vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Bài làm
Bài “Bình Ngô đại cáo” của tác giả Nguyễn Trãi chính là một bản tuyên ngôn độc lập lần hai của nước ta, sau bài “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt trước đó. Bài thơ thể hiện tư tưởng khẳng định chủ quyền dân tộc của tác giả một cách rõ nét. Thể hiện sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta trước kẻ thù.
Bài thơ như một khúc ca bất diệt, thể hiện những chiến thắng vô cùng oanh liệt của dân ta trước kẻ thù hiểm nguy, khẳng định chủ quyền và nền độc lập của dân ta, với những câu thơ đầy khí phách hào hùng, thể hiện sự khẳng định của mình, với những bằng chứng xác thực nước Việt Nam là của nhân dân Việt Nam
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Trong hai câu thơ đầu này tác giả khẳng định nước ta có nền văn hiến, độc lập từ lâu không phải mới chỉ hình thành trong ngày một ngày hai để kẻ thù coi thường hống hách
Cũng giống như sự khẳng định của tác giả Lý Thường Kiệt rằng “Sông núi nước Nam vua nam ở”
Nếu như Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền bằng việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ thì Nguyễn Trãi lại khẳng định nền độc lập chủ quyền thông qua giá trị văn hóa, nền văn hiến, lập pháp, hành pháp của nước ta. Nó là một nền văn hiến có 4000 năm lịch sử có một quá trình hình thành oanh liệt.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Rồi tiếp trong những câu thơ sau tác giả đã khẳng định nền văn hiến của nước ta qua những thời kỳ khác nhau. Từ thời xa xưa chúng ta đã trải qua rất nhiều thời kỳ vua chúa, nền văn hiến dân tộc được khẳng định rất lâu từ thủa sơ khai lập quốc cho tới hôm nay thì đã có một quá trình phát triển vững mạnh.
Trung Hoa tuy là một đất nước lớn, có nền văn hiến riêng và hình thành khá lớn nhưng không phải vì thế mà chúng ta không có những nét phong tục tập quán của riêng mình. Chúng ta tuy là một nước nhỏ nhưng nền văn hóa của đất nước chúng ta cũng không kém cạnh gì nước bạn
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh”
Trong những lời thơ này tác giả Nguyễn Trãi muốn nhắc lại cho người đọc nhớ lại những hy sinh mà dân tộc ta phải đánh đổi để có được như ngày hôm nay. Chúng ta đã phải trải qua một quá trình hy sinh gian khổ đổ rất nhiều máu của người dân vô tội, mất rất nhiều công sức để giữ được nền độc lập này. Nhưng đó là một kết quả xứng đó nó được tạo bằng sự bền vững trong lịch sử. Nguyễn Trãi tự hào khẳng định những chiến công lẫy lừng đó đã làm cho đất nước chúng ta có được nền độc lập, thái bình, thịnh trị
“Âu cũng nhờ trời đất, tổ tông khôn thiêng
|
Assignment
The article "Binh Ngo Dai Cao" by author Nguyen Trai is our country's second declaration of independence, after the previous article "Nam Quoc Son Ha" by Ly Thuong Kiet. The poem clearly expresses the author's ideology of asserting national sovereignty. Demonstrating the territorial integrity of our nation before the enemy.
The poem is like an eternal song, expressing the extremely heroic victories of our people against dangerous enemies, affirming the sovereignty and independence of our people, with verses full of heroic spirit, poetic style. show his assertion, with evidence that confirms that Vietnam belongs to the Vietnamese people
“Like our Dai Viet country from before
Capital claims to be a long-standing civilization"
In these first two verses, the author affirms that our country has a long-standing culture and independence that was not just formed in a day or two for the enemy to look down on overbearingly.
Just like the assertion of author Ly Thuong Kiet that "Southern rivers and mountains live in the South"
If Ly Thuong Kiet affirmed sovereignty by asserting territorial sovereignty, Nguyen Trai affirmed independence and sovereignty through the cultural values, civilization, legislature, and executive system of our country. It is a civilization with 4,000 years of history and a glorious formation process.
“Tu Trieu, Dinh, Ly, and Tran built independence over many generations
Along with Han, Tang, Song, and Yuan, each side declared their own emperor."
Then, in the following verses, the author affirms our country's civilization through different periods. Since ancient times, we have gone through many periods of kings and kings. Our national civilization has been affirmed for a long time from the early days of the country's founding until today, and has had a strong development process.
Although China is a big country, has its own culture and is quite large, that doesn't mean we don't have our own customs and traditions. Although we are a small country, our country's culture is no less than your country's
“From now on, the society will be stable
Giang Son from here on innovates
Kien is smart but cunning
The sun and the moon repent but become clear again.
In these poetic words, author Nguyen Trai wants to remind readers of the sacrifices that our nation had to make to get where we are today. We have had to go through an arduous process of sacrifice, spilling a lot of innocent people's blood, and spending a lot of effort to maintain this independence. But it is a worthy result that is created by historical sustainability. Nguyen Trai proudly affirms that those glorious victories have made our country independent, peaceful, and prosperous.
“Europe also depends on heaven and earth, our ancestors are wise and sacred
|
Bài làm
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm Truyện Kiều là một tuyệt phẩm tạo nên tên tuổi của thi hào Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo của tác giả Nguyễn Du dành cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội.
Đoạn trích “Nỗi thương mình” nói về chuỗi ngày đau đớn thể hiện nước mắt của Thúy Kiều khi nàng bị nhân vật Sở Khanh lừa tình và bị bán thân vào chốn lầu xanh, dưới sự quản lý dẫn dắt của mụ Tú Bà chuyên kinh doanh kiếm lợi từ thân xác phụ nữ một cách ghê tởm. Trong những ngày tháng sống vẩn đục, ô nhục đó thông qua ngòi bút của mình tác giả Nguyễn Du đã viết lên những dòng thơ với những lời thương cảm vô cùng sâu sắc dành cho Thúy Kiều:
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Khổ thơ mở ra những hình ảnh về chốn ăn chơi, lả lơi ong bướm thể hiện đây là chốn phong lưu, đưa tình, một nơi không có chỗ cho tình yêu thật sự mà chỉ là chốn rong chơi, mua bán nụ cười giả tạo. Một chốn đưa người cửa trước rước người cửa sau của những cô gái làng chơi.
Những hình ảnh ước lệ “Cuộc chơi” “ong bướm” “dập dìu”.. khiến cho người đọc cảm nhận được sự nhộn nhịp, của chốn mua vui. Một nơi kinh doanh thân thể phụ nữ.
“Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
Giật mình, mình lại thương mình xót xa”
Trong không gian của chốn ăn chơi đàng điếm này Thúy Kiều cảm thấy xót xa cho thân phận của mình nàng là người xuất thân con gái nhà lành, được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng, bản chất lương thiện hiền lương, có đức hạnh, hiếu nghĩa. Có lẽ nằm mơ Thúy Kiều cũng không bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình lại lưu lạc phải sống kiếp phong trần của gái giang hồ như thế này. Bị bao nhiêu người con trai chà đạp, bị vần vò cả về thể xác lẫn tâm hồn.
Thúy Kiều sống mà phải mang nụ cười giả tạo, tiếng đàn để mua vui cho những gã đàn ông đốn mạt trốn vợ con đi tìm thú vui hưởng lạc, hoặc những tay công tử ăn chơi lắm tiền nhiều của nhưng ngu si hống hách, chỉ biết tiêu tiền của bố mẹ.
Trong không khí như vậy Thúy Kiều chỉ biết mượn rượu giải sầu. Nàng muốn uống cho quên đi tất cả quên ngày tháng, quên thời gian, quên đi cha mẹ già ở quê nhà, quên chàng Kim Trọng mà nàng đã hứa trọn tình bên nhau.
Nhưng rượu uống thì “say” lúc đó, nhưng khi tỉnh lại nàng lại thấy “Giật mình, mình lại thương mình xót xa”. Trong một câu thơ nhưng tác giả Nguyễn Du đã sử dụng tới ba chữ mình thể hiện trạng thái khác nhau. Trong hai từ ‘Giật mình” thể hiện một hành động bất ngờ trước sự vật sự việc nào đó. “Mình lại” thể hiện danh từ nhân xưng mình, em, tôi, tớ trong bất kỳ một câu nói nào đó
“Thương mình” thể hiện tình cảm cô liêu, sự cô độc một mình. Hành động này thể hiện sự cô đơn, sự chua chát của Thúy Kiều dành cho mình trong những ngày tháng chốn phong trần nhơ nhuốc này.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bất thân”
Không có ai hiểu nàng, không có ai xót xa cho thân phận của nàng nên Thúy Kiều tự mình thương mình. Nàng cảm thấy mình thật bất hạnh. Những cuộc vui chốc lát nhanh chóng tàn nhanh, rồi người cũng đi, chỉ còn lại sự quạnh quẽ cô liêu, chỉ còn nàng trong sự ủ ê chán chường. Một xã hội đầy bất công, nhơp nhuốc đã cướp đi hạnh phúc bình dị của một người con gái hiền lương đẩy nàng tới chốn này để rồi bị sống cảnh đời “vùi hoa dập liễu” cả thân xác và tâm hồn.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngân bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa
Trong chốn hồng trần ăn chơi sa đọa này Thúy Kiều không có người tâm sự không có bạn tri kỷ. Nên nàng chỉ biết bầu bạn với thơ ca, đàn nhị. Nhưng những tiếng đàn dường như ai oán hơn, những vần thơ đẫm nước mắt khiến cho nàng cảm thấy mình sống đây mà như đã chết lâu rồi. Trong những câu thơ này tác giả đã sử dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để khắc họa tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.
|
Assignment
Nguyen Du is a great national poet and a world cultural celebrity. The work The Tale of Kieu is a masterpiece that created the reputation of poet Nguyen Du. The Tale of Kieu demonstrates the humane spirit of author Nguyen Du for the fate of women in society.
The excerpt "My Pity" talks about a series of painful days expressing Thuy Kieu's tears when she was deceived by the character So Khanh and sold into prostitution, under the management and guidance of the businesswoman Tu Ba. disgusting business of profiting from women's bodies. During those tumultuous and disgraceful days, through his pen, author Nguyen Du wrote lines of poetry with extremely profound sympathy for Thuy Kieu:
“So many fluttering butterflies
The fun was full of laughter all night long
The wind blows the leaves and the bird branches
Take Tong Ngoc as soon as possible to find Truong Khanh."
The poem opens up with images of a place of entertainment and flirtation, showing that this is a place of luxury and love, a place with no place for real love but just a place to hang out and buy and sell fake smiles. . A place to pick people up at the front door and pick up people at the back door for prostitutes.
The conventional images of "Game", "butterflies", "fluttering"... make the reader feel the bustle, of a place of entertainment. A place that sells women's bodies.
“When I sober up, the watch ends
I was startled and felt sorry for myself.”
In the space of this place of debauchery, Thuy Kieu feels sorry for her fate. She is a daughter of a good family, her parents gave her a good education, her nature is kind and virtuous. , filial piety. Perhaps in her wildest dreams, Thuy Kieu never thought that one day she would be lost and have to live the life of a prostitute like this. Trampled by so many boys, tormented both physically and mentally.
Thuy Kieu lives with a fake smile and the sound of playing the piano to entertain despicable men who run away from their wives and children to seek pleasure and enjoyment, or rich, rich but arrogant, playboys. I only know how to spend my parents' money.
In such an atmosphere, Thuy Kieu can only borrow wine to relieve her sadness. She wanted to drink to forget everything, forget the dates, forget the time, forget her old parents back home, forget the guy Kim Trong to whom she had promised her love for each other.
But when she drank alcohol, she was "drunk" at that time, but when she woke up, she felt "startled, I felt sorry for myself." In one poem, author Nguyen Du used three words to express different states. The two words 'Started' express an act of surprise in front of something or event. “Me again” represents the personal noun yourself, you, me, me in any sentence
“Loving yourself” shows feelings of loneliness and loneliness. This action shows Thuy Kieu's loneliness and bitterness towards herself during these dirty days in this dirty place.
“When the wind and brocade stars are drooping
Now the stars are scattered like flowers in the middle of the road
The surface of the star is thick with wind and frost
Why do butterflies and bees get bored of being alone?
No one understood her, no one felt sorry for her fate, so Thuy Kieu felt sorry for herself. She felt very unhappy. The momentary fun quickly ended, then everyone left, leaving only loneliness and loneliness, only her in sadness and boredom. A society full of injustice and filth has robbed a gentle girl of her simple happiness, forcing her to this place where she will live a life of "burying flowers and burying willows" in both body and soul.
Asking for the wind is like a flower
Half a curtain of snow covered all four sides of the moon
Every scene is not sad
Sad scene where people have fun ever
Asking for lines to draw verses
The bow holds the moon and flags under the flowers
In this world of debauchery, Thuy Kieu has no one to confide in, no confidants. So she only knew how to keep company with poetry and the erhu. But the sounds of the piano seemed more plaintive, the poems filled with tears made her feel like she was alive but as if she had died a long time ago. In these verses, the author skillfully used the art of describing love scenes to portray the mood of the character Thuy Kieu.
|
Bài làm
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc ta. Tác phẩm Truyện Kiều của ông đã để lại nhiều tiếng vang lớn, thể hiện sự cảm thông của tác giả Nguyễn Du với những thân phận, những người phụ nữ tài sắc, hiền hậu, thủy chung nhưng bị xã hội vùi dập, chà đạp.
Qua tác phẩm người đọc có thể cảm nhận được tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu sắc của tác giả Nguyễn Du với những số phận con người trong xã hội phong kiến tồi tàn, thối nát, suy đồi về đạo đức và nhân cách.
Chính nguồn cảm hứng nhân đạo thấm đẫm giá trị nhân văn của tác phẩm Truyện Kiều đã có sức ảnh hưởng lớn lao tới những con người trong xã hội.Những con người có lương tri, có học thức cảm thấy thương cảm cho người con gái hồng nhan, đa tài mà phải chịu kiếp ba chìm bảy nổi, không có được hạnh phúc cho riêng mình, sống cuộc sống lưu vong nhiều sóng gió.
Qua tác phẩm Truyện Kiều người ta cảm nhận thấy tâm hồn tràn đầy tình yêu và lòng trắc ẩn của tác giả Nguyễn Du với nhân vật của mình là cô gái Thúy Kiều. Nguyễn Du với tình cảm của mình đã vẽ lên một nhân vật Thúy Kiều vô cùng hoàn mỹ, vẹn toàn về tài lẫn sắc, về hình thức lẫn tâm hồn.
Thúy Kiều là người con gái cho nhiều ưu điểm sống thủy chung tình nghĩa, biết thương yêu cha mẹ lo lắng cho các em, thủy chung với vị hôn thê. Một người con gái tốt đẹp như vậy xưa nay hiếm. Nhưng với tình yêu của mình tác giả Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều không còn lời nào có thể tuyệt vời hơn.
Tinh thần nhân đạo của tác giả thể hiện xuyên suốt bài thơ từ đầu tới cuối truyện, từ phẩm chất, nhân cách, ngoại hình, tài năng….Tác giả khát khao muốn mang tới cho người đọc một giá trị về sự hoàn mỹ.
Tác giả đã thấu hiểu nỗi khốn khổ hòa cảnh trôi nổi của một cô gái hồng nhan, thổi một chữ tình, vào nhân vật Thúy Kiều của chúng ta.
Thúy Kiều đã phải trải qua nhiều cay đắng, nhiều ê chề, tủi hổ trong cuộc sống lang bạt của mình. Nàng đã năm lần bảy lượt bị bán vào lầu xanh, nhưng nàng vẫn kiên cường, trong cảnh khó khăn như thế nào thì Thúy Kiều vẫn xót thương cho cha mẹ già yếu, xót xa cho người yêu của mình khi giờ đây đang cô đơn lẻ bóng. Nàng mơ có một cuộc sống bình dị, được làm vợ hiền con thảo sống bình thường như bao nhiêu người khác. Một mơ ước giản dị vô cùng nhưng đối với Thúy Kiều mơ ước đó thật viển vông, xa vời.
Sự cay đắng tủi nhục mà nhân vật Thúy Kiều của chúng ta đã trải qua trong suốt 15 năm lưu lạc chính là những lời xót xa, những giọt nước mắt cảm thông mà tác giả Nguyễn Du đã dành cho nàng.
|
Assignment
Nguyen Du is a great poet of our nation. His work The Tale of Kieu has left a great resonance, showing author Nguyen Du's sympathy for the fates of talented, gentle, and faithful women who are crushed and trampled by society. .
Through the work, readers can feel author Nguyen Du's profound humane and humanitarian spirit towards the fate of people in a shabby, corrupt, morally and personality-degrading feudal society.
It is the humanitarian inspiration imbued with human values of the work The Tale of Kieu that has had a great influence on people in society. Conscientious and educated people feel sympathy for the girl. Beautiful and multi-talented, she had to endure ups and downs, had no happiness of her own, and lived a turbulent life in exile.
Through the work The Tale of Kieu, people feel the soul full of love and compassion of author Nguyen Du towards his character, the girl Thuy Kieu. Nguyen Du with his feelings drew an extremely perfect character Thuy Kieu, complete in talent and beauty, in appearance and soul.
Thuy Kieu is a girl who has many advantages in living faithfully and lovingly, knowing how to love her parents and take care of her children, and being faithful to her fiancee. Such a nice girl has always been rare. But with his love, author Nguyen Du has described Thuy Kieu with no more wonderful words.
The author's humanitarian spirit is shown throughout the poem from beginning to end of the story, from qualities, personality, appearance, talent... The author desires to bring readers a value of perfection. .
The author understood the misery and misfortune of a beautiful girl and breathed the word love into our character Thuy Kieu.
Thuy Kieu had to go through a lot of bitterness, humiliation, and shame in her wandering life. She has been sold into prostitution five times seven times, but she is still resilient. No matter how difficult the situation is, Thuy Kieu still feels sorry for her elderly parents, and feels sorry for her lover who is now alone. odd. She dreams of having a simple life, being a good wife and having children, living normally like everyone else. A very simple dream, but for Thuy Kieu that dream is unrealistic and far-fetched.
The bitterness and humiliation that our character Thuy Kieu experienced during her 15 years of wandering are the words of sorrow and tears of sympathy that author Nguyen Du gave her.
|
Bài làm
Ngô Tất Tố là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực những năm trước và sau cách mạng tháng 4/1945. Ông cùng thời với nhiều nhà văn lẫy lừng khác như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đã để lại cho nền văn học nước nhà rất nhiều tác phẩm hay làm lay động trái tim người đọc.
Trong tác phẩm của ông thường chứa đựng nhiều giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Ông thường phản ánh số phận những người nông dân nghèo trong thời kỳ phong kiến phải chịu cảnh “Một cổ hai tròng”.
Tác phẩm Tắt đèn” là một tác phẩm điển hình phản ảnh hiện thực xã hội những năm trước và sau 1945. Khi nạn đói đang hoành hành tại Miền Bắc nước ta là chết 2 triệu người dân trên quê hương Việt Nam. Trong đó, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là đoạn trích vô cùng tiêu biểu thể hiện sự phản kháng của người nông dân trong cảnh khốn cùng. Nhân vật chị Dậu là một người nông dân khốn khổ, đại diện cho hàng triệu người nông dân Việt Nam trong giai đoạn đó.
Đoạn trích được bắt đầu khi mùa sưu thuế đang lên tới cao trào. Người nông dân quanh năm khốn khổ, lo cái ăn đã vô cùng vất vả, lại mất mùa triền miên, nhưng sưu thuế của quan lại thì không ngừng tăng khiến họ bị rơi vào hoàn cảnh bế tắc, túng quẫn.
Mở đầu trích đoạn là cảnh anh Dậu bị ốm, do trước đó anh bị quan binh trói giải đi vì không có tiền nộp thuế thân. Chị Dậu người phụ nữ của gia đình này trở thành trụ cột đã chạy vạy khắp nơi rồi đem những thứ của cải trong nhà có thể bán được đều bán hết, như đàn chó để đủ tiền nộp cho chồng về.
Anh Dậu về được người xanh xao gầy mòn vì bị đánh đập quá dã man, chị Dậu gom hết gạo trong nhà để nấu cho anh một bát cháo loãng húp cầm hơi. Nhưng khi anh Dậu đang chuẩn bị đưa bát cháo loãng vào mồm thì bọn quan lại, binh linh xộc vào nhà hất tung bát cháo rơi bắn tung tóe, và lăm lăm gậy, dây chạc để trói anh mang đi. Nguyên nhân là nhà anh còn thiếu thuế thân của người em trai anh Dậu đã chết từ năm ngoái, nay anh Dậu phải đóng hộ nếu không sẽ không xong với họ.
Đến người chết mà họ cũng thu thuế, điều này phản ánh sự bóc lột một cách tàn nhẫn tới tận xương tủy, người nông dân nghèo khổ, khốn khó. Chị Dậu thương chồng thương chồng đau yếu, nên lúc đầu chị hạ mình cầu xin bọn lính “Cháu xin ông… cháu van ông…., ông tha cho nhà cháu...”
Trong những câu nói này ta thấy sự chịu đựng, sự nhún nhường, nhẫn nhịn của người nông dân thấp cổ bé họng trước bọn quyền hành, bọn bóc lột.
Nhưng toán lính không tha cho chồng chị, chúng còn định nhăm nhe nhảy vào trói anh Dậu. Lúc này chị Dậu mới xô chúng xa ra khỏi chồng mình và nói “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ“. Điều này thể hiện sự phản kháng của chị Dậu, con giun xéo mãi cũng quằn chị đã cầu xin, xuống nước với chúng nhưng bọn chúng không tha, thì chị không cần nữa. Trong ngôn ngữ chị đã thay đổi chị không cần phải hạ mình với bọn mặt người dạ thú này nữa. Bọn chúng làm gì có lương tri nên có xin chúng cũng không tha. Chị xưng “tôi” với bọn chúng cho thấy chị đang tự xếp mình ngang hàng với chúng, không hề sợ sệt hay lùi bước trước uy quyền.
Trước những câu nói của chị Dậu càng khiến cho bọn lính hăng máu chúng xông tới quyết bắt bằng được anh Dậu đi vì thái độ hỗn hào của chị Dậu lúc này chị Dậu thể hiện quyền lực của mình, chị như con thú bị thương sẵn sàng giơ nanh vuốt với bất kỳ ai để bảo vệ gia đình người thân của mình. Chi sẵng giọng “Mày trói chồng bà, bà cho mày xem”
|
Assignment
Ngo Tat To is a typical writer of realistic literature in the years before and after the April 1945 revolution. He was at the same time as many other famous writers such as Nam Cao, Vu Trong Phung, and Ngo Tat To, who left behind many good works that touched the hearts of readers.
His works often contain many profound humane and humanitarian values. He often reflected on the fate of poor farmers in the feudal period who had to endure the situation of "one neck and two eyes".
"Lights Out" is a typical work reflecting social reality in the years before and after 1945. When famine was raging in the North of our country, 2 million people died in our homeland, Vietnam. In particular, the excerpt "The water broke the banks" is an extremely typical excerpt showing the resistance of farmers in dire circumstances. The character Ms. Dau is a miserable farmer, representing millions of Vietnamese farmers during that period.
The excerpt begins when tax collection season is reaching its climax. Farmers are miserable all year round, having to worry about food is extremely difficult, and there are constant crop failures, but the tax collection of officials is constantly increasing, causing them to fall into a deadlock and financial situation.
The excerpt begins with a scene where Mr. Dau is sick, because he was previously tied up and led away by soldiers because he did not have money to pay taxes. Ms. Dau, the woman of this family, became the breadwinner and ran everywhere and sold everything in the house that could be sold, like a pack of dogs, to have enough money to pay her husband home.
When Mr. Dau returned, he was pale and emaciated from being beaten so brutally. Ms. Dau gathered all the rice in the house to cook him a bowl of thin porridge to slow down his breathing. But when Mr. Dau was preparing to put the bowl of thin porridge into his mouth, the mandarins and soldiers rushed into the house, threw the bowl of porridge into the ground, and were armed with sticks and ropes to tie him up and take him away. The reason is that his family still owes the tax due to Mr. Dau's younger brother, who died last year. Now Mr. Dau has to pay for it, otherwise he will not be able to deal with them.
They also collect taxes on the dead, this reflects the cruel exploitation to the core of the poor and miserable farmers. Ms. Dau loved her sick husband, so at first she humbly begged the soldiers, "I beg you... I beg you..., please forgive my family..."
In these sayings we see the endurance, humility, and patience of the humble farmer before the authorities and exploiters.
But the soldiers did not spare her husband, they even intended to jump in and tie up Mr. Dau. At this time, Ms. Dau pushed them away from her husband and said, "My husband is sick, you are not allowed to torture him." This shows Ms. Dau's resistance, the worm kept writhing, she begged and went into the water with them but they did not let them go, so she didn't need it anymore. My language has changed so I don't have to condescend to these people and beasts anymore. They have no conscience, so even if they ask, they won't forgive them. She said "I" to them, showing that she was placing herself on the same level as them, not afraid or backing down from authority.
Ms. Dau's words made the soldiers even more excited, they rushed forward, determined to capture Mr. Dau because of Ms. Dau's arrogant attitude. At this time, Ms. Dau showed her power, she was like a wounded animal. Ready to show fangs and claws to anyone to protect his family and loved ones. Chi said in a cold voice, "If you tie up her husband, she will show you."
|
Bài làm
Ca dao, tục ngữ của Việt Nam vô cùng phong phú về hình tượng và nguồn cảm hứng. Nó thường là nơi gửi gắm tình cảm, ước vọng của người nông dân, những người phụ nữ quanh năm chân lấm tay bùn. Những câu ca dao khi đọc lên người nghe cảm nhận được nhiều cảm xúc, vừa nhẹ nhàng sâu lắng, vừa chân thật trữ tình.
Bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” là một bài ca dao khá nổi tiếng mà ông cha ta đã để lại. Nội dung thể hiện tình cảm của người con gái đang tới tuổi biết thầm thương, trộm nhớ một người bạn khác giới nào đó. Bài ca dao là tình cảm chân thành, giản dị, là tấm lòng thủy chung, son sắc của một cô gái gửi tới người đàn ông của đời mình.
Người phụ nữ xưa phải sống trong một xã hội vô cùng nhiều định kiến, nhiều lễ giáo. Việc người con gái nhỏ bé, thầm thương trộm nhớ một chàng trai nào đó là điều khó lòng có thể nói ra bằng lời. Bởi trong bối cảnh xã hội lúc đó thì không thể nào có chuyện “Cọc đi tìm trâu”.
Một người con gái ngoan ngoãn đức hạnh là người con gái mà số phận hạnh phúc của đời mình đều do người khác sắp đặt “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” không được cãi lời. Chính vì vậy, thời xưa có rất nhiều trường hợp những cô gái trẻ nhưng bị ép gả cho những người đàn ông lớn tuổi làm vợ hai, vợ ba…như nàng Tiểu Thanh trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du. Hay như cuộc đời bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương làm vợ ba của ông Tổng cóc.
Biết bao số phận, bao cuộc đời phụ nữ éo le, nhưng những người phụ nữ này chỉ là những thân phận thấp cổ bé họng “Thân em như hạt mưa sa. Hạt rơi xuống giếng hạt ra ngoài đồng”. Người con gái thời xưa không có quyền sống theo ý mình lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình.
Chính vì vậy, bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” mới ra đời để nói hộ tiếng lòng “Tương tư” của người con gái khi biết nhớ, biết thương:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.”
Tình yêu, sự nhớ nhung của một cô gái sống trong thời kỳ phong kiến thật là kín đáo. Tình cảm đó chỉ có thể gửi gắm qua một chiếc khăn tay, một kỷ vật trao vội của người thương. Hình ảnh chiếc khăn thương nhớ gắn liền với hình ảnh cô gái. Nỗi nhớ nhung của cô chỉ biết qua chiếc khăn mà thôi. Khi nhớ người thương cô lôi khăn ra nhìn ngắm, nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, thẫn thờ làm rơi khăn lúc nào không biết. Nhớ ai mà nước mắt rưng rưng dòng lệ, “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Hình ảnh chiếc khăn thương nhớ là kỷ vật thiêng liêng là lời hứa hẹn, vật định tình mà chàng trai đã trao cô gái. Nên khi nhớ người con gái chỉ còn biết nhìn vật mà nhớ người. Khi quá nhớ thương, thì nỗi sầu dâng cao trong lòng. Cô gái chỉ còn biết khóc và mong chờ tới một ngày được gặp chàng mà thôi.
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt “
Một người con gái khi yêu thì nhìn đâu cũng thấy nhớ, nỗi nhớ như hiện hữu trường trực trong tâm hồn người con gái. Nó khiến người con gái trở nên thao thức, trằn trọc đêm thâu mà không sao ngủ được. Trong cảnh đêm hoang vu và cô quạnh dường như nỗi nhớ càng trở nên mãnh liệt hơn. Cô gái nhìn ngọn đèn dầu mà cảm tưởng như ngọn đèn kia cũng đang thức cùng mình, đang cùng cô chia sẻ chung một nỗi nhớ.
“Mắt thương nhớ ai
Mắt không ngủ yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
|
Assignment
Vietnamese folk songs and proverbs are extremely rich in imagery and inspiration. It is often a place to convey the feelings and wishes of farmers and women who get their hands dirty all year round. When reading these folk songs, the listener feels many emotions, both gentle and profound, and lyrically honest.
The folk song "The handkerchief misses someone" is a quite famous folk song that our ancestors left behind. The content shows the feelings of a girl who is reaching the age of secretly loving and missing a friend of the opposite sex. The folk song is a sincere, simple sentiment, a girl's loyal and beautiful heart sent to the man of her life.
Ancient women had to live in a society with many prejudices and rituals. The fact that a small girl secretly loves a certain boy is something that is difficult to express in words. Because in the social context at that time, there could be no such thing as "Pile looking for buffalo".
An obedient and virtuous girl is a girl whose happy fate in her life is arranged by others. "Wherever you put me, I will sit there" and do not disobey. That's why, in ancient times, there were many cases of young girls being forced to marry older men as second or third wives... like Tieu Thanh in the poem "Doc Tieu Thanh ky" by Nguyen Du. Or like the life of Nom poet Ho Xuan Huong as the third wife of Mr. Toad.
There are so many destinies and miserable lives for women, but these women are just lowly statuses: "My body is like falling raindrops. The seeds fall into the seed well and out into the field." Girls in ancient times did not have the right to live as they wished and choose their own happiness.
That's why the folk song "Missing someone" was born to speak for the "Love" of a girl when she knows how to remember and love:
“I miss someone so much
The towel fell to the ground.
I miss someone so much,
Towel draped over shoulder.
I miss someone so much,
Towel to wipe away tears.”
The love and longing of a girl living in the feudal era is very discreet. That feeling can only be conveyed through a handkerchief, a hastily given souvenir from a loved one. The image of a scarf is closely associated with the image of a girl. Her longing is only known through the scarf. When she misses her loved one, she takes out the scarf to look at it. Missing someone, she becomes stunned and absent-mindedly drops the scarf without realizing it. Missing someone brings tears to my eyes, “What are you thinking about when you lean on the door and look far away?
The image of a scarf is a sacred souvenir, a promise, a token of love that the boy gave to the girl. So when she misses a girl, she can only look at things and miss people. When I miss you too much, sadness rises in my heart. The girl could only cry and look forward to the day she could meet him.
“The light misses someone
But the light doesn't turn off.
When a girl falls in love, she misses her everywhere. Nostalgia seems to exist permanently in the girl's soul. It makes the girl restless, tossing and turning all night without being able to sleep. In the desolate and lonely night scene, the nostalgia seems to become even more intense. The girl looked at the oil lamp and felt like the other lamp was also awake with her, sharing the same nostalgia with her.
“My eyes miss someone
Eyes do not sleep peacefully
Last night I was worried
Worrying about something that is not at peace."
|
Bài làm
Bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” là một bài thơ hay xúc động của tác giả Nguyễn Du. Thông qua bài thơ tác giả muốn thể hiện sự tiếc thương của mình với người con gái tài hoa bạc phận, thể hiện tinh thần nhân văn, nhân đạo của tác giả với nỗi đau của con người trong xã hội cũ.
Bài thơ xoay quanh nhân vật Tiểu Thanh Ký được lấy nguồn cảm xúc từ chuyện có thật về người con gái sống trong thời kỳ đầu của nhà Minh. Vì hoàn cảnh gia đình vô cùng nghèo khó nen nàng đã được cha mẹ gả vào một gia đình giàu có để làm vợ lẽ. Tuy nhiên, người vợ cả của ông chồng này vô cùng ghê gớm, vì ghen tuông nên bà ta đã cho nàng Tiểu Thanh sống tách biệt ở núi Cô Sơn.
Trong những năm tháng sống lặng lẽ cô đơn ở núi Cô Sơn người con gái này đã sáng tác nhiều bài thơ hay nhằm giải tỏa những phiền muộn trong lòng mình, rồi ít lâu sau nàng mắc bệnh qua đời khi tuổi đời còn rất trẻ. Sau khi nàng chết người vợ cả của chồng Tiểu Thanh đã đốt hết những sáng tác của nàng nhưng vẫn còn sót được một số bài. Tác giả Nguyễn Du cảm thương cho số phận tài hoa bạc mệnh của người con gái này nên đã viết một bài thơ tặng nàng.
Qua đây, tác giả Nguyễn Du muốn thể hiện tấm lòng bao dung của mình với những số phận người phụ nữ bị xã hội phong kiến vùi dập, đồng thời ông cũng tố cáo tội ác của xã hội cũ có nhiều bất công đẩy những người con gái tài hoa đến chỗ bạc mệnh. Mở đầu bài thơ Nguyễn Du gợi ra không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống:
“Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn”
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn” Hai câu thơ có sức ảnh hưởng tới tâm hồn người đọc một cách ghê gớm, thể hiện sự chuyển đổi tâm trạng cảm xúc của tác giả. Từ một nơi đẹp, hữu tình làm say đắm lòng người thì nay lại biến thành gò hoang, thể hiện sự cô liêu, đơn độc, vì một người con gái đã phải vui chôn tuổi xuân của mình, ở nơi đây.
Nàng đã ra đi trong khi hồn chứa đầy tâm sự, những dòng thơ nàng để lại thấm ướt toàn nước mắt. “Thổn thức bên song mảnh giấy tàn” những vần thơ của nàng viết ra đã bị người ta chà đạp, vùi dập không thương tiếc bị vứt bỏ đốt thành tro bụi, những xác giấy còn sót lại dường như cũng cảm thấy thổn thức cho thân phận người con gái tuổi xuân phơi phới, có tài có nhan sắc nhưng lại ra đi về nơi vĩnh hằng quá sớm.
“Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương”
Trong những câu thơ này tác giả thể hiện sự xót xa, cay đắng cho số phận của người con gái hồng nhan bạc mệnh. Sự xót xa của tác giả thể hiện trong những câu thơ nghẹn đắng lòng người. Ông nói lên sự siêu thoát của linh hồn. Hai từ son phấn chỉ tới nhan sắc người con gái xinh đẹp, dù có bị chà đạp thì vẫn còn tồn tại trong ký ức của người nhìn không thể mờ phai.
“Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang”
Trong hai câu thơ này thể hiện sự tuyệt vọng, nỗi sầu của tác giả khi không thể nào xoay chuyển được tình thế. Tác giả hỏi trời trời không trả lời, trách cho con người bạc bẽo nhưng, người không hiểu không hay. Nên cuối cùng Nguyễn Du chua chát nhận mọi nỗi buồn về mình, do quá đa sầu đa cảm, nên mang trong mình nỗi buồn thế sự.
“Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
|
Assignment
The poem "Doc Tieu Thanh Ky" is a touching poem by author Nguyen Du. Through the poem, the author wants to express his regret for the talented and unfortunate girl, expressing the author's humane and humanitarian spirit towards the pain of people in the old society.
The poem revolves around the character Tieu Thanh Ky, inspired by a true story about a girl who lived in the early Ming Dynasty. Because her family was extremely poor, her parents married her into a rich family as a concubine. However, this husband's first wife was extremely terrible. Out of jealousy, she let Tieu Thanh live separately on Co Son mountain.
During the years of living quietly and alone in Co Son mountain, this girl composed many beautiful poems to relieve the sadness in her heart, then shortly after she fell ill and passed away at a very young age. After she died, Tieu Thanh's husband's first wife burned all of her compositions but some of them still remained. Author Nguyen Du felt sorry for the unfortunate fate of this girl, so he wrote a poem for her.
Through this, author Nguyen Du wants to show his tolerance for the fate of women who were crushed by feudal society, and at the same time he also denounces the crimes of the old society with many injustices that pushed women Talented daughter comes to a fateful place. The beginning of Nguyen Du's poem evokes the space where Tieu Thanh used to live:
“The beautiful landscape of Tay Ho has turned into a wild mound
Sobbing next to the broken piece of paper"
Sobbing beside a piece of paper." These two lines of poetry have a tremendous impact on the reader's soul, demonstrating the change in the author's emotional mood. From a beautiful, charming place that captivated people's hearts, it has now turned into a deserted mound, expressing loneliness and loneliness, because a girl had to happily bury her youth here.
She passed away while her soul was filled with confidences, the lines of poetry she left behind were drenched in tears. "Sobbing beside the broken pieces of paper" the poems she wrote were trampled on, mercilessly crushed, thrown away and burned into ashes, the remaining pieces of paper also seemed to feel sobbing for them. The fate of a girl in her youth, talented and beautiful, but who left for eternity too early.
“Powder has the power to bury hatred
Literature that is not destined to be burned still lingers"
In these verses, the author expresses sadness and bitterness for the fate of the unfortunate girl. The author's sadness is expressed in his heart-wrenching poems. He speaks of the transcendence of the soul. The two words lipstick refer to the beauty of a beautiful girl, even if trampled upon, it still remains indelibly in the viewer's memory.
“Ancient and ancient anger is wise to ask
The sentence of exile is brought on by guests."
These two verses express the author's despair and sadness when he cannot turn the situation around. The author asked heaven and heaven did not answer, blaming people for being ungrateful, but people who do not understand are not good. So in the end, Nguyen Du bitterly accepted all the sadness about himself, because he was too sad and sentimental, so he carried the sadness of the world.
“I don't know in three hundred odd years
|
Bài làm
Bạch Đằng là con sông nổi tiếng gắn liền với những trận đánh lẫy lừng của quân ta trong kháng chiến chống quân xâm lược thời phong kiến. Đây cũng là con sông đi vào thơ ca Việt Nam với niềm tự hóa dân tộc vô cùng mạnh liệt.
Bài ” Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu thể hiện sự yêu mến tình cảm của tác giả dành cho con sông quyền lực này. Đây là một trong những bài phú vô cùng đặc sắc để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc dù đã qua nhiều thế hệ.
Tên nguyên tác lúc ban đầu của tác phẩm này chính là “Bạch Đằng giang phú” được Trương Hán Siêu viết bằng chữ hán, sau đó được rất nhiều dịch giả khác nhau dịch ra nhiều bản khác nhau. Tuy nhiên bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên là sát nghĩa nhất với văn bản gốc của tác phẩm
Trong phần mở đầu bài thơ tác giả đã miêu tả cảnh trên sông Bạch Đằng vô cùng hùng vĩ, tráng lệ, với những Cửu Giang, Tam Ngô, Ngũ Hổ…. thể hiện tâm hồn phóng khoáng của người lữ khách khi tới đây đứng trước cảnh núi sông hùng vĩ này:
“Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết”
Nhân vật lữ“khách” chính là tác giả của chúng ta Trương Hán Siêu. Khi ông vô tình đưa thuyền của mình tới nơi này, đứng trước cảnh núi non, trước con sông lịch sử hùng vĩ này khiến cho tác giả cảm thấy tâm hồn mình đầy phấn khích, chơi vơi, những câu thơ thể hiện sự phóng khoáng tự do trong tâm hồn người lữ khách. Đồng thời thể hiện sự hưng phấn trong tâm hồn của người lữ khách khi được nhìn thấy một cảnh đẹp thiên nhiên tuyệt trần, như chốn tiên cảnh nơi hạ giới này.
“Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”
Đứng trước con sông nổi tiếng trong lịch sử này, lữ khách không chỉ thấy con sông này đẹp, không chỉ cảm thấy hưng phấn nơi tiên cảnh tại hạ giới mà còn có sự kính trọng, yêu mến sâu sắc với con sông lững lẫy tên tuổi gắn liền với những trận đánh hùng dũng của nước ta trong lịch sử. Những câu thơ của tác giả Trương Hán Siêu thể hiện sự ngưỡng mộ, kinh phục với con sông chiến công hiển hách này.
Cảnh sông Bạch Đằng là một cảnh sông Bạch Đằng vô cùng tráng lệ, có vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ rộng bát ngát xa trông, ngút ngàn tầm mắt tới muôn ngàn dặm. Tuy nhiên, sông Bạch Đằng cũng có sự dịu dàng, mềm mại của riêng mình với những con sóng vỗ mình nhẹ nhàng đang êm ái xô bờ khi thủy triều lên. Những con thuyền buồm trắng tinh thơ mộng nhẹ nhàng trôi trên sông, dưới làn nước mùa thu trong veo, xanh thăm thẳm tạo nên một bức tranh mùa thu vô cùng thơ mộng, làm say đắm hồn người lữ khách.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Đứng trước cảnh đẹp vô cùng thơ mộng hùng vĩ của con sông Bạch Đằng này lại gợi cho người lữ khách những tâm trạng buồn vui lẫn lộn, Nơi đây đã từng diễn ra nhiều trận chiến nổi tiếng lẫy lừng trong lịch sử, để lại.
Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, để lại tiếng vang trong lịch sử nhưng cũng là nơi mà nhiều chiến sĩ của nước ta đã thiệt mạng, dòng sông này đã tắm máu của nhiều chiến sĩ dân ta nhưng cũng tắm máu nhiều quân thù. Tất cả đều là những con người bằng xương bằng thịt, đều có người thân đang đợi ở quê nhà nhưng họ đã phải bỏ mạng mình tại con sông này
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao”
… Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi”
Trong đoạn phú thơ này tác giả Trương Hán Siêu tập trung thể hiện lại không khí chiến đấu đầy hào hùng, sự anh dũng của các chiến sĩ khi tham gia trận chiến, khiến cho trời đất nhưng mờ mịt, không rõ mặt người. Cuộc chiến thể hiện tinh thần quyết thắng máu lửa của hai bên giữa ta và địch “Thư hùng chưa phân”
Kẻ thù của chúng là vô cùng mạnh, chúng là nước lớn có nhiều lực lực, mưu kế tung mọi hỏa mù làm quân ta vô cùng khó đối phó. Nhưng chính nghĩa luôn thuộc về ta, chúng ta quân cướp nước nên tinh thần của quân ta vô cùng quyết liệt, đánh tan sự hiếu chiến của giặc, và do chúng ta là bên chính nghĩa nên ông trời giúp ta “Trời chiều lòng người” Với sự mưu trí, chiến thuật hợp lý cuối cùng quân ta toàn thắng, đánh bại kẻ thù mạnh
“Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
Anh minh hai vị thánh quân,
|
Assignment
Bach Dang is a famous river associated with the glorious battles of our army in the resistance war against feudal invaders. This is also the river that enters Vietnamese poetry with an extremely strong sense of national pride.
The article "Phu Bach Dang River" by Truong Han Sieu shows the author's love and affection for this powerful river. This is one of the extremely unique poems that leaves many impressions in the hearts of readers even after many generations.
The original title of this work was "Bach Dang Giang Phu" written by Truong Han Sieu in Chinese, then translated into many different versions by many different translators. However, Professor Bui Van Nguyen's translation is the closest to the original text of the work
In the opening part of the poem, the author describes the scene on the Bach Dang River as extremely majestic and magnificent, with the Cuu Giang, Tam Ngo, Ngu Ho... Expressing the generous soul of the traveler when coming here to stand in front of this majestic mountain and river scene:
“Raise your sails and let the wind wander,
Surfing the pool and playing with the moon engrossed"
The traveler character "guest" is our author Truong Han Sieu. When he accidentally brought his boat to this place, standing in front of the mountains, in front of this majestic historical river, the author felt his soul was full of excitement and restlessness, the verses expressed generosity. freedom in the soul of the traveler. At the same time, it shows the excitement in the traveler's soul when seeing a beautiful natural scene, like a fairyland on this earth.
“Van Mong Lagoon holds a few hundred in its stomach,
But the strong will from all directions is still earnest."
Standing in front of this famous river in history, travelers not only find this river beautiful, not only feel excited about the fairyland on earth, but also have deep respect and love for the splendid river named age is associated with our country's heroic battles in history. Author Truong Han Sieu's verses express his admiration and admiration for this river of glorious victories.
The scene of the Bach Dang River is an extremely magnificent scene of the Bach Dang River, with a wild and majestic beauty that is vast and far-reaching, extending as far as the eye can see for thousands of miles. However, Bach Dang River also has its own gentleness and softness with gentle waves crashing against the shore at high tide. The poetic pure white sailboats gently float on the river, under the clear, deep blue autumn water, creating an extremely poetic autumn picture, captivating the traveler's soul.
I feel sorry for the heroes who are absent,
Unfortunately, traces of the furrow remain
Standing in front of the extremely poetic and majestic beauty of the Bach Dang River reminds the traveler of mixed feelings of sadness and joy. Many famous and illustrious battles in history took place here, leaving behind.
The scenery is beautiful and poetic, but travelers here feel mixed feelings of sadness and joy. This is where many battles took place, leaving echoes in history but is also where many of our country's soldiers died. This river has bathed in the blood of many of our soldiers but also bathed in the blood of many enemies. . All of them were people of flesh and blood, all had relatives waiting in their hometown, but they had to die in this river.
“This is the battlefield where the two saints captured O Ma,
It is also the old land, in the past, Lord Ngo destroyed Hoang Thao."
… There are countless ships and boats,
The spirit flutters.
Mighty six armies,
The spear and sword shine brightly.
… The light of the sun and moon seems to be dim,
The sky and earth are about to change.”
In this poetic passage, author Truong Han Sieu focuses on portraying the heroic fighting atmosphere and the heroism of the soldiers participating in the battle, making heaven and earth blurry and the human faces unclear. The war demonstrated the spirit of determination to win on both sides between us and the enemy. "The heroes are not divided."
Their enemy is extremely strong, they are a big country with a lot of power, and their tactics are making all kinds of smoke, making it extremely difficult for our army to deal with. But justice always belongs to us, we are the robbers of the country, so the spirit of our troops is extremely fierce, defeating the aggression of the enemy, and because we are the righteous side, God helps us. ” With cunning and reasonable tactics, our army was ultimately victorious, defeating a strong enemy
“The unjust perish,
In a thousand years, only heroes will remain famous!
Honor the two holy soldiers,
|
Bài làm
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tuyệt phẩm để đời. Nó gây nhiều xúc động trong lòng người đọc. Trong đó trích đoạn “Trao duyên” là trích đoạn vô cùng đặc sắc thể hiện được sự hy sinh cao thượng của Thúy Kiều. Đồng thời cũng là trích đoạn lấy đi nhiều nước mắt của độc giả
Sau buổi đi chơi tết thanh minh Thúy Kiều và Kim Trọng gặp gặp gỡ thề hẹn trăm năm. Nhưng do gia đình của Thúy Kiều gặp tai biến nàng phải lựa chọn “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” Thúy Kiều quyết định bán mình chuộc cha và em đang bị bắt giam. Nhưng trước khi ra đi nàng đã “Trao duyên” của mình là Kim Trọng lại cho em gái của mình là Thúy Vân.
Đoạn trích nói lên sự đau khổ của Thúy Kiều khi phải dứt áo ra đi, mang tình yêu của đời mình nhờ em giúp đỡ. Nhờ em chăm sóc mẹ cha, chăm sóc người yêu thể hiện Thúy Kiều là người có mắt nhìn xa trông rộng, và có tình có nghĩa biết lo lắng cả những sự việc trong tương lai.
Mở đầu đoạn trích là những hình ảnh vô cảm xúc, thấm đẫm nước mắt của nhân vật Thúy Kiều:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc, em’’.
Từ “cậy” là một từ tuyệt đối chuẩn trong hoàn cảnh này. Trong gia đình thì Thúy Kiều là người chị người có quyền hành cao hơn so với Thúy Vân. Nếu đúng ra thì cô nói gì Thúy Vân phải nghe đấy. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt này Thúy Kiều đang muốn em mình làm giúp một việc vô cùng mang tính cá nhân, liên quan tới chuyện trăm năm, tình duyên nên việc cô phải hạ mình trước chính em gái mình là điều vô cùng dễ hiểu.
Từ “cậy” được tác giả Nguyễn Du sử dụng hoàn toàn đúng ngữ cảnh, thể hiện sự tinh tế của tác giả khi lựa chọn từ ngữ
Ngoài ra Nguyễn Du còn sử dụng hành động vô cùng thiêng liêng cho câu thơ này là từ “Lạy”. Xưa nay con người ta chỉ “lạy” người đã khuất, đã chết, lạy đức thần linh tối cao và quỳ lạy cha mẹ mình những người bề trên của mình. Nhưng
Thúy Kiều là chị lại đi quỳ lạy Thúy Vân thì không đúng đạo đức, thuần phong mỹ tục. Nhưng trong lúc đặc biệt này hành động “lạy” em của Thúy Kiều thể hiện sự thành kính, sự van lơn, nhờ cậy, một chuyện vô cùng quan trọng, trọng đại nên nàng phải làm thế để Thúy Vân thấy được thành ý của mình, mà chịu giúp nàng.
Rồi khi Thúy Vân chịu ngồi im nghe lời nàng nói nàng mới từ từ trình bày ý nguyện của mình:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
Thúy Kiều trình bày lại sự gặp gỡ của mình với Kim Trọng, kể lại tiến trình sự việc gợi mở trong lòng Thúy Vân lại những chuỗi sự kiện đã xảy ra, dù những chuyện này Thúy Vân đều biết nhưng Kiều là người có đầu có đuôi nên nàng nói lại cho Thúy Vân một lần nữa được thông tỏ và trong đó có một chi tiết vô cùng quan trọng mà Thúy Vân chưa biết giờ Thúy Kiều phải nói để nàng hiểu:
Đó là sự lựa chọn của Thúy Kiều nàng đã lựa chọn chữ hiếu thay vì nghĩ tới tình yêu hạnh phúc cá nhân mình. Đây cũng là lúc Thúy Kiều đã đưa ra quyết định nàng dứt tình, dứt áo ra đi quyết bán mình chuộc cha, là giờ phút thiêng liêng để nàng nói với em gái quyết định ấy
Có lẽ ai đó phải ở trong hoàn cảnh của Thúy Kiều mới thấy thấm thía nỗi đau của nàng, mới cảm nhận được sự giằng xé trong tim nàng khi phải lựa chọn như thế này. Trong từng câu nói của mình Thúy Kiều đang đứt từng đoạn ruột, trái tim đau đớn, nàng oán hận xã hội, oán hận sự bất công khi không cho nàng hiếu nghĩa trọn vẹn đôi bên, khi bắt nàng lựa chọn.
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.
Thúy Kiều nhấn mạnh sự trẻ trung của hai chị em, tất cả đều trong giai đoạn đôi mươi thanh xuân phơi phới. Thúy Vân còn cả tương lai tươi đẹp đang chờ còn Thúy Kiều ra đi không biết đời trôi về đâu nhưng dù ở đâu nàng cũng cảm ơn Thúy Vân, phù hộ và mỉm cười hài lòng vì em đã sống tốt đã chịu giúp mình nhận lời trao duyên, chăm sóc cha mẹ già yếu. Rồi Thúy Kiều lấy vật đính ước ra đưa cho em mình nói:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung”.
Tình yêu là thứ mà mắt thường con người không nhìn thấy được, nhưng kỷ vật lại là thứ hữu hình, có thể sờ nắm, nhìn được nên khi trao duyên của mình cho em. Thúy Kiều đã lấy vật định tình mà chàng Kim Trọng tặng mình trao lại cho Thúy Vân như thể hiện tình cảm của mình từ nay do Thúy Vân nhận lãnh trách nhiệm, hoàn thành lời ước hẹn với Kim Trọng. Rồi Thúy Kiều coi như mình từ nay đã chết nói:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.
Trong tâm trạng đau đớn Thúy Kiều cảm thấy mình giờ sống mà như chết nàng cảm thấy cuộc sống của mình là đường cùng là bế tắc vô vọng. Nên mỗi câu nàng nói đều thể hiện sự đau thương tang tóc vô cùng,.
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
|
Assignment
The Tale of Kieu by Nguyen Du is a lifetime masterpiece. It causes many emotions in the hearts of readers. The excerpt "Giving love" is an extremely unique excerpt that shows Thuy Kieu's noble sacrifice. At the same time, it is also an excerpt that brings many readers to tears
After the Thanh Minh Tet holiday, Thuy Kieu and Kim Trong met and swore a hundred-year promise. But due to a tragedy in Thuy Kieu's family, she had to choose, "Which is more important than love or filial piety?" Thuy Kieu decided to sell herself to redeem her imprisoned father and younger brother. But before leaving, she "gave her love", Kim Trong, to her younger sister Thuy Van.
The excerpt speaks of Thuy Kieu's suffering when she had to leave, bringing the love of her life to ask for help. Asking her to take care of her parents and her lover shows that Thuy Kieu is a person with far-sighted eyes, and has the ability to care about future events.
The excerpt opens with emotionless, tear-soaked images of the character Thuy Kieu:
“Thank you, I agree,
Sit up so I can bow and then say,
In the middle of the broken road, burdened with love,
Glue the thread together, you're wearing it, you''.
The word "trust" is an absolutely standard word in this situation. In the family, Thuy Kieu is the older sister who has more authority than Thuy Van. If that's true, then what you say Thuy Van should listen to. But in this special situation, Thuy Kieu wants her sister to do something very personal for her, related to a hundred years of love and love, so it is extremely understandable that she has to humble herself in front of her sister. .
The word "trust" is used by author Nguyen Du in the correct context, demonstrating the author's sophistication when choosing words.
In addition, Nguyen Du also used an extremely sacred action for this verse, the word "Prostration". In the past, people only "bowed" to the deceased, to the Supreme God, and to their parents and superiors. But
For Thuy Kieu to kneel and bow to Thuy Van is not ethical or following good customs. But in this special moment, Thuy Kieu's act of "bowing" to her younger sister shows her respect, entreaty, and trust, something extremely important and important, so she had to do it so that Thuy Van could see her sincerity. myself, but willing to help her.
Then when Thuy Van sat still and listened to what she had to say, she slowly presented her wishes:
“Since meeting Mr. Kim
When day fanning, when night swearing
Any turbulence
Filial piety is wise, both sides are perfect.
Thuy Kieu recounted her meeting with Kim Trong, recounting the process of events that evoked in Thuy Van's mind the series of events that had happened. Although Thuy Van knew all of these things, Kieu was a strong-willed person. so she told Thuy Van again to understand and there was an extremely important detail that Thuy Van did not know, now Thuy Kieu had to tell her so she could understand:
That was Thuy Kieu's choice, she chose filial piety instead of thinking about her personal love and happiness. This was also the time when Thuy Kieu made the decision to end her love, leave her clothes and sell herself to redeem her father. It was a sacred moment for her to tell her sister that decision.
Perhaps someone has to be in Thuy Kieu's situation to understand her pain, to feel the tug in her heart when she has to make a choice like this. In every sentence she said, Thuy Kieu's intestines were broken, her heart was in pain, she resented society, resented the injustice of not giving her complete filial piety on both sides, of forcing her to choose.
“My spring days are still long
Merciful love of immature blood instead of words
Even though her flesh is broken and her bones are worn out
Just keep smiling and you'll still be fragrant."
Thuy Kieu emphasized the youthfulness of the two sisters, all of whom were in their early twenties. Thuy Van still has a beautiful future waiting for her and Thuy Kieu leaves without knowing where her life will go, but wherever she is, she thanks Thuy Van, blesses her and smiles with satisfaction because she has lived a good life and is willing to help her accept the offer. give love and care for old and weak parents. Then Thuy Kieu took out the engagement item and gave it to her sister and said:
“The rim with the rattan curtain
This fate is kept, this thing is shared."
Love is something that the human eye cannot see, but souvenirs are tangible things that can be touched and seen, so when I give my love to you. Thuy Kieu took the love token that Kim Trong gave her and gave it to Thuy Van as if expressing her feelings, from now on Thuy Van took responsibility, fulfilling her promise with Kim Trong. Then Thuy Kieu considered herself dead from now on and said:
“In the future, no matter when,
Light the incense burner, compare the numbers to this key.
Looking out over the blades of grass and trees,
Seeing the cool breeze means she's coming home.
The soul still carries a heavy oath,
If the trunk of the willow tree is broken, it will be replaced by a thousand bamboo trees."
In a state of pain, Thuy Kieu felt like she was alive but as if she were dead. She felt that her life was a dead end and a hopeless deadlock. So every sentence she said expressed extreme sadness and grief.
“Hundreds of thousands sent to the beloved army,
There's only so much of a short relationship
The silver star like lime!
It's just that the water has flowed and the flowers have missed the village."
“Oh Kim lang! Oh Kim lang!
|
Bài làm
Đại thi hào Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà nhiều tác phẩm hay nhưng, tác phẩm tiêu biểu để đời của ông chính là tác phẩm “Truyện Kiều”
Dù hàng trăm năm đã trôi qua nhưng sức sống của tác phẩm này vẫn còn vẹn nguyên cho tới hôm nay. Thông qua nhân vật Thúy Kiều người ta thấy được cái nhìn của Nguyễn Du với thời cuộc với cái đẹp cái tài của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Truyện Kiều xoay quanh số phận người con gái có tên là Vương Thúy Kiều một người con gái tài sắc vẹn toàn, thủy chung, hiếu nghĩa nhưng lại bị cuộc đời xô đẩy tới mức cô phải bán mình chuộc cha, phải sa chân vào chốn lầu xanh nhơ nhuốc. Rồi từ đây đời nàng năm chìm bảy nổi, gặp gỡ nhiều người trong đó có tốt, có xấu… Kết thúc nàng phải tự vẫn trên dòng sông nhưng được sư cô chùa Giác Duyên cứu giúp rồi giúp nàng tìm về quê hương đoàn tụ gia đình.
Khi phân tích nhân vật Thúy Kiều chúng ta thường ấn tượng với cái đầu tiên đập vào mắt mình đó chính là nhan sắc của Kiều. Qua lời thơ của Nguyễn Du thì Thúy Kiều thuộc diện “tuyệt sắc giai nhân”” Mười phân vẹn mười” vô cùng hoàn mỹ
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
Xem bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đầy họa hai”
Làn thu thủy, rồi nét xuân sơn của Thúy Kiều khiến cho hoa phải ghen tỵ, liễu phải giận hờn vì thấy mình không xinh đẹp bằng nàng. Vẻ đẹp của Thúy Kiều là một vẻ đẹp mà không lời nào tả được, khiến cho mọi vật khi nhìn thấy nàng tự cảm thấy xấu hổ vì thua kém. Nhưng chính vì đẹp, đẹp một cách kiêu sa, nên Thúy Kiều gặp nhiều truân chuyên, vẻ đẹp của nàng dự báo trước tương lai sóng gió, nhiều gian nan.
Thúy Kiều đẹp, người đời thường nói người đẹp thường kém thông minh, tài sắc. Nhưng hình như Nguyễn Du quá ưu ái với Kiều nên cho nàng tất cả mọi thứ đều vô cùng hoàn mỹ. Thúy Kiều đẹp, nhưng lại cực kỳ thông minh và tài sắc. Nàng khác hẳn các mỹ nhân xinh đẹp khác thường được ví “Chân dài nhưng óc ngắn”
Thúy Kiều đẹp mà con khuê các, đài trang dáng điệu của một tiểu thư con gái nhà lành.
“Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
Nàng được hội tụ những tài năng người xưa hay có đó là cầm- kỳ- thi- họa. Nhưng cô con gái tiểu thư thời xưa chỉ cần một trong bốn yếu tố trên đã đủ nổi tiếng rồi. Nhưng Thúy Kiều còn giỏi cả bốn tài nghệ trên. Thể hiện cho chúng ta thấy nàng là một người con gái tuyệt mỹ, hoàn hảo không gì có thể sánh được với nàng. Một người con gái như vậy phải được hạnh phúc được gìn giữ nâng niu như báu vật của đời. Nhưng than ôi! cuộc đời nàng lại quá lắm gian nan, khổ nhục, bi ai…
Thúy Kiều không chỉ đẹp người, tài hoa mà nàng còn là người con gái có nội tâm vô cùng phong phú, sâu sắc…Nàng là người trọng tình cảm, trọng nghĩa khí. Trong vai trò một người con nàng người vô cùng hiếu thảo. Sự hiếu thảo của Thúy Kiều thể hiện ở hành động như khi gia đình lâm nguy cha và em trai nàng bị bắt giam nàng sẵn sàng tìm cách cứu giúp gia đình. Nàng sẵn sàng hy sinh bản thân bán mình chuộc cha.
Trong khi bị bán tới lầu Ngưng Bích hoàn cảnh thê lương, chưa biết tương lai sẽ về đâu nhưng nàng vẫn luôn lo lắng cho cha mẹ ở quê hương không có người chăm sóc, nâng niu bữa ăn giấc ngủ. Ở bất kỳ hoàn cảnh nào nàng cũng nhớ về người thân nhớ về gia đình mình với tâm trạng lo lắng, mong nhớ…
Ở vai trò một người yêu một người vợ, một người tình: Thúy Kiều là người vô cùng chung thủy, trọng nghĩa trước sau như một không vì vinh hoa phú quý mà quên đi lúc hoạn nạn sa cơ.
Với Kim Trọng người có lời thề nguyền, hẹn ước Thúy Kiều đã nhờ Thúy Vân chăm sóc anh, rồi khi ở Ngưng Bích Thúy Kiều cũng lo lắng cho chàng Kim giờ này đang đi tìm nàng ở một nơi xa.
Khi được Từ Hải cứu chuộc thân cưới làm vợ trở thành mệnh phụ phu nhân nhưng trong cuộc báo ân báo oán với Thúc Sinh, Thúy Kiều đã cho chàng Thúc Sinh rất nhiều tiền bạc và gấm lụa báo ơn Thúc Sinh đã giúp mình chuộc thân khi trước và thương yêu mình. Dù sau đó Thúc Sinh dưới thúc ép của Hoạn Thư vợ anh ta đã buộc lòng để Thúy Kiều chép kinh ở lầu Vọng Nguyệt nhưng anh ta có ơn chuộc nàng, nên khi giàu có quyền quý nàng vẫn nhớ trả ơn.
|
Assignment
Great poet Nguyen Du is a world cultural celebrity. He left behind many good works for the country's literature, but the most typical work of his life is "The Tale of Kieu".
Even though hundreds of years have passed, the vitality of this work is still intact today. Through the character Thuy Kieu, people can see Nguyen Du's perspective on the times and the beauty and talent of women in the old society.
The story of Kieu revolves around the fate of a girl named Vuong Thuy Kieu, a talented, beautiful, loyal, and filial girl, but was pushed by life to the point where she had to sell herself to redeem her father, and had to fall into trouble. Green floors are dirty. From then on, her life went up and down, meeting many people, some good and some bad... In the end, she had to commit suicide in the river, but a nun at Giac Duyen Pagoda saved her and helped her find her hometown to reunite with her family. family.
When analyzing the character Thuy Kieu, we are often impressed with the first thing that catches our eye, which is Kieu's beauty. Through Nguyen Du's poem, Thuy Kieu belongs to the category of "excellent beauty", "Ten parts and ten" and extremely perfect.
“Kieu is more sharp and salty
Looking at talent and beauty is even more important
The waters of autumn, the features of spring
United jealous loser poor petal blue willow hon
One or two tilts, the water tilts into the city
Lust demands one talent and two disasters."
Thuy Kieu's autumn water and spring features make flowers jealous and willows angry because they feel they are not as beautiful as her. Thuy Kieu's beauty is a beauty that cannot be described in words, making everything that sees her feel ashamed of being inferior. But precisely because she is beautiful and arrogantly beautiful, Thuy Kieu encounters many hardships. Her beauty predicts a turbulent and difficult future.
Thuy Kieu is beautiful, people often say that beautiful people are often less intelligent and talented. But it seems that Nguyen Du is too fond of Kieu, so everything is perfect for her. Thuy Kieu is beautiful, but extremely smart and talented. She is different from other beautiful beauties who are often compared to "Long legs but short brains".
Thuy Kieu is beautiful and elegant, with the appearance of a young lady from a good family.
“The bow and arrow are of the five-syllable level
A private career is one chapter away from playing the piano"
She has the talents that ancient people often had, such as playing, drawing, drawing. But the daughter of an ancient lady only needed one of the above four factors to be famous. But Thuy Kieu is also good at all four of the above talents. Showing us that she is a beautiful, perfect girl, nothing can compare to her. Such a girl must be happy and cherished like a treasure in life. But alas! Her life was so difficult, humiliating, tragic...
Thuy Kieu is not only beautiful and talented, but she is also a girl with an extremely rich and deep soul... She is a person who values affection and dignity. As a daughter, she is extremely filial. Thuy Kieu's filial piety is shown in her actions, such as when her family was in danger, her father and younger brother were imprisoned, and she was willing to find a way to save the family. She was willing to sacrifice herself and sell herself to redeem her father.
While being sold to the Ngung Bich building, her situation was miserable, she didn't know what the future would bring, but she was always worried about her parents in her hometown who had no one to take care of them, feed them, and sleep. In any situation, she remembers her loved ones and her family with worry and longing...
In the role of a lover, a wife, a lover: Thuy Kieu is an extremely loyal person, always respecting love and not forgetting for the sake of glory and wealth when times of trouble and failure.
With Kim Trong, who had an oath and a promise, Thuy Kieu asked Thuy Van to take care of him. Then while in Ngung Bich, Thuy Kieu also worried about Kim who was now looking for her in a far away place.
When she was redeemed by Tu Hai, she married him and became his wife, but in the act of repaying kindness and revenge to Thuc Sinh, Thuy Kieu gave Thuc Sinh a lot of money and silk to thank Thuc Sinh for helping her redeem herself. before and loved me. Although later, Thuc Sinh, under pressure from Hoan Thu, his wife, was forced to let Thuy Kieu copy the sutras at the Vong Nguyet building, but he had a favor to redeem her, so when she was rich and powerful, she still remembered to repay the favor.
|
Bài làm
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, là một danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO công nhận. Ông có đóng góp to lớn với một khối lượng thơ văn đồ sộ cho dân tộc. Trong những tác phẩm ấy, nổi bật nhất là bài thơ “Truyện Kiều’’. Truyện kiều là bài thơ được viết bằng thể lục bát nói về số phận của những người phụ nữ có số phận bất hạnh, họ phải chịu nhiều tủi nhục và đau đớn. Đồng thời cũng lên án những kẻ ích kỉ hèn mọn chỉ quan tâm đến lợi ích của mình. Đoạn trích “ Cảnh ngày xuân’’ có lẽ là đoạn tiêu biểu nhất về tả cảnh thiên nhiên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện kiều. Vào ngày tết thanh minh chị em thúy kiều đi tảo mộ và hiện ra trước mắt người đọc là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tâm trạng của người du xuân khi trở về.
Mở đầu bài thơ hiện ra một bức tranh xuân trong sáng, nhẹ nhàng và tinh khôi:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu gợi tả cho ta về không gian và thời gian. Câu thơ “ Ngày xuân con én đưa thoi’’ là câu thơ gợi tả về không gian. Trên nền trời cao rộng, đàn én lượn qua lượn lại, chao liệng như thoi đưa vào những tháng cuối của mùa xuân. Cũng như chỉ thời gian trôi nhanh giống như những chú én đang vụt bay trên trời xanh. Mùa xuân có chín mươi ngày vậy mà bây đã qua sáu mươi ngày, đã bước sang tháng ba rồi. Làm cho con người ta thấy vấn vương, tiếc nuối khi sắp kết thúc một mùa xuân. “Thiều quang’’ là chỉ ánh sáng của mùa xuân, nó không chói chang như mùa hạ hay yếu ớt của mùa đông mà nó là ánh sáng ấm áp, mang đến sức sống cho muôn loài.
Hai câu thơ sau được tác giả khắc họa tuyệt đẹp với hai màu xanh và trắng. Chữ “tận” mở ra một không gian bao la bát ngát không có điểm dừng. Thảm cỏ non trải rộng đến chân trời là để làm màu nền cho bức tranh mùa xuân. Trên bầu trời xanh ngát ấy xuất hiện màu trắng của vài bông hoa lê. Từ “điểm” tĩnh như không tĩnh, làm cho ta liên tưởng thiên nhiên có tâm hồn, biết làm đẹp giống như một con người. Chỉ một vài màu trắng của hoa lê mà làm câu văn trở nên sống động và nổi bật trong sắc trời mùa xuân. Bằng một vài nét chấm phá, tác giả đã vẽ lên một bức tranh sinh động, hấp dẫn, khiến cho người đọc cảm giác mình đang đứng trước khung cảnh của mùa xuân.
Nếu bốn câu thơ đầu là một bức tranh của mùa xuân thì tám câu tiếp là bức tranh của lễ hội trong tiết thanh minh:
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.
Từ xa xưa dân tộc ta đã có phong tục là đi tảo mộ người thân đầu năm để thăm viếng sửa sang lau chùi cho sạch sẽ và du xuân ở chốn đồng quê trong khí tiết thanh minh. Các danh từ, động từ, tính từ “ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, ngựa xe, áo quần, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức” là chỉ một không gian có rất nhiều người đặc biệt là các chàng trai và cô gái đi du xuân đầu năm tạo không khí đông vui, nhộn nhịp và náo nhiệt của buổi hội gắn với một tâm trạng của mỗi người đi hội. Ai cũng háo hức sắm sửa trang phục, trang sức để chuẩn bị tham gia lễ hội. Đó không những là buổi hội mà còn là nơi se duyên cho các cặp nam thanh nữ tú chưa tìm được định mệnh của mình.
Bên cạnh hình ảnh người đi du xuân là hình ảnh những đống tro bên cạnh nấm mồ, những đống tro ấy chính là người ta đốt tiền giấy để tưởng nhớ những người thân đã khuất:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”.
Dù là người đang sống hay người đã khuất đều cầu nguyện mong được hạnh phúc. Người đã mất thì khi họ chết đi cũng mong con cháu mình luôn được mạnh khỏe, bình an và hạnh phúc. Người đang sống họ ước mong được một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc và cầu nguyện cho những người đang nằm dưới nấm mồ kia được yên nghỉ.
Người ta thường nói cuộc chơi nào rồi cũng sẽ đến lúc phải kết thúc. Không có cái gì là trường tồn mãi mãi cả. Khi lễ hội kết thúc chị em Kiều ra về trong cảnh chiều tà và mang một tâm trạng sầu mặc:
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
|
Assignment
Nguyen Du is a great national poet and a world cultural celebrity recognized by UNESCO. He made a great contribution with a huge amount of poetry to the nation. Among those works, the most prominent is the poem "The Story of Kieu". The Tale of Kieu is a poem written in hexagram form that talks about the fate of women with unfortunate fates who have to endure a lot of humiliation and pain. At the same time, we also condemn selfish and cowardly people who only care about their own interests. The excerpt "Spring Day Scene" is perhaps the most typical passage describing natural scenes. The excerpt is at the beginning of the story. On Thanh Minh Tet, sister Thuy Kieu went to visit the grave and appeared before the reader's eyes a picture of beautiful nature and the mood of a spring traveler upon returning.
The beginning of the poem presents a bright, gentle and pristine picture of spring:
On spring days, the swallow shuttles
Optical Thieu was past sixty nine decades.
Green grass reaches the horizon,
There are some blossoms on the white pear branch.
The first two verses describe to us space and time. The poem "On a spring day, the swallow flies" is a poem that describes space. Against the high and wide sky, flocks of swallows glide back and forth, flying like shuttlecocks in the last months of spring. Just as time passes quickly like swallows flying in the blue sky. Spring has ninety days but now sixty days have passed, it has entered March. Makes people feel confused and regretful when spring is about to end. “Thieu quang” refers to the light of spring. It is not as bright as summer or weak as winter, but it is a warm light, bringing vitality to all living things.
The following two verses are beautifully portrayed by the author in blue and white. The word "end" opens up a vast space with no end. The carpet of young grass spreading to the horizon is to serve as the background color for the spring painting. In that blue sky, the white of a few pear flowers appeared. The word "point" is as still as not still, making us think that nature has a soul and knows how to beautify like a human being. Just a few white pear flowers make the sentence come alive and stand out in the spring sky. With a few touches, the author has painted a vivid and attractive picture, making readers feel like they are standing in front of a spring scene.
If the first four verses are a picture of spring, then the next eight lines are a picture of the festival during the Qingming period:
“Clearing in the March period
Mass grave was the springboard algae bar
Near and far, I'm excited about you
The girls are shopping for spring
Taming handsome actors and actresses
Horse cars such as water wedge clothes
Messy mounds pulled up
Gold bars sprinkled with ash and flying banknotes.
Since ancient times, our people have had the custom of going to the graves of relatives at the beginning of the year to visit, clean, and spend spring in the countryside in clear weather. The nouns, verbs, and adjectives "welcoming brothers, sisters, actors, beauties, horses, carriages, clothes, shopping, flirting, near and far, excited" refer to a space with many special people. Especially the boys and girls who go on spring trips at the beginning of the year create a crowded, bustling and bustling atmosphere of the festival, associated with the mood of each festival goer. Everyone is eager to buy costumes and jewelry to prepare to participate in the festival. It is not only a festival but also a place of love for young men and women who have not yet found their destiny.
Next to the image of people going on spring vacations is the image of piles of ashes next to the graves, those piles of ashes are people burning paper money to commemorate their deceased relatives:
“The mounds were piled up and pulled up
Gold bars sprinkled with ash and flying banknotes.
Whether the living person or the deceased person prays for happiness. When the deceased dies, they also hope that their descendants will always be healthy, peaceful and happy. Those who are alive wish for a good, happy future and pray for those lying in their graves to rest in peace.
People often say that every game must eventually end. Nothing lasts forever. When the festival ended, Kieu sisters left in the late afternoon and in a sad mood:
“The evil shadow leans towards the west
The sisters wandered home
Step by step along the top of Tieu Khe
Views landscape with bar bar surface
The water flows around me
|
Dường như con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Suy cho cùng thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ “nghĩa” lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn vù đắp cho tình cảm kia của mình. Chính bởi vậy mà Kiều đã quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân.
Duyên được hiểu là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Nhưng trớ trêu thay ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Chính vì thế mà trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang dở.
Và chỉ với hai câu thơ đầu người đọc như đã thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận:
“Cậy em em có chịu lời.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay lại phải vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Có thể nói những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” được sử dụng đắt, và những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Dường như cái “cậy” kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ.
Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim.
Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”
Nàng như thể hiên được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì một chữ hiếu mà nàng Kiều đã đau xót chấp nhận khi phải hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng Kiều như đã vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng Kiều lúc này đây chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà nàng Kiều lúc này rất mong Thúy Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Thật dê nhận thấy sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em đi chăng nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Cô em gái Thúy Vân thật ngây thơ và phúc hậu đến nhường nào, cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân, đo đong đếm cho được.
Thúy Kiều đã như vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột già. Điều đó đã càng làm cho nhân vật Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Rõ ràng là chúng ta có thể nhận thấy cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác Thúy Vân là mấy đâu. Dường như cứ nói thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào. Thúy Kiều rất mong em giá của mình là Thúy Vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Và nếu như được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc dù có sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây, và thấy vui cái sự hi sinh của em gái cho mình.
Dường như khi Thúy Kiều đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến nàng. Nàng lúc này đây như đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình yêu ấy mới bắt đầu, mới chớm nở.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Nàng Kiều ngay lúc này đây chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng Kiều với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của cả ba người. Mặc dù dẫu đã trao cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của chung. Tác giả Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu thơ. Có lẽ phải làm như thế thì mới để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng Kiều đau xót như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ đầy những xót xa trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó, không đâu khác chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.
Nàng Kiều đau đớn và như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng đang tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi mà nàng xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
|
Dường như con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Suy cho cùng thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ “nghĩa” lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn vù đắp cho tình cảm kia của mình. Chính bởi vậy mà Kiều đã quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân.
Duyên được hiểu là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông tơ bà nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Nhưng trớ trêu thay ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Chính vì thế mà trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành. Phải chăng tình đầu là dang dở.
Và chỉ với hai câu thơ đầu người đọc như đã thấy được những hành động của Thúy kiều thật khác bình thường. Nàng như đang hạ thấp bản thân mình để cầu xin em, trao duyên nhưng cũng là cầu xin em giúp chị và chấp nhận:
“Cậy em em có chịu lời.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều là một người chị đáng ra chẳng bao giờ phải cậy nhờ hay lại phải vái lạy em mình cả thế nhưng ở đây Kiều trao duyên hay chính là đang nhờ Thúy Vân thay mình đền đáp tấm chân tình với Kim Trọng. Có thể nói những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” được sử dụng đắt, và những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải lạy em cậy nhờ. Dường như cái “cậy” kia mang ý nghĩa ép buộc Thúy Vân phải làm nhiều hơn là nhờ.
Nói là nhờ thì lại rất bình thường nhưng nói là cậy thì cái nhờ vả kia lại nặng hơn gấp bội. Dùng ngôn ngữ như thế tác giả có ý muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim.
Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình. Đó là những tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”
Nàng như thể hiên được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Chính vì một chữ hiếu mà nàng Kiều đã đau xót chấp nhận khi phải hi sinh chữ tình phụ chàng Kim. Và có lẽ thế nàng Kiều như đã vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng Kiều lúc này đây chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà nàng Kiều lúc này rất mong Thúy Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ loan với chàng Kim Trọng. Thật dê nhận thấy sự ngậm ngùi ấy được phát ra từ những câu thơ trên. Dù cho là chị em đi chăng nữa nhưng phải gượng ép trao đi thứ mình không muốn trao và thứ mà người ta không muốn nhận thì chẳng khác nào mất đi một thứ quý báu. Cô em gái Thúy Vân thật ngây thơ và phúc hậu đến nhường nào, cũng chỉ biết là Thúy Kiều cậy nhờ mình chứ nào đâu hiểu hết được “ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Vốn dĩ chữ tình và chữ hiếu không thể đặt lên bàn mà cân, đo đong đếm cho được.
Thúy Kiều đã như vịn vào tình cảnh của gia đình hiện tại và thêm nữa là tình máu mủ ruột già. Điều đó đã càng làm cho nhân vật Thúy Vân có muốn từ chối cũng không thể nào từ chối được:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây!”
Rõ ràng là chúng ta có thể nhận thấy cả hai chị em cùng đến tuổi xuân xanh đang tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân, tuổi biết yêu thương lấy một người nào đó. Vậy mà Kiều lại nói là tuổi xuân của Thúy Vân còn dài trong khi mình thì nào có khác Thúy Vân là mấy đâu. Dường như cứ nói thế để cho thấy Kiều như đã xác định được con đường mà nàng sắp phải đặt chân đến, không yên bình như những ngày tháng trước đây nữa mà sóng gió có thể mang cô đi bất cứ lúc nào. Thúy Kiều rất mong em giá của mình là Thúy Vân xót tình chị em máu mủ ruột già mà hãy chấp nhận lời thay chi làm trọn lời hẹn thề với chàng Kim. Và nếu như được như thế thì ngay cả khi những sóng gió kia bủa vây lấy nàng cướp nàng đi khỏi thế gian này. Mặc dù có sang thế giới bên kia không còn nguyên vẹn thì Kiều cũng cảm thấy thơm lây, và thấy vui cái sự hi sinh của em gái cho mình.
Dường như khi Thúy Kiều đã trao duyên xong nàng như cảm thấy được những tâm trạng đang bủa vây đến nàng. Nàng lúc này đây như đã hoàn thành xong cái đền đáp ơn nghĩa với Kim Trọng nhưng lòng lại thấy buồn vì vừa trao đi, mất đi một tình yêu đầu êm đềm dịu ngọt. Hơn nữa tình yêu ấy mới bắt đầu, mới chớm nở.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Chiếc vành với tờ mây kia chính là những kỉ vật tình yêu của hai người. họ đã cùng nhau thề nguyền sống chết, họ đã có với nhau những ngày tháng hạnh phúc những niềm vui tràn ngập vậy mà giờ đây cái xã hội kia đã buộc Kiều chọn chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Nàng Kiều ngay lúc này đây chỉ mong mai này khi chàng Kim và em của nàng có thành duyên vợ chồng rồi thì mong họ hãy nhớ đến nàng. Những kỉ vật tình yêu của nàng Kiều với chàng Kim chỉ mong tham lam giữ thành của chung của cả ba người. Mặc dù dẫu đã trao cho Thúy Vân những kỉ vật tình yêu ấy nhưng nàng vẫn luyến tiếc và mong rằng nó sẽ là của chung. Tác giả Nguyễn Du không đặt những kỉ vật ấy vào trong cùng một câu thơ mà lại chia ra thành mấy câu thơ. Có lẽ phải làm như thế thì mới để cho chúng ta thấy được cảm xúc đau buồn của nàng Kiều khi phải trao lại những kỉ vật ấy một cách đầy luyến tiếc cho em gái mình. Nàng Kiều đau xót như cố níu giữ lấy những kỉ vật tình yêu thế nhưng nàng cũng buộc mình phải đưa cho Vân những kỉ vật ấy nếu không thì sẽ không thể nào mà đền đáp tấm ân tình của chàng Kim trọng được. Có thể nói qua những câu thơ đầy những xót xa trên tâm trang của thúy Kiều được hiện thật sự rất rõ nét. Đó, không đâu khác chính là tâm trạng mong muốn trở lại những ngày tháng trước đây. Đồng thời luyến tiếc với những kỉ vật tình yêu ấy.
Nàng Kiều đau đớn và như nghĩ đến cái chết, có lẽ là nàng đang tưởng tượng ra cảnh mai này Kim và vân sống hạnh phúc mà nàng phải chứng kiến cảnh yêu thương của họ thì nàng sống không bằng chết. Hay từ khi mà nàng xác định bán thân nàng đã quyết định chọn cái chết để kết thúc cuộc đời này. Tuy vậy nàng vẫn mong rằng:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
|
Bài làm
Đặng Trần Côn là một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Do cảm động trước nỗi khổ đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh,ông đã viết Chinh phụ ngâm, để nói lên sự oán ghét chiến tranh phi nghĩa, khát khao tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích Chinh phụ ngâm, viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về.
Mở đầu bài thơ là những hành động vô thức của người chinh phụ:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Ngày dài buồn người chinh phụ dạo quanh hiên vắng,từng bước từng bước một, thì thầm đếm từng bước chân đi, từng bước chân như từng ngày người vợ xa người chồng của mình. Từng bước chân bước đi như chất chứa muôn nỗi ưa phiền, sự lo lắng, nhớ thương, bồn chồn dành cho người chồng đang chiến đấu nơi biên ải xa xôi đầy nguy hiểm,bất trắc.
Người chinh phụ ngồi bên cửa sổ, cứ buông rèm rồi lại cuốn rèm, cứ làm như thế rất nhiều lần, làm trong vô thức và không kiểm soát được bản thân. Tâm tư của người chinh phụ đã đặt hết ở nơi biên ải xa xôi, lo lắng không nguôi cho sự an toàn của chồng, trông ngóng chồng trở về. Các từ “vắng”, “thưa” càng tạo cảm giác thưa thớt, lạnh lẽo,tăng thêm sự cô đơn của người chinh phụ. Những hành động lặp đi lặp lại càng cho thấy tấm lòng,tâm trạng não nề của người chinh phụ, chờ đợi từng ngày, không biết khi nào chồng mới trở về.
Cảnh vật xung quanh như cũng hòa cùng tâm trạng với con người:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có rèm biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Qua bức rèm thưa, người vợ ngóng trông chim khách. Loài chim báo tin lành, có người đi xa trở về, chính là ngóng trông tin tốt từ người chồng của mình, nhưng biệt vô âm tín, không có một dấu hiệu nào cả. Người chinh phụ nhìn ngắm ánh đèn, trong những đêm cô đơn, buồn khổ người thiếu phụ chỉ có ngọn đèn vô tri vô giác chia sẻ bao nỗi ưu tư. Đêm đêm người thiếu phụ ngồi bên ngọn đèn mong ngóng, nhớ nhung, sầu muộn cho đến khi cái bấc đèn cháy rụi thành than hồng rực như hoa. Thời gian cứ thế trôi qua trong nỗi tuyệt vọng của người thiếu phụ. Trong đêm tối chỉ còn độc một chiếc bóng ngày một mờ nhạt của người chinh phụ. Ngọn đèn cháy như thời gian trôi nhanh, sự tàn lụi và héo hon của thiếu phụ cho sự chờ đợi về hạnh phúc lứa đôi dang dở.
“Gà eo óc gáy sương năm trống”, tiếng gà là âm thanh duy nhất trong đêm, tưởng như nó có thể làm sáo động không gian tĩnh lặng nhưng cũng nhanh chóng bị chìm đi trong cái cô tịch của đêm. Bóng cây hòe hiện ra gợi thêm cảm giác hoang vắng và đáng sợ. Cảnh vật quạnh hiu vì lòng người đang buồn đau tê tái vì nỗi nhớ mong và khát khao hạnh phúc đang tràn ngập trong lòng.
Người chinh phụ chờ đợi mỏi mòn, thấm thía bi kịch của cuộc đời mình:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Người thiếu phụ mỏi mòn ngóng đợi chồng, sự đợi chờ miên man ấy một giờ thôi mà dài như một năm, lòng nàng như lửa đốt, càng chờ thấy thời gian dài lê thê. Những ngày tháng hạnh phúc không còn, phải chờ đợi trong sự cô đơn,mong ngóng không có hơi ấm của sự yêu thương, thời gian càng trôi chậm hơn như khắc vào lòng người. Nỗi sầu của người đã dâng trào như biển xa, không ai thấu hiểu, những ngày tháng lẻ loi đong đầy sầu khổ, nỗi niềm gửi nơi biên ải xa xôi mong người chồng bình an, sớm ngày trở về.
Muốn thoát khỏi hiện thực u sầu, người chinh phụ đã đốt hương giải sầu:
“ Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”
Gắng gượng đốt hương, để cho tâm trạng thoải mái thì mê mải lạc vào quá khứ hạnh phúc tươi đẹp của mình, lúc mà nàng không lo nghĩ điều gì, sống trong hạnh phúc ngập tràn, nàng tiếc nuối, chua xót cho hiện thực đầy sầu bi. Tuổi xuân của nàng đang bị chôn vùi trong sự u sầu tột cùng, nàng gượng soi gương, muốn chăm chút bản thân một chút thì dòng nước mắt tuôn rơi, nàng thương xót cho thân phận mình, càng đau lòng tuyệt vọng hơn. Hương và gương không thể lấp đi nỗi cô đơn, nàng bèn cầm đàn ra gảy mong tiếng đàn rộn ràng có thể xóa tan âu lo, phiền muội. Nhưng khi gảy đàn nàng lại lo sợ dây đàn đứt, “dây uyên” là biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp, lỡ dây đàn đứt sợ là điều không lành. Sợ dây đàn trùng là điềm gở, điều không may mắn cho lứa đôi đang xa nhau. Nàng đã gắng gượng thoát khỏi sự cô đơn, nhưng sự cô đơn càng trói buộc nàng hơn, những thú vui hàng ngày giờ càng như mũi kim làm nàng thêm đau lòng, u sầu.
Càng buồn khổ càng thấy được tấm lòng thủy chung của người chinh phụ:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Người thiếu phụ mang tấm lòng thủy chung chờ đợi gửi đến người chồng nơi biên ải xa xôi. Tấm lòng của người chinh phụ thương nhớ, trân trọng không thể đong đếm được tác giả ước lệ tình cảm quý giá ấy như “ nghìn vàng”. Tất cả nàng nhờ cơn gió mùa xuân gửi đến núi Yên nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi. Nhưng gió đông ở đâu, núi Yên như thế nào người thiếu phụ không hề hay biết thì làm sao gửi đến người chồng mình đây, nàng lại ôm lấy nỗi buồn, sự mong nhớ trào dâng:
“Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”
Núi Yên lại được nhắc lại càng gợi ta cảm giác xa cách giữa hai vợ chồng, nỗi nhớ chồng như sự bao la, mênh mông của vũ trụ. Nỗi nhớ ấy day dứt, dai dẳng không nguôi, tràn ngập trong không gian. Hình ảnh bầu trời bao la, mịt mù, xa xăm như hiện tại của nàng không rõ hồi kết. Nỗi nhớ “đau đáu” gợi sự đau nhức, âm ỉ, nỗi nhớ khôn nguôi của người chinh phụ về sự bình an của người chồng, tuổi trẻ qua đi vội vã, niềm tin vào cuộc sống tương lai mỏng manh mờ nhạt.
Người buồn cảnh vật cũng buồn theo:
“ Cảnh buồn người thiết tha lòng,
|
Assignment
Dang Tran Con is a famous poet in Vietnamese literature. Moved by the suffering and loss of people, especially soldiers' wives during the war, he wrote Chinh Phu Ngam, to express his hatred of unjust war, and his desire for love and marital happiness. . The lonely situation of the conqueror's wife is excerpted from Chinh's wife, written about the situation and mood of the conqueror's wife, who had to live alone and sad for a long time when her husband went to war, with no news and unknown return date. .
The poem begins with the unconscious actions of the conqueror:
“Walking on the deserted porch, silently sowing step by step,
Sit with thin curtains and flirt with each other."
On a long, sad day, the concubine walked around the deserted porch, step by step, silently counting each step, each step like each day the wife was away from her husband. Each step seems to be filled with a lot of worries, worries, longings, and restlessness for her husband who is fighting on a distant border full of dangers and uncertainties.
The concubine sat by the window, kept letting down the curtain and then rolling it up again, doing so many times, unconsciously and without control over herself. The conquest's wife's thoughts were all placed on the distant border, worrying endlessly for her husband's safety, waiting for him to return. The words "absent" and "sparse" create a feeling of sparseness and coldness, increasing the loneliness of the conqueror. These repetitive actions further show the heart and sad mood of the concubine, waiting every day, not knowing when her husband will return.
The surrounding scenery seems to be in harmony with the human mood:
“There is no news outside the curtain,
In the curtain, it seems like there is already a curtain?
The light that knows is as good as not knowing,
My heart is only sad for you.
Sad and speechless,
That lantern flower and the human shadow are quite pitiful."
Through the thin curtain, the wife watches for guest birds. Birds bring good news, someone returns from a long trip, waiting for good news from their husband, but there is no news, no sign at all. The conqueror looked at the light. On lonely, sad nights, the young woman had only the inanimate lamp to share her worries. At night, the young woman sat by the lamp, longing, longing, and sorrowing until the wick burned down into embers as bright as flowers. Time passed like that in the despair of the young woman. In the dark night, there was only a fading shadow of the conqueror's wife. The burning lamp is like time passing quickly, the withering and withering of the young woman shows the unfinished wait for the couple's happiness.
"The rooster's waist and brain crow in the year of the rooster", the sound of the rooster is the only sound in the night, it seems like it can disturb the quiet space, but it also quickly sinks into the solitude of the night. The shadow of the tree appears to evoke a desolate and scary feeling. The landscape is lonely because people's hearts are filled with sadness and pain because of the longing and desire for happiness that is filling their hearts.
The conqueror waited tirelessly, penetrating the tragedy of her life:
“The hours are as long as years,
Grief is as deep as a distant sea."
The young woman was tired of waiting for her husband. That endless wait of just an hour felt like a year. Her heart felt like it was on fire, and the more time she waited, the longer it seemed. The happy days are gone, we have to wait in loneliness, longing without the warmth of love, time passes more slowly as if engraved in people's hearts. Her sadness has surged like a distant sea, no one understands, her lonely days are filled with sadness, her feelings are sent to the distant border, hoping for her husband to be safe and return soon.
Wanting to escape the sad reality, the conqueror burned incense to relieve her sadness:
“The incense burns the engrossed soul,
The forced mirror reflects tears back to Chau Chan.
Iron struggled to strum the piano,
The string of the meridian is broken and becomes loose."
Trying her best to burn incense and put herself in a comfortable mood, she was lost in her beautiful, happy past, when she didn't worry about anything and lived in overwhelming happiness. She regretted and felt bitter about reality. full of sadness. Her youth was buried in extreme sadness. She forced herself to look in the mirror, wanting to take care of herself a little, but tears fell. She felt sorry for her fate, making her even more heartbroken and desperate. Incense and mirrors could not cover up her loneliness, so she picked up the instrument and played, hoping the bustling sound of the instrument could dispel her worries and troubles. But when she plays the guitar, she is afraid that the string will break. The "love string" is a symbol of a close, harmonious couple. If the string breaks, it is not a good thing. Fear of overlapping strings is a bad omen, unlucky for a couple who is far apart. She tried to escape loneliness, but loneliness bound her even more, daily pleasures were now like needles, making her more heartbroken and melancholy.
The more sad you are, the more you see the faithful heart of the conqueror:
“Is it convenient to send this heart to the east wind?
Please send thousands of gold to Non Yen."
The young woman with a faithful heart waited for her husband on a distant border. The heart of the conqueror's wife who remembers and cherishes it cannot be measured. The author estimates that precious sentiment as "thousands of gold". Thanks to the spring wind, she was all sent to Yen Mountain, where the battlefield was far away. But where is the east wind, what is Yen mountain like? The young woman did not know how to send it to her husband. She embraced the sadness and longing welled up:
“Even though Non Yen has not reached the region,
I miss you so deeply that my way up to heaven.
The sky is so deep and unfathomable,
Missing him is so painful."
Yen Mountain being mentioned again evokes the feeling of separation between husband and wife, the longing for her husband is like the vastness of the universe. That nostalgia is tormenting, persistent and unrelenting, filling the air. Her current image of the vast, misty, distant sky has no clear ending. The "painful" nostalgia evokes pain and dullness, the concubine's inconsolable nostalgia for the peace of her husband, the hasty passing of youth, and the fragile and fading faith in a future life.
When people are sad, the landscape is also sad:
“The sad scene makes people feel heartbroken,
|
Bài làm
Đại Việt Sử Lược chính là một bản sử sách viết theo trình tự thời gian, có các sự kiện dấu ấn cho dân tộc, những nhân vật lịch sử đan xen nổi tiếng. Trong tác phẩm lừng lẫy này, khắc họa đậm nên nhân vật Thái phó Tô Hiến Thành với nhiều công trạng, nhưng trước hết là sự kính phục của tác giả, ở ông đại diện cho tấm gương của lòng cương trực, trung nghĩa. Ông có những phẩm chất rất đáng được người đời sau trân trọng.
BàiThái phó Tô Hiến Thànhđược trích từ tác phẩm lịch sửĐại Việt sử lượccủa một sử gia sống vào khoảng nửa cuối thế kỉ XIV. Tô Hiến Thành là một vị đại thần của nhà Lí, có tài năng thao lược và nhân cách hơn người. Nhà viết sử đã lựa chọn sự kiện tiêu biểu để làm nổi bật nhân cách đáng kính của Ông, đồng thời phản ánh phần nào tình hình phức tạp trong việc triều chính thời phong kiến, và qua đó khẳng định xã hội ổn định được là nhờ vào các bậc đại thần thanh liêm chính trực như Tô Hiến Thành.
Qua sự kiện lịch sử,năm 1175, vua lí Anh Tông mất, thái tử đã phải lên ngôi khi mới có 2 tuổi. Vì còn quá nhỏ, mà thái hậu Đỗ Thuỵ Châu muốn lập Long Sưởng – anh của Long Cán lên ngôi, người này luôn ăn chơi háo sắc, tính tình trác táng, nếu như làm vua sẽ gây nhũng nhiễu triều đình, không được lòng dân. Mà lúc này Tô Hiến Thành lại là cận thần- Tể tướng, gánh nặng đè lên vai đảm bảo cho sự thành bại của Long Cán, phức tạp từ đây nảy sinh trong nội bộ triều đình làm tô điểm thêm nhân cách, bản lĩnh, đạo đức của một vị đại thần nhà nho.
Thái hậu dùng đủ mọi thủ đoạn,. Bà dùng cách “đem vàng lụa đến hối lộ Lã Thị – vợ của Hiến Thành” để ép Tô Hiến Thành phế Lí Long Cán, nhưng Tô Hiến Thành bản chất là người không biết sợ, không cả nể, không tham lợi và đặc biệt kiên quyết giữ nghiêm phép nước, mạnh dạn từ chối với lí lẽ hết sức thuyết phục, cùng với dùng đạo lí làm người, trách nhiệm, truyền thống của dân tộc để thuyết phục vợ không nhận hối lộ: “nhận đồ hối lộ của người mà mưu phế lập, thiên hạ sẽ nói ta như thế nào? Giá như mọi người đều là kẻ bưng tai bịt mắt không biết, thì ta biết lấy lời nào để trả lời Tiên Vương ở dưới suối vàng?”.
Nhưng Thái Hậu vẫn hòng làm lại điều ấy lần nữa đối với thái phó bằng trò tinh vi hơn,quyền uy hơn, vinh hoa phú quý xen lẫn doạ nạt để mua chuộc, ép buộc Hiến Thành,: “Ông đối với nước nhà có thể gọi là trung đấy!. Song tuổi đã xế chiều… Chi bằng lập vua đã trưởng thành…được phú quý lâu dài, há chẳng nên ư?”. Nhưng cả hai lần đều đổ bể hoàn toàn vì ông đã dùng giữ mình được vững, từng bước làm cho tính toán, sự phản động, mưu mô của thái hậu bị đẩy lùi., vận dụng lời dạy của Khổng Tử, cách đối xử với người quá cố trong truyền thống dân tộc giúp ông thể hiện được vừa tôn kính, trung thành với bề trên đã khuất, vừa có hiếu với dân: ““Bất nghĩa mà được phú và quý, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống chi, lời di chúc của Tiên Vương còn ở bên tai. Đối với công luận sẽ như thế nào? Thần không dám vâng lời”. Ông nhất quyết không làm bất luận một điều gì ông cảm thấy có hại cho dân, cho nước, quyết tôn thờ chủ nghĩa “trung quân ái quốc”.
|
Assignment
Dai Viet History is a history book written in chronological order, containing events that marked the nation and famous historical figures. In this illustrious work, the character of Deputy Thai Deputy To Hien Thanh is boldly portrayed with many merits, but first and foremost is the author's admiration, he represents an example of integrity and loyalty. He has qualities that are worthy of being respected by future generations.
The article Thai Pho To Hien Thanh is excerpted from the historical work Dai Viet Brief History by a historian who lived in the second half of the 14th century. To Hien Thanh was a great mandarin of the Ly dynasty, with great strategic talent and personality. The historian chose typical events to highlight his honorable personality, while also partly reflecting the complex situation in feudal government affairs, and thereby affirming that a stable society was the key. Thanks to honest and upright mandarins like To Hien Thanh.
Through historical events, in 1175, King Ly Anh Tong died, the crown prince had to take the throne when he was only 2 years old. Because he was still too young, Queen Do Thuy Chau wanted to install Long Suong - Long Can's brother on the throne. This person was always a party boy and had a debauched personality. If he became king, he would cause trouble to the court and would not be popular. people. At this time, To Hien Thanh was a courtier - Prime Minister, the burden fell on his shoulders to ensure the success or failure of Long Can. From here on, complications arose within the court, embellishing his personality and bravery. the morality of a Confucian minister.
The Queen Mother used all sorts of tricks. She used the method of "bringing gold and silk to bribe La Thi - Hien Thanh's wife" to force To Hien Thanh to oust Ly Long Can, but To Hien Thanh was essentially fearless, not respectful, not greedy for profit, and especially resolutely upholding the country's decorum, boldly refusing with very convincing arguments, along with using human morality, responsibility, and national traditions to persuade his wife not to accept bribes: "receiving bribes from If someone tries to overthrow us, what will people say about me? If only everyone were blind and ignorant, then what words could I have to answer the Fairy King under the golden stream?
But the Queen Mother still wanted to do the same thing again to the Grand Deputy with more sophisticated tricks, more power, glory and wealth mixed with threats to bribe and coerce Hien Thanh: "You have nothing to do with the country." It can be called neutral!. But my age is already late... Wouldn't it be better to install an adult king... to be rich and wealthy for a long time? But both times failed completely because he used to keep himself steady, gradually repelling the queen mother's calculations, reactionaries, and intrigues, applying Confucius's teachings, how to deal with with the deceased in the national tradition helps him show both respect and loyalty to the deceased superiors and filial piety to the people: ""Being rich and precious through dishonesty is not what a loyal servant does. The martyr is happy to do it. What's more, the Immortal King's will is still in my ears. What will it be like for public opinion? I dare not obey." He was determined not to do anything he felt was harmful to the people or the country, determined to worship "patriotic loyalty".
|
Bài làm
Chí khí anh hùng là bài thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nằm từ câu 2213 đến 2230 đã tái hiện cảnh chia tay của Kiều và Từ Hải để chàng đi thực hiện nghiệp lớn. Đặc biệt đã khắc họa vẻ đẹp, tầm vóc và quyết tâm đạt được tham vọng của Từ Hải.
Tên của đoạn trích đọc qua có thể thấy được ý nghĩa vô cùng to lớn “ Chí khí anh hùng”. “ Chí” là mục đích cao cần hướng tới, “ khí” là nghị lực muốn đạt được mục đích, “ Chí khí anh hùng” là lí tưởng, mục đích cao và nghị lực lớn của người anh hùng, ở đây nói đến Từ Hải.
Mở đầu đoạn trích tác giả đã khắc họa dáng vẻ và hình ảnh của Từ Hải một cách rất là đặc sắc:
“ Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.”
Sống với Kiều nửa năm, đang lúc nồng nàn yêu thương, lúc tình cảm đang ở cao trào ngọt ngào, chính lúc này Từ Hải đã suy nghĩ về việc lớn, quyết gạt chuyện tình cảm nam nữ sang một bên. “ Động lòng bốn phương” là công việc và chí lớn của người nam nhi, việc mà Từ Hải đã nung nấu rất lâu, ý chí đó đã có sẵn trong người chàng, chỉ tạm lui đi khi ở với Kiều, nhưng bây giờ nó lại bùng cháy lên. Và “thoắt” như đã cho ta thấy được sự mau chóng trong việc thay đổi tâm trạng, dáng vẻ của Từ Hải, một hành động chớp nhoáng không cần suy nghĩ nhiều. Tác giả vô cùng trân trọng Từ Hải khi xem chàng là bậc trượng phu anh hùng đã nhanh chóng gác chuyện đôi lứa để làm nghiệp lớn, hiện lên dáng vẻ anh hùng bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc.
“ Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”
Từ Hải nhìn ra xa xăm trời bể đã khắc họa dáng vẻ phóng khoáng của chàng sánh ngang với hình ảnh trời đất, vũ trụ. “ Mênh mang” càng lộ ra độ rộng và cao của trời đất càng bật lên tư thế của chàng giữa vũ trụ rộng lớn. Cái nhìn “trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt và ẩn chứa những suy nghĩ phi thường. Gươm, ngựa đã đủ chàng thẳng bước lên đường, một mình ra đi thực hiện ý nguyện không quay đầu lại, hình ảnh đó không làm ta cảm thấy sự đơn độc mà cho thấy sự dũng mãnh của chàng.
Từ Hải ra đi không lưu luyến, bịn rịn tình cảm như thường thấy
“ Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?.”
Từ Hải rất yêu thương và tôn trọng Kiều coi nàng như “Tâm phúc tương tri”, nhưng khi nàng nói muốn đi cùng chàng đã dứt khoát ra đi một mình. Không muốn để tình cảm ảnh hưởng đến nghiệp lớn. Từ Hải có lí tưởng công danh to lớn, chàng đã hứa với Kiều rất chắc chắn “ bao giờ mười vạn tinh binh”, “ tiếng chuông ngập đất bóng tinh rợp đường”, “ Làm cho rõ mặt phi thường” thì sẽ đường đường rước nàng về nhà, cho nàng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc chứ bây giờ bốn bể không đâu là nhà, nàng ở bên cạnh sẽ chịu khổ cực. Qua đó cho thấy sự phi thường và ý chí mãnh liệt của người anh hùng, đầy sự tự tin kiêu hãnh về sự chiến thắng ngay trước mắt.
Từ Hải đã hứa với Kiều, bảo nàng đợi mình, và chắc chắn về chiến thắng nhanh chóng của mình:
“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì?.”
Chàng đã chắc chắn với Kiều là một năm sau sẽ trở về cưới nàng, mục tiêu và thời gian cụ thể, Từ Hải đã vạch ra đường đi cho mình. Qua đó cho thấy Từ Hải là người có lí tưởng công danh, rạch ròi giữa sự nghiệp và tình cảm, có cách phấn đấu cụ thể chứ không chung chung. Với chí khí, hoài bão lớn lao và niềm tin chắc chắn, Từ Hải đã đem đến cuộc đời Kiều thứ tình yêu đẹp về cuộc sống và niềm tin về công bằng, chính nghĩa.
Sau tất cả dặn dò Kiều và lời hứa với nàng, chàng dứt khoát ra đi:
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”
|
Assignment
Heroic spirit is a unique poem by poet Nguyen Du in The Tale of Kieu, located from verses 2213 to 2230, recreating the scene of Kieu and Tu Hai's separation so that he could go on to carry out his great career. In particular, it depicts Tu Hai's beauty, stature and determination to achieve her ambitions.
The name of the excerpt, when read through, can be seen to have a great meaning: "Heroic spirit". “Will” is the high goal to aim for, “chi” is the willpower to achieve the goal, “heroic spirit” is the ideal, high goal and great determination of the hero, here referring to Tu. Sea.
At the beginning of the excerpt, the author portrays Tu Hai's appearance and image in a very unique way:
“For half a year, the fragrance of the fire is strong,
The husband was instantly touched in all directions."
Living with Kieu for half a year, while passionately in love, at a sweet climax, Tu Hai was thinking about big things, deciding to put aside the love between men and women. "Touching the hearts of all four directions" is a man's great job and will, something that Tu Hai has been preparing for a long time. That will was already present in him, only temporarily withdrawing when he was with Kieu, but now it flared up again. And "quickly" shows us the quickness in changing Tu Hai's mood and appearance, a quick action that doesn't require much thought. The author deeply respects Tu Hai as he sees him as a heroic man who quickly put aside the couple's affairs to do a great career, showing off his majestic, majestic, and poised heroic appearance.
“Looking at the immense sky,
The sword saddles its horse on a straight path."
Tu Hai looked out into the distance, portraying his generous appearance comparable to the image of heaven, earth, and the universe. "Immensity" reveals the width and height of heaven and earth, the more it highlights his position in the vast universe. The "fantastic" look is broad, lucid and contains extraordinary thoughts. The sword and horse were enough for him to walk straight on the road, alone to fulfill his wish of not turning back. That image does not make us feel alone but shows his courage.
Tu Hai left without any regrets, filled with emotions as usual
“From the words: The heart is mutually aware,
Why haven't you escaped from the ordinary girl?
Tu Hai loved and respected Kieu very much and considered her his "confidant", but when she said she wanted to go with him, she decided to go alone. Don't want to let emotions affect big karma. Tu Hai had a great ideal of fame and career, he promised Kieu very firmly "when will there be ten thousand elite soldiers", "the sound of bells will fill the earth and the shadows will cover the road", "I will show my extraordinary face", then he will be strong. Take her home, give her a prosperous and happy life, but now there is no place for her to be home, she will have to endure hardship by her side. Thereby showing the hero's extraordinary and strong will, full of confidence and pride in the victory right before his eyes.
Tu Hai promised Kieu, telling her to wait for him, and was sure of his quick victory:
“Please wait a little while,
Maybe a year from now?
He assured Kieu that he would return to marry her a year later, with a specific goal and time, Tu Hai had already outlined his path. This shows that Tu Hai is a person with career ideals, a clear distinction between career and love, and a specific way of striving, not general. With determination, great ambition and firm belief, Tu Hai brought to Kieu's life a beautiful love of life and a belief in fairness and justice.
After all the instructions and promises to Kieu, he decided to leave:
“Decided to leave,
The wind and clouds have reached their peak."
|
Bài làm
Truyền thống của dân tộc ta có vô vàn cái hay, cái đẹp. Nó thiết thực không chỉ với thời xưa, mà ngày nay những đạo lý đó vẫn còn đúng mãi, là nền tảng cho những con người văn minh, cho xã hội tiến bộ. Về vấn đề Tôn Sư Trọng Đạo,đã có những câu ca dao, tục ngữ tuy giản dị mà đầy ý nghĩa thanh cao,ó hiện diện như là một sự nhắc nhở con người ta phải sống sao cho đúng với đạo làm người có nghĩa có tình, biết quý trọng người thầy của ta như các cụ ta đã dạy. cho ta hiểu thêm về vị trí, công lao người thầy.
Cụm từ Tôn sư có nghĩa là gì đó là sự kính trọng thầy, biết yêu quý thầy. Thầy ở đây trước hết không ai khác chính là người dạy chữ, người dạy cho ta lời hay, lẽ phải không đơn thuần chỉ trong trường học, mà là cả trường đời, có lẽ cũng là người thầy dạy cho ta biết cái nghề cái nghiệp. Theo quan niệm người xưa để làm tròn phận làm trò thì phải biết thực hiện những việc tất yếu như là một trách nhiệm nhưng đầy tính tự giác và ẩn chứa biết bao tình cảm sâu sắc, luôn biết nghe lời thầy, không nên cãi lời thầy, phải luôn biết nhớ ơn dù có còn học nữa hay không, và một điều nữa là biết chăm sóc thầy khi thầy già đi, biết cúng giỗ khi thầy qua đời. Ta có thể thấy, thầy có một vị trí to lớn không kém gì cha mẹ, vì công lao của họ cũng to lớn mang đến cho ta kiến thức để ta trưởng thành, dạy dỗ, vạch đường chỉ lối cho ta, giúp ta phát triển toàn diện. Như trong câu ca dao xưa đã nhắc:
“Muốn sang thì bắc Cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”
Vậy còn Đạo là gì, đạo ở đây không gì khác chính là đạo Nho. Nó bắt nguồn từ nho giáo, nội dung nhân bản của nó nằm ở chỗ đề cao sự học, rất chú trọng nâng cao kiến thức, đi học để lấy được con chữ, tinh hoa của thế giới, nó còn đề cao cái vấn đề đạo lý chú trọng đến đạo đức cội nguồn, đặc biệt ở đây là đạo làm trò phải luôn có hiếu với người thầy đáng kính. Trong xã hội phong kiến luôn coi trọng mối quan hệ thầy trò, người thầy được kính cẩn trong nhiều khía cạnh được xã hội tôn trọng phong tên như sau (quân, sư, thầy…) và bây giờ cũng vẫn vậy nhưng đã có sự lược đi những lễ giáo rườm rà, hóa nó thành đơn giản nhưng vẫn mang đầy đủ ý niệm của sự tôn sư, biết trân trọng những kiến thức họ mang đến cho ta, không được tự biến mình thành kẻ vô ơn.
Học nhiều góp phần cho ta hiểu được vì sao chúng ta cần “Tôn sư trọng đạo” vì nó điển hình chính là sự yêu quý, trân trọng “đạo” thì mới có thể học được “đạo” ngày càng tiến bộ, mở mang được bao nhiêu kiến thức một cách chủ động. Nó còn giúp ta biết hướng mình về những cái đẹp, hướng đến những giá trị đạo đức quý giá, làm cho gia đình và xã hội cũng được phát triển đi lên. Nếu như không có đạo, con người sẽ sống trong cảnh tối tăm, xấu xa, gia đình, xã hội rối loạn. vì vậy sớm nhận thức được ý nghĩa nhân sinh đơn giản trong câu nói này đơn giản chính là sự quý trọng, biết ơn, tỏ lòng thành kính với người đã dạy dỗ mình, coi trọng điều thầy dạy, làm theo, học hỏi thêm, phải biết chăm lo học hành từng ngày một, giữ cái đạo ấy trong tâm trí, làm nhân rộng thêm tiếng thơm cho thầy với đời.
Thực tế, trong bao nhiêu năm lịch sử nước ta, nhờ truyền thống tôn sư trọng đạo nhân dân ta đã duy trì được nền văn hiến của đất nước, biết bao nhiêu gương mặt trò ngoan, hiếu học, người thầy tuyệt vời, mẫu mực, ở họ có những điểm chung gắn kết để tạo nên câu chuyện cảm động giữa thầy và trò mà nối tiếp biết bao nhiêu thế hệ. Trò khiêm tốn, bỏ qua địa vị ngoài xã hội kia, tình cảm họ dành cho người thầy của mình vẫn vẹn nguyên sự chân thành, lễ phép. Người thầy thì luôn tỏa sáng với nhân cách đúng mực của mình, khiêm tốn với tài năng của mình trước biết bao thế hệ học trò.
Càng ngày xã hội càng phát triển, xã hội rất quan tâm đến giáo dục, đầu tư, tu sửa cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho học tập, tăng lương cho cán bộ công nhân viên ngành giáo dục, nhân dân ta được hưởng nền giáo dục dân chủ, làm không khí giữa thầy và trò thêm gần gũi, tạo điều kiện nhiều hơn cho con em được đi học, các thầy cô nâng cao tự chủ trong việc truyền dạy kiến thức không chỉ trong sách vở, mà còn cả ngoài cuộc sống bao la, có những thầy cô rộng lòng giúp đỡ phần nào với những em lang thang chưa được có một điều kiện phát triển như bạn bè chúng, Các em còn có thể tâm sự thoải mái, tin cậy với thầy cô như cha mẹ ở nhà rồi nhận được lời khuyên hữu ích, các bậc phụ huynh tin tưởng gửi gắm con em mình cho nhà trường, thầy cô … Chợt nhớ, lời bài hát văng vẳng:
“ Lúc ở nhà, mẹ cũng là cô giáo
Khi tới trường, cô giáo như mẹ hiền..
Qua đó ta thấy được tình cảm của những trò nhỏ, trò lớn gửi đến những người có công lao giúp mình phát triển nhân cách, kiến thức toàn diện, nhấn mạnh được vai trò giáo dục quan trọng giữa nhà trường và gia đình.
Nhưng bên cạnh đó, mặt tích cực dù có nhiều như thế nào, cũng có phần tiêu cực. Có những thầy cô không giữ được trong mình ngọn lửa trách nhiệm trọn vẹn, có những học sinh không thể thấy được những sự tin cậy nơi các thầy cô. Giờ đây “Xã hội hóa”, nhiều lúc ta thấy những hình ảnh thầy cô cặm cụi đi làm thêm, dạy thêm ở ngoài để kiếm thêm thu nhập, có thể vì tiền lương nhận được chưa đi đảm bảo cho người thầy một mức sống trung bình. Mức lương giáo viên được đem ra so sánh với các ngành nghề khác của xã hội bị thấp vế hơn, có những giáo viên không giữ mình trước cám dỗ của thị trường biến động. Không chỉ có vậy, ngay cả những học sinh giờ đã có hiện tượng chăm đi thăm thầy cô, quà cáp, biếu xén, thân thiết, nhưng trên lớp thì lười nhác, không nghe lời thầy cô, phụ huynh cũng không ít người thực dụng, xúc phạm, không tin tưởng vào khả năng của thầy cô, đã làm giảm đi sự nhiệt huyết của họ với nghề. Có những trò không thể nhớ thầy cô dù khi họ ra trường thành đạt, họ không biết rằng chỉ cần một tin nhắn, một cú điện thoại, những điều đơn giản gói trong tấm lòng kính trọng đối với thầy cô là đủ ư?.
|
Assignment
Our nation's traditions have countless good and beautiful things. It is practical not only in ancient times, but today those principles are still true, and are the foundation for civilized people and a progressive society. Regarding the issue of Master's Respect for Religion, there are folk songs and proverbs that, although simple but full of noble meaning, are present as a reminder that people must live in accordance with the religion of being a meaningful person. Have love and know how to value our teachers like our ancestors taught us. Let us understand more about the teacher's position and merits.
What the phrase Master means is respect for the teacher, knowing how to love the teacher. The teacher here is first and foremost no one else other than the person who teaches literacy, the person who teaches us good words and common sense, not simply in school, but throughout life, perhaps also the teacher who teaches us the right profession. Karma. According to ancient beliefs, to fulfill one's duty as a student, one must know how to perform the necessary tasks as a responsibility but be self-aware and contain many deep emotions, always know how to listen to the teacher, and not disobey. Teacher, you must always be grateful whether you are still studying or not, and one more thing is to know how to take care of your teacher when he gets old, know how to pay tribute when he passes away. We can see that teachers have a position as great as parents, because their contribution is also great in giving us knowledge to grow, teaching us, showing us the way, and helping us develop. comprehensive development. As mentioned in the old folk song:
“If you want to go there, go across Cau Kieu
Want me or not read, the teacher asked grab"
So what is Tao? The religion here is none other than Confucianism. It originates from Confucianism, its humanistic content lies in promoting learning, paying great attention to improving knowledge, going to school to acquire letters, the quintessence of the world, it also emphasizes the problem of Morality focuses on original morality, especially here the morality that students must always be filial to respectable teachers. In feudal society, the teacher-student relationship is always valued, the teacher is respected in many aspects and is given the following names by the society (soldier, monk, teacher...) and it is still the same now but there has been a difference. Eliminate the cumbersome rituals and make it simple but still carry the full concept of respect for a teacher, knowing how to appreciate the knowledge they bring to us, not making ourselves ungrateful.
Learning a lot helps us understand why we need to "Respect the Tao" because it is typical of loving and appreciating the "Tao" to be able to learn the "Tao" to progress and expand more and more. How much knowledge can you actively gain? It also helps us orient ourselves towards beautiful things, towards precious moral values, helping our family and society to develop. Without religion, people will live in darkness, evil, family and social chaos. Therefore, soon realize the simple meaning of life in this saying is simply valuing, being grateful, showing respect to the person who taught you, valuing what the teacher teaches, following, learning more. , you must know how to take care of your studies day by day, keep that religion in your mind, and multiply your teacher's reputation in the world.
In fact, over many years of our country's history, thanks to the tradition of respecting teachers and respecting our people, we have maintained the country's civilization, with so many faces of good students, studious students, great teachers, and role models. In fact, they have things in common that connect them to create a touching story between teacher and student that continues for many generations. Students are humble, ignoring their social status, their feelings for their teachers are still sincere and polite. A teacher always shines with his correct personality and is humble with his talent in front of many generations of students.
Society is developing more and more day by day, society is very interested in education, investment, repairing infrastructure, equipment for learning, increasing salaries for officials and employees of the education sector and the people. We enjoy democratic education, making the atmosphere between teachers and students closer, creating more conditions for children to go to school, and teachers increasing their autonomy in teaching knowledge not only in books. , but also in addition to the vastness of life, there are teachers who are willing to help somewhat with wandering children who do not have the same conditions to develop as their friends. They can also confide comfortably and confidently. with teachers like parents at home and receive useful advice, parents trust their children to the school, teachers... Suddenly remember, the song lyrics echo:
“When I was at home, my mother was also a teacher
When I go to school, the teacher is like a kind mother..
Through this, we can see the love that small and large students send to those who have contributed to helping them develop their personality and comprehensive knowledge, emphasizing the important educational role between school and family.
But besides that, no matter how many positive aspects there are, there are also some negative aspects. There are teachers who cannot maintain the fire of full responsibility, and there are students who cannot see the trust in teachers. Nowadays, with "socialization", we often see images of teachers working hard and teaching outside the home to earn extra income, perhaps because the salary they receive does not yet ensure a standard of living for the teacher. medium. When compared to other professions in society, teacher salaries are lower, and there are teachers who cannot withstand the temptation of a fluctuating market. Not only that, even students now have the phenomenon of regularly visiting teachers, giving gifts, giving things, being close, but in class they are lazy, do not listen to teachers, and many parents also do this. Abuse, insult, and distrust of teachers' abilities have reduced their enthusiasm for the profession. There are students who cannot remember their teachers even when they graduate successfully. Don't they know that just a text message, a phone call, simple things wrapped in respect for their teachers is enough?
|
Bài làm
Trong kho tàng văn học Việt Nam, ca dao tục ngữ chiếm một vị trí không hề nhỏ, nó là một thể loại rất đặc trưng của dân tộc, xuất hiện lâu đời nên là một phần trong đời sống dân ta xưa, mang nội dung phản ánh chân thực, thơ bay bổng, không gò bó trong quy tắc. Có những bài ca dao đã trở nên bất hủ, nó là cái nôi nuôi nấng cho ta những ngày thơ bé từ giọng đầm ấm của người bà, người mẹ, nó thấm vào mỗi chúng ta đến khi trưởng thành, và dù có đi đâu về đâu vẫn nhớ mãi về mảnh đất này. Trong đó hẳn chẳng ai quên được những câu ca dao sau:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Bài ca dao tương đối ngắn gọn, xúc tích chỉ có vỏn vẹn bốn dòng. Đây là những nỗi vất vả của người dân nước ta, quanh năm gắn bó với ruộng đồng, một nắng hai sương để làm ra hạt gạo. Vì vậy, bài ca dao này cũng giúp ta nhận thức luôn phải biết quý trọng, biết ơn, người lao động vất vả.
Trong hai câu đầu tiên, miêu tả bức tranh chân thực sự cần cù lao động, sự cực nhọc của người dân trên những thửa ruộng dài xa tít tắp, rộng là đặc trưng điển hình của một nước có nền nông nghiệp lúa nước phát triển lâu đời:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Thấy được những thứ mang tính giúp sức cho người nông dân đỡ cực nhọc khi phải làm việc trên đất ruộng khó khăn, nhưng tác giả khéo léo tô đậm lên hình ảnh con người giữa không gian bao la, và trên từng thửa ruộng khô cằn, mở ra trước mắt ta là con trâu lầm lùi bước từng bước nặng nề, những vết chân in hằn rõ trên mặt đất, người nông dân đi sau tay bám chắc cày, gò lưng vất vả, kết hợp nhịp nhàng với vật để ghi sâu lưỡi cày xuống đất, tạo ra những rãnh đất rõ ràng. Họ đều đặn với công việc của mình từ sáng sớm tinh mơ gà mới gáy, đến trưa nắng lên đỉnh đầu mới dắt trâu lững thững về. Còn đối với những ngày vào mùa, họ còn phải làm bao nhiêu công việc như làm đất, gieo mạ … đến quên cả giờ giấc, lao động thay nhau quần quật trên đồng đến tối muộn.
Thiên nhiên nước ta tuy đẹp nhưng thời tiết nước ta vốn khắc nghiệt biểu hiện theo các ngày, các tháng, các năm vừa qua lúc mưa dầm, lũ ngập, lúc nắng gắt vậy nên người lao động làm công việc ngoài trời đã khổ, người nông dân làm việc trên đồng còn khổ hơn gấp nhiều lần. Rất nhiều câu thơ, câu văn trong nhiều tác phẩm điển hình đã cùng cảm thông với vất vả cho người dân lao động:
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy…”
(Hạt gạo làng ta- Trần Đăng Khoa)
Miêu tả những câu thơ này càng làm khắc sâu sự cố gắng, cực nhọc của người làm nông nghiệp. Thời điểm trưa có lẽ là lúc chân thực nhất để lột tả nỗi vất vả này. Tác giả sử dụng biện pháp so sánh trong câu thơ thứ hai, và từ tượng thanh “thánh thót” để chỉ sự rơi nhiều, nhanh như mưa vậy. Mồ hôi họ ra làm bạc hẳn cái màu áo nâu sần, rồi lặng lẽ lăn trên má thành từng dòng chảy xuống đất, giữa cái nắng mùa hè chói chang, yên ả giữa cánh đồng bao la ta nghe được tiếng giọt mồ hôi rơi. Nên đây có thể được nói đến như là việc khó khăn, nặng nhọc nhất của nhà nông. Qua câu thơ này có thể nhanh hiểu tác giả đã vận dụng biện pháp cường điệu nhưng cũng lại nhanh chóng hiểu ra đây là cách thông minh để nhằm gửi gắm vào đó sự xót xa, sự đồng cảm, trân trọng từ đáy lòng. Có lẽ để được bát gạo trắng trong kia đã phải đổi bằng vô số giọt mồ hôi.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Đây là lời nhắc nhở trọn vẹn, tưởng chừng như dễ hiểu, đơn giản nhưng đầy ẩn ý sâu sắc. Và ta cũng hiểu Hiếm ai khi cầm chén cơm trên tay lại nhớ đến người làm ra nó vất vả, cực nhọc ra sao?. Rồi có khi trời thiên tai ập đến, người ta mang trong mình bao nhiêu nỗi lo, không chỉ lo về tính mạng con người, mà còn lo về cái miếng cơm manh áo của gia đình họ đang còn ở trên cánh đồng kia, họ gian lao, cần cù suốt cả năm trời, để đánh đổi lại là sự mất trắng, rồi cả khi mưa lớn, hạn hán mất mùa họ cũng chẳng quản hi sinh thân mình làm mọi biện pháp giúp cây lúa chống hạn, chống úng… ai thấu được nỗi khổ này?. Nên có thể nói được vụ mùa cũng phải phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Khi bưng chén cơm thơm dẻo, đầy kia chính là lúc thích hợp để nói lên lời này. Để khắc sâu trong tâm khảm chúng ta về cái nỗi cực khổ của người nông dân làm ra hạt gạo khó vô cùng, có khi phải đánh đổi bằng hàng bao nhiêu mồ hôi, thậm chí nước mắt đắng cay.
|
Assignment
In the treasury of Vietnamese literature, folk songs and proverbs occupy a significant position, it is a very typical genre of the nation, has appeared for a long time, so it is a part of our ancient people's life, carrying content. True reflection, uplifting poetry, not constrained by rules. There are folk songs that have become immortal, they are the cradle that nourishes us in our childhood days from the warm voice of our grandmothers and mothers, they permeate each of us until we grow up, no matter where we go. Wherever I go, I will always remember this land. Among them, no one will forget the following folk songs:
Plowing the fields at noon
Sweat is like rain from plowing fields
Someone please bring a bowl full of rice
A flexible aromatic bitter seeds want to share.
The folk song is relatively short and concise, with only four lines. These are the hardships of the people of our country, all year round sticking to the fields, one sun, two frosts to make rice grains. Therefore, this folk song also helps us realize that we should always appreciate and be grateful to people who work hard.
In the first two sentences, the true picture of the hard work and drudgery of the people on the vast, long fields is described, a typical characteristic of a country with developed wet rice agriculture. ancient:
Plowing the fields at noon
Sweat is like rain from plowing fields
Seeing things that help farmers relieve hardship when working on difficult farmland, the author skillfully highlights the image of people in the vast space, and on each dry field. , opening before our eyes is a buffalo taking heavy steps backwards, its footprints clearly imprinted on the ground, a farmer walking behind holding the plow firmly, his back hunched hard, combining rhythmically with the object to record. Deep plow blades into the ground, creating clear grooves. They are regular with their work from early in the morning before the rooster crows, and at noon the sun rises above the head before slowly leading the buffalo home. As for the days of the season, they still have to do so much work such as tilling the land, sowing seeds... that they forget all the time, taking turns working in the fields until late at night.
Although our country's nature is beautiful, our country's weather is inherently harsh, manifesting itself in the past days, months, and years in heavy rain, floods, and hot sunshine, so workers doing outdoor work have suffered. Farmers working in the fields suffer many times more. Many poems and sentences in many typical works sympathize with the hardships of working people:
Rice grains in our village
There are storms in July and rain in March
Drops of sweat fall on June afternoons
The water looks like someone cooked the marlin to death
Crabs emerged from the shore, my mother went down to plant them..."
(Rice grains in our village - Tran Dang Khoa)
The description of these verses further emphasizes the efforts and hardships of agricultural workers. Noon is probably the most realistic time to portray this hardship. The author uses simile in the second verse, and the onomatopoeia "holy thunder" to refer to the fall as much and as fast as rain. Their sweat completely faded the rough brown color of their shirts, then silently rolled down their cheeks in streams that flowed to the ground. In the bright summer sun, in the quiet middle of the vast fields, we could hear the sound of sweat drops falling. So this can be said to be the most difficult and arduous task for farmers. Through this verse, we can quickly understand that the author has used hyperbole, but we can also quickly understand that this is a smart way to convey sadness, sympathy, and appreciation from the bottom of our hearts. Perhaps to get that bowl of white rice, I had to exchange countless drops of sweat.
Hey, bring a bowl full of rice,
A flexible aromatic bitter seeds want to share.
This is a complete reminder, seemingly easy to understand, simple but full of profound implications. And we also understand. Rarely does anyone who holds a bowl of rice in their hand remember how hard it was for the person who made it? Then, when natural disasters strike, people carry so many worries, not only worrying about human life, but also worrying about the food and clothing of their families still in that field. They work hard and diligently all year long, but in return they lose everything, and even when heavy rains or drought fail, they do not hesitate to sacrifice themselves to take every measure to help rice plants resist drought and waterlogging... Who can understand this suffering? So it can be said that the crop also depends a lot on the weather. When holding a bowl of fragrant, full rice is the right time to say these words. To engrave in our hearts the suffering of farmers who produce rice is extremely difficult, sometimes at the cost of countless sweats and even bitter tears.
|
Bài làm
Trong tuổi thơ của mỗi người, ai cũng có những kỉ niệm đáng nhớ về thầy cô giáo, về bạn bè của mình, những kỉ niệm đó được xen lẫn với những cảm xúc buồn vui được khắc sâu trong tâm trí mỗi người.Riêng em cũng vậy, em cũng có một kỉ niệm không thể nào quên, kỉ niệm sâu sắc với cô giáo đáng kính của em.
Năm ấy, khi em học lớp 9 đó là năm cuối cấp và cũng là năm học rất quan trọng khi phải đứng trước ngưỡng cửa sắp sửa bước vào trường THPT. Hằng năm, trường thường tổ chức cho học sinh lớp 9 thi học sinh giỏi các môn văn hóa. Em cũng thấy mình có khả năng, muốn thử sức mình vì vậy đã mạnh dạn đăng kí tham gia thi môn lịch sử. Đây là môn học mà 5 năm học em thường rất lười học. Khi đó em đã được gặp cô, đây là một người cô mà em đã thầm ngưỡng mộ và kính yêu từ rất lâu. Cô tên là Mai Anh, hiện tại cô được nhận trách nhiệm từ phía nhà trường là làm giáo viên bồi dưỡng đội tuyển thi học sinh giỏi môn Lịch Sử khối lớp 9. Cô có dáng người nhỏ nhắn, làn da trắng, mặt cô hình trái xoan, đặc biệt là đôi môi của cô được tô điểm với màu cam tươi phù hợp với khuôn mặt và lúc nào cũng tươi cười thân thiện với học sinh và đồng nghiệp, cả khuôn mặt cô toát lên đầy vẻ hiền dịu, rạng rỡ.
Cô luôn luôn chủ động giúp đỡ, ân cần với chúng em rất nhiều trong việc học tập và ôn luyện để đi thi học sinh giỏi. Cô luôn lên lớp với một tinh thần thoải mái điều đó đã góp phần tạo cho chúng em những tiết học sôi nổi, kích thích tính tò mò muốn được khám phá nhiều hơn về kho tàng lịch sử phong phú của Việt Nam và nhân loại, dễ dàng giúp chúng em tiếp thu kiến thức.
Em khi đó còn là một cô bé rất hay chủ quan về học tập, luôn cho mình là học được, rồi tỏ ra bất cần những lời khuyên,tự cho mình đã biết, thành thạo mọi thứ. Nên em đã phạm một sai lầm to lớn đó là thay vì ngồi ở nhà làm đề và bài tập cô giáo để ôn thi thì em lại đi chơi nên khi đến hạn chót em làm bài tập qua loa. Kết quả là kì thi học sinh giỏi cấp thành phố em đã đạt được điểm thấp so với mục tiêu của bản thân mình, một số điểm em không bao giờ tưởng tượng được nó gây xấu hổ với bạn bè cùng thi, báo tin về gia đình, em chán nản, tràn thất vọng. Nhưng một tin rất may mắn đến với em lúc đó là em vẫn lọt được tham gia vòng thi cấp tỉnh, điều đó đúng nghĩa như là một lời cảnh tỉnh cho em, em khôi phục quyết tâm cao độ của mình,cộng với sự chỉ bảo vô cùng tận tụy, đầy tâm huyết của người đi trước truyền lại cho thế hệ sau, em đã cải thiện lên, chịu khó thu thập kiến thức, ôn bài hàng ngày, hạ bớt áp lực sau mỗi buổi học bằng cách đi ăn kem, đi chơi cùng cô sau giờ học, chỉ trong mấy ngày trước kì thì một thời gian không quá dài em đã bớt được áp lực của sự mất tự tin lần thi trước, nhanh chóng trở lại đầy mạnh mẽ, với kiến thức vững hơn rất nhiều so với trước. Và kết quả đã tiến triển tốt, kì thi ấy đã đến, em đã vượt qua nó một cách dễ dàng, nhận tin đạt được giải, chưa cần biết là giải gì em đã vui mừng khôn tả, mừng vì bài học của cô em đã hấp thụ, mừng vì thời gian chăm chỉ, tập trung cao đúng như các cụ ta có nói “Có công mài sắt, có ngày nên kim”,em cảm thấy môn sử khá là dễ, dần yêu thích nó từ khi nào mà không biết, mừng vì em đã cải thiện được tính tự cao, tìm được ra cách học đúng đắn cho bản thân.
Sau khoảng thời gian đó,Cô Mai Anh thấy được khả năng của em nên đã động viên em nên đi thi vào trường chuyên của thành phố với môn Lịch Sử, cô nói với em rằng bước chân vào ngôi trường này em sẽ có thể thay đổi cách suy nghĩ, cách nhìn nhận, các quan điểm của em một cách tích cực, tiến bộ, là động lực để em nuôi dưỡng niềm yêu thích gắn bó đến mãi sau này, và được tiếp xúc với môi trường rèn luyện tích cực. sẽ giúp em phát triển tích cực được lực học của em.Nó sẽ là nơi thầy cô, để hướng dẫn em trên con đường nghiên cứu môn lịch sử tiếp những chặng còn lại. Nhưng đứng trước lời khuyên đó, em lại một lần nữa cảm thấy mình nhỏ bé, tự ti không biết làm cách nào mới có thể bước qua được cánh cổng trường chuyên cao quý, xa tầm với với em như vậy, em thổ lộ với cô điều em lo sợ rằng mình không học giỏi đều các môn đặc biệt là Toán, lí, Hóa, chỉ thấy năng lực cho phép học tốt được các môn còn lại. Trong đầu luôn băn khoăn với một câu hỏi “LIệu em có học được, rồi thì đỗ được không?”.
|
Assignment
In everyone's childhood, everyone has memorable memories of their teachers and friends. Those memories are mixed with happy and sad emotions that are engraved in everyone's mind. Particularly me. Likewise, I also have an unforgettable, profound memory with my respected teacher.
That year, when I was in 9th grade, it was my senior year and also a very important year when I had to stand on the threshold of entering high school. Every year, the school often organizes competitions for excellent students in cultural subjects for 9th grade students. I also felt that I had the ability and wanted to test myself, so I boldly signed up to take the history exam. This is a subject that after 5 years of studying, I am often very lazy to learn. At that time I met her, this was an aunt that I had secretly admired and loved for a long time. Her name is Mai Anh, currently she has been given the responsibility from the school to be a teacher to train the 9th grade history excellent student exam team. She has a small figure, white skin, and a shaped face. Oval, especially her lips are decorated with a bright orange color that matches her face. She is always smiling and friendly with students and colleagues. Her whole face exudes gentleness and radiance. .
She always actively helps and is very considerate with us in studying and reviewing to take the excellent student exam. She always goes to class with a relaxed spirit, which has contributed to creating exciting lessons for us, stimulating our curiosity to discover more about the rich historical treasures of Vietnam and humanity. easily helps us absorb knowledge.
At that time, I was still a very subjective girl about learning, always thinking that I could learn, then acting like I didn't need advice, thinking that I already knew and was proficient in everything. So I made a big mistake: instead of sitting at home and doing homework and studying for the teacher's exam, I went out, so when the deadline came, I did my homework quickly. As a result, in the city-level exam for excellent students, I achieved a low score compared to my goal. Some scores I never imagined were embarrassing to my fellow exam-takers, informing my family. family, I'm depressed and full of disappointment. But the very lucky news that came to me at that time was that I was still able to participate in the provincial round. That was literally a wake-up call for me. I regained my high determination, combined with the With great dedication and enthusiasm passed down from my predecessors to the next generation, I have improved, worked hard to gather knowledge, review lessons every day, and relieve pressure after each class by going out to eat. ice cream, going out with her after school. In just a few days before the exam, in a not too long time, I was relieved of the pressure of losing confidence in the previous exam, quickly coming back full of strength, with solid knowledge. much more than before. And the results went well, the exam came, I passed it easily, received the news of winning the prize, no matter what the prize was, I was indescribably happy, happy for my teacher's lesson. I have absorbed it and am glad for the time of hard work and high concentration, just like our elders said, "If you work hard, you will make money." I feel that history is quite easy, and I have come to love it ever since. I don't know, I'm glad that I have improved my pride and found the right way to study for myself.
After that period of time, Ms. Mai Anh saw my abilities so she encouraged me to take the entrance exam to the city's specialized school with the subject of History. She told me that by entering this school I would be able to change my life. Changing my way of thinking, looking at things, and my opinions in a positive and progressive way is the motivation for me to nurture a love that will last forever, and to be exposed to a positive training environment. . will help you actively develop your learning ability. It will be the teacher's place to guide you on the path of studying history to continue the remaining stages. But faced with that advice, I once again felt small and self-conscious, not knowing how I could pass through the gate of a noble specialized school that was so out of reach for me, I confided to What I'm afraid of is that I'm not good at all subjects, especially Math, Physics, and Chemistry. I only see the ability that allows me to study the remaining subjects well. Always wondering in my mind, "Will I be able to study and will I be able to pass?".
|
Bài làm
Đại Việt Sử kí toàn thư là một bộ chính sử của Việt Nam, còn mang trong mình đậm tính văn học, tác phẩm thể hiện được rõ tinh thần dân tộc mạnh mẽ qua các thời kì lịch sử dân tộc, được sáng tác bởi tâm huyết của nhà tiến sĩ sử học nổi tiếng thời Lê Thánh Tông- Ngô Sĩ Liên. Trong toàn tác phẩm, ông còn chú trọng đến miêu tả những nhân vật lịch sử khí chất nhiều anh hùng trong đó có người anh hùng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, toát ra qua ngôn từ, những tình tiết câu chuyện hấp dẫn.
Ta có thể chia đoạn trích làm hai phần rõ rệt: Phần đầu là Từ Đầu cho đến mới cho Quốc Tảng vào viếng” chính là để nói rõ về tài trí bẩm sinh,anh hùng dân tộc kiệt xuất, trung quân, ái quốc, hết lòng tận tụy cống hiến, vì nước quên thân, chính vì vậy mà ông hay được người đời coi trọng, được nhắc đến nhiều mỗi khi Vua gặp khó khăn về vấn đề đại sự” Phần hai là “đoạn còn lại” là để kể về công lao tiếp nối của ông lúc còn sống, những phẩm chất nhân cách của ông được ngời sáng khẳng định rằng ông chính là một nhân vật lịch sử ta đáng tự hào.
Mở đầu đoạn trích, tác giả linh hoạt kể về nhân vật lịch sử nhưng không đơn điệu theo trình tự thời gian. Từ việc sao sa như điềm báo ứng Hưng Đạo Đại Vương ốm nặng, cùng lời trả lời dõng dạc trước nhà vua cho người đọc hình dung được về một vị tướng tài với lối suy đoán quân sự tài tình.. ông thể hiện được mình là một vị tướng tài ba mưu lược có tầm nhìn xa rộng thể hiện qua cách đối đáp của ông kể cả bị bệnh nằm giường với vua về kế sách đánh giặc, là người ham hiểu biết nên ông đã nói có chứng cớ rõ ràng với mỗi lời nói của mình “Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước,…Đời Đinh, Lê…Vua Lí mở nền…Vừa rồi Toa Đô,Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây,… Các dẫn chứng lịch sử càng củng cố cho lối suy nghĩ của vị anh hùng này.
Ông đã tâu trình với vua theo phỏng đoán tài ba của một nhà quân sự lỗi lạc về cách dùng binh và thượng sách giữ nước: “…Nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường là sự thường của binh pháp… Xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc…Ông còn khẳng định đây chính là “ Thượng sách giữ nước” chứng tỏ ông có tư tưởng thương dân của bậc lương thần, ông biết chú trọng đạo lý cốt lõi cho mỗi trận thắng vang dội là vai trò và sức mạnh đoàn kết ở toàn dân tộc.
Hình ảnh vị tướng tài này một người anh hùng dân tộc, tài cao, đức trọng được thể hiện qua dòng lịch sử: Khi mới lọt lòng, Qua lời thầy tướng “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Khi lớn lên tuổi trưởng thành, “ dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ”. Đến khi cha mất, vô cùng dũng cảm, thương cha ghi tạc niềm tin tưởng của cha là giúp ông giành được thiên hạ, nhưng suy nghĩ của ông thấu đáo nên chưa hẳn bằng lòng, trong ông thể hiện mối mâu thuẫn thường trực giữa hiếu và trung. Thể hiện qua câu dặn dò của cha trước khi lâm chung: “con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha ở dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”, ông “để điều đó trong lòng nhưng không cho là phải”. Ông có lý lẽ của riêng mình là phải nên làm việc của đất nước để giữ lấy cái đại hiếu,rồi mới suy nghĩ đến tình nhà.
Đến khi có quyền quân, quyền nước, ông đem câu chuyện của cha mình mới kể lại cho hai người gia nô theo hầu thân cận với ông, để hỏi ý kiến. Được câu đáp từ Yết Kiêu và Dã Tượng khẳng định: “làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm….Chúng tôi xin chết …chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu….” Và “Chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi” lời nói một lòng của hai con người này, ta cũng thấy được đây là người trung nghĩa với đất nước, có cùng chí hướng với Trần Quốc Tuấn, sẵn sàng nguyện xin trong sach, một lòng phục vụ cho ông, Thì thái độ, hành động của Trần Quốc Tuấn chứng tỏ được ông thật sự xứng đáng với một con người đức độ vô cùng lớn lao: “cảm phục đến khóc”, “khen ngợi” hai con người này.
Cách giáo dục hai người con của vị tướng này vốn tưởng thông thường nhưng cũng thể hiện được tấm lòng trung nghĩa của ông với vua: Cuộc đối thoại đầy nhu mềm giữa người cha và các con qua câu hỏi thăm dò tư tưởng đơn giản “Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?”,. Ông cho là “phải” khi nhận được câu trả lời của người con cả tên Hưng Vũ Vương: “Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!”. cũng cứng rắn đầy nghiêm khắc trong những suy nghĩ sai lệch của người con trai thứ Quốc Tảng “ Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ”. Ông bèn lập tức “rút gươm kể tội”, “ định giết”, “tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra”. Lúc đó, “Hưng vũ vương khóc lóc, xin chịu tội thay ông mới tha”. Chứng tỏ một điều cho ta thấy rằng tâm hồn và chí hướng, sự suy nghĩ của Hưng Vũ Vương thật rất giống như người cha.
Sau khi mất, Trần quốc Tuấn được vua phong tặng rất trọng hậu “Thái sư thượng phụ quốc công Nhân vũ hưng đạo đại vương” vì là một điều dễ hiểu những nhân vật lịch sử sau khi chết mới được khẳng định tài năng, nhân cách quý sau biết bao nhiêu câu chuyện thực, sau tất cả mới có thể khẳng định được đúng đắn về nhân cách của những nhân vật lịch sử.
Qua đoạn văn tiếp theo, ta thấy được đi kèm với sự trung nghĩa, tướng tài trên mặt trận” nhưng ông vẫn giữ được cho mình cái sự khiêm tốn nhất mực, không thiên vị “Lại vì ông có công lao lớn,…..chưa bao giờ phong tước cho một người nào”.
Ông còn “từng soạn sách khích lệ tướng sĩ dưới quyền..”, sưu tập binh pháp các nhà thành quyển Vạn kiếp tông bí truyền thư. Điều này thấy được, con người chúng ta nói đến này quả là tận tình giúp đỡ người khác, yêu quý người khác, biết truyền kinh nghiệm của mình cho mọi người chứ không cất làm của riêng.
Ông còn rất cẩn thận phòng chuyện hậu sự sau cái chết của mình “hỏa táng, vật tròn đựng xương, bí mật chôn…,”
|
Assignment
Dai Viet Su Ky Toan Thu is an official history of Vietnam, also rich in literature, the work clearly shows the strong national spirit through the periods of the nation's history, composed by the heart of the nation. The blood of the famous historian of the Le Thanh Tong dynasty - Ngo Si Lien. Throughout the work, he also focused on describing historical characters with heroic temperament, including the hero Hung Dao Dai Vuong Tran Quoc Tuan, exuding through words and attractive story details.
We can divide the excerpt into two distinct parts: The first part is "From the beginning until Quoc Tang's visit" is to clearly talk about the innate intelligence, outstanding national hero, loyal soldier, patriot, devoted wholeheartedly, forgetting himself for the sake of the country, that is why he is often respected by people and mentioned many times when the King has difficulty with important matters." Part two is "the remaining paragraph" is to Talking about his continued contributions while alive, his personality qualities shine brightly, confirming that he is a historical figure we are proud of.
At the beginning of the excerpt, the author flexibly tells about historical figures but not monotonously in chronological order. From the fall of the stars as a sign of Hung Dao Dai Vuong's serious illness, along with his clear answer to the king, the reader can imagine a talented general with ingenious military speculation.. he was able to express himself. He was a talented and strategic general with a far-sighted vision that was shown through his way of responding, even when he was sick in bed, with the king about plans to fight the enemy. He was curious and knowledgeable, so he spoke with clear evidence to the king. each of his words "Once upon a time, Trieu Vu built the country...During the Dinh and Le dynasties...King Ly opened the foundation...Just now Toa Do and O Ma Nhi were besieged on all four sides...Historical evidence further strengthens this way of thinking." of this hero.
He reported to the king according to the talented conjecture of an eminent military man about how to use troops and the best strategy to defend the country: "...He relies on the battlefield, we rely on the short soldiers. Using short soldiers to control the field is a common practice of strategy... Considering the power of change, like playing chess, depending on the situation, only if we have an army with the same heart as father and son can we use it. Furthermore, using the people's strength to make a deep-rooted plan... He also affirmed that this is the "highest policy of preserving the country" proving that he has the mindset of loving the people of a good god, he knows how to focus on core ethics for the people. Each resounding victory represents the role and strength of unity in the entire nation.
The image of this talented general, a national hero, highly talented and virtuous, is shown through history: When he was just born, through the general's words, "This person can one day help the country save lives." When he grew up into adulthood, "he had a handsome appearance, was smarter than others, read a lot of books, and was talented in literature and martial arts." When his father passed away, he was extremely brave and loved his father, remembering his father's belief in helping him win the world, but his thinking was so thorough that he was not completely satisfied. In him, he expressed the constant conflict between filial and loyal. Expressed through his father's advice before his death: "If you don't win the world for me, I won't be able to close my eyes under the golden stream", he "keeps it in his heart but doesn't think it's right". He has his own argument that he should do the country's work to maintain great filial piety, and then think about family love.
When he had military power and country power, he told his father's story to two servants who were close to him to ask for their opinions. The response from Yet Kieu and Da Tuong affirmed: "Even though doing that plan will bring you wealth for a while, it will leave a bad reputation for thousands of years... We would like to die... rather than being an official without loyalty..." And "I only ask that Duyet, the person who slaughters goats, be my teacher" is the sincere words of these two people. We can also see that this is a person who is loyal to the country, has the same ambition as Tran Quoc Tuan, and is willing to Praying in the book, wholeheartedly serving him, Tran Quoc Tuan's attitude and actions prove that he is truly worthy of a person of extremely great virtue: "admired to the point of tears", "praised". Praise” these two people.
This general's way of educating his two children was seemingly common, but it also demonstrated his loyalty to the king: The soft dialogue between father and children through simple thought-probing questions " The ancients had the whole world to pass on to their children and grandchildren, what do you think? He thought it was "right" when he received the answer from his eldest son named Hung Vu Vuong: "Even if they have different surnames, it is still not right, let alone the same surname!". was also tough and strict in the wrong thoughts of Quoc Tang's second son, "Tong Thai To was originally an old man who worked in the fields, and took advantage of the opportunity to rise up and gain the world." He immediately "pulled out his sword to confess his crime", "intended to kill", "the psychotic man came from an unfilial son". At that time, "Hung Vu Vuong cried and begged to forgive him for his sins." Proving one thing to us is that Hung Vu Vuong's soul, ambition, and thinking are very similar to his father.
After his death, Tran Quoc Tuan was highly honored by the king with the honorary title "Grand Master of the National Cong Nhan Vu Hung Dao Great King" because it is easy to understand that only after death did historical figures have their talents and personalities affirmed. Only after countless true stories can we truly confirm the personalities of historical figures.
Through the next paragraph, we see that along with his loyalty and talent on the battlefield, he still maintains his humility and impartiality, "And because he has great merit,... .never awarded anyone a title.”
He also "wrote books to encourage the generals under his command...", and collected military techniques from different families into the book Van Ky Sect esoteric books. This can be seen that the person we are talking about is truly dedicated to helping others, loves others, and knows how to pass on his experiences to everyone and not keep them as his own.
He was also very careful about the after-effects after his death: "cremation, round objects to hold bones, secret burial...,"
|
Bài làm
Nguyễn Du nhà đại thi hào của dân tộc Việt, người đã kết hợp được văn học dân gian, với văn học của bác học, văn học TQ và VN, kết hợp giữa cái cũ và cái mới. Sáng tác Truyện Kiều tác phẩm độc tôn trong nền văn học dân tộc, nó phản ánh trình độ nghệ thuật bậc thầy của ông, có vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt. Nhiều nhân vật trong truyện Kiều đã trở thành điển hình cho những mẫu người trong Xh cũ, mang những tính cách tiêu biểu. Từ Hải là một nhân vậttrai trọng nghĩa khí,giúp Kiều hóa nạn, góp phần đem lại phút hạnh phúc trong cuộc đời tối tăm của cô,chàng xuất hiện để khẳng định một khát vọng tha thiết của nhà thơ làm anh hùng chí lớn trong thời đại ngày xưa, có thể thấy rõ qua đoạn trích “chí khí anh hùng”.
Vị trí đoạn trích này nằm từ câu 2213-2230 trong tác phẩm, ở đây có sự sáng tạo của nhà thơ so với bản gốc truyện Kiều của TQ. Bố cục đoạn trích được chia làm ba phần rõ ràng nhằm khắc họa lên một Từ Hải bước ra trong khoảnh khắc mà lóe sáng cả một trang truyện:
Phần 1: 4 câu đầu – chí khí anh hùng bộc lộ trong hoàn cảnh đặc biệt
Phần 2:12 câu tiếp- cuộc đối thoại chân thành giữa Kiều và Từ Hải.
Phần 3:2 câu cuối- Từ Hải ra đi trước tâm trạng bộn bề của Kiều.
Thúy Kiều và Từ Hải đúng là một cặp trời định. Vì Họ rất hợp nhau người đời tấm tắc khen ngợi đôi trai tài gái sắc, số kiếp an bài cho họ cùng kết duyên, chung sống hạnh phúc, có vợ có chồng thuận hòa. Tưởng đâu đôi trẻ mãi mãi duy trì mối tình này, nhưng sống trong xã hội nhức nhối đâu có dễ gì yên thân, như theo lời Kiều, người chồng của nàng sẽ lo cho việc nước, lập nên đại cuộc hoàn thành theo nguyện vọng thôi thúc chàng:
“ Nửa năm hương lửa đương nồng.
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Cụm từ “hương lửa đương nồng” diễn tả mối tình vẫn còn đang thiết tha, dào dạt cảm xúc gắn bó giữa Thúy Kiều và Từ Hải, quãng thời gian nửa năm là vẫn là khá ngắn ngủi cho tình yêu đơm hoa kết trái. Tình cảm ai cũng quý, Nhưng tình cảm bên người vợ hiền bình yên trong ngôi nhà nhỏ, cũng không sánh nổi lòng mong mỏi khao khát được vùng vẫy, tung hoành dọc đất trời lập nên đại cuộc. Lòng đau đáu nghĩ về Đất Nước làm Từ Hải môt đấng “ Trượng Phu” đích thực muốn hy sinh, và cũng nghĩ cho tương lai sau này của gia đình nhỏ của chàng sẽ hạnh phúc đầy đủ hơn. Vậy nên từ ý chí sắt đá đã sinh ra hành động dứt khoát qua tính từ “thoắt”:
“Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thong dong”
Từ Hải trong tư thế mạnh mẽ khôn tả, với đồ đạc mang theo chỉ đơn giản là thanh gươm, một con ngựa khỏe, chàng một mình bước đi, hình ảnh dường như miêu tả rõ sự cô độc của con người giữa con đường thực hiện lý tưởng cao cả trong thời đại xưa, chàng không đi nhanh, đi thong dong nhưng đi liền một mạch. Hình ảnh của chàng nổi bật ở trong nền không gian bao la. Trong văn học xưa, khi đặt con người vào thiên nhiên vừa để thể hiện sự gắn bó với trời đất, không thì là làm nổi bật lên nhân vật một cách hoàn hảo nhất. Bao trùm trong câu thơ là sự ngợi ca người anh hùng xứng danh với tầm vóc vũ trụ.
Thúy Kiều là người vợ hết mực thương yêu Từ Hải, cô hiểu Từ Hải còn yêu cô rất nhiều nhưng cô cũng hiểu cho chí khí anh hùng luôn trỗi dậy bên trong người chồng của cô, trước tình cảnh sắp sửa ly biệt, cô cũng nhất mực đòi theo để được giúp chồng lập nên cơ đồ.
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi “
Người phụ nữ Việt Nam là vậy, luôn sống đúng, có trách nhiệm theo lời dạy bảo của ông bà, là luật lệ của xã hội phong kiến“xuất giá tòng phu” có nghĩa là người con gái đã đi lấy chồng, phải theo chồng, và vì thương Từ Hải nên Kiều muốn đi để được cùng san sẻ, gánh vác, giúp đỡ khó khăn. Lòng người đàn bà này cũng canh cánh lo lắng không thôi.Cuộc đối thoại đầy xúc cảm giữa hai người được miêu tả rõ qua mười câu tiếp:
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
“sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Từ Hải sớm thấu hiểu điều lo ngại của Kiều nhanh chóng đáp lại lời khước từ vừa đùa dí dỏm vừa an ủi người vợ. Dùng linh hoạt cụm từ “Tâm phúc tương tri”- nghĩa là biết là hiểu rõ từ trong thâm tâm, bụng dạ của nhau. Chàng có một chút trách trong câu từ của mình, chàng trách rằng “ đã như vợ chồng thì sao chưa thoát khỏi cái lối nghĩ thông thường của người đàn bà” Lời nói của Chàng hàm ý đánh giá cao vị trí của Kiều trong lòng mình.
Chàng còn vẽ ra viễn cảnh để thuyết phục nàng về lí tưởng của Từ Hải là vô cùng cao cả, có ích cho tương lai của cả hai người, Chàng sẽ phải đi đến khi nào lập nên sự nghiệp, có tinh binh đi sau, có lá cờ rợp đất thì mới trở về tìm nàng để cho nàng có một cuộc sống sung sướng
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”
Đây là một khát vọng của người anh hùng thời đại, một khát vọng đế vương. Bất chợt, chàng lại suy nghĩ về hiện thực:
“Bằng này bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?”
Chàng lại chia sẻ về những khó khăn mà Từ Hải đã và đang và sẽ gặp phải nó quá to lớn “bốn bể không nhà” là hình ảnh thường gắn với người anh hùng trong lịch sử mưu đồ lập sự nghiệp lớn, đó cũng là lí do Từ Hải không cho Kiều đi theo vì khó khăn quá lớn người con gái thân mềm yếu không thể chịu được. Chàng cũng đưa ra lời hứa bằng danh dự cho Kiều yên lòng, dặn dò kiều cố gắng chờ đợi, một năm sau sẽ trở về cùng nàng sum họp:
“Đành lòng chờ đó ít lâu.
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đây quả là một quyết tâm sắt đá, khí thế hơn người, luôn tin tưởng vào tài năng của bản thân mình sẽ lập nên đại cuộc, mọi thứ níu kéo cũng không thể làm lung lay chí hướng lớn lao của người anh hùng ấy.Chỉ thấy được đây là người có lí tưởng lớn, rạch ròi giữa chuyện tình cảm và sự nghiệp, có hướng phấn đấu cụ thể.
“Quyết lời dứt áo ra đi,
|
Assignment
Nguyen Du is a great poet of the Vietnamese people, who combined folk literature with scholarly literature, Chinese and Vietnamese literature, combining the old and the new. Composing The Tale of Kieu, a unique work in national literature, it reflects his masterful artistic level and plays an important role in Vietnamese cultural life. Many characters in Kieu's story have become typical examples of people in old society, with typical personalities. Tu Hai is a noble character who helps Kieu overcome her misfortune, contributing to bringing a moment of happiness in her dark life. He appears to affirm the poet's earnest desire to be the greatest hero in the novel. ancient times, can be clearly seen through the excerpt "heroic spirit".
The location of this excerpt is from verses 2213-2230 in the work, here there is the poet's creativity compared to the original Chinese story Kieu. The layout of the excerpt is divided into three clear parts to portray a Tu Hai who steps out in a moment and lights up an entire page of the story:
Part 1: First 4 sentences – heroic spirit revealed in special circumstances
Part 2: 12 verses continued - a sincere dialogue between Kieu and Tu Hai.
Part 3: 2 last sentences- Tu Hai left before Kieu's chaotic mood.
Thuy Kieu and Tu Hai are truly a match made in heaven. Because they are so compatible, people always praise the talented and beautiful couple. Fate arranged for them to get married, live happily together, and have a harmonious husband and wife. It was thought that the young couple would maintain this love forever, but living in a painful society is not easy to have peace of mind. According to Kieu, her husband will take care of the country's affairs and create great plans to fulfill his wishes. urge him:
“For half a year, the scent of fire is strong.
The man was instantly touched in all directions.
The phrase "fragrance of fire is still strong" describes the still passionate love, full of emotional attachment between Thuy Kieu and Tu Hai. Half a year is still quite a short time for love to bear fruit. Everyone's love is precious, but the love of a peaceful and gentle wife in a small house cannot compare to the longing and desire to struggle and roam the earth and sky to create a great cause. His heart aches thinking about the Country that Tu Hai is a true "Man" who wants to sacrifice, and also thinks that the future of his small family will be happier and fuller. So from the iron will, decisive action was born through the adjective "quickly":
“It looks like a vast sky,
Sword, saddle, and a leisurely journey."
Tu Hai in an indescribably strong posture, carrying only a sword and a strong horse, walking alone, the image seems to clearly depict the loneliness of people on the real road. embodying the lofty ideals of ancient times, he did not walk fast, he walked leisurely but walked in one go. His image stands out in the vast space background. In ancient literature, placing humans in nature not only shows the attachment to heaven and earth, but also highlights the character in the most perfect way. Covered in the poem is the praise of a hero worthy of cosmic stature.
Thuy Kieu is a wife who loves Tu Hai very much. She understands that Tu Hai still loves her very much, but she also understands that the heroic spirit is always rising inside her husband. In the face of the impending separation, she also insisted on following her so she could help her husband build a fortune.
“She said: The fate of a submissive girl,
If you go, I also want to go."
Vietnamese women are like that, always living correctly and responsibly according to the teachings of their grandparents, the rule of feudal society. husband, and because she loved Tu Hai, Kieu wanted to go to share, shoulder, and help with difficulties. This woman's heart is also filled with anxiety. The emotional conversation between the two is clearly described in the next ten sentences:
“From the words: The heart and soul know each other,
“Why haven't you escaped from ordinary women yet?
Tu Hai soon understood Kieu's concerns and quickly responded to the refusal with a witty joke and comforted his wife. Flexibly use the phrase "Confidants know each other" - meaning to know is to understand clearly from each other's heart and stomach. He had a bit of blame in his words, he blamed that "Since we are husband and wife, why haven't we escaped the usual way of thinking of women?" His words imply that he highly appreciates Kieu's position in his heart. .
He also drew a vision to convince her that Tu Hai's ideals were extremely noble and beneficial for both of their futures. He would have to go until he established a career and had good soldiers to follow. Only when the flag covers the ground will he return to find her so she can have a happy life
“When will the 100,000 elite soldiers
The sound of gongs shook the earth, shadows filled the street
Make your face extraordinary
Then I will take her into my family.”
This is an aspiration of an era's hero, an imperial aspiration. Suddenly, he thought about reality again:
“This means four oceans without a home,
Theo is even busier, who knows where to go?
He shared again about the difficulties that Tu Hai has been and will encounter. They are too great. "Without a house without a house" is an image often associated with a hero in history trying to establish a great career, which is also The reason Tu Hai did not let Kieu go with him was because the difficulty was too great for the weak-minded girl to bear. He also made a promise of honor to reassure Kieu, telling her to wait a year and return to reunite with her a year later:
“Please wait a little longer.
Maybe a year from now!”
This is truly an iron determination, more spirit than others, always believing in his own talent to create great things, everything that holds him back cannot shake that hero's great ambition. We can only see that this is a person with great ideals, a clear line between love and career, and a specific direction of striving.
“Decided to leave,
|
Bài làm
Ở Nước ta, Tết nguyên đán được xuất phát với ý nghĩa như là kì nghỉ ngơi dài vì nhân dân phải cặm cụi làm lụng vất vả quanh năm, đây là dịp mọi người cùng nhau háo hức tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, tình cảm xóm làng tăng,đón mừng một mùa mới căng tràn niềm tin. Nên “Tết” dù trải qua bao nhiêu năm tháng vẫn mang đầy đủ các nét đẹp truyền thống, giá trị văn hóa đạo đức vô cùng to lớn.
Toàn bộ dịp lễ là kéo dài vào khoảng 7-8 ngày của năm cũ và 7 ngày đầu của năm mới. Trước ngày Tết Tất cả các thành viên trong gia đình đều giúp nhau chuẩn bị mọi thứ đầy đủ. Các mẹ, các chị thì lo việc bếp núc, cổ bàn, còn những người đàn ông, con trai thì lo quét dọn nhà cửa, vườn tược, bàn thờ gia tiên cho trang nghiêm, vứt bỏ đi những thứ không còn tốt, không cần thiết, sắm sửa trang hoàng nhà cửa, mọi thứ được kiểm soát sao cho sạch đẹp nhất có thể theo đúng nghĩa một năm mới.
Dường như mọi thứ đặc trưng cho dịp tết cổ truyền của dân tộc có thể được hiện lên sống động qua những hình ảnh trong 4 câu thơ sau:
“Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng.
Cả đêm cuối chạp nướng than hồng
Quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn
Cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông”
(“Tết Quê Bà”- Đoàn Văn Cừ)
Tết mang ý nghĩa là ngày của sự đoàn tụ, là ngày để mọi người con xa trở về với gia đình huyết thống của mình. Và Cả một năm mọi người vất vả, ăn uống không đầy đủ, nên tết đến dù bất cứ gia đình nào có khó khăn thiếu thốn đến đâu cũng sắm sửa cho nhà một trong số những đặc sản của ết để dâng lên tổ tiên như chiếc “bánh chưng xanh vuông vức” ở miền Bắc, còn ở miền nam là “ bánh tét”,“ Thịt mỡ đông ngầy ngậy”, “dưa hành tới độ thơm nức”, “cơm tám”, “mâm ngũ quả” bày biện kĩ lưỡng. Trên mâm cỗ cũng có thể xuất hiện những món thịnh soạn đặc thù từng miền, tùy điều kiện để dâng lên ông bà tổ tiên, vừa thể hiện được sự khác biệt, vừa thể hiện sự tôn kính, biết ơn bề trên, cũng làm tăng sự phong phú cho văn hóa ẩm thực ngày nay, tạo nên Tết Việt đậm đà, riêng biệt.
Cùng với đó thú treo tranh dân gian, câu đối phía sau bàn thờ hay trên các cột trụ chắc,… Nó như là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết, làm cho không gian thờ cúng trở nên cân bằng vuông vức như có khuôn phép cảm giác hài hòa, trang trọng và linh thiêng.Màu sắc rực rỡ từ những bức tranh khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình.Câu đối dân gian được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào đầy ý nghĩa, với lối vần điệu,là thổ lộ hết những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống trần thế, về năm mới và mùa xuân, đề cao đạo lý cùng những quan niệm đẹp, cầu mong mọi việc tốt lành… thể hiện được dân tộc ta là một đất nước có bề dày về văn hóa, giáo dục sâu sắc. Và nói đến tết không thể không nhắc đến hoa đào – loài hoa chỉ có vào mỗi dịp tết đến xuân sang ở miền Bắc, với người miền Nam thì có mai vàng hoặc những cây quất xum xuê với những trái quất vàng xanh, cùng những nhánh hoa nhỏ trắng điểm lộc đầy canh làm rực lên một góc phòng khách.
Bàn tay người nội trợ đảm đang được thể hiện lên một mâm cơm thịnh soạn của lễ tiễn ông Táo, lại tiếp đến là lễ tất niên được tiến hành vào trưa hay chiều ngày 30 Tết hầu như được chuẩn bị kỹ lưỡng, khéo léo, trình bày tinh tế, hài hòa, đẹp mắt nhất có thể để dâng mời ông bà, tổ tiên về sum họp, chung vui cùng con cháu và cầu mong các vị gia thần phù hộ cho gia đình có một năm mới thuận lợi, cả gia đình đứng trước bàn thờ tiên tổ, cùng thành kính thể hiện tấm lòng với những người đi trước. Sau đó, Người lớn cũng như trẻ con đều vui mừng tắm rửa gội đầu sạch sẽ bằng những chậu nước lá thơm làm cho tâm hồn, thân thể nhẹ nhàng, sảng khoái. Trong đêm giao thừa( nửa đêm 30, rạng sáng mồng một), bày biện hương án giữa sân để cúng Giao thừa, nó mang ý nghĩa quan trọng đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến, trong thời khắc thiêng liêng chuyển giao, khi trời đất gặp nhau sẽ toát ra một linh khí mà những ai lúc đó được chứng kiến cũng sẽ thấy trào dâng cảm xúc.
Ai ai cũng hớn hở, quần áo mới bảnh bao, nhiều màu sắc đặc biệt được ưa chuộng là màu đỏ, nếu chú ý quan sát ta sẽ thấy Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: lá quốc kỳ đỏ, câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ, hoa sắc đỏ …vì theo quan niệm dân gian đó là màu của sự may mắn và phát tài. Khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết “mồng một” mới thôi làm chúng ta như thấy mình thăng hoa dễ dàng mở rộng lòng đón nhận mùa xuân tuyệt đẹp đang về.
Không những thế, ngày Tết còn là dịp nhắc nhở mọi người nhớ đến những vị ân nhân của mình và cũng là dịp để thể hiện lòng biết ơn. Vì vậy trong dân gian đã có câu ca dao:
“Mồng một ăn Tết nhà cha
Mồng hai nhà mẹ, mồng ba nhà thầy.”
Dân tộc ta vốn là một nước có truyền thống trọng đạo nghĩa ân tình. Có thể thấy đây cũng là một nét đẹp đặc biệt ý nghĩa của Tết Việt, là thứ tự chúc tết luôn luôn đúng.Ta có thể thấy, cha mẹ là mang nặng nghĩa sinh thành dưỡng dục, cưu mang mỗi con người đến suốt cuộc đời, không tài nào kể xiết công lao này, nên dành những ngày đầu tiên viếng thăm sức khỏe cha mẹ, chăm sóc cha mẹ, tròn đạo làm con đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, người cũng có công lớn lao trong việc trưởng thành của mỗi chúng ta là người Thầy, ân tình cũng sâu nặng không kém, hình thức thăm hỏi người Thầy vào ngày kế tiếp vẫn được duy trì trong dịp Tết, đôi khi chỉ cần là sự ghé thăm, hỏi han bằng tình cảm chân thành cũng hơn cả là những món quà đắt giá. Vì vậy, có thể giải thích một phần Việt Nam quan trọng 3 ngày đầu Tết. Sau đó những ngày tiếp tục đi hỏi thăm hỏi han,bạn bè,họ hàng, để tăng thêm sự gần gũi,gắn kết, tình làng nghĩa xóm giữa mọi người, mang đến cho họ những câu chúc tốt lành..
Người Việt Nam luôn tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm báo hiệu một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Vì vậy mọi người cẩn thận, giữ mình tối thiểu trong ba ngày Tết, cười hoà với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối liên hệ được tốt đẹp. Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui. Những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tết còn là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi, vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là chúc nhau thêm một tuổi mới, ai cũng cầu chúc cho nhau một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng mạnh khỏe, thành đạt hơn năm cũ.
|
Bài làm
Ở Nước ta, Tết nguyên đán được xuất phát với ý nghĩa như là kì nghỉ ngơi dài vì nhân dân phải cặm cụi làm lụng vất vả quanh năm, đây là dịp mọi người cùng nhau háo hức tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, tình cảm xóm làng tăng,đón mừng một mùa mới căng tràn niềm tin. Nên “Tết” dù trải qua bao nhiêu năm tháng vẫn mang đầy đủ các nét đẹp truyền thống, giá trị văn hóa đạo đức vô cùng to lớn.
Toàn bộ dịp lễ là kéo dài vào khoảng 7-8 ngày của năm cũ và 7 ngày đầu của năm mới. Trước ngày Tết Tất cả các thành viên trong gia đình đều giúp nhau chuẩn bị mọi thứ đầy đủ. Các mẹ, các chị thì lo việc bếp núc, cổ bàn, còn những người đàn ông, con trai thì lo quét dọn nhà cửa, vườn tược, bàn thờ gia tiên cho trang nghiêm, vứt bỏ đi những thứ không còn tốt, không cần thiết, sắm sửa trang hoàng nhà cửa, mọi thứ được kiểm soát sao cho sạch đẹp nhất có thể theo đúng nghĩa một năm mới.
Dường như mọi thứ đặc trưng cho dịp tết cổ truyền của dân tộc có thể được hiện lên sống động qua những hình ảnh trong 4 câu thơ sau:
“Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng.
Cả đêm cuối chạp nướng than hồng
Quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn
Cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông”
(“Tết Quê Bà”- Đoàn Văn Cừ)
Tết mang ý nghĩa là ngày của sự đoàn tụ, là ngày để mọi người con xa trở về với gia đình huyết thống của mình. Và Cả một năm mọi người vất vả, ăn uống không đầy đủ, nên tết đến dù bất cứ gia đình nào có khó khăn thiếu thốn đến đâu cũng sắm sửa cho nhà một trong số những đặc sản của ết để dâng lên tổ tiên như chiếc “bánh chưng xanh vuông vức” ở miền Bắc, còn ở miền nam là “ bánh tét”,“ Thịt mỡ đông ngầy ngậy”, “dưa hành tới độ thơm nức”, “cơm tám”, “mâm ngũ quả” bày biện kĩ lưỡng. Trên mâm cỗ cũng có thể xuất hiện những món thịnh soạn đặc thù từng miền, tùy điều kiện để dâng lên ông bà tổ tiên, vừa thể hiện được sự khác biệt, vừa thể hiện sự tôn kính, biết ơn bề trên, cũng làm tăng sự phong phú cho văn hóa ẩm thực ngày nay, tạo nên Tết Việt đậm đà, riêng biệt.
Cùng với đó thú treo tranh dân gian, câu đối phía sau bàn thờ hay trên các cột trụ chắc,… Nó như là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết, làm cho không gian thờ cúng trở nên cân bằng vuông vức như có khuôn phép cảm giác hài hòa, trang trọng và linh thiêng.Màu sắc rực rỡ từ những bức tranh khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình.Câu đối dân gian được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào đầy ý nghĩa, với lối vần điệu,là thổ lộ hết những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống trần thế, về năm mới và mùa xuân, đề cao đạo lý cùng những quan niệm đẹp, cầu mong mọi việc tốt lành… thể hiện được dân tộc ta là một đất nước có bề dày về văn hóa, giáo dục sâu sắc. Và nói đến tết không thể không nhắc đến hoa đào – loài hoa chỉ có vào mỗi dịp tết đến xuân sang ở miền Bắc, với người miền Nam thì có mai vàng hoặc những cây quất xum xuê với những trái quất vàng xanh, cùng những nhánh hoa nhỏ trắng điểm lộc đầy canh làm rực lên một góc phòng khách.
Bàn tay người nội trợ đảm đang được thể hiện lên một mâm cơm thịnh soạn của lễ tiễn ông Táo, lại tiếp đến là lễ tất niên được tiến hành vào trưa hay chiều ngày 30 Tết hầu như được chuẩn bị kỹ lưỡng, khéo léo, trình bày tinh tế, hài hòa, đẹp mắt nhất có thể để dâng mời ông bà, tổ tiên về sum họp, chung vui cùng con cháu và cầu mong các vị gia thần phù hộ cho gia đình có một năm mới thuận lợi, cả gia đình đứng trước bàn thờ tiên tổ, cùng thành kính thể hiện tấm lòng với những người đi trước. Sau đó, Người lớn cũng như trẻ con đều vui mừng tắm rửa gội đầu sạch sẽ bằng những chậu nước lá thơm làm cho tâm hồn, thân thể nhẹ nhàng, sảng khoái. Trong đêm giao thừa( nửa đêm 30, rạng sáng mồng một), bày biện hương án giữa sân để cúng Giao thừa, nó mang ý nghĩa quan trọng đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến, trong thời khắc thiêng liêng chuyển giao, khi trời đất gặp nhau sẽ toát ra một linh khí mà những ai lúc đó được chứng kiến cũng sẽ thấy trào dâng cảm xúc.
Ai ai cũng hớn hở, quần áo mới bảnh bao, nhiều màu sắc đặc biệt được ưa chuộng là màu đỏ, nếu chú ý quan sát ta sẽ thấy Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: lá quốc kỳ đỏ, câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ, hoa sắc đỏ …vì theo quan niệm dân gian đó là màu của sự may mắn và phát tài. Khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết “mồng một” mới thôi làm chúng ta như thấy mình thăng hoa dễ dàng mở rộng lòng đón nhận mùa xuân tuyệt đẹp đang về.
Không những thế, ngày Tết còn là dịp nhắc nhở mọi người nhớ đến những vị ân nhân của mình và cũng là dịp để thể hiện lòng biết ơn. Vì vậy trong dân gian đã có câu ca dao:
“Mồng một ăn Tết nhà cha
Mồng hai nhà mẹ, mồng ba nhà thầy.”
Dân tộc ta vốn là một nước có truyền thống trọng đạo nghĩa ân tình. Có thể thấy đây cũng là một nét đẹp đặc biệt ý nghĩa của Tết Việt, là thứ tự chúc tết luôn luôn đúng.Ta có thể thấy, cha mẹ là mang nặng nghĩa sinh thành dưỡng dục, cưu mang mỗi con người đến suốt cuộc đời, không tài nào kể xiết công lao này, nên dành những ngày đầu tiên viếng thăm sức khỏe cha mẹ, chăm sóc cha mẹ, tròn đạo làm con đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, người cũng có công lớn lao trong việc trưởng thành của mỗi chúng ta là người Thầy, ân tình cũng sâu nặng không kém, hình thức thăm hỏi người Thầy vào ngày kế tiếp vẫn được duy trì trong dịp Tết, đôi khi chỉ cần là sự ghé thăm, hỏi han bằng tình cảm chân thành cũng hơn cả là những món quà đắt giá. Vì vậy, có thể giải thích một phần Việt Nam quan trọng 3 ngày đầu Tết. Sau đó những ngày tiếp tục đi hỏi thăm hỏi han,bạn bè,họ hàng, để tăng thêm sự gần gũi,gắn kết, tình làng nghĩa xóm giữa mọi người, mang đến cho họ những câu chúc tốt lành..
Người Việt Nam luôn tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm báo hiệu một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Vì vậy mọi người cẩn thận, giữ mình tối thiểu trong ba ngày Tết, cười hoà với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối liên hệ được tốt đẹp. Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới để xả xui. Những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tết còn là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi, vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là chúc nhau thêm một tuổi mới, ai cũng cầu chúc cho nhau một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng mạnh khỏe, thành đạt hơn năm cũ.
|
Trong cuộc sống, không ít lần chúng ta gặp thất bại, cũng có khi chúng ta đầu tư rất nhiều công sức, tình cảm vào một việc gì đó và tưởng chừng thành công nằm trong tầm tay nhưng rốt cuộc, kết quả hoàn toàn trái ngược. Rơi vào hoàn cảnh như thế, có lẽ ai cũng buồn cũng tiếc. Người xưa cũng đã thấy được điều này:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.
Vàng ở đây chỉ chung những thứ quý giá: quý như vàng, đắt như vàng… Cầm vàng là có trong tay một cái gì đó rất có giá trị. Lội qua sông có nghĩa là ta đang cố vượt qua khó khăn, trở ngại. Còn vàng rơi, vật quý mất cũng không tiếc mà chỉ tiếc công giữ gìn nó thôi.
Nếu như ta chỉ hiểu như vậy chỉ là hiểu trên bề mặt ngôn từ – nghĩa tường minh chứ chưa hiểu được nghĩa hàm ẩn của nó. Vậy, vật quý kia là gì? Một hiện thực tuyệt vời? Một ước mơ huy hoàng? Hay một thứ gì khác? Lời ẩn dụ thật quá ngắn gọn quả thực gây ra sự khó để hiểu. Cả câu thì có một cụm từ “tiếc công” may ra có thể là một gợi ý.
“Tiếc công” có mặt trong nhiều câu ca dao như một mô-típ khá quen thuộc như “Tiếc công anh đắp đập be bờ, Để ai quảy đó mang lờ đến đơm”, hay cả câu “Tiếc công anh gánh gạch xây thành, Trồng cây nên trái để dành ai ăn”; ‘Tiếc công anh đi xuống đi lên, Mòn đằng chết cỏ chẳng nên cang thường”… Trong bài ca dao này, ta chưa thấy vàng hay thấy vật đámg giá cụ thể là gì nhưng ý ám chỉ tình yêu thì đã như thấy rõ. “Công cầm vàng” thì có thể là không thấy nhưng thấy công phu bỏ ra theo đuổi, nhen nhúm, bồi đắp cho một mối tình. Còn vàng thì ắt hẳn không phải chỉ rơi mà biến mất dạng, mất tăm, hoặc tình chẳng bén mà lại tan vỡ phũ phàng.
Vậy sự thất bại nào mà câu ca dao này muốn nói, trước hết là sự thất bại về tình yêu. Giọng điệu câu ca có gì như bẽ bàng, như rất chua chat đến nghẹn lời. Có thể hình dung ra sự tình như thế này được chăng: Từ chỗ quen nhau, hiểu nhau, yêu nhau đến chỗ hẹn ước, thề nguyện gắn bó trăm năm. Tình yêu ấy dường như không phải tự nhiên mà có. Nó chắc chắn phải trải qua ngọt bùi, đắng cay, thử thách. Vì thế, và chính bởi vậy mà nó quý giá hơn mọi thứ trên đời. Những ý nghĩ hạnh phúc đã gần kề, ai ngờ sóng gió dẫn tới ly tan, nước mây đôi ngả. Người yêu đã xa, đã rời bỏ anh, hoặc anh không giữ được người yêu. Sóng gió ấy quá lớn lao, lớn đến mức không thể vượt qua nên người trong cuộc chỉ còn biết ngậm ngùi, than thở. Mình than với mình rồi lặng đi trong niềm xót đau, chua chát.
Nhưng thực tế ở đời chứng minh cho ta thấy thất vọng trong tình yêu không chỉ có một lối thoát duy nhất là chết mòn vì tương tư, chắn chắc rằng vết thương trên da thịt dần dần sẽ lành và vết thương trong lòng cũng vậy. Có đau khổ tột cùng một thời gian nhưng theo ngày tháng, nỗi khổ ấy sẽ nguôi dần. Người ta sẽ tỉnh ra và nghĩ lại quan trọng hơn là họ sẽ vượt qua
Kẻ kia tình đã nhạt phai dần chăng? Mắt họ như đã bị cuốn hút vào chỗ giàu sang chăng? Hay là mọi người chung quanh dèm pha? Gia đình ngăn trở?… Mình biết thân phận mình. Thế thì thôi!
|
In life, many times we encounter failure, sometimes we invest a lot of effort and emotion into something and think success is within reach but in the end, the result is completely opposite. reverse. Falling into such a situation, everyone is probably sad and regretful. The ancients also saw this:
Take the gold and wade across the river
No regrets for falling gold, no regrets for holding it.
Gold here refers to precious things: as precious as gold, as expensive as gold... Holding gold means having something very valuable in your hands. Wading across the river means we are trying to overcome difficulties and obstacles. As for fallen gold or lost precious objects, there is no regret but only regret for preserving it.
If we only understand like that, we only understand the surface of the words - the explicit meaning, but do not understand its hidden meaning. So, what is that precious thing? A wonderful reality? A glorious dream? Or something else? The metaphor is so brief that it actually makes it difficult to understand. The whole sentence has a phrase "sorry" that may be a hint.
“Pity for the effort” is present in many folk songs as a quite familiar motif such as “It's a pity for you to build a dam to protect the shore, Let someone else bring it to fruition”, or even the sentence “It's a pity for you to carry the bricks to build the city”. , Plant a tree to produce fruit for someone to eat"; "It's a pity that you go down and up, but the grass dies and you can't stand it"... In this folk song, we haven't seen the gold or seen the specific price, but the implication of love is clear. "Cong holding gold" may not be visible, but you can see the effort spent pursuing, rekindling, and nurturing a love affair. As for gold, it certainly doesn't just fall and disappear, disappear, or the love is not strong but is brutally broken.
So what kind of failure does this folk song want to talk about? First of all, it is the failure of love. The tone of the song is somewhat humiliating, like it's so bitter that it chokes the words. Can you imagine a situation like this: From knowing each other, understanding each other, loving each other to making a promise, vowing to stay together for a hundred years. That love doesn't seem to come naturally. It certainly has to go through sweet, bitter, and challenging. That's why, and that's why it's more valuable than anything in the world. Happy thoughts are near, but who would have thought that storms and storms would lead to separation, and the clouds would part ways. Your lover is far away, has left you, or you cannot keep your lover. That storm was so great, so great that it was impossible to overcome, so the people involved could only feel pity and lament. I complained to myself and then remained silent in pain and bitterness.
But reality in life proves to us that there is not only one way out of disappointment in love, which is to die because of longing. Surely the wounds on the skin will gradually heal and so will the wounds in the heart. There will be extreme suffering for a while, but as the days go by, that suffering will gradually subside. People will wake up and think more importantly, they will overcome it
Has the other person's love faded away? Are their eyes drawn to wealth? Or are people around you detracting? Family hinders?... I know my fate. Oh well!
|
Trèo lên cây khế nửa ngày,
Ai làm chua xót lòng nay, khế ơi!
Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng
Mình ơi có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.
Bài ca dao đặc sắc này mở đầu bằng lối đưa đẩy gợi cảm hứng “Trèo lên cây khế nửa ngày” như gần giống với “Trèo lên cây bưởi hái hoa” ở một bài ca dao quen thuộc khác. Và có thể nói rằng ở những bài ca dao như thế thường là lời thở than, tiếc nuối cho duyên phận lỡ làng của các chàng trai nghèo ở nông thôn xưa.
Câu mở đầu của bài ca dao đã như nêu ra một tình huống khá đặc biệt “Trèo lên cây khế nửa ngày”. Có thể nói rawfnf tuy không có chủ ngữ nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra nhân vật trữ tình là chàng trai đang trong tâm trạng cô đơn, buồn bã. Chuyện tình cảm riêng tư lúc nào cũng sẽ khó bày tỏ với người. Thôi thì chia sẻ với cỏ với cây cho vơi sầu, bớt khổ. “Ai làm chua xót lòng này, khế ơi!” Ở đây ta bắt gặp một đại từ phiếm chỉ “Ai” ở đây mang ý nghĩa khá rộng. Có thể là con người cụ thể nào đó, mà cũng có thể là những ngăn trở vô hình nhưng rất khó vượt qua như quan niệm môn đăng hộ đối, như định kiến phân biệt sang hèn, giàu nghèo trong xã hội… Nhưng dù là gì chăng nữa thì nó cũng là trở lực đáng sợ đối với những đôi lứa đang yêu, muốn tiến tới hỗn nhân, Nó là nguyên nhân dẫn đến sự dở dang hoặc tan vỡ của những cuộc tình.
Hỏi khế mà cũng là tự hỏi mình. Sử dụng biện pháp nhân hóa kín đáo qua cách gọi tha thiết “khế ơi!”, khiến cho cây khế cũng mang tâm trạng của một kẻ đồng bệnh tương liên. Câu hỏi tu từ trên như mũi dao vô hình xoáy sâu vào trái tim yêu đang rỉ máu. Nghệ thuật chơi chữ tinh tế ẩn sau câu hỏi ấy. Lòng khế chua chát như để ví von giống với lòng người chua xót. Cảm giác chua xót, cay đắng tràn ngập cõi lòng chàng trai, nhưng không vì thế mà lụi tàn ngọn lửa hi vọng. Chàng trai mượn quy luật của vũ trụ để khẳng định quy luật của tình yêu:
Mặt trăng sánh với mặt trời,
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.
Vạn vật đều có đôi có lứa, vậy tại sao chúng mình lại phải xa nhau? Ai nhẫn tâm chia cắt tình duyên đôi lứa, để anh thì lặng đi trong chua xót. Còn em, chắc cũng rơi vào tâm trạng đau khổ, giày vò, nếu như em thực lòng yêu thương, gắn bó với anh. Dẫu rằng có bị ngăn trở, hay dẫu phải xa nhau, nhưng anh vẫn nghĩ chúng ta là một cặp khăng khít không thể tách rời; như Mặt trăng sánh với mặt trời, như Sao Hôm sánh với sao Mai, tuy hai mà một.
So sánh như thế cũng là một cách khẳng định mạnh mẽ về tình yêu và lòng chung thủy, về khát vọng hạnh phúc chân chính. Nhưng dù mượn đến những sự vật lớn lao, vĩnh hằng trong vũ trụ để bày tỏ lòng mình, chàng trai cảm thấy vẫn chưa đủ, chưa thể hiện hết được những điều muốn nói. Cần phải để trái tim tự nói lên những lời yêu thương chân thành nhất:
Mình ơi! Có nhớ ta chăng?
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời.
Những hình ảnh vay mượn dù đẹp đến đâu đi chăng nữa thì cũng không có giá trị biểu cảm bằng câu hỏi mộc mạc, tự nhiên mà rung động, thấm thía tận đáy lòng. Gọi người yêu nhẹ nhàng là “Mình ơi!”, chứng tỏ sự gắn bó giữa chàng trai và cô gái đã đến mức sâu đậm, khó có thể xa lìa. “Mình ơi có nhớ ta chăng?” Và mình có nhớ những kĩ niệm đẹp đẽ trong tình yêu giữa ta và mình và giữa hai ta. Còn ta, thì trước sau vẫn đinh ninh một lời thủy chung, son sắt không bao giờ đởi thay “Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”.
|
Climb the star fruit tree for half a day,
Who made this heart sour, star fruit!
The moon compares with the sun
The Evening Star compares closely with the Morning Star
Honey, do you remember me?
I am like the Surpass star waiting for the moon in the sky.
This unique folk song opens with the inspirational passage "Climb the star fruit tree for half a day" which is similar to "Climb the grapefruit tree to pick flowers" in another familiar folk song. And it can be said that such folk songs are often laments and regrets for the fate of poor boys in the countryside in the past.
The opening sentence of the folk song seems to state a rather special situation: "Climbing a star fruit tree for half a day". It can be said that although rawfnf has no subject, the reader can still imagine the lyrical character as a boy in a lonely and sad mood. Private love affairs are always difficult to express to others. Well, let's share with the grass and trees to relieve sadness and suffering. “Who made this heart sour, star fruit!” Here we encounter a casual pronoun "Who" which has a rather broad meaning. It could be a specific person, or it could also be invisible obstacles that are very difficult to overcome, such as the concept of equality, like the prejudice that distinguishes between rich and poor in society... But even if it is No matter what, it is also a terrifying obstacle for couples in love who want to get closer. It is the cause of unfinished or broken love relationships.
Asking about star fruit is also asking about yourself. Using a discreet personification method through the earnest call "star fruit!", makes the star fruit tree also have the mood of a patient with the same disease. The rhetorical question above is like an invisible knife piercing deep into the bleeding heart of love. The art of subtle wordplay lies behind that question. The sour heart of a star fruit is likened to the sour heart of a human being. Feelings of bitterness and bitterness filled the boy's heart, but that did not extinguish the fire of hope. The boy borrowed the laws of the universe to affirm the laws of love:
The moon compares with the sun,
The Evening Star compares closely with the Morning Star.
Everything has a life and death, so why do we have to be apart? Who cruelly separates the couple's love, leaving him silent and bitter. As for you, you will probably also fall into a state of suffering and torment, if you truly love and are attached to me. Even though we are hindered, or even though we have to be apart, I still think we are a close, inseparable pair; Like the Moon comparing with the Sun, like the Evening Star comparing with the Morning Star, two but one.
Such a comparison is also a strong way to affirm love and loyalty, and the desire for true happiness. But even though he borrowed great, eternal things in the universe to express his feelings, the young man felt that it was still not enough and could not express everything he wanted to say. It is necessary to let the heart speak the most sincere words of love:
Oh honey! Do you remember me?
I am like the Surpass star waiting for the moon in the sky.
No matter how beautiful the borrowed images are, they don't have the same expressive value as the simple, natural, heart-touching questions. Calling your lover gently "My dear!", proves that the bond between the boy and the girl has reached a deep level, making it difficult to separate. “Honey, do you miss me?” And I remember the beautiful memories of the love between you and me and between us. As for me, I still believe in the same faithful words that will never change: "I am like the star waiting for the moon in the sky."
|
Bài làm
Hô-me –rơ được biết đến là nhà thơ mù sống vào thời kì trước công nguyên. Ông được sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh nghèo khó. Ông đã tập hợp tất cả những tiểu thuyết và sử thi đồ sộ để hoàn thành bộ sử thi Ô-Đi xê. Tác phẩm nới về sự nghiệp chinh phục thế giới bao la và hùng dũng con ngời ngoài lòng dũng cảm thì đòi hỏi phải có những phẩm chất như sự thông minh tỉnh táo mưu trí và khôn ngoan. Tác phẩm Uy lit xơ trở về được trích trong tác phẩm Ô đi xê. Tác phẩm như đã miêu tả thật chân thực hai cuộc tác động đối với Pê lê nót và Uy lít xơ để được đoàn tụ cùng nhau. Qua đoạn trích ta thấy được hình tượng nhân vật Pê ne nót hiện lên thật đẹp là biểu tượng của những người phụ nữ trong xã hội thời bấy giờ.
Đầu tiên có thể nói vẻ đẹp của nàng được hiện lên là một người có thái độ rất trân trọng qua thái độ của nàng đối với người ăn mặc lôi thôi lếch thếch và còn tự nhận là chồng của nàng. Nàng bỏ ngoài tai tất cả mọi lời nói của những tên hậu cần nói đó không phải là chồng của nàng. Nàng mời người đó vào điện và nói người đó hãy kể cho nàng nghe những chuyện mà người đó đã trải qua trong suốt hai mươi năm đi xa. Thật bất ngờ nghe nhũ mẫu báo tin là chồng nàng đã trở về thì nàng rất vui mừng nhảy cẫng kên vì vui sướng đến tột độ. Và thế là người chồng sau bao nhiêu năm xa cánh bặt vô âm tín nay bỗng nhiên đã trở về bên nàng. Điều này là biểu thị của lòng chung thủy là sự chờ đợi bò bõ của nàng suốt bao nhiêu năm xa cách. Biết bao ngày đêm nàng dệt tấm thảm rồi đêm đêm lại tháo ra nhằm trì hoãn sự hối thúc của bọn đến cầu hôn biết bao nhiêu năm sự chờ đợi chung thủy của nàng dành cho chồng.
Giờ đây sự chờ đợi của nàng đã được đền bù, đền đáp thật xứng đáng. Nhưng từ sự phấn khích và quá đỗi vui sướng nàng lại có một thái độ hoàn toàn khác đó là sự thận trọng. Tâm trạng này của nàng chúng ta có thể hoàn toàn hiểu được. Nàng rất cũng đã rất phân vân vì nếu những vị hành khất là chồng nàng thực thì tại sao trong lần gặp trước lại không nói ra. Và nếu như nhân vật Pê-nê-lốp vội vã mà nhận lầm thì danh dự của nàng sẽ bị tổn thương rất lớn (điều tối kỵ của người Hi Lạp).
Tâm trạng trước khi ra gặp chồng của nangf đó là tâm trạng rất phân vân. Điều đó được thể hiện trong tâm trạng trong cách ứng sử của nàng. Nàng không biết nên đứng xa mà nhìn hay là chạy đến mà ôm chạy đến mà hôn lấy tay chàng. Thế rồi nàng ngồi cách xa chồng, Phải chăng tâm trạng của nàng lúc này đang rất rối bời. Nàng thật tinh tế khi đã chọn cánh ngồi xa chồng nhưng dường như khi nào ta cũng thấy sự chăm chú cái vẻ mặt thương cảm cái ánh mắt của nàng chưa lúc nào rời khỏi con người ấy. Nàng đã ngồi đối diện với người chồng chưa kịp nói điều gì mà đứa con trai đã vội trách mẹ “mẹ ơi mẹ thật tàn nhẫn và lòng mẹ thật tàn nhẫn qua chừng. Có thể nói từ trước đến nay không có lấy một người đàn bà nào sắt đá đến mức mà chồng đi biền biệt suốt hai mươi năm mới trở về mà lại có thể ngồi cách xa chồng đến mức độ như vậy. Và ngay cả đứa con trai chỉ nhìn vào cái bên ngoài mà không hiểu thấu được lòng mẹ lúc này cũng đang như lửa đốt vậy. Đứng trước câu nói của đứa con trai yêu quý lạicàng khiến lòng nàng trở nên rối trí. Nhưng chỉ trong giây lát ngắn ngủi thôi là nàng đã tìm được lại lí trí lấy được lòng dũng cảm và nàng đã tìm ra cách để xác minh sự thật để chứng minh được đó là chồng của nàng. Sự thận trọng của nàng khiến cho chúng ta cảm thấy nàng là một người rất thông minh sự thận trọng ấy rất phù hợp với hoàn cảnh và điều đó càng chứng minh một sự thủy chung đến mặn nồng trong con người nàng. Nàng dường như đã đợi người ấy suốt bao nhiêu năm vì thế không thể dựa vào những lời nói bâng quơ hay là một dáng hình bề ngoài là nàng tin tưởng để rồi có khi lại có những lựa chọn sai lầm được.
Dường như vẻ đẹp của người phụ nữ ấy còn được hiện lên bằng những tào trí sáng tạo hơn người thể hiện nàng là một người có học thức có tài trí sức sảo một con người có học thức. Đó còn chính là một tư thế ung dung khi tiếp một vị khách xa lạ mà đặc biệt khi ông ta đã giúp nàng đánh đuổi được một trăm lẻ tám tên cầu hôn. Nàng đã làm chủ được tình thế làm chủ được bản thân, nàng không hề thất lễ với khách cũng không làm mất lòng với kẻ ở người ăn.
|
Assignment
Homer is known as a blind poet who lived in the BC period. He was born and raised in a poor situation. He gathered all the massive novels and epics to complete the Odyssey. The work talks about the career of conquering the vast and heroic world. In addition to courage, people also require qualities such as intelligence, alertness, cunning and wisdom. The work Uy Lit Fiber Returns is quoted in the work "Oxexe". The work seems to realistically depict the two attempts on Pelenot and Uy Lich to be reunited together. Through the excerpt, we can see that the image of the character Penetron appears beautifully as a symbol of women in society at that time.
First of all, it can be said that her beauty is shown as a person with a very respectful attitude through her attitude towards the man who dresses sloppily and even claims to be her husband. She ignored everything the logistics people said that he was not her husband. She invited that person into the palace and asked him to tell her the stories he had experienced during the twenty years he had been away. When she heard the news from her nanny that her husband had returned, she was very happy and jumped up and down with extreme joy. And so her husband, after many years of being away without a word, suddenly returned to her. This is a sign of her faithfulness and her endless waiting throughout so many years of separation. So many days and nights she weaved the tapestry and then took it apart every night to delay the urge of the suitors for so many years of her faithful waiting for her husband.
Now her wait has been rewarded, and the reward is worthy. But from the excitement and joy, she had a completely different attitude: caution. We can completely understand her mood. She was also very confused because if the beggars were really her husband, then why didn't they say so during their previous meeting. And if the character Penelov hastily confesses her mistake, her honor will be greatly damaged (a taboo of the Greeks).
Nangf's mood before meeting her husband was very uncertain. That is shown in her mood and behavior. She didn't know whether to stand far away and watch or run to hug him and kiss his hand. Then she sat far away from her husband. Perhaps her mood was very confused right now. She was very delicate in choosing to sit far away from her husband, but it seemed like we could always see her attentiveness, her sympathetic expression, and her eyes never leaving that person. She sat across from her husband and before he could say anything, his son quickly blamed his mother, "Mom, you are so cruel and your heart is so cruel. It can be said that until now, there has never been a woman so stubborn that her husband went away for twenty years before returning and was able to sit so far away from him. And even the son who only looks at the outside but cannot understand his mother's heart is on fire right now. Standing in front of her beloved son's words made her heart even more confused. But in just a short moment, she regained her reason and courage and found a way to verify the truth to prove that he was her husband. Her caution makes us feel that she is a very smart person. That caution is very suitable for the situation and it further proves the passionate loyalty in her. She seems to have been waiting for that person for many years, so she can't rely on random words or an appearance that she trusts and then sometimes makes wrong choices.
It seems that the woman's beauty is also shown by her more creative minds, showing that she is an educated, talented and intelligent person. It was also a leisurely posture when receiving a strange guest, especially when he had helped her chase away one hundred and eight suitors. She was in control of the situation, she was in control of herself, she was not rude to the guests nor did she offend the guests or diners.
|
‘Ramayana’ được xen là một trong 2 bộ sử thi vĩ đại nhất của người Ấn Độ. Và đây là tác phẩm bất hủ, có sức sống trường tồn và trở thành bài ca của thời đại. Người Ấn Độ đã rất tự hào rằng: “chừng nào sông chưa cạn, núi chưa mòn thì sử thi Ramayana còn làm say lòng người và cứu giúp họ ra khỏi tội lỗi”.
Đoạn trích “Ra-ma buộc tội” là đoạn đã kể về sự kiện hoàng tử Ra-ma sau khi hạ gục quỷ vương Ra-va-na đã giành lại được người vợ yêu quý là nàng Xi-ta kiều diễm. Vợ chồng Xi-ta đã gặp lại nhau, Xi-ta quá đỗi vui mừng khôn xiết. Nhưng trớ trêu thay Ra-ma nghi ngờ vợ mình không giữ được trọn vẹn danh tiết trong thời gian bị quỷ Ra-va-na bắt cóc nên đã tuyên bố từ bỏ nàng. Nàng Xi-ta đau khổ và tuyệt vọng không thể thanh minh nên đành bước lên dàn hoả thiêu, nhờ thần Lửa A-nhi chứng giám cho đức hạnh trung trinh của mình. Qua nội dung đoạn trích “Ra-ma buộc tội” này thì dường như các tác giả đã thể hiện quan điểm về vị vua mẫu mực (Ra-ma) và về người phụ nữ lí tưởng (Xi-ta) của dân tộc Ấn Độ cổ xưa.
Ra-ma là nhân vật hội tụ đầy đủ tính cách của một vị anh hùng mà dân tộc Ấn Độ lúc bấy giờ.
Tính cách cao quý của chàng được thể hiện rõ trong mọi tình huống và ở đoạn trích này là khá đặc biệt.
Nếu giống như chúng ta sau bao nhiêu ngày xa cách và cuộc chiến gian khổ để dành lại người mình yêu thương nhất, đáng lẽ chàng phải vui mới phải. Nhưng Ra-ma lại đi ngược lại với lẽ tự nhiên. Chàng Ra-ma đã không ngại ngần gì mà đã nói với Xi ta:” Hỡi phu nhân cao quý, Ta đã đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đã được chứng kiến tài nghệ của ta. Ta đã làm tròn lời hứa và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Ra-va-na tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận của nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào mà đã bị quân thù lăng nhục nhưng lại không đem tài nghệ của mình ra trả thù thì đó là kẻ tầm thường. Đây rõ rằng là lời tuyên bố của một vị anh hùng đầy khí chất. Coi danh dự của bản thân hơn cả tính mạng con người. Ra-ma đã đi ngược lại với lẽ tự nhiên. Ra-ma đã anh dũng chiến đấu và đã chiến thắng quỷ vương Ra-va-na trước hết là vì danh dự dòng dõi cao quý của mình, vốn là người thẳng thắn, trung thực mà Ra-ma đã không hề giấu diếm suy nghĩ về người vợ mà chàng vừa giành lại được từ tay quỷ vương:… Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xóa bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lẫy lừng tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường. Và Ra-ma đã phải nghi ngờ tư cách của nàng, vì nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ, không hề biết đến. Và đau khổ hơn khi giờ đây, nàng đang đứng trước mặt ta, nhưng trông thấy nàng, ta không chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng với người bị đau mắt. Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tuỳ nàng, ta không ưng có nàng nữa. Và dường như việc Ram-ma đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thế nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà kẻ khác, đơn giản chỉ vì mụ ta là một vật để yêu đương? Nàng Xi-ta đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp người nàng, vậy làm sao ta có thể nhận nàng về khi nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta?
Cuộc gặp gỡ diễn ra giữa Ra-ma và Xi-ta không chỉ có hai người mà diễn ra trước đông đảo anh em, bạn hữu và dân chúng. Chính bởi thế Ra-ma không thể chỉ cư xử với tự cách của một người chồng mà còn với tư cách của một vị anh hùng vừa chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang và cao hơn nữa là tư cách của một đấng quân vương. Do vậy mà ta không thể nào mà trách Ra-ma quá lạnh lùng, tàn nhẫn, vì con người của giai cấp, con người của xã hội trong chàng buộc Ra-ma phải cư xử một cách tàn nhẫn như vậy với người vợ mà chàng trân trọng gọi là phu nhân cao quý.
Còn đối với nhân vật Ra-ma thì danh dự của bản thân, gia đình và dòng tộc là quan trọng nhất, cho nên dẫu yêu thương người vợ hiền thục, xinh đẹp đến mấy đi chăng nữa thì chàng vẫn phải chối từ vì không thể vượt lên trên dư luận.
Và dường như những lời nói của hoàng tử Ra-ma khiến Xi-ta tan nát cả cõi lòng; Nàng đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe xong những lời tố cáo được coi như chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Xi-ta xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng Xi-ta lúc này như muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma thật đâu, như xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nỗi trách chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp bèn vậy? Thiếp đâu phải là người như chàng suy tưởng? Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thềvà khẳng định, hãy tin vào danh dự của thiếp. Chàng đừng suy từ những hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ trên thế giới này đều vậy, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi…
Trong cơn tuyệt vọng đến cùng cực và trước thái độ khó lay chuyển trước sau một lời của hoàng tử Ra-ma Xi-ta chi còn cách duy nhất là nhờ thần Lửa A-nhi minh oan cho mình là “Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con”. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối không thể tha thứ, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con. Dứt lời, nàng dũng cảm bước vào ngọn lửa đang rừng rực cháy của giàn hỏa thiêu.
|
'Ramayana' is considered one of the two greatest Indian epics. And this is an immortal work, with lasting vitality and becoming a song of the times. Indians are very proud that: "As long as the rivers have not dried up and the mountains have not worn away, the Ramayana epic will still captivate people and save them from their sins."
The excerpt "Ra-ma accuses" is the part that tells about the event that Prince Rama, after defeating the demon king Ravana, regained his beloved wife, the beautiful Sita. Sita and her husband met again, and Sita was extremely happy. But ironically, Rama suspected that his wife could not maintain her reputation while being kidnapped by the demon Ravana, so he announced that he would abandon her. Sita was miserable and desperate, unable to explain herself, so she had to step onto the funeral pyre, asking the Fire God Ani to testify to her virtue and virginity. Through the content of this excerpt "Ra-ma accuses", it seems that the authors have expressed their views on the exemplary king (Ra-ma) and the ideal woman (Sita) of the Indian people. Antiquity.
Rama is a character who fully possesses the characteristics of a hero of the Indian people at that time.
His noble personality is clearly shown in every situation and this excerpt is quite special.
If he was like us after so many days of separation and the arduous battle to get back the person he loves the most, he should have been happy. But Rama went against nature. Rama did not hesitate to say to Xi: "O noble lady, I brought you here after defeating the enemy. I did everything to the best of my ability. I took revenge on the person who insulted me and my anger was satisfied. Today, everyone has witnessed my talent. I have fulfilled my promise and now there is nothing left to entangle myself. She was kidnapped by the treacherous Ravana in my absence, it was due to her fate, but I cleared her of the slander. Anyone who has been humiliated by the enemy but does not use his talent to take revenge is a mediocre person. This is clearly the statement of a heroic hero. Consider your honor more than human life. Rama went against nature. Rama bravely fought and defeated the demon king Ravana, first of all because of the honor of his noble lineage. He was a straightforward and honest person, but Rama did not hide his thoughts. thinking about the wife he had just won back from the demon king:... Be sure of this: it was not because of you that I defeated the enemy with the help of my friends. I do it for my dignity, to erase the stain of disgrace, to protect the prestige and honor of my famous family. I do that to prove that I don't belong to a normal family. And Rama had to doubt her character, because she had stayed for a long time in the house of a stranger and did not know him. And it's even more painful now that she's standing in front of me, but seeing her, I can't stand it, like light for someone with sore eyes. So let me tell you, wherever you want to go is up to you, I don't want to have you anymore. And it seems that Ram-ma, who was born in a noble family, would marry a wife who used to live in someone else's house, simply because she was an object of love? Sita was harassed while in Ravana's hem, his sinful eyes eagerly looked all over her body, so how can I take her home when thinking of a noble family? gave birth to me?
The meeting that took place between Ramah and Sita was not just two people but took place in front of a large number of brothers, friends and people. That's why Rama could not only behave as a husband but also as a hero who had just gloriously defeated his enemies and, even more highly, as a king. Therefore, we cannot blame Rama for being too cold and cruel, because his class and society forced Rama to behave so cruelly towards his wife. He respectfully called her noble lady.
As for the character Rama, the honor of himself, his family and his clan are the most important, so no matter how much he loves his gentle and beautiful wife, he still has to refuse her because she doesn't want her to be her. can rise above public opinion.
And it seemed that Prince Rama's words broke Sita's heart; She was in suffocating pain, like a vine crushed by an elephant's trunk. After hearing the accusations, which were considered unprecedented, in front of everyone, Sita was ashamed of her fate. At this moment, Sita seemed to want to bury her entire body. Every word Rama said was true, it seemed to pierce her heart like an arrow. I blame you for using such harsh and indescribable words towards me, like a lowly person cursing a lowly woman? I am not the person you think I am? I can swear and affirm in my capacity, believe in my honor. Don't infer from the actions of vile women, you suspect all women in the world are like that, but that's not the case. If you understand me at all, please give up that baseless suspicion...
In extreme despair and in the face of Prince Rama Sita's unshakable attitude, the only way was to ask the Fire God Anhi to vindicate him: "If I If you have faith in Rama, please pray that I will find a way to protect you." Ramah considered a chaste woman an unforgivable liar, but if you are chaste, may Ani bless you. Having finished speaking, she bravely stepped into the burning fire of the funeral pyre.
|
Có thể nói rằng từ ngày về ở với bà cụ hàng nước, Tấm được sống trong khung cảnh ấm cúng của gia đinh. Bà cụ yêu quý Tấm vô cùng, coi cô như con đẻ. Còn Tấm cũng coi bà cụ như mẹ của cô. Cô quán xuyến lo toan hết tất cả mọi việc trong nhà. Bà cụ chỉ việc ngồi bán hàng. Sợ lộ tung tích, Tấm không dám ra ngoài. Nhưng cứ quanh quẩn trong nhà mãi, cũng có lúc cô cảm thấy trống trải, buồn bã. Những khi ấy, kỉ niệm lại xôn xao sống dậy…
Tấm nhớ lại ngày trước, nhớ lại cái ngày khi còn ở nhà với dì ghẻ và Cám. Cuộc sống thật vất vả, tủi cực. Tuy thế, Tấm vẫn tìm thấy niềm vui lúc chăn trâu ngoài đổng hay xúc tép dưới ruộng, khoan khoái giữa thiên nhiên tươi đẹp, gió thổi lổng lộng, nắng sớm long lanh. Dù đi đâu, ở đâu, Tấm vẫn luôn luôn mong ước được trở lại với đồng quê, dẫu chỉ trong giây lát.
Tấm bổi hổi nhớ lại khung cảnh đẹp đẽ trong cung cùng với những ngày hạnh phúc êm ấm bên nhà vua. Tất cả đều hiện lên rõ ràng trước mắt cô…
Ngày hội năm ấy, Tấm bước lên thử hài trước bao con mắt ngưỡng mộ và ghen tị. Khi bàn chân Tấm nằm gọn trong chiếc hài thêu xinh đẹp, mọi người đã ồ lên kinh ngạc. Buổi đầu gặp gỡ nhà vua trẻ cũng là kỉ niệm khó quên, là hạnh phúc bất ngờ lớn lao trong đời Tấm. Có lần, Tấm ngồi têm trầu trên chiếc tràng kỉ, nhà vua chợt dừng đọc sách, đến bên cạnh Tấm, cầm trên tay miếng trầu đẹp mắt mà Tấm vừa têm, nhà vua ngắm nghía hồi lâu rồi chợt hỏi:
– Sao miếng trẩu nàng têm lại có hình dạng kì lạ thế này?
– Tâu bệ hạ! Têm trầu có nhiều cách, thiếp têm theo kiểu cánh phượng, vì thế mà miếng trầu trông xinh xẳn hơn đó ạ!
– Nàng có đôi bàn tay thật khéo léo. Ta chưa từng thấy ai têm trầu đẹp như nàng!
Rồi những ngày yên vui ấy qua mau. Mẹ con Cám bày mưu tính kế, quyết giết chết Tấm cho bằng được. Tấm cũng đã quyết liệt chống trả đến cùng.
Trong những ngày hoạn nạn, Tấm hiểu thêm về sự chung tinh của nhà vua đối với nàng. Tấm không còn nữa, nhà vua buồn lắm. Tuy Cám thưởng xuyên chăm sóc nhưng nhà vua vẫn thương nhớ Tấm không nguôi. Nhà vua yêu quý con chim vàng anh, suốt ngày thủ thỉ trò chuyện với chim, chẳng đoái hoài gì đến Cám. Rồi chim vàng anh xinh đẹp bị mẹ con Cám độc ác ăn thịt, vứt lông ra ngoài vườn. Từ đống lống chim mọc lên hai cây xoan đào tươi tốt. Vua sai mắc võng giữa hai gốc xoan dào để nằm đọc sách và tưởng nhớ đến người vợ yêu quý của minh.
Chim vàng anh, hai gốc xoan đào, chiếc khung cửi, quả thị vàng đều là hoá thân của Tấm, cho nên Tấm đã chứng kiến tất cả. Vì thế mà nàng càng thưong nhớ nhà vua. Ngồi têm trầu cho bà cụ hàng nước, Tấm rưng rưng nhớ về kỉ niệm xưa, nước mắt rơi trên miếng trầu cánh phượng. Tấm têm những miếng trầu thật đẹp và như Tấm đã gửi vào đó bao niềm thương nhớ.
Ngày ngày, người qua kẻ lại nghỉ chân bôn hàng nước, uống bát nước chè anh, cầm miếng trầu, ai cũng tấm tắc khen sao mà khéo thế! Biết đâu, cũng có ngày, nhà vua đi qua đây… Tấm vừa làm vừa suy nghĩ miên man và hi vọng.
Rồi một hôm, có chàng thư sinh qua đường ghé vào quán nghỉ chân. Bà áo rót nước, đem trầu mời khách. Vừa nhìn tháy miếng trầu, người ấy đã nắm ấy tay bà lão hỏi dồn:
– Bà ơi bà, miếng trầu này ai tồm mà khéo vậy?
– À, của con gái tôi têm đấy!
Nghe tiếng lao xao ngoài quán, Tấm đứng nép trong buồng, hồi hộp lắng nghe.
– Bà ơi, bà làm ơn cho tôi gặp người têm trẩu! Đúng là vợ tôi rồi! Tôi đã tìm nàng khắp nơi mà không thấy. Chi có nàng mới têm được những miếng trầu cánh phượng đẹp như thế này! Bà ơi, con gái bà đâu? Hãy cho tôi được gặp nàng!
|
It can be said that since the day he returned to live with the old lady, Tam has lived in a cozy family setting. The old lady loved Tam very much and considered her as her own child. Tam also considers the old lady as her mother. She takes care of everything in the house. The old lady just sits and sells. Afraid of revealing his whereabouts, Tam did not dare go out. But just hanging around the house forever, there are times when she feels empty and sad. At those times, memories come alive again...
Tam remembers the old days, remembers the day when she was at home with her stepmother and Cam. Life is hard and miserable. However, Tam still finds joy in herding buffaloes in the fields or scooping shrimps in the fields, enjoying the beautiful nature, the wind blowing brightly, the morning sunlight sparkling. No matter where he goes or where he is, Tam always wishes to return to the countryside, even if just for a moment.
Tam recalls the beautiful scenery in the palace along with the happy and peaceful days with the king. Everything appeared clearly before her eyes...
On that year's festival, Tam stepped up to try on comedy in front of many admiring and jealous eyes. When Tam's foot fit inside the beautiful embroidered shoe, everyone gasped in surprise. The first meeting with the young king was also an unforgettable memory, a great unexpected happiness in Tam's life. One time, Tam was sitting on the sofa, chewing betel, the king suddenly stopped reading, came next to Tam, holding in his hand the beautiful piece of betel that Tam had just chewed. The king looked at it for a long time and then suddenly asked:
– Why is the piece of pork belly that she cooked has such a strange shape?
– Your Majesty! There are many ways to steam betel, simmer in the style of phoenix wings, so the betel looks prettier!
– She has very skillful hands. I have never seen anyone chewing betel as beautifully as you!
Then those peaceful days passed quickly. Cam and her mother plotted and decided to kill Tam. Tam also fiercely fought back to the end.
During the difficult days, Tam understood more about the king's loyalty to her. The plate is no longer there, the king is very sad. Although Cam often took care of him, the king still missed Tam endlessly. The king loved the golden bird, cooing and chatting with the bird all day long, not paying any attention to Cam. Then the beautiful oriole was eaten by the cruel mother and daughter Cam, and their feathers were thrown out into the garden. From the pile of bird's nests grew two lush peach trees. The king ordered a hammock to be placed between two neem trees to lie down and read books and remember his beloved wife.
The oriole bird, the two peach trees, the loom, and the yellow fruit are all incarnations of Tam, so Tam has witnessed it all. That's why she missed the king even more. Sitting and chewing betel for the old lady in the country, Tam tearfully remembered old memories, tears falling on the betel piece with phoenix wings. Tam made beautiful pieces of betel and it seemed like Tam had put so much love into them.
Every day, passersby stop by to shop for water, drink a bowl of sweet soup, hold a piece of betel, and everyone compliments them on how clever they are! Who knows, maybe one day, the king will pass by here... Tam worked while thinking and hoping.
Then one day, a scholar passing by stopped by the restaurant to rest. The lady poured water and brought betel to the guests. As soon as he saw the betel, he grabbed the old woman's hand and asked:
– Grandma, who picked this betel so cleverly?
– Ah, it's my daughter's!
Hearing the commotion outside the restaurant, Tam stood in the room, listening nervously.
– Ma'am, please let me meet this stupid person! That's right my wife! I looked for her everywhere but couldn't find her. Only she can taste such beautiful betel pieces with phoenix wings! Grandma, where is your daughter? Please let me see her!
|
Theo như lời giao ước trước lúc chia tay,Trọng Thuỷ đã theo dấu lông ngỗng đến bờ biển.Chàng vô cùng ngạc nhiên,đau khổ khi thấy xác Mị Châu bên vũng máu.Trọng Thuỷ mang xác của Mị Châu về an táng ở Loa Thành và từ đấy chàng luôn cảm thấy ân hận, dằn vặt, thương nhớ vợ. Mấy hôm sau, khi soi mình xuống giếng,càng rất nhớ Mị Châu cho nên nhìn đâu cũng thấy bóng dáng của nàng, chàng tưởng chừng như hình bóng Mị Châu đang thấp thoáng trên mặt nước nên cũng lao đầu xuống mà chết. Nhưng lạ thay khi tỉnh lại thì Trọng Thuỷ thấy một lối đi khá dài và sạch đẹp, chàng mạnh dạn bước qua lối đó và thấy bên kia là một thế giới rộng lớn: chung quanh toàn nước và những sinh vật tuyệt đẹp.
Trọng Thủy đi khắp nơi,đi rất lâu,rất lâu,đang bỡ ngỡ vì không biết đây là đâu thì bỗng nhiên có hai tên lính đến hỏi chàng là ai rồi bắt chàng đến trước một tảng đá lớn có rất nhiều hoa lá,san hô,cá vàng và ngồi cạnh đó là một cô công chúa xinh đẹp mà lúc bây giờ chàng mới giật mình vì biết đó chính là Mị Châu và nơi chàng đang đứng là thuỷ cung.Thì ra vì biết Mị Châu vốn hiền lành nên Long Vương đã nhận nàng làm con gái nuôi. Mị Châu cũng vô cùng ngạc nhiên khi gặp lại Trọng Thuỷ.Nhìn vẻ đau khổ và uất hận còn đong đầy trong đôi mắt đẫm lệ của Mị Châu,Trọng Thuỷ bật khóc,tiếng khóc nghẹn ngào,thống thiết của chàng khiến sỏi đá cũng phải mủi lòng.Trọng Thuỷ đã quỳ xuống,van xin Mị Châu tha thứ cho tội lỗi của mình:
– Nàng ơi! Khó khăn lắm ta mới gặp lại nàng, người vợ yêu của ta.Mong nàng hãy tha lỗi cho ta,ta không thể nào làm khác được,đó là lệnh của vua cha! Ta biết nàng tin yêu ta nên không giấu diếm điều gì, nhưng ta đã lợi dụng sự tin yêu đó,phản bội nàng.
Nhưng có lẽ Mị Châu vẫn còn giận Trọng Thuỷ rất nhiều, rất nhiều,nàng trách chồng:
– Thiếp cũng vậy, thiếp cũng mong được gặp chàng nhiều lắm, hằng ngày thiếp đều ra đây ngắm nhìn cảnh vật, nhìn những đoá hoa tươi thắm kia mà nhớ đến nhữngtháng ngày mình bên nhau. Nhìn những đàn cá tung tăng bơi lội, chúng đi có đôi có cặp nhảy múa mà thiếp chạnh lòng nhớ đến những ngày chúng ta vui vẻ bên nhau. Ôi! Nhưng thật trớ trêu, chàng biết không, thiếp nay đã mang danh tội đồ của đất nước, thiếp không thể chung sống với kẻ thù của dân tộc mình được nữa. Sao chàng- người chồng thiếp luôn tin tưởng lại nhẫn tâm lừa dối thiếp khiến thiếp đau khổ? Thiếp thật ngơ dại đến ngốc nghếch, ngây ngất vì tình yêu mà nghe theo chàng!
Trọng Thuỷ càng đau khổ và quạn thắt ở trong tim,ân hận hơn khi nghe những lời vợ nói,chàng giải bày hết nỗi lòng của mình:
– Qủa là lúc đầu,ta rắp tâm lừa dối cha con nàng, lừa dối cả đất Âu Lạc,nhưng sau một thời gian chung sống,ta thực sự yêu nàng.Tình yêu của ta thần linh có thể chứng giám nó không hề vụ lợi. Tình yêu của ta, mọi thần dân ta đều biết. Ta thật ân hận khi nghe theo lời vua cha nhưng xin nàng hãy hiểu cho ta, tha thứ cho ta, phải lừa dối nàng,lòng ta vô cùng bối rối, trong lúc tâm trí hỗn loạn, ta đã có một quyết định sai lầm không thể nào bỏ qua. Nàng có biết không, ta đã chịu dày vò, dằn vặt như thế nào không? Lúc ta nhận ra sự nghiệt ngã của chiến tranh phi nghĩa thì đã quá muộn màng.Ta đã chọn cái chết để tạ tội.Mị châu ơi!Ta cầu xin nàng rộng lòng tha thứ!
Cảnh vật xung quanh cũng như xao động, dòng nước chảy nhẹ nhàng hơn, những đoá hoa ngừng đung đưa lay động. Mị Châu mắt ướt lệ, giọng nghen ngào:
-Thiếp đã rất tin vào tình yêu cảu chàng, tin rằng những tình cảm trước kia chàng dành cho thiếp là chân thật không giả dối. Thiếp đã biết một đấng nam nhi phải lấy sự nghiệp, giang sơn của mình làm trọng.Thiếp cũng biết cả hai chúng ta đều không có lỗi,tất cả đều do cuộc chiến tranh phi nghĩa này.
|
According to the agreement before parting, Trong Thuy followed the trail of goose feathers to the beach. He was extremely surprised and saddened when he saw Mi Chau's body in a pool of blood. Trong Thuy brought Mi Chau's body to Bury in Loa From then on, he always felt regretful, tormented, and missed his wife. A few days later, when he looked at himself in the well, he missed Mi Chau even more, so everywhere he looked he saw her silhouette. He thought that Mi Chau's silhouette was looming on the water's surface, so he also plunged headlong into it and died. But strangely, when Trong Thuy woke up, he saw a long and clean path. He boldly walked through that path and saw a vast world on the other side: surrounded by water and beautiful creatures.
Trong Thuy walked everywhere, walked for a long time, was confused because he didn't know where this was, when suddenly two soldiers came and asked him who he was and forced him to come in front of a large rock with lots of flowers and leaves. Ho, goldfish and sitting next to it was a beautiful princess. Now he was startled because he knew it was Mi Chau and the place he was standing in was an aquarium. It turned out that because he knew Mi Chau was inherently gentle, Long Vuong adopted her as his adopted daughter. Mi Chau was also extremely surprised to see Trong Thuy again. Looking at the pain and resentment still filled in Mi Chau's tearful eyes, Trong Thuy burst into tears, his choked and painful cry made the stones turn to dust. had to relent. Trong Thuy knelt down and begged Mi Chau to forgive her sins:
- Hey lady! It was very difficult for me to see you again, my beloved wife. I hope you will forgive me, I cannot do otherwise, it is my father's order! I knew she trusted and loved me so she didn't hide anything, but I took advantage of that trust and betrayed her.
But perhaps Mi Chau is still very angry with Trong Thuy, she blames her husband:
– Me too, I also look forward to meeting you very much, every day I come here to admire the scenery, look at those fresh flowers and remember the days we were together. Looking at the schools of fish swimming around, dancing in pairs, my heart felt nostalgic about the days we had fun together. Oh! But ironically, you know, I am now known as a criminal of my country, I can no longer live with the enemy of my nation. Why did you - the husband I always trusted - cruelly deceive me and make me suffer? I'm so stupid and stupid, so ecstatic about love that I listen to you!
Trong Thuy felt even more pain and pain in his heart, even more regretful when he heard his wife's words. He explained all his feelings:
- It's true that at first, I planned to deceive you and your father, the whole Au Lac land, but after a while of living together, I really loved you. My love can be witnessed by the gods. profit. My love, all my subjects know. I really regret listening to my father, but please understand me and forgive me for having to deceive you. My heart is extremely confused. While my mind was in chaos, I made a wrong decision. cannot be missed. Do you know how tormented and tortured I was? By the time I realized the cruelty of unjust war, it was too late. I chose death to apologize for my sins. My Chau! I beg your forgiveness!
The surrounding scenery also seemed to be agitated, the water flow became gentler, the flowers stopped swaying. Mi Chau's eyes were wet with tears, her voice was sweet:
-I believed very much in your love, believed that the previous feelings you had for me were true and not fake. I know that a man must put his career and country first. I also know that neither of us is at fault, it's all due to this unjust war.
|
Bài làm
Trong cuộc đời mỗi chúng ta, chắc hẳn ai cũng đã từng trải qua những mối tình hạnh phúc, hoặc đau khổ mãi không thể quên. Tình cảm chính là thứ vũ khí sắc bén khiến chúng ta mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn, tự tin hơn. Tình cảm đó hình thành nên tình yêu, có thể là tình yêu nam nữ, tình yêu gia đình, tình yêu quê hương và đất nước. Chính vì vậy mà nhà văn Đức F.sile đã nói: “tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được hạnh phúc”.
Đúng như vậy, tình yêu khi đã chạm đến nó rồi rất khó buông bỏ được. Vậy tình yêu là gì?
Ai có thể định nghĩa được tình yêu chứ, tình yêu là một chủ đề vô cùng phong phú mọi thời đại. Có thể hiểu đơn giản tình yêu là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lí, và thái độ khác nhau dao động từ tình cảm cá nhân đến niềm vui sướng. Tình yêu là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc gắn bó. Nó cũng có thể là một đức tính đại diện cho lòng tốt của con người, sự nhân từ, và sự thông cảm.
Vậy tình yêu như thế nào mới được gọi là niềm say mê. Yêu điên cuồng một người, vì người đó làm tất cả mọi việc không đáng đó đâu gọi là tình yêu. Yêu một người vì họ xinh đẹp, quyến rũ đó cũng chỉ là đam mê dục vọng muốn chiếm hữu. Niềm say mê ở đây chính là tình yêu ngọt ngào từ trái tim, không chút vụ lợi hay lợi dụng nhau một thứ tình cảm thiết tha nguyện hi sinh bản thân mình để bảo vệ cho tình yêu của mình, cho đi mà không cần nhận lại như tình yêu của người mẹ dành cho đứa con mình, không hề tính toán hay so đo. Tình yêu giữa gia đình với nhau là sự sẻ chia, những người thân trong gia đình khi ta gặp khó khăn và những chuyện khó vượt qua trong cuộc sống.
Hugo viết: “ thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt”, hay như nhà thơ Xuân Diệu cũng đặt ra câu hỏi: “ Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”. Đúng vậy, trong các câu chuyện hay thơ ca ngày xưa hay bàn luận về chuyện tình yêu, như nàng Kiều và Kim Trọng thứ tình yêu say đắm lứa đôi làm hai người tràn ngập hạnh phúc. Nó là sự nhớ nhung, càng yêu nhiều càng nhớ nhiều, nhớ đến bồi hồi con tim, trái tim đập loạn xạ. Càng thấu hiểu về nhau thì tình yêu càng đong đầy, càng ngọt ngào, càng gắn bó, càng hướng về nhau, luôn dành mọi điều tốt đẹp về nhau, không thể tách rời nhau.
Tình yêu có một thứ ma lực khủng khiếp, nhấn chìm mọi thứ, là niềm say mê cháy bỏng, nồng nàn. Khiến người đang yêu phê trong giai điệu tình ái đó, nhờ tình yêu mà nhiều điều tốt đẹp được hình thành, nhiều những ước mơ hoài bão có nhiều động lực để thực hiện hơn, tình yêu chính là loại thuốc bổ khiến ai uống vào cũng trở nên tươi trẻ, vui vẻ, yêu đời, có nhiều khát khao sống hết mình. Nó như một thứ thần dược làm cho con người ta hân hoan, hạnh phúc. Nhưng đừng biến tình yêu thành mù quáng.
Khi yêu người ta mang đến cho nhau hạnh phúc. Và dường như khi yêu trong con người cháy lên ngọn lửa hi vọng về một tương lai tốt đẹp và hạnh phúc, ngọn lửa đó thiêu trụi đi những ý nghĩ xấu, những khó khăn và mệt nhọc.
Một thứ tình yêu học trò đáng yêu, chăm lo cho nhau mỗi khi đến lớp, ngắm nhìn nhau và mỉm cười, thời gian cứ thế trôi qua, cùng nhau làm bài tập, cùng nhau học thuộc bài thơ, cùng nhau hát bài hát yêu thích, cùng nhau ăn những món ăn vỉa hè trẻ con. Cùng nhau cố gắng vào đại học, tình yêu chỉ đơn giản thế thôi mà lại hạnh phúc vô cùng.
|
Assignment
In the lives of each of us, surely everyone has experienced happy, or painful love relationships that cannot be forgotten. Love is a sharp weapon that makes us stronger, more mature, and more confident. That feeling forms love, which can be love between men and women, love for family, love for homeland and country. That's why the German writer F.sile said: "love is the passion to make others happy".
That's right, once love has touched it, it is very difficult to let go. So what is love?
Who can define love? Love is an extremely rich topic of all time. Love can be simply understood as a series of different emotions, psychological states, and attitudes ranging from personal feelings to joy. Love is a strong feeling of attraction and a need to be attached. It can also be a virtue that represents human kindness, benevolence, and sympathy.
So what kind of love is called passion? Loving someone madly because that person does all sorts of unworthy things is not called love. Loving someone because they are beautiful and attractive is just passion and desire to possess. The passion here is sweet love from the heart, without any self-interest or taking advantage of each other, a passionate love willing to sacrifice oneself to protect one's love, giving without expecting to receive. Like a mother's love for her child, without calculation or comparison. Love between family is sharing with family members when we encounter difficulties and difficult things to overcome in life.
Hugo wrote: "If there are no people in the world who know how to love, the sun will go out", or as poet Xuan Dieu also posed the question: "How can we explain love?" That's right, in old stories and poems, love stories were often discussed, like Kieu and Kim Trong, the passionate love between the couple filled them with happiness. It is a longing, the more you love, the more you miss, the more you miss, the more your heart beats wildly. The more we understand each other, the fuller our love is, the sweeter it is, the more attached we are, the more we look towards each other, always giving good things to each other, and being inseparable.
Love has a terrible magic power that engulfs everything, a burning, passionate passion. Making the person in love high in that love melody, thanks to love, many good things are formed, many dreams and ambitions have more motivation to realize, love is the tonic that makes anyone drink it. also become youthful, cheerful, love life, and have many desires to live life to the fullest. It is like a miracle medicine that makes people joyful and happy. But don't make love blind.
When people love, they bring happiness to each other. And it seems that when love ignites in people a fire of hope for a good and happy future, that fire burns away bad thoughts, difficulties and fatigue.
A lovely student love, taking care of each other every time we go to class, looking at each other and smiling, time just passing by, doing homework together, memorizing poems together, singing songs together. love, eat children's street food together. Trying to go to college together, love is just that simple but extremely happy.
|
Không biết chính xác khi nào, nhưng lâu lắm rồi tù trưởng Mtao Mxây nổi tiếng giàu có khắp vùng cao nguyên hùng vĩ. Hắn cậy thế mạnh nên cho đám đầy tớ đến cướp vợ tôi là Hơ Nhị mang về nhà trong lúc tôi đi vắng.
Nghe tin, tôi vội vã giắt dao vào thắt lưng, đi tìm hắn. Nhà Mtao Mxây rất lớn, đầu sàn hiên đẽo hình mặt trăng, đẩu cầu thang đẽo hình chim ngói. Ngôi nhà của lão tù trưởng này quả là đẹp. cầu thang rộng bằng một lá chiếu, người nối đuôi nhau lên xuống mà khiêng một ché rượu lớn vẫn không sợ chật.
Tôi bắc tay lên miệng gọi to: “Mxây xuống đây! Ta thách nhà ngươi đọ dao với ta đấy!”. Mxây nói vọng ra: “Ta không xuống đâu. Tay ta còn đang bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà!”
Tôi tức giận thét lên: “Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiên của nhà ngươi bổ đôi, ta sẽ lấy cái cầu thang của nhà ngươi chẻ ra kéo lửa, ta hun cối nhà của ngươi cho mà xem!”. Mxây biết tính tôi xưa nay nói là làm nên hoảng hốt hứa rằng từ từ sẽ xuống, chỉ xin tỏi đừng đâm hẳn lúc hắn xuống cầu thang. Tôi cười nhạt và đắc chí bảo rằng đến con lợn nái của hắn ở dưới đất tôi cũng chẳng thèm đâm nữa là.
Mtao Mxây buộc phải ra mặt một phen. Bà con trong buôn kéo đến xem rất đông. Cái khiên của hắn tròn như đầu cú, lưỡi gươm của hắn óng ánh bày sắc cầu vồng. Trông hắn thật là dữ tợn như một hung thần. Hắn đang đóng cái khố sọc gấp bỏ múi, mặc một cái ảo dày nút, đi từ nhà trong ra nhà ngoài, dáng tần ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo giữa một đám đông mịt mù như sương sớm.
Tôi thách thức: “Ngươi múa trước đi!”. Hắn đáp: “Ngươi mới là người mua trước. Ta như gà làng mới mọc cựa kli-ê, như gà rửng mới mọc cựa ê-chăm chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh”. Tôi giục gấp thêm một lần nữa, Mtao Mxây rung khiên múa. Cái khiên của hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô. Mặc kệ cho hắn múa thỏa thích, tôi không nhúc nhích. Tôi bật cười khinh bỉ: “Ngươi múa một mình, múa kêu lạch xạch như quả mướp khô. Miếng múa ấy, ngươi học ai vậy? Ngươi múa chơi đấy phải không?”.
Như chạm vào lòng tự ái, Mtao Mxây trả lời: “Ta học ai à? Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng”. Tôi khiêu khích: “Thế ư? Ta thì đâu có cậu mà học cậu, đâu có bác mà học bác! Chỉ cỏ hai ta đây, ngươi múa đi ta xem nào!”. Mxây hùng hổ quát: “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?”. Tôi chỉ thẳng vào mặt hắn: “Vậy thì ngươi hãy xem ta đây!” rồi vung khiên múa. Thêm một lần xốc nhanh tới, tôi đã vượt qua một quả đồi một cách nhanh nhất. Thêm một lần xốc tới nữa, tôi vượt một đồi lồ ô. Tôi chạy vun vút nhanh như cắt sang phía Đông, sang phía Tây. Còn Mtao Mxây thì như đang bước những bước cao bước thấp chạy hết bãi Tây lại sang bãi Đông. Hắn vung dao chém phập một nhát nhưng lại trúng cái chão cột trâu. Tôi chế giễu hắn: “Sao ngươi lại chém cái chão cột trâu? Còn khoe chân ta, ngươi dành làm gi?”.
|
I don't know exactly when, but a long time ago, Chief Mtao Mxay was famous for his wealth throughout the majestic highlands. Taking advantage of his strength, he sent a group of servants to steal my wife, Ho Nhi, and bring her home while I was away.
Hearing the news, I quickly put the knife in my belt and went to find him. Mtao Mxay's house is very large, the top of the porch is carved into the shape of a moon, and the top of the stairs is carved into the shape of a tiled bird. This old chief's house is truly beautiful. The stairs are as wide as a mat, people line up and down while carrying a large jar of wine without worrying about being cramped.
I raised my hand to my mouth and called out loudly: “Come down here! I challenge you to a knife fight with me!”. Mmayy called out: “I won't go down. My hands are still busy holding our two wives up here in the house!”
I shouted angrily: "Aren't you coming down? I will take the porch floor of your house and cut it in half, I will take the staircase of your house and cut it into pieces to draw fire, and I will burn your house down for you to see! Mxay knew my personality and always said I would do it, so he panicked and promised that he would come down slowly, only asking garlic not to stab him completely when he came down the stairs. I smiled faintly and triumphantly told him that I wouldn't bother stabbing even his sow on the ground.
Mtao Mxay was forced to appear once. Many people in the village came to watch. His shield was as round as an owl's head, and his sword glittered in rainbow colors. He looks really fierce like a villain. He was wearing a folded striped loincloth, wearing a thick buttoned shirt, walking from the inside of the house to the outside, his figure hesitant, each step hesitant in a crowd as misty as morning mist.
I challenged: "You dance first!". He replied: “You are the one who bought it first. I am like a village chicken that has just sprouted klie-e spurs, like a wild chicken that has just sprouted e-cham spurs that no one has stepped on, but its wings have been broken." I urged one more time, and Mtao Mxay shook his shield and danced. His shield rattled like a dried melon. Let him dance to his heart's content, I didn't move. I laughed contemptuously: "You dance alone, your dance rattles like a dried melon. Who did you learn that dance from? Are you dancing?
As if touching his pride, Mtao Mxay replied: "Who do I learn from?" With you, I learn from you. With you, we learn from you. There is the Dragon God, we learn from the Dragon God." I provoked: “Is that so? We don't have an uncle to learn from, and we don't have an uncle to learn from! It's just the two of us, you dance and I'll see!" Msayy shouted aggressively: "So don't you know that I am a general who is used to fighting people, taking prisoners, and tearing people's land to pieces?" I pointed straight at him: "Then look at me!" then waved his shield and danced. One more quick push, I went over a hill as quickly as possible. One more push forward, I crossed a giant hill. I ran as fast as I could to the East, to the West. As for Mtao Mxay, it's like he's taking high and low steps running from the West beach to the East beach. He swung his knife and slashed once but hit the buffalo rope. I mocked him: "Why did you cut the buffalo rope? If you still show off my feet, what are you doing?
|
Bài làm
John Adams đã từng nói: “ Có hai kiểu giáo dục. Một kiểu dạy chúng ta làm thếnào để sống, và kiểu còn lại dạy chúng ta phải sống như thế nào’’. Sống đẹp chính là dạy chúng ta phải sống như thế nào. Ai cũng biết sống đẹp định nghĩa như thế nào nhưng không phải ai cũng biết làm thế nào để sống đẹp. Sống đẹp có lẽ nào khó như vậy ư?
Sống đẹp không phải là một cái gì đấy khó khăn và to lớn cả, mà nó chính là những cử chỉ, lời nói, hành động giao tiếp hàng ngày của con người. “Sống đẹp’’ là một lối sống văn minh, tích cực, có đạo đức, có ước mơ, có lý tưởng. Sống đẹp là sống biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc đến mọi người. Sống đẹp là khi mình vấp ngã mà biết đứng dậy để bước tiếp. Sống đẹp là sống hết mình, sống cho ngày hôm nay mà không biết có ngày mai.
“Đẹp’’ không phải là cái hình thể, hình thức bên ngoài mà cái đẹp ấy là cái đẹp bên trong tâm hồn của mỗi con người. Sống đẹp trước hết phải xuất phát từ lòng nhân ái, vị tha để bao dung và tha thứ.
Để sống đẹp không phải chuyện đơn giản. Không phải bản thân muốn là được. Nó không dễ như ăn một cái bánh, uống một cốc nước mà nó phụ thuộc vào một quá trình lâu dài, có khi cả một đời ta chưa hiểu rõ hết được về nó. Nói sống đẹp dễ thì không phải mà khó cũng không phải. Nó khó là khi chúng ta lười biếng e ngai, không dám vượt lên bản thân mình. Nhưng khi sống đẹp sẽ mang lại rất nhiều điều có ích trong cuộc sống chúng ta. Sống đẹp giúp ta biết được nhiều giá trị và ý nghĩa của cuộc sống mang lại. Nó giúp ta hiểu đời hiểu người để sống lạc quan và mỉm cười trước những cám dỗ sóng gió của cuộc đời. Sống đẹp sẽ mang đến nhiều niềm hi vọng điều thiện lành qua từng ngày từng tháng. Và mang mọi người đến gần nhau hơn, làm cho xã hội phát triển hơn, làm cho cuộc sống có nhiều màu sắc.
Một người sống đẹp chỉ đơn giản là hàng ngày lễ phép với ông bà cha mẹ hay là cố gắng để học tập hoàn thành công việc thật tốt. Hay là một người có một lí tưởng đúng đắn, có một tâm hồn nhân hậu để bản thân ngày một trưởng thành không ngừng trưởng thành và biết chia sẻ với mọi người.Trong lịch sử chúng ta các vua hùng có công dựng nước và giữ nước chống giặc ngoại xâm. Và những tấm gương sống đẹp như Bà Trưng, Bà Triệu, Quang trung-Nguyễn huệ,… hay chính là những vị anh hùng “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh’’ không sợ khó khăn, gian khổ, dám hi sinh xương máu của mình để mang đến một nền độc lập, tự do, dân chủ cho tổ quốc ngày hôm nay. Vĩ đại hơn thế nữa chính là Bác Hồ kính yêu của dân tộc ta là người có đủ bốn tố chất( cần, kiệm, liêm, chính) mà khó có thể tìm được người thứ hai. Thế nên mới có câu thơ nói về đức tính giản dị của Bác:
Còn đôi dép cũ mòn quai gót
Bác vẫn thường đi khắp thế gian
Bên cạnh những tấm gương sống đẹp cũng có không ít người có lối sống hẹp hòi, ích kỉ, vụ lợi, vô tâm mà còn gây ra các tệ nạn xã hội như cờ bạc,rượu chè, hút chích, ma túy,… dẫn đến ảnh hưởng rất nhiều người, khiến nhà nhà tan cửa nát nhà, bán vợ, bán con hại cả cho cả đứa trẻ sinh ra mấy tháng cũng bị giết không chút thương tiếc. Hay là khi tự do buông thả bản thân, để bản thân mình bị trượt dốc sẽ làm cho bản thân mất nhân cách, cảm thấy mình có mặt trên trái đất này là dư thừa không có ý nghĩa nên dẫn đến những hành động làm hại đến người khác, bản thân mình không tốt thì người khác cũng phải giống mình. Chính những con người như thế sẽ làm cho xã hội không phát triển được lên mà theo chiều hướng đi xuống.
Chúng ta rất may mắn khi có mặt trên trái đất này, thế nên đừng lãng phí thời gian tuổi thanh xuân của mình. Bởi thời gian qua đi sẽ không bao giờ trở lại. những khoảng thời gian đó thay vì ngồi chơi game, lướt web, làm những thứ vô bổ thì tại sao chúng ta không thử một buổi sáng thức dậy sớm ngắm ánh nắng bình minh, hoặc giúp bố mẹ làm một chút việc nhà. Hơn thế nữa ta cũng có thể tham gia vào các hoạt động xã hội để giúp đỡ những em nhỏ có số phận bất hạnh, những cụ già lang thang cơ nhỡ.
Hãy mở rộng lòng mình, để an ủi chia sẻ cho những số phận không may mắn như chúng ta. Khi ta cho đi ta nhận lại còn nhiều hơn thế, ở đây nhận lại không phải là vật chất mà chính là tình cảm, sự quý mến, niềm hạnh phúc và tâm thanh thản. Thật ra, không một ai mong muốn mình sinh ra trên cuộc đời này thành người xấu cả, ai cũng muốn làm người tốt nhưng số phận của họ lại đẩy họ đến bước đường cùng. Nhưng cái đó chỉ là một phần nhỏ tạo nên bản tính xấu, mà phần quan trọng nhất là chính bản thân mình phải cố gắng để vượt qua, hoàn thiện hơn. Chúng ta sinh ra đều giống như nhau, nhưng khác ở chỗ trải qua nhiều thời gian ta học hỏi trau dồi được những gì cho bản thân.
|
Assignment
John Adams once said: “There are two types of education. One teaches us how to live, and the other teaches us how to live. Living beautifully is teaching us how to live. Everyone knows what it means to live beautifully, but not everyone knows how to live beautifully. Can it be so difficult to live beautifully?
Living beautifully is not something difficult and big, but it is people's daily gestures, words, and actions of communication. “Living beautifully” is a civilized, positive, ethical, dreamy, and idealistic lifestyle. Living beautifully is living loving, caring, and taking care of everyone. A beautiful life is when you fall and know how to get up and move on. Living beautifully is living to the fullest, living for today without knowing if there will be a tomorrow.
“Beauty” is not an external body or form, but beauty is the beauty within the soul of each person. Living a beautiful life must first come from kindness, altruism, tolerance and forgiveness.
To live beautifully is not a simple matter. It's not what you want. It is not as easy as eating a cake and drinking a glass of water, but it depends on a long process, sometimes we cannot fully understand it in our whole life. It's not true that living a beautiful life is easy, but it's also not difficult either. It's difficult when we are lazy and shy, not daring to surpass ourselves. But living beautifully will bring many useful things in our lives. Living beautifully helps us know the many values and meanings of life. It helps us understand life and understand people to live optimistically and smile in the face of life's turbulent temptations. Living beautifully will bring much hope for good things through each day and month. And bring people closer together, make society more developed, and make life more colorful.
A person who lives beautifully is simply being polite to their parents and grandparents every day or trying to study and complete their work well. Or is it a person who has a correct ideal and a kind soul so that he or she can constantly grow and share with everyone? In our history, heroic kings have been instrumental in building and defending the country. country against foreign invaders. And examples of beautiful lives like Ba Trung, Ba Trieu, Quang Trung-Nguyen Hue,... or the heroes who "deterred to die for the country and decided to live" were not afraid of difficulties and hardships, daring to sacrifice blood and blood. to bring independence, freedom, and democracy to the country today. Even greater than that is our nation's beloved Uncle Ho, who has all four qualities (diligence, frugality, integrity, integrity) that are difficult to find a second person. That's why there is a poem about Uncle Ho's simplicity:
And the old sandals with worn heels
Uncle often travels around the world
Besides the examples of living a beautiful life, there are also many people with narrow-minded, selfish, self-seeking, and heartless lifestyles that also cause social evils such as gambling, alcohol, smoking, drugs,... leading to affecting many people, causing families to be ruined, wives to be sold, children to be sold, even children born a few months old were killed without mercy. Or when you freely let yourself go, letting yourself slip will make you lose your personality, feeling that your presence on this earth is redundant and meaningless, leading to harmful actions. To others, if we ourselves are not good, others must be like us. It is people like that who will make society not develop up but in a downward direction.
We are very lucky to be on this earth, so don't waste your youth. Because time gone will never come back. During those times, instead of sitting around playing games, surfing the web, and doing useless things, why don't we try waking up early in the morning to watch the sunrise, or help our parents do a little housework. Moreover, we can also participate in social activities to help children with unfortunate fates and homeless elderly people.
Open your hearts, to comfort and share for those who are not as fortunate as us. When we give, we receive back even more. Here we receive not material things but affection, affection, happiness and peace of mind. Actually, no one wants to be born into this life to be a bad person. Everyone wants to be a good person, but their fate pushes them to the end. But that is only a small part of what makes up our bad nature, but the most important part is that we ourselves must try to overcome and improve. We are all born the same, but the difference is that over time we learn and cultivate what we can for ourselves.
|
Bài làm
“ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.”
Từ xa xưa mối quan hệ của cá nhân và tập thể đã được thể hiện rất rõ nét, một mình lẻ loi thì khó làm được việc lớn nhưng một tập thể đồng lòng thì có thể làm nên tất cả. Và mối quan hệ đó thể hiện đặc sắc qua hình ảnh so sánh rất hay: “cá nhân và tập thể như giọt nước và biển cả”, mãi mãi không thể tách rời.
Đúng vậy, nói đến giọt nước thì ai cũng biết, nó quá nhỏ bé, li ti,chẳng có giá trị gì to lớn cả, hay nói đúng hơn chỉ là một giọt nước chẳng ai để ý, chẳng ai quan tâm cả. Nhưng thật kì diệu khi ti tỉ những giọt nước tụ lại nó tạo nên một biển cả mênh mông, có thể nhấn chìm mọi thứ, khiến ta phải khiếp sợ. Ở đây ta có thể thấy được giá trị sức mạnh to lớn của sức mạnh tụ họp. Và thật hay khi hình ảnh đó so sánh với cá nhân và tập thể.Từng con người trong xã hội này muốn tồn tại và phát triển tốt đều phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau theo một cách nào đó, không ai dám đứng lên và nói là một mình tôi có thể sống tốt cả.
Giả sử như, hằng ngày cơm, thịt, rau bạn ăn là sự lao động vất vả của bao nhiêu người dân chăm sóc từng ngày mới có thành quả. Hay như quần áo, giày dép, phấn son cũng mồ hôi bao nhiêu người công nhân làm việc vất vả trong nhà máy để bạn có thể khoác lên mình những trang phục đẹp như vậy. Trong xã hội này chúng ta luôn có sự liên kết với nhau có thể là nhìn thấy hoặc là vô hình, chứ bạn không một mình tồn tại. Khi chúng ta đi học, từng bạn là một thành viên, nhiều bạn tạo thành một lớp học, rồi cùng nhau chơi, cùng nhau học tập tạo nên một tập thể lớp vững mạnh, rất nhiều tập thể tốt như thế tạo nên một trường xuất sắc. Có một tập thể tốt thì từng cá nhân phải tốt thì mới có thể làm được. Hay như khi đi làm việc, mỗi người làm một việc sẽ rất nhanh xong và công việc sẽ được hoàn thành xuất sắc, tập thể đó sẽ được khen thưởng, nếu một mình làm thì bao giờ mới có thể hoàn thành được.
Mỗi người làm một việc, người chữa bệnh, người thì dạy học, người thì chiến đấu, người thì sản xuất,…tất cả những điều đó đã tạo nên một Việt Nam vô cùng tươi đẹp và vững mạnh.
Để phát triển thật tốt đất nước ta cũng phải hợp tác và kết bạn với các nước trên thế giới để ngày càng đi lên, chứ nếu độc lập thì đất nước ta sao có thể phát triển được. Chỉ có đoàn kết lại mới tạo ra được sức mạnh. So với thế giới mỗi nước chính là một cá nhân. Bác hồ đã từng dạy rằng: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”. Chỉ có đoàn kết hợp sức lại thì mỗi cá nhân mới có thể phát huy chính mình và tạo nên những kì tích.
Từ xa xưa có rất nhiều câu thơ hay về điều này: “ Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”,” muôn dòng sông đổ biển sâu, biển chê sông nhỏ biển đâu nước còn”…qua đó càng cho ta thấy tầm quan trọng của tập thể, sự đoàn kết tạo nên được những sức mạnh kì diệu.
|
Assignment
" A tree should not make premature
Three trees gathered together form a high mountain."
Since ancient times, the relationship between individuals and groups has been shown very clearly. It is difficult to do great things alone, but a united group can do everything. And that relationship is uniquely expressed through a very good comparison image: "the individual and the collective are like a drop of water and the ocean", forever inseparable.
That's right, when it comes to a drop of water, everyone knows that it is too small, tiny, of no great value, or rather, it is just a drop of water that no one notices, no one cares about. But it's amazing that when tiny drops of water gather together, it creates a vast ocean that can engulf everything, making us terrified. Here we can see the great value of the power of gathering. And it's great when that image compares with individuals and groups. Every person in this society who wants to survive and develop well depends on and influences each other in some way, no one dares to stand up and saying that I can live well alone.
Suppose, the rice, meat, and vegetables you eat every day are the hard work of many people taking care of them every day to get results. Or like clothes, shoes, makeup, and the sweat of many workers working hard in the factory so you can wear such beautiful clothes. In this society, we are always connected to each other, whether visible or invisible, but you do not exist alone. When we go to school, each of you is a member, many of you form a class, then play together, study together to create a strong class group, many good groups like that make up a school. excellent. To have a good team, each individual must be good to be able to do it. Or like when going to work, each person doing a job will finish it very quickly and the job will be completed excellently, that group will be rewarded, if they do it alone, they will never be able to complete it.
Each person does a job, one heals, one teaches, one fights, one produces,... all of which have created an extremely beautiful and strong Vietnam.
To develop our country well, we must also cooperate and make friends with countries around the world to progress further. If we are independent, how can our country develop? Only unity can create strength. Compared to the world, each country is an individual. Uncle Ho once taught: "Unity, solidarity, great solidarity, Success, success, great success". Only by uniting and joining forces can each individual promote themselves and create miracles.
Since ancient times, there have been many beautiful verses about this: "One horse is sick, the whole ship is abandoned", "All rivers flow into the deep sea, the sea criticizes small rivers, where water is left"... through that, it further shows us the importance of The importance of the collective, solidarity creates magical powers.
|
Tôi vốn là một chú gà chọi nổi tiếng khắp vùng, bởi tôi luôn thắng trong mọi trận đấu và được mọi người biết đến với cái tên Oanh Liệt mà ông chủ đặt cho tôi. Tôi nói thế chỉ để như nhắc nhớ về cái quá khứ oai phong lẫm liệt của mình mà cố quên đi cái tình cảnh trớ trêu hiện tại- tôi đã bị ông chủ bỏ rơi. Tôi phải sống trong cái chuồng tre chật hẹp không được đi ngao du như trước kia nữa.
Tôi sinh ra và lớn lên tại một vùng quê rất yên bình, dường như cảnh đồng ruộng lũy tre đã rất quen thuộc với tôi, tôi cùng bố mẹ và các em sống rất hạnh phúc bên nhau cho đến khi tôi gặp cậu, cái ngày định mệnh đó đã thay đổi cả cuộc đời tôi sau này… Tôi còn nhớ rõ hôm đó, bố mẹ dẫn tôi và các em ra phía bờ sông sau làng chơi, vì lần đầu được đi chơi xa, lại mãi lo ngắm cảnh lạ đẹp mắt mà khi nhận ra, tôi biết mình đã lạc… Vì quá hốt hoảng, tôi chạy khắp nơi chiếp chiếp gọi nhưng không thấy ai trả lời, vừa đói vừa mệt, khản giọng, tôi yếu ớt gọi những tiếng cuối cùng rồi thiếp đi trong ánh hoàng hôn cuối ngày, khi tỉnh giấc, tôi nhận ra mình đang nằm trong một cái tổ rơm ấm áp, xung quanh tôi là bao nhiêu cô gà, chú gà đang tò mò đáp trả ánh nhìn của tôi… “két..” Cánh cửa chuồng được ai đó mở ra, tôi giật mình nhìn tới hướng đó, ánh sáng tràn vào làm tôi chói mắt, chỉ kịp nhìn thấy một bóng người gầy gầy đang tiến lại phía mình, một bàn tay nhỏ chụp lấy tôi, tôi run run người, bàn tay còn lại đưa lên vuốt lấy người tôi, tôi mở mắt ngước nhìn gương mặt đối diện mình, đó là một cậu trai khoảng chừng 15 tuổi, cậu như đang nhìn tôi ấm áp lắm, chính ánh nhìn đó đã làm tôi tin cậu ngay.
Và cũng kể từ đó, tôi và cậu chủ bầu bạn sớm hôm, cậu luyện tập tôi trở thành một chú gà khỏe nhất đàn, cơ bắp trên người tôi nổi lên săn chắc, mấy chú gà choi ghen tỵ với tôi cũng vì lẽ đó. Và cho đến một hôm, cậu bế tôi đến một hội trong làng, từ xa tôi đã nghe thấy tiếng hò hét inh ỏi, dường như đám đông đó đang cổ vũ cho một trò chơi thú vị nào đó, cậu bế tôi chạy vào xem… Tôi thoáng nhìn ngay vào xem đám đông đó có gì, thì ra là chọi gà, tôi có nghe cậu chủ nhắc đến trò này, nghe đâu là rất thú vị, cậu chủ đặt tôi xuống đất, vỗ vỗ tay vào người tôi như đang muốn nhắn nhủ rồi cậu cùng lũ bạn hò hét, tôi biết chắc là mình sẽ không làm cậu chủ thất vọng nên cũng đã lấy hết bình sinh mà lao vào. Nhưng quả thật mọi chuyện không dễ như tôi nghĩ, đối phương là một kẻ rất mạnh và dày dạn kinh nghiệm, hắn lao vào tôi và tấn công tới tấp, lúc đầu tôi còn sợ, tôi mất đà té lăn ra, cậu chủ thấy thế liền vỗ nhẹ vào đầu bảo tôi cố lên, gương mặt cậu tràn đầy hi vọng, tôi như khỏe hẳn ra, đứng dậy, tôi vươn đôi cánh vững chắc và lao vào hắn, tôi quyết liệt tấn công, hắn dường như cũng đã đuối sức, tôi dồn sức đá nhát cuối cùng vào ức của hắn, hắn lăn ra đất thất bại.
Cậu chủ vui mừng nhấc bỗng tôi lên một cách nhanh chóng, một cảm giác thật tuyệt, thật lạ đối với tôi, lần đầu tiên tôi cảm thấy cậu chủ cười vui như vậy. Cậu chủ nhỏ đặt cho tôi tên Oanh Liệt, và không biết sao tôi rất yêu thích cái tên này va không ngừng thắc mắc ý nghĩ tên cậu đặt cho tôi. Lúc đó cậu bảo tôi đã chiến đấu rất dũng cảm, tôi kiêu hãnh cất tiếng gáy thật to, mặc cho thời gian có trôi đi, mặc cho mọi điều có thay đổi, tôi chỉ muốn giữ mãi niềm hạnh phúc ngày hôm nay, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình sống thật có ích…
|
I was a famous fighting cock throughout the region, because I always won every fight and was known by the name Oanh Liet that my boss gave me. I said that just to remind myself of my majestic past and try to forget the irony of my current situation - I was abandoned by my boss. I have to live in a narrow bamboo cage and can't travel like before.
I was born and raised in a very peaceful countryside, it seemed that the scene of bamboo fields was very familiar to me, my parents and siblings lived very happily together until I met you, the day That fate changed my whole life later... I still remember clearly that day, my parents took me and my siblings to the river bank behind the village, because it was the first time we were able to go out far away, and we were always worried about seeing the strange and beautiful scenery. But when I realized it, I knew I was lost... Because I was so panicked, I ran everywhere calling out but no one answered. I was hungry and tired, my voice was hoarse, I weakly called out the last words and then fell asleep. In the sunset at the end of the day, when I woke up, I realized I was lying in a warm straw nest, surrounded by many chickens and chickens curiously responding to my gaze... "Someone opened the barn door. I was startled and looked in that direction. The light flooded in, blinding me. I only had time to see a thin figure approaching me. A small hand grabbed me. I trembled, my other hand reached up to caress my body, I opened my eyes and looked up at the face opposite me, it was a boy about 15 years old, he seemed to be looking at me very warmly, that look. made me trust you right away.
And since then, the owner and I have been friends every day, he trained me to become the strongest chicken in the flock, my muscles became firm, the chickens were jealous of me for that reason. . And until one day, he carried me to a village festival, from afar I heard loud cheers, it seemed like the crowd was cheering for some interesting game, he carried me and ran in to watch. … I took a quick look at the crowd to see what was going on. It turned out to be cockfighting. I heard the owner mention this game. It sounded very interesting. The owner put me on the ground and patted me like a I was trying to send a message and he and his friends were screaming. I knew for sure that I wouldn't disappoint the boss, so I took all my strength and rushed in. But it's really not as easy as I thought, the opponent is a very strong and experienced guy, he rushed at me and attacked me, at first I was scared, I lost my momentum and fell down, the master saw. So he patted me on the head and told me to try harder. His face was full of hope. I felt stronger, I stood up, I stretched out my strong wings and rushed at him. I fiercely attacked him. He seemed to have Exhausted, I used all my strength to give him the last kick in the sternum, causing him to fall to the ground in defeat.
The master happily lifted me up quickly. It was a wonderful, strange feeling for me. It was the first time I felt the master smile so happily. The little master gave me the name Oanh Liet, and for some reason I loved this name so much and kept wondering about the idea of the name he gave me. At that time you told me I fought very bravely, I proudly crowed loudly, no matter how much time passed, no matter how things changed, I just wanted to keep the happiness of today, every time. For the first time in my life, I feel like I'm living a useful life...
|
Mặt trời đã thức dậy cao tít, tôi thức dậy và bắt đầu cho chuyến đi kiếm ăn ngày hôm nay của mình như mọi hôm. Hôm nay, khác mọi hôm tôi ghé thăm một khu vườn mới. Khu vườn này khá rộng, tôi vô cùng thích thú chuyền từ cành này sang cành khác để tìm sâu. Những con sâu trốn kĩ đến mấy cũng bị tôi tóm gọn. Bỗng tôi thấy đằng xa có một con sâu lớn đang loay hoay ăn một búp non. Tôi bay nhanh đến cành cây ở đó nhưng không may tôi đâm sầm vào một cành cây khác rồi rơi tự do bất tỉnh.
Mở mắt ra tôi đã nằm gọn trong một chiếc lồng nhỏ, khá mới treo ở mái hiên nhà trước phòng một cậu bé. Chiếc lồng theo quan sát của tôi nó có những khung sắt rào quanh được sơn trắng. Ngoài ra có một thanh ngang giả cành cây khác đẹp, tôi đoán chắc cành cây đó dùng để cho tôi đứng trên đó. Có một lọ đựng thức ăn và nước uống đầy đủ màu trắng bằng sứ khá đẹp. Ráo mắt nhìn quanh, tôi nghe được cậu bé kia đang nói chuyện với bạn của cậu ý rằng đã nhặt được tôi ngoài vườn và mang vào có ý định nuôi tôi. Cậu bé có vẻ rất thích thú nhưng tôi lại cảm thấy buồn. Thấy tôi tỉnh dậy, cậu bé vui mừng nụ cười rạng rỡ nhảy cẫng lên, cậu mở lồng bỏ vào rất nhiều sâu vào cốc thức ăn. Nhưng tôi lại chẳng có tâm trạng để mà ăn gì cả. Mặc dù thức ăn cậu bé cho tôi ăn rất ngon. Tôi nhớ trong một buổi chiều khá lâu khi tôi đang bay đi kiếm mồi vô tình cũng ăn được những viên cám viên rơi ở ngoài sân một nhà nuôi rất nhiều chhim cảnh. Những viên cám này thật thơm ngon, tôi được ăn một lần rồi nhớ mãi. Lúc đó tôi chỉ thấy các chú chhim kia thật hạnh phúc không phải mải miết đi kiếm ăn như tôi, ngày nắng hay ngày mưa cũng phải xả cánh đi mà kiếm mồi. Trong lúc đó tôi thoáng nghĩ nếu được ở trong chiếc lồng đó, ngày ngày được ăn đồ ăn ngon thì quả thật là tuyệt vời.
|
The sun was up high, I woke up and started my foraging trip today like every other day. Today, unlike any other day, I visit a new garden. This garden is quite large, I extremely enjoyed jumping from branch to branch looking for worms. No matter how well the worms hide, I will always catch them. Suddenly I saw in the distance a large worm struggling to eat a bud. I quickly flew to the tree branch there, but unfortunately I crashed into another tree branch and then fell unconscious.
When I opened my eyes, I was in a small, fairly new cage hanging on the porch in front of a boy's room. According to my observations, the cage has iron frames painted white around it. In addition, there is another beautiful horizontal bar pretending to be a tree branch. I guess that tree branch is probably used for me to stand on. There is a beautiful white porcelain jar full of food and water. Looking around, I heard the other boy talking to his friend, saying that he had picked me up in the garden and brought him in with the intention of raising me. The boy seemed very excited but I felt sad. Seeing me wake up, the boy jumped up with a happy smile, opened the cage and put a lot of worms into the food cup. But I'm not in the mood to eat anything. Although the food the boy gave me was delicious. I remember one long afternoon when I was flying around looking for food and accidentally ate bran pellets that fell in the yard of a house that kept a lot of pet birds. These bran balls are so delicious, I ate them once and will remember them forever. At that time, I just saw that those birds were so happy that they didn't have to keep looking for food like me, on sunny or rainy days they had to spread their wings to look for food. At that moment, I briefly thought that if I could stay in that cage and eat delicious food every day, it would be truly wonderful.
|
Người phụ nữ xưa kia dường như đã ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và phẩm chất cao quý của mình nên tự so sánh ‘Thân em như tấm lụa đào…’ Tuy vậy, số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ thật chông chênh, không có gì đảm bảo: Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Tấm lụa đào được xem là một trong những thứ hàng xa xỉ thời trước. Nó đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa đào hay những loại lụa nói chung đều có đặc điểm là nhẹ, mềm và rất mát. Và khi mặc vào thì người đẹp hẳn lên, cha ông ta cũng từng đúc kết ‘Người đẹp vì lụa”. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người có người sang kẻ hèn, người tốt và có cả những kẻ xấu, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật đấy, nhưng chắc gì đã có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại gợi như có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.
Dường như nỗi đau xót của nhân vật trữ tình trong lời than thân trên chính là ở chỗ khi người con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi băn khoăn lo lắng về thân phận lại ập đến ngay với họ. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận cả một đời người. Sự đối lập giữa hai dòng thơ đã khiến ta thấm thía nỗi đau đó.
Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa dường như đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Ta đã biết đến một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Hay cả một nàng Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn rất nhiều không biết bao nhiêu chuyện về thân phận người phụ nữ được biết và không biết nữa nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Và những người phụ nữ họ không thể nào mà thoát ra được cái lối mòn đó, học đành cam chịu cho số phận xô đẩy. Và họ thường than thân trách phận qua những lời ca tiếng hát của mình “Thân em” là các mở đầu quen thuộc trong ca dao xưa là bởi vậy. “Thân em” như đã nói, gợi mở về thân phận nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội cũ, và họ so sánh họ với rất nhiều hình ảnh và các sắc thái khác nhau. Và hình ảnh:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận ngưòi phụ nữ vậy.
Ca dao được xem là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian dường như có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng. Hai từ “Thân em” như khắc khoải đến nghẹn lời, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi được tự giới thiệu về chính mình cũng rụt rè, khiêm nhường thôt lên hai tiếng “thân em”. Thân phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn qua thi phẩm “Bánh trôi nước”. Nguyễn Du thương xót cũng đã phải thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao thì sao? Ca dao lại nói về đời người con gái, người phụ nữ trong xã hội xưa qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây được tác giả dân gian sử dụng một cách thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang một dáng vẻ đẹp, nó nhẹ nhàng như chính tâm hồn, phẩm chất ngưòi phụ nữ vậy. Hơn nữa lụa đào lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho ngưòi hay khung ảnh. Và phải chăng cũng giống như chính người phụ nữ trong cuộc đời vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh mà tác giả dân gian lựa chọn so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán ngưòi mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biêt có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, dường như người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn ‘trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con phải chịu sự áp đặt của lễ giáo trong xã hội cũ. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi được người phụ nữ buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi ngưòi con gái.
Toàn bộ câu ca dao có thể dễ nhận thấy đó là một lời than. Nó như được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến, học ó tài nhưng lại phải chịu những đau khổ tủi hờn nhất vì không được làm chủ cuộc đời mình. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tảc câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu ngưòi, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!
Với cách so sánh, ví von thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những ngưòi phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có
|
Người phụ nữ xưa kia dường như đã ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và phẩm chất cao quý của mình nên tự so sánh ‘Thân em như tấm lụa đào…’ Tuy vậy, số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ thật chông chênh, không có gì đảm bảo: Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Tấm lụa đào được xem là một trong những thứ hàng xa xỉ thời trước. Nó đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa đào hay những loại lụa nói chung đều có đặc điểm là nhẹ, mềm và rất mát. Và khi mặc vào thì người đẹp hẳn lên, cha ông ta cũng từng đúc kết ‘Người đẹp vì lụa”. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người có người sang kẻ hèn, người tốt và có cả những kẻ xấu, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật đấy, nhưng chắc gì đã có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại gợi như có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.
Dường như nỗi đau xót của nhân vật trữ tình trong lời than thân trên chính là ở chỗ khi người con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi băn khoăn lo lắng về thân phận lại ập đến ngay với họ. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận cả một đời người. Sự đối lập giữa hai dòng thơ đã khiến ta thấm thía nỗi đau đó.
Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.
Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa dường như đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Ta đã biết đến một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Hay cả một nàng Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn rất nhiều không biết bao nhiêu chuyện về thân phận người phụ nữ được biết và không biết nữa nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Và những người phụ nữ họ không thể nào mà thoát ra được cái lối mòn đó, học đành cam chịu cho số phận xô đẩy. Và họ thường than thân trách phận qua những lời ca tiếng hát của mình “Thân em” là các mở đầu quen thuộc trong ca dao xưa là bởi vậy. “Thân em” như đã nói, gợi mở về thân phận nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội cũ, và họ so sánh họ với rất nhiều hình ảnh và các sắc thái khác nhau. Và hình ảnh:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận ngưòi phụ nữ vậy.
Ca dao được xem là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian dường như có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng. Hai từ “Thân em” như khắc khoải đến nghẹn lời, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi được tự giới thiệu về chính mình cũng rụt rè, khiêm nhường thôt lên hai tiếng “thân em”. Thân phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn qua thi phẩm “Bánh trôi nước”. Nguyễn Du thương xót cũng đã phải thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao thì sao? Ca dao lại nói về đời người con gái, người phụ nữ trong xã hội xưa qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây được tác giả dân gian sử dụng một cách thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang một dáng vẻ đẹp, nó nhẹ nhàng như chính tâm hồn, phẩm chất ngưòi phụ nữ vậy. Hơn nữa lụa đào lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho ngưòi hay khung ảnh. Và phải chăng cũng giống như chính người phụ nữ trong cuộc đời vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh mà tác giả dân gian lựa chọn so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán ngưòi mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biêt có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, dường như người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn ‘trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con phải chịu sự áp đặt của lễ giáo trong xã hội cũ. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi được người phụ nữ buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi ngưòi con gái.
Toàn bộ câu ca dao có thể dễ nhận thấy đó là một lời than. Nó như được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến, học ó tài nhưng lại phải chịu những đau khổ tủi hờn nhất vì không được làm chủ cuộc đời mình. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tảc câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu ngưòi, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!
Với cách so sánh, ví von thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những ngưòi phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có
|
Bài làm
Từ lâu, truyện cười dân gian đã trở thành một sản phẩm văn hóa tinh thần tuyệt vời của dân tộc, nó mang trong mình là những tác phẩm nhằm mang đến tiếng cười hài hước xua tan mệt mỏi, và cũng có rất nhiều câu chuyện đưa đến giọng cười châm biếm,phê phán, đả kích, qua những sự việc gắn bó khăng khít với cuộc sống dung dị đời thường. Truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày là một trong số đó, đánh đòn đau vào tệ nạn tham nhũng ăn vào máu của không ít con mọt quan thời xưa, vì tiền mà sẵn sàng lung lay, lật đổi “lẽ phải” trắng trợn.
Câu chuyện bắt đầu với sự bất đồng, xô xát giữa 2 nhân vật Cải và Ngô. Họ tìm đến viên quan xử kiện có tiếng giỏi giang trong vùng – thầy Lý trưởng. Vì muốn thắng thế và bị đánh ít, mối quan hệ chính nối quan với dân chính là đút lót tiền lén lút từ trước (Cải đã lót tiền trước cho thầy lí năm đồng). Cải nghĩ thế là quan sẽ cho mình giảm nhẹ roi nên rất ung dung. Mâu thuẫn chỉ diễn ra đỉnh điểm trong phiên xử kiện, Cải bất ngờ từ thế chủ động chuyển hoàn toàn sang bị động, khi thầy phán đánh mười roi. Chưa dừng lại ở đó, Cải vội nhắc nhở thầy lí bằng những hành động chứa ấn ý mà chỉ hai người trong cuộc hiểu với nhau. Anh ta “ xòe năm ngón tay’’ nhắc thầy mình đã lót năm đồng và “ngước mắt lên nhìn thầy’’ chờ đợi.Nhưng Cải đâu biết thầy Lý tham lam đã âm thầm nhận tiền từ cả hai phía. Tình huống gây cười châm biếm chính là Thầy Lý không phủ nhận điều đó mà đã đáp lời nhanh chóng bằng việc xòe năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt, ý nói “lẽ phải” kia đã được nhân đôi. Tiếng cười thấu hiểu của độc giả khẽ bật ra từ đó.Cải và ngô cả hai tự nhiên lại mất tiền mà vẫn bị phạt, chỉ là nhiều tiền hơn sẽ bị phạt ít hơn thôi, chính hai nạn nhân này cũng đã tạo thời cơ cho kẻ tham ô như thầy Lý.
Điều góp phần tạo nên sự độc đáo riêng biệt của câu chuyện này chính là sự sử dụng linh hoạt hai thứ ngôn ngữ. Ngôn ngữ giao tiếp với mọi người một cách rõ ràng, và thứ ngôn ngữ ngấm ngầm bằng việc giơ những ngón tay đầy bí mật, có lẽ chỉ là người trong cuộc mới hiểu được. Nếu “5 ngón tay” của Cải được giơ lên đầy khăng khăng là “ lẽ phải”, ngay lập tức “xoè năm ngón tay trái úp lên năm ngón tay mặt ” hành động của thầy Lí chính là ý nghĩa “ lẽ phải kia đã bị mua gấp đôi”, mày đã cẩn thận lo lót nhưng có người còn lo lót gấp đôi mày.Thầy lí chính xác là không liêm minh giỏi giang như lời đồn thổi.Sự thú vị được người đọc nhận ra khi tìm thấy sợi dây liên hệ thông suốt giữa: lẽ phải – những ngón tay và những đồng tiền.
Qua đây, ta thấy được sự bất cập,nhức nhối trong việc xử kiện của một bộ phận lớn quan lại thời xã hội phong kiến. Không cần quan tâm ai đúng ai sai,rồi minh bạch cho rõ lẽ, mà lẽ phải đối với người xử kiện luôn được tính bằng tiền. Đồng tiền đó lẽ phải, tiền nhiều lẽ phải nhiều, tiền ít lẽ phải ít. Hiện tượng tham nhũng ăn sâu, bòn rút của dân đen vô tội. Đúng như lời câu tục ngữ:
“Nào ngờ cùng tổ bợm già,
Quan thamvới lại quan tòa bạn thân!”.
Sự bắc cầu nối tiếp đó còn được tiếp tục diễn ra,vì sống trong hoàn cảnh đồng tiền nhũng nhiễu, đôi khi làm mờ đi lí trí của người dân nghèo, họ bị lôi kéo hạch sách đáng thương, thảm hại, còn như gián tiếp tạo cho tình trạng tham nhũng ngày càng trầm trọng “nén bạc đâm toạc tờ giấy”, điển hình chính hai nạn nhân trong câu truyện, Ngô và Cải vừa đáng thương, đáng trách.
Song trên tất cả chứng minh được ở thời phong kiến suy tàn. Đạo đức của một bộ phận vị quan đại diện cho đất nước cha làm mẹ của dân không làm tròn được công việc cho dân, ngược lại còn bòn rút thêm, vơ vét triệt để. Tạo những vụ tham nhũng nặng nề, chân lí bị bóp méo, công lí bị thiên lệch trắng trợn đi xuống, tiền bạc trở thành một vũ khí sắc nhọn nhất trong mọi mối quan hệ những tham quan đó đã đẩy người nông dân vào con đường khổ cực. bất hạnh.
Tham nhũng vắt qua, chạy dài theo lịch sử loài người, ở nơi nào cũng có, dù ở mức độ khác nhau. Việt Nam ngày nay, khi nhắc đến tham nhũng và chống tham nhũng là một cuộc đấu tranh theo sự chỉ dẫn sát sao của Đảng, nó vô cùng cam go, lâu dài nhưng cũng không phải không thể đẩy lùi, chúng ta vẫn ra sức nghiêm khắc và mạnh mẽ,
|
Assignment
For a long time, folk jokes have become a wonderful spiritual and cultural product of the nation. It contains works that bring humorous laughter to dispel fatigue, and there are also many stories. bringing laughter to sarcasm, criticism, and criticism through events closely related to simple, everyday life. Jokes But it must be equal to you two, one of them, a painful blow to the corruption that is in the blood of many ancient officials, for money they are willing to shake and blatantly overturn "righteousness". .
The story begins with a disagreement and clash between two characters Cai and Ngo. They went to the famous court judge in the area - Mr. Ly Truong. Because he wanted to prevail and be beaten less, the main relationship between the officials and the people was to secretly bribe money in advance (Cai had bribed the teacher with five dong in advance). Cai thought that the official would give him a lighter punishment, so he was very lenient. The conflict only reached its climax during the trial. Cai suddenly changed from an active position to a completely passive one, when the teacher gave him ten lashes. Not stopping there, Cai quickly reminded the teacher with actions that contained meanings that only the two people involved could understand. He "spread his five fingers" to remind his teacher that he had put in five dong and "raised his eyes to look at him" and waited. But Cai did not know that greedy Teacher Ly had secretly accepted money from both sides. The ironic situation is that Teacher Ly did not deny it, but quickly responded by spreading the five fingers of his left hand over the five fingers of his right hand, meaning that "righteousness" has been doubled. The reader's understanding laughter gently burst out from there. Cabbage and corn both naturally lost money but were still fined, it's just that more money will result in less fines, these two victims also created opportunities. for corrupt people like Mr. Ly.
What contributes to the uniqueness of this story is the flexible use of two languages. The language that communicates with everyone clearly, and the language that is hidden by raising fingers full of secrets, perhaps only insiders can understand. If Cai's "five fingers" were raised up insistently as "righteousness", immediately "spreading the five fingers of the left hand over the five right fingers", Mr. Ly's action is the meaning "that rightness is right". "You were paid twice", you were careful to bribe, but there were people who paid twice as much as you. The lawyer is not exactly as smart and clever as rumored. The excitement is realized by the reader when they find the thread. seamless connection between: common sense - fingers and coins.
Through this, we see the inadequacies and pain in the handling of lawsuits by a large number of mandarins in feudal society. There is no need to care about who is right and who is wrong, and then make the case clear, but the right for the person suing is always calculated in money. That money is right, if you have a lot of money, you should be more, if you have less money, you should be less. The phenomenon of corruption is deep-rooted, ripping off innocent people. Just like the proverb says:
“Who would have thought that with the old gang,
Corrupt officials and judges are close friends!
That bridge continues to continue, because living in a situation where money is corrupt, sometimes blurs the reason of poor people, they are drawn to pitiful and pathetic actions, and are like cockroaches. continues to create an increasingly serious corruption situation, "a pound of money rips apart a piece of paper", typically the two victims in the story, Ngo and Cai, are both pitiful and blameworthy.
But above all, it is proven that in the period of feudal decline. The morality of a part of the officials representing the nation's fathers and mothers cannot fulfill their work for the people, on the contrary, they further extract and exploit it thoroughly. Creating serious corruption cases, truth being distorted, justice being blatantly biased downward, money becoming the sharpest weapon in all relationships, those corruptions have pushed farmers into poverty. miserable road. unfortunate.
Corruption runs through human history, everywhere, although at different levels. In Vietnam today, when it comes to corruption and anti-corruption, it is a struggle under the Party's close guidance. It is extremely arduous and long-lasting, but it is not impossible to repel. We still try our best. stern and strong,
|
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Chàng dẫn thế em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà;
Bao nhiêu củ rím, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Bài làm
Văn học dân gian được ví như dòng sữa mẹ mát lành tự ngàn đời nay, và trong đó ca dao-dân ca là một trong những thể loại đặc sắc của văn hộc dân gian. Văn học dân gian có khả năng đi sâu phản ánh mọi mặt cuộc sống của nhân dân lao động. Phong tục cưới xin cũng là một để tài quen thuộc mà ca dao thường quan tâm, miêu tả. Với cái nhìn hóm hỉnh, hài hước, tác giả dân gian phản ánh phong tục cưới xin ngày xưa qua bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi…”
Bài ca dao như đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người lao động: dù trong cảnh sống nghèo khó vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Đám cưới nghèo đến vậy mà vẫn vui. Người bình dân đã tìm thấy niềm vui ngay trong cảnh nghèo như thế.
Đây chính là tiếng cười tự trào của những con người bình dân trong ca dao. Người lao động tự cười mình trong cảnh nghèo khó để tìm thấy niềm vui. Lại chọn đúng lúc, đúng cảnh đám cưới là lúc bộc lộ rõ nhất cái nghèo để cưới, để vui, để thể hiện lòng yêu đời, ham sống. Khi người ta tự cười mình thì tiếng cười ấy bộc lộ rõ nhất bản lĩnh và quan niệm sống của họ. Vậy thì ở đây, người nông dân như đã tự cười chính mình như thế nào và tiếng cười ấy đã cho ta thấy tâm hổn của họ ra sao?
Bài ca dao chính là một cuộc đối thoại lí thú giữa chàng và nàng. Các tác giả dân gian đã mượn hình ảnh trào lộng, hài hước để thể hiện nội dung trữ tình. Tình yêu của chàng trai và cô gái sắp sửa tiến tới hôn nhân. Để đi tới trăm năm hạnh phúc, đôi trai tài gái sắc còn phải bước qua cửa ải xin cưới, dẫn cưới, đây cũng là tập tục gây trở ngại cho không ít cặp uyên ương.
Đứng trước sự việc hệ trọng của đời người là cưới xin mà chàng và nàng không còn mơ mộng như lúc mới yêu nhau được nữa. Hai người đã phải tâm sự, bàn bạc lỹ lưỡng với nhau trước khi chính thức trình quan viên hai họ về dự định cho đám cưới nay mai.
Sự lí thú bắt đầu từ chỗ chàng trai chủ động kể về những lễ vật mà mình toan dẫn cưới khi anh ta chưa hể hỏi người yêu là nhà gái thách cưới những gì. Chàng trai hồn nhiên giãi bày:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Lời tâm sự như sự bộc bạch hoàn cảnh, tấm lòng, tính nết, tâm tư, nguyện vọng của chàng trai. Nhà thì tuy nghèo thật nhưng cưới vợ chẳng lẽ lại không có lễ vật dẫn cưới theo đúng phong tục? Sự khoác lác, ba hoa của chàng trai như được tác giả khép léo hé mở qua từ toan: Cưới nàng, anh toan dẫn voi… một ý định phi lí khó có thể thành hiện thực. Chàng trai đã khôn ngoan đưa ra những lễ vật chỉ có trong tưởng tượng của mình. Đó là voi, trâu, bò… toàn những con vật quý hiếm hoặc đắt tiền, có khi cả đời anh ta không thể nào mua được.
Để trấn an người mình yêu, bằng lối nói khoa trương, phóng đại, chàng trai đã dõng dạc lặp lại ba lần với vẻ tự tin như đinh đóng cột: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò. Chàng trai đã “tưởng tượng” ra lễ cưới thật sang trọng, lình đình. Ai ngờ mỗi lần công bố lại là một lần thay đổi, mỗi lần thay đổi lại được giải thích bằng lí do nực cười: dẫn voi / sợ quốc cấm, dẫn trâu / sợ máu hàn và dẫn bò/ sợ họ nhà nàng co gân. Lí lẽ của chàng trai thoạt nghe cũng có vẻ chấp nhận được. Chàng giải thích lí do không dẫn các lễ vật nêu trên một cách khôn ngoan: phần vì tôn trọng luật pháp, phần vì lo lẳng cho sức khỏe họ hàng nhà gái (từ sợ được lặp lại ba lần). Đúng là một chàng rể chu đáo, cẩn thận, ai nỡ ngờ vực lòng thành của chàng.
Đọc kĩ thì ta sẽ thấy với lối nói giảm dẫn: voi – trâu – bò – chuột, chàng trai đã khéo léo đánh đồng con voi, con trâu, con bò với con chuột, vì chúng đều là thú bốn chân! Sự khéo léo và tinh tế pha phần hóm hỉnh còn được tô vẽ bằng hình ảnh hài hước: dẫn con chuột béo, tức là lễ vật cũng đàng hoàng, tươm tất để mời dân mời làng, nào có thua kém gì so với các lễ vật khác.
Sử dụng biện pháp trào phúng sắc sảo, các tác giả dân gian đã chi ra sự lúng túng, bao biện của chàng trai. Sự khoe khoang, khoác lác dù có tinh ranh đến đâu, lập luận khôn ngoan đến mấy thi cuối cùng sự thật cũng bị phơi bày trước con mắt của cô gái.
Ta có thể thấy tuy cô gái chưa nêu ra điều kiện dẫn cưới nhưng chàng trai đã vội vã công bố lễ vật dẫn cưới của mình. Lễ vật lúc đầu thì quá đỗi to tát, sang trọng, càng về sau càng giảm và rốt cuộc chỉ là một con chuột béo, làm cho ai ai cũng phải ngơ ngác, ngạc nhiên. Thành ngữ “Đầu voi đuôi chuột” phải chăng bắt nguồn từ đây chăng?
Ngược lại điều đó, cô gái trong bài ca dao lại thản nhiên, bình tĩnh, không chê bai, không từ chối mà còn khen: Chàng dẫn thế em lấy làm sang. Nỡ nào em lại phá ngang như là.., Bởi cô gái đã “đi guốc vào bụng” người yêu. Cô còn lạ gì tính sĩ diện của chàng trai muốn làm đám cưới thật linh đình trong khi nhà nghèo, tiền nong chẳng có. Cô gái thông minh đã bắt thóp được điểm yếu của chàng trai. Bằng tấm lòng chân thành của người vợ tương lai, cô ôn tồn giãi bày ý định của mình:
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
Cưới xin được xem là việc hệ trọng nhất trong đời người con gái, vậy mà cô chi thách có… một nhà khoai lang! Kể cũng lạ đời! Nhưng như vậy là đủ lắm rồi, vì nhà em nghèo mà nhà anh cũng nghèo. Thái độ không mặc cảm mà còn chấp nhận cảnh nghèo khiến cho lời thách cưới lạ lùng bỗng trở nên dí dỏm, đáng yêu. Hơn thế nữa, lời thách cưới của cô gái còn chứa đựng một triết lí nhân sinh của người lạo động thuở xưa: coi tình nghĩa quý hơn của cải.
Cô gái không hề đả động đến những vật dẫn cưới to lớn sang trọng như voi, trâu, bò, chuột… mà chàng trai vừa nêu ra. Hai từ đối lập “Người ta’ và ‘Nhà em’ như đã chỉ ra hai lối suy nghĩ khác nhau. Chúng ta cũng không khỏi bất ngờ và ngạc nhiên khi cô gái thách cưới bằng một lễ vật độc đáo, ít ai nghĩ đến: một nhà khoai lang. Cũng hài hước, dí dỏm nhưng chàng trai thì lại úp úp, mở mở; còn cộ gái lại thật thà như đếm vậy. Bởi vì lễ vật mà cô thách cưới quá đỗi giản dị, tầm thường quá! Câu nói của cô như mở lòng, mở dạ cho chàng trai, khiến chàng thoát khỏi tình thế phân vân, lúng túng.
Một nhà khoai lang, mới nghe tưởng quá nhiều nhưng thực tế đó là thử lễ vật xoàng xĩnh, chàng trai có thể kiếm được. Dân tộc ta bao đời nay sống bằng lúa ngô, khoai sắn. Lễ vật tuy bình thường nhưng ý nghĩa thì sâu xa, thấm thía.
Để cho người yêu an tâm không còn băn khoăn gì nữa, cô gái giải thích cặn kẽ:
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ họ hàng ăn chơi.
Các vị chức sắc trong làng xã, mỗi khi có ma chay, cưới hỏi, phải nghĩ đến họ trước tiên. Cô gái đã cẩn thận chọn những củ to để mời làng theo đúng lễ nghi đúng với tập tục. Còn khoản đãi bà con họ hàng, cô gái dùng những củ nhỏ hơn. Cùng cảnh ngộ “thân cò, thân chim”, ai mà không cảm thông, chia sẻ.
Lo cho làng và họ hàng xong, cô gái mới quay về với gia đình mình:
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà.
Tiếng gọi chàng ơi! Của cô gái như thổn thức tận đáy lòng cô gái. Cô muốn có một sự đồng cam cộng khổ với người yêu. Cô tính toán tỉ mỉ: bao nhiêu củ mẻ sẽ để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà. Thật tội nghiệp nhưng không sao! Trẻ con, rất hồn nhiên, chúng không đòi hỏi gì cả, vì chúng hiểu nhà mình cũng rất nghèo.
Cách suy tính của cô gái thật cụ thể, kĩ càng:
Bao nhiêu củ rim, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Còn kiếm đâu ra được cô gái chu đáo, đảm đang như cô gái này nữa chứ? Chàng trai chắc không còn băn khoăn, lo lắng khi đã chọn đúng người vợ hiền. Đám cưới của hai người sẽ thuận buồm xuôi gió, Mối tơ vò của chàng trai đã được cô gái nhẹ nhàng, khéo léo tháo gỡ, họ thong dong đi vào cuộc sống lứa đôi hạnh phúc trăm năm. Kết thúc cuộc tình thật có hậu!
Bài ca dao đã rất thành công vì đã đối sánh hai tính cách, hai hướng suy nghĩ khác nhau. Đó là sự đối lập giữa tính sĩ diện, đua đòi theo thói tục lạc hậu và sự sáng suốt, giản dị phù hợp với cuộc sống của quần chúng lao động.
Đọc bài ca dao trào lộng “Cưới nàng anh toan dẫn voi…” đằng sau tiếng cười hả hê có khi là những giọt nước mắt. Với sự thương yêu, đồng cảm trong cuộc sống, thuận vợ thuận chồng trong nếp nghĩ và công việc, những đôi lứa đang yêu nhất định sẽ sống hạnh phúc. Đó cùng là ước mơ của người bình dân tự ngàn xưa.
|
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Chàng dẫn thế em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà;
Bao nhiêu củ rím, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Bài làm
Văn học dân gian được ví như dòng sữa mẹ mát lành tự ngàn đời nay, và trong đó ca dao-dân ca là một trong những thể loại đặc sắc của văn hộc dân gian. Văn học dân gian có khả năng đi sâu phản ánh mọi mặt cuộc sống của nhân dân lao động. Phong tục cưới xin cũng là một để tài quen thuộc mà ca dao thường quan tâm, miêu tả. Với cái nhìn hóm hỉnh, hài hước, tác giả dân gian phản ánh phong tục cưới xin ngày xưa qua bài ca dao “Cưới nàng anh toan dẫn voi…”
Bài ca dao như đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người lao động: dù trong cảnh sống nghèo khó vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Đám cưới nghèo đến vậy mà vẫn vui. Người bình dân đã tìm thấy niềm vui ngay trong cảnh nghèo như thế.
Đây chính là tiếng cười tự trào của những con người bình dân trong ca dao. Người lao động tự cười mình trong cảnh nghèo khó để tìm thấy niềm vui. Lại chọn đúng lúc, đúng cảnh đám cưới là lúc bộc lộ rõ nhất cái nghèo để cưới, để vui, để thể hiện lòng yêu đời, ham sống. Khi người ta tự cười mình thì tiếng cười ấy bộc lộ rõ nhất bản lĩnh và quan niệm sống của họ. Vậy thì ở đây, người nông dân như đã tự cười chính mình như thế nào và tiếng cười ấy đã cho ta thấy tâm hổn của họ ra sao?
Bài ca dao chính là một cuộc đối thoại lí thú giữa chàng và nàng. Các tác giả dân gian đã mượn hình ảnh trào lộng, hài hước để thể hiện nội dung trữ tình. Tình yêu của chàng trai và cô gái sắp sửa tiến tới hôn nhân. Để đi tới trăm năm hạnh phúc, đôi trai tài gái sắc còn phải bước qua cửa ải xin cưới, dẫn cưới, đây cũng là tập tục gây trở ngại cho không ít cặp uyên ương.
Đứng trước sự việc hệ trọng của đời người là cưới xin mà chàng và nàng không còn mơ mộng như lúc mới yêu nhau được nữa. Hai người đã phải tâm sự, bàn bạc lỹ lưỡng với nhau trước khi chính thức trình quan viên hai họ về dự định cho đám cưới nay mai.
Sự lí thú bắt đầu từ chỗ chàng trai chủ động kể về những lễ vật mà mình toan dẫn cưới khi anh ta chưa hể hỏi người yêu là nhà gái thách cưới những gì. Chàng trai hồn nhiên giãi bày:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Lời tâm sự như sự bộc bạch hoàn cảnh, tấm lòng, tính nết, tâm tư, nguyện vọng của chàng trai. Nhà thì tuy nghèo thật nhưng cưới vợ chẳng lẽ lại không có lễ vật dẫn cưới theo đúng phong tục? Sự khoác lác, ba hoa của chàng trai như được tác giả khép léo hé mở qua từ toan: Cưới nàng, anh toan dẫn voi… một ý định phi lí khó có thể thành hiện thực. Chàng trai đã khôn ngoan đưa ra những lễ vật chỉ có trong tưởng tượng của mình. Đó là voi, trâu, bò… toàn những con vật quý hiếm hoặc đắt tiền, có khi cả đời anh ta không thể nào mua được.
Để trấn an người mình yêu, bằng lối nói khoa trương, phóng đại, chàng trai đã dõng dạc lặp lại ba lần với vẻ tự tin như đinh đóng cột: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò. Chàng trai đã “tưởng tượng” ra lễ cưới thật sang trọng, lình đình. Ai ngờ mỗi lần công bố lại là một lần thay đổi, mỗi lần thay đổi lại được giải thích bằng lí do nực cười: dẫn voi / sợ quốc cấm, dẫn trâu / sợ máu hàn và dẫn bò/ sợ họ nhà nàng co gân. Lí lẽ của chàng trai thoạt nghe cũng có vẻ chấp nhận được. Chàng giải thích lí do không dẫn các lễ vật nêu trên một cách khôn ngoan: phần vì tôn trọng luật pháp, phần vì lo lẳng cho sức khỏe họ hàng nhà gái (từ sợ được lặp lại ba lần). Đúng là một chàng rể chu đáo, cẩn thận, ai nỡ ngờ vực lòng thành của chàng.
Đọc kĩ thì ta sẽ thấy với lối nói giảm dẫn: voi – trâu – bò – chuột, chàng trai đã khéo léo đánh đồng con voi, con trâu, con bò với con chuột, vì chúng đều là thú bốn chân! Sự khéo léo và tinh tế pha phần hóm hỉnh còn được tô vẽ bằng hình ảnh hài hước: dẫn con chuột béo, tức là lễ vật cũng đàng hoàng, tươm tất để mời dân mời làng, nào có thua kém gì so với các lễ vật khác.
Sử dụng biện pháp trào phúng sắc sảo, các tác giả dân gian đã chi ra sự lúng túng, bao biện của chàng trai. Sự khoe khoang, khoác lác dù có tinh ranh đến đâu, lập luận khôn ngoan đến mấy thi cuối cùng sự thật cũng bị phơi bày trước con mắt của cô gái.
Ta có thể thấy tuy cô gái chưa nêu ra điều kiện dẫn cưới nhưng chàng trai đã vội vã công bố lễ vật dẫn cưới của mình. Lễ vật lúc đầu thì quá đỗi to tát, sang trọng, càng về sau càng giảm và rốt cuộc chỉ là một con chuột béo, làm cho ai ai cũng phải ngơ ngác, ngạc nhiên. Thành ngữ “Đầu voi đuôi chuột” phải chăng bắt nguồn từ đây chăng?
Ngược lại điều đó, cô gái trong bài ca dao lại thản nhiên, bình tĩnh, không chê bai, không từ chối mà còn khen: Chàng dẫn thế em lấy làm sang. Nỡ nào em lại phá ngang như là.., Bởi cô gái đã “đi guốc vào bụng” người yêu. Cô còn lạ gì tính sĩ diện của chàng trai muốn làm đám cưới thật linh đình trong khi nhà nghèo, tiền nong chẳng có. Cô gái thông minh đã bắt thóp được điểm yếu của chàng trai. Bằng tấm lòng chân thành của người vợ tương lai, cô ôn tồn giãi bày ý định của mình:
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
Cưới xin được xem là việc hệ trọng nhất trong đời người con gái, vậy mà cô chi thách có… một nhà khoai lang! Kể cũng lạ đời! Nhưng như vậy là đủ lắm rồi, vì nhà em nghèo mà nhà anh cũng nghèo. Thái độ không mặc cảm mà còn chấp nhận cảnh nghèo khiến cho lời thách cưới lạ lùng bỗng trở nên dí dỏm, đáng yêu. Hơn thế nữa, lời thách cưới của cô gái còn chứa đựng một triết lí nhân sinh của người lạo động thuở xưa: coi tình nghĩa quý hơn của cải.
Cô gái không hề đả động đến những vật dẫn cưới to lớn sang trọng như voi, trâu, bò, chuột… mà chàng trai vừa nêu ra. Hai từ đối lập “Người ta’ và ‘Nhà em’ như đã chỉ ra hai lối suy nghĩ khác nhau. Chúng ta cũng không khỏi bất ngờ và ngạc nhiên khi cô gái thách cưới bằng một lễ vật độc đáo, ít ai nghĩ đến: một nhà khoai lang. Cũng hài hước, dí dỏm nhưng chàng trai thì lại úp úp, mở mở; còn cộ gái lại thật thà như đếm vậy. Bởi vì lễ vật mà cô thách cưới quá đỗi giản dị, tầm thường quá! Câu nói của cô như mở lòng, mở dạ cho chàng trai, khiến chàng thoát khỏi tình thế phân vân, lúng túng.
Một nhà khoai lang, mới nghe tưởng quá nhiều nhưng thực tế đó là thử lễ vật xoàng xĩnh, chàng trai có thể kiếm được. Dân tộc ta bao đời nay sống bằng lúa ngô, khoai sắn. Lễ vật tuy bình thường nhưng ý nghĩa thì sâu xa, thấm thía.
Để cho người yêu an tâm không còn băn khoăn gì nữa, cô gái giải thích cặn kẽ:
Củ to thì để mời làng,
Còn như củ nhỏ họ hàng ăn chơi.
Các vị chức sắc trong làng xã, mỗi khi có ma chay, cưới hỏi, phải nghĩ đến họ trước tiên. Cô gái đã cẩn thận chọn những củ to để mời làng theo đúng lễ nghi đúng với tập tục. Còn khoản đãi bà con họ hàng, cô gái dùng những củ nhỏ hơn. Cùng cảnh ngộ “thân cò, thân chim”, ai mà không cảm thông, chia sẻ.
Lo cho làng và họ hàng xong, cô gái mới quay về với gia đình mình:
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà.
Tiếng gọi chàng ơi! Của cô gái như thổn thức tận đáy lòng cô gái. Cô muốn có một sự đồng cam cộng khổ với người yêu. Cô tính toán tỉ mỉ: bao nhiêu củ mẻ sẽ để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà. Thật tội nghiệp nhưng không sao! Trẻ con, rất hồn nhiên, chúng không đòi hỏi gì cả, vì chúng hiểu nhà mình cũng rất nghèo.
Cách suy tính của cô gái thật cụ thể, kĩ càng:
Bao nhiêu củ rim, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Còn kiếm đâu ra được cô gái chu đáo, đảm đang như cô gái này nữa chứ? Chàng trai chắc không còn băn khoăn, lo lắng khi đã chọn đúng người vợ hiền. Đám cưới của hai người sẽ thuận buồm xuôi gió, Mối tơ vò của chàng trai đã được cô gái nhẹ nhàng, khéo léo tháo gỡ, họ thong dong đi vào cuộc sống lứa đôi hạnh phúc trăm năm. Kết thúc cuộc tình thật có hậu!
Bài ca dao đã rất thành công vì đã đối sánh hai tính cách, hai hướng suy nghĩ khác nhau. Đó là sự đối lập giữa tính sĩ diện, đua đòi theo thói tục lạc hậu và sự sáng suốt, giản dị phù hợp với cuộc sống của quần chúng lao động.
Đọc bài ca dao trào lộng “Cưới nàng anh toan dẫn voi…” đằng sau tiếng cười hả hê có khi là những giọt nước mắt. Với sự thương yêu, đồng cảm trong cuộc sống, thuận vợ thuận chồng trong nếp nghĩ và công việc, những đôi lứa đang yêu nhất định sẽ sống hạnh phúc. Đó cùng là ước mơ của người bình dân tự ngàn xưa.
|
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Bài làm
Bài làm
Hình ảnh chú Cuội dường như xuất hiện khá nhiều trong cổ tích, ca dao tục ngữ và trở nên quen thuộc với trẻ thơ. Cứ mỗi năm vào dịp Tết Trung thu, ngắm vầng trăng sáng, thì hình ảnh chú Cuội ngồi gốc cây đa lại hiển hiện rõ ràng trong trí tưởng tượng của các bạn nhỏ. Bài ca dao dưới đâychính là một gợi mở về sự tích đầy hấp dẫn đó:
Bắc thang lên tận cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Từ một hiện tượng thiên nhiên có thật là các vết sẫm trên mặt trăng nhìn thấy rất rõ trong những đêm trăng sáng; với trí tưởng tượng phong phú và rất sáng tạo người xưa đã tưởng tượng ra hình ảnh cây đa, chú Cuội và lồng vào đó những câu chuyện thú vị có ý nghĩa giáo dục sâu xa.
Có hai câu truyện hoàn toàn khác nhau về nhân vật cổ tích này. Truyện thứ nhất kể về chú Cuội chữa bệnh cứu người. Còn truyện thứ hai là về chú Cuội có tật xấu rất hay nói dối. Chú Cuội ở truyện thứ nhất thì làm nghề đốn củi. Một hôm vào rừng, bất ngờ chạm trán với con hổ nhỏ, Cuội lấy búa đập chết nó.Khi hổ mẹ về, thấy con đã chết liền đến một gốc cây, bứt ít lá nhai nát đắp vào vết thương, hổ con sống lại. Từ chỗ nấp trên cao, Cuội như nhìn thấy hết. Đợi mẹ con hổ đã đi xa, chàng bứng cả gốc cây đem về nhà trồng. Từ đó, nhờ lá thuốc thần mà Cuội cải tử hoàn sinh cho nhiều người trong vùng. Phú ông có cô con gái ngã vỡ đầu, Cuội đắp lá nhiều lần mà cô ta vẫn không sống lại. Chàng bèn nghĩ ra cách nặn một bộ óc bằng đất sét thay thế rồi đắp lá thần vào. Cô gái ấy sau thành vợ chàng.
Vợ Cuội khỏe mạnh, xinh đẹp nhưng lại có tính hay quên. Đã rất hiều lần, Cuội đã dặn vợ là không được tưới nước bẩn cho cây thuốc quý nhưng rồi cô ta quên mất, lấy nước giải tưới cho cây. Cây rung chuyển dữ dội rồi bật gốc, bay lên trời. Vừa đúng lúc Cuội đi rừng về, Cuội hoảng hốt vội vàng bám rễ cố lôi xuống nhưng cây đã kéo chàng lên tới tận cung trăng. Từ đó, những đêm trăng sáng, Cuội ngồi dưới gốc đa, đau đáu nhìn xuống trần gian, mong được trở lại.
Còn nhân vật Cuội trong truyện thứ hai là một cậu bé có tật hay nói dối mọi người. Đi chăn trâu, Cuội cùng lũ trẻ thịt trâu nướng ăn, còn cái đuôi đem cắm xuống lỗ nẻ rồi báo tin cho chú thím là trâu đã chui xuống đất. Thím tắm ngoài sông, Cuội vờ hớt hải chạy về bảo với chủ rằng thím đã chết đuối khiến chú hoảng kinh. Vì Cuội nói dối như thật nên nhiều phen Cuội làm cho xóm làng điên đảo bị mắc lừa. Thấy mọi người bực bội và tức giận nên Trời đã đày Cuội lên cung trăng, bắt ở một mình để không thể nói dối được nữa.
Ở trong truyện thứ nhất, chàng Cuội là người rất tốt bụng, giàu lòng thương người, phải ngồi gốc đa là vì tính hay quên của vợ. Ở truyện sau, Cuội như biến thành người xấu, phải ấp cây cả đời là vì bị trừng phạt cho chừa tật nói dối.
Bài ca dao có cấu trúc như một câu chuyện có đủ bối cảnh, sự kiện, nhân vật và đậm chất hoang đường, kì ảo. Ta hãy tưởng tượng nội dung câu chuyện như sau: Có người hiếu kì đã mất bao công phu Bắc thang lên đến cung mây, để Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời. Nghe người kia hỏi lý do vì sao Cuội lại phải lên cung mây để ôm cây. Cuội bật cười, trả lời không giấu điếm: Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Từ xưa cho tới nay, người đời hầu như rất ít nói đến cái tốt của nhân vật chú Cuội. Hầu như họ chi đàm tiếu về tật nối dối của cuội. Việc chú Cuội phải ấp cây cả đời trên cung trăng xa xôi đã được giải thích là do tội nói dối không thể tha thứ ấy.
Các câu ca dao của người xưa thường dùng cách nói cường điệu, phóng đại để diễn tả sự việc. Không có một cái thang nào có thể bắc lên tận cung mây để cho Cuội xuống được. Đó chính là trí tưởng tượng của người xưa được thể hiện qua cách nói dí dỏm, hài hước mà thôi. Mục đích của việc Bắc thang lên tận cung mây là để: Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời? Dường như hình ảnh chú Cuội phải ấp cây trên cung trăng cả đời gợi sự mỉa mai, hài hước. Từ “ấp cây” như hàm chứa thái độ giễu cợt của mọi người đối với chú Cuội. Chắc chắn chú Cuội phải có tội lớn đến mức nào thì mới bị giam lỏng trên cung trăng. Trước câu hỏi có ý trêu chọc, chế giễu, Cuội không thể không thú thật:
Cuội nghe thấy nói Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Cái cười và lời đáp của chú Cuội như đã thể hiện tính cách láu lỉnh, tinh nghịch vốn là bản chất của nhân vật này. Lúc đầu, nghe người ta hỏi, Cuội cũng thoáng chạnh lòng, nhưng vốn dĩ thông minh nên Cuội đã lấy lại được bình tĩnh và trả lời bằng nụ cười tinh nghịch có tính hài hước “Bởi hay nói dối phải ngồi gốc cây”. Câu thơ này gồm hai vế có quan hệ nguyên nhân – kết quả, thể hiện thái độ không vòng vo, loanh quanh mà bộc trực, thẳng thắn của Cuội. Cuội nhận lỗi ngay, không thanh minh, không đổ lỗi cho ai. Cuội cũng đã tự nhận thấy rằng việc phải ấp cây cả đời là một sự trừng phạt đích đáng cho thói nói dối quá quắt của mình.
Câu nói cửa miệng của người đời cho những ai hay nói dối, nói dối một cách trơn tru, tự nhiên như thật là “Nói dối như Cuội”. Dân gian thích đùa cợt với Cuội, không ai ghét Cuội, nhưng cũng ít ai tin… Cuội. Dân gian đã rộng lòng tha thứ cho chú Cuội vì chú biết nhận khuyết điểm. Trẻ em cũng nhìn chú Cuội với con mắt đáng thương hơn là đáng trách. Hình ảnh chú Cuội ngày ngày ấp cây cả đời mãi mãi gây ấn tượng sâu sắc về một con người phạm nhiều khuyết điểm nhưng biết nhận lỗi một cách dũng cảm.
Nói dối là tật xấu khá phổ biến trong xã hội, tuy ở nhiều mức độ khác nhau. Nhưng “Đi nói dối cha, về nhà nói dối chú” thì nói dối không còn là sự đối phó tức thời nữa mà đã thành tật xấu khó sửa, thậm chí đã thành bản chất dối trá. Những kẻ dối trá không có lòng tự trọng, luôn dối người và dối cả mình, để mất niềm tin của mọi người.
|
Ask why Cuoi has to incubate the tree all his life?
When Cuoi heard this, Cuoi smiled:
Because he often lies, he has to sit under a tree.
Assignment
Assignment
The image of Uncle Cuoi seems to appear quite a lot in fairy tales, folk songs and proverbs and has become familiar to children. Every year during the Mid-Autumn Festival, watching the bright moon, the image of Uncle Cuoi sitting under the banyan tree appears clearly in the imagination of the children. The folk song below is a hint of that fascinating story:
Take the ladder up to the clouds,
Ask why Cuoi has to incubate the tree all his life?
When Cuoi heard this, Cuoi smiled:
Because he often lies, he has to sit under a tree.
From a real natural phenomenon, dark spots on the moon are clearly visible on moonlit nights; With a rich and very creative imagination, the ancients imagined the image of the banyan tree and Uncle Cuoi and incorporated interesting stories with profound educational meaning.
There are two completely different stories about this fairy tale character. The first story is about Uncle Cuoi curing diseases and saving people. The second story is about Uncle Cuoi who has a bad habit of lying. Uncle Cuoi in the first story is a woodcutter. One day in the forest, he suddenly encountered a small tiger. Cuoi took a hammer and beat it to death. When the mother tiger returned, she saw that her cub was dead and immediately went to a tree, pulled off some crushed leaves and applied them to the wound, and the cub came back to life. . From his hiding place high above, Cuoi seemed to see everything. Waiting for the tiger's mother to go away, he uprooted the tree and brought it home to plant. Since then, thanks to the magical medicinal leaves, Cuoi has brought many people back to life in the area. A rich man had a daughter who fell and broke her head. Cuoi covered her with leaves many times but she still did not come back to life. He then thought of a way to mold a brain out of clay instead and then cover it with magic leaves. That girl later became his wife.
Cuoi's wife is healthy and beautiful but has a forgetful personality. Many times, Cuoi told his wife not to water the precious medicinal plant with dirty water, but then she forgot and used water to water the plant. The tree shook violently, then uprooted and flew into the sky. Just when Cuoi returned from the forest, Cuoi panicked and quickly grabbed the roots and tried to drag him down, but the tree pulled him up to the moon. From then on, on moonlit nights, Cuoi sat under the banyan tree, painfully looking down at the world, hoping to return.
The character Cuoi in the second story is a boy who has a habit of lying to people. Going to herd the buffalo, Cuoi and the children ate grilled buffalo meat, stuck the tail into the crack hole and informed his aunt and uncle that the buffalo had gone into the ground. Auntie was bathing in the river, Cuoi pretended to rush back to tell his owner that she had drowned, causing him to panic. Because Cuoi lied like the truth, many times Cuoi made the village crazy and was deceived. Seeing that everyone was upset and angry, God banished Cuoi to the moon, forcing him to live alone so he could no longer lie.
In the first story, Cuoi is a very kind and compassionate person, and has to sit under a banyan tree because of his wife's forgetfulness. In the following story, Cuoi turns into a bad person and has to incubate trees all his life because he was punished for his habit of lying.
The folk song is structured like a story with enough context, events, characters and is full of myth and fantasy. Let's imagine the content of the story as follows: A curious person spent a lot of effort climbing the ladder to reach the cloud palace, to ask why Cuoi had to incubate the tree all his life. Heard the other person ask why Cuoi had to go to the cloud palace to hug the tree. Cuoi burst out laughing and replied without hiding: Because he often lies, he has to sit under a tree.
From ancient times until now, people have rarely talked about the goodness of Uncle Cuoi's character. They mostly gossiped about Cuoi's habit of lying. The fact that Uncle Cuoi had to incubate trees all his life on the distant moon was explained by that unforgivable crime of lying.
Ancient folk songs often use exaggerated and exaggerated expressions to describe things. There is no ladder that can climb up to the cloud for Cuoi to get down. That is the imagination of the ancients expressed through witty and humorous speech. The purpose of climbing the ladder to the clouds is to ask: Why does Cuoi have to incubate the tree all his life? It seems that the image of Uncle Cuoi having to hatch trees on the moon all his life evokes irony and humor. The word "tree hamlet" seems to imply everyone's mocking attitude towards Uncle Cuoi. Surely Uncle Cuoi must have committed a serious crime to be imprisoned on the moon. Faced with a teasing and mocking question, Cuoi could not help but confess:
Cuoi heard what Cuoi said and laughed:
Because he often lies, he has to sit under a tree.
Uncle Cuoi's smile and response seemed to show the mischievous and mischievous personality that is the nature of this character. At first, hearing people ask, Cuoi felt a little disappointed, but being inherently smart, Cuoi regained his composure and answered with a mischievous smile with a sense of humor, "Because I often lie, I have to sit under a tree." This verse consists of two halves with a cause-effect relationship, expressing Cuoi's attitude of not beating around the bush but being straightforward and straightforward. Cuoi immediately admitted his mistake, did not explain, did not blame anyone. Cuoi also realized that having to incubate the tree for the rest of his life was a worthy punishment for his excessive lying habits.
People's catchphrase for those who often lie and lie smoothly and naturally as if it were true is "Lie like Cuoi". Folks like to joke around with Cuoi, no one hates Cuoi, but few people believe... Cuoi. The people were generous in forgiving Uncle Cuoi because he knew how to admit his shortcomings. Children also looked at Mr. Cuoi with eyes of pity rather than blame. The image of Uncle Cuoi incubating trees every day for the rest of his life forever leaves a deep impression of a person who made many mistakes but knew how to admit his mistakes courageously.
Lying is a fairly common bad habit in society, although at many different levels. But "Go lie to your father, lie to your uncle when you come home," then lying is no longer an immediate response but has become a bad habit that is difficult to overcome, and has even become the nature of lying. Liars have no self-esteem, always lie to others and themselves, and lose everyone's trust.
|
Ca dao hay một số nơi gọi là phong dao, được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Xét theo nghĩa gốc thì ca chính là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao được hiểu là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu; trong trường hợp này, ca dao đồng nghĩa với dân ca.
Do có sự tác động của các hoạt động sưu tầm sực can thiệp của nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian, từ ca dao đã dần chuyển nghĩa. Hiện nay, thì từ ca dao để chỉ thành phần nghệ thuật ngôn từ của dân gian với nghĩa này ca dao là những sáng tác trữ tình dân gian truyền thống diễn tả đời sống nội tâm của con người. Ca dao được xem là nguồn sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ qua lời hát ru, là hình thức trò chuyện tâm tình của các chàng trai cô gái, là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức của tổ tiên và anh linh của những người đã khuất, là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hay lòng hân hoan của người lao động, trong gia đình, xã hội. Dựa vào cung bậc tình cảm đó mà ca dao được chia làm 3 loại khác nhau
Xét về mặt nội dung, có thể nhận thấy rằng ca dao Việt Nam chính là thơ trữ tình – trò chuyện diễn tả tình cảm, tâm trạng một số nhân vật chữ tình: người mẹ, người vợ, người con… trong quan hệ gia đình, chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu lứa đôi, người phụ nữ, người dân thường… trong quan hệ xã hội. Nó không còn mang dấu ấn tác giả như thơ trữ tình mà thể hiện tình cảm, cảm nhận, tâm trạng của các kiểu nhân vật trữ tình và có cách thể hiện tình cảm, thế giới nội tâm mang tính chung, phù hợp với lứa tuổi, giới tính, địa phương… của kiểu nhân vật này. Tuy nhiên, cho dù mang tính chất chung có thể giống nhau nhưng mỗi bài ca dao lại có nét riêng độc đáo, sáng tạo, thể hiện sự phong phú, thể hiện sự phong phú, đa dạng của sắc thái tình cảm.
Ca dao chính là tiếng hát yêu thương chan chứa, tình nghĩa, ca dao bộc lộ tình sâu nghĩa nặng đối với xóm làng, quê hương, đất nước, đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè và dạt dào nhất là tình cảm lứa đôi.
Trong suốt chiều dài của lịch sử nước Việt Nam ta, khắp chiều rộng không gian đất nước, đâu đâu cũng đều vang lên những câu ca về cảnh núi rừng hùng vĩ, cảnh non xanh nước biếc, những sản vật phong phú của mỗi miền:
Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra.
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
Hội An bán gấm, bán điều
Khiêm Bồng bán vải, Trà Nhiêu bán hàng
Lụa này thật lụa Cố Đô
Chính tông lụa cống các cô hay dùng
Những câu ca dao thật hay nói về tình cảm gia đình, tình yêu lứa đôi rất trong sáng, hồn nhiên, tha thiết nhất.
Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.
Mỗi đêm thắp một đèn trời
Cầu cho cha mẹ ở đời với con.
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
Trong ca dao yêu thương, tình nghĩa hiện lên hình ảnh con người Việt Nam lạc quan, yêu đời, cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hi sinh trong quan hệ giữa người với người… Ca dao thể hiện những phẩm chất tốt đẹp đó của người Việt Nam và hướng con người Việt Nam đến cái chân, cái thiện, cái mĩ trong cuộc sống.
Ca dao than thân ra đời từ cuộc sống làm ăn vất vả, cực nhọc và bị áp bức nặng nề của người dân trong xã hội cũ. Ca dao than cho cảnh đè nén, áp bức:
Thương thay thân phận con rùa
Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia.
Đặc biệt là tiếng than của người phụ nữ chịu nhiều bất công do chế độ nam quyền và lễ giáo phong kiến gây ra:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi nếm thử mà xem
Nếm xong mới biết rằng em ngọt bùi.
Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi qua chỗ lội đánh rơi mất chồng.
Chị em ơi, cho tôi mượn gàu sòng
Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên.
Than mà phản kháng, người dân lao động khi khổ thì cất tiếng than nhưng không bao giờ để mất niềm tin.
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Những câu ca dao mang đậm tính hài hước châm biếm: Cùng với truyện cười, vè sinh hoạt, ca dao hài hước châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười mua vui, giải trí, phê phán những thói hư tật xấu hay những người đáng cười trong xã hội
Ăn thì ăn những miếng ngon
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.
Cái cò là cái là quăm
Mày hay đánh vợ tối nằm với ai
Cái cò là cái cò kì
Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.
Làm trai cho đáng nên trai
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.
Ca dao Việt Nam rất phong phú trong cách cấu tứ và xây dựng hình tượng. Thể loại được dùng nhiều trong ca dao là thể lục bát, song thất lục bát và các thể vãn. Mỗi bài ca dao thường có hai dòng thơ lục bát nên kết cấu đơn giản, ngắn gọn. Sức hấp dẫn ở ca dao chính là ở âm điệu, vừa phong phú, vừa thanh thoát và ở lời ca dao giàu hình ảnh. Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, nói quá,… tạo ra những hình ảnh gợi cảm, mở rộng trường liên tưởng sâu xa:
Đôi ta thương mãi nhớ lâu
Như sông nhớ nước, như dâu nhớ tằm.
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.
Đường xa thì mặc đường xa
Nhờ mình làm mối cho ta một người
Một người mười tám đôi mươi
Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình
Nghệ thuật so sánh ví von đã tạo nên những hình ảnh truyền thống độc đáo trong ca dao: cây đa – bến nước – con đò; trúc – mai, con cò, chiếc cầu,…
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về.
Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ.
Ước gì sông rộng một gang
|
Folk songs, or in some places called Phong dao, are used with many different broad and narrow meanings. According to the original meaning, ca is a song with a melody, dao is a song without a melody. Folk songs are understood as a compound noun that refers to all popular folk songs with or without melodies; In this case, folk songs are synonymous with folk songs.
Due to the impact of collection activities and the intervention of many folk literature researchers, the word folk song has gradually changed its meaning. Nowadays, the word folk songs refers to the verbal art component of folk music, with this meaning that folk songs are traditional folk lyrical compositions that express the inner life of people. Folk songs are considered a source of spiritual milk that nourishes children through lullabies, a form of emotional conversation for boys and girls, and a voice of gratitude and pride for the merits of ancestors and heroic spirits of the people. The deceased are a means of expressing the anger or joy of workers, in the family, and in society. Based on that emotional level, folk songs are divided into 3 different types
In terms of content, it can be seen that Vietnamese folk songs are lyrical poetry - conversation expressing the feelings and moods of some love characters: mother, wife, child... in family relationships. family, boy, girl in friendship, love between couples, women, ordinary people... in social relationships. It no longer bears the author's stamp like lyrical poetry, but rather expresses the emotions, feelings, and moods of lyrical characters and has a way of expressing emotions and inner world that is general and suitable for the age group. age, gender, locality... of this type of character. However, even though the general nature may be the same, each folk song has its own unique and creative features, expressing richness, expressing the richness and diversity of emotional nuances.
Folk songs are songs full of love and gratitude, folk songs express deep and meaningful feelings for the village, homeland, country, for parents, spouses, children, friends, and most abundantly. is a couple's love.
Throughout the length of our country's history, across the breadth of the country, songs about the majestic mountains and forests, the green mountains and blue waters, and the rich products of each region are heard everywhere. :
The deepest is Bach Dang River
Three times the enemy came, three times the enemy disappeared
The highest is Lam Son mountain
There was Mr. Le Loi in the crowd who came forward.
Who comes to Phu Tho with me?
Happy death anniversary of March, tenth day
No matter who goes back and forth
Remember the death anniversary of the 10th day of the third month.
Hoi An sells brocade and cashew nuts
Khiem Bong sells fabric, Tra Nhieu sells goods
This silk is real Imperial silk
It's the same silk that you guys usually use
These beautiful folk songs talk about family love, the purest, most innocent, and most passionate love between couples.
People have ancestors and ancestors
Just like a tree has roots, like a river has a source.
The father as a mountain
Motherhood is like water flowing from a source
One Heart Worship Mother Glass Father
Fulfilling filial piety is the way of children.
Mother is as old as a three-flavored banana
Like sticky rice, like cane sugar.
Every night light a sky lantern
Pray for parents to live with their children.
In love for each other undress
Go home and lie to your mother to cross the bridge and the wind blows away.
In folk songs of love and gratitude, the image of Vietnamese people appears optimistic, loving life, diligent in work, courageous in fighting, compassionate, altruistic, and rich in the virtue of sacrifice in relationships between people. people... Folk songs express those good qualities of Vietnamese people and guide Vietnamese people to the truth, goodness, and beauty in life.
Self-pity folk songs were born from the hard working, toilsome and heavily oppressed life of people in the old society. Folk songs lament the situation of repression and oppression:
I pity the fate of the turtle
Go to the communal house to carry a crane, go to the pagoda to carry a stele.
Especially the lament of women who suffer many injustices caused by male rule and feudal rites:
Your body is like peach silk
Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to?
My body is like a thorny tubercle
The inside is white, the outside is black
Hey, try it and see
After tasting it, I realized that it was sweet.
Bong carried her husband out
Going through the wading area, I lost my husband.
Sisters, lend me your dandruff
Let me splash water and get my husband out.
When people protest when they are suffering, they cry out but never lose faith.
Don't complain about anyone's difficult fate
The skin and hair grow, and the buds sprout.
When will people get angry?
The defeated king's son went out to sweep the temple again.
Folk songs imbued with satirical humor: Along with jokes and daily routines, satirical humorous folk songs focus on the unique features of Vietnamese folk satirical art to create laughter. entertain, entertain, criticize bad habits or laughable people in society
When you eat, eat delicious pieces
When doing something, choose something small to do.
The stork is a quack
You often beat your wife, who do you sleep with at night?
The trigger is a strange trigger
Eat at my aunt's house, drink at my aunt's house.
Younger son should do for good
Bend your back and lean on your knees to carry two sesame seeds.
Vietnamese folk songs are very rich in the way they structure and build images. The genres most often used in folk songs are the six-eight form, the song seven-six-eight form and other forms. Each folk song usually has two lines of six-eight verses, so the structure is simple and concise. The appeal of folk songs lies in the rich, elegant melody and the rich, image-rich lyrics. Artistic methods of metaphor, comparison, exaggeration, etc. create sexy images, expanding the field of deep associations:
We will always love and remember each other
Like the river misses the water, like the mulberry misses the silkworm.
We are like a new fire
Like a newly risen moon, like a newly lit lamp.
Long distance, wear long distance
Please help me find someone for me
A person of eighteen or twenty
Someone who is both beautiful and fresh like me
The art of simile has created unique traditional images in folk songs: banyan tree - water wharf - boat; bamboo - apricot, stork, bridge,...
The stork goes to catch the rain
It's dark and gloomy, who will bring the stork home?
Old banyan tree, old wharf
Walking makes sense, sun and rain are waiting.
I wish the river was a gang wide
|
Văn học được coi là một môn nghệ thuật ngôn từ và lấy ngôn từ làm chất liệu. Có ai đó đã từng nói “Văn học giúp cảm hóa con người”. Thật vậy, trong cuộc sống ngày nay thì văn học vẫn có những vai trò và chức năng nhất định.
Đầu tiên nói đến chức năng của văn học là nói đến chức năng nhận thức. Chức năng nhận thức thể hiện ở vai trò phản ánh hiện thực của văn học. Nó có thể đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh mông về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới.
Văn học là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống. Ăng-ghen cho rằng đọc tiểu thuyết của Ban-zắc, người ta có thể hình dung và hiểu về xã hội nước Pháp hơn là đọc sách của nhiều ngành khoa học xã hội cộng lại. Được như vậy là nhờ chức năng nhận thức của văn học.
Mặt khác, văn học còn giúp con người nhận thức về bản thân mình. Từ bao nhiêu thế kỉ nay, con người thường băn khoăn trước những câu hỏi lớn:
Toàn bộ văn học cổ kim, đông tây đều thể hiện sự tìm tòi, suy nghĩ không mệt mỏi của con người để giải đáp những câu hỏi đó. Ở nước ta, văn học dân gian và các tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Tố Hữu… đều cho thấy cái gì là đáng yêu, đáng ghét trong xã hội, giúp chúng ta có khả năng phân tích, đánh giá để nhận ra chân giá trị của mỗi con người. Nguyễn Du đã miêu tả thật chân những cảnh đời, những số phận bị vùi dập, khổ đau để thấy khát vọng về quyền sống của cọn người mãnh liệt biết chừng nào. Văn học cách mạng thể hiện quàn điểm sống chết của nhiều thế hệ sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Thậm chí, từ những chi tiết tưởng chừng nhỏ nhặt trong cuộc sống được nhà ván đưa vào tác phẩm cũng giúp người đọc soi mình vào đó để sống tốt hơn.
Chức năng giáo dục là một trong số những chức năng cơ bản của văn học nói chung. Văn học nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người. Định nghĩa nổi tiếng của nhà văn M.Gorki: Văn học là nhân học trước hết nhấn mạnh đến mục đích của văn học là giúp con người hiểu được chính mình, nâng cao niềm tin vào bản thân và làm nảy sinh trong con người một khát vọng hướng tới chân lí, biết đấu tranh với cái xấu, biết tìm tòi và hướng tới cái đẹp của con người và cuộc sống.
Như vậy, ngoài chức năng nhận thức, văn học còn có chức năng nuôi dưỡng tâm hồn, trí tuệ, tình cảm, đạo đức cho con người. Văn học luyện cho người đọc thói quen cảm thụ tinh tế, mài sắc khả năng nhận ra cái thật, cái giả, cái thiện, cái ác trong cuộc sống.
Văn học nâng đỡ cho nhân cách, giúp hình thành nhân cách, giáo dục con người tình cảm đúng đắn, trong sáng, biết yêu cái tốt, ghét cái xấu, dám xả thân vì nghĩa và biết sống đúng đạo lí làm người. Đặc điểm của văn học là thông qua sự kiện, hình tượng trong tác phẩm để khơi gợi, kích thích người đọc về mặt tình cảm, buộc họ phải bày tỏ thái độ và suy nghĩ để có hành động đúng. Mặt khác, văn học giúp con người tự giáo đục, tự hoàn thiện để sống tốt đẹp hơn, hữu ích hơn cho xã hội.
Văn học còn có chức năng thâm mỹ. Văn học mang lại sự hưởng thụ lành mạnh, bổ ích cho tâm hồn. Đặc điểm của hưởng thụ thẩm mĩ là nâng cao con người lên trên những dục vọng và lợi ích vật chất tầm thường. Đi vào thế giới của văn học, người đọc chia sẻ buồn vui, sướng khổ với nhân vật. Yêu kẻ này, ghét kẻ kia hoàn toàn không dính dáng gì đến lợi ích vật chất nào ngoài đời. Những giờ phút sống với tác phẩm là những giờ phút tâm hồn trong sáng, thanh thản nhất. Do đó văn học đem đến cho con người một niềm vui tinh thần hoàn toàn vô tư nhưng không bàng quan, vô trách nhiệm.
Văn học còn có chức năng làm thỏa mãn thị hiếu thẩm mĩ của người đọc bằng vẻ đẹp ngôn từ, vần điệu, bằng kết cấu khéo léo, lôi cuốn của từng tác phẩm. Nó làm cho tâm hồn chúng ta rung động trước những hình tượng nhân vật điển hình, trước cách cảm, cách nghĩ của nhà văn về con người và cuộc đời. Nhà văn chân chính là người có tâm hồn phong phú, đẹp đẽ. Họ lấy tâm hồn chân thành của mình để soi sáng những cảnh đời tối tăm, vỗ về người đau khổ, lên tiếng vạch trần cái xấu, cái ác, ca ngợi phẩm chất cao đẹp… Những điều đó có tác dụng rất lớn tới quá trình cảm thụ và hướng tới những giá trị Chân, Thiện, Mĩ của người đọc.
|
Literature is considered a verbal art and takes words as its material. Someone once said, "Literature helps transform people." Indeed, in today's life, literature still has certain roles and functions.
The first thing to talk about is the function of literature, which is to talk about the cognitive function. The cognitive function is expressed in literature's role of reflecting reality. It can bring readers a vast world of knowledge about the material life and spiritual life of humanity from past to present; about natural beauty in our country and around the world.
Literature is an encyclopedia of life. Engels believes that by reading Balkan's novels, people can imagine and understand French society better than reading books from many social sciences combined. This is possible thanks to the cognitive function of literature.
On the other hand, literature also helps people realize themselves. For centuries, people have often wondered about big questions:
All literature, ancient and modern, east and west, demonstrates people's tireless exploration and thinking to answer those questions. In our country, folk literature and works of famous writers and poets such as Nguyen Du, Ho Xuan Huong, Nguyen Dinh Chieu, Ho Chi Minh, Ngo Tat To, Nam Cao, To Huu... all show that What is lovely and hateful in society, helps us have the ability to analyze and evaluate to realize the true value of each person. Nguyen Du honestly described life scenes, crushed fates, and suffering to show how strong people's desire for the right to life is. Revolutionary literature represents the life and death of many generations willing to sacrifice for the cause of saving the people and the country. Even the seemingly small details in life that the writer puts into the work help readers reflect on themselves to live better.
The educational function is one of the basic functions of literature in general. Literature nourishes the soul, thoughts, and emotions of people. The famous definition of writer M.Gorki: Literature is anthropology first of all, emphasizing that the purpose of literature is to help people understand themselves, enhance belief in themselves and give rise to a new spirit in people. the desire towards truth, knowing how to fight against evil, knowing how to explore and aim for the beauty of people and life.
Thus, in addition to the cognitive function, literature also has the function of nurturing the soul, intellect, emotions, and morality of people. Literature trains readers in the habit of delicate perception, sharpening the ability to recognize the real, the false, the good, and the evil in life.
Literature supports personality, helps form personality, educates people with correct and pure emotions, knows how to love the good, hate the bad, dare to sacrifice themselves for justice and know how to live ethically as a human being. The characteristic of literature is to use events and images in works to evoke and stimulate readers emotionally, forcing them to express their attitudes and thoughts in order to take the right action. On the other hand, literature helps people educate themselves and improve themselves to live better and be more useful to society.
Literature also has an aesthetic function. Literature brings healthy and beneficial enjoyment to the soul. The characteristic of aesthetic enjoyment is to elevate people above ordinary desires and material interests. Entering the world of literature, readers share sadness, happiness, and suffering with the characters. Loving this person, hating that person has absolutely nothing to do with any material benefits in real life. The hours spent with the work are the purest and most peaceful moments of the soul. Therefore, literature gives people a spiritual joy that is completely carefree but not indifferent or irresponsible.
Literature also has the function of satisfying the aesthetic tastes of readers through the beauty of language, rhyme, and the skillful and attractive structure of each work. It makes our souls vibrate at the typical character images, at the writer's way of feeling and thinking about people and life. A true writer is someone with a rich and beautiful soul. They use their sincere souls to illuminate the dark scenes of life, comfort the suffering, speak up to expose the bad and evil, praise the noble qualities... These things have a great impact on people. process of perception and towards the values of Truth, Goodness, and Beauty of the reader.
|
Thời gian trôi qua đã quá lâu cộng thêm nạn binh lửa làm cho các văn bản bị tiêu huỷ. Tác giả so sánh và nhấn mạnh bằng những hình ảnh có sức gợi cảm lớn: bền như đả, như vàng, lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp cái hòm, trải qua mấy lần binh lửa, thì còn giữ mài thế nào được mà không rách nát tan tành?
Điều mà Hoàng Đức Lương gọi là trải qua bao cơn binh lửa là điều có thật. Đời Trần, năm 1371, quân Chiêm Thành có lần đánh chiếm ra tới Thăng Long, đã đốt phá, cướp bóc lấy đi nhiều giấy tờ, sách vở. Quân Minh năm 1407, khi sang xâm lược nước ta đã nhận được đạo chỉ của Minh Thành Tổ (hoàng đế triều Minh) về việc đốt phá, cướp bóc tất cả các di tích văn hoá, lịch sử ở nước ta như bia, kí, sách vở nói chung.
ngoài ra hết thảy mọi sách vở, văn tự cho đến cả những loại sách ghi chóp ca lí dân gian hay sách dạy trẻ cũng bị đốt hết. Những bia đá do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì chúng đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do nước Nam dựng thì chúng phá huỷ tất cả.
Sáu lí do trên dẫn đến một thực trạng đau xót, làm tổn thương đến lòng tự tôn, lự hào dân tộc của tác giả.
Phần thứ hai: Trình bày lí do biên soạn sách; thuật lại quá trình hoàn thành Trích diễm thi tập-, giới thiệu nội dung và kết cấu của tác phẩm.
Hoàng Đức Lương đã không trình bày ngay lí do này ngay ở phần mở đầu mà ông lại đặt xuống sau phẩn một là vì muốn đưa người đọc đến nhận thức rằng: Trích diễm thi tập ra đời chắc chắn không phải do ý muốn chủ quan của tác giả, mà là do yêu cầu của thời đại đặt ra. Vì thế nên tác giả trình bày thực trạng tình hình di sản thơ ca Việt Nam thời bấy giờ trước, sau đó mới trình bày lí do biên soạn:
Đức Lương này học làm thơ, chỉ trông vào thơ bách gia đời nhà Đường, còn như thơ vấn thời Lí, Trần thì không khảo cứu vào đâu được. Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách than thở, có ý đổ lỗi bậy cho hiền nhân quản tủ lúc bấy giờ. Than ôi! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ vân đời nhà Đường. Như thế chả đáng thương xót lắm sao!
|
Too much time has passed, combined with the war and fire, causing the documents to be destroyed. The author compares and emphasizes with images that have great evocative power: as strong as a rock, like gold, blessed by demons, yet still broken and sinking. What's more, the remaining manuscript, the fragile piece of paper kept in a zip in a trunk, after going through several times of war and fire, how can it still be kept and polished without being torn to pieces?
What Hoang Duc Luong calls going through many wars and fires is a real thing. During the Tran Dynasty, in 1371, the Champa army once invaded Thang Long, burned and looted many papers and books. In 1407, the Ming army, when invading our country, received instructions from Minh Thanh To (Emperor of the Ming Dynasty) to burn and plunder all cultural and historical relics in our country such as stele and inscriptions. , books in general.
In addition, all books and texts, including books recording folk music and teachings for children, were also burned. They have carefully preserved the stone stele built by China from the past until now, but they have destroyed all the stone stele built by the South.
The above six reasons lead to a painful situation, hurting the author's self-esteem and national pride.
Part two: Presenting the reason for compiling the book; narrates the process of completing Extraction Thi tap-, introducing the content and structure of the work.
Hoang Duc Luong did not immediately present this reason in the introduction, but he put it down after the first part because he wanted to bring readers to realize that: Extract of poetry was certainly not born due to subjective wishes. author, but due to the requirements of the times. Therefore, the author first presents the current situation of Vietnam's poetic heritage at that time, then explains the reason for compilation:
This Duc Luong learned to write poetry, only relying on the poems of hundreds of scholars in the Tang Dynasty, but he could not research the poetry of the Ly and Tran dynasties. Every time I pick up a few sentences from scraps of paper or broken walls, I often hold a book and lament, intending to blame the sage in charge of the cabinet at that time. Alas! In a civilized country that has been built for hundreds of years, is it possible that there is no book that can serve as a basis, but we have to look far away to learn poetry and other things from the Tang Dynasty. Isn't that so pitiful!
|
Nguyễn Du được biết đến là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Ông đã được công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới. Xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến nhưng cuộc đời của Nguyễn Du lại phải trải qua nhiều lưu lạc, đau khổ. Chính vì vậy, ông luôn luôn thông cảm với nhân dân, đặc biệt là với số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát. Trong kiệt xuất “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã mượn lời Thúy Kiều, lời của một cô gái tài hoa bạc mệnh để khái quát chung về số phận bi thảm của người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Câu thơ như xót xa như ai oán như một lời than phẫn uất trước định mệnh cực kì vô lí, bất công đối với phụ nữ. Tiếc thay, trong xã hội phong kiến bấy giờ bạc mệnh đã trở thành số phận chung của bao kẻ hồng nhan.
Bạc mệnh được hiểu là số phận mỏng manh, bạc bẽo, nói rộng ra là cuộc đời gặp nhiều tai ương, buồn khổ. Người bạc mệnh thường có kiếp sống long đong, lận đận hoặc chết yểu một cách thảm thương.
Nguyễn Du như tan nát cả cõi lòng khi đặt ngòi bút viết những câu thơ như có nước mắt rơi, như có máu tươi chảy. Ẩn chứa đằng sau lời than thống thiết ấy là một hiện thực cay đắng, phũ phàng: xã hội phong kiến bất công chà đạp tàn bạo lên nhân phẩm người phụ nữ.
Trong xã hội phông kiến hủ tục mang nặng quan niệm trọng nam khinh nữ ấy, người phụ nữ bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng. Họ đã bị biến thành nô lệ của những ràng buộc nghiệt ngã từ phía lễ giáo phong kiến và những quan niệm lạc hậu như tam tòng, thủ tiết, nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, nữ nhân ngoại tộc… số phận họ hoàn toàn phụ thuộc vào tay kẻ khác. Thậm chí, người phụ nữ còn bị coi như hàng hóa, dùng để bán mua, đổi chác. Trong tác phẩm “Bánh trôi nước “của Hổ Xuân Hương, “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du như đã thể hiện thật sinh động những thân phận đau thương ấy.
Hồ Xuân Hương đã không ngần ngại ví thân phận người phụ nữ như chiếc bánh trôi:
Thân em Vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Còn với con mắt của Nguyễn Du thì ông miêu tả quãng đời đầy truân chuyên, bão tố của nàng Kiều: Thoắt mua về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi; Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương… Người con gái tài sắc vẹn toàn là vậy lẽ ra phải được sống ấm êm bên cha mẹ, hạnh phúc bên người yêu, nhưng thế lực đen tối, bạo tàn trong xã hội mà đồng tiền là chúa tể đã cướp đi của nàng tất cả những gì tốt đẹp nhất và nhẫn tâm xô đẩy nàng xuống tận lớp bùn nhơ dưới đáy xã hội. Cứ mỗi lần Kiều cố gắng vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng số phận là một lần nàng bị dìm sâu hơn nữa, thêm một lần bế tắc nữa.
Từ kiếp hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều, nhà thơ như khái quát lên thành lời chung, kiếp đau khổ chung của người phụ nữ. Văn học thời bấy giờ đã từng nói đến cái chết thảm thương, oan khốc của Người con gái Nam xương (Nguyễn Dữ); một nạn nhân của chiến tranh và lễ giáo phong kiến bất công đầy những chuyện vô lý. Hay là một nàng Đạm Tiên nổi danh tài sắc một thì mà phải rơi vào cảnh: Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Trong xã hội cũ, hỏi có bao nhiêu nàng Đạm Tiên như thế?
|
Nguyen Du is known as a great poet of the Vietnamese people in the late 18th and early 19th centuries. He has been recognized as a World Cultural Celebrity. Coming from a feudal mandarin class, Nguyen Du's life had to go through many wanderings and sufferings. That's why he always sympathized with the people, especially with the unfortunate fate of women in a decadent and corrupt feudal society. In the masterpiece "The Tale of Kieu", Nguyen Du borrowed Thuy Kieu's words, the words of a talented and unfortunate girl, to generalize about the tragic fate of women:
Woman pain rather division,
Word that silver is also a common destiny.
The poem is as painful as it is plaintive, like a lament of indignation at the extremely unreasonable and unfair fate of women. Unfortunately, in the feudal society at that time, bad luck became the common fate of many beautiful people.
Bad fate is understood as a fragile and ungrateful fate, and more broadly, a life full of disasters and sadness. Unlucky people often have long, miserable lives or die tragically prematurely.
Nguyen Du felt like his heart was broken when he put his pen to write the verses as if tears were falling, as if fresh blood was flowing. Hidden behind that painful lament is a bitter, harsh reality: unjust feudal society brutally tramples on women's dignity.
In this feudal society with heavy emphasis on men and women, women are deprived of all legitimate rights. They have been turned into slaves by harsh constraints from feudal rites and outdated concepts such as three obediences, first blood, one male must be right, ten women must be none, foreign women... their fate. completely dependent on others. Women are even treated as commodities, used to buy, sell, and barter. In the work "Water Floating Cake" by Ho Xuan Huong, "The Tale of Kieu" by Nguyen Du seems to vividly express those painful fates.
Ho Xuan Huong did not hesitate to compare a woman's fate to a floating cake:
My body is both white and round
Seven floating sunken with water
The snake is crushed even if it is molded by your own hands
As for Nguyen Du's eyes, he describes Kieu's life full of troubles and storms: Quick to buy, quick to sell, Clouds float without a place; When Wuxi, when Lam Tri, Some are deceitful, some are pitiful... Such a talented and beautiful girl should have lived peacefully with her parents, happily with her lover, but the dark and violent forces She was devastated in a society where money was the king, robbing her of all the best things and cruelly pushing her down to the mud at the bottom of society. Every time Kieu tries to rise up to overcome circumstances and defeat fate, she is plunged deeper and into another deadlock.
From Thuy Kieu's beautiful and fateful life, the poet seems to generalize into general terms the common suffering of women. Literature at that time once talked about the tragic and unjust death of the Nam Xuong Girl (Nguyen Du); a victim of war and unjust feudal rituals full of absurd stories. Or a Dam Tien girl who was famous for her beauty and talent suddenly fell into a situation: Living as a wife to everyone else, Harm instead fell down to become a ghost without a husband. In the old society, how many Dam Tien girls were like that?
|
“Truyện Kiều” là một kiệt tác hiếm có của đại thi hào Nguyễn Du là kiệt tác có một không hai trong lịch sử văn chương Việt Nam. Tài năng xuất sắc của tác giả tạo nên giá trị muôn đời cho Truyện Kiều – kết tinh của tinh hoa Tiếng Việt giàu và đẹp. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhẫn vật đã đạt tới trình độ điêu luyện và tinh tế.
Trong đoạn trích Trao duyên, nhà thơ tập trung thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều. Sau cơn vạ gió tai bay bất kì, tổ ấm của gia đình nàng tan tác. Cha và em trai bị đánh đập, giam cầm; của cải bị lũ đầu trâu mặt ngựa vơ vét sạch sành sanh. Để đáp ứng yêu cầu của lũ tham quan ô lại thời trước thì Thúy Kiều chỉ còn một cách là bán mình để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha.
Suốt đêm: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu, Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay Mã Giám Sinh, Thúy Kiều cảm thấy như chính mình là người có lỗi trong chuyện tình duyên dang dở, là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng Kiều thương cho thân phận hẩm hiu của mình một, thương người yêu mười nên đành cắn răng chấp nhận số phận đen bạc, cố quên bản thân để nghĩ đến Kim Trọng:
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thì thôi, còn gì?
Thúy Kiều mang nặng trong mình những mặc cảm không dứt là người có lỗi. Nàng tự hờn trách, dằn vặt bản thân vì mình khăng khít khiến người dở dang. Lẽ ra Thúy Kiều và Kim Trọng cùng chủ động đến với nhau, tự nguyện yêu và gắn bó với nhau và cả hai phải được sống hạnh phúc viên mãn. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương nhất.
Nhưng tai họa ập đến với gia đình Kiều và với chính bản thân, nàng chỉ biết âm thầm khóc than cho duyên phận, cho số kiếp không may. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn được phần nào mối lương duyên của mình. Đó là nhờ em gái nối duyên với chàng Kim. Nghĩ là làm, Thúy Kiều đã trao mối nhân duyên mới chớm nở của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân khi cô em gái vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Nguyễn Du dường như đã hóa thân vào Thúy Kiều để thấu hiểu, thông cảm và xót thương cho nàng, thay nàng nói lên những lời làm rung động tâm can người nghe:
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Kiều thẹn thùng khó ngỏ lời, vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình đầu trong sáng, nồng nàn mà chỉ mới hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, dù là em gái đi nữa thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa, mối tình này đã gắn bó đến mức keo sơn, thề nguyền vàng đá dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Vì thế mà nó thiêng liêng, sâu nặng, khó có thể đổi thay.
Kiều rơi vào tình thế khó xử, không nói ra không nói được, mà nói ra thì e ngại. Nàng băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Tội nghiệp thay cho Kiều! Nguyễn Du hiểu tường tận tâm thế, vị thế của nàng lúc này nên mới dùng những từ hàm chứa nỗi đau đớn, chua xót như Cậy (tin cậy mà nhờ vả), chịu lời, lạy, thưa. Kiều nói với em gái (bề dưới) mà như nói với bề trên, hơn thế – như một vị ân nhân. Nàng dẫn dắt Thúy Vân đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Sau phút ban đầu khó nói, giờ đây, nàng bộc bạch hết sức chân thành với Thúy Vân về mối tình dang dở của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai.
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nguyễn Du như đã đặc tả được tâm trạng đau khổ của Thúy Kiểu khi nghĩ tới người yêu giờ đây đang thăm thẳm tận đất Liêu Dương, chưa hề biết đến sự tan vỡ bất ngờ của tình yêu đôi lứa. Kiều không hề có ý coi đây là món nợ tình, kiếp này chưa trả được thì đành mang khối tình theo xuống tuyền đài chưa tan. Thúy Kiều trở nên thật tội nghiệp biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào!
Và trong quá trình diễn biến tâm lí của nhân vật Thúy Kiều có rất nhiều mâu thuẫn. Nàng đã chủ động nhờ cậy em gái mình: Xót tình máu mủ thay lời nước non, thay mình đền đáp nghĩa tình với Kim Trọng. Kiều tin tưởng em nên nàng trao lại cả những kỉ vật quý giá:
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Thế nhưng chỉ sau giây phút tưởng tượng ra cái chết thê thảm thịt nát xương mòn của mình, mình chỉ còn là mảnh hồn oan vật vờ nơi ngọn cỏ, lá cây mỗi lúc hiu hiu gió thì Kiều lại tiếc nuối và đớn đau gấp bội lần, nỗi đau càng như cắt cứa hơn. Đúng là có mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tất yếu của tấm lòng vị tha đáng quý của Kiều. Nàng lo cho người yêu trước rồi mới nghĩ đến mình và nàng thực sự hoang mang, sợ hãi trước tương lai mù mịt. Nỗi đau tinh thần đã quá mức chịu đựng của thể xác người con gái liễu yếu đào tơ:
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Nguyễn Du với ngòi bút thật sắc sảo đã miêu tả thành công một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tài hoa bạc mệnh. Nàng đau đớn đâu phải vì mình, cho mình mà vì người yêu, cho người yêu. Có thể nói đức vị tha, nhân ái cao cả ấy của Thúy Kiều khiến cho người đời càng cảm phục và yêu mến nàng hơn.
Đoạn trích Nỗi thương mình kể về chuyện sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, nàng đã quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng là biến nàng Kiều bất hạnh thành kĩ nữ. Nàng định quyên sinh để thoát khỏi thân phận nhuốc nhơ, nhưng vì ngây thơ và cả tin, nàng đã bị tên ma cô Sở Khanh lừa dối, rơi vào cạm bẫy của Tú Bà và buộc phải ra tiếp khách. Tình cảnh trớ trêu khiến nàng chìm đắm triền miên trong nỗi tủi hổ và cay đắng:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Chỉ qua bốn câu thơ ngắn gọn thôi, Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh. Những ẩn dụ như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, hình ảnh Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh (hai khách phong lưu nổi tiếng) đã phản ánh thú vui trụy lạc chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy, nổi bật lên một nàng Kiều cô đơn, buồn bã:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Hai câu thơ tả tâm lí này cũng có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hoà, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Cảnh đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích này. Thúy Kiều đành lòng buộc phải giã từ cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, Để xem con Tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi và chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chân trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau. Mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự thông cảm và rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng buồn tủi khi nghĩ tới sự tương phản giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn thấu tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, Tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là cái thế lực vạn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen không biêt ngày nào được gột rửa.
Đau khổ đã biến Kiều thành vô tri vô giác trước những kẻ ăn chơi trụy lạc xung quanh nàng:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
|
“Truyện Kiều” là một kiệt tác hiếm có của đại thi hào Nguyễn Du là kiệt tác có một không hai trong lịch sử văn chương Việt Nam. Tài năng xuất sắc của tác giả tạo nên giá trị muôn đời cho Truyện Kiều – kết tinh của tinh hoa Tiếng Việt giàu và đẹp. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhẫn vật đã đạt tới trình độ điêu luyện và tinh tế.
Trong đoạn trích Trao duyên, nhà thơ tập trung thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều. Sau cơn vạ gió tai bay bất kì, tổ ấm của gia đình nàng tan tác. Cha và em trai bị đánh đập, giam cầm; của cải bị lũ đầu trâu mặt ngựa vơ vét sạch sành sanh. Để đáp ứng yêu cầu của lũ tham quan ô lại thời trước thì Thúy Kiều chỉ còn một cách là bán mình để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha.
Suốt đêm: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu, Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay Mã Giám Sinh, Thúy Kiều cảm thấy như chính mình là người có lỗi trong chuyện tình duyên dang dở, là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng Kiều thương cho thân phận hẩm hiu của mình một, thương người yêu mười nên đành cắn răng chấp nhận số phận đen bạc, cố quên bản thân để nghĩ đến Kim Trọng:
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thì thôi, còn gì?
Thúy Kiều mang nặng trong mình những mặc cảm không dứt là người có lỗi. Nàng tự hờn trách, dằn vặt bản thân vì mình khăng khít khiến người dở dang. Lẽ ra Thúy Kiều và Kim Trọng cùng chủ động đến với nhau, tự nguyện yêu và gắn bó với nhau và cả hai phải được sống hạnh phúc viên mãn. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương nhất.
Nhưng tai họa ập đến với gia đình Kiều và với chính bản thân, nàng chỉ biết âm thầm khóc than cho duyên phận, cho số kiếp không may. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn được phần nào mối lương duyên của mình. Đó là nhờ em gái nối duyên với chàng Kim. Nghĩ là làm, Thúy Kiều đã trao mối nhân duyên mới chớm nở của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân khi cô em gái vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Nguyễn Du dường như đã hóa thân vào Thúy Kiều để thấu hiểu, thông cảm và xót thương cho nàng, thay nàng nói lên những lời làm rung động tâm can người nghe:
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Kiều thẹn thùng khó ngỏ lời, vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình đầu trong sáng, nồng nàn mà chỉ mới hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, dù là em gái đi nữa thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa, mối tình này đã gắn bó đến mức keo sơn, thề nguyền vàng đá dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Vì thế mà nó thiêng liêng, sâu nặng, khó có thể đổi thay.
Kiều rơi vào tình thế khó xử, không nói ra không nói được, mà nói ra thì e ngại. Nàng băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Tội nghiệp thay cho Kiều! Nguyễn Du hiểu tường tận tâm thế, vị thế của nàng lúc này nên mới dùng những từ hàm chứa nỗi đau đớn, chua xót như Cậy (tin cậy mà nhờ vả), chịu lời, lạy, thưa. Kiều nói với em gái (bề dưới) mà như nói với bề trên, hơn thế – như một vị ân nhân. Nàng dẫn dắt Thúy Vân đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Sau phút ban đầu khó nói, giờ đây, nàng bộc bạch hết sức chân thành với Thúy Vân về mối tình dang dở của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai.
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nguyễn Du như đã đặc tả được tâm trạng đau khổ của Thúy Kiểu khi nghĩ tới người yêu giờ đây đang thăm thẳm tận đất Liêu Dương, chưa hề biết đến sự tan vỡ bất ngờ của tình yêu đôi lứa. Kiều không hề có ý coi đây là món nợ tình, kiếp này chưa trả được thì đành mang khối tình theo xuống tuyền đài chưa tan. Thúy Kiều trở nên thật tội nghiệp biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào!
Và trong quá trình diễn biến tâm lí của nhân vật Thúy Kiều có rất nhiều mâu thuẫn. Nàng đã chủ động nhờ cậy em gái mình: Xót tình máu mủ thay lời nước non, thay mình đền đáp nghĩa tình với Kim Trọng. Kiều tin tưởng em nên nàng trao lại cả những kỉ vật quý giá:
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Thế nhưng chỉ sau giây phút tưởng tượng ra cái chết thê thảm thịt nát xương mòn của mình, mình chỉ còn là mảnh hồn oan vật vờ nơi ngọn cỏ, lá cây mỗi lúc hiu hiu gió thì Kiều lại tiếc nuối và đớn đau gấp bội lần, nỗi đau càng như cắt cứa hơn. Đúng là có mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tất yếu của tấm lòng vị tha đáng quý của Kiều. Nàng lo cho người yêu trước rồi mới nghĩ đến mình và nàng thực sự hoang mang, sợ hãi trước tương lai mù mịt. Nỗi đau tinh thần đã quá mức chịu đựng của thể xác người con gái liễu yếu đào tơ:
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Nguyễn Du với ngòi bút thật sắc sảo đã miêu tả thành công một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tài hoa bạc mệnh. Nàng đau đớn đâu phải vì mình, cho mình mà vì người yêu, cho người yêu. Có thể nói đức vị tha, nhân ái cao cả ấy của Thúy Kiều khiến cho người đời càng cảm phục và yêu mến nàng hơn.
Đoạn trích Nỗi thương mình kể về chuyện sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, nàng đã quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng là biến nàng Kiều bất hạnh thành kĩ nữ. Nàng định quyên sinh để thoát khỏi thân phận nhuốc nhơ, nhưng vì ngây thơ và cả tin, nàng đã bị tên ma cô Sở Khanh lừa dối, rơi vào cạm bẫy của Tú Bà và buộc phải ra tiếp khách. Tình cảnh trớ trêu khiến nàng chìm đắm triền miên trong nỗi tủi hổ và cay đắng:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Chỉ qua bốn câu thơ ngắn gọn thôi, Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh. Những ẩn dụ như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, hình ảnh Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh (hai khách phong lưu nổi tiếng) đã phản ánh thú vui trụy lạc chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy, nổi bật lên một nàng Kiều cô đơn, buồn bã:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Hai câu thơ tả tâm lí này cũng có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hoà, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Cảnh đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích này. Thúy Kiều đành lòng buộc phải giã từ cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, Để xem con Tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi và chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chân trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau. Mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự thông cảm và rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng buồn tủi khi nghĩ tới sự tương phản giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn thấu tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, Tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là cái thế lực vạn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen không biêt ngày nào được gột rửa.
Đau khổ đã biến Kiều thành vô tri vô giác trước những kẻ ăn chơi trụy lạc xung quanh nàng:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
|
Con người có biết bao những phẩm chất đáng quý và có thể nói lòng dũng cảm chính là một nét phẩm chất cao quý trong nhân cách đạo đức con người. Dũng cảm là trái ngược với yếu đuối và dũng cảm là tên gọi khác của sự quả cảm, kiên cường, anh hùng – Lòng dũng cảm nó rất gần gũi với nghị lực, với ý chí sắt đá. Nó hoàn toàn đối lập với sự hèn nhát, khiếp hãi… Lòng dũng cảm tôn vinh nhân cách con người trong khi đó, sự đớn hèn lại hạ bệ con người xuống vực sâu của sự thảm bại, đáng thương.
Trong cuộc sống không phải lúc nào lòng dũng cảm của con người cũng lộ diện. Nếu như cuộc sống của mỗi người chỉ toàn những điều bình yên, may mắn, tốt đẹp thì có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết đến, cần đến lòng dùng cảm làm gì cả. Dưới dòng đường tấp nập một em bé đang sang đường, cùng lúc đó, chiếc ô tô tải cũng chuẩn bị lao tới. Ngay lập tức, một cậu thanh niên nhanh nhẹn băng mình đẩy em bé đó ngã nhanh về phía bên kia đường. Em bé đã được cứu sống trong tích tắc… Hay nhiều tấm gương ta nghe trên các phương tiện truyền thông đại chúng đã cứu em nhỏ đuối nước. Tất cả những mẩu chuyện nhỏ đó cho chúng ta thấy về lòng dũng cảm. Bất cứ ai cũng đều có thể nhận thấy rằng chỉ trong hoàn cảnh ngặt nghèo, nguy hiểm, những thử thách, gian truân, lòng dũng cảm mới có điều kiện bộc lộ qua những hành động cụ thể. Những người mang trong mình phẩm chất cao quý đó là người không e ngại vất vả, hi sinh, họ luôn nhanh nhẹn ứng phó và biết quên mình trong các tình huống hiểm trở để khẳng định lẽ phải, sự công bằng, khẳng định cái thiện, bênh vực cái yếu… Hình ảnh chú bé liên lạc trong bài thơ Lượm (Tố Hữu) băng mình qua mưa bom bão đạn, cô gái thánh niên xung phong “lấy thân mình hứng lấy luồng bom” (Khoáng trời hố hom – Lâm Thị Mỹ Dạ), hình ảnh ngọn đuốc sống Lê Văn Tám, người chiến sĩ lấy thân mình lấp lỗ châu mai… chẳng phải là những biển tượng tuyệt đẹp của lòng dũng cảm đó sao? Lòng dũng cảm còn hiện diện trong những hi sinh thầm lặng của bao chiến sĩ công an đang ngày đêm gìn giữ trật tự an ninh cho đất nước. Nó có mặt ở cả sự không ngừng vươn lên của những con người phải sống trong bệnh tật, đói nghèo. Nó nằm trong hành động lao mình vào dòng xoáy nước dữ dội để giành lại đứa em thơ từ tay thần chết… Thực sự không có chiếc túi thần kì nào có thể chất chứa cho hết lòng dũng cảm của nhân loại, không giấy bút nào có thể lưu danh cho hết những con người mang trong mình nét nhân cách cao đẹp đó.
Con người luôn cần và luôn hướng tới cái đẹp – đó là quy luật của cuộc sống. Cùng với những phẩm chất cao quý khác của nhân cách con người, lòng dũng cảm cần được giữ gìn, vun đắp để nó tồn tại mãi trong cuộc đời này. Lý do nào khiến mỗi người phải nhận thức rõ ràng về điều đó?
Cuộc sống con người vốn dĩ không bao giờ bằng phẳng, dễ dãi hay nói cách khác là quá dễ dàng. Không phải khi nào chúng ta cũng “thuận buồm xuôi gió” trong mọi công việc, mọi hành động. Khó khăn, bất trắc là những điều chúng ta không thể không đối mặt có khi thường trực trong cuộc sống của nhiều người. Chiến tranh, thiên tai, địch hoạ, bệnh tật hay đói nghèo… là kẻ thù truyền kiếp của loài người. Con người có thể tồn tại cũng phát triển như ngày nay không thể không kiên cường đối diện với chúng. Nghị lực là yếu tố đầu tiên mỗi ngươi cần có nhưng lòng dũng cảm mới là yếu tố quan trọng, góp phần quyết định sự chiến thắng hay thất bại. Dũng cảm để chiến đấu nên quân và dân Việt Nam mới giành chiến thắng trước những tên đế quốc sừng sỏ như Pháp, Mĩ, mới được sống cuộc dời độc lập, tự do thực sự. Dũng cảm đối diện với bệnh tật nên Nguyễn Ngọc Kí mới trở thành người thầy giáo mẫu mực như chúng ta vẫn thấy và noi theo… Qủa thật lòng dũng cảm là động lực đưa con người đứng cao hơn hoàn cảnh, đứng lên trên những khó khăn, gian khổ, thậm chí mất mát, hi sinh trong cuộc sống. Không có nó, có lẽ con người luôn bị nhấn chìm trong tiếng khóc oán thán, trong nỗi đau, trong sự thảm hại khôn cùng.
Và không phải suốt cuộc đời lúc nào chúng ta cũng phải đối phó với những tai ương, bất trắc. Ý nghĩa cuộc sống con người còn nằm ở việc sáng tạo, khám phá những điều mới mẻ xung quanh. Nếu không có lòng dũng cảm, chân trời hiểu biết của con người có thể rộng mở đến thế? Như vậy, lòng dũng cảm cần có để con người khám phá thêm cho cuộc sống này những điều mới lạ, bổ ích, để cuộc sống nhân loại không nhàm chán, tẻ nhạt mà ngày càng giàu có hơn, phong phú hơn.
Có ai đó đã từng nói: “Chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng chính bản thân mình”. Điều đó hoàn toàn chính xác bởi con người thường không dám thừa nhận, không dám trực diện đối mặt với những khuyết điểm của chính bản thân. Chẳng thế mà Kinh Phật đã bàn về một thói xấu của con người: “Lỗi người ta tìm bới/ Như sàng trấu trong gạo/ Còn lỗi mình giấu biệt/ Như kẻ gian giấu bài”. Chẳng thế mà xưa kia các nhà nho chân chính thường tự răn mình: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất đề cao tinh thần phê và tự phê của các cán bộ cách mạng nói riêng và của mỗi người dân nói chung. Nhưng quả thực không dễ dàng để mỗi chúng ta có thể tự giác nhận thức được lỗi lầm của mình. Chỉ khi nào ta dũng cảm để nhận ra những lỗi lầm của mình, con người mới có cơ hội hoàn thiện bản thân, hoàn thiện nhân cách đạo đức của chính mình. Lòng dũng cảm giúp nhân vật xưng “tôi” trong truyện ngắn Bức tranh (Nguyễn Minh Châu) nhìn nhận được phần thiếu sót, sai lầm trong hành động của mình. Lòng dũng cảm cũng đã khiến các bạn học sinh không ngại ngần viết vào bản tự kiểm điểm cá nhân những tồn tại trong quá trình học tập và rèn luyện dạo đức… Trong cuộc hành trình hoàn thiện nhân cách của mỗi con người không thể không có mặt lòng dũng cảm. Mỗi chúng ta chỉ có thể sống tốt hơn, cuộc sống của chúng ta chỉ ý nghĩa hơn khi mỗi người nhận thức một cách cao độ về lòng dũng cảm trong chính bản thân.
Vì tất cả những lý do trên đây, thì tinh thần dũng cảm nhất thiết phải được đề cao, nêu gương trong cuộc sống con người. Nhưng sự thật là không phải ai cũng có thể quên mình vì nghĩa lớn, không phải ai cũng có lòng vị tha, đức hi sinh để lòng dũng cảm trở thành mẫu số chung trong nhân cách con người. Nhưng phải làm cách nào để mỗi người có thể ý thức một cách sâu sắc về lòng dũng cảm, để nó có thể tự “nhân giống” trong cộng đồng của chúng ta?
|
Humans have so many precious qualities and it can be said that courage is a noble quality in human moral personality. Courage is the opposite of weakness and courage is another name for bravery, resilience, heroism - Courage is very close to determination, to iron will. It is completely opposite to cowardice and fear... Courage honors human personality while cowardice brings people down to the abyss of defeat and pity.
In life, human courage does not always appear. If each person's life was filled with only peaceful, lucky, and good things, perhaps we would never know or need to feel anything. On a busy street, a child was crossing the street, and at the same time, a truck was also preparing to rush forward. Immediately, a nimble young man jumped up and pushed the baby down quickly to the other side of the road. The baby was saved in an instant... Or many examples we hear in the mass media of saving drowning children. All those little stories show us about courage. Anyone can see that only in difficult and dangerous situations, challenges and hardships can courage be revealed through specific actions. People with noble qualities are those who are not afraid of hard work and sacrifice, they are always quick to respond and know how to forget themselves in difficult situations to affirm righteousness, fairness, and dignity. good, defending the weak... The image of the liaison boy in the poem Luom (To Huu) running through the rain of bombs and storms of bullets, the teenage girl volunteering to "use her body to catch the bomb blast" (KOAH KY HO HOM - Lam Thi My Da), the image of the living torch Le Van Tam, the soldier using his body to fill the hole in the battlements... aren't they beautiful symbols of courage? Courage is also present in the silent sacrifices of many police soldiers who are day and night maintaining order and security for the country. It is present in the constant rise of people living in illness and poverty. It lies in the act of plunging into the fierce whirlpool to win back the baby brother from the hands of death... There is really no magic bag that can contain all the courage of humanity, no paper and pen. can save the names of all the people with that noble personality.
People always need and always aim for beauty - that is the rule of life. Along with other noble qualities of human personality, courage needs to be preserved and cultivated so that it lasts forever in this life. What is the reason why each person must be clearly aware of that?
Human life is never inherently flat, easy or in other words too easy. We don't always have "smooth sailing" in every job and every action. Difficulties and uncertainties are things we cannot help but face, sometimes they are constant in the lives of many people. War, natural disasters, enemy sabotage, disease or poverty... are mortal enemies of humanity. Humans can survive and develop as they do today without being resilient in facing them. Willpower is the first element each person needs, but courage is the important factor, contributing to determining victory or defeat. With the courage to fight, the Vietnamese army and people will win against fierce imperialists like France and America, and can live a life of true independence and freedom. Courageously facing his illness, Nguyen Ngoc Ki became the exemplary teacher we still see and follow... Indeed, courage is the driving force that brings people to stand higher than their circumstances, to stand above difficulties. difficulties, hardships, even loss and sacrifice in life. Without it, perhaps people would always be drowned in cries of resentment, in pain, in extreme misery.
And we don't always have to deal with disasters and uncertainties throughout our lives. The meaning of human life also lies in creating and discovering new things around. Without courage, could the horizon of human understanding be so wide open? Thus, courage is needed for people to discover new and useful things for this life, so that human life will not be boring or dull but become richer and richer.
Someone once said: "The greatest victory is winning yourself." That is completely accurate because people often do not dare to admit, do not dare to directly face their own shortcomings. That's why the Buddhist scriptures discuss a bad habit of humans: "People's mistakes are sought out/ Like sifting chaff in rice/ But our own mistakes are kept hidden/ Like a crook hides cards." That's why in the past, true Confucian scholars often admonished themselves: "The rich and noble cannot commit adultery, the poor cannot move, and the mighty cannot hide." During his lifetime, President Ho Chi Minh also highly appreciated the spirit of criticism and self-criticism of revolutionary cadres in particular and of every citizen in general. But it's really not easy for each of us to consciously realize our mistakes. Only when we have the courage to recognize our mistakes will people have the opportunity to perfect themselves and their own moral personality. Courage helps the character who says "I" in the short story The Picture (Nguyen Minh Chau) recognize the shortcomings and mistakes in his actions. Courage also made the students not hesitate to write in their personal self-criticism the shortcomings in the process of studying and practicing moral virtue... In the journey of perfecting each person's personality, it is impossible not to Courage is present. Each of us can only live better, our lives can only be more meaningful when each of us is highly aware of our own courage.
For all of the above reasons, the spirit of courage must be promoted and set an example in human life. But the truth is that not everyone can forget themselves for a great cause, not everyone has the altruism and sacrifice so that courage becomes a common denominator in human personality. But how can each person be deeply aware of courage, so that it can "propagate" itself in our community?
|
Bài làm
Nguyễn Du là một nhà thơ thiên tài của dân tộc, ông đã có những đóng góp to lớn vào nền văn học thi ca cổ của dân tộc, những sáng tác của ông mang đậm tinh thần nhân đạo đặc sắc nhất là thi phẩm “Truyện Kiều” áng văn thơ vừa tả người, tả tình cũng như một truyện kể về cuộc đời người con gái “hồng nhan bạc mệnh”.
Bằng tâm huyết và tài năng của mình nhà thơ Nguyễn Du đã xây dựng thành công những hình tượng nhân vật rất đặc sắc tiêu biểu là hình tượng Thúy Kiều. Một người con gái tài sắc vẹn toàn sống giữa cuộc đời phong trần phải chịu bao cay đắng, tủi cực, trải qua hết sóng gió này đến sóng gió khác, thân phận người phụ nữ của sống thời phong kiến xưa. Thúy Kiều không những có tài có sắc mà là người có đức, có chí hiếu, là người tình chung thủy, nhân nghĩa và rất giàu đức hi sinh. Chặng đường đời của Kiều giống như áng thiên sử dài muôn thuở gập ghềnh không biết trôi dạt về đâu.
Không giống với Thúy Vân, Thúy Kiều người con gái tài hoa xinh đẹp, một tài năng hiếm thấy nổi bật cả về cầm, kì, thi, họa. Nguyễn Du đã dốc hết bút lực của mình để làm tôn lên vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thúy Kiều. Nếu người em Thúy vân có vẻ đẹp “mây thua”, “tuyết nhường”, hòa quyện với cảnh vật thiên nhiên, tính cách đoan trang thuỳ mị đây cũng như ngầm báo trước một tương lai êm đềm, phẳng lặng thì Thuý Kiều với vẻ đẹp khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”, thì số phận ngụ ý qua câu chữ nàng sẽ gặp nhiều bất trắc, sóng gió.
Trong thơ ca hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài hấp dẫn được nhiều thi sĩ lựa chọn, đặc biệt trong kho tàng ca dao dân ca thì số phận người phụ nữ trôi nổi được tác giả dân gian sáng tác rất nhiều, ca dao than thân rất đậm nét:
“Thân em như dải lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Đó là lời ca về cuộc đời bèo dạt của những thân phận người phụ nữ, họ được ví như dải lụa đào thuy thướt tha mềm mại những lại long đong, lận đận “phất phơ” không biết vào tay ai.
Phải chăng nàng đã dự báo được trước số phận của mình biết được cuộc đời mình sẽ long đong như con thuyền trôi. Qua hình ảnh nàng Kiểu người đọc thấy được sự đồng vọng của Nguyễn Du với thân phận người con gái ấy:
“Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”
Trong Truyện Kiều thì hình ảnh người phụ nữ xưa hiện lên luôn, Kiều có tài sắc giàu đức hy sinh, là một người con hiếu thảo. Trước tai họa bất ngờ của gia đình, cha bị vu oan, nhà cửa bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa cướp phá tan hoang, tâm trí Kiều như bị cào xé: Rường cao rứt ngược dẩy oan, Dẫu là đá cũng nát gan lọ người. Bị bọn quan lại tham nhũng đẩy vào đường cùng: Có ba trăm lạng việc này mới xong; không còn cách nào khác, để cứu được gia đình cứu được cha nàng phải bán thân mình. Hành động ấy của Thúy Kiều đó được coi như nghĩa cử cao đẹp về tình hiếu thảo, Kiều đặt chữ hiếu lên đầu nàng hy sinh cả tình yêu cả hạnh phúc riêng mình để trọn chữ hiếu.
Cơn giông tố ập đến trên đầu người phụ nữ, Nguyễn Du như khóc thay lời ai oán đó:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Tuy chịu cảnh cùng cực như vậy nhưng ý chí bên trong của Thúy Kiều luôn rừng rực, nàng vẫn luôn có khao khát tìm được hạnh phúc, sẵn sàng “xăm xăm băng nẻo đường khuya một mình để tìm Kim Trọng, tìm đến hạnh phúc của mình. Hành động đó minh chứng được rằng Thúy Kiều đã vượt qua những gò bó của thời cuộc để đi tìm hạnh phúc đúng nghĩa.
Nguyễn du đã để nhân vật của mình nổi bật lên trên nền xã hội phong kiến thối nát với những đức tính truyền thống đẹp đẽ.
“Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong”
Con người sinh ra có tài không phải là tội, nhưng đặt trong hoàn cảnh lễ giáo phong kiến thì những số phận con người ấy lại vô tình bị đùn đẩy vào cảnh phong trần khi bị coi là thứ đồ hàng mua đi bán lại:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
… Cò kè bớt một thêm hai”
Cái tài, cái sắc giờ đây bị mang ra cân đong đo đếm, bị quy ra thành tiền:
“Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công nỗi buồn u uất của Thúy Kiều, đồng thời cũng thể hiện được niềm cảm thông sâu sắc trước thực trạng con người bị chà đạp. Bức tranh hiện lên như tấm màn vén từng lớp từng lớp của cuộc đời người con gái biết hy sinh, đức tính đáng quý, đáng trân trọng.
Đứng trước thực tại đau xót như thế Thúy Kiều vẫn có những mong ước về một tương lai, nàng nghĩ rằng mình sẽ chết nhưng chết trong lời nguyền chung thủy:
“Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Lời thương ai oán của Kiều cất lên như tiếng xé lòng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Đức tính vị tha vẫn sáng bừng lên trong tâm hồn của nàng Kiều:
|
Assignment
Nguyen Du is a genius poet of the nation. He has made great contributions to the nation's ancient poetic literature. His compositions are imbued with a humanitarian spirit, most notably the poem "The Story of "Kieu" is a poem that both describes people and feelings as well as a story about the life of a "beautiful and fateful" girl.
With his enthusiasm and talent, poet Nguyen Du has successfully created very unique character images, typically the image of Thuy Kieu. A talented and beautiful girl living in the middle of a worldly life must endure many bitterness and sadness, experiencing one storm after another, the fate of a woman in ancient feudal life. Thuy Kieu is not only talented and beautiful, but is virtuous, filial, a loyal lover, benevolent and very rich in the virtue of sacrifice. Kieu's life journey is like a long, bumpy epic story with no idea where it's going.
Unlike Thuy Van, Thuy Kieu is a talented and beautiful girl, a rare talent that stands out in piano, chess, exams, and painting. Nguyen Du has used all his writing power to enhance the beauty of Thuy Kieu. If her younger sister Thuy Van has the beauty of "the clouds lose", "the snow gives way", blending with the natural scenery, her graceful and dignified personality as well as implicitly foreshadowing a peaceful and quiet future, then Thuy Kieu and beauty makes "flowers jealous" and "willows angry", then the fate implied through the words she will encounter many uncertainties and turbulence.
In poetry, the image of a woman is always an attractive topic chosen by many poets, especially in the treasury of folk songs, the floating fate of a woman is written by many folk authors. very bold self-pity:
“My body is like a strip of peach silk,
Floating in the market, who knows whose hands it belongs to?
It is a song about the miserable lives of women. They are likened to a silk strip of peach silk, flowing and soft, but at the same time drifting and struggling, "fluttering" without knowing whose hands it falls into.
Could it be that she had predicted her fate, knowing that her life would drift like a drifting boat? Through her image, readers can see Nguyen Du's sympathy with that girl's fate:
“The beauty of life is fragile
Halfway through spring, the branch of heaven suddenly broke.
In The Tale of Kieu, the image of an ancient woman always appears, Kieu is talented and rich in sacrifice, and is a filial daughter. Faced with the family's sudden disaster, her father was falsely accused, her house was looted and destroyed by a group of horse-headed servants, Kieu's mind felt like it was being torn apart: The high ground is up against the injustice, Even if it is a stone, it will break her heart. human jar. Pushed into a dead end by corrupt officials: It took three hundred taels to complete this job; There was no other way, in order to save her family and save her father, she had to sell her body. That action of Thuy Kieu is considered a noble gesture of filial love. Kieu puts filial piety first, sacrificing both her love and her own happiness to fulfill filial piety.
The storm came over the woman's head, and Nguyen Du seemed to cry in response to those plaintive words:
"Woman pain rather division
Word that silver is also a common destiny"
Despite suffering such extreme circumstances, Thuy Kieu's inner will is always blazing, she always has the desire to find happiness, and is willing to "travel through the streets late at night alone to find Kim Trong, to find happiness." mine. That action proves that Thuy Kieu has overcome the constraints of life to find true happiness.
Nguyen du allowed his character to stand out against the corrupt feudal society with beautiful traditional virtues.
“Thuy Kieu is sharp and wise
Being ungrateful is the destiny of beauty
Bringing a love letter again
"Let me tie myself inside."
It is not a crime for people to be born talented, but placed in the context of feudal rites, those human fates are unintentionally pushed into a worldly situation when they are considered a commodity to be bought and resold:
“Weighing beauty and wealth
Forced to hold the moon and try the fan poem
… One less thing, two more.”
Talent and beauty are now being weighed and measured, converted into money:
"It's been a while since the gold price has fallen to over four hundred"
With symbolic conventional writing, Nguyen Du successfully portrayed the sadness and melancholy of Thuy Kieu, while also expressing deep sympathy for the reality of people being trampled on. The picture appears like a curtain lifting layer by layer of the life of a girl who knows how to sacrifice, whose virtues are precious and worthy of respect.
Faced with such a painful reality, Thuy Kieu still has wishes for a future. She thinks she will die but dies under the curse of fidelity:
“Looking out over the grass and leaves
Seeing the cool breeze means she's coming home
The soul still carries a heavy oath
If the body of a willow tree is broken, it will be replaced by a thousand bamboo trees."
Kieu's plaintive words sounded like a heart-wrenching voice:
“Hundreds of thousands sent to the beloved army
There's only so much of a short relationship!
The silver star like lime!
"The water has flowed and the flowers have missed the village."
The altruistic virtue still shines brightly in Kieu's soul:
|
Bài làm
Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhân nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa.
“Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều khi cuộc đời bị đẩy vào chốn lầu xanh bị đè ép dưới tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Nguyễn Du như xé lòng khi kể từng trang viết về cuộc đời Thúy Kiều, câu mở đầu như vén bức màn u tối mà Kiều đang phải sống những tháng ngày ô nhục trong đó:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Bằng cách sử dụng những hình ảnh ước lệ như “Bướm lả ong lơi” “cuộc vui”, “trận cười suốt đêm…đã hiện lên trước mắt người đọc cảnh ong bướm nhộn nhịp chốn lầu xanh kia. Nơi mà con người đem ra giống hàng hóa để trao đổi buôn bán làm thú vui xa hoa, cảnh làng chơi với các nhân vật Tống Ngọc và Trường Khanh thấy đậm nét hơn cuộc sống nơi đây. Người con gái nhỏ bé có số phận gắn với nơi này luôn ấp ủ trong mình một nỗi xót mà người đời không hay:
Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Nàng lấy rượu để giải sầu, để tâm hồn nàng được thoát khỏi nơi đây.Những lúc rượu tỉnh vào đêm khuya vắng nàng mới “giật mình” rồi tự “thương mình xót xa”. Phép điệp từ “mình” của Nguyễn Du đã gieo vào lòng người một nỗi xót xa, thương thay cho số phận người con gái long đong, bạc bẽo phải nương nhờ chốn phong trần.
Những câu thơ tiếp theo là những năm tháng khi thân xác nàng Kiều phải chịu nỗi dơ bẩn, tuyệt vọng:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bất thân
Số phận ấy không ai thương thay nên Thúy Kiều đành tự ôm nỗi lòng thương lấy chính mình mà chỉ biết sầu đau. Nguyễn Du lấy hình ảnh “hoa tàn” để nói lên cuộc đời bị chà đạp, vùi dập của người con gái mỏng manh. Người con gái đẹp như bông hoa đang nở rộ phơi sắc vậy mà cánh hoa bị dẫm đạp héo úa không chút thương xót. Qua đây tác giả cũng đã phê phán được xã hội bất công, xã hội còn tồn tại quá nhiều định kiến, chỉ toàn những cái xấu xa không cho người khác một đường để sống.
Thúy Kiều tuyệt vọng đến mức tưởng mình đã chết lặng:
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngâm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa
Giữa chốn lầu xanh nàng lấy thơ, lấy họa, lấy đàn làm bạn để không cảm thấy cô đơn, lạc long. Nhưng dù vậy thì lòng nàng cũng không khỏi u sầu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” không gian của nỗi buồn vẫn bao phủ lấy nàng khiến nỗi sầu gieo càng sầu thêm.
Nguyễn Du viết nàng Kiều tuy đã cố gắng “gượng” sống mà cũng như đã chết, đây thực sự là đoạn ám ảnh nói lên cuộc đời cay nghiệt:
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
|
Assignment
The great poet Nguyen Du wrote the masterpiece The Tale of Kieu as if he had contributed a shining pearl in Vietnamese literature. Turning each page of Kieu's story is like each life journey of a "beautiful and ill-fated" girl who has suffered a lot of pain and loss. The excerpt "My pity" is the most tragic excerpt about Kieu, making the reader feel sad.
"My Pity" tells the story of Thuy Kieu's series of days of pain and tears when her life was pushed into a world of oppression under the hands of the disgusting woman Tu Ba. Thuy Kieu's dirty and disgraceful life begins here. Nguyen Du's heart was torn as he told each page about Thuy Kieu's life. The opening sentence seemed to lift the dark curtain in which Kieu was living her disgraceful days:
So many fluttering butterflies
The fun was full of laughter all night long
The wind blows the leaves and the bird branches
Take Tong Ngoc as soon as possible to find Truong Khanh
By using conventional images such as "Butterflies flirting with bees", "fun", "laughing all night long... the bustling scene of bees and butterflies in that green house appears before the reader's eyes. A place where people bring out goods to exchange and trade for luxurious pleasures, the village scene with the characters Tong Ngoc and Truong Khanh is more vivid than the life here. The little girl whose fate is tied to this place always harbors a sadness that people do not know:
When you sober up, the watch ends
Startled, I feel sorry for myself
She took alcohol to relieve her sadness, so that her soul could escape this place. When she woke up late at night with alcohol, she would be "startled" and "feel sorry for herself". Nguyen Du's alliteration of the word "me" has sown a feeling of sadness and pity for the fate of a lonely and ungrateful girl who has to rely on a lonely place.
The next verses are about the years when Kieu's body suffered from filth and despair:
When the maple star is drooping
Now the stars are scattered like flowers in the middle of the road
The surface of the star is thick with wind and frost
The butterfly body is bored with the bee and the bee is unable to have a body
No one felt sorry for that fate, so Thuy Kieu had to embrace her feelings of pity for herself and only knew sadness. Nguyen Du used the image of "withered flowers" to express the trampled and crushed life of a fragile girl. The girl was as beautiful as a flower in full bloom, but the petals were trampled on and withered without any mercy. Through this, the author has also criticized an unjust society, a society that still has too many prejudices, only evil things that do not give others a way to live.
Thuy Kieu was so desperate that she thought she had died:
Asking for the wind is like a flower
Half a curtain of snow soaked all around the moon
Every scene is not sad
Sad scene where people have fun ever
Asking for lines to draw verses
The bow holds the moon and flags under the flowers
In the midst of the green world, she used poetry, painting, and the instrument as her friend so she wouldn't feel lonely or lost. But even so, her heart could not help but feel melancholy. "Sad people are never happy." The space of sadness still covered her, making the sadness even more sad.
Nguyen Du wrote that although Kieu tried to "force" herself to live, it was as if she had died. This is truly a haunting passage that speaks of the harshness of life:
Happiness is forced happiness
Whoever confidants is loyal to whom
|
Bài làm
Lấy cảm hứng chính trị và nghệ thuật Nguyễn Trãi – người anh hùng dân tộc đã làm nên bản tuyên ngôn độc lập thứ hai Bình Ngô đại cáo có sức ảnh hưởng đến muôn đời sau. Bài cáo vang lên như tiếng vang oai hùng khẳng định chủ quyền dân tộc đồng ca ngợi ý chí chiến thắng của quân và dân ta.
Một dân tộc thì cái quan trọng nhất là có chủ quyền, có lãnh thổ độc lập và chủ quyền ấy không một thế lực nào được xâm phạm. Trong bài cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định mạnh mẽ bờ cõi nước Nam đã chia, đất trời này là của nước Nam, sông núi này là của nước Nam:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Nguyễn Trãi dùng từ “như nước Đại Việt ta từ trước” bởi vì trước đây Lý Thường Kiệt đã từng khẳng định:
Sông núi nước Nam vua nam ở
Rành rành định phận tại sách trời.
Lãnh thổ của nước ta là do dân ta ở, do vua cai trị đây cũng được coi là điều tất lẽ đã được ghi ở sách trời. Đất nước được xây dựng và gìn giữ từ bao đời nay, trải qua hàng nghìn năm lịch sử trong công cuộc dựng nước những công lao to lớn của các vị minh quân không thể không kể đến:
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Chủ quyền của nước Việt Nam có được sự bền vững là nhờ công lao của những vị anh hùng dân tộc của các vị tướng quân tài giỏi đã lãnh đạo khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm đến cướp nước ta. Suốt mấy nghìn năm nhân dân đã đồng cam cộng khổ, chung một lòng đoàn kết dân tộc để bảo vệ bờ cõi nước nhà. Một làn sóng được kết lại thành sức mạnh không thể đánh gục, tuy là một nước bé nhưng ý chí và nghị lực không hề bé. Tinh thần quý báu này cần được học tập và phát huy ngay cả đến những thế hệ sau này. Lời khẳng định hùng hồn của nhà thơ Nguyễn Trãi:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt hối mà lại minh
Một dân tộc có được chủ quyền không chỉ đánh đổi bằng công sức mà thậm chí đã phải đánh đổi rất nhiều xương máu của biết bao người con đã ngã xuống. Một dân tộc phải chịu đựng gông xích của thực dân phong kiến, đế quốc tay sai bao năm qua, dân chúng chịu đựng trong cay đắng kiên trì đấu tranh và cuối cùng thì giang sơn cũng được “vững bền” và “đổi mới”. Bằng cách mượn hình ảnh có mức độ bao trùm cả vũ trụ đó là “càn khôn” và “nhật nguyệt” để diễn tả được sự trường tồn, sự thịnh vượng của một dân tộc đáng có.
Đến những câu thơ vẫn là khẳng định chủ quyền nhưng khẳng định một cách khiêm nhường đây không phải điều tự có mà là do chính công sức của nhân dân công sức của ông cha tổ tiên đi trước đã gây dựng đất nước mở mang bờ cõi để đến thế hệ sau tiếp nối bảo vệ bờ cõi đó:
Âu cũng nhờ trời đất, tổ tông khôn thiêng
Ngầm giúp đỡ mới được như vậy
Những đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta được Nguyễn Trãi nhắc đến khéo léo trong bài cáo đó là đạo lý nhớ nguồn một đạo lý cao đẹp của con người Việt Nam.
Đến những câu thơ cuối vang lên hào hùng như lời khẳng định đối với nền độc lập của nước nhà:
“Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
|
Assignment
Inspired by the politics and art of Nguyen Trai - the national hero who created the second declaration of independence, Binh Ngo Dai Cao, which has an impact for generations to come. The proclamation rang out like a majestic echo affirming national sovereignty and praising the will to win of our army and people.
The most important thing for a nation is to have sovereignty, to have an independent territory, and that sovereignty cannot be violated by any force. In his report, Nguyen Trai strongly affirmed that the territory of the South had been divided, this land and sky belonged to the South, these rivers and mountains belonged to the South:
“Like our Dai Viet country from before
Capital claims to be a long-standing civilization"
Nguyen Trai used the words "like our Dai Viet country before" because Ly Thuong Kiet previously asserted:
Rivers, mountains, and waters of the South live in the South
Clearly fate is in heaven's book.
Our country's territory is inhabited by our people and ruled by the king. This is also considered a given and written in the book of heaven. The country has been built and preserved for many generations, through thousands of years of history in the process of building the country, the great contributions of the wise men cannot be ignored:
From Trieu, Dinh, Ly, and Tran, many generations built independence
Along with Han, Tang, Song, and Yuan, each side declared their own emperor
Vietnam's sovereignty is sustainable thanks to the contributions of national heroes and talented generals who led uprisings to expel foreign invaders who came to rob our country. For thousands of years, people have shared the same suffering and solidarity to protect the homeland. A wave coalesced into an invincible power. Even though it is a small country, its will and determination are not small. This precious spirit needs to be learned and promoted even to future generations. Poet Nguyen Trai's eloquent assertion:
From now on, the society will be stable
Giang Son from here on innovates
He's so clever yet so cunning
Sun and moon repent but become clear
A nation gained sovereignty not only at the cost of effort but even at the cost of a lot of blood and blood of countless fallen children. A nation had to endure the shackles of feudal colonialism and imperialist henchmen for many years, the people endured bitterly and persistently struggled and in the end the country was "stable" and "innovated". . By borrowing images that cover the entire universe, "cosmos" and "sun and moon" to express the longevity and prosperity of a nation that they deserve.
The verses still affirm sovereignty, but humbly affirm that this is not something that exists by itself, but is due to the people's own efforts and the efforts of their ancestors who have built the country and expanded its borders. so that the next generation can continue to protect that land:
Europe also depends on heaven and earth, the ancestors are wise and sacred
That's the way to secretly help
The fine traditional morals of our nation that Nguyen Trai skillfully mentioned in the report are the moral of remembering the source, a noble morality of the Vietnamese people.
The last verses of the poem resonate heroically as an affirmation of the country's independence:
“A velvet robe of victory,
So the success has been glorious for thousands of years
The four seas are peaceful,
|
Bài làm
Tình yêu đôi lứa là một chủ đề khá quen thuộc không chỉ trong thơ văn mà còn trong ca cao dân ca. Tình yêu ấy đi vào thế giới ca dao như tiếng lòng thay lời muốn nói với bao tâm tư, tình cảm, ước nguyện rất bình dị. Bài “Khăn thương nhớ ai” được coi như một tuyệt tác trong kho tàng văn học dân gian Việt từ ngàn đời xưa vẫn được gìn giữ lưu truyền đến ngày nay.
Hình ảnh chiếc khăn xuất hiện rất nhiều trong thơ ca hò vè gắn liền với đời sống lao động thường ngày của người dân. Hình ảnh ấy không phải ngẫu nhiên mà bài ca dao nhớ tới tới cái tên “khăn thương nhớ ai” bởi chiếc khăn như ngọn nguồn khởi đầu cho nỗi nhớ, nỗi niềm của một cô gái e lệ với tình yêu của mình. Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng phép lặp nhiều nhất với cụm từ dường như là câu hỏi tự tình “khăn thương nhớ ai”:
Khăn thương nhớ ai?
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai?
Khăn chùi nước mắt
Hình ảnh chiếc khăn lại trở đi trở lại rất nhiều lần trong bài như một điệp khúc thể hiện nỗi nhớ thương triền miên, da diết khôn nguôi. Tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng nhất nó chứa đựng đủ mọi cảm xúc đôi lứa có giận, có hờn, có vui, có buồn…đặc biệt là nỗi nhớ tương tư của đôi trai gái yêu nhau. Trong tình yêu chiếc khăn thường là vật trao duyên để níu giữ những kỉ niệm và cũng thay cho lời hứa hẹn của người ra đi với người ở lại. Chiếc khăn ngày xưa là vật gần gũi gắn liền quấn quýt với người con gái, hình ảnh chiếc khăn trong bài được nhân hóa chiếc khăn như có tâm hồn, có cảm xúc, biết thương, biết nhớ: khăn thương ai, khăn nhớ ai? Tác giả dân gian qua đó muốn ngầm diễn đạt chính tâm trạng của nhân vật cô gái một tâm trạng nhung nhớ, chờ đợi người yêu của mình. Ba lần đặt câu hỏi là ba lần nỗi nhớ trùm kín lên cảm xúc như trăm mối dây tơ đang quấn quanh trái tim của họ, mỗi lần là một trạng thái nỗi nhớ thêm đầy, được tăng cấp độ: khăn rơi xuống đất, rồi khăn vắt lên vai và cao độ nhất của nỗi nhớ cảm xúc của cô gái khi những giọt nước mắt lăn dài trên má.
Sáu dòng thơ ngắn ngủi nhưng đã diễn đạt được nỗi bâng khuâng da diết của người con gái vừa kín đáo vừa mạnh mẽ đối với người con trai khi cách trở. Hình ảnh người phụ nữ hiện diện trong bài ca dao có vẻ như đã thoát ra cái khuôn phép chật hẹp của truyền thống để đắm chìm trong nỗi nhớ, trong tình yêu thực tại.
Đến với những câu thơ tiếp theo hình ảnh ngọn đèn đã trở thành biểu tượng cho nỗi nhớ đong đầy chan chứa hơn bao giờ hết:
“Đền thương nhớ ai
Mà đèn không tắt”
Vẫn bằng cách dùng phép nhân hóa đã biến những vật vô tri vô giác trở nên có cảm xúc như con người, mang một biểu tượng cho nỗi nhớ, nỗi nhớ được trải ra theo không gian và thời gian. Ngọn đèn không tắt đó là biểu tượng cho ngọn đèn trong tim của người con gái luôn cháy âm ỉ luôn hướng về tình yêu đích. Người con gái vẫn đang trằn trọc trong đêm thâu nhớ mong đằng đẵng về phía người tình ra đi để thấy ngày trở về.
Sự phân thân trong tâm trạng của cô gái được tác giả dân gian thể hiện qua từng hình ảnh chiếc khăn, ngọn đèn và đến khi cảm xúc của cô như muốn bộc bạch hết không che giấu thì nỗi nhớ ấy đã được chuyển sang bằng cách cô tự hỏi chính mình:
“Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
|
Assignment
Couple love is a familiar topic not only in poetry but also in folk songs. That love enters the world of folk songs like the voice of the heart replacing the words it wants to say with many very simple thoughts, feelings, and wishes. The song "The Towel Remembers Someone" is considered a masterpiece in the treasury of Vietnamese folk literature from thousands of years ago and is still preserved and passed down to this day.
The image of the scarf appears a lot in poetry and rhymes associated with the daily working life of people. That image is not a coincidence, but the folk song recalls the name "scarf missing someone" because the scarf is like the starting point for nostalgia, the feelings of a girl who is shy about her love. The author was very subtle when using the most repetition with the phrase that seems to be a love question "who do you miss so hard":
Who do you miss?
The towel fell to the ground
I miss someone
Towel draped over shoulder
Who do you miss?
Towel to wipe away tears
The image of the scarf returns many times in the song like a chorus expressing the constant, inconsolable longing. Love is the most sacred emotion, it contains all the emotions of a couple: anger, resentment, joy, sadness... especially the nostalgia of a couple in love. In love, the scarf is often a gift to hold on to memories and also represents a promise between the person leaving and the person staying. In the past, the scarf was a close object that was closely associated with a girl. The image of the scarf in the article is personified as having a soul, having emotions, knowing how to love and remember: the scarf loves someone, the scarf remembers someone. ? The folk author thereby wanted to implicitly express the mood of the girl character, a mood of longing and waiting for her lover. The three times the question is asked is three times the nostalgia covers the emotions like a hundred silk threads wrapping around their hearts, each time is a state of nostalgia that is filled up, increased in level: the towel falls to the ground, then The scarf was draped over her shoulder and the girl's emotional nostalgia was at its peak as tears rolled down her cheeks.
The six lines of the poem are short but express the deep feelings of a girl who is both discreet and strong towards the boy when they are separated. The image of the woman present in the folk song seems to have escaped the narrow framework of tradition to immerse herself in nostalgia and real love.
Coming to the next verses, the image of the lamp has become a symbol of nostalgia more filled than ever:
“The temple misses someone
But the light doesn't turn off."
Still using anthropomorphism, inanimate objects have turned into human-like emotions, bringing a symbol of nostalgia, the nostalgia is spread out over space and time. That unextinguished light symbolizes the light in a girl's heart that always burns smolderingly towards her true love. The girl is still tossing and turning in the night, longing for her departed lover to see the day she returns.
The separation of the girl's mood was expressed by the folk author through each image of a scarf and a lamp, and when her emotions seemed to be expressed without concealment, that nostalgia was transformed by she asked herself:
“My eyes miss someone
Eyes sleep restlessly
Last night I was worried
Worrying about something that is not at peace."
|
Bài làm
Nhà thơ Nguyễn Du đã để lại một gia tài thi ca phong phú cho nền văn học Việt Nam, ông được xếp vào một trong những bậc tài nhân, đại thi hào của dân tộc. Sáng tác chủ yếu của Nguyễn Du là chữ Hán, “Độc tiểu thanh kí” là bài thơ đặc sắc mang đậm nỗi niềm tâm tư, bày tỏ sự day dứt cũng như lòng thương mình, thương người của ông.
Trong văn thơ trung đại thì hình ảnh người phụ nữ là chủ đề được nhiều thi sĩ lựa chọn sáng tác, nhưng đặc biệt viết về những người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” đó là hình ảnh quen thuộc. Nhắc đến Nguyễn Du thì không thể không kể đến công trình nghệ thuật “Truyện Kiều” đã nói rất sâu sắc về nỗi đau, nói về một kiếp người trong xã hội. Qua đó người đọc thấy được thế giới tâm hồn đậm chất tình trong con người của Nguyễn Du. Đến với “Độc tiểu thanh kí” số phận người phụ nữ trong xã hội càng được cảm thông, thương xót.
Bài thơ được lấy cảm hứng từ câu chuyện hết sức cảm động của một người con gái sống vào đầu thời Minh, gia cảnh nghèo khó nàng buộc gả vào một gia đình giàu có làm vợ lẽ. Cuộc đời nàng như rẽ sang một con đường tăm tối khi chịu số phận làm lẽ côi cút trong ngôi nhà ở núi Côn Sơn đến hết đời. Tức cảnh sinh tình, trong những năm tháng ở đó bà đã tự sáng tác hàng trăm bài thơ như thay lời bộc bạch tâm sự của mình, nhưng sau đó do ghen tuông những tập thơ ấy bị vợ cả đốt đi hết chỉ còn sót lại một số bài đến mãi sau này, người ta ghép lại ghi chép được một phần đời oan nghiệt của thân phận người phụ nữ này.
Với sự đa cảm của bậc thi sĩ, Nguyễn Du khi người đọc được những trang thơ ấy đã tức cảnh sáng tác nên bài thơ “Độc tiểu thanh kí” vô cùng xúc động. Mở đầu bài thơ ông đã gợi cho người đọc được chính nơi nàng Tiểu Thanh sinh sống:
“Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.
Chỉ bằng hai câu thơ nhưng nó lại có sức ám ảnh rất lớn khiến ta có thể nhìn thấy được khung cảnh xa xăm nơi người con gái bạc bệnh đang sống. Tây Hồ là nơi cảnh đẹp hữu tình nhưng nay chỉ còn những phế tích, hoang tàn, đã hóa “gò hoang” vì người con gái đã chôn vùi tuổi thanh xuân của mình ở nơi này. Những tâm sự của nàng đã giãi bày qua những vần thơ đẫm nước mắt. Hình ảnh người con gái có chồng cũng như không vẫn chịu cảnh cô đơn một mình vò võ, “thổn thức” bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn chỉ biết viết nên tâm sự đau lòng qua đó. Nỗi buồn “có chồng hờ hững cũng như không”, cuộc đời của những người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa trong xã hội phong kiến dường như đều bị chà đạp như thế. Chữ “tận” ở đây mang nghĩa là kết thúc, là kiệt cùng bao trùm lên cảnh vật là một màu sắc tang thương, đâu buồn.
Nơi gò hoang đây chỉ còn lại nấm mồ người con gái bạc mệnh và một mảnh giấy tàn (nhất chi thư). Một mình nhà thơ đứng lặng trước cửa sổ đọc “mảnh giấy tàn” điếu người xấu số. Cảm thương cho cuộc đời bể dâu, thương cho thân phận của nàng Tiểu Thanh cũng như Nguyễn Du đang thương mình. Sự đồng cảm của người đang sống với người đã khuất, của khách tài tử với giai nhân bạc mệnh. Sau hơn ba trăm năm nàng Tiểu Thanh mất mà “mảnh giấy tàn” vẫn làm cho trái tim Nguyễn Du thổn thức, rơi lệ:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chươngvô mệnh lụy phần dư”.
“ Chi phấn” hiện diện cho sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Tiểu Thanh còn “văn chương” là hiện thân cho tài năng của nàng. Ấy vậy son phấn có thần sai khi chết người ta còn xót thương, tiếc nuối, văn chương còn có số mệnh gì mà người ta phải bận lòng về những bài thơ kia sau khi bị đốt. Số phận của nàng Tiểu Thanh cũng giống như bậc tài sắc Tây Phi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi…Nhà thơ Nguyễn Du không chỉ ca ngợi tài sắc của nàng mà còn thể hiện được nỗi ân hận ngàn đời của nàng, của những hồng nhan bạc mệnh đang trôi nổi giữa đời.
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư”.
Hai câu thơ cất lên thay cho lời ai oán, tuyệt vọng hỏi trời cao, trời không thấu, trách kẻ bạc tình, người không hay. Câu thơ văng vẳng đầy chua xót cho người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp từ xưa đến nay dường như đã mang trong mình cái án oan nghiệt. Sâu xa hơn Nguyễn Du ngầm nói lên chính cái xã hội phong kiến thối nát đã buộc đẩy những con người như vậy vào bước đường cùng, không cho họ được sống một cách đúng nghĩa. Số phận của người con gái trong xã hội luôn bị kì thị, vùi dập chịu nhiều chua cay. Đã bao đời nay cái án phong lưu đã đeo đẳng vô số tao nhân mặc khách.
Thương nàng Tiểu Thanh bao nhiêu thì ông càng thương mình mấy nhiêu. Câu hỏi tu từ đầy ngậm ngùi vang lên ở cuối thiên truyện như lời tự thương đau xót:
|
Assignment
Poet Nguyen Du left behind a rich poetic legacy for Vietnamese literature. He is considered one of the nation's great talents and poets. Nguyen Du's main compositions are in Chinese, "Doc Tieu Thanh Ky" is a unique poem imbued with deep feelings, expressing his torment as well as his love for himself and others.
In medieval poetry, the image of women is the topic chosen by many poets, but especially writing about "talented and ill-fated" women is a familiar image. When talking about Nguyen Du, it is impossible not to mention the art work "The Tale of Kieu" that speaks deeply about pain, about a human life in society. Through this, readers can see the emotional world of Nguyen Du's soul. Coming to "Doc Tieu Thanh Ky", the fate of women in society is even more sympathetic and merciful.
The poem was inspired by the touching story of a girl living in the early Ming Dynasty. Her poor family background was forced to marry her into a rich family as a concubine. Her life seemed to turn on a dark path when she was destined to be an orphan in the house in Con Son mountain for the rest of her life. Feeling angry, during the years there she composed hundreds of poems as if to express her feelings, but then due to jealousy, those poetry books were burned by her first wife, all that remained was Some articles were put together much later to record part of the cruel life of this woman.
With the sentimentality of a poet, Nguyen Du, when readers read those pages, immediately composed the poem "Doc Tieu Thanh Ky" which was extremely moving. At the beginning of the poem, he reminds the reader of where Tieu Thanh lives:
"Western Lake's flowers are exhausted,
One single song, but the most money, the most important letter."
It's only two lines of poetry, but it has a very haunting power that allows us to see the distant scene where the sick girl lives. Tay Ho is a place of charming beauty, but now there are only ruins and ruins, which have turned into "wild mounds" because the girl buried her youth in this place. Her feelings were expressed through tearful poems. The image of a girl, whether married or not, still suffers from loneliness, struggling alone, "sobbing" by the window with pieces of paper that she can only write, creating her heartbreaking feelings. The sadness of "having an indifferent husband is the same as having nothing", the lives of beautiful and talented women in feudal society seem to be trampled like that. The word "end" here means the end, the end, covering the landscape with a color of mourning and sadness.
In this deserted mound, only the grave of the unfortunate girl and a piece of paper (the first book) remain. The poet alone stood silently in front of the window reading "a piece of paper" to mourn the unfortunate person. Feeling sorry for Tieu Thanh's miserable life, feeling sorry for Tieu Thanh's fate just like Nguyen Du feels sorry for him. The sympathy of the living with the deceased, of the actors and actresses with the doomed beauties. After more than three hundred years of Miss Tieu Thanh's death, the "ruined piece of paper" still makes Nguyen Du's heart sob and shed tears:
“The godly lotus pollen,
Literature has nothing to do with the rest."
"Phantom" represents Tieu Thanh's beauty, while "literature" represents her talent. Yet, when people die, people still feel pity and regret when they die. What fate does literature have that people have to worry about those poems after they were burned? Tieu Thanh's fate is similar to that of the talented West Africans, Chieu Quan, Duong Quy Phi... Poet Nguyen Du not only praised her talent but also expressed her eternal regret, of the red roses. Fate is floating in the middle of life.
“Ancient and present hate the troubles of the past,
Interview self settled down for an injustice".
The two verses are sung instead of lamenting, desperately asking the sky, the sky does not understand, blaming the ungrateful, the unknowing. The poem resonates bitterly for the talented and beautiful woman from past to present who seems to have carried a cruel sentence. More deeply, Nguyen Du implicitly said that it was the corrupt feudal society that forced such people into the dead end, not allowing them to live properly. The fate of girls in society is always discriminated against and tormented by many bitter things. For many generations, the sentence of vanity has haunted countless people.
The more he loves Tieu Thanh, the more he loves himself. The pitiful rhetorical question resounds at the end of the story like a painful self-pity:
|
Bài làm
“Truyền kì mạn lục” được coi như một thiên cổ kì bút của Nguyễn Dữ gồm 20 tập truyện, đây là viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam trung đại được lưu giữ đến ngày nay. “Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên” là một trong những truyện đặc sắc nhất, truyện một mặt ca ngợi tính kiên trực, nghĩa khí, đề cao phẩm chất kẻ sĩ, mặt khác đã phản ánh sâu sắc được hiện thực xã hội phong kiến, tội ác của lũ cầm quyền, lũ cướp nước.
Câu chuyện mà Nguyễn Dữ viết có chút khác biệt so với những truyện thông thường khác, ông đã chọn một cao trào để mở màn cho câu chuyện của mình khi đặt nhân vật với hành động châm lửa đốt đền thiêng, khai thác nhân vật từ một khía cạnh sâu sắc nhất đây là ngọn nguồn khởi đầu cho mâu thuẫn nảy nở.
Bộ truyện “truyền kì mạn lục” được sáng tác trong thời gian xã hội phong kiến Việt nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng nhân dân bất bình với giai cấp cầm quyền, dân sinh không còn được hưởng thái bình như thời vua Lê Thánh Tông ngự trị, một xã hội rối loạn. Đứng trước cảnh đời như vậy Nguyễn Dữ đã chọn cho mình cách lui về ở ẩn muốn thoát khỏi kiếp sống phù phiếm, sa hoa, giả dối để được sống cuộc sống thực không bon chen chốn quan trường. Đồng thời cách lựa chọn ấy cũng thể hiện nổi bật được cốt cách, quan niệm sống của ông và lối sống thanh bạch của một thi sĩ chính trực. Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên được theo thể văn xuôi truyền kì, đây là lối viết phản ánh được hiện thực xã hội qua những yếu tố kì ảo, hoang đường. Nhân vật trong truyện gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, các nhân vật có quan hệ mật thiết gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng có thể xâm nhập được vào thế giới của nhau.
Nhân vật chính của truyện xuất hiện ban đầu với những dòng giới thiệu rất nhanh gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn là người có những phẩm chất giống như một anh hùng, lòng cương trực, thẳng thắn, khẳng khái nhưng có phần nóng nảy, người luôn thấy việc gian tà thì bất bình, luôn lo cho dân cho nước. Hành động của Ngô Tử Văn đã minh chứng cho những đức tính ấy, cho dù tất cả mọi người đều lắc đầu, sợ hãi không dám động chạm đến quỷ thần ở ngôi đền hàng ngày vẫn quấy nhiễu nhân dân, nhưng anh chàng kiên quyết đường hoàng với thư thái ung dung, tắm rửa sạch sẽ khấn trời rồi cầm ngòi châm lửa đốt đền thiêng. Một hành động đỉnh điểm đốt cháy giai đoạn trong truyện đã thấy được khao khát muốn trừ ma tà, trừ hại cho dân, niềm tin của anh chàng Ngô Tử Văn vào chính nghĩa đã chứng tỏ được cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.
|
Assignment
"The Legend of Man Luc" is considered an ancient period of writing by Nguyen Du consisting of 20 volumes of stories, this is a precious gem in the treasury of medieval Vietnamese literature preserved to this day. "The Story of the Judge at Tan Vien Temple" is one of the most unique stories. On the one hand, the story praises integrity, righteousness, and promotes the qualities of a scholar, and on the other hand, it deeply reflects social reality. feudalism, crimes of the rulers, and country robbers.
The story that Nguyen Du wrote is a little different from other common stories. He chose a climax to open his story when he placed the character in the act of setting fire to the sacred temple, exploiting the character from the story. The most profound aspect is that this is the starting point for conflicts to develop.
The series "Man Luc Legend" was composed during a time when Vietnam's feudal society fell into recession, a crisis of people's discontent with the ruling class, and the people no longer enjoyed peace like during the time of King Le Thanh. Tong reigns, a chaotic society. Faced with such a life situation, Nguyen Du chose to retreat and live in seclusion, wanting to escape a life of frivolity, luxury, and lies to live a real life without the hustle and bustle of officialdom. At the same time, that choice also prominently demonstrates his personality, concept of life and the pure lifestyle of an upright poet. The story of the magistrate at Tan Vien temple is in the form of legendary prose, this is a writing style that reflects social reality through fantasy and mythical elements. Characters in the story include humans, demons, gods, characters who are closely related to each other, they can penetrate each other's world.
The main character of the story initially appears with very quick introductions about his name, hometown, personality, and qualities. Ngo Tu Van is a person with the same qualities as a hero, upright, straightforward, assertive but somewhat hot-tempered, someone who always sees evil and is dissatisfied, always worried about the people and the country. Ngo Tu Van's actions demonstrated those qualities. Even though everyone shook their heads, afraid to touch the demons and gods at the temple that still harassed the people every day, he was determined. Be dignified and leisurely, take a bath, pray to heaven, then light a fire to burn the sacred temple. A climactic action ignites the stage in the story that shows Ngo Tu Van's desire to eliminate evil spirits and harm the people. Ngo Tu Van's belief in justice proves the noble character of a scholar.
|
Bài làm
Trong công việc hay trong cuộc sống, có nhiều điều mà chúng ta chưa biết. Tuy nhiên, nhiều người vì tính sĩ diện hoặc sợ người khác nghĩ mình là dốt nên cứ cố giấu. Thực ra điều đó rất nguy hiểm vì kẻ giấu dốt thì thiệt hại cho bản thân vì sự thiếu hiểu biết của mình, không can đảm học hỏi, không can đảm thừa nhận khuyết điểm nên ngày càng xuống dốc, càng thiếu kiến thức. Chính vì thể mà phương Tây mới có câu: “Hỏi một câu, chỉ dốt nát trong chốc lát. Không hỏi sẽ dốt nát cả đời”.
Vậy thì lí do tại sao người ta lại cố tình “giấu dốt”? Nếu trong công việc của mình, bạn gặp những trở ngại mà chưa thể có cách giải quyết, bạn sẽ làm thế nào? Bạn sẽ nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp hay sẽ tự tìm cách giải quyết? Việc chọn phương thức xử lý cho vấn đề trên sẽ tiết lộ bạn là người như thế nào. Nếu bạn nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp, bạn là một người ham học hỏi và ngược lại? Thật ra, có nhiều trường họp gặp khó khăn trong công việc nhưng không dám nói ra vì sợ bị chê cười là người thiếu hiểu biết. Điều đó càng chứng tỏ rằng, bạn muốn giấu sự thiếu hiểu biết của mình hom là học hỏi. Trên thực tế, không phải ai cũng là người hoàn hảo và biết tất cả mọi thứ, chính vì thế nếu bạn tỏ ý cầu thị sự giúp đỡ của người khác, điều đó không chỉ giúp bạn có thêm kiến thức mà còn là cầu nối với người khác.
Vậy bạn có phải là một người vượt qua được mặc cảm của bản thân để “phơi bày” ra sự không tốt của mình, như người xưa thường nói ai lại “vạch áo cho người xem lưng”. Điều này trước hết liên quan đến việc bạn cần phải có lòng dũng cảm đế vượt qua bản thân mình. “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất”. Với những người chưa hiểu biết nhiều và tâm lí sợ bị người khác chê cười hoặc bị người khác đánh giá thấp càng nặng nề. Nếu cứ kéo dài mãi tình trạng này, bạn vừa mất nhiều thời gian cho công việc, vừa dễ bị cô lập trong công đồng lớn. Nhưng nếu bạn biết cách vượt qua rào cản này, bạn sẽ nhanh chóng lấp đầy được khoảng trống của sự thiếu hiểu biết, một câu nói đơn giản “xin lỗi, vấn đề này tôi chưa biết, mong nhận được sự giúp đỡ của các bạn” đôi khi được nhiều hơn cả kiến thức căn bản, đó là chìa khóa thành công cho công việc và những mối quan hệ trong cuộc sống.
Trong cuộc sống, không phải ai cũng hoàn hảo, không phải ai cũng là người giỏi tất cả các kiến thức những vấn đề khác nhau, thế nên mới có chuyện một giáo sư sử học nổi tiếng nhận người bán rau là thầy. Bởi vì bà bán rau mang đến cho ông một khối kiến thức về cuộc sống ngày thường mà ông chưa biết đến. Vậy mới biết, người có học thức thật sự là người biết học
hỏi tất cả những gì họ chưa biết, có thể bạn có nhiều kiến thức nhưng không gì có thể bảo rằng, bạn biết hết kiến thức trên đời.
Một người mẹ từng tâm sự “năm nay con mình bắt đầu học môn lịch sử, hôm qua con mình hỏi Yet Kiêu là ai hả mẹ? Thời kì phong kiến của nước ta có những cuộc khởi nghĩa nào? Mình không biết trả lời con thế nào, bởi thật sự mình không có kiến thức về vấn đề ấy. Chã nhẽ lại giở lại sách để không bị ngượng với con cái?”
|
Assignment
In work or in life, there are many things that we do not know. However, many people, out of pride or fear of others thinking they are stupid, try to hide it. In fact, it is very dangerous because those who hide their ignorance damage themselves because of their ignorance, do not have the courage to learn, do not have the courage to admit their shortcomings, so they increasingly decline and lack knowledge. That's why there's a saying in the West: "If you ask a question, you'll only be ignorant for a moment." If you don't ask, you will be ignorant for the rest of your life."
So why do people deliberately "hide their ignorance"? If in your work you encounter obstacles that cannot be resolved, what will you do? Will you ask your colleagues for help or will you find a solution yourself? Choosing how to handle the above problem will reveal what kind of person you are. If you ask for help from a colleague, are you a keen learner and vice versa? In fact, there are many cases where people have difficulties at work but do not dare to speak out because they are afraid of being ridiculed for being ignorant. That further proves that you want to hide your ignorance rather than learn. In reality, not everyone is perfect and knows everything, so if you ask for help from others, it will not only help you gain more knowledge but also serve as a bridge. with other people.
So are you a person who can overcome your own inferiority complex to "expose" your badness, as the ancients often said, who would "reveal their clothes for others to see?" This is first of all related to the need for you to have the courage to overcome yourself. "Victory over yourself is the most glorious victory." For those who do not know much, the fear of being laughed at or underestimated by others is even more severe. If this situation continues, you will both lose a lot of time at work and easily become isolated in the large community. But if you know how to overcome this barrier, you will quickly fill the gap of ignorance, with a simple saying "sorry, I don't know about this problem, I hope to receive your help." "you" sometimes gain more than basic knowledge, which is the key to success in work and relationships in life.
In life, not everyone is perfect, not everyone is good at all knowledge of different issues, that's why a famous history professor recognized a vegetable seller as his teacher. Because the vegetable seller brought him a wealth of knowledge about everyday life that he did not know. So we know, truly educated people are people who know how to learn
Ask everything they don't know, you may have a lot of knowledge but nothing can say that you know all the knowledge in the world.
A mother once confided, "This year my child started studying history. Yesterday my child asked who Yet Kieu is, mom?" What uprisings were there during our country's feudal period? I don't know how to answer you, because I really have no knowledge about that issue. Why don't you go back to the book so you don't get embarrassed with your children?"
|
Bài làm
Lứa tuổi học trò của chúng ta, ai mà chằng có những ngày tựu trường vui vẻ cùng với bạn bè, người thân, thầy cô. Ai mà chẳng có những cảm xúc mới lạ khi ngày đầu tiên được đi học. Và tôi cũng vậy, mặc dù đã bao lần được đón ngày khai giảng, đã bao lần được vui vẻ cắp sách đến trường nhưng sao lần này thì lạ quá! Cảm giác dường như lần đầu tiên được đi học vây. Bởi, đây là lần đầu tiên tôi bước chân vào ngôi trường này – trường THPT thị xã Quảng Trị.
Từ lúc còn học cấp hai, đã biết bao lần tôi mo ước được học dưới mái trường này, rồi cứ thếtôi cứ thầm nghĩ và nuôi hi vọng rằng mình sẽ được học ở đây, ở ngôi trường với nhiều bề dày thành tích như thếnày! Thời gian dần trôi, mọi sự cố gắng nổ lực của tôi đã thành công, tôi đã đậu cấp ba. Ngôi trường mà tôi đã được vào không nơi nào khác chính là người THPT thị xã Quảng Trị – nơi tôi đã hằng ao ước bao lâu nay. Cảm giác khi nghe tin được học ờ đây và may mắn hơn nữa là được xếp vào lớp 10A2 lại càng khiên tâm trạng của tôi thêm phấn chân, mừng rỡ.
Ngày đầu tiên đi học, lòng tôi bỗng rối bời và bỡ ngỡ làm sao! Lúc đó, tôi chi muôn có ai bên cạnh nắm tay và đưa vào lớp. Thật là giông một cô bé quá con nít phải không? Bao năm nay, tôi đã quen tựu trường dưới ngôi trường cấp hai quen thuộc và thân thương của mình. Tôi cứ suy nghĩ về những hàng cây, ghế đá… nơi mà chúng tôi đã từng nô đùa, vui chơi ở đó. Nhưng bây giờ thì khác, tôi chẳng có những hình ảnh nào quen thuộc, thân thương như trước kia nữa. Bời, đây là lần đầu tiên tôi bước vào ngôi trường này.
Đứng trước cổng trường, ngôi trường đã hiện ra trước mắt tôi. Đó là một dãy nhà ba lầu y như là một tòa lâu đài to lớn vậy. Chắc tại bỡ ngỡ quá nên tôi mới nghĩ như thế. Nhưng sao những bước chân nặng nề đến thế. Tại sao tôi không bước nổi? Mọi người khác đều có thế làm được kia mà, tôi cũng phải dũng cảm lên chứ! Dọc đường, tôi cứ thầm mong rằng lớp học sẽ có những bạn cũ của mình. Nhưng không, xung quanh tôi đây, trong cái lớp học này, chi toàn là những gương mặt mới lạ mà thôi. Tôi bắt đầu cảm thây sợ! Nhưng nỗi sợ hãi đó đã tan nhanh đi khi những người bạn mới đã vui vẻ chuyện trò và bắt chuyện cùng với tôi. Tất cả họ thầm cảm ơn trời đã cho tôi quen với những cô cậu học sinh này.
|
Assignment
At our student age, who doesn't have happy back-to-school days with friends, relatives, and teachers. Everyone doesn't have new emotions on the first day of school. And so am I. Even though I've welcomed the first day of school many times and happily went to school, this time is so strange! It feels like going to school for the first time. Because, this is the first time I stepped foot into this school - Quang Tri Town High School.
Since I was in middle school, I have wished so many times to study at this school, and then I keep thinking and holding out hope that I will be able to study here, at a school with many achievements like this. ! Time passed, all my efforts were successful, I passed high school. The school that I entered was none other than Quang Tri town high school - a place I had always wanted for a long time. The feeling when I heard that I could study here and was even luckier to be placed in class 10A2 made my mood even more excited and happy.
On the first day of school, I suddenly felt confused and confused! At that time, I just wanted someone next to me to hold my hand and take me to class. It really looks like such a childish little girl, right? For many years now, I have been used to starting school at my familiar and beloved middle school. I keep thinking about the rows of trees, benches... where we used to play and have fun. But now it's different, I don't have any familiar and dear images like before. Because, this is the first time I entered this school.
Standing in front of the school gate, the school appeared before my eyes. It was a row of three-story houses that looked like a huge castle. Maybe because I was so confused that I thought like that. But why are the steps so heavy? Why can't I walk? Everyone else can do it, I have to be brave too! Along the way, I secretly hoped that the class would have my old friends. But no, around me, in this classroom, there are only new faces. I'm starting to feel scared! But that fear quickly disappeared when new friends happily chatted and started chatting with me. They all silently thanked God for allowing me to get to know these students.
|
Bài làm
Với tuổi học trò, ai cũng có cái nao nao của buổi tựu trường, Nhưng lần này, tôi tự nhiên thấy lạ: lần đầu tiên tôi đến với mái trường THPT.Bao niềm vui, sự hảnh diện và cả sự rụt rè bỡ ngỡ cứ xen lẫn trong tôi với nhũng ấn tượng sẽ đọng lại mãi trong lòng.
Ngày đầu tiên đến trường – đó là một ngày nắng ấm, khí trời dìu dịu êm ái, theo sự thông báo của nhà trường, tôi đã chuẩn bị đủ tất cả mọi thứ nào là quần áo, giày dép, tập sách…. Nhưng lòng tôi vẫn cứ xôn xao khó tả. Bởi trước mắt tôi lúc này là một khung trời mới: bạn bè, thầy cô, trường lớp… đều mới tinh.Trong những năm trước, sau ba tháng hè nghỉ học, chúng tôi lại trở về mái trừơng thân quen với những hàng cây, ghế đá,..in đậm bao kỹ niệm của những lần nô đùa cùng bè bạn. Còn năm nay, tôi đã bước chân vào ngưỡng cửa cấp ba – một chân trời hoàn toàn mới lạ. Ngôi trường tôi học năm nay rất khang trang, và không gian thoáng đãng..Từ cổng trường là một hàng cây me già rợp bóng mát dẫn lối vào các dãy phòng học ba tầng uy nghi, đẹp đẽ. Nào là hàng cây, phòng học, cột cờ ….tất cả đều dập vào mắt tôi, khiến lòng không thể nén lại được cảm xúc ngỡ ngàng, bao niềm vui sướng và tôi đã thốt lên: “Ôi! Ngôi trường đẹp quá!”.
Chúng tôi, các lớp 10 cũng như anh chị lớp 11 dược phân công về các lớp. Tôi thầm ước sao cho mình có thể học chung với một số người bạn cũ. Tiếc thay, lớp tôi học hoàn toàn là bạn lạ. “Nhưng dần rồi mình cũng sẽ quen với những bạn ấy thôi” – Tôi tự an ủi mình như thế. Sau mấy phút bỡ ngỡ ban đầu, tôi thấy cô giáo chủ nhiệm bước vào. Dáng đi, hình ảnh của cô làm cho tôi gợi nhớ về cô giáo chủ nhiệm năm lớp 9.Vẫn một dáng người thon thả, đôi mắt hìên lành, mái tóc đen dài.. Chính hình ảnh có của cô đã làm cho tôi phần nào bớt đi sự lo lắng vì xung quanh tôi toàn là bạn lạ. Lởi đầu tiên cô nói với chúng tôi là những lời dạy bảo ân cần về ý thức và trách nhiệm đối với bản thân, trường, lớp, trong học tập và rèn luyện trong năm học đầu tiên của ngưỡng cửa cấp ba.Tôi nghĩ đó là bài học đầu tiên mà tôi có thể có được ở ngôi trường mới này..
|
Assignment
As students, everyone has the feeling of returning to school. But this time, I suddenly felt strange: it was my first time coming to a high school. There was so much joy, pride, and even shyness and confusion. keep mixed in me with impressions that will stay forever in my heart.
The first day of school - it was a warm sunny day, the air was gentle, according to the school's announcement, I had prepared everything including clothes, shoes, books... But my heart is still indescribably excited. Because right now before my eyes is a new sky: friends, teachers, school... all are brand new. In previous years, after three months of summer break from school, we returned to the familiar roof with rows of trees. , stone benches,... imprinted with many memories of times playing with friends. This year, I have entered the threshold of high school - a completely new horizon. The school I attended this year is very spacious, and the space is airy. From the school gate is a row of shady old tamarind trees leading the way to the majestic, beautiful three-story classroom blocks. The rows of trees, the classrooms, the flagpoles...all caught my eye, making me unable to suppress my feelings of surprise and joy and I exclaimed: "Oh! The school is so beautiful!”.
We, the 10th graders as well as the 11th graders, were assigned to classes. I secretly wished that I could study with some old friends. Unfortunately, the class I was in was completely strange. "But eventually I will get used to those friends" - I comforted myself like that. After a few minutes of initial confusion, I saw the homeroom teacher enter. Her gait and image remind me of my homeroom teacher in 9th grade. Still a slim figure, kind eyes, long black hair... It was her image that made me feel attracted to her. I don't feel any less worried because I'm surrounded by strange friends. The first words she told us were thoughtful teachings about awareness and responsibility for oneself, school, class, and in studying and training during the first year of high school. I think that's it. is the first lesson I can get at this new school..
|
Hướng dẫn
Phương thức miêu tả nhân vật và ngôn ngữ tự sự trong Truyện Lục Văn Tiên:
– Nhân vật chủ yếu được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói. Truyện Lục Vân Tiên được sáng tác ban đầu để đọc, rồi để chép lại, sau đó phổ biến trong dân gian, chủ yếu bằng cách kể. Do đó, khi miêu tả nhân vật, tác giả ít chú ý khắc họa chi tiết về ngoại hình, ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, ít trau chuốt tỉ mỉ về ngôn từ. Hai nhân vật chính Vân Tiên và Nguyệt Nga cũng được giới thiệu bằng vài nét ước lệ: Vân Tiên tài kiêm văn võ, nhân nghĩa, trung hiếu; Nguyệt Nga vóc ngọc mình vàng, má đào mày liễu, tiết hạnh thuỷ chung.
– Nhân vật trong Truyện Lục Vân Tiên thường đặt trong những mối quan hệ xã hội, trong những xung đột của đời sống, những tình huống nhất định. Bằng hành động, cử chỉ, lời nói, nhân vật tự bộc lộ tính cách, làm cho người đọc yêu ghét rõ ràng. Nhiệt tình ngợi ca hay phê phán cái tốt, cái xấu của nhân vật cũng góp phần tạo nên sức sống cho hình tượng nhân vật, đồng thời cũng góp phần phổ biến tác phẩm trong nhân dân, nhất là ở Nam Bộ.
– Đọc truyện, ta thấy được tác giả sử dụng ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân và mang màu sắc địa phương Nam Bộ. Câu thơ có khi thiếu chải chuốt, uyển chuyển nhưng lại hợp với ngôn từ kể chuyện, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng.
Hơn nữa, lời thơ luôn thay đổi phù hợp với diễn biến câu chuyện, theo tâm lí nhân vật: khi quyết liệt, phẫn nộ (Lục Vân Tiên), khi hống hách, kiêu căng (Phong Lai), khi ân cần khảng khái (Lục Vân Tiên trong đoạn sau), lúc mềm mỏng chân tình (Kiều Nguyệt Nga).
Hành động nhân nghĩa và nhân cách cao quý của ông Ngư trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn:
Trong Truyện Lục Vân Tiên, việc xuất hiện nhân vật ông Ngư đã làm cho truyện thêm tính nhân đạo. Những hành động hết sức đời thường nhưng tốt bụng của những người trong gia đình ông Ngư đã thể hiện được cái vốn quý trong đạo làm người.
– Đó là hành động nhân nghĩa, thấy người gặp nạn liền ra tay cứu giúp mà không cần đền ơn trả nghĩa:
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Sau khi Vân Tiên tỉnh dậy, biết được tình cảnh của chàng, ông Ngư liền cho chàng ở lại, sẵn sàng cưu mang chàng cho dù cuộc sống gia đình còn trăm bề khôn khó. Suy nghĩ của ông Ngư cũng hết sức bình dị, cứu người là lẽ đương nhiên, chứ không hề nghĩ đến việc đền đáp: “Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn?”. Như vậy, nhân nghĩa trở thành lẽ sống của ông lão, nó hoàn toàn đối lập với sự gian ác, tráo trở của những người mà chúng ta biết trước đó như Trịnh Hâm chẳng hạn.
– Cái thiện còn được biểu hiện qua cuộc sống thật đẹp. Đấy là lối sống trong sạch, hoàn toàn không vướng bận tới lợi danh: “Một câu danh lợi chi sờn lòng đây”.
Cuộc sống tự do giữa đất trời là niềm vui của ông lão. Đây cũng là cuộc sống đầy ắp niềm vui của người dân lao động: “Nghêu ngao nay chích mai dầm… Thung dung dưới thế, vui say trong trời”.
Hành động nhân nghĩa, nhân cách cao cả của ông Ngư cho thấy tác giả không mất lòng tin ở con người. Trong xã hội, bên cạnh cái ác còn có cái thiện hết sức thánh thiện tồn tại. Cái thiện tiêu biểu cho những người lao động bình thường, trở thành tấm gương đạo lí cho cả một thế hệ học tập.
LUYỆN TẬP
|
Instruct
Method of describing characters and narrative language in The Story of Luc Van Tien:
– Characters are mainly described through actions, gestures, and words. The story Luc Van Tien was originally composed to be read, then copied, and then popularized among the people, mainly by telling. Therefore, when describing characters, the author pays little attention to depicting details of appearance, rarely delves into inner developments, and rarely elaborates meticulously on language. The two main characters Van Tien and Nguyet Nga are also introduced with a few conventional features: Van Tien is talented in literature and martial arts, benevolent, and loyal; Nguyet Nga has a golden body, peach cheeks and willow eyebrows, and is faithful and virtuous.
– Characters in Luc Van Tien's Tale are often placed in social relationships, in life's conflicts, and in certain situations. Through actions, gestures, and words, the character reveals his personality, making his love and hate clear to the reader. Enthusiastically praising or criticizing the good and bad of the character also contributes to creating vitality for the character's image, and also contributes to popularizing the work among the people, especially in the South.
– Reading the story, we see that the author uses language that is close to the daily speech of the people and has the local color of the South. The verse sometimes lacks care and flexibility, but it fits the narrative language, is very natural, and easily resonates with the masses.
Furthermore, the lyrics always change in accordance with the story's developments, according to the character's psychology: sometimes fierce and angry (Luc Van Tien), sometimes overbearing and arrogant (Phong Lai), sometimes considerate and generous. (Luc Van Tien in the following paragraph), sometimes soft and sincere (Kieu Nguyet Nga).
Mr. Ngu's benevolent actions and noble personality in the excerpt of Luc Van Tien's accident:
In the Story of Luc Van Tien, the appearance of the character Mr. Ngu makes the story more humane. The very ordinary but kind actions of the people in Mr. Ngu's family have shown the precious value of human morality.
– It is an act of kindness, seeing someone in trouble and immediately helping without needing to repay the kindness:
Luckily it was morning,
The fisherman saw it and immediately brought it to shore.
Burn this fire for an hour,
He warmed his stomach, she warmed his face.
After Van Tien woke up and learned of his situation, Mr. Ngu immediately let him stay, ready to take care of him even though his family life was difficult. Mr. Ngu's thinking is also very simple, saving people is a matter of course, but does not think about repaying: "If you devote yourself to kindness, why wait to repay the favor?". Thus, benevolence becomes the old man's way of life, it is completely opposite to the wickedness and dishonesty of people we knew before like Trinh Ham, for example.
– Goodness is also expressed through a beautiful life. This is a pure way of life, completely unattached to fame and fortune: "A single sentence of fame and fortune won't bother you."
A free life between heaven and earth is the joy of the old man. This is also a life full of joy for working people: "Clam clams, today, tomorrow, tomorrow... Valleys on earth, joy in the sky."
Mr. Ngu's benevolent actions and noble personality show that the author does not lose faith in people. In society, besides evil, there is also extremely holy goodness. Goodness represents ordinary workers, becoming a moral example for an entire generation to learn from.
PRACTICE
|
Hướng dẫn
A. Mở bài
“Mít hơn ca dao là bến nước làng tôi
Nơi con đò đưa khách qua sống êm như đưa võng,
Nơi tiễn những con thuyền ra biển rộng
Nơi tôi sinh ra trong khúc hát đò đưa…”.
Bến quê! Hai tiếng giản đơn gợi bao cảm xúc đã trở thành đề tài sáng tác hấp dẫn của thơ, ca, nhạc, họa… Nguyễn Minh Châu, một nhà văn lớn của văn học Việt Nam vào những năm tám mươi, cũng khai thác đề tài này với truyện ngắn Bến quê. Nhưng mục đích của tác giả không chỉ dừng lại ở đấy mà thông qua nhân vật Nhĩ, ông muốn gửi gắm những triết lí về con người và cuộc đời, cho nên nhân vật Nhĩ rất gần gũi với con người trong cuộc sống, có nội tâm phong phú và nhiều trải nghiệm.
B. Thân bài
1. Phân tích nhân vật
a. Nhĩ có một hoàn cảnh rất éo le.
b. Nhĩ có đời sống nội tâm phong phú.
2. Đánh giá nhân vật
– Nhĩ là nhân vật tư tưởng nhưng thông qua nhân vật này ta không chỉ nhận ra nội tâm, tâm trạng của nhân vật mà còn hiểu được tính cách và phẩm chất của anh.
– Nhĩ là hình ảnh hiện thực mà qua đó ta có thể soi gương thấy mình với bao điều phải trăn trở suy nghĩ về cuộc đời đa sự, con người đa đoan.
c. Kết bài
Truyện ngắn Bến quê cũng như các truyện khác của Nguyễn Minh Châu thường không nhiều nhân vật, nhưng nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng thành công của nhà văn.
Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu.
Bài làm
“Cây đa, bến nước, mái đình
Nghìn năm sâu đậm nghĩa tình quê hương”.
Câu ca dao gợi tình cảm quê hương, gợi nhớ những bến quê quen thuộc. Bến quê nơi có những xóm chài với dăm ba mảnh thuyền giăng lưới. Bến quê, nơi có cái xóm lẻ với những rặng tre xanh, vài cây sung chín rụng. Và cái bến quê ấy đã đi vào sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn “Bến quê”. Nhưng đâu chỉ là những nét tả chân cái bến quê nào đó, qua tác phẩm, tác giả còn muôn gửi gắm những suy nghĩ trảinghiệm sâu sắc của nhà văn trước cuộc đời, thức tỉnh mọi người về những vẻ đẹp và giá trị cao quý của những điều bình dị gần gũi quanh ta.
Năm 1980, năm lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về an ninh quốc phòng, về kinh tế, văn hóa tư tưởng… Với Nguyễn Minh Châu nó còn là thời điểm, một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp văn chương của ông. Nhà văn có nhiều tìm tòi đổi mới về. đề tài và phong cách sáng tác. Có thể kể đến “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Cỏ lau”… và một “Bến quê” với dấu ấn khó quên có ý nghĩa tổng kết cuộc đời một con người.
“Bến quê” được rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên, là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn để lại nhiều dư ba tốt đẹp. Qua một cốt truyện giản dị, một tình huống nghịch lí nhưng cũng rất đời thường, nhà văn đã phát hiện ra những chiều sâu mới của đời sống với bao quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của những cách nhìn, cách nghĩ trước đó của xã hội và của chính tác giả. Triết lí trong “Bến quê” góp phần chứng minh các cuộc đời đa sự, con người đa đoan và cuộc đời con người chẳng giản đơn chút nào.
Cốt truyện được xây dựng trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật chính là anh Nhĩ, người đã từng đi khắp đó đây, biết nhiều hiểu rộng, thế giới với anh là không xa lạ nhưng cuối đời lại bị cột chặt trên giường bệnh bởi căn bệnh hiểm nghèo. Cái trớ trêu của cuộc đời là ở chỗ đó, khi có thể Nhĩ đã không làm cái điều anh nên làm; còn khi nhận ra cái mình phải thực hiện, anh lại không thể làm được. Cuộc đời con người là xâu chuỗi những nghịch lí.
Nằm trên cái giường đặt cạnh cửa sổ, Nhĩ có thể quan sát được toàn cảnh. Nhưng nhất cử nhất động phải nhờ vào mọi người. Những ngày tháng nằm trên giường bệnh toàn thân bại liệt như thế, Nhĩ đã có những suy nghĩ gì? Tình huống nghịch lí thứ hai lại xuất hiện không kém phần kịch tính: Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sống ngay phía trước cửa sổ vào một buổi sáng chớm thu mà bình thường anh đã vô tình không nhận ra dù nó ỗ quanh anh, rất gần. Nhĩ đã nhờ con trai giúp mình thực hiện khát khao đó, nhưng rồi cậu ta mải chơi và để lỡ chuyến đò ngang.
Tạo ra một xâu chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn người đọc suy nghĩ về một vấn đề của cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định ước muốn, từ đó mở ra một nội dung triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người, của tính người: “Con người ta trênđường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình…”.
Cảnh vật được tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, rộng: từ “Những chùm hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc hơn…” đến những “dòng sông màu đỏ nhạtnhư rộng thêm”, “vòm trời như cao hơn”, “Bờ bãi màu vàng thau xen màu xanh non…”. Cảm nhận về một buổi sáng chớm thu thật tinh tế, cảnh vật vừa quen vừa lạ, tưởng chừng như lần đầu tiên cảm thấy tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
Nhĩ hỏi vợ đến hai câu về không gian (Đêm qua em có nghe thấy tiếng gì không?) và về thời gian (Hôm nay là ngày mấy?), nhưng đều nhận được thái độ im lặng khác thường của vợ. Liên – vợ anh – né tránh câu trả lời bởi nó báo hiệu điềm gở xảy ra. Dường như cảm nhận được điều đó qua thái độ của vợ, Nhĩ nhận ra mình sắp từ giã cuộc đời, anh phải đối diện với thực tế đau buồn, bi đát và không lối thoát này. Một chút xót xa, tiếc nuối, đau đớn trong lòng.
Phải chăng cái gì ta đang có thì ít khi nhận ra giá trị của nó, còn cái gì ta sắp mất ta mới cảm nhận nó quý giá vô cùng. Điều đó càng đúng hơn với trường hợp của Nhĩ. Cô gái chít khăn nâu mỏ quạ mới hôm nào theo anh về nhà sống đoan trang, nết na, chu toàn bổn phận, anh ít khi quan tâm cái vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của chị. Đến hôm nay, nằm trên giường bệnh được chị chăm sóc tận tụy, hi sinh cả chuyện áo quần để chồng có chén thuốc chữa bệnh, cử chỉ chăm sóc nhẹ nhàng chu đáo, lời nói ân cần… là tất cả kho báu của đời anh. Thế mà mãi đến bây giờ chân lí ấy mới sáng tỏ. Anh nhận ra cô gái chân quê ấy trở thành chỗ dựa tinh thần, là mái ấm của anh trong những ngày cuối đời. Có muộn màng lắm không đốivới Nhĩ và cả với Liên?
Nhĩ chợt nghĩ ra một sáng kiến: anh nhờ con trai thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình là đặt chân sang bờ bãi bên kia sống Hồng, lòng mong con hiểu được ý định của mình và càng mong có được những cảm nhận và rung động của mình khi sang bến bờ bên kia. Nhưng cuộc đời đâu đơn giản như thế, không phải điều gì muốn là được toại nguyện. Thật ra, khát khao được sang bãi bồi bên kia sống đâu phải là chuyện lớn lao, khó khăn. Nhưng cái đó đối với Nhĩ thì không thể thực hiện được. Còn đứa con trai không hiểu ý bố.Nó vô tư dừng lại bên đường sa vào phá cờ thế để lỡ chuyến đò ngang, chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhĩ không trách con, chỉ ngẫm nghĩ và tự trách mình. Con trai anh đã bỏ lỡ cơ hội này nhưng nó còn nhiều cơ hội khác còn anh thì đã để mất tất cả, kể cả cơ hội cuối cùng. Anh gửi gắm ước mơ, nguyện vọng nơi con trai – máu mủ của mình – mà nó vẫn không hiểu bố. Hai thế hệ khó hiểu nhau và cảm thông nhau cũng là điều đáng buồn.
Ởcuối truyện Nhĩ có một hành động có vẻ kì quặc nhưng ta có thể hiểu được anh đang muốn gì. Anh hối hả giục anh con trai đang mải xem cờ thế, nhanh chân cho kịp chuyến đò. Nhưng cũng có thể hiểu rộng hơn nhà văn muốn thức tỉnh mọi người hãy sống khẩn trương, sống có ích,đừng la cà, chùng chình, dềnh dàng ở những cái vòng vèo vô bổ mà chúng ta rất dễ sa đà, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực vốn giản dị, gần gũi và bền vững.
Nhà văn sáng tạo ra những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Trong “Bến quê”, hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất. Dù có ý nghĩa biểu tượng nhưng trước hết nó vẫn có giá trị tả thực. Đó là hình ảnh bãi bồi bến sống, hoa bằng lăng cuối mùa, những tảng đất lở ở bờ sống, đứa con trai mải chơi phá cờ thế, Nhĩ khoát khoát tay… tất cả đều có ý nghĩa biểu tượng nhưng vẫn giàu sức gợi tả và biểu cảm.
Giọng kể ở ngôi thứ ba của một người ngoài cuộc nhưng lại rất đồng cảm với nhân vật Nhĩ vì được kể từ tầm nhìn của Nhĩ. Cách xây dựng tâm lí nhân vật phù hợp với tình huống và diễn biến câu chuyện. Những đoạn miêu tả rất sinh động bằng đường nét, màu sắc tạo hình, gợi cảm. Tình huống truyện đơn giản mà bất ngờ và nghịch lí.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung và “Bến quê” nói riêng, chúng ta đều có chung một cảm nhận: hay và sâu sắc. Nhà văn đã len lỏi vào lâu đài nội tâm của con người để khai thác và thể hiện. Tính nhân văn và triết lí rất cao. Nếu không có những trải nghiệm thực tế, nếu không có những tìm tòi công phu chắc hẳn Nguyễn Minh Châu khó có được những thành công như hôm nay.
“Bến quê” đưa ta về một không gian đầy kỉ niệm và cảm xúc mà khó ai quên được:
“Qua sông nhớ mãi con đò
Chiều quê năng hạt, cánh cò nhẹ tênh
Mây xanh dăm vệt bồng bềnh
Cách diều ai thả chông chênh cuối làng”.
LUYỆN TẬP
Đề 1. Tóm tắt truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu.
|
Hướng dẫn
A. Mở bài
“Mít hơn ca dao là bến nước làng tôi
Nơi con đò đưa khách qua sống êm như đưa võng,
Nơi tiễn những con thuyền ra biển rộng
Nơi tôi sinh ra trong khúc hát đò đưa…”.
Bến quê! Hai tiếng giản đơn gợi bao cảm xúc đã trở thành đề tài sáng tác hấp dẫn của thơ, ca, nhạc, họa… Nguyễn Minh Châu, một nhà văn lớn của văn học Việt Nam vào những năm tám mươi, cũng khai thác đề tài này với truyện ngắn Bến quê. Nhưng mục đích của tác giả không chỉ dừng lại ở đấy mà thông qua nhân vật Nhĩ, ông muốn gửi gắm những triết lí về con người và cuộc đời, cho nên nhân vật Nhĩ rất gần gũi với con người trong cuộc sống, có nội tâm phong phú và nhiều trải nghiệm.
B. Thân bài
1. Phân tích nhân vật
a. Nhĩ có một hoàn cảnh rất éo le.
b. Nhĩ có đời sống nội tâm phong phú.
2. Đánh giá nhân vật
– Nhĩ là nhân vật tư tưởng nhưng thông qua nhân vật này ta không chỉ nhận ra nội tâm, tâm trạng của nhân vật mà còn hiểu được tính cách và phẩm chất của anh.
– Nhĩ là hình ảnh hiện thực mà qua đó ta có thể soi gương thấy mình với bao điều phải trăn trở suy nghĩ về cuộc đời đa sự, con người đa đoan.
c. Kết bài
Truyện ngắn Bến quê cũng như các truyện khác của Nguyễn Minh Châu thường không nhiều nhân vật, nhưng nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng thành công của nhà văn.
Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu.
Bài làm
“Cây đa, bến nước, mái đình
Nghìn năm sâu đậm nghĩa tình quê hương”.
Câu ca dao gợi tình cảm quê hương, gợi nhớ những bến quê quen thuộc. Bến quê nơi có những xóm chài với dăm ba mảnh thuyền giăng lưới. Bến quê, nơi có cái xóm lẻ với những rặng tre xanh, vài cây sung chín rụng. Và cái bến quê ấy đã đi vào sáng tác của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn “Bến quê”. Nhưng đâu chỉ là những nét tả chân cái bến quê nào đó, qua tác phẩm, tác giả còn muôn gửi gắm những suy nghĩ trảinghiệm sâu sắc của nhà văn trước cuộc đời, thức tỉnh mọi người về những vẻ đẹp và giá trị cao quý của những điều bình dị gần gũi quanh ta.
Năm 1980, năm lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về an ninh quốc phòng, về kinh tế, văn hóa tư tưởng… Với Nguyễn Minh Châu nó còn là thời điểm, một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp văn chương của ông. Nhà văn có nhiều tìm tòi đổi mới về. đề tài và phong cách sáng tác. Có thể kể đến “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Cỏ lau”… và một “Bến quê” với dấu ấn khó quên có ý nghĩa tổng kết cuộc đời một con người.
“Bến quê” được rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên, là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn để lại nhiều dư ba tốt đẹp. Qua một cốt truyện giản dị, một tình huống nghịch lí nhưng cũng rất đời thường, nhà văn đã phát hiện ra những chiều sâu mới của đời sống với bao quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của những cách nhìn, cách nghĩ trước đó của xã hội và của chính tác giả. Triết lí trong “Bến quê” góp phần chứng minh các cuộc đời đa sự, con người đa đoan và cuộc đời con người chẳng giản đơn chút nào.
Cốt truyện được xây dựng trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật chính là anh Nhĩ, người đã từng đi khắp đó đây, biết nhiều hiểu rộng, thế giới với anh là không xa lạ nhưng cuối đời lại bị cột chặt trên giường bệnh bởi căn bệnh hiểm nghèo. Cái trớ trêu của cuộc đời là ở chỗ đó, khi có thể Nhĩ đã không làm cái điều anh nên làm; còn khi nhận ra cái mình phải thực hiện, anh lại không thể làm được. Cuộc đời con người là xâu chuỗi những nghịch lí.
Nằm trên cái giường đặt cạnh cửa sổ, Nhĩ có thể quan sát được toàn cảnh. Nhưng nhất cử nhất động phải nhờ vào mọi người. Những ngày tháng nằm trên giường bệnh toàn thân bại liệt như thế, Nhĩ đã có những suy nghĩ gì? Tình huống nghịch lí thứ hai lại xuất hiện không kém phần kịch tính: Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sống ngay phía trước cửa sổ vào một buổi sáng chớm thu mà bình thường anh đã vô tình không nhận ra dù nó ỗ quanh anh, rất gần. Nhĩ đã nhờ con trai giúp mình thực hiện khát khao đó, nhưng rồi cậu ta mải chơi và để lỡ chuyến đò ngang.
Tạo ra một xâu chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn người đọc suy nghĩ về một vấn đề của cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định ước muốn, từ đó mở ra một nội dung triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người, của tính người: “Con người ta trênđường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình…”.
Cảnh vật được tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, rộng: từ “Những chùm hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc hơn…” đến những “dòng sông màu đỏ nhạtnhư rộng thêm”, “vòm trời như cao hơn”, “Bờ bãi màu vàng thau xen màu xanh non…”. Cảm nhận về một buổi sáng chớm thu thật tinh tế, cảnh vật vừa quen vừa lạ, tưởng chừng như lần đầu tiên cảm thấy tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
Nhĩ hỏi vợ đến hai câu về không gian (Đêm qua em có nghe thấy tiếng gì không?) và về thời gian (Hôm nay là ngày mấy?), nhưng đều nhận được thái độ im lặng khác thường của vợ. Liên – vợ anh – né tránh câu trả lời bởi nó báo hiệu điềm gở xảy ra. Dường như cảm nhận được điều đó qua thái độ của vợ, Nhĩ nhận ra mình sắp từ giã cuộc đời, anh phải đối diện với thực tế đau buồn, bi đát và không lối thoát này. Một chút xót xa, tiếc nuối, đau đớn trong lòng.
Phải chăng cái gì ta đang có thì ít khi nhận ra giá trị của nó, còn cái gì ta sắp mất ta mới cảm nhận nó quý giá vô cùng. Điều đó càng đúng hơn với trường hợp của Nhĩ. Cô gái chít khăn nâu mỏ quạ mới hôm nào theo anh về nhà sống đoan trang, nết na, chu toàn bổn phận, anh ít khi quan tâm cái vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của chị. Đến hôm nay, nằm trên giường bệnh được chị chăm sóc tận tụy, hi sinh cả chuyện áo quần để chồng có chén thuốc chữa bệnh, cử chỉ chăm sóc nhẹ nhàng chu đáo, lời nói ân cần… là tất cả kho báu của đời anh. Thế mà mãi đến bây giờ chân lí ấy mới sáng tỏ. Anh nhận ra cô gái chân quê ấy trở thành chỗ dựa tinh thần, là mái ấm của anh trong những ngày cuối đời. Có muộn màng lắm không đốivới Nhĩ và cả với Liên?
Nhĩ chợt nghĩ ra một sáng kiến: anh nhờ con trai thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình là đặt chân sang bờ bãi bên kia sống Hồng, lòng mong con hiểu được ý định của mình và càng mong có được những cảm nhận và rung động của mình khi sang bến bờ bên kia. Nhưng cuộc đời đâu đơn giản như thế, không phải điều gì muốn là được toại nguyện. Thật ra, khát khao được sang bãi bồi bên kia sống đâu phải là chuyện lớn lao, khó khăn. Nhưng cái đó đối với Nhĩ thì không thể thực hiện được. Còn đứa con trai không hiểu ý bố.Nó vô tư dừng lại bên đường sa vào phá cờ thế để lỡ chuyến đò ngang, chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhĩ không trách con, chỉ ngẫm nghĩ và tự trách mình. Con trai anh đã bỏ lỡ cơ hội này nhưng nó còn nhiều cơ hội khác còn anh thì đã để mất tất cả, kể cả cơ hội cuối cùng. Anh gửi gắm ước mơ, nguyện vọng nơi con trai – máu mủ của mình – mà nó vẫn không hiểu bố. Hai thế hệ khó hiểu nhau và cảm thông nhau cũng là điều đáng buồn.
Ởcuối truyện Nhĩ có một hành động có vẻ kì quặc nhưng ta có thể hiểu được anh đang muốn gì. Anh hối hả giục anh con trai đang mải xem cờ thế, nhanh chân cho kịp chuyến đò. Nhưng cũng có thể hiểu rộng hơn nhà văn muốn thức tỉnh mọi người hãy sống khẩn trương, sống có ích,đừng la cà, chùng chình, dềnh dàng ở những cái vòng vèo vô bổ mà chúng ta rất dễ sa đà, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực vốn giản dị, gần gũi và bền vững.
Nhà văn sáng tạo ra những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Trong “Bến quê”, hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất. Dù có ý nghĩa biểu tượng nhưng trước hết nó vẫn có giá trị tả thực. Đó là hình ảnh bãi bồi bến sống, hoa bằng lăng cuối mùa, những tảng đất lở ở bờ sống, đứa con trai mải chơi phá cờ thế, Nhĩ khoát khoát tay… tất cả đều có ý nghĩa biểu tượng nhưng vẫn giàu sức gợi tả và biểu cảm.
Giọng kể ở ngôi thứ ba của một người ngoài cuộc nhưng lại rất đồng cảm với nhân vật Nhĩ vì được kể từ tầm nhìn của Nhĩ. Cách xây dựng tâm lí nhân vật phù hợp với tình huống và diễn biến câu chuyện. Những đoạn miêu tả rất sinh động bằng đường nét, màu sắc tạo hình, gợi cảm. Tình huống truyện đơn giản mà bất ngờ và nghịch lí.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu nói chung và “Bến quê” nói riêng, chúng ta đều có chung một cảm nhận: hay và sâu sắc. Nhà văn đã len lỏi vào lâu đài nội tâm của con người để khai thác và thể hiện. Tính nhân văn và triết lí rất cao. Nếu không có những trải nghiệm thực tế, nếu không có những tìm tòi công phu chắc hẳn Nguyễn Minh Châu khó có được những thành công như hôm nay.
“Bến quê” đưa ta về một không gian đầy kỉ niệm và cảm xúc mà khó ai quên được:
“Qua sông nhớ mãi con đò
Chiều quê năng hạt, cánh cò nhẹ tênh
Mây xanh dăm vệt bồng bềnh
Cách diều ai thả chông chênh cuối làng”.
LUYỆN TẬP
Đề 1. Tóm tắt truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu.
|
Hướng dẫn
I. Mở bài
Truyện Những ngôi sao xa xôi kể về một tổ thanh niên xung phong nhận nhiệm vụ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Tổ trinh sát gồm ba cô gái là Định, Nho và Thao. Họ phải bình tĩnh đối mặt với thần chết trong những lần phá bom, thậm chí mấy lần trong một ngày. Cuộc sống giữa chiến trường dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có đdược niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh than và thơ mộng. Cả ba côgái yêu thương và gắn bó với nhau như chị em. Phần cuối truyện, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâmtrạng của các nhân vật, chủ yếu là Phương Định. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, cô được sự săn sóc chu đáo của hai đồng dội.
Những ngôi sao xa xôilà một trong sốnhững tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê, viết vào năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.
Truyện cho thấy tâm hồn trong sáng, lòng dũng cảm, sự hồn nhiên và cuộc sống chiến đấu nhiều gian khổ, hi sinh nhưng vẫn lạc quan của các nhân vật nữ thanh niên xung phong. Đặc biệt, nhân vật Phương Định được tác giả miêu tả chân thực, sinh động bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo.
II. Thân bài
Vào chiến trường được ba năm, đã quen với những thử thách và nguy hiểm, giáp mặt hàng ngày với cái chết, nhưng Phương Định vẫn không đánh mất sự hồn nhiên, trong sáng và những ước mơ về tương lai. Nét cá tính ở nhân vật được thể hiện khá rõ là nhạy cảm, hay mơ mộng và sở thích là ưa ca hát..
Cũng giống như hai người bạn trong tổtrinh sát, Phương Định yêu mến các đồng đội trong tổ và cả đơn vị mình. Hơn nữa cô cũng mến yêu và cảm phục những người chiến sĩ mà cô gặp hàng đêm trên trọng điểm con đường vào mặt trận.
Trong phần đầu truyện, Phương Định nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa kèn. Còn đôi mắt thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”. Phương Định biết mình được nhiều người, nhất là các anh lính để ý và có thiện cảm. Điều đó làm cô thấy vui và tự hào, nhưng chưa dành riêng tình cảm cho một ai.
Nhạy cảm, nhưng cô lại không hay biểu lộ tình cảm của mình, luôn tỏ ra kín đáo trước đám đông, tưởng như là kiêu kì.
Ởđoạn hồi tưởng của nhân vật về tuổi học trò, tác giả làm nổi rõ nét tính cách hồn nhiên, vô tư, một chút tinh nghịch và mơ mộng của một thiếu nữ. Chẳng hạn, chỉ một trận mưa đá vụt qua cũng đánh thức ở nhân vật này rất nhiều kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố quê hương, gia đình và tuổi thơ thanh bình của mình.
Tâm lí nhân vật Phương Định trong một lần phá bom được miêu tả rất cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ, dù chỉ thoáng qua trong giây lát. Mặc dù rất quen công việc nguy hiểm này, nhưng mỗi lần vẫn là một thử thách đối với thần kinh. Ởbên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người như cũng trở nên sắc nhọn hơn. “Thỉnhthoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làmquá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”.Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom.
Tóm lại, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật, làm thể hiện một thế giới nội tâm phong phú. Cách nhìn và thể hiện con người thiên về cái đẹp, sự trong sáng, cao thượng.
Ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật kể chuyện – cô gái thanh niên xung phong người Hà Nội – tạo cho truyện có giọng điệu tự nhiên, thoải mái, trẻ trung và có chất nữ tính. Lời kể thường dùng những câu ngắn, nhịp nhanh tạo được không khí khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường. Ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kể chậm lại, gợi nhớ những kỉ niệm tuổi niên thiếu hồn nhiên, nhạy cảm của một cô học sinh thành phốthơ mộng.
Truyện viết về chiến tranh, có những chi tiết, sự việc về bom đạn, chiến đấu, hi sinh, nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm thể hiện lên vẻ đẹp của con người trong chiến tranh.
|
Instruct
I. Introduction
The story Distant Stars tells about a group of young volunteers who took on the task of road reconnaissance at a key point on the Truong Son route. The reconnaissance team consists of three girls: Dinh, Nho and Thao. They have to calmly face death when defusing bombs, even several times a day. Although life on the battlefield is harsh and dangerous, they still have the innocent joy of youth, peaceful and poetic moments. All three girls love and stick together like sisters. At the end of the story, the author focuses on describing the actions and moods of the characters, mainly Phuong Dinh. While defusing a bomb, Nho was injured, and she was well cared for by two comrades.
Distant Stars is one of Le Minh Khue's first works, written in 1971, when the resistance war against America was raging.
The story shows the pure soul, courage, innocence and the life of fighting with many hardships, sacrifices but still optimism of the young female volunteers. In particular, the character Phuong Dinh is described realistically and vividly by the author using many unique artistic techniques.
II. Body of the article
Having been on the battlefield for three years, accustomed to challenges and dangers, facing death every day, Phuong Dinh still has not lost her innocence, purity, and dreams for the future. The character's personality is shown quite clearly: he is sensitive, dreamy and his hobby is singing..
Just like his two friends in the reconnaissance team, Phuong Dinh loves his teammates in the team and his entire unit. Furthermore, she also loved and admired the soldiers she met every night on the main road to the front.
In the first part of the story, Phuong Dinh is sensitive and concerned about her appearance. Two thick, relatively soft braids, a high neck, as proud as the calyx of a trumpet. As for the eyes, the drivers said: "You have such a distant look!". Phuong Dinh knew he was noticed and had sympathy from many people, especially the soldiers. That makes her feel happy and proud, but she has not yet reserved her feelings for anyone.
Sensitive, but she does not often express her feelings, always acting discreetly in public, seemingly arrogant.
In the character's flashback to her school years, the author clearly highlights the innocent, carefree, slightly mischievous and dreamy personality of a young girl. For example, just a passing hailstorm awakens in this character many memories and nostalgia for his hometown, family and peaceful childhood.
The psychology of character Phuong Dinh during a bomb disposal is described very specifically, with subtlety down to every feeling and thought, even if it is only fleeting for a moment. Even though I am very familiar with this dangerous job, each time it is still a challenge to my nerves. Next to the bomb, close to silent and sudden death, every human feeling seems to become sharper. “Sometimes the shovel blade touches the bomb. A sharp, spine-tingling sound cut into my skin. I shivered and suddenly realized why I was working so slowly. Hurry up a bit! Hot bomb shell. A bad sign." Next was the feeling of tension waiting for the bomb's explosion.
In short, Le Minh Khue's pen has vividly and realistically described the character's psychology, revealing a rich inner world. The way of seeing and expressing people tends toward beauty, purity, and nobility.
The narrative language is suitable for the narrator - a young volunteer girl from Hanoi - giving the story a natural, comfortable, youthful and feminine tone. The narration often uses short, fast-paced sentences to create an urgent atmosphere in a battlefield situation. In the flashbacks, the narrative pace slows down, recalling the innocent, sensitive teenage memories of a poetic city student.
The story is about war, with details and events about bombs, battles, and sacrifices, but mainly focuses on the inner world, showing the beauty of people in war.
|
Hướng dẫn
Núi kia ai đắp mà cao?
Sống kia, bể nọ ai đào mà sâu?
Ông cha ta ngàn đời đã gây dựng, giữ gìn núi sống, đất nước này để truyền lại cho chúng ta hôm nay. Đất nước, dân tộc ta tồn tại, phát triển chính là nhờ nhân dân ta có truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc.
Ba tác phẩm trong nền văn học trung đại Việt Nam: Sống núi nước Nam; Hịch tướng sĩ và Đại cáo bình Ngô đã phản ánh sâu sắc truyền thống yêu nước nồng nàn và lòng tự hào dân tộc chân chính của ông cha ta xưa kia.
Khi quân xâm lược nhà Tống tràn sang nước ta, Lí Thường Kiệt đọc bài thơ “Thần” như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất khẳng định chủ quyền nước Nam là của dân Nam. Khi đại quân Mông – Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu kéo sang xâm phạm chủ quyền dân tộc, vào năm 1285, “Hịch tướng sĩ” đã được Trần Quốc Tuấn truyền dạy trong các cấp tướng sĩ của mình. Và khi kết thúc mười năm kháng chiến gian khổ chống quân Minh, thắng lợi trọn vẹn vào năm 1428, Nguyễn Trãi đã tổng kết bằng bản văn “Bình Ngô đại cáo” bất hủ.
Ba áng thơ văn đều vang lên tiếng nói yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm và niềm tự hào về một dân tộc anh hùng.
Yêu nước và tự hào dân tộc là một truyền thống vô cùng quí báu mà từ khi hình thành dân tộc này, đất nước này, ông cha ta đã truyền lại cho đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.
Lí Thường Kiệt khẳng định: Nước Nam có lãnh thổ riêng, có chính quyền riêng.
“Sống núi nước Nam vua Nam ở”.
Điều này đã được ghi ở “sách trời”. Sách trời là cơ sở pháp lí, là “thiên định”. Lí Thường Kiệt đã ghi lại những điều ấy để quân giặc thấy rõ hơn và quân dân ta càng tin tưởng hơn!
Rành rành đã định ở sách trời.
Lí Thường Kiệt vịn vào “thần”, vào “sách trời” để nêu chính nghĩa của dân tộc. Trần Quốc Tuấn không nói đến “thần” nữa. Vì nước ta thật sự đã có chủ quyền, có văn hóa: Triều đình riêng, nhạc thái thường, thái ấp, tông miếu. Vậy mà quân giặc là loài dê chó dám xâm phạm, làm nhục nước ta!
Đến thế kỉ XV, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi viết bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai đã nêu đầy đủ niềm tự hào chân chính của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sống bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc – Nam cũng khác…
Nước ta thật sự là một nước độc lập, có chủ quyền. Nhân dân ta đã ra sức bồi đắp thành nền văn hiến ngàn năm. Trên lãnh thổ này đã có dân Việt với nền văn hóa riêng, khác hẳn văn hóa phương Bắc. Anh hùng hào kiệt thì nước Đại Việt lại càng không thiếu.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương.
Tự hào dân tộc, cha ông ta càng yêu nước nồng nàn. Khẳng định “Sống núi nước Nam vua Nam ở” là một khẳng định yêu nước. Vua tức là nước, lúc bấy giờ nói vua Nam hay hoàng đếnước Nam chính là đốichọi lại với “Thiên triều” Trung Hoa. Không phải là tuyên chiến, mà là cảnh cáo quân giặc cướp nước, cho chúng biết trước cái thất bại thảm hại tất yêu sẽ đến với chúng.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Lí Thường Kiệt đã nói lên truyền thông yêunước nồng nàn và niềm tự hào dân tộc chân chính. Không tự hào dân tộc chân chính thì không dám đánh giặc giữ nước. Ta phải đánh giặc vì giặc xâm phạm đất nước ta.
Ở“Hịch tướng sĩ”, niềm tự hào dân tộc càng sâu sắc hơn. Vì tự hào dân tộc nên cảm thấy bao nhiêu cái nhục khi quân giặc xâm phạm chủ quyền: “Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn…”.Yêu nước là phải biết bảo vệ, gìn giữ đất nước, không thể ngồi yên, khoanh tay nhìn cảnh “sứ giặc đi nghểnh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ…, vơ vét tiền của bạc vàng”. Phải hướng tất cả lòng căm thù về phía quân giặc cướp nước: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng…”.
Nguyễn Trãi viết thay Lê Lợi, cũng là viết thay nhân dân niềm tự hào chân chính của dân tộc. Quá trình dựng nước, giữ nước được tổng kết: “Song hào kiệt đời nào cũng có”. Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sống Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét Chứng cớ còn ghi.
Nhân dân yêu nước đã tập hợp chung quanh Lê Lợi, người anh hùng áo vải của đất Lam Sơn:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới, tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sống chén rượu ngọt ngào…”.
Bởi chính vì Lê Lợi – Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng yêu nước hơn ai hết, hai người không thể ngồi yên nhìn quân Minh tàn bạo “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”, mà đã phải đau xót, căm hờn, quyết tiêu trừ giặc cướp nước: “… Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống. -Đau lòng, nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời…”.
Ở“Bình Ngô đại cáo”, chúng ta càng thấy trọn vẹn lòng yêu nước cao độ và niềm tự hào dân tộc chân chính. Chính lòng yêu nước, tự hào dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng quân xâm lược dù chúng đông hơn, mạnh hơn ta gấp nhiều lần.
Trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, ông cha ta thường lấy lòng tự hào dân tộc chính làm chính nghĩa để tập hợp lực lượng, đoàn kết nhân dân chống giặc.
Nguyễn Trãi xác định lập trường chính nghĩa sáng ngời:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Trần Quốc Tuấn kêu gọi các tướng của mình, từ bỏ thái độ thờ ơ hưởng lạc trước cảnh đất nước lâm nguy, mà phải: “Huấn luyện quân sĩ, tập dạt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…”.
Có như vậy mới bảo vệ được “thái ấp” vững bền, xây dựng được hạnh phúc của mình và của đất nước.
Lí Thường Kiệt khẳng định sống núi nước Nam của vua Nam nên dân Nam quyết tâm chiến đấu giết giặc:
“Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”.
Truyền thống yêu nước tự hào dân tộc của ông cha ta gắn bó, thống nhất với nhau làm nên sức mạnh không thể thất bại..
|
Instruct
Who built that mountain to make it high?
That life, that pool, who digs it so deep?
Our ancestors built and preserved this mountain and country for thousands of years to pass on to us today. Our country and our people exist and develop precisely because our people have a tradition of patriotism and national pride.
Three works in Vietnamese medieval literature: Mountain Ridge of the South; Thich Tuong Si and Dai Cong Binh Ngo deeply reflected the passionate patriotic tradition and true national pride of our ancestors in the past.
When the Song Dynasty's invaders invaded our country, Ly Thuong Kiet read the poem "Thanh" as the first declaration of independence affirming the sovereignty of the Southern country belongs to the Southern people. When the Mongol-Nguyen army led by Thoat Hoan invaded the nation's sovereignty, in 1285, "Hich General" was taught by Tran Quoc Tuan among his generals. And at the end of ten years of arduous resistance against the Ming army, with complete victory in 1428, Nguyen Trai concluded with the immortal "Binh Ngo Dai Cao" text.
All three poems echo the voice of patriotism, indomitable resistance to foreign invaders and pride in a heroic nation.
Patriotism and national pride are an extremely precious tradition that since the formation of this nation and this country, our ancestors have passed down to today and forever into the future.
Ly Thuong Kiet affirmed: Nam has its own territory and its own government.
"On the mountain ridge of the Southern country, the Southern king lives."
This was recorded in the "book of heaven". The book of heaven is the legal basis, the "heavenly decree". Ly Thuong Kiet recorded these things so that the enemy could see more clearly and our people would have more confidence!
It is clearly determined in heaven's book.
Ly Thuong Kiet relied on "gods" and "heaven's books" to state the cause of the nation. Tran Quoc Tuan does not talk about "god" anymore. Because our country truly has sovereignty and culture: its own court, royal music, fiefs, and temples. Yet the enemy army is a species of goats and dogs that dare to invade and humiliate our country!
In the 15th century, national hero Nguyen Trai wrote the second declaration of independence, fully stating the true pride of the Dai Viet people:
Like our Dai Viet country from before,
Capital claims to be a long-standing civilization.
Living mountains and divided lands,
North and South customs are also different...
Our country is truly an independent and sovereign country. Our people have worked hard to build a thousand-year civilization. On this territory, there are Vietnamese people with their own culture, completely different from the Northern culture. There is no shortage of heroic heroes in Dai Viet.
From Trieu, Dinh, Ly, Tran, many generations created independence.
With Han, Tang, Song, Yuan, each side is strong in its own direction.
Proud of the nation, our ancestors were even more passionate about their country. The assertion "On the ridge of the Southern country, the Southern king lives" is a patriotic assertion. The king is the country, at that time, saying the king of the South or the emperor of the South was in opposition to the Chinese "Celestial Dynasty". It is not a declaration of war, but a warning to the enemy invaders, letting them know in advance the tragic defeat that will inevitably come to them.
Why does the enemy dare to invade,
They will be beaten to a pulp.
Ly Thuong Kiet spoke about passionate patriotism and genuine national pride. Without true national pride, one does not dare to fight the enemy to defend the country. We must fight the enemy because the enemy invades our country.
In "Hich Tuong Si", national pride is even deeper. Because of national pride, we feel so much humiliation when the enemy invades our sovereignty: "Seeing the humiliation of the master but not knowing how to worry, seeing the humiliation of the country but not knowing how to be ashamed...". To be patriotic is to know how to protect and preserve the land. country, could not sit still, folded arms and watched the scene of "envoys of the enemy walking around the streets, curling their tongues and cursing at the court, using their bodies as goats and dogs to bully the lord's wife..., embezzling money from silver and gold". We must direct all our hatred towards the invaders and robbers of our country: "I often forget to eat at mealtimes, slap my pillow in the middle of the night, my intestines hurt like hell, tears flow, I'm just angry that I haven't let go of the meat, peeled the skin, swallowed the liver and drank the blood." Enemy, even if these hundred bodies were exposed to the grass, or these thousand corpses wrapped in horse skin, I would still be willing...".
Nguyen Trai wrote on behalf of Le Loi, and also wrote on behalf of the people the true pride of the nation. The process of building and defending the country is summarized: "There are always heroes in every generation." So that:
Liu Gong was greedy for work and failed.
Trieu Tiet likes to be great and must perish;
Ham Tu Gate captured Toa Do alive,
Live Bach Dang and kill O Ma.
The old things are considered and the evidence is still recorded.
Patriotic people gathered around Le Loi, the cloth-shirted hero of Lam Son land:
"The people of the four worlds are one family, erecting bamboo poles with fluttering flags, soldiers with a fatherly heart, mingling with living water and a cup of sweet wine...".
Because Le Loi - Nguyen Trai showed more patriotism than anyone else, the two could not sit still and watch the Ming army brutally "roast the black people on a cruel fire, bury the red children in the pit of disaster...", but had to feel pain, hatred, and determination to eliminate the country's invaders: "... Contemplating great hatred, how can we live together, hating the country's enemies and vowing not to live together. - Heartbreaking, mind-numbing, now it's been more than ten years...".
In "Binh Ngo Dai Cao", we see even more fully the high patriotism and true national pride. It was patriotism and national pride that created great strength to defeat the invaders even though they were many times more numerous and stronger than us.
In a situation where the country was invaded by foreign invaders, our ancestors often used national pride as a righteous cause to gather forces and unite the people to fight against the enemy.
Nguyen Trai identifies a shining righteous stance:
The act of benevolence consists in keeping the people at peace
The military accepts punishment first and worries about eliminating violence.
Tran Quoc Tuan called on his generals to abandon the attitude of indifference and pleasure in the face of the country being in danger, but must: "Train soldiers, practice bows and arrows, make everyone as good as Bang Mong, everyone." They are all Hau Nghe, they can behead Kublai Liet at Cua Khuyet, and rot the flesh of the King of Yunnan at Gao Nhai...".
Only then can we protect our "fiefdom" firmly and build our own happiness and that of the country.
Ly Thuong Kiet affirmed that the mountains of the Southern country belonged to the Southern king, so the Southern people were determined to fight and kill the enemy:
“They will be beaten to a pulp.”
The tradition of patriotism and national pride of our ancestors, sticking together and uniting together, creates a strength that cannot fail.
|
Hướng dẫn
Tìm hiểu bài văn em biết được những điều về cầu Long Biên qua đoạn văn từ “Cầu Long Biên khi mới hình thành” đến “bị chết trong quá trình làm cầu”. So sánh với tư liệu được cung cấp qua hai đoạn đọc thêm về cầu Thăng Long và Chương Dương, em có thể nhận xét thếm về quy mô và tính chất của cầu Long Biên.
Trong đoạn văn, tác giả đã dùng phương thức diễn đạt theo kiểu thuyết minh để nói lên những hiểu biết chứ không phải là những cảm nghĩ về cầu Long Biên, qua đó ta biết được những đặc điểm chủ yếu của nó:
+ Long Biên: địa danh nơi xây dựng chiếc cầu.
1898: năm khởi công xây dựng, 4 năm sau mới xong.
+ Đu-me: tên cầu lúc đầu cho đến 8/1985
+ Long Biên: tên cầu từ sau 8/1945
+ Cầu dài 2.290m, nặng 17 ngàn tấn, được hoàn thành bởi xương máu của hàng ngàn con người Việt Nam.
Cảnh vật và sự việc đã được ghi lại trong đoạn văn này chủ yếu bằng phương thức tự sự có nhiều sắc thái biểu cảm.
Cầu Long Biên có tuyến đường sắt chạy qua và “Hai bên là đường ô tô và hành lang, ngoài cùng là tuyến dành cho người đi bộ”.
Cầu bắc qua một bãi ruộng: mía, ngô, vườn chuối phía Gia Lâm. Nơi đây, mùa đông năm 1946, Trung đoàn Thủ đô cùng nhân dân thủ đô ra đi bí mật ….
Thời kì đánh Mỹ, cầu bị ném bom dữ dội nhiều lần, lần cuối chúng đánh bằng bom la de chiếc cầu bị rách nát tả tơi nhưng vẫn sừng sững giữa mênh mông trời nước.
Bao năm qua, dưới chân cầu là dòng nước sông Hồng đỏ rực “chiếc cầu như chiếc võng đu đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”.
Như vậy, việc kể lại những cảnh vật và sự việc cho ta thấy rõ cầu Long Biên là một nhân chứng lịch sử.
Việc trích dẫn một bài thơ và lời một bản nhạc trong đoạn văn có tác dụng nhấn mạnh thêm dấu ấn lịch sử của Trung đoàn Thủ đô với những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Như vậy, dấu ấn lịch sử và hình ảnh của cầu Long Biên đã làm cho bao thế hệ người Việt Nam xúc động, và còn làm cho khách nước ngoài phải suy nghĩ và chính cây cầu này như một “nhân chứng sống động, đâu thương và anh dũng”. Tác giả đã sử dụng phương thức biểu hiện tình cảm rõ rệt bằng những từ ngữ gợi cảm: khao khát, bi thương, hoàng tránh, nhói đau, oai hùng, tả tơi, ứa máu; đó là những danh từ, động từ và tính từ có sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.
Do vậy, từ khoảng cách đôi bờ, tác giả muốn lấy tìm mình “nhịp cầu mới” đón khách du lịch trên thế giới đến tham quan.
Soạn bài: Cầu Long Biên – Chứng nhân lịch sử
CẦU LONG BIÊN – CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ
(Thuý Lan)
I. VỀ THỂ LOẠI
Về tính chất, văn bản nhật dụng đề cập những yếu tố gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống hằng ngày của con người và xã hội đương đại như thiên nhiên, môi trường, dân số, sức khoẻ, quyền trẻ em, hiểm hoạ ma tuý…
Phương thức biểu đạt của văn bản nhật dụng rất đa dạng. Có thể là bút kí, phóng sự, ghi chép, thư tín…
Các bài học: Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử (của Thuý Lan), Bức thư của thủ lính da đỏ (của Xi-át-tơn), Động Phong Nha (của Trần Hoàng) thuộc kiểu văn bản nhật dụng.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Bài văn có thể chia ba đoạn:
– Đoạn 1 (Từ đầu đến “nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của thủ đô Hà Nội”): Giới thiệu chung về cầu Long Biên qua một thế kỉ tồn tại.
– Đoạn 2 (Từ “Cầu Long Biên khi mới khánh thành” đến “nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”): Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng.
– Đoạn 3 (Từ “Bây giờ cầu Long Biên” đến hết): Cầu Long Biên trong đời sống hiện tại và cảm nghĩ của tác giả.
2. Đoạn văn từ “Cầu Long Biên khi mới khánh thành” đến “hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu” cho thấy:
– Từ điểm nhìn của ngôi thứ ba, tác giả dùng phương thức thuyết minh để cung cấp cho người đọc những hiểu biết về lai lịch tên của cầu, độ dài, cấu tạo, trọng lượng của cầu, mối quan hệ giữa sự xuất hiện của cầu với đời sống lịch sử – xã hội; qua đó khẳng định vai trò “chứng nhân lịch sử” của cầu Long Biên.
– So sánh với tư liệu được cung cấp qua hai đoạn Đọc thêm (trang 128-129, SGK) về cầu Thăng Long và Chương Dương, có thể thấy qui mô của cầu Long Biên tuy nhỏ hơn, song nó có vai trò thật quan trọng về nhiều mặt trong suốt gần 100 năm trước khi có hai cây cầu nói trên.
3. Trong đoạn văn từ “Năm 1945” đến “nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”:
+ Những cảnh vật và sự kiện đã được ghi lại: cầu Long Biên trong kí ức của tác giả khi đi học và hai hướng nhìn (từ phía nội thành và từ phía Gia Lâm); cầu Long Biên mùa đông năm 1946 – khi Trung đoàn thủ đô rút khỏi Hà Nội hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ; cầu Long Biên những năm tháng giặc Mĩ trút bom xuống Hà Nội.
+ Việc trích dẫn một bài thơ và lời một bản nhạc có tác dụng gây ấn tượng mạnh mẽ, chân thực và cụ thể về một sự kiện lịch sử mà cầu Long Biên là một nhân chứng sống.
+ Cách kể của đoạn này so với đoạn từ “Cầu Long Biên khi mới khánh thành” đến “hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu” khác nhau:
– Về ngôi kể: đoạn trước tác giả nhập vai ngôi thứ ba để kể, đoạn này tác giả trực tiếp xưng “tôi” (ngôi thứ nhất).
– Về phương thức biểu đạt: đoạn trước chủ yếu tác giả dùng phương thức thuyết minh.
– Về cách sử dụng từ ngữ, ở đoạn này tác giả sử dụng các từ ngữ có sắc thái biểu cảm mạnh mẽ như: nhớ như in, trang trọng, nằm sâu trong trí óc, say mê ngắm nhìn, yêu thương, quyến rũ, khát khao, bi thương, húng tráng, nhói đau, oanh liệt, oai hùng, thân thương, tả tơi, ứa máu…
Nhờ thế, trong đoạn này, tình cảm của tác giả bộc lộ rõ ràng và tha thiết hơn so với ở đoạn trên.
4. Đọc đoạn đầu và đoạn cuối của bài văn.
+ Tác giả đặt tên cho bài viết là Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử, không thể thay chứng nhân bằng chứng tích, bởi vì: cách dùng chứng nhân là dùng thủ pháp nhân hoá. Cách này giúp người đọc có cảm giác tác giả đã thổi hồn vào sự vật, coi cầu Long Biên là người đương thời của những thăng trầm lịch sử.
Những sự kiện lịch sử mà cầu Long Biên đã “chứng kiến”:
– Cuộc kháng chiến chống Pháp với sự kiện mùa đông năm 1946 – khi Trung đoàn thủ đô rút khỏi Hà Nội hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ;
– Năm 1972, cầu Long Biên bị giặc Mĩ trút bom đánh phá.
Cầu Long Biên trong quá trình tồn tại của mình vì thế chính là chứng nhân sống động, đau thương và anh dũng của lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và của thủ đô Hà Nội nói riêng.
+ So sánh câu cuối bài văn với câu rút gọn: Còn tôi, tôi cố gắng truyền tình yêu cây cầu của mình vào trái tim họ, để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam. Câu cuối trong bài văn tuy dài hơn nhưng có sắc thái biểu cảm rõ hơn nhờ cách diễn đạt gợi những liên tưởng thú vị (nhịp cầu vô hình).
Sở dĩ có thể nói nhịp cầu bằng thép của cầu Long Biên lại có thể trở thành nhịp cầu vô hình nối những con tim bởi vì: cầu Long Biên là chứng nhân lịch sử “sống động, đau thương và anh dũng” của người Việt Nam khiến khách du lịch nước ngoài phải “trầm ngâm”, “đứng ở nhiều góc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu” mỗi khi đến thăm nơi đây.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt
Bài kí giới thiệu về cầu Long Biên, một cây cầu được xây dựng từ thời Pháp thuộc, bắc qua sông Hồng, Hà Nội. Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của thủ đô. Cầu đã chứng kiến cảnh khổ cực của người dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc; những năm tháng hoà bình ở miền Bắc sau năm 1954 và những năm tháng chống Mĩ cứu nước. Bây giờ, ngang sông Hồng đã có cầu Chương Dương và Thăng Long, cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng đối với tác giả, đối với nhân dân Việt Nam, cầu Long Biên vẫn còn có nhiều ý nghĩa.
2. Cách đọc
Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử là một bài bút kí có xen nhiều yếu tố hồi kí. Hoà trộn các xúc cảm hồi ức trong mạch suy ngẫm và liên tưởng về thực tại, bằng cách bố cục hợp lí và sử dụng hiệu quả các chi tiết phong phú của đời sống, tác giả đã gợi được nhiều suy nghĩ đối bổ ích đối với bạn đọc.
Đọc bài văn làm rõ những thông tin về cây cầu, đồng thời thể hiện cảm xúc của tác giả về hành trình một thế kỉ cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử qua hai cuộc kháng chiến.
|
Hướng dẫn
Tìm hiểu bài văn em biết được những điều về cầu Long Biên qua đoạn văn từ “Cầu Long Biên khi mới hình thành” đến “bị chết trong quá trình làm cầu”. So sánh với tư liệu được cung cấp qua hai đoạn đọc thêm về cầu Thăng Long và Chương Dương, em có thể nhận xét thếm về quy mô và tính chất của cầu Long Biên.
Trong đoạn văn, tác giả đã dùng phương thức diễn đạt theo kiểu thuyết minh để nói lên những hiểu biết chứ không phải là những cảm nghĩ về cầu Long Biên, qua đó ta biết được những đặc điểm chủ yếu của nó:
+ Long Biên: địa danh nơi xây dựng chiếc cầu.
1898: năm khởi công xây dựng, 4 năm sau mới xong.
+ Đu-me: tên cầu lúc đầu cho đến 8/1985
+ Long Biên: tên cầu từ sau 8/1945
+ Cầu dài 2.290m, nặng 17 ngàn tấn, được hoàn thành bởi xương máu của hàng ngàn con người Việt Nam.
Cảnh vật và sự việc đã được ghi lại trong đoạn văn này chủ yếu bằng phương thức tự sự có nhiều sắc thái biểu cảm.
Cầu Long Biên có tuyến đường sắt chạy qua và “Hai bên là đường ô tô và hành lang, ngoài cùng là tuyến dành cho người đi bộ”.
Cầu bắc qua một bãi ruộng: mía, ngô, vườn chuối phía Gia Lâm. Nơi đây, mùa đông năm 1946, Trung đoàn Thủ đô cùng nhân dân thủ đô ra đi bí mật ….
Thời kì đánh Mỹ, cầu bị ném bom dữ dội nhiều lần, lần cuối chúng đánh bằng bom la de chiếc cầu bị rách nát tả tơi nhưng vẫn sừng sững giữa mênh mông trời nước.
Bao năm qua, dưới chân cầu là dòng nước sông Hồng đỏ rực “chiếc cầu như chiếc võng đu đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”.
Như vậy, việc kể lại những cảnh vật và sự việc cho ta thấy rõ cầu Long Biên là một nhân chứng lịch sử.
Việc trích dẫn một bài thơ và lời một bản nhạc trong đoạn văn có tác dụng nhấn mạnh thêm dấu ấn lịch sử của Trung đoàn Thủ đô với những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Như vậy, dấu ấn lịch sử và hình ảnh của cầu Long Biên đã làm cho bao thế hệ người Việt Nam xúc động, và còn làm cho khách nước ngoài phải suy nghĩ và chính cây cầu này như một “nhân chứng sống động, đâu thương và anh dũng”. Tác giả đã sử dụng phương thức biểu hiện tình cảm rõ rệt bằng những từ ngữ gợi cảm: khao khát, bi thương, hoàng tránh, nhói đau, oai hùng, tả tơi, ứa máu; đó là những danh từ, động từ và tính từ có sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.
Do vậy, từ khoảng cách đôi bờ, tác giả muốn lấy tìm mình “nhịp cầu mới” đón khách du lịch trên thế giới đến tham quan.
Soạn bài: Cầu Long Biên – Chứng nhân lịch sử
CẦU LONG BIÊN – CHỨNG NHÂN LỊCH SỬ
(Thuý Lan)
I. VỀ THỂ LOẠI
Về tính chất, văn bản nhật dụng đề cập những yếu tố gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống hằng ngày của con người và xã hội đương đại như thiên nhiên, môi trường, dân số, sức khoẻ, quyền trẻ em, hiểm hoạ ma tuý…
Phương thức biểu đạt của văn bản nhật dụng rất đa dạng. Có thể là bút kí, phóng sự, ghi chép, thư tín…
Các bài học: Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử (của Thuý Lan), Bức thư của thủ lính da đỏ (của Xi-át-tơn), Động Phong Nha (của Trần Hoàng) thuộc kiểu văn bản nhật dụng.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Bài văn có thể chia ba đoạn:
– Đoạn 1 (Từ đầu đến “nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của thủ đô Hà Nội”): Giới thiệu chung về cầu Long Biên qua một thế kỉ tồn tại.
– Đoạn 2 (Từ “Cầu Long Biên khi mới khánh thành” đến “nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”): Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng.
– Đoạn 3 (Từ “Bây giờ cầu Long Biên” đến hết): Cầu Long Biên trong đời sống hiện tại và cảm nghĩ của tác giả.
2. Đoạn văn từ “Cầu Long Biên khi mới khánh thành” đến “hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu” cho thấy:
– Từ điểm nhìn của ngôi thứ ba, tác giả dùng phương thức thuyết minh để cung cấp cho người đọc những hiểu biết về lai lịch tên của cầu, độ dài, cấu tạo, trọng lượng của cầu, mối quan hệ giữa sự xuất hiện của cầu với đời sống lịch sử – xã hội; qua đó khẳng định vai trò “chứng nhân lịch sử” của cầu Long Biên.
– So sánh với tư liệu được cung cấp qua hai đoạn Đọc thêm (trang 128-129, SGK) về cầu Thăng Long và Chương Dương, có thể thấy qui mô của cầu Long Biên tuy nhỏ hơn, song nó có vai trò thật quan trọng về nhiều mặt trong suốt gần 100 năm trước khi có hai cây cầu nói trên.
3. Trong đoạn văn từ “Năm 1945” đến “nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”:
+ Những cảnh vật và sự kiện đã được ghi lại: cầu Long Biên trong kí ức của tác giả khi đi học và hai hướng nhìn (từ phía nội thành và từ phía Gia Lâm); cầu Long Biên mùa đông năm 1946 – khi Trung đoàn thủ đô rút khỏi Hà Nội hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ; cầu Long Biên những năm tháng giặc Mĩ trút bom xuống Hà Nội.
+ Việc trích dẫn một bài thơ và lời một bản nhạc có tác dụng gây ấn tượng mạnh mẽ, chân thực và cụ thể về một sự kiện lịch sử mà cầu Long Biên là một nhân chứng sống.
+ Cách kể của đoạn này so với đoạn từ “Cầu Long Biên khi mới khánh thành” đến “hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu” khác nhau:
– Về ngôi kể: đoạn trước tác giả nhập vai ngôi thứ ba để kể, đoạn này tác giả trực tiếp xưng “tôi” (ngôi thứ nhất).
– Về phương thức biểu đạt: đoạn trước chủ yếu tác giả dùng phương thức thuyết minh.
– Về cách sử dụng từ ngữ, ở đoạn này tác giả sử dụng các từ ngữ có sắc thái biểu cảm mạnh mẽ như: nhớ như in, trang trọng, nằm sâu trong trí óc, say mê ngắm nhìn, yêu thương, quyến rũ, khát khao, bi thương, húng tráng, nhói đau, oanh liệt, oai hùng, thân thương, tả tơi, ứa máu…
Nhờ thế, trong đoạn này, tình cảm của tác giả bộc lộ rõ ràng và tha thiết hơn so với ở đoạn trên.
4. Đọc đoạn đầu và đoạn cuối của bài văn.
+ Tác giả đặt tên cho bài viết là Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử, không thể thay chứng nhân bằng chứng tích, bởi vì: cách dùng chứng nhân là dùng thủ pháp nhân hoá. Cách này giúp người đọc có cảm giác tác giả đã thổi hồn vào sự vật, coi cầu Long Biên là người đương thời của những thăng trầm lịch sử.
Những sự kiện lịch sử mà cầu Long Biên đã “chứng kiến”:
– Cuộc kháng chiến chống Pháp với sự kiện mùa đông năm 1946 – khi Trung đoàn thủ đô rút khỏi Hà Nội hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ;
– Năm 1972, cầu Long Biên bị giặc Mĩ trút bom đánh phá.
Cầu Long Biên trong quá trình tồn tại của mình vì thế chính là chứng nhân sống động, đau thương và anh dũng của lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và của thủ đô Hà Nội nói riêng.
+ So sánh câu cuối bài văn với câu rút gọn: Còn tôi, tôi cố gắng truyền tình yêu cây cầu của mình vào trái tim họ, để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam. Câu cuối trong bài văn tuy dài hơn nhưng có sắc thái biểu cảm rõ hơn nhờ cách diễn đạt gợi những liên tưởng thú vị (nhịp cầu vô hình).
Sở dĩ có thể nói nhịp cầu bằng thép của cầu Long Biên lại có thể trở thành nhịp cầu vô hình nối những con tim bởi vì: cầu Long Biên là chứng nhân lịch sử “sống động, đau thương và anh dũng” của người Việt Nam khiến khách du lịch nước ngoài phải “trầm ngâm”, “đứng ở nhiều góc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu” mỗi khi đến thăm nơi đây.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt
Bài kí giới thiệu về cầu Long Biên, một cây cầu được xây dựng từ thời Pháp thuộc, bắc qua sông Hồng, Hà Nội. Cầu Long Biên như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của thủ đô. Cầu đã chứng kiến cảnh khổ cực của người dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc; những năm tháng hoà bình ở miền Bắc sau năm 1954 và những năm tháng chống Mĩ cứu nước. Bây giờ, ngang sông Hồng đã có cầu Chương Dương và Thăng Long, cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường nhưng đối với tác giả, đối với nhân dân Việt Nam, cầu Long Biên vẫn còn có nhiều ý nghĩa.
2. Cách đọc
Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử là một bài bút kí có xen nhiều yếu tố hồi kí. Hoà trộn các xúc cảm hồi ức trong mạch suy ngẫm và liên tưởng về thực tại, bằng cách bố cục hợp lí và sử dụng hiệu quả các chi tiết phong phú của đời sống, tác giả đã gợi được nhiều suy nghĩ đối bổ ích đối với bạn đọc.
Đọc bài văn làm rõ những thông tin về cây cầu, đồng thời thể hiện cảm xúc của tác giả về hành trình một thế kỉ cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử qua hai cuộc kháng chiến.
|
Hướng dẫn
Điểm nhấn của văn bản Bài toán dân số chính là những sốliệu theo thống kê của hội nghị Cai-rô (Ai Cập) họp ngày 5 tháng 9 năm 1994 đưa ra. Những sốliệu này cho thấy tỉ lệ sinh con của phụ nữ khắp các nơi trên thế giới là rất lớn, phụ nữ Ấn Độ là 4,5; Nê-pan là 6,3…, tính chung toàn châu Phi là 5,8; phụ nữ Việt Nam là 3,7. Như vậy, phấn đấu đểmỗi gia đình có từ một đến hai con là một chỉ tiêu rất khó khăn. Với tỉ lệ hằng năm tăng 1,73 % như mười lăm năm trước và 1,57% năm 1990 thì dân số hành tinh của chúng ta năm 2015 sẽ là hơn 7 tỉ người.Một vấn đề cần được quan tâm là phụ nữ ởnhững nước nghèo lại có khả năng sinh nhiềucon. Những nước kém phát triển ở hai châu lục là châu Phi và châu Á lại là những nước có tốc độ gia tăng dân sốnhiều nhất. Chính sự phát triển dân số ào ạt này ảnh hưởng đến khả năng phát triển xã hội của những nước đó. Sự bùng nổ dân sốluôn đi kèm với nghèonàn, lạc hậu, kinh tế kém phát triển, văn hóa, giáo dục không được cải thiện… Ngược lại, khi kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục không được nâng cao thì thì không thể khống chế được tình trạng gia tăng dân số. Hai mặt trên có liên quan với nhau và tác động trực tiếp lên nhau, ở những nước có nền kinh tế phát triển cao như Nhật, Đức, Mĩ… tỉ lệ sinh của họ rất thấp; trong khi đó những nước nghèo đói nhất lại có tỉ lệ sinh cao nhất.
Từ thực trạng trên, muốn giải quyết vấn nạn bùng nổ dân số cần phải cải thiện trước tiên về kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa., cần có sự trợ giúp của các nước phát triển trong sự nghiệp ngăn chặn sự gia tăng dân sốquá mức.
Cảm nhận của em sau khi đọc văn bản Bài toán dân số của tác giả Thái An.
Bài làm
Bài toán dân số là một văn bản nhật dụng, chủ đề nói về “dân số và tương lai của dân tộc, nhân loại”.
Bài toán dân sốviết theo phương thức lập luận kết hợp với tự sự (lập luận là chính). Người viết bắt đầu kể lại câu chuyện về một bài toán cổ nên cách nêu vấn đề nhẹ nhàng và hấp dẫn.
Có thể nói, chủ đề bao trùm mà tác giả muốn làm nổi bật là thế giới đang đứng trước nguy cơ bùng nổ và gia tăng dân số quá nhanh.Đó sẽ là một hiểm họa phải báo động và là vấn đề “tồn tại hay không tồn tại” của chính loài người.
Để làm sáng tỏ chủ đề chính đã nêu, tác giả đã lập luận theo lôgíc sau:
– Nếu bàn cờ tướng gồm 64 ô, số thóc trong mỗi ô được tăng theo cấp sốnhân, công bội là hai, thì tổng số thóc nhiều đến mức có thể phủ kín bề mặt trái đất.
– Trái đất từ khi bắt đầu chỉ có 2 người, thế mà đến năm 1995 đã có 5,63 tỉ người. Theo bài toán cổ, nếu loàingười tăng theo cấp số nhân với công bội là2thì tổng dân số vào năm 1995 đã đạt đến ô thứ 30. Đó là đã trừ đi tỉ lệ tử vong.
Trong thực tế, khả năng sinh con ở phụ nữ, nhất là châu Á, châu Phi lại chiếm một tỉ lệ rất cao nên việc phấn đấu để mỗi gia đình có một đến hai con là rất khó khăn. Nếu dân sốthế giới tăng theo tỉ lệ hàng năm là 1,73 hoặc 1,57 vào năm 1990 (tức là nhỏ hơn hai) thì tới năm 2015 tổng dân số nhân loại đã hơn 7 tỉ người. “Số dân ấy đã mon men sang ô thứ 31 của bàn cờ”.
– Nếu cứ để dân số bùng nổ và gia tăng như thế thì chẳng mấy chốc 64 ô của bàn cờ sẽ bị lấp kín và khi đó mỗi người chỉ còn một chỗ ở với diện tích như một hạt thóc trên Trái Đất. Điều đó cũng có nghĩa là loài người muốn tồn tại thì phải hạn chế sự bùng nổ và tốc độ gia tăng dân số.
Như thế có thể thấy bài văn nhật dụng này không chỉ phục vụ cho chủ đề dân sốmà còn đề cập đến tương lai của dân tộc và nhân loại.
Như vậy để trả lời con đường nào là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số? Chúng ta có thể trả lời ngay là: Chỉ bằng con đường giáo dục mới giúp mọi người hiểu ra nguy cơ bùng nổ dân số; vấn đề dân số gắn liền với sự đói nghèo hay no ấm, hạnh phúc. Nhưng sinh đẻ là quyền của phụ nữ, không thể cấm bằng mệnh lệnh hay các biện pháp thô bạo cho nên đẩy mạnh giáo dục cho phụ nữ là hạ thấp tỉ lệ thụ thai và tỉ lệ tử vong.
Bài viết nêu rất rõ ý nghĩa của vấn đề dân số. Dân số phát triển quá nhanh sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Thể hiện ở việc thiếu lương thực, thực phẩm, môi trường quá đông đúc, thiếu việc làm…, kết quả dẫn đến nghèo nàn lạc hậu, hạn chế giáo dục. Trong khi đó, giáo dục không phát triển lại tạo nghèo nàn lạc hậu. Đó là cái vòng dẫn đến đói nghèo.
Vấn đề dân số đã được thể hiện như thế nào trong văn bản Bài toán dân số của Thái An
Bài làm
Viết về hiểm hoạ của việc gia tăng dân số quá nhanh – một đề tài vừa khó vừa khô khan, tác giả của “Bài toán dân số” đã chọn cách vào đề thật hấp dẫn, vừa thực tế, vừa giàu sức thuyết phục. Từ câu chuyện nhà thông thái kén rể đến 64 ô bàn cờ với một lượng thóc “nhiều đến mức có thể phù khắp bề mặt Trái Đất”, bạn đọc dễ dàng hình dung về sự gia tăng dân số chóng mặt với tốc độ sinh sản như hiện nay.
Vấn đề chính mà tác giả đặt ra trong văn bản này là: Con người đang ngày càng tăng lên gấp bội. Nếu không hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình.
Điều làm tác giả “sáng mắt ra” ấy là: không ngờ một vấn đề rất hiện đại mới được đặt ra gần đây (vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình) thế mà dường như nó đã được đặt ra từ thời cổ đại.
Nhập đề dưới hình thức một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái, phần kể của nhà văn đã vừa gây được sự tò mò, hấp dẫn của người đọc, vừa mang lại một kết luận rất bất ngờ ở phía cuối của câu chuyện kể. Lấy câu chuyện ấy làm tiền đề, tác giả đã so sánh ngay với sự bùng nổ và gia tăng dân số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân). Cách so sánh ấy, quả thực đã làm cho người đọc hình dung một cách nhanh chóng đến tốc độ gia tăng kinh khủng của dân số. Và đây cũng chính là trọng tâm vấn đề mà bài viết muôn nêu lên.
Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô là rất có ý nghĩa. Trước hết, nó thông tin cho người ta thấy người phụ nữ có thể sinh rất nhiều con (ít như Việt Nam thì trung bình cũng là 3,7; nhiều như Ru-an-đa thì tới 8,1). Từ đó có thể thấy chỉ tiêu mỗi gia đình có hai con là rất khó khăn. Thứ hai, các con số thống kê còn cho thấy các nước chậm phát triển lại sinh con rất nhiều.
Các nước được kể trong văn bản thuộc hai nhóm:
– Châu Phi: Nê-pan, Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca.
– Châu Á: Ấn Độ và Việt Nam.
Có thể rút ra nhận xét: Những nước kém phát triển ở hai lục địa nêu trên là những nước dân số tăng nhanh. Sự bùng nổ dân số sẽ đi kèm với sự nghèo nàn lac hậu, kinh tế chậm phát triển, văn hoá, giáo dục không được nâng cao… Ngược lại, kinh tế, văn hoá, giáo dục càng yếu kém thì lại càng không thể khống chế được sự gia tăng dân số. Nói cách khác, hai vấn đề này quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động đến nhau một cách sâu sắc.
LUYỆN TẬP
Đề 1. Phân tích văn bản Bài toán dân số của tác giả Thái An.
|
Hướng dẫn
Điểm nhấn của văn bản Bài toán dân số chính là những sốliệu theo thống kê của hội nghị Cai-rô (Ai Cập) họp ngày 5 tháng 9 năm 1994 đưa ra. Những sốliệu này cho thấy tỉ lệ sinh con của phụ nữ khắp các nơi trên thế giới là rất lớn, phụ nữ Ấn Độ là 4,5; Nê-pan là 6,3…, tính chung toàn châu Phi là 5,8; phụ nữ Việt Nam là 3,7. Như vậy, phấn đấu đểmỗi gia đình có từ một đến hai con là một chỉ tiêu rất khó khăn. Với tỉ lệ hằng năm tăng 1,73 % như mười lăm năm trước và 1,57% năm 1990 thì dân số hành tinh của chúng ta năm 2015 sẽ là hơn 7 tỉ người.Một vấn đề cần được quan tâm là phụ nữ ởnhững nước nghèo lại có khả năng sinh nhiềucon. Những nước kém phát triển ở hai châu lục là châu Phi và châu Á lại là những nước có tốc độ gia tăng dân sốnhiều nhất. Chính sự phát triển dân số ào ạt này ảnh hưởng đến khả năng phát triển xã hội của những nước đó. Sự bùng nổ dân sốluôn đi kèm với nghèonàn, lạc hậu, kinh tế kém phát triển, văn hóa, giáo dục không được cải thiện… Ngược lại, khi kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục không được nâng cao thì thì không thể khống chế được tình trạng gia tăng dân số. Hai mặt trên có liên quan với nhau và tác động trực tiếp lên nhau, ở những nước có nền kinh tế phát triển cao như Nhật, Đức, Mĩ… tỉ lệ sinh của họ rất thấp; trong khi đó những nước nghèo đói nhất lại có tỉ lệ sinh cao nhất.
Từ thực trạng trên, muốn giải quyết vấn nạn bùng nổ dân số cần phải cải thiện trước tiên về kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa., cần có sự trợ giúp của các nước phát triển trong sự nghiệp ngăn chặn sự gia tăng dân sốquá mức.
Cảm nhận của em sau khi đọc văn bản Bài toán dân số của tác giả Thái An.
Bài làm
Bài toán dân số là một văn bản nhật dụng, chủ đề nói về “dân số và tương lai của dân tộc, nhân loại”.
Bài toán dân sốviết theo phương thức lập luận kết hợp với tự sự (lập luận là chính). Người viết bắt đầu kể lại câu chuyện về một bài toán cổ nên cách nêu vấn đề nhẹ nhàng và hấp dẫn.
Có thể nói, chủ đề bao trùm mà tác giả muốn làm nổi bật là thế giới đang đứng trước nguy cơ bùng nổ và gia tăng dân số quá nhanh.Đó sẽ là một hiểm họa phải báo động và là vấn đề “tồn tại hay không tồn tại” của chính loài người.
Để làm sáng tỏ chủ đề chính đã nêu, tác giả đã lập luận theo lôgíc sau:
– Nếu bàn cờ tướng gồm 64 ô, số thóc trong mỗi ô được tăng theo cấp sốnhân, công bội là hai, thì tổng số thóc nhiều đến mức có thể phủ kín bề mặt trái đất.
– Trái đất từ khi bắt đầu chỉ có 2 người, thế mà đến năm 1995 đã có 5,63 tỉ người. Theo bài toán cổ, nếu loàingười tăng theo cấp số nhân với công bội là2thì tổng dân số vào năm 1995 đã đạt đến ô thứ 30. Đó là đã trừ đi tỉ lệ tử vong.
Trong thực tế, khả năng sinh con ở phụ nữ, nhất là châu Á, châu Phi lại chiếm một tỉ lệ rất cao nên việc phấn đấu để mỗi gia đình có một đến hai con là rất khó khăn. Nếu dân sốthế giới tăng theo tỉ lệ hàng năm là 1,73 hoặc 1,57 vào năm 1990 (tức là nhỏ hơn hai) thì tới năm 2015 tổng dân số nhân loại đã hơn 7 tỉ người. “Số dân ấy đã mon men sang ô thứ 31 của bàn cờ”.
– Nếu cứ để dân số bùng nổ và gia tăng như thế thì chẳng mấy chốc 64 ô của bàn cờ sẽ bị lấp kín và khi đó mỗi người chỉ còn một chỗ ở với diện tích như một hạt thóc trên Trái Đất. Điều đó cũng có nghĩa là loài người muốn tồn tại thì phải hạn chế sự bùng nổ và tốc độ gia tăng dân số.
Như thế có thể thấy bài văn nhật dụng này không chỉ phục vụ cho chủ đề dân sốmà còn đề cập đến tương lai của dân tộc và nhân loại.
Như vậy để trả lời con đường nào là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số? Chúng ta có thể trả lời ngay là: Chỉ bằng con đường giáo dục mới giúp mọi người hiểu ra nguy cơ bùng nổ dân số; vấn đề dân số gắn liền với sự đói nghèo hay no ấm, hạnh phúc. Nhưng sinh đẻ là quyền của phụ nữ, không thể cấm bằng mệnh lệnh hay các biện pháp thô bạo cho nên đẩy mạnh giáo dục cho phụ nữ là hạ thấp tỉ lệ thụ thai và tỉ lệ tử vong.
Bài viết nêu rất rõ ý nghĩa của vấn đề dân số. Dân số phát triển quá nhanh sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Thể hiện ở việc thiếu lương thực, thực phẩm, môi trường quá đông đúc, thiếu việc làm…, kết quả dẫn đến nghèo nàn lạc hậu, hạn chế giáo dục. Trong khi đó, giáo dục không phát triển lại tạo nghèo nàn lạc hậu. Đó là cái vòng dẫn đến đói nghèo.
Vấn đề dân số đã được thể hiện như thế nào trong văn bản Bài toán dân số của Thái An
Bài làm
Viết về hiểm hoạ của việc gia tăng dân số quá nhanh – một đề tài vừa khó vừa khô khan, tác giả của “Bài toán dân số” đã chọn cách vào đề thật hấp dẫn, vừa thực tế, vừa giàu sức thuyết phục. Từ câu chuyện nhà thông thái kén rể đến 64 ô bàn cờ với một lượng thóc “nhiều đến mức có thể phù khắp bề mặt Trái Đất”, bạn đọc dễ dàng hình dung về sự gia tăng dân số chóng mặt với tốc độ sinh sản như hiện nay.
Vấn đề chính mà tác giả đặt ra trong văn bản này là: Con người đang ngày càng tăng lên gấp bội. Nếu không hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình.
Điều làm tác giả “sáng mắt ra” ấy là: không ngờ một vấn đề rất hiện đại mới được đặt ra gần đây (vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình) thế mà dường như nó đã được đặt ra từ thời cổ đại.
Nhập đề dưới hình thức một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái, phần kể của nhà văn đã vừa gây được sự tò mò, hấp dẫn của người đọc, vừa mang lại một kết luận rất bất ngờ ở phía cuối của câu chuyện kể. Lấy câu chuyện ấy làm tiền đề, tác giả đã so sánh ngay với sự bùng nổ và gia tăng dân số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân). Cách so sánh ấy, quả thực đã làm cho người đọc hình dung một cách nhanh chóng đến tốc độ gia tăng kinh khủng của dân số. Và đây cũng chính là trọng tâm vấn đề mà bài viết muôn nêu lên.
Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô là rất có ý nghĩa. Trước hết, nó thông tin cho người ta thấy người phụ nữ có thể sinh rất nhiều con (ít như Việt Nam thì trung bình cũng là 3,7; nhiều như Ru-an-đa thì tới 8,1). Từ đó có thể thấy chỉ tiêu mỗi gia đình có hai con là rất khó khăn. Thứ hai, các con số thống kê còn cho thấy các nước chậm phát triển lại sinh con rất nhiều.
Các nước được kể trong văn bản thuộc hai nhóm:
– Châu Phi: Nê-pan, Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca.
– Châu Á: Ấn Độ và Việt Nam.
Có thể rút ra nhận xét: Những nước kém phát triển ở hai lục địa nêu trên là những nước dân số tăng nhanh. Sự bùng nổ dân số sẽ đi kèm với sự nghèo nàn lac hậu, kinh tế chậm phát triển, văn hoá, giáo dục không được nâng cao… Ngược lại, kinh tế, văn hoá, giáo dục càng yếu kém thì lại càng không thể khống chế được sự gia tăng dân số. Nói cách khác, hai vấn đề này quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động đến nhau một cách sâu sắc.
LUYỆN TẬP
Đề 1. Phân tích văn bản Bài toán dân số của tác giả Thái An.
|
Hướng dẫn
“Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích … Hãy đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nguồn nước ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra”.
(Macxim Gorki)
Truyện cổ tích là nguồn nước trong mát, bất tận, là nơi thấm đượm những ước mơ, khát vọng của nhân dân trong cuộc sống. Một trong những truyện được nhắt tới nhiều nhất là Tấm Cám. Đây là một câu chuyện tiêu biểu cho cuộc đấu giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và vẫn còn nguyên giá trị hiện thực cho đến ngày nay.
Thiện là gì? Thiện trong “chân, thiện, mĩ” có nghĩa là tốt” có lòng tốt, sống tốt, có lời nói, cử chỉ, hành động tốt. Người sống thiện là người tốt, hiền lành, thật bụng tin người, luôn mong được sống hạnh phúc. Tóm lại, cái thiện là những phẩm chất, hành vi tốt, ý định tốt, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của con người và vì con người. Còn cái ác là gì? Cái ác đối lập với cái thiện. Cái ác là cái xấu, cái tàn bạo của những kẻ thích gây đau khổ, tai họa, thích cướp đoạt thành quả lao động của người khác để hưởng sung sướng cho riêng mình. Kẻ ác là kẻ xấu. Đây là loại người dối trá, tham lam, hay ganh ghét, độc ác, hại người, chỉ cốt cho riêng mình được sung sướng. Kẻ xấu tìm mọi cách để làm hại người tốt. Hai phạm trù đạo đức “thiện – ác” tuy đối lập nhưng tồn lại song song trong đời sống xã hội. Bao giờ cũng vậy, trong cuộc đấu tranh muôn đời giữa cái thiện và cái ác, con người luôn mơ ước, tin tưởng vào cái thiện và cái đẹp nhất định sẽ chiến thắng.
Trong truyện, ai là đại diện cho cái thiết, cho người tốt? Đại diện cho cái thiện, cho người tốt chính là Tấm. Cô đẹp người đẹp nết. Từ xưa đến nay, hình ảnh Tấm đã trở thành một khuôn mẫu để đánh giá nét đẹp của người phụ nữ. Tấm xinh đẹp, nhân hậu, chăm chỉ và hiếu thảo. Tấm còn đại diện cho cái thiện, cho những điều chính nghĩa, lẽ phải. Nhưng cái thiện luôn bị cái ác chèn ép, bắt nạt, hãm hại. Tấm không được sống trong hạnh phúc, thứ mà đáng lẽ cô phải được nhận để xứng đáng với nhân cách tốt đẹp của mình. Ban đầu, Tấm nhu nhược, bị động, bị hãm hại, chỉ biết khóc và trong chờ và sự giúp đỡ của Bụt. Thế nhưng con người ta, khi bị áp bức quá mức, bị dồn vào thế đường cùng, đi quá giới hạn mà lòng chịu đựng cho phép thì sẽ tự vùng lên, đấu tranh kiên quyết với cái ác để giành lại hạnh phúc cho mình.
Trong truyện, ai là đại diện cho cái ác, cho người xấu? Đại diện cho cái ác, cho người xấu chính là mẹ con Cám. Chúng đại diện cho cái ác, cho những điều xấu xa, thấp hèn, trái với lương tâm. Tâm địa độc ác của chúng ngày càng lộ rõ, tàn nhẫn với nhiều thủ đoạn độc ác. Chúng quyết hại Tấm để giành cho được địa vị hoàng hậu cao sang. Bốn lần chúng giết Tấm: khi hái cau ngày giỗ cha, lúc Tám đã biến thành chim vành anh, lúc Tấm biến thành hai cây xoan đào rồi khung cửi. Giết Tấm lần thứ nhất là để giành lấy ngôi hoàng hậu. Giết Tấm những lần sau là để giữ vững ngôi sang ấy. Nhưng mỗi lần gây tội ác Cám không khỏi run sợ và ngày càng run sợ. Lần nào Cám cũng về mách mẹ và lại được mụ ta bày mưu. Tội ác không dừng, tội ác cũng không có giới hạn. Muốn giữ quyền lợi của mình, bọn bóc lột không chùn tay trước thủ đoạn nào, kể cả giết người, truy sát kiếp này, kiếp khác, không dứt
“Quyền năng của cái ác luôn chỉ là những nỗ lực vô nghĩa”
Trong xã hội xưa nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu như thế nào? Bao giờ cũng vậy, chiến thắng của cái thiện là tất yếu. Điều này rất đúng. Vì sao? Vì cái thiện là lẽ phải, là chính nghĩa, là kết tinh những giá trị đẹp đẽ nhất. Vì chiến thắng của cái thiện là chân lí của cuộc sống. Không chỉ ở Tấm Cám, bài học đạo đức về sự chiến thắng của cái thiện còn được đề cao ở rất nhiều truyện cổ khác. Chàng Thạch Sanh nghèo khổ nhưng trung thực và tài ba cuối cùng lấy được công chúa và lên làm vua. Trong Cây tre trăm đốt, anh trai cày hiền lành, chăm chỉ kết duyên cùng con gái phú ông. Sọ Dừa sánh duyên cùng cô Út. Những kết thúc có hậu đó đã ca ngợi chiến thằng rực rỡ của cái thiện.
Tuy nhiên cuộc đời thực không như cổ tích bởi còn nhiều người ở hiền mà vẫn chưa gặp lành, cái thiện vẫn bị đe dọa và cái ác nhiều khi lại là kẻ mạnh. Không có chiến thắng nào là dễ dàng và đơn giản. Chiến thắng của cái thiện cũng vậy. Trong thực tế, có khi cái thiện là những lực lượng nhỏ bé những người dân hiền lành nhân hậu, thấp cổ bé họng như con sâu, cái kiến giữa cuộc đời. Trong khi đó, cái ác thường có thế lực mạnh mẽ, xảo quyệt và đầy mưu mô hiểm độc. Trong những thời điểm và hoàn cảnh nhất định, cái thiện tạm thời bị cái ác lấn lướt và tưởng chừng thất bại, nhưng với tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, cuối cùng cái thiện cũng chiến thắng. Tóm lại, cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có thể yếu nhưng sẽ vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Và đấy là một minh chứng cho chân lí:
“Ở hiền gặp lành” và “Gieo gió gặt bão”.
Tại sao những người nhỏ bé, nghèo khổ như cô Tấm lại chiến thắng được những cái xấu, cái ác để giành lấy hạnh phúc cho mình? Đúng, cái thiện đã chiến thắng bởi nó tuy nhỏ bé nhưng không đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái xấu và cái ác. Những lúc gặp khó khăn hay đau khổ, Tấm đều được Bụt giúp đỡ vượt qua. Khi Tấm phải nhặt thóc trộn lẫn gạo, đã có đàn chim sẻ được Bụt sai xuống nhặt hộ. Khi Tấm có quần áo đẹp đi xem hội, Bụt bảo hãy đào bốn cái lọ chôn dưới chân giường … Bụt chính là ước mơ của nhân dân lao động, là sự cứu giúp cần thiết và kịp thời để Tấm đi đến thắng lợi cuối cùng. Bụt là kết tinh của tình yêu, niềm tin và sức mạnh mà nhân dân gửi gắm. Tấm xứng đáng được nhận sự cưu mang kì diệu đó bởi cô là hiện thân của cái thiện và cái đẹp. Chiến Thắng của Tấm, của cái thiện cũng chính là chiến thắng của niềm tin, ước mơ của người dân lao động sau lũy tre làng.
Truyện cổ tích có vai trò như thế nào trong việc phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu? truyện Tấm Cám trước tiên là câu chuyện trong khuôn khổ của một gia đình: những mối bất hòa mà dì ghẻ, con chồng thường xung đột với nhau. Dân gian phản ánh tình trạng đó bằng câu ca dao:
“Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”.
Tuy vậy, truyện còn có ý nghĩa sâu xa hơn, mở rộng đến phạm vi xã hội. Xét ở tầng ý nghĩa sâu hơn thì mẹ con Cám đại diện cho tầng lớp áp bức bóc lột trong xã hội, còn Tấm thì người bị áp bức. Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám thực chất là mâu thuẫn giữa người lao động và kẻ bóc lột, giữa thật thà và gian trá, giữa thiện và ác. Kẻ xấu, kẻ ác, kẻ bóc lột nắm quyền hành trong tay, tha hồ làm mưa làm gió, tác oai, tác quái. Người bị áp bức phải chịu muôn vàn khốn khổ, nhưng nếu kiên trì đấu tranh thì sẽ chiến thắng và được sống hạnh phúc. Còn kẻ áp bức bóc lột nhất định phải bị trừng phạt thích đáng. Quy luật của công lí nhân dân thời xưa là vậy:
|
Hướng dẫn
“Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích … Hãy đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nguồn nước ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra”.
(Macxim Gorki)
Truyện cổ tích là nguồn nước trong mát, bất tận, là nơi thấm đượm những ước mơ, khát vọng của nhân dân trong cuộc sống. Một trong những truyện được nhắt tới nhiều nhất là Tấm Cám. Đây là một câu chuyện tiêu biểu cho cuộc đấu giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và vẫn còn nguyên giá trị hiện thực cho đến ngày nay.
Thiện là gì? Thiện trong “chân, thiện, mĩ” có nghĩa là tốt” có lòng tốt, sống tốt, có lời nói, cử chỉ, hành động tốt. Người sống thiện là người tốt, hiền lành, thật bụng tin người, luôn mong được sống hạnh phúc. Tóm lại, cái thiện là những phẩm chất, hành vi tốt, ý định tốt, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của con người và vì con người. Còn cái ác là gì? Cái ác đối lập với cái thiện. Cái ác là cái xấu, cái tàn bạo của những kẻ thích gây đau khổ, tai họa, thích cướp đoạt thành quả lao động của người khác để hưởng sung sướng cho riêng mình. Kẻ ác là kẻ xấu. Đây là loại người dối trá, tham lam, hay ganh ghét, độc ác, hại người, chỉ cốt cho riêng mình được sung sướng. Kẻ xấu tìm mọi cách để làm hại người tốt. Hai phạm trù đạo đức “thiện – ác” tuy đối lập nhưng tồn lại song song trong đời sống xã hội. Bao giờ cũng vậy, trong cuộc đấu tranh muôn đời giữa cái thiện và cái ác, con người luôn mơ ước, tin tưởng vào cái thiện và cái đẹp nhất định sẽ chiến thắng.
Trong truyện, ai là đại diện cho cái thiết, cho người tốt? Đại diện cho cái thiện, cho người tốt chính là Tấm. Cô đẹp người đẹp nết. Từ xưa đến nay, hình ảnh Tấm đã trở thành một khuôn mẫu để đánh giá nét đẹp của người phụ nữ. Tấm xinh đẹp, nhân hậu, chăm chỉ và hiếu thảo. Tấm còn đại diện cho cái thiện, cho những điều chính nghĩa, lẽ phải. Nhưng cái thiện luôn bị cái ác chèn ép, bắt nạt, hãm hại. Tấm không được sống trong hạnh phúc, thứ mà đáng lẽ cô phải được nhận để xứng đáng với nhân cách tốt đẹp của mình. Ban đầu, Tấm nhu nhược, bị động, bị hãm hại, chỉ biết khóc và trong chờ và sự giúp đỡ của Bụt. Thế nhưng con người ta, khi bị áp bức quá mức, bị dồn vào thế đường cùng, đi quá giới hạn mà lòng chịu đựng cho phép thì sẽ tự vùng lên, đấu tranh kiên quyết với cái ác để giành lại hạnh phúc cho mình.
Trong truyện, ai là đại diện cho cái ác, cho người xấu? Đại diện cho cái ác, cho người xấu chính là mẹ con Cám. Chúng đại diện cho cái ác, cho những điều xấu xa, thấp hèn, trái với lương tâm. Tâm địa độc ác của chúng ngày càng lộ rõ, tàn nhẫn với nhiều thủ đoạn độc ác. Chúng quyết hại Tấm để giành cho được địa vị hoàng hậu cao sang. Bốn lần chúng giết Tấm: khi hái cau ngày giỗ cha, lúc Tám đã biến thành chim vành anh, lúc Tấm biến thành hai cây xoan đào rồi khung cửi. Giết Tấm lần thứ nhất là để giành lấy ngôi hoàng hậu. Giết Tấm những lần sau là để giữ vững ngôi sang ấy. Nhưng mỗi lần gây tội ác Cám không khỏi run sợ và ngày càng run sợ. Lần nào Cám cũng về mách mẹ và lại được mụ ta bày mưu. Tội ác không dừng, tội ác cũng không có giới hạn. Muốn giữ quyền lợi của mình, bọn bóc lột không chùn tay trước thủ đoạn nào, kể cả giết người, truy sát kiếp này, kiếp khác, không dứt
“Quyền năng của cái ác luôn chỉ là những nỗ lực vô nghĩa”
Trong xã hội xưa nay, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu như thế nào? Bao giờ cũng vậy, chiến thắng của cái thiện là tất yếu. Điều này rất đúng. Vì sao? Vì cái thiện là lẽ phải, là chính nghĩa, là kết tinh những giá trị đẹp đẽ nhất. Vì chiến thắng của cái thiện là chân lí của cuộc sống. Không chỉ ở Tấm Cám, bài học đạo đức về sự chiến thắng của cái thiện còn được đề cao ở rất nhiều truyện cổ khác. Chàng Thạch Sanh nghèo khổ nhưng trung thực và tài ba cuối cùng lấy được công chúa và lên làm vua. Trong Cây tre trăm đốt, anh trai cày hiền lành, chăm chỉ kết duyên cùng con gái phú ông. Sọ Dừa sánh duyên cùng cô Út. Những kết thúc có hậu đó đã ca ngợi chiến thằng rực rỡ của cái thiện.
Tuy nhiên cuộc đời thực không như cổ tích bởi còn nhiều người ở hiền mà vẫn chưa gặp lành, cái thiện vẫn bị đe dọa và cái ác nhiều khi lại là kẻ mạnh. Không có chiến thắng nào là dễ dàng và đơn giản. Chiến thắng của cái thiện cũng vậy. Trong thực tế, có khi cái thiện là những lực lượng nhỏ bé những người dân hiền lành nhân hậu, thấp cổ bé họng như con sâu, cái kiến giữa cuộc đời. Trong khi đó, cái ác thường có thế lực mạnh mẽ, xảo quyệt và đầy mưu mô hiểm độc. Trong những thời điểm và hoàn cảnh nhất định, cái thiện tạm thời bị cái ác lấn lướt và tưởng chừng thất bại, nhưng với tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, cuối cùng cái thiện cũng chiến thắng. Tóm lại, cái ác có thể mạnh nhưng không thể tồn tại vĩnh viễn, cái thiện có thể yếu nhưng sẽ vẫn luôn tồn tại để đấu tranh chống lại cái ác. Và đấy là một minh chứng cho chân lí:
“Ở hiền gặp lành” và “Gieo gió gặt bão”.
Tại sao những người nhỏ bé, nghèo khổ như cô Tấm lại chiến thắng được những cái xấu, cái ác để giành lấy hạnh phúc cho mình? Đúng, cái thiện đã chiến thắng bởi nó tuy nhỏ bé nhưng không đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái xấu và cái ác. Những lúc gặp khó khăn hay đau khổ, Tấm đều được Bụt giúp đỡ vượt qua. Khi Tấm phải nhặt thóc trộn lẫn gạo, đã có đàn chim sẻ được Bụt sai xuống nhặt hộ. Khi Tấm có quần áo đẹp đi xem hội, Bụt bảo hãy đào bốn cái lọ chôn dưới chân giường … Bụt chính là ước mơ của nhân dân lao động, là sự cứu giúp cần thiết và kịp thời để Tấm đi đến thắng lợi cuối cùng. Bụt là kết tinh của tình yêu, niềm tin và sức mạnh mà nhân dân gửi gắm. Tấm xứng đáng được nhận sự cưu mang kì diệu đó bởi cô là hiện thân của cái thiện và cái đẹp. Chiến Thắng của Tấm, của cái thiện cũng chính là chiến thắng của niềm tin, ước mơ của người dân lao động sau lũy tre làng.
Truyện cổ tích có vai trò như thế nào trong việc phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu? truyện Tấm Cám trước tiên là câu chuyện trong khuôn khổ của một gia đình: những mối bất hòa mà dì ghẻ, con chồng thường xung đột với nhau. Dân gian phản ánh tình trạng đó bằng câu ca dao:
“Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”.
Tuy vậy, truyện còn có ý nghĩa sâu xa hơn, mở rộng đến phạm vi xã hội. Xét ở tầng ý nghĩa sâu hơn thì mẹ con Cám đại diện cho tầng lớp áp bức bóc lột trong xã hội, còn Tấm thì người bị áp bức. Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám thực chất là mâu thuẫn giữa người lao động và kẻ bóc lột, giữa thật thà và gian trá, giữa thiện và ác. Kẻ xấu, kẻ ác, kẻ bóc lột nắm quyền hành trong tay, tha hồ làm mưa làm gió, tác oai, tác quái. Người bị áp bức phải chịu muôn vàn khốn khổ, nhưng nếu kiên trì đấu tranh thì sẽ chiến thắng và được sống hạnh phúc. Còn kẻ áp bức bóc lột nhất định phải bị trừng phạt thích đáng. Quy luật của công lí nhân dân thời xưa là vậy:
|
Hướng dẫn
1. Mở bài
. Giới thiệu: cuộc đời thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
2. Thân bài
a. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu
. Sinh năm 1822, mất năm 1888, quê ở tỉnh Gia Định, tục gọi là Đồ Chiểu.
. Năm 1843 ông đỗ tú tài.
. Bỏ thi khi nghe tin mẹ mất, bị mù, bị từ hôn.
. Dạy học và làm thuốc ở Bến Tre.
. Ông liên hệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh, dùng văn chương kêu gọi lòng yêu nước.
b. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu
. Nghị lực và nhân cách cao cả.
. Đồ Chiểu là một nhà giáo, một người thầy.
. Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một nhà thơ nổi tiếng.
c. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
. Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc.
. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
. “Lục Vân Tiên” lại được đánh giá là “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa”.
. Quan niệm “văn dĩ tài đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho: đó là quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu.
. Tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm nhân dân.
. Lí tưởng thẩm mĩ trong các nhân vật anh hùng.
. Lối sống trọng đạo lí và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công.
3. Kết bài:
. Đánh giá chung: cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
“Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút,
Báo nước từng này biết mấy thương”.
(Miên Thẩm)
Nền văn học trung đại như dãy núi trong đó nổi bật ba ngọn núi: ngọn núi đầu tiên là Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV, ngọn núi chính giữa là Nguyễn Du ở thế kỉXVIII và ngọn núi cuốicùng là Nguyễn Đình Chiểu ở thế kỉ XIX. Nhà thơ Đồ Chiểu từng được mệnh danh là “Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút”, đã cống hiến suốt đời cho đất nước bằng các tác phẩm văn học yêu nước của mình. Vì thế cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Trước hết chúng ta tìm hiểu tiểu sử của Nguyễn Đình Chiểu: Ông sinh năm 1822, mất năm 1888, tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); tại quê mẹ là làng TânThới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường CầuKho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Năm 1843, ông đỗ Tú tàiở trường thi Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa KỉDậu1849.Nhưng sau đó, mẹ ông mất, ông trở về chịu tang mẹ, dọc đường vị vả lại thương mẹ khóc nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả dôi mắt. Về qua chịu tang mẹ xong, ông lại bị một gia đình giàu có bội ước. Từ ấy ông vừa dạy học vừa làm thơ. Khi Pháp xâm chiếm Gia Định, ông về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm thuốc. Vốn nhiệt tình yêu nước, ông liênhệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, lãnh binh Trương Định. Ông tích cực dùng văn chương kêu gọi lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân.
Sau khi đọc xong tiểu sử, tôi có những cảm nhận rất sâu sắc về cuộc đời của ông. Trước hết, tôi rất khâm phục nhân cách cao cả của nhà thơ. Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về nghị lực và ý chí của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, đau thương: nước mất nhà tan, bản thân bị mù, bị từ hôn… nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời chính là thái độ sống có văn hoá, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Nhìn từ góc độ văn hoá, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lí, nặng tình người, tôn trọng, đề cao bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, ông sẵn sàng hi sinh, xả thân, không màng danh lợi. Vì đời, ông chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, không hám lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục cường quyền. Tóm lại, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng về nghị lực và nhân cách trong lúc đất nước có ngoại xâm. Mặc dù bị mù đôi mắt, không trực tiếp cầm gươm, cầm súng đánh giặc được, ông đã dùng văn chương như một vũ khí sắc bén để chống kẻ thù, ca ngợi những tấm gương hi sinh vì nghĩa. Dù hoàn cảnh nào ông cũng nêu cao khí tiết của người chí sĩ yêu nước.
Điều tôi ngưỡng mộ nhất là những cống hiến của ông trong lĩnh vực giáo dục. Đồ Chiểu là một nhà giáo, một người thầy trọn đời chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều cốt lõi của văn hoá Việt Nam, về đạo lí truyền thống của dân tộc và nhân cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hoá của con người Nam Bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết mà được truyền thụ đến ngày nay, trong đó có nhà thơ -nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu. Chúng ta đều biết NguyễnĐình Chiểu thuộc thế hệ học trò thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một người thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, không màng danh lợi, suốt đời chăm lo đào tạo thế hệ môn sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.
Một điều nữa cũng làm cho tôi cảm phục, đó là những cống hiến của ông trong lĩnh vực y học. Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lí phương Đông và y lí Việt Nam cả về y thuật và y đức mà y đức của cụ chính là đạo cứu người lồng trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuốn Ngư Tiều y thuật vấn đáp, một cuốn sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và yêu thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”.
Giáo sư Lê Trí Viễn viết: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỉ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lí sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn mày cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu thật cao đẹp! Và chúng ta càng khâm phục hơn nữa, càng cảm nhận sâu sắc hơn nữa khi tìm hiểu thơ văn của ông. Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã làm sống lại phong trào kháng Pháp oanh liệt, bền bỉ của nhân dân Nam Bộ. Qua những bài văn tế ca ngợi những sĩ phu, những người nông dân Lục tỉnh, ta mới hiểu hết tấm lòng trung nghĩa của ông. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nhận xét về bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc như sau: “Bài văn của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ lại bài Đại Cáo bình Ngô củaNguyễn Trãi. Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi nhưng một dân tộc. Cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà.Bài Văn tếnghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn sống hiên ngang, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc… muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
Nếu như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca bi tráng sống mãi cùng lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc thì Lục Vân Tiên lại được đánh giá là “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa”, ca ngợi “những đạo đức đáng quý trọng ở đời”. Tuy còn có ý kiến khác nhau nhưng những tác phẩm này vẫn thể hiện được cái hay, cái đẹp của về cả nội dung lẫn hình thức. Trong một thời gian khá dài từ đầu thế kỉ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, trong sinh hoạt văn hoá quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên -Kiều Nguyệt Nga đã sớm thể hiện trên sân khấu ca kịch cải lương khi bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam Bộ. Gần đây đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện…
“Trên trời có những vì sao ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.
Về quan điểm văn chương, Nguyễn Đình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm “văn dĩ tải đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà Nho quan niệm Đạo là đạo của trời, còn Đồ Chiểu trên nguyên tắc đề cao đạo trời nhưng trong thực tế ông cho rằng đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Văn chương chiến đấu vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái. Đó là quan niệm bao trùm văn chương Đồ Chiểu. Cái sâu sắc, thâm thuý trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chính tà minh bạch, hợp đạo lí, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hoá Việt Nam với quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
|
Hướng dẫn
1. Mở bài
. Giới thiệu: cuộc đời thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
2. Thân bài
a. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu
. Sinh năm 1822, mất năm 1888, quê ở tỉnh Gia Định, tục gọi là Đồ Chiểu.
. Năm 1843 ông đỗ tú tài.
. Bỏ thi khi nghe tin mẹ mất, bị mù, bị từ hôn.
. Dạy học và làm thuốc ở Bến Tre.
. Ông liên hệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh, dùng văn chương kêu gọi lòng yêu nước.
b. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu
. Nghị lực và nhân cách cao cả.
. Đồ Chiểu là một nhà giáo, một người thầy.
. Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một nhà thơ nổi tiếng.
c. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
. Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc.
. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
. “Lục Vân Tiên” lại được đánh giá là “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa”.
. Quan niệm “văn dĩ tài đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho: đó là quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu.
. Tác phẩm văn học của Nguyễn Đình Chiểu có sức sống bền vững trong tình cảm nhân dân.
. Lí tưởng thẩm mĩ trong các nhân vật anh hùng.
. Lối sống trọng đạo lí và công bằng xã hội, trọng con người và căm ghét áp bức bất công.
3. Kết bài:
. Đánh giá chung: cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
“Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút,
Báo nước từng này biết mấy thương”.
(Miên Thẩm)
Nền văn học trung đại như dãy núi trong đó nổi bật ba ngọn núi: ngọn núi đầu tiên là Nguyễn Trãi ở thế kỉ XV, ngọn núi chính giữa là Nguyễn Du ở thế kỉXVIII và ngọn núi cuốicùng là Nguyễn Đình Chiểu ở thế kỉ XIX. Nhà thơ Đồ Chiểu từng được mệnh danh là “Thư sinh đánh giặc bằng ngòi bút”, đã cống hiến suốt đời cho đất nước bằng các tác phẩm văn học yêu nước của mình. Vì thế cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Trước hết chúng ta tìm hiểu tiểu sử của Nguyễn Đình Chiểu: Ông sinh năm 1822, mất năm 1888, tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); tại quê mẹ là làng TânThới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường CầuKho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Năm 1843, ông đỗ Tú tàiở trường thi Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa KỉDậu1849.Nhưng sau đó, mẹ ông mất, ông trở về chịu tang mẹ, dọc đường vị vả lại thương mẹ khóc nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả dôi mắt. Về qua chịu tang mẹ xong, ông lại bị một gia đình giàu có bội ước. Từ ấy ông vừa dạy học vừa làm thơ. Khi Pháp xâm chiếm Gia Định, ông về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, tiếp tục dạy học và làm thuốc. Vốn nhiệt tình yêu nước, ông liênhệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là, lãnh binh Trương Định. Ông tích cực dùng văn chương kêu gọi lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân.
Sau khi đọc xong tiểu sử, tôi có những cảm nhận rất sâu sắc về cuộc đời của ông. Trước hết, tôi rất khâm phục nhân cách cao cả của nhà thơ. Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về nghị lực và ý chí của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, đau thương: nước mất nhà tan, bản thân bị mù, bị từ hôn… nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời chính là thái độ sống có văn hoá, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Nhìn từ góc độ văn hoá, Nguyễn Đình Chiểu là một con người Việt Nam trọng đạo lí, nặng tình người, tôn trọng, đề cao bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì người, ông sẵn sàng hi sinh, xả thân, không màng danh lợi. Vì đời, ông chấp nhận mọi thử thách trước khó nghèo, khổ cực, không hám lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục cường quyền. Tóm lại, cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng về nghị lực và nhân cách trong lúc đất nước có ngoại xâm. Mặc dù bị mù đôi mắt, không trực tiếp cầm gươm, cầm súng đánh giặc được, ông đã dùng văn chương như một vũ khí sắc bén để chống kẻ thù, ca ngợi những tấm gương hi sinh vì nghĩa. Dù hoàn cảnh nào ông cũng nêu cao khí tiết của người chí sĩ yêu nước.
Điều tôi ngưỡng mộ nhất là những cống hiến của ông trong lĩnh vực giáo dục. Đồ Chiểu là một nhà giáo, một người thầy trọn đời chăm lo dạy dỗ môn sinh, truyền thụ cho thế hệ tương lai những điều cốt lõi của văn hoá Việt Nam, về đạo lí truyền thống của dân tộc và nhân cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai, một nét đẹp văn hoá của con người Nam Bộ được nuôi dưỡng và phát huy chính là nhờ sự nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm huyết mà được truyền thụ đến ngày nay, trong đó có nhà thơ -nhà giáo Nguyễn Đình Chiểu. Chúng ta đều biết NguyễnĐình Chiểu thuộc thế hệ học trò thứ hai của nhà giáo Võ Trường Toản ở Gia Định, một người thầy nổi tiếng về phương pháp giáo dục tri ngôn, dưỡng khí, tập nghĩa, một nhà trí thức sớm nổi tiếng ở đất Đồng Nai – Gia Định, không màng danh lợi, suốt đời chăm lo đào tạo thế hệ môn sinh có chí, có tài, biết lấy “thảo ngay làm nghĩa cả”.
Một điều nữa cũng làm cho tôi cảm phục, đó là những cống hiến của ông trong lĩnh vực y học. Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lí phương Đông và y lí Việt Nam cả về y thuật và y đức mà y đức của cụ chính là đạo cứu người lồng trong nghĩa vụ cứu dân cứu nước. Tác phẩm lớn cuối đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuốn Ngư Tiều y thuật vấn đáp, một cuốn sách dạy đạo làm người và đạo làm thầy thuốc cứu người. Yêu nước và yêu thương con người chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
“Xưa rằng quốc thử lời khen phải
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời”.
Giáo sư Lê Trí Viễn viết: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỉ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lí sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước…”.
“Thấy người đau giống mình đau
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Đứa ăn mày cũng trời sanh
Bịnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu thật cao đẹp! Và chúng ta càng khâm phục hơn nữa, càng cảm nhận sâu sắc hơn nữa khi tìm hiểu thơ văn của ông. Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó làm vũ khí chống giặc. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã làm sống lại phong trào kháng Pháp oanh liệt, bền bỉ của nhân dân Nam Bộ. Qua những bài văn tế ca ngợi những sĩ phu, những người nông dân Lục tỉnh, ta mới hiểu hết tấm lòng trung nghĩa của ông. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nhận xét về bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc như sau: “Bài văn của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ lại bài Đại Cáo bình Ngô củaNguyễn Trãi. Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi nhưng một dân tộc. Cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà.Bài Văn tếnghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn sống hiên ngang, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc… muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
Nếu như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca bi tráng sống mãi cùng lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc thì Lục Vân Tiên lại được đánh giá là “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa”, ca ngợi “những đạo đức đáng quý trọng ở đời”. Tuy còn có ý kiến khác nhau nhưng những tác phẩm này vẫn thể hiện được cái hay, cái đẹp của về cả nội dung lẫn hình thức. Trong một thời gian khá dài từ đầu thế kỉ XX đến nay, truyện thơ Lục Vân Tiên đã là nội dung diễn xướng dân gian với các loại hình như nói thơ, hò, vè, trong sinh hoạt văn hoá quần chúng và chính đề tài Lục Vân Tiên -Kiều Nguyệt Nga đã sớm thể hiện trên sân khấu ca kịch cải lương khi bộ môn này vừa mới ra đời trên kịch trường Nam Bộ. Gần đây đề tài này đã và đang được dựng lên thành nhạc kịch hiện đại, dựng thành phim truyện…
“Trên trời có những vì sao ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.
Về quan điểm văn chương, Nguyễn Đình Chiểu tuy không nghị luận về văn chương nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan điểm “văn dĩ tải đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho, càng khác với quan niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà Nho quan niệm Đạo là đạo của trời, còn Đồ Chiểu trên nguyên tắc đề cao đạo trời nhưng trong thực tế ông cho rằng đạo làm người đáng quý hơn nhiều. Văn chương chiến đấu vị nhân sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân ái. Đó là quan niệm bao trùm văn chương Đồ Chiểu. Cái sâu sắc, thâm thuý trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chính tà minh bạch, hợp đạo lí, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hoá Việt Nam với quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
|
Hướng dẫn
“Bến quê” được lấy bối cảnh rất đơn giản, đó là bở bên kia sông hồng và nhân vật Nhĩ trong những ngày cuối đời nằm liệt giường. Nhĩ con người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất ” nay trở về và chấp nhận một bi kịch cuối cuộc đời – bị cột chặt trên giường bệnh. Nhưng cũng chính trong bi thảm đó, Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông. Cảnh vật nơi ấy đẹp như thơ như hoạ: những bông bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng đậm sắc, con sông Hồng màu đỏ nhạt, ánh nắng sớm, vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông …Những cảnh sắc vốn quen thuộc gần gũi nhưng dường như rất mới mẻ đối với anh. Ngay trong khoảnh khắc này, cảnh sắc tươi đẹp và sự giàu có của bến quê đã khơi gợi trong anh niềm xót xa vô hạn. Đó con ngườ bôn ba dâu bể, vẫn không thể ngờ được rằng, trong tầm mắt mình là “cái bờ bên kia sông Hồng”.
Bị liệt đồng nghĩa với việc Nhĩ phải làm bạn với cái giường. Mọi sinh hoạt của anh trông cả vào sự chăm sóc của Liên – vợ anh. Buổi sáng hôm ấy, bằng trực giác, anh nhận ra thời gian của mình chẳng còn bao lâu nữa, anh mới cảm nhận thấm thía về người vợ của mình. Nhĩ để ý “thấy Liên mặc áo vá ”, “những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh ”, anh nói với vợ những lời xót xa, ân hận: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm ”. Giờ đây Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn vợ sâu sắc bởi “tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ điều đó, mà sau nhiều tháng ngày bôn tẩu tìm kiếm, Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này ”. Nhĩ – con ngưuời của một thời huy hoàng, cho đến khi không còn khả năng đi lại mới phát hiện ra vẻ đẹp của bến quê cũng như sự tảo tần và đức hy sinh của vợ. Trước kia, khi còn khỏe mạnh anh chỉ biết đến những chân trời xa ngắt với những công việc cao sang mà thờ ơ, vô tình với tất cả những gì gần gũi xung quanh, kể cả nguười vợ suốt một đời yêu thương và tận tuỵ. Sự thấu hiểu muộn màng trong những ngày cuối đời dù sao cũng đem lại cho anh sự bình yên, tin cậy sau cả một đời bôn tẩu, kiếm tìm.
Vẫn chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Minh Châu tiếp tục đẩy cao trào nghịch cảnh lên hơn nữa trong tình huống truyện tiếp theo. Cũng trong buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp qua ô cửa sổ, Nhĩ bừng dậy nỗi khát khao cháy lòng và vô vọng là một lần được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Khát khao đó mang ý nghĩa sâu sắc bởi đó chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình dị mà sâu xa của cuộc sống, những giá trị dễ bị ta vô tình, bỏ qua và quên lãng nhất là lúc còn trẻ khi những khát vọng xa vời vẫy gọi, cuốn người ta đi. Sự nhận thức này chỉ đến được với ta khi đã từng trải. Với Nhĩ, đó là lúc cuối đời khi phải nằm liệt trên giường bệnh. Vì thế đó là sự thức tỉnh pha lẫn niềm ân hận xót xa: “Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết mọi sự giàu có lẫn vẻ đep của bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm say mê pha lẫn nỗi ân hận đau đớn ”. Với anh, bây giờ đó thực sự là miền đất xa lắc vì Nhĩ “lực bất tòng tâm ”. Không thể tự làm điều mình khao khát, Nhĩ nhờ con trai thay mình sang sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Oái oăm thay, đứa con không hiểu ước muốn của cha,đã đi một cách miễn cưỡng và bị cuốn vào trò chơi phá cờ thế trên hè phố. Cậu con trai có thể lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Từ đó Nhĩ nghiệm ra một qui luật khá phổ biến của đời người “Con nguười ta trên đường đời thật khó tránh đuợc những điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Anh không trách con vì “nó đã thấy gì hẫp dẫn bên kia sông đâu ”.
Cuối cùng, tác giả dưới ngòi bút tài tình của mình đã thắt nút câu chuyện bằng một đoạn miêu tả trí tưởng tượng của Nhân vật chính, hay nói đúng hơn một giấc mơ của Nhĩ tưởng tượng chính mình như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên mặt đất dấp dính phù sa. Nhĩ xúc động mạnh, chân dung anh khác thường “mặt mũi đỏ rựng, hai mắt long lanh chứa môt nỗi say mê đầy đau khổ ”. Khi con đò sắp chạm vào bờ đất bên này, Nhĩ thu hết tàn lực, đu người lên cửa sổ, giơ cánh tay gầy guộc “khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó ”. Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục con trai hãy mau hơn kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày? Cái ước mong thôi thúc đặt vào chính đứa con trai nhỏ của Nhĩ cũng là lời nhắn gửi thiết tha của nhân vật: mỗi người hãy vượt lên những cái vòng vèo hoặc chùng chình trên đường đời của mình để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất gần gũi bình dị mà bền vững.
|
Instruct
"Countryside Harbor" is set in a very simple setting, on the other side of the Red River and the character Nhi is bedridden in the last days of his life. Nhi, a person who "has been to every corner of the earth" now returns and accepts a tragedy at the end of his life - being tied to a hospital bed. But in that tragedy, Nhi discovered the strange beauty of the mudflats across the river. The scenery there is as beautiful as a painting: the sparse but colorful end-of-season linden flowers, the light red Red River, the early sunlight, the old alluvial area of the mudflats on the other side of the river... These familiar scenes familiar but seemed very new to him. Right at this moment, the beautiful scenery and wealth of the countryside evoked infinite sadness in him. That person wandered around the world, still unable to imagine that in his sight was "the other bank of the Red River".
Being paralyzed means Nhi has to make friends with the bed. All of his activities depend on the care of Lien - his wife. That morning, he intuitively realized that his time was short before he felt deeply about his wife. Nhi noticed "seeing Lien wearing a patched shirt", "thin fingers caressing my shoulder", he told his wife sad and regretful words: "All my life I have only made you miserable". Now Nhi truly understands and is deeply grateful to his wife because "Lien's soul still retains intact the traits of perseverance and sacrifice from many generations ago, and thanks to that, after many months of wandering Searching, Nhi has found refuge in family these days. Nhi - a man of a glorious time, until he was no longer able to walk, he discovered the beauty of the countryside as well as his wife's diligence and sacrifice. Previously, when he was healthy, he only knew distant horizons with high-class jobs but was indifferent and indifferent to everything close to him, including his loving and devoted wife. . The belated understanding in the last days of his life nonetheless brought him peace and trust after a lifetime of wandering and searching.
Still not stopping there, Nguyen Minh Chau continued to push the climax of adversity even further in the next story situation. That same morning, when he recognized the beauty through the window, Nhi awoke with a burning and hopeless desire to once set foot on the mudflats across the river. That desire has profound meaning because it is an awakening to the lasting, simple yet profound values of life, values that are easily overlooked, overlooked and forgotten, especially when young. when distant aspirations beckon and sweep people away. This realization can only come to us through experience. For Nhi, it was the end of his life when he had to lie in bed. So it was an awakening mixed with regret: "Perhaps only you who have experienced, have imprinted your heels on every strange horizon can see all the richness and beauty of the mudflats?" The Red River right on the other bank, both in its outlines and in what he personally discovered, was like a passion mixed with painful regret. For him, now it is truly a far away land because Nhi "cannot help his mind". Unable to do what he desired, Nhi asked his son to cross the river for him and set foot on the fertile alluvial ground. Unfortunately, the son did not understand his father's wishes, went reluctantly and got caught up in the game of chess on the sidewalk. The son may miss the only ferry of the day. From there, Nhi realized a fairly common rule of human life: "It is difficult for people to avoid twists and turns on the road of life." He doesn't blame his son because "he hasn't seen anything attractive on the other side of the river".
Finally, the author, with his ingenious pen, tied the story with a passage describing the Main Character's imagination, or more accurately, a dream of Nhi imagining himself as a slow adventurer. Slowly place each step on the silt-covered ground. Nhi was deeply moved, his portrait was unusual, "his face was red, his eyes were sparkling with a passion full of suffering". When the boat was about to touch the shore on this side, Nhi gathered all his remaining strength, hung his body up to the window, and raised his thin arm "resolutely as if urgently signaling someone". Is he impatiently urging his son to hurry so he doesn't miss the only ferry of the day? The compelling wish placed on Nhi's young son is also the character's passionate message: each person should overcome the twists and turns on their life path to reach true values. which is very close, simple yet sustainable.
|
Hướng dẫn
Trong bài thơ này, những câu thơ đầu được tác giả dành để tập trung giới thiệu về quê hương của các anh bộ đội. Các anh mỗi người một quê – những vùng quê nghèo khó – song đã về đây để cùng tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Với ngôn từ mộc mạc, giản dị, chân chất, mang đậm nét đồng quê, nhà thơ đã dẫn dắt người đọc cảm nhận về quê hương các anh – những người lính một cách thật nhất.
Cuộc sống của người lính cụ Hồ trong kháng chiến có bao nhiêu vất vả, cực khổ, chúng ta đã được nghe rất nhiều. Đó thật sự là những tháng ngày nếm mật nằm gai để phục vụ cho sự nghiệp cao đẹp của toàn dân tộc, sự nghiệp giải phóng đất nước. Các anh có đủ mọi hoàn cảnh để ta phải cảm thán “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá” trong những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn sốt rét rừng hành hạ…Thế nhưng, vượt lên trên tất cả khó khăn, những người lính vẫn “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Cái năm tay ấy, chính đôi tay nắm chặt ấy lên ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc.
Kết tụ ở cuối bài thơ là những hình ảnh
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Chỉ với ba câu thơ mà tác giả đã vẽ nên một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Điểm nhấn trong bức tranh ấy là ba hình ảnh gắn kết với nhau: đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Điều gì đã làm cho những con người bằng da, bằng thịt ấy, đêm khuya trong rừng sâu thẳm, giá lạnh, sương gió, đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết vẫn nhận ra là đêm có trăng, trăng treo đầu ngọn súng? Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tượng trưng. Chính là sức mạnh của tình người trong sinh tử, tình đồng đội trong cam go giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Có một thứ tình nằm trong nhiều thứ tình, mà lại khác biệt những thứ tình cảm khác, nó mang tên tình đồng đội. Tình đồng đội đã sưởi ấm tâm hồn người lính, đã kết tinh một nguồn nội lực phi thường.
Khi nói về đứa con tinh thần của mình, Chính Hữu đã bộc bạch ” “Đầu súng trăng treo”, ngoài hình ảnh, bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn”. Hình ảnh có phần chân thực của cuộc kháng chiến, của những người lính khi chờ giặc tới, cũng có phần rất đẹp, rất nên thơ.
Giá trị tượng trưng của “Đầu súng trăng treo” được tạo nên nhờ vào việc sử dụng bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa, vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Vượt ra ngoài ý nghĩa của ngôn từ, ta thấy sáng ngời lên thứ tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời lửa đạn, chiến chinh. Người đọc thơ không khỏi xúc động, bất ngờ trước hình ảnh thơ độc đáo này, đây cũng là điểm thú vị, thu hút trong thơ Chính Hữu. Qua đó, ta cũng thấy toát lên mục đích cao đẹp, lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ trong những tháng ngày xông pha chiến trận.
|
Instruct
In this poem, the author's first verses focus on introducing the soldiers' homeland. Each of you has a hometown - poor countryside - but came here to join the resistance, endure hardships, and fight hard together. With rustic, simple, sincere, and rustic language, the poet guides readers to feel the homeland of the soldiers - the soldiers in the most real way.
We have heard a lot about the life of Uncle Ho's soldiers during the resistance war. Those were truly the days of tasting the honey of thorns to serve the noble cause of the entire nation, the cause of liberating the country. You have all kinds of situations that make us exclaim, "Your shirt has torn shoulders, my pants have a few patches" on cold nights with only a thin blanket or attacks of wild malaria... However, overcoming Despite all the difficulties, the soldiers still "love each other and hold hands". Those five hands, those clenched hands represent the sacred and beautiful meaning of teamwork and the determination to fight the enemy.
At the end of the poem are the images
“Tonight, the forest is deserted with hoarfrost
Standing side by side waiting for the enemy to come
The tip of the moon gun hangs.”
With just three verses, the author has painted a beautiful picture of a soldier's comradeship and camaraderie, a beautiful symbol of a soldier's life. The highlight in that painting is three images linked together: beautiful about the soldier's comradeship and comradeship, and a beautiful symbol of a soldier's life. What made those people of skin and flesh, late at night in the deep, cold, windy forest, standing between the fragile boundary between life and death, still realize that it was a night with a moon, a hanging moon? tip of the gun? The image "Hanging Moon Gunhead" is the most beautiful image because it is both a real image and a symbolic image. It is the power of human love in life and death, the camaraderie in hardship that helps them overcome all the harsh weather and all hardships and deprivations. There is a type of love among many types of love, but it is different from other types of love, it is called team love. The camaraderie warmed the soldier's soul and crystallized an extraordinary source of internal strength.
When talking about his brainchild, Chinh Huu confided, "The hanging moon gunhead", in addition to the image, these four words also have the shaking rhythm of something floating precariously in the vastness. It speaks of something floating far away rather than being tied tightly, all night long the moon in the sky descends lower and lower and sometimes seems to hang above the tip of the gun. During the nights of ambush, waiting for the enemy, the moon was like a friend. The somewhat realistic images of the resistance war, of the soldiers waiting for the enemy to come, are also partly very beautiful and very poetic.
The symbolic value of "Hanging Moon Gunhead" is created thanks to the use of realistic and romantic penmanship, both real and dreamy, both far and near, both combative and lyrical. . Both soldier and poet. Going beyond the meaning of words, we see the pure feelings of the soldiers shine through. The love of comrades is blossoming, rising high, shining from a life of fire and war. Poetry readers cannot help but be moved and surprised by this unique poetic image. This is also an interesting and attractive point in Chinh Huu's poetry. Through that, we also see the noble purpose, fighting ideals and sacred love of Uncle Ho's soldiers during the days of fighting in battle.
|
Hướng dẫn
Người thanh niên ấy hiện lên trên những dòng viết của Nguyễn Thành Long là người yêu đời, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. Chúng ta có thể thấy được tấm lòng đẹp của người thanh niên qua lời giới thiệu với ông hoạ sỹ già và cô gái,bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”.Đã mấy năm nay anh “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”.Công việc hàng ngày của anh là“đo gió,đo mưa,đo chấn động mặt đất”rồi ghi chép,gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”.Vậy mà anh rất yêu công việc của mình.
Anh quan niệm:“khi ta làm việc ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được?”Anh hiểu rõ: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy,chứ cất nó đi,cháu buồn đến chết mất”.Sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện.Nghĩa là có sách ấy mà ”. Con người đang ở tuổi thanh xuân thường ưa thích những nơi xô bồ, đông đúc, ấy vậy mà anh lại yêu một nơi yên ắng, vắng vẻ là Sa Pa. Bởi vì sao, vì ở đây anh được thỏa thích với lòng đam mê công việc của mình, dù cho điều kiện sống và làm việc ở đây là vô cùng thiếu thốn.
Bên cạnh việc hết mình với công việc, anh thanh niên còn biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà.
Hoàn cảnh sống khắc nghiệt trên núi cao ở Sa Pa không làm cho trái tim nhiệt huyết cháy bỏng của anh nguội dần và dần trở về thu mình trong nỗi cô đơn. Ngược lại, nó lại thổi bùn trong anh ý chí sống và làm việc quên mình, lại mang lại những cảm giác đáng yêu đó là nỗi “thèm người” của anh, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ ngay từ những phút đầu gặp gỡ. Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh,toát lên qua nét mặt,cử chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất,mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ,hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”,hồn nhiên kể về công việc,đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể quên,việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết.Bó hoa cho cô gái,nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quí.
Điểm nổi bật hơn trong nhân cách rất cao đẹp của người thanh niên còn là ở đức tính cực kỳ khiêm tốn của anh nữa. Anh sống và làm việc trong gian nan, cực khổ, những thành quả trong công việc của anh là đóng góp quan trọng cho đất nước, nhưng người thanh niên nhiệt tình và sôi nổi ấy, nghĩ và nói về mình trong sự khiêm nhường đáng quý. Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường, nhỏ bé so với bao nhiêu người khác. Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sỹ già phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay. Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho ông hoạ sỹ những người khác đáng vẽ hơn mình: “Không, không, bác đừng mất công vẽ cháu, để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn. “Đó là ông kỹ sư ở vườn rau vượt qua bao vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn, to hơn. Đó là “người cán bộ nghiên cứu sét, 11 năm không xa cơ quan lấy một ngày”… Anh đã mang nặng những ân tình của mảnh đất Sa Pa này, anh cũng hết sức thấu hiểu sự hy sinh lặng thầm của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
|
Instruct
The young man who appears in Nguyen Thanh Long's writings is someone who loves life, loves his job, and has a high sense of responsibility for his arduous job. We can see the young man's beautiful heart through his introduction to the old painter and the girl. The driver called him "the loneliest person in the world". For several years now he has "lived alone". On Yen Son peak, 2,600m high, there are only trees and cold clouds on all four sides. His daily job is to "measure wind, rain, and ground vibrations" and then take notes and call the radio to report back. center. Many nights he had to "fight against wind, snow and terrifying silence". Yet he loved his job very much.
He thinks: "When we work, we are partners, how can we be called alone?" He clearly understands: "Your job is so arduous, if you take it away, you will be sad to death." Living alone, he is not alone because "I always have someone to talk to. That means I have books." People in their youth often like busy, crowded places, but he loves a quiet, deserted place like Sa Pa. Why, because here he is satisfied with his passion for his work, even though the living and working conditions here are extremely poor.
Besides being devoted to his work, the young man also knows how to arrange his personal life in a neat and stable manner. He raises chickens, grows flowers, reads books, and sometimes he goes down the street to meet his uncle and passengers. to chat to relieve homesickness.
The harsh living conditions in the high mountains in Sa Pa did not make his passionate heart cool down and he gradually retreated into loneliness. On the contrary, it blew away in him the will to live and work selflessly, and brought lovely feelings that were his "craving for people", his warm hospitality and concern for others. thoughtful way. His hospitality and enthusiasm created a natural sympathy for the old artist and the young engineer right from the first minutes of their meeting. The joy of welcoming guests overflowed within him, exuding through his facial expressions and gestures: he gave the driver a bamboo tube, happily received the book he bought for him, enthusiastically welcomed everyone to visit his "home", innocently. talks about his work, colleagues and life in quiet Sapa. Hardly any reader can forget, the first thing he does when guests come to visit his residence is: pick a bouquet of colorful flowers. Colors to give to a girl you first met. A bouquet of flowers for the girl, tea for the old painter, eggs and sugar for the two of you... All of these not only prove that he is a psychological boy but also a memory. The thoughts of an enthusiastic, dedicated heart are precious.
An even more outstanding feature of the young man's noble personality is his extremely humble qualities. He lived and worked in hardship, the achievements of his work were important contributions to the country, but that enthusiastic and vibrant young man, thought and spoke about himself with remarkable humility. precious. He feels his contribution is normal, small compared to many others. That's why he was embarrassed when the old artist sketched his portrait in his notebook. That humble man excitedly introduced the artist to other people more worthy of drawing than him: "No, no, don't waste your time drawing me, let me introduce you to other people more worthy of drawing. “That's the engineer in the vegetable garden who overcame many hardships to create tastier and bigger kohlrabi tubers. That is "a lightning research officer, who has not been away from the office for a single day in 11 years"... He has carried a heavy burden of love from this land of Sa Pa, and he also deeply understands the silent sacrifices of these people. working day and night and worrying about the country.
|
Hướng dẫn
Họ đi vào lịch sử như những linh hồn nghĩa sĩ bất diệt. Cả dân tộc Việt Nam xin nghiêng mình thầm cảm ơn và tướng nhó’ đến họ. Và đã có một tượng đài sừng sững trong lòng mỗi người dân Việt Nam để khắc ghi công lao của họ. Đó là tượng đại nghệ thuật mà Nguyễn Đình Chiểu đã xây nên trong tác phẩm nổi tiếng Văn tế nghĩa sĩCần Giuộc ghi nhận sự hy sinh của hai mươi mốt nghĩa quân vào đêm 14/12/1861 khi tấn công vào đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định thời kỳ kháng chiến chống Pháp. “Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sửvăn học dán tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc cứu nước”.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những bài văn tế hay nhất của lịch sử dân tộc. Với lời mở đầu của bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; long dân trời tó.
Tiếng kêu vang lên như nỗi đau dai dẳng cứ xoáy sâu trong lòng người đọc – một nỗi đau vô hạn, xót xa tột cùng. Cảm xúc đau thương lan dần, mở đầu cho tác phẩm, cho khung cảnh chiến tranh ớ Việt Nam năm 1858, trời đất chìm trong lửa đạn “súng giặc đất rền”. Mọi cảnh tượng trong quá khứ như trùm lấy không gian hiện tại. Tất cả đều rất thực, rất rõ. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiếu làm sống dậy quá khứ, những sự kiện và làm cho tác phẩm mang tính thời sự cao. Nhưng giữa khung cảnh ấy, người đọc chợt nhận ra:
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tớ.
Câu văn viết theo lối biền ngẫu, sóng đôi. Một bên là hình ảnh súng giặc, một bên là lòng dân.
Trong gian khó, hiểm nguy, lòng yêu nước của con người được thử thách. Và khi đất nước có ngoại xâm, vận mệnh dân tộc đặt lên hàng đầu, lúc đó tình yêu nước rất sâu sắc. Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định tấm lòng của những con người dân tộc, khẳng định một tình yêu nước nồng nàn luôn sống trong dân dù bất kỳ khi nào hay bất kỳ nơi đâu. tình yêu ấy là thứ tình yêu sấn sàng đứng dậy chống trả trước mưa bom, lửa đạn của kẻ thù, sẵn sàng hy sinh. Thứ phẩm chất cao quý ấy là thứ phẩm chất bừng sáng ở những con người “Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao, một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ”. Câu văn đã gợi ra hình ảnh của người nghĩa sĩ – nông dân. Cuộc đời của họ ngẫm lại thấy: bao nhiêu năm tháng cày đất, vỡ ruộng chẳng bằng một trận anh hùng đánh Tây.
Nguyễn Đình Chiểu đánh giá cao tư chất của người anh hùng, qua đó để bộc lộ niềm cảm phục sâu sắc bản chất anh hùng còn mãi muôn đời. Phải chăng đó lời an ủi. niềm thành kính của tác giả cũng như bao người đang sống kia đối với những linh hổn anh hùng. Và niềm thành kính ấy đã gợi cho người đọc nhớ lại hình ảnh người đã khuất “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Chân dung của người nghĩa sĩ – nông dàn được miêu tả cụ thể, sống động. Là những nông dân xuất thân từđồng ruộng, công việc cày cuốc lam lũ, cuộc sống của họ chìm trong nghèo khó, tội nghiệp đến thảm thương. Từ “cui cút” trong câu văn đã gợi ra vóc dáng nhỏ bé, đơn chiếc của người nông dân. Công việc của họ không chỉvất vả, lam lũ mà còn thầm lặng tội nghiệp. Chỉ với một từ, Nguyễn Đình Chiểu đã lột tả được thân phận bất hạnh của người nông dân Việt Nam từ ngàn đòi xưa – những con người mà cuộc đời dần thu lại trong nghèo khổ, đơn chiếc đằng sau lũy tre làng, công việc đồng áng cuốc cày. Nguyễn Đình Chiểu đã nhắc tới những nghĩa sĩ của đồng ruộng, quen vói cái cuốc, cái cày, con trâu, quanh năm sống trong “toan lo nghèo khó”, chứ không phái những nghĩa sĩ thiện chiến. Những nghĩa sĩ – nông dân ấy nhìn về chiến trận là cái gì đó rất xa lạ “Chưa quen cung ngựa, đàu tới trường nhung… ”,”… tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Chiến tranh, chiến trận đặt ra là một thử thách rất lớn.
Quả vậy, tiếng gọi của đất nước, có một ý nghĩa vô cùng lớn lao, đánh thức tâm hồn, khơi dậy tình yêu đất nước từ trong sâu thẳm mỗi con người, ngay cả những con người chất phác, lam lũ. tình yêu và lòng căm thù là hai thứ cảm xúc luôn song song tồn tại. Nhưng lòng căm thù luôn mãnh hệt hon và trớ thành điểm tựa, cơ sở cho moi hành động của người nghĩa sĩCần Giuộc trong chiến đấu… “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ông khói chay đen sì, muốn ra cắn cổ”. Lời văn nhanh, dồn dập đã thể hiện sự tột cùng cựa lòng căm thù trong nhân dân. Lòng căm thù ấy là sự thẳng thắn, dám nói trực tiếp những niềm căm uất, phẫn nộ của chính mình. Niềm căm Uất ấy là niềm căm uất đã mất đi một điều gì đó đáng quý trong cuộc sống, đặc biệt với người nông dân – hạnh phúc và bình yên. Giặc ngoại xâm đã xáo trộn tất cả, đã cướp đi ngay cả những hạnh phúc, bình yên nhỏ nhoi ấy. Người nông dân mất đi tất cả và sẵn sàng làm mọi thứ để giành lại những gì đã thuộc về mình. Họ cũng sẩn sàng ăn gan, cắn cổ, tiêu diệt sông ké thù. Cách diễn tả của Nguyễn Đình Chiểu rất bình dị, dân dã mà tinh tế. Ông cảm nhận sâu sắc những suy nghĩ, hành động từ người nông dân. Đó là sự đồng cảm, là tấm lòng và suy nghĩ của bao con người Việt Nam khác.
Một suy nghĩ rất riêng và hoàn toàn mang tính chất bộc phát nhưng lại đáng trân trọng và cảm phục biết bao, những người Việt dũng cảm và kiên cường, dám đấu tranh và bảo vệ những thứvốn là của mình. Đi từ lòng căm thù đó là một tinh thần tự nguyện: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Đó là tinh thần xả thân vì nghĩa, là đuốc sáng soi đường cho sức mạnh chiến đấu, hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đố. Đau đón bấy, mẹ già ngồi khóc trú, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chổng, con bóng xê dật dờ trước ngõ”. Cánh vật như bị ngưng đọng trước nỗi mất mát quá lớn ấy. Câu thơ cất lên trong nỗi hờn, nỗi túi, trong niềm xót thương tột cùng. Nhưng đặc sác và cám dộng nhát là tiếng khóc cua người thân dành cho người nghĩa sĩ. ở đây, Nguyễn Đình Chiêu đã khéo léo chọn hai đối tượng điển hình thể hiện tiếng khóc: mẹ già – một ngọn đèn khuya leo lét, người vợ – cơn bóng xế dật dờ. Sự ra đi của người nghĩa sĩ đã de lai những đớn đau. mất mát quá lớn. Cảnh vật thì tang thương, lòng người như trơ trọi, trống trai. Đó là những đau đớn não nùng trong tiếng khóc bi ai mà Nguyễn Đình Chiêu cảm nhận được. Trước tất cá những nỗi đau, mất mát ấy, Nguyễn Đình Chiếu dã khép lại băng một lời khăng định hào hùng: “Ôi! Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Cuộc khởi nghĩa tuy đã chìm vào thất bại nhưng danh thơm, tiếng vang của nghĩa sĩ Cần Giuộc còn vọng đến muôn đời.
|
Hướng dẫn
Họ đi vào lịch sử như những linh hồn nghĩa sĩ bất diệt. Cả dân tộc Việt Nam xin nghiêng mình thầm cảm ơn và tướng nhó’ đến họ. Và đã có một tượng đài sừng sững trong lòng mỗi người dân Việt Nam để khắc ghi công lao của họ. Đó là tượng đại nghệ thuật mà Nguyễn Đình Chiểu đã xây nên trong tác phẩm nổi tiếng Văn tế nghĩa sĩCần Giuộc ghi nhận sự hy sinh của hai mươi mốt nghĩa quân vào đêm 14/12/1861 khi tấn công vào đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định thời kỳ kháng chiến chống Pháp. “Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sửvăn học dán tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc cứu nước”.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những bài văn tế hay nhất của lịch sử dân tộc. Với lời mở đầu của bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu đã viết:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; long dân trời tó.
Tiếng kêu vang lên như nỗi đau dai dẳng cứ xoáy sâu trong lòng người đọc – một nỗi đau vô hạn, xót xa tột cùng. Cảm xúc đau thương lan dần, mở đầu cho tác phẩm, cho khung cảnh chiến tranh ớ Việt Nam năm 1858, trời đất chìm trong lửa đạn “súng giặc đất rền”. Mọi cảnh tượng trong quá khứ như trùm lấy không gian hiện tại. Tất cả đều rất thực, rất rõ. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiếu làm sống dậy quá khứ, những sự kiện và làm cho tác phẩm mang tính thời sự cao. Nhưng giữa khung cảnh ấy, người đọc chợt nhận ra:
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tớ.
Câu văn viết theo lối biền ngẫu, sóng đôi. Một bên là hình ảnh súng giặc, một bên là lòng dân.
Trong gian khó, hiểm nguy, lòng yêu nước của con người được thử thách. Và khi đất nước có ngoại xâm, vận mệnh dân tộc đặt lên hàng đầu, lúc đó tình yêu nước rất sâu sắc. Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định tấm lòng của những con người dân tộc, khẳng định một tình yêu nước nồng nàn luôn sống trong dân dù bất kỳ khi nào hay bất kỳ nơi đâu. tình yêu ấy là thứ tình yêu sấn sàng đứng dậy chống trả trước mưa bom, lửa đạn của kẻ thù, sẵn sàng hy sinh. Thứ phẩm chất cao quý ấy là thứ phẩm chất bừng sáng ở những con người “Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao, một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ”. Câu văn đã gợi ra hình ảnh của người nghĩa sĩ – nông dân. Cuộc đời của họ ngẫm lại thấy: bao nhiêu năm tháng cày đất, vỡ ruộng chẳng bằng một trận anh hùng đánh Tây.
Nguyễn Đình Chiểu đánh giá cao tư chất của người anh hùng, qua đó để bộc lộ niềm cảm phục sâu sắc bản chất anh hùng còn mãi muôn đời. Phải chăng đó lời an ủi. niềm thành kính của tác giả cũng như bao người đang sống kia đối với những linh hổn anh hùng. Và niềm thành kính ấy đã gợi cho người đọc nhớ lại hình ảnh người đã khuất “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Chân dung của người nghĩa sĩ – nông dàn được miêu tả cụ thể, sống động. Là những nông dân xuất thân từđồng ruộng, công việc cày cuốc lam lũ, cuộc sống của họ chìm trong nghèo khó, tội nghiệp đến thảm thương. Từ “cui cút” trong câu văn đã gợi ra vóc dáng nhỏ bé, đơn chiếc của người nông dân. Công việc của họ không chỉvất vả, lam lũ mà còn thầm lặng tội nghiệp. Chỉ với một từ, Nguyễn Đình Chiểu đã lột tả được thân phận bất hạnh của người nông dân Việt Nam từ ngàn đòi xưa – những con người mà cuộc đời dần thu lại trong nghèo khổ, đơn chiếc đằng sau lũy tre làng, công việc đồng áng cuốc cày. Nguyễn Đình Chiểu đã nhắc tới những nghĩa sĩ của đồng ruộng, quen vói cái cuốc, cái cày, con trâu, quanh năm sống trong “toan lo nghèo khó”, chứ không phái những nghĩa sĩ thiện chiến. Những nghĩa sĩ – nông dân ấy nhìn về chiến trận là cái gì đó rất xa lạ “Chưa quen cung ngựa, đàu tới trường nhung… ”,”… tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Chiến tranh, chiến trận đặt ra là một thử thách rất lớn.
Quả vậy, tiếng gọi của đất nước, có một ý nghĩa vô cùng lớn lao, đánh thức tâm hồn, khơi dậy tình yêu đất nước từ trong sâu thẳm mỗi con người, ngay cả những con người chất phác, lam lũ. tình yêu và lòng căm thù là hai thứ cảm xúc luôn song song tồn tại. Nhưng lòng căm thù luôn mãnh hệt hon và trớ thành điểm tựa, cơ sở cho moi hành động của người nghĩa sĩCần Giuộc trong chiến đấu… “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ông khói chay đen sì, muốn ra cắn cổ”. Lời văn nhanh, dồn dập đã thể hiện sự tột cùng cựa lòng căm thù trong nhân dân. Lòng căm thù ấy là sự thẳng thắn, dám nói trực tiếp những niềm căm uất, phẫn nộ của chính mình. Niềm căm Uất ấy là niềm căm uất đã mất đi một điều gì đó đáng quý trong cuộc sống, đặc biệt với người nông dân – hạnh phúc và bình yên. Giặc ngoại xâm đã xáo trộn tất cả, đã cướp đi ngay cả những hạnh phúc, bình yên nhỏ nhoi ấy. Người nông dân mất đi tất cả và sẵn sàng làm mọi thứ để giành lại những gì đã thuộc về mình. Họ cũng sẩn sàng ăn gan, cắn cổ, tiêu diệt sông ké thù. Cách diễn tả của Nguyễn Đình Chiểu rất bình dị, dân dã mà tinh tế. Ông cảm nhận sâu sắc những suy nghĩ, hành động từ người nông dân. Đó là sự đồng cảm, là tấm lòng và suy nghĩ của bao con người Việt Nam khác.
Một suy nghĩ rất riêng và hoàn toàn mang tính chất bộc phát nhưng lại đáng trân trọng và cảm phục biết bao, những người Việt dũng cảm và kiên cường, dám đấu tranh và bảo vệ những thứvốn là của mình. Đi từ lòng căm thù đó là một tinh thần tự nguyện: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Đó là tinh thần xả thân vì nghĩa, là đuốc sáng soi đường cho sức mạnh chiến đấu, hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đố. Đau đón bấy, mẹ già ngồi khóc trú, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chổng, con bóng xê dật dờ trước ngõ”. Cánh vật như bị ngưng đọng trước nỗi mất mát quá lớn ấy. Câu thơ cất lên trong nỗi hờn, nỗi túi, trong niềm xót thương tột cùng. Nhưng đặc sác và cám dộng nhát là tiếng khóc cua người thân dành cho người nghĩa sĩ. ở đây, Nguyễn Đình Chiêu đã khéo léo chọn hai đối tượng điển hình thể hiện tiếng khóc: mẹ già – một ngọn đèn khuya leo lét, người vợ – cơn bóng xế dật dờ. Sự ra đi của người nghĩa sĩ đã de lai những đớn đau. mất mát quá lớn. Cảnh vật thì tang thương, lòng người như trơ trọi, trống trai. Đó là những đau đớn não nùng trong tiếng khóc bi ai mà Nguyễn Đình Chiêu cảm nhận được. Trước tất cá những nỗi đau, mất mát ấy, Nguyễn Đình Chiếu dã khép lại băng một lời khăng định hào hùng: “Ôi! Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Cuộc khởi nghĩa tuy đã chìm vào thất bại nhưng danh thơm, tiếng vang của nghĩa sĩ Cần Giuộc còn vọng đến muôn đời.
|
Hướng dẫn
Cảnh ngày hè(Bảo kính cảnh giới) là một tác phẩm tiêu biểu trong tập Quốc âm thi tập – tập thơ Nôm đầu tiên trong lịch sử văn học viết Việt Nam. Bài thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ và tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, đất nước của thi nhân.
Cảnh ngày hèlà bài sô’ 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình), thuộc phần Vô đề trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ được làm theo thể thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn. Những câu thơ trong Cảnh ngày hè có âm điệu du dương như những niềm vui nho nhỏ được Nguyễn Trãi chắt chiu trong cuộc đời vinh quang nhưng cũng đầy bi kịch của thi nhân. Bài thơ có thể chia thành hai phần: phần một (sáu câu thơ đầu) tái hiện cảnh ngày hè – cảnh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống của con người; phần hai (hai câu thơ còn lại) thể hiện khát vọng cao đẹp và tầm vóc tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Được tổ chức theo kết cấu của một bài thơ thất ngôn bát cú nhưng bài thơ Cảnh ngày hè lại được mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp 1/2/3 một cách tự do, tự nhiên như lời nói thường ngày:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ thất luật với kết cấu đặc biệt vang lên như một lời kể vui vẻ, thoải mái về những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Ông đã khởi đầu ngày mới bằng một tâm thế thư thái, an nhàn, tự do thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên. Có lẽ đây là khoảng thời gian mà ông đã lui về ở ẩn, rũ sạch những xa hoa của chôn phồn hoa đô hội để sông giữa thiên nhiên. Lời thơ giản dị mà gợi lên được sự thanh thản trong tâm hồn thi nhân. Với tâm trạng ấy, bức tranh thiên nhiên ngày hè được tái hiện bằng những nét rực rỡ, tươi tắn và đầy sức sống:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
AI
Bằng một cái nhìn trẻ trung, thi nhân đã lựa chọn những gam màu ấm và sáng để thể hiện khung cảnh thiên nhiên tươi tắn của ngày hè. Lựu đỏ, sen hồng là những gam màu nóng, khác hẳn với những sắc màu lạnh thường thấy của thơ ca trung đại. Dễ nhận thấy trong tứ thơ một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sông. Tất cả mọi vật dường như đang trong tư thế trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình. Cây hòe trước thềm khoe sắc với tán lá màu lục, cứ sinh sồi, nảy nở, sum suê “đùn đùn” lên mãi như muốn chiếm trọn không gian mà tỏa bóng; cây lựu bên hiên dồn hết sức của nhựa mầm nõn búp, bật nở ra những bông hoa đỏ rực rỡ; sen trong ao đã “tiễn” mùi hương – có nghĩa là đã ngát mùi hương – là sen đang ở độ đẹp nhất, lá xanh tươi, hoa thì tỏa hương thơm ngát, góp vào cái sức sông sôi động và mạnh mẽ của vạn vật để cùng phô diễn nhựa sông với cuộc đời. Có thể nói, qua bôn câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh ngày hè đẹp, tràn đầy sức sống và rực rỡ màu sắc. Cảnh thiên nhiên ở đây không tĩnh vắng như những bức tranh thiên nhiên thường thấy trong thơ trung đại, trái lại rất sông động. Nó khiến ta cảm nhận được sự cựa quậy, sinh sôi của sự sống trong tửng đường nét, màu sắc. Chính điều đó đã mang lại vẻ đẹp riêng, không thể trộn lẫn của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ này. Nó cũng thể hiện tâm trạng thư thái và tâm hồn nghệ sĩ đặc biệt tinh tế, nhạy cảm trước thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
Ởhai câu thơ tiếp theo, bức tranh ngày hè đã trở nên trọn vẹn khi xuất hiện cảnh sinh hoạt của con người:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Để miêu tả bức tranh sinh hoạt của con người, thi nhân đã chọn lựa địa điểm nhìn là chợ. Trong văn học, chợ vốn là một không gian truyền thông biểu hiện nhịp điệu của sự sông con người. Nguyễn Trãi đã sử dụng âm thanh “lao xao” của phiên chợ cá làng chài để gợi về nhịp sống sôi động, no đủ của một miền quê trù phú. Từ láy tượng thanh “lao xao” còn cho ta thấy được cả không khí náo nức, tươi vui của người dân chài trong cuộc sông yên ả, thanh bình. Bức tranh cuộc sông con người còn được tái hiện bằng hình ảnh “lầu tịch dương”. Hình ảnh một căn lầu vắng trong buổi chiều tà, xét về cả thời gian và không gian đều gợi buồn. Vậy mà, chỉ cần thêm vào chi tiết “Dắng dỏi cầm ve”, nhà thơ đã xóa đi hoàn toàn nỗi buồn ấy. Trong buổi chiều vắng, tiếng ve ngân lên rộn rã như tiếng đàn đã trở thành lời ngợi ca cuộc sông no đủ, bình yên. Nguyễn Trãi đã từng trải qua chiến tranh loạn lạc nên lại càng thấm thía ý nghĩa của cuộc sông yên ấm, hòa bình trong hiện tại. Qua đó, người đọc thấy được Nguyễn Trãi trân trọng cuộc sông đó biết bao! Nhưng hình như ẩn sâu trong những âm thanh “lao xao” của phiên chợ cá từ xa vọng lại, tiếng cầm ve ngân lên trong buổi chiều tà vẫn thấp thoáng một chút nỗi niềm bâng khuâng trong tâm hồn
nhạy cảm của thi nhân. Nỗi niềm ấy như có một chút gì khắc khoải, như là sự mong mỏi, ngóng vọng vào một hành động cụ thể, thể hiện khát vọng cao đẹp của Nguyễn Trãi:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Nguyễn Trãi ước mình có được cây đàn của vua Nghiêu Thuấn ngày trước để ca ngợi cuộc sống hôm nay. Khát vọng ấy không chỉ giới hạn ở một miền quê, một vùng đất mà nó hướng tới mọi con người, mọi miền quê trên thế gian này. Đó là khát vọng lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi: mong ước sao cho muôn dân khắp bôn phương trời luôn được sông trong no đủ, thanh bình. Với niềm khao khát ấy, Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi đã có một cái kết thật bất ngờ. Hóa ra, Nguyễn Trãi không thực sự nhàn tâm để ngắm cảnh. Nỗi lo cho dân, cho nước vẫn luôn thường trực trong lòng thi nhân, đúng như lời tự bạch của nhà thơ:
|
Instruct
Scene of a Summer Day (Bao Kinh Kinh Realm) is a typical work in the collection Quoc Am thi tap - the first collection of Nom poetry in the history of Vietnamese written literature. The poem paints a picture of nature on a brilliant summer day and the poet's soul is filled with love for nature and his country.
Summer Day Scene is poem number 43 in the poem series Bao Kinh Canh (The precious mirror warns oneself), belonging to the Untitled section in Nguyen Trai's Quoc Am poetry collection. The poem is written in the form of Tang Luat with seven words interspersed with six words. The verses in Summer Day Scene have a melodious tone like the little joys that Nguyen Trai has accumulated in the poet's glorious but also tragic life. The poem can be divided into two parts: part one (first six verses) recreates a summer day scene - a natural scene and a picture of human life; Part two (the remaining two verses) express Nguyen Trai's noble aspirations and ideological stature.
Organized according to the structure of a poem with eight words and eight sentences, the poem Summer Day Scene opens with an irregular verse, punctuated by 1/2/3 as freely and naturally as everyday speech. :
Then enjoy the fresh air of school days
The irregular poem with a special structure sounds like a happy, comfortable account of the rare free moments in Nguyen Trai's life. He started the new day with a relaxed, peaceful mind, freely enjoying the beauty of nature. Perhaps this was the time when he retreated to live in seclusion, abandoning the luxuries of the bustling metropolis to live among nature. The poem's lyrics are simple but evoke serenity in the poet's soul. With that mood, the picture of nature on a summer day is recreated with brilliant, fresh and vibrant features:
Green flowers spread out and spread out.
Pomegranate jelly still sprays red,
Red lotus has sent away the scent.
WHO
With a youthful look, the poet chose warm and bright colors to represent the fresh natural scenery of a summer day. Red pomegranate and pink lotus are warm colors, different from the usual cold colors of medieval poetry. It is easy to see in the four poems a picture of nature filled with vitality. Everything seems to be in a rising position, wanting to reveal all its beauty. The tree in front of the porch blooms with green foliage, keeps growing, growing, and "extruding" luxuriantly as if it wants to occupy the entire space and shine its shadow; The pomegranate tree on the porch gathered all its sap and sprouted buds, bursting out with bright red flowers; The lotus in the pond has "sent away" the scent - meaning it has been fragrant - the lotus is at its most beautiful, the leaves are fresh green, the flowers are fragrant, contributing to the vibrant and powerful life of all things. to show off river plastic with life. It can be said that through the first four verses, Nguyen Trai has painted a beautiful picture of a summer day, full of life and vibrant colors. The natural scene here is not quiet like the natural paintings often seen in medieval poetry, on the contrary, it is very dynamic. It makes us feel the stirring and proliferation of life in each line and color. That is what brings the unique, unmistakable beauty of the natural picture in this poem. It also shows Nguyen Trai's relaxed mood and especially delicate artist soul, sensitive to nature.
In the next two verses, the picture of a summer day becomes complete when scenes of human activities appear:
The bustling fish market in the fishermen's village,
Carefully holding the cicadas on the floor of the Yangtze floor.
To describe the picture of human activities, the poet chose the viewing location as the market. In literature, the market is a media space that expresses the rhythm of human life. Nguyen Trai used the "chattering" sound of the fishing village fish market to evoke the vibrant, full rhythm of life of a rich countryside. From the onomatopoeia of the "chattering" sound, we can also see the bustling and cheerful atmosphere of the fishermen in the quiet and peaceful river. The picture of human life is also recreated with the image of "Tich Duong floor". The image of an empty building in the late afternoon, in terms of both time and space, evokes sadness. Yet, just by adding the detail "Strongly holding cicadas", the poet has completely erased that sadness. In the quiet afternoon, the bustling sound of cicadas like the sound of a guitar has become a praise for a prosperous and peaceful river life. Nguyen Trai has experienced war and chaos, so he understands the meaning of a peaceful and peaceful life in the present. Through that, readers can see how much Nguyen Trai appreciates that river life! But it seems that hidden deep in the "chattering" sounds of the fish market from afar, the sound of cicadas singing in the late afternoon, there is still a hint of wistfulness in the soul.
poet's sensitivity. That feeling seems a bit restless, like a longing and expectation for a specific action, expressing Nguyen Trai's noble aspirations:
There will be Ngu playing the guitar for a while,
Rich people everywhere demand direction.
Nguyen Trai wishes he had King Nghieu Thuan's instrument in the past to praise life today. That aspiration is not limited to just one countryside or one land, but it is directed towards every person and every countryside in this world. That is the greatest aspiration in Nguyen Trai's life: the wish for all people in all four corners of the world to always live in prosperity and peace. With that desire, Nguyen Trai's Summer Day Scene had a surprising ending. Turns out, Nguyen Trai doesn't really have the leisure to admire the scenery. Worry for the people and the country is always present in the poet's heart, just like the poet's confession:
|
Hướng dẫn
Mở đầu bài phú, nổi bật lên là hình tượng nhân vật “khách”. Vị “khách” này có thú du ngoạn và niềm cảm khái trước cảnh sông nước Bạch Đằng (.Giương buồm giong gió chơi vơi/ Lướt bể chơi trăng mái miết)bộc lộ niềm yêu mến cảnh đất trời thơ mộng, tâm hồn thanh thản, tâm tình đắm say.
3. Cảm xúc của khách trước khung cảnh thiên nhiên sông Bạch Đằng: phấn khởi, tự hào và buồn thương tiếc nuối vì những giá trị đang lùi vào quá khứ. Khách không bị ràng buộc bởi thời gian (sớm gõ thuyền, chiều lần thăm…), ngao du khắp đó đây, không giới hạn không gian. Những địa danh ở đây mang ý nghĩa tượng trưng về cảnh non nước hữu tình (Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Vũ Huyệt, Văn Mộng, Tam Ngô, Bách Việt). Giọng văn sảng khoái biểu hiện tâm hồn giàu xúc cảm của một bậc cao sĩ.
– Học thú tiêu dao đây đó của Tư Mã Tử Trường, khách đến sông Bạch Đằng ngoạn cảnh, xúc cảm với nhiều sắc độ khác nhau.
– Lâng lâng vui thú trước cảnh nước trời kì vĩ:
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
– Lặng buồn khi nghĩ tới cảnh chiến trường xưa:
Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
– Tiếc thương những anh hùng đã khuất, nay chỉ còn là dấu vết bờ lau san sát, bến lách đìu hiu. Niềm cảm khái đó giống như Đỗ Mực đời Đường trong bài thơ Xích Bích hoài cổ hoặc Nguyễn Trãi một lần nhẹ lướt buồm thơ trên sông Bạch Đằng: Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.
4. Hình ảnh các bô lão được miêu tả làm cho đoạn văn thêm sinh động, biểu hiện tình cảm mang tính khách quan khi kể lại những chiến công xưa. Vì thế chiến tích trên sông Bạch Đằng đã được gợi lên cụ thể chân thực.
– Hình ảnh Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới; Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói thể hiện khí thế dũng mãnh và tính chất quyết liệt của các trận đánh trên sông Bạch Đằng, từ Ngô chúa phá Hoàng Thao đến nhị thánh bắt Ô Mã.
– Chi tiết Những tưởng gieo roi một lần / Quét sạch Nam bang bốn cõi nói lên thái độ kiêu căng, ngạo mạn của quân xâm lược, để rồi cuối cùng là hình ảnh thảm bại tan tác của giặc: tan tác tro bay, hoàn toàn chết trụi.
– Sử dụng các kiểu câu dài ngắn để diễn đạt phù hợp với nội dung:
+ Vế câu dài 12 tiếng với giọng trang nghiêm dõng dạc:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt 0 Mã;
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.
+Vế câu ngắn 4 tiếng, thể hiện không khí căng thẳng, khẩn trương của chiến trận:
Thuyền bè muôn đội, / tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân,/ giáo gươm sáng chói.
5. Lời ca của các vị bô lão và lời ca nối tiếp của khách nhằm khẳng định lòng tự hào về dòng sông lịch sử và nêu một nhận định mang tính khái quát:
Những người bất nghĩa tiêu vong,
|
Instruct
At the beginning of the poem, the image of the "guest" character stands out. This "guest" has a hobby of traveling and is moved by the scenery of Bach Dang river (.Sails in the wind to play with the wind / Surfs the pool to play with the moon) revealing his love for the poetic landscape of heaven and earth, his peaceful soul. , passionate feelings.
3. Guests' emotions before the natural scenery of Bach Dang River: excitement, pride and sadness because the values are receding into the past. Guests are not bound by time (early in the morning, late in the afternoon...), traveling everywhere, without space limitations. The places here have symbolic meanings of charming landscapes (Nguyen Tuong, Cuu Giang, Ngu Ho, Vu Huyet, Van Mong, Tam Ngo, Bach Viet). The refreshing tone of writing shows the emotional soul of a master.
- Learning from Sima Zi Truong's hobby of wandering here and there, visitors come to Bach Dang River to enjoy the scenery and emotions with many different shades.
- Be delighted by the majestic scenery of heaven and earth:
Immense waves of thousands of miles,
Slender, single-colored pheasant tail.
– Feeling sad when thinking about the old battlefield scene:
The river sinks and the spear breaks,
The mound is full of dry bones.
- I feel sorry for the fallen heroes, now only the traces of the reed banks and desolate wharves remain. That feeling is like Do Muc of the Tang Dynasty in the nostalgic poem Xich Bich or Nguyen Trai once lightly sailing on the Bach Dang River: Going to the stream to admire the wistful scenery.
4. The images of the elders described make the passage more vivid, expressing objective emotions when recounting ancient victories. Therefore, the victory on the Bach Dang River was evoked in a realistic and concrete way.
– Images of countless boats and ships, fluttering flags; Six mighty armies, bright spears and swords show the brave spirit and fierceness of the battles on the Bach Dang River, from Lord Ngo destroying Hoang Thao to the second saint capturing O Ma.
– Details The thought of sowing the whip once / Sweeping away the four realms of the Southern State speaks of the arrogant and arrogant attitude of the invaders, and then in the end is the image of the enemy's tragic defeat: scattered ashes, complete destruction. completely dead.
– Use long and short sentences to express the content appropriately:
+ The sentence is 12 hours long with a solemn and clear voice:
This is the battlefield where the two saints captured 0 Ma;
It is also the old land where Lord Ngo destroyed Hoang Thao.
+ Short sentence of 4 hours, expressing the tense and urgent atmosphere of battle:
All the boats and rafts are flying, / the stars are fluttering,
The six armies are fierce, the spears and swords shine brightly.
5. The elders' lyrics and the guests' continuing lyrics aim to affirm pride in the historic river and make a general statement:
The unjust perish,
|
Hướng dẫn
(Bài làm ở lớp)
A- GỢI Ý CÁC ĐỀ THAM KHẢO
Đề 1:Giới thiệu một danh lam thắng cảnh của đất nước, quê hương.
Gợi ý:
Đề tài thuyết minh là một danh lam thắng cảnh của quê hương đất nước. Để làm tốt đề này, HS cần có những hiểu biết cụ thể, phong phú, chuẩn xác về danh thắng được chọn giới thiệu. Từ những hiểu biết, người viết xác định mục đích giới thiệu, những nội dung cần có cho bài giới thiệu và những phương pháp sử dụng phù hợp với từng nội dung.
Bài viết cần có những ý cơ bản sau:
– Giới thiệu khái quát chung về danh thắng: tên và địa điểm, nhận xét chung về giá trị ý nghĩa,…
– Giới thiệu về quần thể kiến tạo của danh lam thắng cảnh.
– Giới thiệu về lịch sử của danh lam thắng cảnh.
– Giới thiệu về giá trị của danh lam thắng cảnh (giá trị du lịch, giá trị vănhoá,…).
– Giới thiệu về sức hấp dẫn du khách của danh lam thắng cảnh v.v…
Đề 2:Giới thiệu một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị)
yêu thích.
Gợiý:
Đềbài yêu cầu giới thiệu một loại hình ca nhạc (nhạc dân gian, nhạc cổ điển, nhạc nhẹ,…) hoặc một loại hình sân khấu (kịch nói, ca kịch,…). Người viết lựa chọn theo sở thích cá nhân và giới thiệu sao cho truyền được niềm yêu thích đó tới người đọc. Muốn vậy, người viết chỉ yêu thích không thôi chưa đủ mà phải có những kiến thức cụ thể, phong phú, chuẩn xác về loại hình ca nhạc hay sân khấu mà mình sẽ giới thiệu với bạn đọc.
Bài thuyết minh cần có những ý cơ bản sau:
– Giới thiệu chung về loại hình ca nhạc (sân khấu): loại hình gì? đặc điểm nổi bật của loại hình này là gì?
– Giới thiệu về đặc điểm cụ thể, chi tiết của loại hình. Nếu là ca nhạc thì giới thiệu đặc điểm âm nhạc, đặc điểm ca từ, đặc điểm biểu diễn,… Nếu là sân khấuthì giới thiệu đặc điểm kịch bản, đặc điểm diễn xướng, đặc điểm hoá trang, ánh sáng,…
– Giới thiệu lịch sử của loại hình ca nhạc (sân khấu): nguồn gốc xuất xứ, những bước thăng trầm, những tên tuổi tiêu biểu,…
– Giới thiệu về giá trị, ảnh hưởng của loại hình ca nhạc (sân khấu) đến đời sống xã hội đặc biệt nhấn mạnh đời sống tinh thần, ý nghĩa giáo dục những tình cảm thâm mĩ,…
Đề 3:Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc một đặc sản, một nét văn hoá ẩm thực) của địa phương mình.
Gợiý:
Đề bài yêu cầu giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (ngành làm gốm, ngành mây tre đan, ngành thêu ren, ngành dệt thổ cẩm,… ) hoặc một đặc sản, một nét văn hoá ẩm thực (Phở, cốm, bánh… ) của địa phương. HS lựa chọn theo đặc trưng riêng của địa phương mình, điều quan trọng là phải am hiểu cặn kẽ đối tượng mà mình giới thiệu và coi đó là niềm tự hào của bản thân. Bài thuyết minh cần có những ý cơ bản sau:
– Giới thiệu khái quát về ngành thủ công mĩ nghệ hoặc đặc sản, nét văn hoá ẩm thực (tên gọi, đặc điểm nổi bật).
– Giới thiệu các đặc điểm, tính chất cụ thể: Nếu là ngành thủ công mĩ nghệ thì giới thiệu đặc điểm lao động làm ra sản phẩm, mẫu mã sản phẩm, tính năng tác dụng của sản phẩm… Nếu là món ăn thì giới thiệu nguyên liệu, cách chế biến, đặc điểm món ăn như màu sắc, hương vị, cách thưởng thức… Nếu là một nét văn hoá ẩm thực thì giới thiệu những nét độc đáo văn hoá trong việc thưởng thức, các nghi thức ẩm thực,…
– Giới thiệu lịch sử của ngảnh thủ công mĩ nghệ hoặc đặc sản, nét văn hoá ẩm thực: ra đời từ khi nào? Trải qua những thăng trầm thời gian ra sao? Gắn với tên tuổi của ai? Có những truyền thuyết gì liên quan?…
– Giới thiệu tổng hợp về giá trị của ngành thủ công mĩ nghệ hoặc món ăn, nét văn hoá ẩm thực trong việc nâng cao vị thế của địa phương trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai.
Đề 4:Giới thiệu một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thểhiện khí thế sôi nổi của thời đại.
Gợi ý:
HS có thể chọn một trong hai kiểu lễ hội: kiểu lễ hội mang tính truyền thống còn giữ được những nétđẹp cổ xưa hoặc kiểu lễ hội mang tính thời đại, thể hiện khí thế sôi nổi.
Bài viết cần giới thiệu được những nét chính sau đây:
– Giới thiệu khái quát: tên lễ hội, thời điểm tổ chức lễ hội, đặc điểm chung nổi bật của lễ hội,…
– Giới thiệu lịch sử của lễ hội: có từ bao giờ? xuất phát từ đâu? trải qua một quá trình như thế nào?
|
Instruct
(Class work)
A- SUGGESTED REFERENCE TOPICS
Topic 1: Introducing a scenic spot of the country or homeland.
Suggest:
The topic of the explanation is a scenic spot of the homeland. To do well on this topic, students need to have specific, rich, and accurate knowledge about the landscapes chosen to be introduced. From the knowledge, the writer determines the purpose of the introduction, the content needed for the introduction and the appropriate methods to use for each content.
The article should have the following basic ideas:
– General introduction of scenic spots: names and locations, general comments on meaningful values,...
– Introduction to the tectonic complex of the scenic spot.
– Introduction to the history of scenic spots.
– Introducing the value of landscapes (tourism value, cultural value,...).
– Introducing the tourist attractions of scenic spots, etc.
Topic 2: Introduce a type of music (or theater) that you
favourite.
Suggest:
The topic requires introducing a type of music (folk music, classical music, light music,...) or a type of theater (drama, opera,...). The writer chooses according to personal preference and introduces it in a way that conveys that interest to the reader. To do so, it is not enough for the writer to just love it, but must have specific, rich, and accurate knowledge about the type of music or theater that he or she will introduce to readers.
The presentation should have the following basic ideas:
– General introduction to the type of music (theater): what type? What are the outstanding features of this type?
– Introduce specific and detailed characteristics of the type. If it is a musical, introduce the musical characteristics, lyric characteristics, performance characteristics, etc. If it is theater, introduce the script characteristics, performance characteristics, makeup characteristics, lighting, etc.
– Introducing the history of music (theater): origin, ups and downs, typical names,...
– Introducing the value and influence of music (theater) on social life, especially emphasizing spiritual life, the educational significance of aesthetic emotions,...
Topic 3: Introduce a handicraft industry (or a specialty, a culinary culture) of your locality.
Suggest:
The topic requires introducing a handicraft industry (ceramics, rattan, embroidery, brocade weaving, etc.) or a specialty, a culinary culture (Pho, green rice, cakes). ... ) of the locality. Students choose according to the unique characteristics of their locality. It is important to thoroughly understand the object they introduce and consider it their pride. The presentation should have the following basic ideas:
– General introduction to the handicraft industry or specialties, culinary culture (names, outstanding features).
– Introduce specific characteristics and properties: If it is a handicraft industry, introduce the characteristics of the labor that makes the product, the product design, the product's features and effects... If it is a dish, then introduce Introducing ingredients, cooking methods, food characteristics such as color, flavor, enjoyment... If it is a culinary culture, then introduce unique cultural features in enjoying and culinary rituals. ,…
– Introducing the history of handicrafts or specialties and culinary culture: when was it born? How did you go through the ups and downs of time? Whose name is associated with it? What legends are there related?…
– General introduction to the value of handicrafts or dishes, culinary culture in enhancing the position of the locality in the past, present and future.
Topic 4: Introduce a festival that captures the beauty of traditional customs or shows the exciting spirit of the times.
Suggest:
Students can choose one of two types of festivals: a traditional festival that still retains ancient beauty or a modern festival that shows a vibrant atmosphere.
The article should introduce the following main features:
– General introduction: name of the festival, time of the festival, outstanding general features of the festival,...
– Introducing the history of the festival: when did it exist? Where does it come from? What is the process like?
|
Hướng dẫn
(Bài làm ở nhà)
A- GỢI Ý GIẢI QUYẾT CÁC ĐỀ THAM KHẢO
I- Đề thuyết minh về một tác phẩm văn học:
Đề 1- Giới thiệu “Bài phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu.
Gợi ý:(Xem bài Bài phú sông Bạch Đằng)
– Bài viết cần đảm bảo nội dung kiến thức và hình thức kết cấu của một văn bản giới thiệu tác phẩm văn học.
– Đối với Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, phải giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung, đặc sắc nghệ thuật đặc biệt là lối cấu tứ, bố cục, việc lựa chọn chi tiết, nhân vật, lối kết hợp tự sự – trữ tình… tạo nên một bản tráng ca bất hủ ca ngợi lịch sử với lòng tự hào sâu lắng.
– Lời văn giới thiệu cần đĩnh đạc, lựa chọn từ ngữ, cách diễn đạt phù hợp đối tượng giới thiệu là một tác phẩm văn học cổ điển.
Đề 2. Giới thiệu “Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ.
Gợi ý:
Đây là bài giới thiệu về một tác phẩm văn xuôi viết theo thể truyền kì. Bài viết cần nêu rõ xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt cốt truyện, giới thiệu nhân vật, nội dung ý nghĩa và những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Thuyết minh rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và nghệ thuật truyền kì đặc sắc mà Nguyễn Dữ đã sáng tạo trong “thiên cổ kì bút” của mình.
Đề 3. Giới thiệu Bài tựa sách “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương.
Gợi ý:
– Dựa vào bài học (SGK tập 2) và cách viết bài thuyết minh đã học, tham khảo bố cục các bài viết vừa nêu trên, xây dựng dàn ý trước khi viết.
– Qua lời giới thiệu, cần làm nổi bật lòng yêu nước, ý thức trân trọng di sản văn hoá của cha ông.
II- Đề thuyết minh về một tác giả văn học:
Đề 1: Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi.
Gợi ý:
Bài giới thiệu có thể theo các ý chính sau đây:
– Nguyễn Trãi là nhân vật toàn tài, hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời phong kiến. Ông là một nhà quân sự đại tài, nhà văn hoá xuất sắc và nhà văn lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.
– Ông sinh và mất năm nào? là con của ai? cháu ngoại của ai?
– Lúc nhỏ ông được học hành thế nào? Đỗ đạt gì?
– Khi giặc Minh sang xâm lược, đất nước, gia đình, và bản thân ông đã gặp hoạ gì?
– Ông theo Lê Lợi và được Lê Lợi tin dùng như thế nào? Vai trò của ông trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống giặc Minh?
– Tác phẩm chính của ông trên các phương diện quân sự – chính trị (Bình Ngô sách, Binh thư yếu lược, Quân trung từ mệnh tập), văn hoá – khoa học (Dư địa chí) v.v…
Đặc biệt ông có nhiêu đóng góp trên lĩnh vực văn học. Các tác phẩm chính: Phú núi Chí Linh, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Bình Ngô đại cáo…
– Các tác phẩm của ông toát lên tư tưởng yêu nước, thương dân, đồng thời cũng thể hiện một tâm hồn phóng túng, lãng mạn, tài hoa, nhưng rất cương trực, có bản lĩnh vững vàng, tầm nhìn sáng suốt…
– Nguyễn Trãi có vị trí rất quan trọng trong lịch sử văn hoá, văn học dân tộc.
Đề 2. Giới thiệu với bạn đọc Việt Nam về tác giả của những bài thơ hai-cư nổi tiếng của Ma-su-ô Ba-sô (Nhật Bản).
Gợi ý:
Dựa vào phần Tiểu dẫn bài Thơ hai-cư của Ma-su-ô Ba-sô, bài thuyết minh gồm các ý sau:
– Ma-su-ô Ba-sô là nhà thơ hàng đầu Nhật Bản, tác giả của những bài thơ hai-cư nổi tiếng thế giới.
– Tóm tắt tiểu sử của Ma-su-ô Ba-sô: năm sinh, năm mất; quê quán, gia đình; các mốc lớn trong cuộc đời; những phẩm chất, tính cách con người Ba-sô.
– Sự nghiệp văn học của Ba-sô: những tác phẩm tiêu biểu; đặc điểm tư tưởng và nghệ thuật của các sáng tác.
– Công lao của Ma-su-ô Ba-sô đối với thể thơ hai-cư.
– Đánh giá chung: Ma-su-ô Ba-sô với thể thơ hai-cư của ông không chỉ nổi tiếng ở Nhật Bản mà còn có ảnh hưởng lớn đến nền thi ca nhân loại, đi biệt là ở khu vực Đông Nam Á.
Đề 3. Giới thiệu về La Quán Trung, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng Tam quốc diễn nghĩa.
Gợi ý:
Nội dung kiến thức chủ yếu dựa vào phần Tiểu dẫn bài Hồi trống Cổ Thành. Tuy nhiên người viết cần đọc thêm các sách tham khảo để bài viết thêm phong phú, sinh động và hấp dẫn. Bố cục của bài viết chia làm hai phần chính:
Phần thứ nhất: Tiểu sử La Quán Trung.
Phần thứ hai: Sự nghiệp văn học của La Quán Trung.
III- Đề kết hợp thuyết minh về tác giả – tác phẩm văn học:
Đề 1: Giới thiệu về Trương Hán Siêu và ” Bài phú sông Bạch Đằng” nổi tiếng của ông.
Gợi ý.
(Xem phần Tiểu dẫn bài Bài phú sông Bạch Đằng).
Có thể thuyết minh theo dàn ý sau:
+ Mở bài: Giới thiệu khái quát chung về Trương Hán Siêu và Bài phú sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu là một vị tướng, là người giỏi văn chương, Bài phú sông Bạch Đằng là khúc tráng ca trong dòng thơ văn Bạch Đằng).
+ Thân bài: Giới thiệu chi tiết theo hai phần chính.
Phần thứ nhất:giới thiệu về Trương Hán Siêu:
– Tiểu sử, cuộc đời và con người.
– Sự nghiệp thơ văn.
Phần thứ hai:Giới thiệu về Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu:
– Thể phú.
– Hoàn cảnh ra đời của Bài phú sông Bạch Đằng.
– Nội dung tư tưởng và giá trị nhiều mặt của Bài Phú sông Bạch Đằng.
+ Kết bài: Nhận xét, đánh giá về vị trí, giá trị, ảnh hưởng của tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bài phú sông Bạch Đằng (tác giả được lưu danh sử sách, tác phẩm sống mãi cùng non sông tổ quốc)
Đề 2. Giới thiệu Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô – một áng “thiên cổ hùng văn”
Gợi ý:
Nội dung kiến thức chỉ cần dựa vào hai bài là đủ: bài Nguyễn Trãi và bài Đại cáo bình Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2). Nội dung bài viết có thể triển khai như sau:
a- Mở bài: Giới thiệu khái quát chung về Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi là nhân vật toàn tài số một trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến; Đại cáo bình Ngô là một áng văn bất hủ có giá trị nhiều mặt).
b- Thân bài: Giới thiệu chi tiết về Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô.
– Nguyễn Trãi (xem phần hướng dẫn đề 1, phần đề tham khảo thuyết minh về tác gia văn học).
– Đại cáo bình Ngô:
+ Hoàn cảnh ra đời: sau chiến thắng quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn (1428).
+ Thể Cáo và đặc điểm của bài Đại cáo bình Ngô (Cáo là thể văn cổ dùng để công bố sự kiện quan trọng; Đại cáo bình Ngô viết theo lối văn biền ngẫu, thể chính luận, chữ Hán, bố cục bốn phần,…).
+ Giá trị nội dung tư tưởng (tư tưởng bao trùm, xuyên suốt là tư tưởng nhân nghĩa,…)
+ Giá trị nghệ thuật (Các yếu tố làm nên một thiên anh hùng ca, một áng văn chính luận mẫu mực).
c- Kết bài: Đánh giá chung (Nguyễn Trãi là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá. Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập làm rạng rỡ non sông, nêu cao niềm tự hào dân tộc của người Việt).
Đề 3. Giới thiệu về Nguyễn Dữ, thể loại Truyền kì, “Truyền kì mạn lục”, và “Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên” (Trích” Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ).
Gợi ý:
Đề bài có tới bốn yêu cầu cần thuyết minh. Bài viết sẽ lần lượt thuyết minh từng đối tượng:
– Thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ.
– Thuyết minh về thể truyền kì.
|
Hướng dẫn
(Bài làm ở nhà)
A- GỢI Ý GIẢI QUYẾT CÁC ĐỀ THAM KHẢO
I- Đề thuyết minh về một tác phẩm văn học:
Đề 1- Giới thiệu “Bài phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu.
Gợi ý:(Xem bài Bài phú sông Bạch Đằng)
– Bài viết cần đảm bảo nội dung kiến thức và hình thức kết cấu của một văn bản giới thiệu tác phẩm văn học.
– Đối với Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, phải giới thiệu được hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung, đặc sắc nghệ thuật đặc biệt là lối cấu tứ, bố cục, việc lựa chọn chi tiết, nhân vật, lối kết hợp tự sự – trữ tình… tạo nên một bản tráng ca bất hủ ca ngợi lịch sử với lòng tự hào sâu lắng.
– Lời văn giới thiệu cần đĩnh đạc, lựa chọn từ ngữ, cách diễn đạt phù hợp đối tượng giới thiệu là một tác phẩm văn học cổ điển.
Đề 2. Giới thiệu “Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ.
Gợi ý:
Đây là bài giới thiệu về một tác phẩm văn xuôi viết theo thể truyền kì. Bài viết cần nêu rõ xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt cốt truyện, giới thiệu nhân vật, nội dung ý nghĩa và những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Thuyết minh rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và nghệ thuật truyền kì đặc sắc mà Nguyễn Dữ đã sáng tạo trong “thiên cổ kì bút” của mình.
Đề 3. Giới thiệu Bài tựa sách “Trích diễm thi tập” của Hoàng Đức Lương.
Gợi ý:
– Dựa vào bài học (SGK tập 2) và cách viết bài thuyết minh đã học, tham khảo bố cục các bài viết vừa nêu trên, xây dựng dàn ý trước khi viết.
– Qua lời giới thiệu, cần làm nổi bật lòng yêu nước, ý thức trân trọng di sản văn hoá của cha ông.
II- Đề thuyết minh về một tác giả văn học:
Đề 1: Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi.
Gợi ý:
Bài giới thiệu có thể theo các ý chính sau đây:
– Nguyễn Trãi là nhân vật toàn tài, hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam thời phong kiến. Ông là một nhà quân sự đại tài, nhà văn hoá xuất sắc và nhà văn lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.
– Ông sinh và mất năm nào? là con của ai? cháu ngoại của ai?
– Lúc nhỏ ông được học hành thế nào? Đỗ đạt gì?
– Khi giặc Minh sang xâm lược, đất nước, gia đình, và bản thân ông đã gặp hoạ gì?
– Ông theo Lê Lợi và được Lê Lợi tin dùng như thế nào? Vai trò của ông trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống giặc Minh?
– Tác phẩm chính của ông trên các phương diện quân sự – chính trị (Bình Ngô sách, Binh thư yếu lược, Quân trung từ mệnh tập), văn hoá – khoa học (Dư địa chí) v.v…
Đặc biệt ông có nhiêu đóng góp trên lĩnh vực văn học. Các tác phẩm chính: Phú núi Chí Linh, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Bình Ngô đại cáo…
– Các tác phẩm của ông toát lên tư tưởng yêu nước, thương dân, đồng thời cũng thể hiện một tâm hồn phóng túng, lãng mạn, tài hoa, nhưng rất cương trực, có bản lĩnh vững vàng, tầm nhìn sáng suốt…
– Nguyễn Trãi có vị trí rất quan trọng trong lịch sử văn hoá, văn học dân tộc.
Đề 2. Giới thiệu với bạn đọc Việt Nam về tác giả của những bài thơ hai-cư nổi tiếng của Ma-su-ô Ba-sô (Nhật Bản).
Gợi ý:
Dựa vào phần Tiểu dẫn bài Thơ hai-cư của Ma-su-ô Ba-sô, bài thuyết minh gồm các ý sau:
– Ma-su-ô Ba-sô là nhà thơ hàng đầu Nhật Bản, tác giả của những bài thơ hai-cư nổi tiếng thế giới.
– Tóm tắt tiểu sử của Ma-su-ô Ba-sô: năm sinh, năm mất; quê quán, gia đình; các mốc lớn trong cuộc đời; những phẩm chất, tính cách con người Ba-sô.
– Sự nghiệp văn học của Ba-sô: những tác phẩm tiêu biểu; đặc điểm tư tưởng và nghệ thuật của các sáng tác.
– Công lao của Ma-su-ô Ba-sô đối với thể thơ hai-cư.
– Đánh giá chung: Ma-su-ô Ba-sô với thể thơ hai-cư của ông không chỉ nổi tiếng ở Nhật Bản mà còn có ảnh hưởng lớn đến nền thi ca nhân loại, đi biệt là ở khu vực Đông Nam Á.
Đề 3. Giới thiệu về La Quán Trung, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng Tam quốc diễn nghĩa.
Gợi ý:
Nội dung kiến thức chủ yếu dựa vào phần Tiểu dẫn bài Hồi trống Cổ Thành. Tuy nhiên người viết cần đọc thêm các sách tham khảo để bài viết thêm phong phú, sinh động và hấp dẫn. Bố cục của bài viết chia làm hai phần chính:
Phần thứ nhất: Tiểu sử La Quán Trung.
Phần thứ hai: Sự nghiệp văn học của La Quán Trung.
III- Đề kết hợp thuyết minh về tác giả – tác phẩm văn học:
Đề 1: Giới thiệu về Trương Hán Siêu và ” Bài phú sông Bạch Đằng” nổi tiếng của ông.
Gợi ý.
(Xem phần Tiểu dẫn bài Bài phú sông Bạch Đằng).
Có thể thuyết minh theo dàn ý sau:
+ Mở bài: Giới thiệu khái quát chung về Trương Hán Siêu và Bài phú sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu là một vị tướng, là người giỏi văn chương, Bài phú sông Bạch Đằng là khúc tráng ca trong dòng thơ văn Bạch Đằng).
+ Thân bài: Giới thiệu chi tiết theo hai phần chính.
Phần thứ nhất:giới thiệu về Trương Hán Siêu:
– Tiểu sử, cuộc đời và con người.
– Sự nghiệp thơ văn.
Phần thứ hai:Giới thiệu về Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu:
– Thể phú.
– Hoàn cảnh ra đời của Bài phú sông Bạch Đằng.
– Nội dung tư tưởng và giá trị nhiều mặt của Bài Phú sông Bạch Đằng.
+ Kết bài: Nhận xét, đánh giá về vị trí, giá trị, ảnh hưởng của tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bài phú sông Bạch Đằng (tác giả được lưu danh sử sách, tác phẩm sống mãi cùng non sông tổ quốc)
Đề 2. Giới thiệu Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô – một áng “thiên cổ hùng văn”
Gợi ý:
Nội dung kiến thức chỉ cần dựa vào hai bài là đủ: bài Nguyễn Trãi và bài Đại cáo bình Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2). Nội dung bài viết có thể triển khai như sau:
a- Mở bài: Giới thiệu khái quát chung về Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi là nhân vật toàn tài số một trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến; Đại cáo bình Ngô là một áng văn bất hủ có giá trị nhiều mặt).
b- Thân bài: Giới thiệu chi tiết về Nguyễn Trãi và Đại cáo bình Ngô.
– Nguyễn Trãi (xem phần hướng dẫn đề 1, phần đề tham khảo thuyết minh về tác gia văn học).
– Đại cáo bình Ngô:
+ Hoàn cảnh ra đời: sau chiến thắng quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn (1428).
+ Thể Cáo và đặc điểm của bài Đại cáo bình Ngô (Cáo là thể văn cổ dùng để công bố sự kiện quan trọng; Đại cáo bình Ngô viết theo lối văn biền ngẫu, thể chính luận, chữ Hán, bố cục bốn phần,…).
+ Giá trị nội dung tư tưởng (tư tưởng bao trùm, xuyên suốt là tư tưởng nhân nghĩa,…)
+ Giá trị nghệ thuật (Các yếu tố làm nên một thiên anh hùng ca, một áng văn chính luận mẫu mực).
c- Kết bài: Đánh giá chung (Nguyễn Trãi là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá. Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập làm rạng rỡ non sông, nêu cao niềm tự hào dân tộc của người Việt).
Đề 3. Giới thiệu về Nguyễn Dữ, thể loại Truyền kì, “Truyền kì mạn lục”, và “Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên” (Trích” Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ).
Gợi ý:
Đề bài có tới bốn yêu cầu cần thuyết minh. Bài viết sẽ lần lượt thuyết minh từng đối tượng:
– Thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ.
– Thuyết minh về thể truyền kì.
|
Hướng dẫn
(Bài làm ở nhà)
A- GỢI Ý LÀM BÀI
Bài viết số 7 lớp 10 đề 1: Dân tộc ta có truyền thống “Tôn sư trọng đạo” Theo anh (chị), truyền thống ấy được nổi tiếp như thế nào trong thực tế cuộc sống hiện nay?
Gợi ý:
– Đây là đề nghị luận xã hội. vấn đề cần nghị luận là vấn đề “Tôn sư trọng đạo”, một vấn đề có tính truyền thống của dân tộc. Phạm vi tư liệu dùng cho bài viết rất rộng (từ xưa đến nay). Người viết cần sử dụng một cách tổng hợp các thao tác lập luận: phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh.
– Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
1. Giải thích vấn đề: truyền thống “tôn sư trọng đạo”
+ Giải thích các khái niệm: “sư”? “tôn sư”? “đạo”? “trọng đạo’’?
+ Giải thích ý nghĩa của vấn đề: truyền thống “tôn sư trọng đạo”
2. Phân tích và chứng minh: “Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Các ý chính:
+ Kính trọng và đề cao vai trò của người thầy.
+ Coi trọng việc học hành.
+ Coi trọng đạo lí làm người, đề cao nhân nghĩa v.v…
3. Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” được nối tiếp như thế nào trong thực tế cuộc sống hiện nay:
+ Hoàn cảnh, điều kiện sống có những gì thay đổi?
+ Những gì được tiếp tục phát huy? Những gì có sự bổ sung, phát triển? Những hiện tượng nào cần lên án?
4. Cần phải làm thế nào để phát huy truyền thống “Tôn sư trọng đạo” trong một thời đại mới?
Bài viết số 7 lớp 10 đề 2. Có ý kiến cho rằng: Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính.
Anh (chị) thấy ý kiến này như thế nào?
Gợi ý:
– Đây là đề nghị luận xã hội. Nội dung vấn đề là quá trình hình thành, phát triển của những thói xấu ở con người. Phạm vi tài liệu là những kiến thức đời sống, xã hội. cần sử dụng kết hợp các phương pháp và các thao tác nghị luận.
– Bài viết cần đảm bảo những ý cơ bản sau:
1. Giải thích:
+ Thế nào là những thói xấu của con người?
+ Tại sao nói: Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính?
2. Phân tích, chứng minh và bình luận ý kiến:
+ Trong mỗi con người bao giờ cũng có những đức tính tốt và những thói tật xấu.
+ Nếu con người không biết tự rèn luyện, hướng tới những gì tốt đẹp, bị những thói xấu làm chủ thì “Thói xấu ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến thành ông chủ nhà khó tính” (khía cạnh đúng của ý kiến).
+ Nếu con người biết tự rèn luyện, biết hướng tới những gì tốt đẹp, nhận ra những thói tật xấu để từ bỏ thì không những thói xấu không có cơ hội phát triển mà dần dần con người sẽ trở nên hoàn thiện (khía cạnh chưa đúng của ý kiến).
3. Hướng rèn luyện của bản thân nói riêng và của mọi người nói chung.
Bài viết số 7 lớp 10 đề 3. Hưởng ứng đợt thi đua xây dựng môi trường xanh, sạch đẹp do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động, chi đoàn lớp 10A tổ chức hội thảo với chủ đề: Hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp.
Anh (chị) hãy viết bài tham gia hội thảo đó.
Gợi ý:
– Đây là đề nghị luận xã hội, vấn đề nghị luận là hãy vì một mái trường xanh, sạch, đẹp, một vấn đề đang được đặt ra một cách bức thiết hiện nay. Phạm vi tư liệu là những kiến thức về môi trường. Đối tượng nghe (đọc) là các bạn trong lớp.
– Để đảm bảo những yêu cầu trên, bài viết cần làm nổi bật được những ý cơ bản sau:
1. Ý nghĩa của đợt thi đua Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp là gì?
2. Vấn đề môi trường hiện nay ra sao? Mái trường của chúng ta đang trong tình trạng như thế nào?
3. Muốn có “một mái trường xanh, sạch, đẹp”, cần thực hiện những giải pháp gì?
Bài viết số 7 lớp 10 đề 4. Học bài thơ “Thuật hoà” của Phạm Ngũ Lão, có bạn cho rằng: sự hổ thẹn của tác giả là quá đáng, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước.
Hãy cho biết ý kiến của anh (chị).
Gợi ý:
– Đây là một đề nghị luận văn học nhưng đòi hỏi người viết có những hiểu biết nhất định về xã hội, đặc biệt là thời đại của nhà thơ Phạm Ngũ Lão, hiểu biết về nhà thơ, bài thơ và văn học thời trung đại.
– HS có thể tham khảo dàn ý sau:
* Mở bài:
– Giới thiệu bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão và sự hổ thẹn của tác giả thể hiện tập trung trong hai câu thơ cuối bài.
– Giới thiệu hai ý kiến trái ngược nhau về sự hổ thẹn của tác giả và định hướng ý kiến của bản thân.
* Thân bài:
– Giải thích ý kiến thứ nhất.
– Giải thích ý kiến thứ hai.
– Ý kiến của bản thân: Dùng lí lẽ và dẫn chứng để phê phán sự hồ đồ, thiếu hiểu biết của ý kiến thứ nhất, đồng tình với ý kiến thứ hai (hoặc có những ý kiến khác nhưng phải lập luận một cách thuyết phục).
|
Instruct
(Homework)
A- TEST-WORKING SUGGESTIONS
Article number 7, grade 10, topic 1: Our nation has a tradition of "respecting teachers and respecting morality." In your opinion, how is that tradition continued in real life today?
Suggest:
– This is a sociological proposal. The issue that needs to be discussed is the issue of "Respecting the teacher's religion", a traditional issue of the nation. The range of materials used for the article is very wide (from past to present). Writers need to use a synthesis of argumentative operations: analysis, synthesis, deduction, induction, comparison.
– The article should ensure the following basic ideas:
1. Explain the problem: the tradition of "respecting the teacher and respecting the way"
+ Explain the concept: “monk”? “master”? “religion”? “religion”?
+ Explain the meaning of the issue: the tradition of "respecting teachers and respecting morality"
2. Analyze and prove: "Respect the teacher's religion" is a good tradition of our people. Main ideas:
+ Respect and promote the role of teachers.
+ Appreciate learning.
+ Appreciate human ethics, promote humanity, etc.
3. How is the tradition of "Respecting the Master's Way" continued in real life today:
+ What changes have occurred in circumstances and living conditions?
+ What will be continued to be promoted? What additions and developments are there? What phenomena need to be condemned?
4. What needs to be done to promote the tradition of "Respecting the teacher and respecting the way" in a new era?
Article number 7, grade 10, topic 2. There is an opinion that: Bad habits start out as a passerby, then become a close friend living in the same house and eventually turn into a difficult homeowner.
How do you see this opinion?
Suggest:
– This is a sociological proposal. The content of the problem is the process of formation and development of bad habits in people. The scope of documents is life and social knowledge. need to use a combination of methods and discussion operations.
– The article should ensure the following basic ideas:
1. Explanation:
+ What are bad habits of people?
+ Why is it said: Bad habits start out as a passerby, then become a close friend living in the same house and finally turn into a difficult homeowner?
2. Analyze, prove and comment on opinions:
+ In every person there are always good qualities and bad habits.
+ If people do not know how to train themselves, aim for good things, and are controlled by bad habits, then "Bad habits are initially a passerby, then become a close friend living in the same house and eventually turn into a grandfather." "difficult landlord" (correct aspect of opinion).
+ If people know how to train themselves, know how to aim for good things, recognize bad habits to give up, not only will bad habits not have a chance to develop, but gradually people will become perfect (aspect). opinion is not correct).
3. Training direction for yourself in particular and everyone in general.
Article number 7, grade 10, topic 3. Responding to the emulation to build a green, clean and beautiful environment launched by the Ho Chi Minh Communist Youth Union, the class 10A branch organized a seminar with the theme: Let's work for one roof. The school is green, clean, beautiful.
Please write an article to participate in that conference.
Suggest:
– This is a social proposal, the discussion problem is for a green, clean, beautiful school roof, an issue that is being raised urgently today. The scope of materials is environmental knowledge. The audience who listens (reads) is the people in the class.
– To ensure the above requirements, the article needs to highlight the following basic ideas:
1. What is the meaning of the competition to build a green, clean and beautiful environment?
2. What are the current environmental issues? What condition is our school roof in?
3. To have a "green, clean, and beautiful school roof", what solutions should be implemented?
Essay number 7, grade 10, topic 4. Studying the poem "The Art of Harmony" by Pham Ngu Lao, some people think that the author's shame is excessive and arrogant. On the contrary, some people praised it and thought it was a manifestation of the great ambition of a patriotic young man.
Please let me know your opinion.
Suggest:
– This is a literary essay proposal but requires the writer to have certain understanding of society, especially the era of poet Pham Ngu Lao, knowledge of poets, poems and medieval literature. .
– Students can refer to the following outline:
* Opening:
– Introducing the poem Thuat Hoi by Pham Ngu Lao and the author's shame expressed in the last two verses of the poem.
– Introduces two opposing opinions about the author's shame and his own opinion orientation.
* Body of the article:
– Explain the first idea.
– Explain the second opinion.
– Own opinion: Use reason and evidence to criticize the confusion and lack of understanding of the first opinion, agree with the second opinion (or have other opinions but must argue convincingly). dress).
|
Hướng dẫn
(Bài làm ở nhà)
A- GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP
Đề 1: Viết một bài văn thuyết minh về vai trò của cây cối (hoặc của rừng, của các loài động vật hoang dã, của nhiên liệu sạch,… ) trong việc bảo vệ môi trường.
Gợi ý:
HS có thể chọn một trong các đối tượng mà để bài yêu cầu thuyết minh. Vấn đề bảo vệ môi trường đã và đang là mối quan tâm của toàn nhân loại nên dù chọn đối tượng nào để thuyết minh, người viết cũng phải hướng tới mục tiêu là vai trò của đối tượng ấy trong việc bảo vệ môi trường sống.
HS có thể tham khảo dàn ý sau đây cho bài thuyết minh về vai trò của cây cối trong việc bảo vệ môi trường sông:
+ Mở bài:
Giới thiệu khái quát: cây cối có tầm quan trọng nhất trong việc bảo vệ môi trường sống.
+ Thân bài:
Lần lượt thuyết minh về các tính năng, tác dụng của cây cối trong việc bảo vệ môi trường sống như:
– Cây cối cung cấp một lượng ôxi khổng lồ.
– Cây cối góp phần giữ cân bằng sinh thái.
– Cây cối góp phần chống xói lở, lũ lụt.
– Cây cối giữ độ ẩm cần thiết khi trời hạn v.v…
Bài viết cũng có thể đề cập tới tình trạng chặt phá rừng bừa bãi dẫn tới nguy cơ thiên tai ngày càng gia tăng, môi trường sống bị đe doạ…
+ Kết bài:
Đánh giá tổng quát hoặc tuyên truyền việc trồng cây, bảo vệ cây, rừng.
Đề 2– Viết một bài thuyết minh về tác hại của ma tuý (hoặc của rượu, thuốc lá,…) đối với đời sống của con người.
Gợi ý:
Tệ nạn nghiện ma tuý, rượu, thuốc lá đang ngày một gia tăng, thậm chí xuất hiện ngày một nhiều trong nhà trường. Các phương tiện thông tin đại chúng không ngừng tuyên truyền về tác hại của nó. Nếu HS quan tâm thì không thiếu tư liệu để làm tốt bài thuyết minh.
HS có thể tham khảo dàn ý sau đây cho bài thuyết minh về tác hại của ma tuý đối với đời sống của con người.
a- Mở bài:
Giới thiệu khái quát: ma tuý là một hiểm hoạ của loài người.
b- Thân bài:
Lần lượt thuyết minh về các mặt tác hại của ma tuý đối với đời sống con người:
– Nguồn gốc phát sinh ma tuý.
– Các chất được gọi là ma tuý.
– Những tác hại của ma tuý đối với cuộc sống con người:
+ Ma tuý khiến người dùng nó mất khả năng làm chủ, thần kinh tê liệt…
+ Ma tuý gây tổn hại về kinh tế, suy kiệt về nòi giống…
+ Ma tuý là con đường chính dẫn tới lây nhiễm căn bệnh thế kỉ HIV.
– Tình hình nghiện ma tuý hiện nay và những việc cần làm nhằm đẩy lùi tệ nạn này.
c- Kết bài:
Nêu suy nghĩ của bản thân trước tác hại của ma tuý và nhắc nhở mọi người hãy tránh xa.
Đề 3– Viết một bài văn thuyết minh về một kinh nghiệm học văn hoặc làm văn.
Gợi ý:
– Bài viết này thuyết minh về một vấn đề của chính bản thân người viết. Vì vậy đòi hỏi người viết không chỉ chăm học, làm bài tốt mà còn thường xuyên chú ý tới việc đúc rút kinh nghiệm và khả năng thuyết minh lại những kinh nghiệm ấy cho người khác.
– Nếu là học văn thì có thể là kinh nghiệm đọc tác phẩm văn học có ghi chép tóm tắt, kinh nghiệm luyện viết câu văn, đoạn văn hay, kinh nghiệm tiếp thu bài trên lớp, kinh nghiệm rèn luyện quan sát, suy nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng để trau dồi đời sống tâm hồn…
– Nếu là kinh nghiệm làm văn thì có thể là việc đọc kĩ đề bài, việc lập đề cương, việc triển khai các ý, việc đọc và kiểm tra lại trước khi nạp bài…
Một văn bản thuyết minh chuẩn xác cần đáp ứng một số điểm:
– Sự tìm hiểu thấu đáo trước khi viết.
|
Instruct
(Homework)
A- SUGGESTIONS FOR ANSWERS TO QUESTIONS AND EXERCISES
Topic 1: Write an expository essay about the role of trees (or forests, wild animals, clean fuel, etc.) in protecting the environment.
Suggest:
Students can choose one of the subjects for which the article requires explanation. The issue of environmental protection has been and is a concern of all humanity, so no matter which subject is chosen to explain, the writer must aim at the goal of that subject's role in protecting the living environment.
Students can refer to the following outline for a presentation about the role of trees in protecting the river environment:
+ Opening lesson:
General introduction: trees are of the most importance in protecting the living environment.
+ Body of the article:
Take turns explaining the features and effects of trees in protecting the living environment such as:
– Trees provide a huge amount of oxygen.
– Trees contribute to maintaining ecological balance.
– Trees help prevent erosion and floods.
– Trees retain necessary moisture during droughts, etc.
The article may also mention the situation of indiscriminate deforestation leading to increasing risks of natural disasters, threatening the living environment...
+ Conclusion:
General assessment or propaganda of tree planting, tree and forest protection.
Topic 2– Write an essay about the harmful effects of drugs (or alcohol, cigarettes, etc.) on human life.
Suggest:
Addiction to drugs, alcohol, and tobacco is increasing day by day, even appearing more and more in schools. The mass media constantly propagate its harmful effects. If students are interested, there is no shortage of materials to do a good presentation.
Students can refer to the following outline for a presentation about the harmful effects of drugs on human life.
a- Introduction:
General introduction: drugs are a danger to humanity.
b- Body of the article:
Take turns explaining the harmful effects of drugs on human life:
– Origin of drugs.
– Substances called drugs.
– Harmful effects of drugs on human life:
+ Drugs cause users to lose control, paralyze their nerves...
+ Drugs cause economic damage, racial depletion...
+ Drugs are the main route leading to HIV infection.
– The current situation of drug addiction and what needs to be done to repel this evil.
c- Conclusion:
Express your thoughts on the harmful effects of drugs and remind everyone to stay away.
Topic 3– Write an expository essay about an experience studying literature or writing.
Suggest:
– This article explains a problem of the writer himself. Therefore, the writer is required not only to study hard and do well on assignments, but also to regularly pay attention to drawing on experiences and the ability to explain those experiences to others.
– If it's studying literature, it can be experience reading literary works with summary notes, experience practicing writing good sentences and paragraphs, experience absorbing lessons in class, experience practicing observation and thinking. , associate, imagine to cultivate spiritual life...
– If it is writing experience, it can be reading carefully the topic, making an outline, developing ideas, reading and checking again before submitting the assignment...
An accurate explanatory text needs to meet a number of points:
– Thorough research before writing.
|
Hướng dẫn
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu tục ngữ nêu lên những kinh nghiệm trong việc đánh giá nhìn nhận con người thông qua cách nhìn nhận, đánh giá một sự vật, một đồ vật cụ thể. “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” là một câu tục ngữ thuộc loại trên.
Nó vừa đúng cả nghĩa đen, vừa đúng cả nghĩa bóng. Vì trước hết nó nêu lên một kinh nghiệm để nhìn nhận về chất lượng một đồ vật bằng gỗ mà ta dùng thường ngày. Đồ vật bằng gỗ đó được sơn một lớp sơn hào nhoáng, nhìn mặt ngoài ta thấy nó đẹp nhưng thực chất gỗ của nó ra sao thì ta chưa biết được. “Nước sơn” chính là mặt ngoài, mặt trang trí, tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn về hình thức. Nhưng “nước sơn” cũng có thể che giấu đi cái chất gỗ tạp bên trong. Gỗ là nguyên liệu làm nên đồ vật. Nếu gỗ không tốt, thì các đồ vật ta dùng cũng chóng hỏng. Khi đó “nước sơn” cũng không thể cứu nỗi sự hỏng nát của các đồ vật.
Đố các bạn đây sơn thật hay sơn giả? Trả lời ở comment phía dưới.
Một con người cũng vậy, tư tưởng, đạo đức, cái quyết định không phải là hình thức bên ngoài mà là phẩm chất tư tưởng, đạo đức của người đó. Hình thức bên ngoài: Đẹp hay xấu, giảm dị hay diêm dúa… ta dễ nhận ran gay, qua một cái nhìn nhưng còn phẩm chất bên trong, người đó nhân hậu hay ích kỉ, cao cả hay thấp hèn, trung thực hay giả đối… thì phải sống lâu với nhau mà biết được. Mà đã là con người thì cuộc sống tồn tại chủ yếu là thông qua các mối quan hệ giữa người với người. Trong các mối quan hệ này, muốn sống lâu dài với nhau được, quả thực con người phải tôn trọng nhau, yêu thương nhau… Không thể sớm nắng, chiều mưa! Thực tế có những người, son phấn lòe loẹt chưng diện hết mốt này đến mốt khác,nói năm xem ra cũng nhẹ nhàng, quyến rũ… nhưng tiếp xúc và gần gũi một thời gian ta sẽ thấy họ thuộc loại ăn xổi, ở thì, lừa thầy, dối bạn, coi thường cả bố mẹ.
Tuy rằng nội dung, phẩm chất là cái quyết định nhưng cũng không thể xem thường hình thức bên ngoài. Bởi hình thức là cái đập vào mắt ta trước tiên. Mà con mắt của ai thì cũng thích nhìn cái đẹp, một phong cách đẹp, một khuôn mặt đẹp, một bộ quần áo đẹp… ai mà chả thích ngắm!
Thực ra câu tục ngữ trên không hề có ý xem nhẹ hình thức mà chú yếu là so sánh giữa nội dung và hình thức để thấy nội dung quan trọng hơn hình thức. Điều đó là đúng. Nhưng hình thức cũng hết sức quan trọng. Hình thức góp phần làm tăng thêm vẻ đẹp của nội dung. Gỗ tốt không mối mọt, có độ bền lâu, nhưng lại đánh bóng, sơn mài, thì lại vừa tốt, vừa đẹp chứ sao? Con người cũng vậy, vừa có phẩm chất tốt, lại vừa có vẻ đẹp của hình thức bên ngoài, từ cái dáng hình đến nụ cười, giọng nói, từ cử chỉ đến cách ăn mặc, đi đứng… thì ai mà chẳng thích sống gần, thích làm bạn với nhau? Chính vì vậy mà bên cạnh câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” lại có câu “Cái răng, cái tóc là gốc con người”.
Hơn nữa trong cuộc sống của con người có những hiện tượng rất khó tách bạch đâu là nội dung, đâu là hình thức, bởi lẽ ở đó hình thức và nội dung, cả hai cái đều quan trọng cả. Một lời nói nhẹ nhàng trước một sai lầm của bạn, giọng nói chưa phải là nội dung của câu nói nhưng quả thật nó cũng phản ánh một thái độ, một phương pháp, một cách xử thế… đó không phải là nội dung thì là gì nữa?
|
Instruct
In the treasury of Vietnamese folk literature, there are many proverbs that highlight experiences in evaluating and perceiving people through the way they perceive and evaluate a thing or a specific object. “Better wood than good paint” is a proverb of the above type.
It is both literally and figuratively true. Because first of all, it presents an experience to perceive the quality of wooden objects that we use every day. That wooden object is painted with a layer of flashy paint. On the outside, we think it's beautiful, but we don't know what the actual wood is like. "Paint" is the outer surface, the decorative surface, creating attractive beauty in form. But "paint" can also hide the wood inside. Wood is a raw material to make things. If the wood is not good, the objects we use will quickly deteriorate. At that time, "paint" could not save the deterioration of the objects.
Guess if this is real paint or fake paint? Reply in the comments below.
The same is true for a person, his thoughts and morality are not the external appearance but the ideological and moral qualities of that person. Outer appearance: Beautiful or ugly, plain or frivolous... we can easily recognize a gay person, just by looking at them, but there are also internal qualities, whether that person is kind or selfish, noble or vile, honest or fake. For... you have to live together for a long time to know. As humans, life exists mainly through relationships between people. In these relationships, to live a long life together, people must indeed respect each other and love each other... It cannot be sunny in the morning and rainy in the afternoon! In reality, there are people who, with flashy makeup and makeup, wear one fashion after another, seem gentle and seductive... but when we come into contact and get close for a while, we will see that they are the type of people who are on the run, and stay close. , lie to teachers, lie to friends, despise parents.
Although the content and quality are decisive, the external form cannot be underestimated. Because form is what catches our eye first. And everyone's eyes like to see beauty, a beautiful style, a beautiful face, a beautiful outfit... who doesn't like to look!
Actually, the above proverb does not mean to underestimate form, but mainly focuses on comparing content and form to see that content is more important than form. That's right. But form is also extremely important. Form contributes to enhancing the beauty of content. Good wood is termite-free and durable, but when polished and lacquered, it's both good and beautiful, right? People are the same, with both good qualities and beauty in appearance, from appearance to smile, voice, from gestures to how to dress, walk... then who doesn't like to live? close, like to be friends with each other? That's why, besides the proverb "Better wood than good paint", there is also the saying "Teeth and hair are the roots of man".
Furthermore, in human life there are phenomena where it is difficult to separate what is content and what is form, because there form and content, both are important. A gentle word in response to your mistake. The tone of voice is not the content of the sentence, but it does reflect an attitude, a method, a way of behaving... if that is not the content, then it is. what else?
|
Hướng dẫn
Nước Việt Nam ta đã trải qua những biến cố lịch sử đầy đau thương và nước mắt, nhưng giai đoạn thăng trầm biến chuyển của xã hội. Từ những cảnh thanh bình an lạc, cho đến cảnh bị đô hộ, bị ngoại xâm giày xéo, dân tộc Việt Nam ta luôn dũng cảm đứng lên phá vỡ những ô nhục để đem lại vinh quang cho sứ sở. Nhưng có những tình cảnh của thời nội chiến, vợ chồng phải biệt li nhau.
Ngựa lên ngựa kẻ chia bào
Để rồi người ở lại chờ đợi mọi mòn về phương trời xa xăm kia hình bóng của một con người trong chiến trận. Những cảnh biệt li đau khổ này và sự chờ đợi mỏi mòn kia đã được văn học Việt Nam khắc ghi lại qua những khúc ca ngâm đầy cảm động của người chinh phụ. Trong hoàn cảnh ấy, người chinh phụ làm sao tránh khỏi những tâm trạng đau buồn khắc khoải với nỗi cô đơn lẻ loi của mình. Thế tâm trạng ấy ra sao? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua khúc ngâm “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Lời tâm sự của người chinh phụ trong đoạn trích vô cùng đau xót, nó mang lại cái dáng vẻ tâm trạng cô đơn, trống vắng của một con người sống với những tháng ngày chìm đắm trong sâu tư khắc khoải. Nhưng lòng vẫn luôn hướng về nơi biên thùy xa xôi. Nơi đó có hình bóng của một con người mà nàng yêu thương nhất:
Lòng này gởi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gởi đến Non Yên
Cái tâm trạng chời đợi, sầu nhớ chồng giống như tâm trạng của người chinh phụ trong “Nỗi thương nhớ”.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại
Mai Hồ và Thanh Hải dòm qua
Người chinh phụ này cũng tưởng tượng cảnh chồng nơi chiến trường, cảnh chiến trường mà nàng tưởng tượng ra thật thê lương, thảm đạm, hãi hùng bằng những cuộc hành quân liên miên. Trở về với đoạn trích, ta thấy có lẽ nàng chinh phụ đang tuyệt vọng trầm uất trước nhưng suy tư, nghĩ ngợi về cuộc giao tranh dữ dội ở một vùng đất lạ, xa xôi thì lại có một hi vọng le lói nhớ nhung nhờ gió Đông gởi đến Non Yên cho chồng. Dù gởi cho gió Đông mà chẳng tới chàng thì nỗi nhớ của nàng sẽ đằng đẳng xa thẳm như “đường lên bằng trời”. Cái hi vọng ấy cao vút lên nhưng bi kịch của hiện thực khách quan đã bóp nó bởi tâm trạng của nàng không hề được khuây khỏa:
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời.
Và dù cho đường có lên bằng trời thì nàng vẫn cố lên với chàng bằng được. Ý nghĩ ấy có thể thực hiện được chăng khi con đường ấy vô bờ bến, nó “thăm thẳm” và vô tận, xa xôi?
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Ấy chỉ là một giấc mơ huyền ảo, nàng mơ ước được gặp chàng, được đến với chàng, một nỗi mơ ước vượt khỏi thực tại thử hỏi có thực hiện được chăng? Cái mơ ước tưởng tượng ấy cũng giống như người thiếu phụ trong đoạn trích “Trông bốn bề”. Thật đúng là “Tình trong giấc mộng muôn vàng cũng không”. Thế rồi, cái hi vọng ấy đã bị chuyển hóa góc độ thành một nỗi đau, chà đi xát lại trong tâm hồn nàng:
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Càng cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Nàng vừa hi vọng đây thì lại bắt đầu thất vọng, thật chẳng khác gì cái tâm trạng người chinh phụ ở đoạn trích này:
Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm…
… Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm nào có tiêu hao
Cái tâm trạng thất vọng của nàng cũng làm cho cảnh vật cũng muốn buồn theo:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Một bức tranh thiên nhiên gợi lên cái tâm trạng buồn bã của người chinh phụ liên tiếp xuất hiện hàng loạt những hoạt cảnh sinh động,với hình ảnh mưa xuân rả rích nhưng nó ẩn tìm một sức mạnh ghê ghớm đã gây nên những đoạn trường đứt ruột không chịu nổi của một con người đau khổ ; bằng các từ gợi cảm giác mạnh như “bổ mòn”, “xẻ héo” và các từ chỉ âm thanh mà sinh lực của người chinh phụ còn sót lại:
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xẻ héo càng ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sân trường kêu vẳng, chuôn chùa nên khơi
Trước mắt nàng là những cảnh vật thiên nhiên vô cùng sống động, nó khơi dậy từng mảng từng lớp trong không gian như biểu hiện rõ cái sức mạnh của mình, nhưng cái sức mạnh ấy có ý nghĩa gì khi nàng vẫn thẩn thờ như một kẻ mất trí, không còn phân biệt được âm thanh và hình cảnh của cảnh vật nữa. Nhưng có lẽ nhờ con gió mạnh thổi qua, cái tiếng gió ấy đã thốc lên, vén tấm màn lên làm nàng hồi tỉnh lại với những cảnh vật ở bên ngoài tiếp tục hiện ra trước mắt:
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Cảnh vật càng về khuya càng sinh động lạ thường, với âm thanh ra rả của những chú dế mèn kêu vang, hòa với ánh trăng soi cả hiên nhà. Hàng tiêu trước ngõ cũng đang vui đùa cùng chị gió. Cảnh vật đẹp như thế đấy, sinh động và cụ thể như thế đấy nhưng lòng của người chinh phụ vẫn cứ bồi hồi, cô đơn. Tất cả dường như gợi lên sự cô liêu trống trải, cô quạnh cho nàng và như có cái gì đó che khuất, ẩn nấp trong điều nàng ngón trông. Cái tâm trạng ấy cùng hòa đồng với tâm trạng của người thiếu phụ trong “Trông bốn bề”. Cảnh vật trong bài thơ này cũng hết sức sống động và cụ thể với bờ bãi phù sa, mặt nước ngàn dâu, cỏ xanh, xóm thôn và đàn cò trắng nhưng rồi người thiếu phụ ấy cũng cô đơn và buồn tẻ.
Trông bến nam bãi che mặt nước
Cỏ biếc um dâu mươt màu xanh,
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn có đậu trước ghềnh chiều hôm.
Thiên nhiên vẫn cứ muôn màu muôn sắc nó trùm lên khoảng không trung rộng lớn của bầu trời mà con người thì vẫn sầu tư, ủ rũ:
Hoa giải nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
Biện pháp liên hoàn trong khổ thơ cuối này cứ trùng điệp nhau, khơi gợi lên cái cảnh trăng hoa xoắt xuýt nhau, tỏa sắc lên hương để biểu hiện cho niềm vui tuổi trẻ, khao khát đắm say với niềm hạnh phúc hiếm hoi bất ngờ. Có lẽ chính thiên nhiên lúc này đã đánh thức tâm trạng của người thiếu phụ một lần nữa, làm nàng có thể trở về với tâm trạng cân bằng. Nhưng cảnh sắc vừa nhóm lên để cân bằng thì tâm trạng ấy lại biến đổi.
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau
Ta lại đi vào hành trình của tâm trạng mới, hoa nguyệt ấy vẫn không giấu cất nổi cái khổ đau của người chinh phụ. Nàng vẫn tiếp tục cô đơn và buồn tẻ bởi nàng đang đứng ngóng trông chồng mà chồng đâu chẳng thấy chỉ toàn những cảnh vật thiên nhiên của đất trời hiện ra không còn dấu vết gì của người thương.
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời, chẳng thấy người thương.
Nàng càng buồn càng ngóng trông thì người thương càng xa mãi, càng chờ thì càng xa:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài
Trông mây, mây kéo ngang trời
Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa
Nàng cứ chờ đợi, đến từng tháng ngày trôi qua trong sự nhớ thương chồng chất. Phải chăng “Người đàn bà chờ đợi người đàn ông, nhưng chờ đợi như con nhện giăng tơ” như Roschester đã nói. Người chinh phụ ngóng chồng mình cho đến bao giờ đây? Chẳng lẽ trông ngóng chồng cho đến lúc phải hóa đá “Vọng phu” chăng?
Tác giả phân tích tâm trạng của người chinh phụ thật là xuất sắc.
Phải chăng tác giả đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên có kết cấu hết sức hài hòa với cổ điện: đườn nét màu sắc, âm thanh rất linh hoạt được sáng tạo theo lối bức tranh thủy mạc chấm phá của người xưa nên rất gợi. Nhưng mục đích không phải là tả cảnh mà tạo nên một bức tranh tâm trạng của người chinh phụ ngồi ngắm cảnh trời, suy tư mơ tưởng đến chồng giống như người chinh phụ trong những câu thơ Đường:
Tương tư nhất dạ mai hoa khởi
Nhất kiến song tiền nghi thị quân
Và:
Khuê xuân thiếu phụ bất như sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Đây là bài thơ phác họa tâm trạng của người con gái phải xa chồng biền biệt, ngày tháng chờ đợi mỏi mòn trong lòng và cô đã thấy được mùa xuân phơi phới bên ngoài mà nàng thì vẫn cứ đợi chờ.
|
Hướng dẫn
Nước Việt Nam ta đã trải qua những biến cố lịch sử đầy đau thương và nước mắt, nhưng giai đoạn thăng trầm biến chuyển của xã hội. Từ những cảnh thanh bình an lạc, cho đến cảnh bị đô hộ, bị ngoại xâm giày xéo, dân tộc Việt Nam ta luôn dũng cảm đứng lên phá vỡ những ô nhục để đem lại vinh quang cho sứ sở. Nhưng có những tình cảnh của thời nội chiến, vợ chồng phải biệt li nhau.
Ngựa lên ngựa kẻ chia bào
Để rồi người ở lại chờ đợi mọi mòn về phương trời xa xăm kia hình bóng của một con người trong chiến trận. Những cảnh biệt li đau khổ này và sự chờ đợi mỏi mòn kia đã được văn học Việt Nam khắc ghi lại qua những khúc ca ngâm đầy cảm động của người chinh phụ. Trong hoàn cảnh ấy, người chinh phụ làm sao tránh khỏi những tâm trạng đau buồn khắc khoải với nỗi cô đơn lẻ loi của mình. Thế tâm trạng ấy ra sao? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu qua khúc ngâm “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Lời tâm sự của người chinh phụ trong đoạn trích vô cùng đau xót, nó mang lại cái dáng vẻ tâm trạng cô đơn, trống vắng của một con người sống với những tháng ngày chìm đắm trong sâu tư khắc khoải. Nhưng lòng vẫn luôn hướng về nơi biên thùy xa xôi. Nơi đó có hình bóng của một con người mà nàng yêu thương nhất:
Lòng này gởi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gởi đến Non Yên
Cái tâm trạng chời đợi, sầu nhớ chồng giống như tâm trạng của người chinh phụ trong “Nỗi thương nhớ”.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại
Mai Hồ và Thanh Hải dòm qua
Người chinh phụ này cũng tưởng tượng cảnh chồng nơi chiến trường, cảnh chiến trường mà nàng tưởng tượng ra thật thê lương, thảm đạm, hãi hùng bằng những cuộc hành quân liên miên. Trở về với đoạn trích, ta thấy có lẽ nàng chinh phụ đang tuyệt vọng trầm uất trước nhưng suy tư, nghĩ ngợi về cuộc giao tranh dữ dội ở một vùng đất lạ, xa xôi thì lại có một hi vọng le lói nhớ nhung nhờ gió Đông gởi đến Non Yên cho chồng. Dù gởi cho gió Đông mà chẳng tới chàng thì nỗi nhớ của nàng sẽ đằng đẳng xa thẳm như “đường lên bằng trời”. Cái hi vọng ấy cao vút lên nhưng bi kịch của hiện thực khách quan đã bóp nó bởi tâm trạng của nàng không hề được khuây khỏa:
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời.
Và dù cho đường có lên bằng trời thì nàng vẫn cố lên với chàng bằng được. Ý nghĩ ấy có thể thực hiện được chăng khi con đường ấy vô bờ bến, nó “thăm thẳm” và vô tận, xa xôi?
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Ấy chỉ là một giấc mơ huyền ảo, nàng mơ ước được gặp chàng, được đến với chàng, một nỗi mơ ước vượt khỏi thực tại thử hỏi có thực hiện được chăng? Cái mơ ước tưởng tượng ấy cũng giống như người thiếu phụ trong đoạn trích “Trông bốn bề”. Thật đúng là “Tình trong giấc mộng muôn vàng cũng không”. Thế rồi, cái hi vọng ấy đã bị chuyển hóa góc độ thành một nỗi đau, chà đi xát lại trong tâm hồn nàng:
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Càng cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Nàng vừa hi vọng đây thì lại bắt đầu thất vọng, thật chẳng khác gì cái tâm trạng người chinh phụ ở đoạn trích này:
Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm…
… Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm nào có tiêu hao
Cái tâm trạng thất vọng của nàng cũng làm cho cảnh vật cũng muốn buồn theo:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Một bức tranh thiên nhiên gợi lên cái tâm trạng buồn bã của người chinh phụ liên tiếp xuất hiện hàng loạt những hoạt cảnh sinh động,với hình ảnh mưa xuân rả rích nhưng nó ẩn tìm một sức mạnh ghê ghớm đã gây nên những đoạn trường đứt ruột không chịu nổi của một con người đau khổ ; bằng các từ gợi cảm giác mạnh như “bổ mòn”, “xẻ héo” và các từ chỉ âm thanh mà sinh lực của người chinh phụ còn sót lại:
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xẻ héo càng ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù,
Sân trường kêu vẳng, chuôn chùa nên khơi
Trước mắt nàng là những cảnh vật thiên nhiên vô cùng sống động, nó khơi dậy từng mảng từng lớp trong không gian như biểu hiện rõ cái sức mạnh của mình, nhưng cái sức mạnh ấy có ý nghĩa gì khi nàng vẫn thẩn thờ như một kẻ mất trí, không còn phân biệt được âm thanh và hình cảnh của cảnh vật nữa. Nhưng có lẽ nhờ con gió mạnh thổi qua, cái tiếng gió ấy đã thốc lên, vén tấm màn lên làm nàng hồi tỉnh lại với những cảnh vật ở bên ngoài tiếp tục hiện ra trước mắt:
Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Cảnh vật càng về khuya càng sinh động lạ thường, với âm thanh ra rả của những chú dế mèn kêu vang, hòa với ánh trăng soi cả hiên nhà. Hàng tiêu trước ngõ cũng đang vui đùa cùng chị gió. Cảnh vật đẹp như thế đấy, sinh động và cụ thể như thế đấy nhưng lòng của người chinh phụ vẫn cứ bồi hồi, cô đơn. Tất cả dường như gợi lên sự cô liêu trống trải, cô quạnh cho nàng và như có cái gì đó che khuất, ẩn nấp trong điều nàng ngón trông. Cái tâm trạng ấy cùng hòa đồng với tâm trạng của người thiếu phụ trong “Trông bốn bề”. Cảnh vật trong bài thơ này cũng hết sức sống động và cụ thể với bờ bãi phù sa, mặt nước ngàn dâu, cỏ xanh, xóm thôn và đàn cò trắng nhưng rồi người thiếu phụ ấy cũng cô đơn và buồn tẻ.
Trông bến nam bãi che mặt nước
Cỏ biếc um dâu mươt màu xanh,
Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn có đậu trước ghềnh chiều hôm.
Thiên nhiên vẫn cứ muôn màu muôn sắc nó trùm lên khoảng không trung rộng lớn của bầu trời mà con người thì vẫn sầu tư, ủ rũ:
Hoa giải nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
Biện pháp liên hoàn trong khổ thơ cuối này cứ trùng điệp nhau, khơi gợi lên cái cảnh trăng hoa xoắt xuýt nhau, tỏa sắc lên hương để biểu hiện cho niềm vui tuổi trẻ, khao khát đắm say với niềm hạnh phúc hiếm hoi bất ngờ. Có lẽ chính thiên nhiên lúc này đã đánh thức tâm trạng của người thiếu phụ một lần nữa, làm nàng có thể trở về với tâm trạng cân bằng. Nhưng cảnh sắc vừa nhóm lên để cân bằng thì tâm trạng ấy lại biến đổi.
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau
Ta lại đi vào hành trình của tâm trạng mới, hoa nguyệt ấy vẫn không giấu cất nổi cái khổ đau của người chinh phụ. Nàng vẫn tiếp tục cô đơn và buồn tẻ bởi nàng đang đứng ngóng trông chồng mà chồng đâu chẳng thấy chỉ toàn những cảnh vật thiên nhiên của đất trời hiện ra không còn dấu vết gì của người thương.
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời, chẳng thấy người thương.
Nàng càng buồn càng ngóng trông thì người thương càng xa mãi, càng chờ thì càng xa:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài
Trông mây, mây kéo ngang trời
Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa
Nàng cứ chờ đợi, đến từng tháng ngày trôi qua trong sự nhớ thương chồng chất. Phải chăng “Người đàn bà chờ đợi người đàn ông, nhưng chờ đợi như con nhện giăng tơ” như Roschester đã nói. Người chinh phụ ngóng chồng mình cho đến bao giờ đây? Chẳng lẽ trông ngóng chồng cho đến lúc phải hóa đá “Vọng phu” chăng?
Tác giả phân tích tâm trạng của người chinh phụ thật là xuất sắc.
Phải chăng tác giả đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên có kết cấu hết sức hài hòa với cổ điện: đườn nét màu sắc, âm thanh rất linh hoạt được sáng tạo theo lối bức tranh thủy mạc chấm phá của người xưa nên rất gợi. Nhưng mục đích không phải là tả cảnh mà tạo nên một bức tranh tâm trạng của người chinh phụ ngồi ngắm cảnh trời, suy tư mơ tưởng đến chồng giống như người chinh phụ trong những câu thơ Đường:
Tương tư nhất dạ mai hoa khởi
Nhất kiến song tiền nghi thị quân
Và:
Khuê xuân thiếu phụ bất như sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Đây là bài thơ phác họa tâm trạng của người con gái phải xa chồng biền biệt, ngày tháng chờ đợi mỏi mòn trong lòng và cô đã thấy được mùa xuân phơi phới bên ngoài mà nàng thì vẫn cứ đợi chờ.
|
Hướng dẫn
Tiếng đàn của người ca kĩ được Bạch Cư Dị miêu tả hết sức cụ thể sống động. “Tì bà hành” đã thực sự thể hiện rõ bản chất của thể hành, chỉ thông qua tiếng đàn.
Ngay từ lúc đầu:
Đàn ai nghe vẳng bên tai
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi
Thì tiếng đàn ấy hiện ra, mang một sức cuốn hút kì lạ. Không! Đó là lẽ tự nhiên của một cuộc chia tay giữa hai người bạn trong một đêm khuya thanh vắng không có tiếng sáo, tiếng đàn. Sau đó là những lời:
Mời mọc mãi thất người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn chi nửa mặt hoa
Để từ đó, tiếng đàn bật lên, gây ra một ấn tượng, một tác động mạnh mẽ đối với người nghe:
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoáng bay
Rồi đi saua vào trong những tiết tấu của âm thanh. Bạch Cư Dị miêu tả dồn dập tiếng đàn ấy. Ông nghe được cả những âm sắc lạ lùng, những nốt lắng, những cái đột biến bất thường trong từng giai điệu. Giữa hai đợt là một khoảng im ắng và dường như nó đã chia đôi, chặt đứt cuộc đời người ca kĩ. Đây, dòng suối xuân thơm mát, ngọt ngào, những tiếng nảy ngọc của hạt châu, của mâm vàng, tiếng róc rách rồi ào ạt của dòng suối. Tất cả đều gợi lên một cái gì đó hết sức trẻ trung, phơi phới sức sống. Tiếng đàn không chỉ dừng lại ở đây mà nó còn là chính tâm sự của người gảy. Cuộc đời người ca kĩ hòa vào tiếng đàn. Đó là những tháng ngày hạnh phúc, cái “tài” và cái “tâm” êm đẹp như dòng suối xuân. Nhưng sau đó lại là sự đột biến. Dòng suối ấy tự dung đông cứng lại, cái giá lạnh của băng tuyết trong tiếng đàn dễ làm người ta thất vọng trong đỉnh điểm của nó. Cuộc sống đang vươn tới những gì tươi đẹp nhất thì lại gặp bất trắc hết sức bất ngờ. Nhân vật trữ tình như hụt hẫng trước thực tại, người nghe chơi vơi trong cái se lạnh ấy của dòng suối băng, tâm hồn dường như muốn chống lại cái mâu thuẫn ấy để thoát khỏi tâm trạng ngậm ngùi với cuộc đời người ca kĩ. Chính lúc ấy, nốt lặng như một cơn mưa lũ bị đập chắn ngang lại. Thực ra nó lại càng hay hơn là tiếng nhạc lúc này. Nốt lặng ấy, có thể ví như một khoảng yên lặng giữa hai cơn going tố để sau đó nó bùng lên và càng dữ dội hơn, điên cuồng gào thét hơn.
Nốt lặng của âm nhạc được đặt đúng chỗ, đúng lúc để mà con người có thể tiếp tục suy tưởng với những ý nghĩ riêng, dường như đang quên mình, tan biến vào trạng thái hư không thăm thẳm của vũ trụ. Nốt lặng ấy, chấm dứt một đoạn đời tươi đẹp kết thúc bằng sự trở ngại để mở ra một cái gì dường như là một thế lực đen tối nào đó. Người nghe cũng dường như cảm nhận được điều ấy nên càng nghe chăm chú. Ở đây Bạch Cư Dị đã nhận ran gay sau nốt lặng ấy là tiếng dao, tiếng búa, tiếng binh đao. Tiếng đàn ấy kéo con người ra khỏi những suy tưởng để quay về với thực tại. Cuộc đời ngày xưa còn đâu! Bây giờ chỉ còn lại sự nối tiếc… nhưng hình như người ca kĩ trên bến Tầm Dương cũng không được phép nối tiếc quá khứ vì hiện tại chợt đến như một bóng ma bất ngờ gieo rắc nhiều tai họa, phá tan đi hạnh phúc của một đời người. Tiếng đàn không còn ấm êm như trước, âm sắc không còn trong trẻo mà rắn đanh lại, dồn dập và kết thúc hết sức bất ngờ. Cô gái quẹt mạnh vào sợi dây đàn tạo ra một âm thanh chat chúa nghe như tiếng xé lụa. Ôi! Mảnh lụa bị xé ấy chẳng phải là sự phũ phàng cả cuộc đời của những kẻ không biết đến cái đẹp, cái thâm thúy của tâm hồn? Và vì thế, nó đã gọi mời người ta hãy mau mau trở về với thực tại, dù thực tại ấy có đau đớn đến đâu chăng nữa. Nhưng
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắng lòng sông
Họ vẫn mải mê chìm đắm trong tiếng nhạc. Cả trăng, cả sông cũng thế. Thiên nhiên dường như chết lặng đi, dòng sông không chảy mà đông cứng lại và dường như mặt trăng không còn cái “thần” của nó, nó như đã chết dưới lòng sông.
Hiệu quả của tiếng đàn quả là hết sức ghê ghớm. Không chỉ Bạch Cư Dị mà tất cả mọi người lúc ấy đều nhận được tiếng đàn. Tuy miêu tả trực tiếp tiếng đàn tì b, nhưng ta có thể cảm nhận được những âm sắc khác nhau của những loại nhạc cụ khác nhau trong từng âm thanh. Tiếng đàn ấy có hiệu quả còn mạnh hơn cả lần Thúy Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe. Tiếng đàn của Kiều làm cho Kim Trọng:
Khi tựa gối khi cúi đầu
|
Instruct
The sound of the singer's instrument was described very vividly by Bach Cu Di. “Pipa action” really shows clearly the nature of practice, just through the sound of the instrument.
Right from the start:
Who can hear it in their ears?
The owner was relieved, the guests continued to use it
Then the sound of the instrument appeared, carrying a strange attraction. Are not! It was the natural course of a farewell between two friends on a quiet night without the sound of flute or guitar. Then came the words:
Inviting people forever makes people confused
Hand holding a flower-faced organ
From there, the sound of the piano emerges, causing an impression, a strong impact on the listener:
Even though it's not yet, the love song's momentum is fleeting
Then go into the rhythms of the sound. Bach Cu Di quickly described the sound of the instrument. He could hear strange timbres, quiet notes, and unusual mutations in each melody. Between the two waves there was a period of silence and it seemed to have divided the singer's life in half, cutting off the life of the singer. Here, the fresh, sweet fragrant spring stream, the bouncing sounds of pearls, the golden tray, the gurgling and rushing sound of the stream. They all evoke something very youthful and full of vitality. The sound of the guitar does not stop here, but it is also the sentiment of the person playing it. The life of a singer blends into the sound of the instrument. Those were happy days, my "talent" and "mind" were as smooth as a spring stream. But then came the mutation. That stream suddenly froze, the coldness of ice and snow in the sound of the piano easily disappointed people in its climax. Life is reaching for the most beautiful things, then encountering extremely unexpected difficulties. The lyrical character seems to be disappointed with reality, the listener is lost in the coldness of the ice stream, the soul seems to want to fight against that contradiction to escape the feeling of sadness towards the singer's life. At that moment, the note was as quiet as a flood that was blocked by a dam. In fact, it's even better than the music right now. That note of silence can be compared to a moment of silence between two storms that then flare up and become even more intense, screaming more frantically.
The quiet notes of music are placed in the right place at the right time so that people can continue to think with their own thoughts, seemingly forgetting themselves, disappearing into the deep nothingness of the universe. That note of silence, the end of a beautiful life that ended with an obstacle to open up what seemed to be some dark force. The listener also seems to feel that so they listen even more attentively. Here, Bach Cu Di realized that behind that note of silence were the sounds of knives, hammers, and soldiers. The sound of the instrument pulls people out of their thoughts and back to reality. Where is the old life? Now only regret remains... but it seems that the singer on Tam Duong wharf is not allowed to regret the past because the present suddenly comes like an unexpected ghost, spreading many disasters, destroying the happiness of a human life. The sound of the guitar is no longer as warm and smooth as before, the timbre is no longer clear but is sharper, more intense and ends very unexpectedly. The girl swiped hard at the string, creating a loud sound like the sound of silk tearing. Oh! Isn't that torn piece of silk the cruelty of the whole life of those who do not know the beauty and profundity of the soul? And so, it invites people to quickly return to reality, no matter how painful that reality is. But
The boat with some east and west leaves was silent
A moon in the empty riverbed
They were still engrossed in the music. Neither the moon nor the river. Nature seemed to be dead silent, the river did not flow but froze and it seemed that the moon no longer had its "god", it seemed dead in the riverbed.
The effect of the sound of the instrument is truly formidable. Not only Bach Cu Di but everyone at that time received the sound of the instrument. Although it directly describes the sound of the guitar, we can feel the different timbres of different musical instruments in each sound. That sound was even more effective than the time Thuy Kieu played the piano for Kim Trong. Kieu's guitar sound made Kim Trong:
When leaning on your knees and bowing your head
|
Hướng dẫn
Nhân nghĩa xưa nay vốn là một nội dung rất tích cực của Nho giáo. Đó là sự hi sinh, thương yêu và đùm bọc giữa con người với nhau. Thế nhưng, Nguyễn Trãi đã định nghĩa “nhân nghĩa” rất lạ. Theo ông “nhân nghĩa” tức là phải yêu dân, phải lo đặt hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu và hãy chiến đấu vì hạnh phúc đó.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Rõ ràng đây là một mục đích cao đẹp: Chiến đấu cho nhân dân.
Thế đấy, đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” giờ đây không còn là khái niệm mà phải biến nó thành hành động, thành “việc nhân nghĩa”.
Vì cái đích rất cụ thể là giải phóng đất nước, đưa nhân dân thoát khỏi kiếp lầm than, không phải làm thân phận súc nô và có nguy cơ bị diệt chủng.
Tiếp theo bài cáo, Nguyễn Trãi đã cất giọng, khẳng khái xưng danh hiệu tên nước: “Như nước Đạ Việt ta từ trước” và khẳng định: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đúng thế, đây là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có một nền văn hiến đã rất lâu đời, có những “phong tục” tập quán rất riêng không trùng lặp với bất cứ quốc gia nào khác, và quan trọng hơn nữa, đã bao thế kỉ qua, nó vẫn cứ tồn tại bình đẳng và đầy kiêu hãnh bên cạnh cách triều đại của các hoàng đế Trung Hoa.
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Vâng, nước Đại Việt đã bao đời nay vẫn hùng mạnh như thế. Tuy đất nước này chỉ là một quốc gia nhỏ bé thôi nhưng cũng dám xưng “đế” như ai, quyết không chịu làm “vương” dưới chân kẻ khác và còn là một quốc gia đầy “nhân nghĩa”.
Và sau cùng, Nguyễn Trãi đã rất hả hê khi nhắc lại những chiến công oanh liệt do những anh hùng hào kiệt nước Đại Việt lập nên. Ông như muốn cười vào mũi bọn phương Bắc – cái lũ đã xem nước ta như một quận huyện nhỏ của chúng, cái lũ chỉ tham công, thích lớn, thậm chí còn trắng trợn muốn làm cỏ nước Nam – thế mà lại thua te tua và thảm hại, thua hết sức nhục nhã mỗi khi giao chiến với nước Nam nhỏ bé ấy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
|
Instruct
Humanity has always been a very positive content of Confucianism. It is about sacrifice, love and care between people. However, Nguyen Trai defined "humanity" very strangely. According to him, "benevolence" means loving the people, putting the people's happiness first and fighting for that happiness.
The act of benevolence consists in keeping the people at peace
The military accepts punishment first and worries about eliminating violence
Obviously this is a noble purpose: Fighting for the people.
Well, for Nguyen Trai, "benevolence" is no longer a concept but must be turned into action, into "benevolence".
Because the very specific goal is to liberate the country, to bring the people out of a miserable life, not to be slaves and at risk of genocide.
Following the report, Nguyen Trai raised his voice, firmly declaring the country's name: "Like our Da Viet country from before" and affirming: "It has claimed its civilization for a long time." That's right, this is a completely independent country, has a very long-standing civilization, has very unique "customs" that do not overlap with any other country, and more importantly, For many centuries, it still exists equally and proudly alongside the dynasties of Chinese emperors.
“Tu Trieu, Dinh, Ly, Tran for many generations built independence
Along with Han, Tang, Song, and Yuan, each side declared their own emperor."
Yes, the country of Dai Viet has been strong for many generations. Although this country is only a small country, it dares to call itself "emperor" like anyone else, refuses to be "king" at the feet of others and is also a country full of "mercy".
And finally, Nguyen Trai was very gloating when recalling the glorious victories accomplished by the heroic heroes of Dai Viet. He seemed to want to laugh at the Northerners - the bunch who saw our country as their small district, the bunch who were only greedy for work, loved big, and even brazenly wanted to dominate the South - yet they lost so little. and miserably, losing extremely humiliatingly every time they fought with that small country of the South:
Liu Gong was greedy for work and failed
Trieu Tiet likes to be great and must perish;
Cua Ham Tu captured Toa Do alive
|
Hướng dẫn
Đề bài yêu cầu chúng ta kể lại việc Vũ Nương ngồi than vãn bên sông Hoàng Giang trước khi tự vẫn. Để làm được bài này, các bạn phải giới thiệu mình là cây lau và kể theo ngôi thứ 3 hoặc ngôi thứ 1 (cây lau), từ đấy thuật lại những gì mình đã chứng kiến việc Vũ Nương ngồi than vãn bên bờ Hoàng Giang trước khi gieo mình suống sông tự vẫn. Về phần thân bài bạn có thể tham khảo các diễn biến sau:
– Hoàn cảnh bạn gặp Vũ Nương.
– Tâm trạng của Vũ Nương khi ra bờ sông như thế nào?
– Nàng than thở gì về cuộc sống gia đình.
– Nàng mong ước gì về cuộc sống hiện tại.
– Vũ Nương trẫm mình xuống sông.
Về phần kết bài bạn nêu cảm nghĩ của mình (cây lau) khi nhìn Vũ Nương trẫm mình xuống sông.
Bạn có thể tham khảo những bài làm dưới đây
Đề bài: Cây lau chứng kiến việc Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rổi tự vẫn. Viết lại câu chuyện đó theo ngôi kể thứ nhất hoặc ngôi kể thứ ba. (Mở rộng Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ).
Trời mới tang tảng sáng. Đằng Đông, những đám mây màu xám đục đang chuyển dần sang sắc hổng phơn phớt. Cái lạnh của đêm thu đọng trong từng giọt sương bám đầy trên lá khiến tôi – một cây lau nhỏ – uốn mình run rẩy. Dòng Hoàng Giang ngái ngủ vẫn chậm chạp trôi xuôi. Không gian vắng lặng. Từ trong làng, thỉnh thoảng vọng ra tiếng gà gáy sớm.
Bỗng nhiên, tôi nghe thấy có tiếng khóc tức tưởi đứt quãng văng vẳng đâu đây. Một bóng người đang tiến đến gần bụi lau mọc sát bờ sông. Gương mặt người ấy rõ dần. Tôi nhận ra đó là Vũ Nương, vì nàng thường ra sông giặt giũ vào mỗi sớm mai. Mọi khi, đứa con trai nhỏ vẫn hay lẽo đẽo theo sau mẹ, nhưng sao hôm nay nàng đì có một mình và lại khóc lóc sầu não thế kia?!
Vũ Nương ngồi thụp xuống vạt cò ướt, gục mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gầy của nàng cứ rung lên từng đợt, nom tội nghiệp vô cùng! Bỗng nàng vụt đứng dậy, ngoảnh mặt về phía Đông mà than rằng:
-Cầu xin trời cao đất dày hãy làm chứng cho tấm lòng son sắt thủy chung của Vũ Nương này! Suốt mấy năm chổng xa nhà ra trận, tôi luôn một dạ chờ chổng, giữ gìn tiết hạnh, nào dám đơn sai. Gánh nặng mẹ già, cọn dại, tôi cố gắng lo cho vẹn toàn, chu tất. Những mong hết chiến tranh, vợ chổng, cha con sum họp cho thỏa nỗi ngày trỏng, đêm nhớ. Nào ngờ, chỉ vì câu nói để dỗ dành đứa con thơ những lúc chỉ bóng mình ỉn trên vách giữa đêm khuya, dưới ánh đèn hiu hắt: “Cha Đản về kìa!” mà ra nông nỗi. Trương Sinh chồng tôi vốn tính đa nghi. Tôi thanh minh, thề thốt thế nào cũng không tin, khăng khăng buộc tội tôi ăn ở hai lòng. Xét thấy mình sống trọn đạo dâu con, chồng vợ, chẳng làm điều gì khiến tổ tông, cha mẹ hổ nhục, nay chỉ biết lấy cái chết để giải nỗi oan khiên. Trước khỉ chết, tôi xỉn có một lời nguyền!: “ Nếu tôi đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xỉn làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cồ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chổng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và chịu cho mọi người phỉ nhổ”.
Nói đoạn, nàng leo lên mỏm đất nhô ra sông, gieo mình xuống nước. Trời đất, thần thánh chứng giám lòng thành của Vũ Nương nên sai các nàng Tiên đưa nàng về thủy cung chung sống với Linh Phi.
Ít ngày sau, cũng chính đứa con chỉ bóng Trương Sinh in trên vách buồng lúc đêm khuya mà nói:“Cha Đản lại về kìa!”. Hiểu ra, Trương Sinh vật vã khóc than, ân hận nhưng dã quá muộn mảng.
Hồn Vũ Nương hiện về báo mộng cho Trương Sinh là chiều tối ngày mai hãy bế con ra bến Hoàng Giang để gặp nàng. Theo lời vợ dặn, Trương Sinh lập đàn tế vợ ở ven sông. Lát sau, chàng thấy một đoàn ngựa xe, võng lọng ẩn hiện thấp thoáng giữa dòng. Vũ Nương nói vọng vào những lời thương nhớ và căn dặn chồng săn sóc chu đáo đứa con thơ. Thoáng chốc, tất cả mờ dần rồi tan biến hẳn.
Trương Sinh bồng con đứng chết lặng như hóa đá. Cơn ghen tuông vô lối của chàng đã gây ra cảnh sinh li tử biệt. Dù chàng có tự trách mình đến đâu chăng nữa thì người vợ xinh đẹp, nết na cũng không thề trở về. Cảm thương Vũ Nương, dân làng đã lập miếu thờ nàng ngay cạnh khóm lau, chỗ nàng ngồi than thở trước khi trầm mình xuống Hoàng Giang.
Cây lau chứng kiến việc Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rồi tự vẫn. Hãy kể lại câu chuyện đó theo giọng kể ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba.
Bài viết
Họ nhà lau tía chúng tôi đã sống trên bờ Hoàng Giang cả triệu năm rồi. Gia tộc tôi đã trải qua bao nhiêu thế hệ tôi cũng không thể nhớ. Nhưng gia đình tôi thường có thói quen truyền kể cho nhau nghe những “chuyện đời” xảy ra ở trên sông mà các thế hệ cha ông của chúng tôi từng chứng kiến. Bao nhiêu năm đã trôi qua và cũng đã quá già để nhớ về mọi chuyện, thế nhưng tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày bi kịch đến với người thiếu phụ Vũ Nương.
Tôi nhớ ngày ấy tôi vẫn còn trẻ lắm. Tôi thường có thói quen thức rất khuya để khỏa mình trong nước dưới những đêm trăng. Nước sông Hoàng Giang ban đêm rất lặng và dịu mát. Trăng sáng, lại được đùa giỡn với mấy chị cá mương thì thật là thỏa thích.
Hôm ấy, đang uốn mình trong nước, tôi bỗng giật mình khi chợt nghe có tiếng ai đang nức nở. Tôi nín lặng, tiếng khóc ngày một rõ hơn. Không nghi ngờ gì nữa (tôi nghĩ), chắc có ai đó đang gặp một chuyện gì đó rất đau thương. Tôi quên ngay anh nước và mấy chị cá mương khi bắt đầu nghe giọng một người đàn bà than thở:
– Con lạy trời lạy đất, lạy hà bá dưới lòng sông! Thân kiếp con khổ quá. Những mong ngày chồng chinh chiến xa về là ngày gia đình đoàn viên sum họp. Vậy mà cái mong ước ấy giờ tan như mây như khói. Bao năm qua con đã phải chịu muôn ngàn cay đắng. Chồng đi chiến trận nơi xa, một mình con tần tảo chăm mẹ già nuôi con nhỏ. Rồi đến khi mẹ già lâm bệnh, con lại chạy đôn chạy đáo lo đủ chuyện thuốc thang mà vẫn không sao cứu được. Mẹ mất đi, con mất hẳn một nguồn động viên, quan tâm, chia sẻ. Ngay lúc ấy con đã phải tự nhắn nhủ mình: Phải nuôi hy vọng. Tất cả mọi điều tốt đẹp, con đã dành cho bé Đản thương yêu. Bao hy vọng được mẹ con con nuôi lớn từng ngày, vậy mà giờ đây ông trời lại hay chơi ác, lại gây cảnh trớ trêu mà cướp đi của con tất cả. Con còn sống để làm chi.
Tôi nghe những lời than thở mà đau xót cho người phụ nữ. Sống ở bên sông, tôi đã chứng kiến bao điều nhưng chưa bao giờ thấy chuyện nào đau lòng như vậy. Đằng sau những câu nói sầu não đến nát lòng kia hẳn phải là một bi kịch lớn. Tôi băn khoăn lắm nhưng chưa kịp suy đoán điều gì thì người đàn bà kia lại khóc:
– Bé Đản, con yêu! Mẹ thật có lỗi với con khi mẹ bỏ đi giữa lúc này. Nhưng mẹ đâu có thể chọn được một con đường nào khác. Bố đã nghi ngờ sự thủy chung của mẹ con ta. Vậy là bao công lao của con và mẹ bố đều đổ đi tất cả. Mẹ không thể sống trong sự ngờ vực của cha con. Mẹ không thể có lỗi với bà và chấp nhận những gì xấu xa mà mình không có. Mẹ có danh dự của sự thủy chung và trinh tiết. Mẹ phải giữ được tâm hồn mẹ trong ánh mắt của những người hàng xóm. Mẹ không thể sống. Mẹ sẽ chết để thức tỉnh sự ghen tuông mù quáng của cha con. Đản thương yêu! Mẹ xin lỗi con vì tất cả.
Sau câu nói ấy, mặt nước bắt đầu khua động mạnh. Tôi giật mình và bàng hoàng nhận ra người đàn bà đang dấn thân về phía lòng sông. Yêu thương và oán giận. Nhưng chỉ là một cây lau nhỏ bé, tôi không thể làm được gì hơn. Nước bắt đầu dâng lên đến ngang người rồi đến gần hết cánh tay người phụ nữ. Người đàn bà đau khổ đã quyết trầm mình để giải những oan khiên.
Bờ sông Hoàng Giang vẫn lặng. Gió vẫn thổi mát rượi nhưng trăng đã khuất. Không gian tĩnh mịch đến ghê người khiến tôi vẫn nghe và nghe rất rõ những lời trăng trối cuối cùng của người phụ nữ khốn khổ kia.
– Trương Sinh chàng hỡi! Chàng đã phụ công của thiếp. Như một đứa trẻ thơ nghịch một trò chơi mà không cần suy nghĩ, chàng đã coi thường sự thủy chung của thiếp. Nay tình chồng nghĩa vợ đã chẳng thể dài lâu, thiếp chỉ mong sau cái chết này chàng có thể thấy nỗi đau mà thức tỉnh. Chàng hãy chăm sóc cho con, hãy nuôi dạy để cho nó được nên người.
Con xin lạy ông hà bá. Con là Vũ Nương. Nay vì bị oan mà phải chọn tìm cái chết để giải mối oan tình. Thân này đã nguyện dâng cho hà bá. Nhưng con chỉ mong nếu thực lòng thủy chung son sắt thì xin cho được giải mối oan tình những mong Trương Sinh thức tỉnh. Nhược bằng con đây có chút tư tình thì xin hà bá cứ đầy ải mãi mãi dưới tầng địa ngục.
|
Hướng dẫn
Đề bài yêu cầu chúng ta kể lại việc Vũ Nương ngồi than vãn bên sông Hoàng Giang trước khi tự vẫn. Để làm được bài này, các bạn phải giới thiệu mình là cây lau và kể theo ngôi thứ 3 hoặc ngôi thứ 1 (cây lau), từ đấy thuật lại những gì mình đã chứng kiến việc Vũ Nương ngồi than vãn bên bờ Hoàng Giang trước khi gieo mình suống sông tự vẫn. Về phần thân bài bạn có thể tham khảo các diễn biến sau:
– Hoàn cảnh bạn gặp Vũ Nương.
– Tâm trạng của Vũ Nương khi ra bờ sông như thế nào?
– Nàng than thở gì về cuộc sống gia đình.
– Nàng mong ước gì về cuộc sống hiện tại.
– Vũ Nương trẫm mình xuống sông.
Về phần kết bài bạn nêu cảm nghĩ của mình (cây lau) khi nhìn Vũ Nương trẫm mình xuống sông.
Bạn có thể tham khảo những bài làm dưới đây
Đề bài: Cây lau chứng kiến việc Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rổi tự vẫn. Viết lại câu chuyện đó theo ngôi kể thứ nhất hoặc ngôi kể thứ ba. (Mở rộng Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ).
Trời mới tang tảng sáng. Đằng Đông, những đám mây màu xám đục đang chuyển dần sang sắc hổng phơn phớt. Cái lạnh của đêm thu đọng trong từng giọt sương bám đầy trên lá khiến tôi – một cây lau nhỏ – uốn mình run rẩy. Dòng Hoàng Giang ngái ngủ vẫn chậm chạp trôi xuôi. Không gian vắng lặng. Từ trong làng, thỉnh thoảng vọng ra tiếng gà gáy sớm.
Bỗng nhiên, tôi nghe thấy có tiếng khóc tức tưởi đứt quãng văng vẳng đâu đây. Một bóng người đang tiến đến gần bụi lau mọc sát bờ sông. Gương mặt người ấy rõ dần. Tôi nhận ra đó là Vũ Nương, vì nàng thường ra sông giặt giũ vào mỗi sớm mai. Mọi khi, đứa con trai nhỏ vẫn hay lẽo đẽo theo sau mẹ, nhưng sao hôm nay nàng đì có một mình và lại khóc lóc sầu não thế kia?!
Vũ Nương ngồi thụp xuống vạt cò ướt, gục mặt vào hai bàn tay. Đôi vai gầy của nàng cứ rung lên từng đợt, nom tội nghiệp vô cùng! Bỗng nàng vụt đứng dậy, ngoảnh mặt về phía Đông mà than rằng:
-Cầu xin trời cao đất dày hãy làm chứng cho tấm lòng son sắt thủy chung của Vũ Nương này! Suốt mấy năm chổng xa nhà ra trận, tôi luôn một dạ chờ chổng, giữ gìn tiết hạnh, nào dám đơn sai. Gánh nặng mẹ già, cọn dại, tôi cố gắng lo cho vẹn toàn, chu tất. Những mong hết chiến tranh, vợ chổng, cha con sum họp cho thỏa nỗi ngày trỏng, đêm nhớ. Nào ngờ, chỉ vì câu nói để dỗ dành đứa con thơ những lúc chỉ bóng mình ỉn trên vách giữa đêm khuya, dưới ánh đèn hiu hắt: “Cha Đản về kìa!” mà ra nông nỗi. Trương Sinh chồng tôi vốn tính đa nghi. Tôi thanh minh, thề thốt thế nào cũng không tin, khăng khăng buộc tội tôi ăn ở hai lòng. Xét thấy mình sống trọn đạo dâu con, chồng vợ, chẳng làm điều gì khiến tổ tông, cha mẹ hổ nhục, nay chỉ biết lấy cái chết để giải nỗi oan khiên. Trước khỉ chết, tôi xỉn có một lời nguyền!: “ Nếu tôi đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xỉn làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cồ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chổng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và chịu cho mọi người phỉ nhổ”.
Nói đoạn, nàng leo lên mỏm đất nhô ra sông, gieo mình xuống nước. Trời đất, thần thánh chứng giám lòng thành của Vũ Nương nên sai các nàng Tiên đưa nàng về thủy cung chung sống với Linh Phi.
Ít ngày sau, cũng chính đứa con chỉ bóng Trương Sinh in trên vách buồng lúc đêm khuya mà nói:“Cha Đản lại về kìa!”. Hiểu ra, Trương Sinh vật vã khóc than, ân hận nhưng dã quá muộn mảng.
Hồn Vũ Nương hiện về báo mộng cho Trương Sinh là chiều tối ngày mai hãy bế con ra bến Hoàng Giang để gặp nàng. Theo lời vợ dặn, Trương Sinh lập đàn tế vợ ở ven sông. Lát sau, chàng thấy một đoàn ngựa xe, võng lọng ẩn hiện thấp thoáng giữa dòng. Vũ Nương nói vọng vào những lời thương nhớ và căn dặn chồng săn sóc chu đáo đứa con thơ. Thoáng chốc, tất cả mờ dần rồi tan biến hẳn.
Trương Sinh bồng con đứng chết lặng như hóa đá. Cơn ghen tuông vô lối của chàng đã gây ra cảnh sinh li tử biệt. Dù chàng có tự trách mình đến đâu chăng nữa thì người vợ xinh đẹp, nết na cũng không thề trở về. Cảm thương Vũ Nương, dân làng đã lập miếu thờ nàng ngay cạnh khóm lau, chỗ nàng ngồi than thở trước khi trầm mình xuống Hoàng Giang.
Cây lau chứng kiến việc Vũ Nương ngồi bên bờ Hoàng Giang than thở một mình rồi tự vẫn. Hãy kể lại câu chuyện đó theo giọng kể ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba.
Bài viết
Họ nhà lau tía chúng tôi đã sống trên bờ Hoàng Giang cả triệu năm rồi. Gia tộc tôi đã trải qua bao nhiêu thế hệ tôi cũng không thể nhớ. Nhưng gia đình tôi thường có thói quen truyền kể cho nhau nghe những “chuyện đời” xảy ra ở trên sông mà các thế hệ cha ông của chúng tôi từng chứng kiến. Bao nhiêu năm đã trôi qua và cũng đã quá già để nhớ về mọi chuyện, thế nhưng tôi vẫn còn nhớ như in cái ngày bi kịch đến với người thiếu phụ Vũ Nương.
Tôi nhớ ngày ấy tôi vẫn còn trẻ lắm. Tôi thường có thói quen thức rất khuya để khỏa mình trong nước dưới những đêm trăng. Nước sông Hoàng Giang ban đêm rất lặng và dịu mát. Trăng sáng, lại được đùa giỡn với mấy chị cá mương thì thật là thỏa thích.
Hôm ấy, đang uốn mình trong nước, tôi bỗng giật mình khi chợt nghe có tiếng ai đang nức nở. Tôi nín lặng, tiếng khóc ngày một rõ hơn. Không nghi ngờ gì nữa (tôi nghĩ), chắc có ai đó đang gặp một chuyện gì đó rất đau thương. Tôi quên ngay anh nước và mấy chị cá mương khi bắt đầu nghe giọng một người đàn bà than thở:
– Con lạy trời lạy đất, lạy hà bá dưới lòng sông! Thân kiếp con khổ quá. Những mong ngày chồng chinh chiến xa về là ngày gia đình đoàn viên sum họp. Vậy mà cái mong ước ấy giờ tan như mây như khói. Bao năm qua con đã phải chịu muôn ngàn cay đắng. Chồng đi chiến trận nơi xa, một mình con tần tảo chăm mẹ già nuôi con nhỏ. Rồi đến khi mẹ già lâm bệnh, con lại chạy đôn chạy đáo lo đủ chuyện thuốc thang mà vẫn không sao cứu được. Mẹ mất đi, con mất hẳn một nguồn động viên, quan tâm, chia sẻ. Ngay lúc ấy con đã phải tự nhắn nhủ mình: Phải nuôi hy vọng. Tất cả mọi điều tốt đẹp, con đã dành cho bé Đản thương yêu. Bao hy vọng được mẹ con con nuôi lớn từng ngày, vậy mà giờ đây ông trời lại hay chơi ác, lại gây cảnh trớ trêu mà cướp đi của con tất cả. Con còn sống để làm chi.
Tôi nghe những lời than thở mà đau xót cho người phụ nữ. Sống ở bên sông, tôi đã chứng kiến bao điều nhưng chưa bao giờ thấy chuyện nào đau lòng như vậy. Đằng sau những câu nói sầu não đến nát lòng kia hẳn phải là một bi kịch lớn. Tôi băn khoăn lắm nhưng chưa kịp suy đoán điều gì thì người đàn bà kia lại khóc:
– Bé Đản, con yêu! Mẹ thật có lỗi với con khi mẹ bỏ đi giữa lúc này. Nhưng mẹ đâu có thể chọn được một con đường nào khác. Bố đã nghi ngờ sự thủy chung của mẹ con ta. Vậy là bao công lao của con và mẹ bố đều đổ đi tất cả. Mẹ không thể sống trong sự ngờ vực của cha con. Mẹ không thể có lỗi với bà và chấp nhận những gì xấu xa mà mình không có. Mẹ có danh dự của sự thủy chung và trinh tiết. Mẹ phải giữ được tâm hồn mẹ trong ánh mắt của những người hàng xóm. Mẹ không thể sống. Mẹ sẽ chết để thức tỉnh sự ghen tuông mù quáng của cha con. Đản thương yêu! Mẹ xin lỗi con vì tất cả.
Sau câu nói ấy, mặt nước bắt đầu khua động mạnh. Tôi giật mình và bàng hoàng nhận ra người đàn bà đang dấn thân về phía lòng sông. Yêu thương và oán giận. Nhưng chỉ là một cây lau nhỏ bé, tôi không thể làm được gì hơn. Nước bắt đầu dâng lên đến ngang người rồi đến gần hết cánh tay người phụ nữ. Người đàn bà đau khổ đã quyết trầm mình để giải những oan khiên.
Bờ sông Hoàng Giang vẫn lặng. Gió vẫn thổi mát rượi nhưng trăng đã khuất. Không gian tĩnh mịch đến ghê người khiến tôi vẫn nghe và nghe rất rõ những lời trăng trối cuối cùng của người phụ nữ khốn khổ kia.
– Trương Sinh chàng hỡi! Chàng đã phụ công của thiếp. Như một đứa trẻ thơ nghịch một trò chơi mà không cần suy nghĩ, chàng đã coi thường sự thủy chung của thiếp. Nay tình chồng nghĩa vợ đã chẳng thể dài lâu, thiếp chỉ mong sau cái chết này chàng có thể thấy nỗi đau mà thức tỉnh. Chàng hãy chăm sóc cho con, hãy nuôi dạy để cho nó được nên người.
Con xin lạy ông hà bá. Con là Vũ Nương. Nay vì bị oan mà phải chọn tìm cái chết để giải mối oan tình. Thân này đã nguyện dâng cho hà bá. Nhưng con chỉ mong nếu thực lòng thủy chung son sắt thì xin cho được giải mối oan tình những mong Trương Sinh thức tỉnh. Nhược bằng con đây có chút tư tình thì xin hà bá cứ đầy ải mãi mãi dưới tầng địa ngục.
|
Hướng dẫn
Dạng đề bài này có hai cách làm:
Thứ nhất: kể lại câu chuyện theo lời của que diêm, tức là trước khi kể bạn phải giới thiệu mình là que diêm và chứng kiến việc cô bé quẹt từng que diêm như thế nào cho đến chết.
Thứ hai: bạn có thể dựa vào diễn biến như trong tác phẩm cô bé bán diêm và tự viết ra một kết thúc khác. Có thể là một kết thúc có hậu cho cô bé ví dụ như: cô bé được sống lại bên người cha thân yêu của mình hoặc được một gia đình giàu có nhưng không có con nhận về nuôi.
Bạn có thể tham khảo những bài làm dưới đây
Trời đã tối, cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Giây phút đón giao thừa sắp đến. Vậy mà chúng tôi vẫn cùng cô bé tội nghiệp rong ruổi qua từng con phố. Chúng tôi tự nhủ hãy nằm yên, nằm yên và cầu nguyện để tất cả chúng mình sẽ đi về nhà ai đấy. Chỉ có vậy và chỉ có vậy thôi, cô chủ mới được về nhà để đón Tết trong ấm cúng.
Thế nhưng thật oái oăm thay. Đêm ba mươi, ai còn đi mua diêm làm chi nữa. Giờ này họ đã yên ổn cả rồi. Họ đang ngồi bên lò sưởi và chờ đến giờ phá cỗ. Chúng tôi biết vậy và cả cô chủ nhỏ tội nghiệp của chúng tôi cũng thế. Nhưng cô vẫn cứ đi, lang thang trong rét mướt và hy vọng. Niềm hy vọng ấy trong cái đêm nay thật quá nhỏ nhoi. Vậy mà nó chỉ chực chờ để tan biến mất.
Trời đã về khuya. Và chúng tôi cảm thấy đôi bàn tay của cô chủ đang cứng lại. Cô dừng lại và ngẫm nghĩ về một điều gì đó. Bỗng đột nhiên, cô rút một trong số chúng tôi ra và quẹt sáng. Anh bạn của chúng tôi bén lửa rất nhanh loáng qua rồi biến đi trên nền than hồng rực. Chúng tôi không biết cô bé nghĩ gì nhưng ánh mắt cô bé rất vui và hình như miệng cô còn ánh lên cả một nụ cười thì phải.
Cô bé duỗi chân ra nhưng đờ đẫn nhìn que diêm vụt tắt. Cô lại bần thần và suy nghĩ hồi lâu. Chắc cô bé đang lo không bán được diêm, về nhà sẽ bị cha chửi mắng.
Thế rồi, mạnh mẽ hơn, cô lại quẹt lửa anh bạn thứ hai. Lửa lại cháy và sáng rực. Ánh mắt cô bé lại vui lên. Khuôn mặt đỏ hồng rạng rỡ. Nhưng không đầy một phút sau, anh bạn tôi vụt tắt. Trước mặt cô bé chỉ còn là những bức tường lạnh lẽo, dày đặc, tối tăm. Phố xá vẫn vắng teo và lạnh buốt. Tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến nơi hò hẹn.
Cô chủ không còn nghĩ về cha. Cô không còn sợ. Cô quẹt thêm một que diêm nữa. Lần này cảm giác như anh bạn của chúng tôi bốc cháy lâu hơn. Niềm vui cũng dừng lại trên khuôn mặt của cô chủ tôi lâu hơn đôi chút. Không biết lúc này cô bé đang nghĩ đến cái gì, đến cây thông Nô-en hay đến người bà yêu quý.
Cô bé lại quẹt thêm một que diêm nữa. Một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh. Cô bé cười và reo lên hạnh phúc:
– Bà ơi! Cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây thông Nô-en ban nãy. Nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi đây. Trước khi bà về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết nhường nào. Dạo ấy bà từng chủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà. Bà ơi! Cháu van bà, bà xin với Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.
Anh bạn thứ tư của chúng tôi vụt tắt. Thế là cái ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt cô chủ nhỏ cũng biến mất luôn. Nhưng cô bắt đầu lôi ra tất cả chúng tôi và quẹt sáng. Dường như cô chủ của chúng tôi đang muốn níu kéo một điều gì. Chúng tôi nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Và chúng tôi nhận ra trên khuôn mặt kia đang nở ra một nụ cười mãn nguyện. Một xó tường bỗng vụt sáng lên nhưng cũng chỉ một phút sau nó lại trở về với cái tối tăm lạnh lẽo. Chúng tôi đã thắp lên những tia sáng cuối cùng còn cô chủ của chúng tôi thì bỗng nhiên gục xuống. Có lẽ cô mệt quá. Cô đã không ăn và không nghỉ suốt những ngày qua nên chắc bây giờ đang đói lả. Chúng tôi thương cô chủ quá và cầu mong sao cho đêm giao thừa qua thật là nhanh.
Sáng ngày mùng một, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng và chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Chúng tôi – những que diêm còn sót lại trong túi của cô chủ đêm qua bỗng nghe thấy tiếng gọi của một người phụ nữ:
– Cháu bé ơi! Cháu bé ơi! Cháu là con cái nhà ai mà ra nông nỗi thế này.
Người đi đường cũng bắt đầu xúm lại. Họ tò mò đoán và ngắm nghía cô gái có đôi má hồng và đôi môi đang cười mỉm nằm giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết hẳn. Người đàn bà khi nãy rẽ đám đông ra để chen vào. Tay bà mang theo một cốc sữa đang còn nóng và một chiếc áo lông cừu đang còn mới. Uống một cách khó khăn vài ngụm sữa, cô chủ đã mơ màng tỉnh lại. Mấy người đàn ông giúp người phụ nữ đưa cô chủ về một ngôi nhà nhỏ rồi họ tản mác đi chơi. Bây giờ cô chủ đã tỉnh hẳn và đang ngồi bên lò sưởi.
– Cháu cảm ơn bà! Cô chủ nói.
Người phụ nữ nhanh nhảu đáp:
– Không có gì đâu cháu ạ! Nhìn cháu ta đã đoán ra tất cả mọi việc rồi. Ta cũng buồn như cháu. Trước đây ta cũng có một cô cháu gái nhưng Thượng đế chí nhân đã rước nó đi. Giờ ta gặp cháu đâu phải chăng là Thượng đế thương ta mà trả cho ta đứa cháu. Ta tuy nhỏ nhưng rất rộng lòng thương. Nếu cháu muốn, cháu có thể ở đây với ta làm bạn.
Cô bé không đáp lời người phụ nữ. Mắt cô bé rưng rưng nhìn những bông tuyết đang rơi trắng xóa ngoài khung cửa. Nhưng rồi bỗng nhiên cô quay lại, sà vào vòng tay âu yếm của người thiếu phụ và nức nở: Bà ơi! Bà ơi! Bà thương cháu mà trở về với cháu thật hay sao!
Đề bài: Làm giùm em nhé: Hãy hóa thân thành những que diêm và kể lại chuyện cô bé bán diêm của AnDecXen
Đêm giáng sinh năm ấy trời thật lạnh. Đã mấy ngày liền tuyết rơi liên miên, như hối hả điểm trang cho thành phố vẻ thánh khiết để đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Cứu Thế ra đời.
Em bé tay ôm bao giấy đầy những hộp diêm, vừa đi vừa cất giọng rao mời. Lạnh thế mà bé phải lê đôi chân trần trên hè phố. Đôi dép cũ rích của bé sáng nay bị lũ nhóc ngoài phố nghịch ngợm dấu đi mất. Trời lạnh như cắt. Hai bàn chân của bé sưng tím cả lên. Bé cố lê từng bước sát dưới mái hiên cho đỡ lạnh, thỉnh thoảng đôi mắt ngây thơ ngước nhìn đám đông hờ hững qua lại, nửa van xin, nửa ngại ngùng. Không hiểu sao bé chỉ bán có một xu một hộp diêm như mọi ngày mà đêm nay không ai thèm hỏi đến.
Càng về đêm, trời càng lạnh. Tuyết vẫn cứ rơi đều trên hè phố. Bé bán diêm thấy người mệt lả. Đôi bàn chân bây giờ tê cứng, không còn chút cảm giác. Bé thèm được về nhà nằm cuộn mình trên chiếc giường tồi tàn trong góc để ngủ một giấc cho quên đói, quên lạnh. Nhưng nghĩ đến những lời đay nghiến, những lằn roi vun vút của người mẹ ghẻ, bé rùng mình hối hả bước mau. Được một lát, bé bắt đầu dán mắt vào những ngôi nhà hai bên đường. Nhà nào cũng vui vẻ, ấm cúng và trang hoàng rực rỡ. Chỗ thì đèn màu nhấp nháy, chỗ có cây giáng sinh với những quà bánh đầy mầu. Có nhà dọn lên bàn gà tây, rượu, bánh trái trông thật ngon lành. Bất giác bé nuốt nước miếng, mắt hoa lên, tay chân run bần bật, bé thấy mình lạnh và đói hơn bao giờ hết. Đưa tay lên ôm mặt, bé thất thểu bước đi trong tiếng nhạc giáng sinh văng vẳng khắp nơi và mọi người thản nhiên, vui vẻ, sung sướng mừng Chúa ra đời…
|
Hướng dẫn
Dạng đề bài này có hai cách làm:
Thứ nhất: kể lại câu chuyện theo lời của que diêm, tức là trước khi kể bạn phải giới thiệu mình là que diêm và chứng kiến việc cô bé quẹt từng que diêm như thế nào cho đến chết.
Thứ hai: bạn có thể dựa vào diễn biến như trong tác phẩm cô bé bán diêm và tự viết ra một kết thúc khác. Có thể là một kết thúc có hậu cho cô bé ví dụ như: cô bé được sống lại bên người cha thân yêu của mình hoặc được một gia đình giàu có nhưng không có con nhận về nuôi.
Bạn có thể tham khảo những bài làm dưới đây
Trời đã tối, cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Giây phút đón giao thừa sắp đến. Vậy mà chúng tôi vẫn cùng cô bé tội nghiệp rong ruổi qua từng con phố. Chúng tôi tự nhủ hãy nằm yên, nằm yên và cầu nguyện để tất cả chúng mình sẽ đi về nhà ai đấy. Chỉ có vậy và chỉ có vậy thôi, cô chủ mới được về nhà để đón Tết trong ấm cúng.
Thế nhưng thật oái oăm thay. Đêm ba mươi, ai còn đi mua diêm làm chi nữa. Giờ này họ đã yên ổn cả rồi. Họ đang ngồi bên lò sưởi và chờ đến giờ phá cỗ. Chúng tôi biết vậy và cả cô chủ nhỏ tội nghiệp của chúng tôi cũng thế. Nhưng cô vẫn cứ đi, lang thang trong rét mướt và hy vọng. Niềm hy vọng ấy trong cái đêm nay thật quá nhỏ nhoi. Vậy mà nó chỉ chực chờ để tan biến mất.
Trời đã về khuya. Và chúng tôi cảm thấy đôi bàn tay của cô chủ đang cứng lại. Cô dừng lại và ngẫm nghĩ về một điều gì đó. Bỗng đột nhiên, cô rút một trong số chúng tôi ra và quẹt sáng. Anh bạn của chúng tôi bén lửa rất nhanh loáng qua rồi biến đi trên nền than hồng rực. Chúng tôi không biết cô bé nghĩ gì nhưng ánh mắt cô bé rất vui và hình như miệng cô còn ánh lên cả một nụ cười thì phải.
Cô bé duỗi chân ra nhưng đờ đẫn nhìn que diêm vụt tắt. Cô lại bần thần và suy nghĩ hồi lâu. Chắc cô bé đang lo không bán được diêm, về nhà sẽ bị cha chửi mắng.
Thế rồi, mạnh mẽ hơn, cô lại quẹt lửa anh bạn thứ hai. Lửa lại cháy và sáng rực. Ánh mắt cô bé lại vui lên. Khuôn mặt đỏ hồng rạng rỡ. Nhưng không đầy một phút sau, anh bạn tôi vụt tắt. Trước mặt cô bé chỉ còn là những bức tường lạnh lẽo, dày đặc, tối tăm. Phố xá vẫn vắng teo và lạnh buốt. Tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến nơi hò hẹn.
Cô chủ không còn nghĩ về cha. Cô không còn sợ. Cô quẹt thêm một que diêm nữa. Lần này cảm giác như anh bạn của chúng tôi bốc cháy lâu hơn. Niềm vui cũng dừng lại trên khuôn mặt của cô chủ tôi lâu hơn đôi chút. Không biết lúc này cô bé đang nghĩ đến cái gì, đến cây thông Nô-en hay đến người bà yêu quý.
Cô bé lại quẹt thêm một que diêm nữa. Một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh. Cô bé cười và reo lên hạnh phúc:
– Bà ơi! Cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây thông Nô-en ban nãy. Nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi đây. Trước khi bà về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết nhường nào. Dạo ấy bà từng chủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà. Bà ơi! Cháu van bà, bà xin với Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.
Anh bạn thứ tư của chúng tôi vụt tắt. Thế là cái ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt cô chủ nhỏ cũng biến mất luôn. Nhưng cô bắt đầu lôi ra tất cả chúng tôi và quẹt sáng. Dường như cô chủ của chúng tôi đang muốn níu kéo một điều gì. Chúng tôi nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Và chúng tôi nhận ra trên khuôn mặt kia đang nở ra một nụ cười mãn nguyện. Một xó tường bỗng vụt sáng lên nhưng cũng chỉ một phút sau nó lại trở về với cái tối tăm lạnh lẽo. Chúng tôi đã thắp lên những tia sáng cuối cùng còn cô chủ của chúng tôi thì bỗng nhiên gục xuống. Có lẽ cô mệt quá. Cô đã không ăn và không nghỉ suốt những ngày qua nên chắc bây giờ đang đói lả. Chúng tôi thương cô chủ quá và cầu mong sao cho đêm giao thừa qua thật là nhanh.
Sáng ngày mùng một, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng và chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Chúng tôi – những que diêm còn sót lại trong túi của cô chủ đêm qua bỗng nghe thấy tiếng gọi của một người phụ nữ:
– Cháu bé ơi! Cháu bé ơi! Cháu là con cái nhà ai mà ra nông nỗi thế này.
Người đi đường cũng bắt đầu xúm lại. Họ tò mò đoán và ngắm nghía cô gái có đôi má hồng và đôi môi đang cười mỉm nằm giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết hẳn. Người đàn bà khi nãy rẽ đám đông ra để chen vào. Tay bà mang theo một cốc sữa đang còn nóng và một chiếc áo lông cừu đang còn mới. Uống một cách khó khăn vài ngụm sữa, cô chủ đã mơ màng tỉnh lại. Mấy người đàn ông giúp người phụ nữ đưa cô chủ về một ngôi nhà nhỏ rồi họ tản mác đi chơi. Bây giờ cô chủ đã tỉnh hẳn và đang ngồi bên lò sưởi.
– Cháu cảm ơn bà! Cô chủ nói.
Người phụ nữ nhanh nhảu đáp:
– Không có gì đâu cháu ạ! Nhìn cháu ta đã đoán ra tất cả mọi việc rồi. Ta cũng buồn như cháu. Trước đây ta cũng có một cô cháu gái nhưng Thượng đế chí nhân đã rước nó đi. Giờ ta gặp cháu đâu phải chăng là Thượng đế thương ta mà trả cho ta đứa cháu. Ta tuy nhỏ nhưng rất rộng lòng thương. Nếu cháu muốn, cháu có thể ở đây với ta làm bạn.
Cô bé không đáp lời người phụ nữ. Mắt cô bé rưng rưng nhìn những bông tuyết đang rơi trắng xóa ngoài khung cửa. Nhưng rồi bỗng nhiên cô quay lại, sà vào vòng tay âu yếm của người thiếu phụ và nức nở: Bà ơi! Bà ơi! Bà thương cháu mà trở về với cháu thật hay sao!
Đề bài: Làm giùm em nhé: Hãy hóa thân thành những que diêm và kể lại chuyện cô bé bán diêm của AnDecXen
Đêm giáng sinh năm ấy trời thật lạnh. Đã mấy ngày liền tuyết rơi liên miên, như hối hả điểm trang cho thành phố vẻ thánh khiết để đón mừng ngày kỷ niệm Chúa Cứu Thế ra đời.
Em bé tay ôm bao giấy đầy những hộp diêm, vừa đi vừa cất giọng rao mời. Lạnh thế mà bé phải lê đôi chân trần trên hè phố. Đôi dép cũ rích của bé sáng nay bị lũ nhóc ngoài phố nghịch ngợm dấu đi mất. Trời lạnh như cắt. Hai bàn chân của bé sưng tím cả lên. Bé cố lê từng bước sát dưới mái hiên cho đỡ lạnh, thỉnh thoảng đôi mắt ngây thơ ngước nhìn đám đông hờ hững qua lại, nửa van xin, nửa ngại ngùng. Không hiểu sao bé chỉ bán có một xu một hộp diêm như mọi ngày mà đêm nay không ai thèm hỏi đến.
Càng về đêm, trời càng lạnh. Tuyết vẫn cứ rơi đều trên hè phố. Bé bán diêm thấy người mệt lả. Đôi bàn chân bây giờ tê cứng, không còn chút cảm giác. Bé thèm được về nhà nằm cuộn mình trên chiếc giường tồi tàn trong góc để ngủ một giấc cho quên đói, quên lạnh. Nhưng nghĩ đến những lời đay nghiến, những lằn roi vun vút của người mẹ ghẻ, bé rùng mình hối hả bước mau. Được một lát, bé bắt đầu dán mắt vào những ngôi nhà hai bên đường. Nhà nào cũng vui vẻ, ấm cúng và trang hoàng rực rỡ. Chỗ thì đèn màu nhấp nháy, chỗ có cây giáng sinh với những quà bánh đầy mầu. Có nhà dọn lên bàn gà tây, rượu, bánh trái trông thật ngon lành. Bất giác bé nuốt nước miếng, mắt hoa lên, tay chân run bần bật, bé thấy mình lạnh và đói hơn bao giờ hết. Đưa tay lên ôm mặt, bé thất thểu bước đi trong tiếng nhạc giáng sinh văng vẳng khắp nơi và mọi người thản nhiên, vui vẻ, sung sướng mừng Chúa ra đời…
|
Hướng dẫn
Truyền thuyết là thể loại có vị trí nổi bật trong hệ thống thể loại văn học dân gian Việt Nam không chỉ ở số lượng phong phú mà ở cả chất lượng phản ánh vô cùng đặc sắc của nó. Do những đặc thù lịch sử về vấn đề chữ viết và hàng ngàn nầm bị ngoại bang xâm lược (chính sử của nước ta xuất hiện muộn) nên truyền thuyết dân gian trở thành pho sử truyền miệng đặc biệt quý báu được nhân dân lưu truyền, gìn giữ trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
Truyền thuyết là thể loại tự sự bằng văn xuôi, kể lại các sự kiện và nhân vật có quan hệ với lịch sử địa phương, dân tộc, thường dùng yếu tố tưởng tượng để lí tưởng hoá các sự kiện và nhân vật được kể, nhằm thể hiện ý thức lịch sử và thái độ, tình cảm của nhân dân.
Nếu như truyện cổ tích kể về những điều không có thật, những truyện hư cấu, không thể xảy ra trong thưj tế thì truyền thuyết kể về những điều gắn với các sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ. Song, chức năng làm sứ của truyền thuyết dân gian cũng mang những đặc trưng riêng. Truyền thuyết không ghi chép lịch sử một cách khô cứng, máy móc, đơn giản mà đằng sau việc phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử là thái độ, tình cảm, cách đánh giá của nhân dân đối với các nhân vật và sự kiện lịch sử đó. Truyền thuyết dân gian phản ánh lịch sử nhưng đó là lịch sử được phản chiếu qua lăng kính nghệ thuật của nhân dân, có chức năng nhận thức và thẩm mĩ to lớn. cốt lõi lịch sử và yếu tố hư cấu, tưởng tượng là hai đặc trưng không thể thiếu của truyền thuyết dân gian. “Truyền thuyết dân gian thường có cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hoá, gửi gắm vào đó tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của trí tưởng tượng và nghệ thuật dân gian, làm nên những tác phẩm mà đòi đời con người yêu thích” (Nhận định của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, báo Nhân dân, 29 – 4 – 1969).- Khi nghiên cứu và tìm hiểu truyền thuyết, cần có huớng tiếp cận tác phẩm theo hệ thống các yếu tố nghệ thuật nhu hình tuợng nhân vật, kết cấu, lời kể.
+ Nhân vật cổ tích là nhân vật hư cấu, còn nhân vật truyền thuyết do chính lịch sử tạo ra. Tuy không phải nhân vật hư cấu, nhung nhân vật truyền thuyết cũng không phải là bản sao của nhân vật lịch sử. Nhân dân đã lựa chọn những nhân vật mang ý nghĩa biểu trung cho lịch sử khái quát của dân tộc (những nhân vật trong truyền thuyết thời vua Hùng nhu Thánh Gióng (Thánh Gióng), Son Tinh (Sơn Tinh, Thuý Tinh),…) hoặc nhũng nhân vật cụ thể, có thật trong lịch sử vừa phản ánh hiện thực vừa lí tuởng hoá nhân vật, qua đó gửi gắm thái độ, tình cảm của nhân dân.
Sử thi của các dân tộc thường được thể hiện duới hình thức thơ ca hoặc văn vần kết họp với văn xuôi, nên ngôn ngữ là yếu tố nghệ thuật cần đuợc chú ý khai thác kĩ. Truyền thuyết của nguời Việt thường tồn tại trong lời kể văn xuôi, do vậy mà ta phải chú ý vào kết cấu và các chi tiết nghệ thuật, còn lời kể lại là yếu tô thứ yếu.
+ Khi khai thác, phân tích truyền thuyết phải chú ý đến vai trò của kết cấu. Kết cấu truyền thuyết có mô hình đơn giản hơn kết cấu truyện cổ tích.
Truyền thuyết có kết cấu chuỗi, nghĩa là xung quanh một nhân vật lịch sử đuợc phản ánh, nhân dân chú ý tạo ra rất nhiều dị bản (những biến thể). Đó là hệ thống các mẩu truyện có kết cấu đơn giản không quá nghiêm ngặt về trình tự sắp xếp theo thời gian như các chi tiết trong truyện cổ tích nhưng với điều kiện các mẩư truyện ấy đều xoay xung quanh nhân vật trung tâm.
+ Tìm hiểu truyền thuyết cũng cần chú ý đến các môtíp truyền thống khi mô hình hoá kết cấu xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm.
Hoàn cảnh xuất hiện nhân vật chính: môtíp sinh nở thần kì hoặc đặc điểm lạ trên cơ thể, hoặc tài nầng nhân vật,…
Sự nghiệp của nhân vật chính: môtíp vũ khí thần kì, chiến công, sự nghiệp của nhân vật.
|
Instruct
Legend is a genre with a prominent position in the genre system of Vietnamese folk literature not only in its rich quantity but also in its extremely unique quality of reflection. Due to the historical peculiarities of writing and the thousands of lands invaded by foreign invaders (our country's official history appeared late), folk legends have become especially valuable oral histories passed down by the people. , preserved throughout thousands of years of history.
Legend is a genre of narrative in prose, recounting events and characters related to local and national history, often using imaginative elements to idealize the events and characters told. to express the historical consciousness and attitudes and emotions of the people.
If fairy tales tell about things that are not real, fictional stories, that cannot happen in reality, then legends tell about things related to historical events that happened in the past. However, the function of making porcelain in folk legends also has its own characteristics. Legends do not record history in a dry, mechanical, and simple way, but behind the reflection of historical events and characters are people's attitudes, feelings, and assessments towards those characters and characters. that historical event. Folk legends reflect history, but it is history reflected through the lens of people's art, which has great cognitive and aesthetic functions. The historical core and the fictional and imaginary elements are two indispensable characteristics of folk legends. “Folk legends often have a core of historical truth that people over many generations have idealized, putting into it their earnest feelings along with poetry and dreams, giving wings to their imagination and folk art, creating works that people love for life" (Comment of the late Prime Minister Pham Van Dong, Nhan Dan newspaper, April 29, 1969).- When researching and understanding legends, It is necessary to approach the work according to a system of artistic elements such as character image, structure, and narrative.
+ Fairy tale characters are fictional characters, while legendary characters are created by history itself. Although they are not fictional characters, legendary characters are also not copies of historical characters. The people have chosen characters that represent the general history of the nation (characters in legends during the reign of King Hung such as Thanh Giong (Thanh Giong), Son Tinh (Son Tinh, Thuy Tinh),... ) or specific, real characters in history that both reflect reality and idealize the character, thereby conveying the attitudes and emotions of the people.
Ethnic epics are often expressed in the form of poetry or rhyme combined with prose, so language is an artistic element that needs to be carefully exploited. Vietnamese legends often exist in prose narratives, so we must pay attention to the structure and artistic details, while the narration is a secondary factor.
+ When exploiting and analyzing legends, we must pay attention to the role of structure. The structure of a legend has a simpler model than the structure of a fairy tale.
Legends have a chain structure, meaning that around a historical character being reflected, people pay attention to create many versions (variations). It is a system of stories with a simple structure that is not too strict in chronological order like the details in fairy tales, but with the condition that the stories all revolve around a central character.
+ Learning about legends also requires paying attention to traditional motifs when modeling the structure of building the image of the central character.
Circumstances where the main character appears: a miraculous birth motif, or a strange physical feature, or a character's talent,...
Main character's career: magical weapon motif, feat, character's career.
|
Hướng dẫn
Giôn-xi ơi, em dại lắm em có biết không? – Xiu thầm nghĩ. Thật khó có thể diễn tả được tâm trạng của cô lúc này. Cô đang rất bực: “Tại sao Giôn-xi lại có ý nghĩ dại khờ như thế chứ? Chiếc lá cuối cùng rụng thì nó cũng sẽ ra đi ư?”. Nhìn cảnh Giôn-xi nằm trên giường không thiết ăn uống, cô lại không thể cầm nổi nước mắt. Cô thương Giôn-xi lắm! Hai người thân thiết, gắn bó như hai chị em ruột vậy. Xiu bần thần ngồi suy nghĩ. Ngoài trời khá lạnh, thời tiết đang là mùa đông. Bầu trời quang, đến một gợn mây cũng không có. Gió thổi mang theo không khí lạnh buốt làm căn gác xếp của họ càng thêm ảm đạm, u ám. Cô đưa mắt nhìn ra cửa sổ, dây thường xuân yếu ớt bắc qua tường. Từng chiếc lá đang cố níu giữ mình lại, không để cho gió cuốn đi. Xiu lo lắng. Nhỡ chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì sao? Bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn: buồn, thương, lo lắng,… cứ lởn vởn đeo bám Xiu, không để cô tìm ra lối thoát.
Xiu nhìn đồng hồ, đã là năm giờ chiều. Cô đi xuống nhà để chuẩn bị ra phố mua đồ ăn cho bữa tối. Từng bước chân nặng trĩu, cô xuống đến tầng hai. Bất chợt, bác Bơ-men đi ra. Bác nói:
— À, Xiu, cháu đây rồi! Vào đây, ta có chuyện muôn nói với cháu.
Xiu đi theo người họa sĩ già vào nhà. Nói là nhà, thực chất đây là một căn phòng chật hẹp, màu vẽ, bút lông vương vãi khắp phòng… tất cả thể hiện một lối sống cẩu thả và nghèo khó.
Xiu khẽ lên tiếng:
—Bác ơi, cháu lo lắm… Giôn-xi…
-ừ, bác biết. Bác cũng vậy. Nhưng bác nghĩ ra cách giải quyết rồi.
Một sự bất ngờ, sửng sốt khẽ thoáng qua mặt Xiu. Bác Bơ-men nói tiếp:
—Chúng ta sẽ… vẽ một chiếc lá khác thay cho chiếc lá cuối cùng. Phải hết sức bí mật, không để Giôn-xi biết.
-Vẽ… Nhưng…
-Không sao, ta sẽ vẽ. Chỉ cần cháu giữ bí mật.
—Không được bác ạ. Cháu sẽ vẽ. Bác có tuổi rồi, leo cao như vậy nhỡ xảy ra chuyện gì thì sao? Xiu quả quyết. Đôi mắt lờ đờ, thâm quầng do mất ngủ của cô bỗng sáng lên. Gương mặt cô rạng rỡ, tự tin.
Theo đúng kế hoạch, cô thực hiện ngay lập tức. Cô nhờ bác Bơ-men chuẩn bị bữa tối cho Giôn-xi. Còn cô chuẩn bị bút lông, bột màu. Buổi tối, cô nhẹ nhàng bảo với Giôn-xi:
—Tối nay chị phải ra ngoài lấy tiền bán bức tranh hôm nọ. Bác Bơ-men sẽ mang bữa tối lên bây giờ em nhé.
Cô làm vậy để đảm bảo Giôn-xi không kéo rèm ra. Cô bắc thang rồi trèo lên. Bút và màu vẽ được chuẩn bị đầy đủ. Cô cầm bút nhưng tay cứ run run. Cô cô” gắng lấy lại bình tĩnh nhưng bao ý nghĩ cứ lởn vởn làm cô không thể tập trung được. Cuối cùng, cô run rẩy vẽ được một chiếc lá. Nhưng trông nó vô hồn và không có gì là lá thật. Xiu tuyệt vọng trèo xuống, cô chạy vào trong nhà.
Lên tầng hai, bác Bơ-men đã ở đó. Bác nói rằng Giôn-xi đã ngủ. Xiu òa khóc. Cô nức nở kể lại với bác Bơ-men. Nghe xong, bác có vẻ rất bình tĩnh. Bác nói:
-Xiu à, cháu bình tĩnh đã nào…
-Tại cháu! Bác ơi, cháu làm hỏng hết mọi việc rồi. Nó chả giống thật gì cả, Giôn-xi sẽ phát hiện ra ngay! Bác ơi, cháu giết em nó rồi!
—Không sao, bác sẽ sửa lại chiếc lá đó. Đó là cách duy nhất chúng ta có thể làm bây giờ. Còn một tia hi vọng cũng phải quyết mà làm cháu ạ!
-Nhưng cháu sợ, cháu không muốn bác trèo lên cao như vậy, nguy hiểm lắm!
—Thế thì cháu lấy cái thang nữa, đứng cạnh cầm đèn và màu cho ta. Hai bác cháu ta cùng làm, nhất định chúng ta sẽ thành công.
Hai cái bóng một cao to, một bé nhỏ đi ra giữa đêm tối. Hai cái thang được bắc và họ cùng trèo lên. Gió rít lên từng hồi, lạnh thấu xương.
Bác Bơ-men cầm chắc trong tay chiếc bút. Bác đưa bút rất thành thạo và điêu luyện. Kinh nghiệm bao năm trong nghề thể hiện trong từng nét vẽ. Không lâu sau, bác đã “sửa lại” được chiếc lá của Xiu. Chiếc lá thường xuân cuối cùng đó nằm im trên tường. Nó có màu xanh, hơi úa vàng. Màu sắc và đường nét trông rất thật, khó có thể nhận ra là nó đã được vẽ lên. Bác Bơ-men đã dùng hết kinh nghiệm, tình thương yêu để vẽ lên chiếc lá đó. Chỉ sửa lại thôi nên không mất nhiều thời gian lắm, nhất là dưới bàn tay của bác Bơ-men.
Hai người xong việc cũng là lúc những hạt mưa bắt đầu rơi lộp bộp vào mái tôn căn gác xếp của hai cô gái. Trời rét buốt, tưởng chừng như ở ngoài một lát nữa thôi là hai người có thể chết cóng.
Sáng hôm sau, Giôn-xi nhờ Xiu kéo rèm lên.
—Thật kì diệu! — Giôn-xi sửng sốt và kêu lên.
Sau một đêm mưa gió khủng khiếp, thật không ngờ vẫn còn một chiếc lá bé nhỏ vẫn kiên cường bám chặt lấy cành. Nhìn chiếc lá, Giôn-xi bắt đầu yêu đời trở lại, lấy lại niềm tin và mơ ước, đến cuối mùa đông đó, cô đã khỏe trở lại.
Xiu và bác Bơ-men đều rất vui. Vào một ngày đầu xuân, khi cái rét cắt:la cắt thịt đã qua đi, từng tia nắng ấm áp chiếu vào căn gác xếp nhỏ — nơi ba người họa sĩ đang ngồi ăn mừng. Trên bàn ăn toàn những món đơn giản, nhưng vậy đã là quá dủ và thịnh soạn so với mọi ngày rồi. Thưởng thức món thịt, Giôn-xi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Ba người đang nói chuyện vui vẻ, bỗng nhiên Giôn-xi giật mình:
—ơ cái lá! Nó vẫn như vậy từ ngày em nhìn thấy, trong khi bao chồi non đã ra mà nó vẫn ờ đó, không hề lay động khi gió thổi! Thật kì lạ!
|
Instruct
Oh Jonah, you're so stupid, do you know that? – Xiu thought to himself. It's hard to describe her mood right now. She was very angry: "Why does Jonah have such foolish thoughts? When the last leaf falls, will it also go? Looking at the scene of Jonah lying on the bed not wanting to eat or drink, she could not hold back her tears. She loves Jonah so much! The two of them are as close and close as two sisters. Xiu silently sat and thought. It's quite cold outside, the weather is winter. The sky was clear, not even a cloud. The wind blew with cold air, making their attic even more gloomy and gloomy. She looked out the window, at the weak ivy hanging over the wall. Each leaf is trying to hold on, not letting the wind blow it away. Xiu is worried. What if the last leaf falls? So many mixed emotions: sadness, love, worry,... keep hanging around Xiu, not letting her find a way out.
Xiu looked at the clock, it was five o'clock in the afternoon. She went downstairs to prepare to go out to buy food for dinner. With each heavy step, she descended to the second floor. Suddenly, Uncle Be-men came out. Uncle said:
— Ah, Xiu, there you are! Come here, I have something to tell you.
Xiu followed the old painter into the house. Saying it's a house, this is actually a cramped room, with paints and brushes scattered all over the room... all show a careless and poor lifestyle.
Xiu spoke softly:
—Uncle, I'm so worried... Jonah...
-Yes, I know. Uncle too. But I've figured out a solution.
A slight surprise and shock flashed across Xiu's face. Uncle Bo-men continued:
—We will… draw another leaf in place of the last one. Must be very secret, not let Jonah know.
-Draw… But…
-It's okay, I'll draw. Just keep it a secret.
—No, sir. I will draw. You're old, what if something happens if you climb so high? Xiu asserted. Her lethargic eyes, dark circles due to insomnia, suddenly brightened. Her face was radiant and confident.
According to plan, she did it immediately. She asked Uncle Bemen to prepare dinner for Jonah. And she prepared brushes and colored powder. In the evening, she gently told Jonah:
—I have to go out tonight to get the money from selling the painting the other day. Uncle Ben will bring dinner now.
She did this to make sure Jonah didn't open the curtain. She set up a ladder and climbed up. Pens and paints are fully prepared. She held the pen but her hands kept shaking. She tried to calm herself down, but so many thoughts kept wandering around, making it impossible for her to concentrate. Finally, she shakily drew a leaf. But it looks lifeless and has nothing to do with real leaves. Desperately Xiu climbed down and ran into the house.
On the second floor, Mr. Bemen was there. Uncle said that Jonah was asleep. Xiu burst into tears. She sobbed and told Uncle Be-men. After listening, he seemed very calm. Uncle said:
-Xiu, calm down...
-Because of you! Uncle, I ruined everything. It doesn't look real at all, Jonah will find out right away! Uncle, I killed his brother!
—It's okay, I'll fix that leaf. That's the only way we can do it now. If there's even a glimmer of hope, you have to decide to do it!
-But I'm scared, I don't want you to climb that high, it's very dangerous!
—Then you take another ladder and stand next to me holding the lamp and colors for me. If we work together, we will definitely succeed.
Two shadows, one tall and one small, walked out into the dark night. Two ladders were set up and they climbed up together. The wind howled every now and then, chilling to the bone.
Uncle Bo-men held the pen firmly in his hand. He gave the pen very fluently and skillfully. Many years of experience in the profession is shown in every drawing. Not long after, he was able to "repair" Xiu's leaf. That last ivy leaf lay still on the wall. It is green, slightly yellow. The colors and lines look so realistic, it's hard to tell that it was painted. Uncle Bo-men used all his experience and love to paint that leaf. Just repaired it so it didn't take much time, especially under Mr. Be-men's hands.
When the two of them finished work, raindrops began to patter on the corrugated iron roof of the two girls' attic. The weather was so cold, it seemed like just a moment outside and the two of them would freeze to death.
The next morning, Jonah asked Xiu to raise the curtain.
-Amazing! — Jonah was shocked and cried out.
After a terrible night of rain and wind, it was unexpected that there was still a small leaf still stubbornly clinging to the branch. Looking at the leaf, Jonah began to love life again, regained her faith and dreams, and by the end of that winter, she was healthy again.
Xiu and Mr. Be-men were both very happy. On an early spring day, when the cold had passed, warm rays of sunlight shone into the small loft where the three artists were sitting and celebrating. The dining table was full of simple dishes, but that was more than enough and hearty compared to other days. Enjoying the meat, Jonah looked out the window. The three people were talking happily when suddenly Jonah was startled:
—oh leaf! It's still like that since the day I saw it, even though many buds have come out, it's still there, not moving when the wind blows! How strange!
|
Hướng dẫn
-Tâm trạng của người tù khao khát cuộc sống mùa hè ở bên ngoài: Thể hiện qua bức tranh mùa hè. Tiếng chim tu hú đã mở ra cả một bức tranh mùa hè tươi đẹp trong tâm tưởng người tù cách mạng. Sáu câu thơ đầu miêu tả cảnh thiên nhiên mùa hè (âm thanh: tiếng chim tu hú, tiếng ve, tiếng sáo diều,… những âm thanh đặc trưng cho mùa hè báo hiệu một sự sống tưng bừng, rộn rã; sản vật: lúa chiêm chín, trái cây ngọt, bắp vàng hạt,… sản vật đang ở thời kì sinh sôi nảy nở; không gian: trời xanh cao rộng, sân đầy nắng,…). Những hình ảnh tiêu biểu của mùa hè đã được khắc họa. Tiếng chim tu hú đã thức dậy, nở ra và bắt nhíp cho sự sống: mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ sắc màu, không gian bao la khoáng đạt,… trong cảm nhận người tù. Tất cả thể hiện tình yêu tha thiết với cuộc sống, sự nhạy cảm với những biến động của đất trời trong tâm hồn người tù. Người tù ở đây khao khát cuộc sống mùa hè ở bên ngoài, muốn được hòa nhập với thế giới tự do ấy.
|
Instruct
-The prisoner's mood longing for summer life outside: Expressed through summer paintings. The sound of howling birds opened up a beautiful summer picture in the minds of revolutionary prisoners. The first six verses describe the natural summer scene (sounds: howling birds, cicadas, kite flutes,... sounds typical of summer signaling a jubilant, bustling life; products: Ripe rice, sweet fruit, yellow corn,... products are in their reproductive stage; space: high and wide blue sky, sunny yard,...). Typical images of summer have been portrayed. The sound of howling birds have woken up, hatched and tweezed for life: the bustling summer of sounds, brilliant colors, vast open space,... in the prisoner's feelings. All show a passionate love for life and sensitivity to the fluctuations of heaven and earth in the prisoner's soul. The prisoners here long for the summer life outside, wanting to integrate into that free world.
|
Hướng dẫn
Bài thơ được viết khi Tố Hữu mới bị tù được 3 tháng và tuổi mới 19, mới hoạt động cách mạng chưa đầy 3 năm. Người tù ở đây bị cách biệt với thế giới bên ngoài về mọi mặt, trừ âm thanh. Cuộc sống như dồn vào phạm vi âm thanh.
Cô đơn thay là cảnh thân tù,
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
(Tâm tư trong tù- Tố Hữu)
Có thể nói âm thanh là mối dây liên hệ duy nhất đối với cuộc đời, và mỗi âm thanh là một tín hiệu gợi phác về cuộc sống bao la và thân phận tù tội. Khi con tu hú là bài thơ thể hiện niềm yêu đời, khát vọng tự do, muốn tung phá, giải phóng của nhà thơ.
Nhan đề bài thơ mang đậm vị trữ tình, giàu khêu gợi, liên tưởng. Nó không nói tư tưởng, không nêu sự việc mà nói về một thời điểm, một thời gian. Khi con tu hú… bài thơ cũng không chỉ nói về thời gian, mà nói về không gian trong một tiếng chim, nỗi lòng khi nghe tiếng chim.
Tu hú là loài chim ăn trái cây, hót vào mùa hè, mùa quả chín. Tiếng chim tu hú trí’ thành âm thanh của mùa hè (như tiếng ve sầu):
Rồi tiếng chim tu hú Vang mãi những ngày hè!
(Anh Thơ)
Tu hú bắt đầu kêu từ tháng tư dương lịch và kêu suốt cho đến khi tác giả làm bài thơ này, chim vẫn đang kêu.
Sáu dòng bài thơ miêu tả một mùa hè đầy sức sống được đánh thức dậy trong tâm trí tác giả khi nghe tiếng chim kêu.
Đây là cảnh tưởng tượng, nhưng là cảnh tượng tái hiện những cảm xúc mùa hè rất trẻ trung.
Tất cả như đều đang hứa hẹn: Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần, ngô lỗ đỗ hạt vàng, ve dang bắt đầu kêu. Nắng hè đã rất tươi. Tất cả chưa có gì kết thúc. Tất cả như tuổi trẻ của tác giả mới bắt đầu.
Tất cả lại đều rất đẹp, đầy màu sắc rực rỡ: bắp vàng, nắng đào, trời xanh.
Tất cả đều được hưởng một cuộc sống tự do, tự nhiên. Đặc biệt là bầu trời càng rộng, càng cao. Diều sáo lộn nhào tầng không đây đó. Đây có thể là chim diều, chim sáo (?), có thể là con diều sáo bằng nan giấy trẻ con thả chơi trên bầu trời… Hiểu thế nào thì vẫn là cảnh tượng tự do của mùa hè trẻ trung, đầy sức sống bay nhảy, tung tẩy.
Bốn dòng còn lại là nỗi niềm của nhà thơ.
|
Instruct
The poem was written when To Huu had only been in prison for 3 months, was only 19 years old, and had been active in the revolution for less than 3 years. Prisoners here are isolated from the outside world in every aspect, except sound. Life seems to be concentrated in the scope of sound.
Loneliness is better than imprisonment,
My ears are open and my heart is excited. I listen to the bustling sound of life
(Thoughts in prison - To Huu)
It can be said that sound is the only connection to life, and each sound is a signal suggesting the vastness of life and the prison situation. When You Howl is a poem expressing the poet's love for life, desire for freedom, desire to break free and liberate.
The title of the poem is deeply lyrical, rich in evocation, and evocative. It doesn't talk about ideas, it doesn't state facts, it talks about a point in time, a period of time. When a child howls... the poem is not only about time, but also about the space in a bird's sound, the feelings when listening to a bird's sound.
The howler is a fruit-eating bird that sings in the summer, when the fruit is ripe. The sound of birds howling becomes the sound of summer (like the sound of cicadas):
Then the sound of howling birds echoes forever on summer days!
(Anh Tho)
Howlers started calling from April of the solar calendar and kept calling until the author wrote this poem, the bird was still calling.
The six lines of the poem describe a vibrant summer that awakens in the author's mind when he hears the sound of birds chirping.
This is an imaginary scene, but it is a scene that recreates very youthful summer emotions.
Everything seems to be promising: The rice is ripening, the fruit is getting sweeter, the corn has yellow seeds, and the cicadas are starting to chirp. The summer sun is very bright. It's not all over yet. It's all like the author's youth has just begun.
Everything is very beautiful, full of brilliant colors: yellow corn, peach sunshine, blue sky.
All enjoy a free, natural life. Especially the wider and higher the sky. Starling kites tumble through the air here and there. This could be a kite bird, a starling bird (?), it could be a child's paper-striped starling kite flying in the sky... No matter how you understand it, it is still the free scene of a youthful summer, full of vitality flying. jump, bounce.
The remaining four lines are the poet's feelings.
|
Hướng dẫn
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”.
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng Dân trai trảng bơi thuyền dì đảnh cá”.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cảnh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”.
BÀI LÀM
Quê hương, hai tiếng vang lên thật ngọt ngào, da diết biết bao. Nó đánh thức trong mỗi con người tình yêu thương thiêng liêng, cháy bỏng với một miền quê — nơi mình sinh ra, trưởng thành. Tình yêu đó đã được hóa thân vào những bản nhạc du dương, những bức tranh tươi màu sắc và đặc biệt hóa thân vào những vần thơ chan chứa bao cảm xúc. Quê hương của nhà thơ Tế Hanh là một trong số những vần thơ như thế, những vần thơ có sức lay động lòng người, thể hiện tình yêu quê hương bất diệt.
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu với người đọc về quê hương dấu yêu của mình:
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”.
Chỉ qua hai câu thơ ngắn gọn, Tế Hanh đã cho người đọc biết đến một vùng quê ven biển, với “nghề chài lưới”. Cách gọi “làng tôi” thật dân giã, thân mật, khiến câu thơ không giấu nổi niềm cảm xúc tự hào. Nhà thơ đã đặc tả cụ thể vị trí của làng “nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”. Ngôi làng hiện ra như một hòn ngọc giữa màu xanh trong của nước biển. Cách đo thời gian bằng không gian “nửa ngày sông”, không gian của sông nước thật độc đáo tạo cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về vùng quê chài lưới thanh bình, tươi đẹp. Vùng quê đó càng trở nên đẹp hơn, như một bức tranh tươi màu sự sống khi tác giả đặc tả cảnh dân chài ra khơi vào một buổi “sớm mai hồng”:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng hơi thuyền di đánh cá”.
Cả một khung cảnh bao la của vùng biển như được tác giả tái hiện qua câu thơ: “Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng”. Tất cả hiện lên ở vẻ đẹp viên mãn, tràn đầy nhất. Các tính từ “trong, nhẹ, hồng” đã tuyệt đối vẻ đẹp của tạo hóa. Đặc biệt vẽ ra bức tranh bình yên của vùng biển rộng lớn. Đó không phải là ngày biển ào ào dông tố mà là một ngày biển lặng, sóng êm. Câu thơ ngắt nhịp 3/2/3, với âm bằng chiếm chủ yếu phải chăng thể hiện những con sóng dạt dào vỗ vào bờ? Nổi bật lên giữa thiên nhiên đó là hình ảnh con thuyền ra khơi căng tràn sự sống:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng hao la thâu góp gió…”.
So sánh độc đáo “chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã”, giàu sức gợi tả, thể hiện sức mạnh không gì ngán nổi của những chiếc thuyền ra khơi. Bên cạnh đó tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ, đưa các động từ, tính từ đặc tả sức mạnh lên đầu câu: “phăng mái chèo”, “mạnh mẽ vượt”, một lần khẳng định những chiếc thuyền mang trên mình sức mạnh như vũ bão. Câu thơ mở ra một khung cảnh ra khơi hùng tráng, mĩ lệ. Khung cảnh đó càng trở nên kì vĩ hơn với hình ảnh:
|
Instruct
“The village I live in is a fishing industry:
Surrounded by water, half a day's river from the sea.
"When the sky is clear, the wind is light, early in the morning, young people in the Glade swim in boats to catch fish."
The boat was as light and strong as a handsome horse
Phang oars, strong beyond the stretch
The sight of the sails unfurling is as big as a piece of the village's soul
Stretching out its vast white body to gather the wind...".
ASSIGNMENT
Homeland, those two words ring out so sweetly and so passionately. It awakens in every person a sacred, burning love for the countryside - the place where they were born and grew up. That love has been transformed into melodious music, colorful paintings and especially into poems filled with so much emotion. Poet Te Hanh's hometown is one of those poems, poems that have the power to move people's hearts, expressing eternal love for the homeland.
At the beginning of the poem, the author introduces the reader to his beloved homeland:
“The village I live in is a fishing industry:
Surrounded by water, half a day's river away from the sea.
Through just two short verses, Te Hanh lets readers know about a coastal countryside, with "fishing profession". The way "my village" is called is so familiar and intimate that the poem cannot hide its feelings of pride. The poet specifically described the village's location as "surrounded by water, half a day's river from the sea". The village appears like a pearl amidst the clear blue sea water. The unique way of measuring time by the space of "half a river day", the space of the river, gives the reader a strong impression of the peaceful and beautiful fishing countryside. That countryside becomes even more beautiful, like a picture of life when the author describes the scene of fishermen going out to sea on a "pink morning":
“When the sky is clear, the wind is light, the morning is rosy
Men and women take boats to go fishing."
The author recreates a vast landscape of the sea through the poem: "When the sky is clear, the wind is light, the morning is rosy." Everything appears in its fullest, fullest beauty. The adjectives "clear, light, pink" absolutely capture the beauty of creation. In particular, it paints a peaceful picture of the vast sea. It was not a day of stormy seas, but a day of calm seas and calm waves. Does the poem have a rhythm of 3/2/3, with the flat sound mainly representing the waves crashing against the shore? Standing out among nature is the image of a boat sailing out to sea filled with life:
“The boat is as light and energetic as a handsome horse
Phang oars, strong beyond the stretch
The sail is as big as a piece of the village's soul
Stretch out your white body to gather the wind...".
The unique comparison "a boat as light and strong as a handsome horse" is rich in evocative power, demonstrating the unstoppable power of boats out at sea. In addition, the author uses inversion, putting verbs and adjectives that describe strength at the beginning of the sentence: "throw the oar", "strongly overcome", once affirming that the boats carry on their strength. strong as a storm. The poem opens up a majestic and beautiful scene of the sea. That scene becomes even more spectacular with the image:
|
Hướng dẫn
Tình quê chân thật, bình dị, tinh tế giúp Tế Hanh ghi được đôi nét cảnh sắc rất chân tình cảnh sinh hoạt chốn làng biển quê hương. Đây là bài thơ mở đầu cho chủ đề quê hương – một trong những chủ đề thành công nhất của thơ Tế Hanh. Nhan đề quê hương có phần chung. Giá đặt là Làng quê, Làng biển… có lẽ phù hợp với giọng thơ, tình thơ hơn. Câu thơ đề từ của người cha tác giả: Chim bay dọc biển đem tin cá dã nói lên một đặc trưng của làng biển — làng đánh cá. Người con — nhà thơ trẻ, bằng cách cảm nhận riêng, sẽ tả làng quê mình bằng con mắt và trái tim hoa niên của mình.
Hai câu đầu giới thiệu vị trí đặc biệt của làng, nghề nghiệp đặc trưng của cư dân ở đây.
Đánh cá là nghề truyền thống của làng. Làng như bán đảo, như cù lao, ba bề bốn bên là nước bao vây. Sống quen với sông nước, biển khơi nên con đường từ làng ra biển cũng được tính bằng đường thủy đường sông.
Cảnh thuyền chở trai làng ra khơi đánh cá trong buổi bình minh đẹp sáng, dưới ngòi bút Tê Hanh, hiện lên đầy khí thê trẻ trung mà không kém phần sâu sắc, mới mẻ. Trai tráng bơi thuyền như những tráng sĩ, kị sĩ tài ba. Chiếc thuyền dưới bàn tay chèo lái của họ, như con ngựa hay đè sóng, lướt tới xuôi sông dài hướng ra khơi xa. Những cánh tay săn chắc, bắp thịt vồng lên, cuồn cuộn, bóng loáng mồ hôi dưới nắng ban mai; những mái chèo bổ nước phăm phăm, ràn rạt đưa con thuyền chồm lên, lướt đi vun vút, hồ hởi, phấn khởi tự tin.
Nhưng hình ảnh độc đáo, bất ngờ nhất trong bài thơ là so sánh:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Linh hồn làng biển đã được hình ảnh hóa, cụ thể hóa bằng hình ảnh cánh buồm trắng, buồm nâu no gió, căng phồng, cứ rướn cao, rướn cao mãi ra thuyền ra biển lớn. Cánh buồm gợi những chuyến đi xa, những ước mơ khoáng đạt, bay bổng, lãng mạn của tuổi trẻ nhiều hoài bão. Cánh buồm như cánh chim trời, như muốn dời khỏi cột buồm, vút bay lên bầu trời xanh cao thăm thẳm, đó là tình quê, tình yêu làng ngây thơ, trong sáng và đắm đuối của chàng trai Tế Hanh.
Hai khổ thơ tiếp theo tả cảnh thuyền trở về trong niềm hân hoan chào đón của bà con làng chài. Những câu thơ tả thực mà không kém phần lãng mạn, khỏe khoắn. Cảnh làm việc khẩn trương, yêu đời của những người lao động miền biển. Làn da, ngăm ngăm, rám nắng của những chàng trai suốt ngày đêm phơi mình dưới nắng gió, bão giông, vẻ đẹp, khỏe của những ngư dân trẻ gắn liền với bao chuyến đi khơi, đi lộng vất vả và hiểm nguy. Ngắm những chàng ngư phủ, ta như được nghe thấy hơi thở nặng trầm của họ, ngửi được mùi vị nồng nàn, mặn mòi của biển cả, của muối tinh qua hơi thở ấy. Bởi vậy, hình ảnh thực có phần mờ đi, chân dung dân chài vụt mờ nhòa và bay bổng trong tình yêu và niềm tự hào của người con quê biển.
|
Instruct
The true, simple, and delicate love of the countryside helps Te Hanh capture some very sincere scenes of daily life in the coastal village of his homeland. This is the opening poem for the theme of homeland - one of the most successful themes of Te Hanh's poetry. The title homeland has a common part. The price set is Countryside Village, Seaside Village... perhaps more suitable for poetic tone and poetic love. The poem from the author's father: Birds flying along the sea bringing news of wild fish speaks of a characteristic of the seaside village - the fishing village. The son - the young poet, through his own feelings, will describe his hometown with his youthful eyes and heart.
The first two sentences introduce the special location of the village and the typical occupations of the residents here.
Fishing is the traditional profession of the village. The village is like a peninsula, like an island, surrounded by water on three sides. Living accustomed to rivers and seas, the road from the village to the sea is also calculated by river waterway.
The scene of a boat carrying village boys out to sea to fish in the beautiful dawn, under Te Hanh's pen, appears full of youthful spirit but no less profound and new. Young men row boats like talented soldiers and knights. The boat under their steering hands, like a horse that rides the waves, glides down the long river towards the far sea. The arms are toned, the muscles are bulging and rippling, glistening with sweat in the morning sun; The oars filled the water with ease, making the boat jump up and down, gliding quickly, cheerfully and confidently.
But the most unique and surprising image in the poem is the comparison:
The sail is as big as a piece of the village's soul
The soul of the seaside village has been visualized and concretized in the image of white sails and brown sails filled with wind and puffed up, stretching higher and higher to reach the boat out to the ocean. The sail evokes long-distance trips, the spacious, soaring, and romantic dreams of ambitious youth. The sail is like a bird's wing, as if it wants to leave the mast, soaring into the deep blue sky, that is the love of the countryside, the innocent, pure and passionate love of the village of the young man Te Hanh.
The next two stanzas describe the boat returning to the joyful welcome of the fishing village people. The poems are realistic yet no less romantic and strong. Scene of the urgent, life-loving work of coastal workers. The dark, tanned skin of the boys exposed day and night to the sun, wind, and storms, the beauty and health of the young fishermen are associated with many difficult and dangerous trips to the sea. Looking at the fishermen, we can hear their heavy breathing and smell the passionate, salty taste of the sea and the refined salt through that breath. Therefore, the real image is somewhat blurred, the portrait of the fishermen suddenly fades away and floats in the love and pride of the seaside people.
|
Hướng dẫn
Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã trực tiếp bộc bạch lòng yêu nước và tinh thần căm thù giặc, ở đoạn văn: “Ta thường…vui lòng”. Cách biểu hiện tâm trạng của tác giả vẫn nằm trong lối diễn tả bằng ước lệ, khoa trương quen thuộc của văn học cổ, nhưng vẫn tạo được hiệu quả cao, truyền cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ. Sở dĩ có được hiệu quả ấy, vì tác giả đã truyền vào những ước lệ những nỗi niềm trăn trở, những tình cảm mạnh mẽ, tha thiết của mình. Ớ đây, cách nói quá, cực tả đã phát huy tác dụng biểu cảm cao độ. “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối” là thể hiện nỗi trăn trở, day dứt đến thành ám ảnh trong mọi lúc, cả bữa ăn lẫn giấc ngủ, cả đêm lẫn ngày. “Ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” là hình ảnh diễn tả nỗi đau xót lớn lao từ trong cõi lòng được biểu hiện ra cả bên ngoài thành dòng nước mắt đầm đìa. Nỗi đau trong lòng đã được thể hiện thành nỗi đau rất cụ thể của cơ thể, của thần xác. Còn lòng căm thù và ý chí tiêu diệt giặc thì được thể hiện một cách mạnh mẽ bằng những hình ảnh: “…xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Điển tích “Da ngựa bọc thây” vốn quen thuộc trong văn chương cổ để nói về kẻ làm tướng sẵn sàng nhận cái chết ngoài mặt trận, thì với Trần Quốc Tuấn đã được tăng cấp lên thành”., trăm thân này phơi bày nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” – Nghĩa là sẵn sàng chết đến trăm lần, nghìn lần miễn là tiêu diệt được quân giặc.
Chứng minh bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đã bộc lộ sâu sắc nhiệt tình yêu nước và tinh thần trách nhiệm của ông trước hoạ ngoại xâm
Trước khí thế tiến công ào ạt của ba mươi vạn quân Nguyên lần thứ hai sang xâm lược nước ta, Trần Quốc Tuấn đã viết bài: Hịch tướng sĩ để khích lệ lòng yêu nước, quyết chiến đấu của các tướng sĩ. Tác phẩm của Trần Quốc Tuân không những là một áng thiên cổ hùng văn mà còn “bộc lộ sâu sắc nhiệt tình yêu nước, và tinh thần trách nhiệm của ông trước hoạ ngoại xâm”.
Trước hết, đúng như ý kiến đã nhận định, bài Hịch tướng sĩ đã thể hiện sâu sắc nhiệt tình yêu nước của người trước hoàn cảnh đất nước đang bị ngoại xâm.
Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn không thể nhắm mắt bịt tai trước những hành vi ngang ngược của sứ giả nhà Nguyên mà ông đã tức giận gọi chúng lũ diều hâu dê chó, hổ đói”, những con vật hung.dữ; để bày tỏ thái độ căm thù. khinh bỉ. Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng và rắn rỏi, Trần Quốc Tuân vạch mặt bọn giả nhân giả nghĩa, có lòng tham không đáy, mưu toan vét sạch tài nguyên của cải đất nước ta.
“… thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụạ; để thoả lòng tham không cùng, lấy hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn,..”
Vì lòng yêu nước, Trần Quốc Tuân đã quên ăn, mất ngủ, đau lòng nát ruột vì chưa có cơ hội để “xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù” cho thoả lòng tức giận. Ông sẵn sàng hy sinh, để cho Tổ quốc được độc lập, tự do. Ông viết: Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Điều rất dễ hiểu là nếu không vì nhiệt tình yêu nước nồng nàn thì Trần Quốc Tuấn đã không thể đau đớn dằn vặt căm thù sôi sục như thế!
Mặl khác, hài Hịch tướng sĩ còn nêu cao tinh thần trách nhiệm của vị chủ soái trước cảnh Tổ quốc đang lâm nguy bằng những lời phê phán nghiêm khắc thái độ hàng quan, chỉ biết hưởng lạc của các tướng sĩ vô trách nhiệm.
Ông đã khéo léo nêu lên lòng yêu thương của ông đốì với các tướng sĩ, cùng với tinh thần đồng cam cộng khổ của ông để khơi gợi sự hồi tâm của họ. Giọng văn của ông vô cùng thiết tha và thấm thìa: “.. không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta tăng chức, lương ít thì ta cấp bổng…”
Tiếp đến, bằng những hình ảnh tiêu biểu đầy xúc động, ông đã nêu lên những hậu quả nghiêm trọng, không những sẽ xảy đến cho ông mà còn cho gia đình những tướng sĩ vô trách nhiệm ấy, một khi đất nước rơi vào tay quân thù. Bằng cách sử dụng các hệ thống từ dồn dập “chẳng những … mà… cũng” lặp đi lặp lại có giá trị nêu bật những hậu quả tai hại, những nỗi khổ nhục của người dân mất nước, Tổ quốc mất độc lập, tự do:
|
Instruct
In the poem, Tran Quoc Tuan directly expressed his patriotism and hatred of the enemy in the passage: "I am often... pleased". The author's way of expressing his mood still falls within the familiar conventional and melodramatic expression of ancient literature, but still creates high efficiency, conveying strong emotions to the reader. The reason for that effect is because the author has infused into the conventions his concerns and strong, passionate emotions. Here, the extreme leftist way of speaking has a highly expressive effect. "I often forget to eat at mealtimes and pat my pillow in the middle of the night" is an expression of concern and torment that becomes obsession at all times, both at meals and at sleep, both night and day. "My gut hurts like hell, tears are pouring down my face" is an image that describes the great pain from within my heart that is expressed on the outside in a stream of tears. The pain in the heart has been expressed into very specific pain of the body, of the spirit. As for the hatred and will to destroy the enemy, it is expressed strongly in the images: "...slapping flesh, peeling skin, swallowing liver and drinking enemy blood". The classic story "Horse Skin Covering the Corpse" which is familiar in ancient literature to talk about a general who is willing to accept death on the front, with Tran Quoc Tuan, he was promoted to rank., this hundred bodies expose the inner self. grass, these thousand corpses wrapped in horse skin, I am also happy" - Meaning ready to die a hundred times, a thousand times as long as the enemy is destroyed.
Proving that Tran Quoc Tuan's poem "Hich Tuong Tuan" deeply revealed his patriotic enthusiasm and sense of responsibility in the face of foreign invaders.
In the face of the rushing attack of thirty thousand Yuan troops for the second time invading our country, Tran Quoc Tuan wrote the article: Hich Generals and Soldiers to encourage the patriotism and determination to fight of the generals and soldiers. Tran Quoc Tuan's work is not only a heroic piece of ancient literature but also "deeply reveals his patriotic enthusiasm and sense of responsibility in the face of foreign invaders".
First of all, just as the opinion has stated, the song "Hich Tuong Si" deeply expressed his patriotic enthusiasm in the face of the country being invaded by foreign invaders.
Because of his patriotism, Tran Quoc Tuan could not close his eyes and ears to the unruly behavior of the Yuan envoys, but he angrily called them "hawks, goats, dogs, and hungry tigers", ferocious animals; to express hatred. scornful. With a rhythmic and solid prose style, Tran Quoc Tuan exposes hypocrites, with bottomless greed, plotting to wipe out our country's wealth and resources.
“… surrendered to Kublai Khan and demanded strange jade; In order to satisfy his endless greed, he used the title of King of Yunnan to collect silver and gold, to plunder the limited treasure,...”
Because of his patriotism, Tran Quoc Tuan forgot to eat, lost sleep, and was heartbroken because he did not have the opportunity to "slaughter the meat, peel the skin, swallow the liver, and drink the enemy's blood" to satisfy his anger. He was willing to sacrifice, so that the Fatherland could be independent and free. He wrote: Even if these hundred bodies were exposed to the grass, or these thousand bodies were wrapped in horse skin, I would still be satisfied.
It is very easy to understand that if it were not for his passionate patriotism, Tran Quoc Tuan would not have been able to endure such pain, torment, and boiling hatred!
On the other hand, the comedy Hich Tuong Si also highlights the sense of responsibility of the commander in the face of the Fatherland being in danger by severely criticizing the bureaucratic attitude of irresponsible soldiers who only know how to enjoy themselves.
He skillfully expressed his love for the soldiers, along with his spirit of solidarity and suffering to evoke their thoughts. His tone is extremely passionate and penetrating: ".. if you don't have anything to wear, I'll give you clothes, if you don't have anything to eat, we'll give you rice, if you're a low official, we'll increase your rank, if your salary is low, we'll give you a pension..."
Next, with typical emotional images, he pointed out the serious consequences that will happen not only to him but also to the families of those irresponsible generals, once the country falls into the hands of the people. enemy. By using repeated repetitions of "not only... but... also" to highlight the harmful consequences and humiliations of people losing their country and the Fatherland losing their independence and self-esteem. due to:
|
Hướng dẫn
a)Mở bài:
Nêu được luận điểm: Lòng nồng nàn yêu nước của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ.
b)Thân bài: Yêu cầu HS triển khai được các ý sau:
—Tầm nhìn sâu rộng của Trần Quốc Tuấn (phân tích, dẫn chứng). Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ tinh thần, ý chí, lập công danh, xả thân vì nước của các tướng sĩ.
—Thổ lộ nỗi lòng của mình với tướng sĩ: lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc (phân tích, dẫn chứng).
+ Lòng căm thù giặc thể hiện ở việc lột tả tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù. Kẻ thù tham lam tàn bạo đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hố đói. Kẻ thù ngang ngược đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ. (HS phân tích những hĩnh ảnh ẩn dụ thân dê chó, lưỡi cú diều,… để thấy nỗi khinh bỉ và lòng căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn).
+ Ý chi quyết tâm chống giặc: thể hiện ở hành động (quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến thắt tim, thắt ruột), thái độ uất ức khi chưa trả được thù, sẵn sàng hi sinh bản thân để giết giặc. HS chú ý phân tích lời bày tỏ lòng mình của Trần Quốc Tuấn: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
—Kêu gọi các tướng sĩ chăm chỉ luyện tập, không được lơ là mất cảnh giác, ham vui mà quên trách nhiệm đối với đất nước (phân tích, dẫn chứng).
|
Instruct
a) Opening lesson:
State the thesis: Tran Quoc Tuan's patriotic passion in Hich Tuong Si.
b) Body of the essay: Ask students to develop the following ideas:
—Tran Quoc Tuan's extensive vision (analysis, evidence). Show examples of loyal soldiers and soldiers in history books to encourage the spirit, will, reputation, and sacrifice of life for the country of generals and soldiers.
—Confessing his feelings to the generals: hatred for the enemy, determination to fight and defeat the enemy, protecting the nation's independence and freedom (analysis, evidence).
+ Hatred of the enemy is expressed in the description of the enemy's crimes and arrogance. The enemy is greedy and brutal, demanding jade and silk, extorting silver and gold, exhausting limited treasures, and being as ferocious as a hungry pit. The enemy arrogantly walked back and forth on the street, bullying the master. (Students analyze metaphorical images of the body of a goat, a dog, an owl's tongue, etc. to see Tran Quoc Tuan's contempt and hatred for the enemy).
+ The meaning of determination to fight the enemy: expressed in actions (forgetting to eat, insomnia, heart-wrenching pain, gut-wrenching pain), resentful attitude when revenge cannot be taken, willingness to sacrifice oneself to kill the enemy. Students pay attention to analyze Tran Quoc Tuan's confession: I often forget to eat at meal times and pat my pillow in the middle of the night; pain in the intestines, tears streaming down my face; only anger, not yet stripped of flesh and skin, swallowing liver and drinking the enemy's blood. Even if these hundred bodies are exposed to the grass, or these thousand bodies are wrapped in horse skin, I will still be satisfied.
—Calls on generals and soldiers to practice diligently, not to let their guard down, indulge in fun and forget their responsibility to the country (analysis, evidence).
|
Bài làm 1
Khôi Nguyên thân mến!
Giờ này đã là 21 giờ đêm rồi, tớ đang ngồi học bài và chờ đợi mẹ về, chuyện này đâu có gì lạ lẫm với gia đình mình cậu biết thế mà. Bởi mẹ chúng làm nghề buôn bán ở chợ rau quả. Mẹ thường dậy từ ba giờ sáng và về nhà khi trời đã lên đèn.
Tớ đang ngồi và viết thư cho cậu khi cậu 45 tuổi bằng tuổi với bố mẹ mình bây giờ, không biết cậu trong ra sao nhỉ?
Chắc lúc này cậu sẽ trở thành một ông lão trung niên, bụng phệ, tóc hói, bởi uống nhiều bia rượu, tiệc tùng chiêu đãi. Cậu luôn mơ ước thành một nhà doanh nhân tài ba, trở thành một người có thành công rực rỡ. Chính vì vậy, tớ nghĩ lúc này cậu đã trưởng thành và chững chạc lắm rồi.
Bốn lăm tuổi có lẽ cậu đã có gia đình và trở thành ông bố của hai, ba đứa con rồi cũng nên cậu vẫn thích một gia đình thì phải đông con nhiều cháu giống như nhà mình thì mới vui còn gì. Nhà mình có ông bà, bố mẹ và hai anh em, lúc nào khi mâm cơm quây quần cũng vui vẻ tiếng cười.
Khi đó, không biết cậu đã thực hiện được những ước mơ dự định của mình chưa? Tớ hy vọng là rồi bởi nếu như cậu không là được hết tất cả những gì cậu muốn thì cố gắng là được một nửa nhé. Cậu từng ước mơ là một ông bố tuyệt vời như bố của chúng ta, luôn bao dung với mọi lỗi lầm của con cái. Cậu nói rằng “Sẽ không bao giờ đánh con cái dù chỉ là một nhành hoa” đó là những gì mà bố chúng ta đã làm với chúng ta.
Với mỗi sai lầm của các con, bố mình thường bình tĩnh khuyên giải, dạy dỗ cho các con hiểu được những việc làm sai trái của mình để rút ra kinh nghiệm chứ không bao giờ quát mắng, đanh đập. Bố chúng ta là người như thế nói không với bạo lực gia đình.
Hạnh phúc của mỗi gia đình sẽ được đảm bảo toàn vẹn hơn nếu những ông bố trong gia đình bớt nóng nảy, bớt bạo lực với vợ con, với những thành viên khác.
Cậu nhớ không? Hôm trước bác Hùng hàng xóm sát vách nhà chúng ta vừa đánh thằng Quân bạn chúng ta một trận thừa sống thiếu chết chỉ vì nghi ngờ nó ăn cắp tiền của gia đình. Nó nói như thế nào bác Hùng cũng không tin rằng nó không lấy. Rồi tới khi nó bị một trận đòn bê bết máu, thì bác Hùng lại tìm thấy số tiền đã mất trong túi áo lót của mình.
Thằng Quân hận quá bỏ nhà ra đi tới nay vẫn chưa về, mặc dù cả nhà đã báo công an nhưng vẫn chưa tìm thấy nó. Chỉ vì một chút nghi ngờ không đáng mà đã đánh mất tình cảm cha con thật là không đáng.
Sau sự việc ấy, cậu đã hứa với tớ rằng nhất định sau này làm bố cậu sẽ là một ông bố tuyệt vời như bố của mình, sẽ không bao giờ không tin lời con cái, không đánh con cái dù chỉ là một nhành hoa.
Hy vọng trong tương lai khi cậu nhận được bức thư này cậu sẽ thật sự trở thành một ông bố vĩ đại như thế nhé. Chúc cậu mọi việc thuận lợi thành công và hạnh phúc
Bạn thân nhất đời cậu!
Bài làm 2
Trần Tùng thân mến!
Năm nay mình đã mười bốn tuổi rồi, cái tuổi đang yêu đời và nhìn mọi thứ xung quanh với những điều vô cùng mới mẻ. Có rất nhiều ước mơ hoài bão thú vị cho tương lai.
Ở nơi chúng ta sống là một nơi nghèo nàn lạc hậu nơi đói nghèo, bệnh tật luôn vây lấy người nông dân và những bạn học sinh khốn khổ. Để đi học chúng ta phải đi mất nửa ngày đường để tới trường, trường học thì nghèo nàn dốt nát. Màu mưa ngồi học mà nước mưa rớt tí ta tí tách phải kê bàn ghế lệch ra để tránh những chỗ mưa.
Cậu giờ này chắc đã là một bác sĩ rồi ấy nhỉ? Mình hy vọng cậu sẽ thực hiện được ước mơ ấy. Cậu thường bảo với mình rằng “Mơ ước của cậu là một bác sĩ để chữa bệnh cho những người dân quê mình”.
Bởi cậu đã nhìn thấy cảnh mẹ cậu khi sinh em trai mình vất vả như thế nào, thai ngược một việc rất bình thường nếu như chúng ta được sống ở thành phố người ta chỉ cần phẫu thuật hoặc dùng phương pháp sinh chỉ định thì mọi thứ sẽ vô cùng an toàn. Nhưng ở cái nơi nghèo nàn này, chỉ một việc ấy thôi mà cả mẹ và em trai cậu đã phải từ giã cuộc đời này mãi mãi.
Cậu đã khóc rất nhiều trong ngày đó, nước mắt ướt đẫm cổ áo. Ba cậu thì lặng im như một khúc gỗ ngây dại như người điên ôm lấy thi thể của mẹ cậu và đứa em trai chưa kịp chào đời. Chứng kiến nỗi đau thấu trời đó, cậu đã nói với chính mình rằng cậu phải quyết tâm học thật giỏi để trở thành bác sĩ để có thể phục vụ cho quê hương cứu chữa cho những người dân nơi đây.
Người dân quê mình còn cơ cực lắm. Cái nghèo đói và lạc hậu thường đi đôi với nhau. Nhiều khi người ta mắc bệnh nhưng lại tưởng mình bị ma nhập, hoặc bị quỷ ám cứ đi uống những thứ bùa ngải để đuổi ma bắt quỷ để rồi thành thân tàn ma dại.
Cậu hãy cố gắng làm gì đó cho họ đi, để xóa đi khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị vào những vùng sâu vùng xa, để xóa đi những mặc cảm về nghèo đói của những đứa trẻ sinh ra vùng dân tộc như chúng ta.
Người dân quê mình cơ cực khốn khổ trăm bề, cơm không đủ ăn, áo chưa đủ ấm, bữa cơm trong nhà còn phải độn khoai độn sắn… đời sống nghèo khổ vô vàng. Trẻ con thì thường không được tới trường hoặc nếu có được đi học thì cũng bập bõm xóa mù chữ mà thôi, chẳng tới nơi tới chốn như người ta, chẳng đủ tài đủ trí để vực quê hương mình thoát khỏi đói nghèo lạc hậu.
Ở cái bản nhỏ của chúng mình, cậu đã nhìn thấy rồi đó trẻ em chúng ta được vận động tới trường học chữ, mỗi học sinh đi học đều được trợ cấp nhưng rồi có mấy đứa vượt qua được những trở ngại khó khăn để kiên trì học hết Trung học phổ thông, rồi cả huyện được mấy người đi vào đại học. Vì vậy, việc cậu mơ ước thi đỗ trường đại học y khoa quả mà một việc khó. Nhưng mình tin nếu cậu kiên trì thì giờ này cậu đã và đang làm một bác sĩ giỏi rồi Trần Tùng ạ.
Cậu hãy thực hiện những gì mình đã hứa với tớ, với bà con quê hương mình, đừng vì sự vinh hoa phú quý của vùng đất thành thị mà không chịu trở lại quê hương. Đừng vì chút lợi danh mà trở thành kẻ thất hứa với nơi chôn rau cắt rốn”.
Cậu đã hứa thì cậu phải làm, cậu hãy thực hiện ước mơ của mình là chữa bệnh cho những bà con trong bản của mình, chữa bệnh cho những người dân nghèo, đừng để họ sống mãi trong đói nghèo lạc hậu, phải thiệt mạng chỉ vì những căn bệnh không đáng. Bởi vì, mạng sống con người là điều vô cùng thiêng liêng và quý giá.
Mình mong cậu mãi mãi là một Trần Tùng có ước mơ, có lý tưởng sống, và dám vượt qua khó khăn để thực hiện được ước mơ của mình. Có như vậy khi bạn nhận được bức thư này của mình, bạn mới không cảm thấy hổ thẹn với lương tri của mình.
Cuối thư mình chúc cậu may mắn, thành công trên con đường tương lai mà cậu đã chọn.
Tôi của ngày xa xưa
|
Exercise 1
Dear Khoi Nguyen!
It's already 9pm, I'm studying and waiting for my mother to come home. This is nothing strange to our family, you know. Because their mother works as a trader at the fruit and vegetable market. Mom often gets up at three in the morning and comes home when it's already light out.
I am sitting and writing to you when you are 45 years old, the same age as my parents are now, I wonder how you will look?
Probably at this time he will become a middle-aged man with a big belly and bald hair because he drinks a lot of beer and alcohol and parties. He always dreamed of becoming a talented businessman, becoming a person of great success. That's why I think you're very mature and mature now.
At the age of forty-five, you probably already have a family and have become a father of two or three children, so you still like a family. You have to have many children and grandchildren like yours to be happy. My family has grandparents, parents and two brothers. Whenever we gather at the dinner table, we always have fun and laughter.
At that time, I wonder if he has realized his intended dreams? I hope so because if you don't get everything you want then try to get half of it. He once dreamed of being a great father like our father, always tolerant of all his children's mistakes. He said "I will never hit my children even if it's just a flower branch" that's what our father did to us.
With every mistake his children make, my father often calmly advises and teaches them to understand their wrong doings so they can learn from experience, never scolding or beating them. Our father is such a person who says no to domestic violence.
The happiness of each family will be more fully guaranteed if the fathers in the family are less impatient and less violent towards their wives, children, and other members.
Do you remember? The other day, Mr. Hung, our next door neighbor, beat our friend Quan to death just because he suspected him of stealing money from the family. No matter what he said, Uncle Hung still couldn't believe that he didn't take it. Then, when he was beaten and covered in blood, Uncle Hung found the lost money in his undershirt pocket.
Quan was so angry that he left home and still hasn't returned. Even though the whole family called the police, he still hasn't been found. Just because of a little unnecessary doubt, losing the father-child relationship is really not worth it.
After that incident, you promised me that when you become a father, you will definitely be a great father like your father, will never disbelieve your children's words, and will not hit your children even if it's just a flower branch. .
Hopefully in the future when you receive this letter you will truly become such a great father. Wishing you all the best, success and happiness
Your best friend in life!
Exercise 2
Dear Tran Tung!
This year I am fourteen years old, the age when I love life and see everything around me with extremely new things. There are many interesting dreams and ambitions for the future.
Where we live is a poor and backward place where poverty and disease always surround farmers and miserable students. To go to school we have to travel half a day to get to school, the school is poor and ignorant. It's the color of the rain when I sit in class and the rain drops little by little, so I have to put the tables and chairs askew to avoid the rain.
You must be a doctor now, right? I hope you will make that dream come true. He often told himself, "My dream is to be a doctor to treat the people in my hometown."
Because he saw how hard it was for his mother to give birth to his younger brother. A breech pregnancy is a very normal thing. If we lived in the city, they would just have to have surgery or use a designated birth method. which will be extremely safe. But in this poor place, with just that one thing, both his mother and younger brother had to leave this life forever.
He cried a lot that day, tears drenching his collar. His father was as silent as a piece of wood, ecstatically embracing the bodies of his mother and his unborn younger brother. Witnessing that immense pain, he told himself that he must be determined to study well to become a doctor so he can serve his homeland and cure the people here.
The people of my hometown are still very poor. Poverty and backwardness often go hand in hand. Many times people get sick but think they are possessed by ghosts, or possessed by demons, so they drink charms to chase away ghosts and catch demons, only to become paralyzed.
Please try to do something for them, to erase the gap between rich and poor between urban areas and remote areas, to erase the inferiority complex of children born in ethnic areas like us.
The people of my hometown are extremely miserable, they don't have enough food to eat, their clothes aren't warm enough, they have to fill their meals with potatoes and cassava... a life of poverty is priceless. Children often do not go to school, or if they do go to school, they are only barely able to erase illiteracy, they do not reach a place like other people, and they do not have enough talent or intelligence to save their homeland from poverty and backwardness.
In our small village, you have seen that our children are encouraged to go to school to learn how to read, every student is subsidized, but then there are a few who overcome difficult obstacles to persevere. Tri finished high school, then the whole district had a few people go to college. Therefore, his dream of passing the medical university entrance exam was indeed a difficult task. But I believe that if you persevere, you would be a good doctor by now, Tran Tung.
Please do what you promised me and the people of your homeland, don't refuse to return to your homeland because of the glory and wealth of the urban area. Don't become someone who breaks your promise to the place where you were born for the sake of fame and fortune."
You promised, you have to do it, you should fulfill your dream of treating the people in your village, healing the poor people, don't let them live forever in poverty, backwardness, and death. just because of unnecessary illnesses. Because human life is extremely sacred and precious.
I hope you will forever be a Tran Tung who has a dream, has an ideal of life, and dares to overcome difficulties to realize his dream. That way when you receive this letter from me, you will not feel ashamed of your conscience.
At the end of my letter, I wish you luck and success on the future path you have chosen.
Me from the old days
|
Bài làm
Trong cuộc sống chúng ta ai cũng có những lúc mắc sai lầm, có những lúc vì một chút ích kỷ bồng bột của mình mà gây ra những lỗi lầm khiến mình phải ân hận mãi.Tôi nhớ mãi một kỷ niệm năm tôi đang học lớp 10 ở một trường chuyên trên tỉnh cách nhà hơn 20 kilomet. Do học xa nhà nên tôi ở luôn trong ký túc của trường và chỉ về nhà khi được nghỉ học vào cuối tuần hoặc những dịp hè.
Tôi mới vào lớp mười chuyên Anh của tỉnh, một ngôi trường khá danh tiếng với bề dày lịch sử, nên cha mẹ tôi tự hào về tôi lắm. Ngay cả bản thân tôi cũng tự hào về mình. Chính vì vậy, tôi rất nỗ lực học tập để không phụ lòng mong đợi của cha mẹ, bởi gia đình tôi nghèo ba tôi thì có bệnh viêm phổi mãn tính nên quanh năm đau ốm. Mọi việc mưu sinh, tiền sinh hoạt phí ăn học của tôi đều do mẹ tôi lo toan buôn bán ngoài chợ để có được.
Chính vì vậy, tôi tự nhủ với lòng mình phải học giỏi lấy học bổng cho mẹ đỡ phần vất vả. Nhưng tôi học ở thành phố, trong lớp có nhiều bạn gia đình giàu có, bố mẹ làm sếp nên cuộc sống của các bạn chẳng thiếu thứ gì, chỉ có mình tôi lạc loài trong đám đông đó. Cứ nhìn những trang phục các bạn mặc trên người là tôi biết, chúng đều là hàng đắt tiền cao cấp giá một bộ quần áo cũng năm bảy triệu, bằng số tiền sinh hoạt cả tháng của gia đình bốn người nhà tôi.
Hôm đó, tôi tới lớp thì thấy trong lớp xôn xao bàn tán gì đó. Tôi hỏi một người bạn thì được biết bạn Tùng lớp tôi vừa được bố mua cho một chiếc laptop mới hơn 50 triệu, quả là một món quà quý giá. Ai cũng nhìn chiếc laptop của bạn ngưỡng mộ xuýt xoa vì sự đẳng cấp của nó.
Những ngày sau đó, lớp tôi cũng có rất nhiều bạn khác được mua laptop đủ mọi loại khác nhau với giá tiền khác nhau. Bạn thì cái vài chục triệu cũng có bạn thì chỉ vài triệu, nhưng dần dần chỉ trong một tháng lớp chuyên Anh 10A5 của chúng tôi ai cũng được sắm cho mình một chiếc laptop để có thể chát chít, lướt Facebook với bạn bè, hoặc xem videoclip, nghe nhạc tiếng Anh…chỉ mình tôi là vẫn chưa có.
Các bạn trong lớp xì xào bàn tán về tôi, có người hỏi thẳng tôi rằng “Ê Quân cả lớp đều sắm laptop sao cậu vẫn chưa mua vậy?. Tôi ngượng nghịu trả lời chống chế “Tớ chưa về nhà lấy tiền nên chưa mua được”.
Cuối tuần đó được nghỉ, tôi thu xếp về nhà như dự định. Ba mẹ đón tôi trong niềm vui hân hoan khó tả. Trong mâm cơm bình thường khi tôi còn ở nhà thì chỉ có lạc rang, vài miếng trứng, hoặc đậu xốt cà chua, rau luộc và cà pháo chấm tương.. Nhưng hôm nay, ngoài những món ăn truyền thống đó, mẹ tôi con giết hẳn một con gà luộc cho tôi ăn.
Trong bữa cơm, mẹ tôi cứ gắp những miếng ngon nhất cho tôi ăn, rồi luôn miệng hỏi tôi về cuộc sống học tập ở trường, ở lớp. Tôi nói với mẹ con đứng đầu, mẹ vui lắm, nụ cười làm cho khuôn mặt hằn nếp chân chim của bà rạng ngời đôi chút, dù những nếp nhăn vẫn còn nơi khóe mắt.
Mẹ tôi năm nay chỉ mới bốn mươi tuổi, nhưng trông già hơn so với tuổi rất nhiều, có lẽ cuộc sống buôn thúng bán bưng làm cho tuổi trẻ của mẹ tôi phai nhạt theo thời gian.
Ba tôi thì vẫn thế, vẫn ho nhiều, những đêm trời trở gió thì bệnh tình lại càng nặng hơn. Mẹ tôi bảo “Ba bay vẫn như vậy nhưng không lo trời bảo ông ấy sẽ thọ trên 80 tuổi”
Sau bữa cơm đầm ấm bên gia đình, tôi nói chuyện với ba mẹ về việc muốn mua thêm một chiếc laptop để phục vụ cho việc nghe tiếng Anh và giải bài tập toán trên mạng. Ba mẹ tôi trầm ngâm suy nghĩ, rồi mẹ bảo tôi “Con cứ yên tâm mai về trường học đi, mẹ sẽ mang laptop lên tận trường cho con”.
Lời nói của mẹ khiến tôi vô cùng mừng rỡ, trong lòng suy nghĩ mãi không biết mẹ sẽ mua cho mình chiếc laptop như thế nào, nhưng dù là loại gì thì tôi cũng vô cùng vui vẻ bởi từ nay sẽ không có cảm giác thua kém so với bạn bè, tha hồ mà lướt Facebook, rồi chát chít nhé.
Ngày thứ tư, khi tôi vừa tới cổng trường thì thấy ba tôi đứng ở cổng chờ tôi từ bao giờ, trên tay tôi là một chiếc túi đen nhỏ. Tôi đoán trong đó đựng chiếc laptop của mình nhìn thấy tôi ba mừng lắm gọi lớn “Quân ơi, ba ở đây này”. Tôi chạy về phía ba, bà nói “Mẹ con đi bán hàng từ sớm rồi, bà ấy bảo ba đi xe bus lên đây đưa cho con chiếc laptop này để con có cái mà học hành cho bằng chúng bằng bạn.
Con nhớ giữ gìn nó cẩn thận nhé, nhà mình nghèo mẹ con vừa phải bán đi con trâu trong nhà nhưng cũng chỉ được có hơn chín triệu mà chiếc laptop này giá tận hơn mười triệu nên bà ấy phải bán máu để cho đủ số tiền mua nó. Con cố gắng học đừng phụ lòng mà ba mẹ dành cho con”.
Nói xong ba tôi lặng lẽ bắt xe bus ra về, bỏ lại mình tôi đứng bơ vơ nơi cổng trường cho tới khi tiếng trống kêu lên thúc giục tôi vào lớp. Hôm đó, tôi cầm chiếc laptop trong tay mà thấy hoang mang vô cùng, tôi cảm thấy mình đã mắc một sai lầm vô cùng nghiêm trọng, chỉ vì muốn chứng tỏ cho bằng chúng bằng bạn, mà tôi đã để cha mẹ mình phải khổ.
Tôi không thể dùng chiếc laptop này, tôi phải bán nó rồi trả lại tiền cho ba mẹ tôi, để ba mẹ mua lại con trâu khác cho gia đình. Tôi rao bán chiếc laptop đó nhưng mọi người trả giá quá thấp nên trong một hai ngay tôi chưa bán ngay được. Thấy tôi rao bán laptop cô chủ nhiệm gọi tôi lên hỏi thăm tình hình. Tôi mới nói rõ câu chuyện của mình cho cô nghe.
Cô nghe xong bảo tôi “Em hãy để lại chiếc laptop đó cho cô. Cô đang cần một chiếc máy tính như vậy. Ba mẹ em mua bao nhiêu có sẽ lấy lại bấy nhiêu”. Cuối cùng tôi để lại chiếc laptop cho cô giáo của mình rồi mang tiền về nhà trả lại cho ba mẹ. Ba mẹ tôi ngạc nhiên lắm, nhưng tôi đã nói rằng “Con có thể dùng chung laptop với bạn cùng phòng” nên hai cụ cũng yên tâm.
Hết học kỳ một năm đó, tôi đạt danh hiệu học sinh giỏi, cô chủ nhiệm gọi tôi lên và đưa cho tôi chiếc laptop của tôi, cô nói “Cô tặng nó cho em, vì em xứng đáng nhận được món quà này. Cô mong em sẽ dùng nó vào những việc có ích cho học tập đừng phụ lòng ba mẹ và cô đã mong đợi ở em”.
|
Assignment
In life, we all have times when we make mistakes. There are times when we make mistakes that we regret forever because of a little selfish selfishness. I always remember a memory from the year I was in grade school. 10 at a specialized school in the province more than 20 kilometers from home. Because I study far away from home, I always live in the school dormitory and only go home when I'm off school on weekends or during the summer.
I just entered the tenth grade specializing in English in the province, a quite famous school with a rich history, so my parents are very proud of me. Even I am proud of myself. That's why I try very hard to study to not disappoint my parents' expectations, because my family is poor and my father has chronic pneumonia so he is sick all year round. All my living expenses, living expenses, and school fees were paid for by my mother's efforts in trading in the market.
That's why I told myself I had to study well and get a scholarship so my mother would have less trouble. But I study in the city, in my class there are many people from rich families and parents who are bosses, so their lives don't lack anything, I'm the only one lost in that crowd. Just looking at the clothes you guys wear, I know that they are all expensive, high-end products, the cost of a set of clothes is five or seven million, equal to the monthly living expenses of my family of four.
That day, I went to class and saw a commotion in the classroom discussing something. I asked a friend and learned that my classmate Tung had just had his father buy a new laptop for more than 50 million, which was a precious gift. Everyone looks at your laptop admiringly because of its class.
In the days that followed, many other students in my class were able to buy laptops of all different types at different prices. Some of you can spend tens of millions, some can only spend a few million, but gradually in just one month in our 10A5 English class, everyone can buy themselves a laptop so they can chat, surf Facebook with friends, or Watch video clips, listen to English music... I'm the only one who doesn't have it yet.
My classmates whispered about me, someone asked me directly, "Hey Quan, the whole class bought a laptop, why haven't you bought one yet?" I awkwardly replied defensively, "I haven't gone home to get the money yet so I can't buy it yet."
Having the weekend off, I arranged to go home as planned. My parents welcomed me with indescribable joy. In a normal dinner tray when I was at home, there were only roasted peanuts, a few pieces of eggs, or beans in tomato sauce, boiled vegetables and eggplant dipped in soy sauce... But today, in addition to those traditional dishes, my mother and children Kill a boiled chicken for me to eat.
During meals, my mother kept picking out the most delicious pieces for me to eat, then kept asking me about my life at school and in class. I told my mother that she was the best, she was very happy, her smile made her crow's feet face shine a bit, even though the wrinkles were still at the corners of her eyes.
My mother is only forty years old this year, but looks much older than her age. Perhaps the life of selling baskets makes my mother's youth fade over time.
My father is still the same, still coughs a lot, and on windy nights his illness gets worse. My mother said, "Dad will still be the same, but don't worry that God will say he will live to be over 80 years old."
After a warm meal with my family, I talked to my parents about wanting to buy a laptop to help me listen to English and solve math exercises online. My parents pondered, then my mother told me, "Don't worry, go back to school tomorrow, I will bring your laptop to school for you."
My mother's words made me extremely happy. I kept thinking about what kind of laptop she would buy for me, but no matter what kind it was, I was extremely happy because from now on I wouldn't have the feeling of losing. worse than your friends, feel free to browse Facebook and chat.
On Wednesday, when I arrived at the school gate, I saw my father standing at the gate waiting for me, in my hand was a small black bag. I guess my dad was so happy that he saw my laptop in there and called out, "Quan, I'm here." I ran towards my father and she said, "Your mother went to sell goods early. She told me to take the bus up here and give you this laptop so you can study so you can be as good as your friends."
Remember to take care of it carefully. Our family is poor. Your mother just had to sell the buffalo in the house, but she only got more than nine million, and this laptop cost more than ten million, so she had to sell her blood to make enough money. buy it. I try to learn not to disappoint my parents.
After saying that, my father quietly took the bus and left, leaving me standing alone at the school gate until the drumbeat urged me to go to class. That day, I held the laptop in my hand and felt extremely confused. I felt that I had made a very serious mistake. Just because I wanted to prove that I was equal to my friends, I let my parents suffer. .
I can't use this laptop, I have to sell it and return the money to my parents, so they can buy another buffalo for the family. I put that laptop up for sale, but people bid too low, so I couldn't sell it for a day or two. Seeing me selling my laptop, the homeroom teacher called me up to ask about the situation. I just told my story clearly to you.
After listening, she told me, "Please leave that laptop for me. She needs a computer like that. My parents buy as much as they can get back." In the end, I left the laptop with my teacher and brought the money home to return it to my parents. My parents were very surprised, but I said, "I can share a laptop with my roommate," so they were reassured.
At the end of the first semester of that year, I achieved the title of excellent student, the homeroom teacher called me up and gave me my laptop, she said "I give it to you, because you deserve to receive this gift. I hope you will use it for things that are useful for your studies and not disappoint what your parents and I have expected of you."
|
Bài làm
Tập thơ “Nhật ký trong tù” được tác giả Hồ Chí Minh viết trong những ngày tháng bị bắt giam ở nhà tù Tưởng Giới Thạch những năm 1942-1943
Tập thơ thể hiện tinh thần yêu quê hương, đất nước, yêu thiên nhiên hoa lá của tác giả Hồ Chí Minh. Tuy trong hoàn cảnh mất tự do chịu nhiều khổ cực nhục hình bởi cảnh tù đày nhưng trái tim Bác vẫn dạt dào cảm xúc với quê hương, thiên nhiên xung quanh mình.
Tâm hồn của người luôn hướng về tự do, về một ngày mai tươi sáng cho quê hương cho dân tộc của mình, mặc dù trên con đường đi đó có nhiều gian nan khó khăn đang đợi nhưng trái tim người cách mạng không bao giờ sờn lòng.
Bài thơ “Chiều tối” được viết khi tác giả Hồ Chí Minh bị áp giải từ nhà lao này tới nhà lao khác. Nó thể hiện một hành trình nhiều vất vả, nhưng dù mệt mỏi gông cùm về thể xác thì tâm hồn tác giả vẫn vượt ra ngoài sự xiềng xích kia.
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Hai câu thơ gợi lên một bức tranh hoàng hôn khi bóng chiều bao phủ vô cùng tươi đẹp. Một không gian vô cùng bao la, những tia nắng dần tắt, những đám mây đang lững lời trôi theo làn gió vô định giữa tầng không. Những cánh chim rừng “mải miết kiếm tìm thức ăn sau một ngày vất vả, cuộc sống mưu sinh với nhiều khó khăn, giờ đây chúng đang tìm về tổ ấm của mình.
Thiên nhiên được phác họa qua hai câu thơ này vô cùng trong trẻo, tươi đẹp và thơ mộng, thể hiện một không gian mênh mang, bát ngát, nhưng gợi lên trong lòng người đọc một chút buồn man mác.
Hai câu thơ được sử dụng phong cách miêu tả vô cùng đậm đà chất cổ điển trong thơ cổ, nhưng lại có sự mới mẻ trong cách sử dụng từ ngữ chỉ thường gặp ở Hồ Chí Minh.
Lấy cánh chim chiều để nói lên cảnh nắng chiều buông xuống, hoàng hôn đang bao phủ cảnh vật xung quanh, tất cả tạo nên một nỗi buồn cho những con người đang sống cảnh viễn xứ xa hương. Nó gợi lên cho tác giả và người đọc những cảm xúc le lói buồn.
Tác giả Hồ Chí Minh đã sử dụng những hình tượng vô cùng quen thuộc như đám mây, cánh chim, cảnh hoàng hôn để nói lên sự cô đơn, lạc lõng của con người trước thiên nhiên bao la, hoang sơ, vĩ đại.
Hình ảnh chú chim chiều mải miết kiếm ăn vất vả cả một ngày giờ đây mỏi mệt muốn tìm nơi bình yên, nơi tổ ấm của mình để trú ẩn. Phải chăng người tù, sau một ngày bị áp giải mệt mỏi, chân tay bị gông cùm xiềng xích tác giả cũng muốn có nơi chốn nghỉ ngơi, một nơi thật bình yên của mình.
Trong câu thơ tác giả đã kết hợp giữa hiện đại và cổ điển để nói lên khát khao tự do, cần nơi bình yên, một mái ấm thật sự của mình.àm súc dư ba của thơ cổ điển.
Đồng thời nó cũng nói lên nỗi lòng nặng trĩu của tác giả khi nhớ về quê hương đất nước không biết khi nào mình mới được tự do để trở về nơi quê nhà. Tác giả cũng buồn khi người dân quê mình vẫn còn lầm than với kiếp nô lệ, thuộc địa của mình. Con đường cách mạng giải phóng dân tộc vẫn còn dang dở.
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Trong hai câu thơ này tác giả sử dụng hình ảnh con người để làm cho bài thơ trở nên sống động hơn. Hình ảnh người con gái hăng say lao động mải miết với công việc của mình mà quên đi thời gian, là một hình ảnh vô cùng tươi đẹp, làm sáng bừng cả bài thơ.
Bên cạnh cô gái đó là chiếc bếp lò rực lửa, màu hồng của lò than gợi lên sự ấm áp, gợi sức sống cho toàn bài thơ. Đồng thời nó cũng gợi lên sự bình yên trong cuộc sống lao động tự do sản xuất.
Lò than rực lửa hồng chính là hình ảnh vô cùng đặc sắc của bài thơ. Chữ “hồng” được xem là nhãn tự, là đôi mắt của toàn bộ bức tranh này. Nó sưởi ấm thiên nhiên hoang vu, lạnh lẽo, gợi lên trong lòng con người cuộc sống miền thôn quê giản dị nhưng tự do hạnh phúc.
Hơi ấm của lò than làm ấm áp không gian xung quanh tạo nên một vẻ đẹp trẻ trung, căng tràn sức sống, làm cho cả bài thơ chợt bừng tỉnh sau những cơn ngủ đông dài u ám.
Thông qua sự quan sát tài tình, tỉ mỉ của tác giả Hồ Chí Minh ta có thể thấy người đang vô cùng khát khao tìm kiếm sự tự do, một cuộc sống bình yên giản dị cho chính bản thân mình và cho quê hương đất nước. Nó chính là ước mơ sục sôi bỏng cháy của tác giả.
|
Assignment
The poem collection "Prison Diary" was written by author Ho Chi Minh during his imprisonment in Chiang Kai-shek prison in the years 1942-1943.
The collection of poems reflects the spirit of author Ho Chi Minh's love for homeland, country, and love for nature and flowers. Although he was in a situation where he lost his freedom and suffered many hardships and torture due to imprisonment, Uncle Ho's heart was still full of emotions for his homeland and the nature around him.
His soul always looks towards freedom, towards a bright tomorrow for his homeland and his people. Even though many hardships await on that path, the revolutionary's heart never falters. heart.
The poem "Evening" was written when author Ho Chi Minh was being escorted from one prison to another. It represents a difficult journey, but even though the author's body is tired and shackled, the author's soul is still beyond those shackles.
Tired birds return to the forest to find a place to sleep
Clouds float gently in mid-air.
The two verses evoke a picture of a sunset when the evening shadow covers it extremely beautifully. An extremely vast space, the rays of sunlight gradually disappear, the clouds are slowly drifting with the wind aimlessly in the middle of the sky. The wild birds "are busy searching for food after a hard day, a life with many difficulties, now they are looking for their home.
The nature sketched through these two verses is extremely clear, beautiful and poetic, expressing a vast, immense space, but evoking a bit of sadness in the reader's heart.
The two verses use a descriptive style that is extremely rich in the classic quality of ancient poetry, but there is a newness in the way of using words that are only common in Ho Chi Minh.
Using the evening bird's wings to express the setting sun and sunset covering the surrounding landscape, all create a sadness for people living far away from home. It evokes sad feelings in the author and reader.
Author Ho Chi Minh used extremely familiar images such as clouds, bird wings, and sunsets to express the loneliness and loss of people before the vast, wild, and great nature.
The image of a bird that has been busy foraging for food all day is now tired and wants to find a peaceful place, a warm place to take refuge. Could it be that the prisoner, after a tiring day of being escorted, with his limbs shackled and chained, the author also wanted a place to rest, a peaceful place of his own.
In the poem, the author combines modernity and classicism to express the desire for freedom, the need for a peaceful place, a true home of one's own.
At the same time, it also expresses the author's heavy heart when he remembers his homeland and does not know when he will be free to return to his homeland. The author is also sad that the people of his hometown are still suffering from slavery and colonization. The revolutionary path of national liberation is still unfinished.
The girl from the mountain village grinds corn at night
Grinding the whole coal furnace was glowing pink
In these two verses, the author uses human images to make the poem more vivid. The image of a girl working enthusiastically and engrossed in her work, forgetting about time, is an extremely beautiful image that brightens the entire poem.
Next to that girl is a blazing stove, the pink color of the brazier evokes warmth and vitality for the entire poem. At the same time, it also evokes peace in the life of free labor and production.
The fiery charcoal furnace is an extremely unique image of the poem. The word "pink" is considered the label, the eyes of this entire picture. It warms the desolate, cold nature, evoking in people's hearts a simple but free and happy rural life.
The warmth of the charcoal stove warms the surrounding space, creating a youthful beauty, full of vitality, making the whole poem suddenly awaken after a long, gloomy hibernation.
Through the ingenious and meticulous observation of author Ho Chi Minh, we can see that people are extremely eager to find freedom, a simple, peaceful life for themselves and for their homeland. . It is the author's burning dream.
|
Bài làm
Trong đời học sinh của chúng ta ai cũng có cho riêng mình những kỷ niệm, khoảnh khắc không thể nào quên được quãng học sinh ngây thơ, trong sáng, những kỷ niệm bỡ ngỡ ngày đầu bước chân vào trung học phổ thông.
Và đối với tôi cũng như bao nhiêu người khác, những tháng ngày chia tay mái trường cấp hai thân thương để bước chân vào cánh cổng ngôi trường mới đó là một thời khắc vô quan trọng, khiến con người ta vừa có chút lo lắng, vừa là những dấu ấn khó phai.
Chia tay với những chiếc khăn quàng đỏ thắm tươi, giờ chúng ta đã thành những Đoàn viên thanh niên ưu tú, ngưỡng cửa của thời kỳ cấp ba đang hé mở cho chúng ta một cánh cửa mới, khiến cho trái tim tuổi học trò không ngừng hồi hộp. Tôi chợt cảm thấy mình đang như trở lại ngày đầu tiên đi học, khi bỡ ngỡ bước chân vào lớp một nép mình sau lưng áo của mẹ.
Thời gian cứ trôi đi một cách lặng lẽ khiến cho con người ta những kỷ niệm còn mãi. Nó đã khắc lên trái tim mỗi người học trò niềm say mê với những kỷ niệm của một thời tuổi trẻ. Những kỷ niệm khi đã chia tay với những tia nắng, những tiếng ve, trong veo của ngày hè đỏ rực hoa phượng vĩ.
Khi kết thúc những ngày hè oi ả, một mùa thi căng thẳng với những giây phút vô cùng hồi hộp khoảnh khắc tựu trường bắt đầu bước chân vào một ngôi trường mới sẽ khiến chúng ta vô cùng bỡ ngỡ khi bắt đầu một chân trời mới với một đỉnh cao tri thức mới để chúng ta cùng chinh phục.
Khi ngắm nhìn những ô cửa sổ có những cánh bằng lăng tim tím, những bông hoa phượng đỏ trái tim mong manh của tuổi mười lăm trong tôi chợt rung lên những cảm xúc xốn xang khó tả.
Tháng Tám khi khúc giao mùa của mùa thu bắt đầu tới, khi những chiếc lá vàng đầu tiên trên cành cây rơi xuống, theo mùi gió heo may se se lạnh thổi qua làn tóc, mùi hương ổi phảng phất đâu đây, chính lúc đó thì giây phút giây cánh cửa đời học sinh của tôi bước sang một thế giới muôn màu muôn vẻ mới.
Tất cả trở thành những kỷ niệm khó phai trong tuổi thần tiên của tôi về ngày đầu tiên tựu trường trung học phổ thông. Giờ đây, tôi đã bước chân vào một môi trường vô cùng mới mẻ, được thức sức mình trên một chặng đường mới của đời người, được gặp gỡ nhiều bạn bè, thầy cô.
Tôi vẫn nhớ nguyên cái cảm giác tinh khôi mới mẻ khi bước chân vào thế giới muôn màu đó. Ngày đầu tiên đến với mái trường mới, mái trường trung học phổ thông Phong Châu là một ngày vô cùng nắng đẹp, không khí mùa thu vô cùng dịu dàng, dễ chịu, những cơn gió heo may thổi vào trong tóc khiến cho những tà áo dài của các bạn nữ sinh tung bay phất phới.
Trước mắt tôi bầu trời vô cùng trong xanh với những đám mây lững lờ trôi nhè nhẹ vào khoảng không bao la, dưới những tia nắng vàng lóng lánh, xiên qua những chiếc lá tựa như một bức tranh được dệt lên bằng những tia nắng.
Tôi cảm thấy như mình đã trưởng thành hơn rất nhiều và dường mọi cảm xúc của tôi đều mang một dư vị vô cùng mới lạ, xốn xang, xao xuyến biết bao nhiêu?
Cánh cổng trường trung học phổ thông Phong Châu có hàng băng-giôn rất to, được căng trên nền phông đỏ dòng chữ “Chào mừng các em học sinh lớp 10” lòng tôi chợt trào dâng những cảm xúc vô cùng vui sướng hãnh diện vì mình giờ đây là học sinh mới của một ngôi trường lớn có tên tuổi gần 40 năm.
Từ ngoài cổng đi vào hình ảnh đập vào mắt tôi đầu tiên là dãy nhà hai tầng hình chữ I vô cùng mới mẻ, với những bồn hoa nhiều màu sắc được các bác lao công cắt tỉa vô cùng gọn gàng đẹp mắt, phía bên tay trái tôi mà một dãy nhà hai tầng khác hình chữ U, theo như các anh chị lớp trên cho biết đó là dãy nhà của lớp 10 chúng tôi. Tôi sẽ được học ở đó.
Mọi thứ vô cùng tươi mới và có chút lạ lẫm nhưng bằng sự tự tin vốn có của mình tôi đã đi thẳng về phía dãy nhà chữ U đó, tìm tới lớp 10A5 chuyên Anh của mình, để bắt đầu một chặng đường chinh phục tri thức mới.
Trước cửa của dãy nhà hai cây phượng vĩ rất to những bông phượng vĩ nở muộn còn sót lại sau những ngày hè oi ả, là rực cháy cả một khoảng sân. Nó tạo nên một điểm nhấn không thể nào quên trong lòng tôi về buổi tựu trường trung học phổ thông năm ấy.
Khoảnh khắc tôi cảm thấy bối rối khi bắt gặp một cái nhìn từ người bạn khác giới ngồi nơi góc sân trường nhìn mình một cách tò mò, rồi bất chợt cất tiếng nói “Bạn là học sinh mới phải không?” tôi cảm thấy má mình đang nóng dần lên, chắc giờ nó trông giống hai trái cà chua chín mọng lắm. Không trả lời người bạn đó, mà tôi chỉ khe khẽ gật đầu. Để rồi chúng tôi bắt đầu một tình bạn mới cho suốt quãng thời gian học chung mái trường phổ thông.
Sau này khi chúng tôi đã chơi thân với nhau, trở thành người bạn thân thiết không thể thiếu trong cuộc sống, thì tôi mới nghe bạn ấy nói rằng “Lúc nhìn thấy đôi mắt ngơ ngác của tôi bạn ấy đã cảm thấy mến tôi và muốn kết bạn”. Chính nhờ ngày tựu trường đó, mà tôi có thật nhiều bạn mới, được gặp thầy cô giáo mới, được học ở một ngôi trường có truyền thống lịch sử hiếu học lâu đời.
|
Assignment
In our student lives, we all have our own unforgettable memories and moments of being innocent and pure students, and those surprising memories of the first day we entered high school.
And for me and many others, the days of saying goodbye to my beloved middle school and entering the new school gate were an important moment, making people a little worried. are both indelible marks.
Saying goodbye to the bright red scarves, we have now become elite Youth Union members, the threshold of high school is opening a new door for us, making the hearts of students unable to stop being nervous. I suddenly felt like I was back on my first day of school, when I surprisingly stepped into first grade hiding behind my mother's shirt.
Time passes quietly, leaving us with lasting memories. It has engraved in every student's heart a passion for memories of their youth. Memories of saying goodbye to the rays of sunlight, the sounds of cicadas, the clarity of a red summer day filled with poinciana flowers.
At the end of the sweltering summer days, a stressful exam season with extremely nervous moments, the first moment of entering a new school will make us extremely confused as we begin a new horizon. with a new peak of knowledge for us to conquer together.
When looking at the windows with purple hyacinth petals and red poinciana flowers, my fifteen-year-old fragile heart suddenly trembled with indescribable emotions.
In August, when the transition of autumn begins to come, when the first yellow leaves fall from the tree branches, along with the smell of the cold wind blowing through the hair, the scent of guava wafts somewhere, at that moment. The moment my student life entered a new, colorful world.
All became unforgettable memories of my magical age of the first day of high school. Now, I have entered a very new environment, awakened myself on a new journey in life, and met many friends and teachers.
I still remember the feeling of freshness and newness when stepping into that colorful world. The first day at the new school, Phong Chau High School, was an extremely beautiful sunny day. The autumn air was extremely gentle and pleasant. The wind blew into my hair, causing the evil spirits to fall. The female students' ao dai fluttered.
Before my eyes, the sky was extremely clear with clouds drifting gently into the vast space, under sparkling golden rays of sunlight, slanting through the leaves like a picture woven with sunlight.
I feel like I have matured a lot and it seems like all my emotions have an extremely new, exciting, disturbing aftertaste?
The gate of Phong Chau High School has a row of very large banners, stretched on a red background with the words "Welcome 10th grade students." My heart suddenly overflowed with extremely happy and proud emotions because I am now a new student at a big school that has been around for nearly 40 years.
From outside the gate, the first image that caught my eye was a row of extremely new I-shaped two-storey houses, with colorful flower beds trimmed very neatly and beautifully by the cleaners, on the right side. On the left of me was another U-shaped row of two-storey buildings. According to the upperclassmen, that was the building of our 10th grade class. I will study there.
Everything was extremely fresh and a bit strange, but with my inherent confidence, I went straight to that U-shaped row of buildings, found my English class 10A5, to begin the journey of conquering knowledge. new consciousness.
In front of the row of houses, there are two very large Poinciana trees, the late-blooming Poinciana flowers remaining after hot summer days, burning the whole yard. It created an unforgettable highlight in my heart about the first day of high school that year.
The moment I felt confused when I caught a look from a friend of the opposite sex sitting in the corner of the school yard looking at me curiously, then suddenly said, "Are you a new student?" I feel my cheeks getting hotter, they probably look like two ripe tomatoes right now. I didn't answer that friend, but I just nodded slightly. Then we started a new friendship for the entire time we were in high school together.
Later, when we became close friends and became indispensable friends in life, I heard her say, "When she saw my bewildered eyes, she loved me and loved me." want to make friends". Thanks to that first day of school, I had many new friends, met new teachers, and studied at a school with a long tradition of studious love.
|
Bài làm
Nếu như mùa xuân là mùa của cỏ cây hoa lá, mùa của sum vầy, để đất trời thiên nhiên có thể đơm hoa kết trái, là mùa của sự đâm trồi nảy lộc, sau những ngày đông rét buốt những mầm non phải thu mình bé nhỏ.
Thì mùa thu lại cho ta những cảm giác vô cùng dễ chịu với bầu trời trong xanh hơn, nắng không còn gắt gỏng như màu hè mà dịu dàng trải thảm vàng trên những con đường đang đổi mầu lá.
Mùa thu vàng mang đến con cho người sự mênh mang, man mác, một cảm giác khoan khoái vô cùng thư thái, khi chúng ta được ngắm nhìn những đóa cúc vàng, những cánh đồng lúa chín thẳng cánh có bay, mùi hương ổi thơm ngát trong những chiếc túi khi bà đi chợ về… Tất cả tạo cho chúng ta một bầu không khí thanh tao, tinh khiết vô cùng dễ chịu.
Sắc vàng của mùa thu thật long lánh, nó sóng sạnh tựa như những giọt mật ông ngọt ngào hấp dẫn người nhìn với nét tươi tắn dịu dàng.
Mùa thu như giấc mơ dịu dàng đưa chúng ta hòa mình với thiên nhiên quên đi những lo toan mệt mỏi nơi đô thị ồn ào, nhiều bon chen, căng thẳng. Thu tới cho chúng ta có thể sống chậm lại, nhìn lại bản thân mình và những người xung quanh để có thể biết mình đúng sai, được mất những gì giữa bộn bề lo toan thường nhật.
Những cơn gió thu thật tinh nghịch, nó đùa giỡn ùa mình vào mái tóc những bạn nữ sinh khiến các bạn lúng túng vội vàng đổ mắt, những chiếc lá vàng trên phố nhẹ nhàng rơi xuống chân những người đi bộ, một cảm giác nhẹ nhàng và bình yên biết bao.
Những cơn gió thu heo may thổi vê vương vấn cho con người cảm xúc thật lạ, có chút gì cảm thấy ớn lạnh thấy mình thật nhỏ bé giữa bao la đất trời, nhưng vẫn muốn giang tay để ôm tất cả vào lòng mà hít hà thật mạnh cái mùi vị trong veo đó.
Nghe văng vẳng bên tai những bài hát về mùa thu làm xao xuyến lòng người. Tiếng chin hót líu lo cao vút ngân dài tạo nên một bản giao mùa vô cùng hoàn mỹ.
Những khóm hoa hồng trước vường nhà đang kiêu hãnh khoe lớp áo mới với những chiếc cánh mịn màng tỏa hương trong nắng. Nhưng bông hoa sữa trắng ngần tinh khiết như dòng sữa mẹ cũng nồng nàn du mình trong làn gió, những khóm hoa cải e ấp chúm chím với bộ váy màu vàng tươi ống ánh. Mùi thơm của hoa quế vương trên vai áo của những bạn nữ sinh trong ngày tựu trường làm say đắm lòng người.
Một thứ gia vị không thể nào quên được khi nhắc tới mùa thu đó chính là những cơn gió heo may, từng còn nhè nhẹ không gào thét, kêu rú như những cơn gió mùa Đông Bắc, cũng không nó như những cơn gió Lào mùa hạ. Gió heo may nhè nhẹ thổi vào qua ô cửa sổ làm cho con người khẽ rùng mình, nhưng chỉ là một sự giật mình khi mùa thu đã tới.
Nhắc về mùa thu học trò chúng mình không ai có thể không nhớ tới ngày khai giảng, ngày tựu trường sau những ngày hè nghỉ ngơi, đi du lịch, về quê thăm ông bà, thì những ngày tựu trường là cảm giác vô cùng tuyệt vời khi được gặp lại thầy cô bạn bè và mái trường thân thương. Với những người chuyển cấp thì ngày tựu trường lại càng cho con người ta cảm giác mới mẻ hơn bởi bước sang một ngôi trường mới, thầy cô bạn bè mới nhiều sự bỡ ngỡ trong những đôi mắt trong veo.
Với những cựu học sinh thì ngày tựu trường gợi lại một cảm giác nhớ nhung bồi hồi, mơ ước được quay lại tuổi thần thiên, được sống lại một lần nữa cái tuổi nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò ấy. Có những điều chưa làm được, có những lỗi lầm khiến chúng ta day dứt mang theo trong hành trang vào đời. Nhưng cũng có những cảm xúc nghẹn ngào, những kỷ niệm khiến ta nhớ mãi không thể nào quên.
|
Assignment
If spring is the season of grass, trees and flowers, the season of reunion, so that nature and earth can bloom and bear fruit, it is the season of growth and buds, after the cold winter days, the young shoots have to cower. little.
Autumn gives us extremely pleasant feelings with clearer blue skies, the sun is no longer as harsh as summer but gently spreads yellow carpets on the roads that are changing leaf color.
Golden autumn brings to us a vastness, a wild feeling, an extremely relaxing feeling, when we can see the yellow chrysanthemums, the ripe rice fields with fluttering wings, and the fragrant scent of guava. fragrant in the bags when she comes home from the market... All create for us an extremely pleasant, pure and elegant atmosphere.
The golden color of autumn is so sparkling, it ripples like drops of sweet honey, attracting the viewer with its gentle freshness.
Autumn is like a gentle dream that brings us into harmony with nature, forgetting the tiring worries of noisy, crowded, and stressful cities. Autumn allows us to slow down, look back at ourselves and those around us so we can know whether we are right or wrong, what we have lost or won amid the chaos of daily worries.
The autumn wind is so mischievous, it playfully blows into the hair of the female students, making them confused and quickly shed their eyes. The yellow leaves on the street gently fall to the feet of pedestrians, a feeling of lightness. How gentle and peaceful.
The autumn winds that gently blow around give people a strange feeling. They feel a bit chilled and feel very small in the vastness of heaven and earth, but they still want to open their arms to hug everything in their arms and breathe in. So strong, that clear taste.
Hearing songs about autumn ring in your ears makes people's hearts flutter. The long, high-pitched chirping sound of the chin creates an extremely perfect change of seasons.
The rose bushes in front of the house are proudly showing off their new coat with smooth petals radiating fragrance in the sunlight. But the white milk flowers, as pure as mother's milk, also float passionately in the breeze, the clusters of mustard flowers are shyly clustered with bright yellow dresses. The scent of cinnamon flowers lingering on the shoulders of female students on the first day of school captivates people's hearts.
An unforgettable spice when talking about autumn is the windy winds, which were once gentle and neither howled nor howled like the Northeast monsoon, nor were they like the Laos monsoon winds. Summer. The gentle wind blew in through the window, making people shiver slightly, but it was only a startle when autumn had come.
When talking about fall, none of us students can help but remember the first day of school, the first day of school after the summer days of resting, traveling, returning home to visit grandparents, the first days of school are an extremely wonderful feeling. It's great to see my teachers, friends and beloved school again. For those changing grades, the first day of school gives people an even more new feeling because entering a new school, new teachers and friends brings many surprises in clear eyes.
For former students, the first day of school evokes a feeling of longing and nostalgia, the dream of returning to the age of gods, of reliving once again the age of being the first ghost, second ghost, third student. There are things we haven't done yet, there are mistakes that torment us and carry them with us in life. But there are also choking emotions and memories that we will never forget.
|
Bài làm
Thực tế cuộc sống đa dạng, phong phú mang lại cho con người những cảm xúc, suy nghĩ và những bài học sâu sắc về con người, về cuộc đời. Một trong những bài học đó là bài học về đức hi sinh.
Con người là một động vật cao quí vì con người có trí tuệ và đạo đức. Một trong những phẩm chất cao đẹp của con người là đức hi sinh.
Đức hi sinh là một trong những phẩm chất cao quý của con người. Đó là sự quên mình để lo cho tha nhân. Sự hi sinh thiêng liêng và gần gũi nhất là của cha mẹ dành cho con cái. Hình ảnh những nếp nhăn trên gương mặt cha, những giọt mồ hôi thấm trên vai mẹ vì lo toan cho con cái chính là những biểu hiện sống động và đầy cảm xúc của tình phụ tử và mẫu tử. Những nếp nhăn và những giọt mồ hôi là những chi tiết thực tế nhưng là biểu tượng nghệ thuật trong văn học có sức gợi cảm và lay động lòng người. Chính sự hi sinh của cha mẹ đã là nền tảng tạo nên tình cảm và phẩm chất tốt đẹp cho con cái. Sự trưởng thành của những đứa con được nuôi dưỡng bằng chính sự hi sinh của cha mẹ. Sự hi sinh được biểu hiện ở tất cả những con người có phẩm chất cao quý. Cho nên ngoài sự hi sinh của cha mẹ đối với con cái, đó còn là sự hi sinh của những thành viên này trong gia đình đối với những thành viên khác như ông bà – con cháu, anh chị em, con cái – cha mẹ…
Gương hi sinh còn được thể hiện trong những tình huống phong phú của cuộc sống. Trong thời chiến, bao nhiêu chiến sĩ vô danh đã hi sinh trong trận chiến chống xâm lược từ thời bắc thuộc, thời phong kiến độc lập tự chủ, thời chống Pháp, thời chống Mỹ để đất nước ta có được hòa bình và độc lập. Hàng vạn chiến sĩ, thanh niên xung phong đã hi sinh cả thời tuổi trẻ của mình, đã đi mãi không về vì bảo vệ đất nước, quê hương.
Trong thời bình, hàng triệu người đã âm thầm hi sinh trong việc đóng góp cho sự tiến bộ của nhân loại. Hình ảnh nhà khoa học suốt đời cặm cụi trong phòng thí nghiệm, các thầy cô giáo suốt đời tận tụy vì thế hệ tương lai. Những công nhân vệ sinh đêm đêm quét rác cho thành phố sạch đẹp…Trong một gia đình nghèo, đôi khi anh chị phải hi sinh nghỉ học để cho em mình được đi học…Có vô vàn tấm gương hi sinh mà chúng ta nghe thấy được, biết được qua sách báo… Có vô vàn con người đã thầm lặng hi sinh cho đồng loại, cho thiên nhiên và cho môi trường sống mà chúng ta không hề hay biết…
Người đời đã ghi nhớ, khắc tên biết bao nhiêu người đã dũng cảm hi sinh vì lợi ích của đất nước. Trong lịch sử, không quên hình ảnh Lê Lai – một vị tướng thời nhà Lê, đã liều mình cứu chúa. Ông đã hi sinh mạng sống của mình để cứu nguy cho Lê Lợi, cũng là cứu cả dân tộc Việt Nam. Trong kháng chiến, Nguyễn Văn Trỗi đã hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc gia đình chọn con đường, đầy khó khăn, nguy hiểm – diệt bộ trưởng Mỹ – để mang lại cuộc sống cho toàn dân. Ngày nay đất nước hòa bình thống nhất, nhiều chiến sĩ công an vẫn làm việc ngày đêm không nghỉ ngơi để đảm bảo trật tự an ninh xã hội cho nhân dân. Họ là những người làm việc thầm lặng, hi sinh quyền lợi của mình cho mọi người.
Đức hi sinh có giá trị rất to lớn. Nó không chỉ nói lên giá trị của con người mà còn góp phần làm thăng hoa giá trị ấy. Hi sinh là một nguồn sức mạnh tinh thần rất to lớn giúp người ta sống và hành động. Nó khiến cha mẹ vì con cái mà hi sinh niềm vui, sự sung sướng của riêng mình để chịu vất vả lam lũ để con cái được khỏe mạnh, vui sướng, trưởng thành. Người chiến sĩ vì tổ quốc mà sẵn sàng chịu khổ cực nơi đầu sóng ngọn gió, hi sinh mạng sống để bảo vệ đất nước quê hương. Với đức tính hi sinh, nhiều thầy cô giáo đã từ bỏ những công việc có thể đem lại cuộc sống sung túc hơn để theo đuổi việc dạy dỗ giáo dục thế hệ trẻ…
|
Assignment
In reality, life is diverse and rich, giving people emotions, thoughts and profound lessons about people and life. One of those lessons is the lesson of sacrifice.
Humans are a noble animal because they have intelligence and morality. One of the noble qualities of humans is the virtue of sacrifice.
The virtue of sacrifice is one of the noble qualities of humans. It is forgetting oneself to care for others. The most sacred and closest sacrifice is that of parents for their children. The images of wrinkles on the father's face and drops of sweat on the mother's shoulders because of worrying about their children are vivid and emotional expressions of fatherly and motherly love. Wrinkles and drops of sweat are realistic details but are artistic symbols in literature that have the power to evoke and move people's hearts. It is the sacrifice of parents that is the foundation that creates good feelings and qualities for their children. The maturity of children is nurtured by the sacrifices of their parents. Sacrifice is expressed in all people with noble qualities. So in addition to the sacrifice of parents for their children, it is also the sacrifice of these family members for other members such as grandparents - children, siblings, children - parents. …
The example of sacrifice is also shown in diverse situations of life. During the war, many anonymous soldiers sacrificed their lives in the battle against invasion from the Northern colonial period, the feudal independence period, the anti-French period, the anti-American period so that our country could have peace and independence. . Tens of thousands of soldiers and young volunteers have sacrificed their entire youth, going forever to protect their country and homeland.
In peacetime, millions of people have silently sacrificed their lives to contribute to the progress of humanity. Images of scientists working hard in the laboratory all their lives, teachers spending their lives devoted to future generations. Sanitation workers sweep the trash every night to keep the city clean and beautiful...In a poor family, sometimes older siblings have to sacrifice leaving school so their younger siblings can go to school...There are countless examples of sacrifices that we hear about. Yes, we know through books and newspapers... There are countless people who have silently sacrificed for their fellow human beings, for nature and for the living environment without us even knowing...
People have remembered and engraved the names of so many people who courageously sacrificed their lives for the good of the country. In history, we cannot forget the image of Le Lai - a general during the Le Dynasty who risked his life to save the lord. He sacrificed his life to save Le Loi, and also to save the entire Vietnamese people. During the resistance war, Nguyen Van Troi sacrificed his youth and family happiness, choosing a path full of difficulties and dangers - killing the American minister - to bring life to the entire people. Today, the country is peaceful and unified, many police officers still work day and night without rest to ensure social order and security for the people. They are people who work silently, sacrificing their own rights for everyone.
Sacrifice has great value. It not only speaks of human value but also contributes to sublimating that value. Sacrifice is a great source of spiritual strength that helps people live and act. It causes parents to sacrifice their own joy and happiness for the sake of their children to endure hardships so that their children can be healthy, happy, and mature. A soldier for his country is willing to endure hardships in the face of storms and waves, sacrificing his life to protect his homeland. With the virtue of sacrifice, many teachers have given up jobs that could bring them a more prosperous life to pursue educating the younger generation...
|
Bài làm
Từ xưa đến nay, trên khắp đất nước Việt Nam ta bất kể thời đại nào thì nhân dân ta vẫn luôn đặt đạo đức là chuẩn mực hàng đầu đối với con người. Điều đó lại càng đặc biệt cần thiết trong xã hội hiện đại ngày nay. Chính vì thế mà đạo đức luôn là thước đo để đánh giá một con người. một trong những đức tính được quan tâm và đánh giá nhất là lòng khiêm tốn, lòng khiêm tốn là đức tính đầu tiên con người cần phải có. Để hiểu rõ hơn về đức tính này ta cùng đi tìm hiểu về lòng khiêm tốn.
Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân mình, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người khác. Người có lòng khiêm tốn luôn luôn thể thái độ hòa nhã, nhún nhường trong văn hóa ứng xử, và quan trọng hơn, họ luôn tỏ ra tôn trọng bản thân mình và tôn trọng người khác. Trong công việc và trong cuộc sống, những người có thái độ khiêm tốn thường không thỏa mãn với những gì mình đã đạt được mà ngược lại, họ luôn cố gắng phấn đấu vươn lên để có thể đạt được những thành quả cao hơn nữa. Vì vậy, họ thường gặt hái được nhiều kết quả và thành công mĩ mãn.
Khiêm tốn là luôn có thái độ đánh giá đúng năng lực và khả năng của mình trong công việc và học tập. Không cho rằng bản thân giỏi, không tự kiêu, tự mãn cho rằng mình hơn người. Người khiêm tốn luôn nhã nhặn, nhún nhường, tiếp thu ý kiến của người khác, không cho rằng mình giỏi. Đối với thành công của mình thì người khiêm tốn luôn cho rằng đó là điều nhỏ nhoi, kém cỏi. Ý thức rằng luyện bản thân ngày càng hoàn thiện luôn được thể hiện ở người khiêm tốn.
Hồ Chí Minh ( 1890 -1969) Một trong những điểm đặc biệt của Hồ Chí Minh chính là sự giản dị, khiêm tốn, đã được cả thế giới ca ngợi và khâm phục. Mặc dù là Chủ tịch nước, là nguyên thủ của một quốc gia nhưng Bác Hồ lại có một cuộc sống hết sức giản dị. Nơi làm việc của Người chỉ là một ngôi nhà sàn đơn sơ với các đồ đạc đủ dùng ở mức tối thiểu và cần thiết nhất. Còn nơi ở chỉ là một ngôi nhà cũ được sửa chữa lại, vỏn vẹn chỉ có hai phòng một phòng đủ để kê một chiếc giường đơn và một phòng đủ để kê một chiếc bàn làm việc và một tủ sách nhỏ. Hàng ngày, Người thường dùng bữa với vài ba món ăn dân dã, đơn giản. Trang phục Người thường mặc nhất là bộ bà ba nâu, bộ ka ki vàng và đôi dép cao su… Sự giản dị của Người còn thể hiện ở trong từng lời nói luôn luôn ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ. Nói về chủ nghĩa xã hội, Người nói một cách thật dễ hiểu là “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, ốm đau được chữa bệnh…”. Sự khiêm tốn cũng là một đức tính nổi bật của Bác Hồ. Là lãnh tụ nhưng Người khiêm tốn với tất cả mọi người, cả người già và người trẻ. Đối với những người giúp việc thường xuyên bên mình, Bác thường gọi hết sức thân mật và trân trọng là cô, chú như những người trong gia đình. Đối với các vị nhân sĩ, trí thức khi tiếp chuyện Bác luôn thưa gửi rất lễ độ và đúng mực.Khi Quốc hội đề nghị tặng Bác Huân chương cao quý nhất của Nhà nước là Huân chương Sao Vàng, Người khiêm tốn từ chối và nói: Miền Nam còn chưa được giải phóng, khi nào thống nhất đất nước xin Quốc hội ủy quyền cho đồng bào miền Nam được thay mặt Quốc hội trao tặng thì tôi xin nhận…
Suốt cả cuộc đời, Bác Hồ luôn là một tấm gương mẫu mực về sự giản dị, khiêm tốn, tiết kiệm. Điều quan trọng hơn, tư tưởng của Người không chỉ thể hiện bằng lời nói mà luôn đi đôi với việc làm. Ngay cả đến khi sắp đi vào cõi vĩnh hằng, trong Di chúc Người vẫn căn dặn lại “sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Cuộc đời như một cuộc đua, con người không thể không ngừng học hỏi và rèn luyện để hoàn thiện bản thân hơn. Sự hiểu biết của mình vẫn còn ít ỏi, chính vì thế mà mình không nên cho rằng mình giỏ. Đây là một đức tính quý giá ở con người, những người có đức tính khiêm tốn thường được mọi người yêu mến hơn là những người kiêu ngạo
|
Assignment
From ancient times to the present, throughout Vietnam, regardless of era, our people have always placed morality as the top standard for people. That is especially necessary in today's modern society. That's why morality is always a measure to evaluate a person. One of the most concerned and appreciated virtues is humility. Humility is the first virtue that people need to have. To better understand this virtue, let's learn about humility.
Humility is having the right awareness and attitude in evaluating yourself, not being complacent, arrogant, or considering yourself superior to others. Humble people always show gentleness and humility in cultural behavior, and more importantly, they always show respect for themselves and others. In work and in life, people with a humble attitude are often not satisfied with what they have achieved, but on the contrary, they always try to strive to achieve even higher results. Therefore, they often achieve many results and great success.
Humility is always having the attitude of correctly assessing one's abilities and abilities in work and study. Don't think you're good, don't be arrogant or complacent, thinking you're better than others. Humble people are always polite, humble, receptive to other people's opinions, and do not think they are good. Regarding their success, humble people always think that it is a small and inferior thing. The awareness that self-improvement is always reflected in humble people.
Ho Chi Minh (1890 -1969) One of Ho Chi Minh's special features is his simplicity and humility, which has been praised and admired by the whole world. Although he is the President and head of a country, Uncle Ho has a very simple life. His workplace is just a simple stilt house with the minimum and most necessary furniture. The place to live is just a renovated old house, with only two rooms, one room enough to fit a single bed and one room enough to fit a desk and a small bookcase. Every day, people often eat a few simple, rustic dishes. The clothes he most often wears are a brown suit, a yellow khaki suit and rubber sandals... His simplicity is also shown in every word that is always concise, easy to understand and easy to remember. Talking about socialism, he said in an easy-to-understand way that "everyone has food to eat, clothes to wear, everyone can study, everyone who is sick can be treated...". Humility is also an outstanding virtue of Uncle Ho. As a leader, he was humble with everyone, both old and young. For the maids who were always with him, Uncle Ho often referred to him very intimately and respectfully as aunt and uncle like family members. When meeting with distinguished people and intellectuals, Uncle Ho always addressed him very politely and properly. When the National Assembly proposed to award Uncle Ho the State's highest honor, the Gold Star Medal, he humbly refused and said: The South has not yet been liberated. When the country is unified, please ask the National Assembly to authorize the Southern compatriots to represent the National Assembly, then I will accept...
Throughout his life, Uncle Ho was always an exemplary example of simplicity, humility, and frugality. More importantly, his thoughts are not only expressed in words but are always accompanied by deeds. Even when he was about to enter eternity, in his Will he still advised "after I have passed away, do not organize lavish funerals, so as not to waste the people's time and money."
Life is like a race, people cannot stop learning and practicing to improve themselves. My understanding is still limited, that's why I shouldn't think I'm wrong. This is a valuable quality in people. People who are humble are often loved more than arrogant people.
|
Bài làm
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng chạy theo xu thế của xã hội, chạy theo những của cải vật chất và tiền tài vật chất trong xã hội hiện nay cũng luôn được coi trọng.
Đồng tiền là của cải vật chất giúp con người duy trì cuộc sống, nó là thứ giúp con người có thể sử dụng để mua được rất nhiều thứ. Ví dụ như các cơ sở vật chất, dùng để học tập, chữa bệnh… Đây được xem là thứ dùng để lưu thông và trao đổi trong cuộc sống. Từ xưa đến nay con người lao động để tạo ra của cải vật chất và cụ thể là tạo ra đồng tiền để duy trì cuộc sống, chính vì vậy vai trò của đồng tiền trong xã hội hiện nay cực kỳ quan trọng, nó có ý nghĩa to lớn trong việc giúp con người có cuộc sống tốt đẹp hơn, sung túc và đầy đủ hơn.
Ngoài ra đồng tiền còn có ý nghĩa to lớn chi phối rất nhiều thứ trong cuộc sống của con người, nếu biết kiếm tiền để tạo nên những đồng tiền hữu ích thì nó cực kỳ hữu ích và mang đến cho con người những giá trị tinh thần và cuộc sống vật chất đầy đủ, sung túc. Đồng tiền còn là đơn vị phát hành của Việt Nam, nó dùng để lưu thông và giá trị để đánh giá giá trị của hàng hóa, dịch vụ. Tiền còn là phương tiện để trao đổi, giao dịch, mua bán, chính vì thế đồng tiền có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, mang đến những giá trị to lớn cho cuộc sống của con người.
Tạo ra tiền bằng công sức của chính mình, bằng cách thức, phương tiện chân chính, đó là tích cực. Sử dụng đồng tiền vào mục đích tốt làm lợi ích bản thân, gia đình và xã hội, xây dựng gia đình và xã hội phát triển vững mạnh, phồn vinh, đó là tích cực.
Trong một xã hội nếu như giá trị đồng tiền chi phối tất cả thì những giá trị khác của cuộc sống dễ dàng bị bỏ quên. Nhưng khi đồng tiền trở nên hữu ích vì tiện lợi thì tiền bạc trở lại tác động chi phối mãnh liệt đời sống con người. Xã hội càng phát triển, đời sống vật chất càng cao thì đồng tiền càng có vị thế. Hầu như mọi thứ trong đời sống vật chất đều có thể đánh đổi bằng tiền, thậm chí tiền có thể mua cả một số giá trị tinh thần nếu như người ta “bán rẻ” nó, chẳng hạn như quyền lực, danh tiếng, sự trọng vọng của xã hội. Xã hội hiện đại là xã hội mà mọi người cần phải có tiền để giải quyết các nhu cầu đời sống, vì thế việc tạo ra tiền và sử dụng tiền gần như là vấn đề thiết yếu. Nhà cửa, trang phục, thực phẩm, phương tiện đi lại, phương tiện giải trí, thông tin truyền thông, mọi tiện nghi của đời sống… đều được trao đổi bằng tiền. Nếu không có tiền dường như chúng ta không có gì cả. Đồng tiền đã tạo nên áp lực rất lớn đối với con người và nó trở thành tâm điểm buộc con người phải xoay quanh nó. Người ta xem tiền bạc như nhu yếu của sự sinh tồn, vì thế nó cũng là nguyên nhân dẫn đến trộm cướp, chiếm đoạt, những hành vi bất chính, phi đạo đức, phi nhân bản…
Chính vì vậy mỗi cá nhân chúng ta cần phải có ý thức hơn nữa trong việc sử dụng đồng tiền có mục đích và kiếm tiền một cách chân chính, đó là những việc làm cần thiết, đem lại cho con người những giá trị to lớn trong cuộc sống và đồng tiền có ý nghĩa mang đến cho con người cuộc sống sung túc, đầy đủ và một cuộc đời có ý nghĩa hơn.
Đồng tiền có vai trò quan trọng trong cuộc sống hiện nay, tuy nhiên việc sử dụng đồng tiền có mục đích là quan trọng và đồng tiền là cơ sở để chúng ta rèn luyện về sức khỏe, tri thức và phát triển bản thân hơn.
|
Assignment
Nowadays, as society is increasingly developing, people increasingly follow social trends, chasing after material wealth and material wealth in today's society is also always valued.
Money is material wealth that helps people maintain life, it is something that people can use to buy many things. For example, facilities used for learning, medical treatment... This is considered something used for circulation and exchange in life. From ancient times until now, people have worked to create material wealth and specifically create money to maintain life, that is why the role of money in today's society is extremely important, it has meaning. great significance in helping people have a better, more prosperous and full life.
In addition, money also has great significance that governs many things in people's lives. If you know how to make money to create useful money, it is extremely useful and brings people pure values. spirit and a full and prosperous material life. Currency is also the issuing unit of Vietnam, it is used for circulation and value to evaluate the value of goods and services. Money is also a means of exchange, transaction, buying and selling, which is why money is extremely important, bringing great value to human life.
Creating money through your own efforts, through honest methods and means, is positive. Using money for good purposes benefits yourself, your family and society, building a strong and prosperous family and society, which is positive.
In a society where the value of money governs everything, other values of life are easily forgotten. But when money becomes useful because of convenience, money returns to exert a strong influence on human life. The more developed society is, the higher material life is, the more position money has. Almost everything in material life can be exchanged for money, money can even buy some spiritual values if people "sell" it cheaply, such as power, reputation, prosperity. society's respect. Modern society is a society where people need money to solve life's needs, so creating and using money is almost an essential issue. Housing, clothing, food, transportation, entertainment, media information, all amenities of life... are all exchanged with money. Without money it seems we have nothing. Money has created great pressure on people and it has become the focus forcing people to revolve around it. People view money as a necessity for survival, so it is also the cause of theft, appropriation, illegal, unethical, and inhumane acts...
That's why each of us as individuals need to be more aware of using money purposefully and making money honestly, which are necessary jobs that bring people great value. in life and money has meaning, bringing people a prosperous, full and more meaningful life.
Money plays an important role in today's life, but using money for a purpose is important and money is the basis for us to practice health, knowledge and develop ourselves better.
|
Bài làm
Trong xã hội ngày nay, đức tính trung thực là rất cần thiết cho mọi người, đức tính trung thực là một trong những đức tính đáng quý mà mọi người cần phải có, nhất là giới học sinh chúng ta, rất cần đức tính này để hoàn thiện chính mình, trở thành người công dân tốt.
Trong xã hội ngày nay,đức tính trung thực là rất cần thiết cho mọi người đức tính trung thực là một trong những đức tính đáng quý mà mọi người cần phải có, nhất là giới học sinh chúng ta, rất cần đức tính này để hoàn thiện chính mình, trở thành người công dân tốt. Đức tính trung thực là hết lòng với mọi người, là thật thà, là ngay thẳng. Người có đức tính trung thực là người luôn nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật, ngay thẳng, thật thà, là người luôn được mọi người tin tưởng. Trong cuộc sống ngày nay, đức tính trung thực được biểu hiện vô cùng đa dạng.
Riêng đối với người học sinh thì trung thực được thể hiện trong nhà trường, trong gia đình. Một học sinh có đức tính trung thực thì không bao giờ chép bài, hỏi bài bạn trong giờ kiểm tra, làm bài với đúng khả năng của mình. Khi bị điểm kém, hay lỡ làm điều gì không phải thì thẳng thắn nói ra, nhận lỗi với thầy cô, cha mẹ. Hay như đơn giản hơn là ở ngoài chợ, người bán trả lại thừa tiền cho ta thì với người trung thực ta luôn trả lại số tiền thừa ra đó. Ra ngoài đường, thấy người khác đánh rơi đồ thì luôn tìm cách trả lại. Còn trong kinh doanh thì trung thực lại được thể hiện ra ở chỗ người làm kinh doanh đem lại cho khách hàng của mình những sản phẩm có chất lượng, đúng giá, họ sẽ không sản xuất nhũng loại hàng kém chất lượng, kinh doanh những mặt hàng bất hợp pháp, làm nguy hại đến người tiêu dùng… không nâng giá lên một cách bất hợp pháp.
Nếu rèn luyện đức tính trung thực, chúng ta sẽ thành đạt trong cuộc sống, chúng ta sẽ có vốn tri thức để làm giàu một cách chân chính, và nêu chúng ta mắc sai lầm, ta sẽ dễ dàng sửa chữa được nó và hoàn thiện mình thành một công dân tốt, có ích cho xã hội, làm cho xã hội chúng ta trở nên trong sạch, văn minh và tốt đẹp, khiến đất nước ngày càng đi lên và phát triển đến tầm cao.
Đồng thời, bên cạnh những người biết hoàn thiện bản thân để trở thành người dân tốt vẫn có những người có biểu hiện thiếu trung thực và sai trái, chúng ta cần phải phê phán và lên án những biểu hiện như vậy. Biểu hiện rõ nhất là trong giới học sinh hiện nay, nạn học giả, bằng thật do quay cóp, chép bài của bạn, gian lận trong thi cử đã trở thành một tệ nạn phổ biến gây ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập, đến ý nghĩa của việc dạy và học, gây dư luận xôn xao trong xã hội. Một biểu hiện thứ hai tương đối rõ ràng là sự thiếu trung thực trong kinh doanh đời sống, đó là việc các báo cáo không trung thực, chất lượng sản phẩm kinh doanh ngày càng kém đi, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng, đặc biệt có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đe dọa tính mạng con người hiện nay như các sản phẩm, các mặt hàng được người dân tiêu dùng hàng ngày, điển hình là các loại sữa có chứa chất độc hại melamine gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng, hay ngay các loại nước mắm cũng có chứa chất độc tố, hoặc cả các loại rau quả, trái cây hiện nay như rau xanh hay quả tươi đều được người trồng trọt tiêm nhiễm các loại hóa chất vì lợi nhuận của bản thân… Sự thiếu trung thực ở một số cán bộ lãnh dạo các cơ quan đã rút ruột các công trình, tham ô, tham nhũng làm thiệt hại của nhà nước hàng trăm tỉ đồng trong suốt những năm gần đây đã trở thành một vấn đề nổi cộm. Không thể kể hết những hậu quả, ảnh hưởng từ nhỏ tới lớn của sự thiếu trung thực trong đời sống.
Nhũng hành vi trên đều đáng phê phán vì thiếu trung thực, không nghĩ đến sức khỏe của người dân mà chỉ nghĩ đến lợi nhuận của bản thân mình. Chỉ vài biểu hiện trên mà đã nói lên được tính thiếu trung thực đã trở thành căn bệnh phổ biến lây lan nhanh trong mọi người dân. Chính căn bệnh này đã khiến xã hội xuống cấp, đạo đức người dân dần bị hạ thấp, phá bỏ những nét đẹp truyền thống của dân tộc.
|
Assignment
In today's society, the virtue of honesty is very necessary for everyone, the virtue of honesty is one of the precious virtues that everyone needs to have, especially our students, we really need this virtue. to perfect yourself and become a good citizen.
In today's society, the virtue of honesty is very necessary for everyone. The virtue of honesty is one of the precious virtues that everyone needs to have, especially our students, we really need this virtue to succeed. perfect yourself, become a good citizen. The virtue of honesty is to be wholehearted with everyone, to be honest, to be upright. A person with the virtue of honesty is someone who always tells the truth, does not distort the truth, is upright, honest, and is always trusted by everyone. In today's life, the virtue of honesty is expressed in extremely diverse ways.
Particularly for students, honesty is shown in school and in the family. A student with honest qualities never copies notes, asks questions during tests, and does the test to the best of his or her ability. When you get a bad grade, or accidentally do something wrong, speak frankly and admit your mistakes to your teachers and parents. Or more simply, in the market, if the seller returns the excess money to us, then to honest people we always return the excess money. When out on the street, if you see someone dropping something, you always try to return it. In business, honesty is shown in the fact that business people give their customers quality products at the right price, they will not produce poor quality products, or trade in illegal goods, harming consumers... do not raise prices illegally.
If we practice the virtue of honesty, we will be successful in life, we will have the knowledge to get rich honestly, and if we make a mistake, we will easily correct it and complete it. Improve yourself to become a good citizen, useful to society, make our society clean, civilized and good, making the country grow and develop to greater heights.
At the same time, besides those who know how to improve themselves to become good people, there are still people who show signs of dishonesty and wrongdoing. We need to criticize and condemn such signs. The most obvious manifestation is that among students today, the problem of fake scholars, fake diplomas due to plagiarism, copying your classmates' papers, cheating in exams has become a common evil that negatively affects academic results, to the meaning of teaching and learning, causing a stir in public opinion in society. A second relatively obvious manifestation is the lack of honesty in business life, which is dishonest reports, the quality of business products is increasingly poor, negatively affecting consumers' health. , especially can cause serious consequences that threaten human life today, such as products and items consumed by people every day, typically milk containing the toxic substance melamine, which is harmful to human health. consumer health, or even fish sauces contain toxins, or even current vegetables and fruits such as green vegetables or fresh fruits are contaminated with chemicals by growers for profit. of myself... Dishonesty among some officials leading agencies who have gutted projects, embezzlement, and corruption that have cost the state hundreds of billions of dong in recent years have become a problem. outstanding problem. It is impossible to describe all the consequences and impacts from small to large of dishonesty in life.
The above actions are all worthy of criticism because of their lack of honesty, not thinking about people's health but only thinking about their own profits. Just a few of the above manifestations show that dishonesty has become a common disease that spreads rapidly among all people. It is this disease that has degraded society, gradually lowered people's morality, and destroyed the traditional beauty of the nation.
|
Bài làm
Công ơn của cha mẹ như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn. Họ là người sinh ra ta và nuôi ta khôn lớn. Công ơn ấy dày như mây trời, cao như đỉnh núi, ào ạt như nước suối đầu nguồn. Dẫu có biết bao nhiêu sự đền trả thì cũng là chưa đủ so với những hi sinh, những chở che mà cha mẹ dành cho mỗi đứa con của mình.
Cha mẹ luôn là người hậu thuẫn dõi theo từng bước đi của con. Khi chúng ta chỉ còn là những đứa bé bắt đầu tập đi cha mẹ chính là người nâng bước, dìu dắt ta trong từng bước chập chững ấy. Không những thế mỗi lần ta vấp ngã cha mẹ lại nâng ta dạy ôm vào ta vào lòng vỗ về an ủi.
Không những thế trách nhiệm của cha mẹ còn là giáo dục cho con cái mình. Những người con lớn lên đến tuổi đi học, ngoài những kiến thức nhà trường dạy dỗ cha mẹ giống như một người thầy giáo cũng giống như một người bạn, chia sẻ cùng con mình những thắc mắc trong cuộc sống. Phần lớn chúng ta học được nhiều đạo lí là ở gia đình chứ không phải nhà trường. Con cái có ngoan ngoãn, có trở thành người có ích hay không, cha mẹ chính là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển ấy.
Không chỉ nuôi dưỡng chúng ta, cho chúng ta ăn, chúng ta mặc, cha mẹ còn dạy dỗ chúng ta cách làm người, cách đối nhân xử thế, cách biết tự lập. Cha mẹ dạy chúng ta bằng những kinh nghiệm, những hiểu biết về đời sống, về đạo làm người của chính bản thân. Sau này, dù chúng ta lớn lên, đi học có thầy cô dạy dỗ, nhưng cha mẹ vẫn là người thầy đầu tiên, người thầy gần gũi nhất của chúng ta.
Từ xưa đến nay, quy luật của tự nhiên cũng như quy luật của sự sống đã không hề thay đổi. Đạo làm con thì cần phải báo hiếu, đền đáp công ơn dành cho cha mẹ. Khi còn nhỏ thì cha mẹ dành tất cả những tình yêu của mình để dành cho con,nuôi con trưởng thành. Đến khi trưởng thành chúng ta phải đền đáp lại công ơn đó,tuy không được nhiều như những gì cha mẹ dành cho ta,nhưng đến khi cha mẹ về già ta đã trưởng thành thì cần phải chăm sóc và yêu thương cha mẹ nhiều hơn nữa. Gia đình là nơi luôn sẵn sàng đón ta trở về dù đi bất cứ nơi đâu thì gia đình vẫn luôn chào đón ta. Gia đình nơi chứa đựng những tình cảm mà chẳng nơi nào tìm được. Rồi sau này khi trưởng thành,khi ta đã khôn lớn quay trở về bên gia đình nhìn cha mẹ ta sẽ có cảm giác hụt hẫng vô cùng khi nhìn thấy những nếp nhăn đã hiện trên khóe mắt,tóc mẹ cha đã điểm trắng… lúc đấy nghĩ sao thời gian trôi nhanh quá muốn lấy lại thanh xuân mà chẳng thể được:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo”
Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn và xúc tích,tác giả đã khái quát một cách rõ nét về cả công ơn của cha mẹ và nhắc nhở chúng ta với những bậc sinh thành của mình. Dù đi đâu đi chăng nữa thì chúng ta không thể quên công ơn đấy,dù còn nhỏ hay đã trưởng thành thì tình yêu và công ơn dưỡng dục với cha mẹ càng không thể thay đổi
Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh núi Thái Sơn cao vời vợi và nước trong nguồn vô tận kia được đem so sánh với công cha, nghĩa mẹ. So sánh công ơn của cha đối với mỗi chúng ta dường như còn lớn hơn cả núi Thái Sơn, núi Thái Sơn to lớn bao nhiêu thì công cha cũng lớn bấy nhiêu. Còn Nghĩa mẹ được so sánh với nước trong nguồn chả ra, nước chảy từ nguồn nhưng liệu ai biết được nguồn nước lớn bao nhiêu, dồi dào bao nhiêu? Cũng như liệu ai biết được tình mẹ, nghĩa mẹ vĩ đại, dạt dào bao nhiêu? Lời răn dạy ấy đúc kết từ bao đời nay và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đạo hiếu làm con đối với cha mẹ là một đạo lý đúng đắn muôn đời. Chín tháng cưu mang mẹ nhiều gian khổ, rồi mang nặng đẻ đau, chắt chiu từng giọt sữa ngọt ngào nuôi con khôn lớn. Ngày qua ngày cha phải làm lụng vất vả để cung cấp cho ta đầy đủ vật chất
|
Assignment
Parents' gratitude is like the Thai Son mountain, like water in the source. They are the ones who gave birth to us and raised us. That gratitude is as thick as the clouds in the sky, as high as the top of the mountain, and as rushing as the water from the source of the spring. No matter how much compensation there is, it is not enough compared to the sacrifices and protection that parents give to each of their children.
Parents are always the ones supporting their children every step of the way. When we were just children starting to learn to walk, our parents were the ones who supported and guided us in each of those baby steps. Not only that, every time we stumble, our parents lift us up, teach us, hug us, comfort us.
Not only that, it is also the responsibility of parents to educate their children. When children grow up to school age, in addition to the knowledge the school teaches, parents act as teachers and friends, sharing with their children questions in life. Most of us learn many morals at home, not at school. Whether children are obedient and become useful people or not, parents are an important factor in that development.
Not only do they nurture us, feed us, and clothe us, parents also teach us how to be human, how to treat others, and how to be independent. Parents teach us through their experiences and understanding of life and their own morality as human beings. Later, even though we grow up and go to school with teachers, our parents are still our first and closest teachers.
From ancient times until now, the laws of nature as well as the laws of life have not changed. As a child, you need to show filial piety and repay the kindness of your parents. When children are young, parents devote all their love to their children and raise them to adulthood. When we become adults, we have to repay that favor, although not as much as what our parents gave us, but when our parents are old, we need to care for and love them more. again. Family is a place that is always ready to welcome us back, no matter where we go, family always welcomes us. Family is a place that contains feelings that cannot be found anywhere else. Then when we grow up, when we return to our family and look at our parents, we will feel extremely disappointed when we see the wrinkles appearing at the corners of our eyes, our parents' hair has turned white... I wonder why time passes so quickly and I want to regain my youth but I can't:
"The father as a mountain
Motherhood is like water flowing from a source
One Heart Worship Mother Glass Father
Fulfilling filial piety is the way."
With just short and concise verses, the author clearly summarizes both the gratitude of our parents and reminds us of our parents. No matter where we go, we cannot forget that gratitude. Whether we are children or adults, the love and gratitude we have for raising our parents cannot change.
It is no coincidence that the image of the towering Thai Son mountain and the water in the endless source is compared to the merits of the father and the kindness of the mother. In comparison, our father's gratitude to each of us seems to be greater than the Thai Son mountain. The greater the Thai Son mountain, the greater the father's merit. Mother Nghia is compared to water flowing from the source, but who knows how big and abundant the water source is? Also, who knows how great and abundant a mother's love and affection is? That teaching has been summarized for many generations and has been passed down through many generations. Filial piety towards parents is an eternally correct morality. The nine months of carrying a mother were very arduous, then she carried a heavy and painful childbirth, squeezing every drop of sweet milk to raise her child. Day after day, my father had to work hard to provide me with enough material things
|
Nội dung bài viết1
Tả một người thợ thủ công mà em biết – Tả bác thợ mộc
2
Tả một người thợ thủ công mà em biết – Tả anh thợ mộc
3
Tả một người thợ thủ công mà em biết – Tả chị thêu đan
Tả một người thợ thủ công mà em biết – Tả bác thợ mộc
Bác Thịnh là bố của Vượng, bạn học thân thiết của em. Bác Thịnh ngoài năm mươi tuổi, làm nghề thợ mộc.
Bác là người thợ thủ công nổi tiếng ở vùng quê em. Người bác cao to, ngực nở. Cập mắt mở to, tinh anh, bác ít nói, hay cười, tính tình điềm đạm, cởi mở. Vợ chồng bác có mấy con đều đang đi học. Chị Yến học lớp 9. Anh Tùng học lớp 6.
Bác đứng đầu một nhóm thợ 8 người. Quanh năm bác và các chú đi dựng nhà mới, sửa chữa đình chùa. Công việc không bao giờ ngơi tay. Trùng tu đền Giếng, chùa Diệc, dựng nhà thờ họ Lê… đều do bác Thịnh cùng nhóm thợ đem công sức, tài năng ra thi thố. Nét chạm khắc của bác Thịnh ở đền Giếng được nhiều người tấm tắc, ngợi khen.
Bố em đã bàn với chú Thắng, thím Hoà là sang năm sẽ mời bác Thịnh chữa nhà thờ ông bà. Con voi bằng gỗ mun để trên bàn học của em là quà tặng của bạn Vượng nhân ngày sinh nhật em do bác Thịnh làm.
Tả một người thợ thủ công mà em biết – Tả anh thợ mộc
Cậu Tám của em là một thợ mộc giỏi, lành nghề. Em đã có lần được xem cậu bào chuốt gỗ và đóng tủ.
Cậu Tám vừa đúng bốn mươi tuổi, cậu đã có hơn mười lăm năm làm nghề mộc. Cậu em người dong dỏng cao, nước da ngăm ngăm rám nắng. Mới bốn mươi tuổi nhưng tóc cậu đã có sợi bạc. Khuôn mặt cậu đầy đặn phúc hậu. Dưới đôi lông mày to bản như con tằm nằm, đôi mắt cậu to, lông mi dài và cong. Sống mũi cậu cao, hơi bè bè,đường nhân trung rộng làm khuôn mặt cậu có nét hiền lành, dễ mến. Bàn tay cậu Tám to, ngón tay thon dài, lúc nào cũng cắt ngắn sạch sẽ. Cậu có dáng đi hơi khập khiễng, kết quả của một lần bị ngã nặng. Cái lần ngã đó làm sức khoẻ cậu giảm sút. Dù vậy, tay nghề của cậu ngày một nâng cao.
Dưới bàn tay cậu Tám, tủ, bàn, ghế các kiểu ra đời mời gọi khách hàng. Bao giờ cũng vậy, để đóng một cái tủ, cậu đo rất cẩn thận và bắt đầu cắt gỗ. Các thanh gỗ mộc được bào chuốt láng mướt và được đục mộng ghép rất sắc sảo. Cậu Tám bào gỗ bằng hai cách: bào thô bằng máy bào và bào tinh bằng bào tay, dụng cụ bào cổ điển của thợ mộc. Trên ghế dài có nẹp chân, cậu Tám bào đi bào lại thanh gỗ. Cậu ngắm nghía, ướm thử. Mắt cậu nheo lại, tay nâng cao thanh gỗ ngang tầm mắt rồi lắp thử một cách nhẹ nhàng. Thanh gỗ nào cần bào lại, cậu đặt lên ghế dài, rồi khom người đẩy cái bào đi tới. Từng phôi gỗ đùn lên sau cái bào, thanh gỗ láng mặt, phổ vân gỗ màu hồng tuyệt đẹp. Xem cậu lắp tủ mới thật thích. Các thanh gỗ của sườn tủ được lắp xong, cậu đóng ván mặt hậu, ván ngăn đâu vào đấy là cậu bắt tay bào chỉ viền của tủ. Nẹp chỉ viền thanh mảnh rất khó bào được cậu chuốt kĩ lưỡng, chính xác từng ly một. Trong một ngày cái tủ được lắp xong. Cái tủ duyên dáng đứng chờ thợ đánh véc-ni. Chú thợ phụ việc pha véc-ni rồi bắt đầu giai đoạn đánh bóng. Để đóng một cái tủ như thế, cậu Tám phải mất năm, bảy ngày mới làm xong. Sản phẩm của cậu làm theo đơn đặt hàng nên xuất xưởng là đến tay ngay khách hàng. Tủ của cậu làm vừa xinh, vừa chắc bền, không chỉ làm vui lòng khách mà còn đem lại uy tín cho xưởng mộc của cậu.
Em rất thích xem cậu Tám làm việc. Ngoài sự khéo léo của người thợ, cậu Tám còn đặt vào sản phẩm mộc sự say mê nghề nghiệp và kĩ thuật tinh xảo của mình. Nghề mộc không chỉ đòi hỏi tài hoa của người thợ mà còn bắt buộc người thợ phải có tính chịu khó, nhẫn nại mới có thể thành công. Cậu Tám của em là một người như thế.
Tả một người thợ thủ công mà em biết – Tả chị thêu đan
Chị Hoa của em thường được bà con trong xóm khen ngợi vừa dẹp người, đẹp nết lại đảm đang. Chị lại giỏi đan, may, thêu thùa. Chính vì vậy mà sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, chị sớm trở thành xã viên của hợp tác xã thêu đan.
Năm nay chị tròn hai mươi tuổi. Vốn từ bé đến lớn chị không phải làm việc nặng giữa nắng, mưa, nay lại suốt ngày ngồi trong râm mát để đan nên nước da chị trắng muốt. Mái tóc cắt ngắn, màu nâu, ôm lấy khuôn mặt thon thả, đầy đặn. Đôi mắt to sáng long lanh dưới đôi lông mày cong cong với sông mũi cao, trông chị vừa thông minh nhanh nhẹn, vừa thanh tú nhẹ nhàng. Chị Hoa rất chăm chỉ với nghề của mình. Ngoài giờ đan tại hợp tác xã, chị còn mang hàng về nhà. Vào buổi chiều, mỗi tối dưới ngọn đèn nêon sáng trưng, dáng chị ngồi lặng lẽ, chiếc đầu nghiêng nghiêng cúi xuống cặm cụi đan. Đôi bàn tay thon nhỏ lướt qua lướt lại nhịp nhàng thoăn thoắt tựa thoi đưa. Thỉnh thoảng chị lại dừng tay để ngắm đường đan của mình. Có lúc chị gật gù ra vẻ hài lòng, rồi cũng có lúc chị nhíu mày bởi một mũi đan bị lỗi. Cứ đứng mà ngắm nhìn chị, tự nhiên thấy chị đẹp và dịu dàng làm sao.
Chị bận luôn tay với hai que đan như vậy nhưng hễ thấy chúng em tới, chị niềm nở chuyện trò, nhiều khi bọn nhỏ tò mò nghịch cuộn len của chị, chị cũng không la rầy mắng mỏ gì. Đối với cô bác xóm giềng, hễ ai có việc gì nhờ mượn, chị sẵn sàng giúp đỡ không quản gì. Vì vậy, chẳng những chúng em mến chị mà cô bác trong vùng đều mến chị.
Còn ở phân xưởng, chị luôn đạt chiến sĩ thi đua vì sản phẩm của chị năm nào cũng cao và đẹp. Hình ảnh chị Hoa ngồi làm việc đã đi vào trong ước mơ của em sau này.
|
Article content 1
Describe a craftsman you know - Describe a carpenter
2
Describe a craftsman you know - Describe a carpenter
3
Describe a craftsman you know - Describe a woman who embroiders and knits
Describe a craftsman you know - Describe a carpenter
Uncle Thinh is Vuong's father, his close classmate. Uncle Thinh is over fifty years old and works as a carpenter.
Uncle is a famous craftsman in my hometown. The uncle is tall and big, with a broad chest. His eyes were wide open, he was sharp, he spoke little, often smiled, and had a calm and open personality. He and his wife have several children who are all in school. Ms. Yen is in grade 9. Mr. Tung is in grade 6.
Uncle headed a group of 8 workers. All year round, he and his uncles go to build new houses and repair temples and pagodas. Work never stops. Restoring Gieng temple, Diec pagoda, building Le family church... were all done by Mr. Thinh and his group of workers who put their efforts and talents to the test. Uncle Thinh's carvings at Gieng Temple were admired and praised by many people.
My father discussed with Uncle Thang and Aunt Hoa that next year he will invite Uncle Thinh to repair the grandparents' church. The ebony elephant on my desk was a gift from my friend Vuong on my birthday, made by Mr. Thinh.
Describe a craftsman you know - Describe a carpenter
My uncle Tam is a good and skilled carpenter. I once watched him plan wood and build cabinets.
Mr. Tam is just forty years old, he has been working in carpentry for more than fifteen years. The younger brother is tall and slim, with dark, tanned skin. Only forty years old, but his hair already has gray strands. His face was full of kindness. Under his big eyebrows like a silkworm, his eyes are big, his eyelashes are long and curved. The bridge of his nose is high, slightly flat, and his philtrum is wide, making his face look gentle and endearing. Mr. Tam's hands are big, his fingers are long, and they are always cut short and clean. He has a slight limp, the result of a serious fall. That fall caused his health to decline. However, his skills improved day by day.
Under Mr. Tam's hands, cabinets, tables, and chairs of all kinds were born, inviting customers. As always, to build a cabinet, he measured very carefully and started cutting the wood. The wooden bars are smooth and smoothly chiseled. Mr. Tam plans wood in two ways: rough planing with a planer and fine planing with a hand planer, a classic carpenter's planing tool. On the bench there was a leg brace, Mr. Tam planed and re-planed the wooden stick. He looked at it and tried it. His eyes narrowed, his hand raised the wooden bar to eye level and tried to install it gently. Whichever piece of wood needed to be planed, he placed it on the bench, then bent over and pushed the planer forward. Each piece of wood is extruded after the planer, the wooden bar has a smooth surface, and a beautiful pink wood grain. Watching you install new cabinets is really fun. The wooden slats of the cabinet's ribs were installed, he nailed the back panels and partitions in place, then he started planing the edges of the cabinet. The thin border thread is very difficult to plan, so he carefully and precisely smooths it, inch by inch. In one day the cabinet was installed. The graceful cabinet stood waiting for the varnisher. The assistant worker mixes the varnish and then begins the polishing phase. To build a cabinet like that, it took Mr. Tam five or seven days to complete. His products are made to order, so when they leave the factory, they immediately reach customers. His cabinets are both beautiful and durable, not only pleasing customers but also bringing prestige to his carpentry workshop.
I really like watching Mr. Tam work. In addition to the craftsmanship of the craftsman, Mr. Tam also puts into wooden products his passion for his profession and sophisticated techniques. Carpentry not only requires the worker's talent, but also requires the worker to be hard-working and patient to be successful. My uncle Tam is such a person.
Describe a craftsman you know - Describe a woman who embroiders and knits
My sister Hoa is often praised by people in the neighborhood for being kind, beautiful, and capable. She is good at knitting, sewing, and embroidery. That's why after graduating from high school, she soon became a member of an embroidery cooperative.
This year she turns twenty years old. Since she was little, she didn't have to do heavy work in the sun or rain, but now she sits in the shade all day long to knit, so her skin is white. Short, brown hair, framing a slim, plump face. With big, bright eyes shining under curved eyebrows and a high nose, she looks both smart, agile, and gentle. Ms. Hoa is very diligent with her job. Besides knitting at the cooperative, she also brings goods home. In the afternoon, every night under bright neon lights, she sits quietly, her head tilted down, diligently knitting. A pair of small hands glided back and forth rhythmically like a shuttle. Every now and then she stops to look at her knitting. Sometimes she nodded with satisfaction, then sometimes she frowned because of a faulty knitting stitch. Just stand and look at her and suddenly see how beautiful and gentle she is.
She was always busy with her two knitting needles, but whenever she saw us coming, she warmly chatted. Many times the children were curious to play with her yarn, and she didn't scold or scold us. As for the neighboring aunts and uncles, if anyone has anything to ask for, she is ready to help without any concern. Therefore, not only do we love her, but the aunts and uncles in the area all love her.
In the workshop, she always wins competitions because her products are tall and beautiful every year. The image of Ms. Hoa sitting at work has entered my future dreams.
|
Nội dung bài viết1
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 1
2
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
3
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
4
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 4
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 1
Em sinh ra và lớn lên ở thành phố nhưng quê hương của em ở miền quê Nam Định. Hàng năm em vẫn được về quê vào dịp tết. Em thích nhất là được đi chợ phiên ngày tết ở quê.
Phiên chợ tết quê em đông vui tấp nập lắm. Ngay từ sáng sớm đã rất nhiều người đến họp chợ. Người bán người mua đông đúc nên em thường nắm tay bà thật chặt mỗi lần đi chợ tết. Vừa vào đến cổng chợ là một dãy các cô các chị đang bán rất nhiều loài hoa đẹp. Các thùng hoa rực rỡ màu sắc có hoa hồng, hoa cúc, hoa lay ơn…Đi tiếp vào chợ nơi tập trung đông người nhất là những hàng bán bánh kẹo, mứt rượu ngày tết. Người bán người mua hỏi giá và mặc cả nhộn nhịp trong không khí khẩn trương. Bên cạnh là những bức tranh ảnh cùng các đồ mạ màu vàng sặc sỡ để trang hoàng nhà cửa. Những đồng tiền vàng to, những bức tượng bằng gốm sứ đẹp mắt khiến em vô cùng thích thú.Bà bảo đó chính là tượng ba ông phúc – lộc – thọ. Em đi tiếp trong chợ như lạc vào một rừng cây cảnh lung linh. Đó là nơi bày bán những cây quất, cây đào và cây mai. Màu cam của những quả quất nặng trĩu trên cây xen lẫn mẫu hồng của cánh đào, màu vàng của những cành mai tạo nên một bức tranh thật sinh động. Trong phút chốc, em bỗng muốn mang hết chỗ đào, mai về nhà để trưng bày vì quá đẹp. Bà dẫn em đi thăm tiếp trong chợ và mua một ít lá dong về gói bánh chưng. Chỗ này không chỉ bày bán là dong mà còn bán rất nhiều bưởi, chuối và những hoa quả khác để bày mâm ngũ quả. Thỉnh thoảng hai bà cháu lại gặp người quen. Họ tay bắt mặt mừng, vui cười hớn hở. Đi dọc chợ tiếng rao hàng, tiếng nói cười xen lẫn tiếng mọi người gọi nhau í ới thật nhộn nhịp. Mua bán các thứ xong xuôi bà thường mua cho em một quả bóng bay thật đẹp. Bóng bay được bán ngoài chợ, nơi có rất nhiều trẻ em đứng xung quanh háo hức đợi bố mẹ mua cho quả bóng bay nhiều màu sắc.
Em rất thích thú với khung cảnh chợ phiên ngày tết ở quê em. Em mong rằng sẽ có thật nhiều dịp được về quê và đi chợ sắm tết như vậy. Đó sẽ là những kỷ niệm tuổi thơ đáng nhớ của em.
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
Phiên chợ Tết thật đông. Tiếng lợn con en éc, tiếng gà gáy oát…oát, tiếng vịt cạc…cạc, tiếng người nói bi bô trong chợ. Các gian hàng nhanh chóng được bày diện. Nào áo, quần, giày dép nhiều loại, bánh mứt đủ màu, rau quả tươi roi rói, kẻ muôn người bán lon xon, chật ních.
Trước cổng chợ, những bức tranh lợn, gà heo, chuột ếch,… được giải treo tiếp nối nhau trông thật đẹp mắt. Rồi bức tranh của làng quê cũng hiện lên từ xa: Biển lúa vàng óng ả, chú bé ngồi ngất nghểu trên lưng trâu ung dung thổi sáo, đàn cò trắng nhởn nhơ trên bầu trời xanh thẳm, chim én lượn vòng trên xóm chợ… Một bức tranh đầy quyến rũ, ấm áp lạ thường.
Sương tan, nắng ấm rải nhẹ trên hoa lá, chợ đông nghẹt, đủ thứ màu sắc trà trộn, đủ thứ âm thanh chen lẫn. Không ai nói to cũng không ai nói nhiều. Nhưng lường phát âm của vô số người đã làm phiên chợ âm ầm giữa miền quê yên tĩnh và vô cùng vui tươi, trù phú. Sắc xuân rón rén đến gần, xuân phảng phất trong từng nụ hoa đang chúm chím.
Mặt trời đã ngả về phía tây, chợ vẫn tưng bừng hàng hóa vẫn tấp nập các quầy. Từ các nơi, các loài hoa nườm nượp đưa về. Nào là hoa mai, hoa đào, hoa cẩm chướng, hồng nhung… Chúng rạng rỡ như cô thiếu nữ, chúng lay động dưới ánh xuân như tuổi đôi mươi. Đây đó, một vài cụ đồ nho hí hoái viết thơ xuân, viết những câu đối đỏ trên bức sáo, mọi người chen nhau đọc. Có người mãi ngắm tranh, ngắm hoa, đọc thơ mà quên cả thời gian vận hành, buổi chiều hửng ấm đã nhạt nhòa ngã xuống.
Cho tới lúc trời tối, chuông chùa văng vẳng ngân vang, mọi người tạm ngưng phiên chợ. Họ lũ lượt trở ra về. Khung cảnh tưng bừng nơi chợ Tết bắt đầu mờ dần rồi mất hẳn, không còn trông thấy một cái gì nữa bởi sương đêm. Phảng phất trong không khí có mùi hương quen thuộc, mùi lúa mới, mùi trái ngọt, hoa thơm… Tất cả đều đặc biệt, đáng yêu, đáng quí bởi nó là mùi vị của một làng quê Việt Nam trù phú, thấm đượm nghĩa tình, ấm nồng hương đồng cỏ nội.
Phiên chợ Tết đã đem đến cho con người bao điều thú vị. Ai cũng hối hả, khẩn trương với công việc của mình. Họ rạo rực đón xuân trong niền vui lao động. Tôi cũng hồi hộp đón xuân và lo nghĩ đến nhiệm vụ của chính mình.
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
Chỉ còn ba ngày nữa là hết một năm, bánh xe thời gian sẽ chấm vạch ranh giới cuối cùng để bước sang năm mới. Những ngày này. quê hương em sôi động hẳn lên. Ai cũng muôn ra chợ để mua sắm. chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền. Em cũng được đi chợ Tết cùng mẹ.
Phiên chợ Tết đông vui, kẻ mua người bán tấp nập, quần áo đủ màu sặc sỡ như một vườn hoa di động. Khu chợ này em đã đến nhiều lần nhưng lần này trông thật sầm uất. Diện tích khu chợ như rộng hơn bởi những sạp hàng mới dựng lên ở đầu cổng. Nơi ấy, hàng loạt quầy bán trái cây tiếp nối nhau. Trái cây đủ loại, nhiều nhất là dưa hấu, xoài cát và cam sành. Những quả dưa to như quả bóng, ước chừng bảy, tám kí được xếp từng hàng, từng lớp. Dưa tươi xanh, bóng mượt ai cũng thích. Không chỉ có dưa, xoài, cam, bưởi cũng thật tươi, chín thật mọng.
Những quả xoài cát chín vàng, tỏa một mùi thơm ngọt lịm… Kế tiếp hàng trái cây là gian hàng bán hoa vải với các loại hoa mới lạ, màu sắc sặc sỡ. Cách đó không xa là khu bán hoa tươi. Nào cúc, hồng, tulip đang tỏa ngát hương thơm và khoe sắc thắm. Hoa đồng tiền, lay ơn đang hé nở, xòe những cánh nhỏ mịn màng như nhung, như lựa. Đi sâu vào trong chợ là những quầy hàng bánh kẹo, mứt Tết trông hấp dẫn. Thứ gì cũng ngon, loại nào cũng đẹp.
Các chị bán hàng thoăn thoắt gói, xếp, cân, đong, sôi nổi chào mời. Cạnh quầy bánh kẹo là quầy hàng khô, những thúng nếp thơm lựng, những thúng đậu đầy ắp. Tất cả đều chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền sắp đến. Em cứ theo chân mẹ, tha hồ mà ngắm nhìn. Mẹ cùng em đến hàng thực phẩm. Thật là thích với các loại cá tươi roi rói. Nào cá thu, cá ngừ, cá nục nằm la liệt trên quầy. Đi hết hàng cá là đến hàng rau. Đủ loại rau xanh, loại nào cũng tươi ngon, bóng bẩy. Phía dưới hàng rau là hàng gà vịt. Những chú gà trông mào đỏ chót như cục tiết, lông sặc sỡ, chân vàng óng trông thật đẹp mã. Ai cũng trầm trồ. Tiếng gà oác, tiếng vịt kêu cùng với tiếng hỏi đáp, chào, mời của con người đã làm cho khu chợ càng thêm náo nhiệt. Nhưng đông vui hơn cả là quầy hàng quần, áo, mũ, nón, và giày dép.
Người mua thật đông, những gian hàng đầy ắp, đủ màu sắc, đủ chất liệu. Người mua, người bán lon xon. Đi hết hàng quần áo là qua hàng tranh lụa. Những bức tranh dân gian thật đẹp, thật ý nghĩa. Nào là tranh chú ếch xanh ngồi trên lá khoai nước trông ngộ nghĩnh, nào là tranh chú bé ngồi trên lưng trâu ung dung thổi sáo, nào là tranh lợn ráy, tranh đàn gà. Bức tranh nào cũng đẹp, cũng có duyên.
Những bức tranh ấy đều thể hiện phong cảnh của làng quê thanh bình, trù phú. Em cứ mải ngắm tranh, ngắm cảnh chợ Tết mà quên cả mẹ đằng kia đang đứng đợi.
Chợ vẫn cứ đông vui, nhộn nhịp không ngừng. Cảnh vật như tươi đẹp hơn, mới mẻ hơn. Tất cả như đang trút bỏ những gì cũ kĩ trong năm để đón lấy sức sống đang rạo rực của một mùa xuân mới.
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 4
Mùa xuân sắp đến rồi! Cả phố em tấp nập trong khung cảnh ngày tết. Khắp phố phường, người người lũ lượt kéo nhau đi sắm sửa, chuẩn bị đón chào năm mới.
Trên đường phố, các quầy hàng buôn bán tấp nập. Ai ai cùng mặc những bộ quần áo đủ màu rực rỡ, trông giống như cả một vườn hoa khổng lồ đang di chuyển. Hôm nay là ngày 28 Tết, em theo mẹ đi chợ. Nhìn hai bên đường, không khí đón xuân đã tưng bừng nhộn nhịp. Ánh nắng vàng buổi sáng trải xuống đám cỏ non dính đầy sương mai bên vệ đường làm cho nó long lanh như những hạt kim cương, ở các hiệu may, mọi người ra vào tấp nập. Tiếng cười nói ồn ào làm cho không khí nhộn nhịp càng tăng thêm. Tại một điểm bán hoa, người ta xúm đông lại xem rồi trầm trồ khen không ngớt. Những bông hồng nhung đang nở hoa như muốn phô bày sắc đẹp. Các loài cây khác như cúc, lay ơn, hướng dương, thược dược… chen nhau khoe nụ, khoe hoa. Cây đào với những bông hoa phô màu hồng tí xíu như đang chúm chím cười. Tất cả, tất cả như muốn phô sắc với mọi người về vẻ đẹp đặc biệt của chúng. Những quầy hàng bán đồ tết đông cứng người, vẻ mặt ai cũng vui tươi, hào hứng. Trên tủ kính, các thứ mứt, bánh, kẹo, hạt dưa… được trưng bày trong các lọ thủy tinh đẹp mắt. Những chú gà, vịt bị cột chân xách ngược, giương đôi mắt nhỏ như hạt cườm ngơ ngác nhìn trời, nhìn đất rồi kêu đồng loạt quang quác đòi trả tự do.
Mùa xuân đã về trên quê hương em, mùa xuân làm cho cây cối, mọi vật đều cựa mình vươn dậy, vui mừng đón xuân sang.
|
Nội dung bài viết1
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 1
2
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
3
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
4
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 4
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 1
Em sinh ra và lớn lên ở thành phố nhưng quê hương của em ở miền quê Nam Định. Hàng năm em vẫn được về quê vào dịp tết. Em thích nhất là được đi chợ phiên ngày tết ở quê.
Phiên chợ tết quê em đông vui tấp nập lắm. Ngay từ sáng sớm đã rất nhiều người đến họp chợ. Người bán người mua đông đúc nên em thường nắm tay bà thật chặt mỗi lần đi chợ tết. Vừa vào đến cổng chợ là một dãy các cô các chị đang bán rất nhiều loài hoa đẹp. Các thùng hoa rực rỡ màu sắc có hoa hồng, hoa cúc, hoa lay ơn…Đi tiếp vào chợ nơi tập trung đông người nhất là những hàng bán bánh kẹo, mứt rượu ngày tết. Người bán người mua hỏi giá và mặc cả nhộn nhịp trong không khí khẩn trương. Bên cạnh là những bức tranh ảnh cùng các đồ mạ màu vàng sặc sỡ để trang hoàng nhà cửa. Những đồng tiền vàng to, những bức tượng bằng gốm sứ đẹp mắt khiến em vô cùng thích thú.Bà bảo đó chính là tượng ba ông phúc – lộc – thọ. Em đi tiếp trong chợ như lạc vào một rừng cây cảnh lung linh. Đó là nơi bày bán những cây quất, cây đào và cây mai. Màu cam của những quả quất nặng trĩu trên cây xen lẫn mẫu hồng của cánh đào, màu vàng của những cành mai tạo nên một bức tranh thật sinh động. Trong phút chốc, em bỗng muốn mang hết chỗ đào, mai về nhà để trưng bày vì quá đẹp. Bà dẫn em đi thăm tiếp trong chợ và mua một ít lá dong về gói bánh chưng. Chỗ này không chỉ bày bán là dong mà còn bán rất nhiều bưởi, chuối và những hoa quả khác để bày mâm ngũ quả. Thỉnh thoảng hai bà cháu lại gặp người quen. Họ tay bắt mặt mừng, vui cười hớn hở. Đi dọc chợ tiếng rao hàng, tiếng nói cười xen lẫn tiếng mọi người gọi nhau í ới thật nhộn nhịp. Mua bán các thứ xong xuôi bà thường mua cho em một quả bóng bay thật đẹp. Bóng bay được bán ngoài chợ, nơi có rất nhiều trẻ em đứng xung quanh háo hức đợi bố mẹ mua cho quả bóng bay nhiều màu sắc.
Em rất thích thú với khung cảnh chợ phiên ngày tết ở quê em. Em mong rằng sẽ có thật nhiều dịp được về quê và đi chợ sắm tết như vậy. Đó sẽ là những kỷ niệm tuổi thơ đáng nhớ của em.
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
Phiên chợ Tết thật đông. Tiếng lợn con en éc, tiếng gà gáy oát…oát, tiếng vịt cạc…cạc, tiếng người nói bi bô trong chợ. Các gian hàng nhanh chóng được bày diện. Nào áo, quần, giày dép nhiều loại, bánh mứt đủ màu, rau quả tươi roi rói, kẻ muôn người bán lon xon, chật ních.
Trước cổng chợ, những bức tranh lợn, gà heo, chuột ếch,… được giải treo tiếp nối nhau trông thật đẹp mắt. Rồi bức tranh của làng quê cũng hiện lên từ xa: Biển lúa vàng óng ả, chú bé ngồi ngất nghểu trên lưng trâu ung dung thổi sáo, đàn cò trắng nhởn nhơ trên bầu trời xanh thẳm, chim én lượn vòng trên xóm chợ… Một bức tranh đầy quyến rũ, ấm áp lạ thường.
Sương tan, nắng ấm rải nhẹ trên hoa lá, chợ đông nghẹt, đủ thứ màu sắc trà trộn, đủ thứ âm thanh chen lẫn. Không ai nói to cũng không ai nói nhiều. Nhưng lường phát âm của vô số người đã làm phiên chợ âm ầm giữa miền quê yên tĩnh và vô cùng vui tươi, trù phú. Sắc xuân rón rén đến gần, xuân phảng phất trong từng nụ hoa đang chúm chím.
Mặt trời đã ngả về phía tây, chợ vẫn tưng bừng hàng hóa vẫn tấp nập các quầy. Từ các nơi, các loài hoa nườm nượp đưa về. Nào là hoa mai, hoa đào, hoa cẩm chướng, hồng nhung… Chúng rạng rỡ như cô thiếu nữ, chúng lay động dưới ánh xuân như tuổi đôi mươi. Đây đó, một vài cụ đồ nho hí hoái viết thơ xuân, viết những câu đối đỏ trên bức sáo, mọi người chen nhau đọc. Có người mãi ngắm tranh, ngắm hoa, đọc thơ mà quên cả thời gian vận hành, buổi chiều hửng ấm đã nhạt nhòa ngã xuống.
Cho tới lúc trời tối, chuông chùa văng vẳng ngân vang, mọi người tạm ngưng phiên chợ. Họ lũ lượt trở ra về. Khung cảnh tưng bừng nơi chợ Tết bắt đầu mờ dần rồi mất hẳn, không còn trông thấy một cái gì nữa bởi sương đêm. Phảng phất trong không khí có mùi hương quen thuộc, mùi lúa mới, mùi trái ngọt, hoa thơm… Tất cả đều đặc biệt, đáng yêu, đáng quí bởi nó là mùi vị của một làng quê Việt Nam trù phú, thấm đượm nghĩa tình, ấm nồng hương đồng cỏ nội.
Phiên chợ Tết đã đem đến cho con người bao điều thú vị. Ai cũng hối hả, khẩn trương với công việc của mình. Họ rạo rực đón xuân trong niền vui lao động. Tôi cũng hồi hộp đón xuân và lo nghĩ đến nhiệm vụ của chính mình.
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 2
Chỉ còn ba ngày nữa là hết một năm, bánh xe thời gian sẽ chấm vạch ranh giới cuối cùng để bước sang năm mới. Những ngày này. quê hương em sôi động hẳn lên. Ai cũng muôn ra chợ để mua sắm. chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền. Em cũng được đi chợ Tết cùng mẹ.
Phiên chợ Tết đông vui, kẻ mua người bán tấp nập, quần áo đủ màu sặc sỡ như một vườn hoa di động. Khu chợ này em đã đến nhiều lần nhưng lần này trông thật sầm uất. Diện tích khu chợ như rộng hơn bởi những sạp hàng mới dựng lên ở đầu cổng. Nơi ấy, hàng loạt quầy bán trái cây tiếp nối nhau. Trái cây đủ loại, nhiều nhất là dưa hấu, xoài cát và cam sành. Những quả dưa to như quả bóng, ước chừng bảy, tám kí được xếp từng hàng, từng lớp. Dưa tươi xanh, bóng mượt ai cũng thích. Không chỉ có dưa, xoài, cam, bưởi cũng thật tươi, chín thật mọng.
Những quả xoài cát chín vàng, tỏa một mùi thơm ngọt lịm… Kế tiếp hàng trái cây là gian hàng bán hoa vải với các loại hoa mới lạ, màu sắc sặc sỡ. Cách đó không xa là khu bán hoa tươi. Nào cúc, hồng, tulip đang tỏa ngát hương thơm và khoe sắc thắm. Hoa đồng tiền, lay ơn đang hé nở, xòe những cánh nhỏ mịn màng như nhung, như lựa. Đi sâu vào trong chợ là những quầy hàng bánh kẹo, mứt Tết trông hấp dẫn. Thứ gì cũng ngon, loại nào cũng đẹp.
Các chị bán hàng thoăn thoắt gói, xếp, cân, đong, sôi nổi chào mời. Cạnh quầy bánh kẹo là quầy hàng khô, những thúng nếp thơm lựng, những thúng đậu đầy ắp. Tất cả đều chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền sắp đến. Em cứ theo chân mẹ, tha hồ mà ngắm nhìn. Mẹ cùng em đến hàng thực phẩm. Thật là thích với các loại cá tươi roi rói. Nào cá thu, cá ngừ, cá nục nằm la liệt trên quầy. Đi hết hàng cá là đến hàng rau. Đủ loại rau xanh, loại nào cũng tươi ngon, bóng bẩy. Phía dưới hàng rau là hàng gà vịt. Những chú gà trông mào đỏ chót như cục tiết, lông sặc sỡ, chân vàng óng trông thật đẹp mã. Ai cũng trầm trồ. Tiếng gà oác, tiếng vịt kêu cùng với tiếng hỏi đáp, chào, mời của con người đã làm cho khu chợ càng thêm náo nhiệt. Nhưng đông vui hơn cả là quầy hàng quần, áo, mũ, nón, và giày dép.
Người mua thật đông, những gian hàng đầy ắp, đủ màu sắc, đủ chất liệu. Người mua, người bán lon xon. Đi hết hàng quần áo là qua hàng tranh lụa. Những bức tranh dân gian thật đẹp, thật ý nghĩa. Nào là tranh chú ếch xanh ngồi trên lá khoai nước trông ngộ nghĩnh, nào là tranh chú bé ngồi trên lưng trâu ung dung thổi sáo, nào là tranh lợn ráy, tranh đàn gà. Bức tranh nào cũng đẹp, cũng có duyên.
Những bức tranh ấy đều thể hiện phong cảnh của làng quê thanh bình, trù phú. Em cứ mải ngắm tranh, ngắm cảnh chợ Tết mà quên cả mẹ đằng kia đang đứng đợi.
Chợ vẫn cứ đông vui, nhộn nhịp không ngừng. Cảnh vật như tươi đẹp hơn, mới mẻ hơn. Tất cả như đang trút bỏ những gì cũ kĩ trong năm để đón lấy sức sống đang rạo rực của một mùa xuân mới.
Tả một phiên chợ Tết ở quê em – Bài làm 4
Mùa xuân sắp đến rồi! Cả phố em tấp nập trong khung cảnh ngày tết. Khắp phố phường, người người lũ lượt kéo nhau đi sắm sửa, chuẩn bị đón chào năm mới.
Trên đường phố, các quầy hàng buôn bán tấp nập. Ai ai cùng mặc những bộ quần áo đủ màu rực rỡ, trông giống như cả một vườn hoa khổng lồ đang di chuyển. Hôm nay là ngày 28 Tết, em theo mẹ đi chợ. Nhìn hai bên đường, không khí đón xuân đã tưng bừng nhộn nhịp. Ánh nắng vàng buổi sáng trải xuống đám cỏ non dính đầy sương mai bên vệ đường làm cho nó long lanh như những hạt kim cương, ở các hiệu may, mọi người ra vào tấp nập. Tiếng cười nói ồn ào làm cho không khí nhộn nhịp càng tăng thêm. Tại một điểm bán hoa, người ta xúm đông lại xem rồi trầm trồ khen không ngớt. Những bông hồng nhung đang nở hoa như muốn phô bày sắc đẹp. Các loài cây khác như cúc, lay ơn, hướng dương, thược dược… chen nhau khoe nụ, khoe hoa. Cây đào với những bông hoa phô màu hồng tí xíu như đang chúm chím cười. Tất cả, tất cả như muốn phô sắc với mọi người về vẻ đẹp đặc biệt của chúng. Những quầy hàng bán đồ tết đông cứng người, vẻ mặt ai cũng vui tươi, hào hứng. Trên tủ kính, các thứ mứt, bánh, kẹo, hạt dưa… được trưng bày trong các lọ thủy tinh đẹp mắt. Những chú gà, vịt bị cột chân xách ngược, giương đôi mắt nhỏ như hạt cườm ngơ ngác nhìn trời, nhìn đất rồi kêu đồng loạt quang quác đòi trả tự do.
Mùa xuân đã về trên quê hương em, mùa xuân làm cho cây cối, mọi vật đều cựa mình vươn dậy, vui mừng đón xuân sang.
|
Nội dung bài viết1
Tả một vườn cây ăn quả mà em được ghé thăm – Bài làm 1
2
Tả một vườn cay ăn quả mà em được ghé thăm – Bài làm 2
Tả một vườn cây ăn quả mà em được ghé thăm – Bài làm 1
Bác Hai nhà mình có một vườn cây ăn quả vừa đẹp vừa rộng. Mỗi khi bác ra thăm vườn, bác thường ghé vào nhà mình uống nước. Vì vậy, nếu không bận học, mình lại được bác cho vào vườn cây cùng bác. Mình rất thích ngắm và thích chới trong vườn cây của bác vào buổi trưa hè. Nghe mình tả vườn cây, mình chắc chắn các bạn cũng sẽ thích như mình vậy.
Nếu buổi sáng, đứng ngắm hoặc vào trong vườn cây, mình thấy vẻ đẹp sáng trong, tinh khôi thì buổi trưa, giữa cái nắng chói chang, vào chơi, nhìn ngắm vườn cây, mình có cảm giác mát mẻ khác thường. Khi bước vào vườn cây, mình như lạc vào một thế giới khác. Ở đó có màu sắc, có âm thanh như quyện vào nhau. Trên các vòm cây, tiếng ve râm ran, tiếng chim líu lo chuyền cành. Ánh nắng nhảy múa trên các vòm cây, lọt qua các kẽ lá tạo nên những bông hoa nắng lung linh. Những trái cây đang chín càng khoe sắc riêng của mình.
Mình rất thích vườn cây và thích được đi dưới những cành cây trĩu quả hoặc đưực ngồi đọc sách dưới gốc cây trong những buổi trưa hè. Khi nào, các bạn lại nhà mình chơi, mình sẽ xin bác Hai mình cho các bạn vào thăm khu vườn nhà bác. Chắc chắn các bạn sẽ rất thích khu vườn đó.
Tả một vườn cay ăn quả mà em được ghé thăm – Bài làm 2
Ở quê em đất rộng, được chia thành nhiều khu, mỗi khu trồng một loại cây. Mùa nào thức nấy, vườn cho thu hoạch quanh năm. Sau cơn mưa đêm, lá cây xanh mướt, không khí trong veo, thơm nức hương hoa.
Hoa nhãn màu vàng ngà, bao phủ khắp tán cây, mùi thơm ngọt quyến rũ đàn ong mật siêng năng, cần mẫn. Từ trên cao, hoa xoài như ngôi sao li ti rụng xuống đất, hương thơm thoang thoảng.
Hoa bưởi, trái chôm chôm chín khiến nhìn từ xa, góc vườn đỏ rực như một mâm xôi gấc khổng lồ. Những chùm quả nặng oằn được bẻ và sắp xếp gọn vào trong sọt đan bằng tre, trên phủ lá tươi, chờ thương lái đến mua chở về thành phố. Trước tết Trung thu là mùa bưởi chín rộ. Bưởi hồng đào, bưởi Tân Triều, bưởi Đường, bưởi Năm Roi… thứ nào cũng đẹp cũng ngon, trái treo lúc lỉu trĩu cành, nhìn không chán mắt. Trên con đường vào xã, xe tải đậu thành hàng dài, chờ chất bưởi lên rồi chở đi khắp nước, đem vị ngọt, vị thanh của trái bưởi quê em đến với từng nhà, làm đẹp thêm mâm cổ đón trăng thu.
|
Article content 1
Describe an orchard you visited – Exercise 1
2
Describe a fruit garden that you visited – Exercise 2
Describe an orchard you visited – Exercise 1
My Uncle Hai has an orchard that is both beautiful and large. Every time I go to visit the garden, I often stop by my house for a drink. So, if I'm not busy studying, my uncle lets me go to the garden with him. I really like watching and playing in your garden on summer afternoons. Listening to me describe the garden, I'm sure you will love it as much as I do.
If in the morning, standing and admiring or going into the garden, I see the bright, pure beauty, then at noon, in the blazing sun, when I go to play and look at the garden, I feel unusually cool. When I entered the garden, I felt like I was lost in another world. There are colors and sounds that seem to blend together. Above the tree canopy, the sound of cicadas buzzing and the chirping of birds moving through the branches. Sunlight dances on the tree canopy, filtering through the leaves, creating shimmering sunlight flowers. Ripe fruits show off their own color even more.
I really like gardens and like to walk under fruit-laden branches or sit and read books under a tree on summer afternoons. When you guys come to my house to play, I'll ask Uncle and I to let you guys visit his garden. Surely you will love that garden.
Describe a fruit garden that you visited – Exercise 2
In my hometown, the land is large and divided into many areas, each area grows a type of tree. Whatever the season, the garden produces harvests all year round. After the night's rain, the leaves are green and the air is clear and fragrant with flowers.
Longan flowers are ivory yellow, covering the entire tree canopy, with a sweet fragrance that attracts diligent and diligent honey bees. From above, mango flowers fall like tiny stars to the ground, with a faint fragrance.
Grapefruit flowers and ripe rambutan fruits make the corner of the garden bright red like a giant gac raspberry from afar. Bunches of heavy, buckled fruit are broken and neatly arranged in bamboo baskets, covered with fresh leaves, waiting for traders to buy and transport them to the city. Before the Mid-Autumn Festival, grapefruit season is in full bloom. Pink peach grapefruit, Tan Trieu grapefruit, Duong grapefruit, Nam Roi grapefruit... everything is beautiful and delicious, the fruit hangs on the branches, not boring to look at. On the road to the commune, trucks parked in long lines, waiting to load grapefruits and then transport them across the country, bringing the sweetness and purity of my hometown's grapefruits to every house, beautifying antique trays to welcome the autumn moon.
|
Nội dung bài viết1
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 1
2
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 2
3
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 3
4
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 4
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 1
Các bạn ạ, tuổi thơ chúng ta ai cũng gắn liền với những đồ chơi quen thuộc như búp bê, gấu bông, lật đật,…. Mỗi người đều có sở thích riêng về đồ chơi. Với tôi, món đồ chơi mà tôi thích nhất đó là chú gấu bông đấy.
Lần ấy, bố đi công tác về tặng tôi một món quà trong chiếc hộp kín. Tôi rất hồi hộp không biết đó là gì. Khi mở hộp ra tôi reo lên vì sung sướng: ” Ôi, chú gấu bông dễ thương quá!” Đó là một chú gấu nhồi bông mà tôi ước mơ bấy lâu. Chú ta có bộ lông trắng mịn và mượt như nhung, khi sờ tay vào ta có cảm giác như đang sờ vào tấm vải lụa mềm và mát rượi. Gấu ta khoác một chiếc áo màu đỏ tươi có điểm vài hạt cườm lấp la lấp lánh. Cái đầu chú tròn tròn như trái bưởi, đôi tai cũng tròn tròn vểnh lên trông thật là ngộ nghĩnh! Đôi mắt chú đen láy, tròn xoe như hạt nhãn. Thân hình chú ôm rất vừa tay nên tôi thường ôm chú ta mỗi khi đi ngủ.
Những lúc ấy, bốn cái chân mập ú na ú nu của chú cứ dang ra như thể đòi tôi âu yếm vậy. Miệng chú nhỏ nhắn và đỏ hồng trông thật đáng yêu. Trên cổ chú là chiếc nơ màu đỏ được thắt hình con bướm trông yêu ơi là yêu. Mỗi tối học bài xong tôi lại dành thời gian để chơi với gấu bông. Tôi đặt cho cái tên là Daddy. Mỗi khi tôi ôm chú vào lòng và thơm lên đôi má mịn màng của Daddy trông chú ta có vẻ thích thú lắm.
Bây giờ tôi đã lớn và có nhiều thứ đồ chơi khác nhưng Daddy vẫn là người bạn thân thiết nhất của tôi. Tôi luôn giữ gìn chú cẩn thận vì đó là món quà bố tặng tôi: người luôn muốn con mình được vui vẻ và thoải mái.
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 2
Mùa hè vừa rồi, trong chuyến đi du lịch Trung Quốc, em được một bạn tặng cho em một con rô-bốt rất đẹp. Con rô-bốt có hình một chú rắn.
Tuy nhiên trông nó chẳng hề dữ dằn chút nào, ngắm nhìn còn thấy dễ thương nữa chứ, bởi vì nhà sản xuất đã làm theo mô hình một chú rô-bốt nên em rất thích. Chú rô-bốt của em có màu xanh lá cây đậm, đầu chú khom khom về trước hình con rắn hổ mang. Một bên tay chú xoắn lại hình mũi khoan, cái sừng của chú màu vàng và nhẵn bóng, có thể xoay đi, xoay lại, cái đuôi dài của chú càng làm chú trở nên dũng mãnh hơn.
Khi nào rảnh rỗi, em lại cùng bạn hàng xóm chơi chung với chú rô-bốt của em. Rô-bốt của em không dùng pin, muốn chú cử động em phải dùng tay xoay các khớp để chú tạo ra các hình khác nhau. Sau khi chơi, em để ngay ngắn chú rô-bốt này trên chiếc tủ đựng đồ lưu niệm của gia đình, trên chiếc tủ đó có những sản phẩm do chính tay em tạo ra.
Khi chơi với chú rô-bốt em lại nhớ đến người bạn Trung Quốc của em. Dù không hiểu được tiếng nói của nhau nhưng chúng em vẫn chơi những trò chơi rất vui. Đúng là tình bạn đã vượt qua cả rào cản ngôn ngữ, chúng em đã là những người bạn của nhau.
Em cảm giác chú rô-bốt này đã là người bạn tri kỷ luôn ở bên em. Em rất yêu chú rô-bốt của em.
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 3
Đã là trẻ con ai cũng phải có đồ chơi. Còn tôi, tôi có cả một thế giới đồ chơi búp bê, gấu bông, xếp hình…Nhưng đồ chơi mà tôi thích nhất là một chú gấu bông tên là Mi La. Đó là quà của mẹ tặng tôi nhân dịp sinh nhật.
Chú có một bộ lông trắng muốt điểm thêm mấy mảng màu hồng. Chú trông rất xinh và ngộ nghĩnh. Chú cao chỉ bằng đầu gối em , nhưng được nhồi rất nhiều bông nên lúc nào trông cũng mũm mĩm.
Đôi tai của chú giống như hai cái nấm dựng lên. Cặp mắt của Mi La đen láy. Cái mũi xinh xinh được gắn trên chiếc mõm nhỏ xinh. Ôi, khuôn mặt đó mới xinh làm sao. Cổ chú đeo một chiếc vòng hoa do chính tay tôi làm và đeo vào cổ chú. Cái vòng có rất nhiều màu sắc: đỏ, hồng, vàng…Ở giữa đính một viên kim cương, hai cánh tay chú thì lúc nào cũng dang ra như đòi bế.
Hôm nào đi học về, điều đầu tiên tôi làm là chạy thật nhanh vào phóng bế chú lên và cọ cọ vào cái mũi của chú. Trời đã trở rét mà chú vẫn chưa có quần áo ấm để mặc nên tôi đã xin mẹ một ít vải rồi may cho chú một đôi tất màu hồng.Tôi còn may cho chú một cái áo khoác để chú có thể đi dạo với tôi trong những ngày mùa đông lạnh buốt. Trông chú cũng điệu lắm chứ.
Tôi rất yêu chú. Trong giấc mơ, tôi đã mơ thấy Mi La nói với tôi rằng: “Chị ơi, em muốn sống với chị suốt đời”.
Tả một đồ chơi mà em yêu thích – Bài làm 4
Trong chiếc tủ đựng sách của em có riêng một tủ đựng đồ chơi mà em để dành từ lúc bé đến bây giờ. Đồ chơi nào em cũng giữ gìn cẩn thận, vì nó gắn liền với nhiều kỉ niệm. Tuy nhiên em vẫn thích nhất là cặp đôi lật đật mà mẹ tặng cho em sinh nhật hồi 6 tuổi.
Ngày đó em chưa đủ lớn để hỏi tại sao mẹ lại tặng hai con lật đật cho em nữa. Sau này mẹ mới bảo rằng ngày đó em giống như con lật đật, tròn tròn, đáng yêu, hay chạy nhảy, tự ngã lên và tự đứng dậy.
Hai con lật đật của em là một đôi nên có màu sắc giống nhau, chỉ có kích cỡ khác nhau. Mẹ bảo một con là mẹ và một con là con. Con lật đất phải mẹ cao hơn lật đật con một cái đầu. Thực ra hình dáng lật đật giống như số 8, vòng trên bé hơn vòng dưới. Cái đầu của lật đật và thân đều là hình tròn. Nhưng cái đầu nhỏ hơn cái thân một chút để tạo nên sự cân xứng.
Hai con lật đật đều có màu xanh da trời, nhìn rất dịu mắt. Trên gương mặt của lật đật có hai con mắt to và tròn, long lanh như đang nhìn em âu yếm. Cái môi chúm chím màu đỏ nhìn rất dễ thương. Lật đật ít khi mà đứng một chỗ, vì nó không có chân. Lúc ở nguyên một chỗ thì lật đật lắc lư bên này sang bên kia để lấy sự cân bằng. Mặc dù em có xô ngã lật đật thì nó vẫn tự đứng lên được. Đó là đặc điểm riêng có của đồ chơi lật đật.
Những lúc buồn, em thương mang hai con lật đật ra và chơi. Cứ chốc chốc xô nó ngõ rồi thích thú nhìn nó tự đứng lên. Lúc ấy mọi nỗi buồn trong em đều tan biến đi đâu mất vì có hai người bạn thân thiết này bên cạnh.
Lật lật được để trên nóc tủ cao để mỗi lần ngồi học em có thể ngắm nhìn để lấy cảm hứng học bài. Nhiều lúc đi ngủ em cũng ôm lật đật vào lòng và ngủ ngon lành.
Em rất yêu thích hai con lật đật này. Em sẽ giữ nó mãi để làm món quà kỉ niệm của mẹ, cho tuổi thơ.
|
Article content 1
Describe a toy that you love – Exercise 1
2
Describe a toy you love – Exercise 2
3
Describe a toy that you love – Exercise 3
4
Describe a toy that you love – Exercise 4
Describe a toy that you love – Exercise 1
Dear friends, our childhood is all associated with familiar toys such as dolls, teddy bears, tumblers, etc. Everyone has their own preferences when it comes to toys. For me, the toy I like the most is the teddy bear.
That time, my father came home from a business trip and gave me a gift in a sealed box. I was very nervous and didn't know what it was. When I opened the box, I shouted with joy: "Oh, the teddy bear is so cute!" It's a stuffed bear that I've dreamed of for a long time. He has white fur that is as smooth and silky as velvet. When you touch it, it feels like you are touching soft and cool silk fabric. The bear wears a bright red shirt with a few sparkling beads. His head is round like a grapefruit, his ears are also round and perked up, looking really funny! His eyes are black and round like longan seeds. His body fits very well in my arms, so I often hug him when I go to sleep.
At those times, his four plump legs spread out as if asking for my affection. His mouth is small and red, looking so adorable. On his neck is a red bow tied in the shape of a butterfly, which looks so adorable. Every night after studying, I spend time playing with my teddy bear. I named him Daddy. Every time I hold him in my arms and kiss Daddy's smooth cheeks, he seems very excited.
Now I'm grown up and have many other toys, but Daddy is still my closest friend. I always keep him carefully because it is a gift my father gave me: he always wanted his children to be happy and comfortable.
Describe a toy you love – Exercise 2
Last summer, while on a trip to China, a friend gave me a very beautiful robot. The robot has the shape of a snake.
However, it doesn't look fierce at all, it's even cute to look at, because the manufacturer modeled it on a robot so I really like it. My robot is dark green, its head is bent forward like a cobra. One of his arms is twisted into the shape of a drill, his horn is yellow and smooth, can rotate back and forth, his long tail makes him even more powerful.
When I have free time, I play with my neighbor and my robot. My robot doesn't use batteries. If you want it to move, you have to use your hands to rotate the joints so it can create different shapes. After playing, I neatly placed this robot on the family's souvenir cabinet, on which there are products that I created myself.
When I play with the robot, I remember my Chinese friend. Even though we couldn't understand each other's language, we still played fun games. It's true that friendship has overcome the language barrier, we are friends.
I feel like this robot has been a soulmate who is always by my side. I love my robot very much.
Describe a toy that you love – Exercise 3
As children, everyone must have toys. As for me, I have a whole world of dolls, teddy bears, puzzles... But the toy I like the most is a teddy bear named Mi La. It was a gift from my mother to me on my birthday.
He has pure white fur with a few pink patches. He looks very pretty and funny. He is only as tall as my knee, but is stuffed with lots of cotton so he always looks chubby.
His ears look like two erect mushrooms. Mi La's eyes were black. The pretty nose is mounted on a cute little muzzle. Oh, how pretty that face is. Around his neck he wore a wreath made by me and hung around his neck. The bracelet has many colors: red, pink, yellow... In the middle is a diamond, his arms are always outstretched as if asking to be carried.
Every day when I come home from school, the first thing I do is run as fast as I can, pick him up and rub his nose. It was cold and he still didn't have warm clothes to wear, so I asked my mother for some fabric and made him a pair of pink socks. I also made him a jacket so he could walk with me in the house. cold winter days. You look very stylish too.
I love you very much. In my dream, I dreamed that Mi La told me: "Sister, I want to live with you forever."
Describe a toy that you love – Exercise 4
In my bookcase, there is a separate cabinet containing toys that I have been saving since I was a child until now. I keep every toy carefully, because it is associated with many memories. However, my favorite is still the messy couple that my mother gave me for my 6th birthday.
At that time, I was not old enough to ask why my mother gave me two children. Later, my mother told me that that day I was like a busy, round, adorable child, often running around, falling down and getting up on my own.
My two tumblers are a pair so they have the same color, just different sizes. Mom said one child is the mother and the other child is the child. The child turns over and the mother is a head taller than the child. In fact, the shape is similar to the number 8, the top ring is smaller than the bottom ring. The head and body are both round. But the head is a little smaller than the body to create symmetry.
The two tumblers are both blue in color, looking very gentle to the eyes. On her face, there are two big, round, sparkling eyes as if looking at her lovingly. The red pouty lips look very cute. It rarely stands in one place because it has no legs. When staying in one place, sway from side to side to regain balance. Even though I knocked it down, it still stood up on its own. That is a unique characteristic of tumble toys.
When I'm sad, I love to bring my two children out and play. Every now and then I push it into the alley and enjoy watching it stand up on its own. At that moment, all my sadness disappeared because I had these two close friends by my side.
The flip top can be placed on top of a high cabinet so that every time you sit and study, you can look at it and get inspired to study. Many times when I go to bed, I hug him in my arms and sleep soundly.
I really love these two tumblers. I will keep it forever as a souvenir from my mother, for my childhood.
|
Nội dung bài viết1
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An
2
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 2
3
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 3
4
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 4
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An
Nhà em nằm trên mảnh đất đầu làng, giữa một vườn cây trái quanh năm xanh tốt. Trước cổng vào có cây dừa cao vút, sai trĩu quả.
Ba em dựng ngôi nhà này đã được gần chục năm rồi. Mái nhà lợp lá dừa nước thật dày. Màu nâu của lá đã bạc bởi dầu dãi nắng mưa. Bốn bức vách được ghép bằng những tấm ván mỏng, đóng đinh chặt vào khung gỗ. Các cánh cửa lớn và cửa sổ sáng sáng được mở toang đón ánh nắng và giỏ đồng mát rượi.
Lòng nhà rộng và thoáng. Nền đất mịn màng dưới chân. Đồ vật trong nhà rất đơn sơ: Một bộ bàn ghế mây Đềtiếp khách, tấm bình phong ngăn đôi, che khuấtchiếc giường của mẹ. Góc trái sát cửa sổ là bàn làm việc của ba em được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp. Kế đó là bộ ván gỗ gõ lâu năm màu nâu bóng. Bàn học của em kê cạnh cửa sổ phía sau, trông thẳng ra vườn rau và cây ăn trái.
Dưới mái nhà ấm cúng, gia đình em sống trong tình yêu thương, hoà thuận, Ngày ngày, ông bà em chăm nom nhà cửa, vun tưới cây cối trong vườn. Ba má em làm việc vất vả quanh năm Đềnuôi các con ăn học tới nơi tới chốn. Em gắn bó với từng góc nhà, mảnh vườn quen thuộc, nơi em đã sinh ra và lớn lên cùng bao kỉ niệm của thời thơ ấu.
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 2
Ngôi nhà của em mới được xây dựng cách đây 2 năm nên vẫn còn rất mới và khang trang. Bên ngoài sơn màu xanh da trời có cảm giác thanh thoát, mát mẻ. Còn bên trong tường nhà được sơn màu vàng nhạt. Bố nói với em là màu vàng tượng trưng cho sự ấm áp, vì thế bố mong muốn gia đình mình sẽ luôn hạnh phúc, ấm áp trong ngôi nhà này.
Ngôi nhà em có 2 tầng. Phòng khách và hai phòng ngủ ở tầng 1. Còn tầng 2 là phòng thờ và một phòng ngủ nữa. Phòng bếp nhà em là một nhà nhỏ, tách hẳn với nhà ở chứ không nằm trong nhà ở như nhiều nhà khác.
Phòng khách nhà em có một bộ xa-lông bằng gỗ màu đỏ gụ sang trọng. Trên bàn luôn có một bình hoa pha lê do chính tay chị em làm. Phía trên tường, bố mẹ em treo một chiếc gương lớn để tạo cho căn phòng như rộng rãi thêm. Phía đối diện là để kệ ti vi. Trên tường có treo có treo một bức tranh hoa sen cá chép rất đẹp. Thi thoảng, mẹ em mua một lọ hoa tươi đặt trong phòng khách để cho căn phòng thêm phần sinh động và thoang thoảng mùi thơm hơn.
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 3
Sau mỗi buổi học ở trường, em thường mong mẹ đến đón về tổ ấm của mình là ngôi nhà nhỏ bé. Nơi ấy, mọi vẻ đẹp của nó đã quá đỗi thân thương với em.
Đó là một ngôi nhà nằm khiêm tốn trong khu tập thể bệnh viện 354, cách trường em học khoảng hai ki-lô-mét. Nó được xây cách đây ba năm nhưng trông còn rất hấp dẫn. Tường nhà được phun sơn hồng nhạt nên bền màu và sáng sủa lắm. Cánh cửa chính ra vào mới được bố em sơn lại tuần trước, trông mới và bóng nhoáng. Cửa kính, cửa chớp đều dược mẹ em lau chùi sạch bóng. Ngôi nhà của em được xây thành hai tầng, tầng một là phòng khách và bếp. Giữa phòng khách dược kê bộ sa lông màu nâu trông thật trang nhã. Trên bàn, mẹ em đặt một lọ hoa tươi làm cho căn phòng càng thêm sinh động. Trên tường có treo bức tranh phong cành một vùng quê ven biển chiều hoàng hôn. Phía tường đối diện là một bức tranh động của Trung Quốc trông thật hài hoà. Kia nữa, chiếc đồng hồ quả lắc ông bà em để lại lâu lắm rồi, sau mỗi giờ lại buông những tiếng chuông thánh thót, ngân nga. Phía trong là gian bếp có một bàn ăn đặt cạnh đó. Mẹ em sắp xếp rất gọn gàng và sạch sẽ: một chạn bát mi-ni, một bộ bếp ga nhỏ và tủ lạnh để đồ ăn… Tầng hai có hai phòng: một phòng của bố mẹ và một phòng dành riêng cho em học tập, nghỉ ngơi. Trên tầng hai phòng của bố mẹ em có kê một giường ngủ, một tủ đựng quần áo, một bàn làm việc. Ô cửa sổ trông về hướng Nam làm cho căn phòng này luôn luôn thoáng mát. Bố mẹ em xếp đặt rất ngăn nắp, trông căn phòng này lúc nào cũng sạch sẽ và ấm cúng. Phòng dành cho em được bố mẹ quan tâm nhiều hơn cả. Năm ngoái, bố mua về cho em một bộ bàn ghế có gắn cả giá sách rất tiện lợi. Em thích lắm! Nằm cạnh chiếc giường xinh xinh là chiếc tủ đựng quần áo. Mẹ em luôn nhẳc nhờ và giúp em sắp xếp đồ dạc gọn gàng. Chỗ nào trong ngôi nhà, em cũng thấy yêu thích, tuy nó không có nhiều đồ đạc sang trọng nhưng có đủ tiện nghi và thoáng mát.
Em yêu quý tổ ấm của em. Nó gắn bó với em như người ruột thịt, sống ở ngôi nhà này, cả nhà em đều thương yêu nhau.
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 4
Nhà em nằm quay hướng đông nam. Xung quanh ngôi nhà là những cây ăn quả cao to nên ngôi nhà em lúc nào cũng mát mẻ vào mùa hè.
Ngôi nhà được khoác lên chiếc áo mùa vàng chanh rất đẹp. Những chiếc cánh cửa chính được làm bằng gỗ lim rất chắc chắn và đẹp. Cánh cửa sổ phòng khách được làm rất to và đẹp, nó được tranh trí thêm bằng màu sơn trấn song màu vàng được che bởi chiếc rèm màu xanh tuyệt đẹp.
Bước vào cửa chính, ta sẽ thấy một bộ bàn ghế bằng gỗ được sơn bóng nhìn rất sang trọng. Chiếc bàn gỗ được đặt thêm chiếc kính cường lực dày và bóng đẹp làm sao. Trên bàn có bộ ấm chén màu trắng được làm từ đôi bàn tay của những nghệ nhân làng nghề gốm sứ Bát Tràng. Cách đó không xa có chiếc đồng hồ dây cót rất to được đặt ở vị trí đep nhất của ngôi nhà càng là nổi bật sự sang trọng của chiếc phòng khách nhà em.
Bên trong chút nữa, ta sẽ thấy một chiếc tủ nhỏ gồm tivi, giàn loa và đầu đĩa rất hiện tại, chúng là nơi mà cả nhà em cùng nhau ngồi thưởng thức những khúc nhạc tuyệt vời nhất. Trên tường hai bên được bài trí bốn bức tranh tứ quý rất đẹp và hài hòa. Bên trong là phòng bếp, nó được chính tay mẹ em trang trí nhìn rất gọn gàng và sạch sẽ, đây là nơi mà tối nào cả nhà em cũng quây quần bên nhau dùng bữa cơm vui vẻ sau một ngày làm việc và học tập vất vả.
Trên tầng hai gồm có hai phòng ngủ, phòng ngoài cùng là của bố mẹ em, nó được sơm màu hồng và được trang trí vô cùng lãng mạn. Bên cạnh là phòng ngủ cũng là phòng học tập của em. Căn phòng chỉ 14 m2 thôi nhưng nó được chính tay em bài trí và sắp xếp đồ đạc nên em cảm thấy yêu căn phòng mình hơn.
Trên tầng 3 là phòng thờ và phòng làm việc của bố em, ngoài cùng là phòng giặt đồ và phơi quần ao.
Ngoài ban công tất cả các phòng được trang trí bằng những cây xanh, tây hoa nhìn rất đẹp. Em đặc biệt thích cây hoa giấy được trồng ở tầng 2, trước phòng ngủ của bố mẹ em. Cây hoa giấy có hai màu hồng và trắng được rủ từ lan can tầng 2 xuống giàn trước sân, nó vừa có công dung làm mát ngôi nhà, vừa nở những bông hoa giúp ngôi nhà em thêm đẹp hơn.
Em rất yêu ngôi nhà thân thương của mình. Mỗi khi đi đâu xa thì em lại nhớ đến ngôi nhà, nơi em đã sinh ra và lớn lên, với biết bao kỉ niệm buồn vui.
|
Nội dung bài viết1
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An
2
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 2
3
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 3
4
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 4
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Nghệ An
Nhà em nằm trên mảnh đất đầu làng, giữa một vườn cây trái quanh năm xanh tốt. Trước cổng vào có cây dừa cao vút, sai trĩu quả.
Ba em dựng ngôi nhà này đã được gần chục năm rồi. Mái nhà lợp lá dừa nước thật dày. Màu nâu của lá đã bạc bởi dầu dãi nắng mưa. Bốn bức vách được ghép bằng những tấm ván mỏng, đóng đinh chặt vào khung gỗ. Các cánh cửa lớn và cửa sổ sáng sáng được mở toang đón ánh nắng và giỏ đồng mát rượi.
Lòng nhà rộng và thoáng. Nền đất mịn màng dưới chân. Đồ vật trong nhà rất đơn sơ: Một bộ bàn ghế mây Đềtiếp khách, tấm bình phong ngăn đôi, che khuấtchiếc giường của mẹ. Góc trái sát cửa sổ là bàn làm việc của ba em được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp. Kế đó là bộ ván gỗ gõ lâu năm màu nâu bóng. Bàn học của em kê cạnh cửa sổ phía sau, trông thẳng ra vườn rau và cây ăn trái.
Dưới mái nhà ấm cúng, gia đình em sống trong tình yêu thương, hoà thuận, Ngày ngày, ông bà em chăm nom nhà cửa, vun tưới cây cối trong vườn. Ba má em làm việc vất vả quanh năm Đềnuôi các con ăn học tới nơi tới chốn. Em gắn bó với từng góc nhà, mảnh vườn quen thuộc, nơi em đã sinh ra và lớn lên cùng bao kỉ niệm của thời thơ ấu.
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 2
Ngôi nhà của em mới được xây dựng cách đây 2 năm nên vẫn còn rất mới và khang trang. Bên ngoài sơn màu xanh da trời có cảm giác thanh thoát, mát mẻ. Còn bên trong tường nhà được sơn màu vàng nhạt. Bố nói với em là màu vàng tượng trưng cho sự ấm áp, vì thế bố mong muốn gia đình mình sẽ luôn hạnh phúc, ấm áp trong ngôi nhà này.
Ngôi nhà em có 2 tầng. Phòng khách và hai phòng ngủ ở tầng 1. Còn tầng 2 là phòng thờ và một phòng ngủ nữa. Phòng bếp nhà em là một nhà nhỏ, tách hẳn với nhà ở chứ không nằm trong nhà ở như nhiều nhà khác.
Phòng khách nhà em có một bộ xa-lông bằng gỗ màu đỏ gụ sang trọng. Trên bàn luôn có một bình hoa pha lê do chính tay chị em làm. Phía trên tường, bố mẹ em treo một chiếc gương lớn để tạo cho căn phòng như rộng rãi thêm. Phía đối diện là để kệ ti vi. Trên tường có treo có treo một bức tranh hoa sen cá chép rất đẹp. Thi thoảng, mẹ em mua một lọ hoa tươi đặt trong phòng khách để cho căn phòng thêm phần sinh động và thoang thoảng mùi thơm hơn.
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 3
Sau mỗi buổi học ở trường, em thường mong mẹ đến đón về tổ ấm của mình là ngôi nhà nhỏ bé. Nơi ấy, mọi vẻ đẹp của nó đã quá đỗi thân thương với em.
Đó là một ngôi nhà nằm khiêm tốn trong khu tập thể bệnh viện 354, cách trường em học khoảng hai ki-lô-mét. Nó được xây cách đây ba năm nhưng trông còn rất hấp dẫn. Tường nhà được phun sơn hồng nhạt nên bền màu và sáng sủa lắm. Cánh cửa chính ra vào mới được bố em sơn lại tuần trước, trông mới và bóng nhoáng. Cửa kính, cửa chớp đều dược mẹ em lau chùi sạch bóng. Ngôi nhà của em được xây thành hai tầng, tầng một là phòng khách và bếp. Giữa phòng khách dược kê bộ sa lông màu nâu trông thật trang nhã. Trên bàn, mẹ em đặt một lọ hoa tươi làm cho căn phòng càng thêm sinh động. Trên tường có treo bức tranh phong cành một vùng quê ven biển chiều hoàng hôn. Phía tường đối diện là một bức tranh động của Trung Quốc trông thật hài hoà. Kia nữa, chiếc đồng hồ quả lắc ông bà em để lại lâu lắm rồi, sau mỗi giờ lại buông những tiếng chuông thánh thót, ngân nga. Phía trong là gian bếp có một bàn ăn đặt cạnh đó. Mẹ em sắp xếp rất gọn gàng và sạch sẽ: một chạn bát mi-ni, một bộ bếp ga nhỏ và tủ lạnh để đồ ăn… Tầng hai có hai phòng: một phòng của bố mẹ và một phòng dành riêng cho em học tập, nghỉ ngơi. Trên tầng hai phòng của bố mẹ em có kê một giường ngủ, một tủ đựng quần áo, một bàn làm việc. Ô cửa sổ trông về hướng Nam làm cho căn phòng này luôn luôn thoáng mát. Bố mẹ em xếp đặt rất ngăn nắp, trông căn phòng này lúc nào cũng sạch sẽ và ấm cúng. Phòng dành cho em được bố mẹ quan tâm nhiều hơn cả. Năm ngoái, bố mua về cho em một bộ bàn ghế có gắn cả giá sách rất tiện lợi. Em thích lắm! Nằm cạnh chiếc giường xinh xinh là chiếc tủ đựng quần áo. Mẹ em luôn nhẳc nhờ và giúp em sắp xếp đồ dạc gọn gàng. Chỗ nào trong ngôi nhà, em cũng thấy yêu thích, tuy nó không có nhiều đồ đạc sang trọng nhưng có đủ tiện nghi và thoáng mát.
Em yêu quý tổ ấm của em. Nó gắn bó với em như người ruột thịt, sống ở ngôi nhà này, cả nhà em đều thương yêu nhau.
Tả ngôi nhà hoặc căn phòng em ở – Bài làm 4
Nhà em nằm quay hướng đông nam. Xung quanh ngôi nhà là những cây ăn quả cao to nên ngôi nhà em lúc nào cũng mát mẻ vào mùa hè.
Ngôi nhà được khoác lên chiếc áo mùa vàng chanh rất đẹp. Những chiếc cánh cửa chính được làm bằng gỗ lim rất chắc chắn và đẹp. Cánh cửa sổ phòng khách được làm rất to và đẹp, nó được tranh trí thêm bằng màu sơn trấn song màu vàng được che bởi chiếc rèm màu xanh tuyệt đẹp.
Bước vào cửa chính, ta sẽ thấy một bộ bàn ghế bằng gỗ được sơn bóng nhìn rất sang trọng. Chiếc bàn gỗ được đặt thêm chiếc kính cường lực dày và bóng đẹp làm sao. Trên bàn có bộ ấm chén màu trắng được làm từ đôi bàn tay của những nghệ nhân làng nghề gốm sứ Bát Tràng. Cách đó không xa có chiếc đồng hồ dây cót rất to được đặt ở vị trí đep nhất của ngôi nhà càng là nổi bật sự sang trọng của chiếc phòng khách nhà em.
Bên trong chút nữa, ta sẽ thấy một chiếc tủ nhỏ gồm tivi, giàn loa và đầu đĩa rất hiện tại, chúng là nơi mà cả nhà em cùng nhau ngồi thưởng thức những khúc nhạc tuyệt vời nhất. Trên tường hai bên được bài trí bốn bức tranh tứ quý rất đẹp và hài hòa. Bên trong là phòng bếp, nó được chính tay mẹ em trang trí nhìn rất gọn gàng và sạch sẽ, đây là nơi mà tối nào cả nhà em cũng quây quần bên nhau dùng bữa cơm vui vẻ sau một ngày làm việc và học tập vất vả.
Trên tầng hai gồm có hai phòng ngủ, phòng ngoài cùng là của bố mẹ em, nó được sơm màu hồng và được trang trí vô cùng lãng mạn. Bên cạnh là phòng ngủ cũng là phòng học tập của em. Căn phòng chỉ 14 m2 thôi nhưng nó được chính tay em bài trí và sắp xếp đồ đạc nên em cảm thấy yêu căn phòng mình hơn.
Trên tầng 3 là phòng thờ và phòng làm việc của bố em, ngoài cùng là phòng giặt đồ và phơi quần ao.
Ngoài ban công tất cả các phòng được trang trí bằng những cây xanh, tây hoa nhìn rất đẹp. Em đặc biệt thích cây hoa giấy được trồng ở tầng 2, trước phòng ngủ của bố mẹ em. Cây hoa giấy có hai màu hồng và trắng được rủ từ lan can tầng 2 xuống giàn trước sân, nó vừa có công dung làm mát ngôi nhà, vừa nở những bông hoa giúp ngôi nhà em thêm đẹp hơn.
Em rất yêu ngôi nhà thân thương của mình. Mỗi khi đi đâu xa thì em lại nhớ đến ngôi nhà, nơi em đã sinh ra và lớn lên, với biết bao kỉ niệm buồn vui.
|
"Nhà" một từ mà bất cứ con người nào cũng cảm thấy thật thoải mái, nhẹ nhõm. Bởi nơi được gọi là "nhà" ấy là chốn để con người sau một buổi làm việc, học tập mệt mỏi và căng thẳng tìm về, là chốn chứa đựng đầy sự yêu thương, chăm sóc và san sẻ. Bởi thểf mà "nhà" luôn là nơi mà chúng ta nghĩ đến với bao suy nghĩ, bao tình cảm gắn bó yêu thương.
Cũng như bao ngôi nhà khác, tôi cũng có nơi được gọi là "nhà". Trong tâm trí tôi, nhà luôn là nơi mà tôi muốn đến nhất. Một người con xa quê mới hiểu được giá trị đích thực của "nhà". Nhà tôi là một ngôi nhà rộng, khuôn viên rộng. Trước đây nhà tôi có cổng nằm sát đường trục chính, nhưng sau khi xây dựng lại, cống nhà đã được chuyển sang hướng khác. Bởi thế mà nhà tôi có hai cống, một cổng chính và một cổng phụ. Ngôi nhà được xây dựng theo kiểu hình ống, dài. Nhà có kết cấu hai tầng, tầng 1 là một phòng khách và một phòng ngủ. Phòng khách rất rộng, được thiết kế theo một hình vuông. Phòng khách có kê một bộ bàn ghế gỗ được sơn màu vàng đồng sáng bóng. Ngay phía sau lưng của bộ bàn ghế ấy là cái tủ cửa sổ. Cái tủ đó được thiết kế vừa khít với cửa sổ ấy để trang trí cùng như để những vật dụng mà mọi người trong gia đình tôi yêu quý. Để phù hợp với bộ ban ghế, chiếc tủ này cũng được sơn cùng màu với nó. Nói là tủ cũng không đúng cho lắm bởi nó có thiết kế khá giống cái giá sách của tôi. Nói như vậy, các bạn cũng có thể hình dung ra được đặc điểm của nó đúng không? Chiếc giá treo cửa sổ này là vật dụng mà tôi thích nhất trong phòng khách cùng với chiếc bàn góc. Đúng với tên gọi của nó, chiếc bàn được đặt gay góc bộ bàn ghế. Chiếc bàn này cao bằng chiều cao của thành ghế. Cũng được sơn màu vàng đồng sáng, chiếc bàn góc bằng gỗ này có mặt kính sáng bóng đến mức có thể soi gương được. Để mặt kính mãi sáng bóng, tôi phải thường xuyên dọn dẹp và lau chùi nó. Đặt trên chiếc bàn góc là lọ hoa lan màu tím nhạt. Lọ hoa ấy làm cho sự sáng bóng của mặt bàn càng thêm rực rỡ. Bộ bàn ghế thực sự rất nổi bật trên nền gạch xanh rêu của phòng khách.
Tả ngôi nhà thân yêu của em
Vào mùa hè, mỗi khi bước chân vào phòng là tôi cảm thấy cái nóng bên ngoài được dịu bớt đi rất nhiều. Bởi lẽ, màu xanh rêu đã mang lại cảm giác nhẹ dịu cho mắt chúng ta. Bước lên tầng hai là một phòng ngủ, phòng thờ và có một ban công. Tôi rất thích ban công tầng 2 của nhà mình. Ban công ấy, đứng từ đó cũng có thể nhìn thấy những ánh điện lập lòe xa xa vọng lại, có thể ngắm ban mai và hoàng hôn một cách rõ ràng, có thể ngắm nhìn cảnh sắc quê hương khi lập xuân vào hạ. Những cánh đồng xanh mướt đên vàng ươm mỗi buổi cuối hè. Phải nói rằng, bao nhiêu cảnh sắc quen thuộc, mùi vị quê hương và tình cảm dành cho ngôi nhà của mình là thứ mà tôi luôn tự hào.Tình cảm dành cho ngôi nhà ấy không chỉ xuất phát bởi đây là nơi tôi lớn lên mà còn bởi ở đây có những người thân của tôi. Những người thân thiết nhất, yêu thương tôi nhất trên cuộc đời này. Đó là bố mẹ, em tôi. Tôi là đứa con đầu lòng của bố mẹ. Có thể nói, tôi đã sống với bố mẹ một khoảng thời gian đủ để biết những sở thích, những điều mà bố mẹ tôi mong muốn. Đương nhiên, bố mẹ cũng biết tôi thích gì, ghét gì. Bố mẹ luôn là người hiểu con cái nhất.Không thể phủ nhận công ơn sinh thành dưỡng dục trời bể mà bố mẹ đã dành cho tôi. Bởi thế mà, tôi luôn cố gắng nỗ lực từng ngày để không phụ công ơn to lớn ấy. Trong ngôi nhà đủ rộng, luôn có những tiếng cười và cũng có những giọt nước mắt. Trong căn nhà ấy, luôn chứa đựng những điều mà tôi nhớ tới mỗi khi đi xa. Sân nhà tôi cũng rộng. Khoảng sân được lát gạch vuông đỏ. Bên phải góc sân còn có hai cây lộc vừng to, xanh mướt. Mùa hè là lúc cây trổ hoa. Hoa lộc vừng mọc thành từng sợi dây rủ xuống, những bông hoa cánh trắng nhị đỏ rực mọc thành chùm theo dây thả xuống. Thực sự rất đẹp. Hoa chỉ tỏa hương vào ban đêm, và tàn khi sáng sớm. Chính vì thế, chưa bao giờ có một ai có thể ngắm nhìn và hít hà mùi thơm của hoa vào ban ngày.Góc sân bên kia là mấy chậu nha đam tôi trồng, chúng lớn rất nhanh và luôn khiến tôi phải thích thú mỗi khi chăm sóc chúng. Nhà bếp cũng là nơi chứa nhiều kỉ niệm. Đó là nơi tôi nấu những món ăn ngon cho cả nhà. Căn bếp cũng khá rộng rãi và thoáng, được sơn màu trắng vôi. Nền gạch màu đỏ sẫm. Bên cạnh bếp là nhà tắm và giếng. Đối diện bếp là sân và đi thẳng nữa là chiếc ao nhỏ xinh. Ao này, nhà tôi đang nuôi cá. Trước đây ao rộng nhưng do đã lấp đất san ao một phần, nên diện tích ao bây giờ còn rất hẹp, tuy nhiên vẫn có thể nuôi được cá. Mỗi khi thu hoạch những bữa cá thơm ngon lại được bày biện trên mâm cơm gia đình.
Có thể nói, ngôi nhà của tôi là nơi chứa chan bao kỉ niệm, bao tình thương yêu. Từng góc, từng vật dụng luôn là những kí ức không bao giờ phai nhòa đối với tôi.
Kim Oanh
|
"Home" is a word that makes any person feel comfortable and relieved. Because that place called "home" is a place where people return after a tiring and stressful day of work or study, and is a place filled with love, care and sharing. Because of that, "home" is always the place that we think of with so many thoughts and feelings of love and attachment.
Like many other houses, I also have a place called "home". In my mind, home is always the place I want to go to the most. Only a child far from home understands the true value of "home". My house is a large house with a large campus. Previously, my house had a gate located close to the main road, but after reconstruction, the house's culvert was moved to another direction. That's why my house has two culverts, one main gate and one side gate. The house is built in a long, tubular style. The house has a two-story structure, the first floor is a living room and a bedroom. The living room is very large, designed in a square shape. The living room has a set of wooden tables and chairs painted in a shiny copper yellow color. Right behind the table and chairs is a window cabinet. That cabinet is designed to fit tightly around that window for decoration and to store items that everyone in my family loves. To match the chair set, this cabinet is also painted the same color as it. Saying it is a cabinet is not quite right because it has a design quite similar to my bookshelf. Having said that, you can also imagine its characteristics, right? This window shelf is my favorite item in the living room along with the corner table. True to its name, the table is placed at the corner of the table and chairs. This table is as high as the height of the chair. Also painted in bright copper yellow, this wooden corner table has a glass surface so shiny that it can be seen in a mirror. To keep the glass shiny, I have to regularly clean and wipe it. Placed on the corner table is a vase of light purple orchids. That flower vase makes the shine of the tabletop even more brilliant. The table and chairs set really stands out on the moss green tile floor of the living room.
Describe your beloved home
In the summer, every time I step into my room, I feel the heat outside is greatly reduced. Because moss green brings a soothing feeling to our eyes. Stepping up to the second floor is a bedroom, altar room and a balcony. I really like the 2nd floor balcony of my house. From that balcony, standing from there, you can see the flickering electric lights echoing in the distance, you can see the morning and sunset clearly, you can see the scenery of your hometown as it springs into summer. The fields are green and golden every late summer. I must say, the many familiar sights, smells of my homeland and affection for my home are something I am always proud of. The affection for that house does not only come from the fact that this is where I grew up. but also because my relatives are here. The closest people who love me the most in this life. Those are my parents and younger brother. I am my parents' first child. It can be said that I have lived with my parents for enough time to know their interests and what they want. Of course, my parents also know what I like and what I hate. Parents are always the people who understand their children best. It is impossible to deny the immense gratitude my parents have given me for giving birth and raising me. That's why I always try my best every day to not let down that great gratitude. In a large enough house, there is always laughter and also tears. In that house, there are always things that I remember every time I go away. My yard is also large. The yard is paved with red square tiles. On the right corner of the yard there are two large, green sesame trees. Summer is the time when trees bloom. The flowers grow in hanging strings, and the bright red stamens and white petaled flowers grow in bunches along the hanging strings. Really beautiful. The flowers only release their fragrance at night, and wither in the early morning. That's why no one has ever been able to see and inhale the scent of flowers during the day. In the other corner of the yard are a few pots of aloe vera I planted, they grow very quickly and always make me excited every time they see them. Take care them. The kitchen is also a place that holds many memories. That's where I cook delicious food for the whole family. The kitchen is also quite spacious and airy, painted lime white. Dark red brick background. Next to the kitchen is the bathroom and well. Opposite the kitchen is the yard and going straight further is a beautiful small pond. In this pond, my family is raising fish. Previously, the pond was large, but because part of the pond was filled with soil, the pond area is now very narrow, but fish can still be raised. Every time the harvest is harvested, delicious fish meals are presented on the family tray.
It can be said that my house is a place filled with many memories and love. Every corner and every item are always memories that will never fade for me.
Kim Oanh
|
Trường học như là ngôi nhà thứ hai của em, đó chính là nơi mà em học được nhiều kiến thức, đó là nơi chấp cánh cho những ước mơ của em bay xa. Đó chính là trường tiểu học của em.
Ngôi trường của chúng em được vinh hạnh mang tên Chu Văn An – một người thầy giáo giỏi, có niềm say mê để đào tạo hàng trăm người giúp ích cho đất nước. Trường em đã có 30 năm bề dày lịch sử, đã đào tạo đã đào tạo hàng nghìn thế hệ học sinh.
Trường em gồm có 4 khu: khu A là khu nhà làm việc hành chính của nhà trường và của các thầy cô. Khu B, khu C và khu D là 3 khu để dành cho việc giảng dạy của các học sinh. Khu B và khu C là khu nhà gồm có 2 tầng với 15 phòng học được phân cho các lớp học. Mỗi lớp học sẽ từ quản lý và vệ sinh khu vực trong lớp và phía bên ngoài. Khu D là khu thực hành, gồm có 3 tầng với hơn 20 phòng học thí nghiệm. Trường em có các phòng thí nghiệm và thực hành riêng cho các môn: Mỹ thuật, âm nhạc. Bên cạnh khu D là một khoảng sân rộng để cho chúng em có không gian tập luyện ở mỗi giờ thể dục cũng như hoạt động tập thể.
Cách riêng biệt với khu học tập là nhà ăn và bếp nấu. Vì chúng em vẫn còn ăn bán trú ở trường. Chính vì vậy mà sau mỗi giờ học, chúng em lại cùng nhau xuống ăn cơm và được đi ngủ để chuẩn bị cho những tiết học chiều.
Sân trường em rất rộng, ở chính giữa và đặt sát với tòa nhà A là sân khấu, đây là nơi mà chúng em sẽ sinh hoạt chào cờ cũng như các hoạt động văn nghệ. Trước sân khấu chính là cột cờ. Ở trước mỗi khu nhà, trường em đã trồng rất nhiều cây xanh để tỏa bóng mát.
Từ ngoài nhìn vào, cổng trường em được sơn màu xanh và phía bên trên được ghi rõ ràng: Trường tiểu học Chu Văn An bằng đá trông rất đẹp.
Em yêu ngôi trường của em lắm, em hứa sẽ cố gắng học tập thật tốt để không phụ sự mong đợi của thầy cô và bố mẹ.
|
School is like my second home, it's where I learn a lot of knowledge, it's where my dreams take flight. That is my elementary school.
Our school is honored to be named after Chu Van An - a good teacher, with a passion to train hundreds of people to help the country. My school has a rich history of 30 years and has trained thousands of generations of students.
My school consists of 4 areas: Area A is the administrative office of the school and the teachers. Area B, Area C and Area D are three areas for teaching students. Area B and Area C are 2-storey buildings with 15 classrooms divided into classes. Each classroom will manage and clean the inside and outside areas. Area D is the practice area, consisting of 3 floors with more than 20 laboratory classrooms. My school has separate laboratories and practice rooms for the following subjects: Fine Arts and Music. Next to area D is a large yard to give us space to practice at each gym hour as well as for group activities.
Separate from the study area is the dining room and kitchen. Because we are still boarding at school. That's why after every class, we go down together to eat and go to bed to prepare for afternoon classes.
My school yard is very large, in the middle and close to building A is the stage, this is where we will celebrate the flag as well as perform cultural activities. In front of the main stage is the flagpole. In front of each building, my school has planted many trees to provide shade.
Looking from the outside, my school gate is painted blue and above is clearly written: Chu Van An Primary School made of stone looks very beautiful.
I love my school very much, I promise to try my best to study well to not disappoint the expectations of my teachers and parents.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.