vi
stringlengths 846
10.5k
| en
stringlengths 799
10.5k
|
---|---|
Bài làm
Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Đó là nhận định đúng đắn của Các Mác khi nói về tính phức tạp, đa dạng của các mối quan hệ trong xã hội loài người. Để thích ứng với cuộc sống, mỗi người thường lựa chọn cho mình những cách ứng xử phù hợp với từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể. Tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn là kho báu lưu giữ nhiều kinh nghiệm ứng xử quý giá của con người. Hai câu: Tránh voi chẳng xấu mặt nào và Im lặng là vàng phần nào nói lên quan niệm sống của nhân dân ta.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về câu: Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Đây là một câu thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, nội dung nói về cách đối nhân xử thế.
Nghĩa hiển ngôn của câu tục ngữ nói đến cách đối xử của con người đối với loài voi. Voi là con vật to lớn nhất trong rừng. Nó không dũng mãnh như hổ báo, sư tử, không nhanh nhẹn, khôn ngoan như khỉ, cáo. Voi có hình dáng khổng lổ, thích ăn cây cỏ, sống theo bầy đàn. Bình thường, voi rất hiền lành, nhưng khi bị trêu chọc hoặc tấn công, voi trở nên hung dữ, phá phách. Đó là cách tự vệ của voi. Vì vậy, kinh nghiệm từ xưa truyền lại là mọi người không nên làm cho voi tức giận. Nếu gặp voi đang trong cơn tức giận thì hãy tìm cách tránh xa, để phòng nguy hiểm, tai họa có thể xảy ra.
Tuy vậy, nghĩa hàm ngôn mới là nghĩa chính: Trong cuộc sống, chúng ta cần có cách ứng xử khéo léo để không gây ra hậu quả nghiêm trọng. Cần mềm mỏng, nhã nhặn, lễ phép khi ứng xử với cấp trên, người trên, nhất là khi họ đang nóng nảy, tức giận vì một lí do nào đó. Cần có thái độ ôn hòa trong khi đối thoại, tránh đối đầu căng thẳng, gay gắt. Cách ứng xử khôn ngoan như vậy sẽ làm cho sự giao tiếp sẽ trở nên nhẹ nhàng, công việc trôi chảy, giữ được mối quan hệ đoàn kết, hòa thuận lâu dài.
Bên cạnh ý nghĩa tích cực nêu trên, câu thành ngữ này còn có một nét nghĩa khác. Trong cuộc sống, không ít người có tính cách rụt rè, thụ động, nể nang, an phận thủ thường, tránh né cấp trên, ngại đụng chạm đến sai phạm của lãnh đạo. Họ co mình lại không dám đấu tranh để được yên ổn, để giữ quyền lợi của bản thân. Vì thế mà cái sai, cái xấu vẫn tổn tại, sự trì trệ của cấp trên vẫn không được thay đổi. Đó là cách ứng xử tiêu cực, đáng phê phán.
Gần nghĩa với câu: Tránh voi chẳng xấu mặt nào còn có câu: Im lặng là vàng. Xét ở góc độ tích cực, im lặng ở đây chỉ thái độ bình tĩnh, ôn hòa của con người trong những tình huống, hoàn cảnh có vấn đề gay cấn, khó xử. Trước một sự việc nào đó, ta cần có thái độ điềm tĩnh, chớ vội vàng, nóng nảy. Chẳng hạn trước sai sót, khuyết điểm của bạn bè, nếu ta phê bình kiểu “đao to búa lớn”, thì sẽ làm cho bạn tự ái khó tiếp thu, thậm chí phản ứng lại.
Trong gia đinh hay đối với lối xóm, khi một người nào đó đang bực tức, nóng giận thì ta không nên “đổ thêm dầu vào lửa”. Thái độ im lặng của ta sẽ làm cho người đối thoại bình tĩnh lại, bớt giận, dần dần nhận ra lầm lỗi của mình. Hoặc giả đối với một người do sơ suất, vô tình phạm khuyết điểm, nếu ta biết bỏ qua với lòng vị tha, chắc chắn người đó sẽ cảm phục mà tìm cách sửa chữa.
|
Assignment
Humans are the sum of social relationships. That is Marx's correct assessment when talking about the complexity and diversity of relationships in human society. To adapt to life, each person often chooses the appropriate behavior for each specific situation and situation. Proverbs, idioms, and maxims are treasures that store many valuable human behavioral experiences. The two sentences: Avoiding elephants is not embarrassing and Silence is golden partly express the life concept of our people.
First of all, we need to learn about the saying: Avoiding elephants is not bad. This is a short, concise idiom that talks about how to treat people.
The obvious meaning of the proverb refers to the way humans treat elephants. Elephants are the largest animals in the forest. It is not as brave as a tiger or lion, nor as agile or wise as a monkey or fox. Elephants have a giant shape, like to eat plants, and live in herds. Normally, elephants are very gentle, but when teased or attacked, elephants become aggressive and destructive. That is the elephant's way of defending itself. Therefore, the experience passed down from ancient times is that people should not make elephants angry. If you encounter an angry elephant, try to stay away to prevent danger or disaster from occurring.
However, the implicit meaning is the main meaning: In life, we need to behave skillfully so as not to cause serious consequences. Need to be soft, courteous, and polite when dealing with superiors and superiors, especially when they are hot-tempered or angry for some reason. It is necessary to have a peaceful attitude during dialogue, avoid stressful and harsh confrontations. Such wise behavior will make communication easier, work goes smoothly, and maintain a long-term relationship of solidarity and harmony.
Besides the positive meaning mentioned above, this idiom also has another meaning. In life, many people have a timid, passive, respectful, obedient personality, avoid superiors, and are afraid to touch the leaders' mistakes. They cower and do not dare to fight for peace and to keep their own rights. Therefore, the wrong and bad things still exist, and the stagnation of the superiors remains unchanged. That is a negative and criticism-worthy behavior.
Close in meaning to the saying: Avoiding elephants is not embarrassing, there is also the saying: Silence is golden. From a positive perspective, silence here refers to the calm and peaceful attitude of people in situations and circumstances with dramatic and difficult problems. Before any event, we need to have a calm attitude, not haste or impatience. For example, in front of your friends' mistakes and shortcomings, if you criticize them in a "big and harsh" way, it will make your self-esteem difficult to accept and even react.
In the family or in the neighborhood, when someone is upset or angry, we should not "add fuel to the fire". Our silent attitude will make the interlocutor calm down, become less angry, and gradually realize their mistakes. Or if a person accidentally commits a mistake, if we know how to forgive it with altruism, that person will certainly be impressed and find a way to correct it.
|
Bài làm
Trong văn học dân gian có một thể loại khá đặc biệt là đồng dao. Thực ra, đồng dao cũng là ca dao nhưng thường sáng tác cho trẻ con đọc hoặc hát khi chăn trâu cắt cỏ trên cánh đồng hoặc lúc vui chơi trên bờ đê, ngõ xóm. Bản sắc đồng dao gần gũi với ngụ ngôn, có phong vị của thơ trào phúng, kết hợp với chất trữ tình ngọt ngào vốn có của ca dao, rất phù hợp với tính hồn nhiên, ham hiểu biết của trẻ thơ. Đồng dao có đề tài muôn hình muôn vẻ. Phạm vi miêu tả của nó rất rộng: từ cây cỏ, loài vật đến sinh hoạt xã hội, các trò chơi con trẻ v.v… Nó mở ra trước mắt trẻ em cả một thế giới rộng lớn. Chủ đề đồng dao thường diễn tả tinh thần lạc quan yêu đời, đồng thời ẩn chứa triết lí về nhân sinh quan, thế giới quan của nhân dân lao động trong xã hội phong kiến ngày xưa. Bài đồng dao dưới đây là bức tranh phong phú về thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng,
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quá hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông
Những hiện tượng mà bài đồng dao miêu tả toàn là ngược đời, chẳng bao giờ xảy ra trọng thực tế. Qua đó, tác giả chế giễu những hiện tượng phi lí trong xã hội, đồng thời đề cập tới sự xoay vần muôn màu muôn vẻ của thế giới tự nhiên và cuộc sống của con người.
Phân tích bài ca dao “Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cố rắn tha ra ngoài đồng…”
Kết cấu của bài đồng dao này là kiểu kết cấu trùng điệp, đề cập tới rất nhiều nhân vật với nhiều sự kiện thú vị, hấp dẫn. Mở đầu lả một câu hỏi mang tính ước lệ: Bao giờ cho đến tháng ba?Đọc toàn bộ bài đồng dao, ta thấy rất nhiều hiện tượng trong bài không gắn với tháng ba. Chẳng hạn, tháng ba chưa có hồng, chưa có cào cào, v.v… Mặt khác, nếu các hiện tượng như Nắm xôi nuốt trẻ lên mười, Con gà be rượu nuốt người lao đao là có thật thì nó xảy ra quanh năm chứ chẳng cứ gì tháng ba mới có.
Những hiện tượng được miêu tả trong bài đồng dao này nếu nói xuôi thì chẳng có gì để nói. Nói ngược mới có chuyện, chuyện cuộc đời cũng như chuyện nghệ thuật. Cách nói ngược này rất phổ biến trong hò vè, ca dao, chẳng hạn nói ngược trong vè: Lên núi đặt lờ, xuống sông bổ củi; nói ngược trong ca dao ; Bao giờ chạch đẻ ngọn đa, Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình, Bao giờ rau diếp làm đình, Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta…
Trong toàn bộ mười một câu tiếp theo của bài đồng dao, các tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật nói ngược làm phương tiện nghệ thuật chủ đạo nhằm lôi cuốn sự chú ý qua người nghe và khắc sâu kiến thức muốn truyền đạt; qua đó kín đáo gửi gắm suy nghĩ và tình cảm của mình.
Tháng ba là thời gian cuối xuân, đầu hạ với những cơn mưa rào, báo hiệu sự thay đổi của thời tiết, khí hậu. Ở đây, tháng ba mang tính chất ước lệ, tượng trưng cho khao khát đổi thay trong cuộc sống của con người. Câu hỏi tu từ mở đẩu bài đồng dao thể hiện khao khát, mong mỏi ấy:
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Ếch là con vật bé nhỏ thựờng sống quẩn quanh ở góc ao, vũng nước; còn rắn là con vật có nọc độc nguy hiểm, kẻ thù xưa nay của ếch. Tháng ba đến tức là cơ hội vừa đến. Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng, thật bất ngờ và hả hê, thỏa mãn vì ếch đã trả được mổi thù truyền kiếp.
Lợn là con vật hiền lành, chỉ sống loanh quanh trong vườn, trong chuồng, là mồi ngon của con hùm to lớn, hung dữ. Vậy mà giờ đây, hùm lại ngoan ngoãn nằm im cho lợn liếm lông. Quả là chuyện lạ, chuyện thay bậc đổi ngôi!
Tiếp theo, bài đồng dạo chuyển sang đề tài sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày:
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
Con gà be rượu nuốt người lao đao.
Những quả hồng xinh xắn, đỏ tươi, chín mọng thường thấy trong dịp Tết Trung thu là món quà quý giá mà con cháu trân trọng dâng lên để mừng thọ lão tám mươi. Nắm xôi là món quà thơm ngon hằng ngày rất được ưa thích của trẻ lên mười. Hình ảnh nắm xôi và trẻ lên mười thật xinh xắn, nhỏ bé, dễ thương, dễ mến!
Nhưng cuộc sống đâu chỉ có toàn chuyện vui, chuyện đáng yêu mà bên cạnh đấy còn có những chuyện đáng trách, đáng ghét nữa. Đó là hình ảnh người uống rượu đến mức say nhè mà bài đồng dao gọi là người lao đao. Hình ảnh người say ngật ngưỡng, chệnh choạng, đi không vững sau khi nhắm hết con gà, be rượu thật là đáng cười. Những lúc đó thì đúng là rượu nuốt người, chứ đâu phải người nuốt rượu nữa. Từ xưa, đồng dao đã giễu cợt, châm biếm tệ nghiện rượu, một thói xấu chỉ đem lại tác hại cho cuộc sống con người.
Ở đoạn cuối của bài đồng dao, tác giả tiếp tục dẫn dắt các em nhỏ đến với thế giới sinh động của các loài vật và cây cỏ. Nghệ thuật nói ngược làm cho việc miêu tả thêm ấn tượng và hiệu quả:
Lươn nằm cho trúm bò vào,
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô.
Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
Cỏ năn cỏ lác rình mò bắt trâu.
Gà con đuổi đánh diều hâu,
Chim ri đuổi đánh vỡ đẩu bồ nông.
Trong cuộc sống thường ngày, mọi việc diễn ra ngược lại như vậy: trũm được dùng để bắt lươn, cá rô bắt cào cào, bò ăn lúa mạ, trâu ăn cỏ năn, cỏ lác, diều hâu bắt gà con và bồ nông đuổi đánh chim ri… Nhưng với cái nhìn hài hước, hóm hỉnh, mọi trật tự của thiên nhiên có sự đảo lộn. Các động từ đuổi bắt, nhảy lên, rình mò, đuổi đánh vỡ đầu thật sinh động, ngộ nghĩnh, có khả năng miêu tả và biểu cảm kì lạ.
|
Assignment
In folk literature, there is a quite special genre: nursery rhymes. In fact, nursery rhymes are also folk songs, but they are often composed for children to read or sing when herding buffaloes and mowing grass in the fields or while playing on dikes and alleys. The identity of nursery rhymes is close to allegory, has the flavor of satirical poetry, combined with the inherent sweet lyricism of folk songs, very suitable for the innocence and curiosity of children. Nursery rhymes have diverse themes. Its range of descriptions is very wide: from plants and animals to social activities, children's games, etc. It opens up a whole wide world to children. The theme of nursery rhymes often describes the spirit of optimism and love for life, and at the same time contains the philosophy of life and worldview of working people in ancient feudal society. The nursery rhyme below is a rich picture of the natural world and human life:
How long until March,
The frog bit the snake's neck and carried it out into the field,
The tiger lay down and let the pig lick his fur
A dozen too pink to swallow the old eighty.
A handful of sticky rice swallowed by a ten-year-old child,
The drunken chicken swallowed the struggling person.
The eel lies down for the cow to hide in,
A flock of locusts chases perch.
Rice paddy jumped up to eat cows,
The squint grass prowls around to catch buffaloes.
The chicks chase and fight the hawk,
The bird chased and broke the pelican's head
The phenomena that the nursery rhyme describes are completely paradoxical and never happen in reality. Thereby, the author mocks absurd phenomena in society, while also mentioning the colorful twists and turns of the natural world and human life.
Analysis of the folk song "Until March, the frog bites the snake and lets it out into the field..."
The structure of this rhyme is an overlapping structure, mentioning many characters with many interesting and attractive events. The opening is a conventional question: How long until March? Reading the entire nursery rhyme, we see many phenomena in the poem that are not associated with March. For example, in March there are no roses, no locusts, etc. On the other hand, if phenomena such as a handful of sticky rice swallowing a ten-year-old child and a drunken chicken swallowing a struggling person are real, then they happen all year round, not It's only in March.
The phenomena described in this nursery rhyme would have nothing to say if told in plain terms. Talking backwards is a story, a story of life as well as a story of art. This way of speaking backwards is very common in rhymes and folk songs, for example, speaking backwards in rhymes: Go up the mountain to set firewood, go down to the river to chop firewood; speaking backwards in folk songs; When the loach lays banyan tree tops, when the starlings lay in the water, then I will marry you, when the lettuce makes a pavilion, when the ironwood is sliced, then you marry me...
In the entire next eleven lines of the rhyme, folk authors used the art of speaking backwards as the main artistic means to attract the listener's attention and deepen the knowledge they want to convey; thereby discreetly conveying your thoughts and feelings.
March is the time of late spring and early summer with showers, signaling changes in weather and climate. Here, March is conventional, symbolizing the desire for change in people's lives. The rhetorical question that opens the rhyme expresses that desire and longing:
How long until March,
The frog bit the snake's neck and carried it out into the field.
The tiger lay down and let the pig lick his hair,
Frogs are small animals that often live around the corners of ponds and puddles; Snakes are dangerous venomous animals, ancient enemies of frogs. March is here, which means opportunity has just arrived. The frog bit the snake's neck and released it into the field, surprised and gloating, satisfied because the frog had avenged his eternal revenge.
Pigs are gentle animals that only live around in gardens and cages, and are easy prey for large, ferocious lobsters. Yet now, the tiger obediently lies still while the pig licks his fur. What a strange story, the story of changing ranks!
Next, the poem turns to the topic of daily life:
A dozen persimmons swallow eighty people.
A handful of sticky rice swallowed by a ten-year-old child,
The drunken chicken swallowed the struggling person.
The lovely, bright red, ripe persimmons often seen during the Mid-Autumn Festival are precious gifts that children and grandchildren respectfully give to celebrate the eightieth birthday of the old man. Sticky rice is a delicious daily gift that is very popular with ten-year-old children. The image of a handful of sticky rice and a ten-year-old child is so pretty, small, cute, and endearing!
But life is not only full of happy and lovely things, but there are also reprehensible and hateful things. That is the image of a person who drinks to the point of intoxication, which the nursery rhyme calls a person in trouble. The image of a drunk person feeling overwhelmed, groggy, and unsteady on his feet after eating all the chicken and drinking alcohol is truly laughable. At those times, it is true that alcohol swallows the person, not the person who swallows the alcohol. Since ancient times, nursery rhymes have mocked and satirized alcoholism, a bad habit that only brings harm to people's lives.
At the end of the rhyme, the author continues to lead children to the lively world of animals and plants. The art of speaking backwards makes the description more impressive and effective:
The eel lies down for the cow to hide in,
A flock of locusts chases perch.
Rice paddy jumped up to eat cows,
The squint grass prowls around to catch buffaloes.
The chicks chase and fight the hawk,
The robin chased and broke the pelican's head.
In everyday life, things happen the other way around: cymbals are used to catch eels, perch to catch locusts, cows eat rice seedlings, buffaloes eat grass, sedge grass, hawks catch chicks and pelicans chase them. beat the bird... But with a humorous, witty look, all the order of nature is reversed. The verbs to chase, jump, stalk, chase and break heads are lively, funny, and have strange descriptive and expressive abilities.
|
Bài làm
Câu ca dao này nói về tâm sự buồn bã, thất vọng và xấu hổ của người vợ có anh chồng lười nhác, hèn kém về mọi mặt.
Cặp từ Chồng người… Chồng em như một cặp đối xứng chứa đựng ý nghĩa so sánh hơn thua. Chị vợ không muốn hạ thấp tài và chí của chồng mình vì như dân gian đã nói: Xấu chàng hổ ai?. Nhưng hiện thực khách quan thì không thể bao che, bênh vực. Người vợ buộc phải thốt ra lời than thở về sự thực rất đáng buồn. Đó là cảnh trái ngược giữa Chồng người và Chồng em, giữa hai thái cực đi ngược về xuôi, tung hoành ngang dọc, thỏa chí tang bồng và quanh quanh quẩn quẩn hết ngày này sang ngày khác ngồi bếp sờ đuôi con mèo – một việc làm vô bổ, vô ích và đáng cười. Đó là hình ảnh của những ông chồng đoảng chí, nhút nhát, chỉ dám ra vào bảy xó nhà ba xó bếp. Họ không đáng mặt nam nhi, không thể là chỗ dựa đáng tin cậy của vợ con và xã hội.
Trong câu ca dao, hình ảnh người đàn ông hiện lên vừa hài hước vừa thảm hại. Tác giả dân gian đã thâu tóm đúng thần thái nhân vật trong một chi tiết thật đắt, có giá trị khái quát cao, tiêu biểu cho một loại đàn ông èo uột, lười nhác, ăn bám vợ. Chi tiết sờ đuôi con mèo vừa gây cười vừa hàm chứa ý nghĩa phê phán sâu xa: Anh chồng kia có khác gì con mèo lười nhác, trời rét chỉ quanh quẩn ở xó bếp để sưởi và… ăn vụng. Đó là loại đàn ông vô tích sự, không có phong độ của bậc nam nhi. Loại đàn ông này không ít trong xã hội và đã thành đối tượng châm biếm, chế giễu của ca dao:
Chồng người bể Sở sông Ngô,
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần.
Làm trai cho đáng nên trai,
Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu.
Làm trai cho đáng nên trai,
Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con.
|
Assignment
This folk song talks about the sadness, disappointment and shame of a wife whose husband is lazy and inferior in every way.
The pair of words Husband... My husband is like a symmetrical pair containing the meaning of comparison. The wife does not want to lower her husband's talent and ambition because, as the people say: Who is the shame of an ugly man? But objective reality cannot be covered up or defended. The wife was forced to utter a lament about a very sad truth. That's the contrasting scene between your husband and my husband, between the two extremes of going back and forth, moving sideways, indulging in mourning and hanging around day after day sitting in the kitchen and touching the cat's tail - one thing. useless, useless and laughable. That is the image of frustrated, timid husbands who only dare to go in and out of the seven corners of the house and three corners of the kitchen. They are not worthy of being men and cannot be a reliable support for their wives, children and society.
In the folk song, the image of a man appears both humorous and pathetic. The folk author has captured the true spirit of the character in a very valuable detail, with high general value, representing a type of man who is weak, lazy, and dependent on his wife. The detail of touching the cat's tail is both amusing and contains a profound critical meaning: That husband is no different from a lazy cat, who only hangs around in the corner of the kitchen in the cold to warm up and... eat secretly. That is the type of man who is useless and has no manly manners. This type of man is not uncommon in society and has become the object of satire and ridicule in folk songs:
Her husband is from the So Ngo river,
My husband sits in the kitchen, roasting corn and his pants burn.
Younger son should do for good,
Having dinner with my wife, I insisted on cleaning the pot.
Younger son should do for good,
Sharpen your chopsticks to make it longer to eat rice.
|
Bài làm:
Truyện An Dương vương và Mị Châu, Trọng Thủy là một truyền thuyết nổi tiếng, gắn liền với những biến cố lịch sử to lớn của đất nước ta thời kì Âu Lạc.
Xung quanh các nhân vật có rất nhiều ý kiến đánh giả khác nhau, thậm chí trái ngược. Chúng ta thử phân tích xem tình cảm và suy nghĩ của người xưa đối với mỗi nhân vật trong truyện như thế nào?
Trước hết là An Dương Vương. Sau khi kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng Vương, An Dương vương Thục Phán đã đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc và dời đô từ Phong Châu về đất Phong Khê (tức vùng Đông Anh, ngoại thành Hà Nội ngày nay).
An Dương vương là.một nhân vật anh hùng nhưng cuộc đời của ông lại kết thúc bằng một bi kịch, ở cương vị lãnh đạo tối cao của đất nước, ông đã ngày đêm suy nghĩ để tìm cách xây dựng thành cổ Loa. Việc xây thành đắp lũy gặp vô vàn khó khăn, gian khổ. Truyện kể rằng, thành cử ngày xây đêm lại đổ, nguyên nhân là do lũ yêu quái quấy phá. An Dương Vương phải lập đàn trai giới, cẩu đảo bách thần. Được sứ Thanh Giang giúp đỡ, thành mới xây xong.
Tác giả dân gian đã hình tượng hóa những khó khăn trở ngại mà An Dương Vương gặp phải trong quá trình xây thành để truyền thuyết đậm chất hoang đường, kì ảo. Hình ảnh cụ già từ phương Đông đi tới trước cổng thành nói với An Dương Vương là sẽ có sứ Thanh Giang tới giúp; hình ảnh Rùa Vàng nói sõi tiếng người, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quy thần và giúp An Dương Vương xây thành chỉ trong nửa tháng đã xong cũng chính là sản phẩm tưởng tượng tuyệt đẹp của người xưa để thần thánh hóa trí tuệ, tài năng của những bề tôi xuất sắc đã hỗ trợ nhà vua khắc phục bao trở ngại tưởng chừng khó vượt qua.
Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành, hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Điều đó cho thấy công lao to lớn của An Dương vương đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, vốn có tầm nhìn xa trông rộng nên xây xong thành, An Dương Vương nghĩ ngay đến việc giữ nước.
Nhà vua hỏi Rùa Vàng:”… Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh Trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận…”. Rùa Vàng tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói: “Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”.
Nghe lời Rùa Vàng, An Dương vương sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt Rùa Vàng làm lẫy, gọi là “Linh quang Kim Quy thần cơ”, bắn một phát chết hàng vạn giặc. Vì thế mà Triệu Đà ở phương Bắc kéo quân sang xâm lược đã thua lớn, phải cầu hòa.
Cậy có nỏ thần, An Dương Vương sinh ra kiêu ngạo, chủ quan, khinh địch. Trong khỉ đó, mưu trí và tỉnh táo là những điều kiện quan trọng không thể thiếu đối với người lãnh đạo tối cao của một đất nước. Từ kiêu ngạo, chủ quan dẫn đến mất cảnh giác chẳng bao xa.
Quả nhiên, An Dương Vương đã mắc mưu sâu của Triệu Đà mà không biết. Nhà vua dễ dàng chấp thuận lời cầu hòa, rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà, kẻ thù không đội trời chung mà ông đã phải đương đầu cách đây chưa lâu. Đó là sai lầm ghê gớm nhất. Mất tỉnh táo, An Dương Vương liên tục mắc sai lầm và ngày càng nghiêm trọng, ông không chỉ gả con gái yêu cho con trai kẻ thù mà còn để Trọng Thủy vào ở rể trong thành. Hành động này của ông có khác chỉ nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà. ông không biết rằng tên do thám nguy hiểm đang đội lốt một hoàng tử hào hoa, một chàng rể dễ mến. Sai lầm của ông là tiền đề dẫn đến những sai lầm tai hại của Mị Châu sau này.
Có lẽ tác giả dân gian đã rất thâm thúy và tinh tế khỉ chọn những chi tiết đặc tả An Dương Vương lúc nghe tin Triệu Đà cất quân sang xâm lược lần thứ hai: Vua cậy có nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nỏi rằng: “Đà không sợ nỏ thân sao?”. An Dương Vương không thể ngờ Trọng Thủy dám đánh tráo lẫy thần nên vẫn ung dung chờ giặc. Đáng giận và cũng đáng thương thay!
Quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đà mất bèn bỏ chạy, Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa roi cùng nhau chạy về phương Nam. Rõ ràng, đang từ vị trí vinh quang của người chiến thắng, An Dương Vương đã rơi vào tình thế thảm hại của kè chiến bại. Đến bờ biển, cùng đường tắc lối, An Dương Vương ngửa mặt than: Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu! Chi tiết này phản ảnh rất rõ sự bế tắc trong nhận thức của An Dương Vương, ông đã say sưa với chiến thắng, ỷ lại vào thần linh mà quên đi lời dặn của Rùa Vàng lúc chia tay: Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh Trời, con người có thể tụ đức mà kéo dài thời vận. An Dương vương đã không tu đức – cái đức của người gánh trên vai trách nhiệm nặng nề đối với sự tồn vong của sơn hà, xã tắc, cho nên ông đã bị tước mất cái thế trời che, đất chở.
Cái kết cục bi thảm nhà tan, nước mất đương nhiên lỗi lớn là ở An Dương Vương. Lúc lâm vào thể cùng đường, ông kêu lớn: Trời hại ta!nhưng thực chất là chính ông và thêm nữa là cô con gái yêu quý đã vô tình làm hại ông. Ông cầu cứu đến Rùa Vàng. Rùa Vàng hiện ra và thét lớn: Kẻ ngồi sau lưng ngựa chính là giặc đó! Tiếng thét của Rùa Vàng thức tỉnh An Dương Vương, ông hiểu ra ngay nguyên cớ của thảm họa mất nước nên đành phải chém chết Mị Châu. Tác giả dân gian đã thể hiện qua tiếng thét ấy sự bất bình, phẫn nộ của nhân dân đối với sai lầm không thể tha thứ của cha con An Dương Vương. Cuối cùng, Rùa Vàng cũng cứu ông. Cầm sừng tê bảy tấc, An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ nước dẫn xuống Thủy cung. Như vậy là thái độ của nhân dân rất phân minh, rạch ròi trước công và tội của người đứng đầu đất nước Âu Lạc thời bấy giờ. Thất bại của An Dương vương là bài học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc tinh thần cảnh giác trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Còn Mị Châu, tội của nàng là vô tình tiếp tay cho giặc. Người con gái ngây thơ, xinh đẹp ấy một lòng một dạ yêu chổng, tin chổng, chỉ thuận theo tình cảm vợ chổng mà quên đi nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước. Nàng dễ dàng đáp ửng yêu cầu của Trọng Thủy là đòi xem tận mắt nỏ thần mà không hề nghĩ rằng đó là báu vật, là bí mật quốc gia, liên quan đến sự mất còn của đất nước. Nàng lại càng không thể phát hiện ra Trọng Thủy là một tên do thám nguy hiểm, cho nên đã đặt vào chổng trọn vẹn tình cảm yêu thương, tin tưởng.
Lấy được lẫy thần, Trọng Thủy vịn cớ xin về nước thăm cha và khi chia tay đã nói một câu đầy ẩn ý: … nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu? thì Mị Châu vẫn hồn nhiên đáp: Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đởn khôn xiết Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lồng mà rắc ở ngả ba đường để làm dấu, như vậy cô thể sẽ cửu được nhau. Bỉ kịch mất nước đã xảỵ ra ngay sau đó. Hai chạ con An Dương vương phải lên ngựa chạy trốn mả Mị Châu vẫn không nhận thức được tình thế hiểm nguy cho tính mạng của vua cha và bản thân, vẫn giữ đúng lới hứa với Trọng Thủy là rắc lông ngỗng làm dấu. Hành động ấy của nàng vô tình chỉ đường dẫn lối cho kẻ thù truy sát An Dương Vương. Thần Kim Quy tức Rùa Vàng kết tội Mị Châu là giặc quả không sai chút nào, dẫu nàng hoàn toàn không biết rằng những hành động của mình là trọng tội.
Có lẽ vì thông cảm và thương xót Mị Châu phần nào nên tác giả dân gian đã để cho Mị Châu trước khi bị cha chém đầu đã tỉnh ngộ, nhận ra là mình bị lừa dối, bị phản bội: Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. Chỉ tiết máu Mị Châu chảy xuống biển, một loài trai ăn phải sinh ra ngọc quý và hình ảnh xác nàng biến thành ngọc thạch phản ánh thái độ vừa nghiêm khắc, vừa bao dung của người xưa đối với cô công chúa tội nghiệp, đáng thương, đồng thời cũng là lời nhắc nhở các thế hệ trẻ muôn đời sau hãy đừng vì tình riêng mà quên đi nghĩa vụ công dân đối với đất nước và dân tộc.
Nhân vật thứ ba là nhân vật Trọng Thủy – kẻ vừa đáng lên án vì giữ vai trò tích cực giúp cho Triệu Đà thực hiện âm mưu xâm lược nhưng cũng vừa là nạn nhân của chính cuộc chiến tranh phi nghĩa đó.
|
Bài làm:
Truyện An Dương vương và Mị Châu, Trọng Thủy là một truyền thuyết nổi tiếng, gắn liền với những biến cố lịch sử to lớn của đất nước ta thời kì Âu Lạc.
Xung quanh các nhân vật có rất nhiều ý kiến đánh giả khác nhau, thậm chí trái ngược. Chúng ta thử phân tích xem tình cảm và suy nghĩ của người xưa đối với mỗi nhân vật trong truyện như thế nào?
Trước hết là An Dương Vương. Sau khi kế tục sự nghiệp dựng nước của 18 đời Hùng Vương, An Dương vương Thục Phán đã đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc và dời đô từ Phong Châu về đất Phong Khê (tức vùng Đông Anh, ngoại thành Hà Nội ngày nay).
An Dương vương là.một nhân vật anh hùng nhưng cuộc đời của ông lại kết thúc bằng một bi kịch, ở cương vị lãnh đạo tối cao của đất nước, ông đã ngày đêm suy nghĩ để tìm cách xây dựng thành cổ Loa. Việc xây thành đắp lũy gặp vô vàn khó khăn, gian khổ. Truyện kể rằng, thành cử ngày xây đêm lại đổ, nguyên nhân là do lũ yêu quái quấy phá. An Dương Vương phải lập đàn trai giới, cẩu đảo bách thần. Được sứ Thanh Giang giúp đỡ, thành mới xây xong.
Tác giả dân gian đã hình tượng hóa những khó khăn trở ngại mà An Dương Vương gặp phải trong quá trình xây thành để truyền thuyết đậm chất hoang đường, kì ảo. Hình ảnh cụ già từ phương Đông đi tới trước cổng thành nói với An Dương Vương là sẽ có sứ Thanh Giang tới giúp; hình ảnh Rùa Vàng nói sõi tiếng người, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quy thần và giúp An Dương Vương xây thành chỉ trong nửa tháng đã xong cũng chính là sản phẩm tưởng tượng tuyệt đẹp của người xưa để thần thánh hóa trí tuệ, tài năng của những bề tôi xuất sắc đã hỗ trợ nhà vua khắc phục bao trở ngại tưởng chừng khó vượt qua.
Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành, hay còn gọi là Quỷ Long Thành. Điều đó cho thấy công lao to lớn của An Dương vương đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, vốn có tầm nhìn xa trông rộng nên xây xong thành, An Dương Vương nghĩ ngay đến việc giữ nước.
Nhà vua hỏi Rùa Vàng:”… Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh Trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận…”. Rùa Vàng tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói: “Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”.
Nghe lời Rùa Vàng, An Dương vương sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt Rùa Vàng làm lẫy, gọi là “Linh quang Kim Quy thần cơ”, bắn một phát chết hàng vạn giặc. Vì thế mà Triệu Đà ở phương Bắc kéo quân sang xâm lược đã thua lớn, phải cầu hòa.
Cậy có nỏ thần, An Dương Vương sinh ra kiêu ngạo, chủ quan, khinh địch. Trong khỉ đó, mưu trí và tỉnh táo là những điều kiện quan trọng không thể thiếu đối với người lãnh đạo tối cao của một đất nước. Từ kiêu ngạo, chủ quan dẫn đến mất cảnh giác chẳng bao xa.
Quả nhiên, An Dương Vương đã mắc mưu sâu của Triệu Đà mà không biết. Nhà vua dễ dàng chấp thuận lời cầu hòa, rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà, kẻ thù không đội trời chung mà ông đã phải đương đầu cách đây chưa lâu. Đó là sai lầm ghê gớm nhất. Mất tỉnh táo, An Dương Vương liên tục mắc sai lầm và ngày càng nghiêm trọng, ông không chỉ gả con gái yêu cho con trai kẻ thù mà còn để Trọng Thủy vào ở rể trong thành. Hành động này của ông có khác chỉ nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà. ông không biết rằng tên do thám nguy hiểm đang đội lốt một hoàng tử hào hoa, một chàng rể dễ mến. Sai lầm của ông là tiền đề dẫn đến những sai lầm tai hại của Mị Châu sau này.
Có lẽ tác giả dân gian đã rất thâm thúy và tinh tế khỉ chọn những chi tiết đặc tả An Dương Vương lúc nghe tin Triệu Đà cất quân sang xâm lược lần thứ hai: Vua cậy có nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nỏi rằng: “Đà không sợ nỏ thân sao?”. An Dương Vương không thể ngờ Trọng Thủy dám đánh tráo lẫy thần nên vẫn ung dung chờ giặc. Đáng giận và cũng đáng thương thay!
Quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đà mất bèn bỏ chạy, Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa roi cùng nhau chạy về phương Nam. Rõ ràng, đang từ vị trí vinh quang của người chiến thắng, An Dương Vương đã rơi vào tình thế thảm hại của kè chiến bại. Đến bờ biển, cùng đường tắc lối, An Dương Vương ngửa mặt than: Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu! Chi tiết này phản ảnh rất rõ sự bế tắc trong nhận thức của An Dương Vương, ông đã say sưa với chiến thắng, ỷ lại vào thần linh mà quên đi lời dặn của Rùa Vàng lúc chia tay: Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh Trời, con người có thể tụ đức mà kéo dài thời vận. An Dương vương đã không tu đức – cái đức của người gánh trên vai trách nhiệm nặng nề đối với sự tồn vong của sơn hà, xã tắc, cho nên ông đã bị tước mất cái thế trời che, đất chở.
Cái kết cục bi thảm nhà tan, nước mất đương nhiên lỗi lớn là ở An Dương Vương. Lúc lâm vào thể cùng đường, ông kêu lớn: Trời hại ta!nhưng thực chất là chính ông và thêm nữa là cô con gái yêu quý đã vô tình làm hại ông. Ông cầu cứu đến Rùa Vàng. Rùa Vàng hiện ra và thét lớn: Kẻ ngồi sau lưng ngựa chính là giặc đó! Tiếng thét của Rùa Vàng thức tỉnh An Dương Vương, ông hiểu ra ngay nguyên cớ của thảm họa mất nước nên đành phải chém chết Mị Châu. Tác giả dân gian đã thể hiện qua tiếng thét ấy sự bất bình, phẫn nộ của nhân dân đối với sai lầm không thể tha thứ của cha con An Dương Vương. Cuối cùng, Rùa Vàng cũng cứu ông. Cầm sừng tê bảy tấc, An Dương Vương được Rùa Vàng rẽ nước dẫn xuống Thủy cung. Như vậy là thái độ của nhân dân rất phân minh, rạch ròi trước công và tội của người đứng đầu đất nước Âu Lạc thời bấy giờ. Thất bại của An Dương vương là bài học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc tinh thần cảnh giác trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Còn Mị Châu, tội của nàng là vô tình tiếp tay cho giặc. Người con gái ngây thơ, xinh đẹp ấy một lòng một dạ yêu chổng, tin chổng, chỉ thuận theo tình cảm vợ chổng mà quên đi nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước. Nàng dễ dàng đáp ửng yêu cầu của Trọng Thủy là đòi xem tận mắt nỏ thần mà không hề nghĩ rằng đó là báu vật, là bí mật quốc gia, liên quan đến sự mất còn của đất nước. Nàng lại càng không thể phát hiện ra Trọng Thủy là một tên do thám nguy hiểm, cho nên đã đặt vào chổng trọn vẹn tình cảm yêu thương, tin tưởng.
Lấy được lẫy thần, Trọng Thủy vịn cớ xin về nước thăm cha và khi chia tay đã nói một câu đầy ẩn ý: … nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu? thì Mị Châu vẫn hồn nhiên đáp: Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đởn khôn xiết Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lồng mà rắc ở ngả ba đường để làm dấu, như vậy cô thể sẽ cửu được nhau. Bỉ kịch mất nước đã xảỵ ra ngay sau đó. Hai chạ con An Dương vương phải lên ngựa chạy trốn mả Mị Châu vẫn không nhận thức được tình thế hiểm nguy cho tính mạng của vua cha và bản thân, vẫn giữ đúng lới hứa với Trọng Thủy là rắc lông ngỗng làm dấu. Hành động ấy của nàng vô tình chỉ đường dẫn lối cho kẻ thù truy sát An Dương Vương. Thần Kim Quy tức Rùa Vàng kết tội Mị Châu là giặc quả không sai chút nào, dẫu nàng hoàn toàn không biết rằng những hành động của mình là trọng tội.
Có lẽ vì thông cảm và thương xót Mị Châu phần nào nên tác giả dân gian đã để cho Mị Châu trước khi bị cha chém đầu đã tỉnh ngộ, nhận ra là mình bị lừa dối, bị phản bội: Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. Chỉ tiết máu Mị Châu chảy xuống biển, một loài trai ăn phải sinh ra ngọc quý và hình ảnh xác nàng biến thành ngọc thạch phản ánh thái độ vừa nghiêm khắc, vừa bao dung của người xưa đối với cô công chúa tội nghiệp, đáng thương, đồng thời cũng là lời nhắc nhở các thế hệ trẻ muôn đời sau hãy đừng vì tình riêng mà quên đi nghĩa vụ công dân đối với đất nước và dân tộc.
Nhân vật thứ ba là nhân vật Trọng Thủy – kẻ vừa đáng lên án vì giữ vai trò tích cực giúp cho Triệu Đà thực hiện âm mưu xâm lược nhưng cũng vừa là nạn nhân của chính cuộc chiến tranh phi nghĩa đó.
|
Bài làm
Bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp là vấn đề đang được cả thế giới quan tâm. Có rất nhiều hội nghị tầm cỡ toàn cầu hoặc khu vực đã được tể chức để bàn bạc và tìm ra hướng giải quyết nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hiện nay. Trong mấy năm gần đây, những thiên tai ghê gớm, khủng khiếp như động đất, sóng thần, cháy rừng, lũ lụt… xảy ra liên miên, chứng tỏ bà mẹ thiên nhiên đang nổi giận và trừng phạt loài người vì những hành vi cố tình xâm phạm và phá vỡ quy luật cân bằng sinh thái.
Ở Việt Nam, ô nhiễm môi trường sống cũng là một vấn đề nan giải vì nó gây ra hàng loạt hậu quả nghiêm trọng. Có thể lấy hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh làm dẫn chứng để chứng minh cho vấn đề này.
Điều đáng buồn là hiện tượng vứt rác, xả rác ra đường, ra những nơi công cộng rất phổ biến. Đó là hành động thể hiện ý thức bảo vệ môi trường quá kém, thể hiện nếp sống thiếu văn hóa, văn minh. Nguyên nhân của hiện tượng này là do lối sống lạc hậu, ích kỉ, chỉ biết đến quyền lợi cá nhân. Người ta nghĩ đơn giản rằng chỉ cần nhà mình sạch là được, còn những chỗ khác thì mặc kệ. Cho nên rác rưởi, đồ phế thải, xác súc vật chết… cứ “vô tư” ném toẹt ra đường vì đã có đội vệ sinh dọn dẹp. Cách nghĩ như thế là vô cùng thiển cận. Nhiều người nghĩ sai, làm sai sẽ dẫn đến tình trạng rác rưởi đầy đường, đầy vườn hoa, sông hồ, kênh rạch… gây mất mĩ quan thành phố và vô tình tiếp tay cho các dịch bệnh có điều kiện thuận lợi để phát triển, làm suy yếu sức khỏe của con người.
Nếu có dịp đặt chân tới thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, chắc du khách sẽ rất ấn tượng về một thành phố của cây xanh, nhưng đồng thời cũng là thành phố của rác. Rác hiện diện khắp nơi: trên đường phố, trên cả những thắng cảnh nổi tiếng như Hồ Gươm, Hồ Tây, hồ Trúc Bạch và lan tràn cả đến những nơi tôn nghiêm như Văn Miếu – Quốc Tử Giám cùng các ngôi chùa cổ kính. Còn bến tàu, bến xe, công viên… thì không chỗ nào mà không có rác.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, vài năm trở lại đây tình hình có khá hơn. Tệ nạn vứt rác ra đường đã giảm bớt, tuy vậy ở các khu nhà dân ven kênh rạch hoặc gần chợ búa ở ngoại thành thì tình hình ô nhiễm vẫn đáng sợ. Rác chất thải “sống chung” với người hết năm này qua năm khác. Chính quyền thành phố đã phải tốn nhiều công sức, tiền bạc để giải quyết vấn đề nhức nhối này nhưng vẫn chưa thể dứt điểm.
Tệ nạn thứ hai là khí thải, chất thải từ các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất trong nội thành cũng thường xuyên gây ô nhiễm nghiêm trọng. Khói bụi, tiếng ồn, mùi hôi thối… ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của cả cộng đồng. Tình trạng này cũng đang được cải thiện bằng cách di dời các nhà máy, xí nghiệp… ra vùng ngoại vi thành phố, xa hẳn khu vực dân cư sinh sống và xây dựng hệ thống lọc nước thải công nghiệp đúng tiêu chuẩn an toàn.
Một vấn đề nhức nhối khác là nạn “lâm tặc” phá rừng và việc đồng bào vùng cao khai hoang làm rẫy cũng góp phần không nhỏ vào việc phá rừng. Chủ trương đóng cửa rừng, giao rừng cho dân quản lí… hầu như rất ít hiệu quả. Nhiều người chỉ nhìn thấy nguồn lợi trước mắt là lâm sản khai thác được từ rừng mà không nhận thức được hậu quả lâu dài. Tàn phá rừng đồng nghĩa với tàn phá cái nôi của sự sống, tàn phá chính cuộc sống của mình. Nạn lũ lụt, núi lở, lũ quét, lũ ống hàng năm cướp đỉ sinh mạng của bao người. Đất đai bạc màu, xói mòn… vì không được rừng bảo vệ. Nguồn dưỡng khí từ rừng càng ngày càng ít đi, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của con người.
|
Assignment
Protecting a green - clean - beautiful living environment is an issue of concern to the whole world. Many global or regional conferences have been organized to discuss and find solutions to the current serious environmental pollution problem. In recent years, terrible and terrible natural disasters such as earthquakes, tsunamis, forest fires, floods... have occurred continuously, proving that mother nature is angry and punishing humans for their actions. intentionally violating and breaking the laws of ecological balance.
In Vietnam, environmental pollution is also a difficult problem because it causes a series of serious consequences. Two large cities, Hanoi and Ho Chi Minh City, can be used as evidence to prove this issue.
The sad thing is that the phenomenon of throwing trash and littering on the streets and in public places is very common. This is an action that shows poor awareness of environmental protection and shows a lack of culture and civilization. The cause of this phenomenon is due to a backward, selfish lifestyle that only knows personal interests. People simply think that as long as their house is clean, they don't care about other places. Therefore, trash, waste, dead animals... are "carelessly" thrown onto the street because there is a cleaning team to clean it up. Such thinking is extremely short-sighted. Many people think wrongly and do wrong things that will lead to trash filling the streets, flower gardens, rivers, lakes, canals... causing loss of city beauty and unintentionally supporting epidemics that have favorable conditions to develop. , weakening human health.
If you have the opportunity to set foot in the thousand-year-old capital of Hanoi, visitors will surely be very impressed with a city of greenery, but at the same time a city of trash. Garbage is present everywhere: on the streets, on famous landscapes such as Hoan Kiem Lake, West Lake, Truc Bach Lake and spread even to sacred places such as the Temple of Literature - Quoc Tu Giam and ancient pagodas. As for train stations, bus stations, parks... there is no place without trash.
In Ho Chi Minh City, in recent years the situation has gotten better. The problem of throwing trash on the street has decreased, but in residential areas along canals or near markets in the suburbs, the pollution situation is still scary. Waste "lives" with people year after year. The city government has spent a lot of effort and money to solve this painful problem but it still cannot be resolved.
The second evil is that emissions and waste from factories, enterprises, and production facilities in the inner city often cause serious pollution. Dust, noise, stench... greatly affect the health of the entire community. This situation is also being improved by relocating factories, plants... to the outskirts of the city, far away from residential areas and building an industrial wastewater filtration system that meets safety standards.
Another painful problem is the problem of "loggers" destroying forests and the reclamation of highland people for farming also contributes significantly to deforestation. The policy of closing forests and handing forests over to people to manage... is hardly effective. Many people only see the immediate benefits of forest products exploited from the forest without being aware of the long-term consequences. Destroying forests means destroying the cradle of life, destroying one's own life. Floods, landslides, flash floods, and pipe floods every year claim the lives of many people. The land is degraded, eroded... because it is not protected by forests. The source of oxygen from the forest is becoming less and less, significantly affecting human life.
|
Bài làm
Mạch thơ « Hoàng Hạc Lâu » được triển khai theo đúng đường đi của mọi triết thuyết nói chung – cái đường đi xin tạm được đơn giản hóa như sau: thoạt đầu là sự ghi nhận về một hiện thực ; bước tiếp theo: triết lí về hiện thực đó, rút ra những vấn đề có ý nghĩa quy luật ; cuối cùng là việc đề nghị với nhân quần một thái độ ứng xử thích hợp.
Tính nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Bài thơ mở ra với những nét ghi nhận về cái tiêu vong. Như đối với mọi bài thơ Đường khác, cái gây ấn tượng mạnh ở đây không phải là những hình ảnh cụ thể cảm tính. Điều đáng chú ý là tác giả đã liên hệ đối sách hai thì của thời gian lịch sử. Ở thì hiện tại, quan cảnh không phải hoàn toàn hoang phế. Còn đó lầu Hoàng Hạc bên bờ sông,, vẫn thường đón du khách từ muôn phương đến viếng thăm. Nhưng thật lạ, cái còn này lại nói lên rất rõ cái mất. Thì ra Hoàng Hạc Lâu chỉ là một vế của phương trình đã được cân bằng thuở trước, vì thế, nửa còn lại chơi vơi này cứ khêu tâm trí người ta nghĩ đến một nửa nào đã chìm khuất trong thời gian chảy xiết vô địch.
Hoàng Hạc Lâu
Hai câu này được Tản Đà dịch:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Lời dịch thuật hay, nhưng so với nguyên tác, sắc thái biểu cảm có khác. Ở đây, tâm trạng hụt hẫng và bâng khuâng của nhà thơ có vẻ nổi lộ hơn qua câu thơ có màu sắc nghi vẫn (ai, đi đâu) và qua chữ « trơ » đầy ấn tượng, tách đứng cuối câu với sức nặng riêng của sự cô lập. Trong khi đó, lời thơ nguyên tác thể hiện một sự tiết chế những biểu hiện quá mạnh của cảm xúc, tỏ ra điềm tĩnh để cảm nhận cho thấu triệt ý nghĩa của tâm trạng. Đây chính là một vấn đề thuộc về thi pháp của thơ Đường. Hai câu sau bắt đầu đi vào triết lý trực tiếp qua việc nêu lên một sự đối lập mới:
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
(Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay)
Đó là sự đối lập giữa một bên là cái tiêu trầm không thể vãn hồi (của những kiếp người hữu hạn của những triều đại thuộc về dĩ vãng chăng?), với một bên là cái trường tồn của thiên nhiên, cái mạnh mẽ và vô tình của quy luật cuộc sống. Những thanh trắc dày đặc ở câu thứ ba đã dựng nên trập trùng những trở ngại để chẳng đường về của quá khứ. Âm điệu câu thơ gọi cảm giác ấm ức, không thanh thản. Thoắt đến câu thứ tư, mấy thanh bằng liên tiếp dẫn tâm tư người đọc theo áng mây trắng nghìn năm trôi nhẹ vào cái xa xăm của miền suy tưởng. Sự chuyển điệu của bài thơ cũng ngụ tính triết lí. Nhập vào nó, người đọc sẽ có cảm tưởng như vừa trải qua một tiến trình nhận thức có đột biến. Từ chỗ vật vã với những sự kiện thực tế, cõi lòng bỗng chốc đã tìm được sự thanh thản trong việc nhận thức ra quy luật, trong việc xác lập một chỗ đứng mới để thẩm định các giá trị ở đời:
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Song, ngẫm cho cùng, đây chỉ là một bức phon cảnh triết học, cũng như câu thơ thứ tư không chỉ có ý nghĩa ở phương diện gợi tả. Vấn đề là nhà thơ đã không triết lí bằng ngôn ngữ luận lí khô khan, mà bằng ngôn ngữ thiên nhiên, hay nói cách khác là đã bố trí cho thiên nhiên tự phát biểu triết lí của mình. Điều này làm tăng sức thuyết phục cho vấn đề có giá trị như sự khám phá quy luật đã được nói rõ ở các câu trước. Nó cũng làm cho điệu thơ trở nên mềm hoạt và gợi cảm hơn. Quả đây là một cách «luận » độc đáo và có hiệu quả, nếu đúng thuở xưa các nhà thơ ý định dành riêng hai câu năm, sáu để « luận ».
Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu
Khi dịch hai câu thơ này, nhất quán với phong cách thơ mình và phon cách thơ của thời đại mới, Tản Đà đã đưa thêm vào bức tranh những đặc tính cá biệt:
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Những từ « bày », « xa », « dày », « non » đã làm tăng tính chất tri giác cảm quan của câu thơ, trong khi theo thi pháp của thơ Đường, những « tình xuyên », « phương thảo », « lịch lịch », « thê thê » rất ít màu sắc cụ thể mà lại nặng tính chất khái quát.
Ba phần tư bài thơ nói chung quanh chuyện ngôi lầu. Đến câu thứ bảy, một câu hỏi xuất hiện, khá lạ là:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Sao ở chỗ này lại có băn khoăn ấy? (Chiều tối rồi, quê hương ở nơi đâu?). Rõ ràng ở đây nhà thơ không phải đang lâm vào tình cảnh như của Đỗ Phủ khi ông ta viết « Cô chu nhất hệ cố viên tâm », cũng không phải có tâm trạng như tâm trạng của Lí Bạch khi vị « thi tiên » này « Đăng Kim Lăng Phương Hoàng đài » để ngóng vọng Trường An và than « Trường An bất kiến sử nhân sầu ».
Thực ra, như đã nói ở trên, hai câu cuối này chủ yếu xuất hiện theo logic của việc lập thuyết. Càng nhận thức được cái khắc nghiệt ngã của quy luật, cái khoảnh khắc phù du của đời người trên cái nền trường cửu của thiên nhiên, người ta càng có cảm giác ớn lạnh, cô đơn. Đây chính là lúc hình ảnh quê hương hiện lên, xoáy vào tâm trí một nỗi niềm da diết. Tất nhiên, quê hương ở đây không phải chỉ giới hạn trong ý nghĩa là nơi chôn rau cắt rốn, nơi có gia đình, có mồ mả tổ tiên… mà chính là một điểm tựa của cõi lòng, là nơi trú ẩn cuối cùng của những tâm hồn không tìm được sự bình an khi hướng ngoại và là đối cựu của những cái vạn biến trong cuộc đời. Ý nghĩa của vấn đề càng được khẳng định mãnh mẽ qua việc tác giả nêu lên một hoàn cảnh không thuận chiếu: hoàn hôn đã xuống mà hình bóng quê hương chẳng thấy. Trên sông, khói sóng nổi lên…
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
|
Assignment
The poetic flow of « Hoang Hac Lau » is developed according to the path of all philosophical theories in general - a path that can be temporarily simplified as follows: at first it is the recognition of a reality; the next step: philosophize about that reality, draw out issues of normative significance; Finally, it is about suggesting an appropriate behavior to the people.
The nature of human nature is beyond the Yellow Crane
Test the land without leaving Hoang Hac Lau
The poem opens with notes about destruction. As with all other Tang poems, what makes a strong impression here is not the specific emotional images. What is worth noting is that the author has related the two tenses of historical time. In the present tense, the landscape is not completely deserted. There is still the Hoang Hac pagoda on the riverbank, which often welcomes tourists from all over to visit. But strangely, this remaining thing clearly shows the loss. It turns out that Hoang Hac Lau is just one side of the equation that was previously balanced, so this loose remaining half keeps making people think of which half has been lost in the invincible flow of time.
Hoang Hac Lau
These two sentences were translated by Tan Da:
Who rides the golden crane and goes where?
But here, the Hoang Hac private building is still bare.
The translation is good, but compared to the original, the expression is different. Here, the poet's feeling of disappointment and uncertainty seems to be more evident through the verses that are filled with doubt (who, where to go) and through the impressive word "inert" that stands at the end of the sentence with its own weight. of isolation. Meanwhile, the original poem's lyrics show moderation in too strong expressions of emotion, showing composure to fully feel the meaning of the mood. This is a problem of the poetics of Tang poetry. The following two sentences begin to enter philosophy directly by raising a new opposition:
Hoang Hac refused to back down
The white clouds of the sky do not wander
(The golden crane disappeared long ago
A thousand years of white clouds are still flying now)
It is the contrast between, on the one hand, the irreversible doom (of finite human lives of dynasties of the past?), and on the other hand, the permanence of nature, the strong and powerful. involuntary of the laws of life. The dense tones in the third verse have created many obstacles so that there is no way back to the past. The tone of the poem evokes a feeling of resentment, not serenity. Immediately reaching the fourth sentence, several consecutive lines lead the reader's mind along a white cloud of thousands of years drifting gently into the distance of the region of thought. The poem's inflection also implies philosophy. Entering it, the reader will feel like they have just gone through a sudden cognitive process. From struggling with real events, the heart suddenly found peace in recognizing the law, in establishing a new position to evaluate the values in life:
Love crosses the Han Yang calendar
Phuong was married to Anh Vu Chau
However, in the end, this is just a philosophical scene, just as the fourth verse is not only meaningful in terms of description. The problem is that the poet did not philosophize in the language of dry logic, but in the language of nature, or in other words, he arranged for nature to express its own philosophy. This increases the persuasiveness of the problem as valuable as the discovery of the rule that was clearly stated in the previous sentences. It also makes the rhythm of the poem softer and more sensual. Indeed, this is a unique and effective way of "arguing", if it is true that in the past, poets intended to reserve verses five and six for "commentary".
Analysis of the poem Hoang Hac Lau
When translating these two verses, consistent with his own poetic style and the poetic style of the new era, Tan Da added special characteristics to the picture:
Han Duong river stops and trees show up
The beach far from Anh Vu is thick with green grass
The words "present", "far", "thick", and "young" have increased the sensory perception of the verse, while according to the poetics of Tang poetry, the words "passing love", "method", « calendar calendar », « wedding day » have very little specific color but are heavy in generality.
Three-quarters of the poem revolves around the story of the building. In the seventh sentence, a question appears, quite strangely:
Japanese flavor mandarin of origin marketing grave?
Why is there such concern here? (It's evening, where is my hometown?). Clearly, the poet here is not in a situation like that of Du Phu when he wrote "Co Chu Nhat Hieu Co Vien Tam", nor is he in the same state of mind as Li Bach was when this "poet fairy" « Dang Kim Lang Phuong Hoang Dai » to look forward to Truong An and lament « Truong An cannot see the sad history ».
Actually, as mentioned above, these last two sentences mainly appear according to the logic of theorizing. The more one is aware of the harshness of the law, the fleeting moment of human life on the eternal background of nature, the more one feels cold and lonely. This is when the image of the homeland appears, swirling in the mind with a deep sadness. Of course, homeland here is not just limited in the sense of being the place where one's birth was born, where one's family is, where one's ancestors are... but is a fulcrum of the heart, the final refuge of one's soul. Souls that cannot find peace when looking outward and being the opposite of life's many changes. The meaning of the issue is even more strongly affirmed by the author raising an incongruous situation: dusk has fallen but the image of the homeland is nowhere to be seen. On the river, smoke and waves rise...
Yen's three depressed using the upper stretch.
|
Bài làm
Ca dao là loại thơ trữ tình xuất hiện từ lâu đời và rất phổ biến trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nội dung chính của nó là phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm phong phú của người bình dân. Dân ca là những sáng tác kết hợp giữa ca dao với các làn điệu dân ca. Vì thế mà ca dao – dân ca thường sóng đôi, gắn bó như hình với bóng.
Người bình dân thời xưa hay dùng ca dao – dân ca để thể lộ tâm tình và nói lên những suy nghĩ về cuộc sống. Trong giao tiếp hằng ngày, họ có thói quen mượn những câu ca dao hợp tình, hợp cảnh để diễn đạt thay cho lời nói, làm tăng sức biểu cảm của lời nói. Từ ca dao, người dân biến thành các làn điệu dân ca nhằm gửi gắm, bộc lộ đầy đủ hơn tâm tư, tình cảm của mình.
Ca dao – dân ca xoay quanh mấy chủ đề lớn như:
Những câu hát thổ lộ tâm tình:
Những câu hát này thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt lao động, sinh hoạt gia đình và sinh hoạt cộng đồng. Hình thức hát cũng rất đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, từng công việc. Lứa tuổi trẻ thơ có những bài đồng dao hát khi chơi các trò chơi quen thuộc như: chi chi chành chành, chồng nụ chồng hoa, dung dăng dung dẻ… Nông dân có hát phường cấy, ngư dân có hò chèo thuyền, hò kéo lưới… thợ dệt có hát phường vải… Từng vùng miền đều có những câu ca dao, những làn điệu dân ca mang tính chất đặc trưng cho con người và địa phương. Ví dụ như Phú Thọ có hát xoan, Bắc Ninh có dân ca quan họ, Nghệ – Tĩnh có hát phường vải và nhiều điệu hò; Huế có ca Huế, hò Huế; vùng Ngũ Quảng có hát bài chòi ; Nam Bộ có các điệu lí, điệu hò của vùng đồng bằng sông nước… Dù hình thức khác nhau nhưng tất cả đều cùng chung một nội dung phản ánh tâm tư tình cảm vui buồn và những ước mong, khát vọng của người dân lao động thuở xưa.
Một trong những tình cảm trong sáng và đẹp đẽ mà ca dao luôn nói tới là tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước. Non sông Việt Nam nơi nào cũng đẹp, cũng cuốn hút hồn người. Từ vùng địa đầu Tổ quốc:
Đồng Đăng có phố Kì Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Đến Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?!
Đến dải đất miền Trung sơn thủy hữu tình:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đến châu thổ đồng bằng miền Tây Nam Bộ phì nhiêu, màu mỡ:
Ruộng Cữu Long cò bay thẳng cánh,
Sông Cửu Long lấp lánh cá tôm.
Giang sơn gấm vóc ấy có được là do bao thế hệ đổ mồ hôi, xương máu xây đắp và bảo vệ. Chính vì thế mà truyền thống yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm, truyền thống cần cù lao động, truyền thống đoàn kết, nhân ái… của dân tộc Việt Nam là rất đáng tự hào.
Qua ca dao – dân ca, hình ảnh quê hương với luỹ tre, đồng lúa, cây đa, bến nước, sân đình cùng những mái rạ đơn sơ đã trở nên thiêng liêng đối với mỗi người dân đất Việt. Dẫu đi đâu, về đâu, dẫu sống ở phương trời nào lòng người cũng thương, cũng nhớ:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Nhiều bài học đạo lí được nhân dân ta đưa vào trong ca dao – dân ca để dạy dỗ, giáo dục con cháu từ thuở ấu thơ, nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với ông bà, cha mẹ:
Làm người có tổ có tông,
Như cây có cội như sông có nguồn.
Hoặc:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Khuyên anh em phải hòa thuận, thương yêu:
Anh em như thể tay chân,
Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần.
Khuyên trai gái yêu nhau phải biết vượt qua mọi trở lực để đến với tình yêu đích thực:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.
Khuyên vợ chồng phải thủy chung, son sắt:
Rủ nhau xuống biển mò cua,
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng.
Ai ơi chua ngọt đã từng,
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau
Khuyên bạn bè phải đối xử trân trọng, trước sau gắn bó:
Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước một bề mới yên.
Khuyên mọi người biết đùm bọc, sẻ chia lúc khó khăn, hoạn nạn:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Bên cạnh những câu ca dao – dân ca nói về tình yêu quê hương, đất nước, con người… là những câu thể hiện tâm sự đắng cay, buồn tủi trước thân phận nghèo khó, bất hạnh của người lao động trong xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công. Đời sống vật chất thiếu thốn cộng với những nỗi cơ cực do giai cấp bóc lột gây nên là nguyên nhân phát sinh ra những câu hát được phổ biến rộng rãi trong dân gian:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi kiếm mồi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dẫu kêu ra máu có người nào nghe?!
Thương thay con hạc đầu đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay!
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn cho gầy cò con?!
Người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh nhất trong xã hội trọng nam khinh nữ. Họ không thể thay đổi số phận, thay đổi hoàn cảnh sống nên cũng chỉ biết gửi gắm lòng mình vào những câu ca dao – dân ca chất chứa buồn thương:
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai?
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?
Nhưng không phải người dân lao động chỉ biết cúi đầu chấp nhận thân phận bị đoạ đày, áp bức mà họ ý thức rất rõ vể sự phân biệt giai cấp, phân biệt giàu nghèo:
Trời sao trời ở bất công,
Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra.
Kẻ thì mớ bảy mớ ba,
Người thì áo rách như là áo tơi.
Cũng có khi họ bộc lộ rõ thái độ phản kháng đối với giai cấp thống trị:
Quan có cần nhưng dân chưa vội,
Quan có vội quan lội quan sang.
Đối với bọn sâu dân mọt nước chuyên nhũng nhiễu dân lành, họ lên án:
Con ơi nhớ lấy câu này
cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Họ mong mỏi có một ngày nào đó, trật tự xã hội sẽ thay đổi:
Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
Bao giờ dân nổi cạn quạ,
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Những câu ca dao trào lộng, châm biếm:
Có nhiều bài ca dao châm biếm, cười cợt những thói hư tật xấu trong nội bộ dân chúng như thói lười biếng, siêng ăn nhác làm:
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Hay thói đam mê cờ bạc:
Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.
Hoặc thói mê tín dị đoan, tin vào những lời nói quàng xiên của đám thầy bói, thầy cúng lừa đảo:
Số cô không giàu thì nghèo,
Ba mươi Tết có thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
Có thể nói ca dao – dân ca là bức tranh toàn cảnh về đời sống xã hội của Việt Nam trong nhiều thế kỉ. Sở dĩ ca dao – dân ca có sức sống lâu bền chính là nhờ những đặc điểm nghệ thuật độc đáo của nó.
Trước hết phải nói đến thể thơ. Phần lớn ca dao sáng tác theo thể thơ lục bát (sáu – tám) và song thất lục bát (bảy – bảy – sáu – tám). Những thể thơ này có cách gieo vần dễ thuộc, dễ nhớ, dễ lưu truyền.
Ngoài ra còn có dạng lục bát biến thể, số lượng chữ trong câu thay đổi nhưng quy luật về vần và thanh điệu thì vẫn giữ nguyên. Ví dụ:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
Hoặc:
Muối ba năm muối còn đang mặn,
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay.
Đôi ta tình nặng nghĩa dày,
Có xa nhau ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Giới thiệu về Ca dao – Dân ca Việt Nam
Đặc điểm thứ hai là cách diễn ý và lập ý trong ca dao – dân ca thường bằng các hình ảnh so sánh và ẩn dụ tượng trưng. Đặc điểm này rất phổ biến trong mảng nói về đời sống tình cảm, nhất là tình yêu của người lao động. Nhiều câu ca dao hay và đẹp có sức sống mãnh liệt:
Tiện đây mận mới hỏi đào
vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa:
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào!
Hoặc:
Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền!
Hoặc:
Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong.
Đôi ta như thể con ong,
Con quấn con quýt con trong con ngoài.
Hoặc:
Tình anh như nước dâng cao,
Tình em như dải lụa đào tẩm hương.
|
Bài làm
Ca dao là loại thơ trữ tình xuất hiện từ lâu đời và rất phổ biến trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nội dung chính của nó là phản ánh đời sống tư tưởng, tình cảm phong phú của người bình dân. Dân ca là những sáng tác kết hợp giữa ca dao với các làn điệu dân ca. Vì thế mà ca dao – dân ca thường sóng đôi, gắn bó như hình với bóng.
Người bình dân thời xưa hay dùng ca dao – dân ca để thể lộ tâm tình và nói lên những suy nghĩ về cuộc sống. Trong giao tiếp hằng ngày, họ có thói quen mượn những câu ca dao hợp tình, hợp cảnh để diễn đạt thay cho lời nói, làm tăng sức biểu cảm của lời nói. Từ ca dao, người dân biến thành các làn điệu dân ca nhằm gửi gắm, bộc lộ đầy đủ hơn tâm tư, tình cảm của mình.
Ca dao – dân ca xoay quanh mấy chủ đề lớn như:
Những câu hát thổ lộ tâm tình:
Những câu hát này thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt lao động, sinh hoạt gia đình và sinh hoạt cộng đồng. Hình thức hát cũng rất đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, từng công việc. Lứa tuổi trẻ thơ có những bài đồng dao hát khi chơi các trò chơi quen thuộc như: chi chi chành chành, chồng nụ chồng hoa, dung dăng dung dẻ… Nông dân có hát phường cấy, ngư dân có hò chèo thuyền, hò kéo lưới… thợ dệt có hát phường vải… Từng vùng miền đều có những câu ca dao, những làn điệu dân ca mang tính chất đặc trưng cho con người và địa phương. Ví dụ như Phú Thọ có hát xoan, Bắc Ninh có dân ca quan họ, Nghệ – Tĩnh có hát phường vải và nhiều điệu hò; Huế có ca Huế, hò Huế; vùng Ngũ Quảng có hát bài chòi ; Nam Bộ có các điệu lí, điệu hò của vùng đồng bằng sông nước… Dù hình thức khác nhau nhưng tất cả đều cùng chung một nội dung phản ánh tâm tư tình cảm vui buồn và những ước mong, khát vọng của người dân lao động thuở xưa.
Một trong những tình cảm trong sáng và đẹp đẽ mà ca dao luôn nói tới là tình yêu tha thiết đối với quê hương, đất nước. Non sông Việt Nam nơi nào cũng đẹp, cũng cuốn hút hồn người. Từ vùng địa đầu Tổ quốc:
Đồng Đăng có phố Kì Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Đến Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?!
Đến dải đất miền Trung sơn thủy hữu tình:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đến châu thổ đồng bằng miền Tây Nam Bộ phì nhiêu, màu mỡ:
Ruộng Cữu Long cò bay thẳng cánh,
Sông Cửu Long lấp lánh cá tôm.
Giang sơn gấm vóc ấy có được là do bao thế hệ đổ mồ hôi, xương máu xây đắp và bảo vệ. Chính vì thế mà truyền thống yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm, truyền thống cần cù lao động, truyền thống đoàn kết, nhân ái… của dân tộc Việt Nam là rất đáng tự hào.
Qua ca dao – dân ca, hình ảnh quê hương với luỹ tre, đồng lúa, cây đa, bến nước, sân đình cùng những mái rạ đơn sơ đã trở nên thiêng liêng đối với mỗi người dân đất Việt. Dẫu đi đâu, về đâu, dẫu sống ở phương trời nào lòng người cũng thương, cũng nhớ:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Nhiều bài học đạo lí được nhân dân ta đưa vào trong ca dao – dân ca để dạy dỗ, giáo dục con cháu từ thuở ấu thơ, nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với ông bà, cha mẹ:
Làm người có tổ có tông,
Như cây có cội như sông có nguồn.
Hoặc:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Khuyên anh em phải hòa thuận, thương yêu:
Anh em như thể tay chân,
Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ đần.
Khuyên trai gái yêu nhau phải biết vượt qua mọi trở lực để đến với tình yêu đích thực:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.
Khuyên vợ chồng phải thủy chung, son sắt:
Rủ nhau xuống biển mò cua,
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng.
Ai ơi chua ngọt đã từng,
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau
Khuyên bạn bè phải đối xử trân trọng, trước sau gắn bó:
Bạn bè là nghĩa tương tri,
Sao cho sau trước một bề mới yên.
Khuyên mọi người biết đùm bọc, sẻ chia lúc khó khăn, hoạn nạn:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Bên cạnh những câu ca dao – dân ca nói về tình yêu quê hương, đất nước, con người… là những câu thể hiện tâm sự đắng cay, buồn tủi trước thân phận nghèo khó, bất hạnh của người lao động trong xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công. Đời sống vật chất thiếu thốn cộng với những nỗi cơ cực do giai cấp bóc lột gây nên là nguyên nhân phát sinh ra những câu hát được phổ biến rộng rãi trong dân gian:
Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi kiếm mồi.
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dẫu kêu ra máu có người nào nghe?!
Thương thay con hạc đầu đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay!
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn cho gầy cò con?!
Người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh nhất trong xã hội trọng nam khinh nữ. Họ không thể thay đổi số phận, thay đổi hoàn cảnh sống nên cũng chỉ biết gửi gắm lòng mình vào những câu ca dao – dân ca chất chứa buồn thương:
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai?
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?
Nhưng không phải người dân lao động chỉ biết cúi đầu chấp nhận thân phận bị đoạ đày, áp bức mà họ ý thức rất rõ vể sự phân biệt giai cấp, phân biệt giàu nghèo:
Trời sao trời ở bất công,
Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra.
Kẻ thì mớ bảy mớ ba,
Người thì áo rách như là áo tơi.
Cũng có khi họ bộc lộ rõ thái độ phản kháng đối với giai cấp thống trị:
Quan có cần nhưng dân chưa vội,
Quan có vội quan lội quan sang.
Đối với bọn sâu dân mọt nước chuyên nhũng nhiễu dân lành, họ lên án:
Con ơi nhớ lấy câu này
cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Họ mong mỏi có một ngày nào đó, trật tự xã hội sẽ thay đổi:
Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
Bao giờ dân nổi cạn quạ,
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Những câu ca dao trào lộng, châm biếm:
Có nhiều bài ca dao châm biếm, cười cợt những thói hư tật xấu trong nội bộ dân chúng như thói lười biếng, siêng ăn nhác làm:
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Hay thói đam mê cờ bạc:
Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.
Hoặc thói mê tín dị đoan, tin vào những lời nói quàng xiên của đám thầy bói, thầy cúng lừa đảo:
Số cô không giàu thì nghèo,
Ba mươi Tết có thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
Có thể nói ca dao – dân ca là bức tranh toàn cảnh về đời sống xã hội của Việt Nam trong nhiều thế kỉ. Sở dĩ ca dao – dân ca có sức sống lâu bền chính là nhờ những đặc điểm nghệ thuật độc đáo của nó.
Trước hết phải nói đến thể thơ. Phần lớn ca dao sáng tác theo thể thơ lục bát (sáu – tám) và song thất lục bát (bảy – bảy – sáu – tám). Những thể thơ này có cách gieo vần dễ thuộc, dễ nhớ, dễ lưu truyền.
Ngoài ra còn có dạng lục bát biến thể, số lượng chữ trong câu thay đổi nhưng quy luật về vần và thanh điệu thì vẫn giữ nguyên. Ví dụ:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
Hoặc:
Muối ba năm muối còn đang mặn,
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay.
Đôi ta tình nặng nghĩa dày,
Có xa nhau ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Giới thiệu về Ca dao – Dân ca Việt Nam
Đặc điểm thứ hai là cách diễn ý và lập ý trong ca dao – dân ca thường bằng các hình ảnh so sánh và ẩn dụ tượng trưng. Đặc điểm này rất phổ biến trong mảng nói về đời sống tình cảm, nhất là tình yêu của người lao động. Nhiều câu ca dao hay và đẹp có sức sống mãnh liệt:
Tiện đây mận mới hỏi đào
vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa:
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào!
Hoặc:
Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền!
Hoặc:
Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong.
Đôi ta như thể con ong,
Con quấn con quýt con trong con ngoài.
Hoặc:
Tình anh như nước dâng cao,
Tình em như dải lụa đào tẩm hương.
|
Bài làm
Bài Anh đi anh nhớ quê nhà vốn là sáng tác của Á Nam Trần Tuấn Khải, một nhà thơ đầu thế kỉ XX; sau này nó được dân gian hóa mà thành ca dao. Cả bài chi vẻn vẹn bốn câu, lời lẽ giản dị, dễ hiểu. Thế nhưng trong thực tế đã có ít nhất hai cách hiểu khác nhau và cả hai cách đều có lí. Cách hiểu thứ nhất nhấn mạnh vào nỗi nhớ quê nhà và coi chủ để chính của bài là tình cảm gắn bó sâu nặng với quê hương. Cách hiểu thứ hai nhấn mạnh vào nỗi nhớ người yêu và coi chủ đề chính của bài ca dao là tình yêu đôi lứa.
Về cách hiểu thứ nhất:
Người đi xa bày tò tình cảm của mình: dẫu sống nơi đất khách quê người nhưng lòng luôn hướng về quê nhà. Nhớ quê nhà là nhớ những gì đã trở thành quen thuộc trong kỉ niệm. Cuộc sống ở quê nhà dù nghèo khó nhưng ấm áp nghĩa tình. Quê hương càng trở nên đáng yêu, đáng nhớ gấp bội trong tâm tưởng người phải sống xa quê.
Trước hết, bài ca dao là tiếng hát tâm tình tha thiết đối với quê hương của người lao động:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương,
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Bài ca dao mở đẩu bằng đại từ Anh, lấy Anh làm chủ thể. Tất cả ý tình tập trung vào đó: anh xa nhà và anh nhớ quê nhà.
Phân tích bài ca dao Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Quê nhà không chỉ đơn giản là quê và nhà mà nó còn mang ý nghĩa rộng lớn hơn nhiều. Trong mỗi chúng ta đều mang nặng tình quê, bởi vậy khi đi xa, nỗi nhớ càng thiết tha, sâu nặng:
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Đây là nét cụ thể đầu tiên của nỗi nhớ quê nhà. Cà dầm tương ăn với canh rau muống nấu với ít tôm hay với cua đồng là món ăn thanh đạm của nhà nghèo, rất quen thuộc đối với người nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Xa quê, khi nhớ tới mùi vị của những món ăn quê hương, lòng người xao xuyến biết bao và ước mong được trở về sum họp với gia đình lại càng da diết. Quê nhà với muôn ngàn cái tưởng như tầm thường: cây đa, bến nước, con đò, giậu mùng tơi xanh rờn, hoa cải vàng rung rinh trong gió xuân hây hẩy, tiếng sáo diều vi vu ngân nga lúc chiều hè, hương lúa chín nồng nàn khi mùa tới… khiến người ta thương nhớ khôn nguôi.
Hai câu thơ trên gợi ra một nỗi nhớ quê nhà mộc mạc, dân dã mà đằm thắm, khó phai. Hai câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ con người gắn bó với quê hương ấy
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Cuộc sống của nông dân ta hàng ngàn đời nay gắn liền với công việc dãi nắng dầm sương, vất vả cực nhọc trăm bề. Nắng sương thật sự thấm đượm những cuộc đời nghèo khổ nơi thôn dã. Ông bà, cha mẹ ta tắm sương gội nắng để kiếm cho ta miếng cơm manh áo, để tạo cho ta thể xác, tâm hồn. Quê hương ấy, con người ấy hỏi làm sao khi xa cách ta không thương, không nhớ?!
Đại từ phiếm chỉ ai trong câu thứ 3 có thể là kẻ này người nọ nhưng tất nhiên phải có quan hệ thân thiết với người đi xa. Còn ai trong câu thứ 4 thì rõ ràng là cô gái anh yêu. Chàng trai xa quê nhớ hình ảnh của người yêu trong cảnh lao động quen thuộc: tát nước bên đường vào một sớm, một chiều hay một đêm trăng thanh nào đó… Tất cả kỉ niệm về quê nhà sống dậy, kết thành một nỗi nhớ mênh mông, sâu nặng.
Về cách hiểu thứ hai:
Nếu ta coi đại từ phiếm chỉ ai trong hai câu cuối của bài ca dao là người bạn tình của chàng trai thì nỗi nhở quê nhà gắn liền với nỗi nhớ người yêu. Cả hai nỗi nhớ đều chân thực, thiết tha. Đó là nội dung mà bài ca dao muốn bày tỏ.
Và nếu coi bài thơ là lời tâm sự trước lúc đi xa của chàng trai với cô gái thì có một điểm đặc biệt đáng chú ý nữa là chàng trai chưa đi xa mà đã nhớ. Dường như cô gái cũng thiết tha muốn biết khi xa quê, chàng trai sẽ nhớ những gì và nhớ những ai? Bốn câu ca dao với năm từ nhớ liên tiếp khiến cho chàng trai vừa giãi bày được lòng mình, vừa đáp ứng nhu cầu của lòng bạn.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Ở câu thứ nhất, nỗi nhớ còn chung chung chưa cụ thể, nhưng cô gái cũng đã yên tâm và chứa chan hi vọng vì chàng trai xưng Anh rất ngọt ngào, thân thiết. Vả lại khi đi xa, chắc chắn chàng trai sẽ rất nhớ quê nhà, vì ở đó có cô gái mà anh thầm yêu trộm nhớ.
Đến câu thứ hai: Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương thì chàng trai đã cụ thể hóa nỗi nhớ quê nhà một cách rất tự nhiên. Canh rau muống, cà dầm tương là những món ăn quen thuộc, mấy ai xa quê mà không thèm, không nhớ? Nhưng nhớ quê nhà không lẽ chỉ nhớ có thế thôi ư? Cô gái dõi theo chàng trai rồi hồi hộp lắng nghe và chờ đợi.
Sang câu thứ ba: Nhớ ai dãi nắng dầm sương, thì cô gái không thể không liên tưởng đến mình, nhưng chưa thể khẳng định chắc chắn, vì ở quê nhà có bao người dãi nắng dầm sương, chứ đâu phải riêng cô?
Cách nói của chàng trai như vậy là vừa kín, vừa hở. Chàng trai dường như vừa thăm dò phản ứng của đối tượng, vừa kìm nén những cảm xúc chất chứa trong lòng mình. Chi đến khi cảm thấy cô gái đã thuận tình, thuận ý, chàng trai mới dám thổ lộ một cách ý nhị và tình tứ:
Nhở ai tát nước bên đường hôm nao.
Chàng trai bày tỏ tình yêu với người bạn gái. Đôi trai gái đã để ý đến nhau từ lâu nhưng chưa một lần thổ lộ. Tình yêu của họ đang ở thuở ban đầu ngượng ngùng khó nói. Giờ đây khi sắp xa quê, chàng trai mới mạnh dạn gặp cô gái để giãi bày tâm sự. Cách diễn đạt nỗi nhớ từ xa tới gần, từ chung đến riêng: Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhở canh rau muống nhớ cà dầm tương; từ phiếm chi đến xác định: Nhở ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Đến đây thì cả ý lẫn tình đều rõ. Ai kia chính là người thôn nữ siêng năng, thuần hậu, góp phần cùng bao người làm nên cuộc sống thanh bình của chốn quê nhà. Nếu anh xa quê, thì người mà anh nhớ nhất sẽ là em – bởi em là hóa thân của quê hương yêu dấu.
|
Assignment
The song I go, I miss my homeland was originally composed by Asia Tran Tuan Khai, a poet in the early twentieth century; Later it was turned into a folk song. The whole article has only four sentences, the words are simple and easy to understand. But in reality there are at least two different interpretations and both are reasonable. The first interpretation emphasizes nostalgia for home and considers the main theme of the article to be a deep emotional attachment to the homeland. The second interpretation emphasizes the longing for the lover and considers the main theme of the folk song to be love between couples.
Regarding the first understanding:
People who go far away express their feelings: even though they live in a foreign land, their hearts always turn to their homeland. Missing home means remembering what has become familiar in memories. Life at home, although poor, is warm and meaningful. Homeland becomes even more lovely and memorable in the minds of people who have to live far from home.
First of all, the folk song is a heartfelt song of the workers' homeland:
When you leave, you miss your hometown.
Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup,
Remember who is soaked in the sun and dew,
Remember who splashed water on the side of the road that day?
The folk song opens with the pronoun Anh, taking Anh as the subject. All thoughts are focused on that: he is far from home and he misses his homeland.
Analysis of the folk song When I go, I miss my hometown. Remembering water spinach soup, remembering eggplant pickled in soy sauce
Hometown is not simply hometown and home, it also has a much broader meaning. Each of us carries a heavy love for the countryside, so when we travel far away, our nostalgia becomes more passionate and profound:
Remember the vegetable soup memorized bitter bean soup.
This is the first specific feature of homesickness. Tomato pickled with soy sauce served with water spinach soup cooked with a little shrimp or crab is a frugal dish of the poor, very familiar to farmers in the Northern Delta. Far from home, when remembering the taste of homeland dishes, people's hearts flutter and the desire to return to reunite with family becomes even more intense. Hometown with thousands of seemingly ordinary things: banyan trees, water wharves, boats, lush green mosquito net hedges, yellow mustard flowers fluttering in the spring breeze, the humming sound of kite flutes in the summer afternoon, the scent of rice. Ripe passionately when the season comes... making people miss it endlessly.
The two verses above evoke a nostalgia for home that is rustic, rustic, yet loving and unforgettable. The next two verses are about nostalgia for the people attached to that homeland
Remember who is soaked in the sun and dew,
Remember who splashed water on the side of the road that day?
The lives of our farmers for thousands of generations have been associated with work in the sun and dew, with countless hardships. The mist and sunshine truly permeate the poor lives in the countryside. Our grandparents and parents bathed in dew and sun to earn a living for us, to give us a body and a soul. That homeland, that person asked, how come I don't love or remember when we're far away?!
The casual pronoun indicating someone in the third sentence can be this person or that person but of course must have a close relationship with the person who is away. Whoever is in the 4th sentence is clearly the girl he loves. The young man far from home remembers the image of his lover in a familiar labor scene: splashing water on the side of the road one morning, one afternoon or a clear moonlit night... All the memories of his hometown come to life, forming a nostalgia. immense and deep.
Regarding the second interpretation:
If we consider the casual pronoun referring to the person in the last two lines of the folk song as the boy's lover, then the feeling of missing one's homeland is closely linked to the feeling of missing one's lover. Both nostalgias are genuine and passionate. That is the content that the folk song wants to express.
And if we consider the poem as a confession between a boy and a girl before going away, there is another particularly noteworthy point: the boy has not gone far yet but already remembers. It seems that the girl also really wants to know what and who will the boy miss when he is away from home? Four folk songs with five consecutive memorable words help the guy both express his heart and meet the needs of his friend's heart.
When you leave, you miss your hometown
In the first sentence, the nostalgia is still general and not specific, but the girl is reassured and filled with hope because the boy says he is very sweet and friendly. Besides, when he goes away, he will definitely miss his hometown, because there is the girl he secretly loves.
In the second sentence: Remembering water spinach soup, remembering eggplant pickled with soy sauce, the young man concretized his homesickness in a very natural way. Water spinach soup and pickled eggplant with soy sauce are familiar dishes. How many people are far away from home and don't crave or miss them? But isn't that all about missing home? The girl followed the boy and nervously listened and waited.
Moving on to the third sentence: Missing someone in the sun and dew, the girl can't help but think of her, but she can't say for sure, because in her hometown there are many people in the sun and dew, not just her?
The guy's way of speaking is both secret and open. The boy seemed to be both probing the subject's reaction and suppressing the emotions contained in his heart. Only when he feels that the girl is willing and accepting, does the boy dare to confess in a tactful and affectionate way:
Remember who splashed water on the side of the road the other day?
The boy expressed his love to his girlfriend. The couple had been interested in each other for a long time but had never confessed. Their love is at the beginning awkward and difficult to talk about. Now that he is about to leave his hometown, the boy boldly meets the girl to confide in him. How to express nostalgia from far to near, from general to particular: When you go, you miss your hometown, When you miss water spinach soup, you miss pickled eggplant; From the trivial to the definite: Remembering someone who was exposed to the sun and drenched in dew, Remembering someone splashing water on the side of the road that day. At this point, both thoughts and feelings are clear. That someone is the diligent, kind-hearted village woman who, along with many others, contributes to creating a peaceful life in her hometown. If I leave my hometown, the person I miss the most will be you - because you are the incarnation of my beloved homeland.
|
Bài làm
Đây là một trong những bài ca dao hay nhất trong chùm bài về đề tài ca ngợi cảnh đẹp đất nước. Hai câu đầu giới thiệu Đồng Đăng – mảnh đất địa đầu Tổ quốc với những tên núi, tên phố, tên chùa nổi tiếng xưa nay. Hai câu thơ sau là lời mời mọc du khách lên thăm xứ Lạng. Thoạt nghe tưởng như đây chi là bài ca dao ca ngợi cảnh đẹp quê hương đất nước nhưng đọc kĩ thì thấy nó còn là một bài ca dao về tình yêu đôi lứa. Thông qua việc giới thiệu cảnh đẹp của quê hương, chàng trai bày tỏ tình yêu chân thành, nồng nhiệt mà vẫn hết sức kín đáo, tế nhị của mình.
Hai nhân vật anh và em chính là chủ thể và đối tượng trữ tình của bài ca dao này. Ở đây, tình yêu quê hương đất nước và tình yêu đối lứa đã gắn bó hòa quyện làm một và tình yêu đôi lứa giữ vai trò là cảm xúc chủ đạo trong bài thơ:
Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh…
Điệp từ có được nhắc lại ba lần liên tiếp (có phố, có nàng, có chùa), kết hợp với nhịp thơ dồn dập thể hiện sự hứng khởi cao độ cùng tình cảm gắn bó thiết tha của chàng trai đối với quê hương. Xứ Lạng tuy xa xôi một chút, núi rừng một chút nhưng rất đẹp và rất đáng tự hào!
Thiên nhiên nơi đây kì thú hiếm nơi nào có. Phố Kì Lừa sầm uất ở bên sông Kỳ Cùng; của ngon vật lạ chẳng thiểu thứ chi. Tượng đá nàng Tô Thị ờ trên đỉnh núi, Thủy chung son sắt chờ chồng nắng mưa dãi dầu mấy nghìn năm. Chùa Tam Thanh ẩn sâu trong hang đá, cõi Phật lùi vào chốn u tịch, chỉ nghe thấy tiếng nước từ những nhũ đá nhỏ giọt thánh thót, đếm thời gian, tự ngàn xưa.
Xứ Lạng của anh đẹp như vậy đó! Sông núi, phố thị, chùa chiền, danh thắng liên kết với nhau, tạc nên một khung cảnh tuyệt vời khiến cho những văn nhân, tài tử đã từng tới đây đều để trái tim mình rung động thành thơ.
Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt đã ghi lại bao trang sử anh hùng của người xứ Lạng. Một ải Chi Lăng hiểm trở, một cái tên Quỷ Môn Quan gắn liền với giai thoại thập nhân khứ, nhất nhân hoan (mười người đi chỉ có một người trở về) đã làm khiếp sợ đời đời lũ quân xâm lược phong kiến phương Bắc, cũng đáng tự hào lắm thay! Vậy nên anh tha thiết mời những ai có lòng yêu cái Đẹp, hãy lên xứ Lạng cùng anh!
Phân tích bài ca dao Đồng đăng có phố Kì Lừa Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Hai câu ca dao trên không chi nhằm giới thiệu về cảnh đẹp xứ Lạng mà còn là lời bày tỏ tình yêu quê hương thắm thiết của chàng trai. Đúng là có cả hai ý ấy nhưng đó mới chỉ là cơ sở và điều kiện, còn nguyên nhân và mục đích của sự giới thiệu hào hứng say mê ấy lại thuộc về chỗ khác. Điều này được bài ca dao thể hiện một cách kín đáo, tế nhị:
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Đại từ phiếm chỉ Ai nhiều lần xuất hiện trong ca dao, nhất là trong ca dao tỏ tình. Ai ở đây chính là em, là cô gái được chàng trai tha thiết mời lên xứ Lạng. Cách gọi em bằng Ai làm cho đối tượng tỏ tình trực tiếp trở thành gián tiếp, xác định trở thành không xác định. Đây là cái “mẹo” giúp chàng trai tránh được sự đường đột khó nói mà vẫn ngỏ được ý mình và khiến cho cách tỏ bày càng thêm tình tứ.
Hai từ bõ công có nghĩa là xứng công, đáng công, khỏi uổng công. Mà công ờ đây là công sinh thành của bác mẹ (cách gọi theo lối xưa – tức là cha mẹ). Theo suy nghĩ của chàng trai, nếu cô gái bỏ lỡ dịp may lên xứ Lạng thì quả là uổng phí!
|
Assignment
This is one of the best folk songs in the series on the topic of praising the beautiful scenery of the country. The first two sentences introduce Dong Dang - the land at the beginning of the Fatherland with famous mountain names, street names, and pagoda names. The following two verses are an invitation for tourists to visit Lang. At first listen, it seems like this is just a folk song praising the beauty of the homeland, but when you read carefully, you see that it is also a folk song about a couple's love. Through introducing the beautiful scenery of his homeland, the boy expressed his sincere and passionate love while still being very discreet and delicate.
The two characters you and I are the subject and lyrical object of this folk song. Here, love for one's homeland and love for one's spouse are intertwined and become one, and love for each other plays the main role in the poem:
Dong Dang has Ky Lua street
There is To Thi, there is Tam Thanh pagoda
Who comes to Lang with me...
The alliteration is repeated three times in a row (there is a street, there is a girl, there is a temple), combined with the fast rhythm of the poem, expressing the boy's high excitement and passionate attachment to his homeland. Although Lang is a bit remote, a bit mountainous and foresty, it is very beautiful and worth being proud of!
The nature here is amazing and rare to find anywhere else. Busy Ky Lua Street on Ky Cung River; There is no shortage of delicious and strange things. The stone statue of To Thi is on the top of the mountain. Thuy faithfully waited for her husband in the sun and rain for thousands of years. Tam Thanh Pagoda is hidden deep in the cave, the Buddha realm retreats into solitude, only the sound of water dripping from the stalactites can be heard, counting time, from thousands of years ago.
Your Lang land is so beautiful! Mountains, rivers, towns, temples, and landscapes are interconnected, creating a wonderful scene that makes writers and actors who have come here let their hearts vibrate into poetry.
The history of defending the country of the Vietnamese people has recorded many heroic pages of the Lang people. A dangerous Chi Lang pass, a name Quy Mon Quan associated with the legend of ten people passing, one person rejoicing (of ten people leaving, only one person returns) has forever terrified the Northern feudal invaders. , is also something to be proud of! So I earnestly invite those who love Beauty to come to Lang with me!
Analyzing the folk song Dong Dang has Ki Lua street, To Thi has Tam Thanh pagoda
The above two folk songs are not only meant to introduce the beautiful scenery of Lang, but are also an expression of the young man's deep love for his homeland. It is true that both of those ideas exist, but those are just the basis and conditions, and the cause and purpose of that enthusiastic and passionate introduction belong elsewhere. This is expressed discreetly and delicately in the folk song:
Who comes to Lang with me?
It's worth your effort to give birth to me.
The casual pronoun Ai appears many times in folk songs, especially in love confession songs. Whoever is here is me, the girl who was earnestly invited by the boy to Lang. Calling me Ai makes the direct object of confession become indirect, the definite becomes indeterminate. This is a "trick" that helps a guy avoid being abrupt and difficult to say but still express his thoughts and make the way he expresses them more affectionate.
The two words worth the effort mean worth the effort, worth the effort, not in vain. The merit here is the merit of the birth of the parents (the old way of calling it - that is, the parents). According to the boy's thoughts, if the girl misses the opportunity to go to Lang land, it will be a waste!
|
Bài làm
Nói đến niềm vui của đôi lứa yêu nhau, nhất là ở buổi ban đầu, văn chương xưa nay chẳng thiếu lời hay, ý đẹp. Trong ca dao, có niềm vui chi làm bằng cái giả đò ngó lơ im lặng, mặc dù thương em đứt ruột Nhưng niềm vui sau đây mới thực sự lạ lùng:
Rủ nhau đi hái mẫu đơn,
Mẫu đơn không hái, hái cơn dành dành.
Rủ nhau đi hái dành dành,
Dành dành không hái, hái cành mẫu đơn.
Hai người đang yêu rủ nhau đi chơi với mục đích rõ ràng là đi hái mẫu đơn, sao lại hái dành dành? Và lần khác, mục đích cũng không kém rõ ràng là đi hái dành dành mà cuối cùng lại hái mẫu đơn? Sao có chuyện kì lạ vậy?!
Có lẽ đây là lời của những trái tim đang yêu, đang say đắm trong hạnh phúc. Ta bắt gặp cái mô típ quen thuộc của những bài ca dao cùng chung một chủ đề với nó: Rủ nhau xuống biển mò cua…, Rủ nhau lên núi đốt than… Vậy đích thị từ nhau ở đây là để chỉ hai người: chàng trai và cô gái. Bao yêu thương ẩn chứa đằng sau cái từ mộc mạc, dân dã ấy. Đã rủ nhau thì tất có hò, có hẹn.
Chúng ta hãy để cho trí tưởng tượng của mình chắp cánh bay bổng. Thử hình dung ra cảnh hội hè, tế lễ ở đình làng hay ở hội đền này chùa nọ vào các dịp Tết Nguyên Đán, Thanh minh, tế xuân, tế thu, hát chèo, hát bội… Đó là những cơ hội lí tưởng cho trai gái hò hẹn. Có điều, mọi người thì đến lễ hội chung, còn các cặp trai gái yêu nhau thì đi đến lễ hội riêng của trái tim họ.
Thường thường, sân chùa, hiên đền, sau đình là nơi hò hẹn. Ồn ào ở nơi xa, đây vắng. Vắng người nhưng có lá có hoa đủ loại. Nhưng sao cặp uyên ương này cứ quanh quẩn vậy? Rõ ràng là: Rủ nhau đi hái mẫu đơn mà rốt cuộc lại hái dành dành và lẽ ra phải hái dành dành thì lại hái mẫu đơn.Thử đọc những câu ca dao sau dây: Lá này gọi lá xoan đào, Tương tư gọi nó thế nào hở em? Lá khoai anh ngỡ lá sen, Bóng trăng anh tưởng bóng đèn anh khêu. Hoặc: Thẩn thơ đứng gốc cây mai, Bóng mình lại ngỡ bóng ai, mình lầm… Trăm sự lẫn lộn buồn cười ấy đều do tình yêu đã đến độ say mê.
Mẫu đơn là một loại hoa quý, dành dành là loại hoa thường. Mẫu đơn được trồng ở chốn cao sang, dành dành đặt đâu sống đó. Có bao giờ hai loại hoa này mọc chung một chỗ đâu? Vậy thì làm sao lại có chuyện nhầm lẫn giữa hoa nọ và hoa kia được? Hóa ra cả mẫu đơn lẫn dành dành chi là cái cớ để bộc bạch cung bậc cao nhất của tình yêu: say sưa đến mê mẩn, đến thẩn thơ, nhìn bóng mình mà lầm là bóng ai; đến mất trí, mất hổn: lá khoai nhìn ra lá sen, bóng trăng mà ngỡ bóng đèn định khêu lên cho tỏ…
Mê mẩn tạo ra ảo giác, bởi vậy mới có những nhầm lẫn đáng yêu như thế. Trước con mắt của người đang yêu, cái gì mà chẳng đẹp? Cho nên mẫu đơn hay dành dành không phải là điều quan trọng. Quan trọng là anh yêu em, em yêu anh, chúng ta yêu nhau.
|
Assignment
When it comes to the joy of couples in love, especially in the beginning, literature has never lacked good words and beautiful ideas. In folk songs, there is no joy in pretending to be silent, even though I love you so much. But the following joy is truly strange:
Invite each other to pick peonies,
Peonies are not picked, but gardenia is picked.
Let's go pick gardenia,
Don't pick gardenia or pick peony branches.
Two people in love invite each other to go out with the clear purpose of picking peonies, why pick gardenia? And another time, the equally obvious purpose of picking gardenias instead ended up picking peonies? Why is this so strange?!
Perhaps these are the words of hearts in love, infatuated with happiness. We encounter the familiar motif of folk songs with the same theme: Invite each other to go to the sea to look for crabs..., Invite each other to the mountains to burn coal... So the word each other here actually refers to two people: him. boys and girls. So much love is hidden behind those simple, rustic words. If you invite each other, there will be a date and a date.
Let's let our imaginations take flight. Try to imagine the festival scene, worshiping at the village communal house or at this temple festival on the occasions of Lunar New Year, Thanh Minh, spring worship, autumn worship, cheo singing, boi singing... Those are ideal opportunities for boys and girls dating. However, everyone goes to the common festival, while couples who love each other go to the private festival of their hearts.
Usually, the temple yard, temple porch, and behind the communal house are meeting places. Noisy in the distance, here it's deserted. There are no people but there are leaves and flowers of all kinds. But why do these lovebirds keep hanging around? It's clear: We invited each other to pick peonies but ended up picking gardenias and instead of picking gardenias, we picked peonies instead. Try reading the following folk songs: This leaf is called a peach leaf, Tuong calls it. How are you? The potato leaves he thought were lotus leaves, the moon shadow he thought was a light bulb. Or: Standing leisurely under an apricot tree, my shadow thought I was someone else's shadow, I was wrong... These hundreds of funny confusions are all caused by love that has reached the point of infatuation.
Peony is a precious flower, gardenia is a common flower. Peonies are grown in high places, reserved for somewhere to live. Have these two types of flowers ever grown in the same place? So how can there be confusion between this flower and that flower? It turns out that both the peony and the gardenia are an excuse to express the highest level of love: being intoxicated to the point of wandering, looking at your own reflection and mistaking it for someone else's; to the point of losing my mind, losing my breath: the potato leaves looked out at the lotus leaves and the shadow of the moon and thought the light bulb was about to light up to show...
Infatuation creates illusion, which is why there are such lovely confusions. In the eyes of a lover, what is not beautiful? So the form of peony or gardenia is not important. The important thing is that I love you, you love me, we love each other.
|
Bài làm
Thành công hay thất bại là chuyện thường tình trong cuộc đời. Không ít khi chúng ta đầu tư rất nhiều công sức, tình cảm vào một việc gì đó và tưởng chừng thành công nằm trong tầm tay nhưng rốt cuộc, kết quả hoàn toàn trái ngược. Trước thất bại, ai mà chẳng buồn, chẳng tiếc? Đây là một trường hợp:
Cầm vàng mà lội qua sông,
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.
Vàng được dùng để chỉ chung những thứ quý giá: quý như vàng, đắt như vàng… Cầm vàng là có trong tay một cái gì đó rất giá trị. Lội qua sông là vượt qua khó khăn, trở ngại. Còn vàng rơi, vật quý mất cũng không tiếc mà chi tiếc công giữ gìn nó thôi.
Hiểu như vậy chỉ là hiểu trên bề mặt ngôn từ – tức là nghĩa tường minh chứ chưa đụng đến được độ sâu ý nghĩa hàm ẩn của nó. Vậy, vật quý giá kia là gì? Một hiện thực tuyệt vời? Một ước mơ huy hoàng? Hay một cái gì khác? Lời ẩn dụ ngắn gọn quả không dễ hiểu. Cụm từ tiếc công may ra có thể là một gợi ý.
Từ tiếc công xuất hiện trong nhiều câu ca dao như một mô típ quen thuộc: Tiếc công anh đắp đập be bờ, Để ai quảy đó mang lờ đến đơm; Tiếc công anh gánh gạch xây thành, Trồng cây nên trái để dành ai ăn; Tiếc công anh đi xuống đi lên, Mòn đàng chết cỏ chẳng nên cang thường…
Trong bài ca dao này, ta chưa hình dung ra vật quý cụ thể là vàng hay là gì nhưng ý ám chi tình yêu thì khá rõ. Công cầm vàng không thấy nhưng thấy công phu bỏ ra để theo đuổi, nhen nhúm, bồi đắp cho một mối tình. Còn vàng không phải chỉ rơi mà mất dạng, mất tăm, hoặc tình yêu chẳng thành mà lại tan vỡ phũ phàng…
Như vậy, sự thất bại trong câu ca dao này có lẽ trước hết là thất bại về tình yêu. Giọng điệu câu ca phảng phất điều gì đó như bẽ bàng, chua chát. Có thể hình dung sự thể như thế này chăng:
Mối tình đẹp đẽ và thắm thiết của đôi trai gái, từ chỗ hiểu nhau, yêu nhau đến chỗ hẹn ước, thề nguyền gắn bó trăm năm. Tình yêu ấy không phải tự nhiên mà có. Nó ắt phải trải qua ngọt bùi, đắng cay, thử thách. Vì thế, nó quý giá hơn mọi thứ trên đời. Những tưởng hạnh phúc đã gần kề, ai ngờ sóng gió dẫn tới li tan, nước mây đôi ngả. Người yêu rời bỏ anh, hoặc anh không giữ được người yêu. Sóng gió ấy quá lớn, không thể vượt qua nên người trong cuộc chỉ còn biết ngậm ngùi, than thở. Mình than với mình rồi lặng đi trong niềm đau khổ, xót xa.
Nhưng thực tế ở đời cho thấy thất vọng trong tình yêu không chi có một lối thoát duy nhất là chết mòn vì tương tư. Vết thương trên da thịt dần dần sẽ lành ; vết thương lòng cũng vậy. Đau khổ một thời gian nhưng theo ngày tháng, nỗi khổ ấy sẽ nguôi ngoai, người ta sẽ tỉnh ra và nghĩ lại.
Kẻ kia tình đã nhạt phai chăng? Hay mắt họ đã bị hút vào chỗ giàu sang? Hay là bị dư luận dèm pha, gia đình ngăn trở bởi vị trí xã hội chẳng cân xứng? Dù vì cải gì đi chăng nữa thì mình biết phận mình. Thế thôi!
Nói như lời của các anh con trai ở các câu ca dao khác thì họ chẳng sá gì đến việc kẻ khác đến đơm cá, đến ăn trái, mà họ chỉ tiếc công mình đắp đập be bờ, gánh gạch xây thành, trồng cây… Còn mình, tình yêu đã mất, vàng đã rơi, còng lênh cũng chẳng ít, nhưng tiếc làm chi! Chi tiếc là tiếc cho mình công trình kể biết mấy mươi, tiếc công bỏ ra bấy lâu xây đắp, gìn giữ mối tình vàng ngọc kia mà thôi! Bởi tình này mất còn tìm tình khác được, chứ công lao đã bỏ ra, thời gian đã mất đi thì làm sao tìm lại được?! Tiếc công cầm vàng là vậy. Cho nên dẫu có xót đau, hụt hẫng nhưng không chới với, nghiêng đổ. Điều đó có nguồn gốc sâu xa ở nhân sinh quan lành mạnh, trong sáng của người lao động. Chấp nhận thiệt thòi về mình mà không một lời hờn trách oán giận. Người đọc vẫn thấy thấp thoáng đâu đó trong lời than thở một sự bao dung, tha thứ.
|
Assignment
Success or failure is normal in life. Many times we invest a lot of effort and emotion into something and think success is within reach, but in the end, the results are completely opposite. In the face of failure, who is not sad or regretful? Here is a case:
Take the gold and wade across the river,
No regrets for falling gold, no regrets for holding it.
Gold is used to refer to precious things in general: as precious as gold, as expensive as gold... Holding gold means having something very valuable in your hands. Wading across the river means overcoming difficulties and obstacles. As for fallen gold or lost precious objects, you don't regret the effort of preserving it.
Understanding like that is only understanding the surface of the words - that is, the explicit meaning but not touching the depth of its hidden meaning. So, what is that precious thing? A wonderful reality? A glorious dream? Or something else? The brief metaphor is not easy to understand. The phrase regretful effort may be a hint.
The word regret appears in many folk songs as a familiar motif: It is a pity that you built a dam to protect the shore, so that someone else will bring it to fruition; It's a pity that he carried bricks to build the citadel, planted trees to produce fruit for someone to eat; It's a pity that you've gone down and up, the road is dead and the grass is dead, so you can't bear it...
In this folk song, we have not yet figured out whether the precious object is specifically gold or what it is, but the meaning of love is quite clear. Cong held the gold and did not see it, but he saw the effort put into pursuing, rekindling, and fostering a love affair. And gold doesn't just fall but disappears, disappears, or love fails but is brutally broken...
Thus, the failure in this folk song is probably first and foremost a failure in love. The tone of the song has a hint of humiliation and bitterness. Can you imagine it like this:
The beautiful and passionate love story of a couple, from understanding each other and loving each other to making a promise and vowing to stay together for hundreds of years. That love does not come naturally. It must go through sweet, bitter, and challenging. Therefore, it is more valuable than anything in the world. Thought happiness was near, but who knew that storms and storms would lead to separation and the clouds split apart. Your lover leaves you, or you cannot keep your lover. The storm was too big and could not be overcome, so the people involved could only pity and lament. I complained to myself and then became silent in pain and sorrow.
But the reality of life shows that the only way out of disappointment in love is to die because of longing. The wound on the skin will gradually heal; The same goes for heartbreak. Suffering for a while but over time, that suffering will subside, people will wake up and think again.
Has the other person's love faded? Or have their eyes been drawn to wealth? Or is it slandered by public opinion or hindered by family because of disproportionate social position? No matter what the reason, I know my fate. That's all!
As the boys say in other folk songs, they don't care about other people coming to catch fish or eat fruit, but they only regret their own efforts to build dams, carry bricks to build citadels, and plant trees... As for me, my love has been lost, my gold has fallen, and I'm in a lot of trouble, but what's the point in regretting it? The only thing I regret is that I feel sorry for the countless projects I've built, I regret the effort I spent so long building and preserving that golden love! Because if this love is lost, you can still find another love, but how can you find it again after the effort has been spent and the time has been lost?! It's a pity that holding the gold is like that. So even though there is pain and disappointment, do not give up or fall. That has deep roots in the healthy, pure outlook on life of workers. Accept your disadvantages without a word of blame or resentment. Readers still see a glimpse of tolerance and forgiveness somewhere in the lament.
|
Bài làm
Trong xã hội phong kiến xưa kia, quan niệm trọng nam khinh nữ đã biến cuộc đời người phụ nữ thành chuỗi bi kịch kéo dài. Biết than cùng ai, biết ngỏ cùng ai? Trời thì cao mà đất thì dày. Thôi thì đành giãi bày qua tiếng hát, lời ru vậy! Câu ca dao: Thân em như trái bần trôi… nằm trong mảng đề tài than thân trách phận mà nhiều câu có cấu trúc khá giống nhau ở cách mở đầu bằng hai chữ đầy xót xa, ngậm ngùi:
Thân em như trái bần trôi,
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?
Xuất xứ câu ca dao này là ở miền Nam, xứ sở của sông ngòi, kênh rạch. Cây bần thường mọc ở ven bờ. Trái bần non có vị chua chua chát chát, xắt mỏng chấm mắm ăn thay rau. Trái già rụng xuống nước, bập bềnh nổi trôi theo sóng, Ngay cái tên gọi cũng chỉ rõ nó là loại cây tầm thường (bần: nghèo), chẳng có mấy giá trị.
Người phụ nữ chân lấm tay bùn nhìn trái bần trôi mà cám cảnh, thấy mình nào có khác chi?! Trái bần trôi hoàn toàn phụ thuộc vào gió, vào sóng. Gió nhẹ, sóng êm thì từ từ, thanh thản, chẳng may gió dập, sóng dồi thi cũng đành cam chịu cảnh ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, biết tấp vào đâu? Vào bờ bến nào để đổi thay số phận?
|
Assignment
In ancient feudal society, the concept of favoring men over women turned women's lives into a long series of tragedies. Who do you know how to complain to, who do you know how to address? The sky is high and the earth is thick. Well, I have to express it through singing and lullabies! The folk song: My body is like a floating cork fruit... belongs to the topic of self-pity and fate, where many sentences have a quite similar structure in the way they begin with two words full of sadness and pity:
My body is like a floating cork,
The wind blows the waves, where do we go?
The origin of this folk song is in the South, the land of rivers and canals. Cork trees often grow along the shore. Young cork fruit has a sour taste and can be eaten thinly sliced with fish sauce instead of vegetables. The old fruit falls into the water, floating in the waves. Even the name clearly indicates that it is a common tree (poor: poor), of little value.
The woman with muddy hands and feet looked at the floating cork fruit and admired the scene, how could she see that she was any different?! The floating cork fruit is completely dependent on the wind and waves. The wind is light, the waves are calm, they are slow and peaceful. Unfortunately, the wind blows and the waves swell, so we have to endure the situation of drifting up and down, where do we turn? Which shore should I go to to change my fate?
|
Bài làm
Hình ảnh chú Cuội xuất hiện khá nhiều trong cổ tích, ca dao tục ngữ và trở nên quen thuộc với trẻ thơ. Mỗi năm vào dịp Tết Trung thu, ngắm vầng trăng sáng, hình ảnh chú Cuội ngồi gốc cây đa lại hiển hiện rõ ràng trong trí tưởng tượng của các bạn nhỏ. Bài ca dao dưới đây gợi mở về sự tích đầy hấp dẫn đó:
Bắc thang lên tận cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Từ một hiện tượng thiên nhiên có thật là các vết sẫm trên mặt trăng nhìn thấy rất rõ trong những đêm trăng sáng; với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng, người xưa đã tưởng tượng ra hình ảnh cây đa, chú Cuội và lồng vào đó những câu chuyện thú vị có ý nghĩa giáo dục sâu xa.
Có hai truyện hoàn toàn khác nhau về nhân vật Cuội. Truyện thứ nhất là về chú Cuội chữa bệnh cứu người. Truyện thứ hai là về chú Cuội có tật xấu hay nói dối. Cuội ở truyện thứ nhất làm nghề đốn củi. Một hôm vào rừng, bất ngờ chạm trán với con hổ nhỏ, Cuội lấy búa đập chết nó. Hổ mẹ về, thấy con đã chết liền đến một gốc cây, bứt ít lá nhai nát đắp vào vết thương, hổ con sống lại. Từ chỗ nấp trên cao, Cuội nhìn thấy hết. Đợi mẹ con hổ đã đi xa, chàng bứng cả gốc cây đem về nhà trồng. Từ đó, nhờ lá thuốc thần mà Cuội cải tử hoàn sinh cho nhiều người trong vùng. Phú ông có cô con gái ngã vỡ đầu, Cuội đắp lá nhiều lần mà cô ta vẫn không sống lại. Chàng bèn nghĩ ra cách nặn một bộ óc bằng đất sét thay thế rồi đắp lá thần vào. Cô gái ấy sau thành vợ chàng.
Vợ Cuội khỏe mạnh, xinh đẹp nhưng lại có tính hay quên. Nhiều lần, Cuội đã dặn vợ là không được tưới nước bẩn cho cây nhưng rồi cô ta quên mất, lấy nước giải tưới. Cây rung chuyển dữ dội rồi bật gốc, bay lên trời. Vừa lúc Cuội đi rừng về, chàng vội vàng bám rễ cố lôi xuống nhưng cây đã kéo chàng lên tới tận cung trăng. Từ đó, những đêm trăng sáng, Cuội ngồi dưới gốc đa, đau đáu nhìn xuống trần gian, mong được trở lại.
Còn nhân vật Cuội trong truyện thứ hai là một cậu bé có tật hay nói dối. Đi chăn trâu, Cuội cùng lũ trẻ thịt trâu nướng ăn, còn cái đuôi đem cắm xuống lỗ nẻ rồi báo tin cho chú thím là trâu đã chui xuống đất. Thím tắm ngoài sông, Cuội vờ hớt hải chạy về bảo với chủ rằng thím đã chết đuối khiến chú hoảng kinh. Vì nói dối như thật nên nhiều phen Cuội làm cho xóm làng điên đảo. Thấy mọi người bực bội và tức giận nên Trời đã đày Cuội lên cung trăng, bắt ở một mình để không thể nói dối được nữa.
Ở truyện thứ nhất, chàng Cuội tốt bụng, giàu lòng thương người, phải ngồi gốc đa là vì tính hay quên của vợ. Ở truyện sau, Cuội là người xấu, phải ấp cây cả đời là vì bị trừng phạt cho chừa tật nói dối.
Bài ca dao có cấu trúc như một câu chuyện có đủ bối cảnh, sự kiện, nhân vật và đậm chất hoang đường, kì ảo. Ta hãy tưởng tượng nội dung câu chuyện như sau: Có người hiếu kì đã mất bao công phu Bắc thang lên đến cung mây, để Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời. Nghe người kia hỏi thế, Cuội bật cười, trả lời không giấu điếm: Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Từ xưa tới nay, người đời ít nói đến cái tốt của nhân vật chú Cuội. Hầu như họ chi đàm tiếu về tật nối dối của cuội. Việc Cuội phải ấp cây cả đời trên cung trăng được giải thích là do tội nói dối không thể tha thứ ấy.
Ca dao xưa thường dùng cách nói cường điệu, phóng đại để diễn tả sự việc. Không có cái thang nào có thể bắc lên tận cung mây được. Đó chi là trí tưởng tượng của người xưa được thể hiện qua cách nói dí dỏm, hài hước mà thôi. Mục đích của việc Bắc thang lên tận cung mây là để: Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời? Hình ảnh Cuội phải ấp cây cả đời gợi sự mỉa mai, hài hước. Từ ấp cây hàm chứa thái độ giễu cợt của mọi người đối với chú Cuội. Cuội phải có tội lớn đến mức nào thì mới bị giam lỏng trên cung trăng. Trước câu hỏi có ý trêu chọc, chế giễu, Cuội không thể không thú thật:
Cuội nghe thấy nói Cuội cười:
Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc cây.
Cái cười và lời đáp của Cuội thể hiện tính cách láu linh, tinh nghịch vốn là bản chất của nhân vật này. Lúc đầu, nghe người ta hỏi, Cuội cũng thoáng chạnh lòng, nhưng vốn dĩ thông minh nên Cuội đã lấy lại được bình tĩnh và trả lời bằng nụ cười tinh nghịch: Bởi hay nói dối phải ngồi gốc cây. Câu thơ này gồm hai vế có quan hệ nguyên nhân – kết quả, thể hiện thái độ không vòng vo, loanh quanh mà bộc trực, thẳng thắn của Cuội. Cuội nhận lỗi ngay, không thanh minh, không đổ lỗi cho ai. Cuội cũng tự nhận thấy việc phải ấp cây cả đời là sự trừng phạt đích đáng cho thói nói dối quá quắt của mình.
Nói dối như Cuội từ lâu đã là thành ngữ quen thuộc của nhân dân mỗi khi nhận xét về một người nào đó nói dối một cách trơn tru, tự nhiên như thật. Dân gian thích đùa cợt với Cuội, không ai ghét Cuội, nhưng cũng ít ai tin… Cuội. Dân gian đã rộng lòng tha thứ cho chú Cuội vì chú biết nhận khuyết điểm. Trẻ em cũng nhìn chú Cuội với con mắt đáng thương hơn là đáng trách. Hình ảnh Cuội phải ấp cây cả đời mãi mãi gây ấn tượng sâu sắc về một con người phạm nhiều khuyết điểm nhưng biết nhận lỗi một cách dũng cảm.
|
Assignment
The image of Uncle Cuoi appears quite a lot in fairy tales, folk songs and proverbs and has become familiar to children. Every year during the Mid-Autumn Festival, watching the bright moon, the image of Uncle Cuoi sitting under the banyan tree appears clearly in the imagination of the children. The folk song below suggests that fascinating story:
Take the ladder up to the clouds,
Ask why Cuoi has to incubate the tree all his life?
When Cuoi heard this, Cuoi smiled:
Because he often lies, he has to sit under a tree.
From a real natural phenomenon, dark spots on the moon are clearly visible on moonlit nights; With a rich and soaring imagination, the ancients imagined the image of the banyan tree and Uncle Cuoi and included interesting stories with profound educational meaning.
There are two completely different stories about the character Cuoi. The first story is about Uncle Cuoi curing diseases and saving people. The second story is about Uncle Cuoi who has a bad habit of lying. Cuoi in the first story works as a woodcutter. One day in the forest, he suddenly encountered a small tiger. Cuoi took a hammer and beat it to death. The mother tiger returned, saw her cub was dead, immediately went to a tree, pulled off some crushed leaves and applied them to the wound, the cub came back to life. From his hiding place high above, Cuoi saw everything. Waiting for the tiger's mother to go away, he uprooted the tree and brought it home to plant. Since then, thanks to the magical medicinal leaves, Cuoi has brought many people back to life in the area. A rich man had a daughter who fell and broke her head. Cuoi covered her with leaves many times but she still did not come back to life. He then thought of a way to mold a brain out of clay instead and then cover it with magic leaves. That girl later became his wife.
Cuoi's wife is healthy and beautiful but has a forgetful personality. Many times, Cuoi told his wife not to water the plants with dirty water, but then she forgot and used water to water the plants. The tree shook violently, then uprooted and flew into the sky. Just as Cuoi returned from the forest, he quickly grabbed the roots and tried to drag him down, but the tree pulled him up to the moon. From then on, on moonlit nights, Cuoi sat under the banyan tree, painfully looking down at the world, hoping to return.
The character Cuoi in the second story is a boy with a habit of lying. Going to herd the buffalo, Cuoi and the children ate grilled buffalo meat, stuck the tail into the crack hole and informed his aunt and uncle that the buffalo had gone into the ground. Auntie was bathing in the river, Cuoi pretended to rush back to tell his owner that she had drowned, causing him to panic. Because he lied like the truth, Cuoi often made the village crazy. Seeing that everyone was upset and angry, God banished Cuoi to the moon, forcing him to live alone so he could no longer lie.
In the first story, Cuoi, a kind and compassionate man, has to sit under a banyan tree because of his wife's forgetfulness. In the following story, Cuoi is a bad person and has to incubate trees all his life because he was punished for his habit of lying.
The folk song is structured like a story with enough context, events, characters and is full of myth and fantasy. Let's imagine the content of the story as follows: A curious person spent a lot of effort climbing the ladder to reach the cloud palace, to ask why Cuoi had to incubate the tree all his life. Hearing the other person's question, Cuoi burst out laughing and answered without hiding: Because he often lies, he has to sit under a tree.
From ancient times until now, people rarely talk about the goodness of Uncle Cuoi's character. They mostly gossiped about Cuoi's habit of lying. The fact that Cuoi had to incubate trees all his life on the moon is explained by that unforgivable crime of lying.
Ancient folk songs often use hyperbole and exaggeration to describe things. There is no ladder that can reach up to the clouds. That's just the imagination of the ancients expressed through witty and humorous speech. The purpose of climbing the ladder to the clouds is to ask: Why does Cuoi have to incubate the tree all his life? The image of Cuoi having to incubate trees all his life evokes irony and humor. The word hamlet contains everyone's mocking attitude towards Uncle Cuoi. How big a crime must Cuoi have committed to be imprisoned on the moon? Faced with a teasing and mocking question, Cuoi could not help but confess:
Cuoi heard what Cuoi said and laughed:
Because he often lies, he has to sit under a tree.
Cuoi's smile and response show the mischievous and mischievous personality that is the nature of this character. At first, hearing people ask, Cuoi felt a little sad, but being smart, Cuoi regained his composure and answered with a mischievous smile: Because he often lies, he has to sit under a tree. This verse consists of two halves with a cause-effect relationship, expressing Cuoi's attitude of not beating around the bush but being straightforward and straightforward. Cuoi immediately admitted his mistake, did not explain, did not blame anyone. Cuoi also realized that having to incubate the tree for the rest of his life was a worthy punishment for his excessive lying habits.
Lying like Cuoi has long been a familiar idiom for people when commenting on someone lying smoothly and naturally. Folks like to joke around with Cuoi, no one hates Cuoi, but few people believe... Cuoi. The people were generous in forgiving Uncle Cuoi because he knew how to admit his shortcomings. Children also looked at Mr. Cuoi with eyes of pity rather than blame. The image of Cuoi having to incubate a tree for the rest of his life forever leaves a deep impression of a person who has many shortcomings but knows how to admit his mistakes courageously.
|
Bài làm
Theo Nho giáo, đạo lí làm người đề cao năm đức: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân để thành người tốt. Nghĩa để thu phục nhân tâm. Lễ để luyện tâm chính. Trí để được thành danh. Tín để đạt thành công. Tuy không nhắc đến dũng nhưng tinh thần của dũng lại thấm nhuần trong tất cả các đức tính nêu trên.
Vậy thế nào là dũng cảm? Dũng cảm là có dũng khí dám đương đầu với sức chống đối, với nguy hiểm. Ví dụ như: người chiến sĩ dũng cảm; dũng cảm bênh vực lẽ phải, bênh vực kẻ yếu thế. Tuy là một khái niệm trừu tượng nhưng lòng dũng cảm lại được thể hiện qua những lời nói, hành động cụ thể trong cuộc sống. Người xưa khẳng định: Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã. (Thấy việc nghĩa mà không làm là không có dũng khí). Mà như vậy thì chẳng xứng mặt anh hùng, cúi xuống thẹn đất, ngửa lên thẹn trời, bị người đời chê trách, phỉ nhổ.
Trong văn chương, có rất nhiều nhân vật tiêu biểu cho lòng dũng cảm, dám xả thân để cứu khốn, phò nguy. Lục Vân Tiên, chàng học trò trên đường lên kinh ứng thí, gặp bọn cướp Phong Lai đang ức hiếp dân lành đã một mình tả đột hữu xông, đánh tan bọn chúng, cứu Kiều Nguyệt Nga và nữ tì Kim Liên. Lúc Kiều Nguyệt Nga cảm tạ và muốn đền ơn, Lục Vân Tiên khẳng khái đáp:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn…
Hành động quên thân vì nghĩa của Lục Vân Tiên là biểu hiện của dũng khí – một trong những đức tính cao quý của các bậc chính nhân quân tử trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Từ Hải – nhân vật lí tưởng trong Truyện Kiều cũng là điển hình của lòng dũng cảm:
Giang hồ quen thói vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
Chàng không chấp nhận triều đình thối nát đương thời, nên đã lập ra:
Triều đình riêng một góc trời.
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.
Đòi phen gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam.
Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo tủi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Từ Hải khẳng định phẩm chất cao quý của người anh hùng là trọng nghĩa: Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Chàng đã đưa Thúy Kiều từ thân phận tủi nhục của một kĩ nữ chốn lầu xanh lên địa vị cao sang của một bậc phu nhân quyền quý. Chàng giúp nàng báo ân, báo oán – cũng là thực hiện ước mơ công lí, chính nghĩa của nhân dân.
Đó là trong văn chương. Còn trong thực tế cuộc sống cũng có rất nhiều gương sáng về lòng dũng cảm. Điển hình là tấm gương của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, chỉ với lí tưởng cứu dân cứu nước và hai bàn tay trắng mà đã dám dấn thân vào con đường đầy gian lao, thử thách. Năm 1911, anh rời bến cảng Nhà Rồng, xuất dương để tìm chân lí cách mạng giải phóng dân tộc, giành chủ quyền độc lập, tự do cho Tổ quốc Việt Nam. Người bạn thân hỏi lấy tiền đâu mà đi, Nguyễn Tất Thành chìa hai bàn tay thay cho câu trả lời. Lòng yêu nước, khát vọng tự do đã tạo nên dũng khí và sức mạnh, giúp người thanh niên ấy đương đầu và vượt qua trăm ngàn khó khăn, nguy hiểm, để rồi ba mươi năm sau, người chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Tất Thánh) đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tự do, độc lập. Viết về Bác Hồ thời kì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam trên đất Trung Quốc, Quách Mạt Nhược – một học giả nổi tiếng đã kính phục tôn vinh Bác là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Còn nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác những vần thơ đẹp nhất để ca ngợi con người Việt Nam đẹp nhất là Bác Hồ:
Người trông gió bỏ buồm chọn lúc,
Nước cờ hay, xoay vạn kiêu binh.
Lòng dũng cảm quyết không khuất phục,
Yêu hòa bình, đâu sợ chiến chinh!
(Theo chân Bác)
Lòng dũng cảm chính là chất thép trong khí tiết của người chiến sĩ cộng sản chân chính. Chất thép ấy có khi chứa đựng trong một ẩn dụ đầy tính nghệ thuật, một lời tự khuyên mình:
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân?
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện, tinh thần thêm hăng.
Hoặc trong những bài thơ đề cao tinh thần chiến đấu và ý chí chiến thắng không gì lay chuyển nổi của người tù cách mạng:
Thân thề ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao.
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Tinh thần dũng cảm còn được thể hiện qua lòng yêu nước, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ đất nước của hàng triệu thanh niên thời kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ. Họ rời đồng ruộng, nhà máy, trường học, tinh nguyện vào mặt trận với quyết tâm tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Ngày nay, trong cuộc sống hòa bình, lòng dũng cảm được thể hiện qua ý chí và quyết tâm làm cho dấn giàu, nước mạnh. Nhiều trí thức ngày đêm nghiên cứu khoa học với nhiệt tình say mê, ý chí bền bỉ, phương pháp đúng đắn… để có được những cống hiến hữu ích cho xã hội.
Công việc khoa học nghiêm túc đòi hỏi họ phải có lòng dũng cảm, chấp nhận đương đầu với mọi cản trở trên bước đường tìm tòi, sáng tạo. Dám nghĩ, dám làm, dám cống hiến sức lực, trí tuệ và tuổi thanh xuân cho khoa học, đó là dũng khí.
Có một danh nhân đã nói: Chiến thắng chính mình là chiến thắng khó khăn và vinh quang hơn cả. Đúng như vậy! Đầu thế kỉ XX, nhà giáo, nhà văn Nguyễn Bá Học đã có lời khuyên thanh niên: Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
|
Assignment
According to Confucianism, human morality emphasizes five virtues: Humanity, righteousness, propriety, wisdom, and faith. Cause to become a good person. Meaning to win people's hearts. Ceremony to train the right mind. Wisdom to become famous. Trust to achieve success. Although courage is not mentioned, the spirit of courage is imbued in all of the above virtues.
So what is courage? Courage is having the courage to dare to face opposition and danger. For example: brave soldier; Courageously defend the right, defend the weak. Although it is an abstract concept, courage is expressed through specific words and actions in life. The ancients affirmed: Viewing and meaning are immutable. (Seeing a righteous deed but not doing it is a lack of courage). But like that, it is not worthy of being a hero, bowing down to shame the ground, looking up to shame the sky, being criticized and spit on by people.
In literature, there are many characters who represent courage, daring to sacrifice their lives to save misfortune and defend danger. Luc Van Tien, a student on his way to the capital to take the exam, encountered Phong Lai bandits who were oppressing civilians. He single-handedly charged from left to right, defeated them, and saved Kieu Nguyet Nga and her maid Kim Lien. When Kieu Nguyet Nga thanked her and wanted to repay the favor, Luc Van Tien replied firmly:
Please, it's easy to expect someone to return the favor...
Luc Van Tien's act of forgetting himself for the sake of justice is a manifestation of courage - one of the noble qualities of noble men and women in ancient feudal society.
Tu Hai - the ideal character in The Tale of Kieu is also a typical example of courage:
Wanderers are accustomed to struggling,
Half a load of swords, half a row of mountains and rivers.
He did not accept the corrupt court of his time, so he established:
The royal court has its own corner of the sky.
Including two martial arts, dividing mountains and rivers in two.
Asking for the wind to sweep away the rain,
The district city crushed five buildings in the southern realm.
Phong Tran sharpens a sword,
These wards cost nothing but clothes and bags!
Standing across a borderland,
What's missing is loneliness, what's missing is a king!
Tu Hai affirmed that the hero's noble qualities are important: The famous hero called:
In the middle of the road, even though it feels unfair, forgive me!
He brought Thuy Kieu from the humiliating position of a prostitute to the noble position of a noble lady. He helps her repay favors and revenge - also realizing the people's dream of justice and righteousness.
It's in literature. In real life, there are also many shining examples of courage. A typical example is the young patriot Nguyen Tat Thanh, with only the ideal of saving the people and the country and his empty hands, he dared to embark on a path full of hardships and challenges. In 1911, he left Nha Rong port and went abroad to find the revolutionary truth to liberate the nation and gain independence and freedom for the Vietnamese Fatherland. A close friend asked where he got the money to go, and Nguyen Tat Thanh held out his hands as an answer. Patriotism and desire for freedom created courage and strength, helping that young man confront and overcome hundreds of thousands of difficulties and dangers, and thirty years later, international communist soldier Nguyen Ai Quoc (Nguyen Tat Thanh) became the first President of the free, independent Democratic Republic of Vietnam. Writing about Uncle Ho during the period when he was unjustly imprisoned in China by the Chiang Kai-shek government, Quach Mat Nhuoc - a famous scholar, admired Uncle Ho as a man of great wisdom, great man, and great courage. And poet To Huu composed the most beautiful poems to praise the most beautiful Vietnamese person, Uncle Ho:
The one who watches the wind leaves his sails and chooses the right time,
A good move, turning thousands of proud soldiers.
Courage and determination not to yield,
Love peace, don't be afraid of war!
(Following Uncle Ho's footsteps)
Courage is the steel in the temperament of a true communist soldier. That steel is sometimes contained in an artistic metaphor, a piece of self-advice:
Because there is no winter scene,
So where is the splendor of spring?
Thinking of myself in arduous steps,
Disaster training, spirit more enthusiastic.
Or in poems that promote the fighting spirit and unshakable will to win of revolutionary prisoners:
I swear in prison,
The spirit is outside the work.
Want to have a great career,
Morale must be higher.
The spirit of courage is also shown through the patriotism and willingness to sacrifice to protect the country of millions of young people during the resistance war against the French and Americans. They left the fields, factories, and schools to volunteer for the front with the determination to do everything for the South, for the cause of national reunification.
Today, in a peaceful life, courage is shown through the will and determination to make the country rich and strong. Many intellectuals research science day and night with enthusiasm, persistent will, correct methods... to make useful contributions to society.
Serious scientific work requires them to have courage and accept all obstacles on the path of exploration and creativity. Dare to think, dare to do, dare to devote your strength, intelligence and youth to science, that is courage.
There is a famous person who said: Winning over yourself is the most difficult and glorious victory. Exactly! In the early twentieth century, teacher and writer Nguyen Ba Hoc gave advice to young people: The path is not difficult because it separates the river from the mountains, but it is difficult because people are afraid of the mountains and the rivers.
|
Bài làm:
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là kiệt tác có một không hai trong lịch sử văn chương Việt Nam. Tài năng xuất sắc của tác giả tạo nên giá trị muôn đời cho Truyện Kiều – kết tinh của tinh hoa Tiếng Việt giàu và đẹp. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhẫn vật đã đạt tới trình độ điêu luyện và tinh tế.
Trong đoạn trích Trao duyên, nhà thơ tập trung thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều. Sau cơn vạ gió tai bay bất kì, tổ ấm của gia đình nàng tan tác. Cha và em trai bị đánh đập, giam cầm; của cải bị lũ đầu trâu mặt ngựa vơ vét sạch sành sanh. Để đáp ứng yêu cầu của lũ tham quan ô lại, Thúy Kiều chỉ còn một cách là bán mình để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha.
Suốt đêm: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu, Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay Mã Giám Sinh, Thúy Kiều cảm thấy như chính mình là người có lỗi trong chuyện tình duyên dang dở, là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một, thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc, cố quên bản thân để nghĩ đến Kim Trọng:
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thì thôi, còn gì?
Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự hờn trách, dằn vặt vì mình khăng khít khiến người dở dang. Đúng ra là Thúy Kiều, Kim Trọng cùng chủ động đến với nhau, tự nguyện yêu và gắn bó với nhau và cả hai phải được sống hạnh phúc. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương nhất.
Đối diện với với gia cảnh tan tác và tâm trạng rối bời, nàng chỉ biết âm thầm khóc than cho duyên phận, cho số kiếp không may. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn được phần nào mối lương duyên của mình. Đó là nhờ em gái nối duyên với chàng Kim. Nghĩ là làm, Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em gái vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Dường như Nguyễn Du đã hóa thân vào Thúy Kiều để thấu hiểu, thông cảm và xót thương cho nàng, thay nàng nói lên những lời làm rung động tâm can người nghe:
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Kiều thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình đầu trong sáng, nồng nàn mà chỉ mới hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, dù là em gái đi nữa thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa, mối tình này đã gắn bó đến mức keo sơn, thề nguyền vàng đá dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Vì thế mà nó thiêng liêng, sâu nặng, khó có thể đổi thay.
Kiều rơi vào tình thế khó xử, không nói ra không được, mà nói ra thì e ngại. Nàng băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Tội nghiệp thay cho Kiều! Nguyễn Du hiểu tường tận tâm thế, vị thế của nàng lúc này nên mới dùng những từ hàm chứa nỗi đau đớn, chua xót như Cậy (tin cậy mà nhờ vả), chịu lời, lạy, thưa. Kiều nói với em gái (bề dưới) mà như nói với bề trên, hơn thế – như một vị ân nhân. Nàng dẫn dắt Thúy Vân đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Sau phút ban đầu khó nói, giờ đây, nàng bộc bạch hết sức chân thành với Thúy Vân về mối tình dang dở của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai.
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nguyễn Du đã đặc tả tâm trạng đau khổ của Thúy Kiểu khi nghĩ tới người yêu giờ đây đang thăm thẳm tận đất Liêu Dương, chưa hề biết đến sự tan vỡ bất ngờ của tình yêu đôi lứa. Kiều có ý coi đây là món nợ tình, kiếp này chưa trả được thì đành mang khối tình theo xuống tuyền đài chưa tan. Thúy Kiều tội nghiệp biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào!
Trong quá trình diễn biến tâm lí của Thúy Kiều có rất nhiều mâu thuẫn. Nàng chủ động nhờ cậy em gái: Xót tình máu mủ thay lời nước non, thay mình đền đáp nghĩa tình với Kim Trọng. Tin em nên nàng trao lại cả những kỉ vật quý giá:
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Thế nhưng chỉ sau giây phút tưởng tượng ra cái chết thê thảm thịt nát xương mòn của mình, mình chỉ còn là mảnh hồn oan vật vờ nơi ngọn cỏ, lá cây mỗi lúc hiu hiu gió thì Kiều lại tiếc nuối và đớn đau gấp bội. Đúng là có mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tất yếu của tấm lòng vị tha đáng quý của Kiều. Nàng lo cho người yêu trước rồi mới nghĩ đến mình và nàng thực sự hoang mang, sợ hãi trước tương lai mù mịt. Nỗi đau tinh thần đã quá mức chịu đựng của thể xác người con gái liễu yếu đào tơ:
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Nguyễn Du với ngòi bút kì tài đã miêu tả thành công một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tài hoa bạc mệnh. Nàng đau đớn đâu phải vì mình, cho mình mà vì người yêu, cho người yêu. Đức vị tha, nhân ái cao cả ấy của Thúy Kiều khiến cho người đời càng cảm phục và yêu mến nàng hơn.
Đoạn trích Nỗi thương mình kể về chuyện sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, nàng đã quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng là biến nàng thành kĩ nữ. Nàng định quyên sinh để thoát khỏi thân phận nhuốc nhơ, nhưng vì ngây thơ và cả tin, nàng đã bị tên ma cô Sở Khanh lừa dối, rơi vào cạm bẫy của Tú Bà và buộc phải ra tiếp khách. Tình cảnh trớ trêu khiến nàng chìm đắm triền miên trong nỗi tủi hổ và cay đắng:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Chỉ qua bốn câu thơ, Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh. Những ẩn dụ như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, hình ảnh Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh (hai khách phong lưu nổi tiếng) đã phản ánh thú vui trụy lạc chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy, nổi bật lên một nàng Kiều cô đơn, buồn bã:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Hai câu thơ tả tâm lí này cũng có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hoà, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích này. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, Để xem con Tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi và chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chân trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau. Mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự thông cảm và rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn thấu tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, Tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là cái thế lực vạn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen nhơ nhớp.
Đau khổ đã biến Kiều thành vô tri vô giác trước những kẻ ăn chơi trụy lạc xung quanh nàng:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
|
Bài làm:
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là kiệt tác có một không hai trong lịch sử văn chương Việt Nam. Tài năng xuất sắc của tác giả tạo nên giá trị muôn đời cho Truyện Kiều – kết tinh của tinh hoa Tiếng Việt giàu và đẹp. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhẫn vật đã đạt tới trình độ điêu luyện và tinh tế.
Trong đoạn trích Trao duyên, nhà thơ tập trung thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều. Sau cơn vạ gió tai bay bất kì, tổ ấm của gia đình nàng tan tác. Cha và em trai bị đánh đập, giam cầm; của cải bị lũ đầu trâu mặt ngựa vơ vét sạch sành sanh. Để đáp ứng yêu cầu của lũ tham quan ô lại, Thúy Kiều chỉ còn một cách là bán mình để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha.
Suốt đêm: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu, Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay Mã Giám Sinh, Thúy Kiều cảm thấy như chính mình là người có lỗi trong chuyện tình duyên dang dở, là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một, thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc, cố quên bản thân để nghĩ đến Kim Trọng:
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thì thôi, còn gì?
Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự hờn trách, dằn vặt vì mình khăng khít khiến người dở dang. Đúng ra là Thúy Kiều, Kim Trọng cùng chủ động đến với nhau, tự nguyện yêu và gắn bó với nhau và cả hai phải được sống hạnh phúc. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương nhất.
Đối diện với với gia cảnh tan tác và tâm trạng rối bời, nàng chỉ biết âm thầm khóc than cho duyên phận, cho số kiếp không may. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn được phần nào mối lương duyên của mình. Đó là nhờ em gái nối duyên với chàng Kim. Nghĩ là làm, Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em gái vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Dường như Nguyễn Du đã hóa thân vào Thúy Kiều để thấu hiểu, thông cảm và xót thương cho nàng, thay nàng nói lên những lời làm rung động tâm can người nghe:
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Kiều thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình đầu trong sáng, nồng nàn mà chỉ mới hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, dù là em gái đi nữa thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa, mối tình này đã gắn bó đến mức keo sơn, thề nguyền vàng đá dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Vì thế mà nó thiêng liêng, sâu nặng, khó có thể đổi thay.
Kiều rơi vào tình thế khó xử, không nói ra không được, mà nói ra thì e ngại. Nàng băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Tội nghiệp thay cho Kiều! Nguyễn Du hiểu tường tận tâm thế, vị thế của nàng lúc này nên mới dùng những từ hàm chứa nỗi đau đớn, chua xót như Cậy (tin cậy mà nhờ vả), chịu lời, lạy, thưa. Kiều nói với em gái (bề dưới) mà như nói với bề trên, hơn thế – như một vị ân nhân. Nàng dẫn dắt Thúy Vân đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Sau phút ban đầu khó nói, giờ đây, nàng bộc bạch hết sức chân thành với Thúy Vân về mối tình dang dở của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai.
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nguyễn Du đã đặc tả tâm trạng đau khổ của Thúy Kiểu khi nghĩ tới người yêu giờ đây đang thăm thẳm tận đất Liêu Dương, chưa hề biết đến sự tan vỡ bất ngờ của tình yêu đôi lứa. Kiều có ý coi đây là món nợ tình, kiếp này chưa trả được thì đành mang khối tình theo xuống tuyền đài chưa tan. Thúy Kiều tội nghiệp biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào!
Trong quá trình diễn biến tâm lí của Thúy Kiều có rất nhiều mâu thuẫn. Nàng chủ động nhờ cậy em gái: Xót tình máu mủ thay lời nước non, thay mình đền đáp nghĩa tình với Kim Trọng. Tin em nên nàng trao lại cả những kỉ vật quý giá:
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Thế nhưng chỉ sau giây phút tưởng tượng ra cái chết thê thảm thịt nát xương mòn của mình, mình chỉ còn là mảnh hồn oan vật vờ nơi ngọn cỏ, lá cây mỗi lúc hiu hiu gió thì Kiều lại tiếc nuối và đớn đau gấp bội. Đúng là có mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tất yếu của tấm lòng vị tha đáng quý của Kiều. Nàng lo cho người yêu trước rồi mới nghĩ đến mình và nàng thực sự hoang mang, sợ hãi trước tương lai mù mịt. Nỗi đau tinh thần đã quá mức chịu đựng của thể xác người con gái liễu yếu đào tơ:
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Nguyễn Du với ngòi bút kì tài đã miêu tả thành công một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tài hoa bạc mệnh. Nàng đau đớn đâu phải vì mình, cho mình mà vì người yêu, cho người yêu. Đức vị tha, nhân ái cao cả ấy của Thúy Kiều khiến cho người đời càng cảm phục và yêu mến nàng hơn.
Đoạn trích Nỗi thương mình kể về chuyện sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, nàng đã quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng là biến nàng thành kĩ nữ. Nàng định quyên sinh để thoát khỏi thân phận nhuốc nhơ, nhưng vì ngây thơ và cả tin, nàng đã bị tên ma cô Sở Khanh lừa dối, rơi vào cạm bẫy của Tú Bà và buộc phải ra tiếp khách. Tình cảnh trớ trêu khiến nàng chìm đắm triền miên trong nỗi tủi hổ và cay đắng:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Chỉ qua bốn câu thơ, Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh. Những ẩn dụ như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, hình ảnh Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh (hai khách phong lưu nổi tiếng) đã phản ánh thú vui trụy lạc chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy, nổi bật lên một nàng Kiều cô đơn, buồn bã:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Hai câu thơ tả tâm lí này cũng có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hoà, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích này. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, Để xem con Tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi và chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chân trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau. Mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự thông cảm và rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn thấu tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, Tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là cái thế lực vạn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen nhơ nhớp.
Đau khổ đã biến Kiều thành vô tri vô giác trước những kẻ ăn chơi trụy lạc xung quanh nàng:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
|
Bài làm:
Sau khi chiến thắng oanh liệt quân Minh xâm lược, nhân dân Đại Việt bước sang giai đoạn hòa bình, xây dựng đất nước. Các tác phẩm thơ văn sáng tác từ những thế kỉ trước nay được một số người sưu tầm và in thành sách. Học giả Hoàng Đức Lương đã tuyển chọn những bài thơ hay từ thời Trần đến đời Lê, đặt tên là Trích diễm thi tập ông trực tiếp viết lời Tựa cho cuốn sách này để giới thiệu với người đọc.
Tựa là bài viết đặt ở đầu sách, do chính tác giả hoặc người khác (thường là người am hiểu về nội dung cuốn sách) được tác giả mời viết. Bài Tựa thường nêu lên quan điểm của người viết về những vấn đề liên quan đến cuốn sách. Ví dụ như lí do và phương pháp làm sách, đặc điểm của sách… Thời xưa, khi phê bình văn học chưa phát triển thì các bài Tựa thường thực hiện chức năng này. Về độ dài ngắn, có bài dài vài trang, nếu giới thiệu tỉ mỉ; có bài chỉ vài chục dòng, nếu giới thiệu sơ lược.
Chúng ta hãy thử phân tích bài Tựa cuốn Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương để hiểu rõ hơn thế nào là một bài Tựa?
Mở đầu bài Tựa, tác giả nêu lên những nguyên nhân khiến cho văn thơ không được lưu truyền rộng rãi.
Nguyên nhân thứ nhất là do đặc điểm của văn thơ là kén chọn người đọc. Một món ăn ngon, một miếng gấm vóc đẹp, người bình thường có thể cảm nhận và thưởng thức được. Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp ăn mà biết được vị ngon ấy thôi. Có nghĩa là thơ văn chỉ để dành riêng cho tầng lớp trí thức chiếm số ít trong xã hội.
Nguyên nhân thứ hai là việc sưu tầm và phổ biến thơ văn hầu như chưa được mấy ai coi là cần thiết: Những bậc danh nho làm quan to ở trong quan các, hoặc vì bận việc không rỗi thời giờ để biên tập, còn viên quan nhàn tản chức thấp cùng những người lận đận về khoa trường, thì đều không để ý đến.
Nguyên nhân thứ ba là: Thỉnh thoảng, cũng có người thích thơ văn, nhưng lại ngại vì công việc nặng nề, tài lực kém cỏi, nên đểu làm được nữa chừng rồi lại bỏ dở.
Nguyên nhân thứ tư là sự quản lí chặt chẽ của triều đình: … thơ văn nếu chưa được lệnh vua, không dám khắc ván lưu hành.
Do vậy mà tác giả thấy cần thiết phải sưu tầm, biên soạn và giới thiệu những bài thơ có giá trị để lưu truyền rộng rãi, nhằm mục đích bảo tồn tinh hoa văn hóa của dân tộc. Đó là việc làm chính đáng, xuất phát từ nhiệt tâm, nhiệt huyết của tác giả đối với đất nước. Giữa suy nghĩ và hành động của Hoàng Đức Lương có mối quan hệ lôgic chặt chẽ: Vì bốn lí do kể trên bó buộc, trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫu đến những vật bền như đá, như vàng, lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp cái hòm, trải qua mấy lần binh lửa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?
Tác giả cũng bày tỏ tâm sự bức xúc của mình: Đức Lương này học làm thơ, chỉ trông vào thơ bách gia đời nhà Đường, còn như thơ văn thời Lí – Trần, thì không khảo cứu vào đâu được. Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách than thở, có ý đổ lỗi bậy cho hiền nhân quân tử lúc bấy giờ. Than ôi! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm. Chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà Đường. Như thế chẳng đáng thương xót lắm sao! Trong tâm sự đó vừa ẩn chứa lòng tự hào dân tộc, vừa ẩn chứa nỗi xót xa về những điều chưa làm được để tôn vinh nền văn hiến có tự lâu đời của dân tộc.
Tất cả những yếu tố đó thôi thúc tác giả phải mạnh dạn mà làm, dẫu biết khả năng của mình có hạn: Tôi không tự lượng sức mình, muốn sửa lại điều lỗi cũ, quên rằng sách cũ không còn bao nhiêu, trách nhiệm nặng nề mà tài hèn sức mọn, tìm quanh hỏi khắp nhưng số thơ thu lượm được cũng chỉ một hai phần trong số muôn nghìn bài…
|
Assignment:
After a resounding victory over the invading Ming army, the people of Dai Viet entered a period of peace and national construction. Poetic works composed in previous centuries are now being collected by some people and printed into books. Scholar Hoang Duc Luong selected good poems from the Tran to Le dynasties, named it Extract of poetry, he directly wrote the Preface for this book to introduce it to readers.
The title is an article placed at the beginning of the book, written by the author himself or another person (usually someone knowledgeable about the book's content) invited by the author. The Preface often states the writer's point of view on issues related to the book. For example, the reasons and methods of making books, characteristics of books... In ancient times, when literary criticism was not yet developed, Titles often performed this function. Regarding short length, some articles are several pages long, if introduced meticulously; Some articles are only a few dozen lines, if given a brief introduction.
Let's try to analyze the Title of the book Extract of Poetry by Hoang Duc Luong to better understand what a Preface is?
At the beginning of the Preface, the author points out the reasons why poetry is not widely circulated.
The first reason is because the characteristics of poetry are to be picky about readers. A delicious dish, a beautiful piece of brocade, ordinary people can feel and enjoy. When it comes to poetry, it is beauty beyond beauty, deliciousness beyond deliciousness, it cannot be seen with ordinary eyes, or tasted with ordinary mouths. Only poets can look at it and know its beauty, eat it and know its deliciousness. This means that poetry is only reserved for the intellectual class, which is a minority in society.
The second reason is that collecting and disseminating poetry is hardly considered necessary by many people: Famous scholars work as high-ranking officials in mandarins, or because they are busy with work and do not have time to edit or write. Leisurely low-ranking officials and those who have difficulty returning to the school do not pay attention.
The third reason is: Occasionally, there are people who like poetry, but are afraid because the work is heavy and lack of resources, so they can only do it halfway and then give up.
The fourth reason is the strict management of the court: ... if poetry has not been ordered by the king, it does not dare to be engraved and circulated.
Therefore, the author finds it necessary to collect, compile and introduce valuable poems to widely circulate, with the aim of preserving the cultural quintessence of the nation. That is a legitimate job, stemming from the author's enthusiasm and enthusiasm for the country. There is a close logical relationship between Hoang Duc Luong's thoughts and actions: Because of the four reasons mentioned above, after several long dynasties, even durable objects like stone or gold are possessed by demons. Bless me, I'm still broken and sinking. What's more, the remaining manuscript, the fragile piece of paper kept in a zip in a trunk, after going through several times of war and fire, how can it be kept forever without being torn to pieces?
The author also expressed his frustration: Duc Luong learned to write poetry, only relying on the poems of hundreds of scholars in the Tang Dynasty, but like the poetry of the Ly - Tran dynasties, he could not research anything. Every time I pick up a few sentences from scraps of paper or broken walls, I often hold a book and lament, intending to blame the wise man at that time. Alas! A civilized country, built for hundreds of years. Is it possible that there is no book that can serve as a basis, so we have to look far away to learn the poetry of the Tang Dynasty. Isn't that so pitiful! In that confession, there is both national pride and sadness for what has not been done to honor the nation's long-standing civilization.
All of these factors urged the author to be bold and act boldly, even though he knew his abilities were limited: I did not limit myself, wanting to correct old mistakes, forgetting that there were not many old books left, responsibility Heavy but with little talent, I looked around and asked everywhere but the number of poems I collected was only one or two out of thousands of poems...
|
Bài làm
ổ nhân có câu: Vi nhân nan, tức là làm người khó. Quả là khó thật vì trên đời không ai toàn vẹn cả (Nhân vô thập toàn). Tuy vậy, trong sử sách nước ta vẫn cố những gương sáng muôn đời về phẩm chất cao quý, xứng đáng để mọi thế hệ suy ngẫm và học tập. Các tác giả của cuốn Đại Việt sử lược đã dành những bài viết ca ngợi Thái phó Tô Hiến Thành và Thái SƯ Trần Thủ Độ, hai vị quan thuộc hàng trụ triều đình nổi tiếng là thanh liêm, cương trực.
Tô Hiến Thành giữ chức Tể tướng dưới triều vua Lí Anh Tông, kiêm chức Thái phó giúp việc cho Thái tử Lí Cao Tông. Năm sinh của ông chưa được xác định rõ, còn năm mất là 1179. ông là người có nhân cách lớn, một lòng vì dân vì nước.
Có một câu chuyện kể rằng trước khi băng hà, vua Lí Anh Tông dặn dò Tồ Hiến Thành hãy phò tá Long Cán – hoàng tử thứ sáu – lên nối ngôi. Lúc đó Long Cán mới ba tuổi, cho nên mọi việc lớn nhỏ trong triều đều giao cho Thái phó Tô Hiến Thành đảm nhiệm. Thái hậu (mẹ vua) lại muốn phế Long Cán để lập Long Sương (thái tử đã bị truất quyền nối ngôi) làm vua nên nhân lúc Tô Hiến Thành đi sứ, bèn sai người mang vàng lụa đến nhà gặp bà vợ, nhờ nói lại ý đó với ông. Nghe vợ hói xong, Tô Hiến Thành khảng khái trả lời: Ta ở ngôi Tể tướng, nhận lời cố thác của Tiên vương để phò ấu chúa. Nay nhận đồ hối lộ của người mà mưu phế lập, thiên hạ sẽ nói ta như thế nào? Giá như mọi người đều là kẻ bưng tai bịt mắt không biết, thì ta biết lấy tời lể nào để trả lời Tiên Vương ở dưới suối vàng?
Lời đáp của Thái phó Tô Hiến Thành chứa đựng bài học về lòng trung thành tuyệt đối. Vua Lí Anh Tông đã hoàn toàn tin tưởng ở ông nên mới giao trọng trách cho ông. Nay dù Tiên Vương đã mất, nhưng Tô Hiến Thành vẫn không thể phụ lòng tin ấy, muối mặt nhận hối lộ để người đời phỉ nhổ, bêu riếu và đắc tội với anh hồn Tiên Vương.
Dùng cách hối lộ không được, Thái hậu chuyển sang dùng áp lực. Bà mời Tô Hiến Thành đến và bảo rằng: ông đối với nước nhà, có thể gọi là trung đấy! Song, tuổi ông đã xế chiều mà thờ ấu chúa thì việc làm của ông ai người biết đến? Chi bằng, lập vua trưởng thành thì người đó sẽ đem ơn đức mà ban cho. ông giữ được phú quý lâu dài há chẳng nên ư? Như vậy là miếng mồi phú quý lâu dài đã được bà tung ra nhằm lung lạc lòng trung của Tô Hiến Thành. Nhưng ông đã dám phủ nhận ý kiến của Thái hậu, giữ vững sự trung tín của mình: Bất nghĩa mà được phú và quý, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống chi, lời di chúc của Tiên vương còn ở bên tai. Đối với công luận sẽ như thế nào? Thần không dám vâng lời. Rồi ông phản ứng gay gắt bằng hành động rảo bước ra ngoài.
Ông không chỉ bảo vệ ấu chúa Lí Cao Tông (tức Long Cán) bằng lí lẽ mà còn bằng hành động quyết liệt là ra lệnh cho quan lại cấp dưới hãy hết sức vì vương thất, không ăn ở hai lòng và tuyên bố: kẻ nào trái lệnh ta sẽ bị giết phơi ngoài chợ.
Lúc lâm bệnh nặng, quan Thái phó Tô Hiến Thành được quan Tham tri chính sự Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ bên cạnh. Trong khi đó thì Gián nghị đại phu Trần Trung Tá bận bịu nhiều việc, không lúc nào rảnh rang để đến thăm. Thái hậu hỏi Tô Hiến Thành: Nếu có mệnh hệ nào, ai thay ông? ông trả lời không do dự: Người mà ngày thường thần biết, chỉ có Trung Tá mà thôi. Thái hậu trách ông sao không nghĩ đến công lao hầu hạ của Vũ Tán Đường mà tiến cử ông ta, thì Tô Hiến Thành vẫn một mực khẳng định: Thái hậu hỏi người thay thần, nên thần nói tới Trung Tá; nếu hỏi người hầu hạ, phụng dưỡng thần thì phi Tán Đường còn ai nữa? Điều đó cho thấy thái độ của Tô Hiến
Thành về việc công, việc tư rất rõ ràng và theo quan điểm của ông thì người gánh vác trọng trách của đất nước dứt khoát phải thực sự có tài, có đức.
Suy nghĩ và lời nói của Tô Hiến Thành đã đạt đến mức độ cặn kẽ, thấu đáo, có lí, có tình. Với ông, bề tôi phải đặt chữ trung lên hàng đầu, sau đó là chữ tín. Bất trung, bất tín thì không xứng là bậc chính nhân quân tử, mà chỉ là hạng giá áo túi cơm hèn hạ mà thôi.
Nếu ở nhà Lý có Tô Hiến Thành kiên trung, thì ở nhà Trần có Trần Thử Độ cương trực, thao lược.
Trần Thủ Độ tuy ít học nhưng thông minh, sáng suốt hơn người. Nhờ có công lớn lập ra nhà Trần nên ông được phong chức Thái sư – chức quan cao nhất trong triều, có quyền tham gia ý kiến trong mọi việc chính sự. ở ông, nổi bật nhất là tính cách thẳng thắn, trung thực và không vụ lợi. về quyền lực mà nói, thì Thái Sư hơn cả vua Trần Thái Tông thời bấy giờ.
Có người tâu lên nhà vua trẻ tuổi rằng Trần Thủ Độ lấn lướt, lạm quyền. Vua hỏi, Thái sư không chối mà khẳng định là đúng như lời người ấy nói. Sau đó còn ban thưởng tiền bạc, gấm vóc cho anh ta. Vua Trần Thái Tông coi Trần Thủ Độ (chú ruột) như cha nên vô cùng tin tưởng, cho rằng nếu Thái sư có làm như vậy thì cũng chỉ vì lo cho dân, cho nước mà thôi.
|
Assignment
There is a saying: It is difficult to be a human being, which means being a human being is difficult. It's really difficult because no one in this world is perfect. However, in our country's history books, there are still eternal examples of noble qualities, worthy of all generations to reflect and study. The authors of the book Dai Viet's history have dedicated articles praising Deputy Thai Deputy To Hien Thanh and Thai Master Tran Thu Do, two officials of the royal court who are famous for their integrity and uprightness.
To Hien Thanh held the position of Prime Minister under the reign of King Ly Anh Tong, and also held the position of Deputy Thai Assistant to Crown Prince Ly Cao Tong. The year of his birth has not been clearly determined, and the year of his death is 1179. He was a man with a great personality, devoted to the people and the country.
There is a story that before his death, King Ly Anh Tong told To Hien Thanh to assist Long Can - the sixth prince - to succeed the throne. At that time, Long Can was only three years old, so all large and small matters in the court were assigned to Deputy Thai To Hien Thanh. The Queen Mother (the king's mother) wanted to depose Long Can to establish Long Suong (the crown prince who had been deposed from the throne) as king, so while To Hien Thanh was on a mission, she sent someone to bring gold and silk to the house to meet his wife, asking to speak. that idea back to him. After listening to his wife's baldness, To Hien Thanh replied calmly: I am the Prime Minister, accepting the request of the First King to support the young lord. Now, if I accept bribes from others and plot to overthrow the government, what will people say about me? If only everyone were blind and ignorant, then how would we know how to answer the Immortal King under the Golden Stream?
Deputy Crown Prince To Hien Thanh's response contained a lesson about absolute loyalty. King Ly Anh Tong had complete trust in him, so he entrusted him with the responsibility. Now even though the Immortal King has passed away, To Hien Thanh still cannot betray that trust and shamelessly accepts bribes so that people will spit on, shame and offend the Immortal King's soul.
Using bribery failed, so the Queen Mother turned to using pressure. She invited To Hien Thanh to come and said: you can be called loyal to your country! However, when he is already old and worships his child, no one knows about his deeds? If only an adult king were established, he would bestow grace and virtue upon him. Shouldn't he be able to keep his wealth for a long time? Thus, she launched a long-term bait of wealth to sway To Hien Thanh's loyalty. But he dared to deny the Queen Mother's opinion, maintaining his loyalty: Being rich and noble through dishonesty is not something a loyal and loyal servant is happy to do. What's more, the Immortal King's will is still in my ears. What will it be like for public opinion? God did not dare to obey. Then he reacted harshly by walking out.
He not only protected the young lord Ly Cao Tong (also known as Long Can) with arguments but also with drastic actions, ordering lower-level mandarins to do their best for the royal family, not being duplicitous and declaring: Anyone who disobeys my orders will be killed and dried in the market.
When he fell seriously ill, Deputy Thai mandarin To Hien Thanh was attended to by the Chief Minister Vu Tan Duong day and night. Meanwhile, Minister Tran Trung Ta was busy with many things and never had time to visit. The Queen Mother asked To Hien Thanh: If there is any fate, who will replace you? He answered without hesitation: The only person I know on a normal day is Lieutenant Colonel. The Queen Mother blamed him for not thinking about Vu Tan Duong's meritorious service and recommending him, but To Hien Thanh still insisted: The Queen Mother asked for someone to replace me, so I said Lieutenant Colonel; If you ask the person who serves and takes care of you, who else is Phi Tan Duong? That shows To Hien's attitude
His achievements in public and private affairs are very clear and in his opinion, the person who takes on the responsibility of the country must definitely be truly talented and virtuous.
To Hien Thanh's thoughts and words have reached a level of thoroughness, thoroughness, reason, and emotion. For you, I must put loyalty first, then trust. If you are disloyal and untrustworthy, you are not worthy of being a gentleman, but are just a lowly person.
If in the Ly dynasty there was the steadfast To Hien Thanh, then in the Tran dynasty there was the upright and strategic Tran Thu Do.
Although Tran Thu Do is uneducated, he is more intelligent and wise than others. Thanks to his great contribution to establishing the Tran Dynasty, he was awarded the title of Grand Master - the highest official position in the court, with the right to participate in all political affairs. In him, the most outstanding thing is his straightforward, honest and unselfish personality. In terms of power, Thai Su was superior to King Tran Thai Tong at that time.
Someone reported to the young king that Tran Thu Do was dominating and abusing his power. The king asked, the Grand Master did not deny but affirmed that it was true what he said. Then he also rewarded him with money and brocade. King Tran Thai Tong considered Tran Thu Do (his uncle) as his father, so he trusted him very much, thinking that if the Grand Master did so, it would only be because he cared for the people and the country.
|
Bài làm
Kể từ ngày chồng tôi ra trận cho đến nay, thấm thoắt mà đã mấy tuần trăng, vắng chàng, nhà cửa trống trải đến lạnh lùng. Ngày ngày, tôi lặng lẽ dạo quanh hiên, nỗi buồn như nặng trĩu từng bước chân, Tôi mong được nghe một tiếng chim thước ríu rít báo tin vui có người đi xa trở về nhưng không hề có. Ngồi trong rèm thưa, tôi hết kéo rèm lên lại buông rèm xuống, sốt ruột ngóng đợi chàng mà trên con đường thiên lí vẫn chẳng thấy xuất hiện bóng dáng thân yêu.
Đêm đêm, hoạ có ngọn đèn chong hiểu được lòng tôi, nhưng đèn cũng chẳng thể hiểu thấu nỗi đớn đau đang vò xé tâm can tôi. Một mình một bóng bên đèn, tôi thấm thìa nỗi cô đơn, thầm thương thân trách phận, tiếc cho mối duyên tình dang dở. Nỗi buồn không thể san sẻ cùng ai khiến tôi nói chẳng nên lời.
Thao thức suốt năm canh, ngoài kia đã eo óc tiếng gà báo sáng. Cây hòe phất phơ rủ bóng bốn bên cũng đã hiện rõ dần qua màn sương sớm. Xa chồng, tôi cảm thấy mỗi giờ trôi qua đằng đẵng tựa một năm và mối sầu thì dằng dặc như sông, như biển. Nỗi cô đơn day dứt lòng tôi, làm tan nát trái tỉm tôi. Mỗi lần thắp hương nguyện cầu cho chàng sớm trở về, hổn tôi lại đắm chìm trong mối suy tư, khắc khoải. Mỗi lần gượng soi gương, thấy vẻ mặt bơ phờ vì âu lo, vì không trang điểm, tôi lại tự hỏi: “Chồng ta đang ở chốn sa trường hiểm nguy, sống chết cách nhau gang tấc, vậy thì ta làm đẹp với ai?”. Nghĩ đến đấy, nước mắt tôi lại lã chã tuôn rơi.
|
Assignment
Since the day my husband went to war until now, it has been several moons, without him, the house feels cold and empty. Every day, I quietly walked around the porch, sadness weighing each step. I hoped to hear a bird chirping to announce the good news that someone had returned from a long trip, but it never happened. Sitting in the thin curtain, I raised and lowered the curtain, impatiently waiting for him, but still there was no sign of my beloved figure on the heavenly road.
At night, there is a lamp that can understand my heart, but the lamp cannot understand the pain that is tearing my heart. Alone by the lamp, I felt loneliness, secretly pitied myself and regretted my fate, and regretted the unfinished love affair. The sadness that I cannot share with anyone makes me speechless.
Staying awake for five hours, the sound of the rooster announcing the morning was already heard outside. The fluttering trees casting shadows on all four sides have gradually appeared through the morning mist. Being away from my husband, I feel like each hour passes like a year and my sadness is as constant as a river or the sea. Loneliness torments me, breaks my heart. Every time I burn incense and pray for him to return soon, I find myself immersed in thoughts and anxiety. Every time I forced myself to look in the mirror and saw a listless face due to worry and lack of makeup, I asked myself: "My husband is in a dangerous place, life and death are an inch apart, so who should I beautify him with?" ?”. Thinking about that, tears fell from my eyes again.
|
Bài làm
Đang Sống nhờ trên đất Ngụy của Tào Tháo, một hôm, nghe tin anh cả là Lưu Bị hiện ở Nhữ Nam, tôi vội đưa hai chị dâu lên đường đi tìm.
Đi được vài ngày, trông xa xa trên đỉnh núi có một tòa thành, tôi bèn hỏi thăm thì được người ta cho biết đó là cổ Thành. Cách đây vài tháng, có một tướng dẫn theo vài chục quân kị đến đuổi quan huyện, chiếm lấy thành, mộ lính tậu ngựa, tích trữ lương thảo, nay đã có tới ba ngàn quân. Xung quanh vùng, không ai dám chống lại. Hỏi ra, biết là Trương Phi nên tôi vui mừng khôn xiết, liền sai Tôn Càn vào thành báo tin, bảo Trương Phi rạ đón hai chị.
Trương Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác xà mâu dẫn theo một ngàn quân, đi tắt ra cửa Bắc. Tôn Càn thấy lạ cũng ra theo. Tôi giao thanh long đao cho Châu Thương cầm rồi vội tế ngựa lại đón. Những tưởng Trương Phi sau bao ngày xa cách cũng sẽ mừng rỡ được gặp nhau, đâu ngờ trước mắt tôi là một Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm và múa tít cây xà mâu, chạy lại định đâm tôi.
Tôi giật mình vội tránh mũi mâu rồi hỏi: “Hiền đệ cớ sao lại như thế, há quên nghĩa vườn đào ru?”. Trương Phi hầm hầm quát: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?”. Tôi ngạc nhiên vặn lại: “Thế nào là bội nghĩa?”. Trương Phi chỉ thẳng vào mặt tôi, sỉ mắng không tiếc lời: “Mày bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước, nay lại đến đây đánh lừa tao! Phen này tao quyết liều sống chết với mày!”.
Tôi vẫn cố giữ bình tĩnh phân trần: “Chuyện này em không biết, ta cũng khó nói. May có hai chị ở đây, em đến mà hỏi!”. Hai phu nhân thấy thế, vội vàng kéo màn xe, gọi: “Chú Ba sao lại thế?”. Trương Phi vẫn đang trỏng cơn nóng giận, vội xua tay: “Xin hai chị hãy thong thả, để tôi giết thằng phụ nghĩa này đã, rồi sẽ mời hai chị vào thành”.
Cam phu nhân nói: “Khoan đã chú Ba! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ! Chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên đất Tào. Nay biết anh nhà ở Nhữ Nam, đã không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!”. Mi phu nhân cũng phụ họa: “Chú Hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ. Nghe hai chị dâu thanh minh giúp, tôi cũng đỡ lo vì nghĩ rằng Trương Phi sẽ tin lời mà bớt nóng nảy đi chăng. Nhưng Trương Phi vẫn khăng khăng: “Hai chị bị lừa dối đấy! Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?”. Tôi đành năn nỉ: “Hiền đệ đừng nói vậy, oan uổng quá!”. Tôn Càn bênh vực tôi: “Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân”. Trương Phi mắng té tát: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó!”. Tôi vẫn tiếp tục thanh minh: “Nếu ta định đến bắt em, tất phải mang theo quân mã chứ?”. Tức thì, Trương Phi trỏ tay ra đằng xa, rồi hất hàm hỏi: “Không phải quân mã thì là gì kia?”. Tôi nhìn theo, quả nhiên thấy bụi bay mù trời, một toán quân mã khá đông đang tiến đến gần, cờ hiệu phấp phới chính là cờ của Tào Tháo.
|
Assignment
While living in Cao Cao's Wei land, one day, when I heard that my eldest brother Liu Bei was in Nhu Nam, I quickly took my two sisters-in-law and set out to find him.
After a few days of walking, I saw a citadel in the distance on the top of the mountain. I asked about it and was told that it was an ancient citadel. A few months ago, a general led several dozen cavalry soldiers to chase the district official, take over the city, recruit soldiers to buy horses, and store food and grass. Now there are up to three thousand soldiers. Around the area, no one dared to resist. When I asked, I found out that it was Truong Phi, so I was overjoyed. I immediately sent Ton Can to the city to report the news and told Truong Phi to pick up the two sisters.
After hearing this, Truong Phi did not say a word, immediately put on his armor, carried his spear, led a thousand soldiers, and took a shortcut to the North gate. Ton Can found it strange and also followed. I gave the dragon sword to Chau Thuong to hold and then quickly sacrificed the horse to welcome him. I thought that after so many days of separation, Truong Phi would be happy to see each other, but I did not expect that before my eyes was Truong Phi with wide eyes, upside down beard, shouting like thunder and dancing with his snake spear, running towards me. stab me.
I was startled and quickly avoided the spear's nose and asked: "My dear brother, why are you like that? Have you forgotten the meaning of the peach garden?". Truong Phi angrily shouted: "You have betrayed your faith, why do you still have the face to come to see me?". I retorted in surprise: "What is disloyalty?". Truong Phi pointed straight at my face and scolded me without saying anything: "You abandoned me, Cao Cao, was awarded the title of marquis, and now you come here to deceive me! This time, I'm determined to risk my life and death with you!
I still tried to calmly explain: "I don't know about this, it's hard for me to say. Luckily there are two sisters here, I came to ask! Seeing this, the two ladies quickly opened the car curtain and called out: "Uncle Ba, why are you like this?". Truong Phi was still angry, quickly waved his hand: "Please take your time, let me kill this traitor, then I will invite you two into the city."
Lady Cam said: “Wait, Uncle Ba! Don't be hasty and act rashly now! Uncle Hai didn't know everyone's news, so he had to take refuge in Cao's land. Now knowing that my brother lives in Nhu Nam, he did not hesitate to bring us here. You must not think so wrongly!”. Mrs. Mi also chimed in: "Uncle Hai was in Hua Do before, it was really helpless. Hearing my two sisters-in-law clarify for me, I was less worried because I thought Truong Phi would believe her words and be less impatient. But Truong Phi still insisted: "You two were deceived! A loyal servant would rather die than be humiliated. Could it be that a great man worships two masters? I had to beg: "My dear brother, don't say that, it's so unfair!". Ton Can defended me: "Van Truong came here mainly to find the general." Truong Phi scolded and slapped: "You also lied, he doesn't have a good heart, he came here to arrest me!". I continued to explain: "If I intend to come and arrest you, I must bring my army and horse, right?". Immediately, Truong Phi pointed his hand into the distance, then raised his chin and asked: "If it's not a knight, then what is it?". I looked and sure enough, I saw dust flying into the sky, a large group of soldiers and horses was approaching, the fluttering flag was Cao Cao's flag.
|
Bài làm
La Quán Trung tên thật là La Bản, hiệu là Hồ Hải Tản Nhân, người huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, ông sinh vào đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh (1330 – 1400?) Thời đại ông sống là thời đại mà mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp cực kì gay gắt và phức tạp. Vì thế mà cuộc sống của bản thân ông cũng không ổn định, phải nay đây mai đó.
Người đời cho rằng tính cách của La Quán Trung là thích cô độc, lẻ loi. Các sáng tác của ông cho thấy ông chịu ảnh hưởng khá sâu đậm tư tưởng Nho giáo. Ông quan sát hiện thực xã hội bằng con mắt sắc sảo; thông qua tác phẩm, ông miêu tả và vạch trần bản chất của cái xã hội “dân đen chết đói nơi thôn xóm, anh tài mai một trong rừng sâu, người trung lương chết oan dưới gươm giáo…”. Chính nhận thức đúng đắn và thái độ yêu ghét phân minh của La Quán Trung trước thật giả, tốt xấu… đã khiến tầm tư tưởng của ông cao hơn tầng lớp trí thức đương thời một bậc. Những hoài bão chính trị lớn lao mà ông hằng ấp ủ đã không thể trở thành hiện thực. Sau năm 1364, không ai rõ về tung tích của ông nữa.
Các tác phẩm chính:
– Tam quốc diễn nghĩa
– Tùy Đường lưỡng triều chỉ truyện
– Tàn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa
– Bình yêu truyện
– Tống Thái Tổ long hổ phong vân hội
Tam quốc diễn nghĩa.
+ Hoàn cảnh ra đời:
Tam quốc diễn nghĩa là bộ tiểu thuyết dài được sáng tác vào đầu thời Minh (1368 – 1644), dựa theo tư liệu lịch sử và truyền thuyết có sẵn. Nội dung chủ yếu miêu tả tình hình phức tạp của cuộc đấu tranh chính trị và quân sự kéo dàỉ suốt một thế kỉ (từ năm 184 đời Linh đế thời Đông Hán đến năm 280 đời Vũ đế thời Tây Tấn).
Toàn bộ tác phẩm gồm 120 hồi, kể về sự kiện một nước chia ba. Đó là cuộc phân tranh dữ dội giữa ba tập đoàn phong kiến quân phiệt: Ngụy – do Tào Tháo cầm đầu, chiếm giữ phía Bắc từ Trường Giang trở lên (Bắc Ngụy) ; Thục – do LƯU Bị cầm đầu, chiếm giữ Tây Nam (Tây Thục); Ngô – do Tôn Quyền cầm đầu, chiếm giữ phía Đông Nam (Đông Ngô).
Đặc điểm nội dung:
La Quản Trung đã phục hiện toàn cảnh bức tranh quân sự – chính trị rộng lớn của Trung Quốc thời cổ (thế kỉ II, III), thông qua đó phơi bày tình trạng chiến tranh liên miên gây ra bao đau khổ, tang thương cho dân chúng. Đặc biệt, tác giả đi sâu vào việc thể hiện mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ giai cấp thống trị thời đó. Những nhân vật và tình tiết tuy được hư cấu để tô đậm nét cá biệt nhưng vẫn dựa trên sự chân thực của lịch sử, phản ánh được bản chất con người và xã hội thời Tam quốc.
Thái độ yêu ghét của La Quán Trung thể hiện rất rõ trong cách xây dựng tính cách nhân vật. Tư tưởng, tình cảm của ông được gửi gắm qua từng hình tượng văn học.
Ca ngợi LƯU Bị, Quan Công, Trương Phi, Gia Cát Lượng và chỉ trích, lên án Đổng Trác, Tào Tháo…, tác phẩm đã phản ánh thái độ rạch ròi của tác giả đối với hiện thực phong kiến lúc bấy giờ, Đây cũng chính là ấn tượng không thể phai mờ mà tác phẩm để lại trong lòng người đọc nhiều thế hệ.
Tác giả yêu mến, ủng hộ LƯU Bị và căm ghét, phản đối Tào Tháo. Tác giả miêu tả Tào Tháo là kẻ gian hùng, tàn bạo; vì mục đích vị kỉ mà dám làm tất cả, bất chấp đạo lí nhân nghĩa như giết hoàng hậu, áp bức nhà vua, dối trên lừa dưới… Hình tượng Tào Tháo có ý nghĩa điển hình và phổ biến trong -giai cấp phong kiến thống trị thời đó. Thông qua nhân vật này, La Quán Trung đã vạch trần bản chất tham bạo của giai cấp bóc lột. Câu nói nổi tiếng của Tào Tháo: “Thà ta phụ người chứ không để người phụ ta” đã đức kết phương châm xử thế và được coi là triết lý sống của phần lớn giai cấp thống trị phong kiến.
Hoàn toàn tương phản với Tào Tháo gian hùng, tàn ác là Lưu Bị trung hậu, nhân ái. Các thành viên trong tập đoàn của ông mà hạt nhân là Quan Công, Trương Phi… đoàn kết, yêu thương, tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Mượn nhân vật Lưu Bị, tác giả phát biểu quan điểm: “Muốn làm việc lớn, phải lấy dân làm gốc”. Hình ảnh tốt đẹp của Lựu Bị là hình ảnh về một vị vua sáng suốt, nhân từ mà dân chúng hằng ao ước,
Bộ ba anh em kết nghĩa vườn đào (Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi) là biểu tượng cho tình bạn keo sơn, sống chết có nhau. Tình nghĩa bạn bè của họ được đặt lên trên tiền tài, danh vọng, thế lực… Điều này làm rung động lòng người trong cái xã hội mà toan tính vụ lợi cá nhân đã trở thành ý thức phổ biến của giai cấp thống trị. Thái độ của tác giả là mến phục và ca ngợi sự trung nghĩa trong tình bạn của bộ ba LƯU-Quan – Trương nên đã xây dựng thành một biểu tượng bằng hữu nổi tiếng muôn đời.
Đặc điểm nghệ thuật:
+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật điển hình:
Bộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa có tới hơn 400 nhân vật, trong đó có những nhân vật chính là những điển hình bất hủ có dung mạo và cá tính rõ nét. Lưu Bị trong sáng, nhân từ; Tôn Quyền trầm tĩnh, cương nghị; Tào Tháo gian hiểm, tàn bạo; Quan Công tận tụy, trung nghĩa; Khổng Minh mưu kế hơn người…
Nổi bật nhất vẫn là hình tượng Trương Phi. Tính Trương Phi thẳng thắn, nóng nảy, cương trực, rất ghét những điều xấu xa. Vì ông có đời sống trong sạch thái độ yêu ghét phân minh, mọi hành động lớn nhỏ đều vì nghĩa nên được nhiều người ca ngợi. Trương Phi là nhân vật tự nhiên nhất và sinh động nhất trong tác phẩm.
Nhân vật Tào Tháo cũng được tác giả miêu tả rất sắc sảo. Là kẻ gian giảo hiểm độc nên nhất nhất mọi lời nói, cử chỉ, hành động của hắn đều toát ra bản chất ấy. La Quán Trung đã tập hợp nhiều giai thoại về Tào Tháo để dựng nên một điển hình ích kỉ của giai cấp thống trị, làm cho người đọc nhận thức được bản chất xấu xa của chúng.
Khổng Minh (Gia Cát Lượng) lại là một điển hình về mưu trí sáng suốt, cả đời ông mang hết tinh thần và tài năng để phò Lưu Bị, vạch ra những sách lược đúng đắn nhất cho việc tạo dựng sự nghiệp chính trị của LƯU Bị. òng ít khi nghĩ tới quyền lợi của bản thân, thưởng xuất hiện ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh và luôn giành được thắng lợi nhờ tài trí kiệt xuất. Đặc điểm nổi trội nhất ở nhân vật Khổng Minh là tài tiên đoán chuẩn xác các tình huống để từ đó đưa ra các sách lược đúng đắn và chu đáo nhất, tạo cơ sở chắc chắn cho chiến thắng.
Nguyên tắc xây dựng nhân vật điển hình của La Quán Trung là nắm chắc đặc trưng, nhấn mạnh và nêu bật đặc điểm trong tính cách của nhân vật. Nghệ thuật này được nhiều nhà văn Trung Quốc sau này kế thừa và phát triển.
+ Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn:
Kết cấu tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa theo lối chương hồi, mỗi hồi kể về một sự kiện, sự việc có liên quan đến một vài hoặc nhiều nhân vật.
Dưới ngòi bút kì tài của La Quán Trung, các cuộc giao tranh lớn nhỏ mở ra hết cảnh này đến cảnh khác, thiên biến vạn hoá, không hể trùng lặp, phản ánh tính chất phức tạp và đa dạng của^hiến tranh. Mỗi lần tả một trận ‘ đánh, tác giả lại giới thiệu tường tận tính cách của chủ tướng, cách bô’ trí, phối hợp binh lực, tương quan lực lượng giữa hai bên, sự vận dụng uyển chuyển, linh hoạt các chiến lược, chiến thuật, diễn biến và kết thúc trận đánh. Trận Xích Bích dữ dội, ác liệt và đầy kịch tính là ví dụ tiêu biểu nhất chứng minh cho tài năng nghệ thuật miêu tả chiến tranh của La Quán Trung. Người đọc bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi từng trang truyện, nhiều trang truyện mô tả cảnh chiến trận ác liệt và hoành tráng, đậm chất sử thi.
+ Thủ pháp nghệ thuật cường điệu, phóng đại.
Thủ pháp này được La Quán Trung vận dụng triệt để trong bộ tiểu thuyết với mục đích khắc hoạ rõ nét tính cách nhân vật trong từng hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ như chi tiết Trương Phi dũng mãnh, thét lên ba tiếng vang như sấm ở cầu Trường Bản, khiến cho Hạ Hầu Kiệt khiếp sợ đến vỡ mật, từ trên ngựa
|
Bài làm
La Quán Trung tên thật là La Bản, hiệu là Hồ Hải Tản Nhân, người huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, ông sinh vào đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh (1330 – 1400?) Thời đại ông sống là thời đại mà mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp cực kì gay gắt và phức tạp. Vì thế mà cuộc sống của bản thân ông cũng không ổn định, phải nay đây mai đó.
Người đời cho rằng tính cách của La Quán Trung là thích cô độc, lẻ loi. Các sáng tác của ông cho thấy ông chịu ảnh hưởng khá sâu đậm tư tưởng Nho giáo. Ông quan sát hiện thực xã hội bằng con mắt sắc sảo; thông qua tác phẩm, ông miêu tả và vạch trần bản chất của cái xã hội “dân đen chết đói nơi thôn xóm, anh tài mai một trong rừng sâu, người trung lương chết oan dưới gươm giáo…”. Chính nhận thức đúng đắn và thái độ yêu ghét phân minh của La Quán Trung trước thật giả, tốt xấu… đã khiến tầm tư tưởng của ông cao hơn tầng lớp trí thức đương thời một bậc. Những hoài bão chính trị lớn lao mà ông hằng ấp ủ đã không thể trở thành hiện thực. Sau năm 1364, không ai rõ về tung tích của ông nữa.
Các tác phẩm chính:
– Tam quốc diễn nghĩa
– Tùy Đường lưỡng triều chỉ truyện
– Tàn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa
– Bình yêu truyện
– Tống Thái Tổ long hổ phong vân hội
Tam quốc diễn nghĩa.
+ Hoàn cảnh ra đời:
Tam quốc diễn nghĩa là bộ tiểu thuyết dài được sáng tác vào đầu thời Minh (1368 – 1644), dựa theo tư liệu lịch sử và truyền thuyết có sẵn. Nội dung chủ yếu miêu tả tình hình phức tạp của cuộc đấu tranh chính trị và quân sự kéo dàỉ suốt một thế kỉ (từ năm 184 đời Linh đế thời Đông Hán đến năm 280 đời Vũ đế thời Tây Tấn).
Toàn bộ tác phẩm gồm 120 hồi, kể về sự kiện một nước chia ba. Đó là cuộc phân tranh dữ dội giữa ba tập đoàn phong kiến quân phiệt: Ngụy – do Tào Tháo cầm đầu, chiếm giữ phía Bắc từ Trường Giang trở lên (Bắc Ngụy) ; Thục – do LƯU Bị cầm đầu, chiếm giữ Tây Nam (Tây Thục); Ngô – do Tôn Quyền cầm đầu, chiếm giữ phía Đông Nam (Đông Ngô).
Đặc điểm nội dung:
La Quản Trung đã phục hiện toàn cảnh bức tranh quân sự – chính trị rộng lớn của Trung Quốc thời cổ (thế kỉ II, III), thông qua đó phơi bày tình trạng chiến tranh liên miên gây ra bao đau khổ, tang thương cho dân chúng. Đặc biệt, tác giả đi sâu vào việc thể hiện mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ giai cấp thống trị thời đó. Những nhân vật và tình tiết tuy được hư cấu để tô đậm nét cá biệt nhưng vẫn dựa trên sự chân thực của lịch sử, phản ánh được bản chất con người và xã hội thời Tam quốc.
Thái độ yêu ghét của La Quán Trung thể hiện rất rõ trong cách xây dựng tính cách nhân vật. Tư tưởng, tình cảm của ông được gửi gắm qua từng hình tượng văn học.
Ca ngợi LƯU Bị, Quan Công, Trương Phi, Gia Cát Lượng và chỉ trích, lên án Đổng Trác, Tào Tháo…, tác phẩm đã phản ánh thái độ rạch ròi của tác giả đối với hiện thực phong kiến lúc bấy giờ, Đây cũng chính là ấn tượng không thể phai mờ mà tác phẩm để lại trong lòng người đọc nhiều thế hệ.
Tác giả yêu mến, ủng hộ LƯU Bị và căm ghét, phản đối Tào Tháo. Tác giả miêu tả Tào Tháo là kẻ gian hùng, tàn bạo; vì mục đích vị kỉ mà dám làm tất cả, bất chấp đạo lí nhân nghĩa như giết hoàng hậu, áp bức nhà vua, dối trên lừa dưới… Hình tượng Tào Tháo có ý nghĩa điển hình và phổ biến trong -giai cấp phong kiến thống trị thời đó. Thông qua nhân vật này, La Quán Trung đã vạch trần bản chất tham bạo của giai cấp bóc lột. Câu nói nổi tiếng của Tào Tháo: “Thà ta phụ người chứ không để người phụ ta” đã đức kết phương châm xử thế và được coi là triết lý sống của phần lớn giai cấp thống trị phong kiến.
Hoàn toàn tương phản với Tào Tháo gian hùng, tàn ác là Lưu Bị trung hậu, nhân ái. Các thành viên trong tập đoàn của ông mà hạt nhân là Quan Công, Trương Phi… đoàn kết, yêu thương, tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Mượn nhân vật Lưu Bị, tác giả phát biểu quan điểm: “Muốn làm việc lớn, phải lấy dân làm gốc”. Hình ảnh tốt đẹp của Lựu Bị là hình ảnh về một vị vua sáng suốt, nhân từ mà dân chúng hằng ao ước,
Bộ ba anh em kết nghĩa vườn đào (Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi) là biểu tượng cho tình bạn keo sơn, sống chết có nhau. Tình nghĩa bạn bè của họ được đặt lên trên tiền tài, danh vọng, thế lực… Điều này làm rung động lòng người trong cái xã hội mà toan tính vụ lợi cá nhân đã trở thành ý thức phổ biến của giai cấp thống trị. Thái độ của tác giả là mến phục và ca ngợi sự trung nghĩa trong tình bạn của bộ ba LƯU-Quan – Trương nên đã xây dựng thành một biểu tượng bằng hữu nổi tiếng muôn đời.
Đặc điểm nghệ thuật:
+ Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật điển hình:
Bộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa có tới hơn 400 nhân vật, trong đó có những nhân vật chính là những điển hình bất hủ có dung mạo và cá tính rõ nét. Lưu Bị trong sáng, nhân từ; Tôn Quyền trầm tĩnh, cương nghị; Tào Tháo gian hiểm, tàn bạo; Quan Công tận tụy, trung nghĩa; Khổng Minh mưu kế hơn người…
Nổi bật nhất vẫn là hình tượng Trương Phi. Tính Trương Phi thẳng thắn, nóng nảy, cương trực, rất ghét những điều xấu xa. Vì ông có đời sống trong sạch thái độ yêu ghét phân minh, mọi hành động lớn nhỏ đều vì nghĩa nên được nhiều người ca ngợi. Trương Phi là nhân vật tự nhiên nhất và sinh động nhất trong tác phẩm.
Nhân vật Tào Tháo cũng được tác giả miêu tả rất sắc sảo. Là kẻ gian giảo hiểm độc nên nhất nhất mọi lời nói, cử chỉ, hành động của hắn đều toát ra bản chất ấy. La Quán Trung đã tập hợp nhiều giai thoại về Tào Tháo để dựng nên một điển hình ích kỉ của giai cấp thống trị, làm cho người đọc nhận thức được bản chất xấu xa của chúng.
Khổng Minh (Gia Cát Lượng) lại là một điển hình về mưu trí sáng suốt, cả đời ông mang hết tinh thần và tài năng để phò Lưu Bị, vạch ra những sách lược đúng đắn nhất cho việc tạo dựng sự nghiệp chính trị của LƯU Bị. òng ít khi nghĩ tới quyền lợi của bản thân, thưởng xuất hiện ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh và luôn giành được thắng lợi nhờ tài trí kiệt xuất. Đặc điểm nổi trội nhất ở nhân vật Khổng Minh là tài tiên đoán chuẩn xác các tình huống để từ đó đưa ra các sách lược đúng đắn và chu đáo nhất, tạo cơ sở chắc chắn cho chiến thắng.
Nguyên tắc xây dựng nhân vật điển hình của La Quán Trung là nắm chắc đặc trưng, nhấn mạnh và nêu bật đặc điểm trong tính cách của nhân vật. Nghệ thuật này được nhiều nhà văn Trung Quốc sau này kế thừa và phát triển.
+ Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn:
Kết cấu tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa theo lối chương hồi, mỗi hồi kể về một sự kiện, sự việc có liên quan đến một vài hoặc nhiều nhân vật.
Dưới ngòi bút kì tài của La Quán Trung, các cuộc giao tranh lớn nhỏ mở ra hết cảnh này đến cảnh khác, thiên biến vạn hoá, không hể trùng lặp, phản ánh tính chất phức tạp và đa dạng của^hiến tranh. Mỗi lần tả một trận ‘ đánh, tác giả lại giới thiệu tường tận tính cách của chủ tướng, cách bô’ trí, phối hợp binh lực, tương quan lực lượng giữa hai bên, sự vận dụng uyển chuyển, linh hoạt các chiến lược, chiến thuật, diễn biến và kết thúc trận đánh. Trận Xích Bích dữ dội, ác liệt và đầy kịch tính là ví dụ tiêu biểu nhất chứng minh cho tài năng nghệ thuật miêu tả chiến tranh của La Quán Trung. Người đọc bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi từng trang truyện, nhiều trang truyện mô tả cảnh chiến trận ác liệt và hoành tráng, đậm chất sử thi.
+ Thủ pháp nghệ thuật cường điệu, phóng đại.
Thủ pháp này được La Quán Trung vận dụng triệt để trong bộ tiểu thuyết với mục đích khắc hoạ rõ nét tính cách nhân vật trong từng hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ như chi tiết Trương Phi dũng mãnh, thét lên ba tiếng vang như sấm ở cầu Trường Bản, khiến cho Hạ Hầu Kiệt khiếp sợ đến vỡ mật, từ trên ngựa
|
Bài làm:
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo, đông con. Những người họ hàng hoặc quen biết đều nói tôi giống cha tôi nhất. Điều đó khiến tôi hãnh diện, một niềm hãnh diện rất trẻ thơ. Chẳng biết có phải vì thế hay không mà tôi yêu cha lắm!
Cha tôi là một thợ mộc khá nổi tiếng ở cái thị xã trung du này. Đôi tay tài khéo của cha đã đóng không biết bao nhiêu giường, tủ, sa lông, và các vật dụng bằng gỗ khác cho mọi nhà. Cha nghèo, không có vốn mua sẵn gỗ nên ai muốn đóng thứ gì thì mang gỗ đến.
Xưởng mộc của cha tôi là cái chái nhà rộng chừng ba chục mét vuông có đủ các đồ nghề cần thiết: cưa dọc, cưa ngang, bào lớn, bào nhỏ, thước xếp, thước gỗ, thước vuông, tràng, đục, dây nảy mực… Một chiếc ghế dài đến mấy mét bằng nguyên một thân cây xẻ dọc làm đôi kê gần sát tường là chỗ để cha tôi cưa và bào gỗ. Trên mặt đất là lớp mùn cưa mịn màng và lớp vỏ bào loăn xoăn, bốc mùi thơm hăng hắc khó tả của nhiều loại cây rừng.
Giữa khung cảnh đó, cha tôi cần cù làm việc, hết ngày này sang ngày khác, năm này qua năm khác để kiếm tiền nuôi đàn con khôn lớn, đứa nào cũng được học hành tử tế. Cha thường nói với mẹ rằng chẳng có của cải đáng kể gì để lại cho các con thì cho cái chữ, cái nghề. Đứa nào ráng học đến đâu thì cha cũng ráng nuôi đến đó.
Không khí gia đình tôi vui nhất là vào những bữa cơm. Những món ăn đạm bạc do mẹ tôi nấu như canh cua đồng mùng tơi, chuối xanh nấu ốc, đậu phụ rán giòn, canh dưa chua nấu với cá trê… cùng với đĩa cà pháo trắng tinh hay đĩa dưa cải muối xổi….vậy mà sao ngon lạ ngon lùng! Ngắm đàn con ăn như tằm ăn rỗi, cha mẹ tôi nhìn nhau, ánh mắt vừa tỏ vẻ hài lòng lại vừa lo lắng.
Tình thương của cha tôi thể hiện qua từng hành động nhỏ hằng ngày như chuốt cho các con từng chiếc bút chì, bọc từng quyển sách, quyển vở. Cha hướng dẫn con lớn học bài và dạy con nhỏ tập viết từng nét thẳng, nét cong. Cha dạy anh chị em trong nhà phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
Vì nhà nghèo nên Tết Trung Thu nào cha tôi cũng tự tay làm đèn cho các con. Cứ trước rằm một tuần là cha vào làng xin một cây tre nhỏ. Tự tay cha chẻ tre, chuốt nan và làm khung đèn con thô, đèn con cá chép và đèn ông sao. Tôi thích chiếc đèn ông sao thật lớn dán bằng giấy bóng kính màu đỏ, xung quanh là một vòng tròn dán giấy tua rua ngũ sắc. Ở trong, cha cắm một ngọn nến lung linh. Cha đem treo chiếc đèn ấy ở cành bưởi trước sân, bên dưới là mâm cỗ đón trăng có đủ bưởi vàng, hồng đỏ, ổi đào và mía tím, toàn những trái cây vườn nhà do chính tay cha trồng và chăm sóc.
Năm tôi mười bốn tuổi, cha bắt đầu dạy tôi nghề thợ mộc. Việc làm đầu tiên là tôi giúp cha nảy mực lên tấm ván. Sợi dây nhỏ rất săn được tẩm đẫm nhọ nồi. Tôi cầm một đầu, cha cầm một đầu đặt theo đúng dấu đã đánh sẵn. Cha nheo mắt ngắm kĩ, lấy ngón tay nhấc lên ở chính giữa rồi buông ra. Sợi dây được kéo căng nảy lên một cái rồi hạ xuống, vết sẫm do nó để lại in thẳng băng trên mặt ván. Cha cười rồi hỏi tôi giờ thì đã hiểu thế nào là cầm cân nảy mực hay chưa?
Rồi cha dạy tôi tập bào. Hai tay cầm hai tai bào ra sao, độ cúi, độ nhấn và cách đưa bào cho trơn tru, không vấp váp. Khó ghê! Cái bào như vùng vằng muốn chống lại tôi. Nó chẳng chịu đi mà cứ giật cục hoài khiến mặt ván nham nhở. Cha kiên nhẫn hướng dẫn cho tôi từng động tác. Sau nửa tháng, tôi đã có thể bào gỗ thành thạo. Tuy nhiên, “tài nghệ” thì còn kém cha nhiều lắm!
Hai cha con cứ vừa làm vừa rủ rỉ chuyện trò. Tôi nhớ mãi lời cha khuyên: “Muốn trở thành một thợ mộc giỏi, ngoài sự khéo tay ra thì còn phải cần cù, kiên nhẫn và có óc tưởng tượng, sáng tạo. Nhìn đồ vật, ta có thể đoán được phần nào tính cách người làm ra nó”;
Hai sản phẩm mộc đầu tiên hoàn toàn do tôi tự đóng dưới sự hướng dẫn của cha là chiếc kệ sách và chiếc bàn học. Chúng vững chãi và xinh xắn làm sao! Chúng khiến cho góc học tập của mấy anh em tôi trở nên gọn gàng, ngăn nắp.
Từ đó, tôi trở thành thợ phụ đắc lực của cha. Cứ xong việc học hành là tôi giúp cha đóng tủ, đóng giường theo đơn đặt hàng của khách. Công việc khá nhiều mà cha tôi đã có tuổi. Tôi thương cha lắm! Có những lúc, tôi lặng lẽ ngắm đôi bàn tay chai sần của cha, ngắm chiếc kính lão trễ, xuống gần chóp mũi của cha mà trong lòng dấy lên một cảm xúc khó tả. Tôi khẽ nói: “Cha để cho con bào”. Hoặc: “Cha để đấy con cưa!”. Cha vui vẻ nhường việc cho tôi nhưng vẫn không rời mắt và luôn nhắc nhở: “Làm bất cứ việc gì cũng phải cẩn thận và giữ uy tín con ạ! Hơn hai chục năm nay cha làm thợ mộc, vật dụng đóng ra kể cũng đến vài trăm, nhưng cha chưa để khách hàng phải trách cứ điều gì. Vì thế mới nuôi nổi các con ăn học!”.
|
Assignment:
I was born and raised in a poor family with many children. Relatives or acquaintances say I am most like my father. That makes me proud, a very childish pride. I don't know if that's why or not, but I love my father so much!
My father is a quite famous carpenter in this midland town. Dad's talented hands have built countless beds, wardrobes, sofas, and other wooden items for every home. Dad was poor and didn't have the capital to buy wood, so whoever wanted to build something brought wood.
My father's carpentry workshop is a wing of about thirty square meters with all the necessary tools: vertical saw, horizontal saw, large planer, small planer, folding ruler, wooden ruler, square ruler, string, chisel, bouncing rope. squid... A bench several meters long made of a whole tree trunk cut lengthwise in half placed close to the wall was a place for my father to saw and plan wood. On the ground is a layer of smooth sawdust and curly wood shavings, exuding the indescribable pungent aroma of many types of forest trees.
Amid that scene, my father worked diligently, day after day, year after year to earn money to raise his children, all of whom received a good education. My father often told my mother that if I had no significant wealth to leave to my children, I would give them a job and a job. No matter how much a child tries to study, his father also tries to raise him.
My family's atmosphere is happiest especially at meals. The frugal dishes cooked by my mother such as crab soup with fresh spinach, green bananas cooked with snails, crispy fried tofu, pickled soup cooked with catfish... along with a plate of pure white eggplant or a plate of pickled sauerkraut...so. But why is it so delicious and delicious! Watching their children eat like silkworms, my parents looked at each other, their eyes showing both satisfaction and worry.
My father's love is expressed through every small daily action such as sharpening each pencil for his children, wrapping each book and notebook. The father guided his older child to study and taught his younger child to practice writing straight and curved lines. Father taught brothers and sisters in the family to love and care for each other.
Because our family was poor, every Mid-Autumn Festival my father made lanterns for his children himself. Every week before the full moon, my father would go to the village to ask for a small bamboo tree. My father personally split bamboo, sharpened the slats, and made the frames for crude lamps, carp lamps, and star lamps. I like the large star lamp glued with red cellophane, surrounded by a circle of five-colored tasseled paper. Inside, father placed a flickering candle. Dad hung that lamp on the grapefruit branch in the front yard, underneath was a tray to welcome the moon with enough yellow grapefruit, red roses, peach guava and purple sugar cane, all the fruits of the garden that father planted and took care of himself.
When I was fourteen years old, my father began teaching me carpentry. The first thing I did was help my father bounce the ink onto the board. The small, very tight string was soaked in soot. I held one end, father held the other end and placed it according to the pre-marked mark. Father squinted his eyes, looked carefully, lifted his finger in the middle and then let go. The stretched rope bounced once and then fell, the dark mark it left was printed directly on the surface of the board. My father laughed and asked me if I now understood what it meant to be balanced?
Then my father taught me how to plan. How to hold the planer with both hands, how to bow, press and how to move the planer smoothly, without stumbling. It's so difficult! The plane seemed to be struggling to fight against me. It refused to move and kept jerking, causing the surface of the board to become jagged. Father patiently guided me through each move. After half a month, I was able to plan wood fluently. However, his "talent" is still much lower than his father's!
Father and son kept talking while working. I always remember my father's advice: "To become a good carpenter, in addition to being skillful, you also have to be diligent, patient, and have imagination and creativity. Looking at an object, we can somewhat guess the personality of the person who made it";
The first two wooden products I built entirely myself under the guidance of my father were the bookshelf and the study table. How sturdy and pretty they are! They make my brothers' study corner neat and tidy.
From then on, I became my father's effective assistant. After finishing my studies, I helped my father build cabinets and beds according to customer orders. Quite a lot of work as my father is getting old. I love my dad so much! There were times when I quietly looked at my father's calloused hands, at his old glasses, down to the tip of his nose, and an indescribable feeling arose in my heart. I said softly: "Dad, let me have the plan." Or: "Dad, leave the saw there!". Dad happily gave me the job but still didn't look away and always reminded: "Whatever you do, you must be careful and maintain your reputation! For more than twenty years, my father has been a carpenter, and the tools he makes are several hundred, but he has never let his customers blame him for anything. That's why I can feed my children!"
|
Bài làm:
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, rượu có mặt mọi nơi, mọi lúc. Từ những buổi tiếp tân long trọng đến những nghi lễ như cưới hỏi, tiệc tùng, ma chay hoặc những bữa cơm gặp gỡ thân mật, sum vầy… người ta đều dùng đến rượu. Người xưa nói: Vô tửu bất thành lễ. Có lẽ rượu đã xuất hiện mấy ngàn năm nay và loài người không xa lạ gì với nó. Rượu có ích nhưng cũng rất có hại nếu ta không biết sử dụng đúng cách. Bàn về tác hại ghê gớm của việc uống rượu vô điều độ, A.Tsêkhốp, nhà văn Nga nổi tiếng thế kỉ XIX đã nói: Rượu nặng trắng nhưng làm đỏ mặt mũi và làm đen danh dự. Điều thú vị là nhận xét của Tsêkhốp dí dỏm, hài hước mà cũng thật xác đáng. Chúng ta hãy cùng nhau bàn luận về vấn đề này.
Rượu nặng mà Tsêkhốp nói chính là loại rượu mạnh có nồng độ cao, uống vào rất mau say. Rượu vốtka của Nga, úyt-xki của các nước châu Âu và rượu nếp, rượu đế Việt Nam… là rượu nặng, chúng thường có màu trắng.
Những người uống rượu say thường hay đỏ mặt vì rượu là chất kích thích thần kinh, làm tăng nhịp đập của tim, đẩy nhanh sự tuần hoàn của máu. Say rượu, tưởng chừng như bao nhiêu máu dồn cả lên mặt nên mặt mũi đỏ phừng phừng trông thật dễ sợ.
Khi say rượu, lí trí con người sẽ bị rối loạn dẫn đến mất sáng suốt, không điều khiển nổi các hoạt động bình thường của cơ thể. Do đó, người say không còn làm chủ được ngôn ngữ, hành vi. Họ nói năng lung tung, hành động liều lĩnh, điên cuồng. Và lúc đó, họ đã tự bồi đen danh dự. Hậu quả tất yếu của việc uống rượu quá độ là như thế, Nhận xét trên của Tsêkhốp hoàn toàn đúng với thực tế.
Như trên đã nói, rượu có mặt thường xuyên trong cuộc sống của con người. Trong các nghi lễ, rượu làm cho không khí thêm phần trang trọng và vui vẻ, Trong sinh hoạt hàng ngày, ly rượu nhẹ khai vị trước bữa cơm làm cho người ta ăn thêm ngon miệng. Li rượu thuốc giúp ta chữa bệnh hay bồi bổ sức khỏe sau một ngày làm việc. Trong buổi chia tay hay sum họp với người thân, li rượu làm cho tình cảm thêm đậm đà, thắm thiết… Đó là mặt tích cực, mặt có ích của rượu, nếu chúng ta sử dụng nó đúng lúc, đúng nơi và có điều độ.
Ngược lại, nếu lạm dụng rượu, uống rượu không điều độ sẽ dẫn đến tác hại không thể lường trước được. Cái quan niệm: sáng say, chiều xỉn, tối lai rai là quan niệm đáng phê phán cần dẹp bỏ. Uống nhiều rượu, người ta sẽ giảm khả năng suy nghĩ và làm việc, dễ dẫn đến những quyết định sai lầm, những hành động đáng tiếc. Nhẹ thì gây ồn ào, lộn xộn trong gia đình, nơi công cộng; nặng thì chửi bới, ẩu đả, thậm chí đâm chém nhau… Có kẻ say rượu ngông cuồng đã đánh đập vợ con dã man, dọa đốt nhà, giết người… Không ít kẻ phạm pháp trong khi say, lúc tỉnh rượu ân hận thì đã quá muộn.
Nghiện rượu dễ đẩy người ta đến chỗ bê tha, bệ rạc, mất tư cách; làm cho mọi người khinh bỉ, ghê sợ và xa lánh. Những kẻ cho rằng có thể tìm vui trong rượu, giải sầu bằng rượu là sai lầm. Uống rượu quá độ sẽ tổn hại đến sức khỏe, suy sụp tinh thần. Từ đó ảnh hưởng không nhỏ tới gia đình và xã hội.
Thực tế cho thấy những ông cha, bà mẹ nghiện rượu không bao giờ làm tròn bổn phận với con cái. Rượu đã tước đi khả năng làm việc cùng trách nhiệm, phẩm giá của họ. Họ trở thành gánh nặng, thành gương xấu cho gia đình, xã hội.
Tác hại của rượu như thế nào, người ta đã thấy rõ từ lâu. Cách đây ba ngàn năm, vua Vũ nhà Chu ở Trung Quốc đã đày người chế tạo ra thứ rượu nếp đi xa và truyền lệnh cấm dân chúng uống rượu.
|
Assignment:
In our daily lives, alcohol is present everywhere, at all times. From solemn receptions to ceremonies such as weddings, parties, funerals or intimate meetings and reunions... people all use alcohol. The ancients said: Drinking alcohol is not polite. Perhaps alcohol has been around for thousands of years and humans are no strangers to it. Alcohol is useful but also very harmful if we do not know how to use it properly. Discussing the terrible harm of drinking alcohol in moderation, A. Tsekhov, a famous Russian writer in the 19th century, said: Heavy alcohol is white but makes the face red and blackens the reputation. What's interesting is that Tsekhov's comments are witty, humorous, and also very relevant. Let's discuss this issue together.
The heavy wine that Tsekhov talked about is a type of strong wine with a high concentration that makes you drunk very quickly. Russian vodka, whiskey from European countries and sticky rice wine, Vietnamese base wine... are heavy wines, they are usually white.
People who drink heavily often blush because alcohol is a nerve stimulant, increases heart rate, and speeds up blood circulation. Drunk, it seemed like all the blood was rushing to his face, so his face was red and looked scary.
When drunk, the human mind will be disordered, leading to loss of clarity and inability to control the body's normal activities. Therefore, drunk people can no longer control their language and behavior. They speak haphazardly, act recklessly and crazy. And at that time, they blackened their honor. Such is the inevitable consequence of excessive drinking. Tsekhov's above comment is completely true.
As mentioned above, alcohol is present regularly in people's lives. In ceremonies, wine makes the atmosphere more solemn and joyful. In daily activities, a glass of light wine as an appetizer before a meal makes people eat more deliciously. A glass of medicinal wine helps us cure illness or improve health after a day of work. During a farewell or reunion with loved ones, a glass of wine makes the feelings more intense and passionate... That is the positive, beneficial side of alcohol, if we use it at the right time, in the right place and in the right conditions. degree.
On the contrary, if you abuse alcohol or drink alcohol in moderation, it will lead to unpredictable harm. The notion: drunk in the morning, drunk in the afternoon, and late at night is a critical notion that needs to be eliminated. Drinking too much alcohol will reduce the ability to think and work, easily leading to wrong decisions and regrettable actions. Mild causes noise and chaos in the family and in public places; In severe cases, they curse, fight, even stab each other... There are wild drunks who brutally beat their wives and children, threaten to burn down the house, kill people... Many people commit crimes while drunk, but when they sober up they regret it. too late.
Alcoholism can easily push people to indulgence, insolence, and loss of dignity; makes people despise, fear and avoid them. Those who think that you can find joy in alcohol and relieve sadness with alcohol are wrong. Drinking too much alcohol will harm your health and cause mental decline. From there, it has a significant impact on family and society.
Reality shows that alcoholic fathers and mothers never fulfill their duties to their children. Alcohol has deprived them of their ability to work, responsibility, and dignity. They become a burden and a bad example for their family and society.
People have long seen the harmful effects of alcohol. Three thousand years ago, King Vu of the Zhou Dynasty in China exiled the creator of sticky rice wine far away and ordered people not to drink alcohol.
|
Bài làm:
Có một danh nhân đã nói: Trong thành công, có tới 99% là sự cố gắng; chỉ có 1% là năng khiếu mà thôi. Quả đúng như vậy Ị Những người nổi tiếng, đạt được tới đỉnh cao vinh quang của sự nghiệp đều là những tấm gương sáng về sự phấn đấu không ngừng nghỉ, về ý chí và nghị lực phi thường. Tuy nhiên, hiện nay trong giới trẻ vẫn có một số người mượn câu tục ngữ: Cái khó bó cái khôn để tự biện hộ cho thái độ học tập, thái độ sống thiếu tích cực của mình.
Vậy ý nghĩa của câu tục ngữ trên là như thế nào? Khó là những ràng buộc chặt chẽ, phi lí đòi hỏi phải có nhiều điều kiện hoặc phải hết sức cố gắng mới có được, mới làm được. Khôn là khả năng suy xét để xử sự, làm việc một cách có lợi nhất, tránh được những việc làm và thái độ có hại để đạt được mục đích. Từ bó có nghĩa là giữ lại, kìm lại trong phạm vi chật hẹp, không cho tự do hoạt động và phát triển.
Trong cuộc sống hằng ngày, những khó khăn do chủ quan, khách quan mang lại khiến cho mỗi cá nhân khó có thể xoay sở để vượt qua, dễ dẫn đến thái độ buông xuôi tiêu cực, chấp nhận thực tế phũ phàng. Nếu nói câu tục ngữ Cái khó bó cái khôn là đúng thì nó chỉ đúng trong xã hội cũ hoặc đúng với những con người lười biếng, thụ động. Có thể chứng minh điều này bằng thực tế trong cuộc sống quanh ta.
Ví dụ bạn A vì gia đình khó khăn, hằng ngày phải phụ bố mẹ kiếm sống, do đó học yếu nên bỏ học. Bạn B Vì một bài Toán khó không làm được, chấp nhận bị điểm kém. Bạn c chấp nhận cảnh nghèo và đổ lỗi cho số phận: Cảnh nghèo đi ngược về xuôi vẫn nghèo.
Ý nghĩa thứ nhất của câu tục ngữ Cái khó bó cái khôn là nói đến sự trói buộc nghiệt ngã của các yếu tố khách quan, khiến yếu tố chủ quan (cá nhân) khó bề xoay sở để vượt qua nghịch cảnh.
Ý nghĩa thứ hai của câu tục ngữ là phản ánh thái độ thụ động, cam chịu của những người thiếu ý chí, nghị lực trước khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Thái độ ấy là tiêu cực vì nó triệt tiêu khả năng kì diệu mà Tạo hóa ban cho loài người là khả năng thích ứng nhanh nhạy với mọi điều kiện sống khác nhau.
Câu tục ngữ này xuất hiện từ lâu trong hoàn cảnh xã hội phong kiến lạc hậu, bảo thủ. Con người phải tuân theo mọi kỉ cương, nguyên tắc sẵn có, những ràng buộc chặt chẽ, phi lí, ít khi được tự do sáng tạo. Xưa kia, người dân lao động phải sống một cuộc sống cơ cực, thiếu thốn kéo dài, hậu quả của một nền kinh tế tiểu nông mang nặng tính chất tự cung tự cấp, phụ thuộc vào thiên nhiên. Họ luôn luôn phải Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tầm suy nghĩ, tầm nhìn và sự năng động của mỗi cá nhân. Một nguyên nhân quan trọng nữa là trong xã hội phong kiến có qui luật lệ, định Kiến ràng buộc con người. Nền kinh tế tự cung tự cấp đã kìm hãm sự phát triển về mọi mặt của xã hội. Quyền sống tự do bị tước đoạt, mọi suy nghĩ, hành động của cá nhân đều không được phép vượt khỏi khuôn khổ định sẵn của luân lí Tam cương, Ngũ thường. Vì thế mà con người gần như mất quyền chủ động và sáng tạo trong công việc. Dẫu có biết (khôn) đi chăng nữa thì cũng đành chịu bó tay vì nhiều cái khó.
Bên cạnh câu tục ngữ Cái khó bó cái khôn còn có câu Cái khó ló cái khôn.
Ý nghĩa cáu tục ngữ này đối lập với câu tục ngữ trên. Từ ló ở đây có nghĩa là để lộ một phần nhỏ, xuất hiện một ý tưởng, điều kiện nhỏ. Câu tục ngữ muốn nói trong công việc dù gặp nhiều khó khăn trở ngại nhưng nếu quyết tâm thực hiện thì ta vẫn tìm được cách giải quyết để đạt được mục đích cuối cùng.
Chẳng hạn như gia đình khó khăn phải phụ bố mẹ kiếm sống thì ta phải tranh thủ thời gian học tập. Gặp bài khó thì hỏi thầy, hỏi bạn và tìm ra phương pháp học tập phù hợp với hoàn cảnh gia đình mình, thì nhất định kết quả học tập sẽ tốt hơn. Một bài Toán khó không giải được phải tìm sách mà đọc, tìm bạn để hỏi; nếu bị điểm kém sẽ rút kinh nghiệm để bài sau làm tốt hơn. Gia đình nghèo thì bản thân phải cố gắng chăm làm, chăm học, phấn đấu học giỏi để thay đổi số phận. Ngày nay, đất nước đã mở cửa, hội nhập với thế giới, chúng ta đang đứng trước vận hội mới, thách thức mới, cơ hội làm giàu chia đều cho tất cả mọi người.
Cổ nhân có câu: Lửa thử vàng, gian nan thử sức hoặc: Gió bão mới hay cây cỏ cứng. Trong quá trình học tập và làm việc, khó khăn gian khổ là lẽ đương nhiên. Điều quan trọng là chúng ta có chấp nhận nó và tìm cách để vượt qua nó hay không. Xung quanh chúng ta giờ đây có rất nhiều tấm gương phấn đấu bền bỉ, kiên định, thực hiện bằng được mục đích tốt đẹp mà bản thân xác định từ đầu.
Anh Lê Nguyễn Minh Quang, cựu học sinh trường chuyên Lê Hồng Phong, thành phố Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình nghèo ở Đức Hòa, Long An. Anh có ý thức tự lập rất sớm. Thương mẹ tảo tần buôn bán nuôi đàn con nhỏ, anh vừa học vừa tìm cách giúp đỡ mạ và dạy dỗ các em. An đói, mặc rách không làm anh nản lòng, nhụt chí- Anh vẫn quyết tâm học thật giỏi để đổi đời, để đền đáp công ơn cha mẹ, thầy cô và xã hội đã giúp anh trưởng thành. Là một trong những học sinh, sinh viên nghèo vượt khó được nhận học bổng của báo Tuổi trẻ, anh đã phấn đấu học tập và giờ đây đã trồ thành Tổng giám đốc một Công ty lớn ở thành phố Hồ Chí Minh.
Anh Nguyễn Công Hùng ở Nghệ An là một nạn nhân chất độc da cam bị liệt hết chân tay, phải ngồi xe lăn mà vẫn không ngừng mày mò, học hỏi để nâng cao trình độ hiểu biết về Tin học. Anh trở thành Giám đốc một Công ti Tin hộc và đặc biệt là trở thành thầy dạy vi tính cho mấy chục học trò tật nguyền ở địa phương.
|
Assignment:
There is a famous person who said: In success, up to 99% is effort; Only 1% is talent. That's right. Famous people who have reached the glorious pinnacle of their careers are all shining examples of tireless struggle, extraordinary will and determination. However, today among young people, there are still some people who borrow the proverb: The difficult will bind the wise to justify their lack of positive learning attitude and life attitude.
So what is the meaning of the above proverb? Difficulties are tight, unreasonable constraints that require many conditions or great efforts to achieve or do. Wisdom is the ability to think and act in the most beneficial way, avoiding harmful actions and attitudes to achieve goals. The word bundle means to hold back, to hold back within a narrow range, not allowing freedom to operate and develop.
In everyday life, subjective and objective difficulties make it difficult for each individual to overcome them, easily leading to a negative attitude of surrender and acceptance of harsh reality. If the proverb "The difficult makes the smart" true, then it is only true in old societies or for lazy and passive people. This can be proven by reality in life around us.
For example, friend A, because his family is poor, has to help his parents make a living every day, so he is weak at school so he drops out of school. Friend B couldn't do it because of a difficult Math problem, so he accepted a poor score. You accept poverty and blame fate: Poverty goes backwards and forwards, you're still poor.
The first meaning of the proverb "The difficulty binds the wisdom" refers to the harsh bondage of objective factors, making it difficult for subjective factors (individuals) to overcome adversity.
The second meaning of the proverb is to reflect the passive and resigned attitude of people who lack will and strength to face difficulties and challenges in life. That attitude is negative because it eliminates the miraculous ability that the Creator gave to humans, the ability to quickly adapt to all different living conditions.
This proverb appeared a long time ago in a backward and conservative feudal social situation. People must follow all available disciplines and principles, strict and unreasonable constraints, and are rarely free to be creative. In the past, working people had to live a life of hardship and long-term deprivation, a consequence of a small-scale farming economy that was heavily self-sufficient and dependent on nature. They always have to Pray for rain, take the water I drink, take the fields I plow, fill my rice bowl. That greatly affects the thinking, vision and dynamism of each individual. Another important reason is that in feudal society there are rules and prejudices that bind people. The self-sufficient economy has hindered the development of all aspects of society. The right to live freely is taken away, every individual's thoughts and actions are not allowed to go beyond the predetermined framework of the Three Diamonds and Five Eternals morality. Therefore, people almost lose the right to be proactive and creative at work. Even if you know (smart) you still have to give up because of many difficulties.
Besides the proverb "The difficult reveals the wise", there is also the saying "The difficult reveals the wise".
The meaning of this proverb is opposite to the proverb above. The word reveal here means to reveal a small part, to appear a small idea or condition. The proverb wants to say that even though we encounter many difficulties and obstacles at work, if we are determined to do it, we can still find a solution to achieve the final goal.
For example, if our family is in difficulty and we have to help our parents make a living, we have to take advantage of our time to study. If you encounter a difficult lesson, ask your teacher, ask your friends and find a learning method that suits your family's situation, then your learning results will definitely be better. If you can't solve a difficult math problem, you have to find a book to read, find a friend to ask; If you get a bad score, you will learn from it so you can do better in the next exam. Poor families must try to work hard, study hard, and strive to study well to change their fate. Today, the country has opened its doors and integrated with the world. We are facing new opportunities, new challenges, and opportunities to get rich equally distributed to everyone.
The ancients have a saying: Fire tests gold, hardship tests strength or: New storms or strong grass. In the process of studying and working, difficulties and hardships are natural. The important thing is whether we accept it and find ways to overcome it or not. Around us now there are many examples of striving persistently and steadfastly to achieve the good goals that we determined from the beginning.
Mr. Le Nguyen Minh Quang, a former student of Le Hong Phong specialized school, Ho Chi Minh City, comes from a poor family in Duc Hoa, Long An. He had a sense of independence very early. Loving his mother who worked hard to raise her children, he studied and found ways to help his mother and teach her children. Being hungry and wearing torn clothes did not discourage or discourage him - He was still determined to study well to change his life, to repay the gratitude to his parents, teachers and society for helping him grow up. As one of the poor students who overcame difficulties to receive a scholarship from Tuoi Tre newspaper, he strived to study and has now become the General Director of a large company in Ho Chi Minh City.
Mr. Nguyen Cong Hung in Nghe An is a victim of Agent Orange who is paralyzed and uses a wheelchair, but still constantly tinkering and learning to improve his knowledge of Information Technology. He became the Director of a Computer Company and especially became a computer teacher for dozens of local disabled students.
|
Bài làm:
Trong lịch sử của nhân loại có rất nhiều tấm gương phấn đấu không biết mệt mỏi, cống hiến những nghiên cứu, phát minh vĩ đại, làm thay đổi bộ mặt thế giới như Đác-uyn, Niu-tơn, Nô-ben, Men-đê-lê-ép, Ê-đi-xơn, Anh-xtanh… mà tên tuổi lưu truyền đời đời. Hoặc những tấm gương kiên trì vượt lên hoàn cảnh và số phận để đạt tới đỉnh cao vinh quang trong sự nghiệp như “vua hề” Sác-lô Sa-prin, “vua hài kịch” Mô-li-e… và đặc biệt là Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ cách mạng kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của những danh nhân nêu trên là những dẫn chứng tiêu biểu nhất chứng minh cho nhận xét: “Không có vinh quang nào mà không trải qua gian khổ, đắng cay”.
Đó là một quy luật hiển nhiên, có giá trị như một chân lí vĩnh hằng. Không có vinh quang nào tự đến với mỗi con người, mà muốn gặt hái được vinh quang, con người phải đổ mồ hôi, phải làm việc cật lực với một ý chí kiên định và quyết tâm mạnh mẽ để đạt bằng được mục đích đã đề ra, thậm chí chấp nhận thất bại không chỉ một lần mà nhiều lần vì hiểu rõ “thất bại là mẹ thành công”.
Nhà bác học người Mĩ Ê-đi-xơn sau bao năm miệt mài thử nghiệm đã phát minh ra ngọn đèn điện đầu tiên, chiếc xe chạy bằng điện đầu tiên. Anh em nhà Gra-ham Bell đã sáng chế ra chiếc điện thoại đầu tiên, để giờ đây, mạng điện thoại đã được kết nối trên phạm vi toàn cầu, phục vụ cho nhu cầu liên lạc, thông tin của cả nhân loại. Rồi tập thể các nhà bác học, kĩ sư… nghiên cứu, chế tạo ra máy bay, tàu hỏa, tàu ngầm, tàu thủy xuyên đại dương, tàu vũ trụ thám hiểm mặt trăng, sao Hỏa; những chuyên gia sáng chế ra máy tính điện tử… đều phải trải qua nhiều năm tháng, đầu tư nhiều công sức, trí tuệ, thậm chí đánh đổi cả mạng sống của mình để có được những thành công, những đóng góp hữu ích cho quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật tiên tiến, hiện đại.
Gần gũi và quen thuộc đối với chúng ta hơn cả là tấm gương phấn đấu, hi sinh cho dân, cho nước của Bác Hồ. Đầu thế kỉ XX, người thanh niên xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành đã rời quê hương, Tổ quốc ra đi để tìm đường cứu nước. Ba chục năm trời đằng đẵng, Bác Hồ đã phải trải qua rất nhiều nghề vất vả, cực nhọc: bồi bếp trên tàu biển, bồi bàn trong khách sạn, quét tuyết ở công viên, thợ sửa ảnh, phu khuân vác… Bác đã từng phải sống trong những căn nhà trọ tồi tàn. Mùa đông giá buốt, không có tiền mua than để sưởi, mua chăn để đắp, Bác đã nghĩ ra cách đặt một hòn gạch vào bếp lò của chủ nhà, tối lấy ra, bọc kĩ rồi ôm ngủ cho đỡ lạnh. Thiếu ăn, thiếu mặc, nhưng Bác không thiếu ý chí, quyết tâm và nghị lực. Lòng yêu nước, thương dân chân thành, sâu sắc, lí tưởng cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến chính là nguồn sức mạnh vô tận động viên, cổ vũ Bác trên con đường đi tìm chân lí. Anh thanh niên Nguyễn Tất Thành năm nào rời bến cảng Nhà Rồng với hai bàn tay trắng và một lí tưởng cao đẹp đã trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp, là đảng viên Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ cách mạng của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng, quân dân ta đã kiên trì kháng chiến và đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ, khiến cho tên tuổi Việt Nam trở nên lừng lẫy trên thế giới. Để đạt được kết quả ấy, Bác Hồ đã trải qua bao tháng năm vất vả khó khăn.
Anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng phiến chín năm chống Pháp đã từng sống trong cảnh mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non để rồi mới có vinh quang:
Chín năm làm một Điện Biên,
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.
Năm 1975, cả dân tộc ta đã đánh tan giặc Mĩ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để có được chiến thắng vinh quang ấy, dân tộc ta đã vượt qua bao khó khăn gian khổ, hi sinh. Như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Phải bao máu thắm trong lòng đất,
Mới ánh hồng lên sắc tự hào.
Ngày nay, xung quanh chúng ta có rất nhiều tấm gương không ngại gian khổ đắng cay, vượt qua tất cả để đạt được mục đích cao đẹp.
Ở những đại hội thể thao khu vực và thế giới, những chàng trai, cô gái trẻ Việt Nam đã mang về cho Tổ quốc những tấm huy chương vàng cao quý. Đâu phải họ chỉ luyện tập một sớm một chiều mà phải luyện tập qua bao tháng năm vất vả.
|
Assignment:
In the history of mankind, there are many examples of tireless efforts, contributing great research and inventions, changing the face of the world such as Darwin, Newton, Nobel, and Men. -deleev, Edison, Einstein... whose names will be passed down forever. Or examples of perseverance in overcoming circumstances and fate to reach the pinnacle of glory in their careers such as "clown king" Charles Saprin, "comedy king" Moliere... and especially Ho Chi Minh - the beloved revolutionary leader of the Vietnamese people. The lives of the famous people mentioned above are the most typical evidence to prove the comment: "There is no glory without experiencing hardship and bitterness."
It is an obvious rule, valid as an eternal truth. There is no glory that comes to every person, but to reap glory, people must sweat, work hard with a steadfast will and strong determination to achieve their goals. set out and even accept failure not just once but many times because we clearly understand that "failure is the mother of success".
American scientist Edison, after many years of diligent experimentation, invented the first electric light and the first electric car. The Graham Bell brothers invented the first telephone, so now the telephone network has been connected globally, serving the communication and information needs of all humanity. Then a group of scientists and engineers... researched and manufactured airplanes, trains, submarines, trans-oceanic ships, spacecraft to explore the moon and Mars; The experts who invented electronic computers... all had to spend many years, invest a lot of effort and intelligence, and even trade their lives to achieve success and make useful contributions to society. the development process of advanced and modern science and technology.
Closer and more familiar to us is Uncle Ho's example of striving and sacrificing for the people and the country. At the beginning of the twentieth century, the young man from Nghe An, Nguyen Tat Thanh, left his homeland and the Fatherland to find a way to save the country. For thirty long years, Uncle Ho had to go through many difficult and arduous jobs: kitchen waiter on ships, waiter in hotels, snow sweeper in parks, photo retoucher, porter... He was had to live in shabby boarding houses. In the cold winter, with no money to buy coal for heating or blankets to cover, Uncle Ho thought of a way to put a brick in the homeowner's stove, take it out at night, wrap it tightly and hug it to sleep to avoid the cold. Lacking food and clothing, Uncle Ho did not lack will, determination and energy. Sincere and profound patriotism and love for the people, the revolutionary ideal of liberating the nation from colonial and feudal slavery are the endless sources of strength that encourage and encourage Uncle Ho on his path to find his true self. ly. The young man Nguyen Tat Thanh left Nha Rong harbor with nothing and a noble ideal, and became one of the founders of the French Communist Party, a member of the Communist International, and a revolutionary leader. network of the Vietnamese people, the first President of the Democratic Republic of Vietnam. Under the wise leadership of Uncle Ho and the Party, our army and people persevered in the resistance war and defeated two great empires, France and America, making Vietnam's name famous in the world. To achieve that result, Uncle Ho went through many years of hardship and difficulty.
Uncle Ho's soldiers, during the nine years of resistance against the French, lived in the rain, mixed with blood and mud, only to gain glory:
Nine years as a Dien Bien,
So the flower crown is red, so the history is golden.
In 1975, our entire nation defeated the American enemy and his henchmen, liberated the South, and unified the country. To achieve that glorious victory, our people overcame many difficulties, hardships and sacrifices. As poet To Huu once wrote:
How much blood must be in the ground,
The new pink light shines proudly.
Today, around us there are many examples who are not afraid of bitter hardships, overcoming everything to achieve noble goals.
At regional and world sports conferences, young Vietnamese men and women have brought noble gold medals to the Fatherland. It's not like they just practice overnight, they have to practice through many years of hard work.
|
Bài làm:
Vương Xương Linh (698 – 757), tự là Thiếu Bá, quê ở Trường An, tĩnh Thiểm Tây, Trung Quốc, ông nổi tiếng rất sớm về tài văn chương. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông ra làm quan nhưng con đường hoạn lộ của ông gặp nhiều trắc trở. Rời chốn kinh đô về làng được một thời gian, ông bị tên thứ sử ở địa phương hãm hại. Thơ ông vừa giàu tính hiện thực, vừa đậm đà chất trữ tình, phản ánh những vấn đề lớn của thời đại như chiến tranh, thương đau, mất mát… Đặc biệt, ông thường đi sâu phân tích và thể hiện tâm lí, tình cảm của nhiều loại người như tầng lớp trí thức, tướng sĩ, binh lính, những thiếu phụ có chồng ngoài mặt trận… Trong số những kiệt tác của ông thì bài Khuê oán (Nỗi oán của người phòng khuê) được người đời hâm mộ và truyền tụng rộng rãi bởi nó được coi là tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của dân chúng thời Thịnh Đường.
Phiên âm chữ Hán:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu.
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tố mịch phong hầu.
Dịch thơ tiếng Việt:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để Chàng đi kiếm tước hầu.
(Nguyễn Khắc Phi dịch)
Hai câu thơ đầu giới thiệu nhân vật trữ tình trong bài thơ này là thiếu phụ thuộc tầng lớp quý tộc phong kiến, có chồng đang tham gia chinh chiến nơi xa. Có lẽ do sinh ra và lớn lên giữa cảnh xa hoa, nhung lụa nên cô chưa biết thế nào là cảnh hòn tên mũi đạn và những đau thương tang tóc của chiến tranh. Cũng vì thế mà tâm trạng cô vô tư, hồn nhiên như trẻ nhỏ. Ngày ngày, cô trang điểm thật đẹp đẽ, xinh tươi rồi lên lầu cao ngóng về phương xa, mong người chồng trở về thỏa mộng công danh:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu.
Ổ đây có sự hoà hợp, tương đồng giữa người với cảnh. Giữa thiên nhiên mùa xuân xanh tươi tràn đầy sức sống, hình ảnh thiếu phụ trẻ trung, kiều diễm lại càng thêm lộng lẫy. Ấy thế nhưng điều éo le, trớ trêu cũng lại nằm ngay trong sự hòa hợp, tương đồng ấy bởi mùa xuân tượng trưng cho tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc lứa đôi; mà khuê phụ thì lại đang sống trong cảnh phòng khuê chiếc bóng. Cho nên, tâm trạng của nàng chắc cũng không ngoài tâm trạng chung của những người vợ trẻ có chồng ra trận. Thái độ vui vẻ, hồn nhiên nếu là có thật thì cũng rất mong manh. Chỉ cần một yếu tố nào đó của ngoại cảnh tác động vào là nó sẽ tan nhanh như màn sương dưới ánh mặt trời.
Hai câu thơ sau nói đến yếu tố làm thay đổi đột ngột tâm trạng của khuê phụ:
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.
Cái màu dương liễu xanh mơn mởn mà khuê phụ chợt thấy lúc vừa bước lên lầu cao đã làm cho dòng cảm xúc của nàng nhanh chóng đổi chiều. Màu dương liễu tượng trưng cho mùa xuân, tuổi trẻ và gợi lên khát vọng hạnh phúc. Nó cùng khơi dậy nỗi buồn biệt li trong lòng khuê phụ. Buổi chia tay, theo phong tục, nàng tặng chàng một nhành dương liễu để biểu thị tình cảm lưu luyến và ước mong ngày chàng sớm trở về đoàn tụ. Nay chàng đang ở nơi đâu? Sống chết ra sao? Đã hay chưa thỏa chí tang bồng?
Cảnh ấy gợi tình này mà tình này (tức nỗi nhớ thương) thì cứ dâng lên mãi. Nhớ thương pha lẫn hối tiếc và ân hận. Nàng hơi tiếc là đã để chồng đi tòng quân, cố lập chiến công để rồi được làm quan, kiếm tước hầu vua ban cho. Bản thân và gia đình, gia tộc sẽ được vẻ vang, nở mày nở mặt… Nhưng suy ngẫm kĩ thì tất cả những cái đó chi là ảo tưởng mà thôi; còn thực tế là nỗi sinh li, mà sinh li nhiều khi còn xót xa, đau đớn hơn tử biệt.
|
Assignment:
Vuong Xuong Linh (698 - 757), nicknamed Thieu Ba, was from Chang'an, Shaanxi Province, China. He was famous very early for his literary talent. After passing his doctorate, he became a mandarin but his path encountered many obstacles. After leaving the capital and returning to the village for a while, he was harmed by the local historian. His poetry is both rich in realism and lyrical, reflecting major issues of the times such as war, pain, loss... In particular, he often deeply analyzes and expresses psychology and emotions. feelings of many types of people such as the intellectual class, generals, soldiers, young women with husbands on the front... Among his masterpieces, the poem Khue resentment (The resentment of the housekeeper) is admired by people. and widely recited because it is considered to represent the spirit of opposition to unjust war among the people of the Tang Dynasty.
Transliteration of Chinese characters:
Khue Trung's young woman did not feel sad,
The spring and the sun last a long time.
Pick up the first vein of the willow tree,
Communicating with husband and wife, Mich Phong Marquis.
Vietnamese poetry translation:
The young lady of the house does not know sorrow,
Spring day grooming, walking upstairs.
At the beginning of the road I suddenly saw the color of willows,
Hui let him go find the marquis.
(Translated by Nguyen Khac Phi)
The first two verses introduce the lyrical character in this poem as a young woman belonging to the feudal aristocracy, whose husband is participating in a distant war. Perhaps because she was born and raised amid luxury and luxury, she did not know what it was like to be surrounded by arrows and bullets and the pain and suffering of war. That's why her mood is carefree and innocent like a child. Every day, she puts on beautiful, beautiful makeup and goes upstairs to look into the distance, hoping her husband will return to fulfill his dream of fame and fortune:
The young lady of the house does not know sorrow,
Spring day grooming, walking upstairs.
Here there is harmony and similarity between people and scenes. In the midst of green spring nature full of vitality, the image of a young and charming woman is even more splendid. However, the irony and irony also lie in that harmony and similarity because spring symbolizes youth, love and happiness between couples; but the wife is living in a shadow room. Therefore, her mood is probably not different from the common mood of young wives whose husbands go to war. The cheerful, innocent attitude, if real, is also very fragile. As long as a certain element of the external environment is affected, it will disappear as quickly as mist under the sun.
The following two verses talk about factors that suddenly change the mother's mood:
At the beginning of the road I suddenly saw the color of willows,
Hui let him go find the marquis.
The lush green willow color that the lady's wife suddenly saw as she stepped up the stairs made her emotions quickly change direction. The willow color symbolizes spring, youth and evokes the desire for happiness. It also aroused the sadness of separation in the mother-in-law's heart. At the farewell, according to custom, she gave him a willow branch to express her affection and hope that he would soon return to reunite. Where is he now? How to live and die? Have you or have you not satisfied your desire to mourn?
That scene is so erotic that this love (that is, the longing) keeps rising. Remembering love mixed with regret and regret. She felt a little regretful that she had let her husband join the army, trying to achieve military achievements so that he could become an official and earn the title of marquis given to him by the king. You and your family and clan will be glorious and prosperous... But if you think carefully, all of that is just an illusion; In reality, the pain of giving up, and giving up is often more painful and painful than saying goodbye.
|
Bài làm
Người xưa thường gửi gắm vào truyện ngụ ngôn những bài học có ý nghĩa nhân sinh thiết thực và sâu sắc. Đọc một truyện ngụ ngôn nào đó, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học khác nhau, tùy theo trình độ cảm nhận và hoàn cảnh của mỗi cá nhân. Tuy vậy, tính chất khái quát vẫn là đặc điểm nổi bật của truyện ngụ ngôn.
Nội dung truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng có thể tóm tắt như sau: Vì sống lâu trong một cái giếng hẹp nên con ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bằng cái vung. Xung quanh nó là một số loài vật nhỏ bé. Mỗi lần ếch cất tiếng kêu Ồm ộp vang động cả giếng, mọi vật đều sợ hãi cho nên nó cảm thấy mình oai phong như một vị chúa tể. Một năm nọ, trời mưa to làm cho nước giếng tràn đầy, đẩy ếch ra ngoài. Nó nhảy nhót khắp nơi. Quen thói cũ, nó nhâng nháo đưa mắt nhìn lên bầu trời, chẳng thèm để ý gì đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
Cốt truyện đơn giản nhưng có đủ diễn biến, tình tiết và nhân vật. Con ếch cũng có tâm lí giống như con người. Tại sao con ếch lại suy nghĩ thiển cận như vậy? Ấy là do nó sống lâu ngày dưới đáy một cái giếng nhỏ nên từ đó nhìn lên, nó chỉ thấy bầu trời bé tí như cái vung. Ngày nào cũng thế nên nó đinh ninh bầu trời chỉ to bằng ngần ấy mà thôi.
Ngoài cái đáy giếng quen thuộc ra, con ếch chưa biết đến một môi trường sống nào khác, một thế giới nào khác. Cho nên tầm nhìn, tầm hiểu biết của nó bị hạn chế là lẽ đương nhiên, không đáng trách. Điều đáng trách là thái độ chủ quan, kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi giang hơn tất cả và nhận thức của mình là chân lí. Đến lúc rơi vào môi trường sống hoàn toàn mới lạ và rộng lớn, nó vẫn không thay đổi nhận thức, vẫn cho rằng mình là chúa tể, chẳng thèm để ý gì đến xung quanh. Rốt cục, ếch bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
Truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng mượn chuyện loài vật để nói bóng gió, kín đáo về chuyện của loài người. Từ cách nhìn nhận, đánh giá thế giới bên ngoài chỉ qua Cái miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch, các tác giả dân gian ngầm phê phán những kẻ với sự hiểu biết hạn hẹp, nông cạn nhưng lại hay tỏ vẻ ta đây. Đồng thời, truyện cũng ngầm khuyên nhủ mọi người nên cố gắng mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết; không nên chủ quan, kiêu ngạo. Đừng để thiên hạ đánh giá mình là loại: “Ếch ngồi đáy giếng”.
Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi đề cập đến cách nhận thức sự vật trong thế giới xung quanh. Nội dung truyện như sau: Năm thầy bói mù ế khách ngồi tán gẫu. Thầy nào cũng phàn nàn là chưa được thấy voi bao giờ. Tình cờ lúc ấy nghe người ta nói voi sắp đi qua, năm thầy bàn nhau hùn tiền biếu quản tượng để được xem voi. Vì mù nên các thầy “xem” bằng tay. Mỗi thầy sờ vào một bộ phận của voi. Thầy sờ vòi; thầy sờ ngà; thầy sờ tài; thầy sờ chân; thầy sờ đuôi.
Voi đi rồi, các thầy ngồi tranh luận về hình dáng con voi. Mỗi thầy nói lên cảm nhận riêng của mình. Thầy sờ vòi cho rằng voi sun sun giống như con đĩa. Thầy sờ ngà bảo voi chần chẫn như cái đòn càn. Thầy sờ tai khăng khăng voi bè bè giống cái quạt thóc. Thầy sờ chân thì dứt khoát là voi sừng sững như cái cột nhà. Thầy sờ đuôi khẳng định voi tua tủa như cái chổi sể cùn. Càng tranh cãi càng hăng, không thầy nào chịu nhường thầy nào. Cuối cùng, họ lao vào đánh nhau đến toác đầu chảy máu.
Người xưa thật hóm hỉnh khi tạo ra tình huống năm thầy bói mù cùng xem một con vật khổng lồ là con voi. Các bộ phận của nó ở cách xa nhau (vòi, ngà, tai, chân, đuôi); mà mỗi thầy chỉ sờ được có một thứ cho nên mới dẫn đến cuộc đấu khẩu bất phân thắng bại.
|
Assignment
Ancient people often put into fables lessons that have practical and profound human meanings. Reading a certain fable, we can draw many different lessons, depending on each individual's level of perception and situation. However, the general nature is still a prominent feature of fables.
The content of the fable The Frog at the Bottom of the Well can be summarized as follows: Because he lived for a long time in a narrow well, the frog thought the sky above his head was only the size of a lid. Around it are a number of small animals. Every time the frog croaked and echoed throughout the well, everything was scared, so it felt majestic like a lord. One year, it rained heavily, causing the well to overflow, pushing the frogs out. It jumps everywhere. Getting used to old habits, it frantically looked up at the sky, not paying attention to its surroundings, so it was trampled by a passing buffalo.
The plot is simple but has enough developments, details and characters. Frogs also have psychology like humans. Why does the frog think so short-sightedly? That's because it lived for a long time at the bottom of a small well, so looking up from there, it only saw the sky as small as a bowl. Every day is like that, so he believes that the sky is only that big.
Besides the familiar bottom of the well, the frog has not known any other habitat, any other world. So its vision and understanding are limited, of course, and not to blame. What is to blame is the subjective attitude, arrogance, considering oneself to be better than everyone and that one's perception is the truth. When it falls into a completely new and large living environment, it still does not change its perception, still thinks that it is the lord, and does not pay any attention to its surroundings. In the end, the frog was trampled by a passing buffalo.
The fable of the Frog at the Bottom of the Well borrows animal stories to hint at human stories. From the way of viewing and evaluating the outside world only through the narrow mouth of a frog's well, folk authors implicitly criticize those with limited and shallow understanding but often act arrogantly. At the same time, the story also implicitly advises people to try to expand their vision and understanding; Don't be subjective or arrogant. Don't let people judge you as "a frog at the bottom of a well".
The fable of the fortune teller and the elephant refers to the way of perceiving things in the surrounding world. The story's content is as follows: Five blind fortune tellers sat chatting. Every teacher complains that they have never seen an elephant. By chance, at that time, they heard people saying that an elephant was about to pass by. Five monks discussed together and donated money to the mahout to see the elephant. Because they are blind, the teachers "see" with their hands. Each teacher touches a part of the elephant. The teacher touched the faucet; the teacher touches the ivory; the teacher touched his talent; the teacher touched his feet; The teacher touched his tail.
After the elephant left, the teachers sat and debated about the elephant's shape. Each teacher expressed his own feelings. The teacher felt the trunk and thought that the sun elephant was like a discus. The teacher touched the tusk and told the elephant to hesitate like a blow. The teacher touched his ears and insisted that the elephant was as smooth as a rice fan. The teacher touched his leg and it was definitely an elephant, standing as tall as a pillar. The teacher touched the tail and confirmed that the elephant was bristling like a dull broom. The more they argued, the more heated they became, and neither teacher was willing to give in to the other. Finally, they got into a fight until their heads were bleeding.
The ancients were very humorous when they created a situation where five blind fortune tellers looked at a giant animal called an elephant. Its parts are far apart (proboscis, tusks, ears, legs, tail); But each teacher could only touch one thing, which led to an inconclusive argument.
|
Bài làm
Trong bài thơ Tiếng ru, nhà thơ Tố Hữu viết:
Con ong làm mật yêu hoa,
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời.
Con người muốn sống con ơi,
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.
Một ngôi sao chẳng sáng đêm,
Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng.
Một người đâu phải nhân gian,
Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi!
Núi cao bởi có đất bồi
Núi chê đất thấp, núi ngồi ở đâu?
Muốn dòng sông đổ biển sâu,
Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn?
Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt ẩn dụ nghệ thuật hàm súc về mặt ý nghĩa để khẳng định mối quan hệ mật thiết, hữu cơ giữa cá nhân và cộng đồng. Mối quan hệ đó cũng có thể diễn đạt thông qua hình ảnh so sánh: Cá nhân và tập thể như giọt nước và biển cả, gắn bó với nhau khăng khít, không thể tách rời.
Một giọt nước không thể làm nên biển cả vì nó quá nhỏ bé, nhưng tỉ tỉ giọt nước từ trăm sông ngàn suối tuôn chảy về cùng một hướng sẽ tạo nên biển cả mênh mông, vô tận. Con người cũng vậy. Không ai có thể sống một mình vì phải cần đến rất nhiều mối quan hệ với thế giới xung quanh. Miếng cơm ta ăn là do nông dân dầm sương dãi nắng, đổ mồ hôi sôi nước mắt làm ra. Tấm áo ta mặc, cuốn sách, cái bút, đôi dép ta dùng và bao vật phẩm khác là do công sức của hàng triệu công nhân miệt mài ngày đêm trong các nhà máy, xí nghiệp sản xuất để phục vụ đời sống của con người. Bao công trình lớn nhỏ trên đất nước như sân bay, bến cảng, nhà ga, bệnh viện, trường học, khách sạn, công viên, nhà ở, đường sá, cầu cống… là kết quả của quá trình lao động, sáng tạo của đội ngũ kiến trúc sư, kĩ sư, công nhân xây dựng. Các thầy cô giáo dạy kiến thức và giáo dục đạo đức cho học sinh. Các thầy thuốc chữa bệnh cứu người. Các chiến sĩ vững tay súng giữ vững biên cương, vùng biển, vùng trời của Tổ quốc, gìn giữ cuộc sống hòa bình no ấm cho nhân dân
Tất cả kết hợp thành một dân tộc, một đất nước thống nhất độc lập, tự do.
Từ ngàn xưa, tổ tiên chúng ta đã rút ra những bài học có ý nghĩa sâu sắc về quan hệ giữa cá nhân và tập thể: Ăn một mình đau tức, làm một mình cực thân. Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao ; Đông tay vỗ nên kêu, Bác Hồ kính yêu cũng đã dạy: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công. Rõ ràng, chỉ khi nào thực sự gắn bó và hòa mình với tập thể thì mỗi cá nhân mới có thể phát huy được hết khả năng của mình, để từ đó đóng góp hữu ích cho gia đình, tập thể và xã hội.
Nói gần hơn, mỗi học sinh là một thành viên trong lớp, nhiều lớp tạo thành một trường. Thành tích học tập của lớp là do từng học sinh đóng góp mà nên và mỗi học sinh đạt được kết quả tốt trong học tập, tu dưỡng, phấn đấu thì ngoài cố gắng của bản thân còn có sự dìu dắt, động viên của gia đình, thầy cô, bè bạn.
Trong gia đình, trong tập thể, mỗi cá nhân đều có vị trí, vai trò, nghĩa vụ và quyền lợi nhất định. Để có thể phát huy được mặt mạnh của mình thì mỗi cá nhân phải biết thích nghi, hòa hợp với môi trường sống và làm việc. Nếu ai cũng nghĩ đến quyền lợi tập thể trước quyền lợi cá nhân thì đất nước sẽ phát triển vững chắc trên con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Sinh thời, Bác Hồ đã đưa ra quan điểm sống: Mình vì mọi người. Đó là sự kế thừa và phát huy quan điểm sống đúng đắn của Nguyễn Trãi có từ thế kỉ XV: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc. (Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ).
Có lẽ Tố Hữu là nhà thơ quan tâm nhiều nhất đến mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Trong bài Một khúc ca, tác giả viết:
Nếu là con chim, chiếc lá,
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.
Lẽ nào vay mà không có trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Trong bài Chân trời mới:
Sống có những niềm vui đơn giản,
Không phải mua, cũng chẳng cần xin.
Thật ấm áp một bàn tay bè bạn,
Rất thân thương một ánh mắt nhìn.
Đúng như vậy! Mỗi giọt hước cá nhân nếu hòa vào biển cả tập thể thì không chỉ tồn tại mà sẽ sống một cuộc sống dạt dào, mãnh liệt và đầy ý nghĩa:
Vui hơn cả mùa xuân đang tới,
Mỗi đời riêng nhân thành cuộc đời chung.
|
Assignment
In the poem Lullaby, poet To Huu wrote:
The bee that makes honey loves flowers,
Fish swim and love the water, birds sing and love the sky.
People want to live, my child.
Must love comrades, love brothers.
A star that does not light up the night,
A ripe rice stalk is not a golden crop.
A person is not human,
Alive, a flame remains alone!
The mountains are high because of alluvial soil
The mountains criticize the low land, where do the mountains sit?
I want the river to flow into the deep sea,
The sea criticizes the small river, where does the sea still have water?
The poet used a series of meaningful artistic metaphors to affirm the intimate, organic relationship between the individual and the community. That relationship can also be expressed through comparative images: Individuals and groups are like drops of water and the ocean, closely intertwined and inseparable.
One drop of water cannot make the ocean because it is too small, but billions of drops of water from hundreds of rivers and streams flowing in the same direction will create a vast, endless ocean. The same goes for humans. No one can live alone because it requires many relationships with the world around them. The food we eat is made by farmers soaked in dew, sun, sweat and tears. The clothes we wear, the books, the pens, the sandals we use and many other items are due to the efforts of millions of workers working day and night in factories and manufacturing plants to serve human life. . Many large and small projects in the country such as airports, ports, stations, hospitals, schools, hotels, parks, houses, roads, bridges, etc. are the result of labor and creativity. of a team of architects, engineers, and construction workers. Teachers teach knowledge and moral education to students. Doctors cure diseases and save people. Soldiers firmly maintain the borders, seas, and airspace of the Fatherland, preserving a peaceful and prosperous life for the people.
All combine to form one nation, a unified, independent and free country.
Since ancient times, our ancestors have learned deeply meaningful lessons about the relationship between individuals and groups: Eating alone is painful, working alone is painful. One tree cannot make a mountain, Three trees gathered together can make a high mountain; Many hands clapped and shouted, our beloved Uncle Ho also taught: Solidarity, solidarity, great solidarity Success, success, great success. Obviously, only when truly attached to and immersed in the group can each individual develop their full potential, thereby making useful contributions to the family, group and society.
To put it more closely, each student is a member of the class, many classes form a school. The academic achievement of the class is due to the contribution of each student, so each student achieves good results in studying, cultivating, and striving, in addition to their own efforts, they also have the guidance and encouragement of their family. family, teachers, friends.
In the family, in the collective, each individual has a certain position, role, obligations and rights. To be able to promote one's strengths, each individual must know how to adapt and harmonize with the living and working environment. If everyone thinks of collective interests before individual interests, the country will develop steadily on the path to the goal of rich people, a strong country, and a fair and civilized society.
During his lifetime, Uncle Ho gave a view on life: We are for everyone. That is the inheritance and promotion of Nguyen Trai's correct life perspective dating back to the 15th century: In the first world, there will be happiness and joy, in the future, there will be happiness and joy. (Worry before the world, be happy after the world).
Perhaps To Huu is the poet most interested in the relationship between the individual and the collective. In the article A Song, the author writes:
If you are a bird, a leaf,
The bird must sing, the leaf must be green.
Why should borrow without paying,
Living is about giving, not just receiving for yourself.
In the article New Horizons:
Life has simple joys,
No need to buy, no need to ask.
How warm is a friend's hand,
A very loving look.
Exactly! Every individual drop of humor, if merged into the collective ocean, will not only exist but will live a rich, intense and meaningful life:
More joyful than the coming spring,
Each individual life multiplies into a common life.
|
Bài làm
Trong một lần trả lời phỏng vấn, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bày tỏ quan điểm của mình về thơ hay: Thơ hay là thơ ám ảnh.
Quả đúng như vậy! Nhưng thế nào là thơ ám ảnh? Có những bài thơ, câu thơ ta chỉ đọc một lần, hai lần mà đã in đậm dấu ấn trong trí nhớ, trong tâm hồn, không thể nào quên. Chúng ta hãy lấy Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du làm ví dụ.
Hai câu thợ tả cảnh ngày xuân xứng đáng là tuyệt bút:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Nguyễn Du tập trung miêu tả màu xanh mơn mởn của cỏ non bao phủ mặt đất, kéo dài đến tận chân trời để thông qua đó thể hiện sức sống bừng bừng của mùa xuân; Màu xanh không chỉ bao phủ vạn vật mả còn tràn ngập tâm hồn, đem lại cho con người cảm xúc dạt dào và tình yêu thiên nhiên tha thiết. Trên cái nền xanh mênh mông ấy, nổi bật lên vài đốm trắng tinh khiết của hoa lê. Hai màu sắc tương phản đặt cạnh nhau cùng tôn thêm vẻ đẹp cho nhau. Cỏ non càng xanh, hoa lê càng trắng. Tất cả đều đẹp đẽ, trong sáng, tinh khôi.
Người đọc nhớ mãi hai câu thơ dệt nên bức tranh mùa thu lộng lẫy có một không hai:
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
Có thể nói cái hồn của mùa thu đã hiện ra trong từng đường nét, sắc màu của cảnh vật. Đáy nước trong veo in bóng bầu trời xanh ngắt. Màn sương bảng lảng như khói biếc vầy phủ quanh thành cổ. Núi non phơi mình trong bóng vàng của hoàng hôn. Rõ ràng, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt đến trình độ bậc thầy: có xa, có gần; có thấp, có cao; có điểm, có diện; có đường nét, hình khối, màu sắc hài hoà. Đơn giản mà hoàn mĩ, ngắn gọn mà hàm súc. Trong thơ có họa là vậy. Chỉ mười bốn chữ mà đủ cảnh, đủ tình, phản ánh sự mẫn cảm, tinh tế và ngòi bút tài hoa của thi nhân. Những câu thơ tả cảnh nêu trên được người đời đánh giá là hay vào bậc nhất trong văn chương nước ta.
Còn nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du cũng khó có nhà văn, nhà thơ nào sánh kịp. Đây là tâm trạng Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích sau khi nàng định quyên sinh để thoát khỏi kiếp sống ô nhục của một kĩ nữ chốn lầu xanh:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày mong mai chờ.
Bên trời góc biển bơ vơ,
Tấm son gột rữa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai biết mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Thúy Kiều đang chìm ngập trong tâm trạng buồn tủi, thương nhớ người yêu, thương nhớ cha mẹ và xót xa cho thân phận trớ trêu, cay đắng của mình. Đoạn thơ là một dẫn chứng chứng minh cho quy luật tâm lí: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Thiên nhiên bị bao phủ trong một không khí ảm đạm, quạnh hiu bởi Thúy Kiều nhìn cảnh vật bằng đôi mắt u uất, buồn thương. Nỗi buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, cô liêu càng gợi mối sầu không thể san sẻ trong lòng người con gái tài sắc vạn toàn mà bất hạnh.
|
Assignment
In an interview, poet Tran Dang Khoa expressed his opinion on good poetry: Good poetry is haunting poetry.
That's right! But what is haunting poetry? There are poems and verses that we only read once or twice but leave a deep mark in our memory, in our soul, and cannot be forgotten. Let's take The Tale of Kieu by poet Nguyen Du as an example.
Two sentences describing the scene of a spring day are worthy of being masterpieces:
Green grass reaches the horizon,
There are some blossoms on the white pear branch.
Nguyen Du focuses on depicting the lush green color of young grass covering the ground, extending to the horizon to express the vibrant vitality of spring; Green not only covers everything but also fills the soul, giving people abundant emotions and a passionate love for nature. On that vast green background, a few pure white spots of pear flowers stand out. Two contrasting colors placed next to each other enhance each other's beauty. The greener the grass, the whiter the pear flowers. Everything is beautiful, pure, and pristine.
Readers will forever remember two lines of poetry that create a uniquely splendid autumn picture:
The water bottom sparkles in the sky,
The city is filled with blue smoke, the mountains are exposed to golden shadows.
It can be said that the soul of autumn appears in every line and color of the landscape. The clear water bottom reflects the blue sky. This mist, like blue smoke, covers the ancient citadel. The mountains bask in the golden shadow of the sunset. Clearly, Nguyen Du's art of depicting scenes has reached a master level: some are far, some are near; some are low, some are high; have points, have presence; with harmonious lines, shapes, and colors. Simple yet perfect, concise yet concise. In poetry, there are paintings like that. Only fourteen words have enough scenes and emotions, reflecting the poet's sensitivity, sophistication and talented pen. The verses describing the above scenes are considered by people to be among the best in our country's literature.
As for Nguyen Du's art of describing character psychology, no other writer or poet can match it. This is Thuy Kieu's mood at Ngung Bich Palace after she decided to commit suicide to escape the disgraceful life of a prostitute in a brothel:
In front of Ngung Bich building for spring class,
The mountains look far away, the moon is close together.
All four sides are vast and far away,
Golden sand dunes there, pink bushes there.
Embarrassed by the morning clouds and the late night lights,
Half love, half scene, like dividing hearts.
Thinking of people under the bronze cup,
The news is filled with hope and hope.
In the lonely corner of the sky and sea,
The lipstick will never fade away.
Pity people lean on tomorrow's door,
Fan cold incubation concentrations of someone now?
San Lai knows sunshine and rain,
Sometimes the tree is just enough for someone to hug.
Sad to look at the broken door this afternoon,
One boat sails looming in the distance.
Sad to see the new water falling,
Where is the flowers drifted?
Sad to see the oily grass inside,
Foot blue clouds green earth.
Sad to see the wind blowing away my face,
The sound of waves crashing around the seats.
Thuy Kieu is immersed in a sad mood, missing her lover, missing her parents and lamenting her ironic and bitter fate. The poem is a testament to the psychological law: Sad people are never happy. Nature is covered in a gloomy, lonely atmosphere because Thuy Kieu looks at the scene with melancholy, sad eyes. The sadness from people's hearts seeps into the landscape, and the desolate and lonely landscape evokes a sadness that cannot be shared in the heart of a talented and beautiful but unhappy girl.
|
Bài làm
Từ xưa, nhân dân ta đã coi trọng vị trí của người thầy trong xã hội. Có biết bao câu ca dao, tục ngữ thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo, ví dụ như: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư; Không thầy đố mày làm nên ; Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. Theo quan niệm của Nho giáo thì vị trí người thầy được đề cao chỉ sau vua và trên cả cha mẹ (quân, SƯ; phụ). Truyền thống tôn sư trọng đạo ngày nay vẫn được nhân dân ta gìn giữ và phát huy, tuy hình thức đã cổ nhiều thay đổi.
Vậy thế nào là tôn sư trọng đạo? Tôn là tôn vinh, kính trọng ; sư là thầy, là người làm nghề dạy học; trọng là coi trọng, đề cao; đạo là đạo học, là đạo đức, lễ nghĩa. Dân tộc Việt Nam nghèo nhưng có tinh thần hiếu học. Tổ tiên chúng ta thuở trước đã có nhận thức rất đúng đắn rằng: Ngọc bất trác bất thành khí; Nhân bất học bất tri lí (Ngọc không mài không sáng, người không học thì không biết thế nào là lí lẽ phải, trái, đúng, sai). Vì thế muốn nên người thì phải học hành chữ nghĩa và đạo lí thánh hiền. Nhiều nhà nghèo không đủ cơm ăn, áo mặc vẫn cố gắng cho con đi học. Những gương sáng về tinh thần hiếu học nhừ Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn, Nguyễn Khuyến… mãi mãi lưu truyền hậu thế.
Trên khắp đất nước Việt Nam, có những vùng nổi tiếng là đất học với truyền thống học hành, đỗ đạt qua nhiều đời như Kinh Bắc, Thăng Long, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Thừa Thiên – Huế… với những dòng họ nổi tiếng đem lại vinh quang cho quê hương, đất nước.
Năm 1070, dưới thời Lý, trung tâm giáo dục lớn nhất đồng thời cũng là trường Đại học đầu tiên của nước ta được thành lập, gọi là Quốc Tử Giám đặt ở kinh đô Thăng Long, là nơi đào tạo ra những nhân tài phục vụ cho các triều đại vua chúa. Đến năm 1236, tức là 10 năm sau khi nhà Trần cầm quyền thay thế nhà Lý, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc Tử Viện, không chỉ dạy dỗ con em vua chúa mà còn mở rộng cho con em các quan trong triều vào học. Đến năm 1253, các Nho sĩ trong nước cũng được theo học tại đây. Dưới thời Trần, trường học được mở ra khắp nơi để đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân. Mục tiêu giáo dục thời kì này là nhằm đào tạo những người có đủ tài đức theo quan niệm phong kiến để phục vụ cho chính quyền của nhà vua, có tài kinh bang tế thế và chỉ huy chiến đấu bảo vệ đất nước. Truyền thống tôn sư trọng đạo thấm nhuần trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt. Ngay cả các bậc vua chúa cũng vậy. Nhiều bậc quân vương đã tỏ ra rất trọng thị những người thầy tài cao đức lớn, cung kính vời vào trong cung để dạy dỗ các hoàng tử, công chúa.
Chu Văn An (1292 – 1370) không theo con đường khoa cử đỗ đạt làm quan, mà ở nhà mở trường dạy học. Ông nổi tiếng khắp nước về đức độ và kiến thức uyên bác. Một số học trò của Chu Văn An đã đỗ đạt cao, làm quan đầu triều như Phạm Sư Manh, Lê Quát… nhưng vẫn một lòng kính phục thầy; mỗi lần tới thăm đều cung kính chắp tay lạy tạ thầy. Năm 1325, thầy Chu Văn An được triệu vào cung dạy dỗ các hoàng tử, sau đó nhận chức Tế tửu nhà Thái học, tức Hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám. Sau khi ông mất, để tỏ lòng kính trọng và biết ơn, vua Trần Nghệ Tông đã tôn vinh Chu Văn An là quốc sư, ban cho ông tên hiệu là Văn Trinh và thờ ở Văn Miếu.
Dưới thời Lê sơ, triều đình phong kiến có một bước tiến vượt bậc về mặt khuyến khích, tổ chức học tập, thi cử để phát hiện, đào tạo nhân tài. Đến thời Lê Thánh Tông, việc chọn người có học thành mục tiêu của thi cử. Trong một bài chiếu, nhà vua viết: Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học Phải chọn người có học thì thi cử là đầu… Ta nói theo chí tiên đế, muốn cầu được hiền tài để thỏa lòng mong đợi. Trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba do tiến sĩ Thân Nhân Trung biên soạn theo sắc dụ của vua Lê Hiển Tông có đoạn khẳng định: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là cùng. Đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật. Ban ân rất lớn mà vẫn cho là chưa đủ. Lại nêu tên ở tháp Nhạn, ban danh hiệu Long hổ, bày tiệc Văn hỉ. Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất. Các vị đỗ tiến sĩ của từng khoa thi được trân trọng khắc tên vào bia đá dựng ở nhà bia Văn Miếu để lưu danh muôn thủa. Thân Nhân Trung giải thích rõ việc dựng bia không phải là chuyện chuộng văn suông, ham tiếng hão mà là một phương thức để củng cố mệnh mạch cho nhà nước. Đó cũng là kế sách thu phục và sử dụng hiền tài lâu dài của các bậc minh quân.
Ngày xưa, nội dung giáo dục trong nhà trường kết hợp chặt chẽ đức dục với trí dục. Việc dạy chữ song song với việc dạy lễ nghĩa, tức là các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội ; cách ăn mặc, đi đứng, cư xử đúng mực, đúng phép tắc, luân lí phong kiến. Tiên học lễ, hậu học văn. Bên cạnh đố, nhà trường phong kiến cũng coi trọng việc khơi dậy tinh thần hiếu học và vẽ ra tương lai tươi sáng để khuyến khích, động viên trò học tập, để mai sau trở nên người hữu ích cho gia đình và xã hội. Thái độ hiếu học đó tạo nên truyền thống tôn sư trọng đạo. Ở làng xã ngày xưa, ông đồ, thầy đồ, giáo học… thường được dân chúng tôn trọng và tin tưởng hỏi ý kiến trong mọi việc lớn nhỏ.
|
Assignment
Since ancient times, our people have valued the position of teachers in society. There are so many folk songs and proverbs that express the tradition of respecting teachers, for example: One word is a teacher, half a letter is a teacher; Should not his teacher ; If you want to be rich, build a bridge. If you want to be a literate child, then love your teacher. According to Confucian beliefs, the teacher's position is promoted only after the king and above parents (soldiers, monks, fathers). The tradition of respecting teachers and teachings is still preserved and promoted by our people today, although the ancient form has changed many times.
So what is respecting a teacher? To honor is to honor and respect; A monk is a teacher, a person who teaches; respect means to respect and promote; Religion is ethics, morality, and decency. The Vietnamese people are poor but have a studious spirit. Our ancestors in the past had a very correct perception that: Jade does not become impure; People who are not educated do not understand reason (Jade without polishing does not shine, people who do not study do not know what is right, wrong, right, wrong). Therefore, if you want to be a good person, you must study the words and morals of saints and sages. Many poor families do not have enough food or clothing to eat and still try to send their children to school. Bright examples of studious spirit such as Mac Dinh Chi, Nguyen Hien, Luong The Vinh, Le Quy Don, Nguyen Khuyen... will forever be passed down to posterity.
Throughout Vietnam, there are regions famous as learning lands with a tradition of studying and passing the exam for many generations such as Kinh Bac, Thang Long, Hai Duong, Ha Nam, Nam Dinh, Nghe An, Ha Tinh, Quang Nam. , Thua Thien - Hue... with famous families that bring glory to their homeland and country.
In 1070, under the Ly dynasty, the largest educational center and also the first university in our country was established, called Quoc Tu Giam, located in the capital Thang Long, a place to train talented people to serve. serving dynasties of kings. By 1236, 10 years after the Tran Dynasty replaced the Ly Dynasty, Quoc Tu Giam was renamed Quoc Tu Vien, not only educating children of kings but also expanding to children of court officials. learn. By 1253, domestic Confucian scholars were also able to study here. Under the Tran dynasty, schools were opened everywhere to meet the learning needs of the people's children. The educational goal of this period was to train people who were talented and virtuous according to feudal concepts to serve the king's government, have economic talent and command the fight to protect the country. The tradition of respecting teachers and religion permeates the spiritual life of the Vietnamese people. Even kings are the same. Many monarchs have shown great respect for talented and virtuous teachers, respectfully inviting them into the palace to teach princes and princesses.
Chu Van An (1292 - 1370) did not follow the path of passing the exam to become a mandarin, but stayed at home to open a teaching school. He was famous throughout the country for his virtue and profound knowledge. Some of Chu Van An's students passed high scores and became court officials such as Pham Su Manh, Le Quat... but still respected their teacher; Every time I visit, I respectfully clasp my hands and bow to the teacher. In 1325, teacher Chu Van An was summoned to the palace to teach the princes, then accepted the position of Teu Tuu of the Thai Hoc family, that is, Principal of Quoc Tu Giam school. After his death, to show respect and gratitude, King Tran Nghe Tong honored Chu Van An as national teacher, gave him the name Van Trinh and worshiped him at the Temple of Literature.
Under the early Le dynasty, the feudal court made a great step forward in terms of encouraging and organizing learning and examinations to discover and train talented people. By the time of Le Thanh Tong, choosing educated people became the goal of examinations. In a slide show, the king wrote: If you want to have talent, you must first choose an educated person. If you choose an educated person, then exams are the first... I speak according to the emperor's wishes, I want to pray for talent to satisfy my expectations. In the Inscription Nominating the Doctor of Nham Tuat Faculty, the third Dai Bao era, compiled by Dr. Than Nhan Trung according to the edict of King Le Hien Tong, there is a passage affirming: Talent is the vital energy of the nation. If the vital energy is strong, the water's strength will be strong, then it will rise higher. When the vital energy is weak, the water's strength will be weak, then it will decrease. Therefore, none of the holy emperors and kings did not consider cultivating talented people, choosing scholars, and cultivating original energy as their first priority. The soldier has such an important relationship with the country, so there is no end to the respect for the scholar. He loved his reputation and promoted him with a title. The grace is so great, but it still feels like it's not enough. Renamed at the Nhan tower, bestowed the title Dragon and Tiger, and held a banquet. The court celebrates talented people, there is nothing they cannot do to the highest level. Doctoral candidates of each exam department have their names respectfully engraved on the stone stele erected at the Temple of Literature stele house to preserve their names forever. Than Nhan Trung clearly explained that erecting a stele is not a matter of liking empty literature or vain fame, but is a way to strengthen the destiny of the state. That is also a long-term strategy to capture and utilize the wise men.
In the past, educational content in schools closely combined moral education with intellectual education. Teaching literacy goes hand in hand with teaching etiquette, that is, relationships in the family and in society; how to dress, walk, and behave properly, according to rules and feudal morality. First is obedient, Second is knowledge. Besides quizzes, feudal schools also attach importance to arousing the spirit of studiousness and drawing a bright future to encourage and motivate students to study so that they can become useful people for their family and society in the future. That studious attitude creates a tradition of respecting teachers. In ancient villages, elders, teachers, teachers... were often respected and trusted by the people for their opinions in all matters large and small.
|
Bài làm:
Tục tuyển cung nữ là thực trạng tội ác của vua chúa phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Ngày xưa, các bậc vua chúa tự đặt ra quyền được có: Ba trăm mĩ nữ, sáu mươi cung tần phục vụ. Hàng trăm thiếu nữ trẻ đẹp được tuyển vào cung. Người trúng tuyển phải ở “tiêu phòng” cho đến già, đoạn tuyệt với gia đình, làng xóm, không được liên lạc với mọi sinh hoạt của xã hội bên ngoài.
Số phận bất hạnh của những người cung nữ đã làm động lòng nhiều nhà văn, nhà thơ nhất là dưới thời vua Lê, chúa Trịnh. Có một số tác phẩm viết về họ nhưng không tác phẩm nào có được tiếng nói tố cáo sâu sắc như Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều.
Cung oán ngâm là khúc ca ai oán, uất hận của người cung nữ tài sắc lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu đã bị bỏ rơi giữa tuổi thanh xuân. Nỗi hờn tủi cứ theo ngày tháng mà dâng lên tràn ngập tâm hồn, giày vò, day dứt nàng khôn nguôi, ở trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc. Qua khúc ngâm, tác giả phản ánh tâm trạng đau khổ của người cung nữ phải sống trong cảnh đợi chờ đến tuyệt vọng; đồng thời thể hiện quan niệm của mình trước cuộc đời bạc bẽo, phù du.
Đoạn trích gồm 36 câu (từ câu 209 đến câu 244), diễn tả tâm trạng đau khổ của người cung nữ bị thất sủng. Nàng sống cô đơn giữa bốn bức tường lạnh giá, xót xa cho tuổi xuân trôi qua hoài phí và uất ức than thở về những bất công dành cho thân phận mình.
Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:
Đoạn 1. Bốn khổ thơ đầu: cảnh cung cấm xa hoa tráng lệ và cuộc sống lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ bị thất sủng.
Đoạn 2. Năm khổ thơ tiếp theo: Cảnh sống đày đọa kéo dài với nỗi thất vọng nặng nề mà cung nữ phải gánh chịu.
Mở đầu đoạn trích, hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên rất rõ nét: Trong cung quế âm thầm chiếc bóng Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Sự đối lập giữa khung cảnh xa hoa, tráng lệ với cuộc sống tối tăm u uất nơi cung cấm làm nổi bật bóng dáng nhỏ bé đến tội nghiệp. Nhà thơ đã chọn thời gian ban đêm để nhân vật trữ tình dễ dàng bộc lộ tâm sự của mình. Bị nhà vua bỏ rơi trong tòa nhà lộng lẫy, mênh mông, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sầu, khắc khoải trông ngóng lần lần và chờ mong vô vọng.
Trong tình cảnh ấy, nàng ý thức rất rõ về thân phận mình và nhận biết rất rõ kẻ đã gây ra tai họa khủng khiếp cho đời mình. Nàng là người đã bị giết chết không phải bằng gươm sắc mà bằng cách Kéo dài cuộc sống buồn bã không lối thoát trong cảnh chăn gối lẻ loi, lạnh lẽo.
Qua lời thở than oán trách của người cung nữ, hình ảnh nhà vua hiện lên đúng với bộ mặt của kẻ bạc tình:
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Khoảnh có nghĩa là chơi khăm, chơi ác. Nỗi cô đơn giày vò, giằng xé tâm hồn người cung nữ, khiến nàng phải cất lên lời oán trách gay gắt. Nàng nhớ lại những ngày được vua sủng ái, còn giờ đây, nàng như bị nhấn chìm trong sự hờ hững, lãng quên.
Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả khung cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung cấm, đối lập với nỗi cô đơn lẻ loi của người cung nữ:
Lầu đãi nguyệt / đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương / thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu / lạnh ngắt như đông,
Gương loan / bẻ nửa, dải đồng / xé đôi.
Nơi nàng sống thật đẹp đẽ và đầy đủ tiện nghi, nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa, trớ trêu, chí gợi thêm nỗi sầu, nỗi thảm trong lòng nàng mà thôi.
Tiếp theo là những câu thơ miêu tả nỗi thất vọng nặng nề của người cung nữ, là lời thở than và đúng hơn là tiếng kêu đứt ruột. Dù buồn bã hay oán trách, không một cảm xúc nào của nàng ở mức độ trung bình, vừa phải mà tất cả đều gay gắt, mãnh liệt:
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bàng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần, chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
Năm khổ thơ tiếp theo miêu tả cuộc đày ải kéo dài với những thất vọng nặng nề trong cảnh ngày ngóng đêm trông, đau đáu chờ đợi nhà vua của người cung nữ. Nỗi sầu có lúc lên đến đỉnh điểm, biến thành tâm trạng u uất, bức bối tưởng như nghẹt thở:
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
Giấc ngủ cô đơn lạnh lùng đáng thương biết mấy! Nén hương đốt lên để cho không khí trong tiêu phòng ấm áp, thơm tho nhưng chỉ đem lại cho người cung nữ cảm giác vắng lặng, tịch mịch đáng sợ. Bóng đèn thắp lên cốt để ánh sáng xua đỡ bóng đêm nhưng chí gây cho nàng cảm giác âm u, tăm tối. Cảm giác tịch mịch, thâm u không phải được tạo ra bởi mùi hương hay bóng đèn, mà chính là từ nỗi buồn chán, tuyệt vọng của người cung nữ.
Đêm nào nàng cũng chỉ sống với cái bóng của mình:
Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Đoạn thơ cứ nhắc đi nhắc lại cái hình dáng cô độc, buồn tủi đáng thương của người cung nữ. Nỗi đau đớn, khắc khoải khiến nàng mệt mỏi, rã rời cả thân xác lẫn tâm hồn.
Trong nôi buồn dai dẳng ấy chứa đựng sự quằn quại, tức tối:
Buồn mọi nỗi lòng đã khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng.
Lời oán trách không nhẹ nhàng như của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
mà đay nghiến, uất ức, hằn học:
Giết nhau chẳng cái Lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Cay đắng trước sự thật phũ phàng, người cung nữ đã phải buông lời chì chiết: Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!Câu thơ vừa như một tiếng nghiến răng căm giận, vừa là lời tố cáo đanh thép sự tàn ác của chế độ đa thê, chế độ cung tần mĩ nữ tàn bạo thời phong kiến bởi nó đã cướp đi quyền sống tự do, cướp đi hạnh phúc của bao nhiêu cô gái trẻ đẹp. Chúng không giết những người cung nữ bằng dao, bằng kiếm mà bằng cách để cho nỗi cô đơn hủy hoại tâm hồn và cuộc sống của họ. Người xưa dùng câu giết người không dao để chí những hành động giết người tinh vi nhất, tàn bạo nhất.
Chính những thú ăn chơi trác táng cùng thói vô tình đến tàn nhẫn của vua chúa phong kiến đã đẩy hàng ngàn người cung nữ tội nghiệp vào bi kịch “dở sống, dở chết” đó.
Người phụ nữ trong xã hội xưa thường ít khi trực tiếp thể hiện tâm sự, nhưng nỗi đau xót và sự tủi hờn cao độ đã khiến người cung nữ phải thốt ra tâm sự sâu kín nhất, kể cả ý muốn bứt phá để thoát khỏi cảnh sống giam hãm, đọa đày. Đang tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống mà phải chờ đợi mỏi mòn trong tuyệt vọng nên người cung nữ uất ức cất lời than thở, oán trách. Từ lòng xót thương thực sự, tác giả đã đồng cảm và sẻ chia tâm sự đau đớn ấy. Sức sống dồi dào, khát khao hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì nỗi giận hờn và uất hận càng ngút cao bấy nhiêu trong lòng người cung nữ:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không?
Dang tay muốn đứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Chất trữ tình trong đoạn trích được tạo nên từ hai cảm xúc trái ngược nhau. Một là cảm xúc buồn chán nặng nề do bị sống lâu ngày trong cảnh tù túng, nghạt thở; hai là cảm xúc khao khát hạnh phúc đời thường không nguôi thôi thúc, ám ảnh. Nỗi chán nản đến mức tuyệt vọng và nỗi khao khát cháy bỏng cộng hưởng tạo thành những làn sóng trữ tình dào dạt.
|
Bài làm:
Tục tuyển cung nữ là thực trạng tội ác của vua chúa phong kiến kéo dài hàng nghìn năm. Ngày xưa, các bậc vua chúa tự đặt ra quyền được có: Ba trăm mĩ nữ, sáu mươi cung tần phục vụ. Hàng trăm thiếu nữ trẻ đẹp được tuyển vào cung. Người trúng tuyển phải ở “tiêu phòng” cho đến già, đoạn tuyệt với gia đình, làng xóm, không được liên lạc với mọi sinh hoạt của xã hội bên ngoài.
Số phận bất hạnh của những người cung nữ đã làm động lòng nhiều nhà văn, nhà thơ nhất là dưới thời vua Lê, chúa Trịnh. Có một số tác phẩm viết về họ nhưng không tác phẩm nào có được tiếng nói tố cáo sâu sắc như Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều.
Cung oán ngâm là khúc ca ai oán, uất hận của người cung nữ tài sắc lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu đã bị bỏ rơi giữa tuổi thanh xuân. Nỗi hờn tủi cứ theo ngày tháng mà dâng lên tràn ngập tâm hồn, giày vò, day dứt nàng khôn nguôi, ở trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc. Qua khúc ngâm, tác giả phản ánh tâm trạng đau khổ của người cung nữ phải sống trong cảnh đợi chờ đến tuyệt vọng; đồng thời thể hiện quan niệm của mình trước cuộc đời bạc bẽo, phù du.
Đoạn trích gồm 36 câu (từ câu 209 đến câu 244), diễn tả tâm trạng đau khổ của người cung nữ bị thất sủng. Nàng sống cô đơn giữa bốn bức tường lạnh giá, xót xa cho tuổi xuân trôi qua hoài phí và uất ức than thở về những bất công dành cho thân phận mình.
Có thể chia đoạn trích làm hai đoạn nhỏ:
Đoạn 1. Bốn khổ thơ đầu: cảnh cung cấm xa hoa tráng lệ và cuộc sống lẻ loi, buồn tủi của người cung nữ bị thất sủng.
Đoạn 2. Năm khổ thơ tiếp theo: Cảnh sống đày đọa kéo dài với nỗi thất vọng nặng nề mà cung nữ phải gánh chịu.
Mở đầu đoạn trích, hình ảnh cô đơn của người cung nữ hiện lên rất rõ nét: Trong cung quế âm thầm chiếc bóng Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Sự đối lập giữa khung cảnh xa hoa, tráng lệ với cuộc sống tối tăm u uất nơi cung cấm làm nổi bật bóng dáng nhỏ bé đến tội nghiệp. Nhà thơ đã chọn thời gian ban đêm để nhân vật trữ tình dễ dàng bộc lộ tâm sự của mình. Bị nhà vua bỏ rơi trong tòa nhà lộng lẫy, mênh mông, người cung nữ suốt năm canh đứng tủi ngồi sầu, khắc khoải trông ngóng lần lần và chờ mong vô vọng.
Trong tình cảnh ấy, nàng ý thức rất rõ về thân phận mình và nhận biết rất rõ kẻ đã gây ra tai họa khủng khiếp cho đời mình. Nàng là người đã bị giết chết không phải bằng gươm sắc mà bằng cách Kéo dài cuộc sống buồn bã không lối thoát trong cảnh chăn gối lẻ loi, lạnh lẽo.
Qua lời thở than oán trách của người cung nữ, hình ảnh nhà vua hiện lên đúng với bộ mặt của kẻ bạc tình:
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Khoảnh có nghĩa là chơi khăm, chơi ác. Nỗi cô đơn giày vò, giằng xé tâm hồn người cung nữ, khiến nàng phải cất lên lời oán trách gay gắt. Nàng nhớ lại những ngày được vua sủng ái, còn giờ đây, nàng như bị nhấn chìm trong sự hờ hững, lãng quên.
Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả khung cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung cấm, đối lập với nỗi cô đơn lẻ loi của người cung nữ:
Lầu đãi nguyệt / đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương / thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu / lạnh ngắt như đông,
Gương loan / bẻ nửa, dải đồng / xé đôi.
Nơi nàng sống thật đẹp đẽ và đầy đủ tiện nghi, nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa, trớ trêu, chí gợi thêm nỗi sầu, nỗi thảm trong lòng nàng mà thôi.
Tiếp theo là những câu thơ miêu tả nỗi thất vọng nặng nề của người cung nữ, là lời thở than và đúng hơn là tiếng kêu đứt ruột. Dù buồn bã hay oán trách, không một cảm xúc nào của nàng ở mức độ trung bình, vừa phải mà tất cả đều gay gắt, mãnh liệt:
Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bàng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần, chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.
Năm khổ thơ tiếp theo miêu tả cuộc đày ải kéo dài với những thất vọng nặng nề trong cảnh ngày ngóng đêm trông, đau đáu chờ đợi nhà vua của người cung nữ. Nỗi sầu có lúc lên đến đỉnh điểm, biến thành tâm trạng u uất, bức bối tưởng như nghẹt thở:
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.
Giấc ngủ cô đơn lạnh lùng đáng thương biết mấy! Nén hương đốt lên để cho không khí trong tiêu phòng ấm áp, thơm tho nhưng chỉ đem lại cho người cung nữ cảm giác vắng lặng, tịch mịch đáng sợ. Bóng đèn thắp lên cốt để ánh sáng xua đỡ bóng đêm nhưng chí gây cho nàng cảm giác âm u, tăm tối. Cảm giác tịch mịch, thâm u không phải được tạo ra bởi mùi hương hay bóng đèn, mà chính là từ nỗi buồn chán, tuyệt vọng của người cung nữ.
Đêm nào nàng cũng chỉ sống với cái bóng của mình:
Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Đoạn thơ cứ nhắc đi nhắc lại cái hình dáng cô độc, buồn tủi đáng thương của người cung nữ. Nỗi đau đớn, khắc khoải khiến nàng mệt mỏi, rã rời cả thân xác lẫn tâm hồn.
Trong nôi buồn dai dẳng ấy chứa đựng sự quằn quại, tức tối:
Buồn mọi nỗi lòng đã khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng.
Lời oán trách không nhẹ nhàng như của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm:
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
mà đay nghiến, uất ức, hằn học:
Giết nhau chẳng cái Lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Cay đắng trước sự thật phũ phàng, người cung nữ đã phải buông lời chì chiết: Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!Câu thơ vừa như một tiếng nghiến răng căm giận, vừa là lời tố cáo đanh thép sự tàn ác của chế độ đa thê, chế độ cung tần mĩ nữ tàn bạo thời phong kiến bởi nó đã cướp đi quyền sống tự do, cướp đi hạnh phúc của bao nhiêu cô gái trẻ đẹp. Chúng không giết những người cung nữ bằng dao, bằng kiếm mà bằng cách để cho nỗi cô đơn hủy hoại tâm hồn và cuộc sống của họ. Người xưa dùng câu giết người không dao để chí những hành động giết người tinh vi nhất, tàn bạo nhất.
Chính những thú ăn chơi trác táng cùng thói vô tình đến tàn nhẫn của vua chúa phong kiến đã đẩy hàng ngàn người cung nữ tội nghiệp vào bi kịch “dở sống, dở chết” đó.
Người phụ nữ trong xã hội xưa thường ít khi trực tiếp thể hiện tâm sự, nhưng nỗi đau xót và sự tủi hờn cao độ đã khiến người cung nữ phải thốt ra tâm sự sâu kín nhất, kể cả ý muốn bứt phá để thoát khỏi cảnh sống giam hãm, đọa đày. Đang tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống mà phải chờ đợi mỏi mòn trong tuyệt vọng nên người cung nữ uất ức cất lời than thở, oán trách. Từ lòng xót thương thực sự, tác giả đã đồng cảm và sẻ chia tâm sự đau đớn ấy. Sức sống dồi dào, khát khao hạnh phúc càng mãnh liệt bao nhiêu thì nỗi giận hờn và uất hận càng ngút cao bấy nhiêu trong lòng người cung nữ:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không?
Dang tay muốn đứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Chất trữ tình trong đoạn trích được tạo nên từ hai cảm xúc trái ngược nhau. Một là cảm xúc buồn chán nặng nề do bị sống lâu ngày trong cảnh tù túng, nghạt thở; hai là cảm xúc khao khát hạnh phúc đời thường không nguôi thôi thúc, ám ảnh. Nỗi chán nản đến mức tuyệt vọng và nỗi khao khát cháy bỏng cộng hưởng tạo thành những làn sóng trữ tình dào dạt.
|
Bài làm
Trần Thủ Độ là một nhân vật lịch sử khá đặc biệt cho nên xung quanh ông có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Đối với nhà Trần, Trần Thủ Độ là người có công đầu. Ông đã đem hết lòng trung thành tận tụy, tài năng và mưu trí của mình để giúp các vua Trần phát triển cơ nghiệp, chống ngoại xâm bảo vệ đất nước. Ngày nay, chúng ta cần có thái độ công bằng và sự phân tích kĩ càng để đánh giá, đề cao phẩm chất chí công vô tư, nghiêm minh, liêm khiết của Thái sư Trần Thủ Độ.
Qua bài Thái sư Trần Thủ Độ, tác giả ca ngợi nhân cách chính trực, chí công vô tư, biết lắng nghe và khuyến khích cấp dưới giữ nghiêm phép nước của ông.
Mở đầu bài viết, tác giả tóm tắt vài dòng về cuộc đời và sự nghiệp của Thái sư Trần Thủ Độ:
Giáp Tí, năm thứ 7.
Mùa xuân, tháng giêng.
Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71) ; truy tặng Thượng phụ Thái Sư Trung Vũ Đại Vương.
Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lí được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều là nhờ mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua.
Ở phần sau, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã chọn ra bốn tình tiết (câu chuyện nhỏ) phản ánh bốn khía cạnh về nhân cách cao quý của ông.
Nét đặc sắc nhất trong nghệ thuật kể chuyện và khắc họa hình tượng nhân vật là ở chỗ nhà viết sử đã xây dựng nên những tình huống giàu kịch tính, biết lựa chọn các chi tiết đắt giá. Mỗi câu chuyện dù ngắn nhưng đều có những xung đột được đẩy dần đến cao trào và được giải quyết một cách bất ngờ, gây thú vị cho người đọc. Từ đó; người đọc có thể hình dung rõ nét chân dung nhân vật và tự rút ra những bài học sâu sắc.
Chuyện người hặc tội (người vạch tội) ấm ức tâu lên vua Trần Thái Tông là Thái sư lấn át quyền hành của vua: Bệ hạ trẻ thơ mà Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc thì sẽ ra sao? là tình huống thứ nhất sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa Trần Thủ Độ với nhà vua. Tác giả đẩy mâu thuẫn ấy lên cao trào bằng chi tiết nhà vua chủ động đem người hặc đi theo tới gặp Thái Sư để đối chất. Trần Thủ Độ không phân trần, biện bạch và trừng trị mà ngược lại, ông nhận lỗi ngay và còn ban thưởng cho người hặc tội. Câu trả lời của Thái sư gây bất ngờ lớn cho nhà vua: Đúng như lời người ấy nói.
Trần Thủ Độ có sự khác biệt với mọi người trong cách hành xử. Thông thường, người ta ghét kẻ dám vạch ra tội lỗi hoặc phê phán, chỉ trích sai lầm của mình, còn Trần Thủ Độ không chối mà công nhận ngay hành vi của mình và còn lấy tiền lụa thưởng cho bề dưới. Điều đó thể hiện thái độ thẳng thắn nhận lỗi, nghiêm khắc với bản thân và sự độ lượng của bậc chính nhân quân tử. Lời nói và hành động của ông trong sự việc này có tác dụng khích lệ cấp dưới hãy trung thực, dũng cảm, mạnh dạn tố cáo sai lầm của người khác, kể cả cấp trên nhưng phải với mục đích trong sáng là vì quyền lợi của quốc gia, dân tộc.
Tình huống thứ hai không liên quan đến quyền lợi của sơn hà xã tắc mà chỉ là chuyện riêng trong gia đình. Phu nhân của Thái sư Trần Thủ Độ vốn là hoàng hậu của vua Lí Huệ Tông. Sau khi Lí Huệ Tông bị bức tử, bà bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa và ép gả cho Trần Thủ Độ. Một lần, bà ngồi trên kiệu để vào cung, người lính quân hiệu bắt bà phải xuống kiệu trước thềm cấm. Tình huống này chứa đựng mâu thuẫn giữa phu nhân của Trần Thủ Độ và người lính. Đỉnh điểm của mâu thuẫn là chi tiết phu nhân cho rằng mình bị coi thường nên khóc lóc, kể tội người lính và giận dữ nói với chồng rằng: Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu khinh nhờn như thế.
Lúc đầu, Thủ Độ giận, sai đi bắt Người quân hiệu kia chắc mình phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt. Anh ta đem sự thực trả lời. Thủ Độ nói: Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa? Điều đó cho thấy ông không thiên vị người thân và rất tôn trọng phép nước, tôn trọng người giữ đúng phép nước, dù đó là kẻ dưới quyền.
Tình huống thứ ba là phu nhân xin ông cho một người trong họ của bà được làm câu đương, tức là một chức dịch nhỏ trong xã chuyên lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân. Chi tiết này tạo ra mâu thuẫn giữa tính cách liêm chính của Trần Thủ Độ với lời đề nghị của phu nhân. Tác giả gây chú ý bằng chi tiết: Thủ Độ gật đầu và biên lấy họ tên quê quán của người đó, khiến người đọc lầm tưởng là sự việc sẽ diễn ra đúng theo ý muốn của phu nhân, để rồi hoàn toàn bất ngờ trước cách xử lí của Thái sư cũng như thú vị trước cách giải quyết cao trào xung đột của tác giả. Trần Thù Độ yêu cầu hắn muốn làm câu đương thì phải chặt một ngón chân để phân biệt với những câu đương khác, khiến hắn ta sợ hãi, kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho.
Như vậy là Trần Thủ Độ luôn có ý thức giữ gìn sự công bằng, không chấp nhận thói chạy chọt, đút lót, dựa dẫm, nhờ vả để tiến thân.
Tình huống thứ tư là vua muốn phong tướng cho An Quốc, anh trai của Trần Thủ Độ, Tưởng Trần Thủ Độ sẽ mừng rỡ mà tạ ơn vua nhưng tác giả lại khiến người đọc ngạc nhiên đến bất ngờ khi Trần Thủ Độ thẳng thắn trình bày ý kiến: An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thì việc trong triều sẽ ra sao?
|
Assignment
Tran Thu Do is a quite special historical figure, so there are many different opinions around him. For the Tran dynasty, Tran Thu Do was the person with the first achievements. He devoted all his loyalty, talent and cunning to help the Tran kings develop their business, fight against foreign invaders and protect the country. Today, we need to have a fair attitude and careful analysis to evaluate and promote the qualities of impartiality, rigor, and integrity of Grand Master Tran Thu Do.
Through the article Grand Master Tran Thu Do, the author praises his upright personality, impartiality, ability to listen and encourage his subordinates to strictly keep the country's rules.
At the beginning of the article, the author summarizes a few lines about the life and career of Grand Master Tran Thu Do:
Giap Ti, 7th year.
Spring, January.
Grand Master Tran Thu Do died (age 71); Posthumously awarded to Patriarch Grand Master Trung Vu Dai Vuong.
Although Thu Do had no education, he was more talented than others, and as an official of the Ly Dynasty, he was respected by everyone. Thai Tong's ability to take over the world was all thanks to Thu Do's efforts, so the state had to rely on him, which was more powerful than the king.
In the following part, historian Ngo Si Lien selected four episodes (small stories) that reflect four aspects of his noble personality.
The most unique feature in the art of storytelling and portraying characters is that the historian has built dramatic situations and knows how to choose valuable details. Each story, although short, has conflicts that are gradually pushed to a climax and resolved in a surprising way, making it interesting for the reader. From that; Readers can clearly visualize the character's portrait and draw profound lessons for themselves.
The story of the guilty person (the one who exposed the crime) warmly reported to King Tran Thai Tong that the Grand Master was overpowering the king's authority: Your Majesty is a child and Tran Thu Do has more power than the king, what will happen to the society? The first situation will lead to conflicts between Tran Thu Do and the king. The author pushes that conflict to a climax by detailing that the king proactively brought his followers to meet the Grand Master to confront him. Tran Thu Do did not explain, justify and punish, but on the contrary, he immediately admitted his mistakes and even rewarded the guilty. The Grand Master's answer caused a great surprise to the king: It was exactly as he said.
Tran Thu Do is different from everyone else in the way he behaves. Normally, people hate those who dare to point out their sins or criticize their mistakes, but Tran Thu Do did not deny it but immediately acknowledged his actions and even rewarded his subordinates with money. That shows the frank attitude of admitting mistakes, being strict with oneself and the generosity of a gentleman. His words and actions in this incident have the effect of encouraging subordinates to be honest, courageous, and boldly denounce the mistakes of others, including superiors, but with the pure intention of serving their own interests. of the country and people.
The second situation is not related to the interests of the mountains and rivers, but is just a private family matter. Grand Master Tran Thu Do's wife was originally the queen of King Ly Hue Tong. After Ly Hue Tong was forced to death, she was demoted to the position of Princess Thien Cuc and forced to marry Tran Thu Do. One time, she sat on a palanquin to enter the palace, but the military badge forced her to get off the palanquin in front of the forbidden steps. This situation contains a conflict between Tran Thu Do's wife and the soldier. The peak of the conflict was the fact that the lady thought she was being despised, so she cried, blamed the soldier and angrily told her husband: "This woman is your wife and the military badges look down on her like that."
At first, Thu Do was angry and sent him to arrest the military commander, so he was sure he would die. When he arrived, Thu Do asked questions in front of him. He answered with the truth. Thu Do said: If you are in a low position and know how to keep the rules like that, why should I blame you? This shows that he is not biased towards his relatives and highly respects the rules of the country, respecting those who keep the rules of the country, even if they are subordinates.
The third situation is that the lady asked him to let one of her family members work as a police officer, which is a small service position in the commune specializing in arresting and escorting prisoners. This detail creates a conflict between Tran Thu Do's integrity and his wife's proposal. The author attracts attention with details: Thu Do nodded and wrote down the full name of the person's hometown, making the reader mistakenly think that the event would happen according to the lady's wishes, only to be completely surprised by The way the Grand Master deals with it is interesting as well as the author's way of resolving the climax of the conflict. Tran Thu Do asked him to cut off a toe to distinguish him from other sentences, which made him scared, so he begged and begged for a long time before he was forgiven.
Thus, Tran Thu Do is always conscious of maintaining fairness, not accepting the habit of soliciting, bribing, relying, or asking for help to advance his career.
The fourth situation is that the king wants to make An Quoc, Tran Thu Do's brother, a general. Tuong Tran Thu Do will be happy and thank the king, but the author surprises the reader when Tran Thu Do frankly presents expressed his opinion: An Quoc is my brother, if he is a gentle person, I would like to resign, but if I think I am more gentle than An Quoc, I should not appoint An Quoc. If you were both generals, what would happen at court?
|
Bài làm
Tiếng đàn của người ca kĩ được Bạch Cư Dị miêu tả hết sức cụ thể sống động. “Tì bà hành” đã thực sự thể hiện rõ bản chất của thể hành, chỉ thông qua tiếng đàn.
Ngay từ lúc đầu:
Đàn ai nghe vẳng bên tai
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi
Thì tiếng đàn ấy hiện ra, mang một sức cuốn hút kì lạ. Không! Đó là lẽ tự nhiên của một cuộc chia tay giữa hai người bạn trong một đêm khuya thanh vắng không có tiếng sáo, tiếng đàn. Sau đó là những lời:
Mời mọc mãi thất người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn chi nửa mặt hoa
Để từ đó, tiếng đàn bật lên, gây ra một ấn tượng, một tác động mạnh mẽ đối với người nghe:
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoáng bay
Rồi đi saua vào trong những tiết tấu của âm thanh. Bạch Cư Dị miêu tả dồn dập tiếng đàn ấy. Ông nghe được cả những âm sắc lạ lùng, những nốt lắng, những cái đột biến bất thường trong từng giai điệu. Giữa hai đợt là một khoảng im ắng và dường như nó đã chia đôi, chặt đứt cuộc đời người ca kĩ. Đây, dòng suối xuân thơm mát, ngọt ngào, những tiếng nảy ngọc của hạt châu, của mâm vàng, tiếng róc rách rồi ào ạt của dòng suối. Tất cả đều gợi lên một cái gì đó hết sức trẻ trung, phơi phới sức sống. Tiếng đàn không chỉ dừng lại ở đây mà nó còn là chính tâm sự của người gảy. Cuộc đời người ca kĩ hòa vào tiếng đàn. Đó là những tháng ngày hạnh phúc, cái “tài” và cái “tâm” êm đẹp như dòng suối xuân. Nhưng sau đó lại là sự đột biến. Dòng suối ấy tự dung đông cứng lại, cái giá lạnh của băng tuyết trong tiếng đàn dễ làm người ta thất vọng trong đỉnh điểm của nó. Cuộc sống đang vươn tới những gì tươi đẹp nhất thì lại gặp bất trắc hết sức bất ngờ. Nhân vật trữ tình như hụt hẫng trước thực tại, người nghe chơi vơi trong cái se lạnh ấy của dòng suối băng, tâm hồn dường như muốn chống lại cái mâu thuẫn ấy để thoát khỏi tâm trạng ngậm ngùi với cuộc đời người ca kĩ. Chính lúc ấy, nốt lặng như một cơn mưa lũ bị đập chắn ngang lại. Thực ra nó lại càng hay hơn là tiếng nhạc lúc này. Nốt lặng ấy, có thể ví như một khoảng yên lặng giữa hai cơn going tố để sau đó nó bùng lên và càng dữ dội hơn, điên cuồng gào thét hơn.
Phân tích đoạn thơ miêu tả tiếng đàn lần thứ hai trong Tì Bà Hành
Nốt lặng của âm nhạc được đặt đúng chỗ, đúng lúc để mà con người có thể tiếp tục suy tưởng với những ý nghĩ riêng, dường như đang quên mình, tan biến vào trạng thái hư không thăm thẳm của vũ trụ. Nốt lặng ấy, chấm dứt một đoạn đời tươi đẹp kết thúc bằng sự trở ngại để mở ra một cái gì dường như là một thế lực đen tối nào đó. Người nghe cũng dường như cảm nhận được điều ấy nên càng nghe chăm chú. Ở đây Bạch Cư Dị đã nhận ran gay sau nốt lặng ấy là tiếng dao, tiếng búa, tiếng binh đao. Tiếng đàn ấy kéo con người ra khỏi những suy tưởng để quay về với thực tại. Cuộc đời ngày xưa còn đâu! Bây giờ chỉ còn lại sự nối tiếc… nhưng hình như người ca kĩ trên bến Tầm Dương cũng không được phép nối tiếc quá khứ vì hiện tại chợt đến như một bóng ma bất ngờ gieo rắc nhiều tai họa, phá tan đi hạnh phúc của một đời người. Tiếng đàn không còn ấm êm như trước, âm sắc không còn trong trẻo mà rắn đanh lại, dồn dập và kết thúc hết sức bất ngờ. Cô gái quẹt mạnh vào sợi dây đàn tạo ra một âm thanh chat chúa nghe như tiếng xé lụa. Ôi! Mảnh lụa bị xé ấy chẳng phải là sự phũ phàng cả cuộc đời của những kẻ không biết đến cái đẹp, cái thâm thúy của tâm hồn? Và vì thế, nó đã gọi mời người ta hãy mau mau trở về với thực tại, dù thực tại ấy có đau đớn đến đâu chăng nữa. Nhưng
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắng lòng sông
Họ vẫn mải mê chìm đắm trong tiếng nhạc. Cả trăng, cả sông cũng thế. Thiên nhiên dường như chết lặng đi, dòng sông không chảy mà đông cứng lại và dường như mặt trăng không còn cái “thần” của nó, nó như đã chết dưới lòng sông.
Hiệu quả của tiếng đàn quả là hết sức ghê ghớm. Không chỉ Bạch Cư Dị mà tất cả mọi người lúc ấy đều nhận được tiếng đàn. Tuy miêu tả trực tiếp tiếng đàn tì b, nhưng ta có thể cảm nhận được những âm sắc khác nhau của những loại nhạc cụ khác nhau trong từng âm thanh. Tiếng đàn ấy có hiệu quả còn mạnh hơn cả lần Thúy Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe. Tiếng đàn của Kiều làm cho Kim Trọng:
Khi tựa gối khi cúi đầu
|
Assignment
The sound of the singer's instrument was described very vividly by Bach Cu Di. “Pipa action” really shows clearly the nature of practice, just through the sound of the instrument.
Right from the start:
Who can hear it in their ears?
The owner was relieved, the guests continued to use it
Then the sound of the instrument appeared, carrying a strange attraction. Are not! It was the natural course of a farewell between two friends on a quiet night without the sound of flute or guitar. Then came the words:
Inviting people forever makes people confused
Hand holding a flower-faced organ
From there, the sound of the piano emerges, causing an impression, a strong impact on the listener:
Even though it's not yet, the love song's momentum is fleeting
Then go into the rhythms of the sound. Bach Cu Di quickly described the sound of the instrument. He could hear strange timbres, quiet notes, and unusual mutations in each melody. Between the two waves there was a period of silence and it seemed to have divided the singer's life in half, cutting off the life of the singer. Here, the fresh, sweet fragrant spring stream, the bouncing sounds of pearls, the golden tray, the gurgling and rushing sound of the stream. They all evoke something very youthful and full of vitality. The sound of the guitar does not stop here, but it is also the sentiment of the person playing it. The life of a singer blends into the sound of the instrument. Those were happy days, my "talent" and "mind" were as smooth as a spring stream. But then came the mutation. That stream suddenly froze, the coldness of ice and snow in the sound of the piano easily disappointed people in its climax. Life is reaching for the most beautiful things, then encountering extremely unexpected difficulties. The lyrical character seems to be disappointed with reality, the listener is lost in the coldness of the ice stream, the soul seems to want to fight against that contradiction to escape the feeling of sadness towards the singer's life. At that moment, the note was as quiet as a flood that was blocked by a dam. In fact, it's even better than the music right now. That note of silence can be compared to a moment of silence between two storms that then flare up and become even more intense, screaming more frantically.
Analyze the poem describing the second sound of the instrument in Pi Ba Hanh
The quiet notes of music are placed in the right place at the right time so that people can continue to think with their own thoughts, seemingly forgetting themselves, disappearing into the deep nothingness of the universe. That note of silence, the end of a beautiful life that ended with an obstacle to open up what seemed to be some dark force. The listener also seems to feel that so they listen even more attentively. Here, Bach Cu Di realized that behind that note of silence were the sounds of knives, hammers, and soldiers. The sound of the instrument pulls people out of their thoughts and back to reality. Where is the old life? Now only regret remains... but it seems that the singer on Tam Duong wharf is not allowed to regret the past because the present suddenly comes like an unexpected ghost, spreading many disasters, destroying the happiness of a human life. The sound of the guitar is no longer as warm and smooth as before, the timbre is no longer clear but is sharper, more intense and ends very unexpectedly. The girl swiped hard at the string, creating a loud sound like the sound of silk tearing. Oh! Isn't that torn piece of silk the cruelty of the whole life of those who do not know the beauty and profundity of the soul? And so, it invites people to quickly return to reality, no matter how painful that reality is. But
The boat with some east and west leaves was silent
A moon in the empty riverbed
They were still engrossed in the music. Neither the moon nor the river. Nature seemed to be dead silent, the river did not flow but froze and it seemed that the moon no longer had its "god", it seemed dead in the riverbed.
The effect of the sound of the instrument is truly formidable. Not only Bach Cu Di but everyone at that time received the sound of the instrument. Although it directly describes the sound of the guitar, we can feel the different timbres of different musical instruments in each sound. That sound was even more effective than the time Thuy Kieu played the piano for Kim Trong. Kieu's guitar sound made Kim Trong:
When leaning on your knees and bowing your head
|
Bài làm
Sông Bạch Đằng là nơi ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của quân dân Đại Việt trong sự nghiệp bảo vệ đất nước. Năm 938, Ngô Quyền đã phá tan quân Nam Hán, giết chết tướng giặc Hoằng Thao. Năm 1288, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Nguyên – Mông, bắt sống tướng giặc Ô Mã Nhi, đốt cháy nhiều chiến thuyền của chúng.
Năm mươi năm sau chiến thắng lẫy lừng ấy, tôi đã đến thăm nơi đây trên chiếc thuyền buồm căng gió, lướt nhẹ trên sóng nước. Thuyền qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều. Trước mắt tôi là dòng sông Bạch Đằng bát ngát sóng xô, mênh mang trời nước. Màu nước xanh hòa với màu trời xanh, tạo thành một không gian vô tận đặc trưng của mùa thu.
Hai bên bờ sông, lau lách mọc dày san sát, khung cảnh bến bãi đìu hiu. Tưởng như dưới mặt sóng kia là tầng tầng giáo gãy, gươm chìm ; dưới gò hoang kia là lớp lớp xương khô của quân xâm lược. Tôi đứng lặng giờ lâu trước dòng sông, bồi hồi nhớ đến quá khứ oanh liệt thuở nào. Ôi! Dấu vết các trận đánh vẫn còn đây mà anh hùng đâu vắng?
Chợt có mấy vị bô lão đang tiến đến gần. Một cụ già tay chống cây gậy lê vái chào tôi rồi thưa rằng: “Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh (tức vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông) bắt sống tướng giặc hung hãn ô Mã Nhi trong trận Bạch Đằng vào năm 1288. Cũng là nơi thuở trước Ngô Quyền phá tan đạo quân của Hoằng Thao và giết chết hắn. Đương khi ấy, thế giặc rất mạnh, thuyền bè muôn đội, tỉnh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói. Trận giao chiến dữ dội kéo dài khiến nhật nguyệt cũng phải mờ, trời đất cũng phải đổi. Những tưởng quân cướp nước cậy có tướng giỏi, quân đông, chỉ cần gieo roi một lần là có thể quét sạch Nam bang bốn cõi. Thế nhưng Trời chẳng chiều ý lũ hung đồ nghịch tặc chuyên cướp nước người. Quân dân Đại Việt đã đánh cho chúng tan tác tro bay, chẳng khác chi Chu Du (thời Tam quốc bên Trung Hoa) đã dùng kế hỏa công của Gia Gát Lượng đốt cháy bao chiến thuyền của Tào Tháo trên quãng sông Dương Tử gần núi Xích Bích. Hay giống như trận Hợp Phì, tướng Tạ Huyền đã đánh tan một trăm vạn quân giặc Bồ Kiên.
Nước sống Bạch Đằng vẫn mải miết chảy hoài mà mối nhục của quân thù khôn rửa nổi. Quả là kể từ khi có vũ trụ, giang san, Trời đã cho dân tộc Đại Việt thế đất hiểm yếu để có thể giữ gìn xã tắc. Các vua Trần đã một lần nữa lập nên chiến công hiển hách, làm rạng rỡ truyền thống oai hùng của tổ tiên. Tiếng thơm mãi mãi còn lưu trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Ngắm sông Bạch Đằng, lòng tôi dâng lên một cảm xúc khó tả: vừa hổ thẹn là mình chưa xứng đáng với tiền nhân, vừa bâng khuâng nhớ người xưa. Tức cảnh sinh tình, tôi ngâm nga mấy vần thơ bày tỏ suy nghĩ của mình:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Mấy vị bô lão cũng hứng khởi tiếp rằng:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
|
Assignment
Bach Dang River is a place that marks many glorious victories of Dai Viet's army and people in the career of protecting the country. In 938, Ngo Quyen destroyed the Southern Han army and killed enemy general Hoang Thao. In 1288, Hung Dao Vuong Tran Quoc Tuan defeated the Yuan - Mongol army, captured enemy general O Ma Nhi, and burned many of their warships.
Fifty years after that glorious victory, I visited this place on a windy sailboat, gliding gently on the waves. The boat passes through Dai Than estuary, back to Dong Trieu wharf. In front of my eyes is the immense Bach Dang river with rushing waves, vast sky and water. The blue water color blends with the blue sky, creating an endless space typical of autumn.
On both sides of the river, reeds grow thickly close together, the scenery of the wharf is desolate. It seemed like beneath the waves there were layers upon layers of broken spears and sinking swords; Under that deserted mound are layers of dry bones of the invaders. I stood silently for a long time in front of the river, remembering my glorious past. Oh! Traces of the battles are still here, but where are the heroes?
Suddenly a few elders were approaching. An old man leaning on a stick in his hand bowed to me and said: "This is the battlefield where Trung Hung's two saints (father King Tran Thanh Tong and his son Tran Nhan Tong) captured alive the fierce enemy general O Ma Nhi during the war. Battle of Bach Dang in 1288. It was also the place where Ngo Quyen destroyed Hoang Thao's army and killed him. At that time, the enemy was very strong, there were many boats, and the province's flags were fluttering.
Six armies, spears and swords shining brightly. The fierce battle lasted so long that the sun and moon were dimmed and the sky and earth changed. Those who thought that the country's robbers would rely on good generals and a large army would be able to wipe out the four realms of the Southern state with just one whip. But God does not please the will of these villains and bandits who specialize in robbing people's countries. Dai Viet's army and people defeated them to pieces, just like Chu Du (during the Three Kingdoms period in China) used Gia Gad Luong's fire technique to burn many of Cao Cao's warships on the Yangtze River near the mountain. Xich Bich. Or like the battle of Hop Phi, general Ta Huyen defeated one hundred thousand Bo Kien enemy troops.
Bach Dang's living water is still flowing endlessly, but the enemy's humiliation cannot be washed away. It is true that since the beginning of the universe, God has given the Dai Viet people a dangerous land to be able to maintain social order. The Tran kings once again achieved glorious victories, illuminating the heroic tradition of their ancestors. The fragrance will forever be preserved in the history of building and defending the country.
Looking at the Bach Dang River, an indescribable feeling arose in my heart: both ashamed that I was not worthy of my ancestors, and wistfully missing the past. Feeling angry, I recited a few verses expressing my thoughts:
Dang River is a long strip,
Huge waves rush to the East Sea.
The unjust perish,
In a thousand years, only heroes will remain famous.
Several elders also excitedly continued:
Honor the two holy soldiers,
The river here washed the armor several times.
|
Bài làm:
Có ai trên đời chưa một lần nếm hương vị của tình yêu, dẫu biết yêu là chết ở trong lòng một ít (Xuân Diệu)
Tình yêu – chỉ hai chữ đơn giản vậy mà đã làm hao tốn bao giấy mực của văn nhân, thi sĩ, triết gia… từ xưa đến nay bởi nó đã trở thành đề tài muôn thuở của con người. V. Hugo đã khẳng định: Tình yêu là bông hoa, cuộc đời là mật ngọt Vai trò của tình yêu lớn lao như vậy nhưng bản chất của nó là gì? Bàn về vấn đề này, F. Sile – nhà văn Đức thế kỉ XVIII cho rằng: Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được hạnh phúc.
Nếu hiều tình yêu với nghĩa hẹp là tình yêu nam nữ thì trước hết và cơ bản nó là chuyện của con tim. Tình yêu lứa đôi của trai gái là một thứ tình cảm hoàn toàn tự nhiên. Không nói đến những trường hợp tình yêu nảy sinh đột ngột như sét đánh, còn bình thường, nó là một sự cảm thông dần dần và một sự thẩm thấu có quá trình.
Bắt đầu bằng sự gần gũi, bằng những cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, sự ngượng ngùng rồi quen thân, rồi thương vì nết, trọng vì tài. Cái tài ăn nói có duyên, cái nụ cười như thể hoa ngấu… đều có vai trò mở đường vào con tim. Thế là tình yêu đến lúc nào không hay.
Vậy tình yêu là gì?
Cùng với F. Sile, biết bao nhà văn đã nói về tình yêu. Stendal nói: Một nửa và là một nửa đẹp nhất của cuộc đời vẫn là khép kín với những ai chưa từng yêu say đắm. V. Hugo viết: Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt. Và Tolstoi thì khẳng định: Tình yêu biến những điều vô nghĩa của cuộc đời thành có ý nghĩa, làm cho những bất hạnh thành hạnh phúc. Còn Dostoievski hùng hồn tuyên bố: Tình yêu là sức mạnh toàn năng đến mức nó tái sinh chính bản thân ta. Nhưng cũng có một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi. Nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng đã viết: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?
Tự nhiên như hơi thở, cần thiết như cơm ăn áo mặc hằng ngày, thế nhưng tình yêu là gì thì khó ai giải thích nổi. Sức quyến rũ ghê gớm của nó có lẽ là ở chỗ đó chăng? Chỉ biết: Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi, thấy người mình yêu đẹp hơn, cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn.
Vẻ đẹp trong trắng của nàng Juliet đã gọi chàng Romeo si tình đến với nàng trong tiếng hót của chim dạ loan, bất chấp ngang trái cách ngăn của hai dòng họ. Tình yêu mạnh lắm, mạnh hơn cả oán thù!
Dáng dấp phong nhã, hào hoa của Kim Trọng đã khiến nàng Kiều phải liếc mắt ghé theo dù khách đã lên ngựa. Và bước chân nàng Kiều xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang tình tự với người yêu cho đến nay vẫn còn làm cho bao kẻ giật mình sửng sốt.
Hiểu nhau càng sâu thì độ dày của tình yêu càng tăng, hoa tình yêu càng nở đẹp. Và bấy giờ thì hai người như đã hòa làm một. Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu. Yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Người xưa có câu: Nhất nhật bất kiến như tam thu hề. (Một ngày không gặp nhau dài tựa ba thu). Ca dao cũng có câu hỏi bâng quơ: Gió sao gió mát sau lưng, Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này? Khi yêu nhau, người ta luôn mong muốn được gặp nhau, gần nhau:
Nơi nào em cũng nghĩ,
Hướng về anh – một phương.
(Xuân Quỳnh)
Những người đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, dành cho nhau những tình cảm, ý nghĩ tốt đẹp nhất. Họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưởi ấm cho nhau.
Tình yêu gắn với niềm say mê, sự đam mê mãnh liệt cháy bỏng và không giới hạn. Nó không chấp nhận sự hững hờ, lạnh nhạt. Nét đặc trưng nhất của tình yêu là vậy. Trương Chi nổi sóng tình trước nhan sắc kiều diễm của Mị Nương thì Kim Trọng cũng sóng tình lai láng trước vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thúy Kiều. Còn người bình dân thì Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.
Dường như khi yêu, trong con người cháy lên ngọn lửa thiêu đốt những cái tầm thường để những người đang yêu gần nhau hơn, trân trọng nể vì nhau hơn. Tình yêu chân chính không có chỗ cho sự tính toán vị kỉ, nhỏ nhen mà chỉ có sự quên mình, hi sinh cho nhau.
Khi yêu, người ta mang đến cho nhau hạnh phúc. Đó là sự sung sướng, là niềm vui và người ta cảm thấy mình có ích, cuộc đời của mình thật ý nghĩa.
Hạnh phúc đến với Thuý Kiều thì ngón đàn bỗng nhiên dạt dào thành: Tay tiên gió táp mưa sa, chỉ trong giây phút mà hồn thơ tuôn chảy thành lời lời châu ngọc. Hạnh phúc khiến cho tiếng đàn của nàng lúc thì thành tiếng sắt tiếng vàng, lúc thì thành lời thủ thỉ, quyến rũ của tiếng chim yêu đương, mời gọi… Hạnh phúc khiến cho Kim Trọng sung sướng khi được thưởng thức tài nghệ tuyệt vời của người yêu và cảm thấy mình may mắn tột đỉnh bởi được sánh vai với một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều.
Một lứa đôi trai tài gái sắc gắn bố từ độ sâu của tâm hồn như thế, nếu được chung sống với nhau, họ sẽ đem lại cho nhau biết bao hạnh phúc!
Những người đang yêu thường lo lắng cho nhau, đón trước ý nghĩ, ý thích của nhau để làm một cái gì đó đem lại niềm vui cho người mình yêu trong cuộc sống hằng ngày. Trước kia, Kim Trọng: Rắp tâm treo ấn từ quan, Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua để tìm cho được Thúy Kiều nhằm đền bù lại cho nàng chuyện tình duyên dang dở. Chúng ta cũng đã nghe giai thoại Tú Xương dán đôi câu đối Tết, nghe bà Tú khen mà ông thấy sung sướng trong lòng: Rằng hay thì thực là hay, Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài?
Tình yêu đến độ chín sẽ thành niềm say mê chân chính – niềm say mê làm cho người khác được hạnh phúc – là vậy.
Ỏ đời, không phải không có những niềm say mê ích kỉ, những tình yêu tầm thường: ghen bóng ghen gió, hiểu lầm đến mức giết chết tình yêu, hoặc mạo danh tình yêu để vụ lợi cho mình, không nghĩ gì đến đau khổ cho người, thậm chí đến chuyện tan vỡ hạnh phúc của người khác. Cái đó không thể gọi là tình yêu bởi vì nó chỉ làm cho hai tiếng tình yêu thiêng liêng bị tầm thường hóa đi mà thôi.
Tình yêu chân chính sẽ làm cho con người thêm yêu cuộc sống, thôi thúc ước mơ và nâng người mình yêu lên một giá trị cao hơn, để hướng tới một tương lai tốt đẹp. Lê-nin đã nói về tình yêu: Tình yêu là ngọn lửa nồng nhiệt, nhưng đừng để nó thiêu cháy sự nghiệp. Đây cũng là lời nhắc nhở hữu ích dành cho các cô gái, chàng trai đang yêu nhau say đắm.
Tuy vậy, tình yêu không chỉ giới hạn trong phạm vi nam nữ. Con người cần có những tình yêu lớn như tình yêu gia đình, bè bạn, yêu cuộc đời, quê hương, đất nước. Đặt trong tình yêu lớn, ý nghĩa của tình yêu lứa đôi và hạnh phúc gia đình mới thật sự cao đẹp, lớn lao.
|
Assignment:
Is there anyone in the world who has never tasted the taste of love, even though they know that love means dying a little inside (Xuan Dieu)
Love - just two simple words has wasted a lot of paper and ink on writers, poets, philosophers... from ancient times to the present because it has become an eternal topic for humans. V. Hugo affirmed: Love is a flower, life is honey. The role of love is so great, but what is its nature? Discussing this issue, F. Sile - 18th century German writer said: Love is the passion to make others happy.
If we understand love in the narrow sense as love between men and women, then first and foremost it is a matter of the heart. The love between a boy and a girl is a completely natural feeling. Not to mention the cases where love arises suddenly like lightning, but normally, it is a gradual understanding and a process of absorption.
It starts with closeness, with gestures, eyes, smiles, shyness, then familiarity, then love because of character, respect because of talent. The charming way of speaking, the smile like a flower... all play a role in opening the way to the heart. So love comes without realizing it.
So what is love?
Along with F. Sile, many writers have talked about love. Stendal said: Half and the most beautiful half of life is still closed to those who have never loved passionately. V. Hugo wrote: In a world without people who know how to love, the sun will go out. And Tolstoi affirmed: Love turns the meaningless things of life into meaning, turns misfortune into happiness. And Dostoievski eloquently declared: Love is such an omnipotent force that it regenerates ourselves. But there is also a classic French poet who once said: Love is something that people cannot understand. Romantic poet Xuan Dieu also wrote: How to explain love?
As natural as breathing, as necessary as daily food and clothing, but it is difficult for anyone to explain what love is. Maybe that's where its terrible charm lies? Just know: Since falling in love, flowers bloom forever, seeing the person you love is more beautiful, your life is more meaningful.
Juliet's pure beauty called the love-struck Romeo to her in the song of the nightingale, despite the conflict between the two families. Love is very strong, stronger than hatred!
Kim Trong's elegant and gallant appearance caused Kieu to glance over even though the guest was already on the horse. And the footsteps of the tattooed Kieu walking through the garden alone late at night to make love with her lover still make many people startled and shocked to this day.
The deeper we understand each other, the greater the thickness of love and the more beautiful the flower of love blooms. And then the two of them seemed to have become one. Love and memory are two sides of love. If you love passionately, remember passionately. There is an ancient saying: A single day without seeing is like a clown in three autumns. (A day without seeing each other is as long as three autumns). The folk song also has a casual question: Why is the wind so cool behind my back? Why do I miss such a stranger? When people love each other, they always want to meet each other and be close to each other:
Everywhere I think,
Towards you – one direction.
(Xuan Quynh)
People in love always look towards each other, giving each other the best feelings and thoughts. They are the sun that shines and warms each other all their lives.
Love is associated with passion, intense and unlimited passion. It does not accept indifference or coldness. That is the most characteristic feature of love. Truong Chi was in love with the beautiful beauty of Mi Nuong, while Kim Trong was also in love with the beauty of Thuy Kieu. As for ordinary people, they also climb three or four mountains in love, wade five six rivers, and cross seven or ninety passes.
It seems that when in love, a fire burns within people to burn away trivial things so that those in love can be closer to each other and respect each other more. True love has no room for selfish or petty calculations, but only self-forgetfulness and sacrifice for each other.
When people love, they bring each other happiness. It is happiness, joy and people feel that they are useful and that their life is meaningful.
When happiness came to Thuy Kieu, the piano's fingers suddenly burst into life: The hands of the wind and fairy caught the rain, and in just a moment, the soul of poetry flowed into pearly words. Happiness makes the sound of her guitar sometimes become the sound of iron and gold, other times it becomes the seductive whisper of a love bird, inviting... Happiness makes Kim Trong happy to enjoy his wonderful talent. of her lover and feels incredibly lucky to be able to rub shoulders with a talented young woman like Thuy Kieu.
A beautiful couple of young men and women who bond from the depths of their souls. If they live together, they will bring each other so much happiness!
People in love often worry about each other, anticipate each other's thoughts and preferences to do something to bring joy to the person they love in everyday life. In the past, Kim Trong: He was determined to hang the seal from the mandarin. He had to wade through several rivers and thousands to find Thuy Kieu to compensate her for his unfinished love affair. We have also heard the anecdote of Tu Xuong pasting couplets for Tet. Hearing Mrs. Tu's praise, he felt happy in his heart: If it's good, it's really good. If it's not good, why did he pass the baccalaureate right away?
Love when mature will become true passion - the passion to make others happy - that's it.
In life, it is not without selfish passions and trivial loves: jealousy, misunderstanding to the point of killing love, or impersonating love to benefit yourself, without thinking about pain. suffering for others, even to the point of destroying the happiness of others. That cannot be called love because it only makes the two sacred words of love trivialize.
True love will make people love life more, inspire dreams and raise the person they love to a higher value, towards a good future. Lenin said about love: Love is a passionate fire, but don't let it burn your career. This is also a useful reminder for girls and boys who are passionately in love.
However, love is not limited to men and women. People need to have great loves such as love for family, friends, love for life, homeland, and country. Placed in great love, the meaning of couple's love and family happiness is truly noble and great.
|
Bài làm
Chúng ta ai cũng lớn lên bởi những câu ca dao, những câu hát à ơi của bà, của mẹ. tiếng hát qua những câu ca dao như đi qua lũy tre làng, thấm được trong từng ngõ nhỏ của cuộc sống, những cánh cò bay lả lơi, nơi nuôi ta khôn lớn qua từng năm tháng. Và có lẽ, ca dao đã trở thành những điều không thể thiếu trong cuộc sống của những đứa trẻ lớn lên bởi tình thương yêu nơi nông thôn. Có lẽ ai cũng sẽ nhớ tới hình ảnh của những người phụ nữ đã xuất hiện trong những câu thơ, câu ca dao. Đó là hình ảnh của những người phụ nữ, ngày ngày vất vả, chịu đựng hi sinh miếng cơm manh áo cho chồng cho con những luôn mang trong mình những đức tính trong sáng, thiện tâm, giàu đức hi sinh. Nơi đó, ta không thể quên được hình ảnh những con cò thân gầy ngày ngày lặn lội.
Trong nền văn học nói chung và trong những bài ca dao xưa, hình ảnh của những người phụ nữ có lẽ đã là những hình ảnh không thể quên và tiêu biểu cho một kiếp người trong xã hội. Trong xã hôi phong kiến, người phụ nữ có địa vị thấp nhất trong xã hội, họ phải chịu những định kiến hà khắc trong xã hội, những tư tưởng mà tưởng chừng đơn giản nhưng chúng lại giam hãm cả cuộc đời của người phụ nữ.
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày
Hay
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ ngoài chợ biết vào tay ai
Người phụ nữ khi ấy phải theo quan niệm|” tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. bởi vậy, họ không có quyền quyết định cuộc sống cho chính bản thân mình. Khi chưa đi xuất giá, họ phải nghe theo tất cả sự chỉ đạo của người làm cha. Người cha ấy mà có yêu thương, bảo vệ họ hay không còn tùy theo từng hoàn cảnh. Có những khi những người con gái cũng chỉ có thể là công cụ cho những người làm cha, làm chú trao đổi lợi ích của chính mình. Khi xuất giá, theo quan điểm” cha mẹ đặt đâu con nằm đó” có những lúc chính những người con gái ấy lại không thể biết ai mới là người mà mình sẽ chung sống suốt đời. thời kì phong kiến, không hiếm những người con gái không hề biết mặt chồng của mình như thế nào chứ không nói đến được tìm hiểu về nhân phẩm, tính cánh. Thế mới nói, đó chính là cái bi ai của những người phụ nữ. bởi vì thế, họ luôn khóc thầm cho cuộc sống vợ chồng mà không tình yêu của mình. Ai may mắn, gặp được người chồng yêu mình tha thiết, họ được sống như một “ tiểu thư đài các”, được yêu thương, che chở. Thế nhưng nếu như không may mắn, cuộc đời của họ như bước vào những góc tối mà chính bản thân họ cũng không thể phản kháng lại được. bởi vậy thời kì này, không thiếu những câu ca dao nói về sự đau đớn, tủi nhục của người phụ nữ. họ luôn ngóng trông ngày trở về quê mẹ:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò
Hay chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Mỗi khi nhớ nhà, nhớ mẹ mà không thể làm như thế nào. Những người làm con phải đi lấy chồng có khi phải xuất giá từ lúc còn rất nhỏ. Có lẽ chính các nàng cũng không biết, lấy chồng là như thế nào. ấy vậy mà nàng phải chịu đựng sự khắt khe của mẹ chồng và cả gia đình của chồng. Mỗi bước đi đầy chông gai, khó khăn. Bởi vậy mà đã có những câu thơ” bưng bát nhà giàu nước mắt chứa chan”. trong chế độ cũ, người mẹ chồng thường là “nỗi sợ” của những người con gái mới về làm dâu trong gia đình bởi quan niệm họ đã “mua “ những người con dâu về để phụ giúp gia đình nhà chồng cũng như người làm trong gia đình họ chứ đó đâu có phải là tình yêu thương của con người với con người với nhau. Đây cũng không còn là tình yêu đôi lứa được chấp nhận nữa mà chỉ là sự mua bán, trao đổi của hai bên mà thôi. Và người phải chịu thiệt thòi, không ai khác chính là những người phụ nữ đáng thương không về có sức phản kháng ấy.
Con cò lặn lội bờ sông
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Hay ông ơi ông vớt tôi nào
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Chớ xáo nước đục đau lòng cò con
Hình ảnh của con cò có lẽ là hình ảnh phản ánh rõ nét nhất hình ảnh của những người phụ nữ. những con cò luôn mang tấm thân gầy guộc, phải đi kiếm ăn trong những đêm lạnh vắng mà không có ai ở bên cạnh. Có những khi, họ phải tất bận với công việc, vì chồng, vì con. Thế nhưng dù có phải chịu cuộc sống đau khổ như thế nào thì những con người ấy vẫn luôn giữ được tấm lòng son sắt. “có xáo thì xáo nước trong”. Tấm lòng của họ như lay động cả những người đọc như chúng ta. Dù có phải chịu cuộc sống khắc nghiệt tới đâu, thế nhưng người phụ nữ vẫn kiên quyết giữ trọn phẩm giá của mình. Đó là một trong những đặc tính tốt đẹp nhất của người phụ nữ việt nam. Đẻ rồi, khi có con, họ lại cố gắng vun đắp cho con cái có được cái ăn, cái chữ dù cuộc sống của mình có vất cả tới đâu đi chẳng nữa.
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Thật khó để có thể đong được tình cha nghĩa mẹ và những đứa hi sinh của cha mẹ đã dành cho chúng ta
|
Assignment
We all grew up listening to folk songs and songs from our grandmothers and mothers. The singing through folk songs is like passing through the village bamboo, permeating every small alley of life, the fluttering stork wings, the place where we grow up over the years. And perhaps, folk songs have become indispensable in the lives of children who grew up loving the countryside. Perhaps everyone will remember the images of women appearing in poems and folk songs. That is the image of women who work hard every day, endure sacrificing food and clothes for their husbands and children, but always carry within themselves the virtues of purity, kindness, and the virtue of sacrifice. There, we cannot forget the image of skinny storks wandering around day after day.
In literature in general and in ancient folk songs, images of women are perhaps unforgettable and representative of a person's life in society. In feudal society, women have the lowest status in society, they have to endure harsh social prejudices, ideas that seem simple but they confine women's entire lives. .
My body is like falling raindrops
The seeds go into the plant and the seeds go to the plowed field
Good
Your body is like peach silk
Floating in the market, knowing whose hands it belongs to
Women at that time had to follow the concept." At home, obey the father, when married, follow the husband, and the husband obeys the son. Therefore, they do not have the right to decide their own lives. When they are not yet married, they must follow all the instructions of their father. Whether that father loves and protects them or not depends on each situation. There are times when daughters can only be tools for fathers and uncles to exchange for their own benefits. When getting married, according to the concept of "where the parents put their children, there are times when those girls themselves cannot know who they will live with for the rest of their lives. During the feudal period, it was not uncommon for girls to not know what their husband looked like, let alone learn about his dignity and character. That said, that is the sadness of women. Because of that, they always cry silently for their married life without love. Those who are lucky enough to meet a husband who loves them dearly can live like a "classy lady", loved and protected. But if they are unlucky, their lives will seem to enter dark corners that they themselves cannot resist. Therefore, during this period, there was no shortage of folk songs talking about the pain and humiliation of women. They always look forward to the day they return to their motherland:
In the afternoon, go out and stand by the river
I want to go back to my mother but I don't have a ferry
Or go out and stand in the back alley in the afternoon
Looking back to my mother's hometown is painful
Every time I miss home or my mother, I can't figure out what to do. Those who have children have to get married and sometimes have to leave the family at a very young age. Perhaps they themselves don't know what it's like to get married. Yet she had to endure the rigors of her mother-in-law and her husband's entire family. Every step is full of thorns and difficulties. That's why there are verses "carrying a bowl for a rich family filled with tears". In the old regime, the mother-in-law was often the "fear" of new daughters-in-law in the family because of the notion that they had "bought" daughters-in-law to help the husband's family as well as the workers. In their family, that is not the love between people and people. This is no longer accepted love between couples, but only a sale and exchange between two parties. And the people who suffer are none other than those poor women who have the strength to resist.
The stork wades along the riverbank
It's dark and gloomy, who will bring the stork home?
Hey sir, please save me
I have no heart, he just shoots disturbance
If there is disturbance, the water is clear
Don't disturb the turbid water that hurts the stork's heart
The image of the stork is perhaps the image that most clearly reflects the image of women. Storks always have skinny bodies and have to go looking for food on cold nights without anyone by their side. There are times when they have to be busy with work, for their husbands, and for their children. But no matter how miserable their lives are, these people always maintain their strong hearts. "If there is disturbance, the water will be clear". Their hearts seem to move even readers like us. No matter how harsh life is, women are still determined to maintain their dignity. That is one of the best characteristics of Vietnamese women. After giving birth, when they have children, they try to make sure their children have food and literacy no matter how hard their lives are.
The father as a mountain
Motherhood is like water flowing from a source
It is difficult to measure the love of parents and the sacrifices they have made for us
|
Bài làm
Tết đến xuân sang là dịp thường diễn ra rất nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa lành mạnh như chúc Tết, mừng xuân, lễ hội truyền thống của các địa phương, các đình chùa nổi tiếng trong cả nước như hội chùa Hương, hội chùa Thầy, hội Gióng, hội Lim, hội phủ Giầy, lễ xuống đồng, lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương… Nhân dân nô nức tham gia để tiếp nhận luồng sinh khí dồi dào, vui đón một năm mới an lành, hạnh phúc.
Tết là dịp chủ yếu để những người thân trong gia đình, họ hàng sum họp, hàn huyên tâm sự, chia sẻ vui buồn, thành công hay thất bại trong năm vừa qua và trao đổi những dự định học hành, làm ăn trong năm tới.
Tuy vậy, bên cạnh những phong tục tốt đẹp cần gìn giữ và phát huy như đã nêu trên thì Tết cũng là dịp thuận tiện cho nhiều hủ tục, tệ nạn xã hội như thói tiêu xài phung phí, mê tín dị đoan, cờ bạc… phát triển.
Từ xưa, dân gian đã có câu: Khó quanh năm, giàu ba ngày Tết. Có nghĩa là dù quanh năm sống trong nghèo túng thì ba ngày Tết mọi người cũng phải cố sắm sửa sao cho tươm tất để tổ tiên, ông bà khỏi tủi và để đỡ mất mặt với hàng xóm láng giềng. Nhưng điều đó vẫn nằm trong mức độ khả năng kinh tế cho phép, chứ không đồng nghĩa với sự chi tiêu vung tay quá trán mà ngày nay nhiều người, nhiều gia đình mắc phải. Tết hoàn toàn không phải là dịp khoe giàu khoe sang, phô trương thanh thế để lòe thiên hạ. Thế nhưng hiện nay không ít người hiểu sai lệch về ý nghĩa của Tết. Họ đua nhau mua sắm, chất đầy nhà thức ăn, thức uống, cố tìm cho được những gì là quý, là lạ, bất chấp giá cả, chỉ cần tỏ ra ta đây là dân thừa tiền, sành điệu. Họ dám bỏ ra vài chục triệu để mua một cây mai hay một cây cảnh mà họ gọi là “hàng độc” để trưng chơi trong ba ngày Tết. Chi tiêu kiểu đó quả là xa hoa phung phí, trong khi xung quanh còn rất nhiều gia đình nghèo khổ, Tết đến chỉ mong lo được cho đàn con vài cái bánh tét, bánh chưng, vài bộ quần áo mới. Trong cảnh nghèo, nhiều gia đình chỉ có chén trà thay rượu khi tiếp khách và đồ nhắm là những câu chuyện, những tràng cười vui vẻ.
Ăn nhậu say xỉn cũng là một tệ nạn diễn ra liên miên trong dịp Tết. Lấy cớ vui Tết đón xuân, nhiều thanh niên, trung niên la cà hết chỗ nọ đến chỗ kia, nhà này sang nhà khác để gầy độ nhậu. Họ uống rượu, uống bia đến mức ỏi mửa, say xỉn không thể nhớ đường về nhà, thậm chí ngã vật ra tại chỗ không biết trời trăng là gì. Không những thế, họ nhậu từ trước Tết tới ngoài rằm tháng Giêng mà vẫn lai rai chưa hết. Ăn nhậu vô độ làm tốn tiền bạc, thời gian, sức khỏe và gây ra nhiều tai nạn giao thông. Thế là Tết vui hóa thành Tết buồn.
Người Việt có phong tục đi lễ đền, lễ chùa vào dịp Tết đến xuân sang để cầu cho quốc thái dân an hoặc cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên… hay thăm viếng các danh lam thắng cảnh của đất nước. Đây cũng là dịp để mọi người bày tỏ lòng biết ơn đối với trời đất, với các thế hệ tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước. Lợi dụng phong tục tốt đẹp này, nhiều kẻ vẽ vời ra trồ cúng kiểng, bói toán với những lời lẽ chung chung, vô căn cứ để kiếm tiền. Vậy mà vẫn có người tin để rổi không chịu cố gắng phấn đấu học hành, làm việc ; cứ mơ ước viển vông, trông đợi vào vận may hoặc tự chuốc lấy lo âu, sầu não. Rõ ràng là tiền mất tật mang. Điều đáng buồn cười là không ít vị có chức có quyền nhưng dính vào tham ô, hối lộ cũng đi lễ đền, lễ chùa để cầu cho tai qua nạn khỏi. Thử hỏi có Thần, Phật nào phù hộ độ trì cho những kẻ tội đầy mình, hại nước hại dân như thế!?
|
Assignment
The coming of Tet is an occasion where many healthy cultural activities often take place such as New Year wishes, spring celebrations, traditional festivals of localities, and famous pagodas and temples throughout the country such as Huong pagoda festival, pagoda festival. Thay, Giong festival, Lim festival, Giay festival, field going ceremony, Hung King's death anniversary festival... People enthusiastically participate to receive abundant vitality and welcome a peaceful and happy new year.
Tet is the main occasion for family members and relatives to gather, chat, share joys and sorrows, successes and failures in the past year and exchange plans for studying and doing business for the year. next.
However, besides the good customs that need to be preserved and promoted as mentioned above, Tet is also a convenient occasion for many bad customs and social evils such as wasteful spending, superstition, and gambling. … develop.
Since ancient times, people have had a saying: Hard all year round, rich on three days of Tet. This means that even though people live in poverty all year round, during the three days of Tet, everyone must still try to dress properly so that their ancestors and grandparents will not be embarrassed and to avoid losing face with their neighbors. But that is still within the level of economic ability, and does not mean the excessive spending that many people and families have today. Tet is absolutely not an occasion to show off your wealth or show off your prestige to show off to the world. But nowadays many people misunderstand the meaning of Tet. They raced to shop, filling their houses with food and drinks, trying to find precious and strange things, regardless of price, just to show that they were people with plenty of money and sophistication. They dare to spend tens of millions to buy an apricot tree or an ornamental tree, which they call "unique goods" to display during the three days of Tet. Spending like that is truly extravagant, while there are still many poor families around. When Tet comes, they only hope to be able to provide their children with a few banh tet, banh chung, and a few new clothes. In poverty, many families only have a cup of tea instead of wine when receiving guests and the snacks are stories and happy laughter.
Drinking and drinking is also an evil that occurs continuously during Tet. Under the pretext of celebrating Tet and welcoming spring, many young and middle-aged people wander from place to place, from house to house to drink. They drank wine and beer to the point of vomiting, were so drunk they couldn't remember the way home, and even collapsed on the spot not knowing what the sky and moon were. Not only that, they drank from before Tet until after the full moon of January and still hadn't finished drinking. Binge eating wastes money, time, health and causes many traffic accidents. So the happy Tet turned into a sad Tet.
Vietnamese people have the custom of going to temples and pagodas during Tet and spring to pray for peace in the country and people, or to pray for blessings, fortune, love, etc., or to visit the country's scenic spots. This is also an opportunity for people to express their gratitude to heaven and earth, and to the generations of ancestors who have contributed to building and defending the country. Taking advantage of this good custom, many people create decorative ornaments and fortune-telling with general, baseless words to make money. Yet there are still people who believe and then do not try to study or work; keep dreaming in vain, hoping for luck or causing yourself anxiety and sadness. Obviously, money is lost. The funny thing is that many people who have positions of power but are involved in embezzlement and bribery also go to temples and pagodas to pray for disaster recovery. I wonder if there are any Gods or Buddhas who protect and protect such sinners who harm the country and people like that!?
|
Bài làm
Tết Nguyên Đán là ngày đầu tiên của năm mới tính theo Âm lịch, là cái Tết cổ truyền xuất hiện từ lâu đời trên đất nước ta. Tết Nguyên Đán là điểm dừng của năm cũ, là điểm khởi đầu năm mới, từ mùa đông giá rét chuyển sang mùa xuân ấm áp. Đối với một nước nông nghiệp như nước ta thì các mùa gắn bó chặt chẽ với đời sống của con người. Mùa đông người dân thu hoạch lúa, khoai, chuẩn bị cày bừa để vào xuân cấy hái cho cây lúa sinh sôi nảy nở. Tết Nguyên Đán là dịp nghỉ ngơi, mọi người hoan hỉ đón mừng năm mới, dân gian gọi là ăn Tết, chơi xuân.
Ăn Tết vì quanh năm làm lụng vất vả, ăn uống kham khổ, chỉ có đến Tết mới mổ lợn, gói bánh… Câu đối: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ, Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh nói lên sự hòa quyện của đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong dịp Tết cổ truyền. Trong một câu đối vẻn vẹn có mười bốn chữ mà ông cha ta đã nói đến bao điều về phong tục tập quán, về ẩm thực, về tín ngưỡng… của người Việt xưa.
Trong dịp Tết Nguyên Đán thường diễn ra nhiều hình thức hoạt động văn hóa gắn liền,với phong tục tập quán chung của dân tộc và của từng vùng miền, từng địa phương khác nhau, phản ánh sự phong phú và đa dạng cùng bề dày văn hóa của đời sống tinh thần dân tộc Việt.
Giờ khắc thiêng liêng nhất của Tết Nguyên Đán là giao thừa đêm ba mươi trời đất giao hòa. Từng gia đình quây quần sum họp đón năm mới. Mọi người trò chuyện, hàn huyên về cái được, cái mất của năm qua và bàn bạc cách làm ăn sao cho năm tới tốt đẹp hơn.
Trên bàn thờ gia tiên bày biện bánh chưng, bánh tét, trái cây, hoa tươi, nhang, đèn… Gia chủ thắp nhang khấn vái trời đất, tổ tiên, cầu mong một năm mới an lành, may mắn. Trong phòng khách mỗi nhà đều có một cành đào hoặc cành mai, chậu cúc… để trưng trong ba ngày Tết cho thêm phần vui tươi.
Tục chúc Tết, mừng tuổi đầu năm cũng là một mỹ tục xuất hiện từ lâu đời. Sáng mùng Một Tết, mọi người trong gia đình mặc quần áo mới, tề tựu đông đủ để thực hiện nghi lễ chúc Tết và mừng tuổi. Con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ, chúc mạnh khỏe, sống lâu. Ông bà, cha mẹ chúc con cháu làm ăn tấn tới, học hành giỏi giang. Trẻ nhỏ được mừng tuổi bằng bao lì xì đỏ trong có ít tiền mới gọi là lộc với hàm ý may mắn, phát tài cả năm.
Ngày Tết, họ hàng, láng giềng, đồng nghiệp qua nhà nhau chúc Tết, tay bắt mặt mừng, thăm hỏi nhau, chuyện trò râm ran, tíu tít. Tình cảm con người làm cho buổi sáng mồng một Tết rực rỡ, sáng sủa hơn mọi ngày. Dân gian có câu: Mồng một Tết mẹ, Tết cha, Mồng hai Tết vợ, mồng ba Tết thầy, thể hiện nét đẹp văn hóa của người Việt. Mọi người mang theo những điều tốt lành suốt trong năm mới. Mọi điều không hay trong năm cũ đều được bỏ qua để quan hệ thân tộc, quan hệ xã hội… trong năm mới tốt đẹp hơn.
Bên cạnh đó là tục du xuân thăm viếng danh lam thắng cảnh, lễ đền lễ chùa trong dịp Tết. Dân tộc Việt xưa nay phần lớn theo nghề nông, quanh năm vất vả, sống phụ thuộc vào thời tiết, thiên nhiên. Trong những ngày Tết, nhân dịp nông nhàn mọi người tranh thủ du xuân thăm viếng danh lam thắng cảnh, thưởng ngoạn vẻ đẹp của quê hương, đất nước để tâm hồn lâng lâng thanh thản và được tiếp thêm sinh khí của mùa xuân. Các lễ hội gắn với những đền chùa nổi tiếng linh thiêng được Phật tử và khách thập phương từ khắp mọi miền đất nước đến thăm viếng, cầu cho quốc thái dân an, cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên trong năm mới.
|
Assignment
Lunar New Year is the first day of the new year according to the lunar calendar, a traditional Tet that has appeared for a long time in our country. Lunar New Year is the end of the old year, the beginning of the new year, from cold winter to warm spring. For an agricultural country like ours, the seasons are closely linked to human life. In winter, people harvest rice and potatoes, prepare to plow and harvest so that the rice plants can flourish in the spring. Lunar New Year is an opportunity to rest, everyone happily celebrates the new year, which people call Tet and spring play.
Celebrate Tet because you work hard all year round, eat sparingly, only during Tet do you slaughter pigs, wrap cakes... Couplets: Fatty meat, pickled onions, red couplets, Nem tree, fireworks, green banh chung speak for themselves. the blending of people's material and spiritual lives during the traditional Tet holiday. In a sentence of just fourteen words, our ancestors said many things about the customs, cuisine, beliefs... of the ancient Vietnamese people.
During the Lunar New Year, many forms of cultural activities associated with the common customs and traditions of the nation and of each region and locality often take place, reflecting the richness, diversity and depth of the Lunar New Year. culture of the Vietnamese nation's spiritual life.
The most sacred moment of the Lunar New Year is New Year's Eve, the thirtieth night of heaven and earth blending together. Every family gathers to celebrate the new year. Everyone chatted, talked about the gains and losses of the past year and discussed how to do business so that next year would be better.
On the ancestral altar, there are banh chung, banh tet, fruit, fresh flowers, incense, lamps... The homeowner lights incense to pray to heaven, earth, and ancestors, praying for a peaceful and lucky new year. In the living room, each house has a peach or apricot branch, a pot of chrysanthemums... to display during the three days of Tet to add joy.
The custom of wishing New Year and celebrating the beginning of the year is also a custom that has appeared for a long time. On the morning of the first day of the New Year, everyone in the family wears new clothes and gathers in large numbers to perform the New Year and New Year greetings ceremony. Children and grandchildren congratulate their grandparents and parents, wishing them good health and long life. Grandparents and parents wish their children and grandchildren to do well in business and study well. Young children are given lucky money with a red envelope containing a little money, which means good luck and fortune all year long.
On Tet, relatives, neighbors, and colleagues go to each other's houses to wish New Year, shake hands to celebrate, visit each other, and chat loudly and loudly. Human emotions make the morning of the first day of Tet brighter and brighter than any other day. There is a folk saying: The first day is the mother's New Year, the father's New Year, the second day is the wife's New Year, and the third day is the Teacher's Day, demonstrating the cultural beauty of the Vietnamese people. Everyone brings good things throughout the new year. All bad things in the old year are ignored so that kinship relations, social relations... in the new year will be better.
Besides, there is the custom of spring travel to visit scenic spots and attend temple ceremonies during Tet. The Vietnamese people have traditionally been mostly farmers, working hard all year round, living dependent on the weather and nature. During Tet days, on the occasion of leisure, people take advantage of spring travel to visit scenic spots, enjoy the beauty of their homeland and country so that their souls can be at peace and energized by spring. Festivals associated with famous sacred temples and pagodas are visited by Buddhists and visitors from all over the country to pray for peace in the country and people, for blessings, fortune, and love in the new year.
|
Bài làm
Sập bẫy của Tú Bà, Thúy Kiều phải vào lầu xanh với tâm trạng:
“Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Tại đây, Kiều gặp Thúc Sinh, người được xem là “tri âm” đối với Kiều. Nhưng vì nhu nhược, Thúc Sinh không giữ được Kiều khiến nàng lại rơi vào yay Bạc Bà, Bạc Hạnh, và phải làm gái lầu xanh lần nữa.
Cuộc đời Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn thì Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích (từ câu 2213 đến câu 22300 bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khí của Từ Hải.
Trong “Truyện Kiều”, nếu nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một biểu tượng cho cái đẹp tinh túy, lí tưởng của hiện thực cuộc sống thì nhân vật Từ Hải, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, lại được Nguyễn Du xây dựng như một hình tượng đầy tính chất lãng mạn, chất anh hùng ca. Mở đầu đoạn thơ.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Bốn câu thơ là lời của tác giả miêu tả về tâm trạng và hành vi của Từ Hải. Nhà thơ gọi Từ Hải là “trượng phu” – người đàn ông có tài, đáng trọng là đã thể hiện sự yêu quý trân trọng của ông với nhân vật này. Tình yêu và sự nghiệp, cả hai đều có trong con người của Từ Hải. Tình yêu ấy là “nửa năm hương lửa đương nồng”, sự nghiệp ấy là “động lòng bốn phương”. Những ngôn từ ước lệ ấy giúp người đọc nhận ra cả hai thứ tình ấy Từ Hải đều quý. Và chỉ ở bôn câu thơ trên mà xét thì “động lòng bốn phương”, muốn lập công danh sự nghiệp mạnh hơn “hương lửa đương nồng”. Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của một tráng sĩ “râu hùm, hàm én, mày ngài” đứng khoanh tay lặng hướng tầm mắt vào cõi xa xăm thì người đọc sẽ hiểu phần nào tâm trạng lúc này của con người:
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào”.
Những hình ảnh ước lệ, thậm xưng, đặc tả, kết hợp với các từ Hán Việt trang trọng, cùng với cách ngắt nhịp cân xứng, mạnh mẽ trong các dòng thơ chứa tầm vóc, tài năng, chí hướng nêu trên như đã khẳng định và in sâu tính cách một nhân vật phi thường với tâm hồn chứa chan lãng mạn ước mơ, tung hoành ngang dọc, muốn đổi thay thời thế nhân sinh… Trong ý nghĩa đó, phải chăng hình ảnh Từ Hải đã thành ước mơ khát vọng trong tâm hồn Nguyễn Du: Ông muốn cứu vớt đời Kiều, một tâm hồn, một vẻ đẹp, một tài năng tiêu biểu cho một tinh hoa của hiện thực cuộc đời?
Sau lời của nhà thơ viết về tâm trạng và quyết định của “trượng phu” là lời đối thoại của đôi vợ chồng. Kiều thì muốn hành động theo luân lí đạo Nho truyền thống nên đã tâm sự với Từ Hải:
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Kiều một lòng xin được theo Từ trên từng bước chàng đi cho tròn luân lí mà Nho giáo đã định ra: Là phận nữ nhi thì “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Ca dao ta cũng có câu:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Đây là về lí luận. Thật ra có lẽ Kiều xin theo Từ Hải là vì tình, là vì sau bao năm bị vùi dập bởi sóng gió lầu xanh Kiều đã tìm được người bạn tri âm.
Nhưng với Từ Hải thì khác. Chàng đã đáp lại:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Từ Hải đã có ý trách Kiều, nhưng đó là lời trách đầy yêu thương: Đã là người hiểu biết nhau sâu sắc đến vậy sao cứ giữ mãi nếp suy nghĩ nông cạn của người phụ nữ bình thường!
Sau lời trách nhẹ nhàng đầy tình thương yêu ấy, Từ Hải mới giải thích rõ ràng. Từ phải chiêu mộ binh sĩ giỏi, làm những việc xuất chúng. Người đọc có thể suy ra là Từ chiêu mộ tướng giỏi binh hùng để lập nước, trị quốc. Với ông việc như thế thì:
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đấy là một hiện thực trong đời của con nhà lính. Từ đã trình bày cho Kiều hiểu rõ ngọn nguồn. Đó là về lí, mà cái lí ấy Từ nêu ra cũng vì tình. Từ đã khuyên Kiều:
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Cùng với lời hứa:
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Với lí lẽ và lời hứa rõ ràng ấy chắc Kiều chẳng nói thêm được điều gì. Và dù có nói điều gì chăng nữa thì Từ Hải cũng:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bàng đã đến kì dặm khơi.
Mạnh dạn, dứt khoát và nhanh nhạy là vì nghĩa cùa hai câu thơ mang hình ảnh ước lệ trên. Đã một lần người đọc biết hành động cao đẹp nhanh gọn dứt khoát không tính toán của Từ Hải khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh. Nay cũng với tính cách ấy, Từ Hải hành động không chỉ vì tương lai của chàng mà còn vì cả Thúy Kiều. Trước mắt người đọc, hình ảnh Từ Hải cùng tinh binh phóng ngựa tiến về phía trước để lại đằng sau đám bụi mù thay cho hình ảnh ước lệ chim bằng bay lên cùng gió mây.
Đã hơn một lần Nguyễn Du tập trung khác họa chân dung Từ Hải. Một chân dung mà ngoại hình thật khác thường.
“Râu hùm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Một chân dung mà tài năng cái thế:
“Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”.
|
Assignment
Falling into Tu Ba's trap, Thuy Kieu had to enter the brothel with the following mood:
“Happiness is forced happiness lest,
Who is that confidant with whom?
Here, Kieu met Thuc Sinh, who was considered a "good friend" to Kieu. But because of his weakness, Thuc Sinh could not keep Kieu, causing her to fall into love with Bac Ba and Bac Hanh, and have to become a prostitute again.
Kieu's life seemed to be at a complete standstill when Tu Hai suddenly appeared and brought Kieu out of disgrace. The two lived happily, "Heroic boy, girl, boatman - Phi Quyen, beautiful phoenix, graceful, riding a dragon". But Tu Hai was not satisfied with a peaceful life next to the talented Kieu. He wanted a big career, so after half a year he said goodbye to Kieu and left. The excerpt (from sentence 2213 to sentence 22300 includes the author's language and dialogue language showing Tu Hai's character.
In "The Story of Kieu", if the character Thuy Kieu was built by Nguyen Du as a symbol of the quintessential beauty and ideals of real life, the character Tu Hai, through the excerpt "Heroic Spirit", is was built by Nguyen Du as an image full of romance and epic nature. Beginning of the poem.
Half a year, the scent of fire is strong,
The man was instantly touched in all directions
Looks like a vast sky,
The sword saddled the horse on a straight path.
The four verses are the author's words describing Tu Hai's mood and behavior. The poet calls Tu Hai "a man" - a talented and honorable man who has shown his love and respect for this character. Love and career are both present in Tu Hai's personality. That love is "half a year of burning fragrance", that career is "touching the hearts of all four directions". These conventional words help readers realize that Tu Hai values both of these loves. And just considering the above four verses, "the hearts of all four directions" are "touched", the desire to establish a career and fame is stronger than "the burning incense of fire". Just imagine the image of a heroic man with "a tiger beard, a swallow's jaw, and a beard" standing with his arms crossed silently looking into the distance, the reader will understand somewhat the current mood of the person:
Wanderers are used to struggling
Half the load of swords and harp, one salutation across the river."
Conventional, even descriptive, and descriptive images, combined with formal Sino-Vietnamese words, along with strong, symmetrical rhythm in the lines of poetry contain the stature, talent, and ambition mentioned above as stated above. defining and imprinting the personality of an extraordinary character with a soul filled with romantic dreams, running wild, wanting to change the times of human life... In that sense, has the image of Tu Hai become a thirsty dream? echoes in Nguyen Du's soul: Do you want to save Kieu's life, a soul, a beauty, a talent that represents the quintessence of life's reality?
After the poet's words about the "man's" mood and decision, there is a dialogue between the couple. Kieu wanted to act according to traditional Confucian ethics, so she confided in Tu Hai:
She said: "The fate of a submissive girl,
When he left, I also wholeheartedly asked to go."
Kieu wholeheartedly asked to follow Tu above every step he took to fulfill the morality that Confucianism had defined: As a woman's destiny, "at home, follow the father, when married, follow the husband, and the husband follows the children". Our folk songs also have a saying:
Let me follow you wherever you go
When I'm hungry, I endure it, but when I'm cold, I endure it
This is about logic. In fact, perhaps Kieu asked to follow Tu Hai out of love, because after many years of being buffeted by turmoil and turmoil, Kieu has found a lifelong friend.
But with Tu Hai it is different. He replied:
From the words: “The heart and soul know each other,
Why haven't you escaped from the ordinary girlhood yet?"
Tu Hai intended to blame Kieu, but it was a loving blame: Since people understand each other so deeply, why do they keep maintaining the shallow thinking of an ordinary woman?
After that gentle rebuke full of love, Tu Hai explained clearly. From having to recruit good soldiers and do outstanding things. Readers can infer that Tu recruited good generals and soldiers to establish and rule the country. For him, things like this:
Now four oceans without a home,
Theo is even busier and knows where to go?
That is a reality in the life of a soldier's child. Tu explained the source clearly to Kieu. It's about reason, and that reason Tu raises is also out of love. Tu advised Kieu:
Please wait a little while,
Maybe a year from now!”
Along with the promise:
Make your extraordinary face clear,
Then I will take her into my family.
With that clear argument and promise, Kieu probably wouldn't be able to say anything more. And no matter what he said, Tu Hai said:
Decided to leave,
The wind and clouds have come to an end.
Bold, decisive and quick is because the meaning of the two verses carries the above conventional image. Once, the reader knew of Tu Hai's noble, quick, and decisive action when he ran Kieu out of the brothel. Now with that same personality, Tu Hai acts not only for his future but also for Thuy Kieu. Before the reader's eyes, the image of Tu Hai and his elite soldiers galloping forward, leaving behind a cloud of dust, replaces the conventional image of a bird flying with the wind and clouds.
More than once, Nguyen Du focused on painting a portrait of Tu Hai. A portrait whose appearance is unusual.
“Lobster beard, swallow jaw, eyebrows
The shoulders are five inches wide, the body is ten meters high.
A portrait with such talent:
“The path is a heroic one
Power is better than strength, strategy is better than talent.
|
Bài Làm
Nghệ Tĩnh vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi sinh ra những con người có chí ý vững bền, tâm hổn mạnh bạo. Đại thi hào Nguyễn Du cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không nhiều nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại. Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của Nguyễn Du. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới về con người, xã hội. Với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài mệnh mà còn là câu chuyện giữa tài và tâm. Chính điều này đã mang đến cho Truyện Kiều một linh hồn mới, một sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là nhân vật Thúy Kiều – một con người tài sắc vẹn toàn. Nhưng cũng không tránh khỏi bi kịch của cuộc đời. Đoạn trích Thuý Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tàn nhẫn. Thuý Kiều đành nhận lời tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích Nỗi thương mình nằm ở vị trí từ câu 1229 đến 1240. Tái hiện cảnh lầu xanh và tâm trạng của Thuý Kiều sau khi tỉnh giấc thấy xót thương mình.
Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:
Lầu xanh mới rủ trướng đào
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng mới ắt có đông người tìm đến vì đông người nên giá mua vui càng cao.
Hai câu tiếp theo của đoạn trích:
Biết bao bướm lả ong lơi
…Dập dìu lá gió cành chim.
Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa rước… tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng. Đây chính là cách dùng ngôn ngữđộc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi đến lầu xanh được ví như loài ong bướm lúc nào cũng lả lơi.
Cảnh sinh hoạt ở một ổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng khá đặc biệt, xé các nhóm từ rồi đan chéo lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ một chủ thể, một vị thể được tách thành hai chủ thể, hai vị thể. Sự tách bạch đó không đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về chất. Cuộc sống buông thả, không nề nếp, quy củ mà vô cùng trác tán.
Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chốn lầu xanh, bởi đâu đâu cũng thấy nàng Kiều xuất hiện là nhân vật trung tâm của giá ngọc phẩm người:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Nguyễn Du không để cho nàng Kiều xuất hiện trực tiếp mà ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện lên tất cả.
Khi tỉnh rượu cũng là lúc đã tàn canh. Hay đúng hơn cũng là lúc cuộc chơi đã hết. Kiều tỉnh giấc và thương mình: Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Câu thơ này đã đưa nàng Kiều từ phận gái lầu xanh trở về với con người nàng Kiều đích thực.
Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng minh nhất, tự ý thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay về bản thân mình. Và đôi khi đã ý thức được hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, và lúc này đây sự trỗi dậy của nhân phẩm, của bản chất tốt đẹp ở nàng Kiều. Chỉ trong một câu thơ thôi có tới ba chữ mình nhưng Kiều vẫn cảm thấy mình cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự tự thương lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn cảnh của mình, bản thân mình, không ai có thể thấu hiểu bản thân mình bằng mình trong lúc này. Chữ mình thứ hai này nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời Kiều tự nói với mình, cũng là lời nói của tác giả, tác giả như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình và cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trôi của nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa có độ sâu làm lay động lòng người.
Sau khi giật mình và tự thương mình Kiều luôn sống trong tâm trạng buồn thương:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Mặc người mưa sở, mây
Tần Những mình nào biết cố xuân là gì?
Tâm trạng của Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập với quá khứ, một quá khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa thơ mộng đẹp đẽ bao nhiêu thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đau đớn của một con người bị xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hoàn toàn với bản chất, tâm hồn và với cuộc sống trong sạch trước đấy.
Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực. Trước là cuộc sống êm đềm hạnh phúc, tinh khôi… giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị dùi dập giữa đường, bị ngắt khỏi cành bi lìa khỏi cội. Cuộc sống thật phũ phàng, cuộc đời thô bỉ, với cảnh tượng dày vò, mua đi bán lại:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Ở câu thơ này không đơn thuần chỉ là sự so sánh hai từ sao đặt liền nhau câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt. Một con người, hai thân phận, cộng lại là nỗi chua xót đắng cay, tủi thân đến vô bờ:
Mặt sao dày gió dạn xương
|
Assignment
Nghe Tinh is the land of outstanding spiritual people, the refuge of poets and heroes, the birthplace of people with strong will and strong hearts. The great poet Nguyen Du is also one of the people born and raised on that land. His poetic career is not much, but what he contributed to the national literary treasure is extremely massive and great. The Tale of Kieu is one of Nguyen Du's masterpieces. From the plot of talented Thanh Tam. Nguyen Du has created a new work with a new perspective on people and society. For Nguyen Du, it is not only a story of fortune but also a story between talent and heart. This has given The Tale of Kieu a new soul, a new vitality, suitable for the soul of the Vietnamese people. The Tale of Kieu plays an important role in Vietnamese cultural activities and has become an indispensable spiritual dish in life. The central character of The Tale of Kieu is Thuy Kieu - a talented and talented person. But we cannot avoid life's tragedies. The excerpt from Thuy Kieu feeling sorry for herself describes the scene where Kieu was tricked by So Khanh and was brutally beaten by Tu Ba. Thuy Kieu had to accept the invitation to receive guests from the village.
The excerpt "My pity" is located from verses 1229 to 1240. Recreating the scene of the brothel and Thuy Kieu's mood after waking up feeling sorry for herself.
At the beginning of the excerpt, Nguyen Du describes the scene of debauchery in a brothel:
The new green floor has peach blossoms
The higher the price of jade, the higher the person's dignity.
Advertising means that there are new products, and if there are new products, there will be many people coming because there are many people, so the price for entertainment is higher.
The next two sentences of the excerpt:
So many fluttering butterflies
…The leaves and wind move the bird's branches.
Then there were the drunken parties, the laughter, the pick-up scenes... all of those fun events continued all year round. This is Nguyen Du's unique way of using language when describing the fun at the green floor. Visitors to the green floor are likened to bees and butterflies that are always flirtatious.
The scene of life at a party, something intense and urgent, because the words that Nguyen Du uses are quite special, tearing up groups of words and then crisscrossing them together. Therefore, in a poem, one subject and one entity are separated into two subjects and two entities. That separation is not simply multiplied in quantity but also in quality. Life is indulgent, not orderly or regulated, but extremely debauched.
First of all, the poem has no subject, it is a place of luxury, because everywhere one can see Kieu appearing as the central character of the human pearl price:
When you sober up at the end of the night
Nguyen Du did not let Kieu appear directly, he just used his pen to show everything.
When you sober up, it's time for the harvest to end. Or more accurately, the game is over. Kieu woke up and felt sorry for herself: Startled, she felt sorry for herself. This poem brought Kieu from the fate of a courtesan back to the true Kieu.
Being sober and sober is when people live most honestly, self-aware of their actions, aware of the sour and bitter things about themselves. And sometimes when one becomes aware of one's actions, that is also the time when a person's dignity emerges, and at this time the emergence of dignity, of the good nature in Kieu. In just one verse, there are three words "I", but Kieu still feels lonely. Kieu thinks, evaluates, and feels sorry for herself. The second word me has the most important meaning, it is this word me that represents the greatest self-pity, only I understand my situation, myself, no one can understand myself better than me in the moment. This. This second word, half direct, half indirect, is what Kieu said to herself, and is also the author's words. The author seems to understand every source, every situation and shares and sympathizes with herself. The floating, floating fate of Kieu. This is a multi-meaning poem with depth that touches people's hearts.
After being startled and feeling sorry for herself, Kieu always lived in a sad mood:
When the maple star is drooping
Now why are they scattered like flowers in the middle of the road?
The surface of the star is thick with wind and frost
Why are butterflies so bored with bees?
Despite the rain and clouds
Tan But do you know what Co Xuan is?
Kieu's mood right now is divided. The present is painful, broken, separated, humiliated and painful, in contrast to the past, a peaceful, pure and virginal past. As poetic and beautiful as life was in the past, current life is even more humiliating. The painful torment of a person being pushed into a situation completely contrary to his nature, soul and previous pure life.
A complaint, surprise, torment, and hidden behind is an extremely bitter self-pity. Before, it was a peaceful, happy, pristine life... now it's just a shattered flower, crushed in the middle of the road, plucked from the branch and separated from the root. Life is cruel, life is vulgar, with scenes of torment, buying and reselling:
When the maple star is drooping
Now the stars are scattered like flowers in the middle of the road
In this verse, it is not simply a comparison of two words, so the previous sentence and the next sentence are placed next to each other, creating a difference. One person, two identities, combined is bitterness and endless self-pity:
The star's face is thick and strong
|
Bài làm
Đại thi hào Nguyễn Du (1765- 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộcViệt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩnbị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việcmà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốndiễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽđược lâu bền lại cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơduyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này màđáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mìnhnơi Vân.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”
Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.”Sự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai” “Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”
Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bóvới người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo p hong kiến khắc khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thât đau xót thay! Chữ• Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn• đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộcđời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.”Đau đớn thay phận đàn bàHỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”kiếp số của họ:”Trăm năm trong cõi người taChữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từngkhía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du• tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
|
Bài làm
Đại thi hào Nguyễn Du (1765- 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộcViệt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩnbị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việcmà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốndiễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽđược lâu bền lại cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơduyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này màđáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiêm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mìnhnơi Vân.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”
Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.”Sự đâu sóng gió bất kìHiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai” “Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”
Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bóvới người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo p hong kiến khắc khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thât đau xót thay! Chữ• Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn• đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộcđời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.”Đau đớn thay phận đàn bàHỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”kiếp số của họ:”Trăm năm trong cõi người taChữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từngkhía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du• tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
|
Bài làm
Thuý Kiều đã mở đầu câu chuyện mà đáng lí ra chẳng ai nói đến bao giờ:
Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Nghe xong Thuý Vân chắc sẽ rất bất ngờ. Lời chị khẩn khoản, thiết tha chắc không thể chỉ là chuyện bình thường. Trong nhóm các từ biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn được hai từ đắt nhất và cũng hợp với hoàn cảnh nhất: cậy và chịu. Cậy không chỉ là nhờ. Cậy còn là trông đợi và tin tưởng. Cũng vậy, chịu không chỉ là nhận lời, chịu còn là nài ép. Chuyện chưa nói ra nhưng Kiều biết người nhận không dễ dàng chịu nhận nên nàng đã chủ động đưa Vân vào thế khó xử, tiến thoái lưỡng nan. Lời xưng hô nghiêm cẩn và trang trọng của Thuý Kiều lại càng có tác dụng gây áp lực đối với Thuý Vân.
“Chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng, Thuý Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ không thể nào nói được:
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Vậy là cái điều tưởng như khó nhất, Thuý Kiều đã nói. Thuý Vân hết sức ngỡ ngàng nhưng cũng nhanh chóng hiểu nỗi niềm của chị. Đoạn thơ ngắn gọn, hướng vào những chuyện riêng tư. Tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch (đứt gánh tương tư). Câu thơ thứ 4 lại hay ở hai chữ tơ thừa. Với Thuý Kiều, tình yêu trao cho em chỉ là sự nối tiếp, chỉ là chắp mối tơ thừa mà thôi. Mặc em ở đây có thể hiểu là Kiều phó thác cho em, gắn trách nhiệm ở em phải cứu vãn tình yêu đó. Lời Kiều sâu sắc và cũng thật xót xa.
Những câu thơ tiếp điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến, thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”.
Tám câu thơ đầu, ngoài lời trao duyên, Thuý Kiều chủ yếu nói về những bất hạnh của mình. Nhưng để trao duyên, Thuý Kiều còn phải chọn những lời lẽ thuyết phục:
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Đoạn thơ sử dụng nhiều thành ngữ, lời lẽ ý vị, kín đáo, vẹn tình. Người “nhận” có ba lí do để không thể khước từ. Trước hết, không cách nhau nhiều về tuổi tác nhưng phải nhắc đến hai chữ ngày xuân với Kiều sao giờ quá nặng nề. Rõ ràng xét về ngày xuân (hiểu là sự trong trắng tinh khôi) thì giờ đây Thuý Kiều đâu thể xứng đáng với Kim Trọng bằng Thuý Vân. Kiều dù sao cũng mang danh là đã có chồng. Lí do thứ hai lại càng thuyết phục hơn. Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì vả chăng chỉ có là tình chị em máu mủ mới dễ đồng cảm, để rồi “chấp nhận” cho nhau. Lí do thứ ba nghe sao như một lời khẩn cầu đầy chua xót:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí. Câu thơ khẩn cầu như một lời trăng trối. Và có ai lại đang tâm từ chối ước nguyện của người thân sắp phải thuộc về hoàn cảnh bấp bênh, khôn lường bất trắc? Người ta nói Nguyễn Du là người sâu sắc nước đời là ở những chỗ như vậy.
Duyên đã được trao, người “nhận” cũng không có lí do gì để từ chối. Thuý Kiều trao kỉ vật cho em:
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng chính lúc Thuý Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại với tình yêu. Duyên đã khó trao, tình làm sao trao được? Tìm về với những kỉ vật thiêng liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với tình yêu của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình yêu không có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ “Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất.
Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành ngậm ngùi đau xót nghĩ về tương lai:
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Thuý Kiều như chìm trong tê dại, mê man trong cảm giác xót xa. Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng như đã hoàn toàn cách biệt âm dương thì lời thề vàng đá của Kiều vẫn không hề thay đổi:
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Tìm về tình yêu bằng cảm giác từ cõi tâm linh, Thuý Kiều vẫn không quên nghĩ về sự tủi hổ, bất hạnh của mình:
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Đoạn thơ cuối là cảm giác trở về của Thuý Kiều từ cõi hư không. Thời gian không còn là thời gian tâm trạng, nó là thời gian khách thể. Trở về với hiện thực, Thuý Kiều xót xa chấp nhận sự phũ phàng của định mệnh, chấp nhận “trâm gãy bình tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”. Đoạn thơ dùng nhiều thành ngữ để nói tới cái “nhất thành bất biến” không thể thay đổi, chuyển dời. ý thức về hiện tại, Kiều chỉ còn biết thương mình, oán hờn số phận. Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi, thì suy nghĩ của nhân vật lại rẽ sang hướng khác:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
|
Assignment
Thuy Kieu opened a story that no one should have ever talked about:
Trust me, I will obey,
Sit up so I can bow and then speak.
After hearing this, Thuy Van will probably be very surprised. Her urgent and passionate words certainly cannot be just a normal thing. In the group of words expressing help, Nguyen Du chose the two most expensive words and also the most suitable for the situation: hope and tolerance. Trust is not just thanks. Trust is also expectation and trust. Likewise, to endure is not only to accept, but to endure is also to insist. The story hadn't been said yet, but Kieu knew the recipient wouldn't accept it easily, so she proactively put Van in an awkward position. Thuy Kieu's serious and formal address had the effect of putting even more pressure on Thuy Van.
"Choosing" and "asking" questions quickly and carefully, Thuy Kieu seemed to immediately continue speaking as if if she waited too long she would not be able to say:
In the middle of the broken road, burdened with love,
Glue loan pieced together the excess thread and left me alone.
So what seems to be the most difficult thing, Thuy Kieu said. Thuy Van was very surprised but quickly understood her feelings. The poem is short and focuses on private matters. Unfinished, broken love is briefly communicated in a heavy, solid idiom (breaking the burden of love). The fourth verse is good because of the two extra words. For Thuy Kieu, the love given to you is just a continuation, just a piece of thread. Leaving me here can be understood as Kieu's entrustment to me, placing responsibility on me to save that love. Kieu's words are profound and also very sad.
The verses continue through the events of Kieu's life. Thuy Van witnessed, understood and sympathized with these events "when meeting Mr. Kim" and also "when there was any storm".
In the first eight verses, in addition to the love exchange, Thuy Kieu mainly talks about her misfortunes. But to give love, Thuy Kieu also had to choose convincing words:
My spring days are still long,
Merciful love of immature blood instead of words.
Even though my flesh is broken and my bones are worn out,
Smiling until the stream is still fragrant.
The poem uses many idioms and meaningful, discreet, and heartfelt words. The "receiver" has three reasons for not being able to refuse. First of all, there is not much difference in age, but the two words spring day are so heavy for Kieu now. Obviously, in terms of spring days (understood as pure innocence), now Thuy Kieu cannot be as worthy of Kim Trong as Thuy Van. After all, Kieu still has the reputation of being married. The second reason is even more convincing. Kieu is asking Van for something that no one has ever asked for. It's hard to ask, hard to receive, and only blood sisterhood is easy to sympathize with, and then "accept" each other. The third reason sounds like a bitter plea:
Even though my flesh is broken and my bones are worn out,
Smiling until the stream is still fragrant.
Not exactly a reason, but it makes perfect sense. The poem pleads like a last word. And who would be willing to deny the wishes of a loved one who is about to fall into an uncertain, unpredictable situation? It is said that Nguyen Du is a person whose profound life is in such places.
Fate has been given, the "receiver" has no reason to refuse. Thuy Kieu gave me a souvenir:
The rim with the rattan sheet,
This fate is kept, this thing belongs to everyone.
Thuy Kieu spent a lot of effort to convince Thuy Van, but the moment Thuy Van accepted was also the moment when Thuy Kieu began to struggle to hold on to love. Fate is difficult to give, how can love be given? Returning with sacred mementos (a rim, a rattan sheet, a piece of cursed incense) is also to return to her love. Those beautiful mementos are associated with the most beautiful days of Kieu's life. It's sacred when it's just hers and Kim Trong's. Love has no third person, when there is a third person, the sacredness begins to break down. The poem "This fate is to keep this thing in common" shows how painful Kieu's state of mind is. Love and trust for Thuy Kieu have now completely slipped away.
Trying to hold on to her love with souvenirs (even if only in her mind), Thuy Kieu had to sadly think about the future:
No matter when in the future,
Light the incense burner and compare it to this key.
Looking out over the blades of grass and trees,
Seeing the cool breeze means she's coming home.
Thuy Kieu seemed to be immersed in numbness, lost in the feeling of sadness. But even when it seemed like yin and yang were completely separated, Kieu's golden oath remained unchanged:
The soul still carries a heavy oath,
The broken willow body is replaced with a thousand bamboo plums.
Finding love through feelings from the spiritual realm, Thuy Kieu still did not forget to think about her shame and misfortune:
The night stage is hidden from view,
Sprinkle a cup of water for the wronged person.
The last poem is Thuy Kieu's feeling of returning from nothingness. Time is no longer mood time, it is objective time. Returning to reality, Thuy Kieu sadly accepted the harshness of fate, accepted "a broken brooch", "a short relationship", "a fate as silver as lime". The poem uses many idioms to refer to the "unchangeable oneness" that cannot be changed or moved. Conscious of the present, Kieu can only pity herself and resent her fate. Just when it seemed that Kieu would give up, the character's thoughts turned in another direction:
Oh Kim lang! Oh Kim lang
Well, I'll help you from here!
|
Bài làm 1
Đam Săn là một tù trưởng giàu mạnh nhất trong những tù trưởng giàu mạnh. Với sức mạnh bạt núi ngăn sông chàng đã chiến thắng được tù trưởng Mtao Mxây. Và làng của Đam Săn đã mạnh lại càng mạnh hơn. Mừng chiến thắng buôn làng đã mở hội, đó là một ngày hội thật vui vẻ, thật nô nức và đầy tự hào. Cả buôn làng âm vang tiếng chiêng quý, tiếng vòng nhạc rung, cỏ cây, núi rừng và con người cùng ca khúc khải hoàn. Rượu tràn ra khắp nhà, gương mặt mọi người đều hân hoan và đầy tự hào.
Nhà Đam Săn đông nghịt khách, tôi tớ chật ních nhà, thức ăn đầy nhà, hoa nở khắp buôn. Họ vui mừng trong chiến thắng, họ tự hào vì tù trưởng của họ là người anh hùng và buôn làng của họ ngày càng giàu mạnh.Nổi bật trong ngày hội mừng chiến thắng ấy là hình ảnh oai hùng như bậc thánh thần của Đam Săn.
Chàng là biểu tượng cho sức mạnh của cả cộng đồng. Đam Săn thật oai phong, chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới là một cái nong hoa”, “Đam Săn uống không biết say, ăn không biết no, nói không biết chán”. Niềm vui của Đam Săn tràn cả sang cây cỏ, núi rừng, trải khắp buôn làng. Đam Săn đẹp như một dũng tướng “Ngực quấn chéo một một tấm mền chiến, mình khoác một tấm áo chiến… Đam Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ”. Đam Săn oai hùng và được buôn làng trân trọng như một vị thần. Cả buôn làng của Đam Săn đã ăn mừng chiến thắng suốt cả mùa khô. Họ vui mừng và tự hào về vị tù trưởng can trường của mình.
Đam Săn là biểu tượng văn hoá đầy tự hào của nhân dân Tây Nguyên. Đó là một trong những hình tượng nghệ thuật đẹp nhất của văn học dân gian Việt Nam.
Bài làm 2
Sau khi chiến thắng Mtao Mxây, kẻ đã cướp vợ mình, Đăm Săn trở về nhà. Hàng ngàn tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây đi theo chàng. Họ mang theo của cải nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước.
Đăm Săn hào hứng hô to: “ Ơ các con, hãy đi lấy rượu, bắt trâu! Rượu năm ché, trâu dâng một con để cúng thần linh, cáo tổ tiên, cầu sức khỏe cho ta mới đỉ đánh kẻ thù, bắt tù binh, xéo nát đất đai một tù trưởng nhà giàu về. Rượu bảy ché, trâu bảy con, lợn thiến bảy con để dâng thần, cầu cho ta bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không ai bì kịp! Hỡi anh em trong nhà, bà con trong làng, xin mời tất cả đến với ta!
Chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng năm mới, chúng ta sẽ ăn lợn ăn trâu, đánh lên các chiêng trống to, đánh lên các cổng hlong hòa nhịp cùng chũm chọe xoa sao cho kêu lên rộn rã, để voi đực voi cái ra vào sàn hiên không ngớt, dây cồng dây chiêng không lúc nào vắng bớt trên giá treo chiêng, các chuỗi thịt trâu thịt bò treo đen nhà, chậu thau, âu đổng nhiều không còn chỗ để”.
Đám tôi tớ kính cẩn hỏi chàng nên đánh chiêng nào, Đăm Săn bảo hãy đánh các chiêng cỏ tiếng âm vang, những chiêng có tiếng đồng, tiếng bạc. Bà con kéo đến xem, nhà Đăm Săn đông nghịt khách khứa. Các tù trưởng ở phương xa cũng kéo đến chúc mừng.
|
Exercise 1
Dam San is the richest and strongest chief among the rich and powerful chiefs. With the power to overcome mountains and rivers, he defeated chief Mtao Mxay. And Dam San's village became stronger and stronger. To celebrate the victory, the village held a festival. It was a very happy, exciting and proud day. The whole village resounds with the sound of precious gongs, the sound of vibrating music rings, trees, mountains, forests and people singing triumphant songs. Wine spilled throughout the house, everyone's faces were happy and proud.
Dam San's house was full of guests, servants filled the house, food filled the house, and flowers bloomed throughout the village. They rejoiced in the victory, they were proud because their chief was a hero and their village became increasingly rich and strong. Prominent in that victory celebration was the majestic, god-like image of Dam San. .
He is a symbol of the strength of the whole community. Dam San is so majestic, he lies in a hammock, his hair hanging on the floor, catching his hair underneath is a flower pot", "Dam Hunt doesn't get drunk, eats without being full, talks without getting bored". The joy of Dam San spread to the trees, mountains and forests, throughout the village. Dam San is as beautiful as a brave general. "His chest is wrapped diagonally with a war blanket, and he is wearing a war shirt... Dam San has been brave since his mother's womb." Dam San is majestic and respected by the village like a god. The whole village of Dam San celebrated the victory throughout the dry season. They were happy and proud of their courageous chief.
Dam San is a proud cultural symbol of the Central Highlands people. It is one of the most beautiful artistic images of Vietnamese folk literature.
Exercise 2
After defeating Mtao Mxay, the man who stole his wife, Dam San returned home. Thousands of Mtao Mxay's servants and villagers followed him. They carry as much wealth as bees carrying water, bumblebees carrying flowers, and boys and girls going to village wells to carry water.
Dam San excitedly shouted: "Hey kids, let's go get wine and catch buffalo!" Five jars of wine, one buffalo offered to worship the gods, ancestors, and pray for good health before attacking the enemy, capturing prisoners, and tearing down the land of a rich chief. Seven jars of wine, seven buffaloes, seven castrated pigs to offer to the gods, pray for me to be safe and unharmed, to avoid disasters, to grow like a river, to grow tall like a forest tree, no one can match me! Brothers in the house, relatives in the village, please all come to me!
We will hold a party to celebrate the New Year, we will eat pigs and buffalos, play the big gongs and drums, play the hlong gates in harmony with the cymbals to make loud noises, letting the male and female elephants enter and exit. The porch floor is endless, gong strings and gong strings are never absent from the gong rack, strings of buffalo and beef meat hang black in the house, brass pots, and copper bowls are so numerous that there is no place to put them."
The servants respectfully asked him which gong he should play. Dam San told him to play the grass gongs with resonant sounds, the gongs with bronze and silver sounds. Relatives came to see, Dam San's house was crowded with guests. The chiefs from far away also came to congratulate him.
|
Bài làm
Tai biến ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của những con người hiếu thảo: “Để lời thệ hải minh sơn / Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Khi mâu thuẫn giữa hiếu và tình đã được giải quyết, Thúy Kiều lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và nhức nhối hơn. Đoạn trích Trao duyên đã khắc họa sâu sắc bi kịch đó của Thúy Kiều đồng thời cũng khiến chúng ta trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng.
Đêm cuối cùng trước ngày ra đi theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với chính mình, với ngọn đèn in bóng đau khổ đã cạn dần với chiếc khăn thấm lệ đã đẫm nước mắt: “Dẫu chong trắng địa, lệ tràn thấm khăn”. Điều gì đã khiến nàng “ngồi nhẫn tàn canh”. Trong tâm trạng “bàn hoàn” đến vậy? Chỉ đến khi Thúy Vân “ghé đến ân cần hỏi han” Kiều mới thổ lộ tâm sự sâu kín của nàng. Người con gái tài sắc ấy không chỉ có lòng hiếu thảo với cha mẹ mà trong tình yêu, nàng là con người thiết tha, sâu nặng, vị tha đến quên mình. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn,nhân cách của Thúy Kiều. Số phận nàng ngày mai không biết sẽ ra sao nơi đất khách quê người, nhưng hiện tại trong giờ phút này, Kiều một lòng một dạ hướng về người yêu. Điều này được thể hiện rõ qua lời khẩn cầu thiết tha đối với Thúy Vân:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Cái sâu sắc nước đời của Tố Như thể hiện ở việc lựa chọn từ ngữ diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong những từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,… Nguyễn Du chọn từ cậy, vì chỉ từ này mới hàm chứa hai nội dung: nhờ và tin. “Chịu lời” chứ không phải nhân lời vì nhận lời là sự tự nguyện của Vân. Song việc Kiều sắp nhờ cậy em gái là một sự nài nỉ, bắt buộc, không nhận không được, là đưa cả chính nàng và Vân vào hoàn cảnh khó xử. Đó là việc Vân thay Kiều trả “nghĩa” cho Kim Trọng: xót tình máu mủ thay lời nước non”. Trong quan niệm của người trung đại tình thường gắn với nghĩa. Cả ba người trong cuộc đều coi viẹc trả nghĩa này là hợp lí. Nhưng cho dù đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của Vân: “Keo loan khắp mối tơ thừa mặc em”. Thúy Kiều vẫn đưa ra những lí lẽ để thuyết phục em gái. Chính những lí lẽ ấy càng thể hiện rõ tình yêu sâu nặng Thúy Kiều dành cho Kim Trọng, càng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Nói với em, thuyết phục em mà Kiều như sống lại những kí ức tình yêu với Kim Trọng: “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề” ; trao kỉ vật tình yêu cho Vân: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền,…mà những mong thông qua đó, nàng có thể hiện diện trong tình yêu, trong nỗi niềm với Kim Trọng.
Song càng nặng tình với chàng Kim bao nhiêu, Kiều càng rơi vào bi kịch khổ đau bấy nhiêu. Đó trước hết là bi kịch của tình yêu lứa đôi đang đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ này ta đã bắt gặp trong ca dao, hóa ra, những đau khổ của Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên bi kịch tình yêu tan vỡ ở nàng vẫn đau đớn và nhức nhối hơn bất cứ thiên tình sử nào trước đó. Một phần là bởi Thúy Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân chứ không thể trao tình yêu cho em gái. Nàng đã trao lại cho Vân những kỉ vật tình yêu đẹp đẽ và thiêng liêng. Trong mối quan hệ chàng Kim, bao giờ Nguyễn Du cũng dành cho người chị chữ “tình”, và cô em chữ “duyên”
“Khi ăn ở lúc ra vào,
|
Assignment
When disaster struck, Thuy Kieu followed the familiar path of filial people: "For the oath of Hai Minh Son / As a child, you must first repay the kindness of being born." When the conflict between filial piety and love was resolved, Thuy Kieu fell into another tragedy, more painful and painful. The excerpt "Giving Love" deeply depicts Thuy Kieu's tragedy and also makes us appreciate more the beauty of her soul and personality.
The last night before leaving to follow Ma Giam Sinh, Thuy Kieu faced herself alone, with a lamp that reflected the fading shadow of suffering and a towel soaked in tears: "Even though the ground is white, the tears are overflowing." absorb the towel". What made her "sit and watch cruelly?" In such a "discussed" mood? It was only when Thuy Van "visited to kindly ask" that Kieu revealed her deep feelings. That talented girl is not only filial to her parents, but in love, she is a passionate, deep, selfless person. That is the beauty of Thuy Kieu's soul and personality. She doesn't know what her fate will be tomorrow in a foreign land, but right now, in this moment, Kieu is wholeheartedly devoted to her lover. This is clearly shown through the passionate plea to Thuy Van:
“Thank you, I agree
Sit up so I can bow and then speak."
The profoundness of To Nhu's life is shown in the choice of words to describe the character's mood. Among the words expressing help: ask, borrow, bother,... Nguyen Du chose the word trust, because only this word contains two contents: thanks and trust. "Be willing" rather than benevolent because accepting the word is Van's free will. But the fact that Kieu is about to rely on her sister is a request, a compulsion, something that cannot be accepted or not, putting both herself and Van in an awkward situation. That is the act of Van replacing Kieu to pay "meaning" to Kim Trong: expressing love and blood instead of words of water." In the concept of medieval people, love is often associated with meaning. All three people involved considered this return to be reasonable. But even though that is Van's responsibility and obligation: "Spread all the leftover threads and ignore me." Thuy Kieu still gives arguments to convince her sister. These arguments further demonstrate Thuy Kieu's deep love for Kim Trong, further affirming the beauty of her soul and personality. Talking to her, convincing her, Kieu seemed to relive the memories of love with Kim Trong: "When day fanning and wishing, at night swearing"; gave a love memento to Van: a rim, a rattan sheet, a piano key, a piece of cursed incense,... with the hope that through it, she could be present in love, in her feelings for Kim Trong.
But the more she fell in love with Kim, the more Kieu fell into tragedy and suffering. First of all, it is the tragedy of a beautiful, happy couple's love suddenly being broken and separated. This unfinishedness and brokenness is expressed through an idiomatic verse: "In the middle of the road, love is broken." We have encountered this metaphorical image in folk songs. It turns out that Kieu's sufferings are no different from the fates of ancient women. However, the tragedy of her broken love is still more painful and painful than any previous love story. Partly because Thuy Kieu can only give love to Van but cannot give love to her sister. She gave Van beautiful and sacred love mementos. In Kim's relationship, Nguyen Du always gives his sister the word "love" and his sister the word "charm".
“When eating in and out,
|
Bài làm
Thuyết minh một danh lam thắng cảnh (Vịnh Hạ Long)
Trên đất nước Việt Nam có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như là: Hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu, Bến Nhà Rồng,… Nhưng có một nơi rất nổi tiếng ở quê hương tôi đó là Vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh.
Vịnh Hạ Long là một tuyệt tác đã có từ rất lâu do thiên nhiên tạo thành. Vịnh có rất nhiều hang động, có động nước và động khô. Bên trong những hang động có rất nhiều đá vôi. Ngoài ra, còn có rất nhiều đảo và cồn đá. Để đi ra được những hang động đó bạn cần phải đi xuồng hoặc đi bằng thuyền. Mặt nước ở Vịnh Hạ Long rất đẹp. những làn sóng nhẹ nhàng đánh vào bờ tạo nên một khung cảnh thơ mộng khi bạn đứng ngắm Vịnh Hạ Long. Chiều về bạn có thể thấy hoàng hôn từ phía xa chiếu lên mặt nước như đang có đến tận hai mặt trời. Vì thế, mà Vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Hằng năm, hàng ngàn người khắp thế giới đi đến Vịnh Hạ Long đế du lịch. Vịnh Hạ Long đã thu hút du khách trên khấp thế giới. Vịnh Hạ Long được coi là cái nôi của nước Việt Nam về nền lịch sử khảo cổ lâu đời. Ngoài ra, Vịnh Hạ Long còn có những hòn và tập trung nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có nhiều khu lịch sinh thái với hàng ngàn động vật dưới nước phong phú. Tên gọi của Vịnh Hạ Long đã thay đổi qua rất nhiều thời kì lịch sử, thời Bắc thuộc được gọi là Lục Châu Lục Hải sau đó được người Pháp gọi là Vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến đến ngày nay.
|
Assignment
Explanation of a scenic spot (Ha Long Bay)
In Vietnam, there are many beautiful landscapes such as: Hoan Kiem Lake, Temple of Literature, Nha Rong Wharf,... But there is a very famous place in my hometown, Ha Long Bay in Quang Ninh.
Ha Long Bay is a long-standing masterpiece created by nature. The bay has many caves, both water and dry. Inside the caves there is a lot of limestone. In addition, there are many islands and rocky dunes. To get out of those caves you need to go by canoe or boat. The water surface in Ha Long Bay is very beautiful. The gentle waves hitting the shore create a poetic scene as you stand and watch Ha Long Bay. In the afternoon, you can see the sunset from afar shining on the water surface as if there were two suns. Therefore, Ha Long Bay has been recognized by UNESCO as a world cultural heritage.
Every year, thousands of people around the world go to Ha Long Bay to travel. Ha Long Bay has attracted tourists from all over the world. Ha Long Bay is considered the cradle of Vietnam for its long archaeological history. In addition, Ha Long Bay also has islands and concentrations of many rare animals and plants. There are many ecotourism areas with thousands of rich underwater animals. The name of Ha Long Bay has changed through many historical periods, during the Northern colonial period it was called Luc Chau Luc Hai, then the French called Ha Long Bay from then on and is popular to this day.
|
Bài làm
Tôi là Trọng Thủy, con vua Triệu Đà. Sau lần theo cha chinh phạt Âu Lạc, tôi đã gây một tội lỗi nghiêm trọng đối với người vợ hiền, ngây thơ trong sáng của tôi, ₫ó là Mị Châu. Mị Châu đã chết dưới lưỡi kiếm oan nghiệt của vua cha. Hồn nàng theo cha xuống biển rồi trở thành chị em với công chúa- con vua Thủy Tề. Để tạ tội với nàng tôi quyết sẽ xuống Long Cung 1 phen.
Như đã biết, tôi thì đã chết vì tự tử trong giếng Loa Thành giờ đây tôi không còn thể xác nữa mà chỉ là một vong linh nhỏ bé. Tôi sợ ánh sáng nên không thể đi gặp vợ vào ban ngày được, tôi quyết định khi đêm vừa sập đến, tôi sẽ lập tức đến với nàng ngay. Trời đã tối, những cái cây vô hồn, vô hại vào ban ngày ban đêm bỗng trở nên đáng sợ, âm u vô cùng. Rừng cây đen xì, những chiếc lá khẽ cựa vào nhau, hòa với tiếng gió than bỗng trở nên một âm thanh não ruột. Tôi nhờ vào rừng cây ấy mà tránh được con người. Đã hơn quá nửa đêm, lòng tôi giờ đã lạnh, tôi nửa muốn ở nửa muốn đi vì không biết Mị Châu có tha thứ cho mình, nhưng mặc cho thái độ lưỡng lự của tôi, gió vẫn vô tình đẩy linh hồn tôi đi xa ngút. Tuy xa nhưng tôi không mệt, tôi chẳng cần nghỉ ngơi một phút nào. Cuối cùng biển Đông đã dần hiện ra trước mặt tôi.
Sau khi tự tử ở giếng Loa Thành, xuống Thuỷ cung, Trọng Thuỷ gặp lại Mị Châu
Tôi tiến lại gần, cảm thấy mình có chút gì đó hèn nhát vì đã từng lưỡng lự trên đường đi. Nhưng cuối cùng vì cái chết oan của Mị Châu và tình vợ chồng bao lâu gắn bó đã thôi thúc một linh hồn “tội đồ” nhưng tôi phải đến bên nàng ngay lập tức. Tôi bước xuống biển, biển lúc này lạnh. Tuy lạnh nhưng không cứa nổi hồn tôi, tôi bơi thẳng xuống đáy biển, thủy cung lộng lẫy đã hiện ra trước mắt. Tôi tiến lại nhưng chẳng may một cọng rêu xanh đáng ghét lại giữ lấy chân tôi. Lạ nhỉ? Tôi là linh hồn cơ mà, làm sao cọng rêu có thể giữ được chân của một linh hồn? Tôi nghĩ và cho rằng đây chắc là cọng rêu thần, một cọng rêu có ý nghĩa như một sợi tơ hồng giữ cho tôi và Mị Châu gặp lại.
Quả thật chỉ một loáng sau cửa thủy cung dần hé mở, Mị Châu bước ra, vẫn khuôn mặt ấy, vẫn mái tóc ấy, nhưng nụ cười trên môi nàng đã tắt. Mị Châu ra ngoài để thu hoạch rong biển, nàng tiến lại gần cọng rêu đã cuốn chân tôi, nàng thảng thốt, kêu lên:
– Trọng…Thủy…là chàng?
Nước mắt nàng tuôn ra hóa thành châu khi nó hòa với vị mặn của biển Đông, nàng ôm lấy tôi. Tôi lắp bắp:
– Nàng… nàng tha thứ cho ta nhé?
Mị Châu sẽ lắc đầu, nhìn tôi một cái rồi nàng lẻn đưa mắt qua sang trái. Lúc này mắt nàng đã nhoè hơn trước, nàng nói:
– Vì cớ sao chàng đối xử với thiếp như thế. Tình thiếp trao chàng là nguyện một lòng, nhưng chàng lại vì chữ hiếu mà phụ thiếp. Nếu bây giờ thiếp chấp nhận cùng chàng trọn nghĩa chồng vợ thì chẳng phải thiếp là kẻ bất hiếu, bất nghĩa hay sao?
Tôi đau đớn nhưng biết làm sao, lỗi sai cho tôi gây ra, kết cục bi thảm này phải do tôi gánh lấy. Quả thật chẳng lẽ một câu “xin lỗi” của tôi có thể khiến lòng nàng vơi đi?
Trước quyết định đó của nàng Mị Châu, tôi đành buông một lời từ biệt:
– Xin lỗi nàng Mị Châu, lúc trước ta vì chữ hiếu mà đã phụ nàng nhưng sau khi thấy xác ngọc của nàng qua chiếc áo lông ngỗng, ta đã nhận ra, ta rất yêu nàng. Nay nàng đã nói vậy, ta đành phải quay về Diêm Phủ để hóa thành kiếp súc sanh hòng chuộc lại tội lỗi.
Mị Châu không nói không rằng nhưng khẽ thấy đôi mắt đượm sầu của nàng, tôi biết nàng đang phân vân và khó xử lắm. Nàng quay người sang hướng mặt trời mọc, những tia nắng đầu tiên xuất hiện, nó tô hồng cả một Long Cung sâu thẳm. Nàng quay phắt người lại nói vội vàng:
– Chàng nên đi mau!
|
Assignment
I am Trong Thuy, son of King Trieu Da. After following my father to conquer Au Lac, I committed a serious sin against my gentle, innocent and pure wife, Mi Chau. Mi Chau died under her father's cruel sword. Her soul followed her father into the sea and became a sister to the princess - the daughter of King Thuy Te. To apologize to her, I decided to go down to Long Palace once.
As you know, I died by suicide in Loa Thanh well. Now I no longer have a physical body but am just a small spirit. I'm afraid of the light so I can't go see my wife during the day. I decided that when night falls, I will go to her immediately. It was dark, the trees that were lifeless and harmless during the day and night suddenly became scary and dark. The forest was pitch black, the leaves gently stirred against each other, mixed with the sound of the wind suddenly becoming a guttural sound. Thanks to that forest, I can avoid people. It's past midnight, my heart is cold now, I half want to stay and half want to go because I don't know if Mi Chau will forgive me, but despite my hesitation, the wind still unintentionally pushes my soul away. sharp. Even though it's far, I'm not tired, I don't need to rest for a minute. Finally, the East Sea gradually appeared before me.
After committing suicide at Loa Thanh well, going down to the Aquarium, Trong Thuy met Mi Chau again
I approached, feeling a bit cowardly because I had hesitated along the way. But in the end, because of Mi Chau's unjust death and the long-standing love between husband and wife, it inspired a "sinner" soul, but I had to go to her side immediately. I walked into the sea, the sea was cold now. Even though it was cold, it couldn't hurt my soul. I swam straight to the bottom of the sea, and the magnificent aquarium appeared before my eyes. I approached, but unfortunately a nasty green moss grabbed my leg. It's strange? I am a soul, how can moss hold the feet of a soul? I thought and thought that this must be the magic moss, a moss that has the same meaning as a red thread that keeps Mi Chau and I meeting again.
Indeed, just a moment later, the aquarium door gradually opened, and Mi Chau walked out, still with the same face, still with the same hair, but the smile on her lips had disappeared. Mi Chau went out to harvest seaweed. She approached the moss that had wrapped my leg. She was startled and cried out:
– Trong…Thuy…is he?
Her tears flowed out and turned into pearls as they mixed with the salty taste of the East Sea, she hugged me. I stammered:
– Will you... will you forgive me?
Mi Chau would shake her head, look at me once, then she would sneak her eyes to the left. Now her eyes were blurrier than before, she said:
– Why do you treat me like that? The love I gave him was a sincere wish, but he betrayed me out of filial piety. If I now accept with you the full meaning of husband and wife, then wouldn't I be unfilial and unjust?
I'm in pain but I don't know what to do. I made the mistake and this tragic outcome must be my responsibility. Really, could a simple "sorry" from me make her feel better?
Faced with that decision of Mi Chau, I had to say goodbye:
- I'm sorry Mi Chau, before I betrayed you because of filial piety, but after seeing your pearl body through the goose feather coat, I realized that I love you very much. Now that you have said that, I have no choice but to return to Diem Phu to transform into an animal to atone for my sins.
Mi Chau didn't say a word, but seeing her sad eyes, I knew she was wondering and having a hard time. She turned towards the rising sun, the first rays of sunlight appeared, it colored the entire deep Dragon Palace pink. She turned around and said quickly:
– You should go quickly!
|
Bài làm
I – NHỮNG KIẾN THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả và thòi điểm tác phẩm ra đời
2. Tri thức văn hoá
Quân Mông – Nguyên là đạo quân thiện chiến, vó ngựa của chúng đã từng tung hoành trên một vùng không gian rộng lớn từ Âu sang Á. Nhưng khi xâm lược Việt Nam, chúng đã ba lần chịu thất bại nhục nhã. Một bài thơ của sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu viết đã phần nào ghi lại tâm trạng sợ hãi của quân xâm lược khi đến nước ta:
Kim qua ảnh lí đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh.
(Trong bóng loè của binh khí, lòng son cay đắng,
Giữa tiếng rộn của trống đồng, tóc bạc mọc ra.)
Chính những con người với phẩm chất anh hùng như Phạm Ngũ Lão đã làm nên hào khí Đông A chói lọi đó.
3. Tri thức về thể loại
Bài thơ thuộc thể thơ Đường luật tứ tuyệt. Một bài thơ kể cả tứ tuyệt hay thất ngôn bát cú thường được cấu tạo bởi hai phần khác nhau rõ rệt. Phần đầu thường là các cảnh vật hay sự việc (gọi tắt là cảnh vã sự). Các cảnh và sự này gọi nên ở nhà thơ những suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc (gọi là tình), số câu chữ dành cho cảnh, sự và tình không cố định ở các bài thơ. Có bài thì cảnh và sự được nói nhiều, có bài tình lại chiếm nhiều câu chữ hơn. Trong bài thơ này, hai câu đầu dành cho cảnh và sự, hai câu sau dành cho suy tư, cảm xúc.
Phân tích bài thơ Tỏ Lòng
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
a) Những khái niệm cần chú ý
Trong bài thơ, cần chú ý một số khái niệm như: giang son, khí thôn ngưu, nam nhi, công danh trái, Vũ hầu.
Khí thôn ngưu có hai cách dịch: khí thế nuốt trôi trâu và khí thế át sao Ngưu. Theo các nhà nghiên cứu, ở đây nên hiểu “khí thôn ngưu” là khí thế nuốt trôi trâu. Đỗ Phủ có thơ: “Tiểu nhi ngũ tuế, khí thôn ngưu” (Đứa trẻ năm tuổi đã có khí thế mạnh mẽ có thể nuốt trôi trâu). Nhà thơ Việt Nam Nguyễn Trung Ngạn cũng có câu thơ: “Mậu linh dĩ hữu thôn ngưu chí” (Thuở thiếu niên đã có chí nuốt trôi trâu).
b) Hình tượng tác giả
Đặc điểm của thơ trung đại là thường tỉnh lược chủ ngữ, nên về hình thức, khó kết luận ai là chủ thể của hành động trong bài thơ (Ai cầm ngang ngọn giáo? Nam nhi là ai? Ai thẹn?). Nhưng có thể hiểu nhân vật trữ tình ở đây là chính tác giả. Cách viết tỉnh lược chủ ngữ có hiệu quả là các cảm nghĩ, suy tư mang tính tập thể, tính cộng đồng cao.
“Cái tôi” tác giả hiện lên qua hai hình tượng chính. Thứ nhất là hình tượng người nam nhi hiện ra dưới dạng hồi tưởng (hiểu là đã từng như thế): cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông trong khí thế dũng mãnh của ba quân. Đó là hình tượng một người chiến binh có tầm vóc vũ trụ. Hình tượng thứ hai là dáng vẻ trầm tư suy nghĩ về nợ công danh, về một hình mẫu nam nhi lí tưởng như Vũ hầu. Hai hình tượng này kết họp lại sẻ cho ta một nhân vật anh hùng tiêu biểu của thời Trần: đã cống hiến tài năng, sức lực cho đất nước nhưng vẫn cảm thấy chưa đủ, vẫn khát khao cống hiến nhiều hơn, trở thành người trí dũng song toàn. Hình tượng “cái tôi” thứ nhất gợi không khí hào hùng, âm vang, hình tượng “cái tôi” thứ hai lại trầm lắng, đầy chất suy tư. Tác giả không thoả mãn với chính mình. Đó có thể là bài học sâu sắc nhất qua bài thơ.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
a) Kết cấu của bài thơ
Bài thơ này có hai phần rõ rệt, theo nguyên tắc “tức cảnh sinh tình” (lòng tiếp xúc với cảnh mà cảm xúc, suy nghĩ nảy sinh). Phần thứ nhất gồm hai câu thơ đầu:
Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu.)
Tác giả hồi tưởng lại cảnh tượng bản thân mình cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn và khí thế hừng hực của các binh sĩ (ba quân) trong những năm chống quân Mông – Nguyên xâm lược. Hai câu thơ phác hoạ một cách súc tích toàn cảnh con người và đất nước ta thế kỉ XIII, thòi kì có những chiến công hiển hách.
Phần thứ hai (hai câu còn lại):
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.)
Là những suy nghĩ sâu lắng, riêng tư của tác giả khi mường tượng lại các cảnh tượng đó. Trước hết là suy nghĩ về việc bản thân chưa trang trải trọn vẹn món nợ công danh, tức là chưa thể hiện trọn vẹn khát vọng và lí tưởng làm trai. Có thể đây chỉ là cách nói khiêm tốn mà cũng có thể là khao khát muốn đạt tới tầm vóc của bậc tướng có trí tuệ và kiến thức uyên bác như Vũ hầu Gia Cát Lượng.
|
Assignment
I – SUPPORTING KNOWLEDGE
1. About the author and the time when the work was created
2. Cultural knowledge
The Mongol - Yuan army was a battle-hardened army, their horses' hooves once roamed a large space from Europe to Asia. But when they invaded Vietnam, they suffered humiliating defeat three times. A poem written by the Nguyen Dynasty envoy Tran Phu partly captured the fear of the invaders when they came to our country:
Kim through the image of the heart is suffering,
Ancient bronze, clear and white arise.
(In the flash of weapons, the bitterness of my heart,
Amid the bustling sound of bronze drums, gray hair grows.)
It was people with heroic qualities like Pham Ngu Lao who created that brilliant Dong A spirit.
3. Genre knowledge
The poem belongs to the four-point Tang Luat poetry form. A poem, including quatrains or quatrains, is often composed of two distinctly different parts. The first part is usually scenes or events (referred to as scenes). These scenes and events call forth thoughts, moods, and emotions in the poet (called emotions). The number of words devoted to scenes, events, and emotions is not fixed in poems. In some songs, scenes and events are talked about a lot, in some love songs, there are more words. In this poem, the first two lines are for scenes and events, the last two lines are for thoughts and feelings.
Analyze the poem To Express Your Heart
II – ANALYSIS OF THE WORK
1. Content characteristics
a) Concepts that need attention
In the poem, it is necessary to pay attention to a number of concepts such as: river, village ox, manhood, fame and fortune, Vu marquis.
There are two ways to translate the village aura: the aura that swallows buffaloes and the aura that overwhelms the Taurus star. According to researchers, here we should understand "village spirit" as the spirit of swallowing buffaloes. Du Phu wrote a poem: "The five-year-old child has the spirit of the village" (The five-year-old child already has a strong spirit that can swallow a buffalo). Vietnamese poet Nguyen Trung Ngan also has the verse: "Mau Linh can destroy the village of Nguu Chi" (When you were a teenager, you had the will to swallow the buffalo).
b) Author image
The characteristic of medieval poetry is that it often omits the subject, so in terms of form, it is difficult to conclude who is the subject of the action in the poem (Who holds the spear? Who is the man? Who is shy?). But it can be understood that the lyrical character here is the author himself. The effective way to write a summary of the subject is that the feelings and thoughts are collective and highly communal.
The author's "I" appears through two main images. First, the image of a man appears in the form of a flashback (understanding that he once was): holding a spear horizontally, defending the mountains and rivers in the mighty spirit of three armies. It is the image of a warrior of cosmic stature. The second image is the look of contemplation thinking about debt and reputation, about an ideal male model like Marquis Vu. These two images combined give us a typical heroic character of the Tran Dynasty: he has devoted his talent and strength to the country but still feels it is not enough, still desires to contribute more, to become a better person. wisdom and courage are perfect. The first "I" image evokes a heroic, resonant atmosphere, while the second "I" image is quiet, full of contemplation. The author is not satisfied with himself. That may be the most profound lesson through the poem.
2. Artistic characteristics
a) Structure of the poem
This poem has two distinct parts, according to the principle "the scene creates love" (the heart comes into contact with the scene where emotions and thoughts arise). The first part includes the first two verses:
Hoang Soc Giang Son celebrates autumn,
Tam Quan, Pi Tiger, Village Niuu Qi.
(Hold the spear horizontally to guard the mountains and rivers for many autumns,
The three armies are like tigers and leopards, their mighty aura swallows buffaloes.)
The author recalls the scene of himself holding a spear to protect the country and the fiery spirit of the soldiers (three armies) during the years of fighting the Mongol-Yuan invaders. The two verses concisely sketch out the panorama of our people and country in the 13th century, a period of glorious victories.
Part two (remaining two sentences):
A man's willow merit and reputation are left,
Cultivation of the false hearing of Vu Hau.
(As a man, I have not yet paid off my debt,
I felt embarrassed when I heard people tell the story of Marquis Vu.)
These are the author's deep, private thoughts when imagining those scenes. First of all, think about the fact that you have not fully paid off your professional debt, that is, you have not fully expressed your aspirations and ideals as a man. Maybe this is just a humble way of speaking, but it could also be a desire to reach the stature of a general with great wisdom and knowledge like Marquis Wu Zhuge Liang.
|
Bài làm
I – NHỮNG KIẾN THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả và thòi điểm tác phẩm ra đời
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), là bậc đại anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có, nhưng là người phải chịu nhiều oan khiên thảm khốc dưới chế độ phong kiến. Ông là danh nhân văn hoá, là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất. Ông có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển của văn hoá, văn học dân tộc, một con người suốt đời canh cánh nỗi lo cho dân cho nước.
Không có tài liệu nào viết trực tiếp về thời điểm ra đời của bài thơ. Theo Bùi Duy Tân, có thể nghĩ ràng bài thơ được viết vào thời trị vì của Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông. Sự suy luận này có cản cứ vì cuộc sống được tả trong bài thơ có không khí thời bình, có nét thịnh vượng. Là một người hết lòng lo cho dân cho nước, lại đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh tàn phá khốc liệt, Nguyễn Trãi hết sức trân trọng và biết rõ giá trị của những tháng ngày hoà bình trên đất nước mình.
Theo Tiểu dẫn ở SGK, Quốc âm thi tập được chia làm bốn phần: Vỡ đề, Môn thì lệnh (Thời tiết), Môn hoa mộc (Cây cỏ), Môn cầm thú (Thú vật).
Phần Vô đề gồm toàn thơ không có tựa đề, nhưng được sắp xếp thành một số mục: Ngôn chí (Nói lên chí hướng), Mạn thuật (Kể ra một cách tản mạn), Tự thán (Tự than), Tự thuật (Tự nói về mình), Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình),… Mục Bảo kính cảnh giới gồm 61 bài, Cảnh ngày hè là bài số 43.
2. Tri thức văn hoá
Theo quan niệm xưa, nhà nho là nhân vật kinh bang tế thế (tạm dịch là dựng nước giúp đời). Họ tự nhận lãnh sứ mệnh trên vì vua, dưới vì dân, đem tài năng và học vấn ra phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Vì nhà nho đồng nhất vua với nước nên ngay cả khi nói đến trung quân (trung với vua) thì cũng tức là nói đến ái quốc (yêu nước). Tâm sự vì nước vi dân, lo cho dân cho nước là một mạch tâm sự chủ đạo trong thơ Nguyễn Trãi. Có thể kể khá nhiều câu thơ của Nguyễn Trãi cho thấy tấm lòng vì dân vì nước của ông:
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền.
Bằng tôi nào thuở ích chưng dân.
Tư tưởng vì dân vì nước trong bài thơ Cảnh ngày hè nằm trong mạch chung đó.
3. Tri thức về thể loại
Bài thơ này tuy câu mở đầu và kết thúc có dạng lục ngôn (sáu chữ) nhưng vẫn có những nét đặc trưng của thơ Đường luật. (Xem lại bài Tỏ lòng, mục I. 3. trong sách này). Chú ý mối quan hệ giữa cảnh, sự (tức các yếu tố thuộc hiện thực khách quan) và tình (tâm trạng, tình cảm, suy nghĩ) của tác giả được thể hiện trong bài thơ: cảm xúc nảy sinh trên cơ sở tác giả quan sát những cảnh và sự việc nào?
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
a) Những khái niệm cần chú ý
Bài thơ này có nhắc đến việc gảy đàn Ngu cầm. Theo truyền thuyết, Ngu là tên một triều đại thái bình thịnh trị lí tưởng thời cổ do vua Thuấn lập nên. Ngu cầm là đàn của vua Thuấn, ông thường gảy khúc Nam phong (Gió nam) mong cho gió nam mát mẻ, gió nam thổi đúng lúc để dân giàu có, hết ưu phiền. Chú ý hình tượng “cây đàn” có chức năng giống như một bài thơ, theo quan niệm xưa, là hình thức bộc lộ chí nguyện, tâm nguyện của tác giả. Ước mơ có cây đàn Ngu Thuấn có thể hiểu theo hai cách. Cách hiểu thứ nhất: Đây là niềm vui khi thấy cảnh đất nước thái bình, thịnh trị, tác giả hứng khởi trước cảnh hè nên ước ao có cây đàn ca ngợi cảnh “Dân giàu đủ, khắp đòi phương”. Cách hiểu thứ hai: Tác giả ước mơ có cây đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam phong, mong cho dân khắp đất nước được hạnh phúc, giàu đủ mãi mãi. Mỗi cách hiểu đều có lí riêng, tuy nhiên như sự phân tích chỉ rõ, cách hiểu thứ nhất có cơ sở hơn.
Không gian thiên nhiên và xã hội được tả như trong bài thơ bộc lộ rõ cảnh thái bình, thịnh trị. Cảm hứng ca ngợi, khẳng định hiện thực thời vua Thái Tổ, Thái Tông, tức là ca ngợi, khẳng định cuộc sống của nhân dân rất rõ nét qua ước ao có “Ngu cầm”. Nói khác đi, “Ngu cầm” là tượng trưng cho tấm lòng thương yêu dân, biết chia sẻ với dân những niềm vui hạnh phúc.
b) Hình tượng tác giả
Chủ ngữ của hành động trong bài thơ này cũng bị tỉnh lược (ta không rõ ai hóng mát, ai muốn có cây đàn Ngu Thuấn). Tuy nhiên, người đọc đều hiểu chủ thể của các hành động trên là chính tác giả. Nhân vật trữ tình ở đây chính là tác giả.
Thời gian trong đó xuất hiện nhân vật trữ tình là mùa hè với những cảnh vật và sự việc được chọn lọc khá tiêu biểu. Chú ý tác giả cảm nhận mùa hè qua các giác quan như thế nào: mắt nhìn thấy cây hoè xanh lục với “tán rợp giương” (xoè bóng mát), thấy hoa lựu đỏ, phối họp với màu xanh lục, mắt nhìn màu hồng và mũi cảm nhận hương thơm ngát của sen dưới ao, tai nghe từ xa vọng lại tiếng lao xao của phiên chợ cá, và xung quanh tiếrig ve kêu râm ran. Mùa hè thường nóng nực, khó chịu nhưng mùa hè qua cảm nhận của tác giả không hề gợi nên ấn tượng nóng nực, chói chang mà trái lại, một ấn tượng dễ chịu, đáng yêu. Cảnh hè ở bài thơ đầy thân thiện, chan hoà sự sống. Không gian mùa hè có ý nghĩa gì? Nó tạo nên không khí và quang cảnh để dẫn dắt liên tưởng đến khúc ca Nam phong mừng cảnh đất nước thái bình thịnh trị. “Cái tôi” tác giả mừng vui vì được chứng kiến cảnh thái bình, thịnh trị của đất nước, cuộc sống no đủ, thanh bình của nhân dân ; sự mừng vui đó đã quyết định cái nhìn đẹp về cảnh mùa hè. Đây là nét độc đáo của bài thơ, vì thơ xưa thường viết nhiều về cái đẹp của mùa xuân, mùa thu, đặc biệt là mùa thu mà hiếm có bài viết về mùa hè.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
a) Kết cấu của bài thơ
Bài thơ tuy có tám câu nhưng có đặc điểm riêng là phần tả cảnh và sự việc chiếm tới sáu câu, cảm xúc suy tư chỉ có hai câu cuối cùng. Do đó không nên chia bài thơ này thành bốn phần đề, thực, luận, kết để phân tích mà chỉ nên tách thành hai phần.
Phần thứ nhất gồm sáu câu đầu: một câu kể sự việc “hóng mát”, năm câu còn lại dành cho tả cảnh. Chú ý cấu trúc không gian được tả nhằm tạo nên bức tranh toàn cảnh với hai cực đối xứng gần – xa (gần có tán cây hoè, hàng thạch lựu bên hiên nhà, xa có tiếng lao xao vọng lại từ đâu đó tiếng mua bán của phiên chợ cá) và đối xứng trên – dưới (trên là tiếng ve – thường trên ngọn cây; dưới là những bông sen hồng dưới ao). Nhìn chung thơ xưa tả không gian thường chú ý các cặp đối xứng để tạo nên tính chất toàn cảnh, tính chất rộng lớn của bức tranh thiên nhiên.
Phần thứ hai gồm hai câu cuối: suy nghĩ, thể hiện niềm vui của một nhà nho suốt đời vì dân vì nước. Một cảm giác mát mẻ, thanh bình, no ấm được gọi nên từ cảnh mùa hè đã dấy lên một khao khát được cây đàn của Ngu Thuấn để ngợi ca và mong ước cảnh thái bình ấy trường cửu trên khắp đất nước – “khắp đòi phương”. Nghệ thuật kết cấu của bài thơ là chọn những cảnh và sự tiêu biểu của ngày hè có thể gợi ra cảm xúc, suy tư. Sự ưu tiên cho tả cảnh ở bài thơ này là hợp lí: cảnh tự nó nói lên tất cả, sự bình luận hay suy tư phải dựa trên cảnh, tức là hiện thực cuộc sống mới có sức thuyết phục.
b) Ngôn ngữ
Chú ý các từ ngữ giàu tính tạo hình của bài thơ như màu xanh của tán hoè “đùn đùn”, cây thạch lựu “phun” màu đỏ. Các từ này làm cho cảnh vật sống động, dường như biết cựa quậy, cử động, có hồn.
Cấu trúc câu thơ trong toàn bài cũng có sự thay đổi: Ba câu thơ số 2, 3 và 4 nhắc đến cây hoè, thạch lựu, sen trước rồi mới tả màu sắc, hương vị, hình khối của chúng, tức là tả đối tượng trước sau đó mới tả tính chất của đối tượng. Hai câu 5 và 6 đảo lại trật tự: tả không khí lao xao của chợ trước khi nhắc đến phiên chợ cá của làng chài, tả tiếng ve inh ỏi trước khi tả nơi nghe tiếng ve (trên lầu), tức là tả tính chất, đặc điểm và hoạt động trước rồi mói nói đến đối tượng. Thay đổi kết cấu của câu thơ như thế có ý nghĩa quan trọng, khiến bài thơ không lặp lại, luôn mới mẻ về tiết tấu, nhịp điệu. So sánh sự thay đổi nhịp của những câu thơ dưới đây:
Thạch lựu hiên/ còn phun thức đỏ,
|
Bài làm
I – NHỮNG KIẾN THỨC BỔ TRỢ
1. Về tác giả và thòi điểm tác phẩm ra đời
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), là bậc đại anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có, nhưng là người phải chịu nhiều oan khiên thảm khốc dưới chế độ phong kiến. Ông là danh nhân văn hoá, là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất. Ông có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp phát triển của văn hoá, văn học dân tộc, một con người suốt đời canh cánh nỗi lo cho dân cho nước.
Không có tài liệu nào viết trực tiếp về thời điểm ra đời của bài thơ. Theo Bùi Duy Tân, có thể nghĩ ràng bài thơ được viết vào thời trị vì của Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông. Sự suy luận này có cản cứ vì cuộc sống được tả trong bài thơ có không khí thời bình, có nét thịnh vượng. Là một người hết lòng lo cho dân cho nước, lại đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh tàn phá khốc liệt, Nguyễn Trãi hết sức trân trọng và biết rõ giá trị của những tháng ngày hoà bình trên đất nước mình.
Theo Tiểu dẫn ở SGK, Quốc âm thi tập được chia làm bốn phần: Vỡ đề, Môn thì lệnh (Thời tiết), Môn hoa mộc (Cây cỏ), Môn cầm thú (Thú vật).
Phần Vô đề gồm toàn thơ không có tựa đề, nhưng được sắp xếp thành một số mục: Ngôn chí (Nói lên chí hướng), Mạn thuật (Kể ra một cách tản mạn), Tự thán (Tự than), Tự thuật (Tự nói về mình), Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình),… Mục Bảo kính cảnh giới gồm 61 bài, Cảnh ngày hè là bài số 43.
2. Tri thức văn hoá
Theo quan niệm xưa, nhà nho là nhân vật kinh bang tế thế (tạm dịch là dựng nước giúp đời). Họ tự nhận lãnh sứ mệnh trên vì vua, dưới vì dân, đem tài năng và học vấn ra phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Vì nhà nho đồng nhất vua với nước nên ngay cả khi nói đến trung quân (trung với vua) thì cũng tức là nói đến ái quốc (yêu nước). Tâm sự vì nước vi dân, lo cho dân cho nước là một mạch tâm sự chủ đạo trong thơ Nguyễn Trãi. Có thể kể khá nhiều câu thơ của Nguyễn Trãi cho thấy tấm lòng vì dân vì nước của ông:
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền.
Bằng tôi nào thuở ích chưng dân.
Tư tưởng vì dân vì nước trong bài thơ Cảnh ngày hè nằm trong mạch chung đó.
3. Tri thức về thể loại
Bài thơ này tuy câu mở đầu và kết thúc có dạng lục ngôn (sáu chữ) nhưng vẫn có những nét đặc trưng của thơ Đường luật. (Xem lại bài Tỏ lòng, mục I. 3. trong sách này). Chú ý mối quan hệ giữa cảnh, sự (tức các yếu tố thuộc hiện thực khách quan) và tình (tâm trạng, tình cảm, suy nghĩ) của tác giả được thể hiện trong bài thơ: cảm xúc nảy sinh trên cơ sở tác giả quan sát những cảnh và sự việc nào?
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
a) Những khái niệm cần chú ý
Bài thơ này có nhắc đến việc gảy đàn Ngu cầm. Theo truyền thuyết, Ngu là tên một triều đại thái bình thịnh trị lí tưởng thời cổ do vua Thuấn lập nên. Ngu cầm là đàn của vua Thuấn, ông thường gảy khúc Nam phong (Gió nam) mong cho gió nam mát mẻ, gió nam thổi đúng lúc để dân giàu có, hết ưu phiền. Chú ý hình tượng “cây đàn” có chức năng giống như một bài thơ, theo quan niệm xưa, là hình thức bộc lộ chí nguyện, tâm nguyện của tác giả. Ước mơ có cây đàn Ngu Thuấn có thể hiểu theo hai cách. Cách hiểu thứ nhất: Đây là niềm vui khi thấy cảnh đất nước thái bình, thịnh trị, tác giả hứng khởi trước cảnh hè nên ước ao có cây đàn ca ngợi cảnh “Dân giàu đủ, khắp đòi phương”. Cách hiểu thứ hai: Tác giả ước mơ có cây đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam phong, mong cho dân khắp đất nước được hạnh phúc, giàu đủ mãi mãi. Mỗi cách hiểu đều có lí riêng, tuy nhiên như sự phân tích chỉ rõ, cách hiểu thứ nhất có cơ sở hơn.
Không gian thiên nhiên và xã hội được tả như trong bài thơ bộc lộ rõ cảnh thái bình, thịnh trị. Cảm hứng ca ngợi, khẳng định hiện thực thời vua Thái Tổ, Thái Tông, tức là ca ngợi, khẳng định cuộc sống của nhân dân rất rõ nét qua ước ao có “Ngu cầm”. Nói khác đi, “Ngu cầm” là tượng trưng cho tấm lòng thương yêu dân, biết chia sẻ với dân những niềm vui hạnh phúc.
b) Hình tượng tác giả
Chủ ngữ của hành động trong bài thơ này cũng bị tỉnh lược (ta không rõ ai hóng mát, ai muốn có cây đàn Ngu Thuấn). Tuy nhiên, người đọc đều hiểu chủ thể của các hành động trên là chính tác giả. Nhân vật trữ tình ở đây chính là tác giả.
Thời gian trong đó xuất hiện nhân vật trữ tình là mùa hè với những cảnh vật và sự việc được chọn lọc khá tiêu biểu. Chú ý tác giả cảm nhận mùa hè qua các giác quan như thế nào: mắt nhìn thấy cây hoè xanh lục với “tán rợp giương” (xoè bóng mát), thấy hoa lựu đỏ, phối họp với màu xanh lục, mắt nhìn màu hồng và mũi cảm nhận hương thơm ngát của sen dưới ao, tai nghe từ xa vọng lại tiếng lao xao của phiên chợ cá, và xung quanh tiếrig ve kêu râm ran. Mùa hè thường nóng nực, khó chịu nhưng mùa hè qua cảm nhận của tác giả không hề gợi nên ấn tượng nóng nực, chói chang mà trái lại, một ấn tượng dễ chịu, đáng yêu. Cảnh hè ở bài thơ đầy thân thiện, chan hoà sự sống. Không gian mùa hè có ý nghĩa gì? Nó tạo nên không khí và quang cảnh để dẫn dắt liên tưởng đến khúc ca Nam phong mừng cảnh đất nước thái bình thịnh trị. “Cái tôi” tác giả mừng vui vì được chứng kiến cảnh thái bình, thịnh trị của đất nước, cuộc sống no đủ, thanh bình của nhân dân ; sự mừng vui đó đã quyết định cái nhìn đẹp về cảnh mùa hè. Đây là nét độc đáo của bài thơ, vì thơ xưa thường viết nhiều về cái đẹp của mùa xuân, mùa thu, đặc biệt là mùa thu mà hiếm có bài viết về mùa hè.
2. Đặc điểm về nghệ thuật
a) Kết cấu của bài thơ
Bài thơ tuy có tám câu nhưng có đặc điểm riêng là phần tả cảnh và sự việc chiếm tới sáu câu, cảm xúc suy tư chỉ có hai câu cuối cùng. Do đó không nên chia bài thơ này thành bốn phần đề, thực, luận, kết để phân tích mà chỉ nên tách thành hai phần.
Phần thứ nhất gồm sáu câu đầu: một câu kể sự việc “hóng mát”, năm câu còn lại dành cho tả cảnh. Chú ý cấu trúc không gian được tả nhằm tạo nên bức tranh toàn cảnh với hai cực đối xứng gần – xa (gần có tán cây hoè, hàng thạch lựu bên hiên nhà, xa có tiếng lao xao vọng lại từ đâu đó tiếng mua bán của phiên chợ cá) và đối xứng trên – dưới (trên là tiếng ve – thường trên ngọn cây; dưới là những bông sen hồng dưới ao). Nhìn chung thơ xưa tả không gian thường chú ý các cặp đối xứng để tạo nên tính chất toàn cảnh, tính chất rộng lớn của bức tranh thiên nhiên.
Phần thứ hai gồm hai câu cuối: suy nghĩ, thể hiện niềm vui của một nhà nho suốt đời vì dân vì nước. Một cảm giác mát mẻ, thanh bình, no ấm được gọi nên từ cảnh mùa hè đã dấy lên một khao khát được cây đàn của Ngu Thuấn để ngợi ca và mong ước cảnh thái bình ấy trường cửu trên khắp đất nước – “khắp đòi phương”. Nghệ thuật kết cấu của bài thơ là chọn những cảnh và sự tiêu biểu của ngày hè có thể gợi ra cảm xúc, suy tư. Sự ưu tiên cho tả cảnh ở bài thơ này là hợp lí: cảnh tự nó nói lên tất cả, sự bình luận hay suy tư phải dựa trên cảnh, tức là hiện thực cuộc sống mới có sức thuyết phục.
b) Ngôn ngữ
Chú ý các từ ngữ giàu tính tạo hình của bài thơ như màu xanh của tán hoè “đùn đùn”, cây thạch lựu “phun” màu đỏ. Các từ này làm cho cảnh vật sống động, dường như biết cựa quậy, cử động, có hồn.
Cấu trúc câu thơ trong toàn bài cũng có sự thay đổi: Ba câu thơ số 2, 3 và 4 nhắc đến cây hoè, thạch lựu, sen trước rồi mới tả màu sắc, hương vị, hình khối của chúng, tức là tả đối tượng trước sau đó mới tả tính chất của đối tượng. Hai câu 5 và 6 đảo lại trật tự: tả không khí lao xao của chợ trước khi nhắc đến phiên chợ cá của làng chài, tả tiếng ve inh ỏi trước khi tả nơi nghe tiếng ve (trên lầu), tức là tả tính chất, đặc điểm và hoạt động trước rồi mói nói đến đối tượng. Thay đổi kết cấu của câu thơ như thế có ý nghĩa quan trọng, khiến bài thơ không lặp lại, luôn mới mẻ về tiết tấu, nhịp điệu. So sánh sự thay đổi nhịp của những câu thơ dưới đây:
Thạch lựu hiên/ còn phun thức đỏ,
|
Bài làm
I – NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN
Ca dao hài hước, châm biếm là những bài ca dao để giải trí hoặc phê phán những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống. Cũng như truyện cười, vè, ca dao hài hước, châm biếm thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng Việt Nam như: đối lập, phóng đại, chơi chữ, ngoa dụ. Những bài ca dao hài hước đã chứng tỏ sự thông minh, tinh thần đấu tranh và lạc quan của người Việt Nam trong cuộc sống.
Khái niệm cái cười và cái đáng cười, tiếng cười hài hước có ý nghĩa mua vui, giải trí và tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội đã được trình bày ở phần I – Những tri thức bổ trợ trong bài Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày trong sách này.
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
Bài 1
Đây là tiếng cười tự trào (tự cười mình) mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai – cô gái về việc dẫn cưới và thách cưới có những điều lạ lùng. Cưới xin là những công việc quan trọng của một đời người nhưng ta hãy nghe họ nói với nhau những gì.
Bài ca có kết cấu hai vế đối đáp quen thuộc, vế đầu là lời chàng trai. Bằng lối nói khoa trưong, phóng đại, anh nói với nàng về lễ vật dẫn cưới mà mình lựa chọn để hỏi cưới nàng. Một loạt biện pháp đối lập: tự nêu ra, nâng lên rồi lại tự phủ định:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Chàng trai đã khéo chọn lí do rất họp lí để phủ định những đồ dẫn cưới cao sang, để tạo nên sự giảm dần: voi -> trâu -> bò -> chuột. Chẳng ai đi dẫn cưới bằng chuột. Nếu bình thường, người nghe có thể cho đây là lối nói mĩ tự, ba hoa hoặc coi thường bạn gái, nhưng nghe lời đối đáp của cô gái thì chúng ta hiểu rằng họ đã rất hiểu nhau.
Cô gái đáp lại cũng bằng lối đùa vui như thế, không mĩ tự, không tự đề cao mà cũng theo lối nói giảm dần: củ to -> củ nhỏ -> củ mẻ -> củ rím, củ hà. Cách nói vui đùa thể hiện ngay ở câu đầu:
Chàng dẫn thế, em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
Chàng trai dẫn cưới bằng thú bốn chân (chuột) đã lạ đời. Ở đây cô gái lại thách cưới bằng một nhà khoai lang thì có lẽ trên đời chưa từng có. Cô lại phân loại cả “nhà khoai” ấy thành các loại trong sự tính toán tỉ mỉ, kĩ càng. Củ to mời làng ; củ nhỏ mời họ hàng ; củ mẻ cho trẻ ăn ; củ rím, củ hà thì cho gà, lợn ăn. Đây là một chàng trai biết lo xa, biết tính toán và có trách nhiệm với nhà gái ; còn cô gái thì tỏ ra là một cô gái thật biết quán xuyến việc nhà, tằn tiện lo toan. Bài ca dao là tiếng cười vui, sảng khoái, cười cợt với cái nghèo của mình và của bạn. Họ không mặc cảm, tự ti khi nói ra cái nghèo của mình, và họ cũng tỏ ra bình thản, thông cảm với cái nghèo của bạn biết bao. Phải chăng khi hai người đối đáp xong bài ca, cả hai cùng cười vui giòn giã. Quả là người Việt Nam có tâm hồn thật khoẻ khoắn, lạc quan, dẫu trong cảnh ngộ nào cũng có thể tìm thấy cái lẽ vui sống một cách lành mạnh, khiến cho họ dường như không bao giờ bị đè bẹp bởi hoàn cảnh mà luôn đứng cao hơn hoàn cảnh.
Nghệ thuật gây cười của bài ca là nghệ thuật nâng cao – hạ thấp, lựa chọn sự vật phù hợp với lập luận của mình để đưa ra các chi tiết hài hước nhất, làm điểm nhấn tạo nên cao trào bật ra tiếng cười:
– Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
– Bao nhiêu củ rím, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Thách cưới bằng khoai lang và còn phải lo cả củ rim, củ hà nửa thì thật nực cười. Thủ pháp gây cười là tạo nên chi tiết sinh động làm bật ra tiếng cười với chi tiết hài hước sinh động nhất.
Phân tích bài Ca dao hài hước
Bài 2,3:
Hai bài ca dao này cùng có chung cảm hứng phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Nghệ thuật tạo dựng cái cười là biết đi vào khai thác những cái trái tự nhiên, trái với những quy luật của cuộc sống hằng ngày. Cái đáng cười là cái chứa đựng mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong cái đáng cười này là lẽ ra những người đàn ông trong con mắt người đời, đặc biệt là trong xã hội phong kiến phụ quyền thì rất đỗi oai phong. Họ thuộc phái mạnh, luôn là chỗ dựa để người phụ nữ nương tựa (người phụ nữ xưa lấy chồng luôn mong mỏi được có chỗ dựa vững chắc, được “núp bóng tùng quân”).
Đã có bao câu ca lưu truyền mở đầu bằng hai chữ “làm trai” hàm ý tôn vinh bậc nam nhi:
– Làm trai quyết chí tang bồng
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
– Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan.
– Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cùng hệ thống câu mở đầu, nhưng những bài ca dao sau đây lại chứa đựng ý nghĩa khác. Hai bài ca tạo nên tiếng cười trào phúng bởi chúng được xây dựng nhờ thủ pháp đối lập, nâng cao để hạ thấp, đột ngột tạo sự bất ngờ:
Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng.
Những chữ đầu phản ánh chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh. Phải chăng chàng trai đang khom lưng chống gối gánh vác son hà? Nhưng không, chàng trai này lại “khom lưng chống gối” để “gánh hai hạt vừng”. Bài ca dao sử dụng thủ pháp nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, khoa trương phóng đại tối đa, phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác và chắc chắn yếu đuối cả về tinh thần.
Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa “chồng người” – “chồng ta”. Sự đối lập về không gian hoạt động “đi ngược về xuôi” <-> “ngồi bếp”. Ngồi bếp làm gì? Chỉ rụt rè sờ đuôi con mèo -> có khác chi con mèo lười nơi xó bếp? Qua đó tiếng cười hướng vào nhông “đức ông chồng” vô tích sự, lười nhác, ươn hèn, và còn rất nhiều những câu ca dao tương tự:
– Chồng người đi Hán về Hồ
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần.
– Chồng người lội suối trèo đèo
Chồng em cầm đũa đuổi mèo quanh mâm.
Bài 4:
Bài ca dao này phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, bẩn thỉu, vô duyên. Có một điều đặc biệt là truyện cười dân gian hay lấy nhân vật nam giới làm đối tượng gây cười như tham lam, khoác lác, lười biếng, phụ nữ ít bị trở thành đối tượng gây cười. Ca dao hài hước đã làm nhiệm vụ cân bằng lại sự thiếu khuyết đó. Trong ca dao trào phúng, không ít lần người phụ nữ bị phê phán, chê cười bởi những thói xấu của họ. Thủ pháp phóng đại, cường điệu được sử dụng tạo ấn tượng phê phán rất mạnh:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đèm nằm thì ngáy o o …
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!
|
Bài làm
I – NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN
Ca dao hài hước, châm biếm là những bài ca dao để giải trí hoặc phê phán những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống. Cũng như truyện cười, vè, ca dao hài hước, châm biếm thể hiện tập trung các nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng Việt Nam như: đối lập, phóng đại, chơi chữ, ngoa dụ. Những bài ca dao hài hước đã chứng tỏ sự thông minh, tinh thần đấu tranh và lạc quan của người Việt Nam trong cuộc sống.
Khái niệm cái cười và cái đáng cười, tiếng cười hài hước có ý nghĩa mua vui, giải trí và tiếng cười châm biếm, phê phán xã hội đã được trình bày ở phần I – Những tri thức bổ trợ trong bài Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày trong sách này.
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Đặc điểm về nội dung
Bài 1
Đây là tiếng cười tự trào (tự cười mình) mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai – cô gái về việc dẫn cưới và thách cưới có những điều lạ lùng. Cưới xin là những công việc quan trọng của một đời người nhưng ta hãy nghe họ nói với nhau những gì.
Bài ca có kết cấu hai vế đối đáp quen thuộc, vế đầu là lời chàng trai. Bằng lối nói khoa trưong, phóng đại, anh nói với nàng về lễ vật dẫn cưới mà mình lựa chọn để hỏi cưới nàng. Một loạt biện pháp đối lập: tự nêu ra, nâng lên rồi lại tự phủ định:
Cưới nàng, anh toan dẫn voi,
Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn.
Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
Chàng trai đã khéo chọn lí do rất họp lí để phủ định những đồ dẫn cưới cao sang, để tạo nên sự giảm dần: voi -> trâu -> bò -> chuột. Chẳng ai đi dẫn cưới bằng chuột. Nếu bình thường, người nghe có thể cho đây là lối nói mĩ tự, ba hoa hoặc coi thường bạn gái, nhưng nghe lời đối đáp của cô gái thì chúng ta hiểu rằng họ đã rất hiểu nhau.
Cô gái đáp lại cũng bằng lối đùa vui như thế, không mĩ tự, không tự đề cao mà cũng theo lối nói giảm dần: củ to -> củ nhỏ -> củ mẻ -> củ rím, củ hà. Cách nói vui đùa thể hiện ngay ở câu đầu:
Chàng dẫn thế, em lấy làm sang,
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà,
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang.
Chàng trai dẫn cưới bằng thú bốn chân (chuột) đã lạ đời. Ở đây cô gái lại thách cưới bằng một nhà khoai lang thì có lẽ trên đời chưa từng có. Cô lại phân loại cả “nhà khoai” ấy thành các loại trong sự tính toán tỉ mỉ, kĩ càng. Củ to mời làng ; củ nhỏ mời họ hàng ; củ mẻ cho trẻ ăn ; củ rím, củ hà thì cho gà, lợn ăn. Đây là một chàng trai biết lo xa, biết tính toán và có trách nhiệm với nhà gái ; còn cô gái thì tỏ ra là một cô gái thật biết quán xuyến việc nhà, tằn tiện lo toan. Bài ca dao là tiếng cười vui, sảng khoái, cười cợt với cái nghèo của mình và của bạn. Họ không mặc cảm, tự ti khi nói ra cái nghèo của mình, và họ cũng tỏ ra bình thản, thông cảm với cái nghèo của bạn biết bao. Phải chăng khi hai người đối đáp xong bài ca, cả hai cùng cười vui giòn giã. Quả là người Việt Nam có tâm hồn thật khoẻ khoắn, lạc quan, dẫu trong cảnh ngộ nào cũng có thể tìm thấy cái lẽ vui sống một cách lành mạnh, khiến cho họ dường như không bao giờ bị đè bẹp bởi hoàn cảnh mà luôn đứng cao hơn hoàn cảnh.
Nghệ thuật gây cười của bài ca là nghệ thuật nâng cao – hạ thấp, lựa chọn sự vật phù hợp với lập luận của mình để đưa ra các chi tiết hài hước nhất, làm điểm nhấn tạo nên cao trào bật ra tiếng cười:
– Miễn là có thú bốn chân,
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.
– Bao nhiêu củ rím, củ hà,
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Thách cưới bằng khoai lang và còn phải lo cả củ rim, củ hà nửa thì thật nực cười. Thủ pháp gây cười là tạo nên chi tiết sinh động làm bật ra tiếng cười với chi tiết hài hước sinh động nhất.
Phân tích bài Ca dao hài hước
Bài 2,3:
Hai bài ca dao này cùng có chung cảm hứng phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Nghệ thuật tạo dựng cái cười là biết đi vào khai thác những cái trái tự nhiên, trái với những quy luật của cuộc sống hằng ngày. Cái đáng cười là cái chứa đựng mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong cái đáng cười này là lẽ ra những người đàn ông trong con mắt người đời, đặc biệt là trong xã hội phong kiến phụ quyền thì rất đỗi oai phong. Họ thuộc phái mạnh, luôn là chỗ dựa để người phụ nữ nương tựa (người phụ nữ xưa lấy chồng luôn mong mỏi được có chỗ dựa vững chắc, được “núp bóng tùng quân”).
Đã có bao câu ca lưu truyền mở đầu bằng hai chữ “làm trai” hàm ý tôn vinh bậc nam nhi:
– Làm trai quyết chí tang bồng
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
– Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan.
– Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Cùng hệ thống câu mở đầu, nhưng những bài ca dao sau đây lại chứa đựng ý nghĩa khác. Hai bài ca tạo nên tiếng cười trào phúng bởi chúng được xây dựng nhờ thủ pháp đối lập, nâng cao để hạ thấp, đột ngột tạo sự bất ngờ:
Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng.
Những chữ đầu phản ánh chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh. Phải chăng chàng trai đang khom lưng chống gối gánh vác son hà? Nhưng không, chàng trai này lại “khom lưng chống gối” để “gánh hai hạt vừng”. Bài ca dao sử dụng thủ pháp nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, khoa trương phóng đại tối đa, phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác và chắc chắn yếu đuối cả về tinh thần.
Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa “chồng người” – “chồng ta”. Sự đối lập về không gian hoạt động “đi ngược về xuôi” <-> “ngồi bếp”. Ngồi bếp làm gì? Chỉ rụt rè sờ đuôi con mèo -> có khác chi con mèo lười nơi xó bếp? Qua đó tiếng cười hướng vào nhông “đức ông chồng” vô tích sự, lười nhác, ươn hèn, và còn rất nhiều những câu ca dao tương tự:
– Chồng người đi Hán về Hồ
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần.
– Chồng người lội suối trèo đèo
Chồng em cầm đũa đuổi mèo quanh mâm.
Bài 4:
Bài ca dao này phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, bẩn thỉu, vô duyên. Có một điều đặc biệt là truyện cười dân gian hay lấy nhân vật nam giới làm đối tượng gây cười như tham lam, khoác lác, lười biếng, phụ nữ ít bị trở thành đối tượng gây cười. Ca dao hài hước đã làm nhiệm vụ cân bằng lại sự thiếu khuyết đó. Trong ca dao trào phúng, không ít lần người phụ nữ bị phê phán, chê cười bởi những thói xấu của họ. Thủ pháp phóng đại, cường điệu được sử dụng tạo ấn tượng phê phán rất mạnh:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
Đèm nằm thì ngáy o o …
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu!
|
Bài làm
I – NHỮNG KIẾN THỨC BỔ TRỢ
1. Tri thức về thể loại
Truyện cười dân gian là những tác phẩm tự sự dân gian ngắn có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, có tác dụng gây cười nhằm mục đích giải trí hoặc phê phán, châm biếm, đả kích cái xấu xa.
Để hiểu về truyện cười dân gian, trước hết ta phải hiểu được cái cười, cái đáng cười, tiếng cười hài hướcvầ tiếng cười trào phúng.
Căn cứ vào ý nghĩa, chức năng của cái cười và cái đáng cười nêu ở trên, truyện cười dân gian được chia thành hai loại chính là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Hai truyện được chọn đưa vào SGK Ngữ văn 10 thuộc loại thứ hai: truyện cười trào phúng.
Phân tích truyện Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày
2. Một số điểm cần lưu ý
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Truyện Tam đại con gà
a) Đặc điểm về nội dung
Mở đầu truyện, tình huống mâu thuẫn đã được bộc lộ, tíre là cái cười đã được mai phục: “Xưa có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”. Ở anh học trò này chứa đựng mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, sự trống rỗng, dốt nát bên trong và sự khoe mẽ, lên mặt ta đây giỏi bề ngoài.
Từ sự giới thiệu khái quát chung đó, câu chuyện đi vào những chi tiết cụ thể: anh được mời dạy trẻ vì người ta tướng anh văn hay chữ tốt thật.
Vì thực chất kém cỏi, dốt nát mà lại nhận đi làm thầy dạy chữ nên tất nhiên anh học trò dốt phải đối mặt với những tình huống khó xử. Nhân buổi dạy sách Tam thiên tự, có chữ kê là gà với nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều “Dú dỉ là con dù dì”. Yếu tố hài hước là ở chỗ: thầy đi dạy chữ mà chữ tối thiểu cũng không biết, đã thế lại giấu dốt, dạy sai một cách liều lĩnh.
Do học trò hỏi gấp nên thầy cuống, nói liều chứ thầy cũng biết mình dốt nên bảo học trò đọc khẽ, “trong lòng vẫn thấp thỏm”.
Chi tiết thầy khấn thổ công nhà chủ “xem chữ ấy có phải thật là dù dì không” và được thổ công “cho cả ba đài” là chi tiết dẫn dắt hợp lí, tạo cho kịch tính trong truyện tiếp tục phát triển. Trước khi khấn thổ công, thầy còn thấp thỏm, “bảo học trò đọc khẽ”. Cách xử lí của thầy có phần thận trọng vì thực chất thầy biết được sự kém cỏi của mình nhưng lại muốn che giấu: Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ”. Như vậy, ở tình huống khó xử này, thầy đồ đã tự bộc lộ cái dốt của mình. Chú ý cách kể chuyện rất sinh động, chính xác. Khấn thổ công xong, “thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to”.
Tình huống tiếp theo là hệ quả tất yếu của tình huống thứ nhất. Dốt chữ mà đi dạy chữ, dạy chữ sai mà cứ tương là đúng, cho học trò đọc to (mâu thuẫn tăng thêm). Chi tiết bố đứa trẻ là người lao động cuốc đất ngoài vườn cũng biết chữ kê nghĩa là gà (thế mà thầy không biết) – tăng tính hài hước. Tác phẩm tự sự dán gian không chú ý miêu tả tâm lí nhân vật nhưng truyện cười này đã dành một câu miêu tả ý nghĩ của thầy. Thầy nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”. Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng làm tiếng cười thêm phần thú vị, nhưng cũng để chuẩn bị cho cái đáng cười ở phần tiếp theo. Ý nghĩ ấy khắng định rằng không phái thầy nghĩ mình đúng mà thực chất là biết mình sai. Biết là sai nhưng tiếp tục giấu dốt, tìm cách chống chế cho cái dốt của mình nên càng kích thích cho tiếng cười phát triển. Quả thật là quá liều lĩnh khi ông đồ rởm nói rằng: “Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ kê, mà kẽ nghĩa là gà, nhưng tồi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tận tam dại con gà kia”. “Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!”.
Từ lời giới thiệu khái quát đầu truyện đến kết thúc truyện, anh học trò làm thầy dạy trẻ đã tự bộc lộ cái mâu thuẫn trái tự nhiên của mình. Theo lẽ tự nhiên, đi lảm nghề thày đồ là phải hay chữ thì anh ta lại dốt chữ. Nghề gì thì cổ thê kém chữ chứ chọn nghề thầy mà dốt chữ thì nực cười lắm thay! Truyện cười đã khai thác vào vấn đề bản chất nhất của mỗi đối tượng gây cười, cỏ thể so sánh với một sô truyện cười khác như chuyện thầy lang chữa bệnh bốc thuốc nhầm làm người bệnh chết, thầy cúng không đọc đúng tên người cần cúng vì đọc nhầm sớ của nhà khác,… Các thầy hành nghề vì miếng cơm manh áo mà không có đạo đức nghề nghiệp. Mâu thuẫn khác ở đây là dốt nhưng lại giấu dốt, luôn khoe mình văn hay chữ tốt. Từ mâu thuẫn đó, anh đồ dốt đã tự đưa mình vào những tình huống bất lợi và phái tự bộc lộ mình. Anh ta càng cố che giấu thì người nghe càng nhận thấy sự dốt nát nhưng liều lĩnh, bất chấp đúng sai của anh ta.
Dây là truyện cười trào phúng mang ý nghĩa phê phán cái xấu trong nội bộ nhân dân. Ở đời, dốt làm nghề gì cũng khổ, nhưng làm nghề thầy, dạy chữ cho người mà dốt thì vỏ cùng tai hại. Vả chăng, nếu biết mình dốt thì phải học hỏi cho tiến bộ chứ chỉ lo giấu dốt, che đậy cái dốt của mình thì anh ta luôn lâm vào tình thế bất lợi và chỉ trở thành trò cười cho thiên hạ. Tuy nhiên tiếng cười ở đây không phải là tiếng cười đả kích nên vẫn làm cho người nghe cười vui vẻ và soi vào tấm gương đó đế tự răn mình. Ý nghĩa tích cực của tiếng cười dân gian là ở chỗ đó.
b) Đặc điểm về nghệ thuật
2. Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày
a) Đặc điểm về nội dung
Đây là một truyện cười rất ngắn. So với. truyện Tam đại con gà và nhiều truyện khác, truyện này ít tình tiết hon. Nó như một màn kịch rất ngắn nhưng hấp dẫn với sự xuất hiện của ba nhân vật. Mỗi chi tiết đều cần khai thác triệt để.
Mở đầu truyện là lời giới thiệu về một viên lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi ở “làng kia”. Ta gặp cách giới thiệu mang tính chất phiếm chi trong truyện cười nói chung về nhân vật (viên lí trướng), địa điểm (làng kia), thời gian (một hôm nọ). Giống như ở truyện cổ tích, tính phiếm chỉ trong truyện cười giúp tăng cường tính khái quát, ý nghĩa mà truyện phản ánh mang tính phổ biến ở nhiều vùng, nhiều đối tượng chứ không chỉ ở địa phương nào. Tên Cải, Ngô cũng là một cách nói thực chất không mang tính xác định.
Sự việc được kể rất ngắn gọn: “Cải với Ngô đánh nhau, rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ kém thế, lót trước cho thầy lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng”. Diễn biến tình tiết đã lộ ra tình huống có vấn đề, buộc người nghe phải chụ ý xem trong tình huống này thì một thầy lí nối tiếng xử kiện giỏi sẽ xử vụ kiện này thế nào.
Khi xử kiện, thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Vì đã lo lót thầy trước và được thầy nhận lễ, nên Cải bị bất ngờ, lâm vào tình thế bị động trước lời phán xét của thầy lí. Sự bất ngờ ấy thể hiện ở việc “Cải vội xoè năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí khẽ bẩm: Xin xét lại, lẽ phải về con mà!”. Lời nói của Cải chứng tỏ Cải tin mình sẽ được xử thắng vì theo Cải, lẽ phải được xem xét bằng tiền. Cải đã đưa ra một “ám hiệu” là năm ngón tay, cái nhìn và lời nhắc khẽ để nhắc nhở thầy lí về hành động biện lễ của mình.
Đến đây mâu thuẫn tăng đến cao trào bởi Cải đã dường như muốn lật bài ngửa. Nếu như vậy thì thầy lí sẽ xử sự ra sao?
Thật bất ngờ, đáp lại hành động kì quặc của Cải là hành động cũng kì quặc của thầy lí. Sự kết hợp giữa lời nói và động tác của hai nhân vật tạo nên một tín hiệu đặc biệt, một thứ “mật ngữ”. Lời được phát ngôn công khai cho tất cả mọi người cùng nghe. Mật ngữ (động tác xoè ngón tay) thì chỉ hai người trong cuộc biết rõ “ý tại ngôn ngoại”. Hành động kì quặc đó được “giải mã” bởi lời nói của thầy lí kèm theo hành động: “Thầy lí cũng xoè năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, nói: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bàng hai mày!”.
Giữa ngón tay – tiền – lẽ phải có mối liên hệ mật thiết. Ngón tay thể hiện số lượng tiền, tiền để đo lẽ phải. Theo cái lí của thầy lí thì lẽ phải là tiền, được đo bằng tiền. Tiền quyết định lẽ phải, tiền nhiều thì lẽ phải nhiều, tiền ít thì lẽ phải ít. Giá trị tố cáo của truyện cười chính là ở chỗ đó. Trong xã hội mà mọi thứ được đo bằng tiền thì thử hỏi công lí tồn tại ở đâu?
Một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi mà còn như vậy. Thầy ăn của đút cả hai phía, “đục nước béo cò”, “đòn xóc hai đầu” mà lại trắng trợn công khai trước công đường với lời nói và hành động nực cười. Thầy lí đại diện cho những kẻ có quyền thế, “cầm cân nảy mực” trong làng hiện ra là kẻ ăn của đút trắng trợn. Nghệ thuật chơi chữ được thể hiện qua chữ phải: “Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bàng hai mày!”.
Phải là tính từ chỉ tính chất thì ở đây lại được khéo léo chuyển nghĩa sang từ chỉ số lượng, vì đằng sau lẽ phải, cái đong đếm lẽ phải là tiền “mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày!”.
Cả ba nhân vật trong truyện đều là nhân vật gây cười. Lí trưởng là đối tượng bị đả kích còn Ngô và Cải cũng là nhân vật bị phê phán. Cải và Ngô tuy là nạn nhân nhưng là những kẻ tiếp tay cho việc làm đổi thay công lí, nhập nhằng đen trắng bàng việc đút lót cửa sau.
|
Bài làm
I – NHỮNG KIẾN THỨC BỔ TRỢ
1. Tri thức về thể loại
Truyện cười dân gian là những tác phẩm tự sự dân gian ngắn có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, có tác dụng gây cười nhằm mục đích giải trí hoặc phê phán, châm biếm, đả kích cái xấu xa.
Để hiểu về truyện cười dân gian, trước hết ta phải hiểu được cái cười, cái đáng cười, tiếng cười hài hướcvầ tiếng cười trào phúng.
Căn cứ vào ý nghĩa, chức năng của cái cười và cái đáng cười nêu ở trên, truyện cười dân gian được chia thành hai loại chính là truyện khôi hài và truyện trào phúng. Hai truyện được chọn đưa vào SGK Ngữ văn 10 thuộc loại thứ hai: truyện cười trào phúng.
Phân tích truyện Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày
2. Một số điểm cần lưu ý
II – PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Truyện Tam đại con gà
a) Đặc điểm về nội dung
Mở đầu truyện, tình huống mâu thuẫn đã được bộc lộ, tíre là cái cười đã được mai phục: “Xưa có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”. Ở anh học trò này chứa đựng mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, sự trống rỗng, dốt nát bên trong và sự khoe mẽ, lên mặt ta đây giỏi bề ngoài.
Từ sự giới thiệu khái quát chung đó, câu chuyện đi vào những chi tiết cụ thể: anh được mời dạy trẻ vì người ta tướng anh văn hay chữ tốt thật.
Vì thực chất kém cỏi, dốt nát mà lại nhận đi làm thầy dạy chữ nên tất nhiên anh học trò dốt phải đối mặt với những tình huống khó xử. Nhân buổi dạy sách Tam thiên tự, có chữ kê là gà với nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều “Dú dỉ là con dù dì”. Yếu tố hài hước là ở chỗ: thầy đi dạy chữ mà chữ tối thiểu cũng không biết, đã thế lại giấu dốt, dạy sai một cách liều lĩnh.
Do học trò hỏi gấp nên thầy cuống, nói liều chứ thầy cũng biết mình dốt nên bảo học trò đọc khẽ, “trong lòng vẫn thấp thỏm”.
Chi tiết thầy khấn thổ công nhà chủ “xem chữ ấy có phải thật là dù dì không” và được thổ công “cho cả ba đài” là chi tiết dẫn dắt hợp lí, tạo cho kịch tính trong truyện tiếp tục phát triển. Trước khi khấn thổ công, thầy còn thấp thỏm, “bảo học trò đọc khẽ”. Cách xử lí của thầy có phần thận trọng vì thực chất thầy biết được sự kém cỏi của mình nhưng lại muốn che giấu: Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ”. Như vậy, ở tình huống khó xử này, thầy đồ đã tự bộc lộ cái dốt của mình. Chú ý cách kể chuyện rất sinh động, chính xác. Khấn thổ công xong, “thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to”.
Tình huống tiếp theo là hệ quả tất yếu của tình huống thứ nhất. Dốt chữ mà đi dạy chữ, dạy chữ sai mà cứ tương là đúng, cho học trò đọc to (mâu thuẫn tăng thêm). Chi tiết bố đứa trẻ là người lao động cuốc đất ngoài vườn cũng biết chữ kê nghĩa là gà (thế mà thầy không biết) – tăng tính hài hước. Tác phẩm tự sự dán gian không chú ý miêu tả tâm lí nhân vật nhưng truyện cười này đã dành một câu miêu tả ý nghĩ của thầy. Thầy nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”. Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng làm tiếng cười thêm phần thú vị, nhưng cũng để chuẩn bị cho cái đáng cười ở phần tiếp theo. Ý nghĩ ấy khắng định rằng không phái thầy nghĩ mình đúng mà thực chất là biết mình sai. Biết là sai nhưng tiếp tục giấu dốt, tìm cách chống chế cho cái dốt của mình nên càng kích thích cho tiếng cười phát triển. Quả thật là quá liều lĩnh khi ông đồ rởm nói rằng: “Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ kê, mà kẽ nghĩa là gà, nhưng tồi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tận tam dại con gà kia”. “Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!”.
Từ lời giới thiệu khái quát đầu truyện đến kết thúc truyện, anh học trò làm thầy dạy trẻ đã tự bộc lộ cái mâu thuẫn trái tự nhiên của mình. Theo lẽ tự nhiên, đi lảm nghề thày đồ là phải hay chữ thì anh ta lại dốt chữ. Nghề gì thì cổ thê kém chữ chứ chọn nghề thầy mà dốt chữ thì nực cười lắm thay! Truyện cười đã khai thác vào vấn đề bản chất nhất của mỗi đối tượng gây cười, cỏ thể so sánh với một sô truyện cười khác như chuyện thầy lang chữa bệnh bốc thuốc nhầm làm người bệnh chết, thầy cúng không đọc đúng tên người cần cúng vì đọc nhầm sớ của nhà khác,… Các thầy hành nghề vì miếng cơm manh áo mà không có đạo đức nghề nghiệp. Mâu thuẫn khác ở đây là dốt nhưng lại giấu dốt, luôn khoe mình văn hay chữ tốt. Từ mâu thuẫn đó, anh đồ dốt đã tự đưa mình vào những tình huống bất lợi và phái tự bộc lộ mình. Anh ta càng cố che giấu thì người nghe càng nhận thấy sự dốt nát nhưng liều lĩnh, bất chấp đúng sai của anh ta.
Dây là truyện cười trào phúng mang ý nghĩa phê phán cái xấu trong nội bộ nhân dân. Ở đời, dốt làm nghề gì cũng khổ, nhưng làm nghề thầy, dạy chữ cho người mà dốt thì vỏ cùng tai hại. Vả chăng, nếu biết mình dốt thì phải học hỏi cho tiến bộ chứ chỉ lo giấu dốt, che đậy cái dốt của mình thì anh ta luôn lâm vào tình thế bất lợi và chỉ trở thành trò cười cho thiên hạ. Tuy nhiên tiếng cười ở đây không phải là tiếng cười đả kích nên vẫn làm cho người nghe cười vui vẻ và soi vào tấm gương đó đế tự răn mình. Ý nghĩa tích cực của tiếng cười dân gian là ở chỗ đó.
b) Đặc điểm về nghệ thuật
2. Truyện Nhưng nó phải bằng hai mày
a) Đặc điểm về nội dung
Đây là một truyện cười rất ngắn. So với. truyện Tam đại con gà và nhiều truyện khác, truyện này ít tình tiết hon. Nó như một màn kịch rất ngắn nhưng hấp dẫn với sự xuất hiện của ba nhân vật. Mỗi chi tiết đều cần khai thác triệt để.
Mở đầu truyện là lời giới thiệu về một viên lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi ở “làng kia”. Ta gặp cách giới thiệu mang tính chất phiếm chi trong truyện cười nói chung về nhân vật (viên lí trướng), địa điểm (làng kia), thời gian (một hôm nọ). Giống như ở truyện cổ tích, tính phiếm chỉ trong truyện cười giúp tăng cường tính khái quát, ý nghĩa mà truyện phản ánh mang tính phổ biến ở nhiều vùng, nhiều đối tượng chứ không chỉ ở địa phương nào. Tên Cải, Ngô cũng là một cách nói thực chất không mang tính xác định.
Sự việc được kể rất ngắn gọn: “Cải với Ngô đánh nhau, rồi mang nhau đi kiện. Cải sợ kém thế, lót trước cho thầy lí năm đồng. Ngô biện chè lá những mười đồng”. Diễn biến tình tiết đã lộ ra tình huống có vấn đề, buộc người nghe phải chụ ý xem trong tình huống này thì một thầy lí nối tiếng xử kiện giỏi sẽ xử vụ kiện này thế nào.
Khi xử kiện, thầy lí cho Ngô thắng, còn Cải bị đánh mười roi. Vì đã lo lót thầy trước và được thầy nhận lễ, nên Cải bị bất ngờ, lâm vào tình thế bị động trước lời phán xét của thầy lí. Sự bất ngờ ấy thể hiện ở việc “Cải vội xoè năm ngón tay, ngẩng mặt nhìn thầy lí khẽ bẩm: Xin xét lại, lẽ phải về con mà!”. Lời nói của Cải chứng tỏ Cải tin mình sẽ được xử thắng vì theo Cải, lẽ phải được xem xét bằng tiền. Cải đã đưa ra một “ám hiệu” là năm ngón tay, cái nhìn và lời nhắc khẽ để nhắc nhở thầy lí về hành động biện lễ của mình.
Đến đây mâu thuẫn tăng đến cao trào bởi Cải đã dường như muốn lật bài ngửa. Nếu như vậy thì thầy lí sẽ xử sự ra sao?
Thật bất ngờ, đáp lại hành động kì quặc của Cải là hành động cũng kì quặc của thầy lí. Sự kết hợp giữa lời nói và động tác của hai nhân vật tạo nên một tín hiệu đặc biệt, một thứ “mật ngữ”. Lời được phát ngôn công khai cho tất cả mọi người cùng nghe. Mật ngữ (động tác xoè ngón tay) thì chỉ hai người trong cuộc biết rõ “ý tại ngôn ngoại”. Hành động kì quặc đó được “giải mã” bởi lời nói của thầy lí kèm theo hành động: “Thầy lí cũng xoè năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, nói: Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bàng hai mày!”.
Giữa ngón tay – tiền – lẽ phải có mối liên hệ mật thiết. Ngón tay thể hiện số lượng tiền, tiền để đo lẽ phải. Theo cái lí của thầy lí thì lẽ phải là tiền, được đo bằng tiền. Tiền quyết định lẽ phải, tiền nhiều thì lẽ phải nhiều, tiền ít thì lẽ phải ít. Giá trị tố cáo của truyện cười chính là ở chỗ đó. Trong xã hội mà mọi thứ được đo bằng tiền thì thử hỏi công lí tồn tại ở đâu?
Một thầy lí nổi tiếng xử kiện giỏi mà còn như vậy. Thầy ăn của đút cả hai phía, “đục nước béo cò”, “đòn xóc hai đầu” mà lại trắng trợn công khai trước công đường với lời nói và hành động nực cười. Thầy lí đại diện cho những kẻ có quyền thế, “cầm cân nảy mực” trong làng hiện ra là kẻ ăn của đút trắng trợn. Nghệ thuật chơi chữ được thể hiện qua chữ phải: “Tao biết mày phải… nhưng nó lại phải… bàng hai mày!”.
Phải là tính từ chỉ tính chất thì ở đây lại được khéo léo chuyển nghĩa sang từ chỉ số lượng, vì đằng sau lẽ phải, cái đong đếm lẽ phải là tiền “mày phải… nhưng nó lại phải… bằng hai mày!”.
Cả ba nhân vật trong truyện đều là nhân vật gây cười. Lí trưởng là đối tượng bị đả kích còn Ngô và Cải cũng là nhân vật bị phê phán. Cải và Ngô tuy là nạn nhân nhưng là những kẻ tiếp tay cho việc làm đổi thay công lí, nhập nhằng đen trắng bàng việc đút lót cửa sau.
|
Bài làm
Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời sau nhiều tác phẩm có giá trị lớn.Nếu như “Bình Ngô đại cáo” của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì bài thơ “Cảnh ngày hè” là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Mở đầu bài thơ “Cảnh ngày hè” là sáu câu thơ miêu tả cảnh ngày hè:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Tác giả đã đón nhận cảnh ngày hè trong tư thế ung dung, thoải mái khi ở ẩn, lúc nhà vua không còn trọng dụng tới nữa. Bức tranh cảnh ngày hè được tác giả vẽ lên thật rực rỡ và tươi đẹp với nhiều màu sắc. Đó là màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau. Tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khướu giác. Ông thấy mùi hương của ao sen, thấy âm thanh “lao xao” của làng chài, “dắng dỏi” của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động hơn, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “ lao xao”, “dắng dỏi”. Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan tỏa đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.
Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật có chen hai câu thơ lục ngôn. Tuy vậy, nhà thơ lại không tuân theo bố cục: Đề – Thực – Luận – Kết của thể thơ Đường luật. Chính vì thế, bài thơ mang nét đặc sắc riêng của một nhà thơ kiết xuất của dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế, bài thơ còn có hình ảnh hoa lựu khiến ta liên tưởng tới hai câu thơ của Nguyễn Du:
|
Assignment
Nguyen Trai is an outstanding national poet and world cultural celebrity. He left behind many works of great value. If his "Binh Ngo Dai Cao" is full of enthusiasm and national pride, the poem "Summer Day Scene" is a picture of the beauty of the heart. The soul of Nguyen Trai.
The poem "Summer Day Scene" begins with six verses describing the summer day scene:
“Then enjoy the fresh air of school days
Green flowers spread out and spread out
Pomegranate jelly still sprays red
Red lotus has sent away the scent
Bustling the fish market of Fisherman's village
Carefully holding the cicada and passing away"
The author welcomed the summer scene in a leisurely and comfortable position while staying hidden, when the king no longer came to visit. The summer scene painted by the author is brilliant and beautiful with many colors. It is the green of the eucalyptus tree, the red of the pomegranate flower, the pink of the lotus flower, and the shimmering yellow of the afternoon sunlight. It all blends together. Create a typical summer scene. Not only does the author perceive the scene through sight, he also perceives the scene through hearing and smell. He saw the scent of the lotus pond, the "chattering" sound of the fishing village, the "loud" sound of the cicadas. The picture of a summer day has become more vivid and unique with sounds and smells. Even though the scene the author describes is at the end of the day, when the sun sets, everything is still full of life with the words "extrusion", "extend", "spray", "see off", "rush" , “stubborn”. Those words also contribute to expressing what is in the author's heart - the desire to contribute to the people and the country. That enthusiasm seemed to want to erupt, overflow and spread everywhere. In these six verses, the author has changed and no longer follows the norms of feudal literature. He describes summer day scenes with things that are extremely close to everyday life.
The author's full thoughts and thoughts are expressed in the last two lines of the poem:
“There will be Ngu playing the guitar for a while
Rich people everywhere demand direction."
Although the author welcomes the summer scene with a leisurely attitude on an idle day, he is always thinking and worrying about the people and the country. Feeling the summer scene, the author still cares about people's lives. So he heard the bustling, bustling sounds of the fishing village. He cares about the people, cares for the people and the country. That's why he wished he had King Ngu Thuan's guitar. With that instrument, Nguyen Trai can bring a prosperous and happy life to the people and the country.
The poem "Summer Day Scene" is written in the Tang Luat seven-word, eight-syllable verse form with two hexagonal verses inserted. However, the poet does not follow the layout: Topic - Reality - Discussion - Conclusion of Tang Luat poetry. Therefore, the poem has the unique characteristics of an outstanding poet of the Vietnamese people. Not only that, the poem also has the image of pomegranate flowers that reminds us of two verses by Nguyen Du:
|
Bài làm
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: Phạm Ngũ Lão là tướng đời Trần, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông “đánh đâu thắng đấy”. Ông lo việc binh, đồng thời “lại thích đọc sách, ngâm thơ”. Cũng như nhiều danh tướng đời Trần, Phạm Ngũ Lão vừa cầm quân đánh giặc, vừa viết những áng văn thơ để lại muôn đời. Trong đó nổi tiếng hơn cả là bài Thuật hoài. Đọc bài thơ này, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp hùng dũng cao cả của người trai đời Trần.
Cũng như Cảm hoài. Ngôn hoài; Thuật hoài là một loại thơ trữ tình “ngôn chí” khá phổ biến trong thơ ca thời trung đại, để bày tỏ những ý nghĩ, những tình cảm lớn của tác giả (Thuật hoài có nghĩa là Tỏ lòng). Đến nay, chúng ta chưa nắm được đích xác hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Tuy nhiên, dựa vào nội dung của tác phẩm có thể khẳng định bài thơ này ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân đời Trần, khi lực lượng của nước Đại Việt đã lớn mạnh nhưng trong chiến đấu chống giặc Nguyên 1 Mông chưa đi đến thắng lợi cuối cùng.
Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt luật Đường, 4 câu, mỗi câu 7 âm tiết. Hai câu đầu được dịch là:
Múa giáo non sông trải mấy thâuBa quân hùng khí át sao Ngưu.
Trong nguyên bản, hai câu này là:
Hoành sóc giang san cáp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
“Hoành sóc” được dịch thành “múa giáo” dễ làm cho người đọc hiểu không hoàn toàn đúng. “Hoành sóc” tức là cầm ngang ngọn giáo, cả câu có nghĩa là “cắp ngang ngọn giáo (bảo vệ) non sông đã mấy mùa thu”. Chỉ cần 7 chữ nhưng câu thơ trên đây đã gợi được hình ảnh của người trai đời Trần và cũng chính là của Phạm Ngũ Lão với tư thế hùng dũng, luôn kiên cường, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, lập nên những chiến công huy hoàng. Dẫu họ đã ngoan cường chiến đấu bao năm tháng (“trải mấy thâu” là mấy mùa thu rồi) nhưng vẫn bừng bừng một khí thế, một sức mạnh hiên ngang bất khuất.. Hình ảnh người tráng sĩ càng trở nên chói lọi bởi hùng khí của ba quân. Ba quân chính là hình ảnh của cả thế hệ Phạm Ngũ Lão, của cả dân tộc đang sống trong hào khí Đông A. Sức mạnh của “ba quân” được ví như sức mạnh ghê gớm của hổ báo làm át sao Ngưu. (Còn một cách hiểu khác không kém phần ý nghĩa: sức mạnh của ba quân như hổ báo có thể nuốt trôi được cả trâu). Như vậy, câu thứ nhất nói về cá nhân người trai đời Trần; câu thứ hai nói về dân tộc, về cộng đổng. Cá nhân có vẻ đẹp hiên ngang của đất trời, sông núi, vượt qua mọi thử thách của thời gian, cộng đồng, dân tộc, có tầm vóc và sức mạnh của vũ trụ. Cá nhân với cộng đồng, với dân tộc có quan hệ mật thiết, hài hoà. Hình ảnh người tráng sĩ oai hùng tạo nên khí thế ngất trời của ba quân; đồng thời khí thế của ba quân lại làm cho hình ảnh người tráng sĩ thêm lộng lẫy. Mỗi con người đều tìm thấy bóng dáng mình trong hào khí chung của dân tộc. Đây là một thời đại cao đẹp của những con người cao đẹp!
Như vậy, chỉ bằng hai câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã phác hoạ thành công tư thế của nhân vật trữ tình 1 chàng trai đời Trấn và tư thế của dân tộc ta trong một thời điểm lịch sử với một tầm vóc lớn và quyết tâm lớn. Nhân vật trữ tình ở đây mang vẻ đẹp sử thi, tẩm vóc sử thi. Phạm Ngũ Lão không chỉ phát ngôn nhân danh cá nhân mình mà ông còn nhân danh cả dân tộc, cả thời đại.
Hình ảnh người tráng sĩ cắp giáo tung hoành nơi trận mạc, hình ảnh ba quân khí thế ngất trời ta đã gặp nhiều trong văn học trung đại của Việt Nam cũng như của Trung Quốc. (Chàng chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn cũng từng “Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – ngang lưng ngọn giáo vào ngàn hang beo”. Nói về tướng sĩ trong bài Thập giói cô hòn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông cũng có câu “Miệng thòm thèm giương dạ nuốt trâu – Chí hăm hở dang tay bắt vượn”). Song, nếu ở những câu vừa dẫn là những hình ảnh ước lệ nặng tính chất ngao du khoa trương, thì trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là những hình ảnh tuy cũng thật kì vĩ nhưng là những hình ảnh chân thực, hiện thực, bởi người đọc biết rằng chúng ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng vĩ đại của quân dân ta đời Trần. Tại Hội nghị Bình Than, các bô lão Đại Việt đã nhất tể thể hiện tinh thần ấy. Và mỗi binh sĩ thời ấy đều thích hai chữ “sát thát” (giết giặc Nguyên) vào cánh tay.
Tiếp nối một cách tự nhiên mạch cảm xúc ở hai câu đầu, hai câu sau thể hiện khát vọng lập được nhiều chiến công to lớn vì đất nước của vị tướng – thi sĩ:
Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Người trai đời Trần không chỉ cao đẹp ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, mà còn cao đẹp bởi có một. quan niệm nhân sinh tích cực. Lập công chính là làm nên sự nghiệp lớn trong công cuộc bảo vệ và dựng xây đất nước. Có công thì mới được ghi danh (têii). Mỗi con người chân chính, đặc biệt đối với những người làm trai, niềm khao khát làm nên sự nghiệp, lưu lại tên tuổi mình cho hậu thế là niềm khao khát chính đáng. Đây chính là động lực to lớn để không ít người có sức mạnh vượt, qua những thử thách cam go lập nên những kì tích vang dội, thúc đẩy sự tiến bộ của toàn xã hội. Chính vì the mà sau Phạm Ngũ Lão 6 thế kỉ, Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
|
Assignment
The book Dai Viet Complete History records: Pham Ngu Lao was a general of the Tran dynasty, participating in both resistance wars against the Mongols. He took care of military affairs and at the same time "liked reading books and reciting poetry". Like many famous generals of the Tran Dynasty, Pham Ngu Lao both led the army to fight the enemy and wrote poems that will leave a lasting legacy. The most famous of these is the song Thuat Hoai. Reading this poem, we feel the heroic and noble beauty of the man of the Tran Dynasty.
Just like Feeling forever. Always talking; Thuat hoai is a type of lyrical poetry that is quite popular in medieval poetry, to express the author's great thoughts and feelings (Thuat hoai means expressing one's heart). Up to now, we do not know the exact circumstances of the poem's composition. However, based on the content of the work, it can be affirmed that this poem was born in the atmosphere of determination to fight and victory of the army and people of the Tran Dynasty, when the forces of Dai Viet had grown strong but in the fight against the enemy. Nguyen 1 Mong has not yet reached final victory.
The poem is written in the form of four absolute Tang rules, with 4 lines, each line has 7 syllables. The first two sentences are translated as:
Dancing across the mountains and rivers for several seasons, the three mighty armies overcome the Ox star.
In the original, these two sentences are:
Hoanh Soc Giang San Cable Ky Thu Tam Quan, Tiger, Qi, Nguu Village.
"Hoang squirrel" translated into "spear dance" can easily make the reader's understanding not entirely correct. "Hanh squirrel" means holding the spear horizontally, the whole sentence means "holding the spear horizontally (protecting) the mountains and rivers for several autumns". With just 7 words, the above verse evokes the image of a man of the Tran Dynasty and also of Pham Ngu Lao with a heroic posture, always resilient, ready to fight to protect the Fatherland, to create great battles. glorious work. Even though they have fought tenaciously for many years ("through several autumns" means several autumns), they still exude a spirit, an indomitable strength. The image of a brave man becomes even more brilliant because The might of the three armies. The three troops are the image of the entire generation of Pham Ngu Lao, of the entire nation living in the spirit of Dong A. The power of the "three troops" is likened to the formidable power of a tiger and leopard trumping the Taurus star. (There is another equally meaningful interpretation: the power of the three troops is like a tiger and leopard that can swallow even a buffalo). Thus, the first sentence talks about an individual man of the Tran Dynasty; The second sentence talks about the nation, about the community. An individual has the unyielding beauty of heaven and earth, rivers and mountains, overcomes all challenges of time, community, and nation, and has the stature and power of the universe. Individuals with the community and the nation have a close and harmonious relationship. The image of a majestic soldier creates the heavenly atmosphere of the three armies; At the same time, the spirit of the three armies makes the image of the warrior more splendid. Every person finds his or her reflection in the common spirit of the nation. This is a beautiful age of beautiful people!
Thus, in just two verses, Pham Ngu Lao has successfully sketched the posture of the lyrical character, a young man of the Tran Dynasty, and the posture of our nation in a historical moment with great stature and determination. big. The lyrical character here has epic beauty and epic stature. Pham Ngu Lao not only spoke on his own behalf, but also on behalf of the entire nation and the entire era.
The image of a warrior carrying a spear and swinging in battle, the image of three armies with sky-high momentum, we have encountered many times in Vietnamese and Chinese medieval literature. (The soldier in Dang Tran Con's The Conquering Father also once "Danced the sword, the wine and the wine were not yet gone - at the waist the spear entered a thousand leopard caves". Speaking about the generals in the article Thap Gioi Co Hon Quoc Literature, Le Thanh Tong also There is a saying: "The mouth is open and the stomach is eager to swallow the buffalo - The spirit is eager to open its arms to catch the ape"). However, if in the sentences just quoted there are conventional images with a heavy, melodramatic nature, then in Thuat Hoi by Pham Ngu Lao, there are images that, although truly magnificent, are true, realistic images. because readers know that they were born in the atmosphere of decisive battle and great victory of our army and people during the Tran Dynasty. At the Binh Than Conference, Dai Viet elders unanimously expressed that spirit. And every soldier at that time liked the words "sat that" (kill the Nguyen enemy) on their arms.
Naturally continuing the emotional flow of the first two sentences, the next two sentences express the general-poet's desire to achieve many great victories for his country:
The man's reputation still owed him. He was ashamed to listen to the story of Marquis Vu.
Men of the Tran Dynasty were not only beautiful because they were ready to fight, but also beautiful because they had one. positive concept of life. Making merit means making a great career in the work of protecting and building the country. If you have merit, you will be registered (têii). Every genuine person, especially for men, the desire to make a career and leave their name for posterity is a legitimate desire. This is a great motivation for many people to have the strength to overcome difficult challenges and create resounding miracles, promoting the progress of the entire society. Because of this, six centuries after Pham Ngu Lao, Nguyen Cong Tru also affirmed:
|
Bài làm
Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ, điện thoại di động ngày càng trở thành một công cụ liên lạc giải trí không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người. Đối với độ tuổi từ 25 trở lên, thậm chí nhỏ tuổi hơn có thể nói rằng trung bình mỗi người sở hữu cho mình một chiếc điện thoại thông minh. Vì vậy, vấn đề sử dụng điện thoại của học sinh hiện nay đang là một vấn đề mà cả xã hội quan tâm bởi những hệ lụy của nó là không hề nhỏ.
Điện thoại di động là phương tiện liên lạc và giải trí phổ biến nhất hiện nay. Với những chức năng tiện dụng và hấp dẫn, hầu như tất cả học sinh hầu như ngày ngày đều sử dụng điện thoại để nhắn tin, lên Facebook, nghe nhạc, xem phim…Chỉ cần 2 đến 3 triệu đồng là bố mẹ có thể mua cho con mình một chiếc điện thoại thông minh, điều đó bây giờ không quá khó. Với những gia đình có điều kiện về kinh tế thì việc trang bị ĐTDĐ công nghệ cao có nhiều chức năng quay phim, kết nối internet là “chuyện nhỏ”. Việc dễ dàng có được một chính điện thoại chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vấn đề sử dụng điện thoại của học sinh hiện nay.
Vấn đề sử dụng điện thoại ở học sinh hiện nay chúng ta quan tâm hàng đầu là các bạn học sinh dùng điện thoại vào mục đích gì?Khi trả lời câu hỏi các em dùng điện thoại vào việc gì, nhiều em hồn nhiên trả lời: tất nhiên chúng em liên lạc với gia đình, bạn bè, trao đổi với thầy cô giáo.
Nhưng thực tế điều đó chỉ là một phần rất nhỏ trong nhiều mục đích của các em khi sử dụng điện thoại. Bởi mỗi ngày các em đến trường trong vòng 4 tiếng đồng hồ, chủ yếu để học bài và tiếp thu kiến thức trên lớp; buổi trưa lại về gia đình. Thời gian đó cần gì phải liên lạc nhiều với bạn bè, gia đình nữa đâu.
Vậy thực tế các em dùng điện thoại chỉ với mục đích giải trí là chính. Có nhiều em trong lớp học không chú ý nghe giảng mà chỉ tập trung nghe nhạc hoặc nhắn tin cho bạn hết cả tiết. Điều này dẫn đến sự mất tập trung trong giờ học và lượng kiến thức đạt được. Người viết bài này đã không ít lần khi đang say sưa giảng bài trên lớp, chợt một điệu nhạc chuông vang lên khiến cả lớp mất tập trung, cô giáo lại phải dừng lại nhắc nhở dẫn đến cắt ngang mạch cảm xúc, làm giảm hiệu quả của tiết dạy. Đó là chưa kể cá biệt có em còn xem phim trong lớp học. Mà không phải chỉ xem một mình: các em cùng bàn túm năm tụm ba xem, không để ý đến lời cô giáo giảng. Thậm chí xem những phim có nội dung thiếu lành mạnh, đồi trụy ảnh hưởng đến nhân cách của tuổi mới lớn.Gần đây, nhiều em còn có “trò đùa” ác ý bằng cách chụp những bức ảnh ở tư thế hớ hênh khó coi của bạn rồi phát tán lên mạng xã hội. Có những em còn tổ chức “đánh hội đồng” bạn mình rồi quay clip tung lên mạng làm ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần và thể diện của bạn… dẫn đến hậu quả khôn lường: có bạn vì xấu hổ mà phải bỏ học, hoặc có ý định tự tử sau khi ảnh và clip đã được phát tán khắp nơi trên mạng xã hội. Nhiều em buổi tối ngồi học nhưng 3/4 thời gian tập trung để lướt trên điện thoại di động, nhiều em còn thẳng thắn thừa nhận rằng: không có điện thoại để lướt thì không thể tập trung học hành.
|
Assignment
Today, with the development of technology, mobile phones are increasingly becoming an indispensable entertainment communication tool in everyone's life. For people aged 25 and older, even younger, it can be said that on average, each person owns a smartphone. Therefore, the problem of student phone use is currently an issue that the whole society is concerned about because its consequences are not small.
Mobile phones are the most popular means of communication and entertainment today. With convenient and attractive functions, almost all students use their phones almost every day to text, go to Facebook, listen to music, watch movies... With just 2 to 3 million VND, parents can Buying your child a smartphone is not so difficult now. For families with economic conditions, equipping a high-tech mobile phone with many filming functions and internet connection is a "small matter". The ease of having a phone is the main reason leading to the problem of using phones among students today.
The issue of phone use among students today is that our main concern is for what purpose do students use their phones? When answering the question of what they use their phones for, many students innocently answer. : Of course we contact family, friends, talk to teachers.
But in reality, that is only a very small part of the many purposes children have when using phones. Because every day children go to school for 4 hours, mainly to study and absorb knowledge in class; return to the family at noon. At that time, there was no need to contact many friends and family anymore.
So in reality, children use phones only for entertainment purposes. There are many students in class who do not pay attention to the lecture but only focus on listening to music or texting friends throughout the entire class. This leads to loss of concentration during class and the amount of knowledge gained. The writer of this article has many times while passionately lecturing in class, suddenly a bell rang, causing the whole class to lose concentration, the teacher had to stop and remind, interrupting the emotional flow, reducing effectiveness. results of the lesson. Not to mention some students still watch movies in class. But not just watching alone: the children at the same table gathered in groups of three to watch, not paying attention to what the teacher said. Even watching movies with unhealthy and depraved content affects the personality of teenagers. Recently, many children have made malicious "jokes" by taking photos in unsightly positions. yours and then spread it on social networks. Some students even organize "group beatings" for their friends and then record clips and post them online, greatly affecting their morale and dignity... leading to unpredictable consequences: some friends have to drop out of school because of shame, or have suicidal thoughts after photos and clips have been distributed everywhere on social networks. Many students sit to study at night but spend 3/4 of their time focusing on surfing on mobile phones. Many students frankly admit that: without a phone to surf, they cannot concentrate on studying.
|
Hướng dẫn
-Nội dung: về nhân vật Nhuận Thổ.
-Thao tác: phân tích nhân vật.
-Tư liệu: truyện ngắn cố hương (Quê cũ).
II – Xây dựng dàn ý chỉ tiết
1.Mở bài: Giới thiệu tác giả Lỗ Tấn, tác phẩm cố hương và nhân vật Nhuận Thổ.
2.Thân bài:
-Tâm trạng nhà văn khi trở về quê cũ: thấy cảnh tiêu điều, tàn tạ của quê hương, khác xa so với quê hương trong kí ức đẹp đẽ của nhà văn.
-Sự tàn tạ của quê hương được thể hiện qua sự thay đổi của Nhuận Thổ.
+ Sự thay đổi ở ngoại hình: Nhuận Thổ xưa và nay.
+ Sự thay đổi ở tính cách: nhừng hành vi, lời nói thể hiện sự thay đổi của Nhuận Thổ.
-Nguyên nhân của sự thay đổi đó: xã hội phong kiến bất công, thôi nát đã bóp méo bản chất con người.
-Giá trị tố cáo của tác phẩm và ý nghĩa tư tưởng mà tác giả muốn đề cập.
3.Kết bài: Khái quát nội dung và nghệ thuật, nêu tư tưởng của nhà văn qua nhân vật Nhuận Thổ. Có thể nêu cảm xúc của em trước nhân vật này.
III.Tự sửa lỗi
HS đọc lại bài văn và tự sửa lỗi.
“Cố hương” là một truyện ngắn tiêu biểu trong những truyện ngắn xuất sắc của Lỗ Tấn về nông thôn Trung Quốc. Câu chuyện là kí ức về miền quê yêu dấu của tác giả, Trong một chuyến vê quê, ông nhận thấy làng quê, người thân và bạn bè đều đổi khác. Nhuận Thổ – người bạn niên thiếu là nhân vật có nhiều biến đổi rõ nhất khiến tác giả rất đỗi ngạc nhiên.: “Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi”
Đúng vậy. Nhuận Thổ đã thay đổi rất nhiều. Nhuận Thổ trong kí ức là mội cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi. Còn Nhuận Thổ bây giờ là một nông dân thực thụ, đông con, làm lụng vất vả, người co ro cúm rúm. Trong thời trước Nhuận Thổ là một cậu bé đẹp, khỏe mạnh, hoạt bát, lanh lợi. Mười tuổi, chú bé có “khuôn mặt tròn trĩnh. nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Tuy ít tuổi, nhưng sống cuộc sống của làng quê, Nhuận Thổ tháo vát và hiểu biết rất nhiều điều. Nhuận Thổ biết cách bẫy chim khi tuyết xuống “quét lấy mội khoảng đất trống, dùng một cái que ngắn chống một cái long lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh. Nhuận Thổ hiểu rất nhiều các loại sò khác nhau, nào sò “mặt quỷ”, sò tay Phật”. Nhuận Thổ giúp bố đi canh dưa, đuổi lợn rừng, nhím, tra… Tấn phải thốt lên đầy khâm phục: “Trời! Nhuận Thổ hắn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết”. Dường như lúc nào người đọc cũng bắt găp ở Nhuận Thổ vẻ hào hứng, sự am hiểu cũng như tính sôi nổi, hổn nhiên. Hình ảnh Nhuận Thổ cổ đeo vòng bạc. tay lăm lăm chiếc đinh ba đang cố sức đâm theo một con “tra” giữa ruộng dưa trong một đêm trăng tuyệt đẹp in sâu trong tâm trí tác giả. Một chú bé khỏe mạnh, tháo vát. đáng yêu như Nhuận Thổ chắc sẽ có một tương lai tươi sáng.
|
Instruct
-Content: about the character Nhuan Tho.
- Operation: character analysis.
-Materials: short stories from the old homeland (Old Homeland).
II – Build a detailed outline
1.Introduction: Introducing the author Lu Xun, his hometown's works and the character Nhuan Tho.
2. Body:
-The writer's mood when returning to his old hometown: seeing the desolation and ruin of his homeland, far different from the homeland in the writer's beautiful memories.
-The decline of the homeland is shown through the change of Nhuan Tho.
+ Changes in appearance: Nhuan Tho then and now.
+ Changes in personality: behaviors and words show changes in Nhuan Tho.
-The cause of that change: unjust and corrupt feudal society has distorted human nature.
-The denunciation value of the work and the ideological meaning that the author wants to mention.
3. Conclusion: Overview of the content and art, stating the writer's thoughts through the character Nhuan Tho. Can you express your feelings towards this character?
III.Self-correction
Students read the text again and correct their own mistakes.
"The Old Country" is a typical short story among Lu Xun's excellent short stories about rural China. The story is a memory of the author's beloved countryside. During a trip back home, he noticed that the village, relatives and friends had all changed. Nhuan Tho - the teenage friend is the character with the most obvious changes, making the author very surprised: "The person who came in was Nhuan Tho. Although I immediately recognized it as Nhuan Tho, it was not the Nhuan Tho in my memory."
That's right. Nhuan Tho has changed a lot. Nhuan Tho in memory is a healthy and agile boy. Nhuan Tho is now a real farmer, has many children, works hard, and is shivering with flu. In the old days, Nhuan Tho was a beautiful, healthy, active and agile boy. At ten years old, the boy has "a round face. Honey-colored skin, a tiny sheepskin hat on his head, and a shiny silver necklace around his neck." Although young, but living a village life, Nhuan Tho is resourceful and knows many things. Nhuan Tho knows how to trap birds when it snows, "sweep an empty area of land, use a short stick to prop up a large dragon, sprinkle some loose rice, see the bird come down to eat, stand far away and yank it. Nhuan Tho understands many different types of clams, including "devil's face" clams and Buddha's hand clams. Nhuan Tho helped his father farm melons, chase away wild boars, porcupines, turtles... Tan had to exclaim in admiration: "Oh my god! Nhuan Tho knows so many strange things, it's impossible to tell." It seems that readers always encounter in Nhuan Tho excitement, understanding as well as a lively and spontaneous personality. Image of Nhuan Tho neck wearing a silver bracelet. Hand holding a trident trying hard to stab a "tra" in the middle of a melon field on a beautiful moonlit night that is deeply imprinted in the author's mind. A healthy, resourceful boy. A lovely person like Nhuan Tho will surely have a bright future.
|
Bài làm
Tình yêu vốn là thứ tình cảm khó hiểu nhất của con người. Cũng bởi vì thế mà sau khi nghe lời cha lừa Mị Châu đánh tráo nỏ thần gây ra cái chết của vợ mình, Trọng Thủy vô cùng an hận và đau buồn. Một hôm vì quá thương nhớ Mi Châu mà Trọng Thủy đã tưởng tượng Mị Châu ở dưới giếng và nhảy xuống. Tưởng như mọi chuyện kết thúc ở đây nhưng lại là mở đầu cho cuộc gặp gỡ mới.
Sau khi bị vua cha chém, Mị Châu được vua thủy tề thương xót nên đã hóa phép cho sống lại và nhận làm con nuôi. Mặc dù trở thành công chúa nhưng Mị Châu sống khép mình và không bao giờ mỉm cười. Mị Châu được sống trong một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, xung quanh tấp nập kẻ hàu người hạ.
Lại nói về chuyện Trọng Thủy, sau khi nhảy xuống giếng, Trọng Thủy cảm thấy như mình bị lực hút nào đó kéo xuống. Chàng nhắm nghiền mắt lại, lúc mở mắt ra thấy mình đang ở dưới nước, trước mặt có 4 người mặt rất đáng sợ,đầu người đuôi cá. Trọng Thủy chưa kịp phản ứng đã bị bắt lại. Bốn người kia đưa Trọng Thủy đi trong nước rất nhanh. Chàng tự nghĩ: Không biết đây có phải giấc mơ không tại sao mình có thể thở được dưới nước. Trọng Thủy được đưa đến một cung điện nguy nga lộng lẫy, cái mà chàng chưa bao giờ gặp ở trên trần. Những ngôi nhà tráng lệ sáng trưng màu ngọc, có đầy đủ lính canh và người hầu ra vào tấp nập. Qua bốn năm lần cửa canh như thế, Trọng Thủy bị bắt vào quỳ ở trong đại điện. Một tên lính trong nhóm người kia cũng quỳ xuống và thưa:
– Bẩm Long Vương, chúng thần bắt được tên này ngoài cung điện.
Sau khi tra hỏi ngọn nguồn câu chuyện, Long Vương biết được nỗi lòng của Trọng Thủy nên đã hứa cho Trọng Thủy gặp Mị Châu. Long Vương sắp xếp cho hai người gặp nhau trong một hoàn cảnh bất ngờ. Lúc Mị Châu đi dạo trong vườn thì bắt gặp Trọng Thủy đang tỉa cành. Hai người nhận ra nhau. Mị Châu không nói lời nào toan bước đi thì Trọng Thủy thốt lên:
– Nàng ơi, ta xin nàng, xin nàng hãy nghe ta giải thích.
– Người còn gì để nói nữa sao? Mị Châu cứng rắn đáp lại.
– Nàng ơi ta biết tội lỗi của ta, ta rất ân hận và đau lòng, ta không ngờ mọi chuyện lại trở nên thế này, ta chỉ thuận theo ý vua cha thôi.
-Ngươi rõ ràng là đã lợi dụng lòng tin của ta, chà đạp lên tình yêu của ta. Không những thế chính người là người gây ra bao tang thương cho nhân dân Âu Lạc. Ngươi nghĩ ta có thể tha thứ cho ngươi sao!
Đu rất đau lòng nhưng Mị Châu đã bước đi, Trọng Thủy vội quỳ xuống và nói với theo:
|
Assignment
Love is the most difficult human emotion to understand. Because of that, after listening to My Chau's donkey father's advice to switch magic crossbows causing his wife's death, Trong Thuy felt extremely regretful and sad. One day, because he missed Mi Chau so much, Trong Thuy imagined Mi Chau was in the well and jumped down. It seemed like everything ended here, but it was the beginning of a new meeting.
After being beheaded by her father, Mi Chau was pitied by the water king, so she was brought back to life and adopted. Even though she became a princess, Mi Chau lived alone and never smiled. Mi Chau lived in a magnificent castle, surrounded by bustling people.
Speaking of Trong Thuy, after jumping into the well, Trong Thuy felt like he was being pulled down by some gravity. He closed his eyes tightly, and when he opened them, he saw that he was underwater, in front of him were four people with very scary faces, human heads and fish tails. Before Trong Thuy could react, he was arrested. The other four people took Trong Thuy through the water very quickly. He thought to himself: I wonder if this is a dream or not, why can I breathe underwater? Trong Thuy was taken to a magnificent palace, something he had never seen on earth. The magnificent houses shine brightly in jade color, full of guards and servants coming and going bustlingly. After four or five times of guarding, Trong Thuy was forced to kneel in the main hall. A soldier in the other group also knelt down and said:
– Bam Long King, we caught this guy outside the palace.
After questioning the source of the story, Long Vuong knew Trong Thuy's feelings so he promised Trong Thuy to meet Mi Chau. The Dragon King arranged for the two to meet in unexpected circumstances. When Mi Chau was walking in the garden, she saw Trong Thuy pruning branches. The two recognized each other. Mi Chau didn't say a word and was about to walk away when Trong Thuy exclaimed:
– Dear lady, I beg you, please listen to my explanation.
– Do you have anything else to say? Mi Chau responded firmly.
– Dear lady, I know my sin, I am very regretful and heartbroken, I did not expect things to turn out like this, I only followed my father's will.
-You clearly took advantage of my trust and trampled on my love. Not only that, he was the one who caused so much suffering to the people of Au Lac. Do you think I can forgive you!
It was very heartbreaking but Mi Chau walked away. Trong Thuy quickly knelt down and said to him:
|
Bài làm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc với nhiều tập thơ cả bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó “Nhàn” là một bài thơ tiêu biểu cho quan niệm sống đồng thời cũng thể hiện vẻ đẹp nhân cách của tác giả.
Rời xa chốn quan trường tranh giành quyền lợi, Nguyễn Bỉnh Khiêm về ở ẩn với cuộc sống của một lão nông thực thụ:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Mai, cuốc, cần câu là những dụng cụ lao động cần thiết phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Đó là cuộc sống ung dung, tự tại, tự cung, tự cấp khiến nhà thơ cảm thấy rất thoải mái. Mặc kệ người ta có những thú vui, sở thích khác, tác giả vẫn luôn trung thành với lối sống của mình. Từng nhịp thơ chậm rãi tựa như nhịp sống thanh bình của chính nhà thơ vậy.
Hai câu thực của bài thơ đã thể hiện rõ quan điểm của tác giả về dại, khôn ở trong cuộc sống:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Đó là một quan điểm sống khác người, “nơi vắng vẻ” là nơi yên bình, nơi không có sự tranh giành địa vị, danh lợi, “chốn lao xao” chính là chốn người ta tranh giành thậm chí giẫm đạp lên nhau để có được lợi danh. Cái dại của ta thực chất là cái khôn, cái khôn của người thực ra lại là cái dại. Phép đối được sử dụng trong hai câu thơ đã làm câu thơ trở nên nhịp nhàng hơn và cũng thể hiện triết lí nhân sinh của tác giả.
Cuộc sống nơi thôn dã khiến cái tâm của ông được nhàn hạ theo đúng nghĩa.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Cuộc sống hòa hợp với tự nhiên và thưởng thức những sản vật đặc trưng của núi rừng cho thấy sự thanh cao, thoát tục của Nguyến Bỉnh Khiêm. Ông sống thuận theo quy luật tự nhiên, mùa nào thức đó và mùa xuân thì tắm hồ, mùa hạ thì tắm ao. Cuộc sống ấy thật đạm bạc và yên bình biết mấy.
“Rượu, đến cội cây,ta sẽ uống
|
Assignment
Nguyen Binh Khiem is a great national poet with many poetry collections in both Chinese and Nom. "Nhan" is a poem that represents the concept of life and also shows the beauty of the author's personality.
Leaving the world of officials fighting for power, Nguyen Binh Khiem returned to live in seclusion with the life of a real farmer:
“One spade, one hoe, one fishing rod
Poetry is fun no matter who it is."
Spades, hoes, and fishing rods are necessary working tools for daily life. It was a leisurely, carefree, self-sufficient and self-sufficient life that made the poet feel very comfortable. Even though people have other hobbies and interests, the author is always loyal to his lifestyle. Each rhythm of the poem is slow like the peaceful rhythm of the poet's own life.
The two actual sentences of the poem clearly express the author's views on foolishness and wisdom in life:
"I am stupid, I am looking for a peaceful place
Nguoi khon nguoi den chon lao xao"
It is a different perspective on life, a "secluded place" is a peaceful place, a place where there is no competition for status, fame or profit, a "troublesome place" is a place where people compete and even trample each other to get their way. gain fame and fortune. Our foolishness is actually wisdom, other people's wisdom is actually foolishness. The parallelism used in the two verses makes the verse more rhythmic and also shows the author's philosophy of life.
Life in the countryside made his mind at ease in the true sense.
“In autumn we eat bamboo shoots, in winter we eat bean sprouts
Spring bathing in lotus ponds, summer bathing in ponds.
Life in harmony with nature and enjoying typical products of the mountains and forests shows Nguyen Binh Khiem's nobility and worldliness. He lived according to the laws of nature, he was awake in every season, in the spring he bathed in the lake, in the summer he bathed in the pond. How frugal and peaceful that life was.
“Wine, come to the tree, I will drink
|
Bài làm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc.Thơ ông mang đậm chất triết lí, giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. “Nhàn” là một bài thơ Nôm chứa đựng một triết lí nhân sinh của tác giả.
Triết lí nhân sinh mà tác giả đã thể hiện qua bài thơ đó chính là triết lí sống nhàn. Sống nhàn là sống hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, vượt lên trên vòng tranh đua danh lợi. Mở đầu bài thơ là cuộc sống sinh hoạt của một người lao động rất ung dung, tự tại:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.”
Đó là những dụng cụ lao động cần thiết để tác giả có thể sống một cuộc sống tự cung, tự cấp. Một cuộc sống cách xa chốn quan trường, tư dục như thế khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy hài lòng và kiên định với sự lựa chọn của mình. Mặc kệ người ta tranh giành nhau danh lợi thì ta vẫn ung dung, không mảy may bận tâm đến điều đó. Nhàn đối với ông không phải là rảnh rỗi mà đó là việc có trong tay những công cụ lao động để tự mình nuôi sống bản thân, không phải phụ thuộc vào người khác và không bị những thứ vật chất tầm thường đánh gục. Cái nhàn ở đây không nên hiểu là nhàn thân mà nên hiểu là nhà tâm, cái nhàn bắt nguồn từ chính sự tĩnh tại trong tâm hồn nhà thơ.
Hai câu thơ tiếp theo, tác giả bàn luận về cái dại, cái khôn trong cuộc đời:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Nơi vắng vẻ chính là cuộc sống trong sạch, rời xa vòng danh lợi, sống theo sở thích của bản thân. Chốn lao xao là chốn người ta bon chen, tranh giành nhau quyền lợi, chức tước, địa vị. Ta dại nhưng thực chất đó là cái dại của người đại trí, cái dại của người đã nhìn ra thời thế. Còn người khôn được tác giả nhắc đến bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm.
Cuộc sống nơi thôn dã yên bình và thuận theo tự nhiên khiến tác giả thích thú:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Măng, giá là những sản vật của núi rừng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lánh đục về trong để sống hòa hợp với thiên nhiên. Mùa nào thức đấy, dường như tác giả đã toàn tâm toàn ý dành trọn cho cuộc sống nơi thôn dã, không vướng bận sự đời bon chen danh lợi. Đó là một cuộc sống thanh cao, thoát tục.
Bài thơ kết lại bằng cảm giác nhẹ nhàng bởi nhà thơ đã hoàn toàn trút bỏ những nghĩ suy về lợi danh và rời xa chốn bon chen ấy:
“Rượu, đến cội cây ta sẽ uống
|
Assignment
Nguyen Binh Khiem is a great poet of the nation. His poetry is full of philosophy and teachings, praising the will of scholars and leisurely people, while at the same time criticizing the evils in society. “Nhan” is a Nom poem containing the author's philosophy of life.
The philosophy of life that the author expressed through the poem is the philosophy of leisurely living. Living leisurely means living in harmony with nature, maintaining a noble personality, and rising above the cycle of competition for fame and fortune. The poem begins with the life of a very leisurely and carefree worker:
“One spade, one hoe, one fishing rod
Poetry is fun no matter who it is."
These are necessary working tools for the author to live a self-sufficient life. Such a life far away from officialdom and personal desires makes Nguyen Binh Khiem feel satisfied and steadfast with his choice. Regardless of people fighting for fame and fortune, we are still leisurely and don't care about that at all. Leisure for him is not free time, but rather having the working tools in hand to support himself, not having to depend on others and not being defeated by trivial material things. The leisure here should not be understood as physical leisure but should be understood as the mind's home, the leisure originating from the tranquility in the poet's soul.
In the next two verses, the author discusses the foolishness and wisdom in life:
"I am stupid, I am looking for a peaceful place
Nguoi khon nguoi den chon lao xao"
A deserted place is a pure life, away from the circle of fame and fortune, living according to one's own interests. A bustling place is a place where people jostle and compete for rights, titles, and positions. I am foolish, but in reality it is the foolishness of a wise person, the foolishness of someone who has seen the times. As for the wise people, the author mentions them in an ironic and satirical tone.
Life in the countryside is peaceful and in accordance with nature, which makes the author excited:
“In autumn we eat bamboo shoots, in winter we eat bean sprouts
In the spring, bathe in the lotus pond, in the summer, bathe in the pond."
Bamboo shoots and bean sprouts are products of the mountains and forests. Nguyen Binh Khiem has retreated to live in harmony with nature. In any given season, it seems that the author has devoted himself entirely to life in the countryside, unencumbered by the hustle and bustle of fame and fortune. It is a noble, unworldly life.
The poem ends with a feeling of lightness because the poet has completely let go of thoughts about fame and fortune and left that hustle and bustle:
“Wine, I will drink it when I reach the tree
|
Bài làm
Tôi là con trai của Lão Hạc. Sau hai mươi năm đi đồn điền cao su, tôi đã tích cóp được một khoản tiền nhỏ. Lần này, tôi quyết định trở về làng thăm lại cha và mọi người trong làng. Sau bao nhiêu năm xa quê, nên nghĩ được quay trở về quê nhà là lòng tôi lại háo hức, bồn chồn. Khiến cả đêm hôm trước tôi không thể nào chợp mắt được.
Quay trở lại làng, cảnh vật mọi thứ vẫn vậy, không có gì thay đổi. Từ những ngõ ngách nhỏ, những con đường làng bụi mù mỗi khi trời nắng lên, cái nghèo vẫn bao lấy ngôi làng của tôi. Bước vào cổng nhà, tôi bỗng cảm thấy một chút gì đó lạnh lẽo, nhà cửa hoang tàn, cây cỏ thì héo úa. Ngỡ ngàng trước cảnh tượng đó, tôi tìm mãi nhưng không thấy cha tôi đâu. Lúc trước tôi đi, tôi có để lại một con chó đặt tên là Cậu Vàng để cha tôi nuôi bầu bạn mỗi ngày khi tôi vắng nhà. Giờ tôi cũng chẳng thấy nó đâu. Lúc đầu tôi chỉ nghĩ là cha tôi đưa Cậu Vàng đi đâu đó quanh làng thôi. Tôi chạy sang nhà ông giáo, vì bình thường cha của tôi hay qua nhà ông giáo ngồi hút thuốc và uống nước chè.
Sang đến nơi, ông giáo có lẽ cũng bất ngờ khi thấy tôi trở về. Nhưng hình như ông có điều muốn nói với tôi nhưng lại chưa thể nói ra. Tôi cố gắng gặng hỏi xem có chuyện gì xảy ra khi tôi vắng nhà, lúc đó ông giáo mới kể cho tôi nghe về mọi chuyện. Tôi không ngờ cha tôi đã phải chịu bao vất vả, cực khổ đến như vây, cả đến khi chết vẫn còn khổ. Cũng chỉ vì cái nghèo, cái đói mà tôi phải xa cha, bỏ cha già ở nhà một mình. Cũng chính vì nghèo đói và thương tôi mà cha tôi đã phải chết. Đau đớn tột cùng, tôi gần như chết lặng đi khi nghe ông giáo kể.
Ông giáo đưa cho tôi một túi đựng tiền nhỏ, đây là số tiền ít ỏi mà cha tôi đã dành dụm cho tôi. Sau khi bình tĩnh lại, ông giáo dẫn tôi đi đến thăm mộ của cha tôi. Nhìn ngôi mộ của cha mà tôi không thể kìm được cảm xúc, hai dòng lệ cứ tuôn dài trên má tôi, tôi chạy đếm ôm lấy mộ cha. Ông giáo thắp hương cho cha tôi xong ông nói: “Lão Hạc ơi, cuối cùng con trai của lão cũng đã trở về rồi, nếu ông còn sống chắc ông sẽ vui lắm khi thấy con trai ông nó đã trưởng thành hơn rồi”. Tôi chẳng muốn rời mộ cha một chút nào hết, vì sau bao nhiêu năm hai cha con xa cách giờ gặp nhau lại trong hoàn cảnh này. Ông giáo cố gắng động viên tôi và khuyên tôi nên về nhà ông giáo để nghỉ ngơi. Nhưng tôi đã từ chối, tôi muốn trở về nhà mình dọn dẹp chút, lâu rồi không ai ở ngôi nhà trở nên lạnh lẽo quá rồi.
|
Assignment
I am the son of Old Hac. After twenty years on the rubber plantation, I had saved a small amount of money. This time, I decided to return to the village to visit my father and everyone in the village. After so many years away from home, the thought of returning home makes me excited and restless. I couldn't sleep the whole night before.
Returning to the village, everything was still the same, nothing had changed. From the small alleys and dusty village roads every time it's sunny, poverty still surrounds my village. Entering the gate, I suddenly felt a bit cold, the house was deserted, the plants were withered. Surprised by that scene, I looked forever but could not find my father. Before I left, I left behind a dog named Uncle Vang for my father to keep as a companion every day when I was away. Now I don't see it either. At first I just thought my father was taking Uncle Vang somewhere around the village. I ran to the teacher's house, because normally my father often went to the teacher's house to sit and smoke and drink tea.
When I arrived, the teacher was probably surprised to see me return. But it seemed like he had something to say to me but couldn't say it yet. I tried to ask what happened while I was away, only then did the teacher tell me everything. I did not expect that my father had to endure so many hardships and hardships, even when he died, he was still suffering. Because of poverty and hunger, I had to leave my father and leave my old father at home alone. It was also because of poverty and love for me that my father had to die. In extreme pain, I almost died as I listened to the teacher's story.
The teacher gave me a small bag of money, this was the little money my father had saved for me. After calming down, the teacher took me to visit my father's grave. Looking at my father's grave, I couldn't hold back my emotions. Two streams of tears kept flowing down my cheeks. I ran and hugged my father's grave. After the teacher burned incense for my father, he said: "Old Hac, your son has finally returned. If you were still alive, you would be very happy to see that your son has become more mature." I don't want to leave my father's grave at all, because after many years of separation, father and son are now reunited in this situation. The teacher tried to encourage me and advised me to go back to his house to rest. But I refused, I wanted to go back to my house to clean up a bit. It had been a long time since anyone had been there. The house had become too cold.
|
Bài làm
Ca dao, dân ca là những câu thơ, câu hát trữ tình dân gian. Bằng hệ thống chủ đề, hình thức diễn xướng, hình thức nghệ thuật độc đáo, ca dao dân ca phản ánh thế giới nội tâm của con người, những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng của con người đối với thế giới khách quan. Tiếng cười là một trong những phương tiện để con người dãi bày tâm sự. Tiếng cười trong ca dao có nhiều cung bậc khác nhau: tiếng cười châm biếm, tiếng cười hài hước, tiếng cười mỉa mai,…
Trước hết, đó là lời đối đáp giữa chàng trai và cô gái nói về việc dẫn cưới và thách cưới:
– Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn
Dẫn trâu sợ họ máu hàn
Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng
– Chàng dẫn thế em lấy làm sang
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:
Củ to thì để mời làng
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà
Bao nhiêu củ rím, củ hà
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Cưới xin hôn lễ là một việc trọng đại một đời của mỗi con người vì thế mà nó sẽ được chuẩn bị rất chu đáo. Nhưng vật dẫn cưới và vật thách cưới của đôi trai gái trong bài ca dao này lại thật sự khác thường. Thực chất nó là hai màn tự trào về cảnh nghèo của người lao động. Chàng trai dự định dẫn cưới: voi, trâu, bò. Đây đều là những sính lễ sang trọng. Chàng trai muốn dành những gì sang trọng nhất để cưới cô gái về làm dâu. Nhưng lại sợ: quốc cấm, máu hàn, co gân. Ở dây không phải là chàng trai không muốn cô gái nở mày nở mặt bằng một sính lễ thật sang trọng mà chàng trai lo lắng tới tính mạng, quan tâm tới sức khỏe của họ. Sau những đắn đo chàng trai đã quyết định đưa sính lễ là “con chuột béo”. Đây là cách nói độc đáo khiến sính lễ được lựa chọn đầy đủ các tiêu chuẩn về số lượng (bốn chân), chất lượng (béo). Chàng trai đã sử dụng cách nói hóm hỉnh, hài hước, thông minh từ đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của nhân dân lao động. Đáp lại chàng trai cô gái cũng vô cùng duyên dáng. “Lấy làm sang, như là…” đã thể hiện sự tự hào, trân trọng của cô gái. Thế nhưng cô gái ấy lại đưa ra lễ vật thách cưới khác thường, lạ đời: một nhà khoai lang. Lời thách cưới ấy thể hiện mơ ước của người lao động xưa là mùa màng bội thu. Kèm theo lời thách cưới là cách cô gái sẽ dùng lễ vật ấy: “ Củ to” – mời làng; “Củ nhỏ” – họ hàng ăn chơi; “ Củ mẻ” – cho con trẻ ăn chơi giữ nhà; “ Củ rím, củ hà” – cho con lợn, con gà…Điều này cho thấy đây là một cô gái đảm đang, biết lo toan, tính toán. Bài ca dao này muốn mượn cảnh nghèo đói trong gia đình cả hai bên để làm nền bộc lộ vẻ lạc quan dù có nghèo. Tiếng cười ấy hướng vào chính họ nhưng chàng trai, cô gái vẫn vui vẻ, có thể yêu nhau đến chọn đời, tình cảm mộc mạc, chân thành. Từ đó cũng phê phán tục thách cưới, dẫn cưới nặng nề của nhân dân ngày xưa.
Bên cạnh những tiếng cưới hài hước, tiếng cười còn có tác dụng châm biếm đả kích. Tiếng cười ở các bài 2, 3, 4 là tiếng cười đả kích, châm biến, phê phán xã hội.Tiếng cười ấy hướng vào những thói hư tật xấu của một bộ phận trong xã hội. Những tật xấu ở đây tuy không đến mức bị đả kích một cách quyết liệt nhưng trong khi nhẹ nhàng, thân tình nhắc nhở, thái độ của nhân dân ta cũng không kém phần sâu sắc. Hai đối tượng được dẫn ra để cười cợt ở đây là những người chồng lười nhác, vô dụng và những người vợ vô duyên xấu tính nhưng lại ưa nịnh hót.
“Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng”.
Tác giả dân gian đã sử dụng rất thành công thủ pháp đối lập kết hợp với lối nói khoa trương, phóng đại. “Khom lưng chống gối” là hành động dồn hết sức lực trong khi đó thứ cần phải gánh là “hai hạt vừng”- hai vật quá nhỏ bé. Từ việc nhận thấy được hai thủ pháp nghệ thuật nổi bật của câu ca dao trên đã so sánh một cách kín đáo để chế nhạo những kẻ lười nhác trong xã hội. Thông điệp mà bài ca dao muốn gửi gắm đó chính là con trai thì phải sống mạnh mẽ lên, đa là con trai thì phải làm việc xứng đáng với trai của mình, không được ỷ lại hay nhờ vả người khác khi mình có thể làm. Cùng đề tài với bài ca dao này, một bài khác lại viết:
“Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo”.
Nổi bật trong bài ca dao này là biện pháp đối lập: Chồng người – chồng em, Đi ngược – về xuôi, Đi ngược về xuôi – sờ đuôi con mèo. Có thể thấy rằng bài ca dao tiêu biểu cho đối tựng đàn ông vừa lừơi nhác lại vừa không có chí hướng, không có sự nghiệp. Hình ảnh “ngồi bếp sờ đuôi con mèo” cho thấy người đàn ông này ở bếp mà đáng ra đây là công việc của người phụ nữ, đã vậy chỉ ngồi “sờ đuôi con mèo”. Người đàn ông vô tích sự, không dám ra ngoài mà chỉ ở nhà ăm bám, bám váy vợ để sống, không đáng làm một ngừi đàn ông che chở cho gia đình hay là trụ cột của gia đình.
Đến với bài ca dao 4, đối tựơng phê phán ở đây lại là người phụ nữ. Đó là người phụ nữ vô duyên, đỏng đảnh và cả tình yêu mù quáng của người chồng:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo: Râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo: ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo: Về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
|
Assignment
Folk songs and folk songs are folk poems and lyrical songs. Through a system of themes, performance forms, and unique art forms, folk songs reflect people's inner world, their emotions, feelings, and moods towards the objective world. . Laughter is one of the means for people to express their feelings. Laughter in folk songs has many different levels: sarcastic laughter, humorous laughter, ironic laughter,...
First of all, there is a response between a boy and a girl about the wedding invitation and wedding invitation:
– To marry her, he plans to lead an elephant
He was afraid of a national ban, so he didn't discuss it
Leading buffaloes is afraid of their cold blood
Leading the cow was afraid that her family would contract
As long as there are four-legged animals
Bring the fat mouse, invite the people, invite the village
– If you lead me, I'll take it as a luxury
What if I interrupt like...
People challenge pigs to challenge chickens
My family challenges me to marry a sweet potato family:
Large tubers are meant to be invited to the village
As for small tubers, relatives play around
how many fresh tubers, honey!
In order to keep the children dissipated
How many sea urchins and mint roots?
Let the pigs and chickens eat...
Getting married is an important event in every person's life, so it will be prepared very carefully. But the wedding invitation and wedding invitation of the couple in this folk song are truly unusual. In fact, it is two self-satires about the poverty of working people. The boy plans to marry: elephant, buffalo, cow. These are all luxurious bride price offerings. The boy wants to spend the most luxurious things to marry the girl as his bride. But I'm afraid: the country is forbidden, my blood is cold, my tendons are tight. It's not that the guy doesn't want the girl to show off with a luxurious bride price, it's that the guy is worried about their lives and their health. After much hesitation, the young man decided to give the bride price as a "fat mouse". This is a unique way of saying that the bride price is fully selected according to the standards of quantity (four legs) and quality (fat). The young man used a witty, humorous, and intelligent way of speaking, thereby expressing the optimism and love of life of working people. In response, the boy and girl were also extremely charming. “For luxury, like…” showed the girl's pride and respect. However, the girl gave an unusual and strange wedding gift: a sweet potato house. That wedding invitation represents the dream of ancient workers of a bountiful harvest. Accompanying the wedding invitation is how the girl will use that gift: "Big tuber" - invite the village; “Small tubers” – relatives who play around; “Cu cho” – let the children eat and play to keep the house; "Rip root, root vegetable" - give it to a pig, a chicken... This shows that she is a responsible girl who knows how to take care of herself and calculate. This folk song wants to borrow the poverty in both families as a backdrop to reveal optimism despite poverty. That laughter is directed at themselves, but the boy and girl are still happy, can love each other to the point of choosing life, the feelings are simple and sincere. From there, it also criticized the heavy custom of wedding invitations and invitations of the people in the past.
Besides humorous sounds, laughter also has the effect of satirical criticism. The laughter in lessons 2, 3, 4 is laughter that attacks, satirizes, and criticizes society. That laughter is directed at the bad habits of a part of society. Although the bad habits here are not fiercely attacked, while being gently and cordially reminded, the attitude of our people is no less profound. The two subjects cited for laughter here are lazy, useless husbands and unglamorous but flattering wives.
“Be a man worthy of being a man,
Bend your back and lean on your knees, carrying two sesame seeds.
Folk authors have very successfully used contrasting techniques combined with flamboyant and exaggerated speech. “Bending your back and supporting your knees” is an act of putting all your strength while what needs to be carried are “two sesame seeds” - two very small things. From noticing the two outstanding artistic techniques of the above folk song, they discreetly compared them to mock the lazy people in society. The message that the folk song wants to convey is that as a son, you must live strong. If you are a son, you must do work worthy of your son, and not rely on or ask others for help when you can do it. . On the same topic as this folk song, another article writes:
“Your husband goes back and forth,
My husband sat in the kitchen touching the cat's tail."
Prominent in this folk song is the opposing measure: Your husband - my husband, Going backwards - going forward, Going backwards - touching the cat's tail. It can be seen that the folk song represents men who are both lazy and have no ambition or career. The image of "sitting in the kitchen and touching the cat's tail" shows that this man is in the kitchen, which is supposed to be a woman's job, but instead just sits "touching the cat's tail". A useless man who does not dare to go out but only stays at home and clings to his wife's skirt to survive, is not worthy of being a man who protects his family or is the breadwinner of the family.
Coming to folk song 4, the object of criticism here is the woman. That is the ungainly, arrogant woman and the blind love of her husband:
Eighteen nostrils of hair,
Dear husband, he said: Dragon beard is a gift from heaven
Lying down at night, I snore loudly,
Dear husband, he said: snoring for fun at home.
When I go to the market, I often eat gifts.
Dear husband, he said: Come home and help me eat.
On top of the trash and straw,
|
Bài làm
Tiếng cười là một trong những phương tiện phản ánh thế giới nội tâm của con người, những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng của con người đối với thế giới khách quan. Tiếng cười trong ca dao có nhiều cung bậc khác nhau: tiếng cười châm biếm, tiếng cười hài hước, tiếng cười mỉa mai,…
Trước hết, tiếng cười vang lên từ lời đối đáp giữa chàng trai và cô gái nói về việc dẫn cưới và thách cưới:
– Cưới nàng anh toan dẫn voi
Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn
Dẫn trâu sợ họ máu hàn
Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân
Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng
– Chàng dẫn thế em lấy làm sang
Nỡ nào em lại phá ngang như là…
Người ta thách lợn thách gà
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang:
Củ to thì để mời làng
Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi
Bao nhiêu củ mẻ, chàng ơi!
Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà
Bao nhiêu củ rím, củ hà
Để cho con lợn, con gà nó ăn…
Cưới xin hôn lễ là một việc trọng đại một đời của mỗi con người vì thế mà nó sẽ được chuẩn bị rất chu đáo. Nhưng vật dẫn cưới và vật thách cưới của đôi trai gái trong bài ca dao này lại thật sự khác thường. Thực chất nó là hai màn tự trào về cảnh nghèo của người lao động. Chàng trai dự định dẫn cưới: voi, trâu, bò. Đây đều là những sính lễ sang trọng. Chàng trai muốn dành những gì sang trọng nhất để cưới cô gái về làm dâu. Nhưng lại sợ: quốc cấm, máu hàn, co gân. Ở dây không phải là chàng trai không muốn cô gái nở mày nở mặt bằng một sính lễ thật sang trọng mà chàng trai lo lắng tới tính mạng, quan tâm tới sức khỏe của họ. Sau những đắn đo chàng trai đã quyết định đưa sính lễ là “con chuột béo”. Đây là cách nói độc đáo khiến sính lễ được lựa chọn đầy đủ các tiêu chuẩn về số lượng (bốn chân), chất lượng (béo). Chàng trai đã sử dụng cách nói hóm hỉnh, hài hước, thông minh từ đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của nhân dân lao động. Đáp lại chàng trai cô gái cũng vô cùng duyên dáng. “Lấy làm sang, như là…” đã thể hiện sự tự hào, trân trọng của cô gái. Thế nhưng cô gái ấy lại đưa ra lễ vật thách cưới khác thường, lạ đời: một nhà khoai lang. Lời thách cưới ấy thể hiện mơ ước của người lao động xưa là mùa màng bội thu. Kèm theo lời thách cưới là cách cô gái sẽ dùng lễ vật ấy: “ Củ to” – mời làng; “Củ nhỏ” – họ hàng ăn chơi; “ Củ mẻ” – cho con trẻ ăn chơi giữ nhà; “ Củ rím, củ hà” – cho con lợn, con gà…Điều này cho thấy đây là một cô gái đảm đang, biết lo toan, tính toán. Bài ca dao này muốn mượn cảnh nghèo đói trong gia đình cả hai bên để làm nền bộc lộ vẻ lạc quan dù có nghèo. Tiếng cười ấy hướng vào chính họ nhưng chàng trai, cô gái vẫn vui vẻ, có thể yêu nhau đến chọn đời, tình cảm mộc mạc, chân thành. Từ đó cũng phê phán tục thách cưới, dẫn cưới nặng nề của nhân dân ngày xưa.
Bên cạnh những tiếng cưới hài hước, tiếng cười còn có tác dụng châm biếm đả kích. Tiếng cười ấy hướng vào những thói hư tật xấu của một bộ phận trong xã hội. Những tật xấu ở đây tuy không đến mức bị đả kích một cách quyết liệt nhưng trong khi nhẹ nhàng, thân tình nhắc nhở, thái độ của nhân dân ta cũng không kém phần sâu sắc. Hai đối tượng được dẫn ra để cười cợt ở đây là những người chồng lười nhác, vô dụng và những người vợ vô duyên xấu tính nhưng lại ưa nịnh hót.
“Làm trai cho đáng sức trai,
Khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng”.
Tác giả dân gian đã sử dụng rất thành công thủ pháp đối lập kết hợp với lối nói khoa trương, phóng đại. “Khom lưng chống gối” là hành động dồn hết sức lực trong khi đó thứ cần phải gánh là “hai hạt vừng”- hai vật quá nhỏ bé. Từ việc nhận thấy được hai thủ pháp nghệ thuật nổi bật của câu ca dao trên đã so sánh một cách kín đáo để chế nhạo những kẻ lười nhác trong xã hội. Thông điệp mà bài ca dao muốn gửi gắm đó chính là con trai thì phải sống mạnh mẽ lên, đa là con trai thì phải làm việc xứng đáng với trai của mình, không được ỷ lại hay nhờ vả người khác khi mình có thể làm. Cùng đề tài với bài ca dao này, một bài khác lại viết:
“Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo”.
Nổi bật trong bài ca dao này là biện pháp đối lập: Chồng người – chồng em, Đi ngược – về xuôi, Đi ngược về xuôi – sờ đuôi con mèo. Có thể thấy rằng bài ca dao tiêu biểu cho đối tựng đàn ông vừa lừơi nhác lại vừa không có chí hướng, không có sự nghiệp. Hình ảnh “ngồi bếp sờ đuôi con mèo” cho thấy người đàn ông này ở bếp mà đáng ra đây là công việc của người phụ nữ, đã vậy chỉ ngồi “sờ đuôi con mèo”. Người đàn ông vô tích sự, không dám ra ngoài mà chỉ ở nhà ăm bám, bám váy vợ để sống, không đáng làm một ngừi đàn ông che chở cho gia đình hay là trụ cột của gia đình.
Đến với bài ca dao 4, đối tựơng phê phán ở đây lại là người phụ nữ. Đó là người phụ nữ vô duyên, đỏng đảnh và cả tình yêu mù quáng của người chồng:
Lỗ mũi mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo: Râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo: ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo: Về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
|
Assignment
Laughter is one of the means of reflecting a person's inner world, his emotions, feelings, and moods towards the objective world. Laughter in folk songs has many different levels: sarcastic laughter, humorous laughter, ironic laughter,...
First of all, laughter rang out from the exchange between the boy and the girl talking about wedding invitations and wedding invitations:
– To marry her, he plans to lead an elephant
He was afraid of a national ban, so he didn't discuss it
Leading buffaloes is afraid of their cold blood
Leading the cow was afraid that her family would contract
As long as there are four-legged animals
Bring the fat mouse, invite the people, invite the village
– If you lead me, I'll take it as a luxury
What if I interrupt like...
People challenge pigs to challenge chickens
My family challenges me to marry a sweet potato family:
Large tubers are meant to be invited to the village
As for small tubers, relatives play around
how many fresh tubers, honey!
In order to keep the children dissipated
How many sea urchins and mint roots?
Let the pigs and chickens eat...
Getting married is an important event in every person's life, so it will be prepared very carefully. But the wedding invitation and wedding invitation of the couple in this folk song are truly unusual. In fact, it is two self-satires about the poverty of working people. The boy plans to marry: elephant, buffalo, cow. These are all luxurious bride price offerings. The boy wants to spend the most luxurious things to marry the girl as his bride. But I'm afraid: the country is forbidden, my blood is cold, my tendons are tight. It's not that the guy doesn't want the girl to show off with a luxurious bride price, it's that the guy is worried about their lives and their health. After much hesitation, the young man decided to give the bride price as a "fat mouse". This is a unique way of saying that the bride price is fully selected according to the standards of quantity (four legs) and quality (fat). The young man used a witty, humorous, and intelligent way of speaking, thereby expressing the optimism and love of life of working people. In response, the boy and girl were also extremely charming. “For luxury, like…” showed the girl's pride and respect. However, the girl gave an unusual and strange wedding gift: a sweet potato house. That wedding invitation represents the dream of ancient workers of a bountiful harvest. Accompanying the wedding invitation is how the girl will use that gift: "Big tuber" - invite the village; “Small tubers” – relatives who play around; “Cu cho” – let the children eat and play to keep the house; "Rip root, root vegetable" - give it to a pig, a chicken... This shows that she is a responsible girl who knows how to take care of herself and calculate. This folk song wants to borrow the poverty in both families as a backdrop to reveal optimism despite poverty. That laughter is directed at themselves, but the boy and girl are still happy, can love each other to the point of choosing life, the feelings are simple and sincere. From there, it also criticized the heavy custom of wedding invitations and invitations of the people in the past.
Besides humorous sounds, laughter also has the effect of satirical criticism. That laughter is directed at the bad habits of a part of society. Although the bad habits here are not fiercely attacked, while being gently and cordially reminded, the attitude of our people is no less profound. The two subjects cited for laughter here are lazy, useless husbands and unglamorous but flattering wives.
“Be a man worthy of being a man,
Bend your back and lean on your knees, carrying two sesame seeds.
Folk authors have very successfully used contrasting techniques combined with flamboyant and exaggerated speech. “Bending your back and supporting your knees” is an act of putting all your strength while what needs to be carried are “two sesame seeds” - two very small things. From noticing the two outstanding artistic techniques of the above folk song, they discreetly compared them to mock the lazy people in society. The message that the folk song wants to convey is that as a son, you must live strong. If you are a son, you must do work worthy of your son, and not rely on or ask others for help when you can do it. . On the same topic as this folk song, another article writes:
“Your husband goes back and forth,
My husband sat in the kitchen touching the cat's tail."
Prominent in this folk song is the opposing measure: Your husband - my husband, Going backwards - going forward, Going backwards - touching the cat's tail. It can be seen that the folk song represents men who are both lazy and have no ambition or career. The image of "sitting in the kitchen and touching the cat's tail" shows that this man is in the kitchen, which is supposed to be a woman's job, but instead just sits "touching the cat's tail". A useless man who does not dare to go out but only stays at home and clings to his wife's skirt to survive, is not worthy of being a man who protects his family or is the breadwinner of the family.
Coming to folk song 4, the object of criticism here is the woman. That is the ungainly, arrogant woman and the blind love of her husband:
Eighteen nostrils of hair,
Dear husband, he said: Dragon beard is a gift from heaven
Lying down at night, I snore loudly,
Dear husband, he said: snoring for fun at home.
When I go to the market, I often eat gifts.
Dear husband, he said: Come home and help me eat.
On top of the trash and straw,
|
Bài làm
Tôi là một que diêm, nhưng không phải que diêm bình thường tôi chính là que diêm còn sót lại trong giỏ của cô bé trong chuyện Cô bé bán diêm.
Tôi còn nhớ cái mùa đông năm ấy nhiệt độ rất lạnh, mọi người không ai muốn ra đường. Chính cái ngày đó, ngày thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới sắp đến, cô bé tội nghiệp vẫn mang những que diêm chúng tôi để trong giỏi và lang thang trên những con phố để bán, kiếm tiền để ăn. Nếu không bán được, cô bé sẽ chết vì đói. Mọi người ai cũng vui vẻ cười nói đi trên đường với những bộ quần áo sạch đẹp và ấm áp chuẩn bị đón năm mới. Nhìn cô bé lang thang trên đường mong mọi người mua giúp cho cô những que diêm chúng tôi, để có thể kịp về đón giao thừa. Thế nhưng, trong bộ đồ mỏng manh và rách rưới ai cũng nhìn cô với ánh mắt xa lánh, coi như không nghe thấy lời nài nỉ của cô.
Tôi là một trong số những que diêm được cô bé mua ở trong thành phố để mang đi bán, với mong ước có chút tiền để có thể về quê đón giao thừa cùng gia đình. Có vẻ như gia đình cô nghèo lắm, nên cô bé mới ăn mặc như vậy. Và đáng lẽ ra, bằng tuổi cô nhưng đứa trẻ đang được bao bọc trong vòng tay mẹ cha, đang ở trong căn nhà ấm áp, trên mình khoác những bộ quần áo đẹp chờ đón năm mới, còn cô bé thì vẫn lang thang ngoài đường trong cái đói, cái rét và ước ao được về nhà vào đúng giao thừa.
|
Assignment
I am a match, but not an ordinary match, I am the match left in the little girl's basket in the story of The Little Match Girl.
I still remember that winter, the temperature was very cold, no one wanted to go out. That very day, the day of transition between the old year and the upcoming new year, the poor girl still carried the matches we kept in her bag and wandered on the streets to sell and earn money to eat. If she can't sell it, she will die of hunger. Everyone was happily smiling and walking on the street with clean, beautiful and warm clothes preparing to welcome the new year. Looking at the little girl wandering on the streets, I hope everyone will buy us matches for her so she can come home in time to celebrate New Year's Eve. However, in her thin and tattered clothes, everyone looked at her with distant eyes, as if they did not hear her plea.
I was one of the matches that the little girl bought in the city to sell, with the hope of having some money so she could go home to celebrate New Year's Eve with her family. It seems like her family is very poor, so she dresses like that. And supposedly, the child is the same age as her, but the child is wrapped in her parents' arms, in a warm house, wearing beautiful clothes waiting to welcome the new year, while she is still wandering outside. on the road in hunger, cold and the desire to return home on New Year's Eve.
|
Bài làm
Trong lớp em có bạn Tuấn, bạn ý học rất giỏi các môn tự nhiên đặc biệt là môn toán. Tuy nhiên, bạn ý lại chưa tập trung đến môn văn nên hay bị cô giáo nhắc nhở. Như chúng ta đã biết, toán và văn là hai bộ môn quan trọng trong số các môn tự nhiên và các môn xã hội. Toán và văn là quan trọng như nhau và không có môn nào là không cần thiết trong hai môn ấy cả.
Văn học là gì? Văn học chính là một môn xã hội. Văn học là thành quả sáng tạo của một con người, phục vụ nhu cầu của con người trong cuộc sống. Tác phẩm văn học ra đời có tác dụng mang lại cho bạn đọc những tri thức, những giá trị sống tốt đẹp, bồi dưỡng cho chúng ta những thái độ sống đúng đắn.
Văn học phản ánh nhiều điều về cuộc sống, nhiều tấm gương lịch sử được đưa vào văn học. Nhiều khía cạnh của con người, cuộc sống được đưa vào văn chương và phản ánh một cách sinh động với lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục. Con người chúng ta từ việc đọc các tác phẩm văn chương đó sẽ chiêm nghiệm và hiểu ra được nhiều điều trong cuộc sống. Văn học dạy cho ta thêm về cách sống. Nhiều con người trong lịch sử được đưa vào văn chương ở những khía cạnh mà lịch sử chưa thể hiện được, điều đó giúp chúng ta nhìn nhận được quá khứ và nhận thức lại thực tại.
Văn học đã dần trở thành món ăn tinh thần của con người. Nó có tác dụng giúp cho con người thay đổi tâm tư, tình cảm, biết rung động trước cái đẹp. Văn học giúp con người có thể hoàn thành tốt nhân cách, biết sống tốt hơn có ích hơn cho cuộc đời và cho xã hội. Ngoài các trò chơi, thú vui giải trí khác ra văn học còn được xem là một thú vui giải trí, giúp con người thư giãn hơn.
|
Assignment
In my class, I have a friend, Tuan, who is very good at natural subjects, especially math. However, he is not yet focused on literature so he is often reminded by the teacher. As we know, math and literature are two important subjects among natural subjects and social subjects. Math and literature are equally important and there is no unnecessary subject in those two subjects.
What is literature? Literature is a social subject. Literature is the creative achievement of a person, serving human needs in life. Literary works are created to bring readers knowledge, good life values, and to foster the right life attitudes.
Literature reflects many things about life, many historical examples are included in literature. Many aspects of people and life are included in literature and reflected vividly with convincing arguments and evidence. We humans, from reading literary works, will contemplate and understand many things in life. Literature teaches us more about how to live. Many people in history are brought into literature in aspects that history has not shown, which helps us see the past and re-perceive reality.
Literature has gradually become human spiritual food. It has the effect of helping people change their thoughts, feelings, and be moved by beauty. Literature helps people fulfill their personality, live better and be more useful for life and society. In addition to games and other entertainment, literature is also considered an entertainment hobby, helping people relax more.
|
Bài làm
Nguyễn Trãi( 1380-1442) là nhân vật lịch sử vĩ đại, là thiên tài trong quá khứ. Ông xứng đáng là người con ưu tú của dân tộc kể từ khi lập quốc. Về mặt văn học, Nguyễn Trãi là tác giả có vị trí lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam.Ông không chỉ là tác giả của những áng hùng văn “ có sức mạnh bằng mười vạn quân” ( Bình Ngô đại cáo, quân trung từ mệnh tập) mà còn là tác giả của những bài thơ Nôm chứa chan cảm xúc, tình yêu nhiên nhiên, cuộc sống, nặng lòng với đất nước, nhân dân.
Tập thơ Nôm “ Quốc âm thi tập” của ông gồm 254 bài, là tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn, đánh dấu bước phát triển của văn học chữ Nôm trong văn học trung đại. Cảnh ngày hè thuộc “ bảo kính cảnh giới” đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và lý tưởng của Nguyễn Trãi,dành tình yêu cho thiên nhiên, cuộc sống, con người và vươn tới khát vọng hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân.
Bài thơ mở ra bằng hình ảnh của một bức tranh nhiên nhiên, cuộc sống rực rỡ sắc màu:
“ Rồi hóng mát thủa ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Câu thơ đầu đã thể hiên khá đầy đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Tác giả gợi ra sự nhàn rỗi ngồi hóng mát và nét đặc trưng của ngày hè. Một ngày rảnh rỗi,khí trời mát mẻ, trong lành khiến cho tâm hồn con người trở nên thư thái, thanh thản. Đó là điều kiện lý tưởng để Nguyễn Trãi làm thơ và đắm mình vào cảnh sắc thiên nhiên.
Ức Trai là nhà thơ của thiên nhiên: “ Non nước cùng ta đã có duyên”. Ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: Thời chiến, thời bình, lúc buồn, khi vui và cả khi thư nhàn. Ông luôn rộng mở hồn mình để đón nhận mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người: “ Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Một phút thanh nhàn với bậc khai quốc công thần tận trung, tận lực, giúp vua, giúp nước thật đáng quý biết bao.
Nguyễn Trãi đã mở rộng hồn thơ, huy động nhiều giác quan và sự liên tưởng để cảm nhận, diễn tả vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và cảnh ngày hè chân thực, sinh động, tràn đầy sức sống, vừa dân dã, giản dị, vừa gợi cảm. Điều đó cho thấy sự tinh tế, nhạy cảm, tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của ông.
“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Một thiên nhiên căng tràn, dồi dào sức sống được thể hiện qua độ rực rỡ của lá hoa, sắc màu. Màu xanh của tán lá hoè cứ đùn đùn tuôn, hình như lan rộng mãi ra thành bóng mát che rợp một khoảng sân rộng. Hoa sen hồng trong ao đã lan toả ngát hương. Sắc xanh của lá, sắc hồng của hoa hoà với mùi hương, với âm thanh (lao xao, dắng dỏi) tiếng người trò chuyện xa xa, con người và cảnh vật như hoà vào nhau. Các từ ngữ giàu tính tạo hình: “ đùn đùn, phun, tiễn” khiến cảnh vật trở nên sống động, có hồn. Đồng thời,mật độ dày đặc của các trạng thái cộng hưởng với độ gay gắt của gam màu nóng làm dậy lên sức sống của thiên nhiên mạnh mẽ, căng tràn. Thi nhân đón nhận ra giao cảm với cảnh vật bằng mọi giác quan.
Bức tranh chiều hè ở một làng đánh cá hiện lên thật chân thực và sinh động qua cảm nhận thanh thản của một ông già đang nhàn rỗi trong thời gian ở ẩn. Mùa hè hiện lên không chỉ với cảnh sắc mà với cả những âm thanh rất đỗi gần gũi, thân thuộc. Âm thanh “ lao xao chợ cá” gợi sự vui vẻ, yên bình, no đủ trong cuộc sống thường nhật nơi làng quê. Tiếng ve “ dắng dỏi” như bản nhạc gọi hè, xua tan không khí quạnh hiu của buổi chiều tà. Âm thanh vui vẻ, rộn rã ấy khiến lòng người trở nên thanh thản, yên bình.
Bức tranh nhiên nhiên ngày hè rất sinh động và giàu sức sống. Tuy là buổi chiều cuối ngày nhưng cuộc sống vẫn chưa ngừng lại. Có một cái gì đó thôi thúc từ bên trong ứa căng, tràn đầy, không kìm lại được, phải giương ra, đùn ra, phun ra… hết lớp này đến lớp khác. Cuộc sống vẫn luôn cựa quậy, vận động không ngừng. Nếu trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Nguyễn Du viết “ đầu tường lửa lựu tập loè đơm bông” là thiên về màu sắc, thì ở câu thơ tả sen hồng, hoè xanh của Nguyễn Trãi lại thiên về sức sống của cảnh vật, nhiên nhiên. Cách ngắt nhịp ¾ khá mới mẻ đã gây ấn tượng là sự chú ý cho người đọc làm nổi bật cảnh chiều hè. Nét đặc sắc của bức tranh nhiên nhiên chiều hè còn thể hiện sự đồng cảm, giao cảm giữa con người và cảnh vật, qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.
Là một nhà chính trị, một nhà văn, sâu thẳm tâm hồn Nguyễn Trãi luôn mang nặng nỗi lo cho đất nước, nhân dân. Nguyễn Trãi yêu nhiên nhiên nhưng trên hết tấm lòng ông thiết tha với con người, với dân, với nước. Từ cảm giác thanh bình, no ấm của cảnh ngày hè đã dấy lên một khao khát có cây đàn của vua Ngu Thuấn để đàn khúc Nam Phong khiến cho mưa thuận gió hoà, nhân nhân no đủ.
“ Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
|
Assignment
Nguyen Trai (1380-1442) is a great historical figure and a genius in the past. He deserves to be an outstanding son of the nation since the founding of the country. In terms of literature, Nguyen Trai is an author with a great position in Vietnamese medieval literature. He is not only the author of heroic works "with the power of 100,000 soldiers" (Binh Ngo Dai Cao, Quan Trung Tu Menh Tap) but also the author of Nom poems filled with emotions, natural love, life, and a heavy heart for the country and people.
His collection of Nom poetry "Quoc am thi tap" includes 254 poems, is the earliest extant collection of Nom poetry, marking the development of Nom literature in medieval literature. The summer scene of the "protected realm" shows the beauty of Nguyen Trai's soul and ideals, his love for nature, life, people and his desire for peace and happiness for the people.
The poem opens with the image of a picture of nature and colorful life:
“Then enjoy the fresh air during school days
Green flowers spread out and spread out
Pomegranate jelly still sprays red
The red lotus tree has sent away the scent."
The first verse shows quite fully the time, circumstances, and mood of the poet. The author evokes the idleness of sitting in the cool air and the characteristics of summer days. A free day, the cool and fresh air makes the human soul relaxed and at peace. Those are ideal conditions for Nguyen Trai to write poetry and immerse himself in natural scenery.
Uc Trai is a poet of nature: "The country and I have fate." He comes to nature in all circumstances: Wartime, peacetime, sad time, happy time and even leisure time. He always opened his soul to receive all the beauty of nature, country, and people: "The pocket of poetry contains everything". How precious is a moment of leisure with a founder of the country who is loyal and dedicated, helping the king and the country.
Nguyen Trai has expanded his poetic soul, mobilizing many senses and associations to feel and express the beauty of the picture of nature, life and summer scenes that are realistic, vivid, full of vitality, and yet popular. Wild, simple, yet sexy. That shows his sophistication, sensitivity, love of nature, and love of life.
“The green trees are filled with trees and flowers
Pomegranate jelly still sprays red
The red lotus tree has sent away the scent."
A nature full of vitality is expressed through the brilliance of leaves, flowers and colors. The green color of the foliage kept spreading, seemingly spreading forever, forming a shade that covered a large yard. The pink lotus in the pond has spread its fragrance. The green of the leaves and the pink of the flowers blend with the scent, with the sounds (loud, loud) of people talking in the distance, people and the landscape seem to blend together. The words rich in shaping: "extrusion, spray, send" make the scene come alive and soulful. At the same time, the dense density of the states resonates with the harshness of the hot color scheme, arousing the vitality of strong, overflowing nature. The poet recognizes and communicates with the scene with all senses.
The picture of a summer afternoon in a fishing village appears realistically and vividly through the peaceful feelings of an old man idle during his time in hiding. Summer appears not only with scenery but also with very close and familiar sounds. The sound of "crowding at the fish market" evokes joy, peace, and fullness in daily life in the countryside. The "loud" sound of cicadas is like summer music, dispelling the lonely atmosphere of the late afternoon. That happy, bustling sound makes people's hearts become serene and peaceful.
The natural picture of a summer day is very vivid and rich in vitality. Although it is the last afternoon of the day, life has not stopped. There is an urge from inside to overflow, to overflow, to be unable to hold back, to stretch out, extrude, squirt out... layer after layer. Life is always stirring, constantly moving. If in Nguyen Du's story Kieu, Nguyen Du writes "the tip of the pomegranate wall of fire gathers to bloom" which is more about color, then in Nguyen Trai's poem describing pink and green lotus, it is more about the vitality of the scene, of course. course. The rather new ¾ rhythm beat impresses the reader's attention, highlighting the summer afternoon scene. The unique feature of the natural summer afternoon painting also shows sympathy and communion between people and the landscape, thereby expressing the beauty of Nguyen Trai's soul.
As a politician and writer, deep in Nguyen Trai's soul he always carries heavy worries for the country and its people. Nguyen Trai loves nature, but above all, his heart is passionate about people, the people, and the country. From the feeling of peace and prosperity of the summer scene, a desire arose to have King Ngu Thuan's instrument to play the Nam Phong song to bring good weather and good weather, and enough people.
“There will be Ngu playing the guitar for a while
|
Bài làm
Theo bạn trong cuộc sống ngày nay tác nhân nào gây nguy hại nhất đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống của con người. Chắc hẳn bạn sẽ nghĩ đó làô nhiễm môi trường, dịch bệnh,… nhưng không chính thuốc lá mới là một trong những tác nhân nguy hiểm nhất đối với sức khỏe và tính mạng con người. Nó được gọi là “ kẻ thù ngọt ngào” của con người. Vậy tại sao nó lại được gọi như vậy? Thuốc lá có những tác hại gì? chúng ta cần phải hiểu và biết được tác hại của nó để có thể bảo vệ bản thân và gia đình.
Trước hết ta phải hiểu thuốc lá là gì? Thuốc lá là tên gọi một loại sản phẩm được làm chủ yếu từ lá cây thuốc lá thái sợi, được cuốn hay nhồi định hình bằng giấy, có dạng hình trụ. Thuốc lá điếu thường được đốt cháy ở một đầu, để cháy âm ỉ nhằm mục đích tạo ra khói theo dòng khí vào miệng người hút từ đầu đối diện. điếu thuốc lá bé nhỏ chỉ tầm 10 cm nhưng trong khói thuốc lá chứa tới 400 loại hóa chất phần lớn là chất độc hại và 60 trong số đó được xếp vào loại chất gây ung thư hàng đầu như: Nicotin, hắc ín, a sen … nguy hiểm nhất là nicotin vì nó rất độc lại còn là một chất gây nghiện.
Thuốc lá chính là “kẻ giết người ngọt ngào” vì người hút dần dần phải phụ thuộc vào thuốc lá,do có chất gây nghiện nicotin giống như ma túy khiến người hút không thể bỏ dù biết nhiều căn bệnh nguy hiểm do hút thuốc gây ra. Đầu tiên đó là những bệnh về đường hô hấp: viêm khí quản, viêm thanh quản, hôi miệng, …. Nguy hiểm nhất là ung thư vòm họng, ung thư phổi. Riêng tại Việt Nam mỗi năm có tới 40000 người tử vong do lien quan đến hút thuốc lá gấp 4 lần số tử vong do tai nạn giao thông. Bác sỹ viện trưởng bệnh viện K cho biết trên 80% ung thư vòm họng, ung thư phổi là do thuốc lá. Nó còn gây ra những cái chết bất ngờ vì nó là nguyên nhân gây nên những bệnh về hệ tuần hoàn: huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim. Có những người 40 – 50 tuổi đã chết đột xuất vì nghiện thuốc dẫn đến nhồi máu cơ tim. Thuốc lá còn gây suy thoái giống nòi làm giảm khả năng sinh sản ở cả nam và nữ. Với phần lớn là chất độc gây ung thư nó làm giảm chất lượng và số lượng tinh trùng, tăng tỉ lệ mắc bệnh liệt dương. Còn với phụ nữ thuốc lá gây mãn kinh sớm giảm khả năng thụ thai, dễ sảy thai, sinh non. Đáng buồn hơn người hút thuốc lá đã bị hủy hoại sức khỏe nghiêm trọng như vậy nhưng khói thuốc còn gây hại cho những người xung quanh gấp nhiều lần dù họ không hề hút thuốc. Khi hút thuốc người hút thở ra hai luồng khói chính và phụ, 20% khói thuốc người hút hít vào cơ thể và 80% còn lại tỏa ra môi trường xung quanh gây hại cho người không hút. Nhũng nạn nhân bất đắc dĩ này cũng bị tác hại gián tiếp dẫn đến nguy cơ mắc bệnh do khói thuốc gây ra như chính người hút thuốc thậm chí còn nguy hiểm hơn. Theo nghiên cứu ở Việt Nam có trên 50% nam giới hút thuốc và 60% số người không hề hút cũng phải tiếp xúc với khói thuốc ít nhất 30 phút trên ngày. Tội nghiệp nhất là những em bé còn trong bụng mẹ, những sinh linh bé nhỏ bị nhiễm độc khói thuốc do những người xung quanh hay là do chính người ông, người cha của mình rồi dẫn đến những hậu quả đau lòng. Tre có thể bị đẻ non, trẻ bị suy yếu, dị tật đó quả là một tội ác ghê gớm của những người hút thuốc thiếu ý thức.
Không chỉ gây bệnh, suy giảm sức khỏe thuốc lá còn hủy hoại đạo đức và gây thiệt hại kinh tế rất lớn ảnh hưởng đến xã hội. Sẽ có người thắc mắc “ sao lại hủy hoại đạo đức vì thuốc lá” chúng ta hãy phân tích: Người lớn hút thuốc nêu gương xấu cho trẻ em, họ lấy điếu thuốc làm một cử chỉ tượng trưng cho sự sang trọng gặp nhau mời thuốc, làm quen mời thuốc, … Con trẻ từ đó cũng học đòi bắt chước lấy điếu thuốc làm sang. Đáng buồn hơn là những ngôi sao, thần tượng, những mẫu người lý tưởng, họ là mục tiêu phấn đấu noi gương, là những gì giới trẻ dõi theo và học hỏi cũng phì phèo thuốc lá nơi công cộng. Hành động có phần cá nhân đó lại khiến nhiều bạn trẻ làm theo. Họ nghĩ đó là lợi ích, đó là tốt đẹp. Vậy là vô hình chung một bộ phận lớn những cô bé, cậu bé còn đang cắp sách tới trường cũng phì phèo điếu thuốc. Hút một điếu rồi đến hai điếu, ba điếu, bốn điếu cuối cùng là nghiện thuốc, nghiện làn khói trắng mờ ảo, nghiện mùi vị lâng lâng, hay nghiện sự “sang trọng””sành điệu” nó đem lại. Dù là vì lý do gì đi nữa thì để có tiền mua thuốc các cô bé, cậu bé “ăn chưa no, lo chưa tới” phải trộm, phải cắp, phải lừa dối cha mẹ, thầy cô. Vấy đấy, chỉ từ điếu thuốc nhỏ bé rồi đến ly bia cuối cùng là ma túy, phạm pháp vậy là ý thức đạo đức con người đã dần bị hủy hoại từ điếu thuốc bé nhỏ.
|
Assignment
In your opinion, which factor in today's life is most harmful to people's health and quality of life? Surely you will think it is environmental pollution, disease,... but it is not tobacco that is one of the most dangerous factors for human health and life. It is called the "sweet enemy" of humans. So why is it called that? What harmful effects does tobacco have? We need to understand and know its harmful effects so we can protect ourselves and our families.
First of all we must understand what tobacco is? Cigarette is the name of a type of product made mainly from shredded tobacco leaves, rolled or stuffed with paper, in a cylindrical shape. Cigarettes are usually burned at one end, left to smolder to create smoke that flows into the smoker's mouth from the opposite end. Although a small cigarette is only about 10 cm long, cigarette smoke contains up to 400 chemicals, most of which are toxic and 60 of which are classified as leading carcinogens such as: Nicotine, tar, and arsenic. ... the most dangerous is nicotine because it is very toxic and also an addictive substance.
Cigarettes are the "sweet killer" because smokers gradually have to become dependent on cigarettes, due to the drug-like substance nicotine that makes smokers unable to quit even though they know many dangerous diseases caused by smoking. go out. First are respiratory diseases: tracheitis, laryngitis, bad breath, etc. The most dangerous are nasopharyngeal cancer and lung cancer. In Vietnam alone, up to 40,000 people die each year due to smoking, four times the number of deaths due to traffic accidents. The head doctor of K hospital said that over 80% of nasopharyngeal and lung cancers are caused by tobacco. It also causes sudden deaths because it is the cause of circulatory system diseases: high blood pressure, clogged arteries, and myocardial infarction. There are people 40 - 50 years old who have died suddenly because of drug addiction leading to myocardial infarction. Tobacco also causes racial degradation, reducing fertility in both men and women. With most of them being carcinogenic toxins, it reduces the quality and quantity of sperm, increasing the incidence of impotence. For women, smoking causes early menopause, reduces fertility, and can lead to miscarriage and premature birth. Sadly, smokers have their health seriously damaged, but cigarette smoke is many times more harmful to those around them, even if they do not smoke. When smoking, smokers exhale two main and secondary streams of smoke. 20% of cigarette smoke is inhaled into the body and the remaining 80% is emitted into the surrounding environment, causing harm to non-smokers. These unwilling victims are also indirectly harmed, leading to the risk of diseases caused by cigarette smoke like the smokers themselves, which is even more dangerous. According to research in Vietnam, over 50% of male smokers and 60% of non-smokers are exposed to cigarette smoke at least 30 minutes a day. The most pitiful are the babies still in their mothers' wombs, the little creatures who are poisoned by cigarette smoke from people around them or their own grandfathers and fathers, leading to heartbreaking consequences. Bamboo can be born prematurely, the baby will be weak and deformed, which is a terrible crime of unconscious smokers.
Not only does tobacco cause disease and health deterioration, it also destroys morality and causes huge economic losses affecting society. Some people will wonder, "Why destroy morality because of cigarettes?" Let's analyze: Adults who smoke set a bad example for children. They use cigarettes as a symbolic gesture of luxury to invite each other. smoking, getting used to smoking, etc. Children from then on also learn to imitate taking a cigarette as a luxury. What's sadder is that the stars, idols, ideal models, the ones they strive to emulate, the ones young people follow and learn from, also smoke cigarettes in public. That somewhat personal action made many young people follow suit. They think it's beneficial, it's good. So, invisibly, a large number of girls and boys who are still going to school also smoke cigarettes. Smoking one cigarette, then two cigarettes, three cigarettes, the last four cigarettes is addicted to smoking, addicted to the hazy white smoke, addicted to the euphoric taste, or addicted to the "luxury" "stylish" it brings. No matter what the reason is, to have money to buy medicine, girls and boys who "have not eaten enough and are not worried yet" have to steal, have to steal, and have to lie to their parents and teachers. That's it, just from a small cigarette to the last glass of beer, drugs, and breaking the law, people's moral sense has gradually been destroyed from that small cigarette.
|
Bài làm
Với chiều dài lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam ta đã hun đúc được những truyền thống tốt đẹp mà cho dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, của thời gian cũng không thể phai mờ. Trong đó, truyền thống nhân nghĩa, thủy chung là bao trùm hơn cả và lòng biết ơn chính là một trong những biểu hiện của truyền thống tốt đẹp này. Đạo lý sống tốt đẹp đó được ông cha ta lưu truyền trong những câu ca dao, tục ngữ để răn dạy con cháu đời sau. Tiêu biểu nhất chính là hai câu tục ngữ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và “uống nước nhớ nguồn”
Hai câu tục ngữ trên tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng đều chứa đựng bài học luân lý về cách sống, tình nghĩa cao đẹp giữa con người với nhau đó là cần phải biết ơn cha ông tổ tiên, những anh hùng cứu nước những con người đã mang lại cho ta cuộc sống hòa bình hạnh phúc.
Câu tục ngữ: “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” thật ngắn gọn nhưng chứa đựng trong đó là một đạo lý sống rộng khắp. Ông cha ta đã mượn hình ảnh “ăn quả” và “trồng cây” rất chân thực để răn dạy con cháu. Khi chúng ta được thưởng thức những trái thơm, quả ngọt thì cần nhớ tới mồ hôi của người đã vun trồng chăm sóc để cây trồi nảy lộc đơm hoa kết quả. Câu tục ngữ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa này mà suy rộng ra quả ngọt ở đây chính là những thành quả về giá trị vật chất và tinh thần mà những người đi trước đã dùng biết bao công sức, tâm huyết để lưu truyền cho con cháu muôn đời. Thiết yếu nhất trong cuộc sống của chúng ta là miếng cơm manh áo những thứ đó đâu tự dưng mà có:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Khi được thưởng thức bát cơm thơm dẻo trên tay, để có những hạt ngọc đó biết bao công sức đã bỏ ra, bao giọt mồ hôi mặn chát đã chảy xuống của những bác nông dân. Đâu chỉ có vây, tấm áo ta mặc, chiếc giày ta mang, con đường ta đi, ngôi trường ta học và còn biết bao những điều khác chẳng thể kể hết đó là công sức của bao lớp người đã dựng xây để chúng ta thế hệ con cháu được hưởng quả thơm, trái ngọt. Con người sống đâu chỉ vật chất đã đủ, cha ông ta còn chắt lọc và để lại biết bao những di sản văn hóa, nghệ thuật, những thành tựu sáng tạo độc đáo. Đó là những câu ca quan họ, điệu hò, điệu ví, những công trình văn hóa tâm linh đã góp phần tạo nên một Việt Nam đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc ấm nồng tình người.
Đến câu tục ngữ thứ 2 cũng giống như câu tục ngữ thứ nhất mang ý ẩn dụ dưới hình thức cụ thể sinh động. Nước chính là thứ thiết yếu hàng đầu cho muôn loài và con người thiếu nước muôn vật chẳng thể sinh sôi phát triển. Nước trong câu tục ngữ này cũng chính là hàm ý chỉ những thành quả tốt đẹp nhất của cha ông mà con cháu được hưởng thụ. Ở câu tục ngữ trên tác giả dân gian sử dụng từ “Kẻ” có phần thu hẹp thì ở câu tục ngữ này từ “nguồn” đã diễn tả sự sâu rộng hơn, bao trùm hơn. Đó chính là nguồn gốc, nguồn cội vô cùng thiêng liêng của mỗi dân tộc, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ và biết bao con người khó có thể nói hết đã tạo ra dòng nước mát lành chính là đất nước Việt Nam tười đẹp cho bao thế hệ con cháu sinh sống và phát triển.
Hai câu tục ngữ chỉ vỏn vẹn vài từ ngắn gọn nhưng chứa đựng bài học luân lý sâu sắc mà khi ai đã đọc thì chẳng thể nào quên. Trong hai câu tục ngữ đều có từ “nhớ” đây là một từ quan trọng, tâm điểm không thể thay thế. Nếu ta thay từ “nhớ” bằng một từ khác như: “biết”, “hiểu”,..câu tục ngữ vẫn chung ý nghĩa nhưng giá trị nhân văn, giá trị tư tưởng đã suy giảm đi rất nhiều. Nó không còn thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc, mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau. Trong kho tàng văn học dân gian, bao ca từ tười đẹp nói về lòng biết ơn cũng có từ “nhớ”
“Ăn bát cơm dẻo nhớ nẻo đường đi”
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
Để có đất nước tươi đẹp này biết bao anh hùng vĩ đại, những người liệt sĩ, những người đánh đổi cả mạng sống cho đất nước tự do, hạnh phúc tương lai. Từ xa xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, rồi biết bao những anh hùng xả thân vì nước: Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo… Chúng ta cũng chẳng phải kiếm tìm đâu xa những con người mà ta cần biết ơn kính trọng đó là cha mẹ sinh thành dưỡng dục, thầy cô ân cần dạy dỗ cho ta kiến thức hay là cô lao công, bác xe ôm, nhưng cô chú lao công,… còn nhiều lắm những con người hi sinh thầm lặng giúp cho cuộc sống yên bình tươi đẹp hơn.
Nhớ ơn là đạo lý ngàn đời của dân tộc ta. Mỗi người cần phải thấm nhuần tư tưởng cao đẹp này, duy trì truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng là duy trì nét đẹp tâm hồn. Nhớ ơn không phải là những lời nói xuông mà phải xuất phát từ cái tâm sáng, từ lòng chân thành gắn liền với những việc làm tốt đẹp thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” gần gũi nhất là thờ cúng ông bà tổ tiên trong mỗi gia đình và rộng hơn là những lễ hội tổ chức hàng năm tưởng nhớ công ơn của các anh hùng dân tộc. Hàng loạt những ngày mít tinh, kỉ niệm: 27/7- ngày thượng binh liệt sỹ, 20/11 – ngày nhà giáo Việt Nam… Những việc làm thể hiện lòng biết ơn như một bông hoa đẹp tỏa hương thơm mát cuộc sống thêm rực rỡ chan hòa yêu thương. Đặc biệt, chúng ta thế hệ trẻ chính là những người được “ ăn quả”, “uống nước” được hưởng những thành quả tốt đẹp mà cha ông truyền lại nên ai cũng phải có ý thức, trách nhiệm để bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đep này. Bằng hành động nhỏ nhất ta hãy biết nói lời cảm ơn với những ai giúp đỡ ta, luôn có trách nhiệm trong mỗi công việc để hoàn thiện bản thân, xây dựng đất nươc.
Tuy nhiên ngày nay cũng có nhiều hiện tượng suy đồi đạo đức đâu đó trong xã hội cũng có kẻ vô ơn, ích kỉ quay lưng phản bội lai người đã giúp đỡ mình. Đó là những kẻ ích kỉ giả dối chỉ muốn hưởng thụ, thật đau lòng biết bao khi hàng loạt vụ án nghịch tử giết cha mẹ đã xảy ra, nhiều kẻ đối xử tàn nhẫn với người thân, học trò vô lễ với thầy cô. Nếu bạn đến một di tích lịch sử văn hóa sẽ thấy nhan nhản những hành động xấu xí nơi thờ cúng những vị anh hùng dân tộc. Thật đáng buồn khi những em học sinh của một ngôi trường mang tên Phan Bội Châu người anh hùng dân tộc, khi các em được hỏi có biết ông là ai thì tất cả đều cười trừ không biết. Đó chỉ là số ít trong rất nhiều những hành động xấu xí tỏ rõ sự vô ơn, sống quên nguồn cội của một bộ phận giới trẻ ngày nay. Trong cuộc sống hiện đại với những thú vui phù phiếm tầm thường đã khiến bao người trở nên vong ân bội nghĩa quên đi quá khứ, và những người đó sẽ nhận lại sự coi thường khinh ghét trở thành những kẻ vong bạc đáng thương.
Là người con của dân tộc Việt Nam anh hùng bản thân mỗi chúng ta phải luôn thấm nhuần bài học giáo dục về nhân cách, bài học cội nguồn phải luôn được gìn giữ phát huy.Mỗi người hãy tu dưỡng cho mình một nhân cách tốt đẹp, tỏa hương như loài sen giản dị, thanh khiết. Cùng với đó, một người giữ gìn sẽ không đủ vậy nên hãy giúp cho mỗi người dân đất Việt đều trở thành một đóa hoa thơm, hương sắc cùng chung sức viết lên những trang sử vàng dân tộc.
|
Bài làm
Với chiều dài lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam ta đã hun đúc được những truyền thống tốt đẹp mà cho dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, của thời gian cũng không thể phai mờ. Trong đó, truyền thống nhân nghĩa, thủy chung là bao trùm hơn cả và lòng biết ơn chính là một trong những biểu hiện của truyền thống tốt đẹp này. Đạo lý sống tốt đẹp đó được ông cha ta lưu truyền trong những câu ca dao, tục ngữ để răn dạy con cháu đời sau. Tiêu biểu nhất chính là hai câu tục ngữ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và “uống nước nhớ nguồn”
Hai câu tục ngữ trên tuy cách diễn đạt khác nhau nhưng đều chứa đựng bài học luân lý về cách sống, tình nghĩa cao đẹp giữa con người với nhau đó là cần phải biết ơn cha ông tổ tiên, những anh hùng cứu nước những con người đã mang lại cho ta cuộc sống hòa bình hạnh phúc.
Câu tục ngữ: “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” thật ngắn gọn nhưng chứa đựng trong đó là một đạo lý sống rộng khắp. Ông cha ta đã mượn hình ảnh “ăn quả” và “trồng cây” rất chân thực để răn dạy con cháu. Khi chúng ta được thưởng thức những trái thơm, quả ngọt thì cần nhớ tới mồ hôi của người đã vun trồng chăm sóc để cây trồi nảy lộc đơm hoa kết quả. Câu tục ngữ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa này mà suy rộng ra quả ngọt ở đây chính là những thành quả về giá trị vật chất và tinh thần mà những người đi trước đã dùng biết bao công sức, tâm huyết để lưu truyền cho con cháu muôn đời. Thiết yếu nhất trong cuộc sống của chúng ta là miếng cơm manh áo những thứ đó đâu tự dưng mà có:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Khi được thưởng thức bát cơm thơm dẻo trên tay, để có những hạt ngọc đó biết bao công sức đã bỏ ra, bao giọt mồ hôi mặn chát đã chảy xuống của những bác nông dân. Đâu chỉ có vây, tấm áo ta mặc, chiếc giày ta mang, con đường ta đi, ngôi trường ta học và còn biết bao những điều khác chẳng thể kể hết đó là công sức của bao lớp người đã dựng xây để chúng ta thế hệ con cháu được hưởng quả thơm, trái ngọt. Con người sống đâu chỉ vật chất đã đủ, cha ông ta còn chắt lọc và để lại biết bao những di sản văn hóa, nghệ thuật, những thành tựu sáng tạo độc đáo. Đó là những câu ca quan họ, điệu hò, điệu ví, những công trình văn hóa tâm linh đã góp phần tạo nên một Việt Nam đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc ấm nồng tình người.
Đến câu tục ngữ thứ 2 cũng giống như câu tục ngữ thứ nhất mang ý ẩn dụ dưới hình thức cụ thể sinh động. Nước chính là thứ thiết yếu hàng đầu cho muôn loài và con người thiếu nước muôn vật chẳng thể sinh sôi phát triển. Nước trong câu tục ngữ này cũng chính là hàm ý chỉ những thành quả tốt đẹp nhất của cha ông mà con cháu được hưởng thụ. Ở câu tục ngữ trên tác giả dân gian sử dụng từ “Kẻ” có phần thu hẹp thì ở câu tục ngữ này từ “nguồn” đã diễn tả sự sâu rộng hơn, bao trùm hơn. Đó chính là nguồn gốc, nguồn cội vô cùng thiêng liêng của mỗi dân tộc, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ và biết bao con người khó có thể nói hết đã tạo ra dòng nước mát lành chính là đất nước Việt Nam tười đẹp cho bao thế hệ con cháu sinh sống và phát triển.
Hai câu tục ngữ chỉ vỏn vẹn vài từ ngắn gọn nhưng chứa đựng bài học luân lý sâu sắc mà khi ai đã đọc thì chẳng thể nào quên. Trong hai câu tục ngữ đều có từ “nhớ” đây là một từ quan trọng, tâm điểm không thể thay thế. Nếu ta thay từ “nhớ” bằng một từ khác như: “biết”, “hiểu”,..câu tục ngữ vẫn chung ý nghĩa nhưng giá trị nhân văn, giá trị tư tưởng đã suy giảm đi rất nhiều. Nó không còn thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc, mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau. Trong kho tàng văn học dân gian, bao ca từ tười đẹp nói về lòng biết ơn cũng có từ “nhớ”
“Ăn bát cơm dẻo nhớ nẻo đường đi”
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
Để có đất nước tươi đẹp này biết bao anh hùng vĩ đại, những người liệt sĩ, những người đánh đổi cả mạng sống cho đất nước tự do, hạnh phúc tương lai. Từ xa xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, rồi biết bao những anh hùng xả thân vì nước: Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo… Chúng ta cũng chẳng phải kiếm tìm đâu xa những con người mà ta cần biết ơn kính trọng đó là cha mẹ sinh thành dưỡng dục, thầy cô ân cần dạy dỗ cho ta kiến thức hay là cô lao công, bác xe ôm, nhưng cô chú lao công,… còn nhiều lắm những con người hi sinh thầm lặng giúp cho cuộc sống yên bình tươi đẹp hơn.
Nhớ ơn là đạo lý ngàn đời của dân tộc ta. Mỗi người cần phải thấm nhuần tư tưởng cao đẹp này, duy trì truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng là duy trì nét đẹp tâm hồn. Nhớ ơn không phải là những lời nói xuông mà phải xuất phát từ cái tâm sáng, từ lòng chân thành gắn liền với những việc làm tốt đẹp thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” gần gũi nhất là thờ cúng ông bà tổ tiên trong mỗi gia đình và rộng hơn là những lễ hội tổ chức hàng năm tưởng nhớ công ơn của các anh hùng dân tộc. Hàng loạt những ngày mít tinh, kỉ niệm: 27/7- ngày thượng binh liệt sỹ, 20/11 – ngày nhà giáo Việt Nam… Những việc làm thể hiện lòng biết ơn như một bông hoa đẹp tỏa hương thơm mát cuộc sống thêm rực rỡ chan hòa yêu thương. Đặc biệt, chúng ta thế hệ trẻ chính là những người được “ ăn quả”, “uống nước” được hưởng những thành quả tốt đẹp mà cha ông truyền lại nên ai cũng phải có ý thức, trách nhiệm để bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đep này. Bằng hành động nhỏ nhất ta hãy biết nói lời cảm ơn với những ai giúp đỡ ta, luôn có trách nhiệm trong mỗi công việc để hoàn thiện bản thân, xây dựng đất nươc.
Tuy nhiên ngày nay cũng có nhiều hiện tượng suy đồi đạo đức đâu đó trong xã hội cũng có kẻ vô ơn, ích kỉ quay lưng phản bội lai người đã giúp đỡ mình. Đó là những kẻ ích kỉ giả dối chỉ muốn hưởng thụ, thật đau lòng biết bao khi hàng loạt vụ án nghịch tử giết cha mẹ đã xảy ra, nhiều kẻ đối xử tàn nhẫn với người thân, học trò vô lễ với thầy cô. Nếu bạn đến một di tích lịch sử văn hóa sẽ thấy nhan nhản những hành động xấu xí nơi thờ cúng những vị anh hùng dân tộc. Thật đáng buồn khi những em học sinh của một ngôi trường mang tên Phan Bội Châu người anh hùng dân tộc, khi các em được hỏi có biết ông là ai thì tất cả đều cười trừ không biết. Đó chỉ là số ít trong rất nhiều những hành động xấu xí tỏ rõ sự vô ơn, sống quên nguồn cội của một bộ phận giới trẻ ngày nay. Trong cuộc sống hiện đại với những thú vui phù phiếm tầm thường đã khiến bao người trở nên vong ân bội nghĩa quên đi quá khứ, và những người đó sẽ nhận lại sự coi thường khinh ghét trở thành những kẻ vong bạc đáng thương.
Là người con của dân tộc Việt Nam anh hùng bản thân mỗi chúng ta phải luôn thấm nhuần bài học giáo dục về nhân cách, bài học cội nguồn phải luôn được gìn giữ phát huy.Mỗi người hãy tu dưỡng cho mình một nhân cách tốt đẹp, tỏa hương như loài sen giản dị, thanh khiết. Cùng với đó, một người giữ gìn sẽ không đủ vậy nên hãy giúp cho mỗi người dân đất Việt đều trở thành một đóa hoa thơm, hương sắc cùng chung sức viết lên những trang sử vàng dân tộc.
|
Bài làm
“Bàn về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã viết: “Ngọc không mài không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. Từ xa xưa việc học đối với mỗi người đã luôn được đề cao thì trong thời đại xã hội phát triển ngày nay việc học còn quan trọng hơn rất nhiều. Học tập giúp ta thành người biết suy nghĩ, có nhận thức, có hiểu biết để trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, học không phải là một quá trình dễ dàng mà phải trải qua nhiều chông gai, thử thách, cùng sự nỗ lực không ngừng nghỉ thì mới có thể đạt được kết quả giống như câu nói: “Việc học như trồng cây, mùa xuân cho hoa, mùa thu được quả”.
Chúng ta đều biết, học là quá trình tiếp thu, bổ xung, trau dồi các kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm. Nhờ vào việc học, chúng ta có thêm nhiều kiến thức và hoàn thiện nhân cách góp phần xây dựng cho xã hội phát triển. Học là còn để khẳng định bản thân hướng tới sự chân thiện mỹ.
Câu nói trên mượn quá trình trồng cây để nói về quá trình học tập không phải tự nhiên mà được hưởng hoa thơm quả ngọt mà cần biết bao công chăm sóc vun trồng cũng giống như con người muốn có thành quả tri thức thì cũng phải trải quả muôn vàn khó khăn trắc trở. Như ta đã biết trước khi trở thành cây to cứng cáp, tốt tươi xanh lá cho hoa thơm trái ngọt thì nó cũng bắt đầu từ những hạt mầm bé tí. Hat mầm được gieo xuống đất người trông cây sớm hôm tưới nước, hạt nảy mầm đâm qua mặt đất thành cây non. Lúc này cây non cần được chăm sóc cẩn thận sẽ dần dàn lớn lên dần thích nghi với nắng gió. Cũng giống như vậy quá trình học tập cũng bắt đầu từ những kiến thức cơ bản, bài học đầu đời từ chính gia đình và cuộc sống xung quanh đó là những lời bi bô tập nói hay những bài hát… lớn thêm chút nữa khi đi mẫu giáo ta tập làm quen với mặt chữ con số. Cây muốn phát triển thì gốc rễ phải tốt, con người muốn chinh phục được đỉnh cao tri thức thì cũng phải học tốt cái gốc rễ kiến thức cơ bản. Những kiến thức đầu đời đơn sơ đó cũng chính là cội nguồn của quá trình học tập. Để một cái cây lớn lên tỏa bóng xanh tốt thì sẽ mất rất nhiều thời gian và quá trình học tập cũng vậy ta sẽ phải dành rất nhiều thời gian cùng với đó phải nỗ lực hết mình, luôn luôn kiên trì không nản lòng thì mới làm xanh tốt cây tri thức của bản thân.
Một cái cây khi bắt đầu hành trình sống sẽ đối mặt với bao phong ba, bão táp của thiên nhiên. Đầu tiên nó phải chọc thủng được lớp đất khô cứng mạnh mẽ vươn lên đón ánh nắng mặt trời để sinh tồn dưới những ngày nắng cháy rồi mưa bão, cùng với đó là lũ sâu bọ luôn rình rập hút đi nhựa sống của cây. Trong việc học chúng ta cũng sẽ phải trải qua nhiều thử thách, đắng cay và chắc chắn cũng sẽ có không dưới một lần vấp ngã, thất bại. Trong suốt quá trình đó, chắc chắn có lần ta bị điểm kém hay thi trượt, những ánh mắt thất vọng của người thân nhưng quan trọng nhất là ta phải biết đứng lên từ thất bại đừng chìm đắm trong sự chán nản thất vọng thì: “Có công mài sắt có ngày nên kim” cũng như cây sau mỗi trận mưa giông, bão táp sẽ gẫy mất đôi ba cành, lá rụng xác xơ nhưng nó không bị quật ngã và rồi mùa xuân đến hoa thơm đua nở tỏa hương rực rỡ để đến thu trái ngọt trĩu cành. Nếu ta cố gắng, quyết tâm kiên trì luôn giữ vững niềm tin trên con đường học tập sẽ có ngày ta được hưởng những trái ngọt tri thức đó là những điều quý giá mà chỉ chính chúng ta mới có thể gieo trồng và thu hoạch
|
Assignment
“Discussion on learning” by La Son Phu Tu Nguyen Thiep wrote: “Unpolished jade cannot become an object; Those who do not study do not know the religion clearly." Since ancient times, learning has always been emphasized for each person, but in today's era of social development, learning is much more important. Learning helps us become thoughtful, aware, and knowledgeable to become useful to society. However, learning is not an easy process but must go through many hardships, challenges, and constant efforts to achieve results like the saying: "Learning is like planting a tree. Spring gives flowers, autumn gives fruit.
We all know that learning is the process of acquiring, supplementing, and cultivating knowledge, skills, and experience. Thanks to learning, we gain more knowledge and perfect our personalities, contributing to the development of society. Learning is also to assert oneself towards truth, goodness and beauty.
The above saying borrows the process of growing a tree to talk about the process of learning, which is not natural, but enjoying fragrant flowers and sweet fruits requires a lot of care and cultivation, just like people who want to have the fruits of knowledge must also experience resulting in countless difficulties and hardships. As we know, before becoming a big, sturdy tree with lush green leaves and fragrant flowers and sweet fruits, it also starts from tiny seeds. Seeds are sown in the ground and the gardener waters them early in the day. The seeds germinate and penetrate the ground into young plants. At this time, young trees need to be carefully cared for and will gradually grow and adapt to the sun and wind. In the same way, the learning process also starts with basic knowledge, the first lessons of life from the family and the life around them are babbles to practice speaking or songs... get a little bigger as you go. In kindergarten, we learn to become familiar with letters and numbers. If a tree wants to grow, its roots must be good. If a person wants to conquer the pinnacle of knowledge, he must also learn the roots of basic knowledge well. That simple early knowledge is also the source of the learning process. For a tree to grow up to shine brightly and greenly, it will take a lot of time and the same goes for the learning process. We will have to spend a lot of time along with trying our best, always persevering without getting discouraged. Green your own tree of knowledge.
When a tree begins its life journey, it will face many storms of nature. First, it must break through the dry, hard soil and rise strongly to receive the sunlight to survive in the days of scorching sun and storms, along with the insects that are always lurking around to suck away the sap of the tree. In studying, we will also have to go through many challenges and bitterness and will certainly have more than one stumble and failure. During that process, there will certainly be times when we get bad grades or fail exams, and the disappointed eyes of our loved ones, but the most important thing is that we must know how to stand up from failure and not wallow in discouragement and disappointment: "If you work hard to sharpen iron, you will be successful one day" just like a tree after every thunderstorm or storm will break a few branches, the leaves will fall, but it will not be knocked down and then spring will come and fragrant flowers will bloom and give off a bright scent. bright enough to harvest sweet fruit from the branches. If we try and are determined to persevere and always maintain faith on the path of learning, one day we will enjoy the sweet fruits of knowledge, which are precious things that only we ourselves can plant and harvest.
|
Bài làm
Trong tình yêu muốn có hạnh phúc viên mãn thì việc khó nhất là ở màn tỏ tình, ngỏ lời. Mỗi người sẽ có một cánh thể hiện riêng biệt, người kín đáo, tế nhị kẻ lại thẳng thắn, suồng sã. Còn chàng trai nhân vật trữ tình trong bài ca dao “Tát nước đầu đình” thì lại có cách tỏ tình với người thương thật đặc biệt. Có thể nói đây là bài ca dao, bài ca về tình yêu ngọt ngào, một khúc dạo đầu say đắm của một bản tình ca. Chàng trai hiện lên với vẻ tuyệt vời và đặc biệt vừa tha thiết, chân thành lại hóm hỉnh, thông minh và vô cùng tinh tế. Chính nhân vật trữ tình đã góp phần tạo nên nét đẹp riêng biệt, độc đáo của bài ca dao này giữa muôn vàn khúc ca tỏ tình.
Ông cha ta có câu: “Vạn sự khởi đầu nan” “đầu xuôi đuôi lọt” trong mọi việc thì khó khăn là ở khâu mở đầu. Muốn có một ngôi nhà tốt thì ta phải xây móng nhà vững chắc hay muốn may một bộ áo đẹp thì phải chọn một tấm vải tốt… Trong mọi việc mở đầu quan trọng như vậy thì trong tình yêu lời tỏ tình càng quan trọng biết bao nó phải vừa thật tế nhị, kín đáo nhưng phải tỏ rõ tấm lòng chân thành nên càng khó khăn gấp bội. Tình yêu vốn huyền diệu ở mỗi hoàn cảnh, một khoảng thời gian và đối với mỗi người lại có sự cảm nhận, thể hiện khác nhau. Có người sẽ chẳng ngại ngùng mà thẳng thắn bày tỏ tấm chân tình:
“Đường xa thì thật là xa
Mượn mình làm mối cho ta một người.
Một người mười chin, đôi mươi
Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình”
Hay có những lời tỏ tình còn biết bao e then ngại ngùng
“Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp, em lăn, em nằm”
Nhưng thường thấy nhất đó là chàng trai mượn cớ nào đó để làm quen, tỏ tình với người con gái thầm thương trộm nhớ
“Hỡi cô gánh nước quang mây
Cho anh gáo nước tưới cây ngô đồng”
“Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi”
Nếu những cái cớ trên có thể dễ dàng từ chối thì chàng trai trong bài ca dao “ tát nước đầu đình” đã khéo léo tìm được cái cớ thật hợp tình hợp lý là xin cái áo bỏ quên:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen”
Chàng trai thật thông minh khi tìm được cái cớ khiến cô gái mình thương khó chối từ, nếu anh ấy xin gánh nước, cắt cỏ cùng thì cô gái rất dễ từ chối. Chàng trai muốn xin cái áo mà mình đã bỏ quên trên cành hoa sen lại có thời gian “hôm qua” và địa điểm “đầu đình” thật cụ thể, lý do mới nghe qua tưởng như hợp lý nhưng lại rất vô lý khiến cho cô gái và người đọc băn khoăn: Sen thì làm gì có cành? Chẳng ai lại vắt áo lên bông hoa sen mềm mại. Tới đây hẳn ai cũng hiểu được là chàng trai đang tìm một lý do để được làm quen. Chắc hẳn nếu ai trong chúng ta là cô gái trong bài ca dao sẽ thấy rất thú vị và thu hút với lời nói hóm hỉnh đó mà chẳng thể bước chân đi. Chàng trai cũng thật tinh tế khi đã gợi ra một khung cảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam “Cây đa, giếng nước, sân đình” nơi thiêng liêng và cũng là nơi diễn ra những hội hè đình đám cất lên những lời hát giao duyên tỏ tình, hẹn hò đính ước của bao đôi trai gái thôn quê. Trong khung cảnh thơ mộng đó là bông hoa sen chẳng kiêu sa, lộng lẫy mà thanh khiết bình dị tỏa hương như những người dân Việt Nam chân thành giản dị ấm nồng tình người. Chàng trai hiện lên là một người nông dân hăng say lao động với đôi mắt tình tứ, nụ cười chân thành trao tình cảm của mình với người con gái chẳng khoa trương mà vô cùng kín đáo.
Với sự tế nhị khéo léo, lời làm quen đó chắc hẳn sẽ được cô gái chấp nhận nên chàng trai mới có cơ hội để hỏi trực tiếp cô gái:
“Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”.
Nếu lúc đầu chỉ là lời ướm thử hỏi vu vơ may ra có thể nhận lại được chiếc áo hay cô gái cũng nhân đó mà từ chối thì thật bất ngờ chẳng đợi câu trả lời chàng trai đã đưa cô gái vào trong cuộc một cách tự nhiên. Chàng tạo nên một sự ràng buộc không thể chối từ, anh chắc chắn cô gái đã nhặt được áo của mình và còn giữ “làm tin”. Ở tuổi trăng tròn, thanh xuân rực rỡ cô gái chẳng khó nhân ra mục đích của người con trai, khi mà anh nói cô giữ chiếc áo là để “làm tin”. Từ xa xưa nam nữ yêu nhau thường trao đổi tín vật hẹn ước, trong ca dao điều này cũng chẳng xa lạ:
“Yêu nhau cởi áo trao nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”
Vậy là chẳng vòng vo, dài dòng chàng trai đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ cảm tình của mình thật nồng hậu. Đây quả là một chàng trai rất thông minh, thẳng thắn và đâu đó có nét hào hoa táo bạo nhưng vô cùng chân thật, đáng yêu. Trước lời tỏ tình bất ngờ và táo bạo đó có lẽ cô thôn nữ sẽ đỏ mặt thẹn thùng, lúng túng chẳng biết ứng đối ra sao. Chàng trai đã ứng biến nhanh nhạy, tinh tế anh tiếp tục với những lời chân thành ngọt ngào chẳng giấu diếm:
“Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng”.
Hình ảnh chiếc áo được lặp lại hết sức tự nhiên, đó là một chiếc áo “ sứt chỉ đường tà” và “sứt chỉ đã lâu” chiếc áo không cũ mà cũng chẳng rách, chằng trai tế nhị bộc bạch gia cảnh, anh chẳng phải sang giầu nhưng cũng không phải là kẻ túng thiếu bần hàn. Mượn cớ sứt áo chàng trai thổ lộ mong muốn có người “khâu vá, nâng khăn sửa túi”. Nếu cô gái chỉ là người trả áo thì cũng chẳng có gì đặc biệt nhưng điều chàng trai muốn ở đây là được nên duyên cùng cô gái. Một lần nữa cô gái và người đọc không thể không cảm nhận được tình cảm tha thiết, chân thành cùng tư thế đường hoàng, đứng đắn, thông minh của nhân vật trữ tình trong tình yêu. Đâu chỉ nhờ chiếc áo mà bộc lộ tình cảm chàng trai còn khéo léo lồng ghép gia cảnh vào đó giúp cô gái giải đáp được nỗi băn khoăn trước khi nhận lời tỏ tình: chàng là trai chưa vợ, trên có mẹ già tức là có chỗ nượng tựa tuyệt vời “Mẹ già bằng ba lần cửa”. Chắc hẳn sẽ có nhiều người con trai khoe mẽ để lấy lòng người mình yêu bằng những lời sáo rỗng giả dối: nhà cao cửa rộng, tiền bạc phong lưu, nhưng chàng trai này chẳng làm vậy vì trong tình yêu phải chân thành thiện ý nếu tình yêu lại bị vẩn đục vì những ham muốn tầm thường thì đó không phải là tình yêu mà anh muốn.
Trước tấm long chân thành, tha thiết như vậy trái tim cô gái đã có sự rung động nhưng sao tránh khỏi sự e thẹn ngại ngùng. Chàng trai liền chuyển cách xưng hô “ anh – em” sang “cô ấy” một đại từ phiếm chỉ. Nếu nói thẳng biết đâu cô gái vì xấu hổ mà vội bước chẳng dám nghe anh nói tiếp vậy là tỏ tình không thành. Cánh chuyển đổi như vậy câu chuyện trăm năm thành kín đáo và tế nhị, người con gái thêm cảm phục chàng trai. Chắc chắn cô gái được chàng trai tỏ tình chẳng thể nào làm ngơ trước người con trai vừa thẳng thắn, chân thành lại nồng ấm tha thiết như thế.
Để rồi như cảm nhận được sự ưng thuận từ cô gái chàng trai rất mạnh mẽ muốn trả công cho cô từ đó nói ra điều ước muốn được nên duyên vợ chồng kết nghĩa trăm năm.
“Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em năm thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đội chăn em đắp, đôi trầm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”.
Có thể cô gái sẽ giật mình tại sao vừa tỏ tình tha thiết mà bây giờ chàng trai lại hứa hẹn giúp cô gái khi cô đi lấy chồng, chẳng lẽ đó là lời trêu đùa thiếu nghiêm túc trong tình cảm. Chàng trai lẽ nào là kẻ vô duyên thiếu đứng đắn trêu đùa trong tình yêu. Cô gái lại bất ngờ hơn khi nghe chàng trai nói về những thứ sẽ trả công đó đều là đồ sính lễ định ước trăm năm. Ở đoạn này nhạc điệu dường như mạnh và nhanh hơn thể hiện niềm hào hứng hân hoan, đặc biệt với điệp từ “ một đôi” được lặp lại gợi ra niềm hạnh phúc khi chàng trai được nên duyên với người mình yêu. Tất cả sính lễ thật đầy đủ, số lượng dồi dào: “năm thúng, đôi chăn, đôi chiếu, đôi trầm” chất lượng thì tuyệt hảo “lợn béo, rượu tăm” lại đầy đủ lễ nghi “tiền cheo, tiền cưới”. Những sính lễ này chỉ có những gia đình thật giầu có thì mới có đủ còn một chàng trai nông dân thì khó có thể lo được đầy đủ sính lễ như vậy và cô gái cũng sẽ không ngây thơ đến nỗi tưởng những lễ vật kia là có thật, nhưng cô vẫn có quyền hãnh diện vì chàng trai rất yêu và trân trọng cô, dù có thể sính lễ không trang trọng như vậy nhưng tấm chân tình mà cô nhận đươc mới là vô giá.
Ca dao xưa có câu:
“Lênh đênh một chiếc thuyền tình
|
Bài làm
Trong tình yêu muốn có hạnh phúc viên mãn thì việc khó nhất là ở màn tỏ tình, ngỏ lời. Mỗi người sẽ có một cánh thể hiện riêng biệt, người kín đáo, tế nhị kẻ lại thẳng thắn, suồng sã. Còn chàng trai nhân vật trữ tình trong bài ca dao “Tát nước đầu đình” thì lại có cách tỏ tình với người thương thật đặc biệt. Có thể nói đây là bài ca dao, bài ca về tình yêu ngọt ngào, một khúc dạo đầu say đắm của một bản tình ca. Chàng trai hiện lên với vẻ tuyệt vời và đặc biệt vừa tha thiết, chân thành lại hóm hỉnh, thông minh và vô cùng tinh tế. Chính nhân vật trữ tình đã góp phần tạo nên nét đẹp riêng biệt, độc đáo của bài ca dao này giữa muôn vàn khúc ca tỏ tình.
Ông cha ta có câu: “Vạn sự khởi đầu nan” “đầu xuôi đuôi lọt” trong mọi việc thì khó khăn là ở khâu mở đầu. Muốn có một ngôi nhà tốt thì ta phải xây móng nhà vững chắc hay muốn may một bộ áo đẹp thì phải chọn một tấm vải tốt… Trong mọi việc mở đầu quan trọng như vậy thì trong tình yêu lời tỏ tình càng quan trọng biết bao nó phải vừa thật tế nhị, kín đáo nhưng phải tỏ rõ tấm lòng chân thành nên càng khó khăn gấp bội. Tình yêu vốn huyền diệu ở mỗi hoàn cảnh, một khoảng thời gian và đối với mỗi người lại có sự cảm nhận, thể hiện khác nhau. Có người sẽ chẳng ngại ngùng mà thẳng thắn bày tỏ tấm chân tình:
“Đường xa thì thật là xa
Mượn mình làm mối cho ta một người.
Một người mười chin, đôi mươi
Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình”
Hay có những lời tỏ tình còn biết bao e then ngại ngùng
“Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp, em lăn, em nằm”
Nhưng thường thấy nhất đó là chàng trai mượn cớ nào đó để làm quen, tỏ tình với người con gái thầm thương trộm nhớ
“Hỡi cô gánh nước quang mây
Cho anh gáo nước tưới cây ngô đồng”
“Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi”
Nếu những cái cớ trên có thể dễ dàng từ chối thì chàng trai trong bài ca dao “ tát nước đầu đình” đã khéo léo tìm được cái cớ thật hợp tình hợp lý là xin cái áo bỏ quên:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen”
Chàng trai thật thông minh khi tìm được cái cớ khiến cô gái mình thương khó chối từ, nếu anh ấy xin gánh nước, cắt cỏ cùng thì cô gái rất dễ từ chối. Chàng trai muốn xin cái áo mà mình đã bỏ quên trên cành hoa sen lại có thời gian “hôm qua” và địa điểm “đầu đình” thật cụ thể, lý do mới nghe qua tưởng như hợp lý nhưng lại rất vô lý khiến cho cô gái và người đọc băn khoăn: Sen thì làm gì có cành? Chẳng ai lại vắt áo lên bông hoa sen mềm mại. Tới đây hẳn ai cũng hiểu được là chàng trai đang tìm một lý do để được làm quen. Chắc hẳn nếu ai trong chúng ta là cô gái trong bài ca dao sẽ thấy rất thú vị và thu hút với lời nói hóm hỉnh đó mà chẳng thể bước chân đi. Chàng trai cũng thật tinh tế khi đã gợi ra một khung cảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam “Cây đa, giếng nước, sân đình” nơi thiêng liêng và cũng là nơi diễn ra những hội hè đình đám cất lên những lời hát giao duyên tỏ tình, hẹn hò đính ước của bao đôi trai gái thôn quê. Trong khung cảnh thơ mộng đó là bông hoa sen chẳng kiêu sa, lộng lẫy mà thanh khiết bình dị tỏa hương như những người dân Việt Nam chân thành giản dị ấm nồng tình người. Chàng trai hiện lên là một người nông dân hăng say lao động với đôi mắt tình tứ, nụ cười chân thành trao tình cảm của mình với người con gái chẳng khoa trương mà vô cùng kín đáo.
Với sự tế nhị khéo léo, lời làm quen đó chắc hẳn sẽ được cô gái chấp nhận nên chàng trai mới có cơ hội để hỏi trực tiếp cô gái:
“Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”.
Nếu lúc đầu chỉ là lời ướm thử hỏi vu vơ may ra có thể nhận lại được chiếc áo hay cô gái cũng nhân đó mà từ chối thì thật bất ngờ chẳng đợi câu trả lời chàng trai đã đưa cô gái vào trong cuộc một cách tự nhiên. Chàng tạo nên một sự ràng buộc không thể chối từ, anh chắc chắn cô gái đã nhặt được áo của mình và còn giữ “làm tin”. Ở tuổi trăng tròn, thanh xuân rực rỡ cô gái chẳng khó nhân ra mục đích của người con trai, khi mà anh nói cô giữ chiếc áo là để “làm tin”. Từ xa xưa nam nữ yêu nhau thường trao đổi tín vật hẹn ước, trong ca dao điều này cũng chẳng xa lạ:
“Yêu nhau cởi áo trao nhau
Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”
Vậy là chẳng vòng vo, dài dòng chàng trai đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ cảm tình của mình thật nồng hậu. Đây quả là một chàng trai rất thông minh, thẳng thắn và đâu đó có nét hào hoa táo bạo nhưng vô cùng chân thật, đáng yêu. Trước lời tỏ tình bất ngờ và táo bạo đó có lẽ cô thôn nữ sẽ đỏ mặt thẹn thùng, lúng túng chẳng biết ứng đối ra sao. Chàng trai đã ứng biến nhanh nhạy, tinh tế anh tiếp tục với những lời chân thành ngọt ngào chẳng giấu diếm:
“Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng”.
Hình ảnh chiếc áo được lặp lại hết sức tự nhiên, đó là một chiếc áo “ sứt chỉ đường tà” và “sứt chỉ đã lâu” chiếc áo không cũ mà cũng chẳng rách, chằng trai tế nhị bộc bạch gia cảnh, anh chẳng phải sang giầu nhưng cũng không phải là kẻ túng thiếu bần hàn. Mượn cớ sứt áo chàng trai thổ lộ mong muốn có người “khâu vá, nâng khăn sửa túi”. Nếu cô gái chỉ là người trả áo thì cũng chẳng có gì đặc biệt nhưng điều chàng trai muốn ở đây là được nên duyên cùng cô gái. Một lần nữa cô gái và người đọc không thể không cảm nhận được tình cảm tha thiết, chân thành cùng tư thế đường hoàng, đứng đắn, thông minh của nhân vật trữ tình trong tình yêu. Đâu chỉ nhờ chiếc áo mà bộc lộ tình cảm chàng trai còn khéo léo lồng ghép gia cảnh vào đó giúp cô gái giải đáp được nỗi băn khoăn trước khi nhận lời tỏ tình: chàng là trai chưa vợ, trên có mẹ già tức là có chỗ nượng tựa tuyệt vời “Mẹ già bằng ba lần cửa”. Chắc hẳn sẽ có nhiều người con trai khoe mẽ để lấy lòng người mình yêu bằng những lời sáo rỗng giả dối: nhà cao cửa rộng, tiền bạc phong lưu, nhưng chàng trai này chẳng làm vậy vì trong tình yêu phải chân thành thiện ý nếu tình yêu lại bị vẩn đục vì những ham muốn tầm thường thì đó không phải là tình yêu mà anh muốn.
Trước tấm long chân thành, tha thiết như vậy trái tim cô gái đã có sự rung động nhưng sao tránh khỏi sự e thẹn ngại ngùng. Chàng trai liền chuyển cách xưng hô “ anh – em” sang “cô ấy” một đại từ phiếm chỉ. Nếu nói thẳng biết đâu cô gái vì xấu hổ mà vội bước chẳng dám nghe anh nói tiếp vậy là tỏ tình không thành. Cánh chuyển đổi như vậy câu chuyện trăm năm thành kín đáo và tế nhị, người con gái thêm cảm phục chàng trai. Chắc chắn cô gái được chàng trai tỏ tình chẳng thể nào làm ngơ trước người con trai vừa thẳng thắn, chân thành lại nồng ấm tha thiết như thế.
Để rồi như cảm nhận được sự ưng thuận từ cô gái chàng trai rất mạnh mẽ muốn trả công cho cô từ đó nói ra điều ước muốn được nên duyên vợ chồng kết nghĩa trăm năm.
“Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em năm thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp em đôi chiếu em nằm
Đội chăn em đắp, đôi trầm em đeo
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”.
Có thể cô gái sẽ giật mình tại sao vừa tỏ tình tha thiết mà bây giờ chàng trai lại hứa hẹn giúp cô gái khi cô đi lấy chồng, chẳng lẽ đó là lời trêu đùa thiếu nghiêm túc trong tình cảm. Chàng trai lẽ nào là kẻ vô duyên thiếu đứng đắn trêu đùa trong tình yêu. Cô gái lại bất ngờ hơn khi nghe chàng trai nói về những thứ sẽ trả công đó đều là đồ sính lễ định ước trăm năm. Ở đoạn này nhạc điệu dường như mạnh và nhanh hơn thể hiện niềm hào hứng hân hoan, đặc biệt với điệp từ “ một đôi” được lặp lại gợi ra niềm hạnh phúc khi chàng trai được nên duyên với người mình yêu. Tất cả sính lễ thật đầy đủ, số lượng dồi dào: “năm thúng, đôi chăn, đôi chiếu, đôi trầm” chất lượng thì tuyệt hảo “lợn béo, rượu tăm” lại đầy đủ lễ nghi “tiền cheo, tiền cưới”. Những sính lễ này chỉ có những gia đình thật giầu có thì mới có đủ còn một chàng trai nông dân thì khó có thể lo được đầy đủ sính lễ như vậy và cô gái cũng sẽ không ngây thơ đến nỗi tưởng những lễ vật kia là có thật, nhưng cô vẫn có quyền hãnh diện vì chàng trai rất yêu và trân trọng cô, dù có thể sính lễ không trang trọng như vậy nhưng tấm chân tình mà cô nhận đươc mới là vô giá.
Ca dao xưa có câu:
“Lênh đênh một chiếc thuyền tình
|
Bài làm
Từ xa xưa ông bà ta đã có câu “vô tửu bất thành lễ” đúng vậy rượu được sử dụng rộng rãi trong đời sống văn hóa xã hội. Từ bao đời nay, con người đã xem rượu là vật phẩm tế lễ trời đất, thần thánh, tổ tiên, đồng thời rượu còn có ý nghĩa bày tỏ thành kính, lễ nghĩa trong mọi mối quan hệ xã giao. Từ thôn quê đến thành thị đâu đâu cũng có người uống rượu. Người ta uống rượu mừng đám cưới, chia buồn trong đám ma, để giải sầu, lâu ngày gặp nhau,… Có lẽ chỉ đọc tới đây mọi người sẽ lầm tưởng rượu có lợi ích rất lớn nhưng thực chất rượu như “con dao hai lưỡi” nếu không cẩn thận ta sẽ bị thương đau đớn vì thứ nước được mệnh danh là “thuốc tiên hạnh phúc”.
Trước hết ta phải hiểu thế nào là rượu? Rượu là một thức uống được làm từ những chất hữu cơ được lên men để tạo ra cồn cừ những nguyên liệu quen thuộc như gao, các loại trái cây. Rượu có tác dụng kích thích, tạo cảm giác thích thú và sảng khoái cho con người trong một thời gian nhất định, nhưng chỉ với chút lợi ích đó thật chẳng thấm vào đâu so với tác hại của rượu. Nếu con người sử dụng rượu với liều lượng lớn trong thời gian dài sẽ gây nghiện từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe người uống và kéo theo nhiều hệ lụy xã hội.
Bản thân rượu không hoàn toàn tốt mà cũng chẳng hoàn toàn xấu mà rượu ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào là do người dùng rượu. Nếu “anh” mà uống điều độ thì rượu kích thích hoạt động của não người uống thấy sảng khoái giải tỏa được cơn ức chế trong cơ thể. Thực tế thì ranh giới giữa uống vừa đủ đến uống say quá mong manh như “sọi chỉ mảnh” uống rượu mềm môi mấy ai khi uống mà biết dừng đúng lúc.
Đầu tiên cơ thể người uống sẽ bị ảnh hưởng sức khỏe giảm sút, rượu chính là kẻ đầu độc gây ra nhiều bệnh nguy hiểm. Ban đầu rượu làm hại đến cơ quan thần kinh trung ương của con người dẫn đến đau đầu, choáng váng cơ thể rất mệt mỏi. Rượu gây nên tình trạng ngộ độc và có thể dẫn đến tử vong với hàng loạt bệnh nguy hiểm: bệnh tim, bệnh thần kinh, suy dinh dưỡng, huyết áp cao… Ngày nay có rất nhiều người mắc bệnh ung thư và rượu cũng chính là một trong những tác nhân đứng hàng đầu gây ung thư đặc biệt là ung thư gan. Nếu bạn đến bệnh viện K thì sẽ thấy phần lớn bệnh nhân ung thư gan là do nghiện rượu và hút thuốc lá. Khi ta được nhìn thấy hình ảnh những lá gan xơ cứng, thủng lỗ chỗ, cùng những tấm “thân tàn ma dại” thì chắc hẳn chẳng ai còn muốn nói rượu là “ thuốc tiên hạnh phúc”. Đáng buồn hơn rượu cũng như thuốc lá nó không khiến người dùng đau đớn và chết ngay mà nó tàn phá cơ thể âm thần, lặng lẽ “gặm nhấm như tằm ăn dâu” khi thấy được tác hại thì đã quá muộn để cứu chính mình. Rượu là kẻ thù nguy hiểm và hung ác không một cơ quan hay tế bào nào trong cơ thể có thể chịu được nó tàn phá ghê gớm, đặc biệt là trái tim. Tim của người nghiện rượu to gấp đôi người bình thường dẫn đến nguy cơ suy tim, đột quỵ, vậy là đáng lẽ ta sẽ có thêm 20-25 năm tận hưởng niềm vui cuộc sống thì lại phải dùng số tuổi thọ đó để đổi lấy chút sảng khoái hưng phấn nhất thời từ rượu, cái giá thật quá đắt phải không?
Đâu chỉ có vậy, rượu còn làm suy giảm chức năng sinh sản của cả nam và nữ, đặc biệt nếu bà mẹ nghiện rượu thì đứa con trong bụng sẽ bị tổn thương não vĩnh viễn gây ra dị tật thể chất không thể nào khắc phục đượcvậy là thứ “nước ngọt ngào” đó hủy hoại bản thân người uống chưa đủ mà còn giết dần giết mòn cả những mầm non tương lai đó mới quả là sự nguy hiểm khôn lường chắc hẳn để nói hết những tác hại của rượu đối với sức khỏe con người thì chẳng thể liệt kê đủ. Chỉ cần ta nhìn thấy những số liệu sau mà giật mình, người ta kết luận hàng năm có tới 26% số người tử vong do ngộc đọc rượu, 13% bệnh lao phổi, 18% chết vì bệnh tim do rượu… tác hại của rượu đâu chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà nó còn hủy hoại đạo đức kéo theo bao hệ lụy đau lòng của xã hội. Khi uống rượu con người sẽ mất đi khả năng nhận thức và sự kìm chế, chẳng khó để thấy trong những nhà hàng khi vào tiệc ai cũng vui vẻ hòa nhã vậy mà sau những tiếng dô những ly rượu được uống cạn theo đó là những gương mặt đỏ gay, những lời văng tục mà khi tỉnh chắc nghĩ đến thôi cũng ngượng mồm. Ca dao xưa có câu:
“Ở đời chẳng biết sợ ai
Sợ thằng say rượu nói dai cả ngày”
Khi uống rượu con người dễ bị kích động, chỉ cần những mâu thuẫn nhỏ sẽ xảy ra xô sát. Theo thống kê rượu bia là tác nhân gây nên 75% các vụ phạm tội, thật đau lòng với những trường hợp phạm tội được thực hiện do hậu quả của uống rượu bia. Những vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm… gây bao đau thương ám ảnh cho con người. Dưới đây chỉ là một số ít những vụ án do những con người là nô lệ của rượu gây ra:
|
Assignment
Since ancient times, our grandparents have had the saying "no alcohol is not polite". That's right, alcohol is widely used in social and cultural life. For many generations, people have considered wine as an offering to heaven and earth, gods, and ancestors. At the same time, wine also has the meaning of expressing respect and politeness in all social relationships. From the countryside to the city, people drink alcohol everywhere. People drink wine to celebrate weddings, to express condolences at funerals, to relieve sadness, to see each other after a long time, etc. Perhaps just reading this, people will mistakenly think that alcohol has great benefits, but in fact, alcohol is like a "double sword." tongue" If we are not careful, we will be painfully injured because of the water that is known as the "elixir of happiness".
First of all, we must understand what alcohol is? Wine is a drink made from organic substances that are fermented to create alcohol and familiar ingredients such as gao and fruits. Alcohol has a stimulating effect, creating a feeling of excitement and pleasure for people for a certain period of time, but that little benefit is nothing compared to the harmful effects of alcohol. If people use alcohol in large doses for a long time, it will cause addiction, which will seriously affect the drinker's health and lead to many social consequences.
Alcohol itself is neither completely good nor completely bad, but how alcohol affects us depends on the person using it. If "you" drink in moderation, alcohol stimulates brain activity and the drinker feels refreshed and relieves inhibitions in the body. In reality, the line between drinking just enough and getting drunk is as thin as a "thin thread" when drinking wine, few people know when to stop when they drink.
First, the drinker's body will suffer from a decline in health. Alcohol is the poison that causes many dangerous diseases. Initially, alcohol harms the human central nervous system, leading to headaches, dizziness, and extreme fatigue. Alcohol causes poisoning and can lead to death with a series of dangerous diseases: heart disease, neurological disease, malnutrition, high blood pressure... Today, many people have cancer and alcohol is also the cause. is one of the leading causes of cancer, especially liver cancer. If you go to K hospital, you will see that most liver cancer patients are due to alcoholism and smoking. When we see images of hardened, punctured livers and "wild ghost bodies", surely no one will want to say that alcohol is the "elixir of happiness". Sadder than alcohol or cigarettes, it does not cause pain and immediate death to the user, but it destroys the body and spirit, quietly "gnawing like a silkworm eating a mulberry" and when you see the harmful effects, it is too late to save yourself. . Alcohol is a dangerous and ferocious enemy, no organ or cell in the body can withstand it. It wreaks terrible havoc, especially the heart. An alcoholic's heart is twice as large as a normal person's, leading to the risk of heart failure and stroke. So instead of having 20-25 more years of enjoyment in life, we have to use that life expectancy in exchange for it. A little momentary euphoria and excitement from alcohol, the price is too high, isn't it?
Not only that, alcohol also impairs the reproductive function of both men and women, especially if the mother is an alcoholic, the unborn child will suffer permanent brain damage, causing irreversible physical deformities. Well, that "sweet water" not only destroys the person who drinks it, but also gradually destroys the future buds. That is an immeasurable danger. Surely it is enough to say all the harmful effects of alcohol on the human body. Human health cannot be listed enough. Just by looking at the following data, we are startled, it is concluded that every year, up to 26% of people die from alcohol poisoning, 13% from tuberculosis, 18% from heart disease caused by alcohol... the harmful effects of alcohol. Alcohol not only affects human health but it also destroys morality, leading to many painful consequences for society. When drinking alcohol, people will lose their ability to perceive and control themselves. It is not difficult to see in restaurants that everyone is happy and peaceful when entering a party, but after the sound of drinking, the glasses of wine are drained, followed by people drinking alcohol. His face was red and he was swearing so much that even thinking about it when he was awake would make him feel embarrassed. An old folk song has a saying:
“In life, I don't know who to fear
I'm afraid of a drunk guy talking all day long."
When drinking alcohol, people are easily agitated, and even small conflicts will cause conflicts. According to statistics, alcohol is the cause of 75% of crimes. It is heartbreaking to see crimes committed as a result of drinking alcohol. Cases of murder, robbery, rape... cause so much pain and haunting for people. Below are just a few of the crimes committed by people who were slaves to alcohol:
|
Bài làm
Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu: “để vàng bạc chẳng bằng để sách cho con”. Hay khi bàn về vai trò của sách đối với nhân loại A.Upit đã nói: “Sách là cây đèn soi sáng cho con người trên những nẻo đường xa xôi nhất”. Đúng vậy sách là kết tinh thành tựu văn minh nhân loại, là người bạn tốt theo ta trên mọi hành trình gian khó. Vai trò của sách to lớn chẳng có từ ngữ nào có thể diễn tả hết. Sách nâng cao tri thức, kỹ năng và phát triển tư duy đồng thời giáo dục rèn luyện nhân cách con người.
Giá trị to lớn sách mang lại cho cuộc sống của con người là không thể phủ nhận. Vậy sách là gì? Theo quan niệm xưa như A.Ghec-xen: “Sách là di huấn tinh thần của thế hệ này đối với thế hệ khác”. Còn theo quan niệm ngày nay: “Sách là sản phẩm tinh thần phi vật thể là kho báu trí tuệ mà con người đã tích lũy chắt lọc từ bao đời” con người đã lưu vào sách bao kiến thức về khoa học và nghệ thuật nhờ đó những giá trị tinh hoa của nhân loại không mai một phai tàn mà luôn được con cháu đời đời tiếp nối phát triển.
Có ý kiến cho rằng: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách chính là một con đường quan trọng của học vấn”. Học vấn là vốn kiến thức tích lũy được, người có học vấn là người học rộng, biết nhiều, có trí tuệ để hiến dâng phục vụ cho xã hội. Sách chính là người thầy cung cấp kiến thức, nhà văn M.Gorky đã nói: “ Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Không đọc sách con người trở nên rốt nát, lạc hậu. Không có sách lưu giữ cả một kho tàng kinh nghiệm của nhân loại. Thử tượng tượng nếu không có sách thì với sức mạnh phá hủy của thời gian liệu còn lại gì cho thế hệ sau học hỏi, tiếp bước? và biết đâu ngày nay sẽ chẳng có những tòa cao ốc, những phương tiện hiện đại và có thể con người vẫn mãi dừng bước ở cái thời nguyên thủy sơ khai.
Sách hội tụ, tổng hợp kiến thức ở mọi lĩnh vực: Lịch sử, văn học, toán học, hóa học, âm nhạc, hội họa… Nếu ta chối bỏ sách chắc chắn sẽ không thê phát triển hoàn thiện. Một em bé khi bắt đầu đi học nếu không có những trang sách giáo khoa thì dù thầy cô có mất bao công sức truyền dạy thì em bé đó cũng khó có thể học tốt. Nếu không có sách thì biết bao nghiên cứu, phát minh của những nhà khoa học như:Ac-si-met, Pi-ta-go, Niu- tơn… thì thế giới ngày nay đâu có thể phát triển. Những trang sách của Mác, Ăng- ghen, Lê- nin đã thực sự giúp con người tạo nên những cuộc cách mạng đem lại tự do, độc lập dân chủ cho nhiều quốc gia trên thế giới.Viêt Nam là một minh chứng rõ dàng nhất với sự dẫn dắt của lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh, Bác cũng nhờ đọc sách nên đã lĩnh hội được tư tưởng ánh sáng chủ nghĩa Mác, Lê-nin từ đó tìm ra con đường cứu nước đúng đắn:
“Bốn bức tường im nghe bác lật từng trang sách gấp
Tưởng ngoài trời đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
Cơm áo là đây hạnh phúc đây rồi”
Hay chính bản thân chúng ta nếu không đọc sách, tìm hiểu những kiến thức trong sách thì sao có thể đạt được kết quả trên con đường học vấn để xây dựng tương lai. Sách giúp con người nâng cao kiến thức đồng thời cũng có vai trò rất lớn trong giáo dục nhân cách con người. Mỗi cuốn sách đều thể hiện giá trị nhấn văn cao cả và là tấm gương phản ánh lịch sử rõ ràng. Từ đó sách giúp bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn và định hướng cho con người một lối sống đúng đắn. Khi viết một cuốn sách, người viết đã gửi gắm bao tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm sống quý báu vào những trang giấy. Chắc hẳn nếu là một độc giả có tâm biết trân trọng tâm huyết của tác giả khi ta đọc một cuốn sách hay ta cũng sẽ vui buồn, hờn giận thậm chí căm thù đó là những cung bậc tình cảm mà chỉ có sách mới tôi luyện được cho tâm hồn mỗi con người. Nếu bạn đã từng đọc: “Những người khốn khổ” của đại văn hào Víc to- huy go tác phẩm đã mở ra trước mắt chúng ta một xã hội đầy rẫy những bất công, bao lực và bao phận người cùng cực. Nổi bật là Giăng- van- giăng đã phải chịu 18 năm tù khổ sai chỉ vì ăn cắp một mẩu bánh mỳ cho đứa cháu của mình. Ta bàng hoàng biết bao với những đau khổ bất công mà ông phải gánh chịu. Cùng với đó là sự kính phục khi Giăng- van- Giăng đã dùng cả tấm lòng bao dung quan tâm sẻ chia với những phận đời khốn khổ. Hay xót thương cho người phụ nữ Phăng- tin bị dồn ép phải vứt đi tự trọng làm nghề mại dâm, bán răng, bán tóc để nuôi con gái. Rồi đến “ Chí Phèo” của Nam Cao. Ta sẽ vừa ghê sợ một tên Chí Phèo là quỷ dữ của làng Vũ Đại, rồi đồng cảm vui cho hắn khi được yêu và sống vài ngày hạnh phúc ngắn ngủi với Thị Nở để rồi tiếc nuối xót xa trước cái chết đau đớn của Chí khi không được làm người lương thiện. Trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố sẽ có người rơi nước mắt khi chị Dậu phải bán con, khi cái Tý phải ăn những hạt cơm thừa của lũ chó và căm thù, khinh ghét tên cai lệ, bọn quan lại, vợ chồng Nghị Quế những kẻ súc vật vô nhân tính chà đạp lên số phận của bao con người. Vậy là từ những trang sách hay ta đã nghiệm ra những chân lý đúng đắn, những bài học đạo đức giá trị.
Sách chính là “người thầy vĩ đại” giúp ta mở cánh cửa tri thức dạy chúng ta biết sống nhân ái, sẻ chia. Sách như một người bạn tốt đồng hành với ta đưa ta đến những vùng đất lạ với bao bí ẩn, lý thú gợi cho ta khát khao khám phá, mở rộng tầm hiểu biết cùng ta chinh phục những khó khăn, thử thách. Sách là một hành trang không thể thiếu trong cuộc đời.
Những năm gần đây, Internet mạng xã hội phát triển nhanh chóng con người sống vội hơn, bao giá trị dần dần biến đổi. Có mặt tốt lên nhưng cũng nhiều phương diện xấu đi trong đó văn hóa đọc của mọi người đặc biệt là nhiều bạn trẻ suy giảm đi nhiều. Nếu trước đây thư viện luôn là nơi lý thú thu hút các bạn học sinh, sinh viên thì giờ chẳng khó để găp một sinh viên trong những năm đại học với số lần lên thư viện chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thật hiếm bắt gặp một ai đó chăm chỉ đọc sách trong một quán cà phê, trên ghế đá trong công viên thay vào đó là những chiếc điện thoại thông minh. Giới trẻ bị cuốn vào thế giới ảo, những trò game cảm giác mạnh. Thay vì thời gian thư giãn đọc sách họ sẽ lên bar, vũ trường nhảy nhót trong tiếng nhạc đinh tai nhức óc, say trong men rượu bia và sử dụng những chất kích thích. Để từ đó biết bao bạn trẻ đã trượt dài trong sự sa ngã. Vậy là sách “người thầy tâm hồn” dần bị quên lãng, tâm hồn con người mất đi sự đồng cảm, sẻ chia thay vào đó là sự thờ ơ, vô cảm. Đó cũng là lí do sâu xa dẫn đến sự suy đồi đạo đức. Thật buồn khi những học sinh mắng chửi thậm chí trả thù thầy cô và bàng hoàng ghê sợ khi hàng loạt những cuộc tổ chức tình dục tập thể, giết người, cướp của ngày càng nhiều. Tất nhiên không phải chỉ mỗi nguyên nhân không đọc sách dẫn đến tình trạng này mà còn nhiều nguyên nhân sâu xa nữa làm méo mó cách ứng xử của giới trẻ hiện nay. Nhưng ta có thể khảng định lười đọc sách sẽ khiến tâm hồn nhân cách con người nhạt nhòa, đơn điệu và vô cảm đi rất nhiều.
|
Bài làm
Từ xa xưa, ông cha ta đã có câu: “để vàng bạc chẳng bằng để sách cho con”. Hay khi bàn về vai trò của sách đối với nhân loại A.Upit đã nói: “Sách là cây đèn soi sáng cho con người trên những nẻo đường xa xôi nhất”. Đúng vậy sách là kết tinh thành tựu văn minh nhân loại, là người bạn tốt theo ta trên mọi hành trình gian khó. Vai trò của sách to lớn chẳng có từ ngữ nào có thể diễn tả hết. Sách nâng cao tri thức, kỹ năng và phát triển tư duy đồng thời giáo dục rèn luyện nhân cách con người.
Giá trị to lớn sách mang lại cho cuộc sống của con người là không thể phủ nhận. Vậy sách là gì? Theo quan niệm xưa như A.Ghec-xen: “Sách là di huấn tinh thần của thế hệ này đối với thế hệ khác”. Còn theo quan niệm ngày nay: “Sách là sản phẩm tinh thần phi vật thể là kho báu trí tuệ mà con người đã tích lũy chắt lọc từ bao đời” con người đã lưu vào sách bao kiến thức về khoa học và nghệ thuật nhờ đó những giá trị tinh hoa của nhân loại không mai một phai tàn mà luôn được con cháu đời đời tiếp nối phát triển.
Có ý kiến cho rằng: “Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách chính là một con đường quan trọng của học vấn”. Học vấn là vốn kiến thức tích lũy được, người có học vấn là người học rộng, biết nhiều, có trí tuệ để hiến dâng phục vụ cho xã hội. Sách chính là người thầy cung cấp kiến thức, nhà văn M.Gorky đã nói: “ Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới”. Không đọc sách con người trở nên rốt nát, lạc hậu. Không có sách lưu giữ cả một kho tàng kinh nghiệm của nhân loại. Thử tượng tượng nếu không có sách thì với sức mạnh phá hủy của thời gian liệu còn lại gì cho thế hệ sau học hỏi, tiếp bước? và biết đâu ngày nay sẽ chẳng có những tòa cao ốc, những phương tiện hiện đại và có thể con người vẫn mãi dừng bước ở cái thời nguyên thủy sơ khai.
Sách hội tụ, tổng hợp kiến thức ở mọi lĩnh vực: Lịch sử, văn học, toán học, hóa học, âm nhạc, hội họa… Nếu ta chối bỏ sách chắc chắn sẽ không thê phát triển hoàn thiện. Một em bé khi bắt đầu đi học nếu không có những trang sách giáo khoa thì dù thầy cô có mất bao công sức truyền dạy thì em bé đó cũng khó có thể học tốt. Nếu không có sách thì biết bao nghiên cứu, phát minh của những nhà khoa học như:Ac-si-met, Pi-ta-go, Niu- tơn… thì thế giới ngày nay đâu có thể phát triển. Những trang sách của Mác, Ăng- ghen, Lê- nin đã thực sự giúp con người tạo nên những cuộc cách mạng đem lại tự do, độc lập dân chủ cho nhiều quốc gia trên thế giới.Viêt Nam là một minh chứng rõ dàng nhất với sự dẫn dắt của lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh, Bác cũng nhờ đọc sách nên đã lĩnh hội được tư tưởng ánh sáng chủ nghĩa Mác, Lê-nin từ đó tìm ra con đường cứu nước đúng đắn:
“Bốn bức tường im nghe bác lật từng trang sách gấp
Tưởng ngoài trời đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc
Cơm áo là đây hạnh phúc đây rồi”
Hay chính bản thân chúng ta nếu không đọc sách, tìm hiểu những kiến thức trong sách thì sao có thể đạt được kết quả trên con đường học vấn để xây dựng tương lai. Sách giúp con người nâng cao kiến thức đồng thời cũng có vai trò rất lớn trong giáo dục nhân cách con người. Mỗi cuốn sách đều thể hiện giá trị nhấn văn cao cả và là tấm gương phản ánh lịch sử rõ ràng. Từ đó sách giúp bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn và định hướng cho con người một lối sống đúng đắn. Khi viết một cuốn sách, người viết đã gửi gắm bao tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm sống quý báu vào những trang giấy. Chắc hẳn nếu là một độc giả có tâm biết trân trọng tâm huyết của tác giả khi ta đọc một cuốn sách hay ta cũng sẽ vui buồn, hờn giận thậm chí căm thù đó là những cung bậc tình cảm mà chỉ có sách mới tôi luyện được cho tâm hồn mỗi con người. Nếu bạn đã từng đọc: “Những người khốn khổ” của đại văn hào Víc to- huy go tác phẩm đã mở ra trước mắt chúng ta một xã hội đầy rẫy những bất công, bao lực và bao phận người cùng cực. Nổi bật là Giăng- van- giăng đã phải chịu 18 năm tù khổ sai chỉ vì ăn cắp một mẩu bánh mỳ cho đứa cháu của mình. Ta bàng hoàng biết bao với những đau khổ bất công mà ông phải gánh chịu. Cùng với đó là sự kính phục khi Giăng- van- Giăng đã dùng cả tấm lòng bao dung quan tâm sẻ chia với những phận đời khốn khổ. Hay xót thương cho người phụ nữ Phăng- tin bị dồn ép phải vứt đi tự trọng làm nghề mại dâm, bán răng, bán tóc để nuôi con gái. Rồi đến “ Chí Phèo” của Nam Cao. Ta sẽ vừa ghê sợ một tên Chí Phèo là quỷ dữ của làng Vũ Đại, rồi đồng cảm vui cho hắn khi được yêu và sống vài ngày hạnh phúc ngắn ngủi với Thị Nở để rồi tiếc nuối xót xa trước cái chết đau đớn của Chí khi không được làm người lương thiện. Trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố sẽ có người rơi nước mắt khi chị Dậu phải bán con, khi cái Tý phải ăn những hạt cơm thừa của lũ chó và căm thù, khinh ghét tên cai lệ, bọn quan lại, vợ chồng Nghị Quế những kẻ súc vật vô nhân tính chà đạp lên số phận của bao con người. Vậy là từ những trang sách hay ta đã nghiệm ra những chân lý đúng đắn, những bài học đạo đức giá trị.
Sách chính là “người thầy vĩ đại” giúp ta mở cánh cửa tri thức dạy chúng ta biết sống nhân ái, sẻ chia. Sách như một người bạn tốt đồng hành với ta đưa ta đến những vùng đất lạ với bao bí ẩn, lý thú gợi cho ta khát khao khám phá, mở rộng tầm hiểu biết cùng ta chinh phục những khó khăn, thử thách. Sách là một hành trang không thể thiếu trong cuộc đời.
Những năm gần đây, Internet mạng xã hội phát triển nhanh chóng con người sống vội hơn, bao giá trị dần dần biến đổi. Có mặt tốt lên nhưng cũng nhiều phương diện xấu đi trong đó văn hóa đọc của mọi người đặc biệt là nhiều bạn trẻ suy giảm đi nhiều. Nếu trước đây thư viện luôn là nơi lý thú thu hút các bạn học sinh, sinh viên thì giờ chẳng khó để găp một sinh viên trong những năm đại học với số lần lên thư viện chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thật hiếm bắt gặp một ai đó chăm chỉ đọc sách trong một quán cà phê, trên ghế đá trong công viên thay vào đó là những chiếc điện thoại thông minh. Giới trẻ bị cuốn vào thế giới ảo, những trò game cảm giác mạnh. Thay vì thời gian thư giãn đọc sách họ sẽ lên bar, vũ trường nhảy nhót trong tiếng nhạc đinh tai nhức óc, say trong men rượu bia và sử dụng những chất kích thích. Để từ đó biết bao bạn trẻ đã trượt dài trong sự sa ngã. Vậy là sách “người thầy tâm hồn” dần bị quên lãng, tâm hồn con người mất đi sự đồng cảm, sẻ chia thay vào đó là sự thờ ơ, vô cảm. Đó cũng là lí do sâu xa dẫn đến sự suy đồi đạo đức. Thật buồn khi những học sinh mắng chửi thậm chí trả thù thầy cô và bàng hoàng ghê sợ khi hàng loạt những cuộc tổ chức tình dục tập thể, giết người, cướp của ngày càng nhiều. Tất nhiên không phải chỉ mỗi nguyên nhân không đọc sách dẫn đến tình trạng này mà còn nhiều nguyên nhân sâu xa nữa làm méo mó cách ứng xử của giới trẻ hiện nay. Nhưng ta có thể khảng định lười đọc sách sẽ khiến tâm hồn nhân cách con người nhạt nhòa, đơn điệu và vô cảm đi rất nhiều.
|
Bài làm
Một triết gia ấn độ có nói: “Hân hạnh thay khi chúng ta được sinh ra làm trẻ con, nhưng kinh khủng thay nếu chúng ta mãi làm trẻ con”. Con người nếu không lớn (trưởng thành) thì thật khủng khiếp chẳng khác nào cây không ra trái, tằm chẳng nhả tơ. Con đường trưởng thành để làm “người lớn” không hề bằng phẳng mà vô cùng trắc trở đầy chông gai thử thách.
Vậy như thế nào khi mỗi người được xã hội coi là “người lớn”, theo định nghĩa: “Người lớn, hay người trưởng thành là con người ở độ tuổi trưởng thành về mặt sinh lí. Trong xã hội loài người, người lớn còn gắn với khái niệm xã hội và pháp lí”. Nếu theo định nghĩa này thì trở thành người lớn thật dễ đúng không? Ta chỉ cần phát triển đầy đủ tâm sinh lí nhưng thật ra để làm một người lớn đúng nghĩa thì còn rất nhiều thứ ta phải rèn luyện, học hỏi thì mới có thể trở thành một cái cây lớn đơm hoa kết trái
“Người lớn” là những người trưởng thành cả về thể xác lẫn tinh thần, từng trải qua những thử thách trong cuộc đời ở một mức độ nào đó. Họ đủ sức đưa ra những quyết định hệ trọng và chịu trách nhiệm về nó. Họ có lí trí và tình cảm để xét đoán và thấu hiểu một vấn đề. Khi ta trả lời được: “Ta sinh ra để làm gì? Ta đã làm được cái gì” nếu bạn đã nghĩ đến câu hỏi trên và tìm được câu trả lời thì đây là bằng chứng cho sự trưởng thành. Người lớn giống như một cái cây cứng cáp đương đầu với giông bão, sẽ mất mát, đớn đau nhưng sẽ đơm hoa kết trái cống hiến cho đời. Một người lớn “trưởng thành” và một người đang lớn sẽ có nhiều điểm khác biệt. Những bạn trẻ đang lớn họ suy nghĩ đơn giản, nhìn thế giới với đôi mắt trong veo đâu cũng là mầu hồng. Họ sục sôi nhiệt huyết và có nhiều người cũng sống gấp, sống vội. Ngược lại người lớn họ cũng đam mê sống nhưng trước mọi việc người trưởng thành bình tĩnh, lí trí hơn, thấu đáo hơn. Những người đang lớn sẽ hồn nhiên không che dấu cảm xúc thì những người trưởng thành đôi khi phải tính toán dấu đi suy nghĩ, cảm xúc thật của bản thân. Những cô cậu tuổi “ ô mai” có thể tốn nhiều thời gian vào những trò chơi, thú vui vô bổ, sẵn sàng vung tiền để mua cho mình một bộ cánh hàng hiệu hay hét lên nếu có điều không vừa ý với ai đó. Người lớn họ cũng vui chơi nhưng chỉ trong một thời gian nhất định vì sau họ còn có gia đình và công việc. Dù rất thích bộ đồ hiệu nào đó nhưng người lớn cũng đắn đo vì họ biết để có được đồng tiền chẳng hề dễ dàng. Càng không có chuyện một người lớn biết suy nghĩ sẽ hét lên, phản ứng dữ dội khi không vừa ý hoặc bị hiểu lầm họ sẽ biết đặt mình vào vị trí của mọi người để thấu hiểu, để sẻ chia. Người lớn và người đang lớn sẽ có sự khác biệt đôi khi là mâu thuẫn nhưng ai rồi cũng phải trở thành “người lớn”. Trên con đường trưởng thành sẽ có bao thử thách rồi vấp ngã, thất bại nhưng mỗi một giọt mồ hôi, một giọt nước mắt rơi xuống thì bạn mới thành một người lớn đúng nghĩa tự tin ngẩng cao đầu trong cuộc sống này.
Đừng nghĩ rằng khi ai đó 18 tuổi, phát triển vượt bậc về mặt thể chất nhưng suy nghĩ thì nông cạn, ích kỉ lại lười biếng, ỉ lại đã là người lớn. Đó chỉ là lớn cái “xác” còn cái “hồn” điều cốt lõi quyết định bạn đã là người lớn hay chưa vẫn nhỏ bé và méo mó thì đó chỉ là những đứa trẻ to xác. Một người lớn chỉ có ích cho xã hội khi họ biết suy nghĩ, xác định mục tiêu cuộc sống và quyết tâm thực hiện. Họ sẽ tự lập, tự lo cho cuộc sống, có trách nhiệm với gia đinh. Trong xã hội hiện nay thật đáng buồn khi ngày càng nhiều những “đứa trẻ to xác”, nhiều người ở tuổi 30 vẫn phải ngửa tay xin tiền ăn bám gia đình họ phụ thuộc vào cha mẹ từ miếng cơm, tấm áo đến nơi ăn chốn ở. Là người lớn phải chịu trách nhiệm về hành động, lời nói của mình không trốn tránh khi sai và biết đấu tranh cho lẽ phải. Có bao người mang danh tri thức nhưng nói tục như hát hay, với người yếu hơn thì lên mặt hống hách đối với kẻ trên thì xu nịnh bợ đỡ hèn mọn, khi bị cấp trên mắng sai vẫn trưng ra nụ cười giả tạo nói lời phỉnh nịnh. Người lớn đích thực thì họ biết cho đi sẽ nhận lại. Khi ta giúp đỡ một ai đó chẳng cần biết có được trả ơn hay không nhưng tin chắc bạn sẽ nhận được nụ cười, lời cảm ơn chân thành đó là những thứ quý giá mà khi ta biết chia sẻ mới nhận lại được. Ngược lại những kẻ mang danh là người lớn chỉ muốn nhận mà không đền đáp, muốn lấy mà không muốn trả họ với những tâm hồn méo mó ích kỉ sẽ nhận lại sự khinh thường xa lánh dè bỉu của xã hội. Thật đáng buồn khi ngày càng nhiều những hành động xấu xí của những kẻ được gọi là “ người lớn” đã làm hoen ố xã hội. Một người phụ nữ đã làm bà cùng con gái của mình đã thuê người hắt một xô nước thải bẩn vào sạp thịt lợn của một người phụ nữ khác vì chị này bán rẻ hơn nên ảnh hưởng đến sạp thịt của bà ta. Nhưng bạn có biết người phụ nữ bị hắt xô nước thải vẫn sẵn sàng tha thứ cho hai mẹ con họ, thật vui khi giờ đây sạp thịt của chị luôn đông khách. Giống như một con tằm biết nhả tơ nó sẽ thành một con bướm đẹp, ngược lại một con tằm chỉ giữ khư khư tơ của mình thì mãi mãi chỉ là loài ấu trùng bé nhỏ.
|
Assignment
An Indian philosopher said: "It is a joy when we are born as children, but a horror if we remain children forever." If humans do not grow up (mature), it is as terrible as a tree that does not bear fruit or a silkworm that does not produce silk. The path to becoming an "adult" is not smooth but extremely difficult and full of challenges.
So what happens when each person is considered an "adult" by society, according to the definition: "An adult, or an adult, is a person of physiological maturity. In human society, adults are also associated with social and legal concepts. If we follow this definition, becoming an adult is easy, right? We only need to fully develop our psychology and physiology, but in fact, to be a true adult, there are many things we have to practice and learn before we can become a big tree that bears fruit.
“Adults” are people who are mature both physically and mentally, and have experienced challenges in life to some extent. They are capable of making important decisions and taking responsibility for it. They have reason and emotions to judge and understand a problem. When we can answer: “What was I born for? What have I done?" If you have thought about the above question and found the answer, this is proof of maturity. Adults are like a sturdy tree that can cope with storms, will experience loss and pain but will bear fruit and contribute to life. A “mature” adult and a growing person will have many differences. Young people who are growing up think simply, looking at the world with clear eyes, everything is rosy. They are full of enthusiasm and many people also live in a hurry. On the contrary, adults are also passionate about life, but when it comes to everything, adults are calmer, more rational, and more thoughtful. Growing up people will innocently not hide their emotions, but mature people sometimes have to deliberately hide their true thoughts and feelings. Boys and girls born in the age of "o mai" can waste a lot of time on useless games and hobbies, are willing to spend money to buy themselves a brand-name outfit or scream if something doesn't please someone. Adults also have fun, but only for a certain period of time because they also have family and work. Even though they really like certain brand clothes, adults still hesitate because they know that getting money is not easy. There is no way that a thinking adult will scream or react violently when they are dissatisfied or misunderstood. They will know how to put themselves in everyone's position to understand and share. Adults and growing people will have differences, sometimes conflicts, but everyone must eventually become an "adult". On the path to adulthood, there will be many challenges, stumbles, and failures, but with each drop of sweat and each drop of tears, you will become a true adult confidently holding your head high in this life.
Don't think that when someone is 18 years old, physically developed but their thinking is shallow, selfish, lazy, and indifferent, they are already an adult. That's just the big "body" and the "soul", the core thing that determines whether you are an adult or not, is still small and distorted, it's just a big kid. An adult is only useful to society when they know how to think, determine life goals and are determined to achieve them. They will be independent, take care of their own lives, and be responsible for their families. In today's society, it is sad that there are more and more "big kids", many people at the age of 30 still have to beg for money to live off their family's dependence on their parents from food to clothing to places to eat. residence. As an adult, you must take responsibility for your actions and words, not hide when you are wrong and know how to fight for what is right. How many people have the name of knowledge but speak profanely like they sing well? When dealing with weaker people, they act arrogantly. To those above them, they fawn and be mean. When being scolded by their superiors, they still show a fake smile and say something. flattery. True adults know that when they give, they receive in return. When we help someone, we don't need to know whether we will be rewarded or not, but we are confident that you will receive a smile and sincere thanks, which are precious things that only when we know how to share can we receive them in return. On the contrary, those who pretend to be adults who only want to receive without reciprocating, want to take but do not want to return, with distorted and selfish souls, will receive society's contempt and scorn. It's sad that more and more ugly actions of so-called "adults" are tarnishing society. A grandmother and her daughter hired someone to throw a bucket of dirty wastewater into another woman's pork stall because she sold it cheaper, affecting her meat stall. But did you know that the woman who was thrown into a bucket of wastewater is still willing to forgive the mother and her child? It's great that her meat stall is now always crowded with customers. Just like a silkworm that knows how to spin silk, it will become a beautiful butterfly, whereas a silkworm that only keeps its silk will forever be just a tiny larva.
|
Bài làm
Có những vần thơ sao đong đầy cảm xúc:
Tình mẹ lớn như trời biển rộng
Ban cho con sự sống hình hài
Cho con nhìn ánh nắng mai
Dắt dìu đưa lối tương lai diệu kì
Một hạt giống có thể nảy mầm. đâm chồi nảy lộc thành cây lớn xanh tốt thì phải có đất mẹ ủ ấp nuôi dưỡng. Cá muốn vùng vẫy bơi lội sao có thể thiếu dòng nước mát lành và mỗi chúng ta có mặt trong cuộc đời chính là nhờ công cha nghĩa mẹ. Tình mẫu tử chính là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất trên đời. Tình mẹ ấm áp bao dung dành cho con hay tình cảm kính trọng yêu quý của những đứa con dành cho me mình đều thật tốt đẹp biết bao. Tình mẫu tử chẳng từ ngữ nào có thể diễn tả được như câu nói quả vô cùng chính xác: “Nơi rộng lớn nhất trên thế giới này chính là trái tim người mẹ”.
“Mẹ” thật thiêng liêng và cao đẹp biết bao, tiếng gọi “mẹ ơi!” mà bao đứa con đã cất lên từ thủa biết nói đến khi trưởng thành và cả khi tóc đã điểm bạc đây vẫn là tiếng gọi thân thương nhất. Mẹ chính là người yêu thương vô bờ bến và sẵn sàng hi sinh, luôn bao dung che trở cho con của mình. Tình mẫu tử là thứ tình cảm tự nhiên trong sáng và cao cả nhất. Từ ngày đầu tiên con đến thế giới này mẹ đã bảo vệ con bằng tất cả tình yêu và sức lực: “Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang” chín tháng mười ngày mẹ cho con hình hài, bao mệt mỏi vất vả khi thai nghén chỉ mong con lớn lên từng ngày. Rồi để chào đón con đến thế giới bên ngoài mẹ đã chịu những cơn đau cắt da cắt thịt nhưng khi nghe tiếng con khóc chào đời bao đau đớn tan biến chỉ có những giọt nước mắt hạnh phúc hòa vào nụ cười trên môi. Mẹ hạnh phúc vì con đã an bình đến bên mẹ mọi vất vả mệt nhọc trong chín tháng mười ngày đâu có là gì khi mẹ được ôm con vào lòng. Cứ như vậy con lớn lên từng ngày trong lời ru ngọt ngào của mẹ. Ngay từ những ngày đầu chặp chững mẹ luôn là người nâng đỡ trở che, bữa cơm con ăn, áo quần con mặc đều nhờ đôi bàn tay mẹ chăm sóc. Khi con bước vào những năm học mẹ luôn ở bên dạy dỗ, động viên đã bao lần con bị điểm kém, trách phạt vòng tay mẹ luôn vỗ về an ủi. Trên hành trình trưởng thành của con luôn có bóng dáng của mẹ:
“Con dẫu lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con”
Con dù lớn khôn nhưng mẹ vẫn luôn trở che lo lắng, mẹ vẫn sát cánh cùng con trên con đường đời đầy gian lao và thử thách. Mẹ dành cả cuộc đời lo lắng cho con mà không mong một sự đáp đền, bởi niềm hạnh phúc lớn nhất của mẹ là được nhìn thấy các con hạnh phúc trưởng thành. Ca dao có câu:
“Mẹ già một nắng hai sương
Trải thân làm bóng mát đường con đi.”
Mẹ đã hi sinh sức khỏe và cả tuổi thanh xuân để bao bọc dậy dỗ con mẹ là người thân, còn là người bạn để con chia sẻ vui buồn. Khi con vấp ngã thất bại mẹ chính là bến đỗ bình yên nhất để con trở về. Khi thấy con khóc nước mắt mẹ cũng rơi, mẹ sẵn sàng dùng cả mạng sống để bảo vệ những đứa con. Biết bao người mẹ sẵn sàng hiến một quả thận một phần gan để đổi lại sự sống cho con của mình. Thật cảm động biết bao khi một người mẹ trẻ bị ung thư đã từ chối chữa bệnh để dành sự sống cho đứa con chưa chào đời. Mẹ có thể chịu mọi cực nhọc, vất vả để con được ấm no, hình ảnh người mẹ vừa đánh giầy vừa cười hạnh phúc với đứa con non nớt, cuộc sống mưu sinh vất vả nhưng chỉ cần nhìn ánh mắt nụ cười của người mẹ nghèo đó dành cho đứa con ta thấy thật ấm lòng biết bao. Tình mẫu tử là thiêng liêng nhất, cao đẹp nhất, Tình mẫu tử là sức mạnh kì diệu giúp con người vượt lên những khó khăn trong cuộc sống. Bao vất vả khó nhọc trên đường đời mẹ sẽ vượt qua hết vì sau mẹ còn có những đứa con. Con hạnh phúc mẹ cũng hạnh phúc, Có mẹ cuộc đời thật ấm áp nếu một ngày không có mẹ ở bên lúc ấy thế giới này thật vô cùng lạnh lẽo:
“Thêm một người quả đất sẽ chật hơn
Nhưng thiếu mẹ thế giới đầy nước mắt”
Vậy nhưng thật đau buồn khi có những đứa con ích kỉ tệ bạc với cha mẹ. Tội bất hiếu là tội nặng nhất của con người nhưng biết bao đứa con đã lớn lên trong tình yêu của mẹ lại trở thành những kẻ ích kỉ bất hiếu. Bao người mẹ đã hi sinh cả cuộc đời cho con khi về già lại bị chính con cái đối xử tệ bạc, đánh đập mắng chửi. Thật bàng hoàng khi một người con đánh mắng bắt mẹ già ăn phân uống nước tiểu, hay con cái đùn đẩy trách nhiệm không ai muốn chăm sóc phụng dưỡng mẹ già, hình ảnh bà cụ đã hơn tám mươi nằm co ro nơi góc phố vì bị chính đứa con dứt ruột đẻ ra chiếm nhà khiến bao người phẫn nộ và xót thương cho người mẹ già khốn khổ. Những đứa con đa phần đều ích kỉ bạn đã từng quan tâm đến mẹ chưa hay ta chỉ muốn nhận nhiều hơn là cho đi. Mẹ có thể ngồi hàng giờ nghe ta tâm sự nhưng những đưa con đã biết suy nghĩ đến tâm tư cảm nhận của mẹ hay chưa. Vậy nên những người còn mẹ hãy biết trân trọng vì cuộc sống nếu không có mẹ sẽ trở nên khô cằn u tối không có mẹ là điều thiệt thòi nhất trên đời. Một cuộc sống hạnh phúc không hẳn phải là cuộc sống có đầy đủ tiền tài vật chất nhưng lạnh lẽo khô héo tình người mà chỉ cần là cuộc sống giản dị bình yên và có mẹ ở bên. Bạn có thể sẽ rất giầu có và thành đạt nhưng tin chắc bạn cũng có lúc cô đơn đau buồn nếu ta không còn mẹ. Niềm hạnh phúc lớn nhất của con người là có một tuổi thơ bên gia đình êm ấm trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Khi mẹ ra đi những kỉ niệm hạnh phúc sẽ ở lại để khi ta thất bại vấp ngã thì tình mẫu tử thiêng liêng mãi tồn tại như một dòng nước mát làm dịu êm xanh tốt tâm hồn ta.
Trong cuộc sống xô bồ hối hả hiện nay tình mẫu tử cũng đã bị những kẻ đã là mẹ coi rẻ chà đạp. Thật ghê sợ khi những kẻ vì vui thú dục vọng nhưng lại chối bỏ trách nhiệm khi đã tạo ra một sinh linh bé nhỏ sẵn sàng bóp nghẹt sự sống của những hạt mầm chưa được đâm chồi, nẩy lộc. Làm sao quên được khi một người mẹ sinh con ra nhưng nhẫn tâm ném con từ tầng ba xuống đất hay một đôi nam nữ yêu nhau khi có thai đã vào nhà nghỉ sinh con hai kẻ được gọi là cha là mẹ đó đã làm một việc kinh khủng lấy đũa đâm chết đứa con của mình. Không thể tưởng tưởng nổi nỗi đau xé ruột khi một người mẹ chân chính mất đi nỗi đau của mình, có câu: “hổ dữ cũng không ăn thịt con” vậy mà có những kẻ chẳng bằng loài cầm thú, những kẻ được gọi là người sẵn sàng bỏ rơi con, ép con làm điều phạm pháp. Những kẻ đó không thể là con người chúng có linh hồn quỷ dữ đã làm vấy bẩn tình mẫu tử thiêng liêng ngàn đời ca ngợi. Biết bao người phụ nữ mong ước được làm mẹ, được có những đứa con của riêng mình vậy mà có những kẻ được ban cho những thiên thần đáng yêu lại sẵn sàng vứt bỏ tước đi sinh mạng của những sinh linh bé bỏng ấy. Trước những thực tại đau đớn tình mẫu tử đã vô tình bị hoen ố vậy nên mỗi chúng ta ai đã là mẹ hãy yêu thương đứa con của mình, luôn là chốn yên bình để những đứa con trở về. Còn những người con cũng luôn yêu thương và kính trọng mẹ hãy chân trọng từng giây từng phút được ở bên mẹ, luôn mở lòng mình để nói những lời yêu thương quan tâm đến mẹ bởi thời gian trôi nhanh lắm sẽ có một ngày mẹ sẽ ra đi mãi mãi.
|
Bài làm
Có những vần thơ sao đong đầy cảm xúc:
Tình mẹ lớn như trời biển rộng
Ban cho con sự sống hình hài
Cho con nhìn ánh nắng mai
Dắt dìu đưa lối tương lai diệu kì
Một hạt giống có thể nảy mầm. đâm chồi nảy lộc thành cây lớn xanh tốt thì phải có đất mẹ ủ ấp nuôi dưỡng. Cá muốn vùng vẫy bơi lội sao có thể thiếu dòng nước mát lành và mỗi chúng ta có mặt trong cuộc đời chính là nhờ công cha nghĩa mẹ. Tình mẫu tử chính là tình cảm thiêng liêng cao quý nhất trên đời. Tình mẹ ấm áp bao dung dành cho con hay tình cảm kính trọng yêu quý của những đứa con dành cho me mình đều thật tốt đẹp biết bao. Tình mẫu tử chẳng từ ngữ nào có thể diễn tả được như câu nói quả vô cùng chính xác: “Nơi rộng lớn nhất trên thế giới này chính là trái tim người mẹ”.
“Mẹ” thật thiêng liêng và cao đẹp biết bao, tiếng gọi “mẹ ơi!” mà bao đứa con đã cất lên từ thủa biết nói đến khi trưởng thành và cả khi tóc đã điểm bạc đây vẫn là tiếng gọi thân thương nhất. Mẹ chính là người yêu thương vô bờ bến và sẵn sàng hi sinh, luôn bao dung che trở cho con của mình. Tình mẫu tử là thứ tình cảm tự nhiên trong sáng và cao cả nhất. Từ ngày đầu tiên con đến thế giới này mẹ đã bảo vệ con bằng tất cả tình yêu và sức lực: “Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang” chín tháng mười ngày mẹ cho con hình hài, bao mệt mỏi vất vả khi thai nghén chỉ mong con lớn lên từng ngày. Rồi để chào đón con đến thế giới bên ngoài mẹ đã chịu những cơn đau cắt da cắt thịt nhưng khi nghe tiếng con khóc chào đời bao đau đớn tan biến chỉ có những giọt nước mắt hạnh phúc hòa vào nụ cười trên môi. Mẹ hạnh phúc vì con đã an bình đến bên mẹ mọi vất vả mệt nhọc trong chín tháng mười ngày đâu có là gì khi mẹ được ôm con vào lòng. Cứ như vậy con lớn lên từng ngày trong lời ru ngọt ngào của mẹ. Ngay từ những ngày đầu chặp chững mẹ luôn là người nâng đỡ trở che, bữa cơm con ăn, áo quần con mặc đều nhờ đôi bàn tay mẹ chăm sóc. Khi con bước vào những năm học mẹ luôn ở bên dạy dỗ, động viên đã bao lần con bị điểm kém, trách phạt vòng tay mẹ luôn vỗ về an ủi. Trên hành trình trưởng thành của con luôn có bóng dáng của mẹ:
“Con dẫu lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con”
Con dù lớn khôn nhưng mẹ vẫn luôn trở che lo lắng, mẹ vẫn sát cánh cùng con trên con đường đời đầy gian lao và thử thách. Mẹ dành cả cuộc đời lo lắng cho con mà không mong một sự đáp đền, bởi niềm hạnh phúc lớn nhất của mẹ là được nhìn thấy các con hạnh phúc trưởng thành. Ca dao có câu:
“Mẹ già một nắng hai sương
Trải thân làm bóng mát đường con đi.”
Mẹ đã hi sinh sức khỏe và cả tuổi thanh xuân để bao bọc dậy dỗ con mẹ là người thân, còn là người bạn để con chia sẻ vui buồn. Khi con vấp ngã thất bại mẹ chính là bến đỗ bình yên nhất để con trở về. Khi thấy con khóc nước mắt mẹ cũng rơi, mẹ sẵn sàng dùng cả mạng sống để bảo vệ những đứa con. Biết bao người mẹ sẵn sàng hiến một quả thận một phần gan để đổi lại sự sống cho con của mình. Thật cảm động biết bao khi một người mẹ trẻ bị ung thư đã từ chối chữa bệnh để dành sự sống cho đứa con chưa chào đời. Mẹ có thể chịu mọi cực nhọc, vất vả để con được ấm no, hình ảnh người mẹ vừa đánh giầy vừa cười hạnh phúc với đứa con non nớt, cuộc sống mưu sinh vất vả nhưng chỉ cần nhìn ánh mắt nụ cười của người mẹ nghèo đó dành cho đứa con ta thấy thật ấm lòng biết bao. Tình mẫu tử là thiêng liêng nhất, cao đẹp nhất, Tình mẫu tử là sức mạnh kì diệu giúp con người vượt lên những khó khăn trong cuộc sống. Bao vất vả khó nhọc trên đường đời mẹ sẽ vượt qua hết vì sau mẹ còn có những đứa con. Con hạnh phúc mẹ cũng hạnh phúc, Có mẹ cuộc đời thật ấm áp nếu một ngày không có mẹ ở bên lúc ấy thế giới này thật vô cùng lạnh lẽo:
“Thêm một người quả đất sẽ chật hơn
Nhưng thiếu mẹ thế giới đầy nước mắt”
Vậy nhưng thật đau buồn khi có những đứa con ích kỉ tệ bạc với cha mẹ. Tội bất hiếu là tội nặng nhất của con người nhưng biết bao đứa con đã lớn lên trong tình yêu của mẹ lại trở thành những kẻ ích kỉ bất hiếu. Bao người mẹ đã hi sinh cả cuộc đời cho con khi về già lại bị chính con cái đối xử tệ bạc, đánh đập mắng chửi. Thật bàng hoàng khi một người con đánh mắng bắt mẹ già ăn phân uống nước tiểu, hay con cái đùn đẩy trách nhiệm không ai muốn chăm sóc phụng dưỡng mẹ già, hình ảnh bà cụ đã hơn tám mươi nằm co ro nơi góc phố vì bị chính đứa con dứt ruột đẻ ra chiếm nhà khiến bao người phẫn nộ và xót thương cho người mẹ già khốn khổ. Những đứa con đa phần đều ích kỉ bạn đã từng quan tâm đến mẹ chưa hay ta chỉ muốn nhận nhiều hơn là cho đi. Mẹ có thể ngồi hàng giờ nghe ta tâm sự nhưng những đưa con đã biết suy nghĩ đến tâm tư cảm nhận của mẹ hay chưa. Vậy nên những người còn mẹ hãy biết trân trọng vì cuộc sống nếu không có mẹ sẽ trở nên khô cằn u tối không có mẹ là điều thiệt thòi nhất trên đời. Một cuộc sống hạnh phúc không hẳn phải là cuộc sống có đầy đủ tiền tài vật chất nhưng lạnh lẽo khô héo tình người mà chỉ cần là cuộc sống giản dị bình yên và có mẹ ở bên. Bạn có thể sẽ rất giầu có và thành đạt nhưng tin chắc bạn cũng có lúc cô đơn đau buồn nếu ta không còn mẹ. Niềm hạnh phúc lớn nhất của con người là có một tuổi thơ bên gia đình êm ấm trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Khi mẹ ra đi những kỉ niệm hạnh phúc sẽ ở lại để khi ta thất bại vấp ngã thì tình mẫu tử thiêng liêng mãi tồn tại như một dòng nước mát làm dịu êm xanh tốt tâm hồn ta.
Trong cuộc sống xô bồ hối hả hiện nay tình mẫu tử cũng đã bị những kẻ đã là mẹ coi rẻ chà đạp. Thật ghê sợ khi những kẻ vì vui thú dục vọng nhưng lại chối bỏ trách nhiệm khi đã tạo ra một sinh linh bé nhỏ sẵn sàng bóp nghẹt sự sống của những hạt mầm chưa được đâm chồi, nẩy lộc. Làm sao quên được khi một người mẹ sinh con ra nhưng nhẫn tâm ném con từ tầng ba xuống đất hay một đôi nam nữ yêu nhau khi có thai đã vào nhà nghỉ sinh con hai kẻ được gọi là cha là mẹ đó đã làm một việc kinh khủng lấy đũa đâm chết đứa con của mình. Không thể tưởng tưởng nổi nỗi đau xé ruột khi một người mẹ chân chính mất đi nỗi đau của mình, có câu: “hổ dữ cũng không ăn thịt con” vậy mà có những kẻ chẳng bằng loài cầm thú, những kẻ được gọi là người sẵn sàng bỏ rơi con, ép con làm điều phạm pháp. Những kẻ đó không thể là con người chúng có linh hồn quỷ dữ đã làm vấy bẩn tình mẫu tử thiêng liêng ngàn đời ca ngợi. Biết bao người phụ nữ mong ước được làm mẹ, được có những đứa con của riêng mình vậy mà có những kẻ được ban cho những thiên thần đáng yêu lại sẵn sàng vứt bỏ tước đi sinh mạng của những sinh linh bé bỏng ấy. Trước những thực tại đau đớn tình mẫu tử đã vô tình bị hoen ố vậy nên mỗi chúng ta ai đã là mẹ hãy yêu thương đứa con của mình, luôn là chốn yên bình để những đứa con trở về. Còn những người con cũng luôn yêu thương và kính trọng mẹ hãy chân trọng từng giây từng phút được ở bên mẹ, luôn mở lòng mình để nói những lời yêu thương quan tâm đến mẹ bởi thời gian trôi nhanh lắm sẽ có một ngày mẹ sẽ ra đi mãi mãi.
|
Bài làm
Hỡi ai đi ngược về xuôi
Nhớ hội Đa Hòa mồng mười tháng hai
Câu ca dao trên gắn với thiên tình sử lãng mạng của chàng trai nghèo Chử Đồng Tử và nàng công chúa Tiên Dung. Chuyên tình yêu giữa hai con người ở hai giai cấp đối lập nhưng đã vượt lên mọi lễ giáo phong kiến, sự phân chia giầu – nghèo để cập bến bờ hạnh phúc. Mối tình đẹp của Chử Đồng Tử – Tiên Dung cũng là hiện thân của khát vọng ước mơ về hôn nhân tự do đồng thời là bài ca đẹp về lòng hiếu thảo đạo làm người của nhân dân ta từ thủa xa xưa.
Mối tình đẹp của Tiên Dung và Chử Đồng Tử có thể nói là mối tình kỳ lạ và vô cùng táo bạo đồng thời gắn bó đầy yêu thương. Trong xã hội phong kiến sự phân chia giai cấp giầu nghèo vô cùng sâu sắc, đặc biệt trong tình yêu thì sự giầu nghèo là một rào cản lớn gần như chẳng thể vượt qua của bao đôi lứa yêu nhau:
Vắn tay với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng được em.
Nhưng tình yêu của Chử Đồng Tử và Tiên Dung đâu chỉ là sự phân biệt giầu – nghèo về tiền bạc mà nặng nề hơn đó là sự phân chia giai cấp vô cùng sâu sắc. Tiên Dung là công chúa con gái của vua Hùng. Nàng chính là “lá ngọc cành vàng” sống trong nhung lụa, cao quý ngược lại Chử Đồng Tử là một chàng trai nghèo tới nỗi hai cha con chỉ có một chiếc khố thay phiên nhau mặc. Có câu rằng: “Khố rách áo ôm” để chỉ những con người nghèo khổ, rách dưới nhưng Chử Đồng Tử nghèo đến nỗi không có nổi một mảnh vải che thân dù chàng rất chăm chỉ làm lụng. Qua đó nhân dân ta đã phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân lao động lúc bấy giờ, họ chăm chỉ làm ăn nhưng dưới chế độ phong kiến bất công số phận của con người bị vùi dập, chịu khổ đau nghèo đói. Nếu so về thân phận địa vị thì Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở hai phía đối ngược không bao giờ có thể hợp nhất nhưng hai con người ở hai tầng lớp khác nhau ấy đã gặp được nhau để xây đắp lên một thiên tình sử lãng mạng. Tiên Dung tuy là công chúa nhưng không ham vinh hoa phú quý. Nàng rất yêu thiên nhiên thường đi thuyên ngắm cảnh muôn nơi: “Mỗi năm vào độ mùa xuân Tiên Dung ngồi thuyền du ngoạn, có khi ra tận biển lắm lúc mê cảnh đẹp quên về”. Đặc biệt Tiên Dung không muốn lấy chồng, chắc hẳn nàng chán ghét những cuộc hôn nhân sắp đặt coi trọng lợi ích mà rẻ rúng hạnh phúc con người. Có thể thấy Tiên Dung là công chúa nhưng nàng không “liễu yếu đào tơ” mà rất tự chủ, yêu cuộc sống tự do. Chử Đồng Tử tuy nghèo nhưng qua hành động chàng không nghe lời cha, không nỡ để cha mình trần về nơi chín suối. Tuy trái lời dặn của cha nhưng khiến ai cũng phải cảm phục trước sự hiếu nghĩa của Chử Đồng Tử. Hai con người khác nhau về địa vị nhưng đều có tâm hồn cao đẹp tình yêu của họ đã lay động đến mọi người.
|
Assignment
O those who go back and forth
Remember the Da Hoa festival on the tenth day of the second month
The above folk song is associated with the romantic love story of the poor boy Chu Dong Tu and the princess Tien Dung. Specializing in love between two people of two opposing classes but overcoming all feudal rituals and the division between rich and poor to reach the shore of happiness. The beautiful love story of Chu Dong Tu - Tien Dung is also the embodiment of the desire and dream of free marriage and is also a beautiful song about the filial piety of our people since ancient times.
The beautiful love story between Tien Dung and Chu Dong Tu can be said to be a strange and extremely daring love affair while at the same time filled with love. In feudal society, the division between rich and poor classes is extremely profound, especially in love, wealth is a huge, almost insurmountable barrier for many couples in love:
Hand in hand but can't reach the bet
My poor parents couldn't marry you.
But the love of Chu Dong Tu and Tien Dung is not just a distinction between rich and poor in terms of money, but more serious is an extremely deep class division. Tien Dung is the daughter of King Hung. She is a "jade leaf with a golden branch" living in luxury and silk, whereas Chu Dong Tu is such a poor boy that father and son only have a loincloth that they take turns wearing. There is a saying: "Tattered clothes and loincloths" refers to poor and torn people, but Chu Dong Tu was so poor that he did not have a single piece of cloth to cover his body even though he worked very hard. Through that, our people reflected the miserable lives of working people at that time. They worked hard but under the unjust feudal regime, people's fate was crushed and suffered from poverty. If compared in terms of status and status, Chu Dong Tu and Tien Dung, on opposite sides, could never unite, but these two people from two different classes met each other to build a romantic love story. network. Although Tien Dung is a princess, she does not desire glory and wealth. She loves nature very much and often goes sightseeing everywhere: "Every year in spring, Tien Dung takes a boat trip, sometimes going all the way to the sea, sometimes she falls in love with the beautiful scenery and forgets to return home." In particular, Tien Dung does not want to get married. She must be disgusted with arranged marriages that value benefits but cheapen human happiness. It can be seen that Tien Dung is a princess, but she is not "weak and weak" but very independent and loves a free life. Although Chu Dong Tu was poor, through his actions he did not listen to his father's words and could not bear to let his father return to the land of nine streams. Although he went against his father's instructions, everyone was impressed by Chu Dong Tu's filial piety. Two people with different statuses but both with beautiful souls, their love touched everyone.
|
Bài làm
Nếu đại dương bao la có trăm nghìn loài cá, hoa thơm trên đời cũng trăm loại sắc hương hay một bản nhạc hay cũng có nốt trầm nốt bổng thì cuộc sống cũng có niềm vui và nỗi buồn luôn song hành. Những giọt nước mắt đâu chỉ là sự đau buồn có khi nó còn là niềm vui hạnh phúc có những tiếng cười vui vẻ thoải mái thì cũng có những tiếng cười hài hước chế giễu. Một câu chuyện tình huống đáng cười vừa giúp ta vui vẻ thoải mái mà còn cho ta bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Tôi cũng rút ra được những điều đáng suy ngẫm về tính khoe khoang từ một cậu bạn cấp 3 có tên Nam “Nổ”, đã nhiều lần bạn ấy làm cho lớp tôi có những trận cười vỡ bụng.
Nam thu hút sự chú ý của tôi và các bạn trong lớp không phải vì bạn ấy đẹp trai, học giỏi mà cậu ấy gây sự chú ý bằng tính khoe khoang. Nam khoe nhiều đến mức cường độ sự việc lên nên suốt ba năm cấp ba và những lần gặp mặt sau này lớp tôi đều gọi cậu ấy là Nam “nổ”. Nhà Nam cũng không quá khá giả nhưng cậu ấy là con út lại là con trai duy nhất nên được bố mẹ nuông chiều Nam muốn gì được đấy, cậu ta tự tin thái quá vào bản thân dù không có gì xuất sắc. Nếu chúng tôi còng lưng vã mồ hôi đạp xe đến trường thì Nam vi vu lướt trên chiếc xe tay ga đắt tiền. Hay các bạn trong lớp ai cũng áo trắng đồng phục giản dị thì Nam có phần kệch cỡm trong những chiếc áo phông kì dị và quần jean bạc rách te tua mà cậu ta luôn tự hào khoe rằng đó là những bộ đồ hàng hiệu có khi lên đến hàng triệu. Nam không nhận ra sự kì dị đó mà cậu ấy luôn vênh váo tự đắc vì đó là hàng hiệu nên giúp cậu ta nổi bật và sành điệu nhất. Nam rất ảo tưởng tự hào quá đáng về bản thân. Vì điều gì ư? Vì những tài sản mà bạn ấy được bố mẹ cung cấp cho và có bao lần Nam đã gặp rắc rối về tính khoe khoang của mình. Đỉnh điểm nhất là một lần khoe khoang của Nam khiến chúng tôi vừa cười hả hê vui vẻ nhưng cũng thương Nam. Trường tôi nghiêm cấm học sinh đi xe máy và mang điện thoại đến trường. Xe máy Nam luôn gửi ở ngoài nên không bị phát hiện, còn điện thoại Nam cứ nghiễm nhiên sử dụng khi không có thầy cô. Sáng hôm đó chúng tôi đang tự ôn bài để chuẩn bị cho kỳ thi cuối năm thì Nam ào vào lớp, vừa cười vừa nói rất sung sướng:
Này bọn mày hôm nay tao sẽ cho bọn mày mở mang tầm mắt.
Đó là câu nói cửa miệng khi Nam bắt đầu khoe khoang lớp tôi nghĩ rằng cậu ấy lại khoe quần áo hàng hiệu nên chẳng ai buồn quan tâm. Nam bèn lấy thước gõ mạnh vào mặt bàn và giơ một chiếc điện thoại mới coong lên và nói rằng:
Đây là chiếc I phone 7 đời mới nhất có giá hơn hai mươi triệu. Tớ phải đặt hàng xách tay đấy nhé!
Lớp tôi lúc này nhao nhao lên vì chiếc điện thoại quá đẹp và đắt tiền của Nam. Thấy mọi người thích thú khen điện thoại đẹp Nam đắc ý lắm mặt cậu ta cứ vênh lên sung sướng. Giờ ra chơi Nam giơ điện thoại chụp hình tự sướng trước bao con mắt thích thú. Bỗng Trà My cô bạn lớp bên thấy ồn ào nên cũng chạy ra xem. Phải nói luôn đây chính là cô bạn rất xinh mà Nam thầm thích. Nhân cơ hội này cậu ta càng khoe mẽ thể hiện bản thân trước My. Nam hào hứng rủ My,được chụp ảnh cùng “người trong mộng” xung quanh chúng tôi reo hò cổ vũ:
Đứng gần vào, khoác vai đi.
Không khí ồn ào náo nhiệt vang cả tầng hai. Nam cứ hăng hái mải mê chụp ảnh mà không để ý thấy không khí bỗng nhiên yên ắng. Thì ra là thầy tổng phụ trách thấy ồn ào quá nên lên xem thế nào. Nam đang say sưa chụp hình cùng My bỗng thầy cũng ghé đầu vào cười nói:
Chụp cho tôi nữa nhé.
Nam giật mình vì sự xuất hiện quá bất ngờ của thầy tổng phụ trách vốn được chúng tôi ám chỉ với nhau gọi là “ bóng ma học đường” vì thầy nghiêm khắc lắm. Giật mình sợ hãi chiếc I Phone 7 trên tay Nam rơi đánh cốp vào thành lan can rồi nằm gọn gàng thành ba mảnh dưới sân trường.
Ôi thôi! Cả lớp cùng kêu lên vậy là chiếc điện thoại hơn hai mươi triệu đã bị khai tử. Thầy tổng phụ trách mời Nam lên văn phòng nhìn mặt Nam tái mét chắc phần vì tiếc điện thoại phần sợ hãi vì lần này sẽ bị xử phạt nghiêm. Nhìn Nam cúi mặt đi theo thầy chúng tôi vừa buồn cười vừa thương Nam. Không biết lần này cậu ta có nhận ra lỗi mà sửa đổi không. Sau lần đó bị kỷ luật trước toàn trường vì vi phạm nội quy nhiều lần Nam cũng có phần bớt khoe khoang hơn, mỗi lần cậu ta định khoe hay khoác lác gì đó một số bạn lại diễn tả bộ dạng khi Nam làm rơi điện thoại cậu ta lại hậm hực khó chịu còn lớp tôi lại cười ồ lên. Lớp tôi không muốn đối xử với Nam như vậy nhưng làm vậy để Nam bớt đi cái tính khoe khoang thay vì khoe hàng hiệu, xe đẹp điện thoại đẹp Nam cần phải chú tâm học hành để có một tương lai tốt.
|
Assignment
If the vast ocean has hundreds of thousands of species of fish, the fragrant flowers in the world also have hundreds of colors and scents, or a good song also has high and low notes, then life also has joy and sadness that go hand in hand. Tears are not just sadness, sometimes they are also joy and happiness, there are happy and comfortable laughter, there are also humorous and mocking laughter. A funny situation story not only helps us feel comfortable but also gives us meaningful lessons in life. I also learned some things worth pondering about bragging from a high school friend named Nam "Explosion", many times he made my class burst into laughter.
Nam attracted the attention of me and my classmates not because he was handsome or good at studying, but because he attracted attention by showing off. Nam bragged so much that the intensity of the incident increased, so throughout the three years of high school and every time we met later, my class called him Nam "explosive". Nam's family isn't very well-off, but he's the youngest child and the only son, so his parents pamper him no matter what. Nam wants it, he's overly confident in himself even though he's not outstanding. If we were hunched over and sweating as we cycled to school, Nam would ride around on an expensive scooter. Or while everyone in the class wears simple white uniforms, Nam is a bit haughty in strange T-shirts and tattered silver jeans that he is always proud to show off as branded clothes. up to millions. Nam doesn't realize that's strange, but he's always arrogant and proud because it's a branded product, so it helps him stand out and be the most stylish. Nam is very delusional and excessively proud of himself. For what? Because of the assets he was provided by his parents and how many times Nam got into trouble for his boasting. The climax was Nam's boast that made us laugh happily but also feel sorry for Nam. My school strictly prohibits students from riding motorbikes and bringing phones to school. Nam's motorbike is always parked outside so it is not detected, and Nam's phone is naturally used when the teacher is not around. That morning we were reviewing our lessons to prepare for the year-end exam when Nam burst into the classroom, smiling and saying very happily:
Hey guys, today I'm going to open your eyes.
That was a catchphrase when Nam started showing off his class, I thought he was showing off his brand name clothes again so no one cared. Nam then took a ruler and tapped hard on the table, held up a brand new phone and said:
This is the newest I phone 7 priced at more than twenty million. I have to order it by hand!
My class is now excited because of Nam's beautiful and expensive phone. Seeing everyone excitedly praising Nam's beautiful phone, Nam was so pleased that his face swelled with joy. At recess, Nam held up his phone to take a selfie in front of many interested eyes. Suddenly, Tra My, a classmate next door, saw the noise so she ran out to see. I have to say that this is the very beautiful girl that Nam secretly likes. Taking this opportunity, he showed off himself even more in front of My. Nam excitedly invited My to take pictures with the "person of his dreams" around us and we cheered:
Stand close, put your arms around me.
The bustling atmosphere echoed throughout the second floor. Nam was so enthusiastically engrossed in taking photos that he didn't notice that the atmosphere suddenly became quiet. It turned out that the general in charge thought it was too noisy so he went up to see what was going on. Nam was passionately taking pictures with My when suddenly the teacher leaned in and smiled and said:
Take a photo for me too.
Nam was startled by the sudden appearance of the teacher in charge, who we all referred to as the "school ghost" because he was very strict. Startled and scared, the I Phone 7 in Nam's hand fell, hit the railing and lay neatly in three pieces in the school yard.
Oh come on! The whole class shouted together and the phone of more than twenty million was canceled. The general in charge invited Nam to his office and saw that Nam's face was pale, probably because he missed the phone call and partly because he was afraid because this time he would be severely punished. Looking at Nam bowing his head and following the teacher, we both laughed and felt sorry for him. I wonder if this time he will realize his mistake and correct it. After that time he was disciplined in front of the whole school for violating the rules many times, Nam also became less boastful. Every time he wanted to show off or brag about something, some of his friends would describe what he looked like when Nam dropped his phone. He was angry and annoyed while my class burst out laughing. My class doesn't want to treat Nam like that, but doing so will help Nam reduce his boasting personality instead of showing off branded goods, beautiful cars and beautiful phones. Nam needs to focus on studying to have a good future.
|
Bài làm
Tham nhũng thì đời nào cũng có. Nó là vấn đề chung nóng bỏng mà cả thế giới quan tâm. Có ý kiến cho rằng: “Tệ tham nhũng như căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS chưa có thuốc đặc trị”. Nếu căn bệnh kia chỉ tàn phá sức khỏe con người là chính thì tệ tham nhũng nguy hiểm hơn rất nhiều. Nó tàn phá mọi phương diện của xã hội trong đó nghiêm trọng nhất là làm suy đồi đạo đức. Từ xưa cha ông ta đã luôn phê phán tệ nạn này dưới nhiều hình thức tiêu biểu nhất có chuyện cười: “Nhưng nó phải bằng hai mày”.Truyện cười này không chỉ là tiếng cười hài hước mà còn là một đòn roi quất mạnh vào tệ tham nhũng của bọn quan lại trong xã hội phong kiến xưa đồng thời châm biếm thói hư tật xấu của con người đã góp phần không nhỏ cho tệ tham nhũng hoành hành.
Câu chuyện mở đầu với lời giới thiệu: “Làng kia có một tên lí trưởng nổi tiếng xử kiện giỏi”, ta nghĩ ngay ông lí này xử kiện giỏi chắc chắn là người liêm khiết, dân chúng trọng vọng, là một vị quan thanh liêm. Tiếp nối câu chuyện hai người nông dân Cải và Ngô đánh nhau rồi cùng nhau đi kiện. Cải sợ kém thế lót trước năm đồng cho thầy lí, Ngô cũng sợ bị phạt nặng nên lo lót cho thầy lí đến mười đồng. Cả hai cùng yên tâm chắc mẩm mình sẽ không bị phạt vì đã “hầu túi quan”. Khi xử kiện thầy lí đều xử nhẹ cho cả hai nhưng Cải bị phạt đánh mười roi nhiều hơn Ngô. Cải vội xòe năm ngón tay ngụ ý nhắc thầy lí số tiền đã lo lót. Đáp lại hành động của Cải thầy lí lấy năm ngón tay trái úp lên mặt bàn tay phải, ám hiệu số tiền Ngô đã lo lót gấp đôi Cải. Cao trào nhất, gây cười nhất và cũng châm biếm nhất là câu nói: “Tao biết mày phải nhưng nó lại phải bằng hai mày!”. Vậy đấy trong xã hội phong kiến xưa nạn tham nhũng nặng nề khiến chân lí bị bóp méo, đồng tiền chính là thước đo của công lí, ai nhiều kẻ đó phải. Nạn tham nhũng là sai trái nhưng nghiễm nhiên từ điều bất bình thường cần phải dấu giếm và loại trừ thì lại trở thành lẽ hiển nhiên trong xã hội phong kiến:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.
Bọn trộm cướp chúng phải lén lút khi ăn trộm ăn cắp và sẽ bị xử tội nếu bị bắt ngược lại quan lại được ví như cha mẹ của dân có thể “cướp” của người dân bất cứ lúc nào mà chẳng phải dè chừng. Đó là điều hết sức hiển nhiên được coi là bình thường trong xã hội xưa. Mọi việc khi đã động vào “cửa quan” thì cái đầu tiên phải là đồng tiền, nén bạc. Đồng tiền có sức mạnh ghê gớm. “Nén bạc đâm toạc tờ giấy” nó đổi trắng thay đen nó dồn những người dân thấp cổ bé họng vào con đường cùng. Như trong truyện Kiều của Nguyễn Du, Vương ông Vương Bà bị đổ tội oan nhưng muốn thoát tội thì phải: “Có ba trăm lượng việc này mới xong”. Bị oan nhưng không tiền thì đúng sẽ thành sai, trắng đổi ra đen. Đồng tiền tham ô quả có sức mạnh ghê gớm nó đã tàn phá nhân cách con người trở nên mục ruỗng, xã hội bất công thối nát. Đáng buồn thay tệ tham nhũng đâu chỉ có trong thời phong kiến xa xưa. Vậy theo bạn: Trong xã hội hiện đại dân chủ – văn minh ngày nay tệ tham nhũng có còn? Xin trả lời luôn nó vẫn luôn tồn tại nó như con vi rút vẫn gây bệnh len lỏi trong mọi ngóc ngách đời sống xã hội nhưng những kẻ tham ô, tham nhũng đã biết ẩn nấp, hành động tinh vi hơn rất nhiều. Chúng là những cái ung, cái nhọt hôi thối luôn đe dọa đến con người và xã hội.
Trong tử điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải thích như sau: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Lẽ ra những cán bộ, công chức những người được nhân dân tin tưởng giao cho trách nhiệm để lãnh đạo đất nước để giúp đời sống xã hội ổn định và phát triển thì không ít trong số đó có nhiều kẻ đã xa đọa, biến chất, trở thành sâu mọt đục khoét tài sản quốc gia, tiền bạc của dân. Chúng lợi dụng chức quyền gây ra bao phiền hà, tìm đủ mọi cách móc tiền của dân. Ngày càng nhiều những vụ tham nhũng với số tiền lớn khủng khiếp và gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đang ngày ngày diễn ra một số ít đã bị đưa ra ánh sáng. Như vụ PMU 18 gây thất thoát ngân sách nhà nước gần 40 tỉ đồng, nhưng đã thấm vào đâu so với con số 900 tỉ trong vụ tham nhũng của tập đoàn Vinashin hay gần đây nhất là vụ PVC – Trịnh Xuân Thanh gây hậu quả thua lỗ gần 3300 tỉ đồng đó chỉ là số ít trong biết bao vụ tham nhũng tham ô chưa được đưa ra ánh sáng và những kẻ vẫn còn là những con “chuột trù” bới móc vẫn đang ẩn nấp giống như loài đỉa hút máu người dân, mục ruỗng đất nước.
Nạn tham ô, tham nhũng phổ biến như vậy có phải chỉ do sự quản lý thiếu chặt chẽ trong bộ máy pháp lý? Xin trả lời luôn đó là một phần nguyên nhân nhưng chưa thể đủ vì chính những người dân thiếu hiểu biết vì lợi ích cá nhân cũng phải chịu một trách nhiệm không nhỏ gây ra tệ tham nhũng. Thật đáng buồn khi hiện nay những người như “Cải và Ngô” không hiếm. Hành động của Cải và Ngô chính là nguyên nhân dẫn đến thói tham ô của tên lí trưởng. Cải và Ngô đều muốn đổ tội cho nhau nên đều đến hối lộ thầy lí mong giảm tội cho mình và đổ tội cho người. Đó chính là “thời có đục khoét” cho nhiều kẻ tham ô như tên lí trưởng dẫn đến nạn tham nhũng ngày càng phổ biến. Trong xã hội ngày nay đồng tiền vẫn có sức mạnh khủng khiếp bao kẻ muốn dùng tiền để đổi trắng thay đen, vén lợi cho bản thân. Họ chính là dây dẫn nổ cho “quả bom tham nhũng” phát nổ phá hủy tất cả chân lí, công lí mà trong quá trình phát triển của nhân loại đã dầy công xây dựng.
Ngày nay, sẽ chẳng khó để bắt gặp một hành động tham ô, tham nhũng. Kể đâu xa ngay con phố nhỏ, góc chợ những người buôn bán muốn có chỗ ngồi đẹp sẽ phải lo lót chút ít cho ban quản lí chợ, vào bệnh viện muốn khám bệnh không mất công sức thời gian thì khéo léo đút phong bì vào túi bác sĩ. Lớn hơn chút nữa là chạy chọt xin việc, mua quan bán chức như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhận xét thật nhẹ nhàng mà sâu cay:
“Có tiền việc ấy mới xong nhỉ
Đời trước làm quan cũng thế a.”
Bao sinh viên tốt nghiệp ra trường muốn xin một chân làm việc trong cơ quan nhà nước phải bỏ số tiền vài trăm triệu để đổi lấy một công việc có mức lương vài ba triệu một tháng. Ví dụ như một giáo viên với mức lương tầm ba triệu một tháng trong khi tiền chạy việc ít nhất tầm ba trăm triệu sẽ phải làm việc không có thu nhập trong vòng khoảng gần mười năm, một thời gian thật là dài phải không? Đó là khi may mắn hối lộ mà được việc không bị phát hiện nếu không sẽ như Cải và Ngô tiền mất tật mang nhận lại sự chê cười nặng nề hơn nữa nếu bị truy tố trước pháp luật có khi phải đi tù, cánh cửa tương lai sẽ đóng lại vĩnh viễn.
|
Assignment
Corruption is always present. It is a hot public issue that the whole world is concerned about. There is an opinion that: "Corruption is like the disease of the century, HIV-AIDS, for which there is no specific cure." If that disease only destroys human health, then corruption is much more dangerous. It wreaks havoc on all aspects of society, the most serious of which is moral decline. Since ancient times, our ancestors have always criticized this evil in many forms, the most typical of which is the joke: "But it must be equal to both of you". This joke is not only a humorous laugh but also a strong whip. focuses on the corruption of mandarins in ancient feudal society and at the same time satirizes the bad habits of people that have contributed significantly to the rampant corruption.
The story opens with the introduction: "There is a village chief who is famous for being good at handling lawsuits." We immediately think that this manager who is good at handling lawsuits is definitely an honest person, respected by the people, and an honest mandarin. Integrity. Continuing the story of two farmers Cai and Ngo fighting and then going to sue together. Cai was afraid of being in a bad position and paid the teacher five dong in advance. Ngo was also afraid of being severely punished so he paid the teacher ten dong in advance. Both were assured that they would not be punished for "paying for money". When prosecuting the case, the warden punished both of them lightly, but Cai received ten more lashes than Ngo. Cai quickly spread five fingers to remind the teacher to take care of the money he had paid. Responding to Cai's actions, the teacher placed five fingers of his left hand on top of his right hand, signaling that the amount of money Ngo had paid was double Cai's. The most climax, the most amusing and also the most ironic is the saying: "I know you are right but it has to be equal to the two of you!". So in ancient feudal society, corruption was so heavy that the truth was distorted, money was the measure of justice, whoever had the most was right. Corruption is wrong, but naturally from being an abnormality that needs to be hidden and eliminated, it becomes obvious in feudal society:
My son remember this sentence
Robbers at night are robbers and robbers during the day are officials.
Thieves must be sneaky when stealing and will be punished if caught. Mandarins are like people's parents who can "rob" people at any time without having to be careful. It is very obvious that it was considered normal in ancient society. When everything touches the "gate", the first thing must be money or silver bars. Money has tremendous power. “A piece of silver punctures a piece of paper” it changes white to black, it forces the poor and powerless people into a dead end. As in the story Kieu by Nguyen Du, Mr. Vuong Ba is unjustly accused but if he wants to escape the crime, he must: "It takes three hundred taels to complete this matter." If you are wronged but don't have money, right will become wrong, white will become black. Embezzled money indeed has tremendous power, it has destroyed human personality, becoming corrupt, and society is unjust and rotten. Sadly, corruption does not only exist in ancient feudal times. So, in your opinion: Is corruption still present in today's modern, democratic and civilized society? Please answer: it still exists, it is like a virus that still causes disease in every corner of social life, but the embezzlers and corrupt people know how to hide and act much more sophisticatedly. They are stinky cancers and boils that always threaten people and society.
In the Vietnamese dictionary edited by Hoang Phe, it is explained as follows: "Corruption is taking advantage of power to harass people and take property." Perhaps the officials and civil servants who were entrusted by the people with the responsibility to lead the country to help social life stabilize and develop, many of them have become corrupt and degenerate. , becoming a worm that eats away at national assets and people's money. They take advantage of their positions and cause many troubles, finding all kinds of ways to extort money from the people. More and more corruption cases involving huge sums of money and causing serious damage are taking place every day, a few of which have been brought to light. For example, the PMU 18 case caused a loss to the state budget of nearly 40 billion VND, but it was nothing compared to the figure of 900 billion VND in the corruption case of Vinashin Group or most recently the PVC - Trinh Xuan Thanh case that caused losses. The loss of nearly 3,300 billion VND is just a few of the many corruption and embezzlement cases that have not been brought to light and those who are still scavenging "rats" are still lurking like leeches sucking the blood of the people. , rotting the country.
Is such widespread embezzlement and corruption just due to lack of strict management in the legal apparatus? Please answer that that is part of the reason but it is not enough because the ignorant people for personal gain also bear a large responsibility for causing corruption. It's sad that nowadays people like "Cau and Ngo" are not rare. The actions of Cai and Ngo were the cause of the chief's embezzlement. Cai and Ngo both wanted to blame each other, so they both bribed the teacher, hoping to reduce their guilt and blame others. That was the "time of corruption" for many embezzlers like the chief, leading to increasingly widespread corruption. In today's society, money still has terrible power, many people want to use money to change white for black, to gain benefits for themselves. They are the fuse for the "corruption bomb" to explode, destroying all the truth and justice that humanity has worked so hard to build during the development process.
Nowadays, it is not difficult to come across an act of embezzlement or corruption. No matter how far away it is on a small street or at a corner of the market, traders who want to have a nice seat will have to pay a little extra for the market management board. When going to the hospital, if they want to get a medical check-up without wasting time and effort, they can cleverly insert the envelope. doctor bag. A little older is trying to get a job, buy officials to sell positions, as Nguyen Binh Khiem commented gently but poignantly:
“If you have money, that will be done
It was the same when I was an official in my previous life."
Many graduates who want to apply for a job in a state agency have to spend several hundred million in exchange for a job with a salary of several million a month. For example, a teacher with a salary of about three million a month while working expenses are at least three hundred million will have to work without income for about ten years, a really long time, right? That's when you're lucky enough to bribe and get the job without being discovered. Otherwise, you'll be like Cai and Ngo. Tien will lose his disability and receive even more severe ridicule if he's prosecuted before the law, maybe even going to jail, the next door. will be closed permanently.
|
BÀI LÀM
Thu về, tiếng trống trường lại làm rộn rã lòng tôi. Vậy là đã xa rồi, xa bốn năm yêu dấu gắn bó với mái trường cơ sở ngay cạnh nhà để bước chân vào cánh cổng trường trung học phổ thông. Một dấu ấn lớn trong cuộc đời học sinh, làm sao tôi quên được những ngày đầu tiên bước chân vào cánh cổng này. Một cảm giác thật lạ lùng nhưng thú vị khiến tôi cứ bồi hồi xao xuyến mỗi khi nhớ về.
Hôm ấy, một buổi sáng mùa thu trời se se lạnh. Những chú chim thấp thoáng hót thưa hơn khi còn hè. Từng ánh nắng yếu ớt lan tỏa trên ngọn cau trước hiên nhà. Hình như có điều gì đó lạ lạ, một cảm giác lâng lâng chiếm trọn tâm trí tôi. Tôi mặc bộ quần đen áo trắng mà mẹ đã là phẳng phiu cẩn thận từ tối hôm trước. Ngoài ngõ, các bạn cũng đang í ới rủ nhau nghe mà vui tai quá. Tôi cũng chào mẹ rồi dắt chiếc xe đạp mới ra đi cùng các bạn.
Trường cách nhà hơn một kilomet nhưng sao hôm nay nó có nhiều sự đổi thay thế. Những giọt sương long lanh trên bãi cỏ lề đường ngày nào chẳng có, vậy mà giờ tôi mới để ý. Khung cảnh hôm nay đẹp hơn mọi ngày. Bạn nào bạn nấy cũng hồi hộp, tíu tít khoe nhau bộ quần áo mới, chiếc xe mới, những dự định mới khi bước vào cổng trường trung học phổ thông…
Tới nơi, một cảnh tượng náo nhiệt, hoành tráng khiến tôi vô cùng bất ngờ. Dù trước đó tôi đã được tới thăm trường đôi lần. Ngôi trường này to hơn hẳn, rộng hơn hẳn trường cấp hai của tôi. Mẹ bảo vì trường có nhiều lớp hơn, nhiều học sinh hơn từ các xã trong huyện nên phải xây rộng hơn, cao hơn. Ở đây còn có cả các phòng thí nghiệm riêng của từng môn vật lý, địa lý, tin học, hóa học… nữa. Tôi háo hức lắm. Tâm trí cứ nghĩ về những bài thí nghiệm đầy thú vị. Mà ngay cái quang cảnh trước mắt tôi cũng đã thấy ra đầy hấp dẫn rồi. Cánh cổng trường to, cao, ở trên treo một chiếc băng rôn lớn in đậm hàng chữ “nhiệt liệt chào mừng ngày khai giảng”. Tiến bước vào bên trong, ở chính giữa con đường đi đến khán đài mà lát nữa sẽ diễn ra buổi lễ tựu trường còn có hai hàng khẩu hiệu rất ngay ngắn, đẹp mắt: “Hoan nghênh chào đón các em học sinh lớp 10”. Mỗi lúc tôi càng háo hức. Nhưng bất giác lại có cảm giác hơi run run một chút. Tôi nhìn thấy những người thầy cô mà mình chưa gặp bao giờ, những bạn cũng chưa hề được làm quen. Rồi đây, tất cả sẽ cùng nhau trải qua những bài học lý thú, ý nghĩa. Khi đang mải mê nhìn cảnh vật xung quanh, chợt có một giọng nói ôn tồn vang lên ngay cạnh tôi “Cháu cho xe cất vào nhà xe ở phí đằng kia nhé”. Theo phản xạ tự nhiên, tôi nhìn theo hướng tay bác chỉ, chưa kịp nói lời cảm ơn, bác đã đi ra chỗ khác rồi. Có lẽ đó là bác bảo vệ hiền lành, tốt bụng mà các anh chị khóa trước vẫn thường hay kể với dáng người dong dỏng cao, nước da ngăm ngăm đen. Theo chỉ dẫn tôi cất xe rồi đi loanh quanh trong sân trường để khám phá những điều mới mẻ. Ở đây, cái gì cũng rộng và to hơn hẳn mái trường cấp hai nhỏ bé xinh xinh mà tôi từng học. Những cây to mọc thành vòng quanh sân trường, phải đến bốn, năm người như tôi dang tay ôm mới hết được một gốc cây. Có ba dãy nhà ba tầng khang trang sạch sẽ được thiết kế theo mô hình chữ U. Bên ngoài được sơn màu xanh nhạt nhìn rất đẹp mắt.
|
WORK
When autumn comes, the sound of school drums thrills my heart again. So it's been a long time, far away from the four beloved years spent at the elementary school right next to our house to enter the gate of high school. A big mark in a student's life, how can I forget the first days I stepped foot through this gate. It's a strange but interesting feeling that makes me flutter every time I remember it.
That day, it was a chilly autumn morning. The birds sing less frequently than in the summer. Weak sunlight spreads across the areca tree in front of the porch. There seemed to be something strange, a feeling of lightness taking over my mind. I wore the black pants and white shirt that my mother had carefully ironed the night before. Outside in the alley, friends were also whispering to each other and listening, it was so fun. I also greeted my mother and then took my new bicycle and left with my friends.
The school is more than a kilometer from home, but today it has many changes. The dew drops glittered on the grass on the sidewalk every day, but now I noticed it. The scenery today is more beautiful than ever. Everyone was nervous, excited to show each other their new clothes, new car, new plans as they entered high school...
When I arrived, a bustling and majestic scene surprised me. Although I had visited the school a couple of times before. This school is much bigger, much wider than my middle school. Mom said because the school has more classes and more students from communes in the district, it must be built wider and higher. There are also separate laboratories for each subject: physics, geography, information technology, chemistry... as well. I'm so excited. My mind kept thinking about interesting experiments. Even the scene before my eyes was already attractive. The school gate is big and tall, with a large banner above it with the words "warmly welcome the first day of school" boldly printed on it. Stepping inside, in the middle of the path leading to the stage where the back-to-school ceremony will take place soon, there are two very neat and beautiful lines of slogans: "Welcome 10th grade students." . Every time I get more and more excited. But suddenly I felt a little shaky. I saw teachers I had never met before, friends I had never met. Then, everyone will experience interesting and meaningful lessons together. While I was engrossed in looking at the surrounding scenery, suddenly a gentle voice rang out next to me, "Please put the car in the garage over there." Following my natural reflex, I looked in the direction he was pointing. Before I could say thank you, he walked away. Perhaps he was the gentle, kind security guard that previous classmates often talked about with his tall, slender figure and dark skin. Following instructions, I parked the car and walked around the schoolyard to discover new things. Here, everything is wider and bigger than the small, pretty middle school I once studied at. Big trees grow in circles around the schoolyard, it takes four or five people like me to stretch our arms and hug each tree. There are three rows of spacious, clean three-storey houses designed in a U-shaped model. The exterior is painted light blue and looks very beautiful.
|
Bài làm
Nằm gọn trong lòng mẹ, tôi vẫn còn chưa dám ngỡ đây là sự thật. Một sự thật mà tôi hằng ước ao, hằng khát khao biết bao nhiều tháng ngày qua.
Mẹ. Lòng mẹ ấm áp quá. Đúng là khi đánh mất thứ gì người ta mới cảm thấy thứ đó quan trọng biết nhường nào. Hơn nữa, đây lại là mẹ. Là vòng tay ấm áp thiêng liêng của mẹ. Là những nụ cười, những ánh mắt yêu dấu hiền từ của mẹ. Mẹ đã trở về thực sự rồi đấy ư? Đã qua hai ngày được ở bên mẹ mà thỉnh thoảng tôi vẫn còn tự hỏi mình câu hỏi ngớ ngẩn này.
Gia đình tôi bị mất mẹ trong một trận bão lụt cách đây hơn mười năm. Khi ấy tôi còn là một đứa trẻ suốt ngày lẵng nhẵng bám theo chân mẹ. Trận bão đến bất ngờ, cuốn trôi hết mọi thứ trong nhà, trong thôn xóm, cuốn theo cả người mẹ yêu dấu của tôi. Những tưởng mẹ đã ra đi mãi mãi giống như những người khác sấu xố trong làng. Cả gia đình tôi đau xót tìm mẹ bao lâu mà không thấy tung tích, cũng chẳng thấy xác. Tôi nhớ hình ảnh đớn đau, vật vã của bà ngoại cứ khóc ròng rã ngất lên ngất xuống bao ngày vì thương nhớ con không biết còn sống hay đã chết. Lúc ấy, tôi còn quá bé để hiểu về cái chết, chỉ thấy mỗi ngày không có mẹ, tôi đều khóc với bố đòi mẹ. Bố cũng chỉ biết ôm tôi vào lòng vỗ về nín đi con. Hình như có giọt nước mắt của bố giỏ xuống trên vai tôi. Rồi ngày qua ngày, mọi người trong dân làng ai còn sống đều đã trở về, những ai đã ra đi mãi mãi cũng được tìm thấy xác. Chỉ còn lại mẹ tôi không biết sống chết ra sao. Bố thuê người tìm khắp nơi cũng chẳng thấy tung tích gì. Cả nhà đều tuyệt vọng và nghĩ rằng mẹ đã không còn nữa.
Thế rồi, ai cũng phải chấp nhận điều đau thương ấy. Suốt hơn mười năm qua đi, nỗi đau cũng nguôi ngoài dần. Dù nhiều khi tôi vẫn nhìn vào bức hình của mẹ. Thầm ước có một phép màu xảy ra. Mẹ sẽ đến bên tôi, ôm tôi vào lòng bàn đôi bàn tay gầy nhưng ấm áp vô cùng của mẹ… Tôi khóc vì thèm có hơi mẹ. Bố cũng vẫn luôn nhớ thương về mẹ. Có một vài lần bà con trong xóm giới thiệu cho bố đi bước nữa, nhưng bố không nghe. Bố bảo chưa quên được mẹ mà lấy người khác thì chỉ làm khổ người ta. Tôi cũng không hiểu nhiều lắm về chuyện này. Chỉ thấy rằng bố luôn tận tụy hi sinh vì con cái. Và hẳn là bố cũng đang nhớ mẹ nhiều lắm.
Nỗi đau và tuyệt vọng những tưởng không còn chút ánh sáng hi vọng nào thì bất chợt mẹ lại quay trở về. Câu chuyện dài thật dài. Mẹ nói trong trận bão ấy, mẹ bị nước lũ cuốn trôi. May mắn dạt vào được cành cây, mẹ bấu víu cố trụ suốt ba ngày ba đêm. Cho tới khi nước lũ rút thì mẹ cũng kiệt sức vì đói, vì rét và cũng vì biết bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang trong đầu về gia đình mình. Mẹ ngã xuống. Khi tỉnh lại đã thấy mình trong bệnh viện. Mẹ không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Mẹ không nhớ lại được gì hết. Vậy là mẹ đã bị mất trí nhớ. Sau khi sức khỏe phục hồi, người ta thấy mẹ không có nơi nương tựa, cũng chẳng quen biết ai, và cũng không có cách nào để liên hệ về nhà được vì trên người mẹ không có giấy tờ tùy thân. Họ đành giữ mẹ lại và cho mẹ được làm bảo mẫu trong một trại trẻ mồ côi. Tại đây, mẹ sống ngày qua ngày với một cuộc sống mới. Thỉnh thoảng trong đầu thấp thoáng về những hình ảnh của gia đình. Và rồi, một ngày, mẹ lên cơn đau đầu nặng, mọi người trong trại đưa mẹ đi bệnh viện. Bác sĩ nói chứng mất trí nhớ của mẹ có dấu hiệu được phục hồi. Bằng lương tâm và y đức, mọi người trong ca phẫu thuật đã cố gắng hết sức mình để cứu lại trí nhớ cho mẹ. Kinh phí được các hội từ thiện hỗ trợ hoàn toàn. Mẹ may mắn lấy lại được ký ức của mình. Sau khi được xuất viện, mẹ vội vã tìm cách trở về nhà ngay lập tức.
|
Assignment
Lying in my mother's arms, I still did not dare to believe that this was true. A truth that I have longed for and longed for for many months.
Mom. Mom's heart is so warm. It's true that when people lose something, they feel how important that thing is. Furthermore, this is my mother. It's a mother's warm, sacred embrace. It's the smiles and gentle eyes of a mother. Mom has really returned? It's been two days of being with my mother and sometimes I still ask myself this stupid question.
My family lost their mother in a flood more than ten years ago. At that time, I was still a child, always following my mother's footsteps. The storm came suddenly, swept away everything in the house, in the village, and took my beloved mother with it. I thought my mother had passed away forever like everyone else in the village. My whole family sadly searched for my mother for a long time but could not find her whereabouts or find her body. I remember the pain and struggle of my grandmother crying endlessly and fainting for days because she missed her child and didn't know if he was alive or dead. At that time, I was too young to understand death. Every day without my mother, I cried to my father and asked for her. Dad could only hold me in his arms and comfort me. It seemed like my father's tears were falling on my shoulder. Then day after day, everyone in the village who was still alive returned, and those who had left forever were also found dead. Only my mother remained, not knowing whether to live or die. Dad hired someone to search everywhere but couldn't find anything. The whole family was in despair and thought that their mother was no more.
Then, everyone has to accept that pain. Over the past ten years, the pain has gradually subsided. Although many times I still look at my mother's picture. Secretly wishing for a miracle to happen. Mom will come to me, hug me in the palm of her thin but extremely warm hands... I cry because I crave her breath. Dad also always misses his mother. There were a few times when people in the neighborhood recommended that Dad move on, but Dad didn't listen. Dad said that if you haven't forgotten your mother, marrying someone else will only make them miserable. I don't understand much about this either. I just see that dad is always dedicated and sacrifices for his children. And dad must be missing mom a lot too.
The pain and despair seemed like there was no hope left, but suddenly my mother returned. The story is really long. Mom said during that storm, she was swept away by floodwaters. Luckily, she drifted onto a tree branch, and her mother clung to it for three days and three nights. By the time the flood waters receded, my mother was exhausted from hunger, cold, and so many thoughts about her family. Mom fell down. When I woke up, I found myself in the hospital. Mom didn't understand what happened. Mom can't remember anything. So my mother lost her memory. After her health recovered, it was found that her mother had no place to rely on, did not know anyone, and had no way to contact her home because she had no identification papers on her. They had to keep their mother and let her work as a nanny in an orphanage. Here, mother lives day by day with a new life. Occasionally images of family flash in my mind. And then, one day, Mom had a severe headache, everyone in the camp took her to the hospital. The doctor said the mother's dementia showed signs of recovery. With conscience and medical ethics, everyone in the surgery tried their best to save mother's memory. Funding is fully supported by charitable associations. Mom luckily regained her memory. After being discharged from the hospital, my mother rushed to find a way to return home immediately.
|
Bài làm
Truyện cười dân gian từ xưa đến nay vẫn là những câu chuyện hóm hỉnh, hài hước. Song lại chứa đựng những bài học vô cùng sâu sắc về lẽ sống đời thường. Trong đó, truyện Tam đại con gà là một trong những bài học rất thấm thía cho những kẻ vừa giấu dốt lại vừa tự phụ khoe khoang, gây nên những tình huống dở khóc dở cười trong thiên hạ.
Truyện kể về một anh học trò vốn học dốt nhưng đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt. Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ. Ngay bài học đầu tiên đã dạy cho trò chữ “kê” thành “dủ dì là con dù gì”. Khi nhà chủ phát hiện, anh ta còn nhanh nhảu bào chữa “Tôi vẫn biết ấy là chữ kê nghĩa là gà nhưng tôi dạy thế là dạy các cháu biết đến tận tam đại con gà kia”. Hắn cũng không quên giải thích rất tường tận, cặn kẽ: “Dủ dỉ là con dù gì, dù dì là chị con công, công công là ông con gà”.
Anh học trò trong câu chuyện trên không những không hiểu rõ về chữ nghĩa, còn tự cho mình có tài, có chữ. Đến cuối câu truyện hắn vẫn tỏ vẻ mình giỏi, nhất quyết không chịu nhìn nhận lại bản thân mình. Câu chuyện khép lại với tiếng cười nhạo báng nhưng bài học để lại cho đến tận thế hệ sau vẫn còn nguyên giá trị.
Trong xã hội hiện nay, có không ít những người đang ngồi ở vị trí của anh học trò trong câu chuyện kia. Bản thân không nắm chắc kiến thức ngày ngày lại quản lý biết bao nhiêu người cấp dưới, gây nên không ít những sai phạm lớn trong rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực.
Nói về lĩnh vực y học, bên cạnh những vị bác sĩ thực sự có tài, có tâm vẫn tồn tại những kẻ do được “đút lót” mà vào “đeo mác” ngành y. Cụ thể, trong thời gian gần đây, nếu ai theo dõi báo chí nhiều sẽ bắt gặp những câu chuyện oái oăm dở khóc dở cười về một ca mổ nhầm chân cho bệnh nhân, hoặc bỏ sót dụng cụ mổ bên trong nội tạng… Những sự việc hi hữu như vậy đã xảy ra, báo động cho một nền y học vẫn còn tồn tại quá nhiều tiêu cực. Trong khi gia đình người bệnh sẵn sàng hi sinh hết tất cả tiền của của mình để mong cứu lấy người thân, thì đâu đó lại có những người dùng đồng tiền của mình để mua lấy chức vụ y, bác sĩ… Để rồi làm lỡ dở cả cuộc đời của những người bệnh nhân xấu số. Tiền mất, tật mang, gia đình họ sẽ đi về đâu khi bệnh không khỏi mà tiền đã hết? Trong trường hợp này, tiếng cười đã trở thành tiếng khóc than ai oán đầy thù hận.
Về lĩnh vực giáo dục. Cũng tương tự như trong câu truyện cười trên, một số thầy cô đã dùng tiền mua lấy vị trí của mình. Dẫn đến hậu quả không kèm cặp, dạy dỗ được học sinh đến nơi đến chốn. Kiến thức bị hổng, quá trình dạy thiếu kinh nghiệm, khiến học sinh không tự bồi bổ được kiến thức cho mình để bước vào những kỳ thi trong quá trình học tập. Đặc biệt, tiếng tăm của những thầy cô tâm huyết trong nghề cũng từ đó mà bị ảnh hưởng chung.
Giáo dục hay y học đều là những công việc rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của mỗi người. Vì vậy, đừng vì lòng tham, hay vì mưu cầu danh vọng mà làm hỏng cả một đời người.
Đây chỉ là hai trong số nhiều lĩnh vực xảy ra trường hợp người ngồi ghế trên nhưng kiến thức không thông dẫn đến những hậu quả khó lường. Còn rất nhiều trường hợp khác cũng đang trong tình trạng tương tự. Nhất là khi cơ chế tuyển dụng công chức Nhà nước diễn ra ngày càng nhiều, thì việc dùng tiền để mua việc cũng đồng thời đang dấy lên một làn sóng mạnh đáng quan tâm trong xã hội. Tại sao lại phải mua việc? Có muôn vàn lý do để giải thích điều này. Tuy nhiên, có một thực trạng mà ai cũng có thể hiểu rõ được rằng: Khi trở thành nhân viên chính thức của chế độ công chức nhà nước, việc thể hiện năng lực sẽ không bị kiểm soát khắt khe như đối với các doanh nghiệp tư nhân. Bởi họ sẽ đào thải nhân viên liên tục nếu không đáp ứng được nhu cầu công việc. Còn đối với công chức nhà nước, việc đó có phần giảm nhẹ hơn, dẫn đến tình trạng nhiều người chưa đủ khả năng làm việc nhưng có nhiều tiền nên vẫn thắng.
|
Assignment
Folk jokes from ancient times until now are still witty and humorous stories. But it contains extremely profound lessons about everyday life. In particular, the story of the Three Great Chickens is one of the very profound lessons for those who both hide their ignorance and arrogantly brag, causing half-laughing and crying situations in the world.
The story is about a student who was poor at studying but was always good at writing and writing everywhere he went. Some people thought he was really good at writing, so they picked him up to teach children. The very first lesson taught the students that the word "ke" becomes "no matter what, auntie is a child". When the owner found out, he quickly defended, "I always knew it was the word millet, meaning chicken, but the way I taught it was to teach the children to know the three great chickens." He also did not forget to explain very clearly and thoroughly: "No matter how stubborn you are, even if you are the peacock's sister, the peacock is the chicken's grandfather."
The student in the above story not only did not understand words clearly, but also considered himself talented and literate. At the end of the story, he still pretends to be good and refuses to look back at himself. The story ends with mocking laughter, but the lesson left behind remains valid for future generations.
In today's society, there are many people sitting in the position of the student in that story. I don't have a solid grasp of the knowledge and manage so many subordinates every day, causing many big mistakes in many professions and fields.
Talking about the field of medicine, besides the truly talented and caring doctors, there are still those who are "bribed" and enter the "label" of medicine. Specifically, in recent times, if anyone follows the press a lot, they will come across funny stories about an operation on the wrong leg for a patient, or a surgical instrument left inside the internal organs... These Such a rare incident happened, alarming a medical system that still has too many negatives. While the patient's family is willing to sacrifice all their money to save their loved one, somewhere there are people who use their money to buy the position of doctor or nurse... Then they end up making a mistake. ruining the lives of ill-fated patients. Lost money, disability, where will their family go when the illness cannot be cured and the money is gone? In this case, laughter turned into plaintive and hateful wailing.
About the field of education. Similar to the joke above, some teachers used money to buy their positions. Leading to the consequence of not being able to properly tutor and educate students. There are gaps in knowledge and lack of experience in the teaching process, causing students to not be able to improve their own knowledge to take exams during the learning process. In particular, the reputation of dedicated teachers in the profession has also been affected.
Education or medicine are both very important jobs that directly affect each person's life. Therefore, do not ruin your whole life because of greed or the pursuit of fame.
These are just two of many areas where the person sitting in the upper seat has poor knowledge, leading to unpredictable consequences. There are many other cases in the same situation. Especially when the recruitment mechanism for State civil servants is taking place more and more, the use of money to buy jobs is also raising a strong wave of concern in society. Why buy a job? There are countless reasons to explain this. However, there is a reality that everyone can clearly understand: When becoming an official employee of the state civil service regime, the demonstration of capacity will not be strictly controlled like in businesses. private. Because they will continuously fire employees if they cannot meet job needs. As for state employees, it is somewhat less severe, leading to a situation where many people are not able to work but have a lot of money so they still win.
|
Bài làm
Đông đến, lại là lúc tôi mang chiếc khăn quàng cổ quý giá của mình ra ngắm nghía, nâng niu. Nó không có giá trị về tiền bạc nhưng đối với tôi lại là một vật báu vô giá mà có bao nhiêu tiền cũng chẳng thể nào mua được. Bởi trên đó, từng sợi len, từng mắt đan đều thấm đượm máu và nước mắt của bố tôi – một người bố vĩ đại đã gieo thân mình trên chiến trường bom đạn vì đất nước tươi đẹp ngày hôm nay.
Khi bố gia nhập vào quân ngũ, tôi mới chỉ là một cái thai bé bỏng còn đang nằm trong bụng mẹ. Ngày mẹ sinh bố không có ở nhà. Mình mẹ xoay sở nuôi nấng tôi qua ngày. Lớn dần lên, tôi nghe mẹ kể nhiều về bố, về một người lính đang cầm súng chiến đấu đánh lại kẻ thù. Tôi thấy thích thú nhiều hơn là nghĩ về một người bố đang phải trải qua biết bao nhiêu gian lao vất vả với nỗi nhớ nhà, nhớ người thân đang cồn cào trong tim. Tuổi thơ tôi cứ thế trôi đi qua lời kể của mẹ về bố. Đi học, thấy một số bạn được bố đón đưa, nhiều lần tôi cũng thắc mắc, nhưng mẹ lại giải thích bố con còn đang đánh giặc ngoài chiến trường, bố cầm súng và anh dũng bắn lại kẻ địch như thế này này.
Mẹ cầm chiếc đũa nghiêng người tả lại tư thế của bố. Rồi mẹ lại ôm tôi vỗ về, thủ thỉ “bố sẽ về đưa con đi học, đưa mẹ con mình đi ăn một bữa nhà hàng thật ngon. Nhưng con phải chăm chỉ học hành, phải nghe lời mẹ. Bố đã dặn mẹ bảo con như thế”. Tôi lại ngoan ngoãn nằm im trong lòng mẹ. Ngày qua ngày, tôi cố gắng học, nghe lời mẹ phần vì mong được gặp bố, phần vì tôi cũng hiểu mẹ đã quá vất vả khi phải một mình nuôi tôi suốt từ khi còn bé lọt lòng.
Cả tuổi thanh xuân mẹ dành hết cho tôi. Lẽ ra, mẹ đã có bố ở bên cạnh, cùng đỡ đần cuốc những luống đất trồng rau, tưới nước, gánh gồng… Nhưng một mình mẹ đã lặng lẽ làm tất cả. Và tôi vẫn thấy trong đôi mắt mẹ luôn ánh lên niềm tin yêu, niềm hạnh phúc và có cả sự hãnh diện mỗi khi nhận được thư của bố gửi về. Có những lúc, tôi thấy mẹ ngoảnh mặt đi lấy vạt áo lau vội dòng nước mắt. Lúc ấy tôi chưa đủ khôn lớn để hiểu rằng tâm tư và sự tủi thân của một người thiếu phụ trẻ khi phải sống xa chồng đằng đẵng bao nhiêu năm. Cho đến tận bây giờ, tôi mới dần thấm thía thì khuôn mặt mẹ đã điểm vài nếp nhăn.
Rồi một ngày kia, tiếng gọi quen thuộc của bác đưa thư lại một lần nữa làm tim mẹ rung lên. Thư bố về. Nhưng than ôi! Lần này không phải là những dòng động viên như những bức thư trước nữa. Mà là tờ giấy báo tử! Trời đất như quay cuồng, mọi thứ dường như sụp đổ. Mẹ cầm tờ giấy trên tay, chẳng kịp nói lời gì đã ngã xuống. Tôi chạy vội lại đỡ mẹ rồi kêu mọi người đến cứu giúp. Bố tôi đã ra đi mãi mãi, đã bỏ lại cả thân xác và máu mình trên chiến trường xa xôi. Bao nhiêu ngày tháng chờ đợi, chờ một người chồng về đoàn tụ, chờ một người cha về chăm nuôi bù đắp cho con, chờ những tháng ngày hòa bình lập lại…
Giờ đây tất cả đã chấm dứt. Tôi không thể nào thấu được nỗi đau mà mẹ đang gánh chịu. Chỉ thấy đêm nào mẹ cũng khóc. Mẹ gầy đi trông thấy. Mãi sau này, khi bình tâm lại được rồi, mẹ mới bỏ một chiếc hộp gỗ cũ kỹ ra đưa cho tôi và nói “Quà của bố gửi con, con mở ra đi”. Tôi ngập ngừng “Nhưng bố đã…”. Chưa để tôi nói dứt lời, mẹ đã vội vàng ôm chặt tôi vào lòng. Và hình như nước mắt mẹ lại rơi, nhỏ xuống ướt vai tôi. Tôi ước gì mình lớn thêm chút nữa, để bờ vai vững chắc hơn chút nữa, để gánh lấy cho mẹ bớt những nhọc nhằn, những đau thương.
|
Assignment
Winter comes, and it's time for me to bring out my precious scarf to admire and cherish. It has no monetary value, but to me it is a priceless treasure that no amount of money can buy. Because on it, every strand of wool, every knitting needle is soaked in the blood and tears of my father - a great father who threw himself on the battlefield of bombs and bullets for the beautiful country today.
When my father joined the army, I was just a baby still in my mother's womb. The day my mother gave birth, my father was not at home. My mother alone managed to raise me day by day. Growing up, I heard my mother talk a lot about my father, about a soldier holding a gun and fighting against the enemy. I feel more excited than thinking about a father who is having to go through so many hardships with the feeling of homesickness and missing loved ones raging in his heart. My childhood passed like that through my mother's stories about my father. Going to school, seeing some of my friends being picked up and dropped off by my father, I wondered many times, but my mother explained that my father was still fighting the enemy on the battlefield, he held a gun and heroically shot back at the enemy like this.
Mom held the chopsticks and leaned over to describe Dad's posture. Then my mother hugged me and comforted me, whispering, "Dad will come home to take you to school and take us to a delicious restaurant. But you have to study hard and listen to your mother. Dad told mom to tell you that." I obediently lay quietly in my mother's arms. Day after day, I tried to study and listen to my mother, partly because I wanted to meet my father, and partly because I also understood how hard it was for my mother to raise me alone since I was a baby.
My mother devoted her entire youth to me. Mom should have had her father by her side, helping her hoe the vegetable beds, watering, carrying the gongs... But she quietly did it all alone. And I still see in my mother's eyes the light of love, happiness, and pride every time she receives a letter from my father. There were times when I saw my mother turn away and quickly wipe away her tears with the hem of her shirt. At that time, I was not old enough to understand the feelings and self-pity of a young woman having to live apart from her husband for so many years. Until now, I gradually realized that my mother's face had a few wrinkles.
Then one day, the familiar call of the postman once again made my mother's heart flutter. Dad's letter back. But alas! This time there are no lines of encouragement like the previous letters. It's a death notice! The world seemed to spin, everything seemed to collapse. Mom held the paper in her hand, but before she could say anything, she fell down. I quickly ran to help my mother and called everyone to help. My father passed away forever, leaving behind both his body and his blood on a distant battlefield. So many days and months of waiting, waiting for a husband to reunite, waiting for a father to take care of his children, waiting for peace to return...
Now it's all over. I cannot understand the pain my mother is suffering. I just see my mother crying every night. Mom has become noticeably thinner. Much later, when she calmed down, she took out an old wooden box and gave it to me and said, "Dad's gift to you, please open it." I hesitated, "But dad was...". Before I could finish speaking, my mother quickly hugged me tightly. And it seemed like my mother's tears were falling again, dripping down to wet my shoulders. I wish I was a little older, to have stronger shoulders, to take on my mother's hardships and pain less.
|
Bài làm
Trời lạnh quá. Tuyết phủ dày đặc khiến cái rét càng đậm hơn, mạnh hơn. Tôi nằm gọn trong chiếc vỏ bao diêm cùng với những que diêm khác. Dù được bao bọc kín mít nhưng vẫn còn lạnh thấu xương thấu thịt. Vậy mà cô chủ nhỏ của tôi lại ăn mặc phong phanh, chân trần tím bầm lại vì rét mướt. Cả ngày hôm nay cô chẳng bán được bao nào. Cũng chẳng có ai bố thí cho cô chút gì. Thương lắm, nhưng tôi chỉ là một que diêm nhỏ bé, làm sao có thể giúp gì được cho cô đây.
Nếu giờ quay về nhà, thế nào cha cô cũng mắng và đánh cho một trận. Trời rét căm căm thế này mà bị những chiếc roi vút vào thịt thì buốt lắm. Càng nghĩ tôi lại càng thương cô. Người qua đường ai cũng rảo chân đi cho thật nhanh để trở về nhà kẻo lạnh. Chỉ có một mình cô bé tội nghiệp cứ đứng đấy bên lề đường để mời chào khách nhưng chẳng ai để ý. Từng cơn gió lạnh lẽo lướt qua làm môi cô thâm lại, da thịt tái ngắt vì rét. Chiếc áo mỏng manh làm sao có thể che chắn được với cái thời tiết khắc nghiệt này. Người ta mặc áo ấm chùm kín người còn đang lạnh xuýt xoa huống chi cô bé yếu đuối chỉ có một manh áo rách không lành che thân. Tuyết rơi mỗi lúc một dày hơn. Từng đám tuyết cũng vô tình, lạnh lẽo đọng lại trên tóc, trên vai, trên lưng cô. Giá có ai đó đến cứu giúp rủ lòng thương xót cho cô một ân huệ dù là nhỏ bé thôi cũng được thì tốt biết bao. Nhưng đáp lại chỉ là sự thờ ơ, vô tình, lạnh ngắt như trời đêm giá rét vậy.
Cô chủ ơi, hãy mạnh dạn lên, hãy quẹt lấy một que diêm mà sưởi cho ấm. Tôi đây, hãy để tôi được bừng sáng, được xua đi cái lạnh giá đang bủa vây lấy thân thể gầy gò yếu ớt của cô. Hãy mạnh mẽ lên nào, cô chủ nhỏ của tôi. Và rồi, cô cũng ngồi thu chân mình lại trong một xó tối tăm. Cô mở một bao diêm, quẹt que đầu tiên. Ánh lửa bừng lên thật ấm áp và kì diệu làm sao. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biếc đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Tôi nhìn thấy niềm tin và ánh sáng rực rỡ trong đôi mắt cô bé. Cô đang tưởng tượng như mình đang được ngồi trước một chiếc lò sưởi bằng sắt thật lớn, ánh lửa bập bùng ấm áp làm sao. Ánh lửa xua tan mọi băng giá và rét buốt của mùa đông. Nhưng cô vừa duỗi chân ra định sưởi thì que diêm vụt tắt, chiếc lò với ánh lửa bập bùng cũng biến mất. Chỉ còn trơ lại que diêm với đầu than tàn trong đêm tối. Bóng đêm lại bao trùm lên cô. Tuyết vẫn rơi. Và đêm đông lại càng lạnh lẽo hơn. Tôi ước mình có thể là một que diêm thật to, to như ngọn đuốc để cháy thâu đêm cho cô bé sưởi.
Cô quẹt tiếp que thứ hai. Ánh lửa vừa bừng cháy thì một cảnh tượng huy hoàng hiện lên trước mắt cô. Một bàn ăn với các đĩa thức ăn đầy ắp, còn đang ngun ngút hơi nóng. Trông thật ngon và thích làm sao. Cạnh bàn có cây thông Noel rực rỡ đèn. Trước đây cô cũng từng có một ngôi nhà ấm cúng như thế, có một gia đình hạnh phúc và được đón những đêm giao thừa vui vẻ ở nhà. Nhưng tai họa ập đến, gia đình tan nát, người bà hiền hậu qua đời, cô bé phải đi bán diêm kiếm sống qua ngày. Lại thêm người cha tàn nhẫn, lười biếng bắt cô phải đi kiếm tiền mang về tiêu sài, nếu không kiếm được sẽ đánh đập chửi rủa cô bé thậm tệ. Cô vừa định với lấy chiếc dĩa để xẻ thịt ngỗng quay thì que diêm vụt tắt. Mọi thứ lại biến mất, chỉ còn trơ bức tường lạnh lẽo, vô tri vô giác trước mắt cô.
Người người vẫn qua lại bên đường, không ai để ý đến những gì đang diễn ra xung quanh cô bé. Cái rét mướt thúc giục cô quẹt tiếp que diêm thứ ba. Lần này, một cây thông lộng lẫy hiện ra. Có đèn nhấp nháy, có những món quà nhỏ nhắn xinh xinh treo quanh cây. Cô bé vội đứng dậy nhảy múa và hát vang bài Chúc mừng năm mới. Cô nhắm mắt lại và ước. Nhưng vừa mở mắt ra cây thông lại biến mất như bàn ăn thịnh soạn ban nãy. Cô ngồi thụp xuống thất vọng. Có lẽ cô chủ của tôi đang khóc thút thít. Thật khổ cho cô. Đêm tối, giá rét, một thân một mình không ai xót thương.
Cô với lấy bao diêm. Lần này cô quẹt thật mạnh mong ngọn lửa sáng lớn hơn, lâu hơn. Cô vội lau nước mắt khi hình ảnh người bà hiền hậu đang hiện ra trước mắt mình. Bà mỉm cười với ánh mắt rất hiền từ. Cô reo lên sung sướng. Cô quỳ xuống ôm lấy chân bà, van xin bà hãy cho cô được đi theo cùng. Nước mắt của tuổi thơ khiến người bà cũng khóc theo. Hai bà cháu ôm nhau khóc. Bà vỗ về cô bé. Cô ôm chặt lấy bà.
– Bà ơi, bà cho con theo với. Bà hãy cầu xin Thượng đế chí nhân cho con đi với. Con muốn được ở với bà như trước đây. Con xin bà.
Bà ôm cô bé vào lòng và thủ thỉ:
– Được rồi. Có bà ở đây rồi. Con nín đi. Đêm nay là đêm giao thừa. Bà về đây để đón giao thừa cùng với con.
– Rồi bà cho con đi cùng chứ – Cô bé reo lên.
– Ta không mang con theo được. Con còn nhỏ. Con còn cả tương lai ở phía trước. Nhưng ta sẽ cho con có một cuộc sống mới. Con có nhớ mẹ không?
Cô bé lau nước mắt, ngước lên nhìn bà với giọng nói đầy tò mò:
– Mẹ con có về cùng con không bà? Con nhớ mẹ lắm.
– Được rồi. Con ngoan. Mẹ con sẽ về với con mà.
Vừa dứt lời, mẹ cô bé cũng xuất hiện. Mẹ ôm cô vào lòng. Những dòng nước mắt tuôn rơi. Trong đêm tối, ba con người ôm chặt nhau khóc.
Que diêm bắt đầu cháy yếu dần, tôi vội vàng nhảy vào để tiếp lửa. Ngọn lửa lại tiếp tục bùng lên. Thật may vì diêm không bị tắt như những lần trước. Cô bé vội vàng dốc hết tất cả những bao diêm mình có ra. Cô xếp thành hình trái tim, từng que diêm nối đuôi nhau cháy sáng rực rỡ làm hồng cả một góc phố. Đồng hồ sắp điểm mười hai giờ. Giây phút giao thừa sắp đến. Bà nắm tay cô nói:
– Hãy ước đi con. Thượng đế đã cho con một điều ước. Vì con là một cô bé rất ngoan ngoãn.
Cô bé nắm chặt tay mẹ và bà. Cô nhắm mắt lại ước. Vừa ước xong, đúng lúc đồng hồ điểm mười hai giờ. Tiếng pháo hoa nổ tung làm rực rỡ cả bầu trời. Cô mở mắt ra và điều kỳ diệu đã đến. Đúng như lời ước. Cô bé đang ngồi trước bàn ăn thịnh soạn với bà và mẹ, bên cạnh là cây thông Noel đang nhấp nháy sáng. Ngoài cửa sổ, pháo hoa đang bắn lên trên bầu trời. Cô kéo tay mẹ và bà chạy ra xem.
|
Assignment
It's so cold. The dense snow cover makes the cold even deeper and stronger. I fit in a matchbox with other matches. Even though it was tightly wrapped, it was still cold to the bone. Yet my little mistress was dressed loosely, her bare feet were bruised from the cold. She didn't sell anything all day. No one gave her any alms either. I'm sorry, but I'm just a small matchstick, how can I help you?
If she returned home now, her father would scold her and beat her. It's so cold and it's so painful to have whips hit your flesh. The more I think about it, the more I love her. Everyone passing by walked as quickly as possible to return home to avoid the cold. There was only one poor girl standing there on the side of the road to greet customers but no one noticed. The cold wind passing by made her lips darken and her skin pale from the cold. How can a thin shirt protect against this harsh weather? People were wearing warm clothes to cover their bodies, but they were still cold, let alone the weak little girl who only had a tattered, unhealthy piece of clothing to cover her body. The snow falls more and more thickly. Clouds of snow also unintentionally and coldly settled on her hair, on her shoulders, on her back. If only someone would come to her rescue and have mercy on her, even if it was a small favor, it would be great. But the response was only indifference, indifference, as cold as the cold night sky.
Mistress, be brave, light a match and warm yourself up. Here I am, let me be bright, let me dispel the coldness that surrounds her skinny and weak body. Be strong, my little mistress. And then, she also sat down with her legs together in a dark corner. She opened a box of matches and struck the first match. The light from the fire was so warm and magical. Matches are very sensitive to fire. The flame was blue at first, but gradually turned blue, white, and glowed pink around the wooden stick, bright and cheerful. I saw the faith and bright light in her eyes. She was imagining that she was sitting in front of a huge iron fireplace, the flickering fire was so warm. The fire dispels all the ice and cold of winter. But as soon as she stretched out her legs to warm herself, the match went out and the stove with its flickering fire also disappeared. Only the matchstick with its burnt coal tip remained in the dark night. Darkness enveloped her again. Snow is still falling. And the winter nights are even colder. I wish I could be a big match, as big as a torch, to burn all night long for her to keep warm.
She swiped the second stick. As soon as the fire burned, a glorious scene appeared before her eyes. A dining table with plates full of food, still steaming hot. It looks so delicious and delicious. Next to the table there is a Christmas tree with bright lights. Before, she also had such a cozy house, had a happy family and had happy New Year's Eves at home. But disaster struck, the family was torn apart, her kind grandmother passed away, and the girl had to sell matches to make a living. In addition, her cruel and lazy father forced her to go earn money and bring it back to spend. If she didn't earn it, he would beat and curse her severely. She was just about to reach for the fork to carve the roast goose when the match went out. Everything disappeared again, leaving only the cold, lifeless wall before her eyes.
People were still passing by on the side of the road, no one paying attention to what was going on around her. The coldness urged her to strike a third match. This time, a splendid pine tree appeared. There are flashing lights and beautiful little gifts hanging around the tree. The girl quickly stood up, danced and sang Happy New Year. She closed her eyes and made a wish. But as soon as I opened my eyes, the pine tree disappeared like the sumptuous dinner table from before. She sat down in disappointment. Perhaps my mistress is sobbing. How miserable for her. The night is dark, cold, alone and no one cares.
She reached for the matchbox. This time she swiped hard, hoping the flame would shine brighter and last longer. She quickly wiped away her tears when the image of her kind grandmother appeared before her eyes. She smiled with very gentle eyes. She shouted happily. She knelt down and hugged her legs, begging her to let her go with her. Tears of childhood make grandmothers cry too. The two of them hugged each other and cried. She patted the girl. She hugged her tightly.
– Grandma, please let me come with you. Please pray to God to let me go with you. I want to be with her like before. I beg you.
She hugged the girl in her arms and whispered:
- Alright. She's here. Shut up. Tonight is New Year's Eve. She came here to celebrate New Year's Eve with her children.
– Then will you let me go with you? – The girl shouted.
– I can't take you with me. I'm small. I have my whole future ahead of me. But I will give you a new life. Do you miss mom?
The little girl wiped her tears and looked up at her grandmother with a curious voice:
– Is my mother coming home with me? I miss you so much mom.
- Alright. Good child. Your mother will come home with you.
As soon as she finished speaking, her mother also appeared. Mother hugged her. Tears flowed down. In the dark night, three people hugged each other tightly and cried.
The match began to burn slowly, so I quickly jumped in to light the match. The fire continued to flare up. Luckily, the match didn't go out like the previous times. The girl quickly emptied all the matchboxes she had. She arranged them into a heart shape, each matchstick after another burning brightly, making the whole street corner pink. The clock is about to strike twelve. New Year's Eve is coming. She held her hand and said:
– Make a wish, child. God has granted me a wish. Because you are a very obedient girl.
The little girl held her mother and grandmother's hands tightly. She closed her eyes and wished. Just finished wishing, the clock struck twelve. The sound of fireworks exploding brightened the sky. She opened her eyes and the miracle happened. Exactly as promised. The little girl was sitting in front of a sumptuous dinner table with her grandmother and mother, next to a flashing Christmas tree. Outside the window, fireworks were shooting into the sky. She pulled her mother's hand and she ran out to see.
|
Bài làm
Trời vừa sáng. Một buổi sáng mùa thu thật trong lành và ấm áp. Cô Hồng – mẹ Nam lại quảy đôi quang gánh đi bán hàng rong cho kịp bữa sáng của mọi người. Mùi xôi thơm nóng hổi khiến ai đang đói bụng cũng thèm và không thể cưỡng lại được. Cô vừa đi vừa rao “Ai xôi nóng đi”. Tiếng rao ngọt ngào, vang vọng cả con phố vừa mới bình minh. Những giọt sương long lanh còn đang lưu luyến chưa muốn rời mình khỏi kẽ lá, cành cây.
Nam vươn mình tắt chiếc đồng hồ báo thức rồi lại chùm kín chăn ngủ tiếp. Tiếng điện thoại tiếp tục reo lên. Nam nghe máy với giọng còn ngái ngủ.
– Dậy chuẩn bị đi học đi con. Xôi mẹ gói trong túi con đánh răng rửa mặt rồi ăn đi cho nóng. – Tiếng cô Hồng nhẹ nhàng từ đầu dây bên kia.
Hiểu tính con hay ngủ nướng nên cô gọi điện gọi Nam dậy. Nam uể oải chui ra khỏi chiếc giường rồi phụng phịu: Lại xôi, ngày nào cũng xôi. Chán chết đi được. Nam cầm túi xôi chạy ra cổng ném luôn vào thùng rác. Nó chạy một mạch ra chỗ mẹ bán xôi đòi tiền đi ăn phở. Thương con, cô Hồng rút ra trong túi mấy đồng tiền lẻ còn chưa kịp vuốt phẳng phiu. Cô đếm đưa cho Nam hơn hai mươi nghìn. Nó xị mặt lẩm bẩm:
– Có từng này làm sao mà đủ được – Rồi bỗng nó reo lên – Mẹ, cho con thêm tiền con muốn mua mấy quyển sách bài tập nâng cao.
Mẹ Nam thấy con muốn mua sách để học liền vội vàng rút thêm tiền ra đưa cho Nam hai trăm nghìn.
– Ngần này đủ không con. Mà con mua sách học môn gì?
– Con mua để học mấy môn chính đó mẹ. Ngần này chắc là đủ đấy.
Nam vội cầm tiền rồi chạy về nhà. Nó tỏ vẻ sung sướng lắm.
Cậu ta đeo cặp sách, chạy qua chỗ mẹ chào với một câu: Con đi học đây. Cô Hồng nhìn theo con với ánh mắt đầy hi vọng.
Nắng đã bắt đầu chiếu những tia yếu ớt qua cành cây, kẽ lá. Nắng của mùa thu thật dịu dàng. Thúng xôi của cô cũng đã vơi dần. Khách vẫn tiếp tục đến ngồi ăn. Cô cặm cụi dậy từ 3 giờ sáng để thổi xôi. Đôi quang gánh cô gánh bao năm nay đã làm vai cô trĩu xuống. Nhưng tất cả chẳng là gì khi cô nhìn thấy con được vui vẻ, được đầy đủ bằng bạn bằng bè.
Còn Nam sau khi lấy được lòng tin của mẹ thì hả hê lắm. Nó rẽ vào một con hẻm, gọi điện cho mấy thằng bạn nữa cùng đến. Chúng rủ nhau đi đánh điện tử. Nam hô to
– Hôm nay tao bao tất! Thằng nào thắng còn có thưởng.
Cả lũ reo hò sung sướng. Chúng tạt vào một quán điện tử trong hẻm, bắt đầu gõ gõ bàn phím.
Ngoài kia, mẹ Nam đâu biết rằng con mình đang điên mê vì những trò điện tử. Số tiền mẹ đưa Nam là số tiền dành dụm để cho Nam học hành nhưng nó đâu có biết và đâu có trân trọng. Nó chỉ cần cầm được tiền trong tay là quên hết mọi thứ. Trong đầu chỉ nghĩ đến mấy trò điện tử hay hay. Cả lũ rủ nhau bỏ học để đấu với nhau.
Đến tầm trưa, cả lũ đói quá mới rủ nhau đi kiếm gì ăn. Nam vừa bước ra khỏi cửa thì bất chợt nhìn thấy mẹ. Nó vội vàng chạy trốn nhưng mẹ đã kịp nhìn thấy. Vừa nhìn thấy con bước ra từ quán điện tử, cô cũng vội vàng chạy theo. Nhưng đôi quang gánh vướng víu quá, cô chưa kịp bỏ xuống thì một chiếc xe ô tô chạy ngang qua, hất tung đôi quang, cô văng người xuống đất, xe phanh không kịp. Một chân cô nằm trọn trong bánh xe. Cả góc phố xôn xao chạy lại vội vàng đưa cô đi cấp cứu. Máu chảy nhễ nhoại. Cô ngất đi, không còn biết gì nữa.
Còn Nam sau khi chạy khuất tầm nhìn của mẹ đã trốn biệt tăm. Nó không hề biết rằng mẹ mình đã xảy tai nạn. Chạy một hồi nó mệt quá, dừng lại ngồi thở phì phò. Không nhìn thấy mẹ đuổi theo nữa, nó mới yên tâm. Chạy mệt, lại quá trưa, Nam đói bụng cồn cào. Nó lục túi nhưng tiền đã hết sạch rồi. Mùi xôi lúc sáng tự dưng thoang thoảng khiến cái bụng nó réo lên. Chưa bao giờ nó thấy thèm xôi như lúc này.
Trời bỗng ập cơn mưa. Một cơn mưa bất chợt khiến mọi người vội vàng chạy tìm nơi trú. Nó cũng chạy vội vào một mái hiên để trú mưa. Trong nhà, người ta đang ăn những bát phở thật thơm ngon làm sao. Nó nhớ đến mẹ, nhớ đến những đồng tiền lẻ mẹ đưa để ăn phở. Giá lúc này có tiền để ăn một bát thì ngon biết bao. Nhưng tiền chơi điện tử hết rồi. Tiếc quá.
Nam lấy điện thoại gọi cho bạn, nhưng chẳng thằng nào đến đón. Nam lầm bầm: Lúc tao có tiền, tao tiếc gì chúng mày. Thế mà tao mới đói một tí là chẳng thằng nào đến giúp.
Nó có vẻ tức tối lắm. Thôi chạy về nhà. Nó nghĩ kiểu gì mẹ cũng đang chờ cơm rồi. Về xin lỗi mẹ, mẹ không mắng đâu. Xưa nay mẹ vẫn vậy mà. Nó bất chấp trời mưa, chạy một mạch về nhà. Nhưng về đến nhà, căn nhà trống rỗng. Nam gọi mẹ, không thấy mẹ đâu. Cũng không thấy đôi quang gánh của mẹ nữa. Linh tính nó cảm thấy có điều gì đó không hay xảy ra. Nó chạy vội đến chỗ lúc sáng nhìn thấy mẹ. Chao ôi, mọi người vẫn còn đang xôn xao kể về vụ tai nạn vừa xảy ra. Nam run lên khi nhận ra đôi quang gánh và đôi dép quen thuộc của mẹ đã được người ta xếp gọn bên lề đường. Nó hấp tấp hỏi mọi người xem mẹ mình được đưa đi viện nào rồi thuê xe ôm chạy thẳng đến đó.
Tới nơi, Nam vừa chạy vừa gào thét. Nước mắt không rơi nổi nữa. Nam ân hận lắm. Không biết giờ này mẹ ra sao. Nam chạy lên phòng cấp cứu, hỏi các bác sĩ. Bác sĩ cũng đang chạy ngược chạy xuôi tìm người thân của bệnh nhân để truyền máu. Mẹ Nam bị mất nhiều máu quá. Tính mạng đang trong cơn nguy kịch.
– Cháu là con ruột của mẹ cháu đây. Các bác lấy máu của cháu để truyền cho mẹ cháu đi. Đừng để mẹ cháu chết. Cháu xin các bác đấy – Nam khẩn khoản cầu xin bác sĩ.
– May quá, chúng tôi cũng đang tìm người có cùng nhóm máu để lấy máu truyền. Mẹ cháu mất nhiều máu quá. Cháu qua đây làm thủ tục xét nghiệm máu – Một vị bác sĩ nói.
Một chị y tá lấy máu Nam để xét nghiệm. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Nhóm máu của Nam không cùng nhóm máu với mẹ. Cầm tờ kết quả trên tay, Nam sốc và không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Mẹ Hồng không phải là mẹ ruột của mình sao? Vậy ai mới là mẹ mình đây? Bao lâu nay, mẹ Hồng luôn chăm lo cho mình có khác nào mẹ ruột? Không có một người mẹ nào lại yêu thương con mình nhiều đến mức hi sinh cả mạng sống cho mình như vậy? Tại sao chứ? … Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng trong đầu Nam… Nam ôm mặt khóc. Một người không phải mẹ mình đã cưu mang mình suốt bấy lâu, vậy mà mình còn không hiểu, không biết, không trân trọng. Để bây giờ xảy ra chuyện đau lòng như thế này.
Bác sĩ vỗ vai Nam:
– Vào với mẹ đi.
Nam chạy vào, quỳ bên giường mẹ, nắm chặt tay mẹ không nói nên lời.
Cô Hồng dùng chút sức lực cuối cùng của mình vuốt nhẹ lên mái tóc Nam.
– Nam. Mẹ xin lỗi. Nhưng mẹ rất yêu con, yêu hơn cả chính bản thân mình. Từ nay con phải ngoan ngoãn, không được ham chơi nữa, phải học hành thành người, thực hiện ước mơ mà con từng nói với mẹ là muốn trở thành bác sĩ. Tiền mẹ dành dụm mẹ để trong chiếc hòm ở góc tủ quần áo của mẹ. Con hãy tự chăm sóc bản thân mình. Mẹ tin con làm được. Con trai của mẹ giỏi lắm.
|
Assignment
It's just morning. A very fresh and warm autumn morning. Ms. Hong - Nam's mother - carried her bag to sell street food in time for everyone's breakfast. The smell of hot, fragrant sticky rice makes anyone hungry and crave it irresistibly. As she walked, she shouted, "Someone give me hot sticky rice." The sweet sound echoed throughout the street that had just dawned. The glittering dew drops are still lingering and don't want to leave the leaves and branches.
Nam reached out and turned off the alarm clock, then covered himself with the blanket and continued to sleep. The phone continued to ring. Nam answered the phone with a sleepy voice.
– Wake up and get ready for school. I packed the sticky rice in my bag, brushed my teeth, washed my face, then ate it until it was hot. – Ms. Hong's voice was gentle from the other end of the line.
Understanding that her child often sleeps late, she called Nam to wake him up. Nam lazily got out of bed and pouted: Sticky rice again, sticky rice every day. Bored to death. Nam took the bag of sticky rice and ran to the gate and threw it into the trash. He ran all the way to the place where his mother sold sticky rice and asked for money to eat pho. Loving her child, Ms. Hong pulled out a few coins from her pocket before smoothing them out. She counted and gave Nam more than twenty thousand. He frowned and muttered:
– How can this amount be enough – Then suddenly he rang – Mom, give me more money I want to buy some advanced exercise books.
Nam's mother saw that her son wanted to buy books to study so she quickly took out more money and gave Nam two hundred thousand.
– Is this enough? Which subject did you buy to study?
– I bought it to study core subjects, mom. This amount should be enough.
Nam quickly took the money and ran home. It seemed very happy.
He put on his school bag and ran over to his mother to say hello: I'm going to school. Ms. Hong looked at her child with eyes full of hope.
The sun has begun to shine weak rays through tree branches and leaves. The autumn sunshine is so gentle. Her basket of sticky rice has also gradually emptied. Customers continue to come and eat. She struggled to get up at 3 a.m. to blow sticky rice. The burden she has carried for so many years has made her shoulders heavy. But it's all for nothing when she sees her child happy and full of friends.
As for Nam, after gaining his mother's trust, he was very happy. He turned into an alley and called a few more friends to come along. They invited each other to play video games. Nam shouted loudly
– Today I cover everything! Whoever wins also gets a prize.
The whole group cheered happily. They went to an electronics shop in the alley and started tapping on the keyboard.
Out there, Nam's mother doesn't know that her son is crazy about video games. The money his mother gave Nam was saved for Nam to study, but he did not know and did not appreciate it. He just needs to hold money in his hand and forget everything. In my head, I only thought about cool video games. They all invited each other to skip school to fight each other.
By noon, we were all so hungry that we went out to find something to eat. Nam had just walked out the door when he suddenly saw his mother. He quickly ran away, but his mother saw him in time. As soon as she saw her child coming out of the electronics store, she quickly ran after him. But her pair of glasses were too entangled. Before she could put them down, a car passed by, knocking her pair of glasses and she fell to the ground. The car couldn't brake in time. One of her legs was completely inside the wheel. The whole street corner was buzzing and rushing to take her to the emergency room. Blood flowed profusely. She fainted, not knowing anything anymore.
And Nam, after running out of his mother's sight, disappeared. He did not know that his mother had an accident. After running for a while, he was so tired that he stopped and sat breathing heavily. No longer seeing his mother chasing after him, he felt at ease. Running tired, it was past noon, Nam was hungry. He searched his pockets but the money was gone. The faint smell of sticky rice in the morning suddenly made his stomach growl. He has never craved sticky rice like now.
It suddenly rained. A sudden rain caused everyone to rush to find shelter. It also ran quickly to an awning to shelter from the rain. In the house, people are eating delicious bowls of pho. He remembers his mother, remembers the change she gave him to eat pho. If only I had the money to eat a bowl right now, how delicious it would be. But the money to play video games is gone. What a pity.
Nam took out his phone to call his friend, but no one came to pick him up. Nam mumbled: When I have money, I don't feel sorry for you guys. But I was just a little hungry and no one came to help.
It seems very angry. Stop running home. He thought that somehow his mother was waiting for dinner. Go and apologize to mom, she won't scold you. My mother has always been the same. Despite the rain, he ran all the way home. But when I got home, the house was empty. Nam called for his mother, but he couldn't find her. I also don't see my mother's shoulder blades anymore. It instinctively felt that something bad was happening. He rushed to the place where he saw his mother in the morning. Alas, everyone is still talking about the accident that just happened. Nam trembled when he realized that his mother's familiar pair of baskets and sandals had been neatly stacked on the side of the road. He hastily asked everyone which hospital his mother was taken to and then hired a motorbike taxi to go straight there.
Arriving there, Nam ran and screamed. Tears couldn't fall anymore. Nam regrets it very much. I don't know how my mother is now. Nam ran to the emergency room and asked the doctors. Doctors are also running back and forth looking for the patient's relatives for blood transfusions. Nam's mother lost a lot of blood. Lives are in danger.
– I am my mother's biological child. Please take my blood and give it to my mother. Don't let your mother die. I beg you - Nam urgently begged the doctor.
– Luckily, we are also looking for someone with the same blood type to get blood for transfusion. My mother lost a lot of blood. I came here to do a blood test - a doctor said.
A nurse took Nam's blood for testing. But the results were surprising. Nam's blood type is not the same as his mother's blood type. Holding the results in his hand, Nam was shocked and didn't understand what was going on. Isn't Hong's mother my biological mother? So who is my mother? For so long, Hong's mother has always taken care of her, no different from her own mother? Is there no mother who loves her child so much that she would sacrifice her life for herself? Why? ... So many questions swirling in Nam's head... Nam hugged his face and cried. A person who is not my mother has supported me for so long, yet I still don't understand, don't know, or appreciate it. Now this heartbreaking thing happened.
The doctor patted Nam's shoulder:
– Come in with mom.
Nam ran in, knelt beside his mother's bed, held her hand tightly, speechless.
Ms. Hong used the last bit of her strength to gently stroke Nam's hair.
- Male. Mom, I'm sorry. But mother loves her child very much, more than herself. From now on, you must be obedient, no longer want to play, you must study to become a person, and realize the dream you once told your mother about wanting to become a doctor. The money my mother saved was kept in a box in the corner of her wardrobe. Please take care of yourself. I believe you can do it. My son is very good.
|
Bài làm
Một buổi chiều gió lộng. Mặt trời đã ngả về phía chân trời, để lại những đám mây đỏ ửng báo hiệu một ngày sắp tàn. Bến Hoàng Giang cũng đang nghiêng mình hứng lấy chút ánh nắng cuối cùng yếu ớt. Những đám lau, trong đó có cả tôi đang hướng mình ra đón gió thì bỗng nghe tiếng khóc than của một người thiếu phụ. Tất cả ngưng lại lắng tai nghe lời nàng than thở:
– Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết.
Chúng tôi ai nấy đều bàng hoàng. Hà cớ chi mà người thiếu phụ trẻ lại nói những lời cay đắng rồi tự vẫn thế kia. Thân nàng chìm dần xuống lòng sông, chiếc áo trắng lờ lờ đi trong nước. Chúng tôi dù muốn lắm nhưng chẳng thể nào cứu nàng được. Có chuyện gì mà lại đến nông nỗi này cơ chứ? Các đám lau ngơ ngác hỏi nhau. Đang xôn xao thì bác Chim sâu bay đến, đậu trên bờ. Bác cũng lắc đầu buồn thương. Hỏi ra mới rõ sự tình. Nàng tên Vũ Nương – một người con gái ngoan hiền nết na được Trương Sinh mến mộ xin hỏi cưới làm vợ. Cuộc sống vui vầy chẳng được bao lâu thì chàng phải lên đường đi đánh giặc. Phép nước không thể lui được. Thời gian ở nhà, nàng vào ra trông ngóng ngày đoàn tụ cùng chồng. Mẹ chồng chết, nàng cũng cố gắng lo lắng ma chay tươm tất. Nhớ chồng, mỗi tối, nàng vẫn thường chỉ bóng mình trên tường và bảo với con đó là cha. Ngày cha về, nó không chịu nhận và nói có một người cha khác tối nào cũng đến với mẹ. Trương Sinh nổi lòng ghen tuông ruồng rẫy vợ. Nàng giải thích chàng không nghe. Bị xúc phạm và oan ức mà không minh chứng được, người thiếu phụ tội nghiệp đành gieo mình xuống bến Hoàng Giang để lấy lại sự trong sạch cho bản thân.
Thật đáng thương. Nhưng tại sao Trương Sinh không hỏi rõ vợ mình mọi chuyện, lắng nghe vợ một chút thì mọi chuyện đâu đến nỗi này chứ. Giờ người chết rồi, sự trong sạch có được sáng tỏ nhưng đâu có thể cứu lại được mạng sống nữa.
Sáng hôm sau, một người đàn ông, hẳn là Trương Sinh đến bờ Hoàng Giang tìm vớt xác vợ mình nhưng chẳng thấy đâu. Rõ ràng chiều qua chúng tôi đều chứng kiến nàng gieo mình tại đây. Nhưng suốt cả một ngày chàng tìm, chàng lặn hụp quanh đó mà không thấy vợ đâu cả. Trương Sinh ngồi bần thần trên bờ. Có lẽ chàng cũng đã tin sự trong sạch của vợ mình nên xót thương và hối hận. Nhưng sự hối hận ấy đã quá muộn màng rồi. Thằng bé con chàng chạy lại nói với chàng:
– Tối qua cha Đản đến đấy.
Thì ra thằng bé chỉ cái bóng trên tường và bảo đó là cha mình. Lúc bấy giờ Trương Sinh mới hiểu ra tất cả. Trương Sinh chỉ biết ôm con vào lòng và khóc.
Trời nhá nhem tối, hai cha con dẫn nhau về với cái bóng liêu xiêu.
Mấy hôm sau, Trương Sinh ra bến lập đàn giải oan cho vợ suốt ba ngày đêm. Ánh nến vừa đốt lên thì Vũ Nương xuất hiện. Nàng ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện.
|
Assignment
One windy afternoon. The sun has leaned towards the horizon, leaving behind red clouds signaling the end of the day. Hoang Giang wharf is also leaning to catch the last bit of weak sunlight. The reeds, including me, were facing the wind when suddenly I heard the cry of a young woman. Everyone stopped to listen to her lament:
- This unfortunate person has a miserable fate, his husband and children have deserted him, everything is tied up, his reputation is humiliated, the river god has a spirit, please witness. If you are dignified and keep your chastity, be chaste and keep your heart, if you enter the country, please be the pearl Mi Nuong, if you enter the earth, please be the grass Ngu My. I agreed to be a fish and a bird, lied to my husband and lied to my children, asked to be food for fish and shrimp from below, asked to be food for kites and crows from above, and willing to be spit on by everyone.
Having finished speaking, she threw herself into the river and died.
We were all shocked. Why did the young woman say such bitter words and commit suicide? Her body gradually sank into the river bed, her white shirt lazily floating in the water. Even though we wanted to, we couldn't save her. What could have come to this? The reeds asked each other bewilderedly. While there was a commotion, Uncle Bird flew in and landed on the shore. Uncle also shook his head sadly. If you ask, you will understand the situation. Her name is Vu Nuong - a kind and gentle girl whom Truong Sinh admires and asks her to marry. This happy life did not last long before he had to leave to fight the enemy. Water magic cannot be withdrawn. During her time at home, she came in and out, looking forward to the day she would reunite with her husband. When her mother-in-law died, she also tried to arrange a decent funeral. Missing her husband, every night, she often pointed to her shadow on the wall and told her child it was her father. When his father returned, he refused to accept it and said there was another father who came every night with his mother. Truong Sinh became jealous and abandoned his wife. She explained and he didn't listen. Insulted and wronged without being able to prove it, the poor young woman had to throw herself into Hoang Giang wharf to regain her innocence.
Pitiful. But why didn't Truong Sinh ask his wife everything clearly? If he listened to her a little, things wouldn't have come to this. Now that the person is dead, his innocence may be clear, but his life cannot be saved anymore.
The next morning, a man, probably Truong Sinh, went to the Hoang Giang bank to look for his wife's body but could not find it. Apparently we all witnessed her throw herself here yesterday afternoon. But all day long he searched and dived around but couldn't find his wife anywhere. Truong Sinh sat dazed on the shore. Perhaps he also believed in his wife's innocence, so he felt pity and regret. But that regret was too late. The little boy ran to him and said:
– Father Dan came last night.
It turned out that the boy pointed to the shadow on the wall and said it was his father. Only then did Truong Sinh understand everything. Truong Sinh could only hold his child in his arms and cry.
It was dusk, father and son led each other back to the shaky shadow.
A few days later, Truong Sinh went to the wharf and set up an altar to exonerate his wife for three days and nights. As soon as the candle light was lit, Vu Nuong appeared. She sat on a flower palanquin standing in the middle of the stream, followed by up to fifty floats with flags and parasols, filling the river with brilliant colors, sometimes disappearing and sometimes appearing.
|
Bài làm
Cha Trọng Thủy đã chiến thắng và chiếm được đất đai đúng như dự định. Nhưng lúc này khi không còn vợ bên cạnh nữa, Trọng Thủy mới nhận ra nàng thật quan trọng với mình. Nằm trong căn phòng vắng vẻ, quạnh hưu, Trọng Thủy lại nhớ đến Mị Nương – một người con gái xinh đẹp, hiền dịu, nết na lại hết lòng yêu thương chồng. Vậy mà Trọng Thủy lại nỡ lòng lừa dối nàng để chiếm đoạt chiếc nỏ thần cho cha.
Chàng khóc. Những giọt nước mắt lã chã rơi. Chàng đấm mạnh tay vào tường làm tay rỉ máu. Có lẽ Trọng Thủy đang ân hận lắm. Chàng đứng bên cửa sổ – nơi mà Mị Nương, vợ chàng vẫn thường hay đứng ngắm bình minh mỗi khi thức giấc. Chàng dằn vặt bản thân, đau khổ tột cùng. Và rồi, trong đêm trăng thanh gió mát ấy, chàng lặng lẽ đến bên giếng loa thành, ngửa cổ lên trời mà than:
– Trọng Thủy ta vì chữ hiếu với cha đã phụ lòng vợ. Vì ta mà nàng phải chết. Nay ta hối hận vô cùng. Ta nguyện dùng tính mạng này để đền bù tội lỗi của mình. Xin trời đất chứng giám.
Nói xong, chàng gieo mình xuống nước.
Long Vương thấy Mị Nương là người con gái hiền dịu nết na, lại vì chữ tình chữ hiếu mà chết oan uổng, xuống đến thủy cung rồi nàng vẫn ngày đêm mong nhớ chồng. Được dịp Trọng Thủy lấy mạng đền tội, Long Vương thương tình bèn cho chàng vào cung gặp Mị Nương.
Vừa gặp vợ, Trọng Thủy đã vội vàng quỳ gối dưới chân nàng mà xin lỗi:
– Mị Nương, ta xin lỗi. Do ta đã lừa dối nàng, nay ta nguyện lấy thân này để đền tội với nàng, chỉ mong nàng được sống lại. Ta thật tồi tệ.
Mị Nương ôm chầm lấy Trọng Thủy mà khóc:
– Trọng Thủy, sao chàng lại đến được đây. Thiếp hiểu chàng vì cha, vì chữ hiếu mới phải làm vậy.
– Không. Lẽ ra ta phải ngăn cản cha không được làm như thế. Nhưng ta lại tiếp tay cho cha, còn lừa dối nàng để chiếm đoạt lấy nỏ thần, khiến cha nàng phải thua thảm hại, gây nên cái chết oan ức cho nàng.
– Trọng Thủy, thiếp không thể quay trở về được nữa. Chàng hãy quay về đi.
– Không, ta không về. Ta đã nguyện lấy tính mạng mình để đổi lấy mạng nàng. Nàng hãy quay về đi.
Hai người đang khóc lóc thì Long Vương đến bảo:
– Cả hai người đều không thể quay về được nữa. Mị Châu chết oan nhưng tâm nàng trong sạch, lương thiện. Còn ngươi, Trọng Thủy, đã phạm tội lừa dối gây nên cái chết cho Mị Nương, sẽ bị đày xuống địa ngục, chịu tội trong giàn lửa một nghìn năm mới được đầu thai.
Nghe vậy, Mị Nương vội vàng quỳ xuống van xin Long Hải:
– Xin Ngài hãy đưa Trọng Thủy về. Vì chữ hiếu nên chàng mới phải làm vậy. Hãy để thiếp chịu tội thay chàng.
Long Vương vẫn kiên quyết:
– Luật lệ đã định, không thể làm khác.
– Vậy xin Ngài hãy cho thiếp đi cùng chàng – Mị Nương vẫn tiếp tục van xin.
– Không được. Chốn địa ngục lửa thiêu cực khổ vô cùng, chỉ dành cho kẻ có tội. Còn nàng, ta đã phân công nàng cai quản khu vực phía bắc của thủy cung này.
– Xin ngài. Thiếp đã thề nguyền sống chết cùng Trọng Thủy. Giờ Trọng Thủy cũng đã vì thiếp mà chẳng tiếc mạng mình. Thiếp không thể để chàng phải rơi vào chốn địa ngục cho lửa thiêu cháy thân chàng. Xin Ngài hãy cứu giúp. Hơn nữa, Trọng Thủy cũng đã biết lỗi, biết nhận lỗi, xin Ngài xem xét nương tay.
Long Vương quay lại nhìn Trọng Thủy nói:
– Ta biết Trọng Thủy đã hối lỗi nhưng luật lệ là luật lệ không thể làm trái lại được.
Lúc này Mị Nương lấy ra một viên ngọc, nàng đưa cho Long Vương:
– Vậy, thiếp xin trả lại Ngài viên ngọc này, thiếp xin đổi nó lấy một điều ước đúng như lời Ngài đã hứa khi tặng nó cho thiếp. Giờ là lúc thiếp cần dùng đến.
Long Vương nhìn viên ngọc ấp úng nói:
– Mị Châu, nàng định…
Chưa để Long Vương nói hết lời. Mị Châu đã quỳ xuống van xin:
– Trọng Thủy vào địa ngục, thiếp chẳng thể nào sống yên ổn khi trong lòng lúc nào cũng nghĩ đến hình ảnh của chàng đang đau đớn quằn quại trong lò lửa thiêu. Nay thiếp xin đổi viên ngọc này lấy một điều ước. Thiếp ước Trọng Thủy được sống lại và tiếp tục sứ mệnh của mình.
Trọng Thủy vội vàng quỳ xuống bên cạnh nàng mà thưa với Long Vương:
– Không được, xin Long Vương hãy để nàng quay trở về. Ta đã có lỗi với nàng, giờ ta phải chịu hình phạt của mình là điều thích đáng. Còn nàng vì bị chính người chồng mình luôn yêu thương lừa dối mình mà phải chết một cách oan ức, nay ta đã dùng mạng mình để đổi lấy mạng nàng, xin Ngài hãy để nàng được sống lại.
Mị Châu thấy Trọng Thủy nói vậy lại càng khóc nhiều hơn. Nàng vẫn tha thiết khẩn cầu van xin Long Vương cho Trọng Thủy được sống. Cuối cùng, Long Vương đành đưa ra quyết định:
|
Assignment
Father Trong Thuy won and captured the land as planned. But now that his wife is no longer by his side, Trong Thuy realizes how important she is to him. Lying in a deserted, lonely room, Trong Thuy remembered Mi Nuong - a beautiful, gentle, modest girl who loved her husband wholeheartedly. Yet Trong Thuy had the heart to deceive her to appropriate the magic crossbow for his father.
He cried. Tears fell. He punched the wall hard, causing his hand to bleed. Perhaps Trong Thuy is very regretful. He stood by the window - where Mi Nuong, his wife, often stood to watch the sunrise every time she woke up. He tormented himself, suffering extremely. And then, on that cool, moonlit night, he quietly went to the well, tilted his head up to the sky and lamented:
– Trong Thuy, out of filial piety to his father, he betrayed his wife. Because of me, she had to die. Now I deeply regret it. I vow to use this life to make up for my sins. May heaven and earth bear witness.
Having finished speaking, he threw himself into the water.
The Dragon King saw that Mi Nuong was a gentle and gentle girl, but because of love and filial piety, she died unjustly. After reaching the aquarium, she still longed for her husband day and night. Given the opportunity for Trong Thuy to take his life to atone for his sins, the Dragon King took pity on him and let him into the palace to meet Mi Nuong.
As soon as he met his wife, Trong Thuy quickly knelt at her feet and apologized:
– Mi Nuong, I'm sorry. Because I deceived you, I now vow to use this body to atone for your sins, hoping that you will be resurrected. I'm so bad.
Mi Nuong hugged Trong Thuy and cried:
– Trong Thuy, how did you come here? I understand that you have to do this because of your father and filial piety.
- Are not. I should have stopped my father from doing so. But I assisted my father and deceived her to take the magic crossbow, causing her father to lose miserably, causing her unjust death.
– Trong Thuy, I can't go back anymore. Please go back.
– No, I'm not coming back. I vowed to give my life in exchange for hers. Please go back.
The two of them were crying when the Dragon King came and said:
– Both of you can't go back anymore. Mi Chau died unjustly but her heart was pure and honest. As for you, Trong Thuy, having committed the crime of deception that caused Mi Nuong's death, you will be banished to hell, suffering in the fire for a thousand years before being reincarnated.
Hearing that, Mi Nuong quickly knelt down and begged Long Hai:
– Please bring Trong Thuy back. Because of filial piety, he had to do that. Let me take the blame for you.
Long Vuong is still determined:
– The rules are set, it cannot be changed.
- Then please let me go with you - Mi Nuong continued to beg.
- Impossible. Hell is a place of endless burning and suffering, only for sinners. As for you, I have assigned you to govern the northern area of this aquarium.
– Please. I have sworn to live and die with Trong Thuy. Now Trong Thuy has also spared his life for his concubine. I cannot let you fall into hell and let fire burn your body. Please help me. Furthermore, Trong Thuy also knew his mistake, admitted it, and asked him to consider and be merciful.
Long Vuong turned back to look at Trong Thuy and said:
– I know Trong Thuy has repented, but the law is a law that cannot be violated.
At this time, Mi Nuong took out a pearl and gave it to the Dragon King:
– So, I would like to return this pearl to you, I would like to exchange it for a wish as you promised when you gave it to me. Now is the time to use it.
Dragon King looked at the pearl and said hesitantly:
– Mi Chau, do you intend to…
Dragon King did not let him finish his words. Mi Chau knelt down and begged:
– Trong Thuy went to hell, I cannot live in peace when I always think of the image of him writhing in pain in the furnace. Now I would like to exchange this pearl for a wish. I wish Trong Thuy to be resurrected and continue his mission.
Trong Thuy quickly knelt down next to her and said to the Dragon King:
– No, please Dragon King let her return. I have wronged you, and now it is appropriate that I must suffer my punishment. As for her, because she was deceived by the husband she always loved, she had to die unjustly. Now I have used my life in exchange for her life. Please let her be resurrected.
When Mi Chau saw Trong Thuy say that, she cried even more. She still earnestly begged the Dragon King to let Trong Thuy live. Finally, the Dragon King had to make a decision:
|
Bài làm
Phạm Ngũ Lão là một trong những võ tướng tài giỏi của thời Trần. Ông có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. Là võ tướng, nhưng ông thích đọc sách, ngâm thơ và từng được ngợi ca là người văn võ toàn tài. Sử sách không ghi nhiều về ông, nhưng qua những tác phẩm của ông, thế hệ sau có thể thấu hiểu được tâm tư và tấm lòng của một người anh hùng mang tên Phạm Ngũ Lão. Trong đó, không thể không kể đến tác phẩm “Tỏ lòng” (Thuật hoài) viết về vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao; về vẻ đẹp cảu thời đại với sức mạnh và khí thế hào hùng.
Bởi thế, ngay trong hai câu thơ mở đầu, ta đã bắt gặp một hình tượng rất đẹp và hùng dũng:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Dịch thơ:
“Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”
Trong phần dịch thơ, từ “hoành sóc” nghĩa là “múa giáo”, ý chỉ tư thế của người anh hùng đang cầm giáo gìn giữ và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, chỉ có từ “hoành sóc” mới có thể biểu lộ một cách rõ ràng nhất về tư thế hiên ngang, lẫm liệt – biểu hiện cho tinh thần sắt đá, anh dũng của vị anh hùng đang tràn đầy khí thế, luôn sẵn sàng xả thân vì dân vì nước. Tác giả không đề chủ ngữ là ai, nhưng người đọc vẫn hiểu những từ ngữ ấy chỉ dành cho anh hùng, cho những người đang tràn đầy khí thế chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ không cần biết về không gian hay thời gian, bất kỳ nơi đâu trên “non sông” này đều là đất nước mình, và dù có “trải mấy thu” hay cả nghìn thu thì họ vẫn vậy, vẫn luôn một lòng một dạ chung thủy với nước nhà, luôn sẵn sàng hi sinh bất cứ khi nào để cứu lấy dân tộc mình. Và từ những người như vậy, đã tạo nên một đội quân vô cùng mạnh mẽ:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”).
Câu thơ trên có thể hiểu theo hai cách: cách hiểu như lời dịch và một cách khác là khí thế át sao Ngưu, nghĩa là khí thế át cả sao trời. Có lẽ, không có một từ ngữ nào có thể nói hết về chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần, đến mức Phạm Ngũ Lão phải lấy cả sao Ngưu để thể hiện sức mạnh hùng dũng ấy.
Tuy nhiên, quân đội mạnh mẽ là vậy, nhưng trong lòng võ tướng vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm:
“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”.
Dịch thơ:
“Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”.
Đối với Phạm Ngũ Lão, một người xứng đáng là đấng nam nhi đích thực khi lập được công danh với đất nước. Lý tưởng và nhân cách cao cả của ông được tóm gọn trong câu thơ “Nam nhi vị liệu công danh trái”. Ông không cho phép bản thân mình được thấp kém hay tầm thường. Ngược lại, ông hướng mình đến với những điều lớn lao hơn, mạnh mẽ hơn. Đó là công, là danh với đất nước. Ông muốn sống cống hiến hết mình cho nhân dân. Bởi vậy, khi nhìn lại bản thân mình, và nghĩ đến Vũ hầu, Phạm Ngũ Lão đã khiêm tốn sử dụng hai từ “luống thẹn”. Vũ hầu tức Gia Cát Lượng, người thời Tam quốc, có nhiều công lao giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán, được phong tước Vũ Lượng hầu (thường gọi tắt là Vũ hầu). Không phải tự nhiên mà Phạm Ngũ Lão nhắc tới vị anh hùng vang danh trong lịch sử này, mà đó là lý tưởng cao đẹp, là động lực để võ tướng cố gắng vươn lên, cố gắng cống hiến nhiều hơn nữa.
|
Assignment
Pham Ngu Lao was one of the talented martial generals of the Tran dynasty. He had many great contributions in the resistance war against the Mongol-Yuan army. Although he was a martial artist, he loved reading books, reciting poetry and was once praised as a talented man of literature and martial arts. History books do not record much about him, but through his works, future generations can understand the thoughts and heart of a hero named Pham Ngu Lao. Among them, it is impossible not to mention the work "Confessing Your Heart" (Thuat Hoi) written about the beauty of the image of a brave and fierce national defense hero with great ideals and personality; about the beauty of the era with strength and heroic spirit.
Therefore, right in the opening two verses, we encounter a very beautiful and heroic image:
“Hoang Soc Giang Son celebrates autumn,
Tam Quan, Pi Tiger, Village Niuu Qi"
Poetry translation:
“Dancing across the mountains and rivers for several autumns,
"Three powerful military weapons can swallow buffaloes."
In the poetic translation, the word "hoang squirrel" means "spear dancing", referring to the posture of the hero holding a spear to preserve and protect the country. However, only the word "hoong squirrel" can most clearly express the proud, fierce posture - representing the iron and heroic spirit of the hero who is full of spirit, always willing to sacrifice his life for the people and the country. The author does not mention who the subject is, but the reader still understands that these words are only for heroes, for those who are full of spirit to fight against the enemy. They don't need to know about space or time, anywhere on this "mountain and river" is their country, and no matter how many autumns or thousands of autumns they have experienced, they are still the same, always with one heart and mind. loyal to his country, always ready to sacrifice at any time to save his people. And from such people, an extremely powerful army was created:
"Three armies, tigers, village ox"
(“Three strong military weapons swallow up buffalo”).
The above verse can be understood in two ways: the way it is translated and another way is that the spirit surpasses the Taurus star, meaning the spirit surpasses the stars. Perhaps, there is no word that can fully express the mighty spirit of the Tran dynasty's army, to the point that Pham Ngu Lao had to use the Taurus star to express that mighty strength.
However, the army is so strong, but in the hearts of military generals, there is always a feeling:
“The son of the willow will be famous and fruitful,
Cultivating a false listener tells the story of Marquis Vu".
Poetry translation:
"A man's reputation still has debts,
I'm embarrassed to listen to Marquis Vu's story."
For Pham Ngu Lao, a person deserves to be a true man when he makes a name for himself with the country. His noble ideals and personality are summed up in the verse "A man takes care of his good name and fruit". He did not allow himself to be inferior or ordinary. On the contrary, he directed himself towards bigger, stronger things. That is merit and reputation for the country. He wanted to live and devote himself to the people. Therefore, when looking back at himself, and thinking of Marquis Vu, Pham Ngu Lao humbly used the two words "shame". Marquis of Wu, also known as Zhuge Liang, who was from the Three Kingdoms period, had many contributions to help Liu Bei restore the Han Dynasty, and was awarded the title of Marquis of Wu Liang (often shortened to Marquis of Wu). It is not by chance that Pham Ngu Lao mentioned this famous hero in history, but it is a noble ideal, a motivation for martial artists to strive to rise up and strive to contribute more.
|
Bài làm
Nguyễn Trãi – một nhân vật lịch sử nổi tiếng được nhiều người nhắc đến với vai trò vừa là một vị quan thanh liêm, đạo đức, có nhân cách cao đẹp, vừa là một nhà thơ tài hoa với nhiều tác phẩm để đời. Thơ ông thường thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân, yêu thiên nhiên, gắn bó thiết tha với thiên nhiên. Và một trong những bài thơ thể hiện dòng tư tưởng ấy chính là tác phẩm “Cảnh ngày hè” (bài số 43 trong “Bảo kính cảnh giới”).
Nếu như Xuân Diệu cũng từng ngập tràn trong cảnh sắc của mùa xuân đang mơn mởn tuôn trào sức sống qua bài thơ “Vội vàng”, thì ở đây Nguyễn Trãi cũng hòa mình vào thiên nhiên đang rực rỡ khoe sắc giữa mùa hè:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương,
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”.
Nhịp điệu từng vần thơ như tiếng reo lên hối hả của Nguyễn Trãi trước một “mâm cỗ” đầy đặn của thiên nhiên. Trong đó có hòe lục, có thạch lựu, có hồng liên trì. Điều đặc biệt là tất cả đang trỗi dậy một cách mạnh mẽ và mãnh liệt đến nỗi tác giả phải sử dụng những động từ rất mạnh: “đùn đùn”, “phun” và sau cùng là “tiễn”. Những từ ngữ ấy cho thấy thiên nhiên đang dồi dào sức sống, và dường như mọi thứ đang tuôn trào từ trong thân cây mà không có bất kỳ một vật cản nào. Giống như tình yêu thiên nhiên đang sôi sục trong lòng tác giả, tuôn trào ra khỏi đầu cây bút và viết lên thành những vần thơ độc đáo này. Phải là người yêu thiên nhiên lắm, và gắn bó tha thiết với thiên nhiên mới có thể có được những cảm nhận tuyệt vời như vậy.
Không những thế, Nguyễn Trãi còn là một vị quan rất quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. Ông đã có một cái nhìn rất bao quát về cảnh sinh hoạt của mọi người xung quanh mình, qua đó Nguyễn Trãi cũng thể hiện nỗi niềm tâm tư của bản thân:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Cảnh dân làng thu về những mẻ cá đang lao xao buôn bán, trao đổi với nhau, trông thật nhộn nhịp, vui mắt. Cảnh ấy rất yên bình, chân quê và chất phác, gợi lên một cuộc sống giản dị mà êm ấm. Cộng thêm tiếng ve kêu gọi hè càng làm cho không gian buổi chợ thêm náo nhiệt. Nhưng đằng sau những cảnh ấy lại là nỗi lòng của tác giả khi ông nhắc đến “Ngu cầm”. Theo thần thoại Trung Quốc kể rằng hai triều vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai triều đại lí tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc. Riêng vua Ngu Thuấn có khúc hát Nam phong, trong đó có câu: Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề (Gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của). Ngu cầm là đàn của vua Ngu Thuấn. Ý cả câu là: Hãy để cho ta có đàn của vua Thuấn để đàn một khúc Nam phong.
Chẳng phải vô tình Nguyễn Trãi nhắc đến hai triều đại thần thoại của Trung Quốc, mà đó chính là nỗi niềm mong ước của chính ông. Ông mong rằng đất nước mình cũng được hòa bình, thịnh trị, ấm êm và hạnh phúc. Một lý tưởng rất cao đẹp thể hiện nhân cách cao cả của nhà thơ. Cũng như Phạm Ngũ Lão từng hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ hầu. Cả hai vị quan đều sống rất anh minh và luôn ấp ủ nỗi niềm mong mỏi về một non sông giàu đẹp, một đất nước hòa bình, êm ấm.
Nguyễn Trãi đã trực tiếp thể hiện niềm mong ước của mình qua câu thơ cuối:
“Dân giàu đủ khắp đòi phương”
|
Assignment
Nguyen Trai - a famous historical figure mentioned by many people as both an honest, ethical mandarin with a noble personality and a talented poet with many lifetime works. His poems often express his patriotism, love for the people, love for nature, and passionate attachment to nature. And one of the poems expressing that line of thought is the work "Summer Day Scene" (poem number 43 in "Precious Realms").
If Xuan Dieu was also immersed in the scenery of spring blooming with vitality through the poem "Hurry", then here Nguyen Trai also immerses himself in the brilliant nature blooming in the middle of summer:
“Then enjoy the fresh air of school days,
Green flowers spread out and spread out,
Pomegranate jelly still sprays red,
The red lotus tree has sent away the scent."
The rhythm of each poem is like Nguyen Trai's hurried screams in front of a full "tray" of nature. Among them are green roses, pomegranates, and persimmon. The special thing is that everything is rising so strongly and intensely that the author has to use very strong verbs: "extrusion", "spraying" and finally "seeing off". Those words show that nature is full of vitality, and it seems that everything is flowing from the tree trunk without any obstructions. It's like the love of nature is boiling in the author's heart, flowing out of the tip of the pen and written into these unique poems. It takes someone who loves nature very much, and is deeply attached to nature to be able to have such wonderful feelings.
Not only that, Nguyen Trai is also an official who is very interested in the lives of the people. He had a very comprehensive view of the daily life of everyone around him, through which Nguyen Trai also expressed his own feelings:
“The bustle of the fisherman's village fish market
Carefully holding the cicadas on the floor of the Yangtze floor
There will be Ngu playing the guitar for a while,
Rich people everywhere demand direction."
The scene of villagers collecting catch of fish, busily trading and exchanging with each other, looks bustling and cheerful. The scene is very peaceful, rustic and simple, evoking a simple but cozy life. Plus the sound of cicadas calling for summer makes the market space even more bustling. But behind those scenes is the author's feelings when he mentions "Ngu Cam". According to Chinese mythology, the two dynasties of King Tang Yao and Ngu Shun were two ideal dynasties with peaceful society and happy people. Particularly, King Ngu Thuan has a song called Nam Phong, which has the sentence: "If the wind is favorable in the south, then it is not possible to spare the people's wealth." The Ngu Cam is the instrument of King Ngu Thuan. The meaning of the whole sentence is: Let me have King Thuan's instrument to play a piece of Nam Phong.
It was not by accident that Nguyen Trai mentioned two mythical dynasties of China, but that was his own wish. He hoped that his country would also be peaceful, prosperous, peaceful and happy. A very noble ideal that shows the poet's noble personality. Just like Pham Ngu Lao was once ashamed when he heard the story of Marquis Vu. Both mandarins lived very wisely and always cherished the desire for a rich and beautiful country, a peaceful and warm country.
Nguyen Trai directly expressed his wish through the last verse:
"Rich people everywhere demand direction"
|
Bài làm
Nguyễn Trãi là một trong những nhân vật lịch sử được nhiều người biết đến. Ông vừa là một vị quan trung thành, yêu nước thương dân, luôn sống liêm khiết, trong sạch và yêu thiên nhiên vô cùng, vừa là một nhà thơ nổi tiếng với nhiều tác phẩm giàu giá trị. Mỗi một tác phẩm đều thể hiện một nỗi niềm riêng của ông. Trong đó, bài thơ “Cảnh ngày hè” với những cảnh sắc thiên nhiên sống động đã ẩn chứa bao tâm tư, tình cảm của Nguyễn Trãi đối với thiên nhiên, với con người và đất nước.
Bởi quá yêu thiên nhiên, nên ông đã để hồn mình hòa nhập vào vạn vật xung quanh một cách trọn vẹn:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.”
Hòe lục, thạch lựu và hồng liên trì chỉ là những loài cây hết sức bình thường, nhưng khi hiện hữu dưới ngòi bút của nhà thơ, tất cả đã tạo nên một khung cảnh hết sức sống động và tràn trề nhựa sống: Hòe lục đùn đùn, thạch lựu phun, Hồng liên trì tiễn. Những động từ mà tác giả đã dùng đều thể hiện một sức sống đang tuôn trào mạnh mẽ, như có một lực gì đó đang thúc đẩy ngay bên trong thân cây, khiến chúng phải bung ra khỏi cành cây, nở rộ trước đất trời mùa hạ. Cây cối sinh sôi nảy nở theo quy luật tự nhiên của chúng, nhưng ở đây, lòng yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ giống như một loại chất kích thích mạnh mẹ khiến cây cối trỗi dậy, vươn mình tỏa sắc hương. Xuân Diệu cũng từng yêu thiên nhiên đến mức cuồng si, mãnh liệt:
“Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si ”
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Cả hai nhà thơ đều hòa mình vào thiên nhiên, biến hóa thiên nhiên với những động từ, tính từ mạnh khiến cảnh vật hiện lên giống như một mâm cỗ cao sang, thịnh vượng với những món ăn nóng hổi đang chờ người thưởng thức. Và nếu như Xuân Diệu muốn ngấu nghiến cảnh sắc của mùa xuân, thì ở đây Nguyễn Trãi lại hào hứng tận hưởng những “món ngon” của mùa hè.
Không những thế, Nguyễn Trãi còn có tấm lòng yêu thương con người rất chân thành và giản dị qua những vần thơ tiếp theo:
“Lao xao chợ cá làng ngủ phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Bên cạnh cảnh sắc thiên nhiên đang tràn trề sức sống, một cảnh tượng khác về con người nơi đây cũng đang tấp nập nhộn nhịp. Hai từ “lao xao” cũng đủ để nói lên sự huyên náo của “chợ cá làng ngư phủ” – một ngôi làng sống bằng nghề đánh bắt cá. Phiên chợ mua bán trao đổi cá thật sống động dưới ngòi bút của nhà thơ. Cộng thêm tiếng ve kêu “dắng dỏi” càng làm cho không gian thêm nhộn nhịp và đậm chất mùa hè. Trong khung cảnh ấy, lại khiến cho lòng người chất chứa bao cảm xúc.
Nhất là đối với một người giàu lòng yêu thiên nhiên, yêu con người như Nguyễn Trãi. Thế nên, ông đã nhắc đến câu chuyện thần thoại của Trung Quốc về “Ngu cầm”. Thần thoại ấy kể rằng hai triều vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai triều đại lí tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc. Riêng vua Ngu Thuấn có khúc hát Nam phong, trong đó có câu: Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề (Gió nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của). Ngu cầm là đàn của vua Ngu Thuấn. Ý cả câu: Hãy để cho ta có đàn của vua Thuấn để đàn một khúc Nam phong.
|
Assignment
Nguyen Trai is one of the famous historical figures. He was both a loyal official, patriotic to the people, always lived an honest, pure life and loved nature immensely, as well as a famous poet with many valuable works. Each work expresses his own feelings. In it, the poem "Summer Day Scene" with its vivid natural scenery contains many of Nguyen Trai's thoughts and feelings towards nature, people and the country.
Because he loved nature so much, he let his soul fully integrate into everything around him:
“Then enjoy the fresh air of school days,
Green flowers spread out and spread out.
Pomegranate jelly still sprays red,
The red lotus tree has sent away the scent.”
Green rose, pomegranate and persimmon are just very ordinary plants, but when they exist under the poet's pen, they all create a very lively scene full of life: Green rose. extrusion extrusion, pomegranate spray, Red lotus chi arrow. The verbs that the author used all express a strong flowing vitality, as if there is a force pushing right inside the tree trunk, causing them to burst out of the branches, blooming before the weather. Summer. Trees proliferate according to their natural laws, but here, the poet's passionate love for nature is like a strong stimulant that causes the trees to rise up and spread their fragrance. Xuan Dieu also loved nature to the point of madness and intensity:
“This is the honeymoon of bees and butterflies;
Here are the flowers of the green fields;
Here and there, the leaves of silk branches flutter;
This is my song of love."
(Hurry – Xuan Dieu)
Both poets immerse themselves in nature, transforming it with strong verbs and adjectives, making the scene appear like a luxurious, prosperous feast with hot dishes waiting to be enjoyed. And if Xuan Dieu wants to devour the scenery of spring, here Nguyen Trai is excited to enjoy the "delicious dishes" of summer.
Not only that, Nguyen Trai also has a very sincere and simple heart of love for people through the following poems:
“The bustle of the fish market in the sleepy village
Carefully holding the cicadas on the floor of the Yangtze floor
There might be a fool who plays the guitar for a while
Rich people everywhere demand direction."
Besides the natural scenery that is full of vitality, another scene of people here is also bustling. The two words "noisy" are enough to express the bustle of the "fisherman's village fish market" - a village that lives by fishing. The fish trading market is very lively under the poet's pen. Plus the loud sound of cicadas makes the space even more bustling and summery. In that scene, people's hearts are filled with so many emotions.
Especially for a person who loves nature and people like Nguyen Trai. So, he mentioned the Chinese myth of “Yuqin”. That myth tells that the two dynasties of King Duong Nghieu and Ngu Thuan were two ideal dynasties, with a peaceful society and happy people. Particularly, King Ngu Thuan has a song called Nam Phong, which has the sentence: "If the wind is favorable in the south, then it is not possible to spare the people's wealth." The Ngu Cam is the instrument of King Ngu Thuan. The meaning of the whole sentence is: Let me have King Thuan's instrument to play a Nam Phong song.
|
Bài làm
Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Vốn thông minh nên từ nhỏ cô đã thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. Năm 16 tuổi, cô làm vợ lẽ một nhà quyền quý. Những tưởng sẽ được sống cuộc sống hạnh phúc, ấm êm, sung túc đủ đầy nhưng thật bất hạnh khi người cả lại là người hay ghen, bắt cô phải sống riêng một mình trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Vì đau buồn, cô sinh bệnh rồi chết ở tuổi 18 – cái tuổi đang độ thanh xuân tràn trề, đang dạt dào bao lý tưởng, ước mơ. Nhưng cuộc đời bất hạnh là lòng người nghiệt ngã đã giết chết một cô gái tài hoa mà bạc mệnh. Bao nhiêu nỗi uất ức, đau khổ được cô gái gửi vào thơ nhưng nhiều bài đã bị người vợ cả đốt. May mắn còn sót lại một số bài và được người sau gìn giữ, đặt tên là Phần dư. Ba trăm năm sau, Nguyễn Du – một nhà thơ luôn có tấm lòng xót thương cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc đã bắt gặp được những bài thơ đoản mệnh ấy. Nỗi đau của Tiểu Thanh chạm đến trái tim thương cảm sâu sắc của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ông đặt bút và nước mắt tuôn trào, những tiếng nấc nghẹn ngào, xót xa bật ra khỏi đầu bút và ông viết lên những vần thơ mang tên “Độc Tiểu Thanh Kí”.
Nhan đề bài thơ có hai cách hiểu: một là đọc tập thơ của Tiểu Thanh, hai là Tiểu Thanh Kí, nghĩa là câu truyện viết về nàng Tiểu Thanh. Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa, đây cũng là tiếng lòng đồng cảm, xót thương của Nguyễn Du tới một cuộc đời bất hạnh, khổ đau, một nữ giai nhân có tài có sắc nhưng số phận hẩm hiu, nghiệt ngã.
Lòng buồn, nước mắt rơi, nên vần thơ cũng đượm buồn da diết:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chi thư.”
Dịch thơ:
“Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn”
“Cảnh đẹp” nhưng lòng người nặng trĩu những buồn đau. “Cảnh đẹp” nhưng cuộc đời bi thảm không cho phép người con gái tài sắc mang tên Tiểu Thanh ấy được vui vầy với tuổi xuân. Vườn hoa nơi nàng sống lẽ ra sẽ là nơi cho nàng đón những tia nắng bình minh tinh khiết và rong chơi trong những buổi hoàng hôn diệu kỳ. Nhưng không, cuộc đời nàng lại là một dấu chấm than ngắn ngủi khi vườn hoa ấy chính là “gò hoang”, là nơi chôn cất thân xác nàng khi tuổi vừa mới sang xuân. Nỗi đau ấy, khiến cho lòng Nguyễn Du phải “thổn thức” khi đọc được những vần thơ ai oán, sầu bi. “Gò hoang”, “mảnh giấy tàn” đều là những từ ngữ gợi lên sự buồn thương da diết, khôn nguôi. Dường như nhà thơ muốn chạm tay vào quá khứ, muốn kéo nàng Tiểu Thanh ra khỏi cảnh u uất ấy, nhưng ngăn cách quá lớn, ông chỉ còn biết gửi lòng mình về miền quá khứ xa xôi ấy, để đồng cảm và để khóc cùng người con gái bạc mệnh, khổ đau:
“Chi phấn hữu thần liên từ hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
Dịch thơ:
“Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương”
Một cô gái chưa tròn hai mươi đã phải chịu quá nhiều ấm ức và đơn đau cả về thể xác lẫn tinh thần. Có tài, có sắc, nhưng lại không được hưởng một cuộc sống hạnh phúc mà phải sống cô đơn, hiu quạnh. Ngày đêm nàng chỉ còn biết làm bạn với son phấn, với những vần thơ ai oán đớn đau. Lòng người vô tâm vô cảm đã đẩy nàng vào cảnh sống lẻ loi và hiu quạnh. Cùng là thân phận phụ nữ, sống cùng thời, cùng chế độ phong kiến nam quyền nhưng vì lòng ích kỷ, người vợ cả ghen tuông, không cho nàng được sống một cuộc sống bình yên. Thậm chí, lúc chết rồi, những vần thơ là tiếng lòng của nàng cũng bị bà ta đốt. Cũng may còn xót lại một số bài, để đến thời điểm này, khi Nguyễn Du bắt gặp, trái tim ông dường như muốn tan chảy vì số phận hẩm hiu của người con gái xấu số. Và rồi, ông nghĩ đến những cuộc đời bất hạnh khác, cũng tài hoa, nhưng cũng nhận lại một kết cục bi thảm không khác gì Tiểu Thanh.
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”
Dịch thơ:
“Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.”
Đồng cảm với Tiểu Thanh, với mối hận trong lòng nàng, một mối hận có hỏi trời, trời cũng không thấu. Và mỗi hận ấy đâu chỉ riêng nàng, mà còn có Đỗ Phủ, có Khuất Nguyên. Họ cũng là những người tài hoa mà bạc mệnh. Có lẽ lúc này tác giả đang suy tư lắm, buồn đau lắm khi không thể làm gì giúp cho những số phận bất hạnh ấy vượt lên trên hoàn cảnh của mình. Mọi thứ dồn nén trong lòng ông, được tuôn trào ra khỏi đầu ngọn bút, viết lên thành những vần thơ não nề, ảm đạm. Ông muốn hỏi trời, trời không thấu nhưng ai cũng hiểu rằng, số phận của nàng Tiểu Thanh và của những người cùng cảnh với nàng là do chế độ phong kiến bất nhân bất nghĩa mang lại, do người đời vô tâm, ích kỷ hẹp hòi đã đẩy đồng loại của mình vào cảnh sống điêu tàn, cô liêu.
Và rồi, nhà thơ cũng tự nhìn lại mình mà than rằng:
“Bất tri tam bách, dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Dịch thơ:
“Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
|
Assignment
Legend has it that Tieu Thanh was a talented and beautiful Chinese girl who lived around the early Ming Dynasty. Being intelligent, from a young age she understood many arts such as poetry and music. At the age of 16, she became the concubine of a noble family. She thought she would live a happy, warm, and prosperous life, but it was unfortunate when her eldest was jealous, forcing her to live alone on Co Son, next to Tay Ho. Because of grief, she got sick and died at the age of 18 - an age when she was full of youth, full of ideals and dreams. But an unhappy life is a cruel human heart that killed a talented but ill-fated girl. The girl put a lot of frustration and suffering into poetry, but many of the poems were burned by the first wife. Luckily, a few articles remained and were preserved by later people, naming them Residuals. Three hundred years later, Nguyen Du - a poet who always had compassion for the unfortunate fate of talented women - encountered those short-lived poems. Tieu Thanh's pain touched the deeply sympathetic heart of the great national poet Nguyen Du. He put the pen down and tears flowed, choking, painful sobs burst out of the tip of the pen and he wrote poems called "Doc Tieu Thanh Ki".
The title of the poem has two interpretations: one is to read Tieu Thanh's poetry collection, the other is Tieu Thanh Ki, meaning the story about Tieu Thanh. No matter how you understand it, this is the voice of Nguyen Du's sympathy and compassion for an unhappy and miserable life, a beautiful woman with talent and beauty but a sad and cruel fate.
The heart is sad, tears fall, so the poem is also filled with sadness:
“The flowers of the West Lake fade away into ruins,
One book, two books, one book."
Poetry translation:
"West Lake's beautiful scenery has turned into a deserted mound,
Sobbing next to the broken piece of paper"
"Beautiful scene" but people's hearts are heavy with sadness. "Beautiful scenery" but a tragic life did not allow that talented girl named Tieu Thanh to enjoy her youth. The flower garden where she lives would have been a place for her to catch the pure rays of dawn and roam in magical sunsets. But no, her life was a short exclamation point when that flower garden was the "wild mound", the place where her body was buried when she had just turned spring. That pain made Nguyen Du's heart "sobbing" when he read the plaintive and sad poems. “Abandoned mound”, “ruined piece of paper” are all words that evoke deep, inconsolable sadness. It seems like the poet wants to touch the past, wants to pull Tieu Thanh out of that melancholy situation, but the gap is too great, he can only send his heart to that distant past, to sympathize and cry. with the unfortunate and miserable girl:
“The godly pollen is connected from behind,
Literature has no fate or residue."
Poetry translation:
“Powder has the power to bury hatred,
Literature that is not destined to be burned still lingers"
A girl who was not yet twenty had to endure so much resentment and pain, both physically and mentally. Having talent and beauty, but not enjoying a happy life but having to live alone and lonely. Day and night, she only knows how to make friends with makeup and painful, plaintive poems. People's heartless and indifferent hearts pushed her into a lonely and lonely life. The same fate of women, living in the same time, under the same feudal male regime, but because of selfishness, the first wife was jealous and did not allow her to live a peaceful life. Even when she died, the poems that were her heart's voice were burned by her. Fortunately, some of the articles remained, so that at this point, when Nguyen Du encountered them, his heart seemed to melt because of the sad fate of the unfortunate girl. And then, he thought of other unfortunate lives, also talented, but also received a tragic ending no different from Tieu Thanh.
“Ancient and present hate the troubles of the past,
"Fate of fate, injustice, self-reflection"
Poetry translation:
“Ancient times of anger and wisdom ask,
The sentence of exile is brought upon oneself."
Sympathize with Tieu Thanh, with the hatred in her heart, a hatred that even if you ask God, God will not understand. And that hatred was not only for her, but also for Du Phu and Khuat Nguyen. They are also talented but ill-fated people. Perhaps at this time the author is very thoughtful, very sad that he cannot do anything to help those unfortunate fates overcome their circumstances. Everything pent up in his heart, poured out from the tip of his pen, written into sad, gloomy poems. He wanted to ask God, but God couldn't understand, but everyone understood that Tieu Thanh's fate and that of people in the same situation as her were brought about by the unjust feudal regime, by people's indifference and selfishness. He has pushed his fellow human beings into a life of desolation and desolation.
And then, the poet also looked back at himself and lamented:
“Not knowing the three hundred years, after many years,
People in the world are waiting for To Nhu?”
Poetry translation:
“I don't know three hundred years from now,
|
Bài làm
Từ xưa đến nay, dù là bất cứ ai hay ở bất cứ đâu, khi nói đến duyên phận, người ta vẫn mặc định cho rằng đó là ý trời, trời cho thế nào, trao duyên cho ai thì người đó nhận như vậy, không có quyền lựa chọn hay cưỡng cầu. Vậy nhưng trong đoạn trích “ Trao duyên” ( Truyện Kiều), Nguyễn Du đã trao cho Thúy Kiều cái sự nhờ vả, trao duyên cho em gái của mình. Ở đoạn trích, ta sẽ thấy được sự đau xót, xúc động của Thúy Kiều khi phải tự mình nhờ cậy trao mối tình đầu của mình cho em gái Thúy Vân. Một cuộc trao duyên đầy bất hạnh, trớ trêu.
Trong “ Trao duyên”, Thúy Kiều đã phải mang duyên của mình, tình yêu của mình đem trao cho người khác. Người đó lại chính là em gái của nàng, vậy nên nàng càng thêm phần chua xót:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi nên cho chị lậy rồi sẽ thưa.
Chỉ hai câu thơ thôi mà như chứa đựng vô vàn nước mắt của Thúy Kiều. Thúy Kiều là chị, nhưng ở trong hoàn cảnh này, nàng lại phải thưa, lạy với Thúy Vân, người em gái ruột của nàng. Trời đã trao cho nàng mối duyên với Kim Trọng, nhưng lại không cho hai người được ở bên nhau. Nàng không biết mai này mình sẽ ra sao, lại không nỡ phụ lòng chàng Kim, nên quyết định cậy nhờ Thúy Vân viết tiếp câu truyện tình còn đang dang dở ấy. Đọc câu thơ, người đọc cảm nhận được sự đau xót đến tận cùng của người con gái. Nguyễn Du dùng từ “ cậy” như một điểm nhấn trong câu thơ.
Tiếp theo, Thúy Kiều bắt đầu nói đến những nỗi lòng của mình với em gái:
Giữa đường dứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đọc đến những câu thơ này, có lẽ từ “ cậy” không còn mang ý nghĩa là nhờ vả nữa, mà là ép buộc, buộc phải làm. Thúy Kiều đã phải hy sinh bản thân mình, vì chữ hiếu mà phụ chữ tình. Nàng thà phụ tình chứ không phụ cha mẹ, bởi nàng là một người đẹp người đẹp nết, vô cùng hiếu thảo. Bởi vậy, khi tình duyên đã đứt gánh, nàng không thể tiếp tục thì đành cậy nhờ Thúy Vân có thể thay nàng tiếp tục mối lương duyên. Và dù trao duyên, nhờ cậy em gái nhưng lòng nàng vẫn rất mực đau đớn. Bao nhiêu hẹn ước xưa kia giờ lại như là những con dao cứa vào trái tim nàng.
Có lẽ sợ em gái từ chối, nên Thúy Kiều đã khéo léo dùng máu mủ để khiến Thúy Vân không thể chối từ nàng:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Hai chị em Thúy Kiều- Thúy Vân cũng chừng ngang tuổi nhau, đều đang ở độ tuổi đẹp nhất của người con gái. Vậy nhưng nàng lại nhắn nhủ với em rằng “ ngày xuân em còn dài”, nên hãy nghĩ đến máu mủ mà thay chị tiếp tục mối lương duyên. Còn chị có thể sẽ gặp chuyện chẳng lành, có thể thịt nát xương tan. Nhưng dù vậy, nếu được em giúp đỡ thì chị sẽ có thể “ ngậm cười chín suối”. Có thể nói, Thúy Kiều rất lương thiện, yêu và hy sinh cho những người thân yêu của mình, dù có chết cũng không chối từ. Nàng trao cho em gái mối lương duyên mà nàng trân trọng, yêu thương. Dù rất đau xót nhưng nàng không thể làm điều gì khác hơn được nữa. Và có lẽ nàng đã nghĩ đến cái chết hiện hữu ngay trước mắt trong những câu thơ sau:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đèn nghỉ trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
|
Assignment
From ancient times until now, no matter who or where they are, when it comes to fate, people still assume that it is God's will. no right to choose or force. However, in the excerpt "Giving fate" (The Tale of Kieu), Nguyen Du gave Thuy Kieu a favor and gave fate to his sister. In the excerpt, we will see Thuy Kieu's pain and emotion when she had to rely on herself to give her first love to her sister Thuy Van. A love exchange full of misfortune and irony.
In "Giving Fate", Thuy Kieu had to bring her fate, her love, to others. That person was her younger sister, so she felt even more bitter:
Trust me, I agree
Sit down and let me lie down and then I'll talk to you.
Just two verses of poetry seem to contain countless tears from Thuy Kieu. Thuy Kieu is the older sister, but in this situation, she has to say and bow to Thuy Van, her biological younger sister. God gave her a relationship with Kim Trong, but did not allow the two to be together. She didn't know what would happen to her tomorrow, and she couldn't bear to disappoint Kim, so she decided to ask Thuy Van to continue writing that unfinished love story. Reading the poem, the reader feels the girl's ultimate pain. Nguyen Du uses the word "trust" as a highlight in the poem.
Next, Thuy Kieu began to talk about her feelings to her sister:
In the middle of the road, let go of the burden of love
Glue loan pieced together the excess thread and left me alone
Since meeting Kim
When day fanning and wishing, night swearing
Any turbulence
Understanding love is wise in both ways.
Reading these verses, perhaps the word "rely" no longer means to ask for help, but to force, to force. Thuy Kieu had to sacrifice herself, out of filial piety and love. She would rather betray her lover than her parents, because she is a beautiful and well-mannered woman, extremely filial. Therefore, when the relationship ended and she could not continue, she had to rely on Thuy Van to continue the relationship on her behalf. And even though she gave love and relied on her sister, her heart was still very painful. So many old promises were now like knives cutting into her heart.
Perhaps afraid of her sister's rejection, Thuy Kieu cleverly used blood and flesh to make Thuy Van unable to refuse her:
My spring days are still long
Merciful love of immature blood instead of words
Even though her flesh was broken and her bones were broken
Smiling until the stream is still fragrant.
The two sisters Thuy Kieu and Thuy Van are about the same age, both at the most beautiful age of girls. However, she reminded me that "your spring days are still long", so think of blood and blood to continue the relationship on my behalf. As for you, something bad may happen to you, your flesh and bones may be broken. But even so, if you help me, I will be able to "smile until the end". It can be said that Thuy Kieu is very honest, loves and sacrifices for her loved ones, even if she dies, she will not refuse. She gave her sister a relationship that she cherished and loved. Although it was very painful, she could not do anything else. And perhaps she was thinking about the death that existed right before her eyes in the following verses:
Tomorrow, no matter when
Light the incense burner and compare it to this key
Looking out over the grass and leaves
Seeing the cool breeze means she's coming home
The soul still carries a heavy oath
The body of the willow tree is broken and the lantern rests on the apricot bamboo tree
The stage is hidden from view
|
Bài làm
Đứng trước thành Cổ Loa, tôi chợt nhớ lại TruyệnAn Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy. Nàng Mị Châu tội nghiệp đã vô tình gây nên bi kịch nước mất nhà tan và phải chịu chết thê thảm dưới lưỡi đao của chính cha mình – An Dương Vương. Nói về người con gái thùy mị, nết na ấy, người thương kẻ xót nhưng cũng không ít những lời trách mắng vì chính sự ngây thơ, dại dột của nàng đã gây nên nỗi đau mất nước cho vua cha, cho cả đồng bào đất Việt.
Mị Châu được vua cha An Dương Vương gả cho con trai Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy dụ dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt Rùa Vàng, nói dối là về phương Bắc thăm cha, dặn Mị Châu nếu có hoạn nạn xảy ra thì nhớ làm dấu để Trọng Thủy biết đường tìm đến. Mị Châu nghe tin lời chồng. Còn An Dương Vương chủ quan vì mình có nỏ thần nên không sợ bất kỳ nước nào xâm chiếm. Trọng Thủy vừa về thì hai nước chiến tranh. An Dương Vương bấy giờ mới phát hiện nỏ thần bị mất, bèn dẫn theo con gái tháo chạy thoát thân. Đến bờ biển, vua cha phát hiện kẻ gian chính là Mị Châu liền vung kiếm chém chết nàng.
Người con gái tội nghiệp không hề ý thức được việc mình làm gây hậu quả nặng nề như thế nào cho đất nước. Thương nàng vì nàng một lòng tin chồng, yêu chồng nhưng cũng giận nàng vì không suy nghĩ cho kỹ trước những lời dụ dỗ của Trọng Thủy. Biết rằng lấy chồng phải theo chồng nhưng không phải vì thế mà cả tin đến mức mù quáng, dại dột dẫn đến sự việc đau lòng: nước mất nhà tan và cuối cùng là bị chính cha mình giết chết. Mọi việc đã được Đà sắp đặt, Mị Châu chỉ là nạn nhân và là công cụ để chúng sử dụng cho mục đích của mình.
Khi xét trên cương vị là một người vợ, Mị Châu đã hết lòng yêu thương chồng, tin tưởng chồng. Nàng là một người phụ nữ đúng nghĩa của gia đình phong kiến Việt Nam: thùy mị, nết na, công dung ngôn hạnh đều đủ cả. Lấy được người vợ hoàn hảo như vậy, lẽ ra Trọng Thủy phải trân trọng, nâng niu và đáp lại tấm lòng nàng bằng sự quân tử của mình. Việc Mị Châu cho chồng xem chiếc nỏ thần của An Dương Vương cũng vì nàng một lòng tin tưởng chồng. Nhưng đáng tiếc, Trọng Thủy lại là con trai của Đà, của nước láng giềng đã từng bại trận dưới tay An Dương Vương. Nỗi nhục thua trận chưa dứt, Đà bày mưu tính kế dùng hạnh phúc của con mình để đạt được điều mình muốn. Chiến tranh xảy ra, Mị Châu vẫn chưa biết chính mình là kẻ đã tiếp tay cho giặc, nàng vẫn tin tưởng Trọng Thủy tuyệt đối, rắc lông ngỗng để làm dấu cho Trọng Thủy tìm theo. Và đúng như kế hoạch, chúng đã dành được chiến thắng, gây nên cái chết tội nghiệp cho nàng Mị Châu đáng thương.
Khi xét về cương vị là con gái vua An Dương Vương, là công chúa cả một đất nước, việc Mị Châu lén cho Trọng Thủy xem nỏ thần là hành động vi phạm bí mật quốc gia, gây nên hậu quả nghiêm trọng, đáng bị trừng phạt. Vua cha cũng rất nghiêm nghị, một khi đã vi phạm thì dù có là người thân thích, ruột thịt cũng phải chịu hình phạt như dân thường. Tình ngay nhưng lý gian. Mị Châu yêu chồng nhưng cũng thương cha. Mị Châu không phải người gian sảo, có mưu mô tính toán. Tất cả những gì nàng làm đều xuất phát từ tình yêu thương trong sáng. Chỉ có điều tình yêu ấy đã đặt nhầm chỗ khiến nàng phải chết thê thảm trong tay chính cha đẻ của mình.
|
Assignment
Standing in front of Co Loa citadel, I suddenly remembered the story of An Duong Vuong and My Chau - Trong Thuy. Poor Mi Chau accidentally caused the tragedy of losing her country and her family and had to die miserably under the knife of her own father - An Duong Vuong. Talking about that modest and modest girl, who was merciful but also had many scoldings because it was her naivety and foolishness that caused the pain of losing the country to her father, the king, and to all the people of the land. Vietnamese.
My Chau was married by her father, King An Duong Vuong, to Da's son, Trong Thuy. Trong Thuy seduced Mi Chau to let her see the magic crossbow, then secretly made another crossbow lever to replace the Golden Turtle's claw, lying that she was going to the North to visit her father, telling Mi Chau that if any trouble happened, remember to make a sign to let Trong Thuy know. way to find. Mi Chau heard her husband's words. As for An Duong Vuong, he was subjective because he had a magic crossbow so he was not afraid of any country invading. As soon as Trong Thuy returned, the two countries went to war. Only then did An Duong Vuong discover that the magic crossbow was missing, so he took his daughter and fled. Arriving at the beach, his father discovered that the intruder was Mi Chau, so he swung his sword and slashed her to death.
The poor girl was not aware of the serious consequences her actions had for the country. I pity her because she trusts her husband and loves him, but she is also angry with her for not thinking carefully about Trong Thuy's seductions. Knowing that when you get married, you have to follow your husband, but that doesn't mean you're so gullible that you're blind and foolish, leading to a heartbreaking incident: the loss of your country, the loss of your home, and finally being killed by your own father. Everything was arranged by Da, Mi Chau was just a victim and a tool for them to use for their purposes.
As a wife, Mi Chau wholeheartedly loved and trusted him. She is a true woman of a Vietnamese feudal family: modest, modest, and well-mannered. Having such a perfect wife, Trong Thuy should have respected, cherished and responded to her heart with his gentlemanliness. The fact that Mi Chau showed her husband An Duong Vuong's magic crossbow was also because she wholeheartedly trusted her husband. But unfortunately, Trong Thuy is the son of Da, of a neighboring country that was defeated at the hands of An Duong Vuong. The humiliation of losing the battle was not over yet, Da devised a plan to use his child's happiness to achieve what he wanted. When the war broke out, Mi Chau still did not know that she was the one who aided the enemy. She still trusted Trong Thuy absolutely and sprinkled goose feathers to make a mark for Trong Thuy to follow. And just as planned, they won, causing the pitiful death of poor Mi Chau.
Considering her position as the daughter of King An Duong Vuong and the princess of an entire country, Mi Chau secretly showing Trong Thuy the magic crossbow is an act of violating national secrets, causing serious consequences and deserving of punishment. punishment. The king's father was also very strict. Once he committed a violation, even if he was a relative or blood relative, he would have to suffer the same punishment as a commoner. Love is fair but reasonable. Mi Chau loves her husband but also loves her father. Mi Chau is not a cunning or calculating person. Everything she does comes from pure love. Only that love was misplaced, causing her to die miserably at the hands of her own father.
|
Bài làm
Một buổi sáng thật bình yên và trong trẻo. Đã bao lâu rồi mới thấy ánh mặt trời loang loáng sau vòm mây ửng hồng yếu ớt. Đất trời đang sang xuân, giã từ mùa đông lạnh lẽo sắp qua đi. Một làn gió nhè nhẹ mơn chớn bên tai tôi, cái lạnh không còn buốt giá như hôm nào. Xuân sắp đến rồi!
Nếu mùa đông là mùa băng giá, thì mùa xuân lại là mùa nảy nở những mầm non. Trước hiên nhà, cây hoa hồng đang bắt đầu đâm chồi trên những cành khẳng khiu. Một vài nụ hoa vắng bóng suốt cả mùa đông dài nay đang chúm chím đón lấy chút ánh nắng yếu ớt quý giá. Cỏ cây như đang choàng tỉnh dậy sau những ngày lạnh giá ủ rũ. Từng đàn chim én đi tránh rét đang lác đác trở về, làm tổ trên những cây cao. Mọi thứ dường như đang hồi sinh trở lại để đón một mùa xuân nữa lại đến. Sự sống lan tỏa khắp nơi. Từng nhành cây, ngọn cỏ đều trỗi mình vươn dậy hứng lấy chút ánh nắng ấm áp. Những giọt sương long lanh như còn vấn vương chưa muốn rời khỏi cành. Những đám mây hồng hồng trôi nhẹ nhàng, bồng bềnh quanh mặt trời như đang sưởi ấm để chuẩn bị cho mùa xuân sắp tới. Xa xa, những dãy núi trùng trùng điệp điệp lấp ló trong mây mù sương sớm. Cánh đồng trắng nước chuẩn bị cho mùa vụ mới bắt đầu.
Cảnh vật thiên nhiên thật tươi tắn, vui mắt. Vạn vật đều đổi thay sau những ngày dài buốt giá. Hàng cây xoan trên lối đường tới trường đang nhú lên những mầm non. Chim đậu trên cành hót líu lo góp thêm phần huyên náo vào vùng chợ quê. Không khí ấm áp hơn, gió vẫn thổi nhưng không còn lạnh lẽo như trước. Cây cối, hoa lá đều vươn mình dậy chuẩn bị cho mùa xuân sinh sôi nảy nở. Bất chợt một chú bướm vàng lượn quanh khiến lòng tôi mơ hồ nghĩ tới những ngày vui đùa cùng mẹ bên vườn rau trước cửa nhà. Giọng mẹ ấm áp như ánh nắng mùa xuân, mẹ nhoẻn miệng cười trong sương sớm với làn da ửng hồng mịn màng. Mẹ nhìn tôi với ánh mắt trìu mến thân thương. Một giọt sương rơi xuống vương trên làn tóc mẹ rồi nhẹ nhàng lăn xuống tan vào đám cỏ đang mọc lên xanh tốt. Mùa xuân lại sắp đến rồi, nhưng mùa xuân của mẹ đã không còn nữa. Mùa xuân năm ấy là mùa xuân cuối cùng của cuộc đời mẹ. Giữa lúc vạn vật đang sinh sôi nảy nở thì mẹ lại ra đi mãi mãi khi tuổi đời còn chưa hưởng hết thanh xuân.
Vậy nên, cứ mỗi lần đất trời sang xuân lại khiến lòng tôi man mác những nỗi niềm nhớ về mẹ…
Cảnh vật sẵn sàng đón xuân, người người nhà nhà cũng đang rũ mình khỏi mùa đông buốt giá. Mặt trời xuất hiện dù không mạnh mẽ chói chang nhưng cũng đủ để cô bé xắn quần lội xuống bờ ao rửa rau cho mẹ đi chợ mà không sợ bị lạnh nữa. Lúc trước, mỗi lần sờ vào nước là tay tê cứng lại, đỏ tía vì lạnh. Ai cũng xuýt xoa không muốn đụng vào nước. Nhưng mùa đông đang dần xa rồi, mùa xuân đang tới, mọi sinh hoạt hàng ngày dần quay trở lại theo nhịp sống nhộn nhịp của một vùng quê chân chất với cánh đồng rau bát ngát mướt xanh. Bác Hồng, cô Tú tranh thủ gánh nước tưới cho luống cải mới gieo. Bà Oanh ngồi nhặt cỏ chăm bón cho luống hành để chuẩn bị bán chợ Tết. Thím Loan mở cửa chuồng thả vịt vào đồng cho chúng tận hưởng dòng nước mới vừa được hợp tác xã lấy về để phục vụ bà con trong vụ mùa sắp tới. Mỗi người một công việc. Người trồng rau, người chăn nuôi… Tất cả đều hối hả cho mùa xuân sắp tới.
|
Assignment
A truly peaceful and clear morning. It's been a long time since I've seen the sunlight shining behind the faint pink clouds. Spring is coming, saying goodbye to the cold winter that is about to pass. A gentle breeze caressed my ears, the cold was no longer as cold as before. Spring is coming!
If winter is the season of frost, then spring is the season of sprouting. In front of the porch, the rose tree is starting to sprout on its spindly branches. A few flower buds that have been absent all winter are now budging up to catch a precious bit of weak sunlight. The trees and grass seem to be waking up after cold, sullen days. Groups of swallows that went away to escape the cold are returning sporadically, nesting in tall trees. Everything seems to be reviving again to welcome another spring. Life spreads everywhere. Every tree branch and blade of grass rose up to catch a bit of warm sunlight. The glittering dew drops seemed to linger and didn't want to leave the branch. Pink clouds float gently, floating around the sun as if warming them up in preparation for the upcoming spring. In the distance, the mountain ranges are endlessly hidden in the mist and mist of the morning. White water fields prepare for the new crop season to begin.
The natural scenery is so fresh and pleasing to the eye. Everything changes after long, cold days. The rows of neem trees on the path to school are sprouting new shoots. Birds perched on branches chirping, adding to the bustle of the rural market. The air is warmer, the wind still blows but it's not as cold as before. Trees, flowers and leaves all rise up to prepare for spring to flourish. Suddenly a yellow butterfly fluttered around, making me vaguely think of the days of playing with my mother in the vegetable garden in front of the house. Mom's voice is as warm as spring sunshine, she smiles in the morning dew with her smooth, rosy skin. My mother looked at me with loving and affectionate eyes. A drop of dew fell on her mother's hair and then gently rolled down and melted into the growing green grass. Spring is coming again, but my mother's spring is no longer there. That spring was the last spring of my mother's life. While all things were proliferating, my mother passed away forever before she had yet fully enjoyed her youth.
So, every time spring comes, it makes my heart filled with longings for my mother...
The scenery is ready to welcome spring, people are also shaking themselves off from the cold winter. Although the sun appeared, it was not strong and bright, but it was enough for the little girl to roll up her pants and wade down to the pond to wash vegetables for her mother to go to the market without fear of being cold. Before, every time I touched water, my hands would become numb and turn purple from the cold. Everyone groaned and didn't want to touch the water. But winter is gradually leaving, spring is coming, all daily activities gradually return to the bustling rhythm of a genuine countryside with lush green vegetable fields. Uncle Hong and Miss Tu took advantage of carrying water to irrigate the newly sown mustard bed. Mrs. Oanh sits and picks grass to fertilize the onion beds in preparation for selling at the Tet market. Aunt Loan opened the barn door and let the ducks into the field so they could enjoy the new water that had just been brought in by the cooperative to serve the people in the upcoming crop season. Each person has a job. Vegetable growers, livestock farmers... All are rushing for the upcoming spring.
|
Bài làm
Đã vắng dần những cơn mưa rào xối xả. Nắng cũng trở nên hiền dịu, bớt chói chang. Một buổi sáng trong lành, bình minh ló rạng. Những áng mây hồng bồng bềnh trôi theo làn gió nhẹ bên sông… Đất trời sang thu.
Sáng sớm, ánh nắng đã chiếu lan tỏa khắp vườn rau trước cửa, nhưng bị chặn lại bởi đám mây hồng lửng lơ nên nắng không thể nào gay gắt như giữa ngày hè được nữa. Từng giọt sương long lanh còn luyến tiếc điều chi mà chưa nỡ rời cành để hòa mình vào đất? Tôi đứng trước hiên nhà, dang rộng cánh tay, thả hồn mình ngắm nhìn bình minh của ngày cuối hạ. Phía đó, mặt trời đã lên nhưng còn ẩn sau vầng mây làm ửng hồng cả một góc trời. Gió nhẹ nhàng làm rung rinh bông hồng, rớt xuống những giọt sương tinh khôi của đất trời. Khóm hoa mười giờ xanh mướt đang trồi lên những nụ mới để lát nữa đây sẽ bung ra rực rỡ như để tranh phần nổi bật nhất giữa loài hoa khác. Từng đàn chim rời tổ bay đi kiếm mồi, hót líu lo làm huyên náo cả một vùng quê yêu dấu.
Mấy đứa nhỏ tinh nghịch vừa dắt bò vừa trêu đùa nhau, cười ròn tan, để lộ hàm răng chuột nhắt trông thật đáng yêu. Mọi người cũng chuẩn bị công việc cho một ngày mới. Người đi chợ bán rau, người ở nhà chăm sóc vườn tược, tưới tắm, nhổ cỏ… Mỗi người mỗi việc tạo nên một bức tranh sinh động về thôn quê Việt Nam. Xa xa, từng làn khói tỏa lên bay lảng vảng, vắt ngang cánh đồng, Thấp thoáng những chú bò vàng thung thăng gặm cỏ. Nhìn cảnh tượng ấy dễ khiến con người ta rung động. Nơi này khác hẳn với phố thị nhộn nhịp còi xe, xa hoa lộng lẫy những tòa nhà cao tầng. Thôn quê chẳng có gì ngoài đất, nước và con người! Tất cả đang sống giữa những ngày chớm thu.
Tôi nhẹ nhàng cất từng bước chậm rãi đi men theo con đường làng. Quang cảnh không có gì thay đổi nhiều. Nhưng cái cảm giác nóng bức hầm hập đã không còn như mấy ngày trước. Cảm giác thật dễ chịu. Mùi hoa cỏ từ đồng nội thoang thoảng theo làn gió nhẹ đưa vào khiến con người ta khoan khoái, dễ chịu. Lũ trẻ nô đùa thỏa thích. Các cô các bác í ới gọi nhau đi chợ phiên mua sắm. Lác đác mấy cụ già đi tập thể dục quanh làng đã về. Ở cái tuổi này rồi, người ta lại càng quý sức khỏe hơn, năng đi lại mong cho đôi chân dẻo dai hơn, chứ cứ ngồi hoặc nằm một chỗ không khéo lại đổ bệnh mất.
Mặt trời lên cao dần, sương đã tan hẳn vào đất. Bông hồng sáng sớm còn chúm chím nụ giờ đã bật ra một cánh nhỏ nhắn xinh xinh. Mấy khóm hoa mười giờ mới chớm nở đã lộ rõ màu đỏ chót giữa lùm cây xanh. Bác Hồng quẩy rảo bước quẩy nhanh đôi quang gánh đi nhổ hành để kịp làm cho khách đến lấy. Nắng không còn chói chang gay gắt nên mọi người cũng đỡ lo khoản nắng nóng oi bức khó chịu.
|
Assignment
The torrential rains have gradually disappeared. The sun also becomes gentler and less bright. A fresh morning, dawn broke. Pink clouds floated by the gentle breeze by the river... The sky and earth turned to autumn.
Early in the morning, the sunlight spread throughout the vegetable garden in front of the door, but was blocked by floating pink clouds so the sunlight could no longer be as intense as in the middle of a summer day. What does each sparkling dew drop miss that makes it unwilling to leave the branch to blend into the soil? I stood in front of the porch, spread my arms, and let my soul watch the sunrise of the last day of summer. Over there, the sun had risen but was still hidden behind the clouds, making the whole corner of the sky pink. The gentle wind shakes the rose, dropping pure dew drops from heaven and earth. The lush green ten o'clock flower cluster is sprouting new buds that will soon burst out brightly as if to compete for the most prominent part among other flowers. Each flock of birds left their nests and flew to search for food, chirping and making a noise throughout the beloved countryside.
The mischievous children teased each other while leading the cow, laughing loudly, revealing their adorable mouse teeth. Everyone also prepares work for a new day. People go to the market to sell vegetables, people stay at home to take care of the garden, water, weed... Each person does something to create a vivid picture of the Vietnamese countryside. In the distance, wisps of smoke rose and drifted across the fields. Yellow cows could be seen grazing freely. Looking at that scene easily makes people shake. This place is completely different from the bustling city with car horns and lavish high-rise buildings. The countryside has nothing but land, water and people! All are living in the early days of autumn.
I gently took slow steps along the village road. The scenery hasn't changed much. But the feeling of extreme heat was no longer the same as a few days ago. Pleasant feeling. The smell of flowers and grass from the fields wafts in with the light breeze, making people feel refreshed and comfortable. The children played happily. The aunts and uncles called each other to go shopping at the market. Sporadic old people who went to exercise around the village have returned. At this age, people value their health even more. If they walk often, they hope their legs will be more flexible, otherwise if they sit or lie down in one place, they will get sick.
The sun gradually rose, the dew had completely melted into the ground. The rose, still in bud early in the morning, has now burst out a small, beautiful petal. A few clusters of flowers that had just begun to bloom at ten o'clock showed their red color clearly among the green trees. Uncle Hong hurriedly carried his pair of baskets to pick onions in time to make them in time for customers to pick them up. The sun is no longer as bright and harsh, so people don't have to worry about the uncomfortable heat.
|
Bài làm
Trong nhiều giấc mơ, tôi vẫn thường nghe tiếng ba trầm ấm lắm, ba nói: “Dậy đi con gái diệu của bố. Nhìn vào gương xem điều kỳ diệu kìa con. Hãy chải mái tóc cho thật gọn gàng, cài lên đó đôi kẹp mà ba tặng con. Xinh lắm con à”. Tôi choàng tỉnh dậy, sờ tay lên đầu, chỉ thấy cảm giác nhẵn nhụi trơn trơn. Căn bệnh ung thư đã khiến mái tóc tôi rụng dần rụng dần rồi không mọc lại nữa. Cầm đôi kẹp tóc bố tặng, tôi thầm ước điều kì diệu sẽ đến như lời ba nói. Ước gì ba lại về nhỉ. Tôi sẽ chạy lại ôm chặt lấy ba, không cho ba đi nữa. Lần ấy ba về, tôi không chịu nhận ba, chắc ba buồn lắm. Ba đưa chiếc kẹp tóc, tôi còn vùng vằng ném đi khiến lòng ba quặn thắt. Tôi đâu hiểu cảm giác của người cha lần đầu tiên được gặp con mình nhưng lại không thể ôm nó vào lòng, không kịp nghe nó gọi một tiếng “ba” vì phải đi công tác xa. Sao tôi thấy mình giống cô bé trong truyện Chiếc lược ngà vậy? Cô bé ấy cũng không nhận ba khi ba về thăm phép giữa những ngày chiến trường bom đạn. Món quà cuối cùng trước lúc người cha trút hơi thở cuối cùng là chiếc lược ngà. Cầm chiếc lược trên tay, cô bé muốn gọi ba thêm lần nữa nhưng ba đâu còn cơ hội để nghe. Ba đã ra đi mãi mãi trên chiến trường xa xôi. Còn tôi, giờ đây với chiếc kẹp tóc nhỏ nhắn này, tôi cũng ước được ba trở về ôm tôi thêm lần nữa! Đến bao giờ ba về với con?
Đọc câu truyện, tôi từng khóc và xót xa cho người cha không được con nhận, nhưng chính tôi lại là một phần trong câu truyện ấy. Cũng giống như cô bé bướng bỉnh kia, tôi nhất quyết không chịu gọi ba. Dù má có hết lời dỗ dành rồi đến dọa nạt, tôi thà khóc thật to chứ không gọi ba. Lúc má sinh tôi, ba đang đi công tác bên nước ngoài không về được. Má thường kể ba là người rất bảnh bao, vui tính và hào phóng. Nhưng khi ba về, trước mắt tôi là người đàn ông có vết sẹo dài trên mặt, đâu giống như những gì má kể. Tôi sợ hãi chui tọt vào mẹ, không dám quay đầu lại nhìn. Không biết cảm giác của ba lúc ấy thế nào nhỉ? Ba có đau đớn đến mức xé lòng không khi bao nhiêu năm mới được gặp mặt đứa con bé bỏng của mình thì lại làm nó phát sợ? Má giải thích ba bị tai nạn trong lúc làm việc nên bị sẹo trên mặt. Ba đã phải trải qua cuộc phẫu thuật vô cùng nguy hiểm mới giữ được tính mạng và quay trở về đây thăm con. Nhưng trong tâm trí của một đứa trẻ thơ ngây, tôi nào hiểu được hai từ “hiểm nguy”. Tôi chỉ biết rằng ba của mình là một người hoàn hảo cả về ngoại hình lẫn tính cách. Ba cao ráo, trắng trẻo chứ không có vết sẹo lồi hẳn lên như thế kia. Trông thật đáng sợ. Suốt một tuần ba ở nhà, tôi đều tìm cách né tránh ba. Có lần má cố tình đi chợ thật lâu để hai ba con ở nhà có cơ hội tiếp xúc nhau. Nhưng cứ hễ nhìn thấy ba, tôi lại chạy vội vào góc nhà, khiến ba không dám lại gần vì không muốn làm tôi sợ.
Sau này được cô giáo giảng giải về nỗi đau của người cha trong truyện chiếc lược ngà, tôi nhớ lại cảm xúc của ba mình trong những ngày thèm muốn được ôm ấp đứa con gái nhưng nó nhất quyết không chịu. Cái cảm giác được nhìn thấy con mình rồi, cục máu của mình đây nhưng lại không thể nào chạm được vào nó thật khó chịu và đớn đau biết nhường nào. Ngày ba đi, tôi vẫn e dè nấp sau lưng mẹ. Dù sao cũng tiếp xúc với ba cả tuần rồi, tôi cũng quen dần với vết sẹo trên mặt ba nhưng vẫn không thể nào cất lên tiếng gọi ba được. Bởi cứ nhìn vào khuôn mặt ấy với hình ảnh về người ba hoàn hảo trong tâm trí, tôi lại chững lại, xua đi người ba đang đứng trước mắt mình. Vậy là ba đi. Ba ngoái đầu nhìn lại. Ánh mắt buồn rầu như muốn níu kéo điều gì đó mà không níu kéo được. Từ đó cho tới nay cũng đã gần chục năm rồi. Chưa lúc nào tôi ao ước được gọi ba như lúc này. Vậy mà mỗi lần ba gọi điện về, má vẫn thường bảo tôi nghe điện nói chuyện với ba đi, tôi không nghe. Tôi ương bướng đòi được gặp ba trực tiếp cơ.
Người ba của cô bé trong Chiếc lược ngà đã bị chiến tranh vùi lấp ở chiến trường xa xôi, món quà cuối là chiếc lược ngà để mỗi lần chải tóc cô nhớ tới ba. Còn tôi, ba vẫn sống ở một nơi rất xa, quà cho tôi là đôi kẹp tóc. Tôi không biết bệnh ung thư là bệnh gì, chỉ thấy tóc mình rụng rồi không mọc lại nữa. Nhưng ba bảo rồi sẽ có một ngày điều kỳ diệu xảy ra, chiếc kẹp tóc này sẽ làm con gái của ba xinh hơn thật nhiều. Lúc đó ba sẽ tới gặp con. Vậy sao giờ ba không đến gặp mình nhỉ? Tôi cứ băn khoăn những câu hỏi trong đầu. Ba đi làm gì mà xa và lâu thế. Chưa bao giờ tôi có cảm giác nhớ ba như lúc này. Có đôi lần tôi nghĩ dại, rằng liệu có phải ba cũng đã mất như người ba của cô bé trong truyện Chiếc lược ngà nhưng mẹ cứ giấu tôi không?
Đang mơ màng trong những câu hỏi mông lung, bỗng má đến thu xếp hành lý. Tôi ngơ ngác không hiểu chuyện gì. Má nhìn tôi âu yếm với giọng đầy hi vọng: “Đi thôi con. Điều kỳ diệu đã sắp đến”. Điều kỳ diệu ư? Tôi vội vàng lấy chiếc kẹp tóc, chưa kịp đưa lên đầu, mẹ đã ngăn lại: “Chưa phải lúc này con”. Tôi được đưa sang phòng phẫu thuật, sau những tiếng lỉnh kỉnh dao kéo, tôi chìm vào cơn mê lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy, tôi mơ hồ nhìn mọi người xung quanh. Tôi bắt gặp một khuôn mặt có vết sẹo dài lồi lên. A! Ba đã về! Tôi reo lên sung sường nhưng ba vội ra hiệu tôi phải nhẹ nhàng thôi vì vừa trải qua cuộc phẫu thuật lớn. Ba nâng tôi dậy, ba nhẹ nhàng đội lên đầu tôi mái tóc giả màu hoe vàng rất xinh. Rồi ba nói: “Để ba cài tóc cho con. Con gái ba xinh nhất trên đời”. Tôi phụng phịu: “Con muốn tóc thật cơ”. Bác sĩ đứng cạnh đó bảo: “Tóc con chuẩn bị mọc rồi đó. Chúc mừng con đã chiến thắng được căn bệnh ung thư quái ác”. Tôi vẫn không hiểu lắm về căn bệnh ung thư quái ác ấy là như thế nào. Nhưng nghe bác nói tóc tôi sẽ dần mọc trở lại làm tôi vui lắm. Tôi sẽ được cài chiếc kẹp ba tặng lên mái tóc thực sự của mình. Tôi hỏi ba có đi xa nữa không. Bố nhẹ nhàng lắc đầu và ôm tôi vào lòng.
|
Assignment
In many dreams, I often hear my father's deep, warm voice saying: "Wake up, my wonderful daughter." Look in the mirror and see the miracle. Comb your hair neatly and put on the pair of clips that dad gave you. "You're so pretty, baby." I woke up and touched my head, only to feel a smooth, slippery feeling. The cancer caused my hair to gradually fall out and not grow back. Holding the pair of hairpins my dad gave me, I silently wished for a miracle to come like he said. I wish dad would come back. I will run back and hug my dad tightly, not letting him go anymore. That time Dad came home, I refused to accept him, he must have been very sad. Dad gave me the hairpin and I struggled to throw it away, making my dad's heart ache. I don't understand the feeling of a father who meets his child for the first time but cannot hold him in his arms or hear him call "daddy" in time because he has to go away on a business trip. Why do I feel like the little girl in the story The Ivory Comb? That little girl also did not recognize her father when he came to visit during the days of war and bombs. The last gift before the father breathed his last was an ivory comb. Holding the comb in her hand, she wanted to call her father one more time, but he had no chance to listen. Dad passed away forever on a distant battlefield. As for me, now with this little hairpin, I also wish for my dad to come back and hug me again! When will Dad come back to me?
Reading the story, I cried and felt sorry for the father who was not recognized by his children, but I was a part of that story. Just like that stubborn girl, I absolutely refused to call dad. Even though my mother tried to comfort me and then threaten me, I would rather cry loudly than call my father. When my mother gave birth to me, my father was on a business trip abroad and couldn't return. My mother often said that my father was a very handsome, funny and generous person. But when dad came home, in front of my eyes was a man with a long scar on his face, nothing like what my mom told me. I was scared and crawled into my mother, not daring to turn around and look. I wonder how dad felt at that time? Dad, is it so painful that it tears your heart apart when you get to see your little child after many years and then scare him? Mom explained that dad had an accident at work and had scars on his face. Dad had to undergo extremely dangerous surgery to save his life and return here to visit his children. But in the mind of an innocent child, I could not understand the words "danger". I just know that my dad is a perfect person in both appearance and personality. Dad is tall and fair, without any prominent scars like that. It looks so scary. During the week Dad was at home, I tried to avoid him. One time, my mother deliberately went to the market for a long time so that the two or three children at home could have a chance to interact with each other. But every time I saw my dad, I would rush to the corner of the house, making him not dare to come closer because he didn't want to scare me.
Later, when the teacher explained about the father's pain in the story of the ivory comb, I remembered my father's feelings during the days when he longed to hug his daughter but she absolutely refused. The feeling of seeing my child, my blood clot, but not being able to touch it is so uncomfortable and painful. The day my father left, I still shyly hid behind my mother. After all, I've been in contact with my dad for a whole week, I'm getting used to the scar on his face, but I still can't call him. Because I kept looking at that face with the image of my perfect father in my mind, I stopped and pushed away the father standing before my eyes. So dad goes. Dad looked back. His sad eyes looked like he wanted to hold on to something but couldn't. It has been nearly ten years since then. Never have I wished to be called dad like now. Yet every time my dad calls home, my mom always tells me to pick up the phone and talk to him, but I don't listen. I stubbornly wanted to meet my dad in person.
The little girl's father in The Ivory Comb was buried by war on a distant battlefield. The last gift was an ivory comb so that every time she combed her hair, she would remember him. As for me, my father still lives in a very far away place, his gift to me was a pair of hairpins. I don't know what cancer is, I just see my hair falling out and not growing back. But dad said that one day a miracle will happen, this hairpin will make his daughter much more beautiful. Dad will come see you then. So why doesn't dad come see me now? I kept wondering questions in my head. Why did Dad go so far and for such a long time? I have never felt like I miss my dad like I do right now. There were a few times when I foolishly wondered if my father had passed away like the girl's father in the story The Ivory Comb, but did my mother keep it from me?
While dreaming about vague questions, my mother suddenly came to pack my luggage. I was confused and didn't understand what was going on. Mom looked at me lovingly with a hopeful voice: “Let's go. The miracle is about to come." A miracle? I quickly took the hairpin, but before I could put it on my head, my mother stopped me: "Not now." I was taken to the operating room, and after the sounds of knives and scissors, I fell into a coma without realizing it. When I woke up, I vaguely looked at everyone around me. I saw a face with a long, raised scar. Ah! Dad is back! I shouted excitedly, but my father quickly signaled me to be gentle because I had just undergone major surgery. Dad lifted me up and gently placed a beautiful blonde wig on my head. Then dad said: “Let me fix your hair for you. My daughter is the most beautiful in the world." I pouted: "I want real hair." The doctor standing nearby said: "Your hair is about to grow. Congratulations on overcoming the evil cancer." I still don't really understand what that evil cancer is like. But hearing him say my hair will gradually grow back makes me very happy. I will be able to put a gift clip in my real hair. I asked dad if he was going away again. Dad gently shook his head and hugged me.
|
Bài làm
Bình minh vừa ló rạng. Có chú chim nào hót líu lo bên cửa sổ. Tôi choàng thức tỉnh giữa buổi sáng mùa thu. Trời thu trong xanh, dịu dàng đến lạ. Các em nhỏ đã tíu tít cắp sách tới trường. Hôm nay ngày khai giảng. Hẳn sẽ có nhiều niềm vui. Bước xuống giường, tôi tiếc nuối sao không dậy sớm hơn chút nữa để chuẩn bị kỹ càng hơn. Tôi sắp xếp đồ đạc, quần áo rồi tới trường. Nghe xôn xao như có tiếng trống đang giục trong lòng. Nhìn bầy em thơ, tôi nhớ lại một bài thơ của Tiêu Điền:
Đưa con đi học
Một sớm mùa thu con đến trường
Bàn chân bé nhỏ ướt hơi sương
Cánh cổng cuộc đời đang mở rộng
Hoa phượng còn vương ở cạnh đường
Con bước vào đi, có bạn cùng
Sân trường đông lắm, cuộc đời chung
Bàn tay bé nhỏ con vẫy vẫy
Chập chững con đi, trống điểm: tùng
Ngây thơ ánh mắt ngập ngừng vui
Hãy cố bước lên, chớ ngại lùi
Năm nay con đã vào lớp một
Cặp sách trên vai trĩu nặng đùi
Mẫu giáo vui chơi đã hết rồi
Bây giờ đi học nhé con tôi
Sân trường rộng lắm, đời rộng lắm
Bố chỉ đưa con đến cửa thôi
Ngày mai ngoan nhé lại vào đây
Phấn trắng bảng đen cặp sách đầy
Rồi con sẽ trở thành người lớn
Tương lai con sẽ tự tay xây
Con nhé vào đi với cuộc đời
Trời thu xanh mát, nắng vàng tươi
Bố sẽ đón con giờ tan học
Với mọi nỗi lo giống mọi người
(Đưa con đi học – Tiêu Điền)
Lời thơ nhẹ nhàng, tha thiết như lời mẹ dịu hiền ấm áp đang thủ thỉ với con trước ngày khai trường bước vào lớp một. Cứ mỗi lần đọc bài thơ, bao ký ức của một thời ngây dại lại ùa về trong trái tim tôi.
Ngày ấy, bố cũng đưa tôi tới trường trong buổi sáng sớm còn ướt sương. Bàn tay bố tuy thô giáp nhưng ấm áp nắm lấy bàn tay tôi bé nhỏ. Hai bố con đi bộ trên con đường làng quen thuộc. Những giọt sương long lanh còn đọng lại trên đám cỏ xanh mướt dưới chân. Trời thu trong xanh, không khí trong lành, ai ai cũng hớn hở một niềm vui ngày tựu trường. Những đứa trẻ như tôi có lẽ chưa hiểu được hết khái niệm thế nào là bước sang một trang mới của tuổi học trò, chỉ thấy vui hớn hở vì được mặc quần áo mới. Cho đến bây giờ tôi mới hiểu Cánh cổng cuộc đời mà bố đã cầm tay tôi dắt vào tận nơi. Bao nhiêu bạn nhỏ khác cũng bỡ ngỡ như tôi. Có bạn rụt rè khóc lóc, có bạn nghịch ngợm chạy quanh sân. Còn tôi, tôi đứng nhìn theo bước chân bố quay về. Tôi không khóc nhưng còn lạ lẫm vì chưa quen ai. Nghe lời bố dặn, tôi ngoan ngoãn đi theo cô giáo, ngồi vào chỗ theo chỉ dẫn của cô.
Mẫu giáo vui chơi đã hết rồi
Bây giờ đi học nhé con tôi
Sân trường rộng lắm, đời rộng lắm
Bố chỉ đưa con đến cửa thôi
Càng khôn lớn, tôi càng thấm thía lời bài thơ. Phải chăng tác giả cũng là một người cha yêu thương con mình hết mực giống như bố yêu tôi? Sân trường rộng lắm và đời cũng rộng lắm. Bước qua thời ngây dại, tôi lớn dần lên qua mỗi mùa tựu trường. Nhưng quên sao được ngày đầu tiên bước vào lớp một được bố đưa đến tận nơi. Bố đưa tới cổng rồi rời tay tôi ra. Bố muốn tôi tự bước qua nỗi sợ hãi của bản thân để hòa nhập vào cuộc đời mới. Người bố trong bài thơ có lẽ cũng vậy. Con sẽ trưởng thành hơn khi tự mình khám phá ra những chân trời rộng mở. Có người cha nào lại không mong con can đảm, vững lòng?
Lời bài thơ rất nhẹ nhàng, đi vào lòng người bằng những câu từ thiết tha trìu mến. Bố cũng dặn tôi y như tác giả đã dặn con mình:
Ngày mai ngoan nhé lại vào đây
Phấn trắng bảng đen cặp sách đầy
Rồi con sẽ trở thành người lớn
Tương lai con sẽ tự tay xây
Con nhé vào đi với cuộc đời
Trời thu xanh mát, nắng vàng tươi
Bố sẽ đón con giờ tan học
|
Assignment
Dawn has just broken. There are birds chirping by the window. I suddenly woke up in the middle of an autumn morning. The autumn sky is blue and strangely gentle. The children were already busy going to school. Today is the first day of school. There will certainly be a lot of fun. Getting out of bed, I regretted not waking up a little earlier to prepare more thoroughly. I arranged my things and clothes and went to school. It sounded like there was a drum beating in my heart. Looking at the children, I remembered a poem by Tieu Dien:
Take my children to school
One early autumn morning I went to school
Little feet are wet with dew
The gates of life are opening wide
Poinciana flowers still linger on the side of the road
Come in, I'll be with you
The school yard is very crowded, life is common
The little hand waved
Toddlers walk, empty point: pine
Innocent eyes hesitantly happy
Try to step forward, don't be afraid to step back
This year I entered first grade
The schoolbag on my shoulder weighed heavily on my thighs
Kindergarten fun is over
Go to school now, my child
The school yard is very wide, life is very wide
Dad just took me to the door
Come back here tomorrow, be good
White chalk, blackboard, school bag full of books
Then you will become an adult
The future will be built by myself
Please come and join life
The autumn sky is cool and blue, the sun is bright yellow
Dad will pick you up after school
With all the same worries as everyone else
(Sending children to school – Tieu Dien)
The poem's lyrics are gentle and passionate like the gentle and warm words a mother whispers to her child before the first day of school. Every time I read the poem, many memories of that innocent time come rushing back to my heart.
That day, my father also took me to school in the early morning, still wet with dew. Dad's hand, although rough but warm, held my little hand. The father and son walked on a familiar village road. Glittering dew drops still linger on the green grass below my feet. The autumn sky is blue, the air is fresh, everyone is excited about the first day of school. Children like me probably don't fully understand the concept of turning a new page in school life, just feel happy because they can wear new clothes. Only now do I understand the Gate of life that my father held my hand and led me through. Many other children were as confused as me. Some people timidly cry, others run around the yard mischievously. As for me, I stood and watched my father return. I didn't cry but it was still strange because I didn't know anyone. Listening to my father's instructions, I obediently followed the teacher and sat in my seat according to her instructions.
Kindergarten fun is over
Go to school now, my child
The school yard is very wide, life is very wide
Dad just took me to the door
The older I get, the more I understand the poem's lyrics. Is the author also a father who loves his child as much as he loves me? The school yard is very large and life is also very wide. Going through the naive phase, I grew up with each back-to-school season. But how could I forget that the first day I entered first grade, my father took me there. Dad took me to the gate and then let go of my hand. Dad wanted me to overcome my own fear and integrate into a new life. The father in the poem is probably the same. You will become more mature when you discover open horizons for yourself. What father doesn't want his children to be courageous and steadfast?
The lyrics of the poem are very gentle, reaching people's hearts with passionate and affectionate words. Dad also told me the same thing the author told his son:
Come back here tomorrow, be good
White chalk, blackboard, school bag full of books
Then you will become an adult
The future will be built by myself
Please come and join life
The autumn sky is cool and blue, the sun is bright yellow
Dad will pick you up after school
|
Bài làm
Sau bao nhiêu biến cố, cuối cùng ta cũng đã được trở về bình yên bên nhà vua. Có điều ta không còn là cô Tấm yếu đuối như ngày nào để mẹ con Cám hãm hại nữa. Ta đã rõ những việc họ làm trong suốt thời gian qua. Nhưng dù sao dì cũng là người đã cưu mang ta trong những tháng ngày không còn cha bên cạnh. Ta chết đi sống lại nhiều lần, nay được bình yên rồi, ai cũng bảo mẹ con họ đáng tội chết, nhưng thôi ta sẽ cho họ một cơ hội cuối cùng để làm lại từ đầu.
Ta và Cám vốn dĩ là chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ ta mất sớm, cha lấy dì nhưng không lâu sau cha cũng mất. Ta ở với dì và em Cám. Cảnh sống mẹ ghẻ con chồng khó tránh khỏi những lúc xô xát. Hơn nữa dì lại là người có tiếng ác độc, ích kỷ và tham lam. Nhưng ta biết đi đâu về đâu khi chỉ có một thân một mình yếu đuối? Cuộc đời cơ cực và tuổi thơ nghiệt ngã cứ thế trôi đi trong căn nhà nhỏ với người dì độc ác và cô em chanh chua, đanh đá.
Ta đâu ngại ngùng thức khuya dậy sớm, quét dọn, cơm nước, giặt giũ, chăn bò chăn lợn… nhưng những gì ta nhận được vẫn chỉ là sự khinh ghét của hai mẹ con Cám. Một lần dì đưa ra cuộc thi bắt cá. Ai bắt được đầy giỏ trước sẽ được thưởng một chiếc yếm đỏ. Nhìn thích lắm. Ta đã lặn lội bắt nhanh cho được nhiều, nhưng không ngờ lại bị Cám lừa lấy đem về giành giải. Trong lúc buồn rầu và tủi thân, ta chỉ biết gục đầu xuống khóc. Đúng lúc đó, một ông cụ râu tóc bạc phơ với khuôn mặt hiền từ hiện lên giúp đỡ ta. Ông chính là ông Bụt mà ta vẫn thầm cầu nguyện trong mỗi đêm. Đúng như lời ông, trong giỏ còn một con cá Bống nho nhỏ. Ta đem về thả xuống giếng nuôi và hằng ngày cho ăn đúng như lời Bụt dặn. Nhưng rồi một hôm, khi đi chăn bò về, ta mang cơm ra cho Bống như thường lệ, chẳng thấy Bống đâu, ta giật mình khi thấy một cục máu nổi lên. Hóa ra mẹ con Cám đã lừa ta để ở nhà làm giết thịt Bống ăn. Họ thật nhẫn tâm, một con bống nhỏ bé cũng không tha. Mất Bống, ta hụt hẫng vô cùng, Bụt lại hiện lên bảo ta đem tìm xương Bống bỏ vào bốn chiếc lọ chôn xuống bốn chân giường. Dù không hiểu ý Người, nhưng ta cũng ngoan ngoãn làm theo.
Một ngày nọ, Vua mở hội kén vợ. Tất nhiên ta cũng muốn đi. Dù sao đi nữa, ta cũng đủ điều kiện dự tuyển mà, cứ miễn là con gái chưa chồng. Nhưng mẹ con Cám đã lấy hết quần áo đẹp, lại còn bắt ta phải nhặt hết một đống thóc và lúa lẫn lộn nhau. Làm vậy khác nào là không cho ta đi dự hội nữa. May mắn, Bụt lại hiện lên sai đàn chim sẻ đến giúp đỡ. Chỉ trong nháy mắt chúng đã hoàn thành công việc mà dì giao. Gạo và thóc được nhặt riêng rẽ nhau thành hai đống. Xong xuôi, ta tìm quần áo mãi mà chẳng còn cái nào lành lặn nói chi đến việc mặc đẹp. Bụt lại hiện lại bảo ta hãy đào bốn cái lọ xương Bống đã chôn ở bốn chân giường lên. Chao ôi, toàn quần áo đẹp lộng lẫy. Đôi hài thật xinh xắn. Lại thêm chú ngựa và chiếc kiệu quyền quý nữa. Chẳng khác nào đồ dành cho nàng công chúa. Thật kỳ diệu. Sửa soạn xong, ta bước lên kiệu đi dự hội. Hẳn là đêm nay sẽ đông vui lắm. Ta sung sướng và hớn hở. Nhưng ngựa đi nhanh quá, đến chỗ lội, ta vô tình làm rơi mất một chiếc giày và không kịp nhặt. Tới hội, ta đành lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người. Không khí lễ hội thật náo nhiệt. Ai nấy đều ăn mặc rất đẹp đẽ, xinh xắn.
Đang mải mê ngắm nghía khung cảnh tráng lệ, đột nhiên, vua ra lệnh cho mọi người tập trung thử một chiếc giày mà người vừa nhặt được ở chỗ lội. Ai đi vừa sẽ được làm vợ vua. Mọi người đều thi nhau thử. Mẹ con Cám cũng thử vì biết đâu đi vừa sẽ được làm Hoàng Hậu. Nhưng không ai đi vừa. Đến lượt ta, tất nhiên chiếc giày vừa vặn, ta rút ra một chiếc còn lại. Lập tức ta được vua rước vào cung trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.
Cuộc sống trong cung dù vui sướng, đầy đủ, người hầu kẻ hạ chẳng thiếu thốn thứ gì nhưng ngày giỗ cha làm sao ta quên được. Nhưng không ngờ mẹ con Cám lại nhân dịp này để hãm hại ta. Ta vừa trèo lên cây cau hái cau xuống thắp hương cho cha thì mẹ con họ ở dưới chặt cây khiến ta ngã xuống ao mà chết. Mục đích để Cám vào cung làm vợ vua thay ta. Nhưng họ không ngờ Bụt đã cho ta biến thành chim vàng anh để ngày ngày được ở bên cạnh vua. Dù không nhận ra ta nhưng có tiếng chim hót líu lo, vua cũng bớt buồn và ngày ngày quấn quýt bên ta. Một ngày đẹp trời, nhà vua ân cần nói: Vàng ảnh vàng anh có phải vợ anh chui vào tay áo. Tất nhiên, ta chui vào tay áo người. Thấy vậy, cám tức giận lắm. Nó chạy về mách mẹ tìm cách giết ta. Lần này, Bụt cho ta biến thành hai cây xoan đào. Đúng lúc vua đi qua, những cành xoan rủ xuống khiến nhà vua thích thú. Ngày ngày người mắc võng ra đây nghỉ ngơi. Cám sinh nghi, lại đem chặt cây lấy gỗ làm thành khung cửi. Nhưng nó đâu biết rằng ta vẫn tồn tại. Nó sợ hãi khi nghe tiếng khung cửi kẽo kẹt: Cót ca cót két, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra. Cám bị một phen hoảng hồn, bèn chạy về mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi rồi đi đổ tro thật xa để được yên tâm.
Nhưng ta đâu dễ chết như vậy. Bụt lại cho ta biến thành cây thị. Chỉ một quả thị duy nhất thôi, làm thơm cả cây. Có bà cụ đi qua thấy thị thơm quá bèn giơ bị ra và lẩm bẩm: Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn. Thấy bà lão cũng hiền lành, lại ở một mình buồn tủi, ta bằng lòng về ở với bà. Nhưng bà không biết ngày ngày ta vẫn chui ra từ vỏ thị nấu nướng, quét dọn cho bà. Một ngày kia, ta bị bà phát hiện, bà vội xé vụn vỏ thị để ta không chui vào đó được nữa. Từ ấy, hai bà cháu sống với nhau đầm ấm, vui vẻ như hai mẹ con ruột thịt.
|
Assignment
After many incidents, I have finally returned safely to the king. However, I am no longer the weak Miss Tam I once was, allowing Cam and her mother to harm me. We know clearly what they have been doing all this time. But after all, she was the one who took care of me during the days when my father was no longer around. I died and came back to life many times, now I'm at peace, everyone says they deserve to die, but I'll give them one last chance to start over.
Cam and I were originally sisters from the same father and mother. My mother died early, my father married my aunt, but not long after my father also passed away. I live with my aunt and brother Cam. The life of a stepmother and her husband's children is difficult to avoid when there are conflicts. Furthermore, she is a notoriously cruel, selfish and greedy person. But where can we go when we are alone and weak? A miserable life and cruel childhood passed like that in a small house with a cruel aunt and a sour, shrewd sister.
I'm not shy about staying up late and getting up early, cleaning, cooking, doing laundry, herding cows and pigs... but what I receive is still only the contempt of Cam and her mother. One time my aunt held a fish-catching contest. Whoever fills the basket first will be rewarded with a red bib. Looks very nice. I went out of my way to quickly catch a lot, but I didn't expect that Cam would trick me into taking it back and winning the prize. In times of sadness and self-pity, I can only put my head down and cry. At that moment, a white-haired, bearded old man with a kind face appeared to help me. He is the Buddha that we silently pray to every night. True to his word, there was a small Goby fish in the basket. I brought it home, dropped it into the well and fed it every day just as the Buddha had instructed. But then one day, when I came back from tending the cows, I brought food to Bong as usual, but Bong was nowhere to be seen. I was startled to see a blood clot emerging. It turned out that Cam and her mother tricked me into staying at home to kill Bong and eat it. They are so cruel, even a small goby will not be spared. When I lost Bong, I was extremely disappointed. Buddha appeared again and told me to find Bong's bones and put them in four jars and bury them at the four legs of the bed. Even though we don't understand what he means, we obediently follow it.
One day, the King held a festival to choose a wife. Of course I also want to go. In any case, I am eligible to apply, as long as my daughter is unmarried. But Cam and her mother took all the beautiful clothes, and even forced me to pick up a pile of rice and paddy mixed together. Doing so is like not letting me go to the festival anymore. Luckily, the Buddha appeared again and sent a flock of sparrows to help. In just a blink of an eye, they completed the work their aunt assigned them. Rice and paddy are picked separately into two piles. After finishing, I searched forever for clothes but there was nothing left that was healthy, let alone nice to wear. The Buddha appeared again and told us to dig up the four jars of Bong bones buried at the four legs of the bed. Wow, all the clothes are gorgeous. The pair of shoes is really cute. Another horse and a noble palanquin. It's like something for a princess. So magical. After getting ready, I boarded the palanquin to attend the festival. Surely tonight will be very crowded. I am happy and cheerful. But the horse went too fast. When we got to the wading area, I accidentally dropped a shoe and didn't have time to pick it up. Arriving at the festival, I had to wrap my remaining shoe in a towel and then squeeze into the sea of people. The festival atmosphere was bustling. Everyone was dressed very beautifully and pretty.
While engrossed in admiring the magnificent scenery, suddenly, the king ordered everyone to gather and try on a shoe that he had just picked up at the wading spot. Whoever leaves will be the king's wife. Everyone competes to try. Cam and her mother also tried because they knew that if they went, they would be Queen. But no one fits. When it was my turn, of course the shoe fit, I pulled out the other one. Immediately, the king brought me into the palace before the surprised and hostile eyes of Cam and his mother.
Although life in the palace is happy and full, the servants and subordinates do not lack anything, but how can we forget the anniversary of our father's death? But I didn't expect that Cam and her mother would take this opportunity to harm me. As soon as I climbed up an areca tree to pick areca nuts and burn incense for my father, my mother and I were below and chopped down the tree, causing me to fall into the pond and die. The purpose is for Cam to enter the palace to become the king's wife instead of me. But they did not expect that the Buddha would let me turn into a golden bird so that I could be by the king's side every day. Even though he didn't recognize me, the sound of birds chirping made the king less sad and spent every day with me. One fine day, the king kindly said: Is your wife's golden image hidden in your sleeve? Of course, I crawl into someone's sleeve. Seeing that, Cam was very angry. He ran back and told his mother to find a way to kill me. This time, the Buddha let me turn into two peach trees. Just as the king passed by, the oval branches drooped down, making the king delighted. Every day people hang hammocks here to rest. Cam became suspicious and cut down the tree to use wood to make a loom. But it doesn't know that we still exist. He was scared when he heard the creaking sound of the loom: Creaking creak, taking her husband's painting, she gouged out his eyes. Cam was so scared that he ran back to tell his mother. His mother told him to burn the loom and dump the ashes far away for peace of mind.
But I don't die that easily. The Buddha turned me into a tree. Just a single fruit can make the whole tree fragrant. An old lady passed by and saw that she smelled so good, so she held it out and muttered: "Dear lady, it fell into your bag, you brought it to me to smell, but I didn't eat it." Seeing that the old woman was also kind and sad, living alone, I agreed to go live with her. But she doesn't know that I still come out of her shell every day to cook and clean for her. One day, she discovered me, and she quickly tore the shell to pieces so that I could no longer get into it. From then on, the two of them lived together warmly and happily like mother and daughter.
|
Bài làm
Truyện cổ tích Tấm Cám đã đi vào tiềm thức bao bạn nhỏ hình ảnh thân thương về người con gái với cái tên rất trìu mến, thân thương: cô Tấm. Nếu như Tấm mang đến cho người đọc bài học về đức tính hiền lành, nết na, nhân hậu thì Cám lại là lời tố cáo cho những kẻ sống ích kỷ, độc đoán đố kị.
Câu truyện kể về gia đình Tấm sau khi bố chết, Tấm ở với mẹ con dì ghẻ và Cám. Hết lần này đến lần khác Tấm bị họ hãm hại, ám sát. Nhưng sau tất cả, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, Tấm được hưởng cuộc sống hạnh phúc bên nhà vua, còn mẹ con Cám phải chịu cái chết thương tâm cho những gì mình đã gây ra.
Cám Tấm là hai chị em cùng cha khác mẹ. Bố mất, nhưng Cám may mắn hơn Tấm vì còn có mẹ. Nhưng đáng tiếc người mẹ ấy lại ác độc, tham lam nên đương nhiên bà cũng truyền dạy những tính cách ấy cho con mình. Khi ra đồng bắt cá tranh phần thưởng, Cám mải chơi, lọc lừa chị để lấy hết phần cá của chị mang về nhà trước nhận thưởng, khiến Tấm đau khổ khóc lóc. May mắn trong giỏ của Tấm còn xót lại một con cá Bống, nghe lời Bụt, Tấm đem về nhà thả xuống giếng nuôi. Nhưng Cám lại cùng mẹ bắt Bống giết thịt. Lại một lần nữa Cám khiến chị phải khóc. Ít lâu sau, nhà vua mở hội kén vợ. Cám được mẹ nuông chiều, lấy hết quần áo đẹp đi chơi, còn bắt Tấm phải nhặt hết thóc và lúa rồi mới được đi. Nhưng đồng hành với cô Tấm hiền lành, tội nghiệp luôn có ông Bụt đầy quyền năng và phép lạ. Còn người đồng hành với Cám lại là mụ dì ghẻ ác độc, xấu xa. Có thể thấy cuộc đời Tấm tuy thiệt thòi hơn Cám nhưng thực chất lại may mắn hơn Cám.
Với sự hậu thuẫn của Bụt, Tấm được kén làm vợ vua. Mẹ con Cám ganh tị, hết lần này đến lần khác, Cám nghe lời mẹ giết hại chị. Dù sao cũng là cùng một cha, nhưng dường như giữa hai chị em không có một chút tình thân nào. Cám sống theo sự thuần hóa của mẹ, trở thành kẻ ác độc, vô tâm. Chị chết, Cám vào cung thay chị làm vợ vua. Nhưng tác giả cổ tích đâu để mọi chuyện kết thúc dễ dàng như vậy. Trong khi họ luôn tin rằng cái thiện ắt sẽ chiến thắng cái ác. Cái thiện là bất diệt. Tấm chết hóa thành chim vàng anh bay về quẩn quanh bên chồng. Cám lại về mách mẹ tìm cách giết vàng anh. Vàng anh chết, chỗ cám vứt lông mọc lên hai cây xoan đào. Duyên phận và sự bất diệt của cái thiện đã đưa vua đến bên gốc cây, gắn bó với cây như một người bạn thân thiết. Thấy vậy, Cám lại về bàn với mẹ chặt hai cây xoan đi làm khung cửi. Lần này, Tấm mạnh mẽ hơn khi chửi thẳng vào mặt Cám:
Kẽo ca kẽo kẹt
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra
Cám tuy sợ nhưng vẫn quyết tâm tiêu diệt Tấm đến cùng. Cám đốt khung cửi vứt tro ra thật xa. Những tưởng làm vậy Tấm sẽ không còn tồn tại nữa, nhưng tại chỗ đó lại mọc lên cây thị. Điều lạ lùng trên cây chỉ có duy nhất một quả. Bà lão đi qua thấy thị thơm bèn hái về để trong nhà. Ít lâu sau, bà phát hiện nàng Tấm trong đó, bà xé toang vỏ thị để Tấm ngày ngày sống với bà như hai mẹ con. Nhà vua đi qua ghé vào chơi, nhận ra vợ mình, đưa về cung. Lần này, Tấm trở lại bằng xương bằng thịt của một con người thực sự. Điều đó càng làm mẹ con nhà Cám nổi lòng ganh ghét. Từ ganh gét đi đến sự mù quáng, ngu dốt, họ nghe theo lời Tấm đào hố đổ nước sôi vào để được xinh đẹp như Tấm.
Cám chết. Câu chuyện kết thúc nhưng bài học về lối sống ích kỷ vẫn còn mãi trong thông điệp mà tác giả dân gian muốn gửi gắm tới thế hệ sau. Cám vừa đáng thương vừa đáng giận. Đáng thương vì Cám là kết quả của một người mẹ ích kỷ, độc đoán. Nhưng lại đáng giận vì Cám không phân biệt được phải trái, đúng sai, luôn thuận lòng làm theo tất cả những tội ác mẹ bày ra.
|
Assignment
The fairy tale Tam Cam has entered into the subconscious of many children the beloved image of a girl with a very affectionate and loving name: Ms. Tam. If Tam brings readers a lesson about gentleness, modesty, and kindness, Cam is a denunciation of those who live selfishly, domineeringly, and jealously.
The story is about Tam's family. After his father died, Tam lived with his mother, stepmother, and Cam. Over and over again, Tam was harmed and assassinated by them. But after all, good meets good, evil meets evil, Tam enjoys a happy life with the king, while Cam and her mother have to suffer a tragic death for what they have caused.
Cam Tam are two sisters with different fathers. His father passed away, but Cam was luckier than Tam because he still had his mother. But unfortunately that mother was cruel and greedy, so of course she also taught those characteristics to her children. When going to the field to catch fish to compete for the reward, Cam was busy playing and tricking her sister to take all of her fish and bring it home before receiving the reward, making Tam cry in pain. Luckily, there was still a Goby fish left in Tam's basket. Listening to Buddha's words, Tam took it home and dropped it into the well to raise. But Cam and his mother forced Bong to kill him. Once again Cam made her cry. Not long after, the king held a festival to choose a wife. Cam was pampered by her mother, took all her beautiful clothes to go out, and forced Tam to pick up all the rice and grains before she could go. But accompanying the gentle, poor Miss Tam, there is always the powerful and miraculous Buddha. And Cam's companion is the cruel, evil stepmother. It can be seen that although Tam's life is more disadvantaged than Cam's, it is actually luckier than Cam's.
With Buddha's support, Tam was chosen to be the king's wife. Cam and her mother were jealous, and over and over again, Cam listened to her mother's words and killed her. After all, they have the same father, but it seems that there is no close relationship between the two sisters. Cam lived according to her mother's taming, becoming a cruel and heartless person. When she died, Cam entered the palace to replace her as the king's wife. But the fairy tale author doesn't let things end so easily. While they always believe that good will triumph over evil. Goodness is eternal. The dead mother turned into an oriole and flew back to hover around her husband. Thank you for coming back and telling your mother to find a way to kill your brother. The yellow cherry tree died, and where the bran left its feathers, two peach trees grew. Fate and the immortality of goodness brought the king to the tree and bonded with the tree like a close friend. Seeing that, Cam went back to discuss with his mother about cutting two bamboo trees to make a loom. This time, Tam was stronger as he cursed Cam straight in the face:
Creak and creak
Take my husband's picture
She gouged her eyes out
Although Cam was afraid, he was still determined to destroy Tam to the end. Cam burned the loom and threw the ashes far away. I thought that if I did that, Tam would no longer exist, but in that place a thi tree grew. The strange thing is that there is only one fruit on the tree. The old woman passed by and saw that it was fragrant so she picked it up and put it in her house. Not long after, she discovered Tam in there, she tore open her shell so that Tam could live with her day by day like mother and daughter. The king stopped by to visit, recognized his wife, and took her back to the palace. This time, Tam returned in the flesh and blood of a real human being. That made the Cam family even more jealous. From jealousy to blindness and ignorance, they followed Tam's advice to dig a hole and pour boiling water into it so they could be as beautiful as Tam.
Cam died. The story ends, but the lesson about a selfish lifestyle remains forever in the message that the folk author wants to convey to the next generation. Cam is both pitiful and angry. It's pitiful because Cam is the result of a selfish, domineering mother. But it's angry because Cam can't distinguish between right and wrong, and is always willing to follow all the crimes his mother shows him.
|
Bài làm
Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Vốn thông minh nên từ nhỏ cô đã thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. Năm 16 tuổi cô làm vợ lẽ một nhà quyền quý. Vợ cả là người hay ghen, bắt cô phải sống riêng trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Vì đau buồn, cô sinh bệnh rồi chết ở tuổi 18. Nỗi uất ức, đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng nhiều bài thơ đã bị người vợ cả đốt, may mắn có một số bài thơ còn sót lại. Thương xót cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc là một cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du. Khi bắt gặp những bài thơ của Tiểu Thanh, ông không thể cầm được lòng mình trước thân phận hẩm hiu, nghiệt ngã của nàng. Cầm tập thơ còn sót lại trên tay, ông ngậm ngùi viết lên bài thơ Độc Tiểu Thanh kí như một lời cảm thương sâu sắc gửi tới người con gái đa tài đã khuất.
Bài thơ chỉ gồm tám câu ngắn gọn nhưng những nỗi niềm chứa đựng trong đó là cả một tấm lòng xót xa sâu đậm. Tiểu Thanh đang độ tuổi xuân vừa đến, chập chững bước vào đời, nàng chưa được hưởng trọn vẹn một ngày hạnh phúc đã phải sống cảnh cô liêu, hiu quạnh bên Tây Hồ:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Dịch thơ:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Tây Hồ đẹp là thế, nhưng lại không gợi nổi niềm vui cho người con gái đang bị giam cầm trái tim mình bởi lòng người ích kỷ, trái ngang. Lẽ ra, người con gái xinh đẹp, tài giỏi như nàng phải được hưởng một tình yêu tự do, nồng thắm và xứng với tâm hồn mơ mộng, đầy khát khao. Nhưng không, lẽ đời không thuận buồm xuôi gió như thế. Tiểu Thanh bị gả làm lẽ cho một gia đình quyền quý. Những tưởng được hưởng vinh hoa phú quý, người hầu kẻ hạ. Nào ngờ, nàng bị đẩy ra sống riêng trong cảnh cô quạnh, đau buồn. Tiểu Thanh lúc này chẳng khác nào một con chim non buộc phải hạ cánh mình nằm gọn trong chiếc lồng chật hẹp. Tây Hồ đâu phải không có hoa, nhưng cảnh đẹp có ý nghĩa gì khi lòng người đang chan chứa bao niềm đau? Và chính nơi ấy đã trở thành gò hoang chôn vùi cả thân xác lẫn tâm hồn người con gái tội nghiệp. Mãi cho tới khi Nguyễn Du đọc được những bài thơ còn lại của Tiểu Thanh, nàng mới nhận được sự đồng cảm của một người thực sự hiểu đời và thương mình. Cầm tập thơ trên tay, Nguyễn Du thổn thức và nghĩ về nàng Tiểu Thanh đã phải trải qua một đời đau khổ. Đời nàng có lẽ cũng đã tàn tạ, thê lương như mảnh giấy tàn còn sót lại mà nhà thơ đang cầm trên tay.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Dịch thơ:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Mười tám năm trôi qua trong cuộc đời, Tiểu Thanh được vui vẻ bấy nhiêu đâu? Bước vào tuổi thanh xuân, bao nhiêu thứ nàng còn chưa được tận hưởng hết đã bị người đời vội vã vùi dập trong cô đơn. Ở Tây Hồ dù cảnh có đẹp đến mấy nhưng cũng không thể khỏa lấp nỗi trống trải trong trái tim đầy khát khao của nàng. Son phấn có thể khiến Tiểu Thanh xinh hơn nhưng vẫn không đủ để làm nguôi ngoai nỗi uất hận trong lòng nàng. Người ta không cầm dao đâm trực tiếp vào người Tiểu Thanh nhưng lại khiến nàng chết dần chết mòn trong sự cô đơn và buồn tủi. Bao nhiêu nỗi niềm của ngày tháng nơi đây, nàng gửi gắm vào những trang thơ, những dòng chữ. Nhưng lòng người ích kỷ muốn xóa hết mọi dấu vết về nàng. Họ đã đốt những tập thơ, như đốt đi chính tâm hồn của Tiểu Thanh. May mắn còn sót lại một ít. Để đến ngày hôm nay Nguyễn Du có dịp được thấu hiểu hơn về thân phận và nỗi niềm của nàng.
Ông khóc cho người trong thơ, nhưng cũng khóc cho những con người cùng cảnh ngộ:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
Dịch thơ:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Phải chăng khi sinh ra kiếp phong trần người ta đã tự mang sẵn trong mình những nỗi niềm đau khổ, bất hạnh? Phải chăng đó là ý trời? Nếu đã là ý trời thì sau này có lẽ chính Nguyễn Du cũng phải chịu số phận như vậy chăng?
Bất an tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch thơ:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
|
Assignment
Legend has it that Tieu Thanh was a talented and beautiful Chinese girl who lived around the early Ming Dynasty. Being intelligent, from a young age she understood many arts such as poetry and music. At the age of 16, she became the concubine of a noble family. The first wife is jealous and forces her to live separately on Co Son, next to Tay Ho. Because of grief, she fell ill and died at the age of 18. She expressed her frustration and suffering in poetry, but many of the poems were burned by her first wife. Fortunately, a few poems survived. Pitying for the unfortunate fate of talented women is a great inspiration in Nguyen Du's work. When he came across Tieu Thanh's poems, he couldn't help but feel her sad and cruel fate. Holding the remaining poetry collection in his hand, he sadly wrote the poem Doc Tieu Thanh Ky as a deep condolence to the deceased multi-talented girl.
The poem only consists of eight short sentences, but the feelings contained in it are a deep sadness. Tieu Thanh is in her youth, just starting out in life. She has not yet fully enjoyed a happy day and has to live a lonely, lonely life by Tay Ho:
Tay Ho's flowers fade into ruins,
Single cigarette, but most money, only letter.
Poetry translation:
Tay Ho's beautiful landscape turns into a wild mound
Sobbing next to the broken piece of paper.
Tay Ho is beautiful, but it cannot evoke joy for the girl whose heart is imprisoned by selfish, unruly people. A beautiful and talented girl like her should have enjoyed a free, passionate love worthy of a dreamy, yearning soul. But no, life is not that smooth sailing. Tieu Thanh was married into a noble family. Thoughts of enjoying glory and wealth, being servants and subordinates. Unexpectedly, she was pushed to live alone in loneliness and sadness. Tieu Thanh right now is like a baby bird forced to land and fit inside a narrow cage. Tay Ho is not without flowers, but what does beautiful scenery mean when people's hearts are filled with so much pain? And that place became a deserted mound that buried both the poor girl's body and soul. It wasn't until Nguyen Du read Tieu Thanh's remaining poems that she received the sympathy of someone who truly understood life and loved her. Holding the poetry book in his hand, Nguyen Du sobbed and thought about Tieu Thanh, who had gone through a life of suffering. Her life was probably as ruined and miserable as the remaining piece of paper that the poet was holding in his hand.
The god-like pollen is the posthumous lotus,
Literature has no residue.
Poetry translation:
Lipstick has a hidden spirit and still hates it
Literature that is not destined to be burned still lingers.
Eighteen years have passed in her life, but how happy has Tieu Thanh been? Entering her youth, many things she had not yet enjoyed were quickly buried by people in loneliness. No matter how beautiful the scenery in Tay Ho is, it cannot fill the emptiness in her heart full of desire. Makeup can make Tieu Thanh more beautiful, but it's still not enough to calm the resentment in her heart. People did not stab Tieu Thanh directly with a knife, but instead caused her to slowly die in loneliness and sadness. She put so many feelings of her days here into the pages of poetry and lines of text. But selfish people want to erase all traces of her. They burned the poetry books, as if burning Tieu Thanh's very soul. Luckily there was a little left. Until today, Nguyen Du has the opportunity to better understand her identity and feelings.
He cried for the people in the poem, but he also cried for people in the same situation:
Ancient and modern people hate the problem
Interview self settled down for an injustice
Poetry translation:
Ancient and ancient anger asked wisely
The sentence of exile is self-carrying
Is it true that when people are born into a worldly life, they already carry within themselves suffering and unhappiness? Is that God's will? If it was God's will, then perhaps Nguyen Du himself would also suffer the same fate in the future?
Unsettled and aware of the three hundred remaining years,
People in the world crave To Nhu?
Poetry translation:
I don't know in three hundred years,
|
Bài làm
Chiều. Một buổi chiều mua thu lành lạnh dễ khiến tâm hồn người ta xao xuyến trước những chiếc lá vàng rơi. Buổi lễ viếng thăm nghĩa trang vừa kết thúc. Lòng tôi bâng khuâng, nghĩ về những thế hệ cha anh đã nằm xuống, cho đàn em hôm nay được tung tăng cắp sách tới trường. Chiến tranh, đạn bom đã làm vợ lìa chồng, cha lìa con, mẹ mất con… Đất nước tưng bừng mừng ngày chiến thắng nhưng đau đáu trong lòng những người ở lại vẫn còn đó những nỗi đau mất người thân. Tôi bỗng nhớ lại câu chuyện Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Câu truyện khiến tôi nhớ mãi về cuộc gặp gỡ xúc động của hai cha con trong những ngày kháng chiến. Và rồi, người cha đã ra đi mãi không trở về như lời hứa hẹn với con…
Lúc con sinh, cha còn đang cầm súng ngoài chiến trường. Nó chỉ được biết đến ba qua lời kể của má và tấm hình ba má chụp chung. Ngày ba nghỉ phép về thăm nhà, con bé lạnh lùng trước cánh tay dang rộng của người cha đã chờ mong giây phút được gặp con suốt bao lâu nay. Nhưng đáp lại sự hi vọng ấy, không phải là một cái ôm thật chặt, cũng chẳng phải một tiếng gọi “ba” thân thương đầy cảm xúc, mà lại là sự sợ hãi, trốn tránh. Tay ba buông thõng xuống, hụt hẫng như người vừa đánh mất thứ gì đó. Lần đầu tiên được gặp con mình, tưởng chừng như sẽ được ôm nó, ghì chặt nó trong vòng tay thương nhớ bao ngày nhưng lại không thể nào chạm được vào nó. Cái cảm giác ấy như xé nát trái tim tội nghiệp của ba.
Con bé cũng cứng đầu lắm. Ngay cả khi nó một mình loay hoay với nồi cơm đang sôi, bị dồn vào thế bí, nó vẫn nhất quyết không chịu gọi ba. Nó nói trổng:
– Cơm sôi rồi
Ba đứng đó, cũng muốn chạy vào giúp con lắm. Nhưng ba không vào. Ba muốn nghe nó gọi một tiếng “ba”. Nhưng nó vẫn không gọi. Con bé loay hoay, bí thế, nó bèn nghĩ ra cái cách lấy vá múc từng thìa nước trong nồi cơm.
Bữa ăn, ba gắp cho nó miếng trứng, nó hất tung ra làm vung vẩy cơm ra mâm. Ba giận quá, đánh vào mông nó, quát:
– Sao mày cứng đầu quá vậy hả
Với tính cách của nó, những tưởng con bé sẽ gào ầm lên, giận dỗi. Nhưng không, nó cúi gằm mặt xuống, lặng lẽ gắp lại miếng trứng vào bát rồi đứng dậy. Nó chạy xuống xuồng, quăng cái lòi tói thật mạnh, cho nó kêu thật to. Nó bơi xuồng sang nhà bà ngoại, kể cho bà nghe. Bao nhiêu nỗi tủi hờn nó trút hết với bà. Má sang dỗ dành thế nào nó cũng không về.
Sáng hôm sau, ba phải đi. Bà ngoại đưa con bé về. Nó đứng lặng thầm một góc. Ánh mắt xa xăm, không còn giận dỗi nữa. Thay vào đó là cả một nỗi niềm khó hiểu. Bà con đến chia tay ba, cả ba và mẹ đều bận, không ai có thời gian để ý đến nó nữa. Thỉnh thoảng ba liếc nhìn nó. Ba vẫn muốn chạy lại ôm thật chặt lấy đứa con trước khi lên đường. Chiến tranh, không ai nói trước điều gì, cũng không biết ra đi ngày nào trở lại. Chỉ biết rằng, trước mắt ba giờ đây là đứa con gái yêu dấu lần đầu tiên ba được gặp kể từ ngày má sinh nó ra. Nhưng con bé cứng đầu quá. Ba không dám lại gần nó nữa, sợ nó lại vùng vẫy bỏ chạy. Một nỗi tủi hờn len lỏi trong tim ba. Nó kể với bà ngoại ba không giống như hình chụp với má. Trong hình, ba không có vết thẹo dài trên má như bây giờ. Hóa ra là vậy. Tình yêu thương nó dành cho ba thật mãnh liệt, nó không chịu nhận ba vì nó cho rằng đây không phải ba nó, chứ không phải nó ghét bỏ ba. Nó muốn tìm người ba thực sự giống như trong bức ảnh má cho xem. Bà ngoại dỗ dành, giải thích, ba bị thương trong lúc đánh giặc, vết thương lành nhưng sẹo không hết được, may còn giữ được mạng sống trở về thăm má thăm con. Lúc đó mới hiểu, có lẽ nó ân hận lắm. Nhưng lúc nhận ra ba, lại là lúc ba phải đi rồi. Ba khoác ba lô lên vai, lòng nặng trĩu. Giọng ba nghẹn ngào nói với con:
– Ba đi nghe con.
Sau tiếng nói ấy, nó vội thét lên một tiếng “ba”. Tiếng kêu bất ngờ xé toang bầu không khí nặng nề của buổi chia ly. Nó chạy thật nhanh nhảy tót lên người ba, ôm ghì chặt lấy cổ ba, quắp chân vào ba không cho ba đi nữa. Mẹ dỗ dành khi nào chiến thắng ba sẽ lại về. Biết không thể giữ ba ở lại được, nó từ từ tụt xuống, dặn ba ngày về nhớ mua tặng con chiếc lược ngà. Trong phút chốc, tấm lòng người cha tội nghiệp đã được đong đầy tình yêu thương bởi tiếng gọi của đứa con cứng đầu. Nó không sợ vết thẹo trên gương mặt ba nữa. Thậm chí còn hôn lên đó như một lời xin lỗi chân thành.
|
Assignment
Afternoon. A cold autumn afternoon can easily make people's souls flutter at the falling yellow leaves. The cemetery visit ceremony has just ended. My heart is filled with sadness, thinking about the generations of ancestors who laid down their lives, allowing today's juniors to freely go to school. War and bombs have caused wives to leave their husbands, fathers to leave their children, mothers to lose their children... The country jubilantly celebrates the day of victory, but in the hearts of those left behind, there is still the pain of losing loved ones. I suddenly remembered the story The Ivory Comb by writer Nguyen Quang Sang. The story reminds me forever of the emotional meeting between father and son during the days of the resistance. And then, the father left and never returned as promised to his son...
When I was born, my father was still holding a gun on the battlefield. He only knew about it through his mother's words and the picture he took together. On the day her father came home from leave, she was cold in front of the outstretched arms of her father who had been waiting for the moment to meet her for so long. But the response to that hope is not a tight hug, nor a loving, emotional call "daddy", but rather fear and avoidance. His father's arms dropped down, as if he had just lost something. The first time I met my child, I thought I would be able to hug him, hold him tight in my loving arms for many days but could not touch him. That feeling seemed to tear my poor heart apart.
She's also very stubborn. Even when he was alone struggling with the boiling pot of rice and cornered, he still refused to call his father. It says blankly:
– The rice is boiling
Dad stood there, wanting to run in and help me. But dad didn't come in. Dad wants to hear him call out "daddy". But it still doesn't call. The little girl struggled and was at a loss, so she thought of a way to scoop up each spoonful of water in the rice cooker.
At mealtime, his father gave him a piece of egg, and he threw it away, scattering the rice all over the tray. Dad was so angry, he hit his butt and shouted:
– Why are you so stubborn?
With her personality, I thought she would scream and get angry. But no, he lowered his head, quietly put the egg back in the bowl and stood up. It ran down to the boat, threw the hook really hard, making it scream loudly. He rowed the canoe to his grandmother's house and told her. How much sadness he vented to her. No matter how much my mother comforted him, he still wouldn't come home.
The next morning, Dad had to go. Grandma took her home. It stood silently in a corner. His eyes were distant, no longer angry. Instead, there is a feeling of incomprehension. Relatives came to say goodbye to Dad. Both Mom and Dad were busy, no one had time to pay attention to him anymore. Occasionally Dad glanced at it. Dad still wants to run back and hug his child tightly before leaving. In war, no one can predict anything, and no one knows when they will return. All I know is that right before my eyes is my beloved daughter for the first time since my mother gave birth to her. But she's so stubborn. Dad didn't dare go near it again, afraid it would struggle and run away again. A sadness crept into my father's heart. He told his grandmother that his father did not look like the picture taken with his mother. In the picture, Dad doesn't have the long scar on his cheek like he does now. That's how is it. His love for his father is so strong, he refuses to accept him because he thinks this is not his father, not because he hates him. He wants to find a father who really looks like the one in the photo. Grandma coaxed and explained that Dad was injured while fighting the enemy. The wound healed but the scars did not go away. Luckily, he was able to keep his life and return to visit his mother and child. That's when I realized, maybe he regretted it a lot. But when he recognized his father, it was time for him to leave. Dad put his backpack on his shoulders, his heart heavy. Dad's choked voice told his child:
– Dad, go listen to me.
After that voice, it quickly screamed "daddy". The sudden cry tore through the heavy atmosphere of the separation. He ran as fast as he could, jumped on his father, hugged him tightly around his neck, and wrapped his legs around his father, not letting him go anymore. Mom reassured dad that when he won, he would come back. Knowing he couldn't keep his father there, he slowly climbed down, telling him to remember to buy him an ivory comb when he came home three days later. In an instant, the poor father's heart was filled with love by the call of his stubborn son. He's not afraid of the scar on his father's face anymore. Even kissed it as a sincere apology.
|
Bài làm
Sinh ra là thân con gái đã khổ, sinh vào thời phong kiến, trọng nam khinh nữ lại càng khổ hơn. Cảm thông và xót xa cho những thân phận bọt bèo nổi trôi, nhân dân đã sáng tác ra nhiều bài ca dao nói lên tâm tư, số phận của người phụ nữ cùng thời. Cho tới nay, những bài ca dao than thân ấy vẫn còn được lưu giữ trên nhiều trang sách, cho người đọc thấu hiểu hơn những nỗi niềm của thế hệ phụ nữ trước đây.
Thời ấy, phụ nữ không được quyền tự lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của mình. Nam giới mới là người nắm quyền. Người may mắn lọt vào gia đình tử tế, kẻ không may chấp nhận số phận hẩm hiu. Bởi thế, các cô gái đã cất tiếng ai oán, xót xa:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
“Thân em” là thân ai? “Thân em” không chỉ đơn thuần là một cô gái cụ thể, mà là cả một lớp người cùng chung số phận đắng cay. Hình ảnh so sánh “thân em” với “tấm lụa đào” rất đẹp. Tấm lụa ấy vừa tinh khôi bởi chất liệu tạo nên, vừa mang nét đẹp quyền quý trước mắt người nhìn. “Thân em” tuy chỉ là phận nữ nhi, là thành phần không đáng được chú trọng trong xã hội cũ nhưng họ vẫn đẹp dù chỉ là vẻ đẹp thầm lặng, vẫn mang những phẩm cao quý, tốt đẹp như “tấm lụa đào”. Thật đáng xót xa khi tấm lụa đào ấy “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Cuộc đời thật trớ trêu, tốt đẹp, cao quý nhưng lại sống trong kiếp người nổi trôi. Hai từ “phất phơ” quá đủ để nói lên sự thật cay đắng phũ phàng về thân phận của những kiếp hồng nhan mà bạc mệnh. Họ không biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu, sẽ “vào tay ai”.
Cuộc đời ngang trái, nhiều khổ đau, mỗi người mang trong mình một nỗi niềm khắc khoải riêng. Người như tấm lụa đào, người lại như củ ấu gai:
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi”
Nếu như bài trước thân em được ví với tấm lụa đào cao sang chỉ những cô gái quyền quý nhưng cũng mang phận đắng duyên cay, thì ở đây, một mảnh đời khác lại hiện ra với hình ảnh so sánh như củ ấu gai. Tuy vỏ ngoài đen, sần sùi xấu xí nhưng bên trong ruột trắng, có vị ngọt bùi. Đặc biệt, củ ấu gai có tác dụng rất tốt trong việc chữa bệnh. Tác giả dân gian đã rất khéo léo khi so sánh thân phận những cô gái lam lũ, vất vả có phẩm chất tinhh túy như củ ấu gai. Họ mong muốn một lần được người đời thấu hiểu, cùng đồng điệu và xót thương cho số phận đắng cay của bản thân mình.
Nhưng thời thế oan nghiệt, dòng đời xô bồ những bon chen vất vả, dù là có nhan sắc hay không, là thân con gái họ phải luôn mang cho mình một số phận chớ trêu đã được định sẵn bởi chế độ phong kiến đương thời. Không được tự do lựa chọn quyền hạnh phúc cho mình, cũng không được tự làm chủ đời mình, có khi họ như tấm lụa phất phơ giữa chợ, mặc cho dòng đời xô đẩy, lúc lại thầm lặng như củ ấu gai giữa hàng ngàn hàng vạn sinh vật khác. Cuộc đời cứ thế trôi đi, những người phụ nữ cũng thầm lặng tồn tại giữa xã hội, như một công cụ giải khuây cho giới đàn ông. Chưa kể đến những người phụ nữ phải làm nô lệ, phải sống kiếp lầm than khổ cực, suốt ngày quần quật trong công việc. Họ không có một chức danh hay địa vị gì trong xã hội. Có những kiếp người chỉ là công cụ kiếm tiền cho giai cấp thống trị. Trong gia đình, người phụ nữ cũng phải tự làm trụ cột, vừa nuôi con, vừa lo làm ăn kiếm miếng cơm manh áo cho con. Cuộc đời họ chỉ là những màn đen u tối.
|
Assignment
Being born as a girl is already miserable, being born in feudal times, where men are favored over women, is even more miserable. Sympathizing and grieving for the poor lives floating around, the people composed many folk songs expressing the thoughts and fate of women at the same time. To this day, those self-pity songs are still preserved on many pages of books, allowing readers to better understand the feelings of previous generations of women.
At that time, women did not have the right to choose their own love and happiness. Men are the ones in power. Lucky people end up in good families, unlucky people accept a miserable fate. Therefore, the girls raised their voices in lament and sorrow:
“My body is like peach silk
Floating in the market, who knows whose hands it belongs to?
Whose body is "your body"? “Your body” is not simply a specific girl, but a whole class of people sharing the same bitter fate. The image comparing "your body" with "peach silk" is very beautiful. That piece of silk is both pure because of the material it's made of and has a noble beauty in front of the viewer's eyes. Although "my body" is only a female part, a part that does not deserve attention in the old society, they are still beautiful even if it is only a silent beauty, still possess noble and good qualities like "peach silk". . It's so sad when that piece of peach silk is "Floating in the middle of the market, who knows whose hands it belongs to". Life is ironic, good, noble, but living in a floating life. The two words "flattery" are more than enough to express the bitter and harsh truth about the fate of lives with beautiful but ill-fated lives. They don't know where their life will go or "in whose hands it will be".
Life is unfair, full of suffering, each person has their own anxiety. Some people are like peach silk, others are like thorny water chestnuts:
“My body is like a thorny tubercle
The inside is white and the outside is black.
Hey, try it and see!
When I taste it, I realize that you are sweet."
If in the previous article, my body was compared to a luxurious peach silk, indicating noble girls but also with a bitter fate, then here, another piece of life appears with the image compared to a thorny water chestnut. Although the outer shell is black and rough and ugly, the inside is white and has a sweet taste. In particular, water chestnut tubers have very good effects in treating diseases. The folk author was very skillful when comparing the fate of hard-working girls with quintessential qualities like that of a thorny tubercle. They want to be understood, sympathized with, and sympathized with people for their own bitter fate.
But the harsh times, the hustle and bustle of life, whether they have beauty or not, their daughters always have to carry an ironic fate that is predetermined by the feudal regime of the time. . Not being free to choose their own happiness, nor being in control of their own lives, sometimes they are like silk fluttering in the market, letting life push them, sometimes they are as quiet as a thorny water chestnut among thousands of people. tens of thousands of other creatures. Life goes on like that, women also exist silently in society, as a means of comfort for men. Not to mention the women who have to be slaves, have to live miserable lives, working hard all day long. They do not have a title or status in society. There are lives where people are just money-making tools for the ruling class. In the family, women also have to be the breadwinners, both raising children and taking care of business to earn food and clothes for their children. Their lives are just dark scenes.
|
Bài làm
Việt Nam vốn là đất nước giàu truyền thống tốt đẹp với tình yêu thương nhau thắm thiết. Trong nhiều câu ca dao của dân gian đã không ít lần thể hiện tình yêu thương mặn nồng ấy:
“Muối ba năm muỗi đang còn mặn
Gừng chín thắng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Câu ca dao mang âm hưởng thiết tha như rót vào lòng người những nghĩa tình sâu nặng. Tác giả dân gian không lấy hình ảnh cụ thể bất cứ một con người cụ thể nào nhưng càng đọc ta càng thấy thấm thía ân tình của những con người đã gắn bó với nhau bằng tình yêu thương chân thành, đằm thắm.
Ca dao là tiếng nói của người dân, là tâm tư là nỗi niềm thầm kín của họ, do chính con người lam lũ vất vả làm nên để cuộc đời bớt đi những nhọc nhằn khổ cực. Muối và gừng là hai thứ không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Họ đã đưa những thứ thân quen này vào mối tình sâu nặng của mình. Muối mặn, gừng cay đã làm nên vị đậm đà cho những món ăn. Tương tự vậy, vị đắng và vị cay còn là biểu tượng cho những hương vị mặn nồng của tình yêu thương thắm thiết. Và dẫu cho cuộc đời có những lúc thăng trầm, hoạn nạn, đôi ta vẫn luôn nghĩa nặng tình dày.
Và Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa. Những từ chỉ số lượng không phải để ấn định thời gian mà để ngầm chỉ khoảng thời vô hạn “đôi ta” nguyện gắn bó thiết tha mặn nồng với nhau. Ba năm, chín tháng, rồi đến ba vạn sáu ngàn ngày, thời gian mỗi lúc một tăng lên từ cụ thể đến sự vô tận của năm tháng. “Đôi ta” chứ không phải là “hai ta” vì “đôi ta” giờ đây là một, cùng gắn bó với nhau khăng khít, trước sau như một. Thậm chí ngày càng mặn mà hơn như muối, như gừng. Hình ảnh được tác giả dân gian sử dụng ở đây rất đỗi gần gũi, thân thương và bình dị.
Những câu ca dao chân thành mộc mạc đã mang một làn gió mới thổi vào cuộc đời đầy vất vả của những người nông dân. Họ đã cùng nhau trải qua bao đắng cay ngọt bùi, đi qua bao năm tháng của tuổi thanh xuân cho tới khi về già vẫn một lòng chung thủy sắt son trong nghĩa tình sâu đậm. Câu thơ cuối đột ngột kéo dài sau ba câu ca dao ngắn gọn như một lời hẹn thề về tình nghĩa vững bền mãi mãi.
|
Assignment
Vietnam is a country rich in good traditions and passionate love for each other. In many folk songs, this passionate love has been expressed many times:
“Three years of salt is still salty
Ripe ginger beats ginger that is still spicy
We both have a deep love
Even if we are apart, we will still be apart for thirty-six thousand days."
The folk song has a passionate sound as if pouring into people's hearts deep feelings of love. The folk author does not take a specific image of any specific person, but the more we read, the more deeply we see the gratitude of people who have been bound together by sincere and loving love.
Folk songs are the voice of the people, their thoughts and secret feelings, created by people who have worked hard to ease life's hardships and hardships. Salt and ginger are two indispensable things in people's daily lives. They brought these familiar things into their deep love. Salty salt and spicy ginger add a rich flavor to the dishes. Likewise, bitter and spicy tastes also symbolize the salty flavors of passionate love. And even though life has its ups and downs and tribulations, we still have a strong bond of love.
And even if we are apart, we will still be apart for thirty-six thousand days. The words indicating quantity are not meant to fix time but to implicitly indicate the infinite period of time "we" vow to be passionately attached to each other. Three years, nine months, then thirty-six thousand days, time gradually increasing from the concrete to the infinity of years. "The two of us" is not "the two of us" because "the two of us" are now one, closely attached to each other, always as one. Even more and more salty like salt, like ginger. The images used by the folk author here are very close, dear and simple.
The sincere and rustic folk songs have brought a breath of fresh air into the hard life of farmers. Together they have gone through so much bitterness and sweetness, through many years of youth until old age, still remaining faithful and loyal in deep love. The last verse suddenly lasts after three short folk songs like a promise of everlasting love.
|
Bài làm
Nếu như Lí Bạch được gọi là Thi tiên thì Đỗ Phủ lại được tôn là thi thánh. Thơ Lí Bạch thường vươn tới lý tưởng cao đẹp, khát vọng giải phóng cá tính, còn thơ Đỗ Phủ lại trầm uất nghẹn ngào với những bức tranh hiện thực sinh động và chân xác đến mức được gọi là “thi sử”. Đó cũng là niềm đồng cảm của nhà thơ với nhân dân trong khổ nạn, chứa chan tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Tiêu biểu cho tư tưởng ấy là bài thơ Thu hứng. Ở đó ta không những bắt gặp bức tranh về mùa thu hiu hắt mà còn cảm nhận được bức tranh về tâm trạn buồn lo của nhà thơ trong cảnh loạn li: nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi xót xa cho thân phận mình.
Vốn dĩ là nhà thơ giàu cảm xúc, Đỗ Phũ dường như đã đặt hết mọi nỗi niềm của mình vào cây bút. Đứng trước cảnh mùa thu ảm đạm và đượm buồn, cảnh vật thiên nhiên hiện lên trong con mắt của vị thi thánh cũng thật u sầu và sâu thẳm:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Chỉ một vài nét chấm phá, bức tranh hiu hắt về cảnh sắc mùa thu đã hiện ra trước mắt người đọc. Mỗi một hiện tượng đều mang vẻ u ám của mùa thu gợi buồn gợi nhớ. Rừng phong lác đác, ngàn non hiu hắt, sóng rợn lòng sông thẳm, mây đùn cửa ải xa, tất cả đều được nhìn dưới con mắt u buồn của nhà thơ. Cái nhìn ấy rất xa xăm, rộng lớn. Dòng sông sâu như nỗi lòng sâu thẳm trong ông. Mỗi một cảnh vật đều được gắn với một tính từ mang đậm chất sầu và buồn. Đúng như Nguyễn Du từng viết:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đỗ Phủ cũng vậy, cả cuộc đời ông sống nghèo khó, nay lại chứng kiến cảnh loạn li. Đứng giữa đất trời mùa thu hiu hắt, có hồn thơ nào tránh được nỗi xót xa:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch thơ:
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
|
Assignment
If Ly Bach is called the poetic fairy, then Do Phu is revered as the poetic saint. Ly Bach's poetry often strives for noble ideals and the desire to liberate individuality, while Do Phu's poetry is melancholy and choking with realistic pictures so vivid and accurate that it is called "epic". That is also the poet's sympathy for the people in suffering, filled with patriotism and humanitarian spirit. Typical of that thought is the poem Thu Hoc. There we not only see a picture of a gloomy autumn, but also feel a picture of the poet's sad state of mind in the midst of chaos: anxiety for the country, sadness of missing his homeland, and sadness. sorry for my fate.
Originally an emotional poet, Do Phu seems to have put all his emotions into his pen. Facing the gloomy and sad autumn scene, the natural scenery appearing in the poet's eyes is also melancholy and profound:
Jade road is painful and windy,
Vu Son, Vu Giap energy dissipates ginseng.
Giang Giang Ba Lang cum Thien Courage,
Again, the wind rises and the clouds meet the ground.
Poetry translation:
Scattered maple forests with hooksa seeds,
Thousands of mountains are gloomy, the autumn air is blinding
The back of the sky and waves chill the deep river
The clouds on the ground extruded into the distance
With just a few strokes, a gloomy picture of the autumn landscape appears before the reader's eyes. Each phenomenon has the gloomy look of autumn, reminiscent of sadness. The scattered maple forests, thousands of desolate mountains, the chilling waves of the deep river, the rolling clouds at the far gate, all are seen through the poet's sad eyes. That look is very distant and vast. The river is as deep as the depths of his heart. Each scene is associated with an adjective filled with sadness and sadness. Just as Nguyen Du once wrote:
Sad scene where people have fun ever.
(The Story of Kieu – Nguyen Du)
Du Phu was the same, he lived in poverty all his life, but now he witnessed chaos. Standing in the midst of a desolate autumn sky and earth, is there any poetic soul that can avoid the sadness:
Tung chrysanthemum blooms and forgives the day's tears,
Miss Chu Nhat Hiep Co Vien Tam.
Korean clothes from the land of swords and chains,
Bach De became a high-class tombstone.
Poetry translation:
The chrysanthemum clump sheds another stream of old tears,
The boat ties together family relationships
Coldly urging the man with the knife and ruler
|
Bài làm
Chiến tranh loạn lạc, nhà tan cửa nát. Những người chồng lìa vợ, những người cha lìa con, con lìa cha mẹ để lên đường chiến đấu. Đã có rất nhiều tác phẩm văn học nói về nỗi đau của chiến tranh phi nghĩa. Trong đó, bài Khuê oán (Nỗi oan của người phòng khuê) của Vương Xương Linh được coi là bài thơ tiêu biểu cho tinh thần phản đối chiến tranh phi nghĩa của con người thời Đường.
Vương Xương Linh là nhà thơ lớn của Trung Quốc. Thơ Vương Xương Linh thường đề cập đến cuộc sống của tướng sĩ nơi biên cương, nỗi oán hờn của người cung nữ, nỗi li sầu biệt hận của người thiếu phụ khuê các, tình bằng hữu chân thành, trong sáng… Phong cách thơ Vương Xương Linh trong trẻo, tinh tế, thanh tan, được người đời rất hâm mộ. Trong bài Khuê oán tác giả đã thể hiện sâu sắc về nỗi đau của người thiếu phụ trong tình cảnh lẻ loi khi chồng đi kiếm tước hầu.
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Dịch thơ:
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu,
Ngày xuân chải chuốt, bước lên lầu
Đầu đường chợt thấy màu dương liễu,
Hối để chàng đi kiếm tước hầu.
Bài thơ chỉ vỏn vẹn 28 chữ trong bốn câu ngắn gọn, xúc tích nhưng từng câu từng chữ đều mang nặng nỗi niềm buồn tủi của người thiếu phụ cô đơn. Thời thế trái ngang, chiến tranh phi nghĩa, đôi lứa chia lìa, không thể nào làm trái ngược lại được, nàng đành phải để chồng ra đi. Cuộc chia ly không biết ngày hội ngộ, thời gian trôi đi, phủ mờ năm tháng, mang trong đó là nỗi nhớ niềm thương của người thiếu phụ trẻ nơi quê nhà. Dường như vì quá buồn đau nên giờ đây nàng chẳng biết sầu là gì nữa. Một chữ chẳng như nói lên bao nỗi bẽ bàng, tủi hờn trong những ngày dài tháng rộng đợi chờ. Cuộc chiến sinh tử, ai mất ai còn, người ra đi liệu có trở về chăng? Câu hỏi ấy đau đáu trong lòng nàng.
Nếu không có chiến tranh, ngày xuân, nàng chải chuốt bước lên lầu cùng phu quân hưởng ngoạn tiết trời thanh tao, cùng sống trong những ngày ấm êm hạnh phúc. Nay xuân về, nàng vẫn chải chuốt, vẫn bước lên lầu nhưng chỉ có một mình hiu quạnh. Ngày xuân lẽ ra là ngày vui nhưng lại trở thành ngày buồn hơn bao giờ hết. Phải chăng nhà thơ Vương Xương Linh cũng đang hóa thân mình thành người thiếu phụ, đau đớn và tủi hờn khi nhìn màu dương liễu li tan. Dương liễu đẹp, đẹp như tuổi xuân thì của người con gái nhưng dương liễu lại là màu của li biệt. Và dương liễu cũng yếu mềm như lòng người thiếu phụ đang trăn trở, đang khắc khoải đợi chờ từng ngày từng đêm. Nỗi tủi hờn ngày càng lớn, bủa vây tâm hồn nàng, bao trùm lên nàng một màu u uất, ảm đạm đìu hiu. Có ai không buồn khi phải xa người mình yêu thương, ai không nhung nhớ, không buồn lòng khi năm tháng cứ hững hờ trôi đi, mặc cho lòng người oán hờn, than trách.
Bài thơ không có một từ nào mang tên chiến tranh nhưng lại ẩn chứa bao nỗi hờn về chiến tranh trong lòng người ở lại. Thiếu phụ Hối để chàng đi kiếm tước hầu nhưng cũng chẳng thể nào chống lại được thời thế. Chiến tranh xảy ra, chàng phải đi thôi.
|
Assignment
The war was chaotic, houses were destroyed. Husbands left their wives, fathers left their children, children left their parents to go to war. There have been many literary works about the pain of unjust war. Among them, Vuong Xuong Linh's poem Khue resentment (The injustice of the housekeeper) is considered a poem that represents the spirit of people opposing unjust war during the Tang Dynasty.
Wang Changling is a great Chinese poet. Vuong Xuong Linh's poems often mention the lives of soldiers on the frontier, the resentment of palace maids, the sorrow and hatred of a young woman, the sincere and pure friendship... Vuong's poetic style Xuong Linh is clear, delicate, elegant, and is admired by many people. In the article Khue resentment, the author deeply expressed the pain of a young woman in a lonely situation when her husband went looking for a marquis.
Young woman Khue Trung was not sad
The spring and the sun last a long time
Pick up the first vein of the willow tree
Communicate with the courtiers and concubines.
Poetry translation:
The young lady of the house does not know sorrow,
Spring day grooming, walking upstairs
At the beginning of the road I suddenly saw the color of willows,
Hui let him go find the marquis.
The poem has only 28 words in four short, concise sentences, but each sentence and each word carries the sadness of a lonely young woman. The times were contrary, the war was unjust, the couple was separated, there was no way to reverse it, she had to let her husband go. The separation without knowing the date of reunion, time passes, overshadowing the years, bringing with it the longing for the love of the young woman in her hometown. It seems that because she is so sad, she now doesn't know what sadness is anymore. One word does not seem to express all the humiliation and sadness during the long days and months of waiting. In a life and death battle, who is lost and who is left, will those who leave return? That question pained her heart.
If there had been no war, on spring day, she would have dressed up and gone upstairs with her husband to enjoy the ethereal weather and live together in warm, happy days. Now spring has come, she is still grooming herself, still walking upstairs but she is alone and lonely. Spring day should have been a happy day but it became sadder than ever. Is it possible that poet Vuong Xuong Linh is also transforming himself into a young woman, feeling pain and sadness as he watches the willow color fade away? The willow is beautiful, as beautiful as a girl's youth, but the willow is the color of separation. And the willow is as weak as the heart of a young woman who is anxious and anxiously waiting every day and night. The sadness grew more and more, surrounding her soul, covering her in a gloomy, gloomy color. Who is not sad when they have to leave the person they love, who does not miss and feel sad when the years pass indifferently, letting people's hearts resent and complain.
The poem does not have a single word named war, but it contains a lot of sadness about war in the hearts of those left behind. Young lady Hoi let him go look for a marquis, but she could not resist the times. War broke out, he had to go.
|
Bài làm
Nguyễn Du là nhà thơ lớn gắn liền với nhiều tác phẩm được lưu truyền cho tới ngày nay. Một số tác phẩm như Truyện Kiều, hay Độc Tiểu Thanh kí đều khắc khoải những suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về số phận, kiếp người và những hoàn cảnh trớ trêu cảu thân phận người nghèo hàn khó khăn trong xã hội cũ. Đặc biệt thân phận và những kiếp người bất hạnh được khắc họa thành công đầy thương cảm trong những trang viết của ông
Một trong những bài thơ viết về kiếp hồng nhan bạc phận chính là “ Độc tiểu thanh kí” nhắc đến nàng Tiểu Thanh xinh đẹp nhưng lại gặp phải số phận và hoàn cảnh trớ trêu. Phận nữ nhi không thể chống lại những lễ giáo và thành kiến hà khắc, cũng không thể làm chủ cuộc sống và số phận của mình.
Tiểu Thanh là cô gái đáng thương khi kết thúc cuộc đời của mình khi tuổi chỉ ở mới trăng tròn, lẽ ra cái tuổi đẹp nhất này, những cô gái mà hồng vui vẻ e ấp hoặc hạnh phúc với vòng tay yêu thương của chồng. Nhưng số phận lại không mỉm cười với nàng khi liên tục phải chịu đựng những éo le của xã hội phong kiến. Nàng chết rồi, một cái chết tức tưởi và cô độc nhưng tài năng của nàng cũng bị vợ cả đốt hết toàn bộ văn chương, một số bài thơ còn sót lại được lưu truyền và nói hộ thay cho kiếp hồng nhan của nàng.
Đọc được những tâm sự và xót xa cho thân phận nàng tiểu Thanh, Nguyễn Du đã sáng tác bài thơ khi có dịp đứng trước Tây Hồ, bùi ngùi xúc động trước sự buồn bã đau xót cho thân phận người phụ nữ bé nhỏ
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch thơ Tiếng Việt:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Tây Hổ hoa uyển tẫn thành khư,
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,)
Đứng trước không gian của Tây Hồ, lòng nhà thơ bùi ngùi xúc động khi nhớ và viết về câu chuyện xung quanh người phụ nữ xinh đẹp và tài giỏi. Khung cảnh chẳng còn nguyên vẹn và tươi đẹp như xưa, cảnh vật hoang tàn gợi nhớ đến câu chuyện đáng buồn của người con gái xưa. Cuộc đời của người con gái tài sắc vẹn toàn, thân xác chưa vướng mấy bụi trần mà phải chôn vùi thân xác dưới đất đá kia. Tình cảnh đau xót tăng lên gấp bội và trái tim nhà thơ lại hướng đến một kiếp người đầy bất hạnh. Dường như cảnh đẹp kia chẳng còn đẹp bởi ở đó câu chuyện buồn của người con gái thời xưa vẫn lưu truyền cho đến tận bây giờ
Độc điếu song tiền nhất chi thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)
Chẳng còn nữa một Tiểu Thanh xinh đẹp nhưng kiếp người dở dang lại được chia sử qua những trang giấy và thân phận và số mệnh ấy mãi khiến cho tác giả xót xa tới quặn thắt lòng. Khóc cho số phận nàng Tiểu Thanh, khóc cho một kiếp người những cũng là cả một xã hội của những số phận bạc bẽo. Tác giả bày tỏ sự xúc động mãnh liệt đến những người như nàng Tiểu Thanh và cũng chính là khóc thương cho chính số phận của bản thân mình
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Người chết đi, chẳng còn thân xác trần tục nhưng linh hồn dường như vẫn còn vấn vương với trần gian thế thái, còn đâu nưa một Tiểu Thanh bằng xương bằng thịt nhưng linh hồn của nàng khiến cho người ta càng thêm chua xót và xúc động đến tột cùng. Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là nỗi uất hận, thân xác bị chôn vùi nhưng nỗi buồn về nàng Tiểu Thanh vẫn còn khiến người đời thương tiếc tới muôn đời sau.Linh hồn và những câu chuyện xung quanh Tiểu Thanh vẫn không bao giờ bị chôn vùi mà đội mồ bật dậy, càng thêm chua xót càng thêm tủi hờn. Người đẹp chết đi nhưng văn chương không thể nào bị chôn vùi giống như số phận của chính chủ nhân của nó. Cũng không thể trách được, sức mạnh tinh thần và linh hồn của Tiểu Thanh dường như quyện vào gửi gắm vào những trang viết, nỗi lòng nhuốm máu của Tiểu Thanh
Đến hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)
Nỗi tuyệt vọng và nỗi niềm thương cảm của tác giả dành cho số phận của Tiểu Thanh ngày một dâng cao. Nỗi oán hận của Tiểu Thanh đã được tác giả khái quát lên trở thành nỗi hận của giới giai nhân tài tử, tài hoa nhưng bạc mệnh. Con người quá nhỏ bé không thể chống lại được số phận, cuộc đời quá khắt khe hay do xã hội quá vô lí bất công, thành kiến hà khắc đã khiến cho nỗi buồn kim cổ của những giai nhân tài sắc vẹn toàn thêm sâu sắc.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
|
Assignment
Nguyen Du is a great poet associated with many works that have been passed down to this day. Some works such as The Tale of Kieu or Doc Tieu Thanh ky are filled with the author's deep thoughts and contemplations about fate, human life and the ironic circumstances of the poor and difficult people in society. old. In particular, the fate and unfortunate lives of people are successfully and sympathetically portrayed in his writings
One of the poems written about the life of a miserable beauty is "Doc Tieu Thanh Ky" which mentions the beautiful Tieu Thanh but encountered an ironic fate and circumstances. Women cannot resist harsh rituals and prejudices, nor can they control their own lives and destinies.
Tieu Thanh is a pitiful girl who ended her life when she was just under the full moon, which should have been the most beautiful age, girls who were cheerfully shy or happy with the loving arms of their husbands. But fate did not smile on her as she continuously had to endure the hardships of feudal society. She died, an untimely and lonely death, but her talent was also burned by her first wife, all of her literature was burned, a few remaining poems were circulated and spoke for her beautiful life.
Reading the confessions and sadness for the fate of Little Thanh, Nguyen Du composed a poem when he had the opportunity to stand in front of Tay Ho, feeling sad and moved by the sadness and pain for the fate of the little woman.
Tay Ho's flowers fade into ruins
Single cigarette, but most money, only letter.
The god-like pollen is the posthumous lotus,
Literature has no residue.
Ancient and ancient times hate the troubles;
Interview self settled down for an injustice.
Not knowing the three hundred years after,
People in the world crave To Nhu?
Vietnamese poetry translation:
Tay Ho's beautiful landscape turns into a wild mound,
Sobbing next to the broken piece of paper.
Lipstick has the power to bury hatred,
Literature that is not destined to be burned still lingers.
The age-old anger of heaven and earth asked wisely,
The sentence of exile is self-carrying.
I don't know in three hundred years,
Who in the world cries for To Nhu?
Western Tiger flower blooms into a treasure,
(West Lake's beautiful landscape turns into a deserted mound,)
Standing in front of the space of Tay Ho, the poet's heart was filled with sadness and emotion as he remembered and wrote about the story surrounding the beautiful and talented woman. The scenery is no longer as intact and beautiful as before, the desolate landscape reminds of the sad story of the old girl. The life of a talented and beautiful girl was perfect, her body was not covered with dust, but she had to bury her body under the rocks. The painful situation multiplied and the poet's heart turned to a human life full of misfortune. It seems that that beautiful scene is no longer beautiful because there the sad story of an ancient girl is still passed down to this day.
One book, two books, one book.
(Sobbing beside the broken piece of paper.)
There is no longer a beautiful Tieu Thanh but her unfinished human life is shared through pages of paper and that fate and fate forever makes the author feel so sad that her heart aches. Crying for Tieu Thanh's fate, crying for a human life but also a whole society of cruel fates. The author expressed his strong feelings for people like Tieu Thanh and also cried for his own fate.
The god-like pollen is the posthumous lotus,
Literature without fate or residue:
(Powder has the power to bury hatred,
Literature that is not destined to be burned still lingers.)
The person dies, no longer has an earthly body, but the soul seems to still be attached to the world. Where is Tieu Thanh in flesh and blood, but her soul makes people even more bitter and emotional? moved to the extreme. Tieu Thanh's hatred is resentment, her body was buried, but the sadness about Tieu Thanh still makes people mourn forever. The soul and stories surrounding Tieu Thanh will never be forgotten. Buried and then rose from the grave, even more bitter and saddened. Beauty dies, but literature cannot be buried like the fate of its owner. It can't be helped, Tieu Thanh's mental strength and soul seem to be intertwined in the written pages, Tieu Thanh's blood-stained feelings.
Coming to two arguments:
Ancient and modern people hate the troubles,
Interview self settled down for an injustice.
(Ancient times of anger and wisdom ask,
The sentence of exile is brought on by guests.)
The author's despair and sympathy for Tieu Thanh's fate increased day by day. Tieu Thanh's resentment was generalized by the author to become the hatred of the talented, talented but ill-fated world. People are too small to be able to resist fate, life is too strict or society is too unreasonable and unfair, harsh prejudices have made the ancient sadness of talented and talented people more profound. .
I don't know in three hundred years,
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.