ngộp thở. Tới khi tôi chịu thua hoặc giả chết cậu mới cười ha hả giở mền lên cho tôi.Bây giờ trên bãi, Ba tôi giả vờ đấm vào mặt cậu Tám, cậu Tám giả vờ tránh, rồi giả vờ đấm lại vào mặt Ba tôi. Hai bên giả vờ đấm qua đấm lại bốp bốp mấy cái thì đột nhiên tôi thấy Ba tôi lảo đảo.Cậu Tám bước tới giả vờ đấm một cái thật mạnh nghe đánh chát một cái. Ba tôi giả vờ té xuống rồi giả vờ nằm yên.Cậu Tám bỏ đi. Cậu đi ngang bụi cây tôi đang núp. Tôi thấy cậu có vẻ giận dữ lắm.Tôi giơ tay vẫy nhưng cậu giả vờ không thấy, bỏ đi luôn. Tôi nghĩ chắc cậu giận cả tôi.Tôi tới coi Ba tôi thì thấy Ba tôi nằm nghiêng và đang ngủ thật say. Tôi vừa lay ba tôi vừa nói:- Ba ơi! Ba nằm đó bị cảm lạnh chết đó.Tôi nhớ mẹ tôi vẫn nói với tôi điều này. Nhưng Ba tôi ngủ say quá nên không thèm để ý tới những gì tôi nói. Tôi nhìn thật sát mặt Ba tôi thì thấy đôi mắt Ba tôi nhắm nghiền, trên mặt có mấy vết bầm mà tôi không thấy vào tối hôm trước.Tôi chợt nghĩ tới tấm hình gì đó, và tấm bưu phiếu, có thằng nhỏ đang lấy cát phủ lên mình cha nó. Rồi tôi nhớ lời cậu Tám nói &quot;Con len lén làm khi nào Ba con ngủ say là chắc ăn&quot;.Bây giờ Ba tôi đang ngủ say, tôi phủ cát lên mình Ba tôi là chắc ăn. Tôi nghĩ rằng cái trò phủ cát này chắc chắn phải hay ho lắm, nếu không Mẹ tôi và cậu Tám đâu có cười.Tôi rất muốn làm cho mẹ tôi cười. Mẹ tôi ít khi cười lắm, chỉ khóc nhiều thôi. Và Ba tôi làm mẹ tôi khóc đó. Tôi bèn len lén lấy một chút cát ướt phủ nhè nhẹ lên chân Ba tôi. Ba tôi vẫn nằm yên. Rồi tôi lấy cát phủ từ từ lên đùi, lên bụng, lên ngực, lên cổ.Tôi biết Ba tôi ngủ say lắm vì khi tôi lấy cát phủ kín lên mặt Ba tôi như trong tấm bưu thiếp - có phải là bưu thiếp không, tôi quên chữ này rồi - Ba tôi cũng vẫn nằm yên.Tôi không biết Ba tôi ngủ thật hay giả vờ ngủ để cho tôi chơi trò phủ cát. Có lẽ Ba tôi ngủ thật vì chưa bao giờ Ba tôi cho tôi làm bất cứ điều gì tôi muốn. Hôm nay là lần đầu tiên tôi được phép chơi trò xây lâu đài xác chết. Tôi chỉ mới nghĩ ra chữ lâu đài xác chết khi nhớ lại lời Ba tôi nói &quot;Trên xác chết của tao thì được&quot;.Tôi cố gắng đắp thật nhiều cát ẩm lên mình Ba tôi. Tôi nhất định xây một toà lâu đài xác chết lớn nhất thế giới. Chắc mẹ tôi và cậu Tám sẽ thích lắm. Lúc nào xây xong, tôi sẽ chạy lên gọi mẹ tôi và cậu Tám xuống coi trước khi nước cuốn tòa lâu đài xác chết của tôi về thủy cung.Và tôi tiếp tục đắp thật nhiều cát lên mình Ba tôi. Tòa lâu đài của tôi sẽ là tòa lâu đài bằng cát lớn nhất thế giới. Bây giờ nó đã lớn nhất trên bãi này rồi và mỗi lúc một lớn hơn tới lúc nước lên...Và tôi tiếp tục xây toà lâu đài xác chết thật say sưa... Mục lục Lâu đài trên cát Lâu đài trên cát Người Kể Chuyện Ma phỏng dịchChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 17 tháng 11 năm 2010
Người Kể Chuyện Ma phỏng dịch Lâu đài trên cát Tôi đang xây một tòa lâu đài trên cát và đây là tòa lâu đài lớn nhất trên bãi. Tôi ngồi ngắm nghía và dự tính khi nào uống hết ly trà này tôi sẽ tiếp tục, và chắc chắn tòa lâu đài trên cát của tôi sẽ lớn nhất thế giới.Trong khi tôi đang ngắm nghía công trình vĩ đại của mình thì hai người đàn bà đi tới. Tôi không nói gì với họ vì mẹ tôi vẫn bảo rằng tôi không biết ăn nói với thiên hạ, tuy nhiên tôi cảm thấy họ đang nhìn tôi. Tới khi quay lại, tôi mới biết là họ đang nhìn tòa lâu đài. Người đàn bà trẻ hơn đột nhiên run lên dù trời không lạnh, mặt mày bà có vẻ hoảng hốt. Bà run rẩy nói với người kia:- Tòa lâu đài này kỳ cục quá, trông giống như..Người đàn bà lớn tuổi hơn bất lịch sự lắm vì bà ta ngắt ngang, không để người kia nói hết:- Đừng, cô đừng làm thằng nhỏ sợ. Cô chỉ tưởng tượng bậy bạ không à!Tôi nhìn quanh nhưng không thấy một đứa nhỏ nào trên bãi vì còn quá sớm. Rồi tôi nhớ tới &quot;thằng nhỏ&quot;. Có lẽ bà này cũng nói về nó. Thật là điều đáng ngạc nhiên vì tôi biết chắc là hai người này chưa gặp Ba tôi, và Ba tôi cũng nói về &quot;thằng nhỏ&quot; khi gây lộn với cậu Tám.Tôi nghe Ba tôi và cậu Tám cãi lộn vào tối hôm qua. Cậu Tám nói:- Tại sao anh không để &quot;thằng nhỏ&quot; được yên?Ba tôi trả lời:- &quot;Thằng nhỏ&quot; này là thằng khùng. Khi cái vụ nghỉ hè này kết thúc, tôi sẽ gởi nó đi chỗ khác. Tôi có nhiều việc cần xài hơn là chi phí cho một thằng khùng.Giọng nói của cậu Tám đột nhiên thay đổi, làm như cậu giận dữ lắm:- Hừ, anh nhất định làm bất cứ việc gì để hành hạ chị Sáu phải không?Chị Sáu là mẹ tôi. Cậu Tám gọi mẹ tôi là chị Sáu. Đôi khi cậu gọi mẹ tôi là chị và gọi một người nào đó là &quot;thằng đó&quot; mỗi khi mẹ tôi khóc. Tôi không biết &quot;thằng đó&quot; là ai mà chỉ biết là mẹ tôi khóc rất nhiều.Giọng Ba tôi cũng thay đổi:- Cậu hãy lo cho cái thân cậu đi là vừa. Tôi biết tại sao cậu cố tình lôi kéo tụi tôi vào cái trò nghỉ hè này. Cậu coi chừng là vừa đó, đừng tìm cách xía vào chuyện gia đình tôi.Tôi lẳng lặng bỏ đi chỗ khác. Tôi không thích nghe những gì những người lớn nói vì tôi không hiểu gì hết.Tôi không biết &quot;thằng nhỏ&quot; là ai. Rồi Ba tôi nói tại sao Ba tôi biết chúng tôi đi nghỉ hè. Việc này thì tôi cũng biết, để tắm biển và ăn cà rem chứ còn làm gì nữa. Khi tôi không còn nghĩ tới những gì xẩy ra vào tối hôm qua nữa, hai người đàn bà vẫn đứng nhìn tôi. Cái bà trẻ tuổi hơn lên tiếng:- Cậu bé, cậu có nghe tôi nói gì không? Lâu đài của cậu có lính gác và có cầu kéo hay không?Tôi đoán là bà ta nói với tôi vì bà đang nhìn tôi. Trên bãi không có &quot;cậu bé&quot; nào. Tôi nghĩ chắc tôi là &quot;cậu bé&quot;. Nhưng tôi không biết những chữ bà ta nói có nghĩa gì. Tôi không biết &quot;lính gác&quot; và &quot;cầu kéo&quot; là cái gì. Có nhiều thứ tôi không biết.Tôi nhìn bà ta mỉm cười, đưa nắm tay lên giả bộ như đang cầm ly trà:- Tôi đang nghỉ uống trà buổi sáng. Chừng nào nghỉ xong và uống hết ly trà này (tôi đưa nắm tay lên miệng, ngửa cổ uống ừng ực mấy hơi), tôi sẽ xây tường xung quanh lâu đài, xây một cái tháp và một cái cổng có gai nhọn nếu tôi kiếm được mấy cái cây.Hai người đàn bà cười ngặt nghẽo và nhắc lại &quot;nghỉ uống trà&quot; và &quot;cái cổng có gai nhọn&quot;. Rồi cái bà trẻ hơn cho tôi một đồng và nói là để cho tôi mua cà rem vì trà không tốt cho con nít.Khi họ đi rồi, tôi thắc mắc không hiểu họ muốn nói tới đứa con nít nào. Nếu tôi là &quot;cậu bé&quot; thì đứa &quot;con nít&quot; mà bà ta nói tới có lẽ là &quot;thằng nhỏ&quot;. Nhưng không sao, tôi phải đi mua cà rem cái đã.Tôi chạy vội lên quán mua một cây cà rem và ăn thật lẹ để lỡ đứa &quot;con nít&quot; có tới nơi, nó cũng không dành được của tôi nữa.Bờ thành của tôi rất chắc chắn vì được làm bằng cát ẩm. Lúc này nước xuống thấp, nhưng khi nước lên, tòa lâu đài của tôi chắc sẽ được nước đem xuống thủy cung. Nhưng tôi sẽ xây một tòa lâu đài thật lớn, lớn nhất thế giới, trước khi nước lên.Tôi không bao giờ nghĩ rằng Ba tôi lại để tôi làm như thế này.Hôm qua, chúng tôi đi dạo trên mấy kè đá. Ba tôi, mẹ tôi, cậu Tám và tôi.Bên ngoài một tiệm bán đồ mà cậu Tám nói là đồ kỷ niệm - tôi không biết kỷ niệm là gì - có rất nhiều những tấm hình nho nhỏ mà cậu Tám gọi là bưu thiếp - tôi cũng không biết cậu nói cái gì. Trên một tấm bưu thiếp, có hình một bà già và một thằng nhỏ đang đắp một đống cát thật lớn.Mẹ tôi đọc hàng chữ trên tấm hình cho tôi nghe: &quot;Nam, con làm gì ba con thế hả?&quot;.Cậu Tám cắt nghĩa cho tôi và tôi cười đã đời. Thằng nhỏ lấy cát phủ lên mình cha nó. Mẹ tôi cũng cười, vừa cười vừa liếc nhìn Ba tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy thích trò chơi này vì thấy mẹ tôi có vẻ thích.Tôi hỏi Ba tôi:- Con chơi phủ cát lên mình ba được không?Ba tôi trừng mắt:- Hừ! Trên xác chết của tao thì được!Cậu Tám nói:- Con len lén làm khi nào Ba con ngủ say là chắc ăn.Rồi mẹ tôi và cậu Tám cười. Tôi cười theo. Rồi Ba tôi cũng cười tuy có vẻ gượng gạo mà cả tôi cũng nhận thấy.Sáng nay tôi thức dậy sớm lắm. Tôi ngủ trong phòng cậu Tám trên một cái giường nhỏ ở góc phòng. Cậu Tám và Ba tôi đánh thức tôi dậy vì hình như hai người đang la hét, cãi nhau.Ba tôi nói:- Mày có giỏi thì ra ngoài kia. Tao không muốn thằng nhỏ nó thức rồi la hét rầm rĩ lên.Tôi không biết Ba tôi muốn nói tới thằng nhỏ nào. Tôi là người duy nhất ở đây.Cậu Tám đáp:- Đi đâu thì đi, thằng này sức mấy mà sợ thằng nào. Khi hai người kéo nhau ra ngoài, tôi len lén đi theo mà cả hai không biết. Hai người dẫn nhau ra bãi biển - nhà trọ của chúng tôi ở ngay bờ biển - vừa đi vừa la hét om xòm. Ngoài bãi không một bóng người, chỉ có chúng tôi. Rồi Ba tôi và cậu Tám giả vờ đánh lộn trong khi tôi núp sau một bụi cây nhỏ theo dõi.Tôi rất thích chơi trò đánh lộn và biết cậu Tám đánh lộn giả vờ rất giỏi.Cậu thường nói &quot;Ta giết nhà ngươi&quot; trước khi ném tôi lên giường rồi lấy mền đè lên khiến tôi gần ngộp thở. Tới khi tôi chịu thua hoặc giả chết cậu mới cười ha hả giở mền lên cho tôi.Bây giờ trên bãi, Ba tôi giả vờ đấm vào mặt cậu Tám, cậu Tám giả vờ tránh, rồi giả vờ đấm lại vào mặt Ba tôi. Hai bên giả vờ đấm qua đấm lại bốp bốp mấy cái thì đột nhiên tôi thấy Ba tôi lảo đảo.Cậu Tám bước tới giả vờ đấm một cái thật mạnh nghe đánh chát một cái. Ba tôi giả vờ té xuống rồi giả vờ nằm yên.Cậu Tám bỏ đi. Cậu đi ngang bụi cây tôi đang núp. Tôi thấy cậu có vẻ giận dữ lắm.Tôi giơ tay vẫy nhưng cậu giả vờ không thấy, bỏ đi luôn. Tôi nghĩ chắc cậu giận cả tôi.Tôi tới coi Ba tôi thì thấy Ba tôi nằm nghiêng và đang ngủ thật say. Tôi vừa lay ba tôi vừa nói:- Ba ơi! Ba nằm đó bị cảm lạnh chết đó.Tôi nhớ mẹ tôi vẫn nói với tôi điều này. Nhưng Ba tôi ngủ say quá nên không thèm để ý tới những gì tôi nói. Tôi nhìn thật sát mặt Ba tôi thì thấy đôi mắt Ba tôi nhắm nghiền, trên mặt có mấy vết bầm mà tôi không thấy vào tối hôm trước.Tôi chợt nghĩ tới tấm hình gì đó, và tấm bưu phiếu, có thằng nhỏ đang lấy cát phủ lên mình cha nó. Rồi tôi nhớ lời cậu Tám nói &quot;Con len lén làm khi nào Ba con ngủ say là chắc ăn&quot;.Bây giờ Ba tôi đang ngủ say, tôi phủ cát lên mình Ba tôi là chắc ăn. Tôi nghĩ rằng cái trò phủ cát này chắc chắn phải hay ho lắm, nếu không Mẹ tôi và cậu Tám đâu có cười.Tôi rất muốn làm cho mẹ tôi cười. Mẹ tôi ít khi cười lắm, chỉ khóc nhiều thôi. Và Ba tôi làm mẹ tôi khóc đó. Tôi bèn len lén lấy một chút cát ướt phủ nhè nhẹ lên chân Ba tôi. Ba tôi vẫn nằm yên. Rồi tôi lấy cát phủ từ từ lên đùi, lên bụng, lên ngực, lên cổ.Tôi biết Ba tôi ngủ say lắm vì khi tôi lấy cát phủ kín lên mặt Ba tôi như trong tấm bưu thiếp - có phải là bưu thiếp không, tôi quên chữ này rồi - Ba tôi cũng vẫn nằm yên.Tôi không biết Ba tôi ngủ thật hay giả vờ ngủ để cho tôi chơi trò phủ cát. Có lẽ Ba tôi ngủ thật vì chưa bao giờ Ba tôi cho tôi làm bất cứ điều gì tôi muốn. Hôm nay là lần đầu tiên tôi được phép chơi trò xây lâu đài xác chết. Tôi chỉ mới nghĩ ra chữ lâu đài xác chết khi nhớ lại lời Ba tôi nói &quot;Trên xác chết của tao thì được&quot;.Tôi cố gắng đắp thật nhiều cát ẩm lên mình Ba tôi. Tôi nhất định xây một toà lâu đài xác chết lớn nhất thế giới. Chắc mẹ tôi và cậu Tám sẽ thích lắm. Lúc nào xây xong, tôi sẽ chạy lên gọi mẹ tôi và cậu Tám xuống coi trước khi nước cuốn tòa lâu đài xác chết của tôi về thủy cung.Và tôi tiếp tục đắp thật nhiều cát lên mình Ba tôi. Tòa lâu đài của tôi sẽ là tòa lâu đài bằng cát lớn nhất thế giới. Bây giờ nó đã lớn nhất trên bãi này rồi và mỗi lúc một lớn hơn tới lúc nước lên...Và tôi tiếp tục xây toà lâu đài xác chết thật say sưa... Mục lục Lâu đài trên cát Lâu đài trên cát Người Kể Chuyện Ma phỏng dịchChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: bạn: Thanh Vân đưa lên vào ngày: 17 tháng 11 năm 2010
nhiều tác giả Lãnh Tạo Ngày xưa, tại làng Tuần Lễ, huyện Hương Sơn ở Nghệ An, có một người tên là Lãnh Tạo, học hành tài giỏi, nghề văn chương võ đều hay, tính tình phóng túng khác thường. Lãnh Tạo khinh thường vua quan, một lần bị bắt cầm tù về tội phạm thượng, anh ta bẻ xiềng leo thành vược ngục. Sau đó Lãnh Tạo tụ tập nhiều người, lập thành cơ ngũ riêng, lấy Truông Mây làm căn cứ để tung hoành ngang dọc.Thuở ấy vào thời vua Minh Mạng, triều đình sai Thượng công Lê Văn Duyệt ra làm Tổng Trấn Nghệ An dẹp quân Lãnh Tạo. Lê Văn Duyệt không bắt nổi Lãnh Tạo mới ra yết thị cho ai bắt được Lãnh Tạo là người có vết ta đỏ ở tai thì được thưởng một trăm lạng vàng và phong tước quan.Nghe vậy Lãnh Tạo mới sửa soạn quân gia giả làm Thanh Tra triều đình đi dò xét các tỉnh, kéo cờ đỏ đề chữ &quot;Phụng mạng khâm sai&quot; đi thẳng vào tỉnh đường Nghệ An, có binh sĩ bồng súng vác gươm theo hầu.Lê Văn Duyệt được tin đội hầu vào báo vội vã ra tiếp kiến. Lãnh Tạo nắm tay Lê Văn Duyệt hỏi: &quot;Quan Thượng có biết Lãnh Tạo là ai không? Lãnh Tạo chính là tôi đây, có vết đỏ ở tai đây. Vậy tôi có tội gì mà yết thị bắt tôi? Nay tôi về đây cho mà biết mặt, ông tính làm sao thì tính đi&quot;? Lê Văn Duyệt bèn dụ, nói: &quot;Ta đến xứ này ai ai cũng đều chịu phục, chỉ một mình ngươi là không, nên ta mới sai bắt. Nhưng thôi bây giờ nhà ngươi đã ra mặt thì ta ban cho một trăm lạng vàng, ba trăm lạng bạc, đừng có chống lại triều đình nữa, kết nghĩa anh em với ta, rồi ta tâu với vua tha tội cho, và phong cho làm quan nữa&quot;. Lãnh Tạo đáp: &quot;Vàng bạc thì nhận, còn làm quan thì xin cám ơn thôi. Ông phái một trăm lính đưa tôi về rừng&quot;.Lê Văn Duyệt sợ bị giết đành phải cho lính đi. Nghĩ tức giận mắc mưu Lãnh Tạo, cho là lỗi tại quân canh ơ hờ, Lê Văn Duyệt bắt đội hầu quân canh đem chém hết, rồi phái người đi tìm bắt vợ và mẹ Lãnh Tạo.Bắt được rồi, Lê Văn Duyệt sai làm cái lầu cao ba trăm thước, để mẹ và vợ Lãnh Tạo ở trên đó, có ý cho Lãnh Tạo trông thấy, rồi gởi thư cho Lãnh Tạo dụ về hàng, không thì mẹ và vợ sẽ bị chết chém. Lãnh Tạo được thư, nghĩ mình không về thì mẹ và vợ phải chết, nên đem quân về đầu.Đến trước cửa thành, nhìn thấy mẹ và vợ bị bắt làm con tin giữ trên lầu cao, Lãnh Tạo mới làm một bài phú, nói tài mình chọc trời quấy nước, mà chỉ vì thương mẹ nên mới ra đầu. Tổng trấn Lê Văn Duyệt đọc bài phú cho là xấc, lại nhớ đến mối hận thua trí Lãnh Tạo trước kia, bèn thừa cơ Lãnh Tạo giải giáp về hàng mà bắt chém đi. Xong rồi làm sớ tâu về triều đình gởi kèm theo bài phú của Lãnh Tạo. Vua Minh Mạng đọc qua bài phú xuống lệnh khiển trách Lê Văn Duyệt đã giết mất người tài giỏi, và phạt Tổng trấn mất nguyên bổng một năm. Mục lục Lãnh Tạo Lãnh Tạo nhiều tác giảChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: Hùng đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
many authors Lanh Tao Once upon a time, in Tuan Le village, Huong Son district in Nghe An, there was a man named Lanh Tao, who studied well, was good at literature and martial arts, and had an unusually liberal personality. Lanh Tao despised kings and mandarins. Once imprisoned for blasphemy, he broke the chains and climbed into prison. Afterwards, Lanh Tao gathered many people, formed a private army, and used Truong May as a base to launch his attacks horizontally and vertically. At that time, during the reign of King Minh Mang, the court sent Senior Duke Le Van Duyet to be the General Governor of Nghe An. Lanh Tao army. Le Van Duyet could not catch Lanh Tao so he announced that anyone who could catch Lanh Tao, the person with the red mark on his ear, would be rewarded with one hundred taels of gold and given the title of mandarin. Hearing this, Lanh Tao prepared his soldiers to pretend to be Thanh. The court went to investigate the provinces, raised a red flag with the words "Serve the people on duty" and went straight to Nghe An province, with soldiers carrying guns and swords following them. Le Van Duyet heard the news that the servant team had come in and rushed out. audience. Lanh Tao held Le Van Duyet's hand and asked: "Does Quan Thuong know who Lanh Tao is? Lanh Tao is me, there's a red mark on my ear. So what crime have I committed that you should arrest me? Now I'm coming back here for you." "If you know my face, what do you plan to do?" Le Van Duyet then seduced and said: "When I came to this land, everyone obeyed, but you were the only one who did not, so I arrested you. But now that you have appeared, I will give you a hundred taels of gold." , three hundred taels of silver, stop opposing the court, become brothers with me, then I will tell the king to forgive your sins, and make you an official again." Lanh Tao replied: "I accept gold and silver, but as an official, I just want to thank you. Send a hundred soldiers to take me back to the forest." Le Van Duyet was afraid of being killed so he had to send the soldiers away. Angry that he had fallen for Lanh Tao's trick, thinking that it was the guard's indifferent fault, Le Van Duyet captured the guards' servants and beheaded them all, then sent people to find and arrest Lanh Tao's wife and mother. Once caught, Le Van Duyet ordered them to do so. The building was three hundred meters high, leaving Lanh Tao's mother and wife up there, with the intention of letting Lanh Tao see them, and then sending a letter to Lanh Tao to convince him to surrender, otherwise his mother and wife would be beheaded to death. Lanh Tao received the letter, thinking that if he didn't return, his mother and wife would die, so he brought his army back. Arriving at the city gate, seeing his mother and wife being held hostage on a high floor, Lanh Tao made a poem, He said that his talent was to reach the sky and trouble the country, but it was only because he loved his mother that he came out on top. Governor Le Van Duyet read the article, calling it insolent. He remembered his previous hatred of losing to Lanh Tao, so he took the opportunity to disarm and surrender to Lanh Tao. After finishing, he wrote a note to the court and sent it along with Lanh Tao's poem. King Minh Mang read through the article and ordered to reprimand Le Van Duyet for killing a talented man, and punished the Governor to lose his salary for one year. Table of contents Lanh Tao Lanh Tao many authorsWelcome to read books from the book project for mobile devicesSource: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Posted by friend: Hung on: December 27, 2003
Trần Đại Lão Lão cũng làm bộ tịch mình sắp sửa ra phi trường đi thăm con. Lão xách túi lên nhìn quanh một vòng rồi nhắc nhở mấy người mướn chung nhà:_ Tôi đi trước, nếu có ai mở bếp lò lên thì nhớ tắt gas và nhớ đóng cửa sắt rồi hẵn đi!Cặp vợ chồng già đang ngồi trong bếp phàn nàn:_ Biết rồi, khổ quá, nói mãi, thế đi thăm con bao giờ về?Lão không nhìn thẳng mặt, trả lời:_ Tùy, ngày lễ Father-Day mà, con cháu dâu rể cả đàn, chúng dành đưa tôi đi đây, đi đó, khi nào chán thì về.Vừa lúc đó một ông già, cũng mướn một phòng ở chung nhà, xách cái túi Nike bước ra cửa hướng mắt về phía bếp, miệng to giọng miệt vườn:_ Tui đi nghen! dià thăm sắp nhỏ. Dé xe buýt của dợ chồng ông bà tui để trên bàn cà-phê.Rồi quay sang lão, ông ta nói:_Cha này đi máy bay sướng thiệt nghen! ăn ở có đức nên con cái nó hiếu thảo hén.Lão ngồi ở công viên chờ cho đến chiều mới xách túi quay về nhà. Những người mướn chung nhà đã đi khỏi. Mỗi năm vào các ngày lễ lớn họ đều đi bằng xe bus hoặc con cái lái xe tới đón về nhà chúng chơi. Lão mở cái cửa bây giờ thì như nặng ngàn cân rồi uể oải bước vào, lão gieo mình xuống nệm ghế.Sáng nay lão định thú thật với bạn bè là đã mấy năm rồi, con cái đã bỏ rơi, không ngó ngàng đến lão nữa nhưng cũng như năm trước lão không tài nào thú thật được.Có tiếng ho vọng ra từ phòng ông già miệt vườn. Lão giựt mình chống đầu gối đứng dậy mở cửa phòng. Cha già kia đang co quắp, chăn không đắp, nằm buồn xo tay còn đang ôm cái túi Nike.Ngoài sân trời cũng vừa nhá nhem tối . Mục lục Lão Lão Trần ĐạiChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Tác giả / VNthuquan - Thư viện OnlineĐược bạn: Ct.Ly đưa lên vào ngày: 13 tháng 1 năm 2009
Tran Dai Old man He also pretended that he was about to go to the airport to visit his child. He picked up his bag and looked around, then reminded the people who were renting the house:_ I'll go first, if anyone turns on the stove, remember to turn off the gas and close the iron door before leaving! The old couple was sitting in the kitchen. Complained:_ I know, it's too miserable, I keep talking, so when will I be able to come back from visiting my children? He didn't look straight at me and replied:_ It depends, it's Father's Day, all the children, grandchildren, and in-laws are there to take care of them. I go here, go there, when I get bored I come back. Just then an old man, also renting a room in the same house, carried a Nike bag and walked out the door, looking towards the kitchen, speaking in a loud voice: _ I'm going. Listen! The visit is about to be small. My grandparents and my husband's bus was on the coffee table. Then he turned to the old man and said: Dad, flying on a plane is so fun! Because of his virtuous behavior, his children were less filial. He sat in the park and waited until afternoon to pick up his bags and return home. The house's tenants have left. Every year on major holidays, they go by bus or their children drive to pick them up and take them home to play. He opened the door, which now felt like it weighed a thousand pounds. He lazily walked in. He threw himself down on the cushion. This morning, he was about to confess to his friends that for several years, his children had abandoned him and did not pay any attention to him. But like last year, he couldn't confess. There was a coughing sound coming from the old gardener's room. The old man jumped up on his knees and opened the door. The old man was curled up with no blanket, lying sadly with his hand still holding a Nike bag. Outside in the yard, it was just getting dark. Table of contents Old man Old man Tran DaiWelcome to read books from the book project for mobile devices. Source: author: Nguyen Kim Vy. Final words: Thank you for reading the entire story. Source: editor: Nguyen Kim Vy. Source: Author / VNthuquan - Online Library Posted by: Ct.Ly on: January 13, 2009